🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vô Tri
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Vô Tri
Tác giả: Milan Kundera
Nguyên tác: L'ignorance
Công ty phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn Kích thước: 12x20 cm
Dịch giả: Cao Việt Dũng
Số trang: 212
Ngày xuất bản: 05/2010
Giá bìa: 40.000đ
***
Thực hiện ebook: tamchec Ngày hoàn thành: 03/05/2014 Nguồn: http://tve-4u.org
https://thuviensach.vn
1
“Cậu vẫn còn ở đây được cơ à?” Giọng cô không độc ác, nhưng cũng không hề thân thiện, Sylvie đang bực bội.
“Thế tớ phải ở đâu?” Irena hỏi.
“Nhà cậu!”
“Cậu muốn nói là tớ đang không ở nhà tớ?”
Tất nhiên, cô không muốn đuổi bạn ra khỏi nước Pháp, cũng không muốn làm bạn nghĩ rằng mình là một kẻ ngoại cuộc không được mong đợi ở đây: “Cậu biết thừa tớ muốn nói gì!”
“Phải, tớ biết, nhưng cậu quên mất là ở đây tớ còn có công việc? có căn hộ của tớ? có các con của tớ?
“Nghe này, tớ biết Gustaf mà. Anh ấy sẽ làm mọi thứ để cậu có thể về nước. Còn mấy đứa con gái nhà cậu ấy hả, thôi đừng xạo nữa đi! Chúng đã có cuộc sống riêng rồi! Chúa ơi, Irena, những gì diễn ra tại nước cậu thật là quyến rũ hết sức! Trong hoàn cảnh như thế chuyện gì cũng có thể dàn xếp được tuốt.”
“Nhưng này, Sylvie! Đó mới chỉ là những điều thực tiễn, công việc, căn hộ. Tớ sống ở đây được hai mươi năm rồi. Cuộc đời tớ là ở đây!” “Ở chỗ các cậu đang có cách mạng cơ mà!” Cô dùng cái giọng không chấp nhận sự phản đối nào hết. Rồi cô im lặng. Qua sự im lặng đó, cô muốn nói với Irena rằng không được phép lãng tránh khi sự kiện vĩ đại đang diễn ra.
“Nhưng nếu tớ về nước, chúng ta sẽ không còn gặp nhau nữa”, Irena nói, với mục đích làm cô bạn cảm thấy bối rối.
Sự lừa mị đánh vào tình cảm ấy chẳng ăn thua gì. Giọng Sylvie trở nên nồng ấm: “Bạn thân mến ơi, tớ sẽ đến gặp cậu! Hứa đấy, hứa đấy!” Họ ngồi đối diện nhau trước hai tách cà phê rỗng không đã từ khá lâu. Irena nhìn thấy những giọt nước mắt đầy xúc cảm trong mắt Sylvie, giờ đây
https://thuviensach.vn
đang cúi người chồm sang phía cô và nắm lấy tay cô: “Đó sẽ là cuộc trở về vĩ đại của cậu.” Và một lần nữa: “Cuộc trở về vĩ đại của cậu.” Được nhắc lại, những từ ấy mang một sức mạnh lớn đến mức, trong thâm tâm, Irena nhìn thấy chúng được viết ra bằng chữ in hoa: Cuộc Trở Về Vĩ Đại. Cô không cố cưỡng lại nữa: cô bị mê hoặc bởi các hình ảnh đột nhiên hiện lên từ những cuốn sách đọc từ xưa, những bộ phim, từ ký ức của chính cô và có lẽ cả ký ức của tổ tiên cô nữa: đứa con trai lưu lạc trở về nhà với bà mẹ già; người đàn ông trở về với người vợ thân yêu, mà số phận tàn độc ngày xưa từng buộc anh rời bỏ; ngôi nhà tuổi thơ mà ai cũng mang trong lòng; lối đi nhỏ tìm thấy lại, nơi còn in dấu những bước chân nhỏ; Ulysee nhìn thấy lại hòn đảo của mình sau những năm lang thang; cuộc trở về, cuộc trở về, sự màu nhiệm của cuộc trở về.
https://thuviensach.vn
2
Cuộc trở về trong tiếng Hy Lạp là nostos. Algos thì có nghĩa đau đớn. Như vậy hoài nhớ là nỗi đau đớn gây ra bởi ham muốn trở về không được thỏa mãn. Để chỉ khái niệm nền tảng này, phần lớn người Âu châu có thể sử dụng một từ gốc Hy Lạp (nostalgie, nostalgia) rồi lại có những từ khác lấy gốc rễ trong ngôn ngữ dân tộc, añoranza, người Tây Ban Nha nói vậy; saudade, người Bồ Đào Nha nói vậy. Trong mỗi thứ tiếng, các từ này lại mang một sắc thái ngữ nghĩa khác nhau. Thường thì chúng chỉ diễn đạt nỗi buồn gây ra bởi nỗi trở về quê hương bất khả. Nhớ quê. Nhớ nhà. Cái trong tiếng Anh gọi là: homesickness. Hoặc trong tiếng Đức: Heimweh. Trong tiếng Hà Lan: beimwee. Nhưng những từ ấy rút ngắn cái khái niệm lớn lao này xuống chỉ còn khía cạnh không gian. Một trong những ngôn ngữ cổ nhất của Âu châu, tiếng Iceland, phân biệt rõ hai ý niệm: Söknuður, hoài nhớ ở nghĩa rộng; và beimfra: nhớ nhà. Người Séc, ngoài từ hoài nhớ lấy lại từ tiếng Hy Lạp, còn có danh từ riêng của mình, stesk, và động từ riêng của mình; câu tình tự xúc động nhất trong tiếng Séc: stýská se mi po tobě: anh hoài em; anh không thể chịu đựng nỗi đau khổ vì vắng em. Trong tiếng Tây Ban Nha, añoranza phát xuất từ động từ añorar (cảm thấy hoài nhớ), từ này lại phát xuất từ enyorar trong tiếng Catalan, một phát sinh của từ Latinh ignorate (bất tri). Dưới ánh sáng của từ nguyên học, hoài nhớ trông như thể là sự đau đớn của vô tri. Em ở xa, anh không biết em đã ra sao. Quê tôi xa quá, tôi không biết chuyện gì đang xảy ra ở đó. Một số ngôn ngữ gặp khó khăn với nỗi hoài nhớ: người Pháp chỉ có thể diễn đạt nó bằng cái danh từ có nguồn gốc Hy Lạp chứ không có động từ; họ có thể nói: anh nhớ em nhưng nhớ là một từ quá yếu, quá lạnh lẽo, dù thế nào thì cũng là: quá nhẹ cho một cảm giác nghiêm trọng đến chừng đó. Người Đức hiếm khi dùng từ hoài nhớ ở dạng Hy Lạp của nó mà thích dùng từ Sehnsucht hơn: ham muốn những cái gì vắng mặt; nhưng Sehnsucht cũng có thể nhằm tới những gì đã có cũng như những gì chưa từng bao giờ có (một cuộc phiêu lưu mới) và do vậy không nhất thiết hàm ý một nostos, để gộp vào trong Sehnsucht nỗi
https://thuviensach.vn
hoang mang cuộc trở về, cần phải thêm vào một bổ ngữ: Sehnsucht nach der Vergangenheit, nach der verlorenen Kindheit, nach der ersten Liebe (ham muốn về quá khứ, về tuổi thơ đã mất, về tình đầu).
Vào bình minh của nền văn hóa cổ đại Hy Lạp Odyssée đã ra đời, thiên sử thi nền móng của nỗi hoài nhớ. Chúng ta hãy nhấn mạnh điều này: Ulysee, nhà phiêu lưu vĩ đại nhất mọi thời đại, cũng là con người hoài nhớ vĩ đại nhất. Chàng đi chiến trận (không chút vui thú) ở Troie nơi chàng ở lại suốt mười năm. Rồi chàng vội vã quay trở về Ithaque quê hương nhưng các âm mưu của thần linh đã kéo dài hành trình của chàng thoạt tiên là ba năm đầy ắp những sự kiện hoang đường nhất, rồi tiếp đó là bảy năm khác làm con tin và người tình ở chỗ nữ thần Calypso, người đem lòng yêu chàng và không chịu để cho chàng rời khỏi hòn đảo của nàng.
Ở chương thứ năm của Odyssée, Ulysse nói với nàng: “Dù cho nàng ấy có khôn ngoan đến đâu, thì ta biết rằng ở bên cạnh nàng, Pénélope cũng sẽ chẳng một chút diễm lệ cũng không quyến rũ… Thế nhưng điều mong mỏi duy nhất ngày ngày của ta là trở về nơi ấy, nhìn thấy nhà của ta vào cái ngày ta trở về!” Và Homère tiếp tục: “Trong khi Ulysse nói, mặt trời xuống núi; hoàng hôn buông xuống: dưới vòm cửa hang, tận sâu trong cùng, họ trở về để ở trong vòng tay nhau mà yêu nhau.”
Không có chút nào khả dĩ so sánh được với cuộc đời người nhập cư nghèo khổ từng đeo đẳng Irena trong một quãng thời gian rất dài. Ulysse có ở chỗ Calypso một dolce vita đích thực, một cuộc sống dễ chịu, cuộc sống của những niềm vui. Thế nhưng, giữa dolce vita ở nước ngoài và cuộc trở về nhà đầy rủi ro, chàng đã chọn cuộc trở về. Chàng đã thích tôn sùng cái biết (cuộc trở về) hơn là sự khám phá đầy say mê cái không biết (cuộc phiêu lưu). Chàng đã thích cái hữu hạn (bởi cuộc trở về cũng chính là hòa giải với tính chất hữu hạn của cuộc đời) hơn là cái vô hạn (bởi cuộc phiêu lưu không bao giờ có chiều hướng kết thúc).
Vẫn để yên cho chàng ngủ, các thủy thủ Phéacie đặt Ulysse quấn người trong chăn lên bờ biển Ithaque, dưới gốc một cây ô liu, rồi bỏ đi. Đó là kết thúc của chuyến đi. Chàng kiệt sức nằm đó ngủ. Khi tỉnh dậy, chàng không biết là mình đang ở đâu. Rồi Athéna vén sương mù khỏi mắt chàng và tiếp
https://thuviensach.vn
đó là cơn say; cơn say của Cuộc Trở Về Vĩ Đại; nỗi phấn khích của cái đã biết; thứ nhạc làm run rẩy làn không khí giữa đất và trời: chàng nhìn thấy cái vùng biển mà chàng biết rõ từ tấm bé, ngọn núi nằm kề bên, và chàng vuốt ve thân cây ô liu để chắc chắn rằng nó vẫn giống y như hai mươi năm trước.
Năm 1950, Arnold Schönberg ở Mỹ đã được mười bảy năm, một nhà báo đặt cho ông vài câu hỏi ngây thơ đến phản trắc: liệu có đúng là việc xuất cư làm nghệ sĩ đánh mất đi sức sáng tạo của mình? rằng cảm hững của họ khô cạn đi ngay khi những cái rễ của quê hương ngừng cung cấp dưỡng chất cho họ?
Bạn thử tưởng tượng mà xem! Năm năm sau Lò thiêu! Và một nhà báo không chịu tha thứ cho Schönberg vì thiếu gắn bó với cái rẻo đất ấy, nơi, ngay trước mắt ông, nỗi hãi hùng ghê gớm đã bùng lên! Nhưng làm gì được bây giờ. Homère ngợi ca niềm hoài nhớ bằng một vòng nguyệt quế và bằng cách ấy mà thiết lập một thang bậc tình cảm xét từ luân lý. Pénélope ở trên đỉnh chóp, cao hơn rất nhiều so với Calypso.
Calypso, ôi Calypso! Tôi thường xuyên nghĩ đến nàng. Nàng đã yêu Ulysse. Họ đã sống với nhau bảy năm. Chúng ta không biết Ulysee ngủ chung giường với Pénélope trong bao lâu, nhưng chắc chắn là không thể lâu bằng như vậy. Thế mà người ta lại ca ngợi sự đau khổ của Pénélope và chế nhạo những giọt nước mắt của Calypso.
https://thuviensach.vn
3
Như những nhát rìu, những ngày tháng vĩ đại chém từng nhát thật sâu lên thế kỷ hai mươi của châu Âu. Thế chiến thứ nhất, thứ hai, rồi thứ ba, dài nhất, được định danh là lạnh, kết thúc năm 1989 với sự tan vỡ của chủ nghĩa cộng sản. Ngoài những ngày tháng lớn lao liên quan tới toàn thể châu Âu, những ngày tháng có tầm quan trọng thấp hơn quyết định số phận của từng quốc gia: năm 1936, nội chiến Tây Ban Nha; năm 1956, cuộc xâm lăng Hungari của nga; năm 1948, khi người Nam Tư nổi dậy chống lại Staline và năm 1991, khi tất cả họ xông vào chém giết lẫn nhau. Người
Scandinavia, người Hà Lan, người Anh được hưởng sự ưu tiên không biết đến ngày tháng quan trọng nào sau năm 1945, điều này cho phép họ sống nửa thế kỷ trống trơn đến tuyệt diệu.
Lịch sử của người Séc, trong thế kỷ này, được phú cho một vẻ đẹp toán học đáng kể nhờ vào sự lặp lại ba lần của con số hai mươi. Năm 1918, sau nhiều thế kỷ, họ giành được độc lập và, năm 1938, đánh mất nó.
Năm 1948, được nhập khẩu từ Matxcơva, cuộc cách mạng cộng sản mở màn cho quãng hai mươi năm thứ hai, khoảng thời gian sẽ kết thúc vào năm 1968 khi người Nga, tức tối chứng kiến cuộc tự giải phóng của họ, đổ nửa triệu lính vào đất nước.
Chính quyền chiếm đóng thiết lập được quyền lực toàn bộ vào mùa thu 1969 và ra đi, khi mà không ai chờ đợi, vào mùa thu 1989, một cách nhẹ nhàng, một cách lịch thiệp, giống như cách của tất cả các chế độ cộng sản khác của châu Âu khi ấy: quãng thời gian hai mươi năm thứ ba.
Chỉ có trong thế kỷ của chúng ta những ngày tháng lịch sử mới chụp lấy cuộc đời của mỗi con người theo cách ngốn ngấu như thế. Không thể hiểu được sự tồn tại của Irena ở Pháp nếu trước đó không phân tích các ngày tháng, một người nhập cư từ các nước cộng sản ít được yêu mến tại đó; hồi ấy người Pháp coi chủ nghĩa phát xít mới là cái ác thực thụ duy nhất: Hitler, Mussolini, Tây Ban Nha của Franco, các nền độc tài Mỹ Latinh. Chính vào giai đoạn đó, năm 1969, Irena và chồng chuyển đến sống ở Pháp. Họ nhanh
https://thuviensach.vn
chóng hiểu ra rằng so với cái ác số một đó, thảm họa rơi xuống đất nước họ quá ít máu đổ để có thể gây ấn tượng lên những người bạn mới. Để tự biện minh, họ thường nói đại loại như thế này:
“Dẫu cho khủng khiếp đến thế nào, một chế độ độc tài phát xít cũng sẽ biến mất cùng với nhà độc tài của nó, thành thử người ta vẫn còn có thể giữ được niềm hy vọng. Trong khi đó, chủ nghĩa cộng sản, dựa vào nền văn minh Nga rộng lớn, là một đường hầm chưa thấy lối ra với một Ba Lan, một Hungari (thôi đừng nói về Estonia!). Các nhà độc tài thì có thể chết, còn nước Nga thì vĩnh cửu. Bất hạnh của những đất nước của chúng tôi nằm ở đó.”
Những câu nói này diễn đạt được chính xác suy nghĩ của họ và Irena, để minh họa cho suy nghĩ đó, trích bốn câu thơ của Jan Skacel, nhà thơ Séc lừng danh thời ấy: ông nói đến nỗi buồn vây bủa ông; nỗi buồn đó, ông muốn nhấc nó lên, mang nó đi thật xa, dùng nó dựng lên một ngôi nhà, ông muốn tự nhốt mình trong đó ba trăm năm và suốt ba trăm năm ấy không mở cửa, không mở cửa cho ai hết!
Ba trăm năm? Skacel đã viết những câu thơ ấy trong những năm bảy mươi và chết vào năm 1989, mùa thu, vài ngày trước khi ba trăm năm buồn bã mà ông từng nhìn thấy trước mặt mình tan biến trong vài ngày: người đổ ra đầy phố phường Praha và những chùm chìa khóa trong những bàn tay giơ lên cao của họ gióng hồi chuông báo thời đại mới đã tới.
Skacel nhầm lẫn khi nói tới ba trăm năm chăng? Tất nhiên rồi. Mọi dự đoán đều nhầm lẫn, đó là một trong những điều chắc chắn hiếm hoi mà con người có được. Nhưng nếu nhầm lẫn thì chúng vẫn nói đúng về những người phát biểu chúng, không phải về tương lai của họ mà về thời hiện tại của họ. Trong cái mà tôi gọi là quãng hai mươi năm đầu tiên (từ 1918 đến 1938), người Séc đã nghĩ rằng nền Cộng hòa của họ có cả một vô hạn trước mặt. Họ nhầm lẫn nhưng, chính bởi vì nhầm lẫn, họ đã sống qua những năm đó trong một niềm vui làm nở rộ các nghệ thuật của mình, như chưa từng bao giờ như thế.
Sau cuộc xâm chiếm của Nga, không có chút ý tưởng nào về sự kết thúc về sau này, họ lại tưởng tượng mình đang sống trong một vô hạn và không
https://thuviensach.vn
phải sự đau đớn của cuộc sống thực mà chính sự trống rỗng của tương lai đã rút kiệt sức lực của họ, giết chết lòng can đảm của họ, và khiến cho quãng hai mươi năm này trở nên đớn hèn, khốn khổ đến như vậy.
Nghĩ rằng mình đã mở ra, với thứ mỹ học mười hai âm của mình, những triển vọng xa xăm cho lịch sử âm nhạc, Arnold Schönberg tuyên bố vào năm 1921 rằng, nhờ có ông, sự thống trị (ông không nói “vinh quang” mà nói “Vorherrschaft”, “sự thống trị”) của âm nhạc Đức (ông, một người Viên, ông không nói âm nhạc “Áo”, mà nói “Đức”) sẽ được đảm bảo cho một trăm năm mới (tôi trích hết sức chính xác, ông nói “một trăm năm”). Mười hai năm sau lời tiên tri đó, năm 1933, vì là Do Thái ông rơi vào cảnh biệt xứ khỏi nước Đức (chính là đất nước ông muốn đảm bảo cho cái “Vorherrschaft”), và cùng với ông, toàn bộ thứ âm nhạc được xây dựng trên cái mỹ học mười hai âm của ông (bị buộc tội là tối tăm, đặc tuyển, pha tạp và vi phạm tinh thần Đức).
Lời tiên đoán của Schönberg, dù có nhầm lẫn đến đâu, vẫn hết sức quan trọng với bất kỳ ai muốn hiểu ý nghĩa tác phẩm của ông, cái tác phẩm tự cho là không mang tính phá hoại, khép kín, pha tạp, cá nhân chủ nghĩa, khó nghe, trừu tượng, mà cắm rễ rất sâu vào “mảnh đất Đức” (đúng, ông nói tới “mảnh đất Đức”); Schönberg tin rằng mình đang viết không phải một phần kết đầy quyến rũ cho lịch sử của nền âm nhạc lớn châu Âu (đó chính là cách tôi muốn dùng để hiểu tác phẩm của ông) mà là lời phi lộ cho một tương lai rạng ngời đang trải ra đến ngút tầm mắt.
https://thuviensach.vn
4
Ngay những tuần đầu tiên sau khi nhập cư xong, Irena có những giấc mơ kỳ lạ; cô ở trong một cái máy bay đang đổi hướng và đổ xuống một sân bay xa lạ; những người mặc đồng phục, mang súng, đợi sẵn cô ở chân cầu thang; một giọt mồ hôi lạnh trên trán, cô nhận ra cảnh sát Séc. Một lần khác, cô lang thang trong một thành phố nhỏ ở Pháp thì nhìn thấy một nhóm đàn bà kỳ cục, mỗi người cầm trên tay một cốc bia, chạy về phía cô, chào cô bằng tiếng Séc, cười theo lối lịch sự đầy cạm bẫy, và, hoảng sợ, Irena nhận ra mình đang ở Praha, cô hét lên, và tỉnh dậy.
Martin, chồng cô, cũng có những giấc mơ đó. Sáng nào họ cũng kể cho nhau nỗi hãi hùng của cuộc trở lại quê hương. Rồi, trong một lần nói chuyện với một cô bạn Ba Lan, cũng là dân nhập cư, Irena nhận ra rằng tất cả những người nhập cư đều có những giấc mơ ấy, tất cả, không ngoại lệ; thoạt tiên cô cảm động vì thứ tình thân ban đêm của những con người không quen biết nhau, rồi sau đó thấy hơi bực bội: làm thế nào mà cái trải nghiệm riêng tư đến vậy về một giấc mơ lại có thể trở thành một thứ tài sản chung được? Vậy thì cái tâm hồn riêng có của cô là gì? Nhưng những câu hỏi không lời giải đáp đó chẳng hề có ích lợi. Một điều chắc chắn: hàng nghìn người nhập cư, trong cùng một đêm, với vô số biến thể, cùng mơ một giấc mơ. Giấc mơ nhập cư: một trong những hiện tượng kỳ lạ nhất của nửa thế kỷ sau thế kỷ hai mươi.
Những giấc mơ – ác mộng đó với cô lại càng thêm phần bí hiểm vì cùng lúc cô phải chịu đựng một nỗi hoài nhớ bất kham và một trải nghiệm khác hoàn toàn trái ngược: ban ngày, những cảnh trí của đất nước cô hiện ra. Không, đó không phải là một cơn mơ mộng, dài và có ý thức, được mong muốn, mà là một thứ khác hẳn: những cảnh trí hiện ra ấy cháy bùng trong đầu cô, đầy bất ngờ, đột ngột, nhanh chóng, và ngay lập tức tắt biến đi. Cô đang nói chuyện với sếp thì bỗng nhiên, như một tia chớp, cô nhìn thấy một con đường chạy ngang qua cánh đồng. Cô bị xô đẩy trong toa tàu điện ngầm và, đột ngột, một lối đi nhỏ trong một khu phố đầy cây xanh của
https://thuviensach.vn
Praha hiện ra trong khoảnh khắc. Cả ngày, những hình ảnh thoáng qua ấy đến thăm cô để làm nguôi ngoai nỗi nhớ hướng về xứ Bohême đánh mất của cô.
