🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vũ Điệu Của Thần Chết - Jeffery Deaver
Ebooks
Nhóm Zalo
Để tưởng nhớ bà tôi Ethel May Rider
PHẦN MỘT
QUÁ NHIỀU CÁCH ĐỂ CHẾT
Đừng nghĩ đến chuyện có thể nuôi chim ưng làm cảnh. Ở đây không có chỗ cho sự ủy mị. Xét ở góc độ nhất định, đó là nghệ thuật của một bác sĩ tâm thần. Là một cuộc đấu trí giữa hai bên với động cơ và lợi ích chết người!
CHIM ƯNG,
T. H. WHITE
CHươNG 1
Khi Edward Carney chào tạm biệt vợ là Percey, anh không hề nghĩ rằng đó sẽ là lần cuối cùng anh được nhìn thấy cô.
Anh trèo vào chiếc xe đang đậu trên một khoảng trống hiếm hoi ở phố Tám mươi mốt Đông trong khu Mahattan của mình và hoà vào dòng xe trên đường. Vốn là người có óc quan sát bẩm sinh, Carney chợt để ý thấy một chiếc xe thùng màu đen đang đậu gần nhà anh. Một chiếc xe thùng với những cửa kính gương phản quang lấm tấm vết bùn. Anh liếc nhìn chiếc xe cà tàng và nhận thấy nó mang biển số bang West Virginia, anh chợt nhớ ra là đã mấy lần nhìn thấy chiếc xe ngoài phố trong vài ngày vừa qua. Nhưng rồi dòng xe trước mặt anh bỗng nhiên tăng tốc. Anh kịp chạy vọt lên khi đèn giao thông vừa chuyển sang màu vàng và hoàn toàn quên bẵng chiếc xe thùng. Trong giây lát anh đã rẽ ra đường cao tốc FDR(1), hướng thẳng về phía bắc.
Hai mươi phút sau, anh nhấc điện thoại gắn trong xe và gọi cho vợ. Anh hơi bồn chồn khi không thấy cô nghe máy. Theo kế hoạch thì lẽ ra Percey sẽ bay cùng anh hôm nay – đêm qua họ đã tung đồng xu để tranh nhau chiếc ghế bên trái(2) trong buồng lái và cô là người chiến thắng, thậm chí cô còn tặng anh một nụ cười đắc chí không lẫn vào đâu được. Nhưng rồi lúc ba giờ sáng nay, cô thức dậy với một cơn đau nửa đầu nhức buốt đến hoa mắt suốt cả ngày không dứt. Sau vài cuộc điện thoại họ đã tìm được một phi công phụ thay thế, Percey uống một viên Fiorinal và quay lại giường nằm nghỉ.
Cơn đau nửa đầu là chứng bệnh duy nhất có thể bắt cô ở lại mặt đất.
Edward Carney – năm nay bốn mươi lăm tuổi, với thân hình xương xương và cao lòng khòng, mái tóc vẫn để húi cua kiểu quân đội – hơi nghiêng đầu, căng tai lắng nghe tiếng chuông điện thoại đang đổ dồn cách đó vài dặm(3). Chiếc máy trả lời tự động ở nhà bật lên, anh đặt điện thoại xuống giá để ống nghe, bắt đầu thấy lo lắng.
Anh giữ cho xe chạy ở tốc độ chính xác 60 dặm một giờ, căn chính giữa làn đường bên phải; giống như các phi công khác, anh là người bảo thủ khi ngồi sau vô lăng. Anh tin tuởng những phi công khác nhưng lại cho rằng hầu hết dân lái xe trên đường đều là lũ điên rồ.
Trong văn phòng công ty bay dịch vụ Hudson Air Charters nằm trong sân bay khu vực Mamaroneck ở Westchester, một chiếc bánh ngọt đã chờ sẵn. Bà Sally Anne nghiêm nghị và chỉn chu – người thơm nức chẳng khác gì gian bán nước hoa tại một cửa hàng Macy – đã tự tay nướng chiếc bánh để chào mừng hợp đồng mới của công ty. Cài trên đầu chiếc trâm xấu mù hình chiếc máy bay hai tầng cánh bằng kim cương giả do lũ cháu nội tặng từ hồi Giáng sinh năm ngoái, bà nhìn một lượt khắp phòng để bảo đảm là mỗi người trong số hơn chục nhân viên công ty đều đã có phần bánh to bự của mình. Ed Carney ăn qua loa vài miếng bánh và trao đổi về chuyến bay đêm nay với Ron Talbot, cái bụng khổng lồ của người đàn ông này khiến người ta có cảm giác ông ta thích bánh trái, mặc dù thực tế ông ta sống chủ yếu bằng thuốc lá và cà phê. Talbot đảm nhiệm cả hai cương vị giám đốc điều hành bay và giám đốc kinh doanh, ông ta không giấu nổi nỗi lo lắng liệu chuyến hàng có đưa tới nơi kịp
thời gian không, liệu khoản tiêu hao nhiên liệu cho chuyến bay được tính toán chính xác chưa, và liệu họ đề nghị mức giá như vậy đã thỏa đáng chưa. Carney đưa nốt cho ông ta chỗ bánh còn lại của mình và bảo ông ta cứ yên tâm.
Chợt anh lại nghĩ đến Percey và bước vào phòng làm việc của mình, nhấc điện thoại lên.
Vẫn không thấy có ai ở nhà nhấc máy.
Giờ thì cảm giác bồn chồn đã trở thành lo lắng thực sự. Những người có con cái và những người có công ty riêng bao giờ cũng phải ngay lập tức nhấc điện thoại đang đổ chuông. Anh dập mạnh ống nghe xuống, thoáng nghĩ đến việc gọi điện nhờ một người hàng hàng xóm qua kiểm tra xem Percey thế nào. Nhưng rồi chiếc xe màu trắng đồ sộ đã dừng lại phía trước cái hangar(4) bên cạnh văn phòng và cũng là lúc bắt tay vào công việc.
Talbot đưa cho Carney cả một chồng tài liệu cần ký, đúng lúc đó anh chàng Tim Randolph trẻ tuổi xuất hiện trong bộ đồ sẫm màu, áo sơ mi trắng tinh và một chiếc cà vạt mảnh màu đen. Tim tự giới thiệu mình là “phi công phụ” và Carney thấy thích như thế. Những “cơ trưởng hàng đầu” bao giờ cũng là người của công ty, những sản phẩm tiêu biểu của ngành hàng không, và mặc dù Carney tôn trọng bất kỳ ai có năng lực thực sự trên chiếc ghế bên phải trong buồng lái, thói tự phụ đã ngăn anh thể hiện điều đó ra ngoài.
Cô nàng Lauren ngăm đen dong dỏng, trợ lý của Talbot, đã mặc chiếc váy may mắn cho buổi tối nay, chiếc váy màu xanh da trời này kết hợp rất hài hoà với gam màu trên logo của công ty Hudson Air – mang hình in nghiêng của một con chim ưng đang bay trên quả địa
cầu. Cô ta ghé sát vào Carney và thì thầm, “Giờ thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp, đúng không?”.
“Tất cả sẽ ổn thôi”, anh trấn an cô ta. Hai người choàng tay ôm nhau trong giây lát. Sally Anne cũng ôm Carney và đưa cho anh một ít bánh để mang theo trong chuyến bay. Anh thoáng ngần ngại. Ed Carney chỉ muốn lên đường ngay. Tránh xa cái trò ủy mị này, tránh xa những màn nghi lễ, ăn mừng này. Tránh xa mặt đât.
Và anh sớm được toại nguyện. Lơ lửng cách mặt đất hơn ba dặm, điều khiển một chiếc Lear 35A, loại máy bay phản lực tư nhân tuyệt vời nhất từng được chế tạo, hoàn toàn không có những chi tiết rườm rà như tên công ty hay biểu tượng này nọ, ngoài số hiệu đăng kiểm hàng không tiêu chuẩn, toàn thân máy bay óng lên một màu bạc tuyệt đẹp, lấp lánh như một mũi thương thon thả.
Họ bay về phía hoàng hôn đẹp đến ngỡ ngàng – một chiếc đĩa khổng lồ màu da cam hoàn hảo đang chìm dần vào giữa những đám mây mênh mông và bướng bỉnh, hồng và tím biếc, toả những tia nắng rực rỡ lên nền trời.
Chỉ có vẻ đẹp của bình minh mới sánh được. Và cũng chỉ có cảnh sấm chớp mới kỳ vĩ hơn.
Từ nơi cất cánh đế O’Hare là 723 dặm, và họ hoàn thành chặng đường đó trong vòng chưa đầy hai giờ. Trung tâm Kiểm soát Không lưu Chicago lịch sự yêu cầu họ hạ xuống độ cao 14000 feet(5), rồi bàn giao họ cho Trung tâm Kiểm soát Tiếp cận Chicago.
Tim thực hiện cuộc gọi. “Trung tâm Kiểm soát Tiếp cận Chicago. Lear 94 Charlie Juliet gọi từ độ cao 14000 feet.”
“Xin chào, 94 Charlie Juliet”, giọng nói điềm tĩnh một nhân viên Kiểm soát Không lưu sân bay cất lên. “Hạ xuống và duy trì độ cao 8000 feet. Cao kế(6) Chicago mức 37,1. Theo hướng đường băng 27 trái.”
“Đã nghe rõ, Chicago. 94 Charlie Juliet đang chuyển từ độ cao 14000 xuống độ cao 8000.”
O’Hare là sân bay bận rộn nhất thế giới và Trung tâm Kiểm soát Không lưu yêu cầu thực hiện chế độ bay lòng vòng trên khu ngoại ô phía tây thành phố, chờ đến lượt mình hạ cánh.
Mười phút sau, vẫn giọng nói dễ nghe, rành rọt đó cất lên. “94 Charlie Juliet, duy trì hướng 090, xuôi theo chiều gió, hướng đường băng 27 trái.”
“090. 94 Charlie Juliet nghe rõ”, Tim nhắc lại.
Carney ngẩng lên nhìn những chòm sao lấp lánh rực rỡ trên bầu trời đêm màu thép lạnh đẹp lộng lẫy và thầm nghĩ: Nhìn kìa, Percey, tất cả những vì sao đêm…
Và cùng với ý nghĩ đó, trong anh chợt trào lên một cảm xúc thôi thúc rất thiếu chuyên nghiệp, có lẽ lần duy nhất trong toàn bộ sự nghiệp bay của anh. Nỗi lo lắng về Percey bừng bừng trong anh như một cơn sốt. Anh bỗng cảm thấy muốn được nói chuyện với cô một cách tuyệt vọng.
“Cầm lái này”, anh nói với Tim.
“Rõ”, chàng thanh niên trả lời, hai bàn tay nắm lấy cần lái không chút do dự.
Giọng nói từ Trung tâm Kiểm soát Không lưu vang lên, “94 Charlie Juliet, hạ xuống độ cao 4000 feet. Duy trì hướng bay”.
“Rõ, Chicago”, Tim nói. “94 Charlie Juliet đang chuyển từ độ cao 8000 xuống độ cao 4000.”
Carney chuyển tần số trên máy radio để thực hiện một cuộc gọi riêng(7). Tim liếc nhìn anh với ánh mắt dò hỏi. “Gọi về Công ty”, Carney giải thích. Khi Talbot trả lời, anh yêu cầu ông ta nối máy về nhà cho mình.
Trong lúc chờ đợi, Carney và Tim thực hiện nốt khâu kiểm tra bắt buộc trước khi hạ cánh.
“Nâng cánh tà hai bên… 20 độ”
“20, 20, đèn xanh:, Carney trả lời.
“Kiểm tra tốc độ”.
“180 knot(8)”.
Trong khi Tim đang nói vào mic của mình – “Chicago, 94 Charlie Juliet, đang giảm dần độ cao, từ 5000 xuống 4000” – Carney căng tai nghe tiếng điện thoại bắt đầu đổ chuông từ ngôi nhà trong khu Mahattan của họ, cách đó hơn 700 dặm đường.
Nhanh lên nào, Percey. Nghe máy đi! Em đang ở đâu vậy? Xin em…
Trung tâm Kiểm soát Không lưu lên tiếng, “94 Charlie Juliet, giảm tốc độ xuống 180. Liên lạc với Đài Kiểm soát Không lưu sân bay.
Chúc vui vẻ.”
“Nghe rõ, Chicago. Tốc độ 180 knot. Xin chào.”
Ba hồi chuông.
Cô âý đang ở chỗ quái nào nhỉ? Chẳng lẽ có chuyện gì không hay?
Cảm giác bồn chồn trong bụng anh mỗi lúc một cồn cào.
Tiếng cánh quạt trong động cơ turbo gầm lên, một âm thanh chói tai. Tiếng động cơ thủy lực rít lên ken két. Tiếng tích điện lách tách trong tai nghe của Carney.
Giọng Tim vang lên rành rọt, “Nâng cánh tà lên 30 độ. Hạ bánh xe xuống”.
“Nâng cánh tà, 30, 30, đèn xanh. Hạ bánh xe. Ba đèn xanh.”
Và rồi, cuối cùng – trong tai nghe của anh – một tiếng cạch khô khan khẽ vang lên.
Giọng nói của vợ anh, “Alô”.
Anh bật cười thành tiếng, thở phào nhẹ nhõm.
Carney đang định trả lời nhưng, trước khi anh cất tiếng, chiếc máy bay bỗng giật mạnh một cái thật khủng khiếp – dữ dội đến nỗi chỉ trong một phần nghìn giây sức ép của vụ nổ đã giật tung bộ tai nghe nặng trịch ra khỏi tai anh và cả hai người đàn ông bị ném thẳng vào bảng điều khiển phía trước. Tia lửa và những mảnh vụn văng tung toé xung quanh họ.
Choáng váng, theo bản năng Carney chụp lấy chiếc cần lái bất động bằng bàn tay trái của mình; bàn tay phải của anh đã bay đâu mất. Anh quay sang phía Tim đúng lúc cơ thể nát bấy và máu me của chàng thanh niên đang dần biến mất qua lỗ hổng há hoác bên sườn thân máy bay.
“Ôi, lạy Chúa. Không, không…”
Rồi toàn bộ buồng lái tách rời khỏi thân máy bay đang vỡ tan và bắn thẳng lên không trung, bỏ lại phần thân, hai cánh và những động cơ của chiếc Lear phía sau, tất cả đều bị trùm trong một quả cầu lửa cháy rừng rực.
“Ôi, Percey”, anh thì thầm, “Percey…”. Mặc dù lúc này đã không còn chiếc mic nào cho anh nói nữa.
CHươNG 2
To như những tiểu hành tinh, màu vàng xương.
Nhũng hạt cát lấp lánh trên màn hình máy tính. Người đàn ông ngồi cúi hẳn về phía trước, đôi mắt nheo lại chăm chú – vì tập trung cao độ, chứ không phải bị tật về thị giác.
Tiếng sấm ầm ì từ xa vẳng lại. Bầu trời buổi sáng sớm vàng vọt pha lẫn sắc xanh với cơn bão có thể ập tới bất cứ lúc nào. Đây được coi là mùa xuân ẩm ướt nhất trong lịch sử khí tượng thành phố.
Những hạt cát…
“Phóng to”, anh ra lệnh, và ngay lập tức hình ảnh trên máy tính được phóng to gấp hai lần.
Lạ thật, anh nghĩ bụng.
“Kéo con trỏ xuống… Dừng lại.”
Lại cúi sát người về phía trước, căng mắt, chăm chú nhìn vào màn hình.
Cát, Lincoln thầm nghĩ, là nguồn vui đối với một nhà hình sự học; nhũng mẩu đá vụn, nhiều khi nằm lẫn với các vật liệu khác, có kích cỡ từ 0,05 đến hai milimet (to hơn thế thì được gọi là sỏi, nhỏ hơn thì được gọi là hạt bùn). Cát bám vào quần áo của thủ phạm giống như chất sơn dính và chờ lúc thuận tiện sẽ rơi ra hiện trường một vụ án hoặc nơi trú ẩn nào đó tạo nên mối liên hệ giữa nạn nhân và kẻ
thủ ác. Nó cũng có thể nói lên rất nhiều điều về việc kẻ tình nghi đã từng ở những đâu. Cát mờ đục có nghĩa là hắn đã ở trên sa mạc. Cát trong suốt cũng đồng nghĩa với những bãi biển. Cát dạng khoáng chất hocblende nghĩa là Canada. Cát obsidian, Hawaii. Cát thạch anh và cát đá mờ từ núi lửa, New England. Cát quặng sắt có từ tính màu xám mịn, miền tây vùng Great Lakes(9).
Nhưng những hạt cát trong trường hợp này có nguồn gốc ở đâu, Rhyme hoàn toàn không có manh mối gì. Hầu hết cát trong khu vực New York là cát thạch anh và cát khoáng feldspar. Cát đá ở mạn eo biển Long Island, cát bụi ở bờ Đại Tây Dương và cát bùn dọc trên sông Hudson. Nhưng đây lại là loại cát trắng tinh, lấp lánh, có viền sắc lởm chởm, pha lẫn với những ánh đỏ nhỏ li ti. Và lại còn những cái vòng ngấn kia nữa chứ? Những vòng đá trắng trông chẳng khác gì lát cắt ngang thân của một con mực bút. Tóm lại là anh chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì như thế này.
Câu hỏi hóc búa đó đã khiến Rhyme thức đến tận bốn giờ sáng. Anh vừa mới gửi một mẫu cát tới phòng thí nghiệm kỹ thuật hình sự của một đồng nghiệp FBI(10) ở Washington. Anh đã phải miễn cưỡng lắm mới quyết định gửi nó đi – Lincoln Rhyme ghét phải nhờ người khác trả lời thay cho những câu hỏi của chính anh.
