🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Việt Nam thời Tây Sơn – Lịch sử nội chiến 1771 – 1802
Ebooks
Nhóm Zalo
Tạ Chí Đại Trường
Tên sách: Việt Nam thời Tây Sơn-Lịch sử nội chiến 1771-1802 Tác giả: Tạ Chí Đại Trường
Nhà xuất bản: Công an Nhân dân
Kích thước: 14,5x20,5 cm
Năm xuất bản: 2007
Nguồn: Quân sử Việt Nam Số hoá: ptlinh, chuongxedap
Làm Ebook: Cotyba
Ngày hoàn thành: 19-07-2008
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
MỤC LỤC:
LỜI GIỚI THIỆU
MỞ ĐẦU
PHẦN THỨ NHẤT - TAN RÃ Ở NAM HÀ (1771 - 1785)
Chương 1. CÁC LỰC LƯỢNG TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC ĐẾN KHOẢNG 1775
Tiết 1 BIẾN CHUYỂN TỚI 1775: TÂY SƠN KHỞI NGHĨA Tiết 2 LỰC LƯỢNG NGOẠI QUỐC
Chương 2 - GIA ĐỊNH, ĐẤT TRANH CHIẾM QUYẾT LIỆT Tiết 3 ĐẤT GIA ĐỊNH VÀ CHÚA TÔI NHÀ NGUYỄN
Tiết 4 NGUYỄN PHÚC ÁNH VÀ QUYỀN UY Ở GIA ĐỊNH Tiết 5 KỸ THUẬT TÂY PHƯƠNG RỤT RÈ BƯỚC VÀO CHIẾN TRANH NAM HÀ
Tiết 6 CHIẾN THẮNG TÂY SƠN TRƯỚC VIỆN BINH XIÊM LA
PHẦN THỨ HAI - SỰ TAN RÃ Ở BẮC HÀ VÀ PHẢN ỨNG DỘI NGƯỢC KHI TÂY SƠN BÀNH TRƯỚNG (1786 – 1789)
Chương 3 CHIẾN TRANH BẮC HÀ 1
Tiết 7 CHIẾN TRANH TIÊU DIỆT HỌ TRỊNH
Tiết 8 NỒI DA XÁO THỊT
Tiết 9 ĐỐNG ĐA: TỘT ĐỈNH CỦA TÂY SƠN
Chương 4 - HỌ NGUYỄN TRUNG HƯNG
Tiết 10 NGUYỄN PHÚC ÁNH CẦU VIỆN TÂY PHƯƠNG Tiết 11 NGUYỄN ÁNH VÀ TÂY SƠN CỦA GIA ĐỊNH
Tiết 12 TIẾP VIỆN CỦA BÁ-ĐA-LỘC
PHẦN THỨ BA - GIAI ĐOẠN THANH TOÁN NGUYỄN - TÂY SƠN (1789-1802)
Chương 5. SỰ CỦNG CỐ ĐÔI BÊN Ở THẾ GIẰNG CO Tiết 13 NHỮNG LỰC LƯỢNG CHIẾN ĐẤU
Tiết 14 DÂN ĐẠI VIỆT Ở CUỐI THẾ KỶ XVIII
Tiết 15 CHIẾN TRANH VỚI NGUYỄN NHẠC
Chương 6 - GIA ĐỊNH VÀ PHÚ XUÂN ĐỐI ĐẦU
Tiết 16 CÁI CHẾT CỦA NGUYỄN HUỆ
Tiết 17 DAO ĐỘNG Ý THỨC HỆ Ở GIA ĐỊNH
Tiết 18 ĐÁNH VÀ GIỮ Ở QUY NHƠN
Tiết 19 CHIẾN TRANH Ở PHÚ XUÂN VÀ BẮC HÀ
Chương kết
Tiết 20 TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ CHẤM DỨT PHÂN TRANH
PHỤ LỤC
NHỮNG BỨC THƯ NÔM CỦA NGUYỄN ÁNH.
SÁCH BÁO THAM KHẢO
NHẬT KÍ HÀNH QUÂN TRONG CHIẾN TRẬN NGUYỄN - TÂY SƠN
LỜI GIỚI THIỆU
Khởi nghĩa Tây Sơn là một đề tài luôn luôn hấp dẫn giới nghiên cứu Việt Nam. Đây không phải chỉ là một cuộc khởi nghĩa đã đánh đổ được hai dòng họ phong kiến trị vì trong nhiều thế kỷ ở Đàng Trong và Đàng Ngoài, mà còn hoàn thành sự nghiệp chống ngoại xâm đánh lui hai kẻ thù hùng mạnh ở miền nam và miền bắc. Vì vậy trong những năm đầu Chiến tranh thế giới thứ hai, khi tinh thần dân tộc được nâng cao do tác động của các phong trào đấu tranh giải phóng, thì cuộc khởi nghĩa lại trở thành trọng tâm chú ý của nhiều nhà sử học. Tiếp đến trong những năm sau chiến tranh chống Pháp, trong xu hướng đề cao vai trò động lực lịch sử của nông dân, cuộc nổi dậy của những người anh hùng áo vải lại tăng thêm sức hấp dẫn các nhà sử học Mác xít ở miền Bắc, muốn chứng minh cho một định đề có sẵn. Thậm chí có tác giả còn đi đến nhận định đây là một cuộc cách mạng nông dân, hoặc đi xa hơn, cho đây là cái mốc đánh dấu sự hình thành của dân tộc Việt Nam. Cho đến nay, trong thư mục của Thư viện Quốc gia Hà Nội, đã có không dưới 60 cuốn sách của các tác giả Việt Nam nghiên cứu về phong trào này, đấy là chưa kể hàng trăm hàng ngàn bài báo và tạp chí cứ mỗi năm đến ngày Tết nguyên đán lại nhắc đến chiến thắng Đống Đa lịch sử và đưa ra những đánh giá mới về cuộc khởi nghĩa.
Nhưng rồi những suy nghĩ cảm tính dần dần cũng lắng đọng để đi đến những phân tích lý trí. Các nhà nghiên cứu quan tâm hơn đến những tài liệu bổ trợ ngoài lịch sử chính thống, đặc biệt là những tài liệu dân gian và những văn bản của thời đó còn sót lại, mong dựng lại một bức tranh chính xác về bản chất cuộc khởi nghĩa. Phải thừa nhận rằng trong mấy thập niên qua, chúngg ta đã sưu tập được khá nhiều tài liệu mới về Tây Sơn, từ những văn bia bị bỏ quên, những gia phả trong các dòng họ, đến những văn thư trao đổi ở các đồn biên cảnh còn lưu giữ được, và nhất là những câu chuyện kể dân gian rất phong phú. Nhưng lúc này chúng ta đang đứng trước một thách thức, đó là tài liệu về thời Tây Sơn còn lại không đầy đủ, nhiều lỗ hổng chưa được chứng minh. Chẳng hạn riêng chuyện các viên tướng Tây Sơn chỉ huy các mũi tấn công Thăng Long năm 1789, cũng đã làm tốn bao giấy mực tranh luận mà vẫn chưa làm người đọc thỏa mãn.
Chính vì vậy mà việc tái bản cuốn Việt Nam thời Tây Sơn của Tạ Chí Đại Trường là một đóng góp mới đối với việc nghiên cứu lịch sử cuộc khởi nghĩa. Có lẽ đây là một trong những công trình sớm nhất đã cố gắng thu thập tối đa những tư liệu viết về Tây Sơn của đủ các loại người, từ các sử gia chính thống, đến những người trong cuộc đương thời, và quan trọng hơn là lời chứng của các giáo sĩ, thương nhân và bọn phiêu lưu nước ngoài đã có mặt ở Đại Việt trong những thời kỳ đó (sách xuất bản lần đầu năm 1970
tại Sài Gòn). Tác giả đã làm công việc khảo cứu một cách có hệ thống, đi từ việc giám định các tư liệu được sử dụng, xác định tính chân xác của các tư liệu đó, từ tài liệu chữ Hán Nôm, đến các ghi chép và bút ký của người nước ngoài. Những địa danh bằng chữ Hán Nôm được xác định lại như Bân Thiết là Mang Thít, Xuy Miệt là Xoài Mút, Thán Lung là Thang Trông. Những tên người tên đất được người nước ngoài ghi lại bằng, những cái tên kỳ quặc như Ou doi be, Hoe Hanh Loie, Choya, cua Heo đã được tác giả đối chiếu, tìm quy luật chuyển âm để dựng lại chính xác hoặc đưa ra giả định mới. Qua tham khảo một khối lượng tài liệu phong phú mà tác giả đã dựng lại được cả một giai đoạn lịch sử kể từ khi nổ ra cuộc khởi nghĩa ở Tây Sơn cho đến khi nhà Nguyễn thống nhất đất mrớc, kết thúc cuộc chiến tranh hơn 30 năm. Mỗi một sự kiện đều có sự so sánh giữa tài liệu ghi lại của các đại thần nhà Lê, đến các sử quan nhà Nguyễn, và tham chiếu những ghi chép của các nhân chứng ngoại quốc và tư liệu Trung Hoa. Tác giả không bỏ qua những tư liệu văn học và truyền thuyết dân gian để hiểu rõ thêm tình cảm của nhân dân đối với từng nhân vật và từng sự kiện lịch sử.
Nếu trong lần xuất bản đầu tiên tác giả lấy tên công trình là Lịch sử nội chiến ở Việt Nam, thì trong khi trình bày, tác giả không dừng lại ở những xung đột giữa các tập đoàn quân sự Bắc Hà, Nam Hà và quân khởi nghĩa, mà còn đề cập đền nhiều hoạt động khác của xã hội mà nổi lên trên hết là hai cuộc chiến chống ngoại xâm vang dội ở Rạch Gầm-Xoài Mút và ở Đống Đa. Vì vậy trong lần tái bản này, được sự đồng ý của tác giả, chúng tôi đã đổi lại tên sách là Việt Nam thời Tây Sơn, mang tính bao quát hơn. Như tác giả đã nhận định trong lời kết là “Tất cả đã tạo nên một hoàn cảnh sôi sục trong phát triển ở Nam Hà. Địa phương và trung ương trông chừng nhau ở cả hai bên sông Gianh, nhưng sức mạnh địa phương miền Bắc đã yếu thế nhiều vì quá khứ 10 thế kỷ kết tập chung sống. Cho nên biến cố có tên là Tây Sơn lại nổ bùng ra ở Nam Hà và đủ sức mạnh để đảo lộn tất cả: chiến tranh 32 năm chỉ là cái gút để tóm thâu kết quả của mấy trăm năm gầm gừ phân tranh, mấy trăm năm biến đổi dần dà trong xã hội Đại Việt ( ... ). Cho nên phải nói rằng những thừa hưởng của quá khứ, của trận chiến kết thúc phân tranh, đậm hay lạt, nhiều hay ít rồi sẽ hợp với những điều kiện mới nảy sinh để bắt đầu lịch sử Việt Nam. Đất nước sẽ càng ngày càng phức tạp hơn để theo những biến động thế giới mà bước vào thời cận đại với Gia Long”.
Việt Nam thời Tây Sơn là mộl giai đoạn bản lề trong lịch sử đất nước ta. Đó là sự bùng nổ của những xung đột ngấm ngầm bên trong một xã hội đang trên đà phát triển, để san bằng tất cả mọi trở ngại trên con đường thống nhất dân tộc, phát triển quốc gia. Mong rằng việc tái bản cuốn sách này sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn đọc, muốn hiểu sâu thêm về một giai đoạn đầy biến động của dân tộc, có được cái nhìn đầy đủ hơn về những nhân vật anh hùng cũng như những kẻ phiêu lưu của một thời kỳ lịch sử.
ĐÀO HÙNG
Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam
MỞ ĐẦU
Hậu bán thế kỷ XVIII là một trong những giai đoạn rối ren nhứt và cũng là một trong những giai đoạn hiếm hoi mà người Việt sau khi chịu được cơn chuyển mình, thấy đất nước lớn mạnh hơn, dồi dào sinh lực hơn ngày trước. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, biến cố tàn Lê, mạt Trịnh, sự phục hồi của họ Nguyễn, tất cả đầy sinh động, hấp dẫn, khiến cho người đương thời vội vã ghi chép, người sau kiên nhẫn lục lọi làm nên những tổng hợp chuyên biệt, khoa học mà chúng ta chú ý ở đây. Hãy kể lấy một vài trường hợp. Thời đại lịch sừ kể trên tràn một phần khá lớn trong quyển Histoire moderne du pays d’ Annam (1529 - 1820) của Ch. Maybon[1]là “quyển sách có giá trị đặc biệt”, “một công trình có giá trị trong học giới” như Phạm Quỳnh đã tán tụng [2].
Không khí phục cổ do báo Tri Tân (1940-1945) đưa tới phía người Việt, dưới sự thúc đẩy của ảnh hưởng Trường Viễn đông Bác cổ qua các ông Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố, Biệt Lam Trần Huy Bá, Mãn Khánh Dương Kỵ... hợp với không khí nghiêm trọng của Thế chiến thứ hai nuôi dưỡng ý hướng khảo sát, khiến thấy xuất hiện giữa những tác phẩm lịch sử khác, quyển Quang Trung Nguyễn Huệ, anh hùng dân tộc của Hoa Bằng[3]. Cũng được sửa soạn thành hình trong thời kỳ đó, nhưng xuất hiện muộn màng trong thời chiến tranh (1945-1954) để nhân dịp biện hộ cho thái độ soạn giả trước thời cuộc là quyển La Sơn Phu Tử của Hoàng Xuân Hãn[4]. Hiện nay theo với sự tạo lập các chứng chỉ Sử học ở trường Đại học Huế, giáo sư Nguyễn Phương cũng khảo sát biến động Tây Sơn đăng dần trên các tạp chí Đại học, Bách khoa, Đại học Sư phạm Huế[5]. Và bắt đầu chúng tôi cũng thu nhặt tài liệu để khảo sát giai đoạn này trong tính cách toàn thể của nó dưới nhan đề là: “Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802”.
Các thư viện: Thư viện quốc gia, Tổng thư viện và đặc biệt Thư viện Khảo cổ đã cung cấp tài liệu cho chúng tôi. Các bài chỉ dẫn thư tịch của L. Cadière và P. Pelliot, E. Gaspardone, Trần Văn Giáp, Huỳnh Khắc Dụng, ở các sách tổng hợp cẩn thận theo tinh thần khoa học đã giúp chúng tôi dễ dàng trong khi tìm tòi. Nhưng ở đây chúng tôi vẫn vấp phải một điều mà người trước đã lưu ý tới: tài liệu khiếm khuyết.
Lê Quý Đôn ngày trước đã thống trách về tình trạng sách vở lưu lạc, mất mát ở nước ta[6]. Hay nói như L. Cadière và P. Pelliot[7], “không ở đâu mà cái gia tài kiến thức của một dân tộc lại tan biến nhanh như vậy”. Thực ra,
tình trạng hiếm hoi sách vở, nhất là sử ký, cũng được người xưa công nhận là tại người ta ít chuyên tâm chú ý sáng tác. Tham tụng đời Trịnh Khải là Bùi Huy Bích viết: “Nước ta về môn sử ký rất là sơ lược. Chép sử có hai lối, một là kỷ truyện, hai là biên niên. Lối kỷ truyện thời đã không có rồi, đến lối biên niên cũng lại thiếu thốn, nhiều chỗ sai lầm... Học giả có biết nghĩ đến cũng nên sửa sang lại sử, hay là làm lời bàn bạc, chứa vào kho vua để đợi hậu thế” [8].
Thế mà khí hậu và chiến tranh tàn hại lại đua nhau phá hoại những sách vở ít ỏi đã ra đời. Hai tác giả Cadière và Pelliot từ năm 1904 còn có giọng bi quan huống là chúng ta bây giờ, trải qua chiến tranh tiêu thổ 1945-1954 và 1956 - ?. Bộ Thực lục chính biên đệ nhất kỷ của Viện Khảo cổ thiếu mất từ quyển 14 tới quyển 32 là một trong những ví dụ. Có những sách không dùng được hoặc thiếu hụt hiệu quả xác thực: quyển Hoàng Lê nhất thống chí theo bản dịch của Ngô Tất Tố có những lỗi in thật là tai hại. Tài liệu hiếm hoi dẫn đến sự cách biệt người và tài liệu: có thể thư viện ở Huế còn giữ những bộ Thực lục thiếu sót trên[9]. Vì lẽ đó mà tài liệu thường phải rải rác khiến chúng ta sử dụng không đều phần sách tham khảo đã liệt kê.
Nhưng nếu bằng lòng với thực tế thì chúng ta cũng có thể sử dụng phần hiện có được. Tài liệu gồm có hai phần xét từ nguồn gốc: những giấy tờ, sử sách của người nước ta để lại hay của các nhân vật Tây phương có liên lạc với công cuộc truyền giáo, buôn bán với xứ này cung cấp.
Loại thứ nhất, phần thuộc những tài liệu xác đáng nhất, có thể là các đồng tiền Cảnh Hưng, Chiêu Thống, Quang Trung, Cảnh Thịnh, các bộ giáp, khí giới của tướng binh Chà-và của Nguyễn Ánh (trưng bày ở Hội chợ Sài Gòn, khu lịch sử 1942), bản chụp ảnh các thư Nguyễn Ánh gởi người Tây phương, chiếu truyền La Sơn Phu Tủ của Quang Trung, sắc phong thần đời Quang Trung (trưng bày ở Hội chợ Hà Nội, khu lịch sử, 1940-1941)[10]... Trong những thứ này thì chính chúng tôi cũng chỉ thấy tận mắt, trong hình trạng thực của nó, các đồng tiền, các thư và tờ sắc thuộc Nguyễn Huỳnh Đức về chuyến đi sứ năm 1797 thôi. Tài liệu này cất trong nhà thờ Đức Nhuận hầu ở làng Khánh Hậu, tỉnh Long An và cảm giác đầu tiên của chúng tôi khi nhìn thấy là xứ sở đương thời quả thực nghèo nàn, từ đó mới hiểu rõ hơn nỗi thất vọng của bọn phiêu lưu Olivier, Barizy.