Vẫn nhà điện ảnh của tiềm thức đó, ban ngày, gửi đến cho cô những mảnh cảnh trí quê hương giống như các hình ảnh của hạnh phúc tổ chức, vào ban đêm, những cuộc trở về đầy hãi hùng, cũng vẫn đất nước ấy. Ngày được soi chiếu bằng vẻ đẹp của đất nước bị bỏ rơi, đêm bởi nỗi kinh hoàng phải quay lại đó. Ngày chỉ cho cô thấy thiên đường mà cô đã đánh mất, đêm là địa ngục mà cô đã trốn chạy.
https://thuviensach.vn
5
Trung thành với truyền thống của cuộc Cách mạng Pháp, các Nhà nước cộng sản đã phạt vạ tuyệt thông đối với hành động xuất cư, nó bị coi như là sự phản bội xấu xa nhất. Tất cả những ai ở lại nước ngoài đều bị kết án vắng mặt tại đất nước của họ và những người đồng bào không dám giữ liên lạc với họ. Tuy thế, khi thời gian trôi đi, sự nghiêm khắc của lệnh phạt vạ tuyệt thông yếu dần, và, vài năm trước 1989, mẹ Irena, mới góa chồng, một người đã nghỉ hưu vô hại, lấy được visa để sang Ý một tuần, qua một hãng du lịch của Nhà nước; năm sau đó, bà quyết định ở lại Paris năm ngày và bí mật gặp con gái. Cảm động, đầy niềm xót thương với một người mẹ mà cô hình dung là đã già đi, Irena đặt cho bà một phòng khách sạn và hy sinh một phần số ngày nghỉ phép của mình để có thể lúc nào cũng được ở bên cạnh mẹ.
“Trông con cũng không đến nỗi nào”, mẹ cô nói khi hai người gặp nhau. Rồi, bà vừa cười vừa nói thêm: “Mẹ cũng biết thế thôi. Khi viên cảnh sát ở cửa khẩu nhìn hộ chiếu của mẹ, hắn ta nói: đây là hộ chiếu giả, thưa bà! Đây không phải là ngày tháng năm sinh đúng của bà!” Ngay lập tức, Irena tìm thấy lại mẹ mình như cô vẫn luôn luôn biết và có cảm giác chưa có gì thay đổi sau quãng thời gian gần hai mươi năm đó. Sự thương xót dành cho một bà mẹ già nua tan biến. Đứa con gái và bà mẹ đối diện với nhau như hai con người bên ngoài thời gian, như hai bản chất phi thời gian.
Nhưng việc một đứa con gái không thấy thích thú với sự có mặt của bà mẹ đến gặp cô sau mười bảy năm lại không phải là rất tệ hại hay sao? Irena huy động toàn bộ lý trí của mình, toàn bộ ý thức đạo đức của mình, để cư xử như một đứa con gái tận tâm. Cô dẫn bà đến ăn tối ở quán ăn trên tháp Eiffel; cô mua vé đi tàu trên sông Seine để giới thiệu Paris cho bà; và vì mẹ cô muốn đi xem tranh, cô cùng bà đến bảo tàng Picasso. Trong căn phòng thứ hai, bà mẹ dừng bước chân: “Mẹ có một bà bạn là họa sĩ. Bà ấy tặng mẹ hai bức tranh. Con không thể tưởng tượng được chúng đẹp đến thế nào đâu!” Trong phòng thứ ba, bà nói muốn xem tranh của các họa sĩ chủ nghĩa
https://thuviensach.vn
ấn tượng: “Ở Jeu de Paume có một trưng bày thường xuyên. – Không còn nữa đâu, Irena nói, các họa sĩ chủ nghĩa ấn tượng không còn ở Jeu de Paume nữa. – Còn chứ, còn chứ, bà mẹ nói. Họ ở Jeu de Paume. Mẹ biết điều đó, và mẹ sẽ không rời Paris mà không được xem Van Gogh đâu!” Thay vì Van Gogh, Irena đưa bà đến bảo tàng Rodin. Đứng trước một trong những bức tượng của ông, bà mẹ thở dài, vẻ mơ mộng: “Ở Florence, mẹ đã nhìn thấy David của Michel-Ange! Mẹ đứng đó mất hết cả hồn vía luôn! – Nghe này mẹ, Irena không chịu nỗi nữa, mẹ đang ở Paris với con, con đang cho mẹ đi xem Rodin. Rodin! Mẹ nghe rõ chưa, Rodin! Mẹ chưa bao giờ xem tác phẩm của ông ấy, tại sao đứng trước Rodin mẹ lại nghĩ tới Michel Ange?”
Câu hỏi rất đúng: tại sao bà mẹ, khi gặp lại con gái sau chừng ấy năm, lại không quan tâm đến những gì cô đưa đi xem và nói cho? Tại sao Michel Ange, mà bà đã nhìn thấy cùng một nhóm khách du lịch Séc, lại cuốn hút bà hơn là Rodin? Và tại sao, trong suốt năm ngày ấy, bà không hỏi con gái điều gì cả? Không câu hỏi nào về cuộc đời cô, và cũng không câu hỏi nào về nước Pháp, về văn minh, văn chương, pho mát, rượu vang, chính trị, nhà hát, phim ảnh, ôtô, nghệ sĩ piano, nghệ sĩ violon, cầu thủ bóng đá của nó?
Thay vì vậy, bà không ngừng nói về những gì diễn ra tại Praha, về người em khác cha của Irena (mà bà có cùng người chồng thứ hai, mới qua đời ít lâu), về những người khác mà Irena còn nhớ và cả những người cô chưa từng nghe tên. Hai hay ba lần gì đó cô đã thử nói chút ít về cuộc sống ở Pháp của mình nhưng những từ ấy không vượt qua được thanh barie không biết chao đảo những lời nói của bà mẹ.
Vẫn như thế từ khi cô còn nhỏ: trong khi bà mẹ dịu dàng chăm sóc đứa con trai, coi nó như một đứa bé gái, thì bà lại đối xử với con gái theo lối rèn giũa kiểu Sparte đầy nam tính. Tôi muốn nói là bà không yêu cô? Có thể là mọi chuyện bắt nguồn từ khi bố Irena, người chồng đầu tiên mà bà khinh miệt, chăng? Chúng ta nên tránh cái lối tâm lý học rẻ tiền ấy, thái độ của bà có tính ý hướng hơn nhiều: tràn đầy năng lượng và sức khỏe, bà lo lắng vì tình trạng thiếu sức sống ở cô con gái; bằng những cung cách hà khắc của mình, bà muốn cô trút bỏ sự nhạy cảm thái quá, gần giống như cách một
https://thuviensach.vn
người cha đầy chất xì-po ném thẳng đứa con trai rụt rè của mình xuống bể bơi, tin rằng đó là cách tốt nhất để dạy nó biết bơi.
Tuy nhiên, bà cũng biết rõ rằng chỉ riêng sự có mặt của mình đã nghiền nát cô con gái và tôi không muốn chối rằng bà mẹ cảm thấy một khoái cảm ngấm ngầm về ưu thế vượt trội của sức mạnh ở mình. Nhưng thế thì sao? Bà phải làm gì đây? Tan biến nhân danh tình mẫu tử ư? Tuổi tác của bà lấn tới một cách phũ phàng và ý thức về sức mạnh, như nó phản chiếu trong phản ứng của Irena, làm bà trẻ lại. Khi có cô ở bên cạnh, thấy được là cô bị áp chế và thu nhỏ lại, bà kéo dài hết mức có thể những khoảnh khắc vượt trội của mình. Với một cơn hưng phấn thuộc dạng bạo dâm, bà vờ coi rằng sự yếu đuối của Irena là biểu hiện của thái độ bàng quan, sự lười biếng, tính hỗn xược, và quở trách điều đó.
Bao giờ cũng vậy, khi có bà ở cùng, tức thì Irena cảm thấy mình kém xinh đẹp và kém thông minh hơn. Đã bao nhiêu lần cô chạy đến trước gương để chắc chắn rằng mình không xấu xí, rằng mình không có vẻ gì của một con ngốc… A, tất cả những cái đó đã xa xôi lắm rồi, gần như bị quên lãng. Nhưng trong năm ngày bà mẹ ở Paris, cảm giác thua kém, yếu ớt, phụ thuộc lại trùm lên con người cô.
https://thuviensach.vn
6
Hôm trước ngày bà đi, Irena giới thiệu Gustaf, người bạn trai Thụy Điển, với bà. Họ ăn tối tại một quán ăn, và bà mẹ vốn không biết từ tiếng Pháp nào đã anh dũng sử dụng tiếng Anh. Gustaf sung sướng vì điều đó: với người tình của mình, anh chỉ nói tiếng Pháp và cảm thấy mệt mỏi với thứ tiếng mà anh cho là khiên cưỡng và không mấy tiện lợi ấy. Tối hôm đó, Irena không mở miệng nhiều: kinh ngạc, cô quan sát bà mẹ đang chứng tỏ một khả năng không thể ngờ tới về biết quan tâm tới người khác; với ba mươi từ liếng Anh phát âm rất tồi, bà nhấn chìm Gustaf trong những câu hỏi về cuộc đời anh, về công ty của anh, về những ý kiến của anh, và gây cho anh ấn tượng mạnh.
Ngày hôm sau, bà mẹ đi. Khi từ sân bay trở về, trong căn hộ của mình ở tầng cao nhất một tòa nhà, Irena đi ra cửa sổ để tận hưởng, trong sự yên tĩnh tìm thấy lại, tự do của cô đơn. Cô nhìn thật lâu những mái nhà, sự đa dạng của các ống khói được làm thành những hình thù kỳ quặc nhất, cái thảm thực vật Paris từ lâu nay với cô đã thay thế màu xanh cây cỏ của những khu vườn Séc, và cô nhận ra mình hạnh phúc biết bao nhiêu vì được ở thành phố này. Cô vẫn từng luôn coi sự nhập cư của mình là một bất hạnh hiển nhiên Nhưng, vào lúc này, khi tự hỏi mình, liệu rằng điều bất hạnh ấy có phải là một ảo ảnh không, một ảo ảnh gây nên bởi cái cách mọi người vẫn hình dung về một người nhập cư? Liệu rằng có phải cô vẫn đọc cuộc đời của chính mình theo một bản hướng dẫn chung mà những người khác đặt vào tay cô? Và cô tự nhủ rằng cuộc nhập cư của mình, mặc dù bị áp đặt từ bên ngoài, ngược lại ý muốn của cô, có thể lại là giải pháp tốt nhất cho cuộc đời cô, mà cô không hề hay biết. Những sức mạnh ghê hồn của Lịch sử từng giết chết tự do của cô hóa ra lại giải phóng cho cô.
Vì thế cô hơi bối rối khi vài tuần sau Gustaf kiêu hãnh thông báo với cô một tin mừng: anh đi gợi ý cho hãng của anh mở một văn phòng tại Praha. Đất nước cộng sản ấy không mấy hấp dẫn về mặt thương mại, văn phòng sẽ nhỏ thôi, nhưng anh sẽ có cơ hội thỉnh thoảng qua đó.
https://thuviensach.vn
“Anh rất vui vì được tiếp xúc với thành phố của em”, anh nói. Thay vì thấy vui, cô lại cảm thấy như thể đang bị đe dọa một cách mơ hồ.
“Thành phố của em? Praha không còn là thành phố của em nữa”, cô đáp. “Gì cơ!”, anh sửng sốt.
Cô không bao giờ che giấu những ý nghĩ của mình, nên anh hoàn toàn có khả năng biết rõ cô; thế nhưng anh lại nhìn cô giống hệt cách mọi người nhìn cô: một người phụ nữ trẻ đang đau đớn vì bị đuổi khỏi đất nước của mình. Bản thân anh cũng xuất thân từ một thành phố Thụy Điển mà anh căm ghét một cách nhã nhặn và tự ngăn cấm mình đặt chân trở về. Nhưng ở trường hợp của anh, điều đó là bình thường. Bởi vì mọi người vỗ tay hoan hô anh như một người Scandinavia thân thiện rất quảng giao, người đã quên đi nơi mình sinh ra. Cả hai người đều đã được xếp loại, dán nhãn, và người ta sẽ đánh giá họ theo mức độ trung thành của họ đối với những cái nhãn ấy (nhưng, dĩ nhiên, điều này và chỉ điều này được nhấn mạnh: trung thành với con người mình).
“Thế thành phố của em là thành phố nào?”
“Paris! Em đã gặp anh ở đây, em sống ở đây với anh.”
Như thể không nghe thấy cô nói gì, anh vuốt ve tay cô: “Em hãy chấp nhận điều đó như một món quà. Anh sẽ trở thành mối dây liên hệ giữa em và đất nước của em. Anh sẽ lấy làm hạnh phúc vì việc đó!”
Cô không nghi ngờ gì về lòng tốt của anh; cô cảm ơn anh; tuy thế, cô nói thêm giọng hòa nhã: “Nhưng em xin anh hiểu rằng em không cần anh làm mối dây liên hệ giữa em và bất cứ điều gì. Em hạnh phúc như thế này với anh, tách biệt khỏi tất cả mọi điều và tất cả mọi người.”
Anh cũng trở nên nghiêm trang: “Anh hiểu em. Và đừng nghĩ rằng anh định quan tâm đến quá khứ của em. Người duy nhất mà anh sẽ gặp trong số những người quen của em là mẹ em.”
Phải nói gì với anh bây giờ? Rằng chính mẹ cô là người mà cô không muốn anh gặp? Làm sao mà nói được với anh điều đó, khi mà anh luôn nhớ nhung đầy tình cảm sâu nặng người mẹ quá cố của anh?
https://thuviensach.vn
“Anh ngưỡng mộ mẹ em! Sức sống của bà!”
Irena không hề nghi ngờ điều ấy. Mọi người ngưỡng mộ mẹ cô vì sức sống của bà. Làm sao giải thích được cho Gustaf rằng trong cái vòng tròn ma thuật của sức mạnh tình mẫu tử Irena chưa từng bao giờ tự chủ được cuộc đời cô? Làm sao giải thích được cho anh rằng sự hiện diện thường trực của bà mẹ hất cô về phía sau, quay trở lại trong sự yếu đuối và tình trạng thiếu trưởng thành của cô? A, Gustaf có ý tưởng mới điên rồ làm sao khi muốn kết nối với Praha!
Chỉ đến khi ở nhà một mình, cô mới bình tĩnh lại và tự an ủi: “Thanh barie cảnh sát giữa các nước cộng sản và phương Tây, ơn Chúa, khá là vững chắc. Mình không cần phải lo ngại rằng những tiếp xúc của Gustaf với Praha có thể đe dọa mình.”
Gì cơ? Cô vừa nói gì? “Thanh barie cảnh sát, ơn Chúa, khá là vững chắc?” Có phải thực sự cô đã tự nhủ: “Ơn Chúa”? Cô, một người nhập cư bị tất cả mọi người xót thương vì đã đánh mất tổ quốc, cô đã tự nhủ “Ơn Chúa” thật sao?
https://thuviensach.vn
7
Gustaf tình cờ quen với Martin, trong một cuộc thương thảo. Mãi sau này anh mới gặp Irena, khi cô đã góa chồng. Họ thích nhau, nhưng cả hai đều ngượng ngùng. Khi ấy, người chồng từ thế giới bên kia bèn chạy tới giúp họ bằng cách tự biến mình thành đề tài trò chuyện sẵn có. Khi từ Irena mà Gustaf biết Martin sinh cùng năm với mình, anh nghe thấy tiếng đổ sập của bức tường ngăn cách mình với người phụ nữ trẻ tuổi hơn rất nhiều kia và cảm thấy một cảm tình trìu mến đầy biết ơn với người đã chết, người có mức độ tuổi tác vừa đủ đề khuyến khích anh theo đuổi người vợ góa xinh đẹp của anh ta.
Anh thần tượng người mẹ quá cố của mình. Anh chiều chuộng (mà không thấy sung sướng gì) hai đứa con gái đã ở tuổi trưởng thành, anh trốn chạy người vợ. Anh rất muốn ly dị được với vợ nếu chuyện đó có thể diễn ra một cách thân ái. Bởi vì điều ấy là không thể nên anh làm tất cả những gì có thể để ở xa đất nước Thụy Điển. Cũng như anh, Irena có hai con gái, cũng đã sắp đến tuổi bước vào cuộc sống độc lập. Gustaf mua cho đứa đầu một căn hộ, tìm cho đứa thứ hai một trường nội trú bên Anh, và sau đó, Irena, còn lại một mình, đã có thể để anh tới ở tại nhà.
Cô choáng ngợp trước lòng tốt của anh, lòng tốt mà tất cả mọi người đều coi là nét tính cách chính của con người anh, điều nổi bật nhất, gần như là một sự bất khả. Bằng điều đó anh quyến rũ những người phụ nữ hiểu ra quá muộn rằng lòng tốt ấy là một thứ vũ khí tự vệ chứ không phải là một thứ vũ khí dùng để quyến rũ. Là đứa con yêu của mẹ, anh không có khả năng sống một mình, thiếu vắng sự chăm sóc của phụ nữ. Nhưng cũng chính vì thế mà anh chịu đựng rất kém những đòi hỏi, những cuộc tranh cãi, những giọt nước mắt, và cả những cơ thể quá hiện hữu, quá choán chỗ của họ. Để có thể giữ họ lại bên mình và cùng lúc trốn chạy khỏi họ, anh bắn vào họ từng viên đạn đại bác của lòng tốt. Náu mình phía sau đám mây mù khói súng, anh tìm đường thoái lui.
https://thuviensach.vn
Đối mặt với lòng tốt của anh, thoạt tiên Irena thấy bối rối: tại sao anh dễ mến, rộng lượng, ít đòi hỏi đến vậy? Cô có thể đền đáp những điều ấy bằng cách nào đây? Cô không tìm được lối bồi hoàn nào khác ngoài cách phô bày ham muốn của mình trước anh. Cô nhìn chằm chằm vào anh, đôi mắt mở to đòi hỏi điều gì đó không tên, lớn lao và mê say.
Ham muốn của cô; câu chuyện buồn về ham muốn của cô. Cô chưa từng biết đến khoái cảm tình ái nào trước khi gặp Martin. Rồi cô sinh con, chuyển từ Praha sang Pháp khi đang mang thai lần thứ hai và, không lâu sau đó, Martin chết. Tiếp đó cô phải sống qua những năm mệt mỏi, buộc phải chấp nhận mọi loại công việc, dọn dẹp nhà cửa, hộ lý chăm sóc một người liệt hai chân giàu có và đã là một thành công lớn khi cô nhận được việc dịch từ tiếng Nga sang tiếng Pháp (sung sướng vì đã chăm chỉ học nhiều ngoại ngữ hồi còn ở Praha). Năm tháng trôi đi và trên những tấm áp phích, trên những panô quảng cáo, ở trang nhất các tờ tạp chí bày ở các ki ốt báo, phụ nữ lột dần quần áo, các cặp yêu đương hôn nhau, đàn ông mặc độc cái quần xịp trưng ra cơ thể, còn cơ thể cô lang thang trên phố phường, bị bỏ rơi, vô hình, giữa cơn cuồng loạn hiện diện khắp nơi đó.
Chính vì thế gặp được Gustaf là cả một lễ hội. Sau một thời gian dài đến vậy, cơ thể của cô, khuôn mặt của cô cuối cùng đã được nhìn thấy, được thích thú, và nhờ sự hấp dẫn của chúng, một người đàn ông đã mời cô chia sẻ cuộc đời với anh. Chính vào giữa giai đoạn mê hoặc đó mẹ cô bắt chợt được cô ở Paris. Nhưng có thể là vào cùng thời gian ấy hoặc ngay tiếp sau, cô bắt đầu mơ hồ nghi ngờ rằng cơ thể của mình đã không hoàn toàn thoát được khỏi cái số phận dường như đã được ấn định hẳn cho cô. Rằng anh, người chạy trốn vợ mình, những người đàn bà của mình, không tìm kiếm ở cô một cuộc phiêu lưu, một tuổi trẻ mới, một tự do về các giác quan, mà là một quãng nghỉ ngơi. Chúng ta đừng nói quá lên điều gì, cơ thể cô không bị bỏ quên, nhưng nỗi nghi ngờ lớn dần lên trong cô, rằng nó được chạm vào ít hơn mức mà nó xứng đáng.
https://thuviensach.vn
8
Chủ nghĩa cộng sản ở châu Âu chấm dứt đúng hai trăm năm sau khi Cách mạng Pháp bùng lên. Với Sylvie, người bạn Paris của Irena, đó là một trùng hợp đầy ý nghĩa. Nhưng thật ra là ý nghĩa gì? Phải đặt tên gì cho cái khải hoàn môn nối hai ngày tháng vĩ đại này? Khải hoàn môn hai cuộc Cách Mạng Vĩ Đại nhất của châu Âu? Hay Khải hoàn môn kết nối cuộc Cách Mạng Vĩ Đại nhất với sự Tái Hồi Cuối Cùng? Để tránh những tranh cãi về mặt ý hệ, tôi đề nghị một cách diễn giải khiêm tốn hơn cho riêng chúng ta: thời điểm thứ nhất đã khai sinh một nhân vật vĩ đại của châu Âu, Người Xuất Cư (Kẻ Phản Bội Vĩ Đại hay Người Đau Khổ Vĩ Đại, thế nào cũng được); thời điểm thứ hai đẩy Người Xuất Cư ra khỏi sàn diễn lịch sử của người châu Âu; bằng cùng cách ấy, nhà điện ảnh vĩ đại của tiềm thức cộng đồng đã kết thúc một trong những tác phẩm độc đáo nhất của mình, những giấc mơ của dân nhập cư. Cũng chính trong khoảng thời gian đó, Irena lần đầu tiên trở về Praha sống vài ngày.
