🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Võ Nguyên Giáp
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Mục Lục
Giới thiệu
Lời giới thiệu
GIÁP của Georges Boudarel: Một cuốn sách nên đọc Một người tên là Văn
Chàng sinh viên, thầy giáo dạy sử và người chiến sĩ cách mạng Hoạt động du kích tại chiến khu Việt Bắc 1940 - 1945 Nhà chính khách 1945 - 1946
Chỉ huy quân đội tiến hành kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954 Nhà chiến lược đối mặt với Hoa Kỳ
Điện Biên Phủ
Những công sự kiểu Việt Nam
Gia đình, đồng chí và những người ảnh hưởng đến Võ Nguyên Giáp Ghi nhanh vè Tướng Giáp và chiến thuật của ông
Những bức chân dung sống động
BẢNG TRA CỨU
https://thuviensach.vn
Giới thiệu
Cuốn sách này được Công ty Cổ phần Sách Thái Hà và Nhà xuất bản Thế Giới hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân và tổ chức.
Trước hết chúng tôi xin chân thành cảm ơn dịch giả Nguyễn Văn Sự - người đã giúp chúng tôi liên hệ để có được bản quyền tiếng Pháp của cuốn sách và đã chuyển ngữ cuốn sách sang tiếng Việt. Chúng tôi xin gửi lời cảm ơn đặc biệt tới gia đình và Văn phòng Đại tướng Võ Nguyên Giáp: ông Võ Điện Biên, ông Võ Hồng Nam, Đại tá Trịnh Nguyên Huân đã giúp hiệu đính nội dung cuốn sách. Chúng tôi xin được gửi lời cảm ơn tới hai nhà sử học: ông Alain Ruscio (Pháp) và ông Dương Trung Quốc đã viết lời giới thiệu cho cuốn sách trong lần xuất bản tiếng Việt đầu tiên.
Chúng tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý độc giả để cuốn sách được hoàn chỉnh hơn trong những lần in sau.
Lời giới thiệu
Đến nay, đã có nhiều cuốn sách của người nước ngoài viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, một trong những nhân vật nổi bật hàng đầu của lịch sử hiện đại Việt Nam mà tên tuổi gắn liền với cuộc cách mạng giành độc lập dân tộc, hai cuộc kháng chiến chống lại hai đế quốc lớn bảo vệ nền độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia cũng như các cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Đó cũng là tên tuổi gắn liền với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Nhưng tác giả của cuốn sách này lại là một người đặc biệt.
Georges Boudarel là một người đặc biệt, ông là một người Pháp nhưng lại đứng trong hàng ngũ của những người chiến đấu chống lại nước Pháp thực dân, cụ thể hơn là đứng trong quân ngũ của đạo quân do Tướng Giáp làm
https://thuviensach.vn
Tổng tư lệnh. Ông đến Việt Nam với tư cách là một cử nhân triết học để dạy môn lịch sử trong một trường trung học ở Sài Gòn. Có lẽ chính từ những tri thức lịch sử và triết lý mà nước Pháp của ông đã đề xướng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”, ông đã lựa chọn như nhiều người Pháp tiến bộ sinh sống ở Việt Nam mong muốn gìn giữ sự hòa hiếu giữa hai quốc gia sau khi nước Việt Nam đã tuyên bố độc lập và thoát khỏi chế độ thuộc địa Pháp giống như nước Pháp của họ thoát khỏi ách chiếm đóng của chủ nghĩa phát-xít Đức.
Vì thế, khi cuộc chiến tranh Việt - Pháp bùng nổ (tháng 12 năm 1946), G. Boudarel, một thành viên đã tham gia nhóm Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác, đã lựa chọn con đường vào chiến khu của những người Việt Nam kháng chiến để chống lại những tàn dư của chủ nghĩa thực dân. Ông tham gia cuộc kháng chiến không bằng vũ khí sát thương mà bằng sự thức tỉnh đạo quân viễn chinh hãy chấm dứt cuộc chiến tranh phi nghĩa mà họ đang tham dự. Ông tham gia vào công tác binh vận bằng ngòi bút và những kiến thức về triết học và lịch sử của mình.
Sau khi thực dân Pháp đã thảm bại ở Điện Biên Phủ, phải chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược cũng là rút lui khỏi vũ đài lịch sử ở Việt Nam, G. Boudarel vẫn ở lại Việt Nam làm việc trong lĩnh vực văn hóa đối ngoại tại Đài Phát thành rồi Nhà xuất bản Ngoại văn và trực tiếp cộng tác với các nhà nghiên cứu Việt Nam làm tập san Etudes Vietnamiennes.
Nếu như G. Boudarel đã có nhiều đóng góp tích cực giúp Việt Nam đánh thắng chủ nghĩa thực dân thì ông lại không thành đạt khi ở lại Việt Nam tham gia vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì thế, cũng đến lúc ông phải chia tay với Việt Nam, nơi ông đã dành trọn tuổi thành xuân cho một cuộc đấu tranh chính nghĩa không chỉ cho nhân dân Việt Nam mà cho chính cả nước Pháp Tổ quốc của ông.
Tuy rời xa mảnh đất Việt Nam, nhưng G. Boudarel vẫn dành tất cả sự nhiệt tâm cho việc nghiên cứu và ủng hộ Việt Nam. Con người ấy vẫn giữ được
https://thuviensach.vn
phẩm chất một nhà giáo, được các đồng nghiệp Việt Nam yêu quý biến tấu tên gọi tiếng Pháp thành tiếng Việt là “Bụt” (Boudha = Phật). Rồi cũng vì toàn tâm gắn bó với Việt Nam mà ông đã từng bị một số phần tử cực đoan tạo nên một vụ án bôi nhọ danh dự và vu khống rằng ông đã phản bội nước Pháp khi cộng tác với Việt Minh. Chính những người Pháp chân chính đã cùng ông đấu tranh vượt qua những thử thách ấy và Boudarel vẫn trọn vẹn trung thành với tình yêu Việt Nam và công lý của mình.
Tình yêu ấy được thể hiện bằng những việc làm không biết mệt mỏi thể hiện trong những bài khảo cứu hay những cuốn sách viết về Việt Nam của ông mà cuốn Giáp các bạn đang có trên tay bản dịch tiếng Việt là một thành tựu. Tên cuốn sách là một cách gọi thân mật nhưng vẫn giữ được sự trân trọng của một người nước ngoài song lại không xa lạ đối với “người anh Cả” của Quân đội nhân dân Việt Nam mà Boudarel đã từng tham gia.
Đó không chỉ là một cuốn tiểu sử, đó là một pho sử mà tên tuổi “Giáp” đã gắn bó, cống hiến và để lại những dấu ấn rất đậm nét xuyên suốt toàn bộ lịch sử hiện đại Việt Nam, lịch sử Giải phóng dân tộc chống chủ nghĩa thực dân trong cương vị của vị Tổng tư lệnh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng gắn với huyền thoại từ Điện Biên Phủ (1954) cho đến “Điện Biên Phủ trên không” (1972) rồi Chiến dịch mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh (1975).
Cần nói thêm rằng, trước cuốn này, ngay từ năm 1970, giữa lúc cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam còn đang diễn ra ác liệt, tác phẩm Giương cao ngọn cờ chiến tranh nhân dân và đường lối quân sự của Đảng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được Nhà xuất bản Preagers của Mỹ xuất bản và G. Boudarel đã viết lời giới thiệu với nhan đề “Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai - Quan sát và dự báo”.
Bằng niềm tin từ những trải nghiệm của cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, tức là cuộc Kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp mà G. Boudarel từng tham gia, ông đã phân tích và khẳng định cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam sẽ đi đến kết cục
https://thuviensach.vn
như trước là Mỹ không thể nào thắng được. Ông cũng tập trung phân tích vai trò và đường lối quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn ở cương vị Tổng tư lệnh lực lượng vũ trang như cuộc chiến tranh lần trước sẽ làm cho các tướng lĩnh Mỹ phải thất bại bởi sức mạnh của một dân tộc có truyền thống chống ngoại xâm lại có một vị tướng tài và từng trải.
Trong quan niệm của G. Boudarel, Võ Nguyên Giáp là sự kế thừa có chọn lựa những tư tưởng quân sự của các nhà cách mạng hiện đại như Lênin và Mao Trạch Đông cũng như các nhà chiến lược quân sự kinh điển như Clausewitz và Tôn Tử mặc dù khi trai trẻ, nhà giáo dạy lịch sử trẻ tuổi lại rất say mê Napoléon. Nhưng trên hết, Võ Nguyên Giáp là sự vận dụng trung thành với tư tưởng của Hồ Chí Minh cũng là của Đảng về Chiến tranh nhân dân Việt Nam mà cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất là một thành công. Vì thế, sự quan sát, phân tích và dự báo của G. Boudarel trở nên sắc sảo và thuyết phục...
Do đó, khi G. Boudarel viết cuốn GIÁP như tiểu sử của một nhà quân sự lớn, bên cạnh những phân tích khoa học, tác giả còn gửi gắm vào đó nhiều tâm đắc đối với lịch sử Việt Nam hiện đại mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trong những hiện thân tiêu biểu, cái lịch sử mà chính tác giả cuốn sách từng là “người trong cuộc”.
Tôi đã có cơ hội gặp Georges Boudarel trong những năm tháng cuối cùng khi ông sống độc thân trong một ngôi nhà nhỏ ở Paris khiêm nhường nhưng chất chứa đầy sách và những tư liệu quý giá về lịch sử và văn hóaViệt Nam. Tôi và các bạn đồng nghiệp Việt Nam đã từng lên tiếng động viên, ủng hộ khi ông bị những kẻ cực đoan bôi nhọ. Vì thế, một thập niên sau ngày tác giả qua đời (2003), được giới thiệu cuốn sách viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vị Chủ tịch Danh dự của Hội Sử học Việt Nam của người đồng nghiệp đáng kính, Giáo sư sử học Georges Boudarel, đối với tôi là một vinh dự.
Xin trân trọng giới thiệu với quý bạn đọc!
https://thuviensach.vn
Nhà sử học Dương Trung Quốc Hà Nội, tháng 11 năm 2012
https://thuviensach.vn
GIÁP của Georges Boudarel: Một cuốn sách nên đọc
Năm 1975, chiến tranh kết thúc ở Việt Nam. Đó là cuộc chiến tranh dài nhất, làm thiệt mạng nhiều người nhất trong thế kỷ XX, được biết đến trên mọi châu lục, bên cạnh những cuộc chiến tranh khác. Chủ nghĩa thực dân Pháp, rồi chủ nghĩa đế quốc Mỹ lần lượt mưu toan ngăn chặn làn sóng cách mạng Việt Nam nhưng không thành công. Về phía Pháp, 9 tướng lĩnh cao cấp, trong đó có những vị có nhiều kinh nghiệm nhất (từ tướng Leclerc đến tướng Salan, không kể trước đó có d’Argenlieu, De Lattre...) lần lượt nắm quyền chỉ huy đội quân viễn chinh Pháp. Trong giai đoạn chiến tranh Mỹ xâm lược Việt Nam, 4 tướng lĩnh, cũng là những người dày dạn kinh nghiệm đã lần lượt thay nhau, trong đó có tướng Westmoreland và Abrams. Tất cả đều xuất thân từ những trường quân sự nổi tiếng nhất phương Tây, như Saint Cyr, West Point...
Đối mặt với họ, một người Việt Nam chưa từng ngồi trên ghế các trường quân sự lớn, nhưng đã tự học chiến lược, chiến thuật trên thực địa, đó là VÕ NGUYÊN GIÁP. Chính ông đã kể cho tôi trong những điều kiện nào ông đã tiếp cận nghệ thuật chiến tranh: Chúng tôi không qua một trường lớp quân sự nào. Khi còn ở Hà Nội năm 1940, các đồng chí của chúng tôi truyền đạt nghị quyết của Đảng về chuẩn bị đấu tranh vũ trang, tôi vào Thư viện Quốc gia tìm trong cuốn Đại từ điển Larousse những mục từ về kỹ thuật quân sự. Tôi nhớ đã đọc mục từ “lựu đạn”. Tôi cố gắng tìm hiểu nhưng khó quá, “lựu đạn tấn công”, “lựu đạn phòng ngự”, “hạt nổ”. Lúc đó tôi không hiểu thế nào là “bộ phận nổ”[1].
[1] Alain Ruscio, Vo Nguyên Giap, une vie, Ed Les Indes Suivantes, 2010. Xem thêm Võ Nguyên Giáp, Một cuộc đời, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 50-51.
https://thuviensach.vn
Một mình chống lại khoảng 15 sĩ quan cao cấp được đào tạo bài bản tại các trường quân sự phương Tây! Cuộc đấu tranh xem ra không cân sức...
Đúng vậy, nhưng Võ Nguyên Giáp đâu phải chỉ có một mình! Ông có nhân dân Việt Nam cùng kề vai sát cánh. Người Việt Nam giàu truyền thống đấu tranh chống xâm lược nước ngoài, nhiều thế kỷ chống kẻ thù phương Bắc, chống lại người Pháp trong thời kỳ chinh phục thuộc địa, sau đó từ năm 1945, tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, hiện thân trong hình ảnh cao cả của Hồ Chí Minh. Với Bác Hồ, với Giáp và các bạn chiến đấu của mình, cụm từ “chiến tranh nhân dân” không ngừng trở thành khẩu hiệu động viên toàn thể dân tộc, được đem ra thực hiện hàng ngày. Ít nhà quan sát người Pháp trước năm 1946, và còn ít hơn nữa các nhà quan sát người Mỹ trước những năm 1960 có thể hiểu được điều này.
Làm sao “một dân tộc nhỏ bé” của những người nông dân mà họ gọi một cách coi thường là “những người nhà quê” lại có thể đương đầu với vũ khí hiện đại? Làm sao những người du kích quần áo rách rưới đi dép cao su lại có thể đua tranh với các “ông lớn” da trắng mặc quân phục dã chiến, đi ủng cao và được trang bị đến tận răng?
Một người bạn chiến đấu khác của Bác Hồ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, cách đây không lâu đã kể cho tôi một giai thoại sau. Năm 1946 khi ông dẫn đầu Phái đoàn của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến dự Hội nghị Fontainebleau, Max André, người dẫn đầu Phái đoàn Pháp, đã phát biểu với giọng trịch thượng: “Các ông hãy tỏ ra biết điều, hãy nhường Nam Kỳ cho chúng tôi. Các ông không muốn chiến tranh đấy chứ? Nếu chẳng may chiến tranh xảy ra, quân lính của các ông chỉ cầm cự được dăm tháng là cùng!”. Tôi còn nhớ khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng kể lại cho tôi câu chuyện đó, ông phá lên cười, một cái cười rất tự nhiên, cứ như ai nói đến chuyện đó cũng phải cười như thế!
Thế mà thực dân Pháp đã bại trận. Nước Mỹ được trang bị vũ khí tối tân nhất thế giới cũng bại trận. Đương nhiên nhân dân Việt Nam phải trả giá
https://thuviensach.vn
bằng bao nỗi đau thương, mất mát! Nhưng thực tế còn kia: chiến thắng năm 1975 đang và sẽ còn là một thời điểm quan trọng nhất của thế kỷ XX.
Cuốn sách GIÁP bằng tiếng Pháp của Boudarel ra mắt độc giả từ năm 1977, nghĩa là hai năm sau chiến thắng vĩ đại mùa Xuân 1975 của Việt Nam. Có lẽ đây là điều trách cứ duy nhất chúng tôi có thể dành cho nhà sử học này. Bởi với kinh nghiệm, hiểu biết sâu sắc về con người, đất nước Việt Nam, “tổ quốc thứ hai” của ông, thông thạo tiếng Việt, đáng lẽ Boudarel phải viết sớm hơn thế, ngay từ trong chiến tranh mới phải. Bởi nếu thế, có lẽ ông sẽ giúp chúng ta hiểu được nguyên nhân nào đã khiến nhân dân Việt Nam giành được thắng lợi.
Thực vậy, cuốn sách này có lợi thế lớn hơn nhiều so các cuốn sách khác đã viết về GIÁP sau đó: Không còn bám vào câu hỏi “Giáp và nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi như thế nào?”, nhưng Boudarel đã giải thích “Tại sao” họ lại chiến thắng. Và muốn giải đáp được câu hỏi trên, phải tìm hiểu lịch sử đất nước này từ rất lâu trước thế kỷ XX, điều đó Boudarel đã nắm được và chuyển tải sang cuốn sách của ông.
Tại Pháp, cuốn sách này đã không được hoan nghênh như đáng lẽ phải có. Tình hình biến chuyển nhanh và năm 1977, âm vang của chiến thắng 1975 của Việt Nam đã bị những sự kiện quốc tế khác che phủ. Báo chí không nói nhiều đến công trình nghiên cứu mang tính đổi mới này. Hơn nữa, từ năm 1978, bằng chiến dịch xấu xa vu cáo Việt Nam: với những “thuyền nhân”, rồi những khó khăn của đất nước ở biên giới Tây Nam (Khmers Đỏ đánh phá) và phía Bắc (Trung Quốc khiêu khích), phương Tây tưởng đã đến lúc phục thù. Chiến dịch vu cáo này đạt tới đỉnh điểm khi Việt Nam giúp giải phóng Campuchia, rồi tiếp đó là cuộc chiến tranh biên giới ở phía Bắc. Rất nhiều người Pháp chúng tôi trước sau kiên trì ủng hộ Việt Nam: đó là những người cộng sản, những lực lượng tiến bộ, cả những người Công giáo cánh tả, những hội viên Hội Hữu nghị Pháp-Việt. Georges Boudarel lúc đó
https://thuviensach.vn
tuy có cái nhìn phê phán “tổ quốc thứ hai” của ông nhưng vẫn đứng bên cạnh chúng tôi.
Sau này người ta biết rằng bản thân Boudarel cũng là đối tượng của một chiến dịch khá mạnh gây thù hằn của những kẻ thua trận trong lịch sử, “những người cũ ở Đông Dương” và một phần cánh hữu của Pháp. Tôi thuộc về những người đã bênh vực Boudarel lúc đó. Tôi còn nhớ tôi đã gặp Boudarel trong ngôi nhà ông nghỉ hưu vào những năm cuối đời. Lúc đó sức khỏe ông đã sa sút lắm nhưng vẫn minh mẫn, luôn đọc rất nhiều, hay hỏi thăm tin tức về Việt Nam...
Giờ đây cuốn sách được dịch sang tiếng Việt, quả là một việc làm đáng hoan nghênh. Bạn đọc Việt Nam ngày nay có thể tìm hiểu qua những trang sách hết sức phong phú nhưng cô đọng, cung cấp nhiều thông tin quý giá và bổ ích về cuộc đời của một trong những nhân vật vĩ đại của thời đại này, Đại tướng Tổng tư lệnh VÕ NGUYÊN GIÁP.
Đây đồng thời cũng là một sự trân trọng của Việt Nam ngày nay dành cho một trong những người bạn trung thành sáng suốt nhưng có khi bị chỉ trích - Georges Boudarel.
Alain Ruscio, nhà sử học Pháp
Paris, tháng 11 năm 2012
https://thuviensach.vn
VÕ NGUYÊN GIÁP
Một người tên là Văn
Ngày 24 tháng 12 năm 1944, chiều muộn. Một nhóm 32 người men theo con đường trong một góc khuất vùng rừng núi tỉnh Cao Bằng, phía cực bắc của Việt Nam, ngay gần biên giới Việt - Trung. Đi cuối nhóm đầu tiên là trưởng nhóm, một người tên là Văn. Hoạt động ở vùng này từ ba năm nay, chưa bao giờ Văn có nhiều người dưới quyền đến thế, chưa bao giờ anh dám đi giữa ban ngày ban mặt với một nhóm người trên đường như thế. Khi quay lại để nhìn cả đội, cảnh hàng người chạy dọc theo những khúc quanh của con đường núi khiến anh ấm lòng. Đầu đội nón bọc vải, mình mặc quần áo chàm, chân quấn xà cạp, có thể khiến anh vui vui khi thấy mình trông thật buồn cười. Cả đội ăn mặc giống lính dõng.
Mục tiêu của họ là gì? Đó là Phai Khắt, một đồn nhỏ. Từ hơn một năm nay, đồn có khoảng 10 lính dõng, do một viên thiếu tá người Pháp làm chỉ huy, có11 vài ngôi nhà tranh bên bờ suối, đối diện với một nương lúa nằm sát trong núi. Đây là một bản Việt Minh “hoàn toàn”: toàn bộ người dân, kể cả chức dịch đều “hoàn toàn” theo Việt Minh. Không có gì đáng lo. Người dân đã cung cấp mọi thông tin.
17 giờ ngày 25 tháng 12, đội chìa “Giấy đi tuần” cho tên lính gác rồi đi thẳng vào đồn, theo sau Thu Sơn mặc bộ kaki đóng giả đội sếp.
- Chúng tao đang đi tuần, quan đồn có nhà không? Thu Sơn hỏi tên lính gác, giọng hách dịch rồi đàng hoàng tiến vào đồn. Người của anh nhanh chóng tiếp cận nơi để súng, trong khi hai nhóm khác bao vây nhà bọn lính ở. Lúc đó, lính địch đứa đang ăn cơm trong nhà, đứa thu dọn quần áo, đứa quét dọn, sửa hàng rào. Thu Sơn hô lớn: “Rassemblement! Rassemblement général! Le chef de poste revient du district!” (Tập hợp! Tập hợp! Đồn
https://thuviensach.vn
trưởng về!). Một lát sau, khi toàn bộ lính đã tập hợp trước mặt, Thu Sơn đổi giọng:
- Chúng tôi là quân cách mạng, anh em đầu hàng sẽ không giết ai hết, giơ tay lên!
Bị bất ngờ, không kịp trở tay, toàn bộ lính địch buộc phải đầu hàng. Giữa lúc đó, người của tổ canh gác cách đồn 3 kilômét phóng ngựa tới báo tin tên đồn trưởng đang đi ngựa trở về, theo sau hắn có 10 tên lính không mang súng. Đội quyết định bắt tên đồn trưởng. Những tên lính bị bắt được đưa ra phía sau đồn, chiến lợi phẩm được thu dọn, rồi ai nấy vào vị trí. Văn, Thu Sơn và Hoàng Sâm nấp dưới mái hiên. Văn nói nhỏ: “Khi nó vào, tôi sẽ hô “Giơ tay lên”, nếu nó giơ tay các đồng chí lập tức xông ra bắt sống. Có lệnh mới được nổ súng”. Nhưng khi Văn vừa hô “Giơ tay lên” thì nhiều tiếng súng vang lên, cả người và ngựa đều bị tiêu diệt. Do quá căm thù, không kìm được nên một số đồng chí đã nổ súng ngay.
Việc thu dọn chiến trường được tổ chức ngay với sự giúp đỡ của nhân dân. Tất cả những gì có thể sử dụng trong cuộc sống hàng ngày đều được để lại cho dân làng. Những vũ khí thu được được trang bị ngay cho đội, súng kíp giao lại cho du kích địa phương. Số súng này đủ trang bị cho nửa trung đội, nhưng thu được rất ít đạn.
Nửa đêm hôm ấy, đội dừng chân ở một bản cách đó 15 kilômét để kiểm điểm rút kinh nghiệm trận đánh vừa qua. Tới 3 giờ sáng ngày 26 tháng 12, cả đội tiếp tục hành quân đến Nà Ngần, một ngôi nhà được biến thành đồn lính, có 22 lính khố đỏ, do hai sĩ quan người Pháp chỉ huy, nằm cách đồn Phai Khắt 25 kilômét. Đội hy vọng sẽ thu được đạn dược ở đây. Sáng sớm, đội dừng lại. Cả đội thay quần áo, cải trang bằng những bộ quần áo lính dõng, lính tập mới thu được ở Phai Khắt, giả làm một toán lính dõng, lính khố đỏ đang dẫn giải “ba cộng sản” bị trói. Kịch
https://thuviensach.vn
bản có thay đổi. Khi đến cổng, Thu Sơn lại chìa giấy cho lính gác xem, trong khi một đồng chí khác đi sau rút thuốc lá ra mời và châm lửa cho bọn gác. Tò mò, lính gác trên chòi canh liếc nhìn:
- Lại bắt được cộng sản người Mán à?
Trong khi cuộc chuyện trò diễn ra với nhóm thứ hai, thì Thu Sơn đi thẳng vào trong đồn. Lúc này đồn do một tên đội người Việt, nổi tiếng phản động, chỉ huy thay cho hai sĩ quan lên tỉnh. Cũng như ở Phai Khắt, bọn lính đang làm nhiều việc khác nhau, một số thu dọn chăn màn, một số đi rửa mặt. Tên đội ngồi ở bàn làm việc; vũ khí vẫn còn trên giá để súng, trong đó bốn khẩu đã bị Việt Minh lấy ngay ở lối vào. Thu Sơn chĩa khẩu tiểu liên vào tên đội. Bất ngờ tên đội định đặt tay vào khẩu súng của hắn đặt trên bàn, nhưng trước khi hắn có thời gian làm việc đó thì đã bị hạ. Nhóm đang nói chuyện ở lối vào vô hiệu lính gác, bọn lính trong đồn rất hoảng hốt. Mọi việc diễn ra rất nhanh. Ba tên lính liều chết chống cự đều bị tiêu diệt. Ba du kích người Tày được cử đến giải thích. Tù binh rất ngạc nhiên khi thấy các nữ chiến sĩ vai mang súng, lưng đeo đạn, nói năng lưu loát, giải thích cho họ hiểu chủ trương chính sách của Việt Minh. Đa phần tù binh xin được trở về quê, họ được trả lại quân trang.