Cũng thuộc loại thứ nhất nhưng tiếp theo những tài liệu kể trước trong thứ tự cổ điển về tính cách xác thực là các thi văn, lời thuật của các nhân vật lịch sử (Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Trịnh Hoài Đức...). Phần nhiều những loại này vì tính cách tiêu khiển, ngâm vịnh của chúng và một số những bản văn vì hình thức vần đối của chúng vẫn được kể là tài liệu văn
học.[11]Nhưng nếu nói như H. I. Marrou[12]“mọi thứ đều có thể là tài liệu”, thì ta vẫn dùng được chúng bởi vì, các văn thần của chúng ta ngày xưa làm thơ văn là để diễn tả mối xúc động của họ trước sự kiện xảy ra, nghĩa là tính cách nhân chứng lịch sử của họ vẫn có ngay khi họ để hồn mơ mộng. Đọc câu thơ Lê Ngọc Hân khóc Quang Trung:
“Mà nay áo vải cờ đào”
trong một tiếng kêu thất vọng dài 164 câu, triền miên nỗi niềm đau xót, ta thấy xúc động trước cảnh tử biệt sinh ly. Nhưng nếu dừng ở lãnh vực sử học, thì hai chữ “cờ đào” là một chứng cớ hoạt động của quân tướng Tây Sơn, chứng cớ thấy ở nơi khác, nơi các bức thư của L.M (linh mục) D. de Jumilla và L. Barizy.
Đương thời có một quyển lịch sử ký sự là quyển Hoàng Lê nhất thống chí. Theo giáo sư Dương Quảng Hàm, quyển “lịch sử tiểu thuyết”[13]này còn có tên An Nam nhất thống chí chia làm 7 hồi, chép công việc nhà Hậu Lê từ Trịnh Sâm đến lúc nhà Trịnh mất ngôi Chúa (1767- 1787). Một bản tục biên (hồi 7 - 17) chép tiếp từ lúc Chiêu Thống chạy sang Tàu đến khi di hài được đem về chôn ở Thanh Hoá. Giáo sư thắc mắc “không biết có phải Ngô Du đã soạn 7 hồi sau không” mà không lưu ý rằng bản tục như giáo sư dẫn có đến 10 hồi. Trong khi đó bản dịch của Ngô Tất Tố có đến 19 hồi tất cả. Xét theo hơi văn và chủ đích lộ ra, sách chắc phải do 3 tác giả viết. Ngô Thì Chí chắc viết 7 hay 8 hồi đầu với dụng ý hiểu chữ nhất thống là gồm-một về-Lê nhân dịp Tây Sơn diệt Trịnh. Các hồi sau (đến trang 277 trong bản Ngô Tất Tố) có lẽ của Ngô Du viết trong thời kỳ họ Ngô có Ngô Thì Nhậm là sủng thần của Quang Trung, giọng văn đầy tính cách thán phục viên chủ tướng này. Giọng văn từ trang 277 đổi đi gọi Quang Toản là vua “Nguỵ Tây”, quân Gia Định là “quân của Hoàng Triều” khiến Ngô Tất Tố phải chú thêm là “dịch theo nguyên văn”. Tác giả đoạn này rõ là một kẻ bề tôi Nguyễn viết ra nối bản văn trước để cưỡng ép ý nhất thống do Ngô Thì Chí đề ra, quay về phục vụ cho công cuộc xây dựng sự nghiệp của Nguyễn Ánh.
Bài thơ dài Hoài nam khúc thì thuần nhất hơn. Người ta biết tác giả là Hoàng Quang và sự việc ghi lại vào khoảng 1774-1775. Khung cảnh là xứ Huế và đóng vai trò là đám quan liêu thất cơ lỡ vận của Chúa Nguyễn. Sử sự ghi khá rõ: tính cách chuyên quyền của Trương Phúc Loan, ngày Kinh thành thất thủ, cảnh khổ nhục trong khung cảnh đói rét chung ở Thuận Hoá... Nhưng đáng chú ý hơn là thái độ biểu lộ của tác giả khiến ta hiểu được một phần khuynh hướng chung của đương thời: người mà tác giả trông cậy không phải là Duệ Tông, càng không phải là Nguyễn Phúc Ánh mà là Hoàng tôn Dương. Lúc nào cũng là Hoàng tôn.
Mười mấy năm sau, bài thơ lại có một tác dụng khác. Nó nung nấu trong
vùng Tây Sơn một khuynh hướng trông chờ ở Gia Định và thành một chất liệu kích thích tinh thần binh sĩ nơi này. Đến đây ta có một ghi nhận thích thú: giá trị minh chứng của một tài liệu không phải chỉ ở nội dung đã định rồi, lúc ban đầu, mà còn ở trong đời sống của nó, ở cách hiểu tài liệu của những người sau biểu lộ thái độ lịch sử của họ nữa.
Lịch sử trong thời đại này liên quan tới công nghiệp của ông vua khai sáng triều Nguyễn nên các sử quan chăm chú trước tập khá nhiều. Theo hai ông Cadière và Pelliot thì Quốc sử quán thiết lập năm 1821, đến năm 1841 viết xong Liệt Thánh thực lực tiền biên, Thực lục chính biên đệ nhất kỷ gồm 60 quyển và một quyển thủ. Năm 1852, Đại Nam liệt truyện tiền biên xong và in ngay, còn Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập (33 quyển) thì làm tiếp sau đó, nhưng mãi đến năm 1889 mới in.
Một quyển sách mà hai tác giả trên khen là tác phẩm quan trọng nhất về toàn thể lịch sử Việt Nam là Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Dụ sai làm ra ngày 23-1-1856. Người coi sóc là Tổng tài Phan Thanh Giản, phụ tá có một Phó Trọng tài, 6 Toản tu góp tài liệu, viết lên, 6 Khảo hiệu xét lại và 6 Đằng tả viết chữ ngay ngắn. Sách soạn trong 3 năm 1856-1859, dâng lên Tự Đức coi lại các lần 1871, 1872, 1876, 1878 và có lời phê bên trên.
Sách có lẫn phép biên niên và cương mục. Cương mục là một hình thức ghi chép lịch sử có tính cách tổng hợp cao hơn phép biên niên. Người ta tóm thâu ý chính của việc làm trong một tiêu đề (cương, bài cái) rồi thuật tự sự rõ ràng tiếp theo đó (mục, bài con)[14]. Trong các sách người ta có những lời chú chỉ rõ vị trí địa dư hiện tại, nhắc lại các việc liên quan nơi khác.
Lối biên niên đã khiến cho mọi người phàn nàn là làm cho độc giả khó thấy được mối liên lạc giữa các sự kiện có liên quan mà lại xuất hiện rải rác trong thời gian. Tuy nhiên chúng ta cũng lưu ý rằng sử quan cũng thường hay tóm lược câu chuyện sắp kể bằng một câu ngắn. Ví dụ:
“Tháng 8 ngày Đinh Dậu, lấy Gia Định: Vương từ Tam phụ về Nghi Giang, Phạm Văn Sâm bày dinh từ chợ Điều Khiển đến chợ Khung Dung. Sai Võ Tánh đi vòng ra đồng tập trận..”[15].
Đổi lại sự bất tiện kể trên, ta giữ được các việc còn nguyên tính cách sơ khởi của chúng, mới qua được chủ quan người ghi chép, chưa phải biến đổi lần nữa qua người tổng hợp. Ở điểm về sự chính xác này, người ta phân biệt dã sử và chính sử. Người ta hay chê chính sử có nhiều thiên lệch như trường hợp sử quan nhà Nguyễn gọi Tây Sơn là nguỵ Tây, Tây tặc, gọi các cuộc chiếm đóng của anh em họ là “nhập khấu” (vào ăn cướp)... Sử quan chỉ chép những sự việc của Tây Sơn, Trịnh - Lê khi chúng có liên quan tới Chúa của họ thôi. Dã sử sẽ bổ khuyết vào sự thiếu sót đó.
Nhưng ta không nên quá tách bạch hai nguồn tài liệu để chúng chống đối
nhau về quan điểm, từ đó, về giá trị sự kiện ghi chép. Điều trước nhất là người viết dã sử cũng là những nhà nho có tài. Chính sử quan nhà Nguyễn cũng biết bổ khuyết tài liệu mình có được bằng cách tham bác dã sử khi viết về tổ chức quân chính triều Tây Sơn chẳng hạn[16]. Họ cũng đã dùng những chữ rất kêu để khen tài Nguyễn Huệ, cũng không giấu tật xấu say sưa của Nguyễn Văn Thành, tật ham chơi trong tình trạng chiến tranh của Thành, Duyệt, Huỳnh Đức... Cho đến cả việc quan quân Gia Định có người đi cướp của dân, sách nhiễu dân chúng, họ cũng ghi rõ.
Thiếu sót có chăng là do không khí hiểu biết, tình trạng bẩn chật của kinh tế tạo sự thấp kém kỹ thuật mà các sử gia xưa phải đắm ghìm vào đó. Thực ra, có những nhà nho như Bùi Huy Bích quá già lại ở trong mạt kiếp của một triều đại nên làm Tể tướng bị người ta chê trách[17], nhưng cũng đã tỏ ra có kiến thức hơn người. Theo lời Kính phủ Nguyễn Ánh, năm 1740, Bùi làm Đốc đồng đem quân đến biên giới Ai Lao giữ giặc, đã “bắc thang trèo lên núi xem bài văn bia chữ to bằng bàn tay, khắc vào đá sâu một tấc, lấy mực in bài bia về”6. Phương pháp khảo sát thực là mới mẻ, không phải là mới mẻ ở hành động mà là ở ý tưởng áp dụng: người xưa in chữ ở các bài bia để lấy mẫu viết thiếp (tháp), còn ông in chữ bia để làm tài liệu như đã chứng tỏ ở luận cứ của ông về việc khảo sử. Chính ông đã bàn về một cách ghi chép sử sách sao cho chính xác, bao gồm nhiều sự kiện, bày tỏ được tình trạng sinh hoạt kinh tế, văn hoá trong nước: “Các việc sau này cũng là cần lắm: tra xét nguồn gốc sông núi, địa danh biến đổi, nhân vật kẻ hay người dở, phép tắc lúc đổi khi theo, thói dân nơi tốt nơi xấu, sản vật chỗ ít chỗ nhiều, hay là phép chầu, cách đón các nước láng giềng, chữ tốt văn hay của các người đời trước, cùng là phép tắc thường dùng của các quan, nhà dân, những điều ích lợi về việc canh cửi, người lành kẻ ác, chuyện hay chuyện lạ mà có báo ứng từ trước đến nay, rất nhỏ cho đến tờ buồi vụn vặt, bài thuốc kinh nghiệm, chia ra từng loại, biến ra từng pho sách để cho người sau có chỗ mà dò. Làm những công việc ấy, so với nặn nọt các câu vô dụng chẳng ích lợi gấp mấy mươi ru?
“Đành rằng thế, những nhà trước thuật cũng nên tra xét cho rõ ràng chỗ nào nghi ngờ thì nên bỏ ngờ, có thể mong rằng sau này có người biết chăng. Ví bằng ngờ mà cũng cho là tin, nhiều ít có không cũng chỉ nghe theo người ta nói, như thế không phải là cách làm sách? Các bậc quân tử có thể khen sao được?”[18].
Ý tưởng chỉ dẫn đành rằng khá tiến bộ nhưng cũng cho ta thấy tính cách vụn vặt, tản mát của phương pháp. Nhất là chủ đích luân lý trong sự biên chép còn đè nặng ở đây: “người lành người ác, chuyện lạ chuyện hay mà có báo ứng từ trước đến nay”. Quan điểm của sách Xuân Thu đó chi phối rất
nhiều các nhà viết sử xưa từ sử quan của triều đình tới những nhà nho sáng tác riêng tư nhưng vẫn có ý định dùng lịch sử làm gương đạo đức cho người đời. Thế rồi đứng trước sự thử thách của thực tế, giáo lý trung trinh của họ bị lung lay, khiến họ phải lúng túng. Kẻ theo thì tán tụng triều mới nhưng còn nhớ triều cũ, kẻ chống lại vì đã trót làm tôi một ông chúa nhưng cũng thấy đối phương có nhiều khả năng...
Tuy nhiên trở ngại vẫn không hẳn là giới hạn của quan niệm đạo đức lúng túng đó. Tài liệu đòi hỏi được giải thích. Và lịch sử là sự hiểu thấu tài liệu của sử gia. Điều này lại còn tăng tiến và tuỳ thuộc theo với kiến thức, khuôn mẫu tư tưởng mà người đọc sách chịu thu nhận. Chính vì lẽ đó, lịch sử triều Tây Sơn với các sử quan phải chịu tuỳ thuộc vào hành động của Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Dương, Phúc Ánh. Vậy mà dưới ảnh hưởng của các thuyết cách mạng Tây phương và những biến động mới đây, nó đã trở thành một triều đại với Trần Trọng Kim, rồi bỏ chữ “triều đại” còn mang dấu tích phong kiến, nó trở thành lịch sử một cuộc cách mạng, để nhân tiện tác giả quyển sách đặt chen vào đó những ý tưởng chính trị giai đoạn bây giờ[19].
Vì lẽ đó, tuy sử quan trong Thực lục kể chuyện quan chức thuyên chuyển lòng thòng, chép việc chính trị, quân sự nhiều, ta vẫn có thể tìm được ở đấy những ý nghĩa kinh tế, văn hoá. Qua sự sắp đặt cai trị Ba Thắc, Trà Vinh, ban đầu Nguyễn Ánh giết tù trưởng phản kháng Ốc-nha Ốc, cai trị bằng quân tướng rồi rút lui đi để “phiên liêu” Gia- tri-giáp coi sóc, dẹp loạn rồi cho họ tự trị một phần qua chính quân đội, một phần qua đám người Trung Hoa ngụ cư, chúng ta biết được mối tăng tiến tiếp xúc của các nhóm chủng tộc, trình tự Việt hoá của các nhóm thiểu số vùng Hậu Giang (tiết 14). Qua vụ định cư lưu dân Phú Yên, Bình Thuận ở Gia Định, ta biết được chênh mực kinh tế giữa 2 vùng thù nghịch...
Có những giải thích phải được chứng thực thêm khi phối hợp với những tài liệu Tây phương để có tầm ảnh hưởng quan trọng hơn. Tài liệu thuộc loại này gồm một phần là những hình ảnh, đồ bản... của người Tây phương về những nhân vật đương thời, ghi bằng những con số chính xác các vị trí sông biển trong xứ. Nhờ có thói quen làm việc đúng đắn của họ, ta biết được hình ảnh trung thực của cậu bé Hoàng tử Cảnh non trẻ mà vẫn làm dáng oai nghiêm, khuôn mặt một Nguyễn Phúc Ánh rắn rỏi rõ ra của một vị vua từng trải phong sương, khuôn mặt một Bá-đa-lộc đầy tự tin và đáng chú ý vì hoàn cảnh hơi khác lạ là hình dáng một Chaigneau có vẻ Việt Nam hẳn đi với chiếc khăn quấn đầu, bộ áo quần rộng nhiều nếp, thắt chẽn ngang lưng và chân quấn xà cạp, đi đất. Ta thấy được các bản đồ vụng về vẽ của Thi Nại, cửa Thuận An của L. Barizy kề bên các bản đồ khá chính xác do J.M. Dayot cung cấp tài liệu. Một sự phối hợp nhỏ bé của các tài liệu ta và Tây xuất hiện
trong đồ bản thành Diên Khánh có hình thức một công sự Vauban mà bên góc lại ghi 4 chữ Hán “Diên Khánh đại đồn”.
Vì sự có mặt của giáo sĩ ở khắp nơi, của những nhà buôn, lính tráng Tây phương trên đất nước này mà chúng ta có thêm một lô những tài liệu gồm những bức thư kể cho nhau nghe về tình hình trong, ngoài nước, nhận xét của họ về những nhà cầm quyền bản xứ, về tương quan giao tiếp giữa chính quyền, dân chúng bản xứ và người ngoại quốc. Các giáo sĩ Phăng-xi-cô: Diego de Jumilla, J.M. de Castuera, Ginestar..., thương nhân Chapman... đã làm nhân chứng cho những ngày đầu Tây Sơn khởi nghĩa, những ngày lao đao của Duệ Tông, rồi những ngày đầu phục hưng của Nguyễn Ánh. Các giáo sĩ De Gire, Serard, Ceram... ở vùng Trịnh, Labartette, Doussain ở vùng Tây Sơn, Lelabousse, Lavoué, J. Liot - không cần kể tới Pigneau - và các tướng Olivier, J.M. Dayot, L. Barizy... ở vùng Nguyễn đều làm đầy đủ nhiệm vụ quan sát với thói quen đòi hỏi tính cách xác thực và với sự tò mò được kích thích thêm vì thấy gì chung quanh cũng lạ, cũng mới. Giá trị chứng nhân được ghi nhận ngay lúc đương thời: Nguyễn Ánh sai Olivier viết thư cho người đại diện các phái đoàn Truyền giáo là Letondal ở Macao đã lâu để xin dò xét về chi tiết cuộc giao thiệp hoà bình hay chiến tranh giữa Tây Sơn và nhà Thanh vì những tài liệu do ông này cung cấp thì “chắc chắn hơn từ những nơi khác đưa đến”.