Khi cô đi trời rất lạnh và rồi, sau ba ngày, đột nhiên, thật bất ngờ, quá sớm sủa, mùa hè tới. Cái áo khoác của cô, quá dày, trở nên vô dụng. Không mang theo quần áo mỏng hơn, cô phải đi mua một cái váy tại một cửa hiệu. Đất nước còn chưa đầy ắp quần áo phương Tây và cô tìm thấy lại cùng những thứ vài vóc, những thứ màu sắc, những đường kéo cắt mà cô từng biết khi còn ở thời kỳ cộng sản. Cô thử hai hoặc ba cái váy và thấy bối rối. Khó nói được là tại sao: chúng không xấu, đường cắt không tồi, nhưng chúng gợi cô nhớ lại cái quá khứ xa xăm, sự thanh đạm về trang phục của tuổi trẻ cô, cô thấy chúng thật ngây thơ, tỉnh lẻ, không chút thanh lịch, chỉ xứng hợp với một cô giáo thôn quê. Nhưng cô đang vội. Mà tại sao lại không thể giống với một cô giáo thôn quê trong vài ngày? Cô mua chiếc váy với cái giá rẻ mạt mặc nó vào, chiếc áo khoác mùa đông trong túi xách, đi ra đường phố nóng nực.
Rồi, khi đi ngang qua một cửa hàng lớn, đột nhiên cô nhìn thấy mình trước một tấm gương khổng lồ treo trên tường và đứng đờ người ra vì sửng
https://thuviensach.vn
sốt: người mà cô đang nhìn thấy không phải là cô, đó là một người khác hoặc, khi tự nhìn mình lâu hơn trong cái váy mới mua, đó là cô nhưng đang sống trong một cuộc đời khác, cuộc đời lẽ ra cô đã có nếu ở lại đất nước. Người phụ nữ đó không hề đáng ghét, thậm chí còn gây cảm động, nhưng mà quá cảm động, cảm động đến phát khóc, đáng thương, khốn khó, yếu ớt, khuất phục.
Cô lại rơi vào cùng nỗi sợ hãi ngày xưa trong những giấc mơ người nhập cư: qua sức mạnh ma thuật của một cái váy, cô thấy mình bị cầm tù trong một cuộc đời mà cô không muốn và không có khả năng thoát ra nữa. Như thể, ngày xưa, hồi đầu cuộc đời người trưởng thành, cô đã từng có trước mình nhiều cuộc đời có thể, trong số đó rốt cuộc cô đã chọn cuộc đời sau đó đưa cô sang Pháp. Và như thể những cuộc đời khác ấy, bị chối từ và bỏ rơi, vẫn luôn chờ đợi cô và rình mò cô từ các chỗ trú của chúng, trong cơn ghen tuông. Một trong số chúng giờ đây chiếm hữu lấy Irena và bọc kín cô trong cái váy mới như thể trong một bộ quần áo dùng để kiềm chế người điên.
Hoảng sợ, cô chạy đến nhà Gustaf (anh có một chỗ ở tạm trong trung tâm thành phố) và thay đồ. Mặc lại cái áo khoác mùa đông, cô nhìn ra cửa sổ. Bầu trời đầy mây và đám cây rạp mình dưới gió thổi. Trời chỉ nóng trong vòng vài tiếng đồng hồ. Vài giờ nóng nực để chơi cô một cú ác mộng, để nói cho cô biết về nỗi khủng khiếp của cuộc trở về.
(Liệu đó có phải là một giấc mơ? Giấc mơ người nhập cư cuối cùng của cô? Nhưng không, tất cả đều rất thực. Tuy thế, cô có cảm giác rằng những cái bẫy mà những giấc mơ ngày xưa từng tiết lộ cho cô vẫn chưa biến mất, rằng chúng vẫn luôn ở đó, vẫn luôn sẵn sàng, rình đợi cô đi ngang qua.)
https://thuviensach.vn
9
Trong hai mươi năm Ulysse vắng mặt, người dân Ithaque lưu giữ rất nhiều kỷ niệm về chàng, nhưng không cảm thấy chút nào hoài nhớ chàng. Trong khi Ulysse đau khổ vì hoài nhớ và gần như không nhớ gì.
Chúng ta có thể hiểu được sự trái ngược đó nếu biết rằng ký ức, để có thể vận hành trơn tru, cần đến một sự tập luyện không ngừng: nếu các kỷ niệm không được nhắc tới, liên tục và liên tục, trong những cuộc trò chuyện với bạn bè, chúng sẽ biến mất. Những người nhập cư tập hợp lại thành các hội đồng hương kể cho nhau đến phát buồn nôn cùng những câu chuyện, và bằng cách ấy, không ai có thể quên được chúng. Nhưng những người không gặp gỡ đồng hương, như Irena và Ulysse, không thể tránh được bệnh quên. Nỗi hoài nhớ của họ càng lớn, nó càng thiếu vắng các kỷ niệm. Ulysse càng buồn bã, chàng càng quên nhiều hơn. Bởi vì hoài nhớ không gia tăng cường độ hoạt động của ký ức, nó không đánh thức những kỷ niệm, chỉ nó thôi đã tự đầy đủ, với xúc cảm riêng của nó, bị hấp thụ hoàn toàn trong niềm đau đớn duy nhất của chính nó.
Sau khi giết hết bọn người cứng đầu cứ muốn cầu hôn Pénélope và cai quản Ithaque, Ulysse buộc phải sống với những người mà chàng không biết mảy may gì. Họ, để phỉnh nịnh chàng, lải nhải tất cả những gì còn nhớ về chàng trước khi chàng lên đường đi chinh chiến. Và, tin rằng chàng chỉ quan tâm tới Ithaque của chàng (làm sao họ có thể không nghĩ vậy khi mà chàng đã vượt qua các đại dương mênh mông để quay trở về?), họ nhồi nhét cho chàng những gì đã xảy ra khi chàng vắng mặt, hau háu trả lời mọi câu hỏi của chàng. Không gì làm chàng chán hơn điều đó. Chàng chỉ chờ đợi một điều: rốt cuộc họ cũng nói với chàng: Kể đi! Và đó là cái duy nhất mà họ không bao giờ nói với chàng.
Trong hai mươi năm chàng chỉ nghĩ đến cuộc trở về của mình. Nhưng khi đã về nhà, chàng kinh ngạc nhận ra rằng cuộc đời chàng, bản chất của cuộc đời chàng, trung tâm của nó, kho báu của nó, lại nằm bên ngoài
https://thuviensach.vn
Ithaque, ở trong hai mươi năm lưu lạc của chàng. Và cái kho báu ấy, chàng đã đánh mất và sẽ chỉ có thể tìm lại được bằng cách kể chuyện. Sau khi rời bỏ Calypso, trong chuyến trở về, chàng bị đắm tàu ở Phéacie, nơi nhà vua tiếp đón chàng ở triều đình của ông ta. Tại đó, chàng là một người nước ngoài, một người lạ mặt bí hiểm. Người ta hỏi một người lạ mặt: “Anh là ai? Anh từ đâu đến? Kể đi!” Và chàng đã kể. Trong bốn chương dài của Odyssée, chàng đã vạch lại chi tiết những chuyến phiêu lưu của mình trước những người Phéacie há hốc miệng vì kinh ngạc. Nhưng ở Ithaque chàng không phải là một người lạ, chàng thuộc về những người kia và vì lẽ đó không một ai nảy ra ý nghĩ phải nói với chàng: “Kể đi!”
https://thuviensach.vn
10
Cô lật giở những cuốn sổ ghi địa chỉ cũ, dừng một lúc lâu ở những cái tên đã gần như quên hẳn; rồi cô đặt chỗ tại một quán ăn. Trên một cái bàn dài dựa vào tường, bên cạnh đám đĩa đựng bánh ngọt nhỏ, mười hai cái chai xếp hàng gọn gàng đợi sẵn. Ở Bohême, người ta không uống thứ rượu vang ngon và không có thói quen giữ lại loại đặc biệt ngon. Vì thế cô đã rất thích thú khi mua những chai rượu vang Bordeaux lâu năm này: để làm bất ngờ các khách mời, để thết tiệc họ, để lấy lại tình bạn của họ.
Thiếu chút nữa cô đã làm hỏng mọi chuyện. Ngần ngại, những người bạn gái ngồi nhìn mấy cái chai cho tới khi một trong số họ, đầy tin tưởng và tự hào vì phẩm chất giản dị của mình, tuyên bố thích uống bia hơn. Được cổ vũ bởi sự thẳng thắn đó, những người khác cũng nhất trí và con người hăng hái với bia kia bèn gọi bồi bàn.
Irena tự trách mình đã phạm sai lầm lớn với thùng rượu Bordeaux của mình; đã ngu ngốc rọi ánh sáng vào tất cả những gì chia cách họ: sự vắng mặt lâu ngày của cô khỏi đất nước, những thói quen của người nước ngoài, sự sung túc của cô. Cô càng tự trách mình nhiều hơn vì cô dành cho cuộc gặp gỡ này một tầm quan trọng lớn: cuối cùng thì cô muốn biết liệu mình có thể sống ở đây hay không, có thể cảm thấy như ở nhà mình, có những người bạn hay không, chính vì thế cô không muốn bực mình vì cái nhóm vài con người thô lỗ này, thậm chí cô còn sẵn sàng nhìn thấy ở đó một sự thẳng thắn đầy thân tình; mặt khác, thứ bia được những người khách mời tỏ rõ lòng trung thành lại không phải là thứ nước uống thánh thiện của lòng chân thành ư? Cái phin lọc toàn bộ thói đạo đức giả, toàn bộ trò hài kịch về những cung cách cao sang? Cái thứ có chức năng duy nhất là làm cho những người ủng hộ nó có thể đi tiểu một cách thoải mái hết sức, làm họ béo lên một cách trong sáng nhất? Quả thực những người phụ nữ ngồi quanh cô đều béo một cách hăm hở, họ nói không ngớt miệng chất chứa đầy những lời khuyên khôn ngoan và ca ngợi Gustaf, người mà tất cả bọn họ đều đã nghe nói tới.
https://thuviensach.vn
Cùng lúc đó người bồi bàn xuất hiện trong khung cửa với mười cốc bia cỡ nửa lít, mỗi tay cầm năm cốc, tuyệt nghệ cơ bắp làm dậy lên những tiếng vỗ tay và những tiếng cười. Họ chạm cốc: “Chúc mừng sức khỏe Irena! Chúc mừng sức khỏe cô gái từ xa trở về!”
Irena nhấp một ngụm bia nhỏ, tự nhủ: Sẽ ra sao nếu Gustaf là người mời họ uống rượu vang? Họ có từ chối hay không? Tất nhiên là không. Khi từ chối rượu vang thì chính là họ từ chối cô. Cô, như chính cô, người trở về đây sau ngần ấy năm.
Và cô đặt cược vào chính chỗ ấy: họ chấp nhận cô như chính cô, người trở về. Cô đã đi khỏi đây, khi còn là người phụ nữ ngây thơ, và cô trở về, đã lớn lên, với một cuộc đời sau lưng mình, một cuộc đời khó khăn mà cô lấy làm tự hào. Cô muốn làm tất cả để họ chấp nhận cô với toàn bộ hai mươi năm vừa qua, với những niềm tin của cô, với những suy nghĩ của cô; sẽ là sấp hoặc là ngửa: hoặc cô thành công trong việc trở thành người của họ như chính cô, người trở về, hoặc cô sẽ không ở lại đây. Cô đã tổ chức cuộc gặp này như là điểm xuất phát cho chiến dịch của mình. Việc họ cứ bướng bỉnh đòi uống bia không làm cô thấy phiền lòng, điều quan trọng với cô là chính cô sẽ chọn chủ đề cho cuộc trò chuyện và được họ lắng nghe.
Nhưng thời gian cứ trôi đi, đám phụ nữ đồng loạt nói không ngừng và gần như không thể bắt đầu một cuộc trò chuyện, lại càng không thể áp đặt cho cuộc trò chuyện ấy một chủ đề. Cô tìm cách khéo léo lách khỏi các chủ đề họ đưa ra và lái chúng về những gì cô muốn nói với họ, nhưng cô thất bại: ngay khi những lời của cô tách xa khỏi những mối bận tâm của họ, không ai buồn lắng nghe cô nữa cả.
Người bồi bàn mang ra đợt bia thứ hai; trên bàn vẫn còn lại cốc bia đầu tiên của cô, bọt đã tan, như thể bị làm nhục trước đám bọt bông xù của cái cốc mới. Irena tự trách mình vì không thích uống bia; ở Pháp cô đã học được cách thưởng thức đồ uống theo từng ngụm nhỏ và đã đánh mất thói quen nuốt cả dòng lớn chất lỏng như tình yêu với bia đòi hỏi. Cô nâng cái cốc lên miệng và cố sức uống hai, ba ngụm to liền một lúc. Đúng lúc này, một người phụ nữ, nhiều tuổi nhất trong số họ, trạc lục tuần, nhẹ nhàng đưa tay lên miệng để chùi đám bọt còn bám lại.
https://thuviensach.vn
“Đừng cố, bà nói với cô. Tại sao chúng ta không thử rượu vang nhỉ? Sẽ thật là ngốc nếu bỏ quên thứ rượu ngon đến thế này”, và bà gọi người bồi bàn để bảo anh ta mở một trong số những cái chai còn nguyên vẹn trên chiếc bàn dài.
https://thuviensach.vn
11
Milada là đồng nghiệp của Martin tại cùng một viện. Ngay khi bà xuất hiện ở cửa căn phòng, Irena đã nhận ra, nhưng mãi đến giờ, khi cả hai đã cầm ly rượu trên tay, Irena mới có thể nói chuyện được với bà; cô nhìn bà; khuôn mặt bà vẫn giữ nguyên hình dạng đó (tròn), cùng mái tóc nâu đó, cùng kiểu tóc đó (quây tròn, trùm lấy hai tai và dài xuống đến dưới cằm). Bà tạo ấn tượng chưa hề thay đổi chút nào; chỉ có điều, khi bà bắt đầu nói, khuôn mặt bà đột nhiên biến đổi: da bà nhăn lại và giãn ra, môi trên của bà đầy những đường vạch mảnh thẳng đứng trong khi những nếp nhăn, trên má và cằm bà, thay đổi vị trí, thật nhanh chóng, theo từng cử động. Irena tự nhủ hẳn là Milada không nhận ra những cái đó: không ai tự nói chuyện với mình trước một tấm gương cả; do đó bà chỉ biết đến khuôn mặt bất động của mình, với làn da gần như trơn nhẵn; tất cả những cái gương trên đời đều làm bà tin rằng bà vẫn luôn đẹp.
Vừa nhấm nháp rượu vang, Milada vừa nói (trên khuôn mặt đẹp của bà, ngay lập tức, những nếp nhăn hiện ra và bắt đầu điệu nhảy của chúng): “Trở về không hề là chuyện dễ dàng, phải không?”
“Họ không thể hiểu là chúng tôi đã ra đi mà không có chút hy vọng trở về nào. Chúng tôi đã cố gắng gắn chặt vào nơi chúng tôi sống. Chị có biết Skacel không?”
“Ông nhà thơ?”
“Trong một đoạn thơ ông ấy nói đên nỗi buồn của ông ấy, ông ấy nói là muốn xây một ngôi nhà rồi tự nhốt mình vào đó trong vòng ba trăm năm. Ba trăm năm. Chúng tôi đều nhìn thấy một đường hầm dài ba tràm năm ở trước mặt.”
“Thì đúng rồi, chúng tôi ở đây cũng thế thôi.”
“Vậy thì tại sao người ta lại không muốn biết điều đó cơ chứ?” “Bởi vì người ta phải sửa chữa các tình cảm nếu các tình cảm nhầm lẫn. Nếu Lịch sử cho thấy là chúng sai.”
https://thuviensach.vn
“Và rồi: mọi người đều nghĩ rằng chúng tôi ra đi để có được một cuộc sống dễ dàng. Họ không biết khó khăn thế nào mới giành được một chỗ nhỏ cho mình trong một thế giới xa lạ. Chị biết không, rời khỏi đất nước với một đứa trẻ và một đứa khác đang mang trong bụng. Mất chồng. Nuôi hai đứa con gái trong sự bần cùng...”
Cô im lặng và Milada nói: “Kể cho họ tất cả những chuyện ấy cũng chẳng ích gì đâu. Mới gần đây thôi, mọi người vẫn còn tranh cãi, ai cùng muốn chứng minh là mình chịu nhiều đau khổ hơn người khác dưới chế độ cũ. Mọi người đều muốn được công nhận là nạn nhân. Nhưng các cuộc đua tranh về đau khổ đó đã kết thúc rồi. Nếu người ta sẵn sàng tôn trọng cô, thì sẽ không phải bởi vì cuộc sống khó khăn của cô, mà vì người ta thấy cô có một người đàn ông giàu có ở bên cạnh!” Họ nói chuyện được một lúc lâu trong góc phòng thì những người khác lại gần vây lấy họ. Như thể họ tự trách cứ đã không quan tâm đầy đủ đến người mời mình, họ tỏ ra lắm điều (say bia làm cho người ta ầm ĩ và cao hứng hơn là say rượu) và trìu mến. Người phụ nữ đòi uống bia từ đầu cuộc gặp kêu lên: “Dù sao chúng tôi cũng phải thử rượu vang của cô chứ!” và gọi người bồi bàn mở thêm chai rót đầy những cái ly.
Đột nhiên Irena có một ảo giác: những cốc bia trên tay và cười ầm ĩ, một nhóm phụ nữ chạy về phía cô, cô nhận ra họ nói tiếng Séc và hoảng sợ hiểu rằng mình không ở Pháp, mà đang ở Praha và đang lạc đường. A đúng rồi, một trong các giấc mơ người nhập cư mà cô nhanh chóng đuổi khỏi trí nhớ: mặt khác những người phụ nữ xung quanh cô không uống bia nữa, họ chạm các ly rượu để mừng sức khỏe cô gái từ xa trở vê; rồi một người trong số họ, mặt mũi rạng rỡ, nói với cô: “Cậu nhớ không? Mình đã viết thư cho cậu nói là đã đến lúc, đã đến lúc cậu nên quay về!”
Người phụ nữ đó là ai? Cả buổi tối, cô ta không ngừng nói đến bệnh tình của chồng mình, miêu tả đầy kích động tất cả các chi tiết rùng rợn nhất. Cuối cùng, Irena cũng nhận ra: cô bạn học ở trường trung học, người đã, vào đúng tuần lễ chủ nghĩa cộng sản sụp đổ, viết thư cho cô: “Ôi, bạn thân mến, chúng ta đã già rồi! Đã đến lúc cậu trở về rồi đấy!” Cô ta nhắc lại câu
https://thuviensach.vn
đó thêm một lần nữa và trên khuôn mặt phì phị, một nụ cười thật tươi khoe ra một hàm răng giả.
Những người phụ nữ khác trút lên cô các câu hỏi: “Irena, cậu còn nhớ khi...” Và: “Cậu có biết điều gì đã xảy ra hồi ấy với...?”
“Ôi không, dù sao thì cậu cũng phải nhớ anh ta chứ!”
“Cái anh chàng tai to đoành mà cậu vẫn luôn chế nhạo ấy!” “Nhưng cậu không thể quên anh ta được! Anh ta chỉ nói đến cậu thôi!” Cho đến khi đó họ không hề quan tâm tới những gì cô định kể cho họ
nghe. Cuộc tấn công đột ngột này có nghĩa là gì? Những người không muốn nghe cô nói muốn biết điều gì? Cô nhanh chóng hiểu ra rằng những câu hỏi được dùng để kiểm tra xem cô có biết những gì mà họ biết hay không, cô có nhớ những gì mà họ nhớ hay không. Điều đó gây cho cô một cảm giác kỳ lạ sẽ không chịu rời bỏ cô nữa.
Thoạt tiên, thông qua sự bàng quan hoàn toàn đối với những gì cô đã kinh qua ở nước ngoài, họ đã cắt đi mất hai mươi năm cuộc đời cô. Giờ đây, thông qua cuộc hỏi cung này, họ tìm cách vá mẩu quá khứ xa xôi vào cuộc sống hiện tại của cô. Như thể họ cắt mất của cô nửa cánh tay rồi gắn bàn tay cô thẳng vào khuỷu tay; như thể họ cắt đứt của cô nửa cẳng chân và nối bàn chân cô thẳng với đầu gối.
Bị mê hoặc trước hình ảnh này cô không thể trả lời gì cho những câu hỏi của họ- mặt khác, những người phụ nữ không hề trông chờ điều đó và, mỗi lúc một say thêm quay trở lại với những câu chuyện ầm ĩ của mình, nơi Irena bị gạt ra ngoài. Cô nhìn những cái miệng của họ mở ra cùng một lúc, những cái miệng chuyển động, phát ra từ ngữ và không ngừng tuôn trào những tràng cười (bí ẩn: làm thế nào mà những người phụ nữ không chịu lắng nghe nhau lại có thể cười về những gì họ nói với nhau?). Không ai còn nói chuyện với Irena nữa, nhưng tất cả đều rạng ngời một tâm trạng vui vẻ, người phụ nữ gọi bia từ đầu bữa cất tiếng hát, những người khác làm theo và, khi bữa ăn kết thúc, họ tiếp tục hát ngoài phố.
Nằm trên giường, cô hồi tưởng lại bữa ăn; lại thêm một lần nữa giấc mơ người nhập cư xưa cũ trở lại và cô thấy mình bị những người phụ nữ vây quanh, ồn ào và thân ái, tay giơ cao những cốc bia. Trong giấc mơ, họ phục
https://thuviensach.vn
vụ cho cảnh sát mật, thực hiện lệnh cho cô vào bẫy. Nhưng những người phụ nữ tối hôm nay phục vụ cho ai? “Đã đến lúc cậu trở về rồi đấy”, cô bạn học cũ với bộ răng giả ghê rợn nói. Là người truyền tin của các nghĩa trang (các nghĩa trang của tổ quốc), cô ta có trách nhiệm kêu gọi cô quay lại với trật tự: báo với cô rằng thời gian đã gấp lắm rồi và cuộc sống phải được kết thúc ở nơi nó bắt đầu.
Rồi cô nghĩ tới Milada, người đã tỏ ra thân thiện theo lối đầy tình mẫu tử; Milada đã cho cô biết rằng không ai còn quan tâm đến hành trình gian nan của cô nữa, và Irena tự nhủ rằng, mặt khác, cả Milada cũng không quan tâm đến điều đó. Nhưng làm sao trách bà được đây? Tại sao bà lại phải quan tâm tới những gì không chút liên quan đến cuộc sống của bà? Đó hẳn chỉ là một vở hài kịch của sự lịch thiệp và Irena cảm thấy sung sướng vì Milada đã tỏ ra dễ mến đến thế, không chút hài kịch nào.