Hai mươi phút sau, đội lại ra đi sau một cuộc giải thích nhanh cho dân làng mà họ phải ngăn không cho đi theo đội.
Đến tối, toàn đội vượt qua quốc lộ 3A (Cao Bằng - Nguyên Bình) và đi vào vùng rừng núi đá vôi Gia Bằng. Cả ngày, anh em chỉ ăn một bữa cơm, nhưng vẫn cố gắng đi liên tục không nghỉ. Một đội viên đã tổng kết thành một câu hài hước: “Quân cách mạng chúng tôi ăn thì mỗi ngày một bữa, đánh thì mỗi ngày hai trận”. Đội đi cả đêm trong rừng, đến tận Lũng Dẻ, một bản của đồng bào Mông, giữa khu du kích Thiện Thuật (tên của một chí sĩ kháng Pháp ở đồng bằng sông Hồng khi Pháp chiếm Bắc Kỳ trong những năm 1880). Khu du kích nằm trong một lòng chảo khá rộng, bao quanh là những vách đá tai mèo hiểm trở, một thành trì tự nhiên thực sự.
https://thuviensach.vn
Trong mười ngày tại Lũng Dẻ, cả đội nghỉ ngơi, chấn chỉnh, củng cố lực lượng và huấn luyện thêm. Khi xuất phát, đội được phát triển thành đại đội. Một bộ phận nhỏ do Hoàng Văn Thái chỉ huy, phụ trách công tác tham mưu - tình báo, đi xuống phía nam hoạt động tuyên truyền, mở rộng cơ sở. Đại bộ phận, do Văn chỉ huy, đi lên phía bắc, hướng về đồn Đồng Mu, phải đi qua Trung Quốc, gần Bảo Lạc, cách đường ở phía bắc Cao Bằng 100 kilômét, trong đó 60 kilômét là đường mòn hẹp và hiểm trở. Hoạt động của Việt Minh còn yếu trong vùng địa hình hiểm trở lởm chởm đá tai mèo, rừng núi lô nhô, giống như một vịnh Hạ Long trên cạn với đỉnh núi Pia Oắc cao 1931 mét ở phía nam. Không thể đi theo đường dễ, cũng không đi được vào ban ngày, cả đội đi liên tục, theo nhiều điểm, có khi lại phải đi xuống thung lũng và im lặng vượt qua những điểm gác của địch, trong tiếng trống của lính gác đêm. Đồn Đồng Mu được xây dựng rất kiên cố trên một ngọn đồi cao vì phải thường xuyên đối phó với bọn phỉ từ phía Trung Quốc. Quân lính trong đồn có hơn 40 lính khố đỏ, do ba tên sĩ quan Pháp chỉ huy. Đồn có nhiều lô cốt, tường dày có lỗ châu mai, giao thông hào và dây thép gai bao bọc xung quanh. Không thể sử dụng cách cải trang đột nhập đồn, chỉ còn cách vượt tường đột nhập và kêu gọi quân bên trong đầu hàng. Đội chia thành bốn tổ, xuất phát trong đêm, leo lên đồi và vượt hàng rào dây thép gai. Đội đang đột nhập thì bị địch hỏi:
- Ai?
Tình huống này nằm ngoài dự kiến.
- Chúng tôi là Việt Minh đến lấy súng của Tây, không đánh các anh em.
Một quả lựu đạn và một loạt đạn nổ vang. Từ 23 giờ đến 2 giờ sáng, bên trong đồn, hai đội đã vào được và bắn nhau với địch dữ dội. Việt Minh vừa bắn vừa hát để động viên khí thế chiến đấu và báo hiệu cho các chiến sĩ liên lạc. Tuy nhiên, họ lại làm lộ vị trí chiến đấu, khiến quân địch tập trung hỏa lực bắn tới. Đến rạng sáng, ban chỉ huy hạ lệnh rút khỏi đồn. Đội mất một
https://thuviensach.vn
tiểu đội trưởng, thu năm súng trường mousqueton và một số đạn, bắt bốn tù binh. Các tù binh này khai đồn đã trong tình trạng báo động.
Một cuộc hành quân mới lại bắt đầu, mọi người vừa đi vừa nghỉ dọc đường và ăn cơm nắm. Sau khi nghỉ ngơi, đội cẩn thận xóa mọi dấu vết nhỏ nhất, từ những chiếc lá gói thức ăn đến hạt cơm rơi xuống đất vì chúng có thể để lộ dấu vết. Rồi cả đội lại lên đường. Đến vùng an toàn hơn, các chiến sĩ tản ra thành những đội nhỏ đi vào bản để tuyên truyền. Tại Nà Ngần, họ có được thành quả đầu tiên: thu 16 súng trường và nhiều tù binh. Nhưng bây giờ, việc cần ưu tiên là tuyên truyền. Hồ Chí Minh đã nhắc đi nhắc lại điều này: “Chính trị trọng hơn quân sự, vũ trang tuyên truyền trọng hơn tác chiến”.
“Một chiến thắng chỉ được 100 người biết sẽ chỉ tác động đến 100 người; nhưng nếu ta cho 1000 người biết, thì cũng như ta đã mang về 10 chiến thắng khác hoặc một chiến thắng lớn hơn 10 lần”. Người sau này viết lên những dòng này chính là Văn, mà Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân của ông vừa có những trận tấn công đầu tiên. Sáu tháng sau, ông được cả thế giới biết đến với tên thật Võ Nguyên Giáp.
https://thuviensach.vn
Chàng sinh viên, thầy giáo dạy sử và người chiến sĩ cách mạng
Sinh ở An Xá, tỉnh Quảng Bình vào năm 1910[1], Giáp lúc nhỏ sống ở một vùng đồng bằng nhỏ hẹp ven biển miền Trung phía bắc vĩ tuyến 17. Nơi đây từ thế kỷ XI là bàn đạp của cuộc nam tiến không gì ngăn nổi của dân tộc Việt Nam. Ông đã lớn lên ở một vùng đất hẹp vào bậc nhất của Việt Nam, có những cánh đồng lúa nước kẹp giữa một bên là những cồn cát trắng xóa mênh mông chạy dọc bờ biển và bên kia là những mỏm núi xanh trơ trụi trong dãy Hoành Sơn uốn lượn giữa những cánh rừng rậm, nơi đây vào mùa hè những cơn gió tây khô rát gọi là gió Lào từ lục địa Nam Á nóng bỏng thổi ra biển.
[1] Theo xác nhận của gia đình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25/8/1911. (Ghi chú của Văn phòng Đại tướng Võ Nguyên Giáp - VPĐT).
Cụ bà thân sinh, những hôm không bận việc đồng áng thì cặm cụi bên khung cửi. Còn cụ ông là một nông dân có học thức tự cày cấy ruộng nhà, và truyền lại cho cậu bé Giáp chữ nghĩa, vốn tri thức và tình yêu quê hương đất nước. Đối với những ai hiểu biết thì mỗi tấc đất ở đây đều mang một chứng tích lịch sử. Phía bắc tỉnh là động Phong Nha sâu hút, thu hút nhiều khách hành hương đến cầu nguyện trước một bàn thờ còn sót lại của người Chăm, bên cạnh những nhũ đá lung linh dưới ánh sáng khi mờ khi tỏ từ cửa động rọi vào. Trên bờ biển, Đèo Ngang hùng vĩ nằm án ngữ biển, nơi đây Bà Huyện Thanh Quan, nữ thi sĩ của thế kỷ XVIII từng ca ngợi vào một buổi chiều tà: “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc”. Cậu bé Giáp tuy ở tuổi ấu thơ cũng đã hiểu rằng nữ tác giả khi nói đến con cuốc cuốc là nói đến non sông đất nước vì tiếng con chim cuốc theo âm Hán Việt đồng âm với tiếng quốc có nghĩa là đất nước quê hương.
https://thuviensach.vn
Cách làng An Xá một quãng ngắn, còn sót lại di tích của thành lũy do nhà quân sự kiêm thầy giáo dạy chữ Nho, Đào Duy Từ, tác giả cuốn Hổ trướng khu cơ (Bí quyết phép dùng binh) - một cuốn sách giáo khoa dạy nghệ thuật quân sự cho các tướng lĩnh thời bấy giờ - xây dựng vào cuối thế kỷ XVII được người dân vùng này truyền tụng là lũy Thầy. 25 năm trước khi cậu bé Giáp ra đời, toàn bộ vùng đất Quảng Bình này từng là địa bàn hoạt động của nghĩa quân Cần Vương, hưởng ứng lời kêu gọi chống Pháp của vua Hàm Nghi. Ở phía bắc, trong tỉnh kế bên cũng có một văn thân là cụ Phan Đình Phùng đã xây dựng căn cứ kháng chiến trên núi Vụ Quang trong mười năm và đến năm 1910, một toán nghĩa quân còn về đồng bằng quyên góp lương thực và gây quỹ ủng hộ kháng chiến chống Tây. Nhưng sau năm 1919, dường như quá khứ vẻ vang ấy đã vĩnh viễn hết thời, không có gì cưỡng lại được. Người ta bước vào một thời đại mới, bút lông mềm mại đã nhường chỗ cho bút sắt vừa viết vừa phát ra tiếng cót két của hãng Sergent Major từ phương Tây đem tới.
Năm 1923, cậu bé Giáp tạm biệt cha mẹ già vào Huế, cố đô của triều đình nhà Nguyễn xưa, cách nhà 150 kilômét, để học ở trường Quốc học. Vào thời đó, các trường học từ bậc trung học trở lên đều đặt ở các thành phố, thị xã và đô thị lớn, và được “chính trị hóa” một cách khác thường. Học sinh không ồn ào, hiếu động mà rất chăm chỉ đèn sách. Ở lớp, các cô cậu im lặng, ngồi nghiêm chỉnh nghe lời thầy giảng hay ghi ghi chép chép, chỉ còn nghe được tiếng ruồi bay qua bay lại. Một số cố học để sau này ra làm quan. Nhiều người khác cốt sao sau này nên người, để “cứu nước, đánh giặc ngoại xâm”, “canh tân đất nước”. Những ý nghĩ tốt đẹp này ám ảnh tâm trí những con người trẻ tuổi. Đi đâu cũng thấy những nhóm nhỏ ra đời mà trong buổi lễ gia nhập, các cậu “thề đấu tranh, hy sinh đến cùng cho sự nghiệp”.
Người ta xì xào, bàn tán về con người có sức hấp dẫn kỳ lạ mang tên Nguyễn Ái Quốc (sau này đổi tên là Hồ Chí Minh), tác giả áng văn đả kích nổi tiếng có tựa đề: Bản án chế độ thực dân Pháp, cùng với những người
https://thuviensach.vn
cùng chí hướng đang hoạt động tại nước Nga Xô viết. Người ta đưa cho Giáp một bản và anh đã đọc say sưa. Báo chí thực dân đã dành toàn bộ phương tiện tuyên truyền tốt nhất để vu cáo những người Bôn-sê-vích, thậm chí có những người có xu hướng ôn hòa, chỉ đưa ra những đề nghị cải cách xã hội khiêm tốn nhất cũng bị chúng gán cho cái tên Bôn-sê-vích.
Anh học trò trung học Võ Nguyên Giáp đặc biệt say mê các môn lịch sử, địa lý và vật lý. Anh chỉ rời sách vở khi bận đến dự những cuộc thảo luận sôi nổi về các đề tài liên quan đến lịch sử nước nhà. Khi 14, 15 tuổi đời anh đã có những bước ngoặt có tính quyết định cả cuộc đời anh sau này.
Năm 1924, Toàn quyền Đông Dương Merlin tích cực phá hủy những gì mà những người tiền nhiệm của ông là Albert Sarraut và Maurice Long đã bước đầu xây dựng cho cái gọi là tự do, bác ái ở Đông Dương. Merlin chủ trương thanh niên Đông Dương chỉ nên học đến bậc trung học rồi đi làm, không nên học lên đại học, nhất là sang Pháp du học vì ông ta cho rằng họ sang chính quốc sẽ bị ảnh hưởng chủ nghĩa nhân quyền tự do của nước Pháp, sẽ trở thành những phần tử chống Pháp. Tuy nhiên, vào năm 1925, khoảng 400 thanh niên Việt đi lén trên các tàu biển đã tới Marseille (Pháp).
Không ý thức được các mối hiểm nguy đó, Phủ Toàn quyền Đông Dương lợi dụng lúc vua Khải Định băng hà đã buộc Hội đồng Phụ Chính thông qua trong phiên họp ngày 6 tháng 11 năm 1925 một đạo dụ thu hẹp quyền hành của nhà vua nay chỉ giới hạn trong những chức trách thuần túy lễ nghi, ban sắc cho các thần thành hoàng làng. Ngay cả việc tuyển dụng và bổ nhiệm quan chức giúp việc cho nhà vua cũng thuộc quyền của Khâm sứ Pháp. Chính quyền thuộc địa đã nhanh chóng cắt gọn cái cành cây mỏng manh, vốn vẫn là chỗ dựa để cai trị dân bản xứ, như vậy sự sụp đổ của chế độ thực dân chẳng còn bao xa.
Trong những điều kiện ấy, có gì đáng ngạc nhiên khi người ta ngày càng hướng về “những người ở Pháp về” như Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, những nhà luận chiến nảy lửa ở Sài Gòn bắt đầu truyền bá những tư
https://thuviensach.vn
tưởng lật đổ do những cây bút già dặn viết trên các tờ báo bằng tiếng Pháp. Năm 1925, một nhà văn có tên là Malraux đã phản ánh tình trạng này trên tạp chí Indochine (Đông Dương): “Một tin đồn lan truyền khắp nơi trong xứ An Nam về mối lo ngại rằng mọi sự căm giận, oán thù tản mát lâu nay đã được tập hợp lại để có thể trở thành một sự bùng nổ, nếu các ngài không đề phòng, khác nào cánh đồng vào vụ gặt.”
Thực vậy, một hành động mạnh mẽ vừa xuất hiện lại. Ngày 24 tháng 6 năm 1924, vào 8 giờ 30 phút tối tại tô giới Anh - Pháp ở Quảng Châu, người ta tổ chức ở khách sạn Victoria tiệc mừng Toàn quyền Merlin vừa kết thúc chuyến đi thăm các nước Đông Á về thì một người Việt Nam trẻ tuổi liệng qua cửa sổ phòng tiệc một trái lựu đạn được ngụy trang trong một chiếc máy ảnh. Lựu đạn nổ làm năm người thiệt mạng, trong đó ba người chết ngay tại chỗ, nhưng Merlin thoát chết. Vụ mưu sát này đã gây tiếng vang lớn trong toàn Đông Dương làm thức tỉnh “hồn nước”, nhất là trong đám thanh niên học sinh. Tại Quảng Châu, nhà đương cục Trung Hoa Quốc dân Đảng đã dựng bia lưu danh Phạm Hồng Thái, người chủ mưu trong vụ này, đối diện với đài tưởng niệm các anh hùng của cách mạng Trung Hoa. Trong những năm tiếp theo, bia liệt sỹ Phạm Hồng Thái trở thành nơi hành hương chính trị của những người Việt Nam lưu vong.
Một năm sau sự kiện chấn động này, một cuộc truy lùng của cảnh sát, về kỹ thuật thì khá thành công nhưng về chính trị thì lại là một chủ trương rất dở, đã gây nên sự phản đối khắp nơi. Tháng 6 năm 1925, ở ngay lối ra của nhà ga Thượng Hải, cảnh sát Pháp bắt cóc nhà yêu nước Phan Bội Châu đang lưu vong tại Trung Quốc và sắp đi gặp Nguyễn Ái Quốc mới đến Quảng Châu, cùng với Borodine từ Matxcơva.
Việc kết án tử hình nhà yêu nước kỳ cựu được tất cả mọi người kính trọng đã gây nên một phong trào rộng lớn đòi ân xá cho Phan Bội Châu. Cuối năm 1925, Phan Bội Châu được Toàn quyền Varenne ân xá nhưng quản thúc tại nhà ở Huế. Ông sống những ngày cuối đời tại ngôi nhà đơn sơ bên
https://thuviensach.vn
bờ sông Hương. Trên một tờ báo địa phương, nhà nho Huỳnh Thúc Kháng, vừa mãn hạn tù 13 năm (từ 1908 đến 1921) tại Côn Đảo, đã nói đến những tình cảm của các tầng lớp nhân dân đối với nhà yêu nước họ Phan.
Giáp tích cực tham gia các phong trào này với thanh niên các trường. Tháng 3 năm 1926, Phan Chu Trinh tạ thế. Cụ là người đã chịu án tù đày ở nhà tù Côn Đảo chỉ vì đòi thực hiện những biện pháp canh tân, cấp tiến từ đầu thế kỷ. Cái chết của Phan Chu Trinh khiến phong trào bất mãn với chính sách thuộc địa lại bùng lên. Tại tất cả các thành phố, từ Sài Gòn đến Hà Nội, thanh niên học sinh bãi khóa, mặc đồ tang, tổ chức lễ truy điệu Phan Chu Trinh. Chính quyền thuộc địa hiểu rõ ý nghĩa của phong trào tôn vinh nhà yêu nước Phan Chu Trinh, đã đuổi học những “người cầm đầu phong trào”. Tại Huế, Giáp đã bị theo dõi từ lâu và cũng nằm trong số này[2].
[2] Võ Nguyên Giáp bị đuổi học vì tổ chức biểu tình bãi khóa phản đối Ban giám hiệu nhà trường đuổi anh Nguyễn Chí Diểu (VPĐT).
Dường như kể từ thời gian này, Giáp đã gia nhập Đảng Tân Việt[3], một chính đảng hoạt động bí mật chủ trương bạo động và chịu ảnh hưởng sâu sắc của những người mác-xít. Giáp quay về An Xá, trong bụng đã nghĩ đến việc xuất dương sang Trung Quốc để gia nhập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội do Nguyễn Ái Quốc thành lập ở Quảng Châu. Ý định này không thành, Giáp quay lại Huế không phải để đi học mà để hoạt động như một chiến sĩ cách mạng và có quan hệ mật thiết với những người thân cận của Huỳnh Thúc Kháng.
[3] Năm 1928, Võ Nguyên giáp được kết nạp vào Đảng Tân Việt (BT).
Tình hình tiếp tục căng thẳng, Việt Nam Quốc dân Đảng, một nhóm có khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa trên một nền tảng mờ nhạt theo chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên, chủ trương tiến hành khởi nghĩa. Từ năm 1927,
https://thuviensach.vn
nhóm này có ảnh hưởng trong giới trí thức và bắt đầu gây cơ sở trong hàng ngũ binh lính của quân đội thuộc địa để tổ chức nội gián.
Trong năm 1929, tất cả các chi bộ của Thanh niên [viết tắt của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội] và Tân Việt bỗng nhiên ngả sang chủ nghĩa cộng sản và “đi vô sản hóa” (tức là xin vào làm trong nhà máy, xưởng thợ để gần gũi công nhân, tự cải tạo mình và tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản). Những vụ đình công, xô xát và cả mưu sát ngày càng gia tăng và tháng 2 năm 1930, nổ ra vụ binh biến của lính khố đỏ đóng ở Yên Bái theo chủ trương do Việt Nam Quốc dân Đảng đề xuất, đồng thời một loạt các vụ bạo động địa phương cũng xảy ra ở ngoài rìa miền châu thổ sông Hồng cho đến gần Hải Phòng. Phong trào bị đàn áp, nhưng ngay sau đó một cuộc đình công nổ ra ở Vinh ngày 1 tháng 5. Quay về làng, những công nhân đã khuyến khích nông dân tổ chức biểu tình, người đi đầu cầm cờ đỏ, tiến vào các thị xã, huyện, tỉnh lỵ.
Bắt đầu nhen nhóm từ hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, các Xô viết địa phương đã được thành lập nằm ngoài tầm kiểm soát của chính quyền thuộc địa, phong trào lan rộng ra các nơi như vết dầu loang. Toàn bộ nông thôn Nam Kỳ cũng như Quảng Ngãi, phía nam Huế, cả Thái Bình phía nam châu thổ sông Hồng ở Bắc Kỳ rục rịch khởi nghĩa. Chính quyền thuộc địa phái lính lê dương về hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh để tiến hành chiến dịch “bình định” các làng khởi nghĩa. Các nơi khác trong diện tình nghi cũng bị trấn áp. Tại Huế, Giáp tham gia các phong trào ủng hộ và quyên góp giúp những người bị bắt giam trong các nhà tù. Trong một vụ ẩu đả với một người Pháp, Giáp bị bắt, bị kết án ba năm tù giam tại nhà tù Lao Bảo thuộc tỉnh Quảng Trị[4], giáp biên giới Lào. Ở nhà tù này nhiều phạm nhân không chịu nổi chế độ tra tấn của bọn cai ngục lại thêm khí hậu khắc nghiệt nên chết rất nhiều. Tháng 9 năm 1915, 35 tù chính trị nổi dậy đốt nhà giam và bỏ trốn. Không lâu trước khi phạm nhân trẻ Võ Nguyên Giáp bị giải đến Lao Bảo, tại đây đã xảy ra một vụ binh biến, trong đó Nguyễn Sĩ Sách, một trong những lãnh đạo Đảng Cộng sản đã bị đánh chết.
https://thuviensach.vn
[4] Võ Nguyên Giáp bị giam ở nhà lao Thừa Phủ, Huế, chứ không phải ở Lao Bảo (VPĐT).
Một sự can thiệp đúng lúc của quan cai trị Marty đã đưa Giáp ra khỏi trại giam Lao Bảo trước khi mãn hạn tù. Là một chuyên gia và khá lọc lõi kinh nghiệm trong ngành an ninh, lại có đầu óc sáng suốt đáng gờm, hẳn ông ta cho rằng không nên để Giáp bị giam lâu trong tù, nơi đây chàng thanh niên sôi sục ý chí cách mạng này chắc chắn sẽ trưởng thành thêm do được tiếp xúc với các chính trị phạm khác, sau này có thể trở thành một kẻ thù không đội trời chung của chính quyền thực dân, cho nên tốt hơn là tạo điều kiện cho anh ta học thành tài và anh ta sẽ khôn ngoan, dễ bảo hơn. Có thể đây không phải là trường hợp duy nhất để thu phục. Sau đó, từ thân phận tù khổ sai, Giáp trở thành học sinh Trường Trung học Albert Sarraut, một trường học tốt nhất ở thuộc địa, thực tế là dành riêng cho con em người Pháp và số ít quan lại hay công chức cao cấp người Việt được ưu đãi đặc biệt. Marty đã mắc sai lầm lớn nhất trong cuộc đời hành nghề mật thám của mình.
Sau khi đỗ tú tài triết học năm 1934, Giáp ghi tên vào học trường luật. Vừa đi học đại học, chàng sinh viên Giáp vừa xin làm giáo viên Trường tư thục Thăng Long để kiếm sống. Trường Thăng Long[5] trở thành vườn ươm thực thụ những hạt giống cách mạng của Việt Nam, có những học sinh sau này là những nhà cách mạng xuất sắc như Lê Đức Thọ[6], nhà thương thuyết về hòa bình tại Hội nghị Paris về Việt Nam, Nguyễn Thành Lê, người phát ngôn tại Hội nghị Paris, tướng Lê Quang Đạo, nhà quân sự lỗi lạc trở thành Chủ tịch Quốc hội, Nguyễn Lam, Phó thủ tướng, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước.
[5] Trường tư thục Thăng Long là tiền thân của trường Trung học Cơ sở Thăng Long ngày nay. Năm 1934, Hoàng Minh Giám cùng với một số nhà trí thức đương thời như Phan Thanh, Đặng Thai Mai, Đặng Vũ Xích, Phạm Hữu Ninh, Nguyễn Cao Luyện, Nguyễn Dương... thành lập “Hội mở mang nền tư thục”, một năm sau lập lên Trường tư thục Thăng Long với mục
https://thuviensach.vn
đích truyền bá kiến thức cho cộng đồng và tuyên truyền lòng yêu nước, thương dân và căm thù thực dân Pháp xâm lược. Năm 1945, thực dân Pháp đã buộc trường phải đóng cửa do những ảnh hưởng của trường đến phong trào yêu nước ngày càng mạnh (BT).
[6] Lê Đức Thọ không học ở trường Thăng Long (VPĐT).
Tại trường luật, Giáp học xuất sắc tất cả các môn, nhưng môn học anh thích nhất là kinh tế chính trị. Năm 1937, anh bị trượt trong kỳ thi vấn đáp, tuy bài viết của anh đạt kết quả xuất sắc, anh đã to tiếng với thầy giám khảo. Giáo sư Pirou mới ở Paris sang nhận thấy Giáp là một trong những sinh viên có triển vọng, có thể tiếp thu tốt bất cứ môn học nào, nên muốn gửi anh sang Pháp học, tách khỏi môi trường thuộc địa. Ông ngỏ ý xin một suất học bổng đi du học cho anh. Sau một thời gian suy nghĩ, anh đã khước từ đề nghị này. Anh trả lời: anh không muốn ích kỷ, được một mình hưởng may mắn và ân huệ, bỏ lại bạn bè ở nhà[7].