Chuyện họ ghi lại thường nhiều chi tiết. Điều đó có một phần là do họ có những tiếp xúc cá nhân trong những vụ liên quan đến họ. Lelabousse, Pigneau, Lavoué... ghi rất rõ hành vi, cử chỉ của Hoàng tử Cảnh lúc mới về, thay đổi như thế nào lúc lớn lên và sự xung đột giáo sĩ - nho sĩ trong triều một cách tỉ mỉ, chân xác trong khi sử quan chỉ nhắc nhở bên lề vụ chống tăng chúng rằng: “Nghe Ngô Tòng Châu bài bác tả đạo, Bá-đa-lộc cũng ghét”, hay vụ Tống Viết Phước bị cách chức vì thường “hay nói hỗn với Bá đa-lộc” nhưng quên luôn ý định cải giáo của Hoàng tử.
Sự tỉ mỉ còn từ quan điểm nhận xét của nhân chứng nữa. Ta thấy sử quan cũng đã tỉ mỉ trong việc liệt kê quan tước, thuyên chuyển chức vụ, chăm chú trong khi ghi chép lời vàng ngọc của vua họ. Trong khi đó, L.M. Jumilla tỉ mỉ khi kể cuộc khởi loạn, không lưu ý đến chính, nguỵ, Chapman cho thấy tình trạng lúng túng của nền kinh tế Tây Sơn qua sự vuốt ve thương nhân này của Nguyễn Nhạc, qua cảnh tàn phá ở Hội An kéo theo sự biến mất lớp người Hoa làm trung gian buôn bán với bên ngoài. Các giáo sĩ vùng Trịnh khiến chúng ta lưu ý đến một tầng lớp thương nhân các lái ở Thanh, Nghệ, xứ “cậy thế, cậy thần”, vạch rõ sự cấu kết của một thứ thương ban không chính thức với văn, vũ, giám ban của họ Trịnh.
Nhưng không phải những tài liệu này không có khuyết điểm. Những khuyết điểm này chính là bề trái của điều mà ta khen là ưu điểm. Đứng ngoài một khuôn mẫu văn hoá, người Tây phương có những nhận xét khách quan,
nhưng đồng thời, họ cũng bị bó trong những thành kiến sinh ra vì giáo dục đã hấp thụ được, nên những thiên lệch trong phán đoán lại xảy ra. giống như bề tôi Tây Sơn khinh bỉ gọi người Tây phương là “những xác chết trôi từ biển Bắc xuống”, các giáo sĩ cũng chê trách những tay phù thuỷ, gọi đạo Phật là “đạo Thần tượng”, lễ Văn Miếu, tục thờ cúng tổ tiên là “dị đoan, mê tín”. Họ không ngớt lời dài dòng ca tụng một ông Hoàng hứa cải giáo, một ông Giám quân tỏ thiện ý với Bá-đa-lộc trong khi họ đả kích mạnh những nho sĩ chống đối lại họ là những Sa tăng tranh đấu vì tước vị, quyền lợi mà không thấy trong đó một chống đối vì lý tưởng, vì ý thức hệ. Đó là chưa kể họ cũng theo thời mà gọi Tây Sơn là “bọn phản loạn”, “bọn vô đạo”, “tên bạo chúa”...
Một khuyết điểm nữa cũng do nơi tính cách ngoại quốc của họ. Họ quan sát, ghi trung thành sự việc - tuy qua lăng kính văn hoá của họ - kiểm điểm được ngày tháng chính xác mà không làm sao ghi đúng được tên người, tên xứ nên có khi bỏ luôn không thèm nói tới. May mắn là khi nhắc về một người có thành tích, họ chỉ tên bằng cách nói vòng quanh đến công việc của những người này nên ta cũng dễ biết: ví dụ như khi L. Barizy nói đến một ông Giám quân từng qua Pháp (Phạm Văn Nhân), ông tướng thuỷ quân trước kia theo Tây Sơn (Nguyễn Văn Trương). Còn ngoài ra là những tên người kỳ quái: Ou doi be, Hoe Hanh Loie, Noe Hau Loée, Dou Doue Cane, Bahaa, les Sang leys (lính của Lý Tài), những tên đất tức cười: Dou hau, Choya, ong Datte, cua Heo...
Để chỉ định người, vật họ đã dùng những chữ không tương đương vì thế có nghĩa hoặc thiếu sót, hoặc dư thừa. Những người Pháp dùng chữ “oncle maternel du roi” để chỉ một viên tướng tài ba của Tây Sơn (ta đoán là Trần Quang Diệu) mà không lưu ý rằng với sự minh định quá tỉ mỉ trong tông tộc Việt Nam xưa, chữ đó có thể chỉ từ Bùi Đắc Tuyên sang Phạm Văn Sâm, Phạm Văn Hưng đến Trần Quang Diệu, ông dượng của Cảnh Thịnh (bà con qua Bùi Thị Xuân, nếu có thể gọi là bà con vì Bùi Đắc Tuyên là anh em cùng cha khác mẹ với Phạm Hoàng hậu, mẹ Cảnh Thịnh). Thấy những tên to lớn “Tây dương dạng thuyền”, “Đại hiệu thuyền”, “Hải đạo thuyền”, sử quan dùng mà không tả ra, ta muốn tìm ở các tài liệu Tây phương để rõ hơn thực lực thuỷ quân Nguyễn Ánh, thì lại không khỏi ngơ ngẩn trước các tên: frégate, corvette, chaloupe canonière, demi-canonière... lẫn lộn với Thao, ghequienne... trong các bức thư.
Nho sĩ và Tây nhân thường không chú ý lắm hoặc ghi sót những câu ca dao, truyền thuyết của dân chúng. Có khi loại tài liệu này xuất hiện dưới hình thức những sấm ký có mục đích “tuyên truyền chính trị”, nói theo lối bây giờ. Chẳng hạn như câu:
Đầu cha lấy làm chân con,
Mười bốn năm tròn, hết kiếp thì thôi.
Hay:
Cha nhỏ đầu, con nhỏ chân,
Đến năm Nhâm Tuất (1802) thì thân chẳng còn.
[Chữ “tiểu” trên đầu chữ “quang” (trung) xuất hiện dưới chữ “cảnh” (thịnh)].
Có khi là một ước mơ thốt nên lời, chứng tỏ được chuyển biến tâm lý trong dân chúng:
Đục cùn thì giữ lấy tông (tên Trịnh Khải),
Đục long, cán (Trịnh Cán) gẫy còn mong nỗi gì.
Có khi là lời ghi nhận sự kiện, một sử sự ngắn, trống trơn hoặc bao gồm cả nguyên nhân, kết quả:
- Binh Triều: Binh Quốc phó; Binh ó: Binh Hoàng tôn.
- Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần.
- Sự này chỉ tại Bà Chè (Đặng Thị Huệ),
Cho Chúa mất nước, cho nghè làng xiêu.
Nguồn tin từ dân chúng tuy mơ hồ và lẫn lộn cả pháp thuật vì tính cách thần thánh hoá do óc tôn sùng của họ dựng lên, nhưng ta cũng không thể từ đó mà tước bỏ, không công nhận phút sự thực nào. Về việc Nguyễn Nhạc tự ngồi vào cũi để chiếm thành Quy Nhơn trong tay Tuần vũ Nguyễn Khắc Tuyên, có người như ông Nguyễn Phương[20]nghi ngờ và bài bác hẳn. Việc này Cương mục (144. 22b) có chép và Chính biên liệt truyện thì ghi lại bằng chữ nhỏ. Liệt truyện viết ra xây dựng trên các tài liệu lấy ở sách vở cũ đã đành mà còn thu nhặt ở các gia phả, tin tức trong dân chúng nữa[21]. Việc Liệt truyện viết bằng chữ nhỏ không phải là tỏ ý hoài nghi tính cách xác đáng của nguồn tin nhưng là ghi thêm một lời nói cho dồi dào, cho xác thực hơn câu chuyện như chính sử quan đã chú về việc “khuyết họ”, về địa điểm đích xác lúc họ viết sách. Có thể Liệt truyện nhặt được câu chuyện Nhạc chui vào cũi ở Bình Định vì dư luận truyền thuyết còn mạnh tới nỗi cuối thế kỷ XIX một người Pháp tới xứ này còn nghe đồn về chuyện ấy[22]. Sự thực là mưu đó có thể đem ra dùng thực như những mưu cướp thành có nhan nhản trong truyện xưa, với ai ngồi trong cũi không biết nhưng Nguyễn Nhạc ở địa vị chủ tướng thừa hưởng sự thán phục gan dạ đó từ dân chúng. Dân chống đối vốn có những hành động bất ngờ mà luận lý thông thường không thể bàn tới được[23].
Chính từ những nguồn tài liệu khác nhau đó mà chúng tôi phối hợp với những nhận xét riêng tư để lập nên quyển sách.
Phải nhận rằng công việc đã nhẹ bớt một phần: phần phê bình ngoại diện tài liệu, về xuất xứ và điều kiện khả tín của nó. Điều này có nguyên nhân là
giai đoạn lịch sử tương đối gần cận, sách vở sáng tác hoặc có cơ quan chính thức như Quốc sử quán in ra, hoặc dễ dàng xác định tác giả, thời gian sáng tác như Hoài nam khúc. Mặt khác, thời kỳ này, như đã nói ở đầu, kích thích được óc tìm tòi của học giả. Về phía người Pháp, thời kỳ này với sự can thiệp của Bá-đa-lộc và bọn phiêu lưu Tây phương ở Gia Định, như là một chứng minh cho lòng tốt của “mẫu quốc” với thuộc địa, hay đứng đắn hơn, là sự kiện đánh dấu kéo dài sự thành lập đế quốc Đông Pháp lùi về trước trên dưới 100 năm, một giai đoạn mà sự tiếp xúc Đông - Tây, rụt rè từ trước đó mấy trăm năm, bỗng trở nên mạnh mẽ, mật thiết hơn. Họ gia công tìm tòi tài liệu, hình ảnh, thư tờ. Chúng ta có hình ảnh xưa cũ trong tập Iconographie historique de l'Indochine của P. Boudet và A. Masson. Chúng ta có các thư từ trong Correspondance générale (Paris 1906-1907, E.J.Vrill) của H. Cordier, 3 tập Histoire de la Mission de Cochinchine của A. Launay mà ta dùng tập 3 (1925) rất nhiều... Một tài liệu đưa ra dù ít ỏi vẫn được biện chính kỹ càng về giá trị xác tín cũng như về nội dung sự kiện: chúng ta hãy xem việc làm đầy tính chất khoa học của L. Cadière khi đưa ra những bức thư Nôm của Nguyễn Ánh.
Về phía người Việt, chiến thắng Đống Đa như là một chứng minh trong thời kỳ ngoại thuộc (Pháp thuộc) về tính chất quật cường của dân tộc; cuộc khởi nghĩa Tây Sơn có dáng một cuộc khởi nghĩa của dân chúng, quyến rũ, dễ say mê trong thời kỳ tư tưởng cách mạng, dân chủ lôi cuốn con người. Được đào luyện trong lò khoa học Pháp, một số học giả tiếp tục truyền thống cũ, đi về các nơi thôn dã sưu tập tài liệu, cung cấp cho đám quần chúng ưa men say ái quốc quá khứ oai hùng của dân tộc, dĩ vãng phức tạp, dồi dào sinh lực của quốc gia. Nhưng phải nên nhận rằng trên bước đầu chủ quan đó, tinh thần khoa học vẫn có để chứng minh giá trị của tác phẩm.
Việc tìm lại sự thực lịch sử căn cứ vào sự đối chiếu các loại tài liệu tìm ra đó. Phương pháp luận giáo khoa vẫn bảo ta rằng một tài liệu được chứng bày ở nơi các tài liệu khác xuất xứ thì được công nhận là đúng. Song một đòi hỏi khắt khe về nguyên tắc như vậy không bao giờ áp dụng được vì những căn cứ luận lý chung và tâm lý người chứng. Hơn nữa nguyên tắc đòi phải có sự đồng ý của các tài liệu khiến cho sử sự trở nên nghèo nàn thực chất hơn [24]. Đằng khác, như ở trường hợp tập sách này, tài liệu có khi chỉ một, hay cùng một loại của người cùng phe. Từ đó, người ta nêu ra một phương pháp xét định như sau:
“Khi chúng ta đứng trước một tài liệu, một người chứng, điều quan tâm lớn của chúng ta không phải là tự hỏi xem có thể đem đối chiếu với những thứ khác không (thực ra... (...) chứng cớ hầu như luôn thuộc cùng một loại, cùng nội dung, cùng khuynh hướng), không phải là xem thử người chứng có muốn lừa ta không..., nhưng trước hết là phải hiểu xem hắn ta có hiểu những
gì hắn nói với chúng ta hay không (hay là nếu đó không phải là một chứng cớ cố ý mà là một chứng tích tài liệu dính líu tới thì phải xem thử hắn ta trình bày ra được không), đến mức nào thì hắn ta hiểu hay đã trình bày ra, đến độ chính xác nào, nghĩa là về sự dồi dào phức tạp sâu sắc mà hắn ta phản chiếu, ghi nhận, từ đó đã chuyển cho chúng ta sự thực tế nhị của con người mà chúng ta muốn nắm lấy”.
Bằng vào thái độ rộng rãi đó - rộng rãi sau khi thấu suốt tính cách phức tạp của vấn đề, chứ không vì không giải quyết được mà dễ dãi, buông thả - một tài liệu đơn độc có thể đứng tạm để người ta đào sâu ý nghĩa nội tại của nó, hay qua khả năng của người chứng. Lúc bấy giờ mớ kiến thức tổng quát hay chuyên môn của các khoa học bàng phụ sẽ giúp ích ta rất nhiều để cho tài liệu thêm vững vàng giá trị. Ví dụ sử quan kể chuyện Nguyễn Ánh gặp nước ngọt giữa biển như là một bằng cớ về đế mệnh của ông ta, Nguyễn Văn Thành cũng có nhắc tới bằng chữ “hải lễ” (nước ngọt ở biển) trong bài “Văn tế trận vong tướng sĩ” đọc ở Bắc thành cuối năm 1802. Nhưng tài liệu gồm lại chỉ là của một phe: bề tôi Nguyễn Ánh. Chứng cớ đã đơn độc lại khoác thêm cái vỏ huyền hoặc như có dụng ý bày ra để lôi kéo ông Trời về phe mình. Bỏ đi chăng? Không, sử sự vẫn có thật duy trình độ hiểu biết của sử quan không tới, mới giải thích theo một lối vừa dễ dãi vì có sẵn, vừa có lợi cho họ thôi. Dùng một mớ kiến thức về địa lý thiên nhiên, nhìn vào địa điểm lênh đênh (từ cửa Ma Ly đi ra), xét lưu lượng sông Cửu Long là ta có thể hiểu rõ sự kiện ngay.
Mở rộng nguyên tắc xét đoán tài liệu đã xong, ta phải đi sâu vào chi tiết. Trong những khảo luận đã thành, những kê cứu của người Pháp, có khi phải bỏ lơ những chi tiết về tên người, tên đất để chỉ chú ý tới sử sự vì người ta cũng gặp phải những xa lạ khó giải quyết như người trước. Về phía các soạn giả Việt, tên người tên đất lại có vẻ quen thuộc quá nên không chú ý tới vấn đề nêu ra, nhất là khi vấn đề không hẳn dễ giải quyết.
Tuy nhiên, đặc tính của đối tượng sử học là tính cách độc nhất trong thời gian, với những người có tên họ riêng tham gia, nơi một địa điểm có thực. Cho nên phải giải quyết vấn đề trong chừng mực và phương tiện có được. Tên họ các tướng Gia Định nhiều lúc còn phải tìm mới ra. Vì sử quan sau này thì chép cả tên lẫn họ, nhưng thư từ, sắc chỉ đương thời chỉ kêu tên tước mà thôi. Có may chút ít là khác với triều Lê và về trước, chức tước Nguyễn được hợp bằng tên và một tính từ thành một danh xưng có ý tốt đẹp như Chấn Võ hầu Nguyễn Văn Chấn (Vannier), Tĩnh Thành hầu Ngô Nhân Tĩnh, Đức Nhuận hầu Nguyễn Huỳnh Đức. Thế mà điều này còn làm cho L.M. Cadière tuy biết trước, vẫn tưởng Khiêm Quang hầu là Nguyễn Văn Liêm mà người ta đã viết lộn khi sao lại (謙 và 廉) và phân vân không biết Quý Ngọc hầu, Long Chính hầu ai là Phạm Văn Nhân[25]. So với Thực lục, Liệt
truyện, tìm hiểu hành động những người can dự đến, ta biết Khiêm Quang hầu là Nguyễn Văn Khiêm, Quý Ngọc hầu là Ngô Công Quý và Long Chính hầu là Nguyễn Long.