Ý nghĩ cuối cùng của cô trước khi thiếp đi hướng tới Sylvie. Đã lâu lắm rồi cô không gặp lại bạn! Cô nhớ cô ấy! Irena rất muốn mời cô ra quán và kể cho cô những chuyến đi vừa thực hiện ở Bohême. Nói cho cô hiểu về sự khó khăn của trở về. Mặt khác chính cậu, cô tưởng tượng mình đang nói, là người đầu tiên nói ra mấy từ ấy: Cuộc Trở Về Vĩ Đại. Và cậu biết không, Sylvie, hôm nay tôi đã hiểu: tôi sẽ có thể quay lại sống cùng họ, nhưng chỉ với điều kiện tất cả những gì tôi đã trải qua với cậu, với các bạn, với những người Pháp tôi phải trang trọng đặt lên bàn thờ tổ quốc và châm lửa đốt. Hai mươi năm cuộc đời tôi trôi qua ở nước ngoài sẽ biến thành khói trong buổi lễ thiêng liêng. Và những người phụ nữ sẽ hát và nhảy múa cùng tôi quanh đống lửa với những cốc bia trên bàn tay giơ lên cao. Đó là cái giá phải trả để được tha thứ. Để tôi được chấp nhận. Để tôi được trở lại là một người trong số họ.
https://thuviensach.vn
12
Một hôm, ở sân bay Paris, cô đi qua chỗ kiểm soát của cảnh sát và đến ngồi trong phòng đợi. Trên băng ghế đối diện, cô nhìn thấy người đàn ông và, sau hai giây không chắc chắn và kinh ngạc, cô nhận ra anh. Cô bồn chồn đợi đến khi ánh mắt họ giao nhau mỉm cười. Anh cũng mỉm cười và nghiêng nhẹ mái đầu. Cô đứng dậy đi về phía anh, tới lượt anh cũng đứng dậy.
Chúng ta đã gặp nhau ở Praha phải không?” Cô nói với anh bằng tiếng Séc “Anh vẫn còn nhớ tôi chứ?”
“Tất nhiên rồi”
“Tôi nhận ra anh ngay lập tức. Anh không hề thay đổi.”
“Cô quá lời rồi.”
“Không, không, anh vẫn thế. Chúa ơi, mọi chuyện xa xôi quá rồi.” Cô cười: “Tôi rất biết ơn anh vì đã nhận ra tôi!” Và rồi: “Trong suốt thời gian ấy, anh ở lại trong nước à?”
“Không.”
“Anh đã chuyển ra nước ngoài à?”
“Vâng.”
“Thế anh sống ở đâu? Pháp à?”
“Không.”
Cô thở dài. “A, nếu anh ở Pháp mà mãi đến hôm nay chúng ta mới gặp nhau thì...”
“Chỉ là hoàn toàn tình cờ mà tôi qua Paris thôi. Tôi sống ở Đan Mạch. Còn cô?”
“Ở đây. Ở Paris. Chúa ơi. Tôi không thể tin vào mắt mình. Suốt thời gian đó anh sống ra sao? Anh có được làm nghề của anh không?” “Có. Còn cô?”
“Tôi đã phải làm khoảng bảy nghề tất cả.”
https://thuviensach.vn
“Tôi sẽ không hỏi cô đã có bao nhiêu người đàn ông.”
“Không, đừng hỏi tôi. Tôi cũng hứa sẽ không hỏi anh loại câu hỏi đó.” “Còn bây giờ? Cô về nước à?”
“Không hoàn toàn. Tôi vẫn còn căn hộ ở Paris. Còn anh?” “Tôi cũng không về.”
“Nhưng anh thường xuyên quay lại đó?”
“Không. Đây là lần đầu tiên”, anh nói.
“Ôi, muộn thế cơ à! Anh không thấy bị thời gian thúc ép!” “Không.”
“Anh không có nghĩa vụ gì ở Bohême à?”
“Tôi là một người tự do tuyệt đối.”
Anh nói điều đó một cách nhẹ nhàng và một chút buồn bã, mà cô thoáng nhận ra.
Trên máy bay, chỗ của cô ở phía trước, cạnh lối đi và nhiều lần cô ngoái đầu lại để nhìn anh. Chưa bao giờ cô quên cuộc gặp xa xưa của họ. Đó là ở Praha, cô đi cùng một nhóm bạn vào một quán bar và anh, bạn của các bạn cô, chỉ chăm chăm nhìn cô. Chuyện tình của họ bị đứt đoạn trước cả khi có thể bắt đầu. Cô nuôi giữ một niềm hối tiếc về chuyện đó, một vết thương không bao giờ chữa lành.
Hai lần, anh đến đứng tựa vào ghế của cô để tiếp tục cuộc trò chuyện. Cô biết là anh sẽ chỉ ở Bohême ba hoặc bốn ngày, và thêm nữa là ở một thành phố dưới tỉnh để gặp gia đình. Cô thấy buồn. Anh không ở được Praha dù chỉ một ngày à? Có chứ, trước khi trở lại Đan Mạch, có thể là một hoặc hai ngày, cô có thể gặp anh không? Sẽ thật tuyệt nếu gặp lại nhau! Anh đưa cô tên khách sạn anh sẽ ở dưới tỉnh.
https://thuviensach.vn
13
Cả anh cũng vậy, anh sung sướng vì cuộc gặp gỡ này; cô thật thân thiện, đỏm dáng và dễ chịu, ở vào tuổi tứ tuần, xinh đẹp, và anh hoàn toàn không biết cô là ai. Thật phiền khi phải nói với ai đó rằng mình không hề nhớ ra người đó, nhưng lần này thì phiền gấp đôi, vì có thể là anh không quên cô, mà chỉ là anh không nhận ra cô nữa. Và thú nhận điều ấy với một người phụ nữ là cả một sự sỉ nhục mà anh không có đủ khả năng. Mặt khác, rất nhanh chóng, anh nhận ra rằng cô gái lạ sẽ không kiểm tra xem anh có nhớ cô không và không gì dễ dàng hơn là chuyện trò với cô. Nhưng khi họ hẹn gặp lại và cô muốn đưa anh số điện thoại, thì anh cảm thấy bối rối: làm sao anh có thể gọi điện cho ai đó mà anh không biết tên? Không hề giải thích, anh nói anh thích cô là người gọi điện trước và bảo cô ghi lại số điện thoại của mình ở khách sạn dưới tỉnh.
Tại sân bay Praha, họ chia tay nhau. Anh thuê một cái xe, lái theo đường cao tốc rồi chuyển sang một đường tỉnh lộ. Tới thành phố, anh tìm đến nghĩa trang. Không tìm được. Anh đang ở trong một khu phố mới toàn những ngôi nhà cao giống hệt nhau khiến anh không thể định vị được đường đi. Anh nhìn thấy một thằng bé khoảng mười tuổi, dừng xe, hỏi đường tới nghĩa trang. Thằng bé nhìn anh không trả lời. Nghĩ rằng nó không hiểu, Josef nhắc lại câu hỏi của mình thật chậm, cao giọng hơn, giống như một người nước ngoài đang cố gắng phát âm cho đúng. Cuối cùng thằng bé trả lời là nó không biết. Nhưng làm thế quái nào mà người ta lại không biết cái nghĩa trang duy nhất của thành phố nằm ở đâu cơ chứ? Anh nổ máy, hỏi nhiều người qua đường khác nhưng những chỉ dẫn của họ hết sức lộn xộn. Cuối cùng anh cùng tìm ra nó: nằm náu mình sau một cây cầu trên cạn mới xây, trông nó thật khiêm tốn và nhỏ hơn ngày xưa rất nhiều.
Anh đỗ xe lại và đi đến chỗ ngôi mộ theo một lối đi đầy cây đoạn. Chính ở đó cách đây khoảng ba mươi năm anh đã chứng kiến cái quan tài chứa linh cữu mẹ anh hạ xuống đất. Trước khi ra nước ngoài, anh thường xuyên
https://thuviensach.vn
đến đây, mỗi khi quay về thăm lại thành phố quê hương. Khi, cách đây một tháng, chuẩn bị tới Bohême, anh đã biết là mình sẽ bắt đầu bằng việc này. Anh nhìn tấm bia; tảng đá ghi nhiều cái tên: có vẻ như là ngôi mộ đã trở thành một phòng ngủ tập thể lớn. Giữa lối đi và tấm bia, chỉ có cỏ, xén tỉa cẩn thận, cùng một bồn hoa; anh thử hình dung ra các quan tài nằm dưới kia: hẳn chúng phải nằm sát kề nhau, thành từng hàng ba cái một, chồng lên nhau thành nhiều tầng. Mẹ anh nằm phía dưới. Bố anh ở đâu? Qua đời mười lăm năm sau đó, ít nhất ông cũng phải nằm cách bà một tầng quan tài.
Anh nhìn thấy lại đám tang của mẹ. Thời ấy, ở dưới chỉ có hai người chết: ông bà nội anh. Anh thấy thật tự nhiên khi mẹ anh xuống với bố mẹ chồng của mình và thậm chí anh còn không tự hỏi liệu bà có thích được nằm cùng bố mẹ đẻ của mình hơn hay không. Mãi sau này anh mới hiểu: sự tập hợp trong các hầm mộ gia đình đã được quyết định từ lâu trước đó, bởi một liên quan các lực lượng; gia đình bố anh có tầm ảnh hưởng lớn hơn gia đình mẹ anh.
Số lượng những cái tên mới ghi trên tấm bia làm anh bối rối. Vài năm sau khi ra đi, anh biết tin ông bác, rồi bà cô, và cuối cùng là bố anh, qua đời. Anh chăm chú đọc những cái tên. Một số thuộc về những người cho tới nay anh vẫn nghĩ là còn sống; anh thấy choáng váng vì điều đó. Không phải cái chết của họ làm anh thấy bị đảo lộn (người quyết định vĩnh viễn rời bỏ đất nước mình phải chấp nhận sẽ không gặp lại gia đình mình nữa), mà là việc anh không hề biết tin. Cảnh sát cộng sản kiểm soát thư từ gửi cho những người xuất cư; liệu mọi người có sợ việc viết thư cho anh không? Anh nhìn ngày tháng: hai lần chôn gần đây nhất xảy ra sau năm 1989. Như vậy là không phải vì thận trọng mà họ không viết cho anh. Sự thật tệ hơn nhiều: với họ anh không còn tồn tại nữa.
https://thuviensach.vn
14
Khách sạn xây vào những năm cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản: một tòa nhà hiện đại, nhẵn lì, giống như mọi ngôi nhà khác ở khắp nơi trên thế giới, tại quảng trường trung tâm, rất cao, vượt trên những mái nhà khác của thành phố đến mấy tầng. Anh vào một phòng ở tầng bảy, rồi đi ra cửa sổ. Bảy giờ tối, hoàng hôn đang xuống, đèn đường đã bật và quảng trường vắng lặng đến khó tưởng tượng.
Trước khi rời Đan Mạch, anh đã chuẩn bị trước cho cuộc mặt đối mặt với những chốn quen thuộc, với cuộc đời đã qua của mình, và tự hỏi: mình sẽ xúc động chăng? lạnh lùng? vui sướng? trầm uất? Không có gì trong số những cái đó cả. Trong khi anh vắng mặt, một cái chổi vô hình đã quét qua khung cảnh thời tuổi trẻ của anh, xóa đi tất cả những gì quen thuộc với anh; cuộc mặt đối mặt mà anh chờ đợi đã không xảy ra.
Đã lâu lắm rồi, Irena đến một thành phố tỉnh lẻ của Pháp, tìm kiếm một khoảnh khắc nghĩ ngơi cho chồng mình, khi ấy đã ốm nặng lắm rồi. Đó là một ngày Chủ nhật, thành phố im lìm, họ dừng lại trên một cây cầu nhìn xuống dòng nước êm ả chảy giữa hai bên bờ rậm rì cây cối. Ở đó, nơi dòng sông tạo thành một khúc quanh, một ngôi biệt thự bao quanh bởi một khu vườn hiện ra trước mắt họ như hình ảnh một chỗ trú chân mang lại sự yên tâm, giấc mơ về một cảnh trí điền viên đã trôi qua mãi mãi. Xúc động trước vẻ đẹp ấy, họ xuống sát mép nước theo một cầu thang, định đi dạo một chút. Được vài bước, họ hiểu ra rằng sự yên bình ngày Chủ nhật đã đánh lừa họ; đường đi bị chặn lại; họ bắt gặp một công trường bỏ không: máy móc, xe kéo, những đống đất và cát; ở bờ sông bên kia, những thân cây bị đốn; và ngôi biệt thự với vẻ đẹp quyến rũ họ khi nhìn từ trên cầu trưng ra những cửa sổ vỡ và một lỗ hổng lớn thay vì cửa ra vào; phía sau sừng sững một tòa nhà khoảng mười tầng; dẫu vậy vẻ đẹp của cảnh trí đô thị làm họ mê mẩn kia không phải là một ảo ảnh quang học; bị giẫm đạp, bị làm nhục, bị chế nhạo, nó vẫn ló hiện qua sự đổ nát của chính mình. Một lần nữa, cái nhìn của Irena lại hướng sang bờ bên kia và cô nhận ra những cây lớn bị đốn
https://thuviensach.vn
đang ra hoa! Lúc ấy, đột nhiên, nhạc bật lên, phát qua loa, công suất rất mạnh. Dưới cú chùy đập xuống đó Irena vội lấy tay bịt tai và òa lên khóc. Khóc cho cái thế giới đang biến mất trước mắt cô. Chồng cô, người sẽ chết trong vài tháng tới, cầm lấy tay cô và đưa cô đi khỏi nơi đó.
Cái chổi vô hình khổng lồ, cái biến đổi, làm biến dạng, xóa đi những cảnh trí, đã bắt đầu công việc của nó từ hàng nghìn năm nay, nhưng các chuyển động của nó, ngày xưa chậm rãi, khó nhận ra, đã tăng tốc tới mức tôi phải tự hỏi: ngày nay, còn có thể hình dung ra Odyssée được hay chăng? Bản sử thi về cuộc trở về liệu có còn thuộc vào thời đại của chúng ta nữa hay chăng? Buổi sáng, khi tỉnh dậy trên bờ biển Ithaque, liệu Ulysse có thể ngây ngất nghe thứ âm nhạc của Cuộc Trở Về Vĩ Đại nếu cây ô liu già nua đã bị đốn và chàng không thể nhận ra điều gì thân thuộc ở xung quanh mình?
Gần khách sạn, một tòa nhà cao hướng mảng tường trần trụi của mình ra ngoài, một bức tường trơn vẽ một bức tranh khổng lồ. Bóng tối khiến cho dòng chữ ở trên không còn đọc được nữa và Josef chỉ nhìn thấy hai bàn tay đang bắt, những bàn tay to lớn, giữa trời và đất. Có phải chúng vẫn luôn ở đó không? Anh không còn nhớ nữa.
Anh ăn tối một mình ở quán ăn của khách sạn và nghe thấy, xung quanh mình, tiếng những cuộc trò chuyện. Đó là âm nhạc của một thứ ngôn ngữ xa lạ. Điều gì đã xảy ra với tiếng Séc trong những thập niên khốn khổ vừa qua? Liệu có phải là cách nhấn trọng âm đã thay đổi? Có vẻ là như vậy. Trước đây nhất quyết nhấn vào âm tiết thứ nhất, hiện tượng đó không còn rõ rệt nữa; vì thế ngữ điệu như thể mất đi xương sống. Nhạc điệu có vẻ như buồn tẻ hơn ngày xưa, cứ ê a lê thê. Và âm sắc nữa! Giọng mũi quá nhiều, khiến cho lời nói có vẻ gì đó ơ hờ rất khó chịu. Có khả năng là trải qua nhiều thế kỷ, nhạc điệu của tất cả các ngôn ngữ cũng đều ngầm biến đổi, nhưng người trở về sau một thời gian dài vắng mặt thấy bất ngờ vì điều đó: cúi người xuống cái đĩa ăn, Josef lắng nghe một thứ ngôn ngữ xa lạ mà anh hiểu được từng từ.
Rồi, ở trong phòng, anh nhấc điện thoại lên bấm số người anh trai. Anh nghe thấy một giọng nói vui vẻ mời anh đến ngay lập tức.
https://thuviensach.vn
“Em chỉ muốn thông báo là em đã tới nơi, Josef nói. Hôm nay thì cho em xin kiếu đã. Em không muốn anh chị nhìn thấy em trong tình trạng thảm hại này, sau chừng ấy năm. Em mệt lắm. Mai anh có rỗi không?”
Thậm chí anh còn không biết chắc liệu anh trai mình còn làm việc ở bệnh viện hay không.
“Được mà”, đó là câu trả lời.
https://thuviensach.vn
15
Anh bấm chuông cửa và người anh trai, hơn anh năm tuổi, mở cửa. Họ bắt tay nhau rồi nhìn nhau. Đó là những cái nhìn tập trung cao độ và họ biết điều ấy nghĩa là gì: họ ghi lại, một cách nhanh chóng, một cách kín đáo, hai người anh em, tóc, nếp nhăn, răng; cả hai cùng biết mình đang tìm kiếm ở khuôn mặt đối diện kia điều gì và cả hai cùng biết người kia đang tìm đúng điều ấy trên mặt mình. Họ xấu hổ vì đã làm vậy, bởi những gì mà họ tìm, đó là cái khoảng cách có thể có giữa người kia và cái chết hoặc, nói theo một cách thức tàn nhẫn hơn, họ tìm kiếm ở người kia cái chết đang ló hiện. Họ muốn kết thúc thật nhanh sự dò hỏi nhuốm màu chết chóc này và vội vã tìm ra một câu nói có khả năng làm họ quên đi vài giây mang điềm xấu kia, một lời cảm thán, một câu hỏi hoặc, nếu có thể (đó hẳn sẽ là một món quà của ông trời), một câu nói đùa (nhưng không có gì đến kịp để cứu họ).
“Vào đi nào”, cuối cùng người anh nói và, quàng tay quanh vai Josef, dẫn anh vào phòng khách.
https://thuviensach.vn
16
“Bọn anh đã đợi em kể từ khi chế độ sụp đổ, người anh trai nói khi họ đã ngồi xuống. Tất cả những người di cư đều đã trở về, hoặc ít nhất là đã về thăm. Không, không, không phải là trách cứ gì đâu. Tự em biết phải làm gì chứ.”
“Anh nhầm rồi, Josef cười, em không biết đâu.”
“Em về một mình à?” người anh hỏi.
“Vâng.”
“Em muốn ở lâu dài à?”
“Em không biết.”
“Tất nhiên rồi, em còn phải tính đến ý kiến của vợ em nữa. Em đã lập gia đình ở đó, theo như anh được biết.”
“Vâng.”
“Với một phụ nữ Đan Mạch”, người anh nói, vẻ không chắc chắn lắm. “Vâng”, Josef nói, rồi im bặt.
Sự im lặng khiến người anh trai cảm thấy bối rối và Josef, để nói điều gì đó, hỏi: “Bây giờ nhà thuộc về anh rồi à?”
Trước đây, căn hộ nằm trong một ngôi nhà bốn tầng xây lên để cho thuê thuộc sở hữu của bố họ; gia đình sống ở tầng ba (bố, mẹ, hai người con trai), mấy tầng còn lại cho thuê. Sau cuộc cách mạng cộng sản năm 1948, ngôi nhà bị nhà nước tịch thu và gia đình ở lại đó với tư cách người đi thuê.
“Phải”, người anh trả lời, rõ ràng là đang thấy bối rối: “Bọn anh đã tìm cách liên lạc với em nhưng không được.”
“Sao cơ? Anh có địa chỉ của em cơ mà!”
Sau năm 1989, mọi bất động sản quốc hữu hóa trong cách mạng (nhà máy, khách sạn, nhà cho thuê, cánh đồng, rừng) được trả về cho những người sở hữu cũ (hay nói chính xác hơn là cho con hoặc cháu họ); tiến trình ấy được gọi là “hoàn trả”: chỉ cần ai đó tuyên bố với chính quyền rằng mình
https://thuviensach.vn
là chủ sở hữu là, sau một năm dùng để kiểm tra tính xác thực, việc hoàn trả phải được tiến hành. Sự đơn giản hóa về mặt luật pháp này cho phép nhiều kẻ bịp bợm hoành hành nhưng tránh được các vụ kiện cáo liên quan tới thừa kế, kháng án, chống án, và bằng cách ấy làm sống lại, trong một khoảng thời gian ngắn đến đáng kinh ngạc, một xã hội phân chia theo giai cấp với một tầng lớp tư sản giàu có, nhiều quyền hành, có khả năng thúc đẩy nền kinh tế đất nước.
“Bọn anh giao cho một luật sư giải quyết việc đó, người anh trả lời, văn tỏ ra bối rối. Giờ thì quá muộn rồi. Hết thời hạn tố tụng. Nhưng đừng lo gì cả, chúng ta sẽ dàn xếp riêng với nhau, không cần đến luật sư.”
Đúng lúc đó, người chị dâu bước vào. Lần này, cuộc đụng độ của những cái nhìn thậm chí còn không xảy ra: bà đã già đi tới mức mọi chuyện đã rõ ràng ngay khi bà xuất hiện trên ngưỡng cửa. Josef muốn cúi đầu xuống để sau đó mới nhìn bà, lén lút, không làm bà hoảng sợ. Lòng tràn đầy thương cảm, anh đứng dậy, đến ôm hôn bà.
Họ ngồi xuống. Không thể thoát ra khỏi niềm xúc cảm, Josef nhìn bà; nếu gặp trên phố, hẳn là anh đã không nhận ra bà. Đây là những con người gần gũi nhất với mình, anh tự nhủ, gia đình của mình, gia đình duy nhất mà mình có, anh trai mình, người anh trai duy nhất của mình. Anh nhắc đi nhắc lại những từ ấy như thể muốn kéo dài thêm niềm xúc cảm trước khi nó tan biến.
Làn sóng trìu mến đó khiến anh lên tiếng: “Thôi quên chuyện cái nhà đi. Thực sự là chúng ta nên thực tế một chút, em không hề quan tâm đến việc sở hữu một cái gì đó ở đây. Các vấn đề của em nằm ở chỗ khác kia.”