[7] Câu trả lời là: “ma confiction est faite” (tôi đã lựa chọn con đường của mình) (VPĐT).
Thực ra, Giáp có những hoạt động khác, có lẽ đã lôi cuốn anh hơn là sang Pháp du học. Lúc này, Giáp hoạt động trong Chi bộ Pháp của Quốc tế công nhân[8]. Từ khi Mặt trận bình dân lên cầm quyền ở Pháp, tình hình ở Đông Dương cũng có phần dễ thở hơn. Nhiều báo chí tiến bộ xuất bản công khai. Đảng Cộng sản Đông Dương cũng có những tờ báo in tiếng Pháp, ra công khai. Đó là tờ Le Travail (Lao động), Notre Voix (Tiếng nói của chúng ta) trong đó đăng những bài của Nguyễn Ái Quốc từ nước ngoài gửi về, ký tên P. C. Lin. Lúc này, Nguyễn Ái Quốc vừa về Diên An, Trung Quốc sau một thời gian dài lưu trú tại Matxcơva.
[8] Sau này là Đảng Xã hội Pháp (1969) (BT).
https://thuviensach.vn
Cùng với Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp viết cuốn sách tiếng Việt nhan đề Vấn đề dân cày, xuất bản năm 1937. Giáp viết: “Vấn đề dân cày đáng được chúng tôi quan tâm... Đối với bọn tư bản, dân cày chỉ là những người nhà quê u mê, đần độn không đáng để người ta coi trọng. Tuy nhiên, khi không thể chịu đựng được nữa, những người nhà quê ấy đã thức tỉnh, nhìn thẳng vào sự vật trước mắt, để cơn tức giận bùng lên. Bước lên vũ đài, họ dám đương đầu với bọn bóc lột. Lê Lợi ở thế kỷ XIV đã trông cậy vào họ để giải phóng dân tộc. Quang Trung cũng làm như thế khi phải đánh nhau với quân Thanh năm 1789”. Cùng với Phạm Văn Đồng vừa từ Côn Đảo trở về sau tám năm tù đày, Trần Đăng Ninh, thợ in - sau này phụ trách hậu cần trong chiến dịch Điện Biên Phủ - và nhiều người khác là nhóm ở miền Bắc thúc đẩy cuộc vận động triệu tập Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương. Đại hội cho phép Đảng Cộng sản hoạt động bán hợp pháp, tổ chức nhiều phong trào song song dưới nhiều khẩu hiệu khác nhau nhưng vẫn che giấu được vai trò lãnh đạo của Đảng. Vào thời gian này, Ban chấp hành Trung ương Đảng đang ở miền Nam, không xa Sài Gòn, do Lê Hồng Phong làm Tổng bí thư (sau này hy sinh tại nhà tù, sau khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940). Từ Nam ra Bắc, những cuộc tiếp xúc diễn ra thường xuyên bất chấp khó khăn. Hoạt động vừa thống nhất vừa song song với nhau. Hai nữ chiến sĩ đóng vai trò then chốt là hai chị em Nguyễn Thị Minh Khai và Nguyễn Thị Quang Thái. Minh Khai đã tham gia đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương tại Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản họp ở Matxcơva, là bạn đời của Lê Hồng Phong và cũng như chồng, Minh Khai đã bị xử bắn tại Sài Gòn năm 1940 sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bất thành. Giáp đã quen biết Quang Thái từ khi còn cùng đi học tại trường Quốc học Huế[9], sau đó hai người yêu nhau và nên vợ nên chồng. Hoạt động cách mạng khiến họ luôn phải xa nhau nhưng cũng làm họ thêm gắn bó. Họ đã cùng nhau đem cả thể xác và tâm hồn hiến dâng cho lý tưởng. Đứa con đầu lòng của họ là một bé gái, được đặt tên là Hồng Anh.
[9] Nguyễn Thị Quang Thái học ở trường Đồng Khánh, Huế (VPĐT).
https://thuviensach.vn
Đã học được nhiều trong công tác, Đảng Cộng sản tận dụng hết các khả năng hoạt động hợp pháp nhưng vẫn giữ kín mạng lưới bí mật của mình. Năm 1937, Đảng tổ chức nhiều cuộc bãi công trong Nam ngoài Bắc.
Toàn bộ cán bộ chủ chốt của Đảng sẵn sàng chuyển vào bí mật khi khả năng hoạt động hợp pháp không còn. Tháng 9 năm 1939, sau khi ký hiệp ước Đức-Xô và Pháp lâm vào vòng chiến, Đảng rút vào bí mật. Hai tháng sau, Đảng thành lập Mặt trận phản đế Đông Dương và đặt vấn đề giải phóng dân tộc vào chương trình nghị sự của Đảng. Cuộc tiếp xúc trực tiếp được nối lại với Nguyễn Ái Quốc, lúc này đang ở tỉnh Quảng Tây, miền Nam Trung Quốc. Tháng 4 năm 1940, Ban chấp hành Trung ương Đảng quyết định Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng bí mật vượt biên giới sang Trung Quốc. Giáp viết: “Tình hình đối với chúng tôi không dễ dàng chút nào. Trong thời gian hoạt động ra báo hợp pháp, chúng đã bố trí đường dây theo dõi sát chúng tôi. Tuy nhiên chỉ trong vài ngày, chúng tôi đã chuẩn bị xong mọi thứ đồng thời được biết Hoàng Văn Thụ sẽ gặp tôi một lần nữa trước ngày lên đường”.
Khi Giáp đến chỗ hẹn, Thụ nói với Giáp lúc này ta phải nghĩ đến việc phát động phong trào du kích.
Một buổi chiều thứ Sáu, thầy giáo dạy lịch sử Võ Nguyên Giáp rời khỏi căn nhà trọ sau khi để lại cho ông Hiệu trưởng Trường Thăng Long Hoàng Minh Giám (sau này là Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Hồ Chí Minh) một bức thư xin lỗi vắng mặt trong buổi dạy sắp tới do tình hình sức khỏe không được tốt sau chuyến về quê thăm nhà vừa qua. Thư sẽ được gửi từ bưu điện tại Quảng Bình. Lúc đó đã 17 giờ 30 phút, chỉ còn bốn mươi tám tiếng đồng hồ nữa là được tháo cũi xổ lồng. Giáp đưa mắt nhìn lần cuối phong cảnh xung quanh. Từ giờ cho đến khi anh trở lại có biết bao dòng nước đã chảy qua chiếc cầu bắc qua sông Hồng? Anh đi về phía hồ Tây, đầu đường Cổ Ngư, hoa phượng kết thành một vòm đỏ chói dưới ánh chiều tà. Dưới gốc cây bên cạnh một ngôi chùa, Thái bế con chưa đầy năm, đứng
https://thuviensach.vn
đợi. Giáp dặn vợ cố tìm người gửi con để đi “hoạt động bí mật”, đây cũng là điều tự đáy lòng Thái mong muốn từ lâu. Nhưng trước giờ phút chia tay đau xé lòng, chị quay đầu nhìn ra phía hồ giấu đôi mắt nhòa lệ. Chẳng mấy chốc, người liên lạc đã giục đến lúc phải xuất phát rồi. Giáp được đưa đến một nhà trọ và một lát sau Đồng cũng đến. Họ nghỉ đêm ở đây để sáng sớm hôm sau ra ga đầu cầu đáp tàu hỏa đi Lào Cai. Cái ga xép này ít bị cảnh sát để mắt đến hơn. Cả ba người lên toa ngồi không đem theo hành lý gì, mỗi người một góc riêng để tránh sự chú ý của mọi người. Giáp đeo kính đen để nhỡ học trò có gặp cũng không nhận ra. Đến trước Lào Cai một ga, ba người xuống tàu, đi bộ đến bờ sông rồi thuê thuyền qua sông ở một chỗ vắng.
Tại Côn Minh, đã có người đợi ở cửa ga để đưa họ đến chỗ ở của Phùng Chí Kiên, chiến sĩ cách mạng ở Trung Quốc từ năm 1924 và học trường quân sự Hoàng Phố. Kiên lúc này là phụ trách cơ sở Đảng ở Côn Minh báo cho Giáp và Đồng biết họ sẽ được gặp Nguyễn Ái Quốc, lúc này được gọi là đồng chí Vương, ông già họ Trần, Hồ Quang... hoạt động khắp miền Nam Trung Quốc từ cuối năm ngoái để gây cơ sở, chắp nối liên lạc với Đảng ở trong nước.
https://thuviensach.vn
Hoạt động du kích tại chiến khu Việt Bắc 1940 - 1945
Năm 1940, tình hình của những người cộng sản Việt Nam tại miền Nam Trung Quốc rất bấp bênh. Việt Nam Quốc dân Đảng đã mất hầu hết cơ sở ở trong nước, chạy sang đây nhưng luôn luôn bị mật thám Pháp theo dõi, rình mò và những đảng viên của họ cũng đang ra sức tranh thủ quần chúng đưa họ ra khỏi ảnh hưởng của những người cộng sản. Về mặt chính thức, Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch đang hợp tác với nhau chống Nhật và Chu Ân Lai hiện có mặt tại Trùng Khánh nhưng sự hợp tác đó không che đậy được những mâu thuẫn ngấm ngầm. Ở miền Nam, bọn tướng lĩnh quân phiệt Trung Hoa Quốc dân Đảng nắm những địa vị chủ chốt trong bộ máy chính quyền. Để dễ dàng tiếp xúc với chúng, Đảng Cộng sản Đông Dương và Việt kiều ở Vân Nam thành lập Hội ủng hộ Trung Quốc chống Nhật (Trung Quốc kháng Nhật hậu viên hội) để tiện đi lại. Sau khi gửi Giáp và Đồng đi học tại Diên An và dặn thêm Giáp nếu có thể hãy theo một khóa huấn luyện về quân sự, Nguyễn Ái Quốc đi thăm những cơ sở của Đảng trong số Việt kiều thường tập trung dọc tuyến xe lửa Vân Nam.
Đi nhờ xe tải của Hội chữ thập đỏ của Quốc dân Đảng do một đảng viên cộng sản lái, Giáp và Đồng lên đường đi Quý Dương, thủ phủ tỉnh Quý Châu. Ngồi thu mình giữa những kiện hàng che vải bạt xếp chật cứng trên thùng xe, trời nóng như thiêu như đốt, xe lắc lư lượn trên con đường toàn đèo, dốc, hai người đến phòng Biện Sự xứ của Bát lộ quân - tên của lực lượng vũ trang của Hồng quân tham gia kháng Nhật dưới sự chỉ huy của Thống chế Tưởng Giới Thạch. Họ ở lại chờ xe đi tiếp đến Diên An. Đến giữa tháng 6, họ được tin Paris thất thủ. Tình hình thay đổi tất cả. Ít hôm sau Phùng Chí Kiên từ Côn Minh tới. Xét tình hình đang ở bước ngoặt, bây giờ phải nghĩ đến tìm đường về Việt Nam phát động phong trào cách mạng.
https://thuviensach.vn
Đáng lẽ đi tiếp lên miền Bắc theo kế hoạch cũ, nhưng cả nhóm quay về xuống Quế Lâm thuộc tỉnh Quảng Tây. Họ tránh không nghỉ lại trụ sở
Biện Sự xứ của Bát lộ quân ở đây mà ra ngoại ô trú tại trụ sở địa phương của Việt Nam giải phóng đồng minh và bắt đầu công tác vận động nhà đương cục Quốc dân Đảng kết hợp với sự ủng hộ kín đáo của các đảng viên Trung Quốc.
Lúc này là cuối tháng 9 năm 1940 khi chính quyền Decoux ở Đông Dương cho phép quân Nhật vào Bắc Kỳ. Quân Nhật vượt qua biên giới đánh chiếm Lạng Sơn, tàn sát lính Pháp đồn trú ở đây. Giữa lúc đó Nguyễn Ái Quốc gặp lại nhóm và cho biết tại Trung Quốc quan hệ giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản đang căng thẳng. Tưởng Giới Thạch chủ trương độc chiếm toàn bộ các vùng nằm ở phía nam sông Dương Tử. Ông ra lệnh tiêu hủy hết tài liệu có thể tiết lộ xu hướng chính trị và nhắc nhở hơn lúc nào hết phải tuyệt đối giữ bí mật không cho nhà cầm quyền Quốc dân Đảng biết mình là cộng sản. Nhờ một số sĩ quan Quốc dân Đảng có cảm tình với cộng sản, nhóm đã đặt được quan hệ với tướng Trương Phát Khuê, Tư lệnh tại chiến khu. Trương Phát Khuê tỏ ra có thiện cảm với nhóm người Việt hoạt động tích cực và có hiệu quả, khác hẳn với các nhóm người Việt khác chỉ lăng xăng, đấu đá nhau và bất tài vô dụng, khiến ông ta bực mình.
Nếu tình hình ở Trung Quốc đang u ám thì ngược lại ở trong nước tình hình ngày càng thuận lợi cho cách mạng Đông Dương. Hai lần nhân dân vùng dậy khởi nghĩa và binh lính cũng đứng lên làm binh biến. Cuối tháng 11 nghe báo chí Trung Quốc đưa tin về khởi nghĩa Nam Kỳ, Nguyễn Ái Quốc đã gửi thư cho Đảng bộ Nam Kỳ, nhưng thư đó không đến được tới nơi. Chỉ trong mấy ngày, cuộc khởi nghĩa bị dìm trong biển máu. Có triển vọng hơn cả là cuộc khởi nghĩa của nhân dân Bắc Sơn ở Lạng Sơn nổ ra vào cuối tháng 9 sau khi quân Nhật tràn vào Lạng Sơn, quân đồn trú của Pháp rút lui. Những phần tử thân Nhật tưởng thời cơ thuận lợi đến với họ và tin rằng được sự ủng hộ của Tokyo nên đã chuyển sang hành động lật đổ chính
https://thuviensach.vn
quyền thực dân Pháp. Nhưng Nhật đã bắt tay với Pháp để mặc cho Pháp đàn áp. Họ phải rút sang Trung Quốc để tránh khủng bố. Ngược lại, những chiến sĩ cộng sản ở huyện Bắc Sơn lợi dụng lúc lính Pháp rút chạy đã nổi dậy cướp súng thành lập căn cứ kháng chiến quanh Bắc Sơn.
Trong hoàn cảnh mới đó, Trung Hoa Quốc dân Đảng dự định thành lập các khu du kích ở Đông Dương để chuẩn bị đón quân Đồng minh tiến vào đánh Nhật. Một người Việt Nam đi lính cho Trung Hoa Quốc dân Đảng tên là Trương Bội Công đã được chính thức giao nhiệm vụ đó. Tên này đã đến Tĩnh Tây gần biên giới. Từ cuối tháng 11, Giáp và Đồng cũng đã đến Tĩnh Tây đặt trụ sở trưng biển Mặt trận giải phóng Việt Nam và hợp tác với Trương Bội Công. Giáp và Đồng cũng liên hệ được với nhóm hơn40 thanh niên vừa ở Cao Bằng sang, trong đó có Lê Quảng Ba và Hoàng Sâm. Đến tháng 12, Phùng Chí Kiên và Nguyễn Ái Quốc cũng đến đây. Nguyễn Ái Quốc vừa thay đổi bí danh và mang trong người ông hai tấm danh thiếp, một giấy thông hành đều mang tên Hồ Chí Minh[1].
[1] Ở đây Georges Boudarel đã có sự nhầm lẫn. Thực ra tháng 8/1942 Nguyễn Ái Quốc mới lấy tên là Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc để tìm sự liên minh quốc tế (BT).
Cũng trong thời gian này, dưới con mắt thiện cảm của Trung Hoa Quốc dân Đảng, một ủy ban giải phóng Việt Nam mang tên Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh đã được thành lập, gồm những người theo chủ nghĩa quốc gia sống nhờ số tiền trợ cấp của các nhà đương cục Trung Hoa nhưng không hòa hợp vì ganh đua đố kỵ và bất đồng về vấn đề ý đồ của chính phủ Trùng Khánh. Rất nhiều người từ nhóm Đại Việt có xu hướng phát triển thân Nhật, căm thù Trung Quốc nhưng chỉ vì Tokyo bỏ rơi mà phải sang ẩn náu tại Quảng Tây. Dưới những bí danh khác nhau, Giáp và Đồng đã tham gia ủy ban này, trong đó có nhiều người đứng đầu, chẳng bao lâu tản mát đi nhiều nơi ở Hoa Nam vì những lý do hoàn toàn cá nhân, không hề có quan hệ chính trị gì và biến mất một thời gian.
https://thuviensach.vn
Ngược lại với những phần tử quốc gia ít chú ý đến những gì đang xảy ra trong nước, Hồ Chí Minh luôn luôn hướng về Việt Nam. Cuối năm 1940, khi chọn Cao Bằng làm căn cứ địa cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Có nối phong trào được với Thái Nguyên thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể công, lúc khó khăn có thể thủ”.
Trong một năm Giáp hoạt động trên lãnh thổ Trung Quốc nhiều hơn ở Việt Nam. Sau đó đến năm 1942[2], ông về hoạt động hẳn ở Việt Nam, trở thành thành phần chủ chốt trong việc thực hiện kế hoạch quân sự và chính trị do Hồ Chí Minh đề ra. Tuy nhiên, hoạt động của ông không tách rời khỏi toàn bộ hoạt động của Đảng trong cùng thời gian này đang rất sôi nổi ở nhiều vùng khác nữa, đặc biệt là vùng Bắc Sơn, miền đồng bằng sông Hồng và ngay ở Hà Nội, còn ở các tỉnh miền Trung và miền Nam phong trào tạm thời gặp trở ngại vì bị đàn áp nhưng vẫn vững vàng.
[2] Năm 1941, Võ Nguyên Giáp đã về hoạt động ở Việt Nam (VPĐT).
Lúc này, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, Giáp đi cùng với Đồng và Kiên tổ chức các lớp huấn luyện đào tạo cán bộ ở một địa phương có người Nùng sinh sống cách Tĩnh Tây 50 kilômét. Những người dân sống ở đây còn nhớ mãi kỷ niệm rất tốt đẹp về lớp học. Hồ Chí Minh đã đổi bộ âu phục đem từ Côn Minh lấy bộ quần áo Nùng. Đến ngày giáp Tết, cũng như nhiều người trong làng, ông đi lễ chùa và Giáp ngạc nhiên thấy ông đi lại rất tự nhiên trong thế giới của người dân tộc thiểu số vốn hoàn toàn mới mẻ đối với ông cũng như các đồng chí của ông. Thâm nhập sâu vào lối sống, thích nghi tối đa với hoàn cảnh sống của họ để giúp người dân phát triển, đó là bài học đầu tiên đối với Giáp. Hồ Chí Minh theo dõi sát việc tổ chức tập thể học viên. Ông chủ trương mọi việc đều rõ ràng, phù hợp với trình
https://thuviensach.vn
độ của người tham gia và trước hết phải cụ thể hóa, gắn với hành động. Trong mỗi lĩnh vực (tuyên truyền, tổ chức, hoạt động vũ trang...) các thảo luận phải nêu bật vấn đề thực tiễn. Học xong quay về làng thì làm gì? Làm như thế nào? Qua những bước công tác kế tiếp nhau như thế nào?
Kết thúc thời gian huấn luyện, Lê Quảng Ba (sau này là thiếu tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam) dẫn đầu nhóm tiên phong về Cao Bằng tìm địa điểm thuận lợi cho việc đặt cơ sở ban đầu vào đầu năm 1941. Ít lâu sau Hồ Chí Minh đã gặp lại họ. Ông đặt nơi làm việc tại hang Pắc Bó trong tỉnh Cao Bằng chỉ cách biên giới một quãng ngắn.
Đối với Giáp, trở lại Trung Quốc hoạt động cùng với Phạm Văn Đồng và Hoàng Văn Hoan, công tác lúc này nặng về ngoại giao hơn là nghệ thuật quân sự. Bây giờ không còn vấn đề gửi cán bộ đi đào tạo quân sự tại Diên An nữa vì quá xa. Người ta sẽ cố gắng tận dụng các khả năng tại chỗ mà Trung Hoa Quốc dân Đảng có thể đem lại. Những người vững vàng về chính trị sẽ có thể đi học kỹ thuật mà không để bị ảnh hưởng bởi tuyên truyền. Tháng 6 năm 1941, Giáp còn làm việc với giới quân sự của Tưởng Giới Thạch ở Quế Lâm, phía bắc tỉnh Quảng Tây. Tại đây ông được chấp nhận gửi đến một trung tâm huấn luyện một số đồng chí, trong đó có Hoàng Văn Thái sau này cũng là chỉ huy cấp tướng, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Một lớp huấn luyện đấu tranh cũng được tổ chức cho cán bộ Việt Minh ở Tĩnh Tây. Trong suốt năm 1941, Giáp đi lại như con thoi giữa Việt Nam và Trung Quốc, cứ 15 ngày Đồng và Giáp lại thay nhau về nước báo cáo.
Tháng 5 năm 1941, Giáp trở lại Pắc Bó dự Hội nghị lần thứ tám của Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại một địa điểm gần hang đặt nơi làm việc của Hồ Chí Minh. Được Hoàng Văn Thái dẫn đường, Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt từ dưới xuôi lên qua những đường mòn trong rừng. Hội nghị Trung ương quyết định chính thức thành lập Mặt trận Việt Minh tập hợp tất cả những người Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống phát-xít Nhật và đế
https://thuviensach.vn
quốc Pháp để khôi phục nền độc lập của Việt Nam. Công việc chuẩn bị khởi nghĩa được đưa vào chương trình nghị sự và Hội nghị quyết định củng cố khu du kích Bắc Sơn để biến nơi đây thành căn cứ địa thứ hai. Hội nghị đã bầu Trường Chinh làm Tổng bí thư Đảng thay thế cựu Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ bị bắt từ tháng 6 năm 1940 (ông bị xử bắn ngày 24 tháng 5 năm 1941 gần Sài Gòn). Các đại biểu dự hội nghị sau khi họp xong lại trở về xuôi theo những con đường mòn. Phùng Chí Kiên, người giỏi nhất về quân sự lúc bấy giờ, đã dừng lại ở Bắc Sơn và hy sinh trong một trận phục kích của địch cuối tháng 7. Giáp, Đồng và Hoan quay lại Trung Quốc và tiếp tục đi đi về về giữa Tĩnh Tây và Pắc Bó. Hồ Chí Minh ở lại căn cứ Cao Bằng do ông trực tiếp phụ trách.
Về quân sự, Hồ Chí Minh đưa ra một định hướng mang tính quyết định trong việc đào tạo các nhà cách mạng Việt Nam: đặt chính trị vào vị trí ưu tiên hàng đầu. Tại Trung Quốc năm 1927, những người cộng sản đã không được chuẩn bị cho một lĩnh vực đặc thù là đấu tranh vũ trang. Rất nhiều cán bộ của họ đã được đào tạo tại trường quân sự Hoàng Phố của Trung Hoa Quốc dân Đảng do Liên Xô giúp đỡ xây dựng từ năm 1924. Trong suốt mùa hè năm 1927, một số sĩ quan của quân đội Tưởng Giới Thạch được đào tạo tại trường Hoàng Phố đã dẫn cả đơn vị chạy sang hàng ngũ cộng sản. Từ đầu cuộc nội chiến, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã có công cụ quân sự riêng của mình, tuy lực lượng còn nhỏ bé, nhưng thiện chiến và không thể xem thường. Ở Việt Nam, tình hình lại khác hẳn. Đảng Cộng sản Đông Dương có ở trong nước một mạng lưới cán bộ chính trị khá vững chắc và cơ sở chính trị rộng rãi, biết mở rộng ảnh hưởng trong thời kỳ tạm lắng do Mặt trận bình dân lên cầm quyền ở Pháp nhưng về quân sự thì Đảng còn phải học rất nhiều. Ngoài Phùng Chí Kiên, không một cán bộ cộng sản nào có kinh nghiệm thực tiễn về chiến đấu.
Hơn là những văn bản, chính qua thái độ, những lời đối đáp, những quyết định đúng đắn và nhận thức sắc bén về thời cơ mà Hồ Chí Minh đã góp phần đào tạo một đội ngũ cán bộ quân sự, trong đó vị trí hàng đầu thuộc về
https://thuviensach.vn
Giáp. Chính bản thân Giáp, suốt một thời gian dài sẽ là một nhà chiến lược và chiến thuật trong hành động thực tiễn trước khi đảm nhiệm công tác lý luận. Theo cung cách Gandhi - một Gandhi đỏ - Hồ Chí Minh dạy trước hết và trên hết qua công việc hàng ngày. Không ai xa lạ với chủ nghĩa giáo điều bằng ông, một ẩn sĩ cách mạng mà sự hóm hỉnh vượt mọi thử thách khiến ông khác xa với ngay cả những con người huyền thoại khác.