Thế còn tránh sao được những lầm lộn về phía Tây Sơn, nguỵ triều! Thực Lục, Liệt truyện đầy rẫy những lời chú “khuyết tính” (thiếu họ). Nguyễn Trấn của Trịnh Hoài Đức, Đặng Văn Chân, Đặng Văn Chấn, Nguyễn Văn Chấn của sử quan, Ngô gia văn phái là một. Tên người cũng bất nhất trong cùng một xuất xứ của sách: Phạm Văn Hưng, Phạm Công Hưng, Nguyễn Văn Hưng. Tên Chân hay Trấn sai lạc là do giọng đọc, khó mà có thể nói tên nào là trúng. Nhưng họ Nguyễn thì sai là chắc vì ta nhớ tới thói quen cải họ theo dòng vua ngày trước. Giữa Phạm Văn Hưng và Phạm Công Hưng, ta lấy tên Phạm Văn Hưng vì chữ “công” có ý nghĩa tôn trọng hơn là ý nghĩa một chữ lót trong khi những người đồng họ giữ địa vị quan trọng (chắc xuất thân từ phía ngoại Quang Toản) đã có tên là Phạm Văn Sâm, hay trống trơn: Phạm Ngạn. Tên của những người chưa được xác định đành phải chịu viết theo thói quen đã thành trong khi chờ các chứng cớ khác để quyết định rõ ràng hơn. Trường hợp Phạm Văn Sâm là một may mắn. Tên viên Thái bảo của Nguyễn Lữ này rất ít khi được đọc là Sâm mà vẫn được gọi là Tham, không chút phân vân nào giữa hai lối đọc cho cùng một chữ 寥. Thư của G.M (giám mục) Labartette ở vùng Bố Chính gởi ngày 23-7-1788 khiến ta bỏ thói quen để thích nghi với chữ mới. Trường hợp của Vũ Văn Nhậm cũng vậy Sử quan nhà Nguyễn phân vân giữa hai tên Nhậm 任 và 仕 Sĩ của người con rể Nhạc. Không có chữ “Chuong Nha” (Chưởng Nhậm) của các giáo sĩ thì ta còn lầm lâu.
Địa danh mới còn gây nhiều lôi thôi hơn nữa. Ông Aurousseau khi phê bình Ch.B. Maybon đã chỉ trích rằng ông này không lưu ý đến khoa học địa lý lịch sử để viết lịch sử Việt Nam cho chính xác hơn. Ông còn có nhã ý chỉ cho Maybon một số sách địa lý Việt, Hoa để kê cứu[26]. Thực ra vấn đề không dễ dàng như ông tưởng. Lê Quý Đôn đi sứ Tàu bị người ta hỏi vị trí tuỳ thuộc của một địa điểm xưa mà không trả lời được. Phạm Đình Hổ kể lại chuyện đó để làm bằng chứng cho công trình tìm tòi của ông về sự thay đổi duyên cách, địa lý[27].
Đằng khác, địa danh cũng không được ghi trong sử sách như tên gọi thông thường: các làng Mọc, làng Tó... ở Bắc đều có tên “chữ” khác. Thế mà sử sách lại viết bằng chữ Hán để ghi nhưng âm Nôm, tất có sự sai lạc khó hiểu, nhất là khi sự chuyển âm lại không theo một tiêu chuẩn nhất định theo thói quen viết chữ Nôm.
Có những địa danh được phiên âm bằng những chữ Hán đọc gần cận: Bân Thiết ..?..切 là Mang Thít, Phan Thiết, Xuy Miệt 吹 蔑 là Xoài Mút, Trà
Luật 茶律 là Trà Lọt, Mỹ Thu 夷 秋 là Mỹ Tho... Có những địa danh phải được dịch ra mới hiểu. Lam Kiều 藍 嬌 là Cầu Chàm (Bình Định), Lộ Cảnh giang 鷺 勁 江 là sông Cổ Cò (An Xuyên), Tam Phụ 三 埠 là Ba Giồng, Giá Khê 架 溪 là Rạch Giá. Có khi sự ghi nhận địa danh thật bất ngờ: Thán Lung 炭 籠 thật vô nghĩa khi ta muốn dịch ra, mà thực không kết quả khi ta muốn dò âm gần cận. Đó là địa điểm ấp Thang Trông do sự kết hợp của một chữ dịch nghĩa theo giọng miền Nam và một chữ Nôm lạ (lung tín đọc là trông tin).
Khó khăn càng đi sâu càng hiện ra. Một vài chữ là một trường hợp khác nhau. Âm Hán không có vần R nên Bà Rịa phải viết là Bà Địa, Hà Riêu là Hà Liêu, nhưng Đồng Lam nếu không tìm được địa điểm Đồng Chàm th có phải gọi là Đồng Ram như sông Xích Ram ở Phước Hải bây giờ mà sách viết là Xích Lam? Có những khó khăn gây ra chính vì thói quen không quy định một chữ có nghĩa đích xác, dùng trong những trường hợp nhất định (có lẽ bất cứ dân tộc nào cũng vấp phải). Bởi vậy, bắt đầu bằng chữ “hòn” mà các địa điểm Hòn Đất, Hòn Chông (Hà Tiên), Hòn Khói (Khánh Hoà) lại ở trên đất liền, trong khi hòn Tre, hòn Thổ Châu (Nam Phần), hòn Ngang, hòn Đất (Bình Định) lại là những hòn đảo, làm sao người ta không phân vân trước các tên Điệp Thạch Dự, Chông Dự...? Và trước một dãy chữ “dự” để dịch chữ “hòn” (chỉ cần sát nghĩa), làm sao người ta hiểu rằng Yên Cương là Hòn Khói nếu không tìm được lý lẽ chứng dẫn thêm? Chưa đủ rắc rối, Phú Quý Cương (Bình Định) lại là một ngọn đèo ở giữa núi rừng trùng điệp.
Có những khó khăn vì thay đổi duyên cách, địa lý. Tên xứ ở ta luôn luôn thay đổi vì chính quyền sau tỏ ý không phải kế tục chính quyền trước nên đổi thay để giữ riêng biệt cho mình. Trường hợp rõ rệt khi Nguyễn Ánh chiếm lấy Quy Nhơn (1799) bèn đổi tên là thành Bình Định rồi sau này cất thêm một thành mới gần đó lại chuyển tên về vị trí mới. Phần nữa vì tính cách khai thác những vùng đất đai càng ngày càng sâu rộng. Hưng Phúc ngày xưa đã phải chia thành Phước Hưng thượng, Phước Hưng hạ...
Lịch sử thêm ý nghĩa khi địa danh được xác định vị trí của nó, như khi thấy Phước Hưng là một tiền đôn của Nguyễn Ánh ta mới thấy thế lực của ông còn quanh quẩn ở vùng Bà Rịa.
Việc xác định địa danh đòi hỏi nhiều tài liệu. Có khi với một bản đồ cỡ nhỏ (1/2.000.000 của Service Géographique de Dalat in ra), chúng ta cũng tìm được địa điểm Hòn Khói, Ba Ngòi (Khánh Hoà), Vũng Liêm (Vĩnh Bình)… Có khi cần những bản đồ lớn hơn, những chuyên thư hàng tỉnh (loại của nhà cầm quyền Pháp trước đây, của chính quyền VNCH và của Hội Nghiên cứu Đông Dương), nhờ đấy chúng tôi xác định được cửa Xích Ram chứ không đọc Xích Lam, Ba Vác chứ không là Ba Việt... Những sách địa chí xưa (Gia Định thành thông chí với các bản dịch của Aubaret và Trần Kinh Hoà, Phương đình dư địa chí của Nguyễn Văn Siêu, Đại Nam nhất
thống chí của Quốc sử quán) cũng góp phần xác định tuy nhiên phải được kiểm chứng trong hiện tại: địa điểm Quang Hoá thuộc xã Cẩm Giang tỉnh Tây Ninh thấy ở sách Phương đình cũng như ở chuyên thư về tỉnh Tây Ninh; Lương Phú Giang là rạch ở quận lỵ Bến Tranh cũ (Lương Phú, tên chợ, tên ấp chiến lược), Nhất thống chí còn gọi là Tranh Giang 爭 江, phân biệt với rạch Chanh (Tranh Giang 橙 江 ) ở Đồng Tháp, Long An, Định Tường (nhưng vẫn còn có chỗ phân vân: rạch Lương Phú được đề cập, lúc nào ở Bến Tranh, lúc nào chỉ một phụ lưu của sông Hàm Luông?)
Có trở ngại là ngay đến những bản đồ quân sự cũng không ghi hết các tên đất trong khi khoa địa danh học ở ta chưa phát triển mấy. Các chuyên thư địa phương vẫn thường mang khuyết điểm chung: các tác giả vốn là nhân viên hành chánh hay không chuyên môn nên yếu về kỹ thuật đồ bản và không biết tìm tòi sâu trong quá khứ. Nên để ý rằng các địa điểm nổi danh ngày xưa trải qua những biến thiên có khi đã mất tích trên bản đồ ngày nay để các tên mới thay thế vào. Ví dụ trên các bản đồ Bình Định dù lớn đến đâu cũng không có các tên Nước Mặn, An Thái. Chỉ có các làng Nho Lâm, Mỹ Thạnh thôi. Phải tìm hiểu đến tận nơi mới moi ra các sự kiện tương tự. Vậy mà các chuyên thư ta đang có phần nhiều lại chỉ là những loại vẽ ranh giới hành chánh, ngay đến những địa điểm có bàn đến trong sách cũng không xác định đủ.
Ở đây chiến tranh cũng có đôi chút ích lợi: các trận đánh xảy ra tận hang cùng ngõ hẻm - cũng như ngày xưa, nên cột tin tức chiến sự trên báo cũng là một nguồn kiểm nhận quý giá. Tất nhiên không phải khi tìm ra một địa điểm trong thực tế đúng in hay gần giống như trong sách là ta vội quyết xác ngay.
Do những trở ngại đó, các địa danh có khi còn một khoảng trống xác định khá lớn để chờ đợi các bằng cớ khác. Cùng trong tỉnh Định Tường có 2 con rạch Trà Tân và Trà Lọt mà các sử quan hình như cũng không phân biệt rõ ràng. Họ nói nhiều đến Trà Tân và chỉ một lần Trà Lọt nhưng lại đúng vào cùng một sự kiện xảy ra. Biết rằng chữ “tân” 津 có thể lẫn với chữ “luật” 律 ta dựa vào chữ “trà luật” nơi bức thư Nôm của Nguyễn Ánh mà xác định một chuyện ở một con rạch chảy từ Mỹ Lợi (Đồng Tháp) ra Tiền Giang qua chợ Cái Nứa, tuy không biết rõ là sự việc xảy ra ở vào khúc nào.
Nhiều khi lý luận phải bạo một chút. Thị Dã 棉 野 của Thục lục mà Barizy gọi là Dung Thi (Đồng Thị) là nơi nào? Theo chi tiết các trận đánh vùng này phải ở miền núi phía nam Bình Định ngày nay ăn thông với con đường liên tỉnh Bình Phú mà Nguyễn Văn Thành kéo quân ra. Đó chỉ có thể là đồng Cây Cầy (Gò Cầy) nằm cách đường tiến quân bằng đèo Phú Quý ở phía nam. Tên Cây Cầy lấy từ một chút biến đổi âm đọc khi dịch chữ “thị” là “cây cậy” cũng như vùng Mã Cảnh Sơn mà dân Phú Yên đọc không phân biệt Cổ ngựa (dịch đúng chữ trên) hay Cỏ ngựa. Trường hợp chữ Thán lung trên cũng có thể sắp vào đây nếu Đại Nam nhất thống chí (Lục tỉnh Nam kỳ)
không ghi rõ là Vọng Thê 望 梯 (Thang Trông).
Những xác định trên không bao gồm được hết các địa danh. Tập sách còn phải đành cam chịu ghi nguyên văn chữ dùng của sách vở xưa để chờ kết quả những tìm tòi tiếp sau, nếu phương tiện cho phép mở rộng kiến thức và chờ công việc của người khác phụ thêm vào. Những thành quả thu được về địa danh được tập trung một phần lớn vào 2 bản đồ đính kèm.
Tiến lên một mực nữa là việc xác định sử sự. Ta đã nói đến 2 nguồn tin tức, tài liệu cùng tính chất và ưu khuyết điểm của chúng. Nhưng thực là may khi ta có được 2 tài liệu khác nhau như vậy. Chúng sẽ bổ túc cho nhau để lịch sử mà chúng ghi nhận thêm dồi dào sắc thái, chất liệu.
Sự thực, ngay những tài liệu trong nước đã có sự bổ túc đó rồi. Lịch sử Tây Sơn chỉ là phụ vào sử nhà Nguyễn đối với sử quan của triều này, nhưng quyển Hoàng Lê nhất thống chí lại đặt trọng tâm để các sự việc xoay quanh là sự hưng vong của triều đình Lê, Trịnh ở Thăng Long. Chính vì phối hợp hai nguồn tài liệu này với tài liệu của các văn võ thần Tây Sơn ở Phú Xuân mà ông Hoa Bằng viết tỉ mỉ về Quang Trung thành 2 tập sách dày.
Ta thấy tài liệu trong nước nêu rõ những người, sự việc này một cách tỉ mỉ nhưng lại bỏ quên sự việc khác. Ví dụ sử quan chỉ nói một cách sơ sài về trận Bến Ván ở đó quân Nguyễn Nhạc bị đánh lui phải về Bến Đá. L.M Diego de Jumilla lại kể một trận đánh “gần Tiên Đoả” với ngày tháng, chi tiết về tiến lui, tỉ số thương vong, các hàng rào làm chiến luỹ chống cự. May mắn hơn nhưng lần khác như lúc xem ai là “hai người bà con với Chúa”, lần này ta nhìn vào địa điểm Bến Ván (Quảng Nam), thấy câu “dựa luỹ chống cự” của Thực lục, ta có toàn bộ chi tiết trận đánh Bến Ván ngày 22-12-1773. Trong cuộc xung đột ý thức hệ ở Gia Định năm 1795, thư các giáo sĩ nói đến đầu mối là một ông Giám quân có đi trấn Diên Khánh, không về tới Gia Định mà chết dọc đường. Liệt truyện đoạn Tống Phúc Đạm cùng Thực lục thời gian xảy ra chuyện vây cứu, cho ta biết đó là ông này. Thư giáo sĩ cũng nhắc tới 2 viên quan trong số 19 người tố cáo Bá-đa-lộc làm hư Hoàng tử Cảnh, đã bị cầm ngục vì bỏ quân bạn khi Tây Sơn tiến đánh. Thực lục cho ta biết đó là 2 ông Tổng trấn sau này: Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành. Tuy họ không nhắc gì đến vụ Tống Phúc Đạm cả, nhưng ta thấy rõ là Nguyễn Ánh nhân dịp hài tội, cho lệnh tống giam 2 người để làm vừa lòng Bá-đa-lộc. Như vậy, ta chắp nối được một câu chuyện xung đột ở Gia Định, hình thức đại giá của sức mạnh nơi này (tiết 17).
Sử quan chú trọng đến chính trị, quan chức, việc kế vị, nhưng một thương nhân như Chapman tất nhiên phải quan sát về tài nguyên trong nước, nhận xét về điều kiện buôn bán tương quan với thái độ của chính quyền bản xứ như thế nào. Nhờ Chapman mà ta biết được tình hình Quy Nhơn vào khoảng 1778 khi sử quan Nguyễn chú ý vào việc Nguyễn Ánh vội vã xây dựng quyền binh sau chuyến tàn sát diệt tộc của Nguyễn Huệ, còn Hoàng Lê
thì đang lo kể chuyện tranh giành phế trưởng lập thứ ở Phủ Liêu, Thăng Long. Nhìn tình hình chung ta thấy Tây Sơn trong thời gian này có đủ yên ổn để củng cố và lo bành trướng thực lực. Nhưng qua Chapman cho biết, Tây Sơn cũng phải lúng túng. tuy đó là sự khủng hoảng lớn lên: Lý Tài vừa đi mang cả 1/2 thuỷ quân của họ, họ hết cả tiền vì phải nhập cảng thực phẩm, họ định quân bình lại khủng hoảng và nếu có thể, phát triển xứ sở hơn bằng gạ Chapman đến buôn bán không lấy thuế, nhắc cho người Anh rằng họ sẵn sàng mời giúp, đổi bằng một thương điếm trên đất họ. Qua tình trạng lúng túng đó, ta mới hiểu vì sao họ không chiếm hẳn được Gia Định mà chỉ vào rồi ra, ta mới thấy chữ “vào cướp bóc” (nhập khấu) của sử quan dùng, tuy có dụng ý thiên lệch nhưng đã tả đúng được thực trạng.
Nhưng điều quan trọng hơn, chính là từ những khó khăn đó, ta thấy rõ nhược điểm của triều Tây Sơn, nhược điểm mà họ cố gắng khắc phục để xây dựng một chế độ quân chính mạnh mẽ từ Phú Xuân trở ra, nhược điểm làm suy yếu chính họ và nhất là đám anh em còn để lại ở Quy Nhơn, Gia Định. Nguyễn Ánh len vào lợi dụng nhược điểm đó để lớn mạnh. Tây Sơn không dùng được thương nhân Trung Hoa, giáo sĩ để làm trung gian thu nhận kỹ thuật Tây phương thì Nguyễn Ánh phục hưng được vậy. Tắt một lời, đứng nhìn từ Quy Nhơn năm 1778, với nhân chứng Chapman, ta phăng lần ra sợi dây cộng thông lịch sử giải rõ sự lớn mạnh của Tây Sơn để xô đổ Nguyễn, Trịnh, Lê, thắng trận Đống Đa, giúp ta hiểu sự thất bại của Nguyễn Hữu Chỉnh cũng như chính sự thất bại của Tây Sơn có những liên quan nào đưa đến thành công cho Nguyễn Phúc Ánh.
Bằng vào các ý tưởng hướng dẫn, ta bắt tay vào việc tổng hợp các tài liệu để vẽ lại lịch sử hậu bán thế kỷ XVIII theo những đường nét lớn, gạt sang bên những ân oán, hờn giận riêng tư, phe phái của người đương thời và về sau.
Đây là giai đoạn kết thúc phân tranh, một cuộc phân tranh kéo dài mấy trăm năm, bề ngoài là sự tranh giành địa vị của các họ phong kiến mà bề trong là một phần do sự phân rã của xã hội Đại Việt mà dân tộc phản ứng lại bằng con đường về Nam. Phân tranh lại cũng có nguyên cớ từ trong giải pháp xây dựng đó mà sự tiến bộ kỹ thuật của quốc gia, sự tăng tiến ý thức của dân chúng chưa đủ trưởng thành để nối kết nhau lại.