Nhẹ nhõm, người anh nhắc lại: “Không, không. Anh thích có công bằng trong mọi chuyện. Mặt khác, vợ em cũng có quyền có ý kiến chứ.” “Thôi, nói chuyện khác đi”, Josef nói, đặt tay mình lên tay người anh và siết chặt lấy.
https://thuviensach.vn
17
Họ dẫn anh đi thăm căn hộ để chỉ cho anh những thay đổi kể từ khi anh ra đi. Trong một căn phòng anh nhìn thấy một bức tranh từng thuộc về mình. Sau khi quyết định rời khỏi đất nước, anh phải hành động thật nhanh. Khi ấy anh sống ở một thành phố tỉnh lẻ khác và, vì buộc phải giữ bí mật ý định xuất cư, anh không thể làm mình bị lộ bằng cách chia tài sản cho bạn bè. Hôm trước ngày ra đi, anh để chìa khóa vào trong một cái phong bì rồi gửi cho anh trai. Và từ nước ngoài anh gọi điện về, nhờ người anh đến căn hộ lấy tất cả những gì anh thích trước khi Nhà nước tịch thu. Sau này, khi đã ở Đan Mạch, sung sướng được bắt đầu một cuộc đời mới, anh không có chút mong muốn nào trong việc tìm cách biết người anh đã cứu thoát được những đồ vật nào và làm gì với chúng.
Anh ngắm nhìn bức tranh một lúc lâu: một khu ngoại ô công nhân, nghèo khổ, được vẽ với vẻ phóng túng về màu sắc gợi nhớ đến các họa sĩ trường phái Dã thú đầu thế kỷ, chẳng hạn như Derain. Tuy thế, bức tranh không hề bắt chước; nếu nó được trưng bày vào năm 1905 ở Paris, tại Salon d’Automne cùng những bức khác của trường phái Dã thú, mọi người hẳn sẽ phải kinh ngạc vì sự lạ thường của nó, bối rối vì hương vị lạ lùng của một người khách mời từ một nơi xa xôi đến. Trên thực tế, tranh được vẽ vào năm 1955 thời học thuyết nghệ thuật xã hội chủ nghĩa nghiêm khắc đòi hỏi tính hiện thực: tác giả, một nhà hiện đại chủ nghĩa đầy say mê, lẽ ra phải vẽ như người ta vẫn vẽ ở khắp nơi trên thế giới hồi ấy, nghĩa là theo lối trừu tượng, nhưng cùng lúc ông lại muốn tranh mình được trưng bày; do đó ông buộc phải tìm ra được cái điểm kỳ diệu nơi những áp đặt của ý hệ bắt gặp được các ham muốn của người nghệ sĩ; những lều lán xập xệ gợi đến cuộc sống công nhân là một món đồ cống nạp cho các nhà tư tưởng, màu sắc phi thực bạo liệt, món quà ông dành cho chính mình.
Josef đã đến thăm xưởng vẽ của người họa sĩ trong những năm sáu mươi, khi học thuyết chính thống đã mất đi một chút sức mạnh và họa sĩ đã được tự do làm gần như là lất cả những gì ông muốn. Chân thành một cách
https://thuviensach.vn
ngây thơ, Josef thích bức tranh cũ này hơn là những bức mới, và họa sĩ, người dành cho chủ nghĩa Dã thú mang hơi hướm công nhân của mình một sự đồng cảm trộn lẫn với khinh thường, đã không chút tiếc nuối mà tặng nó cho anh; thậm chí ông còn cầm lấy bút vẽ và, bên cạnh chữ ký của mình, viết thêm một lời đề tặng cho riêng Josef.
“Em biết rất rõ người họa sĩ này”, người anh trai nhận xét. “Vâng. Em đã giúp ông ấy một số việc.”
“Em sẽ đến thăm ông ấy chứ?”
“Không.”
Không lâu sau 1989, ở Đan Mạch Josef nhận được một hộp đựng những bức ảnh chụp tranh mới của họa sĩ, lần này đã được vẽ một cách hoàn toàn tự do: không thể phân biệt chúng với hàng triệu bức tranh khác được vẽ khi đó trên toàn hành tinh; họa sĩ có thể tự tán dương vì một thắng lợi kép: ông hoàn toàn tự do và hoàn toàn giống với mọi người.
“Em vẫn thích bức tranh này chứ?” người anh trai hỏi.
“Vâng, nó vẫn luôn rất đẹp.”
Người anh trai hất đầu về phía người vợ: “Katy rất thích nó. Ngày nào bà ấy cũng đứng ngắm nó.” Rồi ông nói thêm: “Hôm sau ngày em ra đi, em nói anh đưa nó cho bố. Bố đã treo nó trên bàn làm việc ở bệnh viện. Bố biết Katy thích nó đến thế nào nên trước khi mất bố đã tặng lại cho bà ấy.” Sau một khoảng dừng ngắn: “Em không tưởng tượng được đâu. Bọn anh đã sống qua những năm tháng khủng khiếp.”
Nhìn người chị dâu, Josef nhớ là anh chưa bao giờ yêu quý bà. Mối ác cảm ngày xưa với bà (bà đáp lại điều đó một cách đầy đủ) giờ đây có vẻ thật ngu ngốc và đáng tiếc. Bà đứng đó, nhìn chăm chú vào bức tranh khuôn mặt biểu lộ một sự bất lực buồn bã và Josef, đầy thương cảm, nói với người anh trai: “Em biết.”
Người anh bắt đầu kể lại câu chuyện của gia đình, cơn hấp hối kéo dài của ông bố, bệnh tình của Katy, đám cưới bị hủy bỏ của con gái họ, rồi những ngón đòn đầy âm mưu chống lại ông ở bệnh viện, nơi vị trí của ông bị suy yếu nhiều vì chuyện Josef bỏ đi.
https://thuviensach.vn
Nhận xét cuối cùng không được nói ra bằng một giọng trách cứ, nhưng Josef không hề nghi ngờ về sự giận dữ mà người anh trai và người chị dâu hồi ấy hẳn đã mang trong lòng khi nói về anh, tức tối với những lý do ít ỏi mà Josef có thể đưa ra để biện minh cho sự xuất cư của mình mà chắc chắn họ đánh giá là thiếu trách nhiệm: chế độ không làm cho cuộc đời người thân của những người xuất cư trở nên dễ dàng.
https://thuviensach.vn
18
Trong phòng ăn, bàn đã sẵn sàng cho bữa trưa. Cuộc trò chuyện trở nên trơn tru hơn, người anh trai và người chị dâu muốn nói lại cho anh tất cả những gì đã xảy ra trong khi anh vắng mặt. Những thập niên bay lơ lửng phía trên mấy cái đĩa và người chị dâu, rất đột ngột, tấn công anh: “Em cũng đã từng có những năm cuồng tín. Em đã nói về Nhà thờ đến mức độ đó! Bọn chị ai cũng sợ em.”
Câu nói làm anh kinh ngạc: “Sợ em?” Người chị dâu nhắc lại chuyện. Anh nhìn bà: trên khuôn mặt bà, cái khuôn mặt mới chỉ lúc trước với anh còn rất khó nhận ra, giờ đây những đường nét của ngày xưa đã hiện lên thật rõ rệt.
Quả thực, nói rằng họ sợ anh thì thật là vớ vẩn, ký ức của người chị dâu chỉ có thể quanh quẩn ở mấy năm trung học của anh, từ khi anh mười sáu tuổi cho tới lúc anh mười chín tuổi. Hoàn toàn có thể là hồi ấy anh chế nhạo những người theo đạo, nhưng những lời nói đó không thể có gì chung với thứ chủ nghĩa vô thần đầy tính chiến đấu của chế độ và chỉ để nhằm vào gia đình anh, những người không bao giờ bỏ một buổi lễ mixa ngày Chủ nhật nào và bằng cách đó Josef muốn chứng tỏ mình là một kẻ khiêu khích. Anh đã thi bằng tú tài vào năm 1951, ba năm sau cuộc cách mạng, và chính vì cái cảm hứng khiêu khích ấy mà anh đã quyết định học ngành bác sĩ thú y: chữa bệnh cho những người ốm, phục vụ nhân loại, đó là niềm kiêu hãnh lớn của gia đình anh (ông nội anh cũng là bác sĩ), và anh muốn nói với tất cả mọi người rằng anh thích bò hơn người. Nhưng không có ai ngưỡng mộ hay dè bỉu sự nổi loạn của anh cả; ngành thú y về mặt xã hội được coi là kém cao cấp hơn, lựa chọn của anh được coi là xuất phát từ việc thiếu tham vọng, sự bằng lòng giữ một vị trí thứ yếu trọng gia đình, sau người anh trai.
Anh bối rối tìm cách giải thích (với họ và với chính anh) cái tâm lý tuổi thiếu niên của mình, nhưng từ ngữ gặp khó khăn trong việc đi ra khỏi miệng anh vì nụ cười bất di bất dịch của người chị dâu, hướng thẳng vào anh, diễn đạt một sự bất đồng không thể lay chuyển với tất cả những gì anh
https://thuviensach.vn
nói. Anh hiểu ra là mình không thể làm được gì; rằng điều đó giống như một quy luật: những người có cuộc đời thất bại lúc nào cũng tìm kiếm những kẻ có tội. Mà Josef thì hai lần có tội: với tư cách một thiếu niên nói những điều không hay về Chúa, và với tư cách người trưởng thành đã xuất cư. Anh đánh mất ham muốn giải thích bất kỳ điều gì và người anh trai, một nhà ngoại giao đầy nhạy cảm, lái cuộc trò chuyện sang một chủ đề khác.
Anh trai của anh: khi là sinh viên y khoa năm thứ hai, ông đã bị đuổi khỏi đại học, khi ấy là năm 1948, vì xuất thân từ gia đình tư sản; để không mất hy vọng sau này được trở về với việc học tập và trở thành bác sĩ phẫu thuật như bố mình, ông đã phải làm mọi cách để bày tỏ sự gắn kết của ông với chủ nghĩa cộng sản, tới mức một hôm, cõi lòng tan nát, ông đã phải gia nhập đảng và ở lại đó cho đến năm 1989. Con đường đi của hai anh em tách hẳn khỏi nhau: trước tiên bị tước mất quyền đi học, sau đó bị buộc phải chối từ những niềm tin của mình, người anh cả có cảm giác (ông sẽ luôn luôn có cảm giác ấy) rằng mình là một nạn nhân; ở trường thú y, ít bị theo dõi hơn, ít bị kiểm soát hơn, người em không cần phải trưng bày một thứ lòng trung thành đặc biệt đối với chế độ: trong mắt người anh trai, anh hiện ra (và sẽ luôn luôn hiện ra) như một tay cáo già nhỏ bé biết cách tìm đường thoát nạn: một kẻ đào ngũ.
Tháng Tám năm 1968, quân đội Nga đổ vào đất nước; trong một tuần, đường phố của mọi thành phố hú thét giận dữ. Chưa bao giờ đất nước trở thành tổ quốc ở mức độ cao như vậy, người Séc trở thành người Séc ở mức độ cao như vậy. Chao đảo vì tức giận Josef đã sẵn sàng lao mình vào đám xe tăng. Rồi các chính trị gia của Nhà nước bị đưa sang Matxcơva, buộc phải thực thi một thỏa hiệp sơ sài, và người Séc, vẫn giận dữ, trở về nhà. Khoảng mười bốn tháng sau, vào ngày kỷ niệm năm mươi hai năm Cách mạng Tháng Mười Nga, cái ngày được ấn định làm ngày nghỉ tại đất nước này, trong cái thị trấn nơi đặt phòng khám của mình, Josef lên xe lái đến gặp gia đình ở đầu kia đất nước. Tới thành phố, anh giảm tốc độ; anh tò mò nhìn xem có bao nhiêu cửa sổ treo cờ đỏ, vào cái năm thất bại đó hành động ấy đồng nghĩa với lời thú nhận đầu hàng. Có nhiều cờ hơn là anh chờ đợi: có thể là những người treo chúng đã đi ngược lại niềm tin của mình, vì thận
https://thuviensach.vn
trọng, với một nỗi sợ mơ hồ, nhưng dù sao họ cũng đã hành động một cách tự nguyện vì không ai bắt buộc họ, không ai đe dọa họ hết cả. Anh dừng xe trước ngôi nhà tuổi thơ.
Ở tầng nơi người anh trai sống, một lá cờ lớn, đỏ khủng khiếp; đang lấp lánh. Một phút dài, vẫn ngồi yên trong xe, anh ngắm nhìn nó; rồi anh nổ máy. Trong chuyến trở về, anh đã quyết định rời khỏi đất nước. Không phải vì anh không thể sống ở đây được nữa. Anh hoàn toàn có thể chữa bệnh cho những con bò một cách bình an. Nhưng anh chỉ có một mình, đã ly dị, không có con, tự do. Anh tự nhủ mình chỉ có một cuộc đời và mình muốn sống ở nơi khác.
https://thuviensach.vn
19
Cuối bữa ăn trưa, trước tách cà phê, Josef nghĩ đến bức tranh của mình. Anh tự nhủ làm cách nào để mang nó đi được và liệu, trên máy bay, nó có quá cổng kềnh hay không. Liệu có tiện hơn nếu gỡ toan khỏi khung rồi cuộn nó lại không?
Anh đã suýt nói đến chuyện ấy thì người chị dâu lên tiếng: “Chắc chắn là em phải đến gặp N.”
“Em còn chưa biết được.”
“Đó là người bạn lớn của em.”
“Thì vẫn là bạn của em mà.”
“Năm 48, tất cả mọi người đều run sợ trước ông ấy. Đồng Chí Ủy Viên! Nhưng ông ấy đã làm rất nhiều việc cho em, phải không nào? Em phải đến gặp ông ấy đi!”
Người anh trai vội ngắt lời vợ và chìa cho Josef một cái gói nhỏ: “Đây là cái bố đã giữ lại như một kỷ niệm về em. Bọn anh tìm được sau khi bố mất.”
Có vẻ như là anh trai anh sắp phải đến bệnh viện; cuộc gặp của họ sắp kết thúc và Josef nhận ra rằng bức tranh của anh đã biến mất khỏi cuộc nói chuyện. Thế nào cơ! Chị dâu anh nhớ tới người bạn N. nhưng bức tranh của anh thì lại quên mất? Thế nhưng, dù cho có sẵn sàng từ bỏ toàn bộ món thừa kế của mình, từ bỏ phần của anh với cái nhà, thì bức tranh vẫn là của anh, của một mình anh, với tên anh ghi bên cạnh tên người họa sĩ! Làm sao mà họ, bà ta và ông anh trai của anh, lại có thể làm ra vẻ nó không thuộc về anh?
Bầu không khí đột nhiên trở nên nặng nề và người anh trai bắt đầu kể một câu chuyện buồn cười nào đó. Josef không lắng nghe. Anh nhất quyết đòi lại bức tranh và, tập trung vào những gì muốn nói, anh lơ đãng liếc nhìn cổ tay ông anh trai và cái đồng hồ đeo trên đó. Anh nhận ra nó: to, đen, hơi lỗi mốt; nó từng ở trong căn hộ của anh và ông anh trai đã lấy nó đi. Không,
https://thuviensach.vn
Josef không hề có lý do gì để tức giận về chuyện ấy. Tất cả đều đã diễn ra theo các chỉ dẫn của chính anh; tuy thế, nhìn thấy đồng hồ của mình trên cổ tay một người khác cũng đủ để nhấn chìm anh vào một nỗi khó ở kỳ lạ. Anh có cảm giác mình đang tìm thấy lại thế giới theo cách của một người chết ra khỏi mồ sau hai mươi năm nằm dưới đó: anh dò dẫm đặt chân lên mặt đất, bàn chân đã mất thói quen đi lại; anh chỉ lờ mờ nhận ra cái thế giới nơi anh đã sống và không ngừng vấp phải những gì còn sót lại từ cuộc đời anh: anh nhìn thấy cái quần của mình, cái cà vạt trên cơ thể những người còn sống, đã chia chác chúng với nhau, một cách hết sức tự nhiên; anh nhìn thấy tất cả và không đòi hỏi gì hết: những người chết vốn rất rụt rè. Bị xâm chiếm bởi sự rụt rè người chết đó, Josef không tìm ra sức lực để nói dù chỉ là một từ về bức tranh của mình. Anh đứng dậy.
“Tối lại về đây nhé. Chúng ta sẽ ăn tối với nhau”, người anh trai nói. Đột nhiên Josef nhìn thấy khuôn mặt của vợ mình; anh cảm thấy vô cùng muốn được ở bên cô, nói chuyện với cô. Nhưng anh không thể: ông anh trai nhìn anh, đợi câu trả lời.
“Thôi em xin kiếu, em có ít thời gian quá. Để lần sau đi”, và anh nhã nhặn bắt tay hai người.
Trên đường trở về khách sạn, khuôn mặt người vợ lại hiện ra và anh nổi giận: “Lỗi của em đấy. Chính em đã nói với anh là anh phải đi đến đấy. Anh có muốn đâu. Anh không hề muốn cuộc trở về này. Nhưng em không chịu đồng ý. Với em việc không đi về đây là không bình thường, không thể biện minh thậm chí còn là một việc tồi tệ. Em vẫn cứ nghĩ là em có lý chứ?”
https://thuviensach.vn
20
Về đến phòng, anh mở cái gói mà ông anh trai đưa cho: một quyển album ảnh hồi anh còn nhỏ, mẹ anh, bố anh, ông anh trai, và nhiều lần là Josef hồi bé; anh để nó sang bên cạnh. Hai cuốn sách có hình minh họa cho trẻ con; anh ném vào sọt rác. Một bức tranh của trẻ con bằng bút chì màu với lời đề tặng: “Mừng sinh nhật mẹ” và chữ ký vụng về của anh; anh ném nó đi. Rồi một quyển sổ. Anh mở nó ra: nhật ký của anh hồi còn học trung học. Làm sao mà anh lại có thể để nó ở nhà bố mẹ được nhỉ?
Những gì viết trong đó thuộc về những năm đầu tiên của chủ nghĩa cộng sản nhưng, sự tò mò của anh hơi bị thất vọng, anh chỉ tìm thấy những miêu tả các cuộc hò hẹn với các cô gái học cùng trường. Kẻ phóng túng trước tuổi ư? Nhưng không: gã trai tân thì đúng hơn. Anh lơ đãng lật giở quyển sổ, rồi dừng lại ở những lời trách cứ dành cho một cô gái: “Em đã nói với anh rằng, trong tình yêu, chỉ có chuyện xác thịt. Em yêu ơi, em sẽ bỏ chạy tháo thân nếu một người đàn ông thú nhận với em rằng anh ta chỉ thèm muốn xác thịt của em. Và em sẽ hiểu cái cảm giác kinh khủng của cô đơn.”
Cô đơn. Từ này thường xuyên quay trở lại. Anh có ý định làm họ sợ bằng cách miêu tả cái viễn cảnh cô đơn đáng kinh hãi. Để họ yêu anh, anh rao giảng với họ như một tu sĩ: bên ngoài các tình cảm, ái tình trải rộng như một sa mạc, nơi người ta chết vì buồn bã.
Anh đọc mà không nhớ được gì cả. Vậy thì kẻ lạ mặt kia đến để nói với anh điều gì? Nhắc nhở anh rằng, ngày trước, hắn đã sống ở đây dưới cái tên của anh? Josef đứng dậy đi ra cửa sổ. Quảng trường được mặt trời cuối buổi chiều chiếu sáng, và hình ảnh hai bàn tay trên bức tường lớn lần này hoàn toàn rõ ràng: một bàn tay trắng, một bàn tay đen. Phía trên, một cụm từ viết tắt gồm ba chữ cái hứa hẹn “an ninh” và “đoàn kết”. Không nghi ngờ gì nữa, bức tranh đã được vẽ sau năm 1989, khi đất nước đã sử dụng tới những khẩu hiệu của thời đại mới: tình anh em giữa mọi giống loài; sự hòa trộn của tất cả các văn hóa; sự thống nhất của tất cả mọi thứ, sự thống nhất của tất cả mọi người.
https://thuviensach.vn
Những bàn tay bắt lấy nhau trên những tấm áp phích. Josef từng nhìn thấy nhiều! Người công nhân Séc bắt tay người lính Nga! Dù cho có bị ghét bỏ, thì vẫn không thể chối cãi rằng cái hình ảnh tuyên truyền ấy từng là một phần Lịch sử của người Séc, những người có cả nghìn lý do để bắt hay đẩy ra xa các bàn tay của người Nga hay người Đức. Nhưng một bàn tay đen? Tại đất nước này, người ta chỉ lờ mờ biết rằng người da đen có tồn tại. Cả đời mình, mẹ anh chưa bao giờ gặp một người da đen nào.
Anh nhìn những bàn tay treo lơ lửng giữa trời và đất, to lớn, to hơn cả gác chuông nhà thờ, những bàn tay đã đặt nơi này vào một khung cảnh khác đến mức dữ dội. Anh nhìn ngó thật lâu cái quảng trường phía dưới như thể đang tìm kiếm những dấu vết mà, khi còn trẻ; anh đã để lại trên nền đường lát đá khi đi dạo với những người bạn học.
“Những người bạn học”; anh chậm rãi phát âm những từ đó, giọng thật nhỏ để hít thở cái hương vị (rất yếu! chỉ hơi cảm nhận được!) của tuổi trẻ xa xưa, cái khoảng thời gian đã qua đi, lạc lối, cái khoảng thời gian bị bỏ rơi, buồn bã như một trại trẻ mồ côi; nhưng trái ngược với Irena trong thành phố tỉnh lẻ Pháp, anh không cảm thấy chút trìu mến nào với cái quá khứ đang ló hiện một cách bất lực ấy; không một ham muốn trở về nào hết; chỉ có một sự e dè nhẹ nhàng; sự tách biệt.
Nếu là bác sĩ, tôi sẽ chẩn đoán cho trường hợp của anh: “Người bệnh mắc chứng không đủ hoài nhớ.”
https://thuviensach.vn
21
Nhưng Josef không nghĩ là mình bị bệnh. Anh nghĩ rằng mình sáng suốt. Với anh sự thiếu hoài nhớ là bằng chứng của chút ít giá trị cuộc sống đã qua của mình. Cho nên tôi xin sửa lại chẩn đoán: “Người bệnh mắc chứng biến dạng ký ức mang tính khổ dâm”. Quả thực, anh chỉ còn nhớ những tình huống từng khiến anh cảm thấy không hài lòng với chính mình. Anh không yêu quý gì tuổi thơ cả. Nhưng khi còn nhỏ, chẳng phải là anh có tất cả những gì anh muốn đấy ư? Bố anh không được tất cả các bệnh nhân của ông trọng vọng ư? Tại sao ông anh trai của anh tự hào với điều đó còn anh thì không? Anh thường xuyên đánh nhau với lũ bạn của mình và đánh nhau rất can trường. Giờ anh đã quên mất tất cả những chiến thắng của mình, nhưng anh sẽ luôn nhớ rằng một người bạn mà anh nghĩ là yếu ớt hơn mình một hôm đã cưỡi lên lưng anh và đè chặt anh xuống đất trống suốt mười giây được đếm xướng lên. Tới giờ anh vẫn còn cảm thấy trên da thịt mình cái phản lực đầy nhục nhã của mặt đất. Khi sống ở Bohême và gặp những người từng biết anh trước đây, anh luôn ngạc nhiên vì người ta cứ nghĩ anh là người can đảm (anh tự thấy mình hết sức nhút nhát), có tinh thần châm chọc (anh nghĩ mình thật nhàm chán) và có thiện tâm (anh chỉ còn nhớ những trò bất lương của mình).