Thông thường, một khóa huấn luyện cán bộ được tổ chức ngay trong khu vực. Tất cả học viên đi vào rừng khoảng tám ngày, ở sâu trong dãy núi đá vôi. Chẳng bao lâu những người tham dự khóa đào tạo được chia về địa phương để xây dựng những khóa huấn luyện khác. Phong trào phát triển nhanh như vết dầu loang. Nhưng trên hết là phải thấm sâu như nước suối chảy sâu vào núi đá vôi lượn quanh các tảng đá làm xói mòn, mài giũa chúng trước khi xuất hiện trở lại ở cửa hang và đi xa hơn nữa giữa thanh thiên bạch nhật. Ưu tiên thành lập các hội cứu quốc cho mỗi tầng lớp xã hội thích hợp như hội nông dân cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, thanh niên và nhi đồng cứu quốc. Sau khi được thành lập, những hạt nhân cơ sở sẽ tìm cách xây dựng các đội tự vệ và thuyết phục nhà cầm quyền địa phương bằng lý lẽ, nếu không sẽ dùng vũ lực. Những kẻ chỉ điểm tố cáo với trương tuần, lính dõng sẽ bị trừng trị. Tuy nhiên ưu tiên giác ngộ quần chúng bằng lý lẽ và làm gương đồng thời thực hiện “đoàn kết, đại đoàn kết”. Đặc biệt phải coi trọng những nét đặc thù ở địa phương. Ở một nơi có nhiều dân tộc chung sống như Việt Bắc, thành công của Hồ Chí Minh là một điều kỳ diệu. Các dân tộc ít người thường không hiểu nhau, họ sống khép kín, ít chan hòa với nhau, nên những hiện tượng thành kiến, chia rẽ giữa các thành phần dân tộc khá phổ biến. Ở vùng thấp, người Kinh (tức người Việt sống ở đồng bằng) đã định cư bền vững chung quanh thị xã Cao Bằng từ nhiều thế kỷ. Bên cạnh họ là người Thái, người Tày, lúc đó người ta gọi bằng cái tên có nghĩa xấu là người Thổ, còn có người Nùng cũng nói phương ngữ Thái, rồi người Dao (còn gọi là người Mán cũng là tên gọi với nghĩa xấu) và cuối cùng trên đỉnh núi là người H’mong (hay còn gọi là người Mèo). Ngay bên trong mỗi dân tộc cũng có khác biệt về phương ngữ, phong tục và trang
https://thuviensach.vn
phục tạo ra những khoảng cách nhiều khi rất rõ nét (như Mán trắng, Mán tiền). Từ một thế kỷ nay, chính quyền thuộc địa đã cai trị vùng này, lợi dụng triệt để sự khác biệt về chủng tộc, đôi khi các quan lại địa phương còn thổi phồng những sự khác biệt đó, tạo nên sự đối kháng giả tạo. Trên một địa bàn có nhiều thành phần dân cư như thế, việc thống nhất tư tưởng trên tinh thần tôn trọng tính đa dạng là một vấn đề then chốt.
Cán bộ được phân công về địa phương làm công tác dân vận, phối hợp. Tờ báo đầu tiên của nước Việt Nam tự do có tên là Việt Nam độc lập gọi tắt là Việt lập vừa mới ra đời. Lúc đầu Giáp thấy nội dung tờ báo sơ sài quá; ông muốn làm cho phong phú hơn, chữ in phải thu nhỏ hơn để đăng được nhiều bài trong mỗi kỳ ra báo. Nguyễn Ái Quốc đã nói rõ quan điểm của mình: tờ báo để cho nông dân đọc, họ chưa được học nhiều, nên bài viết phải đơn giản, khổ chữ phải to để họ có thể đọc được dưới ánh đuốc khi thức đêm.
Nguyễn Ái Quốc chủ trương mở rộng phong trào ở các thung lũng, bằng cách bắt liên lạc với các chi bộ đảng đã được tổ chức ở đây từ những năm 30. Trên các vùng núi cao, phải mở đường lên các bản người Mèo theo hướng Vân Nam và Côn Minh, hướng về phía tây, từ đây có thể chuyển vũ khí từ bên kia biên giới về. Hai mươi năm trước khi chiến thuật focos được MacGovern và Che Guevara áp dụng ở Cuba, tại miền thượng du Bắc Kỳ, Giáp đã áp dụng chiến thuật “nhảy cóc”[3].
[3] Có nghĩa là không nhất thiết phải gây cơ sở ở làng này rồi tiếp sang các làng bên cạnh mà có thể bắt mối gây cơ sở những làng xa hơn để khi có điều kiện mới quay lại gây cơ sở ở làng bên cạnh để nối vào (ND).
Tháng 12 năm 1941, khi sang công tác ở Thiên Bảo, Giáp nghe thấy tiếng pháo nổ lẫn với tiếng reo hò ngoài phố. Hỏi ra mới biết Nhật vừa tấn công Mỹ. Đó là trận Trân Châu Cảng. Chuyến công tác cuối cùng của Giáp với Trung Hoa Quốc dân Đảng không suôn sẻ. Nguyễn Hải Thần đã dò được lý lịch của Giáp và của Phạm Văn Đồng nên đã tố cáo với chính quyền Trung Quốc. Giáp trở về Việt Nam và gặp lại Hồ Chí Minh tại nơi đặt cơ quan
https://thuviensach.vn
lãnh đạo mới ở Sóc Giang (huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng). Ít lâu sau, Phạm Văn Đồng cũng được lệnh trở về hoạt động trong nước. Riêng Hoàng Văn Hoan ở lại Tĩnh Tây thêm một thời gian để giữ liên lạc thường trực. Sau cuộc càn quét lớn của địch, Phùng Chí Kiên hy sinh trong một trận phục kích và căn cứ địa Bắc Sơn bị thu hẹp, lui vào nằm sâu trong rừng.
Vào thời gian này ở Cao Bằng, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, đội du kích đầu tiên được thành lập do Lê Quảng Ba làm đội trưởng, Hoàng Sâm làm đội phó. Để có thể có những đội du kích mới cần lập các cơ sở mới. Giáp là một trong những người được giao nhiệm vụ này. Trong một hang đá thuộc huyện Hòa An, Giáp mở một lớp huấn luyện mới có khoảng mười thanh niên tham gia. Nhân dân vùng chung quanh địa điểm đặt lớp học nô nức gia nhập Việt Minh, kể cả một số lãnh binh. Sau đó, Giáp mở một lớp huấn luyện mới ở gần trung tâm nuôi ngựa giống Nước Hai, gần ngay huyện lỵ. Giáp lên cơn sốt, sau nhờ có một ông lang ở địa phương đi kiếm thuốc sắc cho uống mới đỡ. Tiếp đó, Giáp đi châu Nguyên Bình gây cơ sở mới vì tại đây Việt Minh chỉ còn một nhóm hoạt động cũ từ trước, trong mỏ Tĩnh Túc. Sau đó Giáp đi gây cơ sở tiếp tại vùng núi, địa bàn sinh sống của người Mán trắng.
Năm 1942, ở Cao Bằng đã có nhiều huyện do Việt Minh kiểm soát. Giáp kể: Đồng bào Tày, Nùng hăng hái tham gia các hội cứu quốc, kể cả phụ nữ. Thanh niên đi đầu mở đường, các em thiếu nhi giữ vai trò liên lạc và canh gác. Một kiểu chính quyền “hai mặt” xuất hiện ở nông thôn. Tại các làng hoàn toàn thuộc về mình, ủy ban Việt Minh giải quyết mọi công việc thường ngày, từ hộ tịch đến các vụ tranh chấp đất đai.
Tháng 11, Việt Minh triệu tập ở quy mô cấp tỉnh bầu ra Ban chấp hành. Vấn đề đào tạo cán bộ quân sự được đưa vào chương trình nghị sự để thảo luận. Các khóa đào tạo cán bộ kéo dài một tháng được tổ chức. Mỗi khóa có khoảng 50 học viên. Mọi việc đều phải học từ đầu, từ đi đều bước. Giáp dịch cuốn Chiến tranh du kích kháng Nhật của Tổng tư lệnh Hồng quân
https://thuviensach.vn
Trung Quốc Chu Đức, Phạm Văn Đồng soạn cuốn Người chính trị viên. Học viên đến lớp phải tự sắm vũ khí, dao găm, dao phạt, súng kíp hay súng kim hỏa.
Rời châu Nguyên Bình, Giáp sang tổng Kim Mã gây cơ sở, cũng bắt đầu từ các thung lũng, lần này là gần đường. Nhưng cơ sở sẽ thế nào khi bị càn quét, nếu việc kiểm soát không mở rộng lên vùng núi cao? Vùng cao Kim Mã có người Mán tiền (gọi như thế vì chị em phụ nữ thường lấy những đồng tiền bằng bạc gắn vào nẹp váy áo để trang trí) sinh sống. Từ Kim Mã có thể phát triển theo hai hướng: sang Bắc Cạn ở phía nam, Lạng Sơn ở phía đông. Đầu tiên tiếp xúc với một người Mán, sau đó là thành vết dầu loang rất nhanh.
Phong trào cứu quốc lên mạnh như nước vỡ bờ. Liên tỉnh ủy Cao-Bắc-Lạng (Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn) được thành lập để phối hợp các hành động của địa phương. Để hoạt động thuận lợi và nhất là để mở một đường liên lạc thông suốt với miền xuôi, điều quan trọng trước hết là mở các tuyến đường đảm bảo an toàn để đưa đón được nhiều người hơn, chứ không chỉ một hai liên lạc viên như trước.
Đồng chí Trường Chinh và nhóm của mình tiếp tục mở rộng các cơ sở, thành lập an toàn khu ở đồng bằng tuy không liên lạc trực tiếp với trung tâm cách mạng vùng rừng núi. Hai căn cứ này nhất định phải nối liền giao thông liên lạc với nhau. Vì vậy, chủ trương lập các đội Nam tiến đã được thông qua và Hồ Chí Minh giao cho Giáp thực hiện. Thế là từ lúc này có vẻ như Giáp đã bắt đầu cuộc đời binh nghiệp của mình.
Ba đội xuất phát từ ba cơ sở khác nhau lên đường làm nhiệm vụ. Hoan đi xuống các vùng xung quanh Lạng Sơn. Chu Văn Tấn, người sinh tại Bắc Sơn, kế tục Phùng Chí Kiên, chỉ huy một bộ phận cứu quốc quân, tiến về phía tây từ khu căn cứ địa này, còn Giáp phụ trách hướng quan trọng nhất sẽ mở đường từ Cao Bằng. Ban xung phong Nam tiến đã tổ chức được 19 đội xung phong, dùng hình thức vũ trang tuyên truyền. Bản thân Giáp có
https://thuviensach.vn
hai quả lựu đạn thì một quả bị xịt nhưng ông vẫn thường xuyên gài ở thắt lưng. Ông nói: “Trong những vùng phong trào còn chưa phát động, quần chúng vốn sợ vũ khí, thì bất cứ thứ gì dù là một khẩu súng, một quả lựu đạn cũng góp phần nâng cao tinh thần cho đồng bào”. Người phó của ông là Lê Thiết Hùng có một khẩu súng lục thì bắn hai phát đã có một phát kẹt nòng. Trong mỗi đội Nam tiến có bốn đảng viên làm nòng cốt. Trước khi lên đường làm nhiệm vụ, Hồ Chí Minh căn dặn họ: Chú Văn phải chú trọng thêm quân sự, còn chú Hùng phải chú trọng thêm chính trị. Phương châm hoạt động là vũ trang tuyên truyền nhưng chỉ tác chiến khi thật cần thiết.
Khi đi qua tổng Kim Mã, lần đầu tiên Giáp phải rút vào rừng để tránh khủng bố. Cả tổng bị địch bao vây chuẩn bị cho một trận càn mới. Trời mưa như trút nước, Giáp và mấy anh em trong đội phải đi bộ hàng giờ để tiến sâu vào rừng. Bị bao vây tứ phía, mệt mỏi và đói, cả đội bước đi chân không vững chẳng khác gì ma đói. Mấy hôm sau, trận càn kết thúc, bọn lính của quan châu rút về, cả đội đi về phía nam dãy Phia Booc.
Trong chuyến Nam tiến lần này, Giáp nhận được tin khẩn cấp của Thường vụ Trung ương. Chỉ trong vài ngày phải vượt qua một vùng đặc biệt hiểm trở, dài đến 200 kilômét mới về đến căn cứ. Tin sét đánh là ngày 29 tháng 8 năm 1942, Hồ Chí Minh trên đường công tác sang Trùng Khánh để tiếp xúc với Đồng minh và Đảng Cộng sản Trung Quốc bị bọn Trung Hoa Quốc dân Đảng bắt và đã mất trong tù. Khi đi Người mang thẻ nhà báo và giấy thông hành nhưng đến Tĩnh Tây bị bắt với lý do giấy tờ tùy thân quá hạn. Một đồng chí ở Quảng Tây đã nghe tin Người mất. Một ngày u ám...
Mấy tháng sau, Hồ Chí Minh qua một bài thơ chữ Hán viết bên lề một tờ báo Trung Quốc báo tin Người vẫn còn sống. Giữa lúc đó, vào tháng 9 năm 1943, hai đội Nam tiến của Giáp và Tấn đã gặp nhau ở Nghĩa Tá, nơi sau này trong kháng chiến chống Pháp từ năm 1947 sẽ là an toàn khu của chính phủ và các cơ quan trung ương. Xã Nghĩa Tá được đổi tên thành xã Thắng Lợi.
https://thuviensach.vn
Hạ tầng cơ sở của một khu du kích và kháng chiến đã được xây dựng, vắt ngang trên sáu huyện của tỉnh Cao Bằng và Bắc Cạn. Theo đà tiến quân bằng phương pháp “nhảy cóc”, du kích quân từng bước thành lập chính quyền mới từ thôn xóm đến làng, rồi đến tổng và cuối cùng là các huyện mới, mang tên các vị anh hùng dân tộc như Lê Lợi, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Trần Hưng Đạo. Trên con đường “Tây tiến” về hướng Vân Nam, từ đây có thể mua và chở vũ khí về, trong các triền núi cao dọc trục đường Cao Bằng - Sóc Giang ngày 25 tháng 9 năm 1943 đã thành lập một khu “hoàn toàn” có nghĩa là toàn dân trai gái, già trẻ đều vào hội cứu quốc được đặt tên là khu Thiện Thuật. Đầu tháng 11, sau lễ kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga, Giáp chủ trì việc thành lập một khu “hoàn toàn” nữa trên các triền núi dọc theo con đường Cao Bằng - Bắc Cạn, đặt tên là khu Quang Trung. Việc thành lập các căn cứ dựa vào địa thế tự nhiên như thế nhằm ba mục đích: đưa các thành phần dân tộc đang sinh sống trong vùng vào các tổ chức cứu quốc để tăng cường đoàn kết giữa họ với nhau, chuẩn bị một khu an toàn để đồng bào ở thung lũng có nơi ẩn náu khi địch khủng bố, làm bàn đạp để mở rộng phong trào sang các vùng khác.
Về phía đông, nơi đã có phong trào du kích Bắc Sơn từ năm 1941, số hội viên Việt Minh tham gia tự vệ lên tới 1.004 người và vươn ra đến tận biên giới Trung Quốc tại vùng Thất Khê. Ở đây phong trào phát triển rất cao về mọi mặt. Mười lớp xóa nạn mù chữ được mở ra. Đến mùa thu hoạch, đồng bào đưa thóc vào các kho tích trữ trong rừng để đề phòng địch khủng bố, cán bộ và dân chạy vào đây sẽ có cái ăn.
Quay lên hướng Bắc, Giáp chuẩn bị chủ trì một cuộc mít tinh tại một bản thì biết tin đồng chí cán bộ được phân công đến đón trên đường đi đã bị lính dõng đang tụ tập ở đây vây bắt và chặt đầu ngay tại chỗ rồi bêu ra giữa chợ. Giáp phải quay về ngay cơ quan liên tỉnh ủy bằng một đường khác. Địch tăng cường thêm lính khố đỏ và lính khố xanh khủng bố dân làng. Ở sâu phía trong, địch lập thêm 10 đồn bốt để kiểm soát chặt chẽ việc đi lại của đồng bào, trong đó có hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần. Địch phái người
https://thuviensach.vn
mới về lập lại chính quyền ở thôn, xã, lập hàng rào ba lớp tre bao quanh làng. Nhà nào có con em tình nghi đi làm cán bộ thoát ly đều bị theo dõi, bị đốt phá và buộc gia đình đó phải rời đi nơi khác.
Đối với Giáp, mùa đông năm 1943 - 1944 là quãng thời gian gay go nhất. “Địch tăng cường đàn áp. Chúng tôi nhận thấy cán bộ cốt cán của phong trào chạy lên rừng ngày một đông. Tiếp tế cho số người này quả là một vấn đề nan giải, ngày càng khó giải quyết. Bọn lý dịch cấm đồng bào đưa lúa hay ngũ cốc ra khỏi làng. Đây đó, đúng giữa mùa gặt, những bông lúa trĩu hạt, đồng bào cố ý để thóc rụng. Chúng tôi đành phải tổ chức đi mót, rồi giã ngay tại đồng, khi đem nấu hạt cơm rắn như gạo rang. Từ hôm bọn lính dõng đánh đập ngay giữa đường một cụ bà có gạo trong mũ và một phụ nữ có một ít thóc ẩm đem ra đồng để gieo hạt, nhiều chị em rất sợ... Trong nhiều tháng, chúng tôi chỉ ăn ngô qua ngày, thậm chí có thời gian chỉ ăn thân cây chuối rừng.
Một buổi tối, chúng tôi ngồi họp bàn công tác trong một bầu không khí nặng nề - nhiều người lặng thinh không nói gì - một đồng chí nói với chúng tôi:
- Các đồng chí hãy ở lại với chúng tôi một thời gian nữa, đừng quay về xóm vội. Tôi đã về mấy lần rồi đành phải quay lại. Bà con trong làng lánh mặt chúng tôi.
Tôi đáp:
- Hơn bao giờ hết, đây chính là lúc chúng ta phải bám vào dân. Nếu chúng ta để kẻ địch tha hồ làm mưa làm gió với đồng bào thì cơ sở của chúng ta mất bao nhiêu công sức mới gây dựng được dần dần sẽ tan vỡ hết.
Sau những cuộc họp như thế, chúng tôi lại chia nhau thành những tốp nhỏ để lần về làng. Mỗi người đem theo một ít lương khô, một ống tre đổ đầy muối rồi phục sẵn bên đường mòn gần nương rẫy của đồng bào, ở trong
https://thuviensach.vn
rừng hay bên các con đường đi chợ để gặp những người có cảm tình với Việt Minh. Cơ quan phải liên tục di chuyển.
Khủng bố gắt gao của địch đã làm giảm đáng kể các cơ sở cách mạng nhưng nơi nào trụ được thì trưởng thành lên trông thấy. Sau một thời gian, đồng bào lại đến với chúng tôi, mỗi nơi một ít, hội viên cứu quốc nối lại liên lạc với chúng tôi, đôi khi đi dự các khóa huấn luyện. Chúng tôi lại mở những khóa đào tạo mới trong rừng và rất nhiều học viên đến học. Trong châu Hà Quảng, chúng tôi tính đã có đến 5.000 hội viên cứu quốc trước khi địch khủng bố, trong đó trên 1.000 tự vệ, thế mà sau đợt khủng bố tạm lắng xuống, hơn 4.000 hội viên cứu quốc lại tham gia sinh hoạt và gần 1.000 tự vệ trở lại hoạt động”.
Các căn nhà tranh, nơi đặt cơ quan, ẩn sâu trong các cánh rừng đại ngàn rất khó vào. Chúng tôi thường lội suối để đến, tránh đi trên đường cái sợ để lại vết chân, địch sẽ phát hiện được.” Giáp kể, cứ mỗi lần ở ngoài về quần áo ướt sũng, việc dùng gậy chống hay giày dép cũng bị cấm hẳn để địch không lần ra dấu vết.
Khắp nơi, chỗ nào có điều kiện là du kích tập luyện ngày đêm. Có các lớp cho cán bộ châu, cán bộ huyện. Các tổ xung kích hoạt động trở lại. Những tên ra đầu thú làm tay sai cho địch đều bị trừng trị, tổ chức phục kích trên đường tuần tra của chúng. Phạm vi hoạt động của các tổ xung kích thường ở chỗ vắng vẻ xa thôn bản để địch không khủng bố trả thù đồng bào.
Con đường Nam tiến bị cắt thành nhiều đoạn, nên đến đầu năm 1944 phân đội trung tâm phải mở lại theo một hướng khác. Đến giữa mùa đông, tình hình tiến triển tốt hơn với những con đường nhỏ. Người ta đi dưới lòng suối để không để lại dấu vết và cũng tránh không làm nát lớp rêu đá. Cứ như thế, vào mùa đông năm 1943 - 1944 Việt Minh vẫn giữ vững căn cứ, đẩy lùi phạm vi khủng bố của địch và mở rộng thêm nhiều địa bàn. Một đại đội du kích Mèo được thành lập, đồng bào dân tộc Sán Chỉ gần Bảo Lạc cũng đi theo Việt Minh khá đông. Từ tháng 7 năm 1944, liên tỉnh ủy Cao-
https://thuviensach.vn
Bắc-Lạng nhận định phong trào khá mạnh để có thể phát động khởi nghĩa. Tháng 8, liên tỉnh ủy triệu tập cuộc họp toàn thể. Hội nghị họp trong một cái hang rộng, bên ngoài có cổng chào bằng tre nứa kết lá, có cột cờ, có nơi ăn nghỉ cho các đại biểu. Không khí buổi họp không còn bí mật tuyệt đối như xưa. Đại biểu ngồi họp quanh những chiếc bàn tre. Bên ngoài có các tiểu đội tự vệ canh gác. Giáp và Đồng đều có mặt tại cuộc họp. Báo cáo chủ trương phát động khởi nghĩa là đáp ứng nguyện vọng nóng bỏng của đại biểu dự hội nghị. Ai nấy đều nhận thấy tình hình địa phương đã thay đổi. Tuy nhiên để tránh hiểu lầm, hội nghị quyết định dùng mấy từ “phát động chiến tranh du kích” thay cho “khởi nghĩa” và dự kiến thời gian chuẩn bị để hai tháng sau sẽ chuyển sang hành động.
Công việc chuẩn bị đang được tiến hành khẩn trương thì Hồ Chí Minh bất ngờ từ Trung Quốc trở về. Sau khi bị bắt ngày 29 tháng 8 năm 1942[4], Người bị bọn Trung Hoa Quốc dân Đảng dẫn giải khắp Quảng Tây, chuyển từ nhà tù này sang nhà tù khác trong hơn một năm trời. Hồ Chí Minh có đem về một tập thơ chữ Hán, trong đó Người tả một cách hóm hỉnh 18 nhà giam đã lần lượt “đón tiếp” Người: gông đeo cổ, xích quàng chân suốt ngày đêm. Ngày 10 tháng 9 năm 1943, chúng mới trả tự do cho Người. Nguyên do là từ tháng 9 năm 1942, các tướng Trương Phát Khuê và Tiêu Văn đã thất bại trong việc lôi kéo đám “quốc dân” đang lưu vong ở Trung Quốc làm việc cho chúng trong kế hoạch “Hoa quân nhập Việt” của chúng. Tháng 10 năm 1942, tổ chức Đồng minh hội vốn không ưa cộng sản và Việt Minh nay theo lệnh chúng tổ chức hội nghị tại Liễu Châu. Ban chấp hành mới có 17 người trong đó có Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh, những chuyện hục hặc ghen ghét giữa Đại Việt lúc đầu thân Nhật và Việt Nam Quốc dân Đảng không vì thế mà giảm bớt. Bọn quan thầy Trung Hoa Quốc dân Đảng thấy không tiện cử bọn tướng lĩnh của chúng đứng đầu ban chấp hành để giải quyết các tranh chấp. Nguyễn Hải Thần sau khi đút túi một khoản tài trợ lớn đã cao chạy xa bay. Còn Vũ Hồng Khanh thì quay về Côn Minh nhưng bị anh em Việt Minh đã gây được cơ sở vững chắc trong cộng đồng người Việt di cư tại đây tẩy chay không hợp tác. Sau này trong
https://thuviensach.vn
hồi ký của mình, tướng Trương Phát Khuê đã than thở: “Nhóm này chống lại phe kia, bọn họ chỉ mất thì giờ vào việc công kích lẫn nhau mà không chịu làm bất cứ việc gì. Và một số người không hề có chút phẩm chất nào của những người hoạt động cách mạng”.
[4] Theo tư liệu của Khu Di tích Phủ Chủ Tịch, Hồ Chí Minh bị Trung Hoa Quốc dân Đảng bắt ngày 27/8/1942 tại Túc Vinh, Thiên Bảo, Quảng Tây (BT).