Tình trạng đó phải gây ra một sự đổ vỡ lớn lao. Tây Sơn tưởng như là lực lượng đáp ứng nhu cầu của tình thế. Cho nên ta không lấy làm lạ về sức tàn phá của họ. Khởi nghĩa ở Quy Nhơn, họ đánh tan quân chúa Nam Hà đang chia kéo bè phái, họ nã tróc kẻ thù đến tận hang cùng ngõ hẻm, diệt Duệ Tông, Tân Chính Vương và xô đổ cố gắng trung hưng của Nguyễn Ánh. Từ Nam họ ra Bắc bởi vì chính trong bản thân và quân ngũ họ đã chứa mầm mống làm tan rã họ phong kiến Bắc Hà (tiết 7). Chiếm rồi nhả, họ phải lưỡng lự vì chống đối với thành kiến địa phương, tông tộc, vì sự phân rã
ngay trong lực lượng của họ. Cho nên cuối 1786, đầu 1787, ta thất đất nước chia 5: Nguyễn Lữ ở Gia Định, Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn, Nguyễn Huệ ở Phú Xuân. Hữu quân ly khai của Tây Sơn, Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An và Trịnh Bồng gượng gạo ở Thăng Long. Chính đó là điều mà ta gọi là “phản ứng dội ngược” trong sự bành trướng của Tây Sơn vậy. Nguyễn Huệ cố vươn lên bằng trận thắng Đống Đa để đưa dòng họ mình lên hàng một triều đại Việt Nam. Lại chính “phản ứng dội ngược” kia đã nuôi sống một triều cũ: Nguyễn Phúc Ánh ở Vọng Các lần về Gia Định.
Tất nhiên không nên quên cố gắng riêng của ông ta. Hậu bán thế kỷ XVIII có 3 họ phong kiến bị biến cố xua đuổi. Thế mà Trịnh Bồng khóc than “chẳng may đẻ vào nhà Chúa (...) bị một lũ tiểu nhân xúi khôn, xúi dại...” Lê Chiêu Thống không có phản ứng nào trước sự thay đổi của vua tôi nhà Thanh nên phải ngậm ngùi chết ở đất khách. Chỉ có Nguyễn Ánh theo quân Xiêm về nước mà vẫn có một đạo quân riêng, lưu vong vẫn có quân khai thác đồn điền, gặp dịp thì lẻn trốn về phục nghiệp. Ta phải nghĩ rằng hoàn cảnh Chiêu Thống và Nguyễn Ánh khác nhau. Tây Sơn ở Gia Định yếu kém không đủ làm áp lực với Xiêm vương như Nguyễn Huệ ở Thăng Long đã gần như là yêu sách với Càn Long vậy. Tuy thế, Ánh cũng đã phải chịu những khổ nhục vì các đối xử của bộ tướng Xiêm, chịu đựng sự nghi ngờ của vua Xiêm, nghĩa là những yếu tố đã gây nên thất vọng cho Trịnh Bồng, Lê Chiêu Thống.
Chính khả năng vượt khó khăn đó của Nguyễn Ánh và bề tôi khi gặp dịp Tây Sơn không giải quyết được khó khăn của họ, đã giúp ông trở về Gia Định tổ chức quân lính mở rộng chiến tranh phục thù đưa đến trận thắng cuối cùng.
Trong tập sách có những tiểu mục của mỗi tiết tóm thâu những vấn đề phải xét đến. Ví dụ:
TIẾT 13: NHỮNG LỰC LƯỢNG CHIẾN ĐẤU
Tính cách chung của đôi bên * Tổ chức quân chính của Tây Sơn * Vai trò bổ khuyết của những chiếc thuyền Tề Ngôi * Tổ chức khai thác Gia Định * Ưu thế vũ khí, công sự phòng thủ và thuỷ quân của Nguyễn Ánh.
Trong tiết này, ta sẽ xét, như đã nói, “những lực lượng chiến đấu” mà hai kẻ thù mạnh nhất, Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh nắm giữ. Tất nhiên những lực lượng đó được đặt trên một căn bản tổ chức kinh tế, chính trị... dựa theo điều kiện khả đắc của từng đối phương. Cho nên, ở Phú Xuân ta xét đến chế độ quân chính của Tây Sơn và ở miền Nam ta nói đến công cuộc khai thác đất đai ở Gia Định. Chế độ quân chính đó bắt nguồn từ đâu, phát triển như thế nào, kết hợp với những điều kiện mới (tổ chức nông nghiệp, thương nghiệp ở Phú Xuân, Bắc Hà, sự hợp tác của Lê thần...). Trong vị trí đó ta giải thích được mối bang giao Tây Sơn - Thanh cùng ý định đánh chiếm Lưỡng Quảng, ta hiểu thấu được lực lượng Tây Sơn cùng vai trò kỳ lạ của bọn cướp
biển Tề Ngôi như là lực lượng thuỷ quân phụ tá và một đội thương thuyền có võ trang, trong một chừng mực giống như loại của bọn Corsaire Anh, Pháp những thế kỷ trước. Nhưng cũng từ đó, ta chớm thấy nhược điểm của chế độ Phú Xuân mà mãi đến tiết 16 ta mới phải bàn đến.
Về phía Gia Định, ta xét tới việt quy thuận của nhóm nho sĩ Bình Dương như là một nhắc nhở, khêu dậy ý thức tổ chức xã hội trên cơ sở Khổng giáo, nông nghiệp “dĩ nông vi bản”, nơi một vùng mà đất, người đang chờ đón khai thác. Phát triển nông nghiệp đi đôi với sự phát triển thương nghiệp có trợ giúp của các tay phiêu lưu Tây phương (tiết 12) quy định tính chất và khả năng lực lượng của Nguyễn Ánh. Cho nên ta có thể nói đến “ưu thế vũ khí, công sự phòng thủ và thuỷ quân của Nguyễn Ánh” vậy.
Gọi đó là những “vấn đề” không phải là để chối bỏ tính cách biến động trong thời gian nhưng là để nhấn mạnh rằng lịch sử không xảy ra quá rời rạc, tách biệt với nhau như phép biên niên đã cho ta có cảm tưởng như vậy. Những sự kiện về con người xã hội không nên được kết tập theo quy định của năm tháng, quy ước để tính xoay vần của vũ trụ, mà là theo những điều kiện lịch sử, văn hoá của tập đoàn đó.
Cho nên lịch sử “nội chiến” không phải chỉ xét về giai đoạn 1771-1802 của Nam Hà, Tây Sơn, Bắc Hà hay rõ hơn, của Đại Việt cô lập trong thời gian, không gian. Vượt trên tính cách quy ước của sự phân chia giai đoạn lịch sử, lịch sử nội chiến từ 1771- 1802 chỉ là nối tiếp của lịch sử phân tranh của Đại Việt, không phải bắt đầu vào năm 1558, năm Nguyễn Hoàng trốn vào Nam mà là manh nha từ sau triều đại huy hoàng của Lê Thánh Tông (1460 - 1497), bộc phát khi Trần Cao nổi loạn dẫn đến việc Mạc Đăng Dung cướp ngôi để Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm mưu đồ chống lại ở Thanh Hoá.
Bài trừ được thành kiến riêng biệt, tự tôn hay tự ty, về quốc gia chủng tộc, ta sẽ thấy lịch sử Đại Việt trong giai đoạn này tương quan với mối liên hệ văn hoá của dân Việt khi tiếp xúc với các dân tộc phương Nam, các dân tộc xa tận phương Tây theo thương thuyền tràn đến. Đồng thời họ cũng vẫn đào sâu những khả năng văn hoá từ phương Bắc đem lại đã lâu đời.
Hiện tượng này không phải là riêng rẽ độc nhất. Lịch sử các dân tộc vẫn để chúng ta lấy ra được những ví dụ chứng dẫn về sự phối hợp văn hoá: lịch sử văn minh Trung Hoa qua sự thành lập các triều Đường, Nguyên, Thanh chẳng hạn, nói rõ đặc điểm phối hợp của vùng Trung Nguyên với các dân tộc phía tây, phương bắc. Nhưng trong tính cách đặc thù của một trường hợp giao tiếp, chúng ta cũng vẫn thấy có sự riêng biệt: vì lẽ đó, chúng tôi coi biến động Tây Sơn như một kết quả của cuộc phối hợp văn hoá, chủng tộc ven biển Đông từ thế kỷ XV, biến động được tiếp nối một cách oái oăm bởi một nhân vật còn sót lại của dòng chúa phong kiến cũ.
Ta thấy trung tâm những biến động chính trị quy mô của Đại Việt cứ dời dần về phương Nam: Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm ở Thanh Hoá, con cháu họ
Nguyễn ở Phú Xuân, Tây Sơn ở Quy Nhơn, cuối cùng Nguyễn Ánh ở Gia Định. Nhắc lại, trong giai đoạn phá vỡ phân tranh này, lịch sử nhìn theo sự nảy nở của Tây Sơn, biến động kết hợp sự thu nhận văn hoá phương Nam và văn hoá kỹ thuật Tây phương do thương thuyền đưa đến. Xếp Nguyễn Nhạc, Châu Văn Tiếp, Nguyễn Hữu Chỉnh vào cùng bọn thương nhân nội địa kết tập phần nào do phong trào giao thương Âu - Á đem lại, không phải ta đã mắc vào lý luận quá thô thiển của Nguyễn Bách Khoa chỉ nhìn thấy một trong hai yếu tố văn hoá gây biến động thôi. Ở đây, chúng ta không nói đến sự thành lập một giai cấp thương nhân, phú hào, nhưng là sự chớm phát những nhà giàu vì buôn bán, buôn với trên nguồn, buôn với dưới biển. Không thể nào chối cãi được tính chất đại biểu của những người cầm đầu một biến động.
Duy ở đây không phải chỉ có yếu tố tư sản mà thôi. Những nhà giàu, thương nhân xuất hiện ở Đại Việt vào thế kỷ XVIII tất nhiên mang dấu vết đặc thù của xã hội này, không thể nào là khuôn mẫu in lại của những nhà tư sản Tây phương đã làm Cách mạng 1789 cả. Sự nồng nhiệt, lòng hăng say của Tây Sơn có tính chất rừng rú thật đặc biệt. Khi phát triển ra, họ sẽ đem tính chất này truyền thụ cho những người mới kết hợp. Nhưng thảm hoạ của Tây Sơn đã bắt đầu ngay từ bản chất của tập thể họ đại diện. Xúi được nông dân nổi loạn, họ phải lấn át hoặc bỏ rơi nho sĩ - hay bị nho sĩ bỏ rơi. Thế mà trong khuôn khổ ý thức hệ truyền thống, nho sĩ chính là lớp người hướng dẫn chính sách nông nghiệp trong nước. Bỏ rơi nho sĩ, không có chính sách nông nghiệp trong buổi đầu, họ lại gặp những biến động do họ gây ra khiến cho chính sách thương nghiệp của họ phải thất bại. Mất hướng tiến hợp với bản chất phát sinh của họ, họ quay về phủ dụ được nho sĩ đầu hàng thì chính sách nông nghiệp truyền thống lại tỏ ra thiếu sinh khí vì được thi hành đi lại mãi trên đất cũ: Tây Sơn Nguyễn Huệ bỏ đất Quy Nhơn đi về phía Bắc, có hùng mạnh hơn thực đấy nhưng phải chui vào lề lối sinh hoạt cũ để khiến phải tự tan rã. Nguyễn Ánh thừa hưởng được tất cả những thiếu sót Của Tây Sơn: một chính sách nông nghiệp mới trên đất Gia Định chứng tỏ hiệu lực của nó, một chính sách thương nghiệp trông chừng cho không làm hại cơ cấu chính thể mà vẫn có ích, tất cả đã làm dồi dào sinh lực quốc gia, điều hoà tạm thời cho không có mâu thuẫn trong quốc gia. Công trình đó đã thêm một bước cho sự hoàn thiện cuộc thống nhất (xem kết luận).
Cho nên, lịch sử, nhìn qua là lịch sử chiến tranh mà thực mang đầy ý nghĩa văn hoá. Ta có dịp dừng lại để nhìn - một cách thiếu sót - sinh hoạt của dân Đại Việt vào cuối thế kỷ XVIII (tiết 14). Ta dành một tiết (tiết 17) để bàn về mối dao động có thể gọi là ý thức hệ ở Gia Định. Từ đó, chiến sự không phải nổ bùng một cách lẻ loi mà hoặc là kết thúc của một chuyển biến văn hoá, hoặc là mở ra cho một chuyển biến văn hoá mới, lúc tiến, lúc lùi, chuyển đổi lặng lẽ hay ồ ạt: lịch sử diễn tả sẽ có đủ chiều sâu, chiều rộng,
sống động, dồi dào hơn. Chúng ta đã gắng đem lại ý nghĩa đích thực, đặt đúng giá trị của quan niệm lịch sử về biến cố vẫn thường hoặc được quá chú trọng hoặc bị quá coi thường vậy.
Trên đây là trình bầy tất cả lề lối làm việc cùng những ý tưởng hướng dẫn việc xây dựng tập sách này. Không có người ghi chép con người vẫn mang sử tính - nhưng ta không hiểu được lịch sử nếu nó không xuất hiện trên trang giấy. Ấy thế mà có biết bao nhiêu khó khăn cho người thu xếp: giới hạn số lượng tài liệu còn lại, khả năng phê phán, tổng hợp mớ tài liệu ấy, giới hạn gặp phải khi diễn đạt thành lời...
Nhưng những điều đó không phải để ngăn một giai đoạn lịch sử mang hình thức diễn tả là tập sách này. Chúng ta chỉ tạm dừng lại, chờ những tổng hợp khác gần với sự thực của quá khứ hơn.
Lời phụ thêm:
Tập sách này được viết vào các năm 1962, 1963, 1964. Đến 1969, một số tài liệu được phổ biến thêm nên chúng tôi có sửa chửa một ít chi tiết cho rõ ràng hơn. Còn đại thể, dàn bài, những ý tưởng giải thích giai đoạn lịch sử vẫn còn như cũ, không đổi.
PHẦN THỨ NHẤT - TAN RÃ Ở NAM HÀ (1771 - 1785)
Chương 1. CÁC LỰC LƯỢNG TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC ĐẾN KHOẢNG 1775
Tiết 1
BIẾN CHUYỂN TỚI 1775: TÂY SƠN KHỞI NGHĨA
Biến động Tây Sơn và những bạo động ở Bắc Hà * Sự suy đồi quyền bính ở Nam Hà với khả năng phản kháng của dân chúng * Chiến tranh Tây Sơn - Nguyễn. * Quân Trịnh vào Phú Xuân * Chúa Nguyễn vào Đồng Nai.
Sự kiện quan trọng nhất xảy ra trong lịch sử Đại Việt vào giữa hậu bán thế kỷ XVIII là “loạn” Tây Sơn. Từ trước không phải không có những người thường dân lên làm vua, dựng nên một triều đại mới, nhưng họ lập nghiệp bằng cách đánh đuổi ngoại xâm (Lê Lợi), hoặc bằng cách phụ tá triều đại trước, mang quan tước của dòng họ này rồi tìm cách soán đoạt (Trần, Mạc). Chỉ riêng có anh em Tây Sơn truất quyền các triều đại có mặt bằng mưu mô binh lực, đem vào lịch sử những tên mà bình thường là anh buôn trầu, chị đàn bà giữ con, ông thầy đồ ở làng và cả những kẻ sống ngoài vòng pháp luật nữa[28].
Biến động Tây Sơn có tính cách dân chúng làm ta liên tưởng những cuộc chống đối ở Bắc Hà dưới thời Trịnh Doanh, Trịnh Giang. Những Nguyễn Cừ. Nguyễn Tuyển, Nguyễn Danh Phương... đều dựa vào đám nông dân cùng khổ, lập riêng triều đình có khi đến hàng 10 năm trời. Tuy nhiên, họ làm loạn sát kinh đô, trong một xã hội quá thuần nhất về kỹ thuật, ý thức, nên phải chịu thất bại, ngậm thở ngùi than:
Hỏi sao sao luỵ cơ trần,
Bận tài bay nhảy, xót thân tang bồng?
Nào khi vỗ cánh rỉa lông?
Hót câu thiên túng trong vòng lao lung?
(Nguyễn Hữu Cầu)
Họ không đủ sức phá vỡ chính quyền Trịnh, nhưng ngược lại họ Trịnh nằm trong sự đổ nát của chính mình, trong sự rạn nứt của thời đại cũng không thể nào bóp nghẹt được sức phản kháng của dân chúng vốn lúc nào cũng hi vọng, chờ đợi:
Mặc bay đông ngữ, tây đàm,
Chờ khi phong tiện dứt dàm vân lung.
(Nguyễn Hũu Cầu)
Trong khi ở Bắc Hà chính quyền và dân chúng trông chừng nhau thì ở Nam Hà nhóm lên loạn Tây Sơn ngang ngửa, tàn bạo dứt đứt những gì tạo lập thế phân tranh kéo dài 200 năm có hơn. Tất nhiên đã có những điều kiện chủ quan và khách quan đem đến sự thành công cho họ, giúp họ từ một tiền đồn di dân hẻo lánh ào xuống xô đổ ngôi vị Nguyễn, trườn ra đất Bắc chấm dứt Trịnh, Lê, cũng như sau này có những điều kiện mới nảy sinh đưa đẩy họ tới thất bại, trao công trình thống nhất lần đầu mà họ mở lối kiến tạo vào tay một ông hoàng còn sót lại của Nam Hà.