Anh biết rất rõ rằng ký ức của anh rất căm ghét anh, rằng nó chỉ tìm cách bôi nhọ anh; do đó anh cố sức không tin vào những gì nó kể lại cho anh và độ lượng hơn với cuộc đời mình. Thất bại hoàn toàn: anh không cảm thấy chút hứng thú nào với việc ngoái nhìn lại sau lưng và cố làm việc ấy càng ít càng tốt.
Theo những gì anh muốn người khác và chính anh tin, anh đã rời khỏi đất nước bởi vì anh không thể chịu đựng được cảnh nhìn thấy nó bị quy phục và làm nhục. Những gì anh nói là đúng, nhưng không ngăn cản được phần lớn người Séc cảm thấy giống như anh, bị quy phục và bị làm nhục, và tuy thế họ không chạy ra nước ngoài. Họ ở lại trong nước, bởi vì họ tự yêu mình và bởi vì họ tự yêu mình với cuộc đời không tách biệt khỏi nơi họ
https://thuviensach.vn
sống. Vì ký ức của anh rất ác ý không chịu cung cấp cho anh bất kỳ điều gì ngõ hầu khiến cho cuộc sống của anh ở trong nước trở nên thân thuộc, anh đã vượt qua biên giới bằng một bước chân nhẹ nhõm và không chút tiếc nuối.
Liệu rằng ở nước ngoài ký ức của anh có mất đi cái ảnh hưởng độc hại ấy không? Có; bởi vì ở đó, Josef không hề có lý do lẫn cơ hội nào để quan tâm đến các kỷ niệm gắn liền với đất nước nơi anh không còn sống nữa; đó là quy luật của thứ ký ức mang tính khổ dâm: những đoạn cuộc đời anh ta càng chìm sâu vào quên lãng, thì anh ta càng thoát khỏi những gì anh ta không thích thú và cảm thấy nhẹ nhõm hơn, tự do hơn.
Và nhất là, ở nước ngoài, Josef đã yêu và tình yêu, đó là sự phấn hứng của thì hiện tại. Sự gắn kết với hiện tại của anh đã đuổi đi các kỷ niệm, đã bảo vệ anh trước những can thiệp của chúng; ký ức của anh không trở nên kém ác ý hơn nhưng, bị lờ đi, bị nhốt giữ ở một khoảng cách xa, nó đánh mất quyền lực lên anh.
https://thuviensach.vn
22
Thời gian mà chúng ta để lại sau lưng càng rộng lớn, giọng nói mời gọi chúng ta quay trở lại càng trở nên khó cưỡng hơn. Câu châm ngôn này có vẻ là một điều hiển nhiên, nhưng thật ra nó lại sai. Con người già đi, kết cục đến gần, mỗi thời điểm ngày càng trở nên thân thiết hơn và không còn nhiều thời gian để mất với các kỷ niệm nữa. Cần phải hiểu cái nghịch lý toán học của sự hoài nhớ: nó mạnh mẽ nhất vào thời trẻ khi khối lượng cuộc đời đã đi qua vẫn còn vô cùng nhỏ bé.
Từ trong làn sương mù của cái thời Josef vẫn còn là học sinh trung học, tôi nhìn thấy hiện lên một cô gái; cô có chân tay thật dài, xinh đẹp, còn trinh, và buồn bã vì mới chia tay một cậu con trai. Đó là cuộc chia tay tình yêu đầu tiên của cô, và cô đau khổ vì điều ấy nhưng sự đau khổ của cô không mạnh bằng niềm kinh ngạc mà cô cảm thấy khi khám phá ra thời gian; cô nhìn thấy nó như trước đây chưa từng bao giờ nhìn thấy:
Cho đến lúc ấy, thời gian hiện ra trước cô dưới dáng vẻ của hiện tại đang tiến lên phía trước và nuốt đi tương lai; cô sợ hãi tốc độ của nó (những khi chờ đợi một điều gì đó nặng nề) hoặc nổi loạn chống lại sự chậm rãi của nó (những khi chờ đợi một điều gì đó đẹp đẽ). Lần này, với cô thời gian đã khác hẳn đi: đó không còn là cái hiện tại chuyên đi chinh phục đang vồ lấy tương lai nữa; đó là cái hiện tại thua cuộc, bị cầm tù, bị quá khứ mang đi mất. Cô nhìn thấy một chàng thanh niên tách ra khỏi cuộc đời mình đi mất, không bao giờ tiếp xúc lại được nữa. Bị thôi miên, cô không còn có thể làm được gì nữa ngoài việc nhìn cái mẩu cuộc đời đang rời xa mình ấy, cô chỉ còn có thể nhìn nó để mà đau khổ. Cô cảm thấy một cảm giác hoàn toàn mới mang cái tên hoài nhớ.
Cảm giác đó, cái ham muốn quay trở lại không sao cưỡng nỗi đó, ngay lập tức hé lộ cho cô sự tồn tại của quá khứ, quyền lực của quá khứ, quá khứ của cô; trong ngôi nhà cuộc đời cô, những cánh cửa sổ hiện ra, những cánh cửa sổ mở ra đằng sau, về phía những gì cô đã sống qua; không có những cánh cửa sổ ấy, kể từ nay, không thể cảm nhận được tồn tại của cô nữa.
https://thuviensach.vn
Một hôm, với người yêu mới (người yêu theo lối Platon, dĩ nhiên), cô đi dạo trên một lối đi trong khu rừng gần thành phố; cũng chính trên lối đi này mới vài tháng trước, cô đã dạo chơi cùng người yêu cũ (người, sau khi chia tay, đã khiến cô lần đầu tiên biết đến nỗi hoài nhớ) và sự trùng hợp này khiến cô cảm động. Suy nghĩ thật kỹ, cô đi về phía một nhà thờ nhỏ tàn tạ ở một chỗ giao nhau của những con đường rừng, vì người yêu trước của cô đã muốn hôn cô ở chính nơi đó. Cám dỗ khôn cưỡng mời gọi cô sống lại những khoảnh khắc của mối tình đã chấm dứt. Cô muốn rằng hai câu chuyện tình gặp nhau, thân thuộc với nhau, hòa vào nhau, bắt chước nhau và nhờ sự kết hợp mà cả hai đều được lớn thêm lên.
Khi người yêu lúc ấy, ở chỗ đó, định dừng lại để ôm cô vào lòng, cô, hạnh phúc và bối rối, đã rảo bước chân và ngăn cản cậu làm việc ấy. Lần này, điều gì sẽ xảy ra? Người yêu hôm nay của cô cũng bước chân chậm lại, cả cậu cũng sắp sửa ôm lấy cô! Choáng ngợp trước sự lặp lại này (bởi tính chất kỳ diệu của sự lặp lại này), cô vâng theo mệnh lệnh của sự giống nhau và kéo mạnh tay người tình, đi thật nhanh lên phía trước.
Kể từ đó, cô tự buông thả cho những điều gần gũi ấy, cho những động chạm thoáng qua của hiện tại và quá khứ, cô tìm kiếm những tiếng vọng ấy, những giao hòa ấy, những âm hưởng, tất cả đều khiến cô cảm nhận rõ khoảng cách giữa những gì từng xảy ra, cái chiều thời gian (mới mẻ làm sao, đáng kinh ngạc làm sao) của đời mình; cô có cảm giác bằng cách ấy mình thoát được ra khỏi tuổi niên thiếu, được trưởng thành, trở thành người lớn, điều ấy có ý nghĩa này với cô: trở thành người quen biết với thời gian, người để lại một mảnh đời sau lưng và có thể quay lại để nhìn nó.
Một hôm, cô nhìn thấy người yêu mới chạy về phía cô trong chiếc áo vest màu xanh và cô nhớ rằng người yêu đầu tiên cũng rất bảnh khi mặc vest xanh. Một hôm khác, nhìn thẳng vào mắt cô, cậu ca ngợi vẻ đẹp của chúng bằng một lối nói mang tính ẩn dụ rất kỳ quặc; cô ngây ngất với điều đó vì, về đôi mắt cô, người yêu đầu tiên đã nói chính xác câu ấy, đúng từng từ một. Các trùng hợp đó quyến rũ cô. Chưa bao giờ cô cảm thấy cái đẹp nhập sâu vào mình đến như là khi nỗi hoài nhớ mối tình đã qua hòa trộn với những ngạc nhiên về mối tình mới. Với cô sự đột nhập của người yêu ngày
https://thuviensach.vn
xưa vào câu chuyện cô đang trải qua không phải là một sự thiếu chung thủy bí mật, mà càng làm tăng thêm sự trìu mến của cô dành cho người đang bước đi bên cạnh cô.
Khi đã nhiều tuổi hơn, cô sẽ nhìn thấy trong những điểm giống nhau đó một sự đồng phục đáng tiếc của các cá nhân (những người, để hôn nhau, đều dừng lại cùng những nơi đó, có cùng gu ăn mặc đó, nịnh đầm bằng cùng ẩn dụ đó) và một sự độc âm gây mệt mỏi của các sự kiện (những cái không là gì khác ngoài một sự lặp lại vĩnh cửu); nhưng khi còn ở tuổi thiếu niên, cô đón nhận những trùng hợp ấy như một điều kỳ diệu, chăm chăm tìm cách giải mã ý nghĩa của chúng. Việc người yêu hôm nay giống người yêu ngày xưa một cách kỳ lạ khiến cho điều kỳ diệu đó càng đặc biệt hơn, càng độc đáo hơn, và cô tin rằng nó được bí mật dành sẵn cho cô từ trước.
https://thuviensach.vn
23
Không, không hề có ám chỉ chính trị nào trong quyển nhật ký hết. Không một dấu vết nào của thời kỳ đó, có lẽ là chỉ trừ thứ chủ nghĩa thuần khiết của những năm đầu chủ nghĩa cộng sản, cộng với, ở hậu cảnh, lý tưởng về tình yêu bi lụy. Josef khựng lại trước một lời thú nhận của cậu con trai: cậu dễ dàng tìm được sự táo bạo để vuốt ve ngực một cô gái, nhưng sẽ phải vượt qua sự e thẹn của chính mình để sờ được vào mông cô. Cậu rất có ý thức về tính chính xác: “Trong cuộc gặp hôm qua, mình chỉ dám sờ vào mông cô ấy hai lần”.
Bị cái mông làm cho sợ hãi, cậu lại càng thêm thèm muốn tình cảm: “Cô ấy đã đảm bảo với mình về tình yêu, lời hứa về sự giao cấu của cô ấy là thắng lợi của mình...” (có vẻ như là sự giao cấu với tư cách bằng chứng của tình yêu với cậu có tầm quan trọng còn lớn hơn bản thân hành động ấy) nhưng mình thất vọng: không có chút phấn khích nào trong những lần gặp. Mình kinh hoàng khi tưởng tượng ra cuộc sống chung.” Và một đoạn sau: “Mệt mỏi làm sao thứ chung thủy không bắt nguồn từ một niềm đam mê đích thực”.
Sự phấn khích; cuộc sống chung; lòng chung thủy; niềm đam mê đích thực. Josef dừng lại ở những từ này. Chúng có thể có nghĩa gì với một người chưa hề trải đời? Chúng vừa to lớn vừa mơ hồ và sức mạnh của chúng nằm chính trong sự mù mờ của chúng. Cậu đang tìm kiếm các cảm giác mà cậu chưa biết đến, mà cậu không hiểu; cậu tìm kiếm chúng ở người yêu của mình (rình mò từng cảm xúc nhỏ nhất hiện ra trên mặt cô), cậu tìm kiếm chúng ở chính mình (trong những giờ hồi cố dài vô tận), nhưng lúc nào cũng bị thất vọng hết cả. Chính vào lúc đó cậu đã viết (Josef buộc phải công nhận tính sáng suốt đáng kinh ngạc của lời nhận xét này): “Ham muốn cảm thấy đồng cảm với cô ấy và ham muốn làm cho cô ấy đau khổ chỉ là một ham muốn duy nhất”. Và trên thực tế, cậu đã cư xử như thể bị câu văn ấy dẫn dắt: để cảm thấy đồng cảm (để đạt đến sự phấn khích của đồng cảm), cậu làm mọi việc để được nhìn thấy bạn gái của mình đau khổ; cậu
https://thuviensach.vn
hành hạ cô: “Mình đã khơi dậy ở cô ấy những nghi ngờ về tình yêu của mình. Cô ấy ngã vào vòng tay mình, mình an ủi cô ấy, mình tắm trong sự buồn bã của cô ấy và, trong một lúc mình cảm thấy ở bên trong mình phun trào một ngọn lửa kích thích nho nhỏ”.
Josef cố hiểu thằng nhãi ranh đó, đi vào bên trong con người cậu ta, nhưng không thể. Thứ tình cảm chủ nghĩa trộn lẫn với thói bạo dâm ấy, tất cả đều hoàn toàn trái ngược với những sở thích và bản chất con người anh. Anh xé một trang giấy trắng từ quyển nhật ký, cầm lấy một cái bút chì và chép lại câu đó: “… mình tắm trong sự buồn bã của cô ấy”. Anh ngắm nhìn thật lâu hai kiểu chữ viết: chữ viết ngày xưa hơi vụng về, nhưng các chữ vẫn có cùng hình dáng với chữ hôm nay. Anh thấy sự giống nhau này thật đáng ghét, nó làm anh bực bội, nó làm anh thấy giật nảy. Làm cách nào mà hai con người xa lạ với nhau đến thế, trái ngược nhau đến thế, lại có thể có cùng một kiểu chữ viết? Cái bản chất chung làm nên một con người duy nhất từ anh và cậu bé vắt mũi chưa sạch kia là gì?
https://thuviensach.vn
24
Cả thằng nhãi ranh lẫn cô học sinh trung học đều không có căn hộ nào để có thể được ở riêng với nhau; sự giao cấu mà cô hứa hẹn phải rời lại cho kỳ nghỉ hè vẫn còn xa xôi. Trong khi chờ đợi, họ giết thời gian bằng cách cầm tay nhau đi trên vỉa hè hoặc những lối đi trong rừng (những cặp yêu nhau thời đó là những người dạo chơi không mệt mỏi), bị kết án phải lặp đi lặp lại những câu chuyện và những động chạm không dẫn đến đâu cả. Trong cái sa mạc thiếu vắng phấn hứng đó, một hôm cậu thông báo với cô rằng sự chia tay của họ là không thể tránh khỏi và cậu sẽ sớm chuyển lên sống ở Praha.
Josef kinh ngạc vì những gì anh đang đọc: chuyển lên sống ở Praha? dự định đó chỉ đơn giản là không thể, gia đình anh chưa bao giờ muốn rời khỏi thành phố này. Và đột nhiên, kỷ niệm trồi lên khỏi lãng quên, hiện diện và sống động một cách khó chịu: anh đang ở trên một lối đi trong rừng, đứng trước mặt cô gái ấy, và nói với cô về Praha! Anh nói về cuộc chuyển nhà và anh nói dối! Anh nhớ rất rõ cái ý thức về việc mình đang nói dối ấy, anh nhìn thấy mình đang nói dối, nói dối để có thể làm cô học sinh trung học phải bật khóc!
Anh đọc: “Cô ấy vừa nức nở vừa ôm chặt lấy mình. Mình hết sức chú ý tới từng biểu hiện nỗi đau khổ của cô ấy và lấy làm tiếc là đã không nhớ được chính xác số lần cô ấy nấc lên”.
Có thể như thế được chăng? “Hết sức chú ý tới từng biểu hiện nỗi đau khổ của cô ấy”, anh đã đếm những lần nức nở của cô! Kẻ tra tấn-kế toán viên! Đó là cách anh cảm nhận, cách sống, cách tận hưởng, cách làm cho tình yêu viên mãn! Anh ôm siết lấy cô, cô nức nở còn anh thì đếm!
Anh đọc tiếp: “Rồi cô ấy bình tĩnh lại và nói với mình: “Giờ đây thì em hiểu các nhà thơ vẫn mãi chung thủy cho đến tận khi chết”. Cô ấy ngẩng đầu lên nhìn mình, đôi môi run rẩy”. Trong quyển nhật ký từ “run rẩy” được gạch chân.
https://thuviensach.vn
Anh không còn nhớ cả những lời nói lẫn đôi môi run rẩy. Kỷ niệm duy nhất còn sống động là khoảnh khắc khi anh nói ra những điều dối trá về việc chuyển lên sống ở Praha. Không có gì khác còn đọng lại trong ký ức của anh. Anh cố công nhớ lại rõ rệt hơn các đường nét của cô gái kỳ quặc đã không nhắc đến các ca sĩ hay các tay vợt tennis mà lại nhắc đến các nhà thơ; các nhà thơ “chung thủy cho đến tận khi chết”! Anh nhấm nháp mức độ lệch thời của câu nói được chép lại một cách cẩn thận đó và càng lúc càng thêm cảm thấy trìu mến cái cô gái cũ kỹ một cách dịu dàng ấy. Điều duy nhất anh trách cứ ở cô là đã đem lòng yêu một thằng nhóc vắt mũi chưa sạch đáng ghét chỉ chăm chăm tìm cách hành hạ cô.
A, cái thằng bé đó; anh nhìn thấy nó đang nhìn chăm chú vào đôi môi của cô gái, đôi môi đang run rẩy dù cô không muốn không kiểm soát được, không thể kiểm soát! Hẳn lúc ấy anh đã cảm thấy bị kích thích như khi quan sát một cơn cực khoái (cơn cực khoái của phụ nữ mà anh hoàn toàn không có chút ý niệm nào)! Có lẽ là anh đã cương cứng!
Chắc chắn rồi!
Thôi đủ rồi! Josef lật các trang khác và biết được rằng cô học sinh trung học chuẩn bị đi trượt tuyết với lớp cô ở vùng núi cao trong vòng một tuần; thằng bé kia đã phản đối, đã dọa sẽ cắt đứt với cô; cô giải thích rằng điều đó thuộc vào các nghĩa vụ với trường; nó không muốn nghe gì hết và nổi điên lên (lại thêm một cơn phấn hứng! cơn phấn hứng của sự điên giận!): “Nếu em đi, mọi chuyện sẽ chấm dứt giữa chúng ta. Anh thề với em đấy, chấm dứt!”
Cô đã trả lời như thế nào? Đôi môi cô có run lên khi nghe thấy cơn bùng nổ mang tính động kinh đó? Chắc chắn là không bởi cái hành động không kiểm soát được của đôi môi ấy, cơn cực khoái trinh nữ ấy, làm thằng bé bị kích thích đến nỗi hẳn là đã quên mất không để ý. Có vẻ như là lần này nó đã đánh giá quá cao quyền lực của mình. Bởi vì không có từ nào nhắc đến cô học sinh trung học. Tiếp theo đó là vài miêu tả những cuộc hò hẹn nhạt nhẽo với một cô gái khác (anh đã nhảy cách nhiều dòng) và quyển nhật ký kết thúc khi hết lớp bảy (các trường trung học Séc có tổng cộng tám lớp), đúng vào lúc một người phụ nữ nhiều tuổi hơn (về bà thì anh còn nhớ rõ)
https://thuviensach.vn
giúp anh khám phá tình ái nhục dục và giúp anh chuyển dịch cuộc đời mình sang những đường ray khác; tất cả những cái đó, anh không chép lại nữa; quyển nhật ký không sống sót được sau sự trinh trắng của tác giả; một chương rất ngắn cuộc đời anh đã kết thúc và, không có đoạn tiếp cũng không có hậu quả nào, đã được nhường lại cho cái ánh sáng mờ tỏ của những thứ đồ vật bị lãng quên.
Anh xé các trang quyển nhật ký thành từng mẩu nhỏ. Hành động chắc chắn là quá đà, không cần thiết; nhưng anh cảm thấy nhu cầu để cho nỗi tức tối trong mình được thoải mái tuôn trào; nhu cầu diệt trừ thằng nhãi ranh để một ngày (dù chỉ là trong một cơn ác mộng) nó sẽ không thể bị nhầm là anh nữa, bị chửi bới ở chỗ của anh, bị coi là có trách nhiệm về những lời nói và hành động của anh!
https://thuviensach.vn
25
Đúng lúc ấy điện thoại đổ chuông. Anh nhớ đến người phụ nữ gặp ở sân bay và nhấc máy lên.
“Ông sẽ không nhận ra tôi đâu”, anh nghe thấy cô nói.
“Có chứ, có chứ, tôi nhận ra rất rõ. Nhưng tại sao cô lại xưng hô trang trọng như vậy với tôi?”
“Nếu ông muốn, tôi sẽ xưng hô khác! Nhưng ông không thể biết là ông đang nói chuyện với ai đâu.”
Không, không phải là người phụ nữ ở sân bay. Đây là một giọng nói ơ hờ, quá nhiều âm mũi một cách đáng ghét. Cô ta tự giới thiệu: đứa con gái của cuộc hôn nhân trước của người vợ mà anh đã ly dị sau vài tháng sống chung, khoảng ba mươi năm trước.
“Quả thực là lúc nãy tôi không biết đang nói chuyện với ai cả”, anh gượng cười, nói.
Kể từ khi ly dị chưa lần nào anh gặp lại họ, cả người vợ cũ lẫn đứa con riêng. trong ký ức của anh, cô chỉ là một bé gái.
“Cháu cần nói chuyện với ông. Nói chuyện với chú”, cô sửa lại. Anh tiếc là đã xưng hô thân mật với cô, anh thấy sự gần gũi ấy thật đáng ghét, nhưng không làm được gì nữa rồi. “Làm sao mà cháu biết chú ở đây? Có ai biết đâu nhỉ.”
“Nhưng mà cháu vẫn biết.”
“Bằng cách nào?”
“Bà chị dâu của chú.”
“Chú không biết là cháu quen chị ấy.”
“Mẹ cháu có quen.”
Anh hiểu ngay ra cái liên minh đã hình thành một cách bột phát giữa hai người đàn bà.