Có sự chuyển động bên ngoài cửa sổ cạnh giường anh. Anh nhìn ra phía đó. Hàng xóm của anh – hai con chim ưng hoang dã – đã thức dậy và chuẩn bị cho một ngày săn mồi. Lũ bồ câu hãy dè chừng, Rhyme thầm nghĩ. Rồi anh hơi nghiêng đầu, miệng lầm rầm, “Chết tiệt”, mặc dù câu rủa của anh không hề liên quan đến nỗi bực
bội vì chưa giải mã được bằng chứng cứng đầu này mà là vì sự phiền nhiễu sắp đến với anh.
Những tiếng bước chân gấp gáp đang vang lên ngoài cầu thang. Thom đã để khách vào nhà còn trong lúc này Rhyme chẳng muốn khách khứa gì hết. Anh giận dữ lườm về sảnh trước. “Ôi, không phải lúc này đấy chứ, vì Chúa.”
Nhưng họ không nghe thấy, tất nhiên rồi, mà cho dù có nghe thấy đi chăng nữa họ cũng không bao giờ dừng lại.
Có hai người…
Một người nặng nề. Người kia thì không.
Một tiếng gõ rất nhanh vang lên trên cánh cửa để mở và họ bước vào.
“Lincoln.”
Rhyme càu nhàu.
Lon Sellito là một thám tử hạng nhất của NYPD(11), và chính là người có bước chân ầm ầm, nặng nề. Nhẹ nhàng bước bên cạnh viên thám tử là người cộng sự trẻ tuổi và thon thả của anh ta, Jerry Banks, bảnh chọe trong bộ vét màu xám may bằng vải len đắt tiền. Chàng trai đã cố vuốt mớ tóc bò liếm xuống sát đầu bằng keo xịt – Rhyme có thể ngửi thấy mùi propane, isobutan và cả vinyl acetate – nhưng chỏm tóc ngộ nghĩnh vẫn cứ vểnh lên như chàng Dagwood(12).
Viên thám tử béo ục ịch nhìn quanh căn phòng ngủ trên tầng hai, với kích thước mỗi chiều khoảng hơn sáu mét. Bốn bức tường trống trơn, không một bức tranh. “Có khác gì đâu chứ, Linc? Ý tôi là cái chỗ này ấy?”
“Chẳng có gì.”
“Ồ, chậc, tôi biết rồi – phải nói là nó sạch sẽ thật”, Banks nói, rồi bỗng im bặt khi nhận ra mình vừa lỡ lời.
“Sạch sẽ, chắc chắn rồi”, Thom nói, trông anh chàng chỉn chu không thể chê vào đâu được với chiếc quần màu nâu vàng là thẳng ly, áo sơ mi trắng và chiếc cà vạt hoa mà theo Rhyme lòa loẹt một cách vô ích mặc dù chính anh đã đặt mua nó, bằng dịch vụ bán hàng qua bưu điện, cho chàng thanh niên. Đến lúc này người trợ lý trẻ tuổi đã ở với Rhyme được vài năm – và mặc dù anh ta từng bị Rhyme đuổi việc hai lần cộng với một lần tự thôi việc thì cũng đã ngần ấy lần nhà hình sự học tàn phế phải thuê lại cậu y tá kiêm trợ lý mát tính của mình. Thom có đủ hiểu biết về bệnh tê liệt tứ chi để trở thành một bác sĩ, và cũng đã học được nhiều điều về khoa học hình sự, đủ để trở thành một thám tử, Nhưng anh chàng bằng lòng với chức danh mà công ty bảo hiểm gọi là “người chăm sóc”, mặc dù cả Rhyme và Thom đều không đồng ý với thuật ngữ này. Tùy từng lúc mà Rhyme có thể gọi anh ta là “gà mái mẹ” hoặc “nữ thần báo oán”, cả hai cách gọi đều khiến anh chàng trợ lý vô cùng thích thú. Lúc này anh ta đang lăng xăng quanh những vị khách. “Anh ấy không thích thế nhưng tôi cứ thuê dịch vụ Molly Maids về kỳ cọ và dọn dẹp thật sạch chỗ này. Nói cho đúng là phải xông hơi tẩy uế. Sau vụ đó anh ấy nhất định không thèm nói chuyện với tôi đúng một ngày.”
“Đâu cần phải dọn sạch chứ. Tôi không thể tìm được thứ gì cả.”
“Nhưng mà anh ấy làm sao phải tìm thứ gì nhỉ?” Thom phản pháo. “Đó không phải là trách nhiệm của tôi sao?”
Không có tâm trạng đùa cợt. “Sao đây?” Rhyme hất khuôn mặt đẹp trai của mình về phía Sellitto. “Có chuyện gì?”
“Đang có một vụ án. Chợt nghĩ là có thể anh muốn giúp một tay.” “Tôi đang bận.”
“Những cái gì thế này?”, Banhks vừa hỏi vừa bước lại gần chiếc máy tính mới đặt ngay cạnh giường của Rhyme.
“Ồ”, Thom thốt lên với vẻ hớn hở làm Lincoln lộn ruột, “giờ thì anh ấy sành điệu về công nghệ lắm rồi. Cho họ xem đi, Lincoln. Cho họ xem đi”.
“Tôi không muốn cho họ xem đấy.”
Thêm một loạt sấm ùng oàng nhưng vẫn không một giọt mưa. Giống mọi khi, hôm nay thiên nhiên lại đang trêu ngươi.
Thom vẫn khăng khăng. “Cho họ xem nó làm việc như thế nào đi.”
“Đã bảo không muốn mà.”
“Anh ta xấu hổ đấy.”
“Thom”, Rhyme lầm bầm.
Nhưng anh chàng trợ lý trẻ tuổi hoàn toàn không thèm đếm xỉa đến những lời dọa nạt hay đay nghiến. Anh ta chỉnh thẳng lại chiếc
cà vạt lụa gớm ghiếc, hay cũng có thể gọi là sành điệu, của mình. “Tôi không biết tại sao hôm nay anh ấy lại dở chứng thế. Mọi hôm anh ấy tỏ ra tự hào về hệ thống máy móc này lắm cơ mà.”
“Không có đâu.”
Thom tiếp tục. “Chiếc hộp kia” – anh chàng chỉ tay về phiá một thiết bị kì cục màu be – “dẫn thẳng tới máy tính.”
“Oao, những 200 megahertz cơ à?”, Banks hỏi và gật gù trước cái máy tính. Để thoát khỏi cái lườm cáu kỉnh của Rhyme, anh ta vội chộp lấy câu hỏi đó như một con cú mèo vừa vồ được con nhái.
“Vâng”, Thom nói.
Nhưng Lincoln Rhyme không thèm quan tâm đến máy tính. Ngay lúc này đây Lincoln Rhyme chỉ quan tâm đến những vòng tròn nhỏ li ti như thân mực cắt ngang và những hạt cát.
Thom vẫn thao thao nói. “Chiếc mic nối thẳng với máy tính. Tất cả những gì anh ấy nói đều được máy tính nhận dạng ngay. Phải mất một thời gian máy tính mới quen với giọng của anh ấy. Chẳng là anh ấy nói năng lập bập quá cơ.”
Kỳ thực Rhyme rất lấy làm hài lòng với hệ thống này – chiếc máy tính cực nhanh, một hộp ECU(13) và một phần mềm nhận dạng giọng nói. Chỉ bằng giọng nói của mình, anh có thể chỉ huy con trỏ thực hiện tất cả những gì một người bình thường có thể làm với bàn phím và con chuột. Và anh còn có thể ra những mệnh lệnh cụ thể, Giờ đây, bằng giọng nói, anh có thể tăng giảm nhiệt độ trong phòng, bật đèn lên hoặc tắt đi, bật dàn âm thanh stereo hoặc tắt mở ti vi,
soạn thảo trên phần mềm xử lý văn bản riêng của mình, thực hiện các cuộc điện thoại, gửi và nhận fax.
“Thậm chí anh ấy còn viết nhạc được nữa cơ”, Thom say sưa khoe với các vị khách. “Anh ấy chỉ cần ra lệnh cho máy tính đánh dấu lại những nốt nào trên khuông nhạc.”
“Giờ thì điều đó mới hữu ích làm sao chứ”, Rhyme thốt lên chua chát. “Âm nhạc.”
Đối với một người tứ chi bất toại kiểu C4 – chấn thương của Rhyme xảy ra ở đốt sống cổ thứ tư – thì việc gật đầu vẫn khá dễ dàng. Thậm chí anh còn có thể nhún vai, mặc dù không được kiêu bạc như anh muốn. Một trò khác của anh là nhúc nhắc ngón tay đeo nhẫn bên tay trái khoảng vài milimét theo bất kỳ hướng nào anh muốn. Đó là tất cả vốn liếng biểu diễn liên quan đến thể chất của anh trong suốt mấy năm vừa rồi; sáng tác một bản sonata cho đàn violin có lẽ là một chuyện thật viễn vông.
“Anh ấy còn chơi được game nữa cơ đấy.”
“Tôi ghét game. Tôi không bao giờ chơi game.”
Sellitto, người làm Rhyme liên tưởng đến một chiếc giường lớn bề bộn, hờ hững nhìn chiếc máy tính và không lấy gì làm ấn tượng với nó cho lắm. “Lincoln này”, anh ta bắt đầu với vẻ nghiêm trọng. “Có một vụ đặc biệt đây. Liên quan đến cả các cơ quan điều tra của liên bang. Đêm qua chúng tôi húc phải một vấn đề gay go.”
“Húc phải một bức yường gạch thì đúng hơn”, Banks đánh liều chen ngang.
“Chúng tôi nghĩ… hừm, tôi nghĩ biết đâu anh lại muốn giúp chúng tôi thoát khỏi chuyện này.”
Muốn giúp họ thoát khỏi là sao?
“Hiện tại tôi đang bận việc khác rồi”, Rhyme giải thích. “Thực ra là làm cho Perkins.” Thomas Perkins, đặc vụ phụ trách văn phòng địa bàn Manhattan của FBI. “Một trong những chàng trai của Fred Dellray đang mất tích.”
Đặc vụ Fred Dlllray, một nhân viên kỳ cựu của Cục, là người chỉ đạo hầu hết các đặc vụ ngầm của văn phòng địa bàn Manhattan. Bản thân Dellray cũng từng là một trong những đặc vụ ngầm hàng đầu của Cục. Thậm chí anh còn nhận được lời tuyên dương đặc biệt của đích thân giám đốc FBI vì thành tích đã thâm nhập vào đủ một loạt mục tiêu, từ hang ổ của những băng đảng ma túy trong khu Harlem(14) cho tới các tổ chức vũ trang của dân da đen. Một trong những đặc vụ của Dellray là Tony Panelli đã biến mất từ vài ngày trước đó.
“Perkins cũng có kể cho chúng tôi biết”, Banks nói. “Quái đản thật.”
Rhyme hơi nhướng mắt trước cụm từ hơi sỗ sàng đó. Mặc dù anh cũng không thể phản bác được. Tay đặc vụ kia đã biến mất khỏi xe của mình ngay trước cửa Toà nhà Liên bang ở khu Hạ Manhattan(15) vào khoảng chín giờ tối. Đường phố khi đó không còn đông đúc nhưng cũng không vắng vẻ gì. Động cơ của chiếc Crown Victoria do Cục trang bị vẫn đang nổ, cánh cửa xe mở toang. Không có vết máu, không có dư chất của thuốc súng, không có những vết
trầy xước thường thấy khi xảy ra vật lộn. Không một nhân chứng nào – ít nhất thì cũng không có nhân chứng nào dám ra mặt khai báo bất cứ thông tin gì.
Quả thật quái đản.
Dưới quyền Perkins có cả một đơn vị khám nghiệm hiện trường vụ án, bao gồm cả PERT(16) của Cục. Nhưng chính Rhyme mới là người thành lập và tổ chức ra PERT, và cũng chính Rhyme là người được Dellray yêu cầu nghiên cứu hiện trường vụ mất tích. Người sĩ quan phụ trách khám nghiệm hiện trường làm việc với tư cách cộng sự của Rhyme đã mất mấy giờ đồng hồ liền săm soi bên trong chiếc xe của Panelli và quay về mà không tìm được dấu vân tay lạ nào, ngoài muời túi bằng chứng vô nghĩa, và – có lẽ là đấu mối duy nhất – mấy chục hạt của loại cát rất kỳ quái.
Những hạt cát đó lúc này đang sáng lấp lánh trên màn hình máy tính của anh, mịn màng và đồ sộ như những thiên thể lửng lơ trong vũ trụ.
Sellitto nói tiếp. “Perkins sẽ cho người khác điều tra tiếp về vụ Panelli, Lincoln, nếu anh đồng ý giúp chúng tôi. Vả lại, tôi nghĩ là anh sẽ muốn vụ này.”
Lại là động từ đó – muốn. Tất cả chuyện này là thế quái nào nhỉ?
Rhyme và Sellitto đã làm việc cùng nhau trong những cuộc điều tra trọng án cách đây vài năm. Những vụ án hắc búa – và cả những vụ gây om sòm dư luận. Anh hiểu rõ Sellitto cũng giống như anh hiểu bất kỳ cảnh sát nào. Thường thì Rhyme vẫn hoài nghi khả năng của mìmh trong việc đọc suy nghĩ của người khác (vợ cũ của anh,
Blaine, vẫn nói – khá thường xuyên, và gay gắt – rằng Rhyme có thể nhìn thấy một chiếc vỏ đạn cách xa cả dặm nhưng lại không đếm xỉa gì đến một con nguời bằng xương bằng thịt đang đứng ngay trước mặt anh), nhưng lúc này anh có thể cảm thấy rằng Sellitto đang giấu giếm điều gì đó.
“Được rồi, Lon. Có chuyện gì vậy? Kể cho tôi nghe đi.” Sellitto gật đầu với Banks.
“Phillip Hansen”, chàng thám tử trẻ hơi nhướng mày và nói với vẻ nghiêm trọng.
Rhyme chỉ biết cái tên này qua một vài bài báo. Hansen – một doanh nhân cỡ bự xuất thân gian khó từ vùng Tampa, Florida – sở hữu một công ty bán buôn tại Armonk, New York. Công ty này làm ăn cực kỳ phát đạt và nhờ nó mà ông ta đã trở thành triệu phú. Hansen có tất cả những gì một doanh nhân bình thường phải thèm muốn. Ông ta không bao giờ phải nhọc công tìm kiếm khách hàng, không bao giờ quảng cáo, không bao giờ gặp những vấn đề liên quan đến hoá đơn thanh toán. Trên thực tế, nếu phải kể ra một khía cạnh tiêu cực liên quan đến PH Distributors, Inc., thì đó là việc chính quyền liên bang và chính quyền bang New York đang dồn rất nhiều tâm trí cho mục tiêu đóng cửa công ty này và tống vị chủ tịch hội đồng quản trị của nó vào tù. Bởi vì sản phẩm mà công ty của ông ta bán ra không phải là các loại xe quân sự cũ đã thanh lý, như ông ta khẳng định, mà là vũ khí, phần lớn đều được ăn trộm từ các căn cứ quân sự hoặc do nhập khẩu trái phép từ nước ngoài. Hồi đầu năm đã có hai binh sĩ lục quân bị giết trong vụ cướp một xe tải chở đầy các loại vũ khí hạng nhẹ xảy ra gần cầu George Washington khi
chiếc xe đang trên đường tới New Jersey. Hansen đứng sau vụ này – đó là một thực tế mà Bộ Tư pháp Hoa Kỳ và Chưởng lý New York đều biết mà không có cách nào chứng minh được.
“Perkins và chúng tôi đang phối hợp điều ra vụ này”, Sellitto nói. “Làm việc cả với Cục Điều tra Hình sự Quân đội nữa. Nhưng phải công nhận là vụ này xương thật.”
“Và không một ai dám ra mặt tố cáo hắn”, Banks nói. “Từ trước đến giờ.”
Rhyme cũng thừa hiểu rằng, không, không một ai dám đứng ra vạch mặt một kẻ như Hansen. Chàng thám tử trẻ tuổi tiếp tục, “Nhưng cuối cùng thì, tuần trước, chúng tôi cũng gặp may. Anh biết đấy, Hansen vốn là một phi công. Công ty của hắn có mấy gian nhà kho và hangar ở sân bay Mamaroneck – cái sân bay gần White Plains ấy! Tòa án đã ký lệnh kiểm tra những chỗ đó. Như mọi khi, chúng tôi vẫn không phát hiện được gì cả. Nhưng rồi tuần trước, lúc nữa đêm nhỉ? Khi đó sân bay đã đóng cửa nhưng vẫn còn một số người ở lại, làm việc rất khuya. Họ nhìn thấy một người trùng hợp với đặc điểm nhận dạng của Hansen lái xe tới chỗ chiếc máy bay tư nhân đó, chất mấy cái túi vải bạt to đùng lên máy bay, rồi cất cánh. Trái phép. Không có lịch trình chuyến bay. Cứ cất cánh thế thôi. Khoảng bốn mươi phút sau đó thì quay lại, hạ cánh, leo lên xe của mình và rú ga lao khỏi sân bay đến khét lẹt cả lốp xe. Không còn thấy bóng dáng những chiếc túi bạt đâu nữa. Các nhân chứng đã báo lại số đăng ký của chiếc máy bay cho FAA(17). Hoá ra đó là chiếc máy bay riêng của Hansen, chứ không phải máy bay của công ty hắn”.