Trước nhất là sự rối loạn ngay trong triều chúa Nguyễn ở Thuận Hoá. Ở đây mọi tội lỗi đều được bề tôi họ Nguyễn trút vào đầu Trương Phúc loan. Xử sĩ Hoàng Quang kể tội Loan với giọng hậm hực, có khi ngây ngô: quan Quốc phó đem tinh binh giữ biệt thự Phấn Dương của mình, để binh lão nhược ra ngoài chống giặc; quan thu thóc lúa, bạc vàng cho đầy túi bằng những mưu mô làm suy bại nước: quan thu dụng, mua chuộc triều thần để họ phải chịu “giọng miệng xôi chùa” …[29]
Võ vương Nguyễn Phúc Khoát mất đi (1765), Hoàng trưởng tử Chương đã qua đời (1763) mà Thái tử Hiệu, con thứ 9, lại còn mất trước đó nữa (1760)[30]. Đáng lẽ cha Nguyễn Phúc Ánh là Chương Võ, con thứ 2 Võ vương lên cầm quyền, nhưng bị Trương Phúc Loan giam vào ngục “ưu uất mà mất”. Việc này hại lây đến cả 2 đại thần: Trương Văn Hạnh và Lê Cao Kỷ[31]. Phúc Thuần con thứ 16 của Võ vương được lên ngôi (12 tuổi), chiếm địa vị của con Thái tử Hiệu thường được gọi là Hoàng tôn Dương. Rối loạn trong việc thế tập này còn ảnh hưởng rất lâu, đến mãi khi họ Nguyễn chạy vào Đồng Nai.
Đã được Duệ Tông phong làm Quốc phó, quản Tượng cơ, kiêm Tàu vụ, Trương Phúc Loan còn đặt vây cánh bên ngoài, cho các con lấy công chúa Ngọc Nguyện, Ngọc Chú để làm thế lực bên trong. Quyền uy có thì tiền cũng theo đó mà dồi dào. Chúa cho ông lấy sản thuế các nguồn Thu Bồn, Trà Sơn, Trà Vân, Đồng Hương làm bổng riêng, mỗi năm thu bạc đến 200 lượng có dư với ngà voi, sáp vàng, mật trắng, “đồ quý chất như núi”[32]. Gọi là
“Chúa cho”, nhưng chắc gì Chúa đủ trí khôn và đủ quyền để biết và có thể làm gì? Gia tư của Phúc Loan lại được tăng bội bằng nhiều hình thức ám muội khác. P. Poivre đã cho ta biết việc ông gạt tiền của người khách thương này[33].
Vai trò của Trương Phúc Loan trong việc xô đẩy triều chúa Nguyễn đi vào chỗ suy sụp thật không thể chối cãi[34]. Nhưng không phải chỉ mình ông thối nát.
An làm nơi chuyển tiếp ra ngoài. Nguồn Đồng Hương ở Bình Khang (Khánh Hoà, vùng Vạn Ninh) mà ĐNNTC tỉnh Khánh Hoà gọi Động Hương, là nơi sản xuất sáp ong vàng với các đội Hoàng lạp hoạt động thường xuyên. Như vậy có thể nói Trương Phúc Loan đã bao thầu hết các nguồn lợi trên rừng của Nam Hà và còn nắm quyền xuất cảng nữa (ông coi chức Tàu vụ). Sự việc này còn chứng tỏ sinh hoạt rộn rịp của ngành buôn nguồn, khai thác lâm, khoáng sản vào thế kỷ XVII, XVIII ở vùng này.
6. L. Cadière, “Quelques figures sous la Cour de Võ vương”, BAVH, 1918, t. 262-264.
7. L.M Cadière (bđd, t.270, 271) không phủ nhận lầm lỗi của Trương Phúc Loan, nghĩ rất đúng rằng người chung quanh ông cũng làm bậy như vậy, nhưng lại cho rằng sở dĩ sử quan nhà Nguyễn ghét ông vì ông đã gạt cha Gia Long không cho lên ngôi và vì ông một phần nào có cảm tình với người ngoại quốc. L.M không lưu ý rằng Trương Phúc Loan đón tiếp niềm nở P. Poivre chẳng hạn là để lợi dụng đổi tiền lấy bạc và khi thấy Poivre đòi ông thoả mãn việc đổi bạc riết quá, ông bèn tìm cách tống khứ đi ngay. Thêm nữa có nhiều chứng cớ cho biết mọi người đã kết tội Loan từ lúc Nguyễn Ánh chưa ló diện trên chính trường (Trịnh đưa hịch kể tội Loan để làm cớ tiến quân, Tây Sơn tôn phù Hoàng tôn Dương).
Không đợi đến Duệ Tông mới có trò hư hỏng vì Loan dạy cho cách ăn chơi. Võ vương lúc sanh tiền cũng chỉ nghĩ tới lạc thú riêng, P. Poivre được một ông Cai bộ cho biết như thế. Người khách thương đại diện cho Dupleix này được cho biết rằng các quan dưới quyền Võ vương có đủ cách dối gạt Chúa để cản trở Poivre. Đến nỗi ông phải kêu lên một cách tức giận: “Phải cho họ hiểu rằng chúng ta từ hơn 6.000 dặm lại đây không phải chịu mất cơ nghiệp làm giàu cho cả bầy háu đói này”[35]. Chúa có nhiều con bèn nghĩ ra cách gây dựng bằng cách bắt các quan nuôi các hoàng tử và phải chia của cho họ. “Nhưng họ không thiệt thòi vì nhờ sự che chở của Chúa họ sẽ được những gì họ muốn... Họ cướp bóc mà không bị trừng phạt và khi có của, họ sẽ đem giấu đút cho các con riêng của họ, bù ngay lúc bọn này còn sống phần gia tài mất đi kia”[36](phần chia cho các hoàng tử). Binh lính, tướng
lãnh bấy giờ thì lão nhược, nhút nhát, nghe đến phải đi đánh giặc vội vàng đem vàng bạc đút lót quan Quốc phó để cắt đặt người khác thay[37]. Tất nhiên tiền đó trong lúc trên không tuân cương kỷ này thì dưới, người ta không nề hà gì mà không vơ vét của dân đen.
An ninh không được chính quyền lưu tâm, trộm cướp tha hồ hoành hành. Rồi đói khổ, mất mùa càng làm cho dân chúng cùng quẫn. Chưa phải những trận đói kinh hồn của Cương mục, Thục lục tả vắn tắt, của các giáo sĩ ở Huế, Quảng Nam kể tỉ mỉ vào cuối năm 1774, đầu 1775. Đó là hậu quả của chiến tranh hơn là nguyên nhân của chiến tranh. Đói kém bắt đầu từ năm 1768 vì một sự sai lầm về chính sách tiền tệ: tiền kẽm được tha hồ đúc từ vua chí dân gây nên một tình trạng lạm phát khiến dân chúng mất tin tưởng, đua nhau với đám đúc tiền lậu mua lúa tích trữ, trong khi nhà giàu không dám tung gạo ra. Tệ trạng ấy kéo dài từ Phú Xuân đến Ba Thắc trong cả những năm không mất mùa[38]. Lại thêm tham vọng của Mạc Thiên Tứ, vùng Hà Tiên phải lâm vào cảnh chiến tranh với Xiêm, ảnh hưởng đến tình trạng sản xuất của một vùng vốn được coi là “vựa lúa của quốc gia”[39].
Rốt cục trong triều Chúa phân rẽ, năm phe ba phía. Chất men lý tưởng trung trinh không có đối tượng để nối kết lòng người. Dân chúng không nhờ cậy được ở chính quyền, phải quay về những người nào hứa hẹn và thực hiện được một phần nào hứa hẹn đem lại ấm no cho họ.
Nhưng không phải sự rối loạn triều chính, sự oán ghét của dân chúng đủ đem lại sự sụp đổ cho họ Nguyễn. Quan lại nhũng nhiễu hầu như là một chứng bệnh kinh niên của xã hội xưa, trước đó và mãi sau này nữa (cả dưới thời Tây Sơn). Ta đã thấy Nguyễn Hữu Cầu dõng mãnh, Nguyễn Danh Phương bền dai với dân chúng Bắc Hà phụ hoạ cũng không phá được họ Trịnh. Trái lại tình thế Nam Hà lúc này thuận tiện cho một cuộc nổi dậy thành công cho những người chống đối có mộng tưởng, có khả năng làm việc lớn.
Những điều kiện đó, anh em Tây Sơn đã có đủ, và nếu thiếu, đã biết tạo ra. Bởi vì đồng thời phản đối Trương Phúc Loan không phải chỉ có họ. Mùa hạ 1770, vùng Quảng Nam có loạn[40]. Nhưng cuộc loạn không có ngày mai. Chỉ còn anh em Tây Sơn.
Họ là 3 người: Nguyễn Văn Nhạc, Nguyên Văn Lữ, Nguyễn Văn Huệ. Sử quan nhà Nguyễn không cho biết rõ hơn. Nhưng trong một bức thư, giáo sĩ Labartette thêm một ít chi tiết: Nhạc là anh lớn, người thứ hai là “Đức ông bảy”, người thứ ba là “Đức ông tám”[41]. Nhiều tài liệu cho ta biết “Đức ông tám” là Nguyễn Huệ[42]. Lúc mới khởi nghĩa, Huệ mới 18 tuổi đầu.
Cách biệt thứ bực với người em nhỏ cho ta thấy Nhạc là người chủ xướng cuộc chống đối.
Anh em Tây Sơn là dòng dõi Hồ Quý Ly. nguyên quán ở đất Hưng Nguyên (Nghệ An). Ông bà họ bị quân Nguyễn bắt vào Nam nhân lúc Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật đem quân ra lấy 7 huyện phía nam sông Cả, thời Thịnh Đức nhà Lê (1653-1657, nhưng trận chiến kéo dài từ 1655- 1661). Một nhân vật chính trong họ bị bắt có thể là Hồ Phi Phúc. Họ được đưa về làng Tây Sơn thuộc huyện Phù Ly, phủ Quy Nhơn[43]Đến đời cha Nhạc mà Liệt truyện gọi tên là Phúc, mới dời xuống ấp Kiên Thành sinh ra 3 anh em, lấy mẫu tính để gọi Nguyễn Văn Nhạc, Nguyễn Văn Lữ, Nguyễn Văn Huệ[44].
Cứ theo sử sách thì nguyên nhân khởi loạn của Nhạc rất tầm thường: ông làm biện lại ở đất Vân Đồn (?) gá bạc, tiêu lạm tiền thuế, bị Đốc trưng Đằng đòi hỏi gắt gao “mới trốn vào rừng tụ đảng ăn cướp”. Chi tiết đòi tiền thuế phù hợp với bằng chứng của Chapman cho biết một nguyên nhân bùng ra rối loạn: Trương Phúc Loan đã đánh thuế vào khoảng một dollar espagnol cho tất cả mọi người, không phân biệt già trẻ, giàu nghèo gì hết[45]L.M Jumilla kể chuyện vào khoảng tháng 5-1773, một viên quan đi thâu thuế ở Quy Nhơn có mang lính hộ tống, bị quân Tây Sơn chặn lại đòi giấy tờ, tiền bạc, đâm cho một nhát ở vai trái phải cùng lính hầu bỏ chạy[46].
Nhạc thua bạc, quỵt thuế, túng cùng làm loạn hay đứng về phía dân chúng chống đối chế độ thuế má khắt khe rồi bị chính quyền vu cáo? Chúng ta đã có đủ tài liệu để trả lời dứt khoát. Việc viên quan thu thuế bị đâm tháng 5-1773 và việc Đốc trưng Đằng thúc thuế ở Nguyễn Nhạc rõ là một. Nhưng Tây Sơn đã khởi loạn từ năm 1771 và kéo nhau xuống đồng bằng cả lúc ban ngày từ tháng 4-1773 thì vụ gọi là quỵt thuế đâu phải là nguyên nhân của cuộc nổi dậy? Vả lại, địa vị của Nhạc không phải của một anh cờ bạc tầm thường: một người đứng đầu công cuộc làm ăn buôn bán của cả một vùng mới được chính quyền trung ương cho coi việc thu thuế rồi lại nhờ vào chức phận này mà tăng uy tín với dân địa phương[47], thì chống đối với chính quyền - tất nhiên là sống ngoài vòng pháp luật - đâu có phải đợi đến cái thế cùng mới bạo gan làm việc?
Quan sát vùng đất và cư dân, ta thấy rõ sự thực hơn. Làng Tây Sơn có thể coi như một tiền đồn di dân Việt ở về phía Tây, sâu vào trong xứ người Thượng. Là một tiền đồn di dân, thực vậy, vì tuy sử sách không nói rõ hơn, nhưng việc bắt người Hưng Nguyên đem lên vùng này có thể coi là họ Nguyễn đã áp dụng chính sách khai phá cổ truyền trên đất mới với tính cách
cưỡng bách mà thôi. Có lẽ đợi đến 2 đời sau, thành người địa phương, thoát tính cách tù binh cưỡng bách kia, họ Hồ mới dời xuống Kiên Thành, sửa soạn cho con dựng nghiệp lớn.
Vị tri cư trú mới lại đắc thế cho công cuộc làm ăn của họ này. Kiên Thành cũng ở trên bờ sông Côn như các sông nhỏ miền Trung khác, nối liền đồng biển và núi rừng, đóng vai trò rất quan trọng về nhân văn, kinh tế. Những sông này tạo nên những vùng đất nhỏ hẹp nhưng rất phì nhiêu. Chúng là con đường giao thông trao đổi phẩm vật trên rừng, dưới biển. Trên rừng có mật ong, trầm hương, măng le, vàng... chuyển xuống đồng đổi lấy gạo, chế phẩm (vải lụa, đồ sắt...). Lâm sản, lúa gạo lại đưa xuống các vùng biển để chuyên chở ngược về nguồn những loại cá, mắm, muối, đồng sắt [48]. Vùng ba huyện có địa điểm Kiên Thành như một giao điểm tụ hội của phẩm vật các nguồn Kim Sơn Đồng Hươu, An Tượng... chuyển xuống Nước Mặn, Thi Nại để ra biển và cũng là chỗ phân phối ngược lên các tài nguyên ngoài biển cả đưa vào.
Trong khung cảnh hàng hoá lưu chuyển như vậy, tay buôn Nguyễn Nhạc chọn lấy một phẩm vật quan trọng, cần thiết vì là nhu cầu của phong tục: trầu nguồn. Loại trầu này đắc dụng hơn thứ trầu trồng ở các vườn dưới đồng lá nhỏ mầu xanh vàng, gân lá nổi nhiều khiến miếng trầu hay dòn, dễ gãy. Có nhìn thấy từng giỏ trầu nguồn, lá to bằng bàn tay sè - têm được nhiều miếng - màu xanh lặc lìa, mềm mại xếp nằm sát lên nhau làm nổi những đầu cuống lá nổi thành hàng dài mầu xanh non, có nhìn thấy từng giỏ trầu chất vun lên, tươi mát chờ đón bạn hàng ở các phiên chợ sớm như thế mới thấy sự đắc dụng của một món hàng được khắp mọi giới ưa chuộng.
Căn cứ vào chút phong tục còn rơi rớt lại làm dấu vết cho trào lưu cuối mùa của dòng thương mại, căn cứ vào địa điểm Trường Trầu còn lại, ta có thể vẽ ra khung cảnh hoạt động trong vùng người hào phú đất Kiên Thành.
Len lỏi vào trong các nguồn - càng vào sâu lá trầu càng tốt, có những người Thượng hái trầu chứa trong gùi mang thẳng xuống Trường Trầu, hay qua những trung gian khác chủng tộc. Ở đây, người ta tỉa lá vàng úa, vứt lá sâu quăn, xén bớt phần cuống héo mặt - cho tỏ ra trầu còn mới - rửa sạch sắp xếp gọn ghẽ rồi chất cho các bạn hàng đem về phân phối các chợ miền xuôi. Nguyễn Nhạc hình như đã đóng vai trò đầu nậu[49]của công việc buôn bán này và chính nhờ sự giao thiệp khi gom góp, chuyển giao hàng hoá, điều khiển việc tính toán lời lỗ, trích thu phần lời của người mua, kẻ bán mà ông đã tập cho mình thói quen tổ chức, óc chỉ huy và sự quảng giao rất cần thiết cho về sau vậy.
Nghề buôn nguồn thịnh hành và nhiều lợi, nên đồng thời với Nhạc cũng có người nổi danh: Châu Văn Tiếp. Tiếp buôn gì? Không biết, nhưng có thể
nói chính vì tính cách không chuyên riêng một món hàng nào mà Tiếp yếu thế đối với Nhạc. Ông không nắm được một tổ chức lớn mà chỉ có những bạn buôn như Nguyễn Long (dân Đồng Xuân, Phú Yên), Phạm Văn Sĩ (dân Phù Mỹ, Bình Định, đồng xứ với Tiếp), nên lúc đầu khởi loạn phải phục tùng theo Nhạc, và khi phản kháng thì chỉ tụ tập được đám người Thượng trên một vùng núi thôi.
Gọi là Nguyễn Nhạc có lực lượng phối hợp lớn lao là chúng ta căn cứ vào tính chất cư dân trong vùng. Những nhóm người Thượng chắc trước khi Việt hoá đã sống lan xuống các vùng nguồn về phía đông hơn bây giờ nhiều. Họ là lực lượng kết hợp quý báu cho Nhạc lúc ban đầu. (Truyền thuyết ghi rằng Nhạc có một người vợ nhỏ thuộc bộ lạc Thượng hẳn không quá xa sự thực). Những người Thượng này còn có mối liên hệ chủng tộc gần với nhóm người Chàm ở Thạch Thành vùng Phú Yên[50]. Nữ chúa Thị Hoả của họ đã hưởng ứng Nguyễn Nhạc ngay từ lúc đầu.