Mệt mỏi vì những chuyện cãi cọ xích mích và biển thủ tiền quỹ, cuối cùng viên tướng Tàu phải nhờ đến Hồ Chí Minh, theo lời khuyên của tướng Tiêu Văn vốn có cảm tình với Đảng Cộng sản. Hắn đánh giá lãnh tụ Việt Minh là một con người cương nghị, làm việc miệt mài, nói được tiếng Trung Quốc, tiếng Anh và cả tiếng Pháp và thông thạo nhất các vấn đề quốc tế trong số người Việt lưu vong. Hồ Chí Minh không về Việt Nam và đến tháng 3 năm 1944 cùng với Phạm Văn Đồng tham dự hội nghị cải tổ Đồng minh hội, có Việt Minh tham gia. Trung Hoa Quốc dân Đảng đang ráo riết chuẩn bị kế hoạch “Hoa quân nhập Việt” nên phải cần có sự hỗ trợ của một phong trào có cơ sở ở trong nước. Hồ Chí Minh lúc này tìm cách biến các nhóm cơ sở của Đồng minh hội thành chi nhánh của tổ chức Việt Minh. Ở Trung Quốc, Hồ là người duy nhất có khả năng làm một công việc cụ thể. Mặc dù tại Quảng Tây, ông là người duy nhất đề cập đến nền độc lập hoàn toàn của Việt Nam, tướng Trương Phát Khuê đã cho rằng sẽ có lợi hơn khi để Hồ Chí Minh cùng với 18 thanh niên Việt Nam vừa kết thúc khóa huấn luyện tại Đệ tứ chiến khu được quay về Việt Nam.
Sau khi nghe báo cáo về công việc chuẩn bị khởi nghĩa của liên tỉnh ủy Cao-Bắc-Lạng, Hồ Chí Minh nhận xét ngay là chủ trương đó chỉ do chủ nghĩa lạc quan mà ra. Cuộc khủng bố năm 1942 đã chẳng phải một phần do bộc lộ lực lượng quá sớm đó sao? Vậy lần này tình hình sẽ ra sao khi địch còn có thể khủng bố gắt gao hơn nữa, nếu chiến tranh du kích nổ ra. Đánh trả như thế nào? Làm sao bảo vệ được dân làng trốn khủng bố kéo lên
https://thuviensach.vn
rừng? Lực lượng đâu để can thiệp về mặt quân sự khi các đơn vị vũ trang hiện có còn phân tán khắp nơi? Bây giờ, Người nói, là lúc phải chuyển từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh vũ trang nhưng đấu tranh chính trị phải đi trước một bước.
Chính trong điều kiện đó, Người quyết định thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân gồm những học sinh quân đã theo các khóa huấn luyện ở Quảng Tây, trong đó có Hoàng Văn Thái và các phần tử tích cực nhất của các lực lượng tự vệ địa phương. Thế là khoảng tháng 11, 12 năm 1944 đã thành lập một đội được trang bị hãy còn khiêm tốn: 19 khẩu súng musqueton và 14 khẩu súng kíp do đồng bào miền núi chế tạo. Ngày 22 tháng 12, đứng trước Giáp đội mũ dạ đen, 34 con người ăn mặc mỗi người một kiểu làm lễ tuyên thệ trong một khu rừng. Từ năm sau trở đi, ngày này được coi là ngày thành lập quân đội. Ba mươi tám giờ sau, như người ta đã biết, họ bất ngờ đánh chiếm hai đồn của Pháp là Phai Khắt và Nà Ngần.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Cuộc chính biến này đã đẩy nhanh tiến độ biến chuyển của các sự kiện. Chỉ trong một đêm huyền thoại về sự “có mặt” của người Pháp do Toàn quyền Decoux đề xướng đã sụp đổ tan tành. Quân đội Pháp bị tấn công bất ngờ, chỉ trong chốc lát đã bị quét sạch. Tại Lạng Sơn tất cả lính Pháp đồn trú bị tàn sát. Chỉ có một cánh quân mấy nghìn người chạy thoát được sang Trung Quốc qua ngả Tây Bắc. Ngay đêm đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp tại Bắc Giang và ra chỉ thị mới: “Kẻ thù duy nhất của nhân dân Đông Dương lúc này là phát xít Nhật. Đảng phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào đó”. Một lời kêu gọi tất cả những người Pháp hãy cùng nhau liên minh với người Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống Nhật được tung ra. Bị cô lập ở thượng du, nơi đang truy đuổi Việt Minh, chỉ huy lính khố xanh ở Bắc Cạn là Pontich đã tìm cách tiếp xúc với những người hôm trước còn là địch thủ của mình khi được tin Nhật đảo chính. Từ tháng 8 năm 1944 trong vùng này, Giáp đã ra lời kêu gọi những người Pháp “tự do” đề nghị cùng nhau hợp tác chống
https://thuviensach.vn
Nhật. Ngày 23 tháng 3, một cuộc gặp chính thức giữa hai bên đã diễn ra. Giáp thân hành đến chỗ họp với 40 chiến sĩ du kích.
Để đổi lấy 165 khẩu súng trường Remington và khoảng 40 khẩu musqueton không còn tốt nữa, Giáp cam kết cung cấp người dẫn đường và tin tức tình báo. Người Pháp và Việt Minh cùng thi hành bản án xử bắn một tên quan cộng tác với Nhật. Nhưng sau 48 tiếng đồng hồ thảo luận, kết quả đạt được chỉ dừng lại ở đó. Để đàm phán một thỏa thuận thật sự về mặt quân sự, Giáp đề nghị được tiếp xúc với đại tá Seguin chỉ huy cánh quân sông Lô đang rút chạy khỏi Tuyên Quang. Nhưng đề nghị của Giáp không có hồi âm. Tuy nhiên ở phía bắc, tại Cao Bằng ngày 28 tháng 3, một thỏa thuận được ký kết giữa đại diện Việt Minh và đại tá Reul chỉ huy quân khu 3 tại Bắc Kỳ trên cơ sở sau đây: gác lại quá khứ nhìn về tương lai, liên minh hoàn toàn trong cuộc đấu tranh chống Nhật. Những cánh quân của Reul là sự tập hợp vội vã các đơn vị ở nhiều đồn lẻ trong tỉnh nên có thể coi là lực lượng duy nhất của quân đội Pháp ở Đông Dương còn bám trụ ở Đông Dương và không có sự giúp đỡ nào từ phía Pháp. Tình hình địa phương xấu đi do những người cách mạng Việt Nam yêu cầu được cấp vũ khí đánh Nhật mà đại tá Reul không thể thỏa mãn, rồi những vụ va chạm xảy ra, cộng với nhiều vụ đào ngũ phần lớn ở nơi khác, cuối cùng đại tá Reul vượt biên sang Trung Quốc, sau khi có được một “thành tích” là đánh du kích chống Nhật trong ba tháng ở Cao Bằng. Bất chấp những cố gắng của Giáp, mà những thư từ trao đổi giữa hai bên còn để lại chứng tỏ ông có sự mềm dẻo rất lớn trong ngoại giao, những khả năng sang trang mới của lịch sử và tiến tới một kiểu hợp tác mới Pháp-Việt đã bị bỏ qua. Như vậy, cho đến giữa tháng 3 năm 1945, Việt Minh là lực lượng quân sự duy nhất ở Việt Nam chống Nhật. Những cuộc đào ngũ ồ ạt của lính khố đỏ, khố xanh, lính dõng đã cung cấp cho Việt Minh một lượng vũ khí nhiều nhất từ trước tới nay. Thậm chí nhiều nơi tù chính trị còn vượt ngục. Những người cộng sản bị giam ở Sơn La đã xây dựng được một cơ sở vững chắc ở trung lưu sông Hồng và vùng rừng núi gần Yên Bái, trước khi họ “nhảy cóc” sang Tuyên Quang. Ở miền Nam và miền Trung, những mạng lưới hoạt động bí mật
https://thuviensach.vn
được tăng cường. Gần trại tập trung Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, tù nhân chính trị lập khu du kích với sự giúp đỡ của những người dân miền núi. Tại Huế, Nguyễn Chí Thanh (sau này là Đại tướng) và nhà thơ Tố Hữu (vượt ngục từ năm 1942) cũng rục rịch chuẩn bị cướp chính quyền. Tại vùng Sài Gòn, Việt Minh bí mật nắm các tổ chức quần chúng đặc biệt là thanh niên tập hợp chung quanh bác sĩ Phạm Ngọc Thạch.
Từ ngày 15 đến 20 tháng 4, Ủy ban quân sự của Trung ương Đảng họp tại Bắc Giang. Không dùng ngựa, Giáp đi bộ, mặc áo the, quần trắng, đầu đội khăn xếp bằng nhiễu đen. Sau 5 năm xa đồng bằng, ông lại thấy những cánh đồng lúa ngập nước thẳng tắp đến tận chân trời, chỉ có những lũy tre ken dày bao quanh các làng xóm nay không còn trở ngại nữa mà đã thành những nơi ẩn náu chắc chắn cho những người hoạt động cách mạng. Trường Chinh, Chu Văn Tấn, Trần Đăng Ninh, Lê Thanh Nghị, Văn Tiến Dũng đã đến đây đông đủ. Một tin dữ đang chờ ông.
Giáp kể: “Từ ngày lên đường đi họp tôi hy vọng về đây gặp các anh sẽ được biết tin nhà. Mấy năm qua, không được tin tức gì về gia đình, tôi có đôi lần gửi thư về nhà nhưng không rõ có đến nơi hay không. Tôi cảm thấy ngày chúng tôi gặp lại nhau không còn xa nữa. Buổi chiều gặp lại anh Trường Chinh và các anh khác sau bao năm xa cách, thật là vui mừng khôn xiết. Tôi sang ngồi nghe các anh kể chuyện địch khủng bố gắt gao dưới xuôi, cơ quan luôn phải di chuyển địa điểm thì anh Trường Chinh nói:
- Chị Thái chỉ vì gửi cháu chưa được, chưa kịp đi bí mật thì bị địch bắt, cũng không ngờ chị đã mất trong tù rồi.
Tôi lặng người đi. Lát sau tôi hỏi:
- Anh nói sao? Thái mất rồi ư?
Anh Trường Chinh có vẻ ngạc nhiên hỏi lại:
- Anh chưa biết tin gì sao?
https://thuviensach.vn
Khi ở Cao Bằng, các anh cũng đã có lần nghe tin Thái bị bắt nhưng vẫn giấu chưa muốn cho tôi biết. Tôi bàng hoàng, đi sang buồng bên chưa tin hẳn điều các anh nói là sự thật”.
Nhưng lúc này, chuyện tình cảm phải gạt sang một bên. Trong năm ngày họp, Ủy ban quân sự quyết định các biện pháp nhằm tăng cường phong trào du kích và thống nhất việc chỉ đạo hoạt động quân sự. Từ mùng 1 tháng 5, Giáp trở lại căn cứ và đợi Hồ Chí Minh đi công tác tại Trung Quốc sắp về.
Vẻ mệt mỏi còn chưa tan hết trên gương mặt sau một hành trình dài, Hồ Chí Minh cưỡi ngựa từ mạn trên xuống. Người để râu cằm, cặp mắt tinh anh ngời sáng trên khuôn mặt hốc hác. Giáp gặp lại Hồ Chí Minh tại một địa điểm trên đường Bắc Cạn đi Cao Bằng.
Người đứng đầu Việt Minh lại một lần nữa chứng tỏ sức dẻo dai và tài ngoại giao của mình. Cuối năm 1944, một phi công Mỹ tên là Shaw lâm nạn đã nhảy dù xuống vùng Việt Minh kiểm soát, được cán bộ và nhân dân cứu thoát. Được những người mang vũ khí trong người đi hộ vệ, Hồ Chí Minh đưa Shaw đến một thị trấn thuộc tỉnh Vân Nam. Tại đây, Shaw được các nhà đương cục Trung Hoa Quốc dân Đảng đưa lên máy bay nhưng không cho Hồ Chí Minh đi theo. Nhưng Hồ Chí Minh không nản chí, ông đi bằng phương tiện của mình đến tận Côn Minh. Khi tới đây, Shaw đã về Mỹ nhưng ông được tướng Claire Chennault và O.S.S (Office Strategic Service - Cơ quan tình báo chiến lược) tiếp và cảm ơn vì đã cứu sống Shaw. Họ đã cùng nhau thảo luận về việc một phái đoàn Mỹ sẽ đến Đông Dương. Trở về Bách Sắc, một thị trấn gần biên giới Trung-Việt, ông được biết Đồng minh hội đã tan rã vì không giải quyết được mâu thuẫn nội bộ. Một lần nữa, Hồ Chí Minh lại tham gia củng cố tổ chức này. Lần này với người của mình, ông đã biến tổ chức của địch thành tổ chức của ta. Ông lại trở về Việt Nam với một lực lượng gọi là Lữ đoàn hành động gồm 150 người được trang bị khá đầy đủ.
https://thuviensach.vn
Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đi gấp về Tân Trào, nơi đây sẽ là thủ đô lâm thời của khu giải phóng trong vùng rừng núi Thái Nguyên. Một Ủy ban chỉ huy lâm thời khu giải phóng được thành lập. Việc triệu tập Quốc dân đại hội được xúc tiến gấp. Tin vui đến dồn dập.
Tại miền Bắc, các cơ sở của Việt Minh mọc lên như nấm sau trận mưa rào. Nông dân nhiều nơi nổi lên phá kho thóc để cứu đói. Toàn bộ vùng rừng núi từ giữa sông Lô đến biên giới Trung Quốc đều do Việt Minh làm chủ, trừ các thị trấn. Ngày 10 tháng 4, đồn Đình Cả ở tỉnh Thái Nguyên có 80 lính canh giữ bị quân cách mạng bao vây, địch bỏ đồn rút chạy nhưng toàn bộ lực lượng bị tiêu diệt trong một trận phục kích. Giữa tháng 5, quân Nhật mở cuộc càn quét lớn có lính khố xanh tham gia, tấn công vào khu giải phóng nhưng thất bại. Cánh quân chính tiến vào Tân Trào bị chặn đánh trong một loạt trận phục kích trên những đoạn đường hiểm trở những núi cùng khe phải rút lui sau khi chịu nhiều thiệt hại, mà không lập được thêm một đồn bốt nào. Trong lúc đó, Văn Tiến Dũng cũng lập được một chiến khu trong dãy núi đá vôi thuộc tỉnh Ninh Bình. Ngày 8 tháng 6, một chiến khu khác được thành lập ở vùng than Đông Triều. Quân Nhật hai lần tấn công vào chiến khu đều phải rút lui không thu được kết quả nào. Sau thắng lợi này, du kích quân mở rộng khu du kích trong vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ngày 1 tháng 7, Uông Bí được giải phóng và 10 ngày sau, 500 lính khố xanh đóng ở Quảng Yên rất gần cảng Hải Phòng chạy sang hàng ngũ cách mạng. Cuối tháng 6, một toán sĩ quan Mỹ nhảy dù xuống khu giải phóng đem theo một ít vũ khí. Nhiều toán vũ trang được thành lập tại Bến Tre và Mỹ Tho ở miền Nam.
Mùa hè năm 1945, Việt Nam như một thùng thuốc súng sẵn sàng nổ tung.
Giữa lúc Hội nghị Đảng toàn quốc đang họp thì nhận được tin Nhật đầu hàng không điều kiện. Ngày 16 tháng 8, Hội nghị ra lời kêu gọi tổng khởi nghĩa. Hội nghị thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam - Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đại hội giải tán ngay trong đêm.
https://thuviensach.vn
Rạng sáng ngày hôm sau, đơn vị chủ lực đầu tiên của quân giải phóng lên đường tiến về Thái Nguyên.
Hồ Chí Minh không thể có mặt trong lễ xuất quân. Sau chuyến đi công tác từ Cao Bằng về, Người bị sốt rét. Trong tháng 7, Người đã phải nằm liệt giường nhiều ngày, chỉ uống vài viên aspirin. Chiều nào Giáp cũng đến thăm và báo cáo công việc với Người. Đến ngày thứ bảy, khi Hồ Chí Minh muốn Giáp về, Giáp bảo không có việc gì gấp cần làm và ở lại chăm sóc. Hồ Chí Minh thấy mình rất yếu nên đồng ý. Ban đêm mỗi khi tỉnh giấc, Người lại dặn dò hết việc này đến việc khác. Giáp có cảm tưởng đó là những lời trăng trối cuối cùng. Giáp vội vào làng tìm người giúp.
Người ta chỉ cho Giáp một thầy lang có tiếng trong vùng. Ngày hôm sau, thầy lang đến bắt mạch rồi đi vào rừng và trở lại với một củ rễ sao lên rồi tán nhỏ, đem hòa với cháo nóng cho người bệnh uống. Uống được hai bát thì người bệnh thấy đỡ hẳn. Mấy ngày sau, Hồ Chí Minh đã gượng dậy được.
Trong lúc bên giường bệnh của người lãnh đạo Việt Minh, Giáp đang lo các đội quân của mình tấn công thất bại đồn quân Nhật đóng ở Thái Nguyên thì nhiều sự kiện có tính quyết định đang diễn ra trên một mặt trận khác. Tại miền xuôi và trong thành phố, các cơ sở bí mật của cách mạng không ngừng phát triển. Ngày 10 tháng 3, trước khi nhận được chỉ thị mới của Thường vụ Trung ương Đảng, Đảng bộ địa phương đã chuyển sang hành động. Tại Hà Nội lúc này do Chính phủ thân Nhật của Trần Trọng Kim kiểm soát từ tháng 3, các hội viên tuyên truyền xung kích của Việt Minh được những người có vũ khí bảo vệ đã tổ chức diễn thuyết chớp nhoáng ở các chợ, rạp chiếu bóng cho đến tận phòng thông tin của thành phố. Tại các cửa ô, các làng đông dân quanh Cầu Giấy, nơi thế kỷ trước Francis Garnier và Henri Rivière tử trận, đã là căn cứ của Việt Minh. Tại đây Vương Thừa Vũ - người chỉ huy Trung đoàn Thủ đô năm 1946 và nhiều cuộc hành quân chống càn ở đồng bằng Bắc Bắc Bộ từ năm 1951 - mở lớp huấn luyện quân
https://thuviensach.vn
sự đầu tiên cho tự vệ Hà Nội. Chính ông năm trước đã dẫn đầu một nhóm tù chính trị, đánh lừa bọn lính gác để trốn thoát trong lúc bị giải từ nhà tù Sơn La đi Côn Đảo. Trong các khóa huấn luyện, học viên trước hết học lý thuyết và rèn luyện tinh thần chiến đấu. Còn về quân sự chỉ mới học mấy động tác sơ đẳng với súng gỗ. Ngay sau khi có tin Nhật đầu hàng Đồng minh, một đại biểu của Việt Minh đã đến tiếp xúc với Phan Kế Toại, Khâm sai của Hoàng đế Bảo Đại ở Bắc Bộ[5]. Lúc đầu các quan điểm còn khác nhau nhưng sau vài ngày tiếp xúc hai bên đã gần nhau hơn, trong lúc Tổng hội viên chức dự định triệu tập mít tinh vào ngày 17 tháng 8 để ủng hộ chính phủ. Cuộc mít tinh sẽ được tổ chức trước thềm cửa Nhà hát Lớn của thành phố Hà Nội (được xây dựng khoảng năm 1900 phỏng theo nhà hát nhạc kịch Opera ở Paris). Ngày hôm đó, khi các diễn giả thân Nhật lên diễn đàn sắp phát biểu thì cán bộ Việt Minh, súng trong tay, chiếm diễn đàn, lấy micro, giật cờ của nhà vua xuống và thay bằng cờ đỏ sao vàng của Việt Minh. Một thanh niên và hai phụ nữ cầm micro hô hào đám đông hô khẩu hiệu ủng hộ Việt Minh. Lính bảo an cũng hòa vào dòng người biểu tình, súng vẫn đeo trên vai nhưng nòng chĩa xuống đất.
[5] Thực ra Phan Kế Toại là Khâm sai Bắc Bộ của Chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim (BT).
Ngày hôm sau, 18 tháng 8, Thành ủy Hà Nội, lâu nay vẫn làm việc bí mật ở ngoại thành, chuyển vào nội thành, đặt trụ sở trong một biệt thự của một viên quan lại thân Pháp nhưng bỏ không. Trong ngôi biệt thự đó, giữa các đồ đạc được trang trí theo kiểu phương Đông, giữa những tấm tranh sơn mài vẽ rồng phượng đỏ chói, Thành ủy Hà Nội quyết định bỏ khẩu hiệu “đánh đuổi giặc Nhật”. Trong các doanh trại, quân đội Nhật mặc dù bại trận vẫn tỏ thái độ chống lại những người khởi nghĩa. Cuối cùng các bên thương lượng và người Nhật hứa sẽ giữ trung lập.
Ngày 19 tháng 8, từ sáng sớm, toàn dân Hà Nội đổ ra đường và một đám đông được các đội tự vệ vũ trang đủ kiểu từ musqueton đến súng săn, kiếm,
https://thuviensach.vn
cuốc, gậy gộc... bảo vệ tràn vào trung tâm thành phố. Cuộc mít tinh biến thành biểu tình vũ trang. Dòng người chia thành nhiều đoàn, tỏa ra chiếm Tòa Đốc lý, trại bảo an binh, Sở cảnh sát, nhà tù và Phủ Khâm sai Bắc Bộ.
Hai đại đội bảo an binh bảo vệ phủ Khâm sai ngay gần nhà hát thành phố nhìn thấy cảnh các phố tràn ngập đoàn người từ sáng sớm. Chỉ huy của họ hoang mang không biết xử trí ra sao, còn Khâm sai Phan Kế Toại vẫn đang thảo luận với những người khởi nghĩa. Khi đám đông trèo qua hàng rào, lính khố xanh không phản ứng, súng để dưới chân. Một lúc sau, họ đầu hàng, giao hai trăm khẩu súng musqueton cho những người khởi nghĩa. Những người này từ thuở bé chưa bao giờ cầm súng, lóng ngóng nhận lấy những khẩu súng và lắng nghe những người lính giảng giải cách lắp và lên đạn, ngắm mục tiêu và rút chốt lựu đạn ra sao. Một toán lính Nhật mang theo xe lắp súng liên thanh tự động đến chuẩn bị can thiệp. Những người biểu tình đàm phán với viên chỉ huy. Bởi lẽ quân đội Nhật chỉ còn chờ hồi hương và những người cách mạng cam kết không tỏ thái độ thù nghịch với họ trong chừng mực quân đội Nhật không can thiệp vào công việc nội bộ của người Việt Nam. Đến 16 giờ quân Nhật quay về trại. Từ lúc đó, Việt Minh làm chủ thành phố.
Tại Huế ngày 23 tháng 8, 150.000 người dân xuống đường và Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố thoái vị. “Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ”. Ngày 25, tại Sài Gòn dân chúng tụ tập còn đông hơn thế, chen chúc nhau ngoài phố. Họ đến từ các vùng ngoại thành rộng lớn có truyền thống cách mạng. Tất cả các đường phố đều đông nghẹt người, tay vác gậy tầm vông vót nhọn, thứ vũ khí thô sơ của những ngày đầu kháng chiến chống Pháp nay lại xuất hiện trở lại.
Nhưng không phải tất cả các tin đều là tin vui. Theo các điều khoản thỏa thuận ký giữa các nước Đồng minh, quân của Tưởng Giới Thạch sẽ vào miền Bắc để giải giáp quân Nhật. Còn ở miền Nam việc đó được giao cho người Anh. Nhưng trước khi quân Tưởng kéo vào thì tối ngày 22 tháng 8,
https://thuviensach.vn
một nhóm sĩ quan Pháp đã có mặt và người Nhật đưa họ về khách sạn Metropole. Quần chúng phẫn nộ đã vượt các dây chắn bảo vệ xông vào khách sạn la ó. Người Nhật không muốn làm tình hình thêm căng thẳng bèn đưa nhóm sĩ quan Pháp về Phủ Toàn quyền. Sự có mặt khác thường đó đã làm dân chúng lo ngại. Một đoàn đại biểu đến gặp thiếu tá Patti trưởng phái bộ Mỹ đã đến Hà Nội bằng máy bay. Patti không che giấu thiện cảm của mình với Việt Minh và nền độc lập của Việt Nam, trả lời cho đoàn đại biểu Việt Nam: Miền Bắc Việt Nam giao cho quân đội Trung Hoa quản lý.
Trong khi đó nhóm lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương về đặt cơ quan làm việc tại nhà riêng của một nhà tư sản giác ngộ cách mạng ở số nhà 48 phố Hàng Ngang, được chủ nhà giới thiệu với hàng xóm là bà con ở tỉnh lẻ về Hà Nội chơi. Trường Chinh cũng để râu cằm như một ông già nhà quê. Tất cả mọi người làm việc, ăn ngủ tại tầng 1 trong ngôi nhà của một nhà tư sản ở Hà Nội. Tầng hai được dành cho Hồ Chủ tịch, ông đặt chiếc máy chữ bất ly thân trên chiếc tủ đầu giường. Bác Hồ về Hà Nội sau mọi người. Khi đó những đơn vị đầu tiên của Tưởng Giới Thạch đã vào Hà Nội, quân phục rách rưới, bộ dạng lôi thôi, nhếch nhác. Một đội quân dường như được tuyển chọn vào phút chót, lê đôi chân phù thũng vì bệnh tê phù trên đường phố thủ đô xứ Bắc Kỳ đang đói kém mà tưởng lầm như một xứ béo bở.