“Thế ra là cháu gọi điện thay cho mẹ cháu à?”
https://thuviensach.vn
Cái giọng ơ hờ trở nên nằn nì: “Cháu cần nói chuyện với chú. Cháu phải nói chuyện với chú”.
“Cháu hay mẹ cháu?”
“Cháu.”
“Trước hết thì hãy nói cho chú là có chuyện gì đi cái đã.”
“Chú có muốn gặp cháu hay không?”
“Chú muốn cháu nói cho chú là có chuyện gì.”
Cái giọng ơ hờ trở nên gây sự: “Nếu không muốn gặp cháu thì chú cứ nói thẳng ra đi”.
Anh ghét sự nằn nì của cô nhưng không tìm được dũng khí để từ chối không gặp. Giữ bí mật lý do cuộc gặp là một thủ thuật đầy hiệu quả của đứa con riêng: anh thấy lo lắng “Chú chỉ ở đây vài ngày, chú rất vội. Nhưng dẫu sao thì chú cũng có thể có nửa tiếng...’’, và anh hẹn gặp cô ở Praha, tại một quán cà phê, ngày anh đi.
“Chú sẽ không đến.”
“Chú sẽ đến.”
Khi bỏ máy, anh thấy như thể mình đang lên cơn buồn nôn. Họ có thể muốn gì ở anh? Một lời khuyên? Người ta sẽ không tỏ ra gây sự khi cần một lời khuyên. Họ muốn làm anh rối trí. Chứng tỏ rằng họ có tồn tại. Làm anh mất thời gian. Nhưng trong trường hợp ấy, tại sao anh lại hẹn gặp cô ta? Vì tò mò? Thôi nào! Anh đã nhường bước vì anh sợ. Anh đã quy phục trước một phản ứng cũ kỹ: để có thể tự vệ, anh luôn muốn có thông tin đúng lúc về mọi điều. Nhưng tự vệ ư? Ngày hôm nay? Trước cái gì? Tất nhiên, anh không gặp nguy hiểm nào cả. Chỉ đơn giản là giọng nói đứa con riêng của vợ cũ đã bọc anh vào làn sương mù của những kỷ niệm cũ: những trò âm mưu; những can thiệp của bố mẹ; phá thai; những giọt nước mắt; những lời vu khống; những vụ đe dọa; sự gây hấn về mặt tình cảm; những đợt giận dữ; những lá thư nặc danh: toàn chuyện ngồi lê đôi mách.
Cuộc đời mà chúng ta để lại sau lưng có cái thói quen xấu là thích chui ra từ bóng tối, phàn nàn về chúng ta, kiện cáo chúng ta. Xa Bohême, Josef đã học được cách không quan tâm tới quá khứ nữa. Nhưng quá khứ vẫn ở
https://thuviensach.vn
đó, chờ đợi anh, quan sát anh. Khó chịu, Josef cố sức nghĩ đến chuyện khác. Nhưng một người về thăm đất nước của quá khứ mình có thể nghĩ đến điều gì, nếu không phải là quá khứ của anh ta? Trong hai ngày còn lại, anh sẽ làm gì đây? Đi thăm thành phố nơi anh từng có phòng khám thú y chăng? Hay là đứng lặng trước ngôi nhà anh từng sống? Anh không hề có ham muốn làm những việc ấy. Liệu có được ít nhất một ai đó trong số những người quen cũ mà anh thực sự muốn gặp không? Hình ảnh N. hiện ra. Trước kia, khi những kẻ hăng máu của cuộc cách mạng buộc tội chàng trai Josef còn rất trẻ về một điều gì đó có Chúa mới biết (trong những năm ấy, mọi người đều bị buộc tội, lúc này hay lúc khác, về một điều gì đó có Chúa mới biết), N., người cộng sản có thế lực ở trường đại học, đã bảo vệ anh, không buồn quan tâm đến tư tưởng và lý lịch gia đình anh. Chính vì vây mà họ đã trở thành bạn, và nếu Josef có thể tự trách cứ một điều gì đó, thì đó là đã gần như quên hẳn ông trong suốt những năm rời khỏi đất nước.
“Đồng Chí Ủy Viên! Tất cả mọi người đều run sợ trước ông ấy!” người chị dâu đã nói, ngầm tỏ ý rằng Josef, vì mối lợi bản thân, đã gần gũi với một người thuộc chế độ. Tội nghiệp cho các đất nước chao đảo dưới những ngày tháng lớn lao của lịch sử! Cuộc chiến kết thúc, mọi người liền đổ xô vào những cuộc hành trình mang tính sám hối về phía quá khứ để lục ra từ đó những kẻ thủ phạm. Nhưng ai là thủ phạm? Những người cộng sản đã giành chiến thắng vào năm 1948 ư? Hay là các đối thủ bất lực đã thất bại của họ? Tất cả đều truy đuổi những kẻ thủ phạm và tất cả đều bị truy đuổi. Khi ông anh trai của Josef vào đảng để có thể tiếp tục theo học, bạn bè của ông đã buộc tội ông là kẻ xu thời. Chuyện đó càng khiến ông căm ghét hơn cái chủ nghĩa mà ông coi là thủ phạm gây ra sự non gan ở mình, và vợ ông đã tập trung lòng căm ghét của bà để chống lại những người như N., nhà mác xít toàn tòng trước cách mạng, từng tham gia một cách tự nguyện (thế nên không thể tìm ra được gì để tự biện hộ hết) cuộc khai sinh cái mà bà coi là cái ác lớn nhất.
Điện thoại lại đổ chuông. Anh nhấc máy và lần này chắc chắn là mình nhận ra cô. “Cuối cùng thì!”
“A, tôi rất vui vì câu “cuối cùng thì” của anh! Anh chờ tôi gọi à?”
https://thuviensach.vn
“Vô cùng sốt ruột.”
“Thật không?”
“Tôi đang có tâm trạng tồi tệ kinh khủng! Nghe giọng cô là mọi chuyện liền thay đổi!”
“A, anh làm tôi cảm thấy sung sướng đấy! Tôi thật là muốn anh đang ở đây với tôi, ở nơi tôi đang ở đây này.”
“Tôi cũng vô cùng tiếc vì không thể làm được như vậy.”
“Anh tiếc à? Thật không?”
“Thật.”
“Tôi sẽ gặp được anh trước khi anh đi chứ?”
“Được, cô sẽ gặp tôi.”
“Chắc chắn chứ?”
“Chắc chắn. Chúng ta sẽ ăn trưa cùng nhau vào ngày kia!” ‘Tôi sẽ rất vui.”
Anh cho cô địa chỉ khách sạn của mình ở Praha.
Khi bỏ máy, cái nhìn của anh rơi trúng quyển nhật ký bị xé, giờ đây chỉ còn là một đống mảnh giấy vụn trên bàn. Anh cầm lấy toàn bộ chỗ giấy đó và vui vẻ ném cả vào sọt rác.
https://thuviensach.vn
26
Ba năm trước 1989, Gustaf mở tại Praha một văn phòng cho hãng của mình, nhưng anh chỉ đến đó vài lần một năm. Chỉ như vậy là đã đủ để làm anh yêu thành phố này và coi nó là một nơi lý tưởng để sống: không chỉ vì tình yêu với Irena mà còn (có thể là nhất là) bởi vì ở đây anh cảm thấy, còn hơn cả ở Paris, được cắt đứt khỏi Thụy Điển, khỏi gia đình anh, khỏi cuộc đời đã qua của anh. Khi, thật bất ngờ, chủ nghĩa cộng sản biến mất khỏi châu Âu, anh không do dự thuyết phục hãng rằng Praha phải là địa điểm chiến lược trong cuộc chinh phục các thị trường mới. Anh cho mua một ngôi nhà đẹp theo lối barôc, đặt văn phòng ở đây và chiếm lấy hai phòng áp mái. Về phần mình, bà mẹ của Irena sống một mình trong một ngôi biệt thự ngoại ô để cả tầng trên cho Gustaf tùy ý sử dụng, cho nên anh có thể thay đổi chỗ ở tùy theo tâm trạng.
Thiu thiu ngủ và bị lãng quên vào thời cộng sản, Praha tỉnh dậy dưới mắt anh, tràn ngập khách du lịch, sáng bừng lên những cửa hàng và quán ăn mới, những ngôi nhà barôc được sửa sang và sơn lại. “Praha is my town!” anh thốt lên. Anh đem lòng yêu thành phố này: không phải là theo cách thức một người yêu nước tìm kiếm ở mỗi góc của đất nước nguồn gốc của mình, kỷ niệm của mình, dấu vết những người thân đã qua đời của mình, mà như một người lữ hành để mặc cho mọi sự làm kinh ngạc và sửng sốt, như một đứa trẻ dạo chơi, ngây ngất, trong một công viên giải trí và không muốn rời khỏi đó nữa. Khi biết được về lịch sử Praha, anh thao thao bất tuyệt thật lâu, trước những người muốn nghe, về phố phường của nó, những cung điện của nó, những nhà thờ của nó, và nói mãi không ngừng về các ngôi sao của thành phố: về hoàng đế Rodolf (người bảo trợ các họa sĩ và các nhà giả kim), về Mozart (theo lời đồn đại thì có một tình nhân ở đây), về Franz Kafka (suốt cả đời bất hạnh tại thành phố này, đã trở thành vị thánh bảo trợ của nó nhờ vào các hãng du lịch).
Với một tốc độ khó ngờ tới, Praha quên đi thứ tiếng Nga mà, trong suốt bốn mươi năm, mọi người dân đều phải học từ cấp tiểu học và, sốt ruột chờ
https://thuviensach.vn
được vỗ tay hoan hô trên bục phát biểu của thế giới, nó trưng bày cho người ghé qua hàng loạt biển hiệu tiếng Anh: skateboarding, snowboarding, streetwear, publishing house, National Gallery, cars for hire, pomonamarkets, và nhiều thứ nữa. Trong văn phòng của hãng, nhân viên, các đối tác thương mại, khách hàng giàu có, tất tật đều nói chuyện với Gustaf bằng tiếng Anh, thành ra tiếng Séc chỉ còn là một thứ tiếng nói thầm thì vô nhân xưng, một thứ trang trí âm thanh từ đó chỉ thoát ra những âm anglo-saxon với tư cách là tiếng nói của con người. Vì thế, một hôm, khi Irena xuống máy bay ở Praha, anh đón cô ở sân bay không phải bằng từ “Xin chào!” quen thuộc bằng tiếng Pháp mà bằng một từ “Hello!”
Ngay lập tức, mọi thứ thay đổi. Bởi vì chúng ta đã biết cuộc sống của Irena sau cái chết của Martin: cô không còn ai để nói tiếng Séc cùng nữa, hai đứa con gái cô từ chối mất thời gian với thứ ngôn ngữ hiển nhiên là vô tích sự ấy; với cô tiếng Pháp là ngôn ngữ hằng ngày, ngôn ngữ duy nhất của cô; vì vậy với cô không gì tự nhiên hơn là bắt anh chàng Thụy Điển của cô cũng phải sử dụng nó. Lựa chọn ngôn ngữ này đã quyết định vai trò của họ: vì Gustaf nói tiếng Pháp không giỏi, trong hai người cô là người dẫn dắt lời nói; cô vui sướng với sự trôi chảy của chính mình: Chúa ơi sau chừng ấy thời gian, cuối cùng cô đã có thể nói, nói và được lắng nghe! Sự vượt trội về mặt ngôn ngữ của cô đã cân bằng cán cân lực lượng giữa họ: cô hoàn toàn phụ thuộc vào anh nhưng, trong các cuộc chuyện trò giữa họ, cô chế ngự anh và dẫn anh vào thế giới của riêng cô.
Thế nhưng, Praha quy định lại ngôn ngữ giữa hai người; anh nói tiếng Anh, cô thử tìm cách tiếp tục nói tiếng Pháp, thứ tiếng mỗi lúc cô càng thấy gắn bó hơn, nhưng không có chút trợ sức nào từ bên ngoài (tiếng Pháp không còn giữ được chút quyến rũ nào tại cái thành phố từng rất mến mộ nước Pháp này), cuối cùng cô phải đầu hàng; tương quan giữa họ đảo ngược: ở Paris, Gustaf chăm chú lắng nghe Irena say sưa với lời nói của chính mình; ở Praha, anh trở thành người phát ngôn, người phát ngôn lớn, người phát ngôn dài. Không giỏi tiếng Anh, Irena chỉ hiểu được một nửa những gì anh nói, và vì không hề muốn cố gắng cô ít lắng nghe anh và còn nói với anh ít hơn. Cuộc Trở Về Vĩ Đại của cô thật kỳ lạ: trên phố xung
https://thuviensach.vn
quanh là người Séc, hơi thở của sự gần gũi thân thiết ngày xưa vuốt ve cô và, trong chốc lát, làm cô hạnh phúc; rồi khi về tới nhà, cô trở thành một người nước ngoài im lặng.
Một cuộc trò chuyện không ngưng nghỉ nâng đỡ các cặp đàn ông phụ nữ, cái dòng chảy đầy nhịp điệu của nó phủ một tấm khăn voan lên những ham muốn cơ thể ngày càng phai tàn. Khi cuộc trò chuyện bị ngắt, sự vắng mặt của tình yêu nhục dục hiện ra như một bóng ma. Đối diện với niềm câm lặng của Irena, Gustaf đánh mất sự yên ổn tâm trí của mình. Anh đâm ra thích nhìn thấy cô khi có mặt gia đình cô, mẹ cô, người em cùng mẹ khác cha của cô, người vợ của người em đó; anh ăn tối cùng họ tại ngôi biệt thự hoặc ngoài quán, tìm kiếm ở họ một chỗ trú, một nơi ẩn nấp, sự bình yên. Họ không bao giờ thiếu chủ đề nói chuyện vì họ chỉ có thể đề cập rất ít thứ: vốn từ vựng của họ hạn chế và để diễn đạt được tất cả đều phải nói thật chậm và nhắc lại nhiều lần. Gustaf tìm thấy ở đó sự thanh thản của anh; những lời nói ấp úng chậm chạp ấy rất hợp với anh, thật nhẹ nhõm, dễ chịu, và thậm chí còn vui tươi (đã bao nhiêu lần họ đã cười vì những từ tiếng Anh bị bóp méo một cách hài hước!)
Đã từ lâu, đôi mắt Irena đã trống vắng ham muốn nhưng, vì thói quen thúc đẩy, vẫn luôn mở to hướng về Gustaf và đặt anh vào sự bối rối. Để làm rối tung các dấu vết và che đậy sự thụt lùi về nhục cảm của mình, anh thích thú với những câu chuyện đùa cợt nhả một cách đáng yêu, với những lời ám chỉ mù mờ êm ái, và nói chúng bằng cái giọng thật to đi cùng với những tiếng cười. Bà mẹ là đồng minh tốt nhất của anh, luôn luôn sẵn sàng trợ sức anh bằng những chuyện cười tục tĩu mà bà tung ra bằng một cung cách bạo dạn, đầy vẻ giễu cợt, với thứ tiếng Anh trẻ con của mình. Nghe họ nói, Irena có cảm giác là tình ái đã mãi mãi được chuyển hóa thành một thứ trò hề của trẻ con.
https://thuviensach.vn
27
Kể từ khi gặp Josef ở Paris, cô chỉ còn nghĩ đến anh. Cô không ngừng nhớ lại cuộc phiêu lưu ngắn ngủi ngày xưa tại Praha. Trong quán bar nơi cô ngồi cùng mấy người bạn, anh chín chắn hơn, thú vị hơn những người khác; vui vẻ, quyến rũ, anh chỉ quan tâm tới một mình cô. Khi tất cả đã ra đến ngoài phố, anh sắp xếp sao cho chỉ còn lại riêng họ với nhau. Anh luồn vào tay cô một cái gạt tàn mà anh đã đánh cắp ở quán bar cho riêng cô. Rồi người đàn ông mà cô mới quen biết được vài giờ đồng hồ mời cô đến nhà anh. Đã đính hôn với Martin, cô không có đủ can đảm nên đã từ chối. Nhưng ngay lập tức cô cảm thấy một nỗi tiếc nuối đột ngột và đau đớn tới mức cô không bao giờ quên đi được.
Vì thế, trước lúc xuất cư, khi lựa chọn giữa những gì sẽ mang theo và những gì sẽ để lại, cô đã để cái gạt tàn nhỏ của quán bar vào trong một va li: ở nước ngoài, cô thường xuyên để nó trong túi xách, một cách bí mật, như một thứ đồ mang lại khước lành.
Cô nhớ là, trong phòng chờ sân bay, anh đã nói với cô bằng một cái giọng nghiêm trang thật lạ: “Tôi là một người tự do tuyệt đối”. Cô đã có cảm giác rằng chuyện tình của họ, bắt đầu hai mươi năm trước, chỉ đơn giản là được lùi lại cho cái lúc cả hai người đều được tự do.
Và cô nhớ tới một câu nói khác của anh: “Chỉ là hoàn toàn tình cờ mà tôi qua Paris thôi”; tình cờ, đó là một cách nói khác: số phận; anh phải qua Paris để câu chuyện của họ tiếp tục ở chỗ nó đã bị ngắt quãng.
Điện thoại di động cầm trên tay, cô gọi cho anh từ mọi nơi, từ một quán cà phê, từ căn hộ một người bạn gái, từ ngoài đường, số khách sạn thì đúng, nhưng anh không bao giờ ở trong phòng. Cả ngày cô nghĩ đến anh và, vì những đối cực mời gọi lẫn nhau, đến Gustaf. Khi đi ngang qua một cửa hiệu bán đồ lưu niệm, cô nhìn thấy khuôn mặt u ám của một người mắc bệnh lao và dòng chữ bằng tiếng Anh: Kafka was bom in Prague. Cái áo phông này, ngu ngốc một cách tuyệt vời, làm cô thấy thích và cô mua nó.
https://thuviensach.vn
Khoảng tối, cô về nhà với ý định sẽ gọi điện một cách yên ổn từ đó, vì thứ Sáu nào Gustaf cũng về muộn; ngược lại mọi chờ đợi, anh đang ở dưới tầng trệt cùng mẹ cô, và căn phòng vang vọng những tiếng bi bô Séc-Anh của họ, trộn lẫn với tiếng tivi để không chẳng ai xem. Cô chìa một gói nhỏ cho Gustaf: “Tặng anh này!”
Rồi cô để họ chiêm ngưỡng món quà, lên tầng trên, chui vào phòng vệ sinh. Ngồi trên miệng bồn cầu, cô rút điện thoại ra khỏi túi. Cô nghe thấy cụm từ “cuối cùng thì” của anh và, ngập tràn vui vẻ, nói với anh: “Tôi thật là muốn anh đang ở đây với tôi, ở nơi tôi đang ở đây này”; mãi sau khi nói xong cô mới có ý thức về nơi mình đang ngồi và đỏ mặt; sự khiếm nhã vô thức của điều cô vừa nói làm cô ngạc nhiên và, ngay lập tức, kích thích cô. Vào lúc đó, lần đầu tiên sau chừng ấy năm, cô có cảm giác mình đang lừa dối anh chàng Thụy Điển của mình và cảm thấy một khoái cảm đen tối.
Khi cô xuống tới phòng khách, Gustaf đã mặc chiếc áo phông và đang cười ầm ĩ. Cô thuộc lòng cái cảnh này: sự quyến rũ theo lối đùa cợt, những câu chuyện đùa quá trớn: thứ thế phẩm khô kiệt của dục tình tắt ngấm. Bà mẹ cầm tay Gustaf mà thông báo cho Irena: “Không chờ con cho phép mẹ đã tự tiện mặc áo cho người yêu của con. Trông có đẹp không nào?” Bà kéo anh quay cùng mình sang một cái gương lớn gắn trên tường phòng khách. Ngắm nhìn hình ảnh trong đó, bà nhấc tay Gustaf lên như thể anh là người chiến thắng trong một cuộc thi đấu Olympique và anh, ngoan ngoãn chơi theo trò đó, hít căng lồng ngực trước gương và cất giọng vang rền: “Kafka was bom in Prague!”
https://thuviensach.vn
28
Cô nữ sinh trung học đã chia tay với mối tình đầu mà không cảm thấy đau khổ nhiều lắm. Với người yêu thứ hai thì mọi chuyện tệ hơn. Khi nghe cậu nói: “Nếu em đi, mọi chuyện sẽ chấm dứt giữa chúng ta. Anh thề với em đấy, chấm dứt!”, cô không thốt được ra lời nữa. Cô yêu cậu, còn cậu ném thẳng vào mặt cô cái chỉ một lúc trước còn có vẻ không thể tưởng tượng, không thể nói ra: sự chia tay giữa họ.
“Mọi chuyện sẽ chấm dứt giữa chúng ta.” Chấm dứt. Nếu cậu hứa với cô sự chấm dứt, thì cô, cô phải hứa với cậu điều gì đây? Câu nói ấy chứa đựng một sự đe dọa, câu nói của cô cũng ẩn giấu một lời đe dọa: “Đồng ý, cô nói, chậm rãi và nghiêm trang. Thế thì sẽ chấm dứt. Em cũng hứa với anh điều đó và anh sẽ nhớ điều đó”. Rồi cô quay lưng đi, để lại cậu đứng như trời trồng trên phố.
Cô bị tổn thương, nhưng cô có tức giận với cậu không? Có thể là không hề. Dĩ nhiên là cậu nên tỏ ra thông cảm hơn, vì rõ ràng là cô không thể bỏ chuyến đi ấy được, nó là bắt buộc. Cô có thể viện cớ bị ốm nhưng, với sự trung thực vụng về của mình, cô sẽ không thể thành công được. Không nghi ngờ gì nữa, cậu đã quá đáng, cậu không công bằng, nhưng cô biết là cậu như vậy bởi vì cậu yêu cô. Cô biết tính ghen tuông của cậu: cậu tưởng tượng ra cảnh cô ở trên núi với những cậu con trai khác và cậu đau đớn với chuyện đó.