Rhyme nói. “Vậy là hắn biết các anh đang theo dõi sát sao và hắn muốn phi tang thứ gì đó có thể là bằng chứng về việc hắn có liên quan đến vụ giết người kia”. Anh bắt đầu hiểu tại sao họ lại muốn anh tham gia vụ này. Có vài hạt giống quan tâm đang nảy mầm đây. “Trung tâm Kiểm soát Không lưu có theo được dấu hắn không?”
“LaGuardia đã bám sát hắn được một lúc. Hắn bay thẳng qua eo biển Long Island. Rồi đột ngột hạ thấp khỏi tầm theo dõi của radar khoảng mười phút gì đó.”
“Và các anh đã khoanh vùng xem hắn có thể bay qua khỏi eo biển được bao xa. Đã cho triển khai đội thợ lặn rồi chứ?”
“Đúng vậy. Còn trước mắt, chúng tôi xác định ngay là nếu Hansen biết chúng tôi có ba nhân chứng kiểu gì hắn cũng giở trò đối phó. Vì thế chúng tôi đã xoay xở được cách vô hiệu hoá hắn đến thứ Hai. Tống vào Trung tâm Tạm giam Liên bang.”
Rhyme phá lên cười. “Các anh tìm được cớ để thuyết phục tòa án thông qua lệnh tạm giam rồi cơ à?”
“Đúng vậy, vì tội cất cánh trái phép”, Sellitto nói. “Cùng với mấy cớ lằng nhằng vì vi phạm quy định của FAA và những nguy hiểm có thể xảy ra. Không có lịch trình chuyến bay, bay dưới độ cao tối thiểu theo quy định của FAA.”
“Thế ngài Hansen có phản ứng gì không?”
“Hắn quá ranh ma trong trò này còn gì nữa. Không hé một lời với những người bắt giữ, không một lời với các công tố viên. Luật sư của hắn cãi bay tất cả và đang chuẩn bị đơn kiện tội bắt nhầm
người, vân vân và vân vân.. Có nghĩa là nếu chúng tôi tìm thấy những cái túi chó chết kia, chúng tôi có thể đàng hoàng tới phiên triệu tập của bồi thẩm đoàn hôm thứ Hai, và pằng, hắn coi như tiêu đời.”
“Với điều kiện”, Rhyme nhấn mạnh, “là trong những cái túi đó phải có bằng chứng vạch tội hắn”.
“Ồ, kiểu gì chẳng có bằng chứng vạch tội.”
“Làm sao anh biết chắc thế?”
“Bởi vì Hansen đang sợ hãi. Hắn đã thuê người thủ tiêu các nhân chứng. Hắn xoá sổ được một người rồi. Cho nổ tung máy bay của anh ta lúc nửa đêm hôm qua bên ngoài Chicago.”
Và, Rhyme thầm nghĩ, họ muốn mình tìm ra mấy cái túi vải bạt kia… Những câu hỏi thú vị đang lướt nhanh trong đầu anh. Liệu có thể xác định vị trí cụ thể của chiếc máy bay trên mặt biển căn cứ vào kiểu kết tủa hoặc dư chất muối hoặc xác côn trùng dính lại trên cánh máy bay không nhỉ? Liệu có ai tính toán được thời gian chết của một con côn trùng không? Lại còn thông số về nồng độ muối và các chất gây ô nhiễm khác trong nước nữa chứ? Khi bay sát mặt nước như vậy, liệu động cơ hoặc cánh máy bay có bị dính tảo với những dấu vết còn lưu lại trên thân và phần đuôi không nhỉ?
“Tôi sẽ cần đến một số bản đồ khu vực eo biển”, Rhyme bắt đầu nói. “Bản vẽ động cơ và thiết kế loại máy bay của hắn…”
“À, ừm, Lincoln, đó không phải lý do chúng tôi có mặt ở đây”, Sellitto nói.
“Không phải là để tìm mấy cái túi”, Banks bổ sung.
“Không ư? Thế thì là cái gì?” Rhyme khó chịu lắc một lọn tóc đen nhánh đang lòa xòa trước trán và gườm gườm nhìn chàng thanh niên.
Ánh mắt Sellitto lơ đãng quét qua chiếc hộp ECU màu be. Từ chiếc hộp đâm ra những sợi dây điện màu đỏ quạch, vàng và đen rải loằng ngoằng trên sàn nhà, trông như những con rắn đang nằm sưởi nắng.
“Chúng tôi muốn anh giúp chúng tôi tìm tên sát thủ. Kẻ được Hansen thuê. Ngăn chặn hắn trước khi hắn kịp thủ tiêu hai nhân chứng còn lại”.
“Và?” Vì Rhyme nhận thấy Sellitto chưa đề cập gì đến điều mà anh ta vẫn giấu kín từ đầu tới giờ.
Vừa hờ hững liếc ra ngoài cửa sổ viên thám tử vừa khẽ khàng nói, “Hình như đó là tên Vũ công, Lincoln ạ”.
“Vũ công Quan tài ư?”
Sellitto quay mặt lại và gật đầu.
“Anh chắc chứ?”
“Chúng tôi nghe nói hắn mới làm một vụ ở thủ đô Washington D.C. cách đây vài tuần. Giết hại một trợ lý nghị sĩ Quốc hội liên quan đến những hợp đồng buôn bán vũ khí. Chúng tôi có mẫu đăng ký viết tay và phát hiện được cả những cuộc gọi từ một bốt điện thoại trả tiền bên ngoài ngôi nhà Hansen tới khách sạn, nơi tên Vũ công đang ở. Chắc chắn là hắn rồi, Lincoln.”
Trên màn hình máy tính, những hạt cát lấp lánh, to như những tiểu hành tinh, mịn màng như bờ vai phụ nữ, bỗng nhiên vụt biến mất khỏi tâm trí của Rhyme.
“Hừm”, anh trầm ngâm buột miệng, “đó lại là một vấn đề, phải không?”.
CHươNG 3
Cô nhớ lại.
Đêm qua, những hồi chuông điện thoại lanh lảnh làm gián đoạn tiếng mưa rơi rả rích bên ngoài cửa sổ phòng họ.
Cô đã khinh khỉnh nhìn nó như thể NYNEX(18) phải chịu trách nhiệm cho cảm giác buồn nôn và cơn đau đến nghẹt thở trong đầu cô khi ấy, ánh đèn trên điện thoại nhấp nháy mờ ảo sau mí mắt.
Cuối cùng cô cũng gượng đứng dậy và nặng nề cầm ống nghe lên sau hồi chuông thứ tư.
“A lô?”
Trả lời cô là tiếng vọng xa xăm của những tín hiệu thường thấy ở một cuộc gọi nối máy từ sóng radio tần số riêng sang điện thoại.
Và rồi một giọng nói cất lên. Có lẽ thế.
Một tiếng cười. Có lẽ thế.
Một tiếng nổ đinh tai. Một tiếng cạch khô khan. Im lặng.
Không còn tín hiệu đường dây. Chỉ là sự im lặng, bao phủ bởi những dải sóng dao động vọng lại trong tai cô.
A lô? A lô?...
Cô đã gác máy và quay về chiếc sofa, lặng lẽ nhìn làn mưa trong đêm, nhìn cây sơn thù du ngoài cửa oằn mình xuống rồi lại bật thẳng lên dưới những trận gió của cơn bão mùa xuân. Rồi cô lại
thiếp đi. Cho đến khi điện thoại lại đổ chuông sau đó khoảng nửa tiếng với cái tin chiếc Lear 94 Charlie Juliet nổ tung khi đang chuẩn bị hạ cánh khiến cả chồng cô và người phi công phụ trẻ tuổi Tim Randolph thiệt mạng.
Giờ đây, trong buổi sáng u ám này, Percey Rachel Clay mới biết rằng cuộc điện thoại bí hiểm đêm qua là của chồng mình. Ron Talbot – người có đủ can đảm để gọi điện thông báo cho cô cái tin khủng khiếp về vụ nổ – vừa giải thích rằng chính ông ta đã nối máy về nhà cho cô vào khoảng thời gian chiếc Lear nổ tung.
Tiếng cười nhẹ nhõm của Ed…
A lô? A lô...?
Percey vặn mở nắp nút chiếc chai bẹt, tu một hớp. Cô nghĩ về cái ngày lộng gió cách đây nhiều năm khi cô và Ed lái chiếc Cessna 180 có trang bị thêm phao nổi dưới càng tới Red Lake, ở tỉnh Ontario, và đáp xuống với chỉ khoảng sáu ounce(19) nhiên liệu còn lại trong thùng. Họ đã ăn mừng lần chạm đích đó bằng một chai whiskey Canada vô danh, khiến cả hai bị một trận say bê bết đáng nhớ nhất trong đời. Ý nghĩ về kỷ niệm đó giờ đây lại khiến mắt cô ầng ậc nước, cũng giống như cơn đau hồi đó.
“Thôi nào, Percey, như thế là đủ lắm rồi, được chứ?” Người đàn ông ngồi đối diện cô trên sofa trong phòng khách lên tiếng. “Xin cô.” Anh chỉ tay vào chiếc chai.
“Ồ, được chứ”, giọng nói sầu thảm của cô bật lại với vẻ giễu cợt đầy kiềm chế. “Chắc chắn rồi.” Và cô lại tu thêm một hơi nữa. Cảm
thấy thèm một điếu thuốc lá, nhưng cô kìm được. “Thế quái nào mà anh ấy lại gọi cho tôi giữa lúc chuẩn bị hạ cánh nhỉ?”, cô hỏi.
“Có lẽ anh ấy lo cho cô”, Brit Hale gợi ý. “Vì cơn đau nửa đầu của cô.”
Giống như Percey, cả đêm qua Hale cũng thức trắng. Talbot đã gọi điện cả cho anh với thông tin về vụ nổ, sau đó anh lái xe từ căn hộ của mình ở khu Bronxville xuống đây với Percey. Anh đã ở bên cô suốt đêm, giúp cô thực hiện những cuộc điện thoại cần phải gọi. Chính Hale, chứ không phải Percey, mới là người thông báo tin này cho bố mẹ cô ở Richmond.
“Anh ấy chẳng việc gì phải làm như thế cả, Brit. Ai lại gọi ngay lúc hạ cánh.”
“Chuyện đó cũng đâu liên quan tới những gì đã xảy ra”, Hale nhẹ nhàng nói.
“Tôi biết”, cô nói.
Họ đã biết nhau nhiều năm nay. Hale là một trong những phi công đầu tiên của Hudson Air và đã làm việc không lương suốt bốn tháng đầu cho đến khi khoản tiền tiết kiệm của anh cạn sạch và anh buộc phải miễn cưỡng tới gặp Percey với đề nghị về một khoản lương nho nhỏ. Anh không bao giờ biết rằng cô đã phải trả lương cho anh bằng tiền túi của mình, vì công ty không hề có lợi nhuận trong suốt một năm sau khi đi vào kinh doanh. Nhìn Hale chẳng khác gì một giáo viên gầy gò, khắc khổ. Thực tế anh lại rất dễ gần – trái ngược hoàn toàn với Percey – và là người chuyên đùa cợt pha trò rất kỳ quặc, anh nổi tiếng vì sẵn sàng cho máy bay của mình bay
lật ngửa nếu như hành khách trên máy bay tỏ ra thô lỗ hay ương ngạnh và anh cứ giữ nguyên như vậy cho đến khi đầu của họ nguội trở lại. Hale vẫn giữ chiếc ghế bên phải trong buồng lái của Percey và là phi công phụ được cô yêu mến trong giới đồng nghiệp. “Đặc quyền được bay cùng quý cô”, anh vẫn nói như vậy bằng cai giọng bắt chước Elvis Presley dở ẹc. “Xin cảm ơn rất nhiều.”
Đến lúc này, cơn đau phía sau hai mắt của cô gần như biến mất hoàn toàn. Percey đã mất bạn bè – chủ yếu là vì những vụ rơi máy bay – và cô biết rằng những mất mát tinh thần là loại thuốc gây tê đối với cơn đau thể xác.
Whiskey cũng như vậy.
Lại tu thêm một hơi từ chiếc chai bẹt. “Chết tiệt, Brit.” Cô đổ phịch người xuống chiếc sofa bên cạnh anh. “Ôi, chết tiệt thậ.”
Hale choàng cánh tay cứng cáp của mình quanh người cô. Percey gục mái đầu phủ kín những lọn tóc xoăn đen thẫm của mình lên vai anh. “Cố giữ gìn nhé, cưng”, anh thủ thỉ. “Hứa đi nào. Tôi có thể làm gì đây?”
Cô lắc đầu. Đó là một câu hỏi không có câu trả lời.
Lại một hớp rượu whiskey đầy miệng, rồi cô nhìn đồng hồ. Chín giờ sáng. Mẹ của Ed có thể tới đây bất kỳ lúc nào. Rồi còn bạn bè, họ hàng… Còn cả một buổi lễ tưởng niệm cần chuẩn bị…
Rất nhiều việc phải làm.
“Tôi phải gọi cho Ron”, cô nói. “Chúng ta phải làm gì đó. Công ty…”
Trong ngành hàng không và các hãng bay dịch vụ, cái từ “công ty” không hoàn toàn mang ý nghĩa giống như trong các lĩnh vực kinh doanh khác. Từ “Công ty”, với chữ “C” viết hoa, là một thực thể, một vật đang sống. Người ta nhắc đến nó với niềm trân trọng, tự hào hoặc bi phẫn. Thỉnh thoảng là với nỗi đau đớn. Cái chết của Ed đã để lại một vết thương trong rất nhiều cuộc sống, kể cả cuộc sống của chính Công ty, và đó là một vết thương có thể làm chết người.
Rất nhiều việc phải làm…
Vậy mà giờ đây Percey Clay – người phụ nữ chưa bao giờ biết sợ hãi, người phụ nữ đã từng bình tĩnh điều khiển những lắc thân máy bay kiểu Hà Lan(20) chết người, vốn là một tử huyệt thường gặp ở loại máy bay Lear 23, người đã từng bình tĩnh như không sau những cú lộn xoáy trôn ốc có thể khiến nhiều phi công dày dặn khác phải bổ nhào – đang ngồi chết lặng đến tê tái trên ghế. Quái đản thật, cô thầm nghĩ, như thể đang ở một chốn xa xăm nào đó nhìn về, mình không sao nhúc nhắc được. Thậm chí cô còn cúi xuống nhìn hai bàn tay và đôi chân mình như thể chúng chỉ còn là xương trắng hếu không một chút máu.
Ôi, Ed…
Tất nhiên còn cả Tim Randolph nữa chứ. Một phi công đồng hành có năng lực mà người ta có thể tìm được, những phi công hạng nhất như thế thường rất hiếm. Cô hình dung ra khuôn mặt tròn trịa và trẻ măng của chàng thanh niên, giống hệt như Ed thời trai trẻ. Lúc nào cũng cười toe toét mà không sao cắt nghĩa được. Luôn tập trung và biết nghe lời nhưng cũng rất kiên định – đưa ra những
mệnh lệnh rất dứt khoát, ngay cả với Percey, một khi anh chàng là người chỉ huy chiếc máy bay.
“Cô cần một chút cà phê”, Hale tuyên bố rồi đi về phía bếp. “Tôi sẽ pha cho cô một ly mochaccino đặc quánh với váng sữa bốc khói cho mà xem.”
Một trong những câu chuyện đùa thân mật mà họ thường nói với nhau là về các loại cà phê nhạt thếch. Cả hai đều có chung quan điểm rằng, những phi công thực thụ sẽ chỉ uống Maxwell House hoặc Folgers.
Mặc dù vậy, hôm nay Hale, cầu Chúa phù hộ cho anh, không thực sự muốn nói đến cà phê. Ý anh là: Đừng có nốc rượu nữa. Percey hiểu lời nhắc nhở bóng gió đó. Cô xoáy nút chiếc chai bẹt lại và vứt nó lên bàn nghe đánh keng một cái. “Được rồi, được rồi.” Cô đứng dậy và bắt đầu đi đi lại lại trong phòng khách. Cô chợt bắt gặp hình ảnh của mình trong gương. Khuôn mặt ngắn bè bè. Mái tóc đen xoăn tít thành từng lọn bướng bỉnh. Hồi còn ở tuổi dậy thì đau khổ, trong một giây phút tuyệt vọng vì vẻ ngoài của mình, cô đã từng tự cắt cho mình kiểu đầu cua. Cho chúng nó biết tay. Mặc dù tất cả những gì mà hành động ngỗ ngáo đó làm được chỉ là giúp cho bọn con gái quyến rũ ở trường Trung học Lee tại Richmond có thêm vũ khí để chống lại cô. Percey có một thân hình nhỏ nhắn và đôi mắt đen long lanh mà mẹ cô vẫn nói đi nói lại rằng đó là nét đẹp nhất của cô. Cũng đồng nghĩa với nét đẹp duy nhất mà cô có. Và đó lại là một nét đẹp mà bọn con trai, tất nhiên, chẳng bao giờ thèm mảy may quan tâm.
Hôm nay dưới đôi mắt đó là những viền thâm quầng và làn da mai mái tuyệt vọng – da của một người nghiện thuốc lá, cô nhớ lại quãng thời gian cô từng đốt hết hai bao Marlboro mỗi ngày. Những lỗ đeo khuyên trên dái tai của Percey cũng đã bị lấp kín từ lâu lắm rồi.
Một cái nhìn hướng ra ngoài cửa sổ, qua rặng cây, về đoạn phố chạy qua phía trước ngôi nhà. Cô nhìn thấy cảnh người xe đi lại và có gì đó chợt gợn lên trong tâm trí cô. Điều gì đó thật bất an.