Vùng này còn khối di dân Trung Hoa sinh sống như một tập thể tự trị, nhưng vẫn chịu dưới quyền nhà Nguyễn. Chính quyền tập họp họ thành từng “thuộc”: có 6 thuộc như vậy ở Quy Nhơn vào năm 1799 và 3 thuộc trước đó, hồi đầu thế kỷ XVIII, cuối thế kỷ XVII[51]. Họ sống bên lề một ít trong đất nước thu nhận họ. Phần lớn họ là Minh dân lưu vong, nằm trong các tổ chức hội kín (Thiên Địa hội) ít chịu dung hợp với chính quyền.
Nhưng ngay cả đám người Việt cũng có một phần lớn thoát ra ngoài kỷ cương của Triều đình: những người lên rừng, xuống biển trao đổi phẩm vật, những người làm thuê, gặt hái theo vụ mùa khác nhau của lúa núi lúa đồng, những kẻ trốn xâu lậu thuế... Vào những lúc rảnh rỗi, tất cả có thể gặp nhau quanh chiếu bạc, nơi đám hát. Triều đình không thể nào kiểm soát được đám dân “vong mạng, vô lại” này.
Cho nên không nên lấy làm lạ rằng dưới quyền Nguyễn Nhạc có bọn cướp Nhưng Huy, Tứ Linh ở nguồn An Tượng. Không ngạc nhiên với đám quân của Tập Đình, Lý Tài “người cao lớn, gọt đầu kết tóc, giả làm người Thanh, khi đánh giặc, uống rượu say, ở trần, đeo giấy vàng bạc xung trận liều mình”[52]. Tập thể hỗn tạp, cuồng say bạo động đó thật xứng mang tên “quân ó”, “hàm hồ tương ứng”[53].
Những khối người sẵn sàng bạo động được Nguyễn Nhạc nối kết thành một lực lượng vững chắc. Nhưng để hướng dẫn vào những mục tiêu to lớn phải nhờ ở tay một người từ xa đến, đem tầm mắt của ông Biện lại đất Vân Đồn vượt khỏi sự hạn chế của những dãy núi chập chùng bao quanh vùng đất ông. Đó là Giáo Hiến, môn khách của Trương Văn Hạnh, viên quan Nội hữu rủi ro trong cuộc tranh chấp ở Triều đình. Trong trường dạy văn võ của
Giáo Hiến ở An Thái có anh em Lữ, Huệ[54].
Hoàn cảnh đổi mới đã đem thay đổi đến cho con người Giáo Hiến. Nếu ở Phú Xuân ông phải lo sợ cho tính mạng mình thì ở phần đất cùng tịch này, ông có đủ thư thả để nuôi chí căm hờn Trương Phúc Loan. Rời bỏ địa vị bên cạnh quan Nội hữu, ông đã tách rời đám quan lại sang cả để đến gần với dân chúng hơn. Giá ngày trước kia có động lòng trước cảnh trăm họ lầm than ông cũng đến làm như Ngô Thế Lân, Nguyễn Cư Trinh dâng lên một bản “thái bình sách” là cùng. Trở thành một tên trí thức “vô lại”, con đường giữa ông chọn là lật đổ Trương Phúc Loan và Duệ Tông để tôn phò Hoàng tôn Dương. Giữa cái không khí thần quyền bàng bạc khắp địa phương[55]tạo bởi sự hỗn hợp tạp nhạp của tin tưởng nơi ông Dàng, nơi Bà chúa xứ, nơi Thần núi..., ông đem cái lý trí của Nho giáo tạo ra phụ hoạ vào việc giải thích lời sấm “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công” để xúi Nhạc làm loạn[56].
Ảnh hưởng chắc không phải chỉ xuyên qua Nguyễn Nhạc mà thôi. Một ông đồ nơi làng quê là cái đích ngưỡng mộ của dân chúng. Đàng này lại là một ông quan ở Kinh về. Chính kiến của ông chắc ăn sâu vào tâm trí mọi người một cách đáng kể. Ông đã đem vào đầu óc mọi người một lý tưởng. Chính trong lúc những người trong triều Chúa hoang mang, phân tán, hoang mang đến thành phản bội như sẽ thấy thì đám bần cùng nổi loạn tưởng đã tìm được một ý nghĩa cao cả cho hành động của họ. “Họ tuyên bố trong các làng mạc rằng họ không phải là những tên trộm cướp, nhưng họ gây chiến tranh là để tuân mệnh Trời và tuân lệnh Đức Thượng sư”[57]. Họ nói và làm, nên đã được dân chúng gọi là “những tên trộm cướp nhân đức”. Tất nhiên không tránh được những hành vi vô kỷ luật riêng rẽ. Nhưng trong phần lớn, đội quân Tây Sơn từng chứng tỏ một tinh thần chịu đựng kỷ luật rất cao được nâng đỡ bằng một lý tưởng và họ đã giữ được tinh thần này trong gần suốt thời gian theo chân anh em Nguyễn Nhạc.
Trong ý nghĩ của Giáo Hiến, chắc ông cũng chỉ mong Nguyễn Nhạc trừ được Trương Phúc Loan để trả hận cho bạn và mong Nhạc trở thành bề tôi lương đống của Triều đình. Đi theo đường lối này có Châu Văn Tiếp đóng ở núi Chà Rang (Phú Yên). Nhưng quyền hành động vào một tay cơ trí có tham vọng như Nguyễn Nhạc thì sự việc đâu có xảy ra như Giáo Hiến toan liệu được. Không phải là một sự phản bội, nhưng chính là vì Nguyễn Nhạc đã không xuất thân như Giáo Hiến, ở vào hoàn cảnh như ông.
Tuy nhiên trong buổi đầu, Nhạc không quên dùng chiêu bài tôn phù Hoàng tôn Dương, khen ông này “nhân hậu thông minh”[58]. Ý nghĩa tôn phù đến với Nhạc chỉ còn là một phương tiện không hơn, không kém. Tung
chiêu bài tôn phù, ông đã làm một công đôi việc. Một mặt nó sẽ làm cho công cuộc chiến đấu của ông có chính nghĩa buổi đầu để cho cuộc thay đổi khỏi đột ngột, lôi người theo dưới cờ của mình càng nhiều càng hay: Châu Văn Tiếp đã liên kết với ông suốt mấy năm trời, cùng theo quân đi Quảng Nam rước Hoàng tôn về Quy Nhơn[59]. Như thế hàng ngũ đối phương yếu đi. Lợi thế khác lại về ông: triều Chúa một khi còn giữ Hoàng tôn trong phe họ thì cứ còn nghi ngờ mà không có cớ trừ bỏ rồi cứ lục đục mãi.
Triều Chúa thật ở vào thế suy yếu nhất trong khi Tây Sơn càng ngày càng lớn mạnh.
Tháng giêng năm Nhâm Thìn (1772), Vua sai Chưởng cơ Tôn Thất Văn đi tuyển xét ở Quy Nhơn[60]. Báo cáo về việc Tây Sơn lập 6 đồn trên vùng Thượng đạo từ năm trước (1771)[61]có đến tai Triều đình rồi không? Tự ông quan kiểm tra này đã có thấy ở đây những dấu hiệu gì tỏ rõ một cuộc nổi loạn sẽ khuynh đảo được dòng họ ông hay không?
Tình hình nghiêm trọng hơn khi vào đầu tháng 4-1773, Tây Sơn đã kéo nhau từng toán xuống các chợ ngay lúc ban ngày, lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo, đe dọa đốt nhà cửa để bắt người tuân theo. Họ họp từng nhóm khoảng 300 người, riêng vùng Dou hau (Đồng Hươu, Đồng Hào?) có đến 600 người và họ quấy nhiễu suốt 7 tháng ròng ở Phú Yên, Quy Nhơn. Tổ chức của họ cứ theo thắng lợi mà trở thành lớn lao, có quy củ hơn. Lúc đầu họ võ trang giáo mác, cung tên và cả súng tay nữa. Họ đi bộ, nhưng sau đó, khoảng tháng 8, họ đi ngựa, cáng và võng. Để bày tỏ vị trí phương nam và tính cách bạo động của quân khởi nghĩa, họ mang mỗi đội một lá cờ đỏ dài độ 9 aunes (khoảng 1m)[62]. Thanh thế lớn lên, Nguyễn Nhạc dời quân xuống Kiên Thành tự xưng làm đệ nhất trại chủ coi 2 huyện Phù Ly và Bồng Sơn, cho Nguyễn Thung làm đệ nhị trại chủ coi Tuy Viễn, Huyền Khê làm đệ tam trại chủ coi quân lương[63]. Có thể là đạo quân của Châu Văn Tiếp và quân Nữ chúa Thị Hoả đã chia nhau khống chế Phú Yên. Quân thế thực phức tạp mà cũng thực nguy hiểm.
Triều Chúa còn thờ ơ với biến cố quan trọng nơi tỉnh nhỏ này thì quan Tuần vũ Nguyễn Khắc Tuyên làm gì mà chống cự lại được? Khoảng trung tuần tháng 9-1773, vào một buổi sáng sớm, có 2 đội quân với nội công đến vây biệt thự quan Trấn thủ, chiếm thành trì khiến ông phải bỏ lại ấn tín, vợ con, mặc quần áo sơ sài chạy ra Tân Quan. Lời thuật của Jumilla chứng tỏ phản ứng về phe Chúa ở địa phương hầu như không có. Về việc đánh phủ Quy Nhơn[64], tuy ta không nhận thuyết Nguyễn Nhạc chui vào cũi giả bị bắt vì địa vị chủ tướng không cho phép chính ông làm như vậy, nhưng ta
không thể bài bác hẳn câu chuyện[65]. Có thể đó là một mưu để làm kế nội công, ngoại kích và kẻ ngồi trong cũi tuy không là Nhạc vẫn có thể xưng là Nhạc để được lọt vào vòng thành gần dinh Trấn thủ hơn. Dân bạo động vẫn có nhiều kế hoạch liều lĩnh ta không thể ngờ được.
Chiếm được hai kho lương ở Càn Dương và Nước Ngọt xong, đến tháng 10-1773, họ ra Quảng Ngãi thắng thêm một trận. Nhưng lần này họ gặp phản ứng của triều Chúa. “Chúa sai các Phò mã Nguyễn Cửu Thống, Nguyễn Cửu Sách, Cai đội Phan Tấn, Nguyễn Vệ, Tổng nhung Tống Sùng, Tán lý Đỗ Văn Hoảng đánh chẳng lại. Sùng, Hoảng phải chết trận”[66]. Linh mục Jumilla cho biết rõ chi tiết hơn. Quân hai bên gặp nhau ở Bến Đá sau lễ Các thánh (1-11). “Bọn phản loạn có 3 đạo quân, hai bên là cánh quân Trung Hoa và người Thượng, giữa là người Việt... Buổi chiều ngày thứ ba, quân Trung Hoa ở cánh phải giết được viên quan dũng mãnh nhất của binh triều là Ou doi be”[67]. Họ toàn thắng và tiến vào Quảng Ngãi. Linh mục còn cho biết có một đạo thuỷ binh của quân triều đi đường bể bị bão đắm, chỉ còn thoát có một thuyền do một quan Công giáo điều khiển.
Trận thất bại này gây ra một sự rối loạn ở triều Chúa. Các quan đổ tội lẫn cho nhau thông đồng với Tây Sơn. Cuối cùng, Trương Phúc Loan thắng thế và Chưởng cơ Tôn Thất Văn phải dìm nước chết ở biển Tam Giang[68].
Hạ tuần tháng 12-1773 quân hai bên gặp nhau ở Bến Ván, “gần Tiên Đoả”[69]. Đội quân hùng mạnh của Chúa từ Hội An[70]gồm độ 5.000 người và cầm đầu là một viên quan dũng mãnh nhất trong tỉnh. Có thể đó là Nguyễn Cửu Dật mà Thực lục tiền biênthường ghi nhận chiến công. Jumilla đã kể một cách tỉ mỉ với ngày tháng xác thực trận đánh này. Hai bên giáp trận ngày 22-12. Binh triều qua 2 ngày chiếm hai luỹ. Cánh quân Thượng của Tây Sơn ghi một thắng lợi nhỏ, đuổi viên tướng triều chạy cùng với voi trận nhưng họ không tiến được hơn. Quân Tây Sơn cố thủ trong chiến luỹ độc nhất vững nhất còn lại. Mười tám viên tướng Tây Sơn và quân họ chống với 3 cánh quán triều 3 mặt: dọc theo chân núi , dọc theo quan lộ và từ các thuyền chiến dưới biển bắn lên. Thuỷ quân bắn chết được một viên tướng dũng mãnh của Tây Sơn với 2 tên quân. Sáng 27 quân triều toàn thắng tiến vào luỹ với một lính chết và hai bị thương.
Lời thuật chuyện cho ta thấy một điều quan trọng: quân triều uy hiếp được Tây Sơn nhờ có súng lớn. Lúc bấy giờ không có những cỗ đại bác lưu động trên đất (Nguyễn Ánh sẽ du nhập kỹ thuật này làm rối Tây Sơn). Các súng lớn gắn trên thuyền chiến và di động nhờ các thuyền đổi chỗ. Nhờ ưu thế đó, quân triều có thể tấn công từ xa, lưu động, khiến địch quân hoảng
hốt, tan rã mau.
Tây Sơn thua phải rút về Quy Nhơn. Nhưng trong chuyến vươn ra Quảng Nam này họ đã ghi nhận một thắng lợi thu phục nhân tâm nữa. Người ta thuật cho L.M. Jumilla nghe rằng trong lúc đi đường gặp một người Thiên Chúa giáo phải mang vòng sắt nơi cổ[71], họ rứt ra ném xuống đất. Dù mấy năm sau (1778), J. Liot có gặp một người cô (dì) của chúa Tây Sơn mộ đạo đi nữa[72], ta cũng không thể cho đó là một hành động sùng kính. Cử chỉ của tên quân rõ ra là của một kẻ chống đối muốn xoá bỏ những quy chế đang lưu hành, thế thôi. Tuy rằng lần sau ra đóng ở nhà thờ Tiên Đoả, tướng Tây Sơn (Nguyễn Nhạc ?) đã tỏ thái độ thân thiện với đạo giáo, đó cũng vẫn không phải là thái độ của một con chiên mà là của một tay chính trị. Họ lại thăm L.M, xin thuốc men và cho phép giảng đạo công khai, xây nhà thờ, cho 13 người lính gác bảo vệ. Họ lại đòi L.M tới Dinh nói rõ nguyên cớ nổi dậy của họ và cho biết mục đích của họ là thay đổi chúa Nguyễn và chính quyền. Tuy L.M đã dè dặt trả lời rằng ông không muốn “can dự vào việc chính trị” nhưng há rằng trước đó (thư 15-2-1774), ông đã không nhận xét rằng chính quyền “xấu xa” và cho rằng “giờ phán xét của Thượng đế đã điểm đối với chúa Nguyễn và bầy tôi” đó ư? Tất đã có những phản ứng của giáo dân hùa theo Tây Sơn khiến chúa Nguyễn phải cho ra một sắc luật ân xá ngày 12 tháng 3 Giáp Ngọ (22-4-1774)[73].
Tuy nhiên sau trận Bến Ván, Tây Sơn phải lúng túng. Tháng giêng Giáp Ngọ (1774), quân triều mặt bắc đánh thốc vào Quy Nhơn. Ngay trong sào huyệt của mình, Tây Sơn có thể để phản công dữ dội. Tập Đình, Lý Tài phục kích quân triều ở núi Bích Kê vào lúc khoảng 9 giờ tối, làm rối loạn 40 voi địch và đến sáng hôm sau thì đuổi kịp Tiết chế Tôn Thất Hương đâm chết. Cậu bé Tôn Thất Thăng (12 tuổi) trên đường tiếp chiến, hoảng sợ bỏ quân chạy suốt đêm. Chỉ trong 7 ngày, quân Tây Sơn chiếm lại Quảng Nam và cả tỉnh thành.
Họ ở đấy trong 2 tháng chống với Tôn Thất Nghiêm. Nghiêm bị đòi về chống Trịnh để Nguyễn Cửu Dật ở lại làm Tả quân Đại đô đốc đánh Tây Sơn 10 trận lui về Bến Ván. Họ có đủ thì giờ vơ vét của cải, mang đi 45 con voi, khí giới trong đó có 82 khẩu đại bác mà người Anh và người Hoà cho (?) chúa Nguyễn để giữ thành[74].
Việc rút lui này có thể còn do sự hiện diện của 2 chiếc tàu Ma cao vừa đến ở đấy. Cho nên, với sự trực tiếp can thiệp của chiếc tàu Diligent bênh chúa Nguyễn, họ đã không ngần ngại phá Hội An, vừa để cướp tiền bạc, vừa để trả thù. Bốn năm sau, Chapman ghé đến còn trông thấy cảnh điêu tàn của một nơi mà ngày trước “hàng trăm thuyền bè từ các cửa biển Trung Hoa và
Nhật Bản đến mua đường, quế, hồ tiêu, kỳ nam...”[75]. Hành động phá phách trong chiến tranh này tất không sao tránh khỏi nhưng cũng đủ làm xa lánh các khách thương mà sau này Tây Sơn cố tìm cách vời đến vì thấy cần thiết, nhưng họ không hoàn toàn đạt được ý muốn.
Còn đương chống nhau với Nguyễn Của Dật ở Quảng Nam thì Tây Sơn lại gặp phản ứng của Gia Định: mùa hạ Giáp Ngọ (1774), viên Điều khiển ở đó là Nguyễn Cửu Đàm sai Lưu thủ Long Hồ là Tống Phúc Hợp ra đánh Bình Thuận, Diên Khánh, Bình Khang, vượt vịnh Hòn Khói lăm le chiếm Phú Yên.[76]. Nhưng Tây Sơn lúng túng thì Duệ Tông cũng bối rối không kém vì quân Trịnh đã kéo vào.