Không có khả năng thực sự giận dữ, cô chờ cậu trước cổng trường để giải thích cho cậu rằng với ý định tốt đẹp nhất trên đời cô không thể nghe theo lời cậu và cậu không có lý do gì để ghen hết cả; cô chắc chắn rằng cậu sẽ không thể không hiểu. Ra đến cổng, cậu nhìn thấy cô và dừng lại đợi một cậu bạn đi cùng. Không thể nói chuyện trực tiếp được, cô đi theo cậu trên phố và, khi cậu đã tách khỏi người bạn, cô rảo bước đi về phía cậu. Cô gái tội nghiệp, lẽ ra cô phải nghĩ rằng tất cả đã hết, rằng người bạn trai của cô đang phải làm mồi cho một cơn điên rồ không chịu rời khỏi cậu nữa. Cô vừa mới cất lời thì cậu đã chặn lại ngay: “Em đổi ý rồi à? Em sẽ không đi
https://thuviensach.vn
chứ?” Khi cô lại bắt đầu giải thích cho cậu vẫn điều ấy lần thứ mười, đến lượt cậu là người quay gót, để lại cô một mình trên phố.
Cô lại rơi vào một nỗi buồn sâu sắc, nhưng vẫn không hề thấy giận cậu. Cô biết rằng tình yêu có nghĩa là hai người phải trao hết cho nhau. Tất cả; cái từ nền tảng. Tất cả, cho nên không chỉ là tình yêu xác thịt mà cô hứa với cậu, mà cả lòng can đảm, lòng can đảm đối với những điều to lớn cũng như những gì nhỏ bé, nghĩa là ngay cả cái lòng can đảm tí hon là không nghe theo một mệnh lệnh lố bịch của trường lớp. Và cô đầy xấu hổ nhận ra rằng mặc cho toàn bộ tình yêu của mình, lòng can đảm ấy, cô không tài nào có nổi. Thật là kệch cỡm, kệch cỡm đến phát khóc lên được: cô sẵn sàng trao cho cậu tất cả, sự trinh trắng của cô, dĩ nhiên, nhưng, nếu cậu muốn, cả sức khỏe của cô nữa, bất kỳ sự hy sinh nào mà cậu có thể tưởng tượng ra, và cùng lúc cô không có khả năng không nghe lời một tay giáo viên chủ nhiệm ất ơ nào đó. Liệu cô có chịu để thua cuộc trước một điều nhỏ bé thảm hại như thế? Tình trạng không thỏa mãn với chính mình mà cô đang cảm thấy thật không sao chịu đựng nổi và cô muốn bằng mọi giá vượt thoát ra; cô muốn đạt tới một sự lớn lao trong đó sự nhỏ bé thảm hại của cô sẽ tan biến; một sự lớn lao sẽ khiến cậu phải cúi đầu; cô muốn chết.
https://thuviensach.vn
29
Chết; quyết định chết; điều đó dễ dàng với một thiếu niên hơn nhiều so với một người đã trưởng thành. Gì cơ? Như thế thì hóa ra không phải là cái chết tước đi của người thiếu niên một phần tương lai lớn hơn rất nhiều ư?
Chắc chắn rồi, nhưng với một người còn trẻ, tương lai là một điều xa xôi, trừu tượng, không thật, mà anh ta không thực sự tin vào. Sửng sốt, cô ngắm nhìn tình yêu bị cắt đứt của mình, cái mảnh đời đẹp nhất của cô đang rời xa, chậm rãi và mãi mãi; với cô không gì khác ngoài quá khứ đó là có tồn tại; chính là vì nó mà cô muốn trưng bày bản thân mình, chính là với nó mà cô muốn nói chuyện và gửi tới các dấu hiệu. Cô không quan tâm đến tương lai; cô muốn sự vĩnh viễn; sự vĩnh viễn, đó là thời gian đã dừng lại, bất động; tương lai khiến cho sự vĩnh viễn trở nên bất khả; cô muốn diệt trừ tương lai.
Nhưng làm thế nào mà chết được giữa một đám đông học sinh ấy, trong một khách sạn trên núi, không ngừng bị tất cả nhìn thấy như vậy? Cô đã tìm được cách: ra khỏi khách sạn, đi xa, rất xa vào thiên nhiên và, ở đâu đó cách xa đường, nằm xuống tuyết mà ngủ vùi. Cái chết sẽ đến trong giấc ngủ, cái chết gây ra bởi băng giá, cái chết dịu dàng, không đau đớn. Cô sẽ chỉ cần trải qua sự lạnh lẽo trong một lúc.
Mặt khác cô có thể rút ngắn khoảng thời gian ấy và sự trợ giúp của vài viên thuốc ngủ. Cô rút từ một tuýp thuốc ở nhà năm viên, không hơn, để mẹ cô không thể phát hiện được.
Cô đã lên kế hoạch cho cái chết của mình với toàn bộ ý thức thực tiễn. Ra khỏi khách sạn vào buổi tối và chết vào ban đêm, đó là ý tưởng đầu tiên của cô, nhưng cô vứt bỏ nó ngay: người ta sẽ ngay lập tức nhận ra sự vắng mặt của cô ở phòng ăn vào bữa tối và còn chắc chắn hơn ở phòng ngủ chung; cô sẽ không có đủ thời gian để chết. Đầy mưu mẹo, cô chọn thời điểm sau bữa trưa khi mọi người ngủ trưa trước khi đi trượt tuyết: một quãng nghỉ trong đó sự vắng mặt của cô sẽ không làm bận tâm bất kỳ ai.
https://thuviensach.vn
Cô không nhìn thấy cả một quãng lệch lớn giữa sự nhỏ nhoi của nguyên nhân và tầm vóc to lớn của hành động ư? Cô không biết rằng kế hoạch của cô là một sự quá đáng ư? Có chứ, nhưng chính sự quá đáng là điều quyến rũ cô. Cô không muốn suy nghĩ hợp lôgic. Cô không muốn xử sự chừng mực. Cô không muốn đo đếm, cô không muốn suy luận. Cô ngưỡng mộ sự tuẫn nạn của mình, vì sự tuẫn nạn theo định nghĩa là quá đáng. Ngây ngất, cô không muốn thoát ra khỏi cơn say.
Rồi cái ngày mà cô đã chọn cũng tới. Cô ra khỏi khách sạn. Bên cạnh cửa treo một cái nhiệt kế: mười độ dưới không. Cô lên đường và nhận ra rằng sự ngây ngất của mình đã chuyển hóa thành lòng hoang mang; cô vô vọng tìm kiếm sự hào hứng, vô vọng, cô gọi đến những ý nghĩa đã từng đi kèm với giấc mơ về cái chết của mình; tuy thế cô vẫn tiếp tục con đường (giờ này các bạn học của cô đang ngủ giấc ngủ trưa bắt buộc) như thể cô đang trên đường hoàn thành một sứ mạng mà cô tự đặt ra cho mình, như thể cô đang đóng một vai mà cô đã tự viết ra cho mình. Tâm hồn cô trống rỗng, không có một tình cảm nào, giống như tâm hồn của một người diễn viên đang đọc to một đoạn văn và không nghĩ tới điều gì khác ngoài những gì mình đang nói.
Cô leo lên một con đường lấp lánh tuyết và nhanh chóng lên đến đỉnh. Bầu trời phía trên xanh ngắt; rất nhiều đám mây rạng rỡ trong ánh nắng, vàng rực, vui tươi, hạ xuống thấp hơn, với hình dạng giống như một cái vương miện lớn trên vòng cung những ngọn núi bao quanh. Thật là đẹp, thật là quyến rũ và cô cảm thấy một cảm giác ngắn ngủi, rất ngắn ngủi, về hạnh phúc, điều làm cho cô quên đi mục đích chuyến đi của mình. Cảm giác ngắn ngủi, rất ngắn ngủi, quá ngắn ngủi. Hết viên này tới viên khác, cô nuốt vào bụng những viên thuốc và, theo đúng kế hoạch của mình, đi xuống khỏi đỉnh đồi, bước vào một khoảnh rừng. Cô đi trên một lối đi, sau mười phút cô cảm thấy mình đã ở rất gần cơn buồn ngủ và biết rằng kết thúc nằm tại đây. Mặt trời trên đầu cô, sáng chói, sáng chói. Như thể, đột nhiên, tấm ri đô nâng lên, trái tim cô quặn lại vì sợ. Cô cảm thấy mình rơi vào cái bẫy của một sân khấu được chiếu sáng nơi không thể bước trở lùi được nữa.
https://thuviensach.vn
Cô ngồi dưới một gốc thông, mở túi xách và rút từ trong đó ra một cái gương. Đó là một cái gương tròn nhỏ, cô cầm nó để trước mặt và tự ngắm nhìn. Cô đẹp, cô rất đẹp, và cô không muốn rời bỏ vẻ đẹp ấy, cô không muốn mất nó, cô muốn mang nó đi theo với mình, a, cô đã mệt lắm rồi, rất mệt, nhưng ngay cả khi mệt như thế cô vẫn cảm thấy phấn hứng về vẻ đẹp của mình bởi vì trên cõi đời này, đó là điều thân thiết nhất mà cô có được.
Cô ngắm nhìn mình trong gương, rồi cô thấy môi mình run lên. Đó là một cử động không kiểm soát được, một cái tật. Đã nhiều lần cô nhận ra phản ứng đó ở mình, cô đã từng cảm thấy nó trên mặt mình nhưng đây là lần đầu tiên cô nhìn thấy nó. Khi nhìn thấy nó cô thấy xúc động gấp hai lần: xúc động vì vẻ đẹp của mình và xúc động vì đôi môi đang run lên; xúc động vì vẻ đẹp của mình và xúc động vì nỗi xúc động đang làm rung chuyển vẻ đẹp ấy và làm cho nó biến dạng; xúc động vì vẻ đẹp của mình, mà cơ thể cô đang khóc than. Một nỗi thương xót to lớn cho vẻ đẹp của cô xâm chiếm lấy cô, cái vẻ đẹp sắp sửa không còn tồn tại nữa, thương xót cho cái thế giới cũng sẽ không còn tồn tại nữa, cái thế giới ngay lúc này đã không còn tồn tại, đã đóng kín cửa, vì giấc ngủ đã ở đây, mang cô đi, bay lên cùng với cô, lên cao, rất cao, về phía sự sáng chói làm mù mắt kia, về phía bầu trời xanh, xanh một cách rực rỡ.
https://thuviensach.vn
30
Khi ông anh trai nói với anh: “Em đã lập gia đình ở đó, theo như anh được biết”, anh đã trả lời: “Vâng”, không nói thêm gì nữa. Có lẽ chỉ cần ông anh trai sử dụng một lối nói khác, và thay vì “em đã lập gia đình”, ông hỏi rằng: “Em đã lập gia đình?” thì rất có thể Josef đã trả lời: “Không, em góa vợ rồi”. Anh không hề có ý định đánh lừa anh trai mình, nhưng cách ông đặt câu hỏi cho phép anh, không cần phải nói dối, im lặng về chuyện cái chết của người vợ.
Trong cuộc trò chuyện tiếp theo đó, ông anh trai và bà chị dâu tránh mọi ám chỉ đến cô. Rõ ràng là vì bối rối: vì những lý do an toàn (để tránh các khiêu khích đối với cảnh sát), họ đã tự ngăn cấm mình mọi liên hệ với người bà con di cư và thậm chí không hề nhận ra rằng sự thận trọng bị bắt buộc đó đã nhanh chóng chuyển hóa thành một sự thờ ơ chân thành: họ không biết gì về vợ anh, tuổi tác của cô, tên cô, nghề nghiệp của cô và, bằng sự im lặng của mình, họ muốn che giấu sự vô tri ấy, cái điều để lộ toàn bộ tính chất thảm hại của liên hệ giữa họ và anh.
Nhưng Josef không tức tối; sự vô tri của họ rất thích hợp với anh. Kể từ khi chôn cô, anh luôn cảm thấy khó ở mỗi khi phải thông báo cho ai đó về cái chết của cô; như thể bằng cách ấy anh đang lừa dối cô trong sự gần gũi gần gũi nhất. Khi im lặng về cái chết của cô, anh luôn có cảm giác mình đang che chở cho cô.
Bởi vì người phụ nữ đã chết là một người phụ nữ không tự bảo vệ được mình; cô không còn quyền lực, cô không còn ảnh hưởng; người ta không còn tôn trọng cả những mong muốn lẫn sở thích của cô nữa; người phụ nữ đã chết không thể muốn điều gì cả, không thể làm cho ai nghĩ tốt về mình, không thể phủ nhận được lời nói xấu vô căn cứ nào. Chưa bao giờ anh dành cho cô một nỗi thương xót đau đớn đến vậy, cực nhọc đến vậy, như sau khi cô chết.
https://thuviensach.vn
31
Jonas Hallgrimsson là một nhà thơ lãng mạn lớn và cũng là chiến sĩ lớn chiến đấu vì nền độc lập của Iceland. Toàn bộ châu Âu của các quốc gia nhỏ vào thế kỷ XIX đều biết đến những nhà thơ lãng mạn và yêu nước này: Petőfi ở Hungari, Mickiewicz ở Ba Lan, Preseren ở Slovenia, Macha ở Bohême, Chevtchenko ở Ukraine, Wergeland ở Nauy, Lönnrot ở Phần Lan và nhiều nữa. Iceland khi ấy là thuộc địa của Đan Mạch và Hallgrimsson sống những năm cuối đời ở thủ đô. Tất cả các nhà thơ lãng mạn lớn, ngoài việc là những nhà yêu nước lớn, đều là những tửu nhân lớn. Một hôm, say xỉn, Hallgrimsson ngã cầu thang, gãy một chân, mắc bệnh, chết và được chôn tại nghĩa trang thành phố Copenhagen. Đó là năm 1845. Chín mươi chín năm sau, năm 1944, Cộng hòa Iceland tuyên bố thành lập. Ngay từ đó các sự kiện được tăng tốc.
Năm 1946, linh hồn của nhà thơ viếng thăm một nhà công nghiệp giàu có người Iceland trong giấc ngủ của ông ta và tâm sự: “Từ một trăm lẻ một năm nay bộ xương của tôi nằm ở nước ngoài, ở đất nước thù địch. Liệu đã đến lúc nó được trở về quê hương Ithaque tự do của mình chưa?”
Khoái chí và phấn khích với cuộc viếng thăm ban đêm này, nhà công nghiệp ái quốc cho bốc xương của nhà thơ khỏi mảnh đất thù địch và mang về Iceland, nghĩ là sẽ chôn tại thung lũng xinh đẹp nơi nhà thơ sinh ra. Nhưng không ai có thể chặn được bước tiến điên rồ của các sự kiện: trong khung cảnh đẹp khó tả của Thingvellir (thánh địa nơi, cách đây một nghìn năm, nghị viện đầu tiên của Iceland đã họp ngoài trời), các bộ trưởng của nước Cộng hòa mới toanh đã xây dựng một nghĩa trang cho những con người vĩ đại của tổ quốc; họ cướp nhà thơ từ tay nhà công nghiệp và chôn ông vào điện Panthéon khi ấy mới chỉ có ngôi mộ của một nhà thơ lớn khác (những quốc gia nhỏ bé lúc nào cũng đông chật các nhà thơ lớn), Einar Benediktsson.
Nhưng các sự kiện còn lao về phía trước nhanh hơn nữa và mọi người nhanh chóng được biết rằng nhà công nghiệp ái quốc đã xấu hổ mà thú
https://thuviensach.vn
nhận: đứng lặng trước miệng ngôi mộ Copenhagen, ông đã cảm thấy thật khó xử: nhà thơ được chôn lẫn giữa những người nghèo, mộ ông không hề ghi cái tên nào, chỉ có một con số, và nhà công nghiệp ái quốc, đứng trước cả đống xương dính hết vào với nhau, không biết phải chọn bộ xương nào. Trước sự chứng kiến của những người trông coi nghĩa trang đầy nghiêm khắc và sốt ruột, ông đã không dám tỏ ra là mình do dự. Vì thế ông đã mang về Iceland, không phải nhà thơ lớn của Iceland, mà là một tay bán thịt người Đan Mạch.
Tại Iceland, thoạt tiên người ta muốn giữ bí mật về sự nhầm lẫn hài hước đến khó chịu này nhưng các sự kiện lại tiếp tục tiến trình của mình và, năm 1948, con người không biết giữ mồm miệng Halldor Laxness nhét chi tiết ấy vào trong một cuốn tiểu thuyết. Làm gì bây giờ? Im lặng. Vậy là bộ xương của Hallgrimsson vẫn nằm cách Ithaque quê hương hai nghìn cây số, tại đất nước thù địch, trong khi di cốt của tay bán thịt người Đan Mạch, không phải là nhà thơ nhưng cũng ái quốc, nằm im lìm trên một hòn đảo lạnh giá không bao giờ làm sống dậy trong anh ta điều gì khác ngoài nỗi sợ và niềm kinh tởm.
Ngay cả khi được giữ bí mật, sự thật vẫn gây ra kết quả rằng người ta sẽ không còn chôn ai vào cái nghĩa trang đẹp đẽ Thingvellir nữa, nơi ấy chỉ có hai cái quan tài, và bằng cách đó, trong tổng số các Panthéon trên thế giới, các viện bảo tàng thô kệch của lòng kiêu ngạo ấy, nó là cái duy nhất có khả năng làm chúng ta cảm thấy xúc động.
Từ lâu lắm rồi, người vợ đã kể câu chuyện đó cho Josef; cả hai đều thấy buồn cười và một bài học luân lý dễ dàng nảy ra từ đó: người ta không thèm quan tâm tới nơi để xương của người chết.
Và tuy vậy Josef đã thay đổi ý kiến khi cái chết của người vợ đến gần và không còn có thể tránh khỏi được nữa. Ngay lập tức, câu chuyện về tay bán thịt Đan Mạch bị cưỡng bức đưa sang Iceland không còn là buồn cười nữa, mà đáng sợ.
https://thuviensach.vn
32
Chết cùng lúc với cô, ý nghĩ này quyến rũ anh từ lâu. Nó không bắt nguồn từ một sự cường điệu lãng mạn, mà đúng hơn là một suy nghĩ duy lý: trong trường hợp vợ anh mắc một căn bệnh nan y, anh sẵn sàng quyết định rút ngắn sự đau đớn cho cô; để khỏi bị buộc tội giết người, anh đã tính là mình cũng chết luôn. Rồi cô bệnh nặng thực sự, nặng đến tuyệt vọng, và Josef không còn nghĩ tới chuyện tự tử nữa. Không phải vì nỗi sợ cho cuộc đời chính anh. Mà anh thấy sẽ không thể tha thứ được nếu phó mặc cái cơ thể được yêu thương ngần ấy vào những bàn tay xa lạ. Anh chết, ai sẽ chăm lo người đã chết? Làm sao mà một cái xác có thể bảo vệ một cái xác khác?
Ngày xưa, ở Bohême, anh đã có mặt khi mẹ anh hấp hối; anh yêu bà rất nhiều, nhưng ngay khi bà không còn trên đời, cơ thể bà đã thôi làm anh quan tâm; với anh, xác của bà không còn là bà nữa. Mặt khác, hai bác sĩ, bố anh và anh trai anh, chăm sóc người hấp hối và anh, trong thang bậc tầm quan trọng, chỉ là thành viên thứ ba trong gia đình. Lần này thì khác hẳn: người phụ nữ mà anh đang chứng kiến cảnh hấp hối chỉ thuộc về một mình anh; anh ghen tuông với cơ thể cô và muốn được chăm lo cho cái số phận sau khi qua đời của nó. Thậm chí anh còn phải tự nhủ: cô vẫn còn sống, còn đang nằm kia trước mặt anh, cô đang nói với anh, thế mà anh nghĩ cô đã chết; cô nhìn anh, đôi mắt mở to hơn bao giờ hết, và trong tâm trí anh lo đến cái quan tài và ngôi mộ của cô. Anh tự trách móc mình về điều đó, như một sự phản bội đáng ghê tởm, một sự nóng vội, một ham muốn bí mật được đẩy nhanh cái chết của cô. Nhưng anh làm được gì kia chứ: anh biết rằng sau cái chết, gia đình cô sẽ đến đòi lấy xác cô cho hầm mộ gia đình, và ý nghĩ ấy làm anh kinh hoàng.
Coi thường những nghĩa vụ thuộc về tang ma, ngày trước họ đã viết di chúc quá mức sơ sài; những điều khoản liên quan tới tài sản không thể giản đơn hơn được nữa và những điều khoản liên quan tới đám ma, thậm chí họ còn không nhắc đến. Sự bỏ quên này ám ảnh anh trong khi cô đang chết, nhưng vì anh muốn thuyết phục cô rằng cô sẽ chiến thắng cái chết nên anh
https://thuviensach.vn
phải im lặng. Làm thế nào để thú nhận với người phụ nữ bất hạnh vẫn luôn tin là mình sẽ khỏi bệnh, làm thế nào để thú nhận là anh đang nghĩ tới điều gì? Làm thế nào để nói tới di chúc? Nhất là khi cô đã lịm đi vào những cơn hoang tưởng và những ý nghĩ đã trở nên rối bời.
Gia đình vợ anh, một gia đình lớn đầy thế lực chưa bao giờ yêu quý Josef. Anh thấy là trận chiến xung quanh cái chết của vợ anh sẽ ác liệt và quan trọng hơn mọi trận chiến anh từng trải qua. Ý nghĩ cái xác ấy sẽ bị nhốt trong sự gần gũi xấu xa với những cái xác khác, xa lạ, thờ ơ, thật là không thể chịu đựng nổi, cũng như ý nghĩ rằng cả anh nữa, khi chết đi, cũng sẽ ở nơi không ai biết là ở đâu và, chắc chắn, xa cô. Cho phép điều đó xảy ra với anh là một thất bại lớn mênh mông như sự vĩnh viễn, một thất bại không bao giờ có thể tha thứ được.
Điều mà anh sợ đã xảy đến. Anh không thể tránh được cú sốc. Mẹ vợ anh gào lên. “Đó là con gái tôi! Đó là con gái tôi!” Anh phải thuê luật sư, chi một khoản tiền lớn để làm gia đình bình tĩnh lại, mua nhanh một chỗ trong nghĩa trang, hành động nhanh hơn những người khác nhằm chiến thắng trong trận chiến cuối cùng.
Hoạt động căng thẳng của một tuần liền không ngủ ngăn anh cảm thấy đau khổ, nhưng đã xảy ra một điều còn kỳ lạ hơn: khi cô đã nằm trong ngôi mộ thuộc về cả hai người (một ngôi mộ cho hai người, giống như một cỗ xe ngựa cho hai người), anh thoáng nhìn thấy run rẩy, rất khó nhìn rõ trong bóng tối nỗi buồn của anh, một tia sáng, một tia sáng mảnh mai của hạnh phúc. Hạnh phúc vì đã không làm người anh yêu phải thất vọng; vì đã đảm bảo được, cho cô và cho anh, tương lai của họ.
https://thuviensach.vn