Cái gì? Cái gì mới được chứ?
Cám giác đó vụt biến mất, bị đẩy sang một bên cùng với tiếng chuông cửa vừa vang lên.
Percey mở cửa và nhìn thấy hai sĩ quan cảnh sát to như hộ pháp đứng ở ngưỡng cửa.
“Bà Clay phải không ạ?”
“Vâng.”
“NYPD.” Xuất trình phù hiệu. “Chúng tôi có mặt tại đây để trông chừng cho bà đến khi chúng tôi điều tra xong những gì vừa xảy ra với chồng bà.”
“Vào đi”, cô nói. “Brit Hale đang ở đây.”
“Ông Hale ư?” Một trong hai viên cảnh sát vừa nói vừa gật đầu. “Ông ấy cũng ở đây à? Tốt lắm. Chúng tôi cũng vừa cử hai cảnh sát vũ trang của hạt Westchester tới nhà ông ấy.”
Đúng lúc đó cô ngước nhìn qua lưng một viên cảnh sát ra ngoài đường phố và ý nghĩ mơ hồ kia lại chợt hiện ra trong đầu cô.
Cô bước vòng qua hai viên cảnh sát ra hẳn bậc thềm trước nhà. “Chúng tôi mong là bà sẽ ở bên trong thì hơn, thưa bà Clay…” Cô trân trối nhìn ra đường phố. Là cái gì nhỉ?
Và rồi cô chợt hiểu.
“Có điều này các ông nên biết”, cô nói với hai viên cảnh sát, “Một chiếc xe thùng màu đen.”
“Một...?”
“Một chiếc xe thùng màu đen. Lúc trước còn có một chiếc xe thùng màu đen.”
Một viên cảnh sát rút quyển sổ ghi chép ra. “Tốt nhất là bà nên kể rõ lại chuyện này cho tôi.”
* * * *
“Chờ chút”, Rhyme nói.
Lon Sellitto tạm ngừng lời kể của mình.
Lúc này Rhyme nghe thấy một loạt tiếng bước chân khác đang bước đến, không nặng nhưng cũng không nhẹ. Anh biết đó là tiếng bước chân của ai. Đây không phải là suy đoán. Anh đã nghe tiếng bước chân đặc biệt này rất nhiều lần rồi.
Khuôn mặt xinh đẹp của Amelia Sachs, với mái tóc dài đỏ rực bao quanh, hiện ra trên cầu thang và Rhyme thấy cô hơi lưỡng lự
trong giây lát, rồi tiếp tục tiến thẳng vào phòng. Cô mặc nguyên cả bộ sắc phục tuần tra màu xanh hải quân, chỉ thiếu mũ và cà vạt. Tay cô xách một túi mua hàng của Jefferson Market.
Jerry Banks vụt nở một nụ cười về phía cô. Việc anh chàng tha thiết bày tỏ niềm si mê của mình đối với cô đã quá rõ ràng, chỉ có điều là không đúng thời điểm cho lắm – không có nhiều sĩ quan cảnh sát tuần tra từng có thời gian theo đuổi sự nghiệp người mẫu ở Đại lộ Madison(21) giống như cô nàng Amelia Sachs cao ráo. Mặc dù vậy ánh nhìn đắm đuối cùng vẻ cuồng si của anh chàng không hề được đáp lại và chàng thám tử trẻ tuổi, bản thân anh ta cũng là một thanh niên đẹp trai dù khuôn mặt có bị cạo nham nhở cùng một vệt tóc bò liếm trên trán, dường như đành chấp nhận tiếp tục công cuộc trồng cây si của mình thêm một thời gian nữa.
“Chào Jerry”, cô nói. Với Sellitto cô trao thêm một cái gật đầu nữa, cùng câu xưng hô “thưa ngài” đầy lễ độ. (Chẳng gì anh ta cũng là Đại úy Thám tử và là một huyền thoại trong lĩnh vực điều tra án mạng. Sachs mang gen cảnh sát di truyền trong người và cô đã được dạy dỗ chu đáo tại bàn ăn cũng như trong trường cảnh sát là phải biết kính trọng các bậc tiền bối.)
“Trông cô có vẻ mệt mỏi”, Sellitto nhận xét.
“Tôi có ngủ được đâu”, cô nói. “Phải đi tìm cát.” Cô rút ra một tá những túi nhỏ từ trong chiếc túi mua hàng. “Tôi vừa ra ngoài thu thập mẫu về.”
“Tốt lắm”, Rhyme nói. “Nhưng đó là tin cũ rồi. Chúng ta vừa nhận nhiệm vụ mới.”
“Nhiệm vụ mới?”
“Có kẻ mới xuất hiện trong thành phố. Và chúng ta phải tóm hắn.”
“Kẻ nào?”
“Một tên sát thủ”, Sellitto nói.
“Chuyên nghiệp?” Sachs hỏi. “Tội phạm có tổ chức?”
“Chuyên nghiệp, đúng vậy”, Rhyme nói. “Hiện chúng ta chưa phát hiện được mối liên hệ nào với tội phạm có tổ chức cả.” Tội phạm có tổ chức là đầu mối cung cấp những sát thủ giết thuê lớn nhất nước Mỹ.
“Hắn là sát thủ tự do”, Rhyme giải thích. “Chúng tôi gọi hắn là Vũ công Quan tài.”
Bất giác cô bồn chồn đưa móng tay lên gãi gãi một bên lông mày. “Tại sao?”
“Duy nhất chỉ có một nạn nhân từng tiếp cận với hắn mà còn sống thêm được đủ lâu để cung cấp cho chúng ta một số chi tiết. Hắn có – hoặc ít nhất cũng đã từng có – một hình xăm trên bắp tay: Thần Chết nhảy múa với một phụ nữ phía trước một chiếc quan tài.”
“Hừm, đó đáng là một chi tiết phải cho vào phóng sự vụ án trong chương trình Dấu hiệu Nhận biết mới đúng”, cô nói với vẻ chế giễu. “Chúng ta còn biết những gì về hắn nữa?”
“Nam giới, người da trắng, có lẽ khoảng ngoài ba mươi tuổi. Tất cả chỉ có vậy.”
“Chúng ta đã cho người lần theo hình xăm đó chưa?” Sachs hỏi.
“Tất nhiên”, Rhyme trả lời một cách khô khan. “Đến tận cùng trời cuối đất.” Điều anh nói là sự thật theo đúng nghĩa đen. Không một sở cảnh sát tại bất kỳ thành phố chính nào trên thế giới có thể cung cấp thông tin về một hình xăm như thế.
“Xin thứ lỗi, thưa các quý ông và cô đây”, Thom nói. “Có việc phải làm.” Cuộc trò chuyện tạm thời gián đoạn trong lúc chàng thanh niên bắt tay vào thực hiện các động tác xoay người cho ông chủ của mình. Mục đích của việc này là giúp Rhyme làm sạch phổi. Đối với những người liệt tứ chi thì một số bộ phận nhất định trên cơ thể trở nên có tính cách như con người; người bệnh phát triển những mối quan hệ đặc biệt với các bộ phận này. Sau khi cột sống của anh bị dập nát trong lúc khám nghiệm một hiện trường vụ án cách đây vài năm, hai tay và hai chân của Rhyme đã trở thành những kẻ thù tàn độc nhất đối với chính anh và Rhyme đã từng phải tuyệt vọng dồn hết sức lực của mình cố gắng bắt chúng làm những gì anh muốn. Nhưng rồi chúng đã thắng, không phải tranh cãi gì thêm nữa, và suốt từ đó đến giờ lúc nào chúng cũng trơ ra như gỗ. Rồi anh lại còn phải đối mặt với những cơn co giật hành hạ cơ thể mình một cách không thương tiếc. Anh đã cố gắng bắt chúng phải chấm dứt. Cuối cùng thì chúng cũng dừng lại – duờng như là vì tự chúng muốn thế thì đúng hơn. Rhyme cũng không hoàn toàn tuyên bố chiến thắng mặc dù anh có chấp nhận sự đầu hàng của chúng. Sau đó anh lại quay sang với những thách thức ít gay cấn hơn và bắt đầu tuyên chiến với hai lá phổi của mình. Cuối cùng, sau một năm điều trị phục hồi chức năng, anh có thể tự giải phóng cho mình khỏi cái máy thở. Ngay khi chiếc ống khí quản nhân tạo được rút ra, anh có thể tự thở
bình thường. Đó là chiến thắng duy nhất mà Rhyme giành được trong cuộc chiến với cơ thể mình và anh vẫn nuôi dưỡng một sự mê tín đen tối rằng hai lá phổi kia đang kiên trì mai phục chờ ngày trả thù. Anh tự hình dung ra cảnh mình sẽ chết vì viêm phổi hoặc chứng phù thủng chỉ sau một, hai năm nữa.
Cũng không hẳn là Lincoln Rhyme bị giày vò với ý nghĩ về cái chết. Chỉ có điều là có quá nhiều cách để chết; anh quyết tâm sẽ không chọn cho mình một cách quá khổ sở.
Sachs đang hỏi tiếp, “Có manh mối gì không? Phi vụ gần đây nhất?”
“Gần đây nhất hắn gây án ở khu vực Washington D.C”, Sellitto nói bằng cái giọng Brooklyn lè nhè của mình. “Thế thôi. Không có thêm gì sất. À, mà chúng tôi cũng có nghe một số thông tin về hắn. Thực ra là Dellray nghe được chứ không hẳn là chúng tôi, anh ta có những tay chỉ điểm và cơ sở mật mà, cô biết đấy. Tên Vũ công, cứ như thể hắn là mười con người khác nhau vậy. Thay thùy tai, cấy ghép mặt, độn silicon. Thêm sẹo, bớt sẹo. Tăng cân, gỉảm cân. Có lần hắn còn lột da xác chết – lấy cả phần bàn tay của nạn nhân rồi đeo vào tay mình cứ như người ta xỏ găng tay vậy, để đánh lừa cảnh sát về dấu vân tay.”
“Nhưng không phải tôi”, Rhyme nhắc. “Hắn đâu có qua mặt được tôi.”
Mặc dù chính mình cũng không tóm được hắn, anh cay đắng thầm nghĩ.
“Hắn lên kế hoạch cho mọi chi tiết”, viên thám tử nói tiếp. “Sắp đặt các biện pháp đánh lạc hướng rồi xâm nhập. Và ra tay. Sau đó thằng chó chết này dọn dẹp hiện trường gây án cực kỳ sạch sẽ.” Sellitto ngừng lời, trông anh có vẻ bức xúc lạ lùng, điểm ít thấy ở một người chuyên sống bằng nghề săn lùng những tên sát thủ.
Ngoảnh mặt ra ngoài cửa sổ, Rhyme không tỏ một chút xúc động trước sự uất ức của người cộng sự cũ. Anh chỉ lạnh lùng nói tiếp. “Vụ án đó – vụ hắn đã lột da bàn tay nạn nhân – là tội ác gần đây nhất của tên Vũ công ở New York. Năm, sáu năm trước. Hắn được một tay chủ ngân hàng đầu tư ở phố Wall thuê giết đối tác làm ăn của mình. Hắn ra tay rất gọn gàng và nhanh chóng. CS(22) của tôi tới nơi hắn gây án và bắt đầu rà soát. Một thành viên trong đội đã nhấc một tập giấy ra khỏi thùng rác. Làm kích nổ một khối thuốc PETN(23). Nặng khoảng tám ounce gì đó, được tăng cường bằng khí gas trong phòng. Cả hai nhân viên đều thiệt mạng và hầu hết mọi manh mối đều bị phá hủy.”
“Tôi rất tiếc”, Sachs nói. Giữa hai người có một sự im lặng thật khó xử. Cô vừa là học trò vừa là cộng sự của anh từ hơn một năm nay – và cũng đã trở thành bạn tâm giao của anh nữa. Thậm chí thỉnh thoảng còn nghỉ lại qua đêm tại đây, ngủ trên sôfa, hoặc hơn thế nữa, trong sáng như một người em gái, nằm ngay trên chiếc giường Clinitron nặng cả nửa tấn cuả Rhyme. Nhưng họ hầu như chỉ nói chuyện về khoa học hình sự, trong đó Rhyme ru cô vào giấc ngủ bằng câu chuyện về những tên giết người hàng loạt bệnh hoạn hoặc những tên trộm ranh ma chuyên đột vòm một cách thần tình. Họ hầu như không mấy khi đề cập tới những vấn đề riêng tư. Lúc
này cô không thể nói gì thêm ngoài câu “Chuyện đó chắc vô cùng khó khăn”.
Rhyme xua đi sự cảm thông gượng gạo đó bằng một cái lắc đầu. Anh trân trân nhìn vào bức tường trống trơn. Một dạo đã từng có những tấm poster nghệ thuật được dán xung quanh căn phòng. Chúng đã được tháo bỏ từ lâu nhưng mắt anh vẫn cố hình dung ra khung cảnh cũ từ những mẩu băng dính còn sót lại. Hình dáng mà chúng tạo nên là một ngôi sao lệch, trong khi ấy, ở đâu đó trong sâu thẳm trong tâm hồn anh, Rhyme cảm thấy một nỗi tuyệt vọng trống rỗng khi hình dung lại hiện trường vụ án khủng khiếp sau khi quả bom phát nổ, chứng kiến những thi thể dập nát và cháy sém của hai đồng nghiệp.
Sachs hỏi, “Người đã thuê hắn ấy, ông ta có đồng ý tố cáo tên Vũ công không?”.
“Có đồng ý chứ, chắc chắn rồi. Nhưng ông ta cũng chẳng biết gì mà khai cả. Ông ta chuyển tiền mặt vào một thùng thư cùng những chỉ thị được viết cụ thể. Không có điện chuyển khoản, không có số tài khoản nào hết. Họ chưa bao giờ gặp nhau trực tiếp.” Rhyme hít một hơi thật sâu. “Nhưng điều tệ nhất trong chuyện này là tay chủ ngân hàng trả tiền cho vụ giết người cuối cùng lại đổi ý. Ông ta đã hoảng sợ. Nhưng ông ta không có cách nào để liên lạc với tên Vũ công. Chuyện đó cũng chẳng ảnh hưởng gì. Tên Vũ công đã nói thẳng với ông ta ngay từ đầu: Không bao giờ có chuyện hủy đơn đặt hàng.”
Sellitto kể tóm tắt lại cho Sachs biết về vụ án hiện tại liên quan đến Phillip Hansen, những nhân chứng đã nhìn thấy máy bay của
hắn thực hiện cú cất cánh vào lúc nửa đêm và vụ đánh bom đêm qua.
“Nhân chứng còn lại gồm những ai?”, cô hỏi.
"Percey Clay, vợ của cái tay phi công Carney bị giết trên máy bay đêm qua. Cô ta là chủ tịch công ty dịch vụ bay của họ, Hudson Air Charters. Chồng cô ta là phó chủ tịch. Nhân chứng còn lại là Britton Hale. Anh ta cũng là một phi công làm việc trong công ty. Tôi đã cử người tới canh chừng cho cả hai người này.”
Rhyme nói, “Tôi vừa gọi cho Mel Cooper tới. Anh ta sẽ đảm trách phòng thí nghiệm dưới nhà. Vụ Hansen này huy động lực lượng tổng hợp cho nên chúng ta sẽ cần đến Fred Dellray để đại diện cho cơ quan an ninh liên bang. Anh ấy sẽ huy động các đặc vụ cho chúng ta trong trường hợp cần thiết đồng thời chuẩn bị một trong những ngôi nhà an toàn chuyên bảo vệ nhân chứng của Cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ dành riêng cho cô Clay kia và Hale”.
Những ký ức bộn bề của Lyncoln Rhyme lại thoáng tràn về xâm chiếm khiến anh bất giác không còn nhận ra Sellitto đang nói gì nữa. Trong tâm trí anh lúc này là hình ảnh về một văn phòng làm việc, nơi tên Vũ công đã gài quả bom cách đây năm năm.
Hồi tưởng: Chiếc thùng rác, nổ toác miệng như một bông hồng đen ngòm. Mùi thuốc nổ – mùi hoá chất nồng nặc, hoàn toàn không giống chút nào so với mùi khói do gỗ cháy thông thường. Những vết nứt rạn óng ánh trên mặt gỗ cháy thành than. Thi thể bầm nát của hai nhân viên do anh cử đi, nát bấy và cong queo trong ngọn lửa.
Tiếng tít tít phát ra chiếc máy fax kéo anh khỏi dòng suy tưởng đau đớn. Jerry Banks giật lấy tờ giấy đầu tiên. “Báo cáo khám nghiệm hiện trường vụ nổ”, anh ta thông báo.
Đầu Rhyme giật mạnh về phía chiếc máy fax đầy háo hức. “Đến lúc bắt tay vào việc rồi, các chàng trai, cô gái!”
* * * *
"Rửa thật sạch. Rửa sạch chúng đi."
"Quân nhân, những bàn tay đó sạch chưa?"
"Thưa ngài, sắp sạch rồi ạ, thưa ngài."
Người đàn ông vạm vỡ, khoảng ngoài ba mươi tuổi, đứng trong nhà vệ sinh của một quán cà phê trên Đại lộ Lexinhton, hoàn toàn chú tâm vào công việc của mình.
"Cọ mạnh, cọ mạnh, cọ mạnh vào…"
Hắn dừng lại và ngoái nhìn ra cửa nhà vệ sinh dành cho nam giới. Dường như không có ai mảy may quan tâm đến việc hắn đã ở trong này được gần mười phút.
Quay lại với việc kỳ cọ.
Stephen Kall chăm chú nhìn lớp biểu bì và những đốt ngón tay tấy đỏ của mình.
Trông có vẻ sạch, trông có vẻ sạch. Không có giòi. Không một con.
Trước đó hắn đã cảm thấy thật dễ chịu sau khi lái chiếc xe thùng màu đen ra khỏi đường phố và giấu nó sâu tít bên dưới một ga ra
ngầm. Stephen đã lấy những thứ mà hắn cần từ thùng sau chiếc xe và bước ngược dốc đi lên, len vào giữa con phố tấp nập người đi lại. Trước đây hắn cũng đã thực hiện một số vụ ở New York nhưng hắn chưa bao giờ có thể quen với cảnh biển người hỗn loạn, chỉ riêng đoạn phố này cũng đã có cả nghìn người rồi.
"Làm mình thấy ghê sợ."
"Làm mình thấy nhớp nhúa."
Và thế là hắn ghé vào nhà vệ sinh dành cho nam giới trong quán cà phê này để kỳ cọ qua một chút.
"Quân nhân, anh vẫn chưa xong việc đó cơ à? Anh còn hai mục tiêu phải tiêu diệt đấy."
"Thưa ngài, sắp xong rồi, thưa ngài. Phải loại bỏ bất kỳ nguy cơ để lại dấu vết nào trước khi bắt tay vào thực hiện chiến dịch tiếp theo, thưa ngài."
Ôi, lạy Chúa lòng lành…
Dòng nước nóng chảy tràn trên hai bàn tay của hắn. Kỳ cọ bằng một cái bàn chải hắn luôn mang theo bên mình trong một chiếc túi nylon. Xịt thêm chất xà phòng lỏng màu hồng từ trong bình lên tay. Và lại tiếp tục kỳ cọ thêm lúc nữa.
Cuối cùng hắn săm soi hai bàn tay đỏ bầm và hong khô chúng dưới luồng khí nóng của máy sấy. Không dùng khăn, không để lại những sợi vải có thể làm lộ chân tướng.
Và không có giòi.
Hôm nay Stephen vẫn mặc đồ cải trang, nhưng không phải đồ rằn ri quân sự màu xanh ô liu hoặc màu be kiểu trong chiến dịch
Bão táp Sa mạc. Hắn mặc quần jean, áo sơ mi công nhân, chiếc áo khoác gió màu xám lấm tấm những giọt sơn, đi giày thể thao Reebok. Trên thắt lưng hắn là một chiếc điện thoại di động và cái thước dây lớn. Trông hắn chẳng khác bất kỳ nhà thầu xây dựng nào trong khu Manhattan, và sở dĩ hôm nay hắn diện bộ đồ này là vì không một ai để tâm đến một người công nhân xây dựng mang găng tay vải trong một ngày mùa xuân ấm áp cả.
Bước ra ngoài.
Vẫn còn rất nhiều người. Nhưng hai bàn tay hắn đã sạch sẽ và hắn không còn cảm thấy ghê sợ nữa.
Hắn dừng lại ở góc phố và nhìn về phía tòa nhà đã từng là ngôi nhà của Người chồng và Người vợ nhưng lúc này Người vợ chỉ còn một mình vì Người chồng đã bị nổ tung thành hàng triệu mảnh trên Vùng đất của Lincoln(24).
Vậy là hai nhân chứng vẫn còn sống và cả hai sẽ phải chết trước khi bồi thẩm đoàn được triệu tập vào thứ Hai. Hắn liếc nhìn chiếc đồng hồ to đùng bằng thép không gỉ của mình. Bây giờ mới là chín rưỡi sáng thứ Bảy.
"Quân nhân, liệu còn đủ thời gian để tiêu diệt cả hai không?" "Thưa ngài, lúc này có thể tôi không giết được cả hai cùng một lúc, nhưng tôi vẫn còn gần bốn mươi tám tiếng đồng hồ nữa, thưa ngài. Ngần đó thời gian là quá đủ để xác định và vô hiệu hóa cả hai mục tiêu, thưa ngài."
"Nhưng, quân nhân, anh có e ngại thách thức không?" "Thưa ngài, tôi sống vì những thách thức, thưa ngài."
Có đúng một chiếc xe tuần tra của cảnh sát bên ngoài ngôi nhà. Đó là điều hắn đã dự kiến từ trước.
"Được rồi, chúng ta có một khu vực tiêu diệt quen thuộc ở phía trước ngôi nhà, một khu vực tiêu diệt xa lạ bên trong…" Hắn nhìn quanh hai bên đường phố, rồi bắt đầu bước dọc theo vỉa hè, hai bàn tay vừa được kỳ cọ sạch, ngứa ran. Chiếc ba lô sau lưng nặng gần 60 pound(25) nhưng hắn hầu như không hề cảm thấy gì. Stephen đầu cua là một tên vạm vỡ.
Vừa bước đi hắn vừa tự hình dung bản thân như một người dân địa phương. Vô danh. Hắn không hề nghĩ mình là Stephen, ông Kall hay Todd Johnson hoặc Stan Bledsoe, hay bất kỳ ai trong số hàng chục cái tên giả khác mà hắn từng sử dụng trong suốt mười năm qua. Tên thật của hắn giống như một cái thang sét gỉ cho trẻ con leo trèo gắn ở sân sau, một thứ mà người ta lờ mờ biết là có nhưng cũng không mấy khi nhìn thấy.
Bất thình lình hắn rẽ và bước vào trong sảnh trước của tòa nhà đối diện với ngôi nhà của Người vợ. Stephen đẩy cánh cửa trước và cảnh giác quan sát những ô cửa sổ kính rộng bên kia phố, vốn bị cành lá lòa xòa của một cây sơn thù du đang ra hoa che phủ một phần. Hắn đeo một cặp kính tráng lớp bảo vệ màu vàng dành cho xạ thủ tập bắn và ánh chói lòa trên cửa sổ kính biến mất. Hắn nhận ra bóng những người chuyển động bên trong. Một tên cớm… không, hai tên cớm. Một người đàn ông quay lưng lại phía cửa sổ. Có thể là Người bạn, một nhân chứng khác mà hắn đã được thuê thủ tiêu. Và… đúng rồi! Có cả Người vợ nữa. Thấp bé. Thô kệch. Trông như trẻ con. Cô ta mặc một chiếc áo màu trắng. Một mục tiêu thật ngon ăn.
Cô ta bước khỏi tầm nhìn của hắn. Stephen cúi xuống và kéo mở khóa ba lô.
CHươNG 4
Chuyển từ giường xuống ngồi vào chiếc xe lăn Storm Arrow(26). Giờ là lúc Rhyme có thể tự xoay sở, miệng ngậm chặt chiếc ống hút bằng nhựa đóng vai trò như thiết bị điều khiển mút-và-hút, anh lái xe lăn vào chiếc thang máy bé tí – vốn là một cái tủ để đồ cũ được cải tạo lại. Đó là cách đơn giản và nhanh chóng nhất để đưa anh xuống tầng một của ngôi nhà.
Hồi những năm 1890, khi toà nhà mới được xây dựng, căn phòng mà Lyncoln Rhyme đang lăn xe vào lúc này vốn là phòng khách nằm bên ngoài phòng ăn chính. Kết cấu trát thạch cao và ốp gỗ chân tường, những gờ chỉ trần mang phong cách của các cung điện hoàng gia Pháp, những hốc tuờng hình cửa tò vò làm nơi đặt ảnh và tượng, sàn nhà lát gỗ sồi chắc chắn ăn khít với nhau như những tấm thép được hàn lại. Mặc dù vậy, một kiến trúc sư hẳn sẽ phải lấy làm kinh hoàng khi nhận ra rằng Rhyme đã cho phá bỏ bức tường cũ chia đôi hai phòng và đục những lổ rộng hoác trên những búc tường còn lại lấy chỗ luồn dây điện bổ sung. Hai căn phòng thông nhau giờ đây trở thành một khoảng không gian bừa bộn mà trong đó không có những tấm kính mờ của Tiffany hoặc những bức tranh phong cảnh đầy tâm trạng của George Innes mà chất đầy các hiện vật hoàn toàn khác: những ống nghiệm phân tích tỷ trọng vật chất, máy vi tính, kính hiển vi phức hợp, kính hiển vi đối chiếu, một chiếc máy sắc ký/phổ kế khối lượng, một đèn chiếu ánh sáng thay thế chuyên dụng PoliLight, máy in và phóng to vân tay. Chễm chệ trong góc phòng là một chiếc kính hiển vi quét bằng hạt electron đắt tiền gắn kèm với một tổ hợp thiết bị chụp X-quang năng lượng phân
tán. Đây cũng là nơi tập trung những dụng cụ và trang thiết bị trần tục nhất cần thiết cho công việc của một nhà hình sự học: kính bảo hộ, găng tay cao su và găng tay chống trầy xước, ống nghiệm, tuốc nơ vít và kìm, thìa cong chuyên dụng dùng trong giám định pháp y, panh kẹp, dao mổ, thanh đè lưỡi, gạc bông, bình lọ, túi nhựa, khay kiểm tra, que thăm dò. Ngoài ra còn hơn một chục đôi đũa ăn bình thường (Rhyme ra lệnh cho các phụ tá của mình phải gắp những mẩu bằng chứng như thể họ đang gắp miếng sủi cảo tại quán ăn Trung Quốc Ming Wa vậy.).
Rhyme điều khiển chiếc xe lăn Storm Arrow chắc chắn, sơn màu đỏ lựng như táo chín, vào vị trí cạnh chiếc bàn làm việc. Thom đeo một chiếc mic lên tai ông chủ của mình và khởi động máy tính.
Một lát sau Sellitto và Banks hiện ra ở ngưỡng cửa, đi cùng họ còn có một người đàn ông khác vừa mới tới nơi. Đó là một tay cao kều, chân tay lòng khòng, da đen bóng như lốp xe. Anh ta mặc một bộ vest màu xanh, bên trong là một chiếc áo sơ mi màu vàng trông thật lố lăng.
“Chào anh, Fred.”
“Lincoln.”
“Xin chào.” Sachs gật đầu với Fred Dellray khi cô bước vào phòng. Cô đã tha thứ cho anh ta tội bắt giữ cô cách đây chưa lâu – sau một vụ lộn xộn trong hiệp đồng giữa các cơ quan an ninh – và giờ đây họ đã có một sự đồng cảm rất lạ lùng, giữa cô cảnh sát xinh đẹp, cao ráo và tay đặc vụ tinh quái, cao lều nghều. Rhyme đã rút ra kết luận dứt khoát rằng, cả hai đều là những cảnh sát con người (trong khi anh tự coi mình là cảnh sát bằng chứng). Dellray tin tưởng
vào khoa học hình sự cũng ít như Rhyme tin vào các lời khai của các nhân chứng. Mặc dù vậy, đối với một người từng là sĩ quan tuần tra thiên về hành động như Sachs, Rhyme cũng chẳng thể làm được gì để thay đổi những khuynh hướng bẩm sinh của cô, nhưng anh quyết định rằng cô cần phải gác lại những phẩm chất đó qua một bên để trở thành nhà hình sự học giỏi nhất New York, nếu không muốn nói là nhất nước Mỹ. Một mục tiêu quá dễ dàng trong khả năng của cô, cho dù chính bản thân cô cũng không ý thức được điều đó.
Dellray rảo bước ngang qua phòng, rồi dừng lại bên khung cửa sổ, hai cánh tay dài ngoằng khoanh lại trước ngực. Không một ai – ngay cả Rhyme – thực sự hiểu được con người của tay đặc vụ. Anh ta sống độc thân trong một căm hộ nhỏ ở khu Brooklyn, thích nghiền ngẫm các tác phẩm văn học và triết học, thậm chí còn thích chơi bi a trong những quán rượu rẻ tiền. Một thời từng là viên kim cương trên vương miện giới đặc vụ ngầm FBI, giờ đây thỉnh thoảng Fred Dellray vẫn được nhắc đến bằng biệt danh quen thuộc khi anh còn đang hoạt động: “Kỳ nhông”. Anh từng là một kẻ nổi loạn, tất cả mọi người đều biết thế, nhưng những người lãnh đạo Dellray trong Cục luôn để anh tự do hành động theo ý mình; Dellray có công lớn trong hơn một nghìn vụ bắt giữ. Nhưng thời gian anh hoạt động ngầm đã quá lâu và bất chấp kỹ năng gần như hoàn hảo trong việc khoác lên mình những vỏ bọc khác nhau, dần dần anh cũng trở nên “nhẵn mặt”, như bất kỳ đặc vụ ngầm nào trong Cục. Sẽ chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi anh bị lộ tẩy và bị thủ tiêu, vì vậy cuối cùng Dellray đành miễn cuỡng chấp nhận một công việc hành chính là chỉ đạo các đặc vụ ngầm khác cùng mạng lưới những CI – cơ sở mật.
“Vậy đấy, các chàng trai của tôi cho biết là chúng ta đang đối mặt với chính tên Vũ công”, viên đặc vụ nói nhấm nhẳng, bằng giọng mũi đặc trưng của dân Mỹ gốc Phi, nghe rất… Dellray. Vốn từ vựng và cú pháp của anh ta, cũng giống như chính cuộc đời của anh ta, đã được biến tấu đi rất nhiều.
“Có tin gì về Tony không?”, Rhyme hỏi.
“Anh chàng bị mất tích ấy à”, Dellray hỏi, mặt anh ta méo xệch đi vì giận dữ. “Không gì sất.”
Tony Panelli, người đặc vụ mất tích ngay trước cửa Toà nhà Liên bang trước đó vài ngày, đã để lại một người vợ ở nhà, một chiếc Ford màu xám động cơ vẫn đang chạy và những hạt cát bí hiểm đến bực mình – những thiên thể cuốn hút hứa hẹn mang đến câu trả lời, vậy mà từ đầu đến giờ mọi chuyện vẫn giậm chân tại chỗ.
“Khi chúng ta tóm được tên Vũ công”, Rhyme nói, “chúng tôi sẽ quay lại vụ kia, Amelia và tôi. Tập trung toàn bộ thời gian. Tôi hứa”.
Dellray cáu kỉnh gõ gõ đầu lọc của một điếu thuốc lá chưa châm kẹp đằng sau vành tai bên trái của mình. “Vũ công… Chó chết. Tốt nhất là lần này phải cho nó tiêu luôn. Chó chết.”
“Thế còn vụ ra tay của hắn thì sao?”, Sachs hỏi. “Vụ nổ đêm qua ấy. Đã có manh mối gì chưa?”
Sellitto đọc lướt qua một tập bản fax và một số trang ghi chép tay của mình. Anh ngẩng lên nhìn mọi người. “Ed Carney cất cánh từ sân bay Mamaroneck khoảng bảy giờ mười lăm phút tối qua. Hudson Air là công ty bay dịch vụ tư nhân. Họ chuyên chở hàng cho các công ty có nhu cầu, như chúng ta biết. Cho thuê máy bay. Họ
cũng vừa nhận được một hợp đồng bay mới – nói thế nào nhỉ – vận chuyển các bộ phận cơ thể cần cấy ghép tới các bệnh viện thuộc miền Trung Tây và dải bờ biển miền Đông. Nghe nói ngày nay đây là một ngành kinh doanh phải cạnh tranh rất ghê.”
“Cắt cổ”, Banks nhận xét, và là người duy nhất mỉm cười với câu nói đùa của chính mình.
Sellitto nói tiếp. “Khách hàng là Tập đoàn U.S. Medical. Đặt trụ sở tại Somers. Đây là một trong những hệ thống bệnh viện hoạt động vì lợi nhuận. Carney có một lịch trình bay rất căng. Theo kế hoạch anh ta phải bay tới Chicago, Saint Louis, Memphis, Lexinhton, Cleverland rồi dừng lại ở Erie, Pennsylvania. Đến sáng nay thì quay về.”
“Có hành khách nào không?”, Rhyme hỏi.
“Hành khách nguyên vẹn thì không” Sellitto càu nhàu. “Chỉ có hàng thôi. Chuyến bay khởi đầu rất suôn sẻ. Thế rồi cách O’Hare khoảng mười phút, một quả bom phát nổ. Làm máy bay tan tành. Cả Carney và người phi công phụ của anh ta đều thiệt mạng. Bốn người dưới mặt đất cũng bị thương. Tiện đây cũng nói luôn là lẽ ra đêm qua vợ anh ta sẽ cùng bay nhưng sau đó cô ta bị ốm và phải hủy kế hoạch bay.”
“Đã có báo cáo của NTSB(27) chưa”, Rhyme hỏi và tự trả lời. “Không, tất nhiên là không. Không thể có được. Chắc là chưa.”
“Chắc phải đến hai ba ngày nữa mới có báo cáo.”
“Hừ, chúng ta không thể đợi hai hoặc ba ngày được!”, Rhyme hét ầm lên. “Tôi cần nó ngay bây giờ!”
Trên cổ anh vẫn còn vết sẹo hồng hồng của ống thông khí quản trước kia. Nhưng Rhyme đã đoạn tuyệt được những lá phổi giả và anh hoàn toàn có thể tự thở như một người bình thường. Lincoln Rhyme là một người tàn tật tứ chi bất toại nhưng vẫn có thể thở dài, ho hắng và quát tháo không khác gì một thủy thủ. “Tôi phải biết tất cả những gì có thể liên quan đến quả bom.”
“Tôi sẽ gọi cho một người bạn ở Windy City(28)”, Dellray lên tiếng. “Hắn còn mắc nợ tôi. Sẽ cho hắn biết chuyện vụ nổ và yêu cầu hắn chuyển ngay cho chúng ta bất kỳ thứ gì có thể.”
Rhyme gật đầu với tay đặc vụ, rồi xem xét lại những gì Sellitto vừa cho anh biết. “Được rồi, vậy là chúng ta có hai hiện trường. Hiện trường vụ nổ ở Chicago. Chỗ đó thì quá muộn cho cô rồi, Sachs. Chắc hẳn là đã bị làm lộn tung lên. Chúng ta đành phải hy vọng là mấy tay ở Chicago làm ăn không đến nỗi cẩu thả quá. Hiện trường còn lại là sân bay Mamaroneck – nơi tên Vũ công cài quả bom lên máy bay.”
“Làm sao chúng ta biết hắn đã làm như vậy ở sân bay?” Sachs hỏi. Cô đang vấn mái tóc đỏ rực của mình lại và buộc thành một búi ở trên đầu. Những sợi tóc nổi bật như thế này có thể gây khó khăn tại các hiện trường vụ án: chúng có nguy cơ làm xáo trộn những bằng chứng nguyên bản. Sachs luôn bắt tay thực hiện nhiệm vụ của mình với vũ khí là một khẩu Glock 9 ly và cả tá những chiếc kẹp ghim cho mái tóc.
“Thông minh lắm, Sachs.” Anh thích thấy cô tỏ ra tinh quái hơn mình. “Chúng ta không biết và chúng ta sẽ không thể biết cho đến khi chúng ta tìm thấy nơi hắn cài quả bom. Có thể nó được cài trong
khoang chứa hàng, trong một chiếc túi xách đựng đồ bay, thậm chí là một bình cà phê cũng nên.”
Hoặc có thể là một thùng rác, anh rầu rĩ tự nhủ, và bất giác lại hình dung ra vụ nổ ở phố Wall.
“Tôi muốn có tất cả những mẩu vụn của quả bom đó tại đây càng sớm càng tốt. Chúng ta bắt buộc phải có”, Rhyme nói.
“E hèm, Lincoln”, Sellitto chậm rãi lên tiếng, “máy bay phát nổ khi cách mặt đất hơn một dặm. Những mảnh vụn chết tiệt bắn tung tóe khắp cả một khu vực rộng lớn”.
“Tôi không quan tâm”, Rhyme nói, những cơ bắp ở cổ anh căng cứng, đau nhức. “Họ vẫn đang tìm kiếm đấy chứ?”
Các nhân viên cứu hộ địa phương chịu trách nhiệm rà soát hiện trường những vụ tai nạn nhưng trách nhiệm điều tra thuộc về các cơ quan an ninh liên bang do vậy chính Fred Dellray là người gọi điện cho một đặc vụ FBI đang có mặt tại hiện trường.
“Bảo anh ta là chúng ta cần tất cả những mẩu vụn của vụ nổ có phản ứng dương tính với thuốc nổ. Ý tôi là chỉ cần một nanogam cũng đủ. Tôi muốn tìm quả bom đó.”
Dellray truyền đạt lại mệnh lệnh này. Rồi anh ngước lên và lắc đầu. “Hiện trường đã được giải phóng.”
“Gì cơ?, Rhyme hét lên. “Sau có mười giờ sao? Thật lố bịch. Không thể chấp nhận được.”
“Họ phải cho khai thông các đường phố. Anh ta nói…”
“Xe cứu hoả!”, Rhyme lại hét tướng lên.
“Cái gì?”
“Mọi xe cứu hoả, xe cứu thương, xe cảnh sát... tất cả những phương tiện ứng cứu khẩn cấp sau khi xảy ra vụ nổ. Tôi muốn cho người cạo lốp những chiếc xe này.”
Dellray quay cả khuôn mặt dài và đen bóng của mình lại, chằm chằm nhìn anh. “Anh muốn nhắc lại câu đó chứ? Cho ông bạn cũ tốt bụng của tôi đây?”. viên đặc vụ ấn chiếc điện thoại vào người anh.
Rhyme phớt lờ chiếc điện thoại và nói với Dellray. “Lốp của những chiếc xe cấp cứu, cả cứu hoả lẫn cứu thương, là một trong những nguồn lưu trữ bằng chứng tốt nhất tại tại các hiện trường vụ án bị xáo trộn. Chúng là các phương tiện đầu tiên có mặt tại hiện trường, và cũng thường đuợc trang bị lốp mới tinh với những rãnh ma sát còn sâu, hơn nữa chúng cũng không phải đi lại bất kỳ chỗ nào ngoài chỗ tập trung và hiện trường vụ nổ. Tôi muốn người của các anh cạo toàn bộ lốp xe và gửi các mẫu bằng chứng tới đây.”
Dellray cố lắm mới thuyết phục được đầu mối của mình ở Chicago cam kết sẽ tiến hành cho cạo lốp của số xe cấp cứu trong vụ nổ đêm qua, càng nhiều càng tốt.
“Không phải là càng nhiều càng tốt”, Rhyme quát chen vào. “Tất cả số lốp xe.”
Dellray nhướng mắt lên nhưng rồi cũng truyền đạt thông tin đó và gác máy.
Bất thình lình Rhyme gào ầm lên, “Thom! Thom, cậu đâu rồi?”.
Một lát sau anh chàng trợ lý mẫn cán xuất hiện ở ngưỡng cửa. “Ở phòng giặt đồ chứ còn ở đâu được nữa.”
“Quên chuyện giặt giũ đi. Chúng ta cần có một biểu đồ thời gian. Cậu viết đi, viết đi…”
“Viết gì cơ, Lincoln?”
“Thì viết lên tấm bảng đó, đằng kia kìa. Cái bảng to ấy.” Rhyme quay sang nhìn Sellitto. “Khi nào thì bồi thẩm đoàm được triệu tập?”
“Chín giờ sáng thứ Hai.”
“Công tố viên muốn các nhân chứng có mặt ở đó trước khoảng vài tiếng – sẽ có xe tới đón họ lúc khoảng sáu, bảy giờ sáng”. Anh ngước nhìn đồng hồ treo tường. Bây giờ là mười giờ sáng thứ Bảy.
“Chúng ta có chính xác là bốn mươi lăm tiếng đồng hồ nữa, Thom viết đi, “Giờ thứ 1 của 45”.”
Anh chàng trợ lý lưỡng lự.
“Viết ngay!”
Chàng thanh niên làm theo.
Rhyme liếc nhìn những người còn lại trong phòng. Anh nhận thấy ánh mắt của họ đang thể hiện nỗi băn khoăn, khó hiểu, một cái cau mày hoài nghi trên khuôn mặt Sachs. Bất giác cô đưa tay lên đầu và gãi mạnh.
“Nghĩ là tôi đang nghiêm trọng hóa sự việc sao?”, anh hỏi. “Nghĩ là chúng ta không cần gì để tự nhắc nhở mình sao?”
Thoạt đầu không ai nói năng gì. Cuối cùng Sellitto lên tiếng. “Chậc, Linc à, ý tôi là, từ giờ tới lúc đó chưa chắc đã có chuyện gì đâu.”
“Ồ, có đấy, chắc chắn có chuyện sắp xảy ra”, Rhyme nói, mắt nhìn con chim ưng đực đúng lúc con chim vạm vỡ đang nhẹ nhàng tung mình lên không trung bên trên Công viên Trung tâm. “Đến bảy giờ sáng thưa Hai, hoặc là chúng ta sẽ tóm được tên Vũ công, hoặc là cả hai nhân chứng chúng ta sẽ chết. Không thể có lựa chọn khác đâu.”
Thom lưỡng lự trong giây lát rồi cầm viên phấn lên và bắt đầu viết.
Sự im lặng ngột ngạt trong phòng bị phá vỡ bởi tiếng chuông khe khẽ phát ra từ điện thoại di động của Banks. Anh ta chăm chú nghe khoảng một phút, rồi ngẩng lên. “Có chuyện rồi đây”, anh ta nói.
“Gì vậy?”, Rhyme hỏi.
“Mấy cảnh sát bảo vệ Clay và nhân chứng còn lại, Britton Hale thì phải?”
“Họ làm sao?”
“Họ đang ở nhà cô ta. Một trong những cảnh sát đó vừa gọi tới. Hình như Clay cho biết mấy hôm trước có một chiếc xe thùng màu đen mà cô ta chưa thấy bao giờ đã đậu ở con phố ngay bên ngoài ngôi nhà. Mang biển số của một bang khác thì phải.”
“Cô ấy có nhớ biển số xe hay biết của bang nào không?”
“Không”, Banks trả lời. “Cô ấy cho biết chiếc xe biến mất một lát vào đêm qua, sau khi chồng cô ta rời nhà tới sân bay.”
Sellitto chăm chú nhìn anh ta.
Rhyme cũng căng thẳng ngẩng đầu lên. “Và?”
“Cô ta nói là sáng nay nó lại xuất hiện một lúc. Bây giờ thì lại biến mất rồi. Cô ấy đang…”
“Ôi, lạy Chúa”, Rhyme thì thầm.
“Sao thế?” Banks hỏi.
“Khu Trung tâm!”, nhà hình sự học gào lên. “Cho phong toả khu Trung tâm. Ngay lập tức!”
* * * *
Một chiếc taxi đỗ xịch ngay trước cửa nhà của Người vợ. Một bà già bước xuống và lập cập bước về phía cửa.
Stephen đang theo dõi, cảnh giác.
"Quân nhân, đây có phải là một phát bắn dễ dàng không?" Thưa ngài, một xạ thủ không bao giờ coi bất kỳ phát súng nào là dễ dàng cả. Mỗi phát súng đều đòi hỏi nỗ lực và khả năng tập trung tối đa. Nhưng, thưa ngài, tôi có thể thực hiện phát súng này và tạo ra những vết thương chí mạng, thưa ngài. Tôi có thể biến những mục tiêu của mình thành cám, thưa ngài.
Bà già bước lên bậc thềm và biến mất vào sảnh trước. Một lát sau Stephen thấy bà ta xuất hiện trong phòng khách của Người vợ.
Một bóng vải trắng thoáng lướt qua – vẫn là áo của Người vợ. Hai người ôm choàng lấy nhau. Một bóng người nữa bước vào phòng. Một người đàn ông. Cớm chăng? Người đàn ông quay lại. Không, đó chính là Người bạn.
Cả hai mục tiêu, Stephen phấn khích nghĩ, chỉ cách chỗ hắn chưa đầy 30 thước(29).
Người phụ nữ cao tuổi – mẹ đẻ hoặc mẹ chồng – vẫn đứng phía trước Người vợ khi hai người nói chuyện, hai mái đầu cùng cúi xuống.
Khẩu Model 40 ưa thích của Stephen lại nằm trong thùng xe. Nhưng với khoảng cách này hắn cũng không cần đến khẩu súng trường bắn tỉa, chỉ khẩu Beretta nòng dài là đủ. Đó là một khẩu súng tuyệt cú mèo. Cũ rích, sứt sẹo và thô mộc. Khác với nhiều tên lính đánh thuê hoặc sát thủ chuyên nghiệp khác, Stephen không bao giờ tôn sùng vũ khí của mình đến mù quáng. Nếu như hòn đá là cách hiệu quả nhất để thủ tiêu một nạn nhân nào đó, hắn sẽ dùng hòn đá.
Hắn đánh giá khoảng cách đến mục tiêu, ước lượng góc tới của đường đạn, khả năng khúc xạ ánh sáng và làm biến dạng hình ảnh thật của kính cửa sổ. Người phụ nữ cao tuổi tách ra khỏi Người vợ và đứng ngay trước cửa kính.
"Quân nhân, chiến thuật của anh là gì?"
Hắn sẽ bắn xuyên qua cửa kính và bắn trúng đầu bà già. Bà ta sẽ ngã gục ngay. Theo bản năng Người vợ sẽ lao tới bên bà già và cúi người xuống, tự biến mình thành một mục tiêu rất ngon ăn. Người bạn sẽ chạy vào trong phòng và cũng sẽ phơi mình ra trước nòng súng.
Thế còn lũ cớm thì sao?
Kể ra cũng hơi liều lĩnh. Nhưng mấy tên cớm mặc sắc phục tuần tra thường bắn rất tệ và thậm chí có khi chúng còn chưa bao giờ phải nổ súng thực sự trong suốt cả sự nghiệp của mình. Chắc chắn chúng sẽ hoảng sợ.
Sảnh trước của ngôi nhà vẫn trống trơn.
Stephen gạt cần búa của khẩu súng về phía sau để lên đạn và cho phép hắn kiểm soát tay cò chặt chẽ hơn khi chuyển sang sử dụng chế độ bắn từng phát một. Hắn đẩy khẽ cho cánh cửa mở hé ra, thò một bàn chân vào chặn nó lại, quan sát trước và sau con phố.
Không có ai.
"Hít sâu vào, quân nhân. Hít, thở. Hít, thở."
Hắn hạ thấp khẩu súng xuống lòng bàn tay, báng súng tì hẳn vào bàn tay đi găng. Hắn bắt đầu nhẹ nhàng gia tăng áp lực lên cò súng.
"Hít, thở. Hít, thở."
Hắn căng mắt nhìn người phụ nữ cao tuổi và hoàn toàn quên bẵng việc kéo cò, quên cả việc ngắm bắn, quên cả khoản tiền mà hắn kiếm được trong vụ này, quên đi tất cả mọi sự trên đời. Hắn chỉ cần giữ khẩu súng vững vàng như một hòn đá trên bàn tay thả lỏng và mềm dẻo của mình, chờ đến khi khẩu súng tự phát hỏa.
Giờ thứ 1 của 45
CHươNG 5
Bà cụ lau nước mắt. Người vợ đứng phía sau, hai tay khoanh trước ngực.
"Chúng chết rồi, chúng…"
"Quân nhân!"
Đột nhiên Stephen cứng đờ người. Ngón tay trên cò súng bỗng buông lỏng.
Ánh đèn!
Những ánh đèn lia loang loáng, lặng lẽ lia dọc con phố. Những ánh đèn gắn trên nóc một chiếc xe tuần tra của cảnh sát. Rồi thêm hai chiếc xe nữa, và rồi cả tá, một chiếc xe cấp cứu lao phăm phăm qua những ổ gà trên đường. Tất cả ập vào quanh ngôi nhà của Người vợ từ cả hai đầu con phố.
"Cài chốt an toàn súng đi, quân nhân."
Stephen hạ súng xuống, khẽ lùi vào trong gian tiền sảnh lờ mờ tối.
Cảnh sát từ trong những chiếc xe ùa ra như nước chảy. Họ tản ra dọc theo vỉa hè, ánh mắt lia khắp nơi và trên các mái nhà gần đó. Họ đạp tung những cánh cửa dẫn vào ngôi nhà của Người vợ, đập kính vỡ tan tành và lao vào trong.
Năm nhân viên thuộc ESU(30), nai nịt và vũ trang đầy đủ, triển khai dọc lề đường, phong toả rất gọn ghẽ tất cả những vị trí cần
phong toả, những ánh mắt tinh tường mở to đầy cảnh giác, những ngón tay co lại đặt sẵn trên cò những khẩu tiểu liên đen sì. Cảnh sát tuần tra thực ra cũng chỉ là cảnh sát giao thông không hơn không kém, nhưng không thể có lực lượng nào thiện chiến hơn ESU của New York. Người vợ và Người bạn đã biến mất, có lẽ là bị đẩy nằm bẹp xuống sàn nhà. Cả bà già cũng vậy.
Lại thêm cơ man nào là xe ập đến, vây kín đường phố, phong tỏa các vỉa hè xung quanh.
Stephen Kall bắt đầu cảm thấy rùng mình. Nhớp nháp. Mồ hôi rịn ra ở hai lòng bàn tay và hắn phải nắm chặt hai bàn tay lại để vắt hơi ướt ra khỏi găng tay.
"Rút lui ngay, quân nhân…"
Hắn dùng một chiếc tuốc nơ vít để cạy tung ổ khoá trên cửa chính và lách người vào trong, hắn rảo bước thật nhanh nhưng không hề chạy, đầu cúi thấp, hướng thẳng về lối cửa lách dành cho người giúp việc dẫn ra con hẻm. Không một ai trông thấy hắn và hắn lẻn ra ngoài. Chỉ một lát sau hắn đã ở trên Đại lộ Lexinhton, rảo bước theo hướng nam xuyên qua đám đông về phía ga ra ngầm, nơi hắn đã để chiếc xe thùng.
"Nhìn thẳng về phía trước."
"Thưa ngài, lại có vấn đề rồi, thưa ngài."
Ngày càng đông cảnh sát.
Họ đã phong toả Đại lộ Lexinhton từ cách đó ba toà nhà về phía nam và đang thiết lập một vòng vây xung quanh ngôi nhà của Người vợ, chặn các xe lại, theo dõi những khách bộ hành trên đường phố,
lục soát từ cửa nhà này sang nhà khác, chốc chốc lại rọi những chiếc đèn pin dài ngoằng của mình vào dãy xe đậu hai bên đường. Stephen nhìn thấy hai cảnh sát, tay họ lăm lăm đặt sẵn trên báng những khẩu Glock, yêu cầu một người đàn ông bước ra khỏi xe trong khi họ kiểm tra bên dưới một đống chăn trên băng ghế sau. Điều khiến Stephen thấy chột dạ là người đàn ông đó là một người da trắng và cũng trạc tuổi hắn.
Toà nhà nơi hắn đã đậu chiếc xe lại nằm ngay trong vòng vây lục soát của cảnh sát. Hắn không thể lái xe ra ngoài mà không bị chặn lại. Hàng rào cảnh sát mỗi lúc một khép lại gần hơn. Hắn bước nhanh quay lại ga ra và kéo mở cánh cửa chiếc xe thùng. Hắn vội vàng thay quần áo – cởi bỏ vẻ ngoài của một nhà thầu xây dựng, quần jean màu xanh, giày bảo hộ (không có những dấu vết khiến hắn lộ tẩy), một chiếc áo phông màu đen, một chiếc áo gió màu xanh thẫm (không có bất kỳ chữ in nào) và một chiếc mũ lưỡi trai bóng chày (không có biểu tượng của đội nào). Chiếc ba lô màu đen đựng laptop của hắn, mấy cái điện thoại di động, những khẩu súng ngắn mà đạn bổ sung được lấy từ thùng xe ra. Hắn có thêm đạn, cặp ống nhòm, ống kính nhìn đêm, dụng cụ, mấy gói thuốc nổ, và vô số kíp nổ khác nhau. Stephen cho tất cả vào chiếc ba lô lớn.
Khẩu Model 40 được để trong một chiếc hộp đàn guitar bass hiệu Fender. Hắn nhấc hộp đàn ra khỏi thùng xe và đặt nó cùng chiếc ba lô xuống sàn ga ra. Hắn cân nhắc xem phải làm gì với chiếc xe. Stephen chưa hề động chạm vào bất kỳ bộ phận nào trên xe mà không đi găng tay nên trong xe sẽ không có gì có thể làm lộ danh tánh của hắn. Bản thân chiếc Dodge này cũng là xe ăn trộm và hắn đã tháo bỏ tất cả những biển số cũ của chiếc xe. Tự tay hắn đã
làm những biển số giả thay thế. Hắn cũng đã tính đến chuyện sớm muộn cũng vứt bỏ chiếc xe và có thể làm nốt phi vụ mà không cần tới nó. Hắn quyết định bây giờ là lúc phải bỏ nó lại. Hắn trùm lên chiếc Dodge vuông chằn chặn một tấm vải bạt che xe màu xanh hiệu Wolf, rồi chọc mũi dao găm vào lốp xe khiến chúng xì hơi và xẹp xuống, làm ai nhìn qua cũng tưởng chiếc xe đã nằm đây từ vài tháng nay. Hắn rời ga ra bằng thang máy đi lên tòa nhà.
Ra đến ngoài, hắn lại lẻn vào giữa đám đông. Nhưng lúc này chỗ nào cũng có cảnh sát. Da hắn bắt đầu sởn gai ốc. Hắn cảm thấy nhớp nháp, giòi bọ. Hắn bước lại một cột điện thoại công cộng và làm ra vẻ đang gọi điện, đầu hắn cúi xuống bảng kim loại của cột điện thoại, cảm thấy mồ hôi đang túa ra trên trán, bên dưới cánh tay. Suy nghĩ. Chúng ở khắp mọi nơi. Tìm kiếm hắn, chòng chọc nhìn thẳng vào hắn. Từ những chiếc xe. Từ đường phố.
Từ những khung cửa sổ…
Ký ức lại ùa về…
Khuôn mặt trên khung cửa sổ.
Hắn cố hít một hơi thật sâu.
Khuôn mặt trên khung cửa sổ…
Chuyện đó cũng vừa xảy ra gần đây. Stephen được thuê thực hiện một phi vụ tại Washington D.C. Công việc là thủ tiêu một trợ lý nghị sĩ Quốc hội chuyên bán những thông tin mật liên quan đến vũ khí trang thiết bị quân sự cho – theo Stephen đoán – một đối thủ cạnh tranh của kẻ đã thuê Stephen. Điều dễ hiểu là tay trợ lý cũng rất đề phòng và thận trọng, thậm chí anh ta còn có một ngôi nhà an
toàn ở Alexandria, Virginia. Stephen đã biết vị trí ngôi nhà và cuối cùng hắn còn mò đến sát tận nơi, đủ gần cho một phát súng ngắn – mặc dù đó là phát súng đòi hỏi phải đặc biệt thận trọng.
Một cơ hội, một phát súng…
Stephen đã phải chờ suốt bốn tiếng đồng hồ, cho tới khi nạn nhân tới nơi và lao vọt về phía ngôi nhà của anh ta, Stephen đã kịp bắn đúng một phát duy nhất. Hắn tin là mình đã bắn trúng mục tiêu nhưng nạn nhân đã đổ ngã vào một khoảnh sân năm ngoài tầm nhìn của hắn.
"Nghe tôi nói đây, cậu nhóc. Cậu vẫn nghe đấy chứ?" "Thưa ngài, có ạ."
"Cậu phải lần theo tất cả các mục tiêu bị thương và làm nốt công việc. Cậu phải lần theo vết máu và quay lại cho dù nó có dẫn xuống địa ngục chăng nữa, cậu phải làm."
"Nhưng…"
"Không nhưng gì hết. Cậu phải khẳng định chắc chắn con mồi đã chết. Cậu hiểu tôi chứ? Không có lựa chọn khác đâu." "Rõ, thưa ngài."
Và rồi Stephen đã trèo qua bức tường gạch vào khoảng sân nhà tay trợ lý. Hắn tìm thấy xác tay trợ lý nằm sõng soài trên nền đá hộc, bên cạnh một vòi phun nước hình đầu dê. Hóa ra đó đúng là một phát súng chí mạng.
Nhưng điều gì đó quái đản đã xảy ra. Điều gì đó chợt khiến hắn chợt rùng mình mà trên đời này không có nhiều thứ từng khiến hắn rùng mình. Có thể đó chỉ là tình cờ, do cách tay trợ lý gục xuống hoặc do cách viên đạn xuyên trúng anh ta. Nhưng hắn có cảm giác
ai đó đã thận trọng rút vạt áo sơ mi của nạn nhân và vén nó lên để nhìn vết thương nhỏ xíu do viên đạn xuyên vào ngay phía trên xương ức.
Stephen quay ngoắc người, nhìn quanh xem kẻ nào đã làm việc đó. Nhưng, không, xung quanh không có một bóng người.
Hoặc ít ra lúc đầu hắn cũng đã tưởng vậy.
Rồi Stephen vô tình ngước lên nhìn qua bên kia sân. Có một ngôi nhà ngang cũ, những khung cửa sổ nhọ nhem và bẩn thỉu, mặt kính lấp loáng phản chiếu ánh hoàng hôn sắp tắt. Trong một khung cửa sổ như vậy, hắn đã nhìn thấy – hoặc cứ tưởng hắn đã nhìn thấy – một khuôn mặt đang chăm chú theo dõi mình. Hắn không nhìn rõ mặt người đàn ông – hoặc người phụ nữ. Nhưng dù có là ai chăng nữa thì người đó cũng không hề tỏ ra sợ hãi chút nào. Thậm chí kẻ đó còn không hề hụp đầu xuống hoặc tìm cách bỏ chạy.
"Một nhân chứng, anh đã để sổng một nhân chứng, quân nhân!" "Thưa ngài, tôi sẽ triệt tiêu khả năng bị nhận diện ngay lập tức, thưa ngài."
Nhưng khi đạp tung cánh cửa của ngôi nhà ngang, hắn thấy nó hoàn toàn trống trơn.
"Di tản ngay, quân nhân…"
Khuôn mặt trên khung cửa sổ…
Lần đó Stephen đã đứng trong ngôi nhà ngang trống trơn trông thẳng ra khoảng sân nằm trong khuôn viên ngôi nhà của người trợ lý Quốc hội, ánh mặt trời từ phía tây rọi vào những khung kính sáng
rực rỡ. Và hắn cứ đứng tại chỗ mà quay vòng, chậm rãi, như một người quẫn trí.
Kẻ đó là ai? Hắn làm gì trong này? Hay đó chỉ là sự hoang tưởng của Stephen? Giống như cha dượng hắn vẫn nhìn thấy những tay súng bắn tỉa nằm náu mình trong những tổ chim ưng treo vắt vẻo trên ngọn những cây sồi ở West Virginia.
Khuôn mặt trên khung cửa sổ đã nhìn chằm chằm Stephen giống hệt như cha dượng hắn nhiều lúc vẫn nhìn hắn, săm soi, dò xét hắn. Stephen còn nhớ rõ hồi đó thằng nhóc là hắn đã nghĩ: Mình vừa phạm lỗi à? Mình có làm tốt không? Ông ấy đang nghĩ gì về mình nhỉ?
Cuối cùng hắn không thể chờ đợi thêm được nữa và quyết định quay trở lại khách sạn của mình ở Washington.
Stephen đã từng bị bắn, bị đánh và bị đâm bầm dập. Nhưng chưa có gì từng khiến hắn rúng động khủng khiếp như chuyện xảy ra ở Alexandria. Không một lần nào hắn bận tâm tới khuôn mặt của các nạn nhân, dù còn sống hay đã chết. Nhưng khuôn mặt trên khung cửa sổ đó giống như một con giòi đang bò lên chân hắn.
Nhớp nhúa…
Đó chính xác là cảm giác của hắn lúc này, khi nhìn thấy từng hàng cảnh sát đang tiến gần về phía mình từ cả hai hướng trên Đại lộ Lexinhton. Còi xe rú lên inh ỏi, cánh lái xe đang tức giận. Nhưng cảnh sát không hề bận tâm; họ vẫn tiếp tục quy trình lục soát dai dẳng của mình. Chỉ vài phút nữa thôi là họ sẽ để ý đến hắn – một người đàn ông da trắng vạm vỡ, khoác trên lưng một hộp đàn guitar
có thể là nơi cất giấu lý tưởng cho khẩu súng trường bắn tỉa hoàn hảo nhất mà Chúa Trời tạo ra trên Trái Đất này.
Mắt hắn lướt qua những khung cửa sổ tối đen, cáu bẩn trông ra đường phố.
Hắn thầm cầu nguyện sẽ không nhìn thấy một khuôn mặt đang chằm chằm nhìn ra ngoài.
"Quân nhân, anh đang nói cái quái gì vậy?"
"Thưa ngài, tôi…"
"Thám thính đi, quân nhân."
"Rõ, thưa ngài."
Một mùi đăng đắng, cháy khét thoảng bay tới mũi hắn.
Hắn quay người lại và nhận ra hắn đang đướng bên ngoài một quán cà phê Starbucks. Hắn bước vào và trong khi làm như thể đang đọc quyển menu thì kỳ thực hắn đang chăm chú quan sát khách hàng trong quán.
Có một người phụ nữ to béo ngồi một mình tại bàn của cô ta với những chiếc ghế bé tí, vướng víu. Cô ả đang đọc một tờ tạp chí, tay mân mê cốc trà miệng cao. Trông cô ả trạc ba mươi tuổi, béo ục ịch, với một khuôn mặt to bè bè và cái mũi thô kệch. Starbucks, hắn bắt đầu liên tưởng mông lung… Seattle(31)… chẳng lẽ lại là dân lesbian?
Nhưng không, hắn không nghĩ vậy. Cô ả đang mải mê xem tờ Vogue(32) trên tay với ánh mắt ghen tỵ, chứ không có chút gì là thèm khát.
Stephen mua một cốc trà thảo dược thiên nhiên. Hắn xách hộp đàn lên và bắt đầu bước về phía một chiếc bàn gần cửa sổ. Stephen đang bước qua bàn của người phụ nũ thì chiếc cốc bỗng tuột ra khỏi tay hắn và rơi xuống cái ghế ngay trước mặt cô ta, nước trà nóng trong cốc đổ tràn khắp sàn nhà. Cô ả giật bắn mình, nhảy lùi lại và ngẩng lên nhìn vẻ khiếp đảm hiện rõ trên khuôn mặt Stephen.
“Ôi, lạy Chúa tôi”, hắn thì thào, “tôi vô cùng xin lỗi”. Hắn với tay chụp vội một nắm khăn giấy. “Hy vọng là tôi không làm đổ trà lên người cô đấy chứ. Xin lỗi!”
* * * *
Percey Clay giằng ra khỏi người thám tử trẻ tuổi vừa giữ cô nằm bẹp xuống sàn nhà.
Bà Joan Carney, mẹ của Ed, nằm cách đó vài feet, khuôn mặt như chết đờ vì choáng váng và bàng hoàng.
Brit Hale đứng dựa sát vào tường, vây kín quanh anh là hai cảnh sát là hai cảnh sát lực lưỡng. Trông chẳng khác gì họ đang bắt giữ anh vậy.
“Tôi xin lỗi, thưa bà Clay”, một viên cảnh sát nói. “Chúng tôi…”
“Chuyện gì đang xảy ra vậy?” Hale không giấu nổi vẻ hoang mang. Khác với Ed và Ron Talbot, và ngay cả với chính Percey, Hale chưa từng phục vụ trong quân đội, chưa bao giờ phải đối mặt với những tình huống giao tranh. Anh thuộc mẫu người không biết sợ là gì – lúc nào anh cũng mặc áo dài tay thay cho chiếc sơ mi trắng ngắn tay truyền thống của phi công để che đi những vết sẹo bỏng nhằng nhịt trên hai cánh tay có từ sau lần anh trèo vào một
chiếc Cessna 150 đang bốc cháy rừng rực để cứu một phi công và một hành khách mắc kẹt. Nhưng khái niệm tội ác – hành động cố tình gây tổn thương cho người khác – đối với anh lại hoàn toàn xa lạ.
“Chúng tôi vừa nhận được cuộc gọi từ nhóm điều tra hỗn hợp”, viên thám tử giải thích. “Họ cho rằng kẻ giết ông Carney đã quay lại. Có lẽ là hắn bám theo cả hai người. Ông Rhyme nghĩ tên sát thủ chính là kẻ đã lái chiếc xe thùng màu đen mà bà nhìn thấy hôm nay.”
“Hừ, đã có những người kia bảo vệ chúng tôi rồi còn gì?”, Percey cáu kỉnh hất đầu về phía những cảnh sát đã tới từ trước.
“Lạy Chúa”, Hale thốt lên khi nhìn ra bên ngoài. “Ngoài kia chắc phải có đến hai mươi cảnh sát.”
“Xin ông tránh xa cửa sổ ngay lập tức”, viên thám tử ra lệnh một cách dứt khoát. “Hắn có thể đang phục trên một mái nhà nào đó. Khu vực này chưa được bảo đảm an toàn.”
Percey nghe thấy tiếng những bước chân chạy lên cầu thang. “Mái nhà ư?” Cô hỏi với một giọng cay độc. “Có khi hắn đang đào đường hầm dưới móng nhà cũng nên.” Cô quàng tay quanh bà Carney. “Mẹ không sao chứ?”
“Chuyện đang xảy ra là gì vậy, tất cả chuyện này là thế nào?”
“Họ nghĩ rằng có thể mọi người ở đây đang gặp nguy hiểm”, viên cảnh sát nói. “Không phải bà, thưa bà”, anh ta giải thích thêm với mẹ của Ed. “Mà là bà Clay và ông Hale đây. Bởi vì họ là nhân chứng trong vụ án kia. Chúng tôi được lệnh phong tỏa khu vực quanh đây và đưa hai người tới sở chỉ huy.”
“Họ đã nói chuyện với hắn chưa?”, Hale hỏi.
“Không biết ông định nói đến ai, thưa ông?”
Người phi công cao gầy trả lời, “Thì kẻ mà chúng tôi đang làm chứng chống lại chứ còn ai nữa, tay Hansen ấy” Thế giới của Hale là thế giới của khoa học logic. Của những con người suy nghĩ theo lẽ thông thường. Của máy móc, những con số và thủy lực học. Cả ba cuộc hôn nhân của anh đều thất bại bởi vì nơi duy nhất anh dồn cả con tim của mình vào là khoa học hàng không và lý lẽ không thể bác bỏ được của buồng lái. Còn lúc này anh hất những lọn tóc lòa xòa trước trán và nói, “Cứ thẩm vấn hắn đi. Hắn sẽ cho các anh biết tên sát thủ là ai. Chính hắn đã thuê tên kia mà”.
“À, ừm, tôi không nghĩ là mọi chuyện có thể dễ dàng như vậy được.”
Một sĩ quan cảnh sát khác xuất hiện ở ngưỡng cửa. “Đường phố đã an toàn, thưa ngài.”
“Xin vui lòng đi cùng chúng tôi. Cả hai người.”
“Thế còn mẹ của Ed thì sao?”
“Bà có sống trong khu vực này không ạ?”, viên cảnh sát hỏi.
“Không, tôi đang sống cùng em gái tôi”, bà Carney trả lời “Trong khu Saddle River.”
“Chúng tôi sẽ cho xe đưa bà về đó, rồi bố trí một cảnh sát vũ trang của bang New Jersey bảo vệ bên ngoài ngôi nhà. Bà không dính dáng đến vụ này nên tôi dám chắc là không có chuyện gì phải lo lắng cả.”
“Ôi, Percey.”
Hai người phụ nữ ôm chặt lấy nhau. “Mọi chuyện sẽ ổn thôi, mẹ ạ.” Percey cố gắng lắm mới ngăn được những giọt nước mắt chỉ chực trào ra.
“Không, không đâu”, bà cụ thút thít. “Sẽ không bao giờ yên ổn nữa…”
Một viên cảnh sát dẫn bà mẹ ra chiếc xe tuần tra của mình.
Percey đứng nhìn cho đến khi chiếc xe khuất hẳn, rồi quay sang hỏi viên cảnh sát đứng bên cạnh, “Bây giờ chúng ta sẽ đi đâu?”
“Đến gặp Lincoln Rhyme.”