Cái hận không đánh chiếm được Thuận Hoá vẫn canh cánh bên lòng các chúa Trịnh. Từ khi Trịnh Doanh chết đi, Trịnh Sâm lên nối ngôi (1767), tiếp tục đánh dẹp giặc giã còn lại trong nước: năm 1769 phá tan ổ giặc Hoàng Công Toản (con Hoàng Công Chất) ở Hưng Hoá; cùng năm, cứ điểm Trấn Ninh của Lê Duy Mật cũng bị phá vỡ. Đám quân binh đang hăng sức thì xảy ra việc Nam Hà. Chính viên Trấn thủ Nghệ An Bùi Thế Đạt vừa dự vào trận Trấn Ninh đã phi báo cho chúa Trịnh rõ. Đồng thời nguồn tin loạn Tây Sơn và việc Trương Phúc Loan chuyên quyền gây rối cũng được chính các nạn nhân của Loan, con Tôn Thất Duệ, Tôn Thất Văn chạy ra Thăng Long báo cáo tỏ tường . Hết sức[77]dè dặt, Trịnh Sâm cũng phái vào Nam một đạo quân lớn do Quận Việp Hoàng Ngũ phúc cầm đầu với các danh tướng của Trịnh còn giữ những vai trò quan trọng sau này: Phó tướng Bùi Thế Đạt, Thuộc tướng Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đình Thể, Hoàng Đình Bảo[78].
Đến Hà Trung, Phúc khôn ngoan nghe theo lời dặn của Trịnh Sâm biên thư cho Nam Hà mượn tiếng dẹp giặc. Đi sâu vào cương giới, ông cũng áp dụng chính sách chia rẽ đó: một bài hịch dài kể tội Trương Phúc Loan được ban bố ra[79]. Thực ra, Hoàng Ngũ Phúc chỉ xô một bức tường đã hư nát rồi. Nam Hà không còn có được ý chí đoàn kết của trăm năm về trước nữa. Mầm mống rối loạn bên trong đã làm cho lòng người phân tán. Cho nên, phản bội cứ tiếp theo phản bội mà làm chúa Nguyễn thua mất.
Quân mới đến bắc Bố Chính đã có một Tri phủ tên Trần Giai đầu Trịnh xin làm hướng đạo. Ở Đăng Xương (Quảng Trị), một thư sinh làm thơ xin yết kiến Hoàng Ngũ Phúc chỉ vẽ sở trường, sở đoản của quân Nguyễn để Trịnh quân liệu mà chế ngự. Phản bội khoác hình thức hèn hạ hơn như ở trường hợp hàng tướng Kiêm Long. Ông này xúi Quận Việp tiến quân bằng một câu nói ý “Đường không đi không tới, chuông không đánh không kêu”. Lòng người đã như vậy thì thành luỹ vững chắc mà làm gì? Còn đâu thời
Trương Phúc Phấn chống giữ cho luỹ Trường Dục? Cho nên, ở Trấn Ninh, Hoàng Đình Thể được các biên tướng giữ thành làm nội ứng mở cửa cho quân Trịnh tràn vào.
Tinh binh lúc bấy giờ ở Quảng Nam hết đến nỗi Duệ Tông phải rút Tôn Thất Nghiêm về. Tôn Thất Thiệp, Cai đội Thuộc nội Đặng phải đem cả quân Cấm vệ ra chống giữ Kinh thành. Quân thế thật là yếu cho nên trước đó, Trương Phúc Loan đã bị các đại thần họp lại bắt đưa cho Hoàng Ngũ Phúc, hy vọng quân Trịnh giữ lời tuyên bố trong bài hịch ở Hồ Xá mà dừng tiến quân[80], nhưng không ngăn họ nại cớ khác là vào giúp đánh Tây Sơn. Thành Phú Xuân bị vây ngày 28 Tết. Ất Mùi (30-1-1775), Duệ Tông phải dẫn quan binh, gia quyến với cả cậu bé Nguyễn Phúc Ánh, nương đêm tối ra đi theo cửa Tư Dung vào Quảng Nam, bỏ lại cả một kho tàng làm cho Trịnh Sâm thêm kiêu hãnh[81].
Mất Trương Phúc Loan, không phải họ Nguyễn được củng cố lại quân thế. Có thể Duệ Tông không ưa gì Loan, nhưng suốt 10 năm, ngôi vị của Nguyễn Phúc Thuần đã gắn liền với quan Quốc phó. Nay mất Loan, những khuynh hướng chống đối có thể để ép Duệ Tông phải chịu nhượng bộ trên đường lưu vong. Cho nên, ở Quảng Nam, Hoàng tôn Dương được tôn làm Đông cung coi giữ tỉnh này.
Nhưng Chúa phong Thế tử cho Dương thì Tây Sơn cũng đòi Dương. Thêm nữa, họ lại ở vào thế mạnh. Để cụ thể hoá đòi hỏi, họ tiến quân theo 2 đường đánh ép lại: Tập Đình, Lý Tài lên cửa biển Hợp Hoà, Nguyễn Nhạc đem bộ binh từ sông Thu Bồn đổ xuống, xua Nguyễn Cửu Dật về Trà Sơn (bán đảo Sơn Trà)[82]. Dương chạy về Câu Đê, Chúa chạy về Liên Chữ. Địa vị Duệ Tông càng bị đe doạ nặng. Ông phải tìm nơi nương tựa, tránh nguy hiểm, một nơi hy vọng còn người trung thành với danh hiệu Chúa vì ở xa địch và cách biệt với những điều tiếng không hay về sự tranh chấp trong Hoàng gia: đất Gia Định. Ngày 12 tháng 2 Ất Mùi (1775), Chúa xuống thuyền[83]. Và vẫn có cậu bé Nguyễn Phúc Ánh đi theo.
Bị Duệ Tông bỏ rơi, Đông cung Dương dễ dàng cho Tây Sơn thuận tiếng chiếm đoạt hơn. Họ tổ chức hai đạo quân rầm rộ đi “rước” ông về được Hội An sau khi phá tan một âm mưu phản bội trong hàng ngũ họ[84]. Biến chuyển này thực là quan trọng trong tấn tuồng lịch sử đang diễn ra. Các vai trò sắp phải đối bộ mặt, tuy người ta vẫn thấy nguyên vẹn các phe phái: Tây Sơn núp bóng sau Đông cung, Duệ Tông đã cao bay xa chạy, và quân Trịnh lăm le tiến vào.
Bây giờ Trịnh đối đầu với Tây Sơn. Cũng như lần mới gặp quân Nguyễn,
Nhạc thua to một trận ở Cẩm Sa, phải rút về Bến Ván và đem Đông cung về giấu ở Hà Riêu, An Thái rồi ở Bông Giang. Đối với quân Tống Phúc Hợp chực tiến ra, Nhạc dùng Đông cung diễn tấn tuồng tôn phò[85]để đánh lừa Hợp không phòng bị cho Nguyễn Huệ đánh trận thắng chớp nhoáng bất ngờ đầu tiên trong đời viên tướng tài ba chuyên yểm kích này (tháng 7 Ất Mùi 1775)[86].
Nhưng có Đông cung để lợi dụng, Tây Sơn cũng gặp phải trở ngại trong nội bộ họ. Đã nói trong buổi đầu dấy loạn, với chiêu bài tôn phò Dương, họ tập trung thêm dưới trướng những người chỉ có mục đích tôn phò, điển hình là Châu Văn Tiếp. Nhưng đâu phải Nhạc ngây ngốc dọn cỗ sẵn cho người ăn như vậy. Cho nên ý mượn cớ tôn phò để xây dựng sự nghiệp riêng phải tỏ rõ ra một khi Tây Sơn có Dương trong tay, nếu Nhạc không muốn đổ vỡ bao nhiêu dự tính của mình. Trong số những người hợp tác nhân dịp này biết rõ điều đó để chống đối lại với ông, quan trọng hơn cả tất là Châu Văn Tiếp [87]. Người thứ hai cũng quan trọng là Lý Tài. Nguyên nhân phản bội tuy không cùng là một với Tiếp, nhưng cũng do ảnh hưởng gián tiếp của việc bắt Đông cung Dương: ở Hội An, Tập Đình muốn giết Dương, Lý Tài phải can gián mãi mới thôi. Cảm tình giữa hai người nảy sinh từ đó, và một khi chống đối với Nguyễn Nhạc, Lý Tài sẽ gắn bó với Dương.
Các hành vi chống đối, bội phản này rất quan trọng trong việc làm yếu sức Tây Sơn và tiếp sức cho nhà Nguyễn hấp hối dài hơi hơn. Ta biết đám quan binh nhà Nguyễn, trừ một vài người, không có đủ gan dạ, cơ trí để đánh giặc: đã có nhiều chứng dẫn trước rồi, hãy kể thêm một Tống Phúc Hợp già cỗi, do dự, chẵn một năm trời mà không thống lĩnh Ngũ dinh qua được Phú Yên. Gan dạ, liều lĩnh dứt khoát để lấp đầy thiếu sót về số đông, về kỹ thuật, những cái đó trong buổi đầu này phải được huấn luyện từ trong lò lửa Tây Sơn. Cho nên, những hàng tướng Tây Sơn thực là của quý cho nhà Nguyễn. Hậu quả gián tiếp cho việc Lý Tài về với Gia Định là sự hợp tác của những người Trung Hoa ở đấy và cùng với việc Nguyễn Nhạc đuổi Tập Đình sau trận Cẩm Sa, có lẽ đám di dân Trung Hoa ở Quy Nhơn đã mất sáng kiến mà trở thành thụ động. Ảnh hưởng trực tiếp là việc suy yếu nhà Tây Sơn trong khoảnh khắc: Tây Sơn mất một nửa số lượng chiến thuyền trong khi lực lượng thuỷ quân là lực lượng làm cho họ tự tin nhất[88]vì lực lượng cốt cán đó giúp họ đổ bộ được vào Gia Định.
Nhưng dù sao thì vượt qua được những chống đối gây nên vì chuyện Dương, Tây Sơn cũng chính thức bước vào lúc hành động như một lực lượng độc lập với chính quyền cũ, không nhờ vả gì hết, cho dù chỉ là một chút tiếng tăm. Họ đem Đông cung an trí ở Thập Tháp để tự lập chúa mới (tháng
3 Bính Thân 1776). Với Trịnh, họ khôn khéo xin đầu hàng. Có những khó khăn trong tình hình quân chính ở Thuận Hoá (đói kém, dịch tể, sức chống đối của cựu thần Nguyễn), có những cản trở về mặt tâm lý (Trịnh vẫn coi đất mới khai phá của chúa Nguyễn như không phải của họ, họ chỉ bận tâm trong toan tính “đồng hoá”[89]vùng Thuận Quảng cũ vừa chiếm lại được thôi), khiến Hoàng Ngũ Phúc phải chấp nhận cuộc hàng đầu. Tây Sơn đóng vai trò “tướng Trịnh” khôn ngoan như họ đã tôn phò Dương: mỗi một công trận họ đều báo cáo với Hoàng Ngũ Phúc. Cho nên sau trận Phú Yên, Phúc bấy giờ ở Châu Ổ (Quảng Ngãi) bèn phong cho Nguyễn Huệ chức Tây Sơn Hiệu Tiền phong Tướng quân[90].
Thế quân bình Tây Sơn - Trịnh cũng tạm thời vững nhờ tình hình kinh tế hai vùng được nhà cầm quyền Tây Sơn khai thác mối tương quan có lợi cho phe họ.
Trong chiến tranh, phần lớn vùng của họ chỉ chịu một vài trận rồi tránh khỏi sự giày xéo qua lại trong các cuộc tiến quân. Cho nên không lấy làm lạ rằng hai năm sau, Chapman đến vùng Quy Nhơn thấy “bờ biển nhiều chỗ trồng trọt kỹ lưỡng... các vùng thấp trồng lúa và những cây tiêu trùm lên các đồi đến tận đỉnh”. Trên đường đi cáng lên thành Chà Bàn, ông cũng thấy vào trong một thung lũng trồng trọt kỹ lưỡng và ruộng lúa được cấy ngay trong thành[91]. Tiềm lực Tây Sơn được vững vàng còn nhờ số vàng bạc, khí giới họ cướp được ở các cuộc công phá tỉnh thành, hoặc nơi họ Nguyễn, hoặc nơi dân chúng, nhất là của cải thuyền bè của đám thương nhân Trung Hoa[92]. Chính sách chia của thô sơ buổi đầu khiến dân chúng nghèo khổ không lâm vào tình trạng đói khát. Lại quá khứ “dân đen” của những người cầm đầu còn gần quá nên họ sống rất giản dị, ít hao tốn. Chapman nhận xét rằng triều đình Tây Sơn thiếu cái huy hoàng, tráng lệ như của các ông Hoàng Đông phương, nhưng có tính cách sắp đặt, cẩn thận làm người ta có cảm giác đứng trước một vị chúa tể dũng mãnh. Đám quân hầu của một vị phò mã Tây Sơn có dáng kỷ luật, mạnh bạo. Đám quân lính dưới quyền gặp gì mặc nấy. Hiệu suất khả năng kinh tế do dó tăng lên. Cộng với khả năng của đám người cầm đầu, lòng hăng hái của binh sĩ, Tây Sơn quả có đủ điều kiện chủ quan làm e dè Hoàng Ngũ Phúc ở chính sào huyệt của họ.
Quân Trịnh ở Thuận Hoá, Nam, Ngãi có cả sự ủng hộ của Bắc Hà. Nhưng họ cũng vấp phải những khó khăn như tổ tiên họ đã gặp. Trịnh Sâm đã cẩn thận lập ra cả một tổ chức chuyển vận quân hướng từ Sơn Nam tới Đồng Hới[93]. Nhưng ngay từ đầu năm đó (tháng 2 Giáp Ngọ) Nghệ An đã gặp đói, dân chết[94]. Rồi khi tiến sâu vào Nam Hà thì quân Trịnh gặp thêm
khó khăn, lần này cực kỳ nghiêm trọng: chiến tranh lôi kéo toán quân qua lại tàn phá, Quảng Nam, Thuận Hoá đã gặp một trận đói kinh khủng trong lịch sử.
Đói từ tháng 10 Giáp Ngọ (1774)[95]. Ở cửa Hàn (Tourane) không còn một con heo, con gà, con vịt. Đường cát trước kia sản xuất thật nhiều, nay biến mất. Tiền sụt giá: một quan còn giá trị độ một đồng tiền. Đó là tình trạng giữa năm 1775[96]. Đã có người đàn bà ở giáo khu Bau nghe (?) ăn. thịt con[97]. Tình trạng nguy hại hơn là thêm vào với việt mất nhân công, người ta không còn hạt giống để gieo mùa sau[98]. Cho nên đói khổ không chừa đến cả đám quan quyền, tôn thất: các phu nhân phải đi ăn xin. Giáo sĩ Labartette vào một chủ nhật, ngạc nhiên thấy một người cháu vua dắt con trai, cả hai đều rách rưới, đến ăn mày ông[99]. Cả bản Hoài nam khúc thảm thương là tiếng kêu than của đám quan quyền họ Nguyễn mất tước lộc, chịu đựng kiếp sống của kẻ chờ tiếng “ta lai” (lại đây: tiếng gọi người ăn mày), van vỉ miếng ăn, rên siết đói lạnh.
Có thể nào mà quân Trịnh còn tinh thần chiến đấu vững chắt lúc ban đầu ở một nơi xa lạ đầy chết chóc, gớm ghiếc như vậy? Thêm nữa, chết chóc vì đói khổ dẫn đến chết vì bệnh tật. Đến điều này thì quân Trịnh không còn hy vọng gì tránh khỏi. Họ chết quá nửa. Và chính Hoàng Ngũ Phúc trong chuyến kéo quân về Phú Xuân cũng phải bỏ mạng dọc đường (tháng 10 Ất Mùi, 1775)[100].
Thiên tai loại dùm cho Tây Sơn một kẻ địch. Họ Nguyễn ở phương Nam, trên một vùng phì nhiêu, tiếp xúc gần hơn với trào lưu giao thương quốc tế qua sự trung gian của đám Hoa kiều Minh dân lưu vong hay thương nhân, có tìm cách gì loại trừ được những mâu thuẫn nội bộ đem từ Phú Xuân vào, có biết cách khai thác những điều kiện có lợi cho mình để chống đối với Tây Sơn không?
Tiết 2
LỰC LƯỢNG NGOẠI QUỐC
Lưu ý đến lực lượng Tây phương vì tiến bộ kỹ thuật của họ * Các đế quốc thứ hạng * Các đế quốc hàng đầu: cuộc cạnh tranh Anh, Pháp * Những kẻ phiêu lưu.
Thật là một chuyện không cần phải bàn cãi khi ta nhận xét rằng những biến động trong một nước tất có những tương quan ảnh hưởng với các lân bang. Những phong trào độc lập thời Bắc thuộc phần lớn được thành công nhằm vào những giai đoạn Trung Hoa gặp rối loạn, qua phân. Trái lại, những khi trong nước Việt có tranh giành ngôi báu, rối loạn thì quân Trung Hoa lại có cớ để đem đại binh sang. Cả một vùng Thuỷ Chân Lạp về tay chúa Nguyễn nhân dịp họ này nhìn về phương nam là do những tranh giành thế tập của các triều vua Cao Miên làm suy yếu thực lực trong nước họ. Từ cuối thế kỷ XV, với những phát kiến về hàng hải, người Tây phương đem thuyền bè sang Á đông, mở rộng sự giao tiếp Đông - Tây thì các nước ở Á châu một khi có biến động lại thấy ngay sự can thiệp của người da trắng. Quần đảo Nam Dương là một thí dụ cụ thể. Nước