Do đường về Hà Nội bị ngập ở nhiều đoạn nên quân giải phóng về chậm, khiến mọi người nóng lòng chờ đợi. Cuối cùng ngày 26 tháng 8, người ta mới báo tin hai đại đội giải phóng quân đã về đến Gia Lâm đang chờ người của chính phủ sang đón. Vương Thừa Vũ sang ngay Gia Lâm, gặp gỡ anh em và sau khi bàn cãi dài dòng với người Nhật mới tổ chức được việc đón tiếp quân giải phóng. Đi đầu là đoàn quân nhạc, đoàn quân giải phóng vượt qua cây cầu Paul Doumer[6] dài 1.400 mét rồi diễu qua đám đông tràn đầy phấn khởi đứng hai bên đường kéo dài đến quảng trường trước cửa Nhà Hát Lớn, tại đây đã diễn ra cuộc diễu binh đầu tiên.
https://thuviensach.vn
[6] Tức cầu Long Biên (BT).
Từ hôm sau, các chiến sĩ du kích đã tiếp xúc với các thành viên của chính phủ lâm thời vừa được thành lập vào phút chót sau khi đưa thêm một số nhân sĩ tiến bộ vào Ủy ban dân tộc giải phóng thành lập ở Tân Trào. Chính phủ họp phiên đầu tiên tại phòng khách của tư dinh Thống sứ Bắc Kỳ, nay là Nhà khách Chính phủ. Cụ Nguyễn Văn Tố, thành viên của Viện Viễn Đông Bác cổ, được cử giữ chức Bộ trưởng cứu tế xã hội, đến dự họp ăn mặc âu phục trang trọng kiểu thành phố, đeo cà vạt. Phải một lúc cụ mới biết ông già người gầy gò bé nhỏ, mặc quần soóc màu nâu đã bạc màu, tay cầm ba toong, đầu đội chiếc mũ thuộc địa cũng phai màu, vành vểnh cao, lại chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chắc hẳn ông không khó khăn gì để kiếm một bộ trang phục khác. Nhưng ông không muốn. Ông muốn đóng một vai trò thỏa hiệp, một thói quen kỳ lạ khác? Có lẽ người ta cũng đã nói như thế về Gandhi. Nhưng đúng hơn cả là tính giản dị và trí thông minh chính trị cực kỳ sâu sắc.
Trong chính phủ mà sau này phải làm việc với những đối thủ hùng mạnh rất gay go để tự khẳng định mình trên trường quốc tế, ông đảm nhiệm một bộ then chốt là Bộ Ngoại giao. Còn Võ Nguyên Giáp, giữ vị trí thứ hai ngay sau ông, đầy rẫy khó khăn là Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Ông Giáp cũng như Hồ Chí Minh sẽ phải đối phó với những đối thủ sừng sỏ.
https://thuviensach.vn
Nhà chính khách 1945 - 1946
... Hàng ngày đi chợ không làm sao mà đuổi kịp giá gạo đang tăng lên vùn vụt. Dân đang đói, đói dữ lắm, đến mức nhà nào cũng có người chết đói, còn người sống thì chỉ còn đôi mắt nhớn nhác. Nhiều người đã phải bán hết mọi thứ để mua cái gì cho vào bụng. Trong làng nhiều nhà bỏ hoang và những con người hấp hối sắp trút hơi thở cuối cùng. Đói! Họ phải chuyển sang ăn cả vách đất. Phải dỡ cái mái nhà rầm bán ấy chứ? Nhưng đào đâu ra người mua. Đói. Mọi người nhặt nhạnh bòn mót những gì còn đáng đồng tiền trong nhà. Họ lê lết ra chợ để kiếm vài đồng bạc mua một nắm ngô nhai sống nuốt lấy nuốt để, uống vội một ngụm nước rồi khụy xuống đổ vật trên mặt đất.
Đó là câu chuyện của ngày hôm qua, dưới con mắt nhà văn Nguyên Hồng. Mùa đông năm 1944 quả là đói khủng khiếp, làm hai triệu sinh mạng phải từ giã cõi đời. Từng đoàn người ăn mặc rách rưới hướng về các thành phố. Vỉa hè ngang dọc xác người chết đói. Bây giờ là tháng 8 năm 1945, thành phố Hà Nội không còn là hòn đảo giữa miền châu thổ ngập nước. Con sông đến mùa lũ chở những lớp sóng đục ngầu bùn đất cao đến tận tầng một, tầng hai các nhà bên ngoài đê. Mức nước đã đến cốt 12,8 mét. Trên thượng lưu, hệ thống đê chắn lũ đã vỡ và mùa màng mất trắng ở chín tỉnh. Tháng 10 là tháng đỉnh điểm của khô hạn. Đó là nghịch lý muôn đời của miền châu thổ sông Hồng. Mùa hè nước quá nhiều, mùa đông nước không đủ. Tính sơ bộ cũng đã thấy năm nay thiếu khoảng 500.000 tấn lúa cho nhân dân miền Bắc.
Ngay hôm sau lễ Tuyên ngôn Độc lập trên quảng trường đông nghẹt, ngày 2 tháng 9, Chính phủ lâm thời họp tại Dinh Thống sứ cũ. Tất cả phải làm bắt đầu từ con số không.
Trong hai năm quyết định đó, Võ Nguyên Giáp lần lượt là nhà ngoại giao, nhà hùng biện và nhà chính khách. Sự khôn khéo cũng như sự cương quyết
https://thuviensach.vn
của ông và trên hết ý thức chính trị của ông đã cho phép ông làm lùi lại thời gian đối đầu, đồng thời tranh thủ tăng cường tiềm lực để đối phó.
Là Bộ trưởng Nội vụ, Thứ trưởng Quốc phòng và Tổng chỉ huy lực lượng vũ trang cho đến khi mở rộng chính phủ, ngày 2 tháng 3 năm 1946 ông nhường chức Bộ trưởng Nội vụ cho chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng để trở thành Chủ tịch Ủy ban kháng chiến do Quốc hội thành lập rồi Bộ trưởng Quốc phòng sau khi thay đổi thành phần chính phủ ngày 3 tháng 11. Như vậy, Võ Nguyên Giáp là chính khách nổi bật nhất sau Hồ Chí Minh.
Trong thời gian Người cùng Phạm Văn Đồng sang Pháp đàm phán, từ tháng 6 đến tháng 9, Võ Nguyên Giáp là nhân vật chủ chốt trong bộ máy chính phủ được Bộ Chính trị ngầm đứng sau tạo lực. Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán tháng 11 năm 1945 nhưng đó chỉ là một biện pháp chiến lược do tình thế đòi hỏi.
Trước hết phải có gì ăn đã. Và muốn thế phải phá vỡ cấu trúc cũ song không đi đến cách mạng triệt để có thể phá vỡ khối đoàn kết dân tộc. Trong khi xóa bỏ chế độ quan lại và hành chính, tư pháp ngày 12 tháng 9, vị Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp gạch một nét ngang với quá khứ mà không ai muốn. Để bảo đảm sản xuất lương thực đủ ăn, sau khi nước rút, vấn đề đầu tiên là hàn gắn đê điều, trồng ngô khoai sắn cứu đói trên các vệ đường sắt, đường bộ, trong các công viên và quảng trường công cộng.
Người ta đào giếng, tát nước dưới ánh trăng. Những nhóm chính trị nghiêng về tả nhiều nhất nói đến cách mạng xã hội và chia ruộng đất cho tất cả những người chủ ruộng không phân biệt. Võ Nguyên Giáp đã lập lại trật tự. Một chương trình như thế chỉ đem lại tai họa! Ông nói: “Những người tự xưng là cách mạng đó không thấy rằng trước mắt khẩu hiệu của chúng ta là độc lập và chỉ có một cách thực hiện: đó là đoàn kết”. Nhưng ông cũng quyết định người nào có khả năng đều được tự do khai hoang. Việc chia lại đất công làng xã được tiến hành trên nền tảng dân chủ nhất mà không xâm phạm chính sách “đại đoàn kết”. Trong tháng 9, cùng với việc
https://thuviensach.vn
hủy bỏ các quy định quản lý rượu và muối, chế độ thuế thân đã bị bãi bỏ. Giảm tô thuế 25%.
Từ ngày 8 tháng 9, Võ Nguyên Giáp đã ban bố tổng tuyển cử bầu Quốc hội lập hiến. Nhưng những tay thân Trung Quốc đều giở thủ đoạn phá rối một cách có hệ thống. Để hoạt động tốt hơn, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán ngày 11 tháng 11, chỉ còn lại một Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương do Trường Chinh làm chủ tịch. Thực tế các đảng viên vẫn tiếp tục hoạt động nửa bí mật ngay trong chế độ do họ lãnh đạo.
Sức ép của Trung Quốc ngày càng xiết chặt chung quanh Hồ Chí Minh, nhưng dư luận chung ủng hộ ông gây ấn tượng với Trung Hoa Quốc dân Đảng và những đồng minh người Việt của họ. Theo các thỏa thuận ký cuối tháng 12 năm 1945 giữa các bên, cuộc Tổng tuyển cử được hoãn đến ngày 6 tháng 1 năm 1946 đã dành 70 ghế tham gia Quốc hội không qua bầu cử cho phe đối lập. (50 ghế cho Việt Nam Quốc dân Đảng và 20 ghế cho Đồng minh hội[1]).
[1] Chính xác là Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội, gọi tắt là Việt Cách (BT).
Vấn đề gay gắt nhất là sự có mặt của quân đội nước ngoài. Chẳng mấy chốc miền Bắc Việt Nam sẽ bị mất máu vì những con đỉa Trung Hoa Quốc dân Đảng. Từ tháng 8, một đám quân ô hợp cũng được gọi là Trung Hoa Dân quốc ồ ạt kéo vào miền Bắc. Nói cho đúng mà cũng thật nực cười, đó là nông dân tháo chạy khỏi cái đói mà vào như đàn ong vỡ tổ theo những ngả đường Việt Nam. Khi được biết mình phải chiếm đóng Bắc Việt Nam, tướng Lư Hán vội vã tuyển mộ cho đủ quân số. Sau khi được trang bị tạp nham, ông ném họ vào miền Bắc Việt Nam. Sau này, trước khi phải ra đi, họ đã bán đủ các thứ, từ khung cửa, cửa sổ đến các thiết bị vệ sinh, ống nước tháo dỡ từ các biệt thự, tòa nhà mà các sĩ quan của họ đã chiếm đóng. Còn bây giờ nhóm Lư Hán ở lì lại đây, áp đặt tiền giấy bạc chẳng chút giá trị - tiền quan kim - với trị giá cao hơn ở Côn Minh bốn lần.
https://thuviensach.vn
Ở miền Nam tình hình còn tệ hại hơn nữa. Ngày 21 tháng 9, trung đoàn bộ binh số 11 được quân Anh cấp vũ khí mới, tái chiếm các trụ sở chính quyền tại Sài Gòn. Ngày 5 tháng 10, tướng Leclerc đã có mặt trong thành phố và đoàn quân thiết giáp của Massu nhanh chóng tiến lên Mỹ Tho rồi lên tòa thánh Tây Ninh. Trong ba tháng tiếp theo, quân viễn chinh Pháp đã tái chiếm tất cả các tỉnh lỵ từ Cà Mau ở cực nam đến tận Ban Mê Thuột, tràn xuống đồng bằng duyên hải miền Trung. Cả một khu vực rộng lớn hình như đã bị chinh phục nhưng Leclerc không vội ảo tưởng. Các con đường vừa mới được mở thông đã bị du kích cắt đứt ngay sau khi đoàn xe đi khỏi. Việt Minh rút khỏi thành phố, tản vào các khu rừng rậm và vùng đầm lầy. Cuộc chiến vừa mới bắt đầu từ ngày 23 tháng 9 nhưng ai nấy đều biết là sẽ kéo dài và tốn kém. “Hãy điều đình, điều đình bằng mọi giá”, đây là ý nghĩ của tướng Leclerc. Trong giới quân nhân Pháp, tiếc thay chỉ có một mình ông, hay gần như thế, phân tích tình hình như vậy. Đô đốc Thierry d’Argenlieu vừa đến nhận nhiệm vụ Cao ủy ngày 31 tháng 10 đã có ý kiến hoàn toàn trái ngược và ông chính là đệ tử trung thành của tướng De Gaulle.
Giữa hai điều tệ hại, tốt nhất là chọn điều ít tệ hại hơn. Trung Quốc ở gần và quá đông, nước Pháp thì ở xa và suy yếu sau chiến tranh. Vả lại Hà Nội không có sự lựa chọn nào khác. Nước Pháp đã hành động trước và từ mùa hè, họ cử người đi Trùng Khánh điều đình về việc trở lại chiếm đóng Bắc Kỳ. Một số đơn vị rút chạy sang Vân Nam sau ngày 9 tháng 3 năm 1945 đã quay về tái chiếm Lai Châu từ cuối năm. Từ đây họ tiến về Điện Biên Phủ và Sơn La. “Sớm muộn, Trùng Khánh cũng sẽ chấp nhận để Pháp trở lại miễn là nước Pháp nhượng cho họ một số quyền lợi quan trọng”. Đó là nhận định của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương trong chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc” ngày 25 tháng 11 năm 1945.
Tuy nhiên, lúc này quân đội Việt Nam rõ ràng không đủ sức tự giải quyết các vấn đề.
https://thuviensach.vn
Theo lời khuyên của Hồ Chí Minh, các cán bộ Việt Minh khai thác triệt để những mâu thuẫn trong nội bộ quân Tưởng. Tiêu Văn, Cục trưởng chính trị của Trương Phát Khuê thì gắn bó với các đơn vị quân trung ương của Chu Phúc Thành và chịu sự giám sát của viên tướng họ Chu hơn là chịu phục tùng tướng Lư Hán - tướng Lư Hán lúc này đang đối nghịch với chính quyền trung ương Quốc dân Đảng ở Trùng Khánh muốn thu hẹp sự độc lập của bọn quân phiệt Vân Nam. Võ Nguyên Giáp viết: “Trong đám quân Tưởng, có nhiều tên sĩ quan cấp thấp nhưng lại có quyền hành và thế lực. Có tên nhờ vợ đẹp, lịch thiệp lại biết tiêm thuốc phiện khéo nên được các tướng lĩnh vị nể; những lúc có việc phải nhờ cậy, những tên quan cấp thấp này có thể trở thành người giúp ta một cách đắc lực. Không hiểu sao Bác phát hiện được những viên quan nhỏ thuộc loại này. Bác chỉ thị cho các cán bộ đối ngoại phải có đối sách thích hợp với từng tên. Chính nhờ bọn này mới giải quyết được một số va chạm với quân Tưởng. Với Bác, chân lý cách mạng là cụ thể, vận dụng sách lược cũng là cụ thể. Mặc dù tất cả bọn sĩ quan của Tưởng đều phản động nhưng theo Bác, ta phải đối xử với từng tên theo một cách khác nhau... Người vận dụng một cách tinh tế những cách đối xử khác nhau đối với từng hạng người và ngay cả đối với từng người...”
Cuối năm 1945, Trung Hoa Quốc dân Đảng tăng áp lực để đưa vào chính phủ những người đồng minh Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội của họ.
Đầu tháng 1 năm 1946, công bố tin sẽ lập Chính phủ liên hiệp phần nào làm dịu các mối căng thẳng. Võ Nguyên Giáp đi thăm mặt trận miền Nam, nơi đang diễn ra những trận giao tranh đẫm máu quanh Nha Trang và trên cao nguyên. Ông được lệnh quay về Hà Nội ngay, vì tình hình ngày càng phức tạp.
Từ Tết năm 1946, Hà Nội đã phải phái nhiều đơn vị quân đội lên Tây Bắc, nơi đây, quân Pháp từ Vân Nam về đã chiếm Lai Châu. Các cuộc đàm phán
https://thuviensach.vn
Hoa - Pháp được tiến hành, và ngày 20 tháng 2[2], hiệp định giữa Paris và Bắc Kinh được công bố: quân viễn chinh Pháp sẽ thay thế quân Trung Hoa tại miền Bắc. Hãng Reuters nói rõ thêm: “Nước Pháp không do dự sử dụng vũ lực nếu Việt Nam bác bỏ thỏa hiệp”. Tại Hà Nội, những thành phần xung kích của Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội nắm lấy cơ hội này để gây rối trên đường phố, hô các khẩu hiệu: “Bảo Đại lên cầm quyền!”, “Đả đảo bọn Việt gian thân Pháp” nhưng công dân Vĩnh Thụy [tức Bảo Đại] giữ thái độ dè dặt và một cuộc phản biểu tình của quần chúng khiến bọn gây rối phải giải tán. Tuy nhiên, thời điểm lúc này rất gay go: Một bộ phận dư luận hoang mang, những phần tử “quốc gia” nắm lấy cơ hội này để tăng yêu sách: đòi giữ 7 trong 10 bộ của chính phủ, đồng thời lớn tiếng chỉ trích những người đang đàm phán với Pháp là phản bội, bán rẻ quyền lợi Tổ quốc, đồng thời ghi điểm bất kỳ ở nơi nào chúng có thể làm được. Trong khi quân Pháp lên đường ra Bắc, thì tại Hà Nội, quân Tưởng làm ra vẻ phản đối việc đổ bộ. Rồi đến phút chót khi quân Pháp đã vào đến vịnh Hạ Long, quân Tưởng đột ngột thay đổi ý kiến, bỏ mặc những người đồng minh Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội bộc lộ sai lầm của họ.
[2] Thực ra Hiệp ước Hoa - Pháp được ký ngày 28 tháng 2 năm 1946, chứ không phải ngày 20 tháng 2 (BT).
Để tránh những mưu toan phá hoại của Việt Quốc, Việt Cách, ngày 2 tháng 3, Quốc hội được triệu tập mà bình thường ra, sẽ họp vào ngày hôm sau. Quốc hội cử ra một Chính phủ liên hiệp, trong đó Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ tịch nước, Nguyễn Tường Tam làm Bộ trưởng Ngoại giao, các bộ Kinh tế, Y tế và Nông nghiệp được trao cho những người đối lập khác. Một đảng viên Quốc dân Đảng nổi tiếng thân Trung Quốc, Vũ Hồng Khanh, làm phó cho Võ Nguyên Giáp, đứng đầu Ủy ban kháng chiến được các đại biểu thông qua. Chỉ trong một ngày, việc thay đổi ý kiến nhanh như thay áo của Trung Hoa Quốc dân Đảng đã biến thắng lợi của lũ tay sai thành một trái cây tẩm thuốc độc.
https://thuviensach.vn
Sau khi đấu tranh để ít nhất bốn từ “quốc gia tự do” được đưa vào văn bản hiệp định, phía Pháp kiên quyết không chấp nhận từ “độc lập”, Hồ Chí Minh ký với đại diện Pháp một bản hiệp định cho phép quân Pháp quay lại Bắc Kỳ, ngày 6 tháng 3 vào lúc 16 giờ trong lúc đó tại Hải Phòng, đội quân viễn chinh Pháp vấp phải sự chống đối quyết liệt của quân Tưởng. Hồ Chí Minh ký đầu tiên, sau đó Vũ Hồng Khanh ký tiếp trước khi đến lượt Sainteny. Chính sách đặt giá cao của Việt Nam Quốc dân Đảng đến lúc này đã quay lại chống chính họ. Những quan thầy của họ, đến phút cuối cùng đã đột ngột thay đổi ý kiến, khiến họ phải miễn cưỡng công nhận hiệp định.
Mặc dù ở vị thế rất tế nhị, Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp tỏ ra vô cùng thoải mái khi phải ngả lá bài trước mười vạn người dân Hà Nội, tập trung tại quảng trường Nhà Hát Lớn. Võ Nguyên Giáp nói: “Chỉ có hai con đường: một là tiến hành kháng chiến lâu dài, hai là phải hòa hoãn, chấm dứt xung đột. Trong hiệp định này có những điều khoản làm chúng ta hài lòng, nhưng cũng có những điều khoản làm chúng ta không vừa ý. Nước Pháp phải thừa nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do. Tự do không phải là tự trị, đó là hơn cả tự trị, nhưng cũng chưa phải là độc lập. Một khi đã đạt được tự do, chúng ta sẽ đi đến độc lập, độc lập hoàn toàn”. Khi những tiếng hoan hô cuồng nhiệt đối với những từ vừa nói lắng xuống, Võ Nguyên Giáp nói thêm: “Có những lúc chúng ta phải tỏ ra cứng rắn, và có những lúc, chúng ta phải tỏ ra mềm mỏng.” Sau bài diễn văn mà Philippe Devillers đánh giá là “một sự thành thật chưa từng có”, bài phát biểu của Vũ Hồng Khanh tỏ ra nhạt nhẽo. Rồi Hồ Chí Minh xuất hiện, và tiếp đó là không khí cuồng nhiệt trong đám đông mà ông phải lấy hai tay vẫy để làm cho lắng dịu.
Bằng cách nắm sừng để giữ bò, trong ngày 7 tháng 3 đó, Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đã vượt qua một đoạn đường nguy hiểm. Nhưng không phải vì thế mà họ không còn vất vả nữa. Ngày hôm sau Võ Nguyên Giáp đi ngay xuống Hải Phòng để gặp Leclerc. Ông đã có thể tính được sức mạnh của quân Pháp đang chuẩn bị đổ bộ. Người ta đã nói với ông sẽ có một
https://thuviensach.vn
đoàn hộ tống danh dự nhỏ gồm 220 xe ô tô gắn súng máy, xe tăng, xe xích, súng cối, xe jeep và xe vận tải chở người và quân trang, quân dụng sẽ lên đường về Hà Nội.
Một ủy ban được thành lập để kiểm soát việc thi hành các điều khoản của hiệp định và giải quyết các vụ rắc rối. Một bầu không khí tin cậy, thậm chí thân thiện đã hình thành giữa các sĩ quan của tướng Leclerc và những sĩ quan đồng cấp phía Việt Nam. Nhưng một vài người thì làm được gì? Quân đội Pháp được phép đóng quân tại Bắc Bộ xử sự như đang ở một nước đã bị họ chinh phục và các vụ xích mích tăng lên. Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp thấy ở tướng Leclerc một người đối thoại trung thực được hai người đánh giá cao, nhưng chỉ huy sư đoàn thiết giáp số 2 không phải chỉ có một mình Leclerc và ông cũng không được quyết định mọi việc.
Huống hồ Paris từ chối giải quyết các vấn đề then chốt trong quan hệ Pháp - Việt, những vấn đề này chi phối các vấn đề khác. Tất cả đều bế tắc. Chiến tranh vẫn đang tiếp diễn ở miền Nam, trong cái gọi là xứ Nam Kỳ, lãnh thổ Việt Nam trở thành thuộc địa Pháp từ cách đây hơn một thế kỷ.
Ngày 19 tháng 4, Võ Nguyên Giáp đi dự Hội nghị trù bị Đà Lạt với Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam. Trong chương trình nghị sự, vấn đề đình chiến ở miền Nam và các vấn đề là điều kiện của tự do ở Việt Nam: vấn đề quan thuế, vấn đề tiền tệ, sự tham gia của Pháp vào nền kinh tế của nước Việt Nam mới. Trong ba tuần, phái đoàn Pháp từ chối không chịu nhìn nhận những thay đổi đã diễn ra. Đại biểu miền Nam, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đã đến tận nơi, nhờ sự giúp đỡ của một người bạn Pháp tên là Canac nhưng bị phía Pháp kiên quyết từ chối không cho dự Hội nghị. Giáp đã tuyên bố thẳng thừng:
“Nói rằng ở Nam Bộ không có xung đột là thách thức chân lý. Thực ra, các cuộc giao tranh vẫn diễn ra khắp nơi ở Nam Bộ. Chắc hẳn, người ta nói rằng các cuộc tấn công đó là do bọn bất lương gây ra và khó mà phân biệt được... Nếu nói theo cách đó, thì 50.000 quân của lực lượng trong nước
https://thuviensach.vn
trong cuộc kháng chiến cũng được gọi là lực lượng không chính qui hay sao? Chúng tôi muốn hòa bình, đúng thế, nhưng là một nền hòa bình trong tự do và công bằng, một nền hòa bình phù hợp với Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 chứ không phải hòa bình trong nhẫn nhục, mất danh dự và nô lệ.” Phía Pháp từ chối một cách ngoan cố không chịu thừa nhận những thuộc tính của nước Việt Nam tự do và sự toàn vẹn lãnh thổ, ngày 10 tháng 5, phái đoàn Việt Nam rời hội nghị để không bao giờ trở lại nữa.
Chắc hẳn nếu diễn ra tại Pháp, các cuộc đàm phán sẽ có nhiều khả năng thành công hơn do ở xa các lợi ích thuộc địa. Cuối tháng 5, Phạm Văn Đồng dẫn đầu phái đoàn Việt Nam sang thảo luận tại Fontainebleau về việc áp dụng trong thực tiễn và kéo dài cụ thể các hiệp định ký ngày 6 tháng 3. Hồ Chí Minh luôn luôn theo dõi và chỉ đạo hoạt động của phái đoàn, nhưng không phải là thành viên và cũng không tham gia hội nghị. Cuộc đối thoại giữa những người điếc ở Đà Lạt được lặp lại. Phía Pháp không thừa nhận một thực tế là Nam Bộ (tức Nam Kỳ) là một bộ phận lãnh thổ quốc gia của Việt Nam; ngày 1 tháng 6, họ thành lập cái gọi là “Chính phủ Cộng hòa tự trị Nam Kỳ”.
Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam lên đường sang Pháp, Võ Nguyên Giáp làm phụ tá cho Phó Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng, thực tế đóng vai trò quyền chủ tịch chính phủ, tuy về danh nghĩa Huỳnh Thúc Kháng vẫn là quyền chủ tịch. Ông lại một lần nữa va chạm với phe hữu: Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội, hai tổ chức này tiến hành một cuộc chiến tranh thực sự chống lại chính quyền trung ương mà trong đó có đại biểu của họ tham gia.
Ngày 11 tháng 7 năm 1946, tình thế trở nên nguy kịch. Vào thời điểm này, Việt Nam Quốc dân Đảng làm mọi việc nhằm làm thất bại các cuộc thương lượng tại Fontainebleau, quyết định “phá hoại mọi chỉ thị vô lý của chính phủ hiện nay về vấn đề ngoại giao”. Từ ngày 10 đến 17 tháng 7, Cơ quan đặc vụ Quốc dân Đảng sẽ “ám sát tất cả những quân nhân Pháp đóng ở bên
https://thuviensach.vn
ngoài thành Hà Nội” và “bắt cóc tất cả phụ nữ và trẻ em Pháp”. Chính phủ Hà Nội còn chưa trả lời yêu cầu của quân đội Pháp xin phép tổ chức diễu binh ngày 14 tháng 7 - ngày Quốc khánh Pháp - khi cơ quan công an phát hiện được các ban ám sát của Quốc dân Đảng lợi dụng dịp này để nổ súng vào quân Pháp đang diễu binh trên một số điểm trong thành phố. Võ Nguyên Giáp từ chối không cho phép quân Pháp diễu binh ngày 14 tháng 7 vì lý do an ninh.
Sáng sớm ngày 12, công an tiến hành khám xét một số trụ sở của Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội. Tại ngôi nhà số 132 phố Minh Khai[3], lực lượng công an đã phát hiện một máy in và hàng chồng truyền đơn kêu gọi khởi nghĩa. Trong ba ngôi nhà khác trên bờ hồ, bọn lính gác Quốc dân Đảng còn chống lại công an bằng súng trung liên. Tại ngôi nhà số 7 phố Ôn Như Hầu (tức phố Bonifacy cũ), công an phát hiện một bản khắc in tiền giả, một phòng tra tấn và một hố chôn bảy xác chết trong vườn. Ngày 13, công an còn tiến hành khám xét nhiều trụ sở khác của Việt Nam Quốc dân Đảng, tịch thu được nhiều tài liệu chứng minh âm mưu gây rối ngày 14 tháng 7 và phát hiện nhiều thi thể. (Một trong những tài liệu này được quân Pháp tìm thấy tại Văn phòng của Thị trưởng Hà Nội, sau ngày 19 tháng 12 năm 1946).
[3] Boudarel bị nhầm, thực ra là số nhà 132 phố Duvigneau (nay là phố Bùi Thị Xuân) (BT).
Quân đội của Võ Nguyên Giáp hành động rất mạnh mẽ. Nhóm Đại Việt ở Bắc Ninh chia rẽ vì những ganh đua giữa hai tên đứng đầu ở địa phương, rút về Lạng Sơn, tại đây chúng dựa vào sự ủng hộ của các nhóm vũ trang Phục quốc thân Nhật. Từ tháng 7 đến tháng 11, sào huyệt của bọn Việt Nam Quốc dân Đảng ở lưu vực sông Hồng từ Vĩnh Yên đến Lào Cai dọc đường lên Vân Nam đã bị phá vỡ.
Trong lúc đó, quân đội của Võ Nguyên Giáp cũng trưởng thành hơn. Tháng 1 năm 1946, Đảng ủy Quân sự Trung ương đã được cải tổ lại. Vai trò cá
https://thuviensach.vn
nhân của Võ Nguyên Giáp hòa nhập trong tập thể mac-xit - lêninnít trong quân đội, nói rõ hơn, đó là sức mạnh của người phụ trách trực tiếp quân đội. Là “tướng chính trị”, Võ Nguyên Giáp không bao giờ ngừng nhấn mạnh tầm quan trọng của cơ quan Đảng trong quân đội, ngay cả khi lãnh đạo cuộc chiến tranh sau này.
Việc ưu tiên thành lập các đội dân quân địa phương cũng được nhấn mạnh. Lực lượng dân quân sẽ đóng vai trò then chốt, có quan hệ chặt chẽ với việc thành lập chính quyền hành chính ở địa phương và các chi bộ Đảng cơ sở. Trên 1.200 xã ở Nam Bộ, 1.100 xã đã có tổ chức cơ sở Việt Minh, và khắp cả nước, người ta ước tính có một triệu du kích. Nhưng không phải vì thế mà coi nhẹ vai trò của bộ đội thường trực. Từ tháng 9 năm 1945, bộ đội thường trực được gọi là Vệ quốc đoàn để tránh những nghi ngờ của Trung Hoa Quốc dân Đảng. Đến ngày 22 tháng 5, bộ đội chính qui lấy lại tên Quân đội quốc gia. Quân số tăng từ 15.000 người vào tháng 9 năm 1945 lên 60.000 người cuối năm 1946. Các trường đào tạo cán bộ được mở và các trường đào tạo cán bộ binh chủng cũng xuất hiện: đơn vị pháo binh đầu tiên được thành lập ngày 29 tháng 6 năm 1946, và đơn vị thông tin đầu tiên, ngày 9 tháng 9 năm 1946. Tuy nhiên, trình độ của các đơn vị này còn rất yếu trên mọi phương diện. Toàn bộ lãnh thổ được chia thành 12 chiến khu (khu IV và V ở Trung Bộ, khu VII, VIII và IX ở Nam Bộ). Trong mỗi chiến khu, các ban chỉ huy địa phương có quyền chủ động rộng rãi về mặt tác chiến. Nếu vũ khí còn rất pha tạp bao gồm nhiều loại (chủ yếu) là bạch khí: gậy tầm vông vót nhọn, và hai chục loại súng trường và musqueton (đến từ nhiều nguồn), thì chiến lược và chiến thuật, ngược lại, được ấn định rõ ràng bằng những “chỉ thị về kháng chiến” ngày 25 tháng 9 năm 1945: “Cắt đường liên lạc giữa các thành phố bị địch kiểm soát, thực hiện bao vây kín và quấy rối địch về quân sự”.
Trong suốt mùa hè năm 1946, tình hình liên tiếp xấu đi trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Tại Hội nghị Fontainebleau, các cuộc thương lượng dậm chân tại chỗ, và cuối cùng thất bại do thái độ thiếu thiện chí của phái đoàn Pháp,
https://thuviensach.vn
họ không muốn làm bất cứ việc gì để đất Nam Bộ có thể trở về với Việt Nam, mà Nam Bộ là một bộ phận. Một cuộc chiến tranh khi thì âm ỉ, khi thì công khai diễn ra ở Nam Bộ. Ngày 18 tháng 7, Leclerc, thực tế là đã vỡ mộng, quyết định quay về Pháp, và được thay bằng tướng Valluy, người sau này sẽ thực hiện chính sách “việc đã rồi”.
Trên đường Hà Nội - Lạng Sơn, quân Pháp không tính đến nghĩa vụ phải thực hiện các hiệp định đã ký kết, gây thêm nhiều vụ rắc rối khác. Ngày 1 và 3 tháng 8, nhiều vụ đụng độ đẫm máu xảy ra ở cầu sông Đuống, tại đây các đoàn xe Pháp đã không tôn trọng các thủ tục kiểm soát. Tại Bắc Ninh, quân Pháp đóng quân trái phép tại thị xã Bắc Ninh và cho máy bay bắn vào thành Bắc Ninh do người Việt Nam nắm giữ. Võ Nguyên Giáp đã trả lời cho đại tá Crépin, khi viên sĩ quan này đến phản đối các vụ rắc rối trên: “Nếu các ông muốn hòa bình, các ông sẽ có hòa bình, nếu các ông muốn chiến tranh, các ông sẽ có chiến tranh”. Cánh quân của Crépin vừa ở Vân Nam về muốn tiến xuống châu thổ sông Hồng. Có tin đồn về việc Pháp âm mưu thành lập “những nước cộng hòa tự trị” tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Tướng Morlière, người thay thế tướng Valluy sẽ có nghĩa vụ theo đuổi chính sách lấn chiếm và tối hậu thư mà trong thâm tâm ông không tán thành.
Ngày 16 tháng 10, khi Hồ Chí Minh trở về Đông Dương trên tàu Dumont d’Urville, những đám mây đen đã tích tụ trên bầu trời Việt Nam. Bản Tạm ước được ký kết trong một không khí rất căng thẳng giữa Hồ Chí Minh và Marius Moutet ngày 14 tháng 9 năm 1946, cuối cùng dù có thực hiện cũng không thể cứu vãn được hòa bình ở Việt Nam, chỉ để lại trong bóng tối tất cả những điều khoản thực hiện những nguyên tắc đã được hai bên khẳng định.
Tại miền Nam, quân đội viễn chinh Pháp thực hiện “chiến thuật vết dầu loang”, các cuộc giao tranh thực tế không bao giờ ngừng. Ngày 21 tháng 12, tướng Valluy thông báo cho Giáp biết ông ta đã ra lệnh cho quân Pháp
https://thuviensach.vn
ngừng bắn ở Nam Bộ nhưng ngay lúc đó, ông ta lại ra lệnh cho đại tá Dèbes đánh bật các lực lượng vũ trang của Việt Nam ra khỏi Hải Phòng. Một vụ rắc rối về thủ tục hải quan do hải quân Pháp gây ra trong ngày 21 đã biến thành những cuộc giao tranh đẫm máu. Trong khi hai bên tiến hành những cuộc thương lượng khá công phu để đi đến chấm dứt các cuộc xung đột tại Hải Phòng thì ngày 23, đại tá Dèbes ra lệnh cho các đơn vị bộ đội Việt Nam phải rời khỏi thành phố. Đây là lệnh phát thẳng từ Sài Gòn mà chính tướng Morlière, Ủy viên Cộng hòa, người chủ trương phải tôn trọng các hiệp định đã ký kết, cũng không được biết. Dèbes ra lệnh sử dụng tất cả những phương tiện sẵn có, kể cả pháo binh, để thực hiện lệnh của ông ta. Đô đốc Battet ước tính có 6.000 nạn nhân Việt Nam của các vụ bắn phá đó. Cùng lúc đó, các đơn vị Pháp đóng tại Lạng Sơn đã kiểm soát thành phố.
Một sự yên tĩnh tạm thời được thiết lập. Nhưng đó chỉ là giây phút tạm nghỉ trước khi hai bên tiến hành những cuộc giao tranh mới, kịch liệt hơn. Ngày 23 tháng 12 năm 1946, thực tế miền Bắc đã đi vào cuộc chiến. Giáp viết, trong các trận giao chiến ở Hải Phòng, Việt Minh đã tịch thu được một thông tư đề ngày 10 tháng 4 của Bộ chỉ huy Pháp gửi các cấp, dự kiến biến những hành động gây hấn về quân sự thành màn kịch cuộc đảo chính.
Tại Pháp, các tin tức từ Đông Dương chỉ được đưa về qua lăng kính xuyên tạc của kiểm duyệt, những sự kiện xảy ra ở Hải Phòng đã được che đậy biến tướng đến mức không thể nhận được ra sự thật như thế nào nữa, tất cả đều gán cho phía Việt Nam chủ động gây ra và nhất là được phe hữu khai thác. Chính phủ mới, toàn những người của Đảng Xã hội, đứng đầu là Léon Blum được thành lập ngày 17 tháng 12, đúng một tháng tròn nước Pháp không có chính phủ, sau các cuộc bầu cử ngày 10 tháng 11, ngay sau đó phái Marius Moutet đến Đông Dương.
Tại miền Nam, trước những hành vi tái chinh phục thuộc địa một cách có hệ thống của Pháp, cuộc kháng chiến của quân dân Nam Bộ đã được tổ chức bằng cách cải tổ Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, từ nay được giao
https://thuviensach.vn
nhiệm vụ chỉ đạo cuộc kháng chiến về mọi mặt ở miền Nam và các tỉnh Nam Trung Bộ bằng Nghị định ngày 13 tháng 9 năm 1946. Ở Hà Nội, quân Pháp xử sự như trên một nước đã bị họ chinh phục. Việt Minh rút ra bài học kinh nghiệm đã qua và thực hiện “vườn không nhà trống”. Người già, phụ nữ và trẻ em đều được lệnh tản cư ra ngoài thủ đô, nơi đây ngày đêm vang dậy tiếng cuốc đào đất, chôn mìn. Sân trời và ban công biến thành những nơi nấp bắn. Các lỗ châu mai, khe bắn được đục trên các bức tường trông ra mặt đường, người ta đục các bức tường chung tạo thành một lối đi bên trong. Mỗi nhà đều trữ sẵn lương thực, nước uống đủ dùng trong ba tháng và sẵn sàng khi thời điểm đến, dựng chiến lũy trên đường phố. Các thân cây đều đục sẵn lỗ để khi cần có thể đưa mìn vào là hạ ngay xuống làm chướng ngại vật.
Những hoạt động chuẩn bị này nhằm đề phòng tái diễn kịch bản như ở Hải Phòng đã gây nên sự phản đối của nhà đương cục Pháp. Họ đã can thiệp nhiều lần, bắt đầu từ giữa tháng 12, cho xe ủi phá các chiến lũy trên đường phố trong các khu phố người Việt và tiến hành kiểm soát các tòa nhà công cộng.
Sau khi nhận được liên tiếp ba tối hậu thư của phía Pháp trong các ngày 18 và 19 tháng 12: đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến, tước vũ khí quân tự vệ Hà Nội, trao cho quân đội Pháp nhiệm vụ duy trì an ninh thành phố, Chính phủ Hồ Chí Minh quyết định không giữ thái độ bị động nữa mà chủ động tiến hành những biện pháp cần thiết. Chiều ngày 19, cùng với Trần Quốc Hoàn, Vương Thừa Vũ, Võ Nguyên Giáp đi thị sát lần cuối cùng công việc chuẩn bị kháng chiến. Đêm hôm sau, các lực lượng vũ trang nhất tề xông lên diệt địch, và Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
https://thuviensach.vn
Chỉ huy quân đội tiến hành kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954
Kháng cự càng lâu càng tốt nhưng không quên điều chủ yếu là bảo toàn lực lượng bằng mọi giá, đó là chỉ thị của Giáp cho lực lượng tự vệ. Đường phố rộng rãi, quân viễn chinh Pháp lại có tính cơ động cao nên trước khi nổ súng, bộ chỉ huy đã dự kiến các khu dân cư của Hà Nội sẽ nhanh chóng rơi vào tay địch. Từ ngày 22 tháng 12 năm 1946, tự vệ bị bao vây trong khu phố cổ, nằm giữa sông Hồng và thành Hà Nội có quân Pháp đóng, nơi đây còn có một bộ phận dân cư bị kẹt lại. Đường phố hẹp ở đây tạo thuận lợi cho một cuộc kháng cự kịch liệt, giành giật từng căn nhà từng dãy phố, cho phép Chính phủ có thời gian sắp xếp lực lượng ở các vùng nông thôn nằm dưới sự kiểm soát của Chính phủ. Hệ thống liên lạc giữa vùng chiến sự trong khu phố cổ với bên ngoài được tiến hành vào ban đêm. Liên lạc viên luồn dưới cây cầu lớn bắc qua sông Hồng, trong lúc các xe xích tuần tra trên mặt cầu, dọi đèn pha quét chung quanh. Trong thành phố bị bao vây, Vương Thừa Vũ thành lập Trung đoàn Thủ đô, sau này là bộ khung của đại đoàn 308 năm 1949.
Chiều ngày 14 tháng 2 năm 1947, sau khi quân Pháp chiếm được chợ Đồng Xuân thì việc quân đã được quyết định. Sau khi kẻ khẩu hiệu trên tường “Chúng tôi sẽ trở về”, đơn vị cuối cùng đã rút lui trong đêm ngày 18 tháng 2, băng qua bãi giữa sông Hồng. Sau hai tháng giữ vững cuộc chiến trong lòng thủ đô, Trung đoàn Thủ đô đã rút ra ngoài một cách an toàn, không có thiệt hại gì đáng kể. Trong nhật lệnh, Giáp nói: “Các đồng chí sẽ tiếp tục chiến đấu vì Tổ quốc. Chúng ta sẽ chiến đấu 10 năm hoặc lâu hơn nữa nếu cần thiết”.
Hà Nội chỉ còn là đống gạch vụn. Tình hình diễn ra tương tự ở các thành phố, thị xã, thị trấn của miền Trung và miền Nam, tại đây dân chúng triệt để áp dụng chiến thuật “tiêu thổ kháng chiến” do Ban chấp hành Trung
https://thuviensach.vn
ương Đảng và Giáp đề ra để bù lại tình trạng yếu kém về trang bị vũ khí của lực lượng kháng chiến. Thiếu chất nổ, người ta dùng cuốc xẻng phá từng bức tường, từng căn nhà. Các cây cầu bằng bê tông đều bị đánh sập, người ta dùng cưa, búa tạ phá từng khối bê tông, cắt từng đoạn dầm cầu, phá dỡ từng mảng tường. Trong tất cả các thành phố không có doanh trại quân Pháp, thực tế là ở các thành phố, thị xã, trừ Hà Nội và Lạng Sơn ở phía bắc, dân chúng san phẳng các ngôi nhà của mình trước khi tản cư. 36 thành phố, thị xã, trong đó có Thanh Hóa, Vinh, mỗi nơi có mười vạn dân đều biến thành bình địa như lòng bàn tay, ở đó chỉ có chóp tháp nhà thờ hay đền chùa còn sót lại vì các công trình tôn giáo được tôn trọng.
Ban đêm người ta chặt nát đường từ bờ dốc, đào rãnh cắt đến giữa đường, một rãnh bên phải, lại một rãnh bên trái, cách nhau 5 mét, như phím đàn dương cầm. Chỉ trong một thời gian ngắn, 10.700 kilômét đường bộ, 1.540 kilômét đường sắt bị phá hoại không thể sử dụng. Từ Lạng Sơn đến Nha Trang ở Trung Bộ, không còn một cây cầu nào nguyên vẹn.
Trong một loạt các bài báo tạp chí của nhóm trí thức mac-xit đầu năm 1947, sau đó tập hợp lại thành cuốn sách với nhan đề Kháng chiến nhất định thắng lợi, Trường Chinh chỉ rõ đường lối chiến lược phỏng theo “Luận trì cửu chiến” (Luận về đánh lâu dài) của Mao Trạch Đông. Sau giai đoạn thứ nhất - giai đoạn phòng ngự trong đó các trận đánh làm chậm bước tiến của địch - là đến giai đoạn thứ hai, giai đoạn cầm cự, trong đó bộ đội được phân tán về nông thôn tiến hành chiến tranh du kích một cách rộng khắp. Ở giai đoạn này, hai bên đạt được tình trạng cân bằng lực lượng nhưng có nhiều bước tiến nhảy vọt bất ngờ, quân đội viễn chinh tiến hành càn quét một cách có hệ thống. Du kích chiến và du kích vận động chiến có tầm quan trọng ngang nhau, trận địa chiến chỉ có vai trò phụ trợ. Việc tập trung và tăng cường các lực lượng vũ trang sẽ tạo thuận lợi chuyển sang giai đoạn thứ ba, giai đoạn cuối cùng - tổng phản công - hoạt động chuyển thành du kích vận động chiến rồi thành trận địa chiến. Trong quá trình diễn ra xung đột, theo nhận định của Trường Chinh, các cuộc đàm phán có thể
https://thuviensach.vn
diễn ra, tuy nhiên phong trào giải phóng dân tộc đang lên ở các thuộc địa có thể tạo thuận lợi để chuyển sang phản công, mặc dù vẫn còn yếu kém về phương tiện vật chất. Sự chồng chéo của các lực lượng là một trong những đặc trưng của cuộc chiến tranh này dẫn đến hiện tượng không có mặt trận cố định hoặc mặt trận được xác định rõ ràng do tình hình biến chuyển và luôn thay đổi, hai bên ta, địch bao vây lẫn nhau.
Tháng 7 năm 1947, để tạo thuận lợi cho việc nối lại các cuộc đàm phán, Chính phủ Hồ Chí Minh được mở rộng. Những người mac-xit chỉ còn giữ ba bộ thay vì sáu bộ. Giáp vẫn là Tổng chỉ huy quân đội, nhường cho Tạ Quang Bửu là người không đảng phái giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng. Paris ngoan cố bám vào chính sách đà điểu, muốn tìm một “người đối thoại có giá trị” qua vai trò của cựu hoàng Bảo Đại, đồng thời chuẩn bị một kế hoạch tấn công quy mô vào tháng 10 năm 1947.
Ngày 13 tháng 10[1], từng đoàn quân Pháp nhảy dù xuống thị xã Bắc Cạn ở trung tâm căn cứ địa Việt Bắc của Việt Minh. Tại căn cứ này, năm 1941 Mặt trận Việt Minh đã ra đời và cách đây chỉ hơn mười tháng, Chính phủ kháng chiến đã trở lại đây để xây dựng căn cứ địa cho cuộc kháng chiến lâu dài. Nhiều cơ quan trung ương, nhiều bộ đều đặt ở các xóm làng bao quanh khu lòng chảo đã phải vội vã rút sâu vào rừng. Trong vài tuần, về lý thuyết, quân viễn chinh Pháp đã chiếm được quyền kiểm soát các trục đường Cao Bằng đến bờ biển qua thành phố Lạng Sơn, Cao Bằng đi Hà Nội qua Bắc Cạn và Thái Nguyên. Về phía tây, Pháp đã đặt nhiều doanh trại ở Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu.
[1] Đúng ra là ngày 7 tháng 10 năm 1947 (BT).
Trong ngày 13 tháng 10, trong đợt tổng rút lui vào rừng rậm, có một người bé nhỏ đeo kính trắng cùng với công nhân tháo các bộ phận của máy rồi buộc vào hai đầu cái sào tre và gánh trên vai. Ông mang trong túi những cuốn sổ tay ghi các hình vẽ, các công thức tính toán. Đó là Trần Đại Nghĩa, tốt nghiệp kỹ sư năm 1939, từng làm việc trong các nhà máy không quân
https://thuviensach.vn
của Pháp trước khi theo Hồ Chí Minh về nước vào tháng 9 năm 1946 trên con tàu Dumont d’Urville. Sau khi được cử làm Cục trưởng Cục Quân giới, người ta đưa cho ông hai quả đạn cối. Ông có nhiều việc phải làm. Trong lần thử nghiệm đầu tiên, quả đạn nổ làm hai người chết. Công việc bắt đầu lại từ con số không, nhưng chỉ vài tháng sau hai quả đạn do Việt Nam sản xuất gần như là hàng mẫu duy nhất đã bắn cháy một xe tăng Pháp ở Quốc Oai. Bây giờ Trần Đại Nghĩa làm việc với một người thợ tên là Ngô Gia Khảm, khuôn mặt đã bị biến dạng do một vụ nổ khi anh sấy thuốc nổ để nạp vào lựu đạn tự chế. Với những cố gắng phi thường, xưởng quân giới của họ đã thu hồi được trang thiết bị của các xưởng Caron ở Hải Phòng. Tại đây công nhân đã tháo rời máy móc và chuyển bằng đôi vai, xe bò, thuyền buồm, ô tô và thường là đeo trên lưng, vượt hàng trăm kilômét, đi trên những con đường mòn trơn trượt, đến tận giữa vùng rừng núi. Số công nhân lên tới bốn trăm người. Nghĩa được giao nhiệm vụ nghiên cứu sản xuất toàn bộ các bộ phận súng cối. Hôm Pháp nhảy dù ngày 7 tháng 10 năm 1947, Nghĩa đã hoàn thành một nửa công việc. Năm 1948 họ đã cho ra lò các khẩu cối 60 và 81. Sau đó Nghĩa chuyển sang nghiên cứu sản xuất súng không giật (SKZ). Đầu năm 1950, những khẩu súng không giật đầu tiên đã điều chỉnh sẽ tham gia đánh đồn Phố Lu. Các xưởng vũ khí của kháng chiến đã thành công và làm chủ được kỹ thuật đạn lõm.
Năm 1947, trước cuộc tấn công của quân Pháp, Giáp cùng bộ tham mưu đã thông qua một chiến lược phân tán lực lượng một cách có hệ thống. Quân chính quy được chia thành 30 đại đội và 16 tiểu đoàn độc lập, kết hợp chặt chẽ với du kích các xã. Ngay sau khi chặn đứng cuộc tiến công của quân Pháp lên miền thượng du, Giáp và bộ tham mưu đã họp ngày 16 tháng 3 năm 1948 để thảo luận về chủ trương phân tán lực lượng nói trên. Hai phần ba quân chính quy chia thành đại đội và trung đội trực tiếp được tung vào địch hậu để tăng cường chiến tranh du kích. Giáp viết: “Bằng việc tăng cường du kích chiến, chúng tôi đã chủ trương biến hậu phương địch thành tiền tuyến của chúng tôi. Đây là một cuộc đấu tranh vô cùng gian khổ và mở rộng trên tất cả các mặt quân sự, kinh tế, chính trị. Địch tổ chức càn
https://thuviensach.vn
quét, chúng tôi tiến hành chống càn. Địch tổ chức ngụy binh, lập chính quyền bù nhìn, chúng tôi kiên quyết giữ vững chính quyền nhân dân, tiễu trừ bọn tề ngụy hợp tác với địch và bọn Việt gian phản động... Một cách kiên nhẫn và dần dần từng bước, chúng tôi lập được các căn cứ du kích lớn, nhỏ. Ngoài vùng tự do, các “vùng đỏ” không ngừng được mở rộng và tăng lên gấp bội xuất hiện ngay trong lòng các vùng địch tạm chiếm. Đất đai của Tổ quốc được giải phóng từng tấc đất ngay ở hậu phương địch. Trong cuộc chiến tranh này không có phòng tuyến cố định. Ở đâu có địch là ở đó là tiền tuyến. Chỗ nào cũng có thể là tiền tuyến, mà cũng có thể là hậu phương.”