Một viên cảnh sát khác nói, “Chúng ta sẽ bước ra cùng một lúc, mỗi bên sẽ có một cảnh sát bảo vệ các vị. Nhớ cúi thấp đầu xuống và không được ngẩng mặt lên trong bất kỳ tình huống nào. Chúng ta sẽ bước thật nhanh tới chiếc xe thùng thứ hai kia. Các vị thấy rồi chứ? Sau đó hai người nhảy ngay vào trong. Đừng nhìn ra ngoài cửa sổ và nhớ thắt dây an toàn. Chúng ta sẽ lái thật nhanh. Có câu hỏi gì nữa không?”.
Percey vặn mở chiếc chai bẹt và hớp một ngụm whiskey. “Có đấy, Lincoln Rhyme là thằng cha quái nào vậy?”
* * * *
“Cô may cái đó? Tự tay cô làm thật sao?”
“Tôi làm đấy”, người phụ nữ nói, tay vuốt ve lại chiếc áo gi lê thêu may bằng vải jean, cũng giống như chiếc váy xếp nếp mà cô ta
đang mặc, hơi rộng một chút, được tính toán rất cẩn thận nhằm che bớt đi thân hình bồ tượng của mình. Những vết khâu làm hắn nhớ đến những vòng ngấn xung quanh thân một con giòi. Hắn rùng mình, chợt thấy buồn nôn.
Nhưng hắn chỉ mỉm cười và nói, “Ấn tượng thật”. Hắn đã thấm sạch chỗ trà đổ và xin lỗi một cách ngọt ngào như một quý ông lịch lãm mà thỉnh thoảng cha dượng hắn đã thể hiện.
Hắn hỏi cô ta có thấy phiền không nếu hắn ngồi cùng bàn với cô ta.
“À, vâng… không có gì”, cô ta nói và giấu vội tờ Vogue vào chiếc túi vải của mình như thể đó là một tạp chí khiêu dâm.
“Ồ, mà nhân tiện cũng xin tự giới thiệu”, Stephen nói “tôi là Sam Levine”. Mắt cô ả thoáng long lanh khi nghe đến cái họ mà Stephen bịa ra và tin ngay vào cái vẻ bề ngoài đậm chất Aryan của hắn. “Chậc, mọi người vẫn gọi tôi là Sammie”, hắn nói thêm. “Đối với mẹ tôi thì tôi là Samuel nhưng chỉ sau khi tôi đã gây ra chuyện không hay gì đó.” Một tiếng cười khúc khích.
“Tôi sẽ gọi là bạn”, cô ả nói dứt khoát. “Tôi là Sheila Horowitz.”
Hắn liếc nhìn ra phía cửa sổ để tránh phải bắt bàn tay ẩm ướt của cô ta, với năm con giòi béo trắng nhởn.
“Rất vui được gặp cô”, hắn quay mặt lại và nói, bắt đầu nhấm nháp cốc trà mới mà hắn thấy thật tởm lợm. Sheila chợt nhận ra hai móng tay múp míp của cô ta đầy cáu bẩn. Cô ả vội vàng kín đáo cạy lớp ghét bên trong chúng ra.
“Thư thái lắm”, cô ta giải thích. “Tôi nói việc may vá ấy. Tôi có một chiếc máy khâu Singer cũ. Một cái màu đen kiểu cổ ấy. Từ đời bà ngoại tôi để lại.” Cô ả cố vuốt thẳng mớ tóc ngắn ngủn và bóng nhẫy của mình, chắc chắn đang ước ao giá như hôm nay là cái ngày cô ta kịp gội đầu.
“Tôi không biết có cô gái nào còn muốn may vá nữa”, Stephen nói. “Cô bạn gái mà tôi hẹn hò ở trường đại học cũng làm thế. Tự may lấy hầu hết quần áo của cô ấy. Hồi đó tôi thấy thật ấn tượng.”
“À vâng, ở New York này hình như không còn ai, ý tôi là không một ai, may vá gì nữa.” Cô ta cười khẩy một cách khinh thị.
“Hồi xưa mẹ tôi cũng suốt ngày may vá, hết giờ này đến giờ khác”, Stephen nói. “Tất cả các đường kim mũi chỉ đều phải hoàn hảo. Ý tôi là hoàn hảo thực sự. Cứ ba mươi giây mới khâu được một inch.” Điều này là thật. “Tôi vẫn còn giữ một ít quần áo mà bà may. Nghe thật ngớ ngẩn, nhưng tôi giữ chúng lại vì mẹ tôi đã may chúng.” Điều này thì không.
Stephen vẫn còn nghe tiếng chiếc máy khâu Singer chạy xành xạch rồi dừng lại vẳng ra từ căn phòng chật chội và nóng nực của mẹ hắn. Suốt ngày suốt đêm. Chăm lo từng đường kim mũi chỉ. Ba mươi giây một inch. Tại sao chứ? Bởi vì điều đó rất quan trọng! Này thì cái thước này, này thì cái thắt lưng da này, này thì con c…
“Hầu hết cánh đàn ông” – cái cách cô ta nhấn mạnh từ “đàn ông” nói lên rất nhiều điều về cuộc sống của Sheila Horowitz – “chẳng thèm quan tâm tới việc may vá. Họ chỉ thích những cô gái biết chơi thể thao hoặc rành về phim ảnh”. Cô ta vội nói thêm. “Ý tôi là tôi cũng biết những thứ đó chứ. Tôi vẫn trượt tuyết mà. Nhưng có lẽ tôi
không giỏi bằng anh được. Và tôi cũng thích đi xem phim. Một số bộ phim.”
Stephen nói, “Ồ thật ra tôi không biết trượt tuyết. Tôi cũng không thích thể thao lắm”. Hắn nhìn ra bên ngoài và thấy cớm có mặt ở khắp mọi nơi. Sục sạo trong từng chiếc xe. Một đám giòi xanh lè…
"Thưa ngài, tôi không hiểu tại sao chúng lại tiến hành đợt càn quét này, thưa ngài."
"Quân nhân, nhiệm vụ của anh không phải là hiểu. Nhiệm vụ của anh là xâm nhập, đánh giá, đánh lạc hướng, cô lập và tiêu diệt. Đó là nhiệm vụ duy nhất của anh."
“Xin lỗi”, hắn hỏi lại, không để ý đến điều cô vừa nói.
“Tôi đang nói là, ồ, đừng an ủi tôi thế. Ý tôi là chắc tôi phải tập luyện, có lẽ là nhiều tháng mới có được thân hình như anh. Tôi đang định tham gia Câu lạc bộ Quần vợt và Sức khỏe. Thực ra tôi đã có kế hoạch tham gia từ lâu. Chỉ có điều tôi gặp trục trặc với cái lưng của mình. Nhưng thực sự, thực sự là kiểu gì tôi cũng sẽ tham gia.”
Stephen bật cười vui vẻ. “Ôi trời, tôi ngán đến tận cổ – chậc, chậc, tất cả những cô nàng ẽo uột ngày nay. Cô biết đấy! Tất cả đều gầy gò, nhợt nhạt. Cứ thử lấy một cô nàng gầy giơ xương mà cô thấy trên ti vi rồi đưa cô ta quay lại thời của Vua Arthur(33)mà xem, thế nào họ cũng cho triệu quan thái y đến để rồi ông ta sẽ cuống quýt tâu, “Cô ta sắp chết rồi, thưa bệ hạ”.”
Ánh mắt Sheila sáng bừng lên, rồi cô ả phá lên cười ngặt nghẽo, để lộ hàm răng thật thảm hại. Câu chuyện đùa cho cô ả một cái cớ để đặt tay lên tay hắn. Stephen cảm thấy năm con giòi đang ngoe
ngẩy trên da hắn và cố chống chọi với cảm giác buồn nôn. “Bố tôi”, cô ta nói, “ông ấy từng là một sĩ quan quân đội chuyên nghiệp, đi rất nhiều nơi. Ông kể cho tôi nghe là ở những nước khác người ta cho rằng con gái Mỹ quá gầy gò”.
“Ông ấy là một quân nhân sao?”, Sam Sammie Samuel Levine hỏi với một nụ cười.
“Lúc về hưu ông ấy là đại tá.”
“Chà…”
Quá sức chịu đựng sao? Hắn tự hỏi. Không. Hắn nói, “Tôi cũng đang ở trong quân ngũ. Trung sĩ. Lục quân”.
“Không phải đấy chứ! Anh đóng quân ở đâu?”
“Tác chiến Đặc biệt. Ở New Jersey.” Cô à sẽ có đủ hiểu biết để không hỏi thêm bất kỳ điều gì liên quan đến hoạt động Tác chiến Đặc biệt. “Tôi rất mừng khi biết trong gia đình cô cũng có một quân nhân. Nhiều khi tôi không muốn nói cho mọi người biết tôi làm gì. Chẳng có gì hay ho cả. Đặc biệt là ở nơi này. Ý tôi là New York ấy.”
“Ôi, anh bận tâm tới chuyện đó làm gì. Tôi nghĩ đó là một nghề rất hay đấy chứ, anh bạn.” Cô ả hất đầu về phía chiếc hộp đàn Fender. “Anh còn là một nhạc công nữa sao?”
“Cũng không hẳn. Tôi làm việc tình nguyện tại một trung tâm chăm sóc cộng đồng. Dạy nhạc cho bọn trẻ. Nằm trong hoạt động chung của đơn vị.”
Ngoảnh nhìn ra ngoài. Những ánh đèn hiệu loang loáng. Xanh trắng. Một chiếc xe tuần tra của cảnh sát vừa vụt qua.
Cô ả nhích chiếc ghế của mình lại gần hơn và hắn nhận thấy một mùi thật tởm lợm. Hắn lại cảm thấy sởn gai ốc và trong đầu bất giác tưởng tượng ra hình ảnh những con giòi bò lổm ngổm trong mớ tóc nhởn nhơ của cô ta. Suýt nữa thì hắn nôn thốc nôn tháo. Hắn xin lỗi đứng dậy và vào nhà vệ sinh kỳ cọ hai bàn tay mấy phút liền. Khi quay lại hắn nhận ra hai chi tiết: chiếc cúc áo trên cùng của cô ta đã được mở ra và vạt sau chiếc áo len của cô ta dính khoảng một nghìn sợi lông mèo. Lũ mèo, đối với Stephen, cũng chỉ là những con giòi bốn chân.
Hắn nhìn ra ngoài và trông thấy những hàng cảnh sát đang tiến lại gần hơn. Stephen liếc nhìn đồng hồ và nói, “Có lẽ tôi phải qua lấy lại con mèo. Nó đang ở chỗ bác sĩ thú y…”
“Ôi, anh cũng nuôi một con mèo sao? Tên nó là gì?” Cô ả tì hẳn người về phía trước.
“Buddy.”
Mắt cô ta sáng bừng lên. “Ôi, cái tên nghe mới dễ thương làm sao. Anh có ảnh không?”
Của một con mèo chết tiệt ư?
“Tôi không mang theo”, Stephen nói, và tặc lưỡi ra vẻ tiếc nuối. “Anh bạn Buddy tội nghiệp bị ốm à?”
“Chỉ là kiểm tra bình thường thôi.”
“Ôi, thế thì tốt quá. Phải cẩn thận với lũ sán(34).”
“Sao lại thế?”, hắn hỏi, chợt thấy chột dạ.
“Anh biết đấy, ví dụ như sán tim ở mèo chẳng hạn.”
“Ồ, vâng”.
“À, ừm, nếu anh quả là người tốt, anh bạn ạ”, Sheila nói, lại là cái giọng ưỡn ẹo điệu đàng đó, “có lẽ tôi sẽ giới thiệu anh với Garfield, Andrea và Essie. Vâng, đúng ra tên thật phải là Esmeralda nhưng nó chưa bao giờ chấp nhận cái tên đó, tất nhiên rồi”.
“Nghe mới đáng yêu làm sao”, hắn nói, mắt chăm chú nhìn những bức ảnh mà Sheila vừa lấy trong ví ra. “Tôi rất muốn gặp chúng.”
“Anh biết đấy”, cô ả buột miệng. “Tôi sống cách đây có ba khối phố. Trên phố Tám mươi mốt.”
“À, tôi có ý này.” Hắn làm ra vẻ phấn chấn. “Có lẽ tôi sẽ gửi chỗ cô món đồ này rồi tiện thể thăm những cục cưng của cô luôn. Sau đó cô có thể giúp tôi cùng đi đón Buddy.”
“Được thôi”, Sheila nói.
“Chúng ta đi nào.”
Ra đến ngoài, cô ta thốt lên. “Ôi trời, nhìn xem bao nhiêu là cảnh sát kìa. Có chuyện gì thế nhỉ?”
“Chậc, không biết.” Stephen khoác chiếc ba lô lên vai. Có tiếng kim loại gì đó kêu loảng xoảng. Có lẽ một quả lựu đạn va phải khẩu Beretta của hắn.
“Cái gì trong đó vậy?”
“Toàn nhạc cụ ấy mà. Cho bọn trẻ.”
“Ồ, kiểu như phách ba góc ấy à?”
“Đúng rồi, kiểu như phách ba góc.”
“Anh muốn tôi cầm hộ chiếc guitar không?”
“Có phiền cô không?”
“Ồ không, tôi nghĩ sẽ ổn mà.”
Cô ả cầm chiếc hộp đàn Fender và ngoắc cánh tay mình vào tay hắn. Cả hai cùng rảo bước qua một đống cảnh sát, những kẻ mù không để ý gì đến cặp tình nhân, rồi đi thẳng đến cuối phố, cười đùa vui vẻ và nói chuyện về lũ mèo điên rồ.
Giờ thứ 1 của 45
CHươNG 6
Thom hiện ra trên ngưỡng cửa phòng của Lincoln Rhyme và ra hiệu cho ai đó bước vào.
Một người đàn ông dong dỏng, tóc cắt cua, khoảng năm mươi tuổi. Đại úy Bo Haumann, chỉ huy ESU của NYPD – tức đội SWAT(35) của cảnh sát. Tóc hoa râm, khuôn mặt gân guốc, Haumann trông vẫn giống hệt một trung sĩ huấn luyện – cương vị mà anh ta từng đảm nhiệm khi còn trong quân đội. Anh ta nói năng chậm rãi và thấu đáo, và mỗi khi nói chuyện, bao giờ cũng nhìn xoáy vào mắt bạn với một nụ cười thoảng qua trên môi. Trong các đợt thực thi nhiệm vụ chiến thuật anh ta thường mặt áo giáp chống đạn, trùm mặt nạ Nomex và cũng luôn là một trong những sĩ quan đầu tiên lao mình qua cửa trong tình huống có chướng ngại vật.
“Thực sự là hắn sao?”, viên sĩ quan, “Tên Vũ công ấy?” “Chúng ta mới nghe nói vậy”, Sellitto nói.
Một cái khẽ chép miệng phát ra từ người cảnh sát kỳ cựu tóc hoa râm này chẳng khác gì một tiếng thở dài thườn thượt từ người khác. Rồi anh ta lên tiếng, “Tôi có hai đội 32-E luôn sẵn sàng”.
Những sĩ quan 32-E, được đặt biệt danh như vậy theo số căn phòng điều hành tác chiến của họ tại tòa nhà Police Plaza, là một bí mật được nhiều người biết đến. Tên chính thức của họ là Sĩ quan Tình huống Đặc biệt thuộc ESU. Các thành viên của lực lượng này, cả nam lẫn nữ, hầu hết từng tham gia quân đội và kinh qua các
nhiệm vụ trinh sát và do thám đầy khắc nghiệt, chưa kể nhiệm vụ chính là đột kích, bắn tỉa và giải cứu con tin. Thành viên của lực lượng này cũng không có nhiều. Mặc dù thành phố mang tiếng là có tỷ lệ tội phạm cao, trên thực tế ở New York lại có tương đối ít các hoạt động chiến thuật và các chuyên gia đàm phán con tin của thành phố – được đánh giá là những chuyên gia cừ nhất nước Mỹ – thường dùng biện pháp đàm phán kéo dài thời gian trước khi buộc phải huy động lực lượng đột kích. Hai đội mà Haumann cam kết huy động để truy lùng tên Vũ công, với khoảng mười người, coi như đã chiếm hầu hết lực lượng 32-E.
Lát sau một người đàn ông gầy gò và bắt đầu hói đeo cặp kính cực kỳ lỗi mốt bước vào phòng. Mel Cooper là chuyên viên khoa học hình sự giỏi nhất của IRD(36) mà Rhyme từng lãnh đạo. Mel Cooper chưa bao giờ trực tiếp kiểm tra một hiện trường vụ án, chưa từng bắt giữ một tên hung thủ và có lẽ cũng đã quên cả cách sử dụng khẩu súng ngắn bé tí mà anh miễn cưỡng đeo phía sau chiếc thắt lưng da cũ kỹ của mình. Cooper hoàn toàn không ham hố đến bất kỳ nơi nào trên thế giới ngoài việc ngồi lỳ trên chiếc ghế trong phòng thí nghiệm, căng mắt nhìn vào ống kính hiển vi và phân tích những dấu vân tay rời rạc (vâng, đúng ra là anh chỉ thích ở trong phòng thí nghiệm và trên sàn khiêu vũ cổ điển, nơi anh cũng là một vũ công tango từng giật giải).
“Thám tử”, Cooper lên tiếng, vẫn sử dụng cái chức vụ mà Rhyme từng nắm giữ khi anh kéo Cooper từ Sở Cảnh sát Albany về làm cho mình cách đây vài năm, “cứ đinh ninh tôi sắp phải phân tích các mẫu cát. Nhưng giờ thì nghe nói đó là tên Vũ công”. Có một nơi duy nhất mà thông tin lan truyền nhanh hơn cả trên đường phố, Rhyme nghĩ