Cuộc tấn công thu đông 1947 của Pháp là đòn mạnh nhưng đánh vào chỗ trống và những người chiến thắng bây giờ còn chịu được gánh nặng hậu cần, được lập ra ở khắp nơi ngay cả trong vùng có địch hay hiểm trở. Từ tháng 10 năm 1947, quân Pháp đã rút khỏi Tuyên Quang và ngay sau khi cuộc tiến công kết thúc, Ban chấp hành Trung ương nhận định cuộc kháng chiến Việt Nam đã qua giai đoạn phòng ngự thuần túy để bước vào giai đoạn thứ hai. Đường số 4 từ Cao Bằng đi Lạng Sơn luồn qua những đường hẻm phủ kín cây cối xanh tươi, đã trở thành “con đường đẫm máu”. Đầu tháng 4 năm 1948, một trận phục kích trên đường số 4 đã tiêu diệt một đoàn xe khoảng 50 xe vận tải. Theo nhịp “hai mặt” của cuộc chiến tranh này, cứ ban ngày thuộc về kẻ chiếm đóng, còn ban đêm lực lượng kháng chiến kiểm soát toàn bộ lãnh thổ cho đến vùng phụ cận các đồn bốt. Các cơ sở kháng chiến được gây dựng vững chắc từ khắp các cánh đồng trống trải vùng đồng bằng đến các vùng rừng rậm rạp địa hình hiểm trở, vào cả các thành phố dày đặc đồn bốt binh lính, cảnh sát địch, nhất là ở Sài Gòn. Tại đây có khá nhiều tiệm ăn của Pháp được che chở bằng những tấm biển chống lựu đạn. Những hiệp định ký kết giữa Vincent Auriol và Bảo Đại đã ban cho Bảo Đại ít nhất trên giấy tờ, điều mà trước đây người ta khăng khăng cự tuyệt với Hồ Chí Minh: độc lập và thống nhất tại Việt Nam. Nhưng ai mà lầm được? Nước Pháp vẫn có toàn quyền điều khiển ngoại giao và các lực lượng vũ trang của quốc gia “phao câu” này.
https://thuviensach.vn
Ba phần tư vùng châu thổ đang tuột khỏi sự kiểm soát của Pháp mặc dù các thành phố lớn đều do Pháp chiếm đóng. Tại miền Trung, trên 600 kilômét, quân viễn chinh không chiếm được thành phố nào và ở những nơi khác ảnh hưởng của Pháp không vượt qua vùng kế cận trực tiếp của các doanh trại.
Ở miền Nam, Pháp có cơ sở bám rễ từ lâu và mạnh mẽ hơn những nơi khác. Song đâu đâu cũng có không khí bất an thường trực và Pháp không thể đi sâu vào vùng Đồng Tháp Mười rộng lớn trải dài đến mũi Cà Mau mà không đi kèm với một số quân được tập trung đông đảo. Việt Minh có mặt khắp nơi trên các cánh đồng, đến tận ngoại ô Sài Gòn.
Tuy nhiên, vùng không hoàn lan rộng hơn ở miền Bắc. Tháng 2 năm 1949, chung quanh Phố Lu gần Lào Cai, 12 đồn bốt bị tiêu diệt. Tháng 4, lần đầu tiên Việt Minh điều động hai trung đoàn để đánh trả cuộc hành binh Pomone ở vùng Phú Thọ - Tuyên Quang. Tháng 5, Việt Minh còn ghi điểm bằng cách lần đầu tiên hạ đồn Phố Ràng gần Yên Bái do một đại đội chiếm giữ: 25 đồn bốt khác ở các vùng quanh đó đã bị Việt Minh đánh chiếm hoặc bức rút.
Vào thời điểm này, Hồng quân Trung Hoa đã tiến sát cửa ngõ Thượng Hải và Hàng Châu. Sự cô lập của Chính phủ Hồ Chí Minh chẳng bao lâu nữa sẽ chấm dứt. Chuyện gì sẽ xảy ra khi quân đội của Mao đã đến sát biên giới Đông Dương? Tướng Revers đã đi thị sát chiến trường, chủ trương rút tất cả các đồn binh ở phía bắc, tập trung về giữ Lạng Sơn và thu hẹp sự chiếm đóng vùng đồng bằng sông Hồng để rút ngắn phòng tuyến bên trong. Ngay trong các thành phố, tình hình cũng không sáng sủa hơn. Tại Hà Nội, cuộc sống vừa mới ổn định trở lại, du kích biệt động đã làm nổ tung máy bay đậu trên sân bay Bạch Mai (ngày 18 tháng 1 năm 1950), rồi ngày 1 tháng 3 đến lượt sân ga, trạm biến thế và một kho đạn lớn ở Thụy Khuê.
Trong năm học 1949 - 1950, các cuộc bãi khóa liên tiếp xảy ra tại các trường công, tư tại Sài Gòn, nơi đây hàng trăm, hàng nghìn người dự đám tang một học sinh[2] bị cảnh sát giết chết hồi tháng Giêng, trong một cuộc
https://thuviensach.vn
biểu tình chống chính phủ Bảo Đại. Tiếp đó, ngày 19 tháng 3 một cuộc biểu tình khác của thanh niên phản đối chuyến thăm của tướng Mỹ Radford tại Sài Gòn đã biến thành một cuộc khởi nghĩa. Nhiều xe buýt, xe con của người Pháp bị đốt cháy giữa trung tâm thành phố.
[2] Đó là đám tang học sinh Trần Văn Ơn (BT).
Khối chủ lực của Việt Minh cũng tăng nhanh ở miền Bắc từ năm 1947. Đại đoàn đầu tiên, đại đoàn 308 được thành lập ngày 28 tháng 8 năm 1949 tại đồn Đu gần Thái Nguyên và chín tháng sau đến lượt đại đoàn chủ lực thứ hai, đại đoàn 304 ra đời tại khu IV gần Thanh Hóa. Từ tháng 5 năm 1950, một thông tư của Ban chấp hành Trung ương đã ra lệnh sửa chữa gấp lại trục đường bộ quan trọng từ biên giới đến Việt Bắc. Trong lúc địch ra sức phá hoại hệ thống đường giao thông ở đồng bằng, đồng bào miền núi ra sức khôi phục mạng lưới đường bộ chỉ mất một ngày đã tới được Điện Biên Phủ. Ngày 27 tháng 7 năm 1950, Ban chỉ huy chiến dịch biên giới được thành lập do tướng Giáp đứng đầu và sẽ đưa vào trận đại đoàn 308, ba trung đoàn và ba tiểu đoàn cùng sự yểm trợ của các đại đội bộ đội địa phương và du kích.
Ngày 16 tháng 9 năm 1950, Việt Minh đánh chiếm Đông Khê. Con đường số 4 dọc hỏa tuyến bị cắt đứt hẳn.
Với một đơn vị hùng mạnh gồm lính Tabor, lính dù và lính lê dương, đại tá Lepage xuất phát từ Thất Khê để giải vây cho cánh quân Cao Bằng đang bị cô lập hoàn toàn. Ngày 1 tháng 10, trên các ngọn đồi Khau Luông và Nà Pá, cánh quân Lepage bị tiêu diệt. Các cuộc giao tranh ác liệt trong các cánh rừng và đồi núi dốc đứng diễn ra suốt ba ngày, song cánh quân của Charton đã rời Cao Bằng tiến rất chậm. Bộ chỉ huy Pháp mở cuộc hành binh lên Thái Nguyên để đỡ đòn và thu hút lực lượng Việt Minh. Những người tiến công bám sát cánh quân Lepage đang rút chạy về Cốc Xá ngày 30 tháng 10. Ngày hôm sau, Lepage tiến lên phía bắc để đón Charton đã lấp ló trên các mỏm núi Quý Châu. “Đánh quân Lepage”, đó là mệnh lệnh của
https://thuviensach.vn
Bộ chỉ huy chiến dịch. Lính Việt Minh đã vượt qua các mỏm núi đá tai mèo rồi dùng súng tự động quét vào cánh quân Lepage đang mất phương hướng. Thế là Lepage bị bắt sống cùng với ban tham mưu. Những người lính Việt Minh thừa thắng tiến lên chặn quân Charton cũng đang cố bắt liên lạc với Lepage. Mệt mỏi, bụng đói, những người chiến thắng lại lên đường. Họ đi suốt hai ngày ròng. Bữa ăn cuối cùng của họ vào ngày hôm trước chỉ có ngô rang. Họ đã đụng quân Charton ở Quý Châu và đánh tan tác quân Charton ở đây. Đại tá Constant chỉ huy thành Lạng Sơn cho tiểu đoàn dù tiến lên Na Sầm để cứu nguy nhưng dọc đường bọn này nghe tin hai cánh quân Lepage và Charton đã bị tiêu diệt nên hoảng hốt chưa gặp Việt Minh đã tan rã, chạy tản mát vào rừng thoát thân. Ngày 18 đến lượt Constant vội vàng bỏ Lạng Sơn. Các vị trí Hòa Bình trên sông Lô, Lào Cai ở biên giới rút chạy ngày 4 tháng 11. Quân viễn chinh Pháp rút về tập trung ở đồng bằng. 9 tiểu đoàn Pháp bị tiêu diệt, 2 đại tá bị bắt sống, 11 khẩu pháo, 3.000 khẩu súng các loại và 500 tấn đạn dược đã lọt vào tay Việt Minh. Căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc đã được mở rộng thành vùng hoàn chỉnh dài 750 kilômét biên giới.
Từ ngày 21 tháng 1 năm 1950, Hội nghị toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam đã ấn định kế hoạch chuyển sang giai đoạn tổng phản công và chủ trương xây dựng “đội quân ngầm” trong các thành phố. Tương lai sẽ ra sao? Sau thảm họa Cao Bằng, Paris cử tướng De Lattre de Tassigny sang Đông Dương thống nhất chỉ đạo về quân sự và dân sự trong tay một người. Kỷ nguyên dao động đã qua rồi. Bây giờ là lúc quân phải có tướng chỉ huy. Ông ta tuyên bố ngay sau khi đến Đông Dương nhậm chức. Những đồn canh rải dọc đường như những cây măng tây để làm gì? Bây giờ đã đến lúc ẩn mình sâu dưới đất. Thế là chung quanh đồng bằng sông Hồng, quân đội đào xới, xây móng, đắp nền cho cả một hệ thống boong-ke nửa chìm nửa nổi, có thể chịu được đạn pháo 105 ly, tạo thành “phòng tuyến De Lattre” nhằm cắt vựa lúa vùng châu thổ ra khỏi vùng núi nhằm khiến tướng Giáp không tìm đâu ra đủ lương thực để nuôi khối chủ lực đang phát triển nhanh
https://thuviensach.vn
chóng. Năm trăm điểm tựa bằng bê tông, là là mặt đất, dùng hỏa lực quét sạch mọi sự qua lại.
Tháng 1 năm 1951, tướng Giáp tiến công Vĩnh Yên mà không phải chọc thủng phòng tuyến De Lattre. Hai tháng sau ông đưa quân đến Mạo Khê cách Vĩnh Yên hơn một trăm cây số về phía đông, rồi sau khi đi vòng quanh châu thổ dài 400 kilômét ông tiến công Ninh Bình vào tháng 6. Không có kết quả lắm. Từ tháng 3, nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng tái xuất hiện công khai với cái tên Đảng Lao động Việt Nam nhấn mạnh một lần nữa cuộc kháng chiến là “lâu dài” và đặc điểm giai đoạn hiện nay là “chuẩn bị” tổng phản công. Tại Paris, người ta đã nói đến “sự phục hưng kỳ diệu”. Tướng De Lattre trở thành con người đã thay đổi số phận, là cứu tinh của Đông Dương. Chắc hẳn mặt trận đã trụ vững. Nhưng người ta cố quên đi rằng bằng cách mở liên tục ba chiến dịch quy mô lớn, tướng Giáp chứng tỏ đã có bước nhảy vọt kỳ diệu.
Trong khi De Lattre cố phân tán để bảo vệ vô số các đồn bốt nhỏ là những miếng mồi không quá khó đối với Việt Minh, ông đã loại bỏ những vị trí phụ thuộc không thể giữ được và tập trung lực lượng đã cho thành các GM (Groupments mobiles: “binh đoàn cơ động”). Làm như thế, De Lattre vẫn không thoát khỏi thế tiến thoái lưỡng nan đã được tướng Giáp vạch ra từ lâu: “Việc theo đuổi chiến tranh xâm lược đối với quân đội viễn chinh Pháp là một quá trình liên tục phân tán lực lượng. Lúc đầu là phiên chế theo đội hình sư đoàn, quân đội Pháp đã bị xé nhỏ thành trung đoàn rồi đại đội và cuối cùng là trung đội đóng quân trong hàng nghìn điểm tựa và các đồn bốt phân tán ra tứ phía của chiến trường. Như thế họ đứng trước một mâu thuẫn không thể giải quyết được: không phân tán, xé nhỏ quân đội thì không đủ lực lượng chiếm đóng các vùng đã xâm chiếm nhưng phân tán rồi họ lại gặp khó khăn mới. Những đơn vị bị xé nhỏ là miếng mồi ngon cho quân đội chúng ta. Lực lượng cơ động của họ ngày càng thu nhỏ và tình trạng thiếu hụt quân số càng thêm trầm trọng. Nếu họ tập trung lực lượng bao nhiêu để đủ sức đối đầu với hoạt động của ta và giành lại thế chủ động thì
https://thuviensach.vn
lực lượng chiếm đóng lại giảm đi bấy nhiêu và đối với họ thật khó, thậm khí không thể giữ được các vùng đã chiếm”.
Vì Paris không thể cung cấp thêm quân tăng viện nên De Lattre ra sức bào chữa, bênh vực cho quân đội Bảo Đại. Tháng 7 năm 1951, Bảo Đại ký sắc dụ tổng động viên và một lớp thanh niên đã được kêu gọi nhập ngũ. Nhưng đội quân này được tuyển mộ một cách cưỡng bức, bộ khung của quân đội đó xuất thân từ các con em tư sản không có liên hệ gì với quân đội, quan tâm đến lương bổng và buôn bán hơn là các cuộc hành binh. Quân đội đó không bao giờ giữ được địa bàn khi bị tấn công.
Tháng 9 năm 1951, De Lattre đi Washington để “bán cuộc chiến tranh cho người Mỹ”. Lầu Năm Góc còn đang theo đuổi cuộc chiến tranh Triều Tiên chống chủ nghĩa cộng sản châu Á nên cam kết sẽ cung cấp với số lượng kha khá về vật chất để trang bị cho các sư đoàn của Bảo Đại. Bằng cách ủng hộ về tài chính, vật chất và một đội ngũ “cố vấn”, Hoa Kỳ thực tế ủng hộ quyền kiểm soát cuộc chiến tranh Đông Dương. Washington cung cấp đôla, còn Paris cung cấp “máu”. Sau này Giáp viết: “Nếu năm 1950 và 1951 viện trợ Mỹ mới chỉ cung cấp 15% chi phí cho cuộc chiến tranh này, thì đến năm 1952 tỷ lệ đó là 35%, năm 1953 là 45%, đến năm 1954 đã tăng vọt lên 80%”.
Hành động của De Lattre thoạt nhìn có vẻ như thành công. Mùa thu năm 1951, quân đội viễn chinh chuyển sang thế tiến công, đưa quân nhảy dù đánh chiếm Chợ Bến rồi Hòa Bình trong thung lũng sông Đà, cách Hà Nội 75 kilômét, phía sau những dãy núi đá vôi đánh dấu bậc thềm của miền trung du. Cuộc hành quân trước hết là một hành động nghi binh nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của các sư đoàn chủ lực của tướng Giáp ra khỏi vùng châu thổ luôn luôn bị uy hiếp. De Lattre sẽ phải nhanh chóng xuống nước.
Tháng 11 năm 1951, trên sân bay Cát Bi tại Hải Phòng, De Lattre mặc bộ đồ dân sự nắm chặt tay các sĩ quan cao cấp chỉ huy quân đội Pháp tại Bắc Bộ ra tiễn ông. Ông đeo trên tay tấm băng tang và trên nét mặt hằn dấu ấn
https://thuviensach.vn
của nỗi đau mất con cũng như bệnh tật đang làm hao mòn cơ thể và tâm hồn ông. Trong thâm tâm, ông ý thức được sự thất bại của mọi cố gắng vô ích cũng như toàn bộ uy tín của mình. Lần này ông vĩnh viễn ra đi khỏi xứ Bắc Kỳ - nơi con trai ông vừa ngã xuống. Trong lòng ông đau khổ thấy mình không thể giành lại thế chủ động. “Không chịu”, đó là phương châm hành động của ông. Vừa tái chiếm Hòa Bình nhưng ông biết rõ những khó khăn của lực lượng chiếm đóng chẳng bao lâu nữa sẽ phải rút bỏ để tránh một tai họa mới và tình hình Bắc Kỳ còn xấu hơn nữa so với thời kỳ đầu khi ông mới đặt chân đến. Sức ép của tướng Giáp trên mặt trận Hòa Bình lớn đến mức lực lượng chiếm đóng phải rút vội, sau khi phá hủy khí tài không thể đem theo qua những con đường hẻm của dãy núi đá vôi trên đường 6. Chỉ có yếu tố bất ngờ của cuộc rút quân vội vã dưới quyền chỉ huy của tướng Salan mới tránh được điều tệ hại nhất cho quân đội Pháp. Cũng trong thời gian này, khá nhiều đồn bốt mới xây dựng mùa hè năm ngoái đã thất thủ trước những đòn tấn công của Việt Minh. Bởi lẽ chính đồng bằng mới là thực chất của vấn đề.
Người ta nói và nhắc đi nhắc lại rằng đồng bằng ruỗng nát. Mỗi buổi sáng phải giải tỏa 100 kilômét đường bộ và đường sắt Hà Nội - Hải Phòng mà hết thảy mọi việc đều phải phụ thuộc vào trục giao thông huyết mạch này. Quân đội đi trước mở đường với những cỗ xe được trang bị máy dò mìn đi từ đồn này đến bốt khác, sửa chữa những đoạn bị du kích phá hoại đêm trước và khi thông đường xe lửa phải đi gấp về Hà Nội trước khi màn đêm buông xuống.
Trong tam giác châu thổ nơi mật độ dân số tới 1.000 dân trên một kilômét vuông thì thực sự đây là một “rừng người”, che chở cho lực lượng kháng chiến. Quân đội viễn chinh thấy mình dính líu vào một công việc “dã tràng xe cát”. Các boong-ke và các “vùng trắng” bao quanh chúng, những cuộc càn quét chỉ đạt nhiều nhất là khai thông những dòng chảy của phong trào chung trong nhiều xiphông, như nguyên tắc bình thông nhau. Khi một tiểu khu bị càn quét, lực lượng địa phương, dân quân du kích lại mở một cuộc
https://thuviensach.vn
kháng cự mới rất quyết liệt, từ làng này sang làng khác. Ban ngày họ ẩn sau các lũy tre, đêm đến họ thực hiện chiến thuật quen thuộc của tướng Giáp. Dùng các đơn vị nhỏ ở khu vực bên cạnh ngoài khu vực đang càn quét hoạt động độc lập để phá vây sau đó lại tập hợp. Còn du kích thì chui xuống hầm bí mật ở lại tại chỗ hoặc phân tán trà trộn với dân. Như vậy, mỗi trận càn chỉ tạm thời phá vỡ các đơn vị chính quy của tướng Văn Tiến Dũng đang hoạt động ở tiểu khu bên cạnh mà thôi.
Thiếu quân số, quân viễn chinh cũng áp dụng nguyên tắc bình thông nhau nhưng theo chiều ngược lại. Mỗi mũi tiến công chỉ là tát cạn hậu phương, tạo nên khoảng trống để sau đó du kích hay quân chủ lực khai thác có lợi cho họ mà thôi. Các làng ở đồng bằng dần dần trở thành làng chiến đấu sau lũy tre mà người ta cố san phẳng thành bình địa. Cách Hà Nội 15 kilômét về phía bắc, xã Nam Hồng với 4.000 dân là nơi tưởng như có thể kiểm soát dễ dàng: tuyến đường sắt Hải Phòng - Lào Cai đi qua xã trên 5 kilômét. Thực tế, người Pháp chưa bao giờ kiểm soát được làng này. Năm 1950, nhiều cuộc càn quét diễn ra tại đây khiến tình hình trở nên gay go. Một cuộc họp ban đêm được triệu tập ngay cạnh bốt gác của địch đã xác định một chiến thuật mới: một mặt đào hầm bí mật để tiếp tục cuộc đấu tranh vũ trang trong khi trên mặt đất dân vẫn sống hợp pháp chống lại chế độ quân dịch của Bảo Đại. Trong hai năm 1953 - 1954, bất chấp khoảng 50 trận càn đốt cháy khoảng 850 ngôi nhà, cả xã vẫn là khu du kích nổi tiếng có 3.500 mét địa đạo và 3.200 mét hào kết nối các điểm trọng yếu. Nam Hồng không phải là trường hợp cá biệt. Những kiểu làng kháng chiến có địa đạo như hang chuột chũi như thế, thường thấy trong vùng châu thổ miền Bắc, sẽ được tái hiện ở gần Sài Gòn về hướng Hóc Môn và Củ Chi.
Cơ quan phụ trách bình định đánh giá trong mùa hè năm 1953 ở vùng châu thổ sông Hồng chỉ 63% số xã bình định được ban ngày và 36% xã bình định được về đêm. Đó là những con số rất lạc quan dưới con mắt của chuyên gia Bernard Fall. Ông tính rằng trong số 5.780 làng bên trong phòng tuyến De Lattre, Việt Minh kiểm soát được 2.140 làng, còn lại 1.840
https://thuviensach.vn
làng khác tuy được tuần tra luôn nhưng vẫn tuột khỏi sự kiểm soát của Pháp, Pháp chỉ kiểm soát được 1.800 làng, tức 31,2%.
Một cực khác của cuộc chiến tranh này là vùng rừng núi, nơi sinh sống của các dân tộc thiểu số, từng là một trong những bộ phận then chốt của bộ máy chính trị - quân sự thuộc địa từ thời Gallieni. Có kinh nghiệm hoạt động ở Việt Bắc trong những năm 1940 - 1945, nên Giáp đã tiến hành các biện pháp tại các vùng này, làm thay đổi hẳn cục diện chiến trường.
Từ tháng 3 năm 1948, tướng Giáp đã mở một chiến dịch nhỏ ở Nghĩa Lộ tại Tây Bắc (Nghĩa Lộ sau này trở thành một trong những mối quan tâm thường xuyên của ông). Bắt đầu từ lúc cả phần còn lại của miền Bắc được giải phóng trừ vùng châu thổ thì khu vực Thái - Mèo trở thành mục tiêu chủ yếu của ông. Tháng 10 năm 1951, chiến dịch Lý Thường Kiệt đã buộc Pháp rút bỏ 7 đồn về tập trung quân ở Nghĩa Lộ nhưng đồn chính tại đây lại không nhổ được và chỉ một năm sau vị trí Nghĩa Lộ mới bị tiêu diệt trong một chiến dịch lớn hơn. Toàn bộ thế trận bố trí tại đây bị sụp đổ. Tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 của thiếu tá Bigeard phải hy sinh vào phút chót để làm nghi binh thu hút lực lượng tiến công, cuối cùng mất hai phần ba quân số trong một cuộc xuất quân liều lĩnh. Từ đó ở Tây Bắc, Pháp chỉ còn đóng quân ở hai nơi: Lai Châu và Nà Sản. Riêng Nà Sản nhanh chóng trở thành tập đoàn cứ điểm có hệ thống phòng thủ kiên cố chỉ sống được nhờ cầu hàng không. Cách bố trí kiểu mới khiến Giáp bị bất ngờ và chưa có cách tiêu diệt vị trí này. Lực lượng của Giáp không đủ trang bị nên đã thiệt hại nặng nề. Về phía Pháp, mẫu cứ điểm phòng thủ sẽ trở thành loại thuốc bách bệnh dẫn thẳng đến Điện Biên Phủ.
Tháng 4 năm 1953, Giáp mở rộng cuộc tiến công về phía nam đánh chiếm thị xã Sầm Nưa ở Thượng Lào và chọc thủng phòng tuyến Luang Prabang, lực lượng Khmers Issaraks mau chóng trưởng thành.
Tại Việt Bắc, từ khi có chỉ thị của Đảng hồi tháng 5 năm 1950 về sửa chữa đường sá, người ta đã khôi phục hệ thống giao thông bị phá hoại nghiêm
https://thuviensach.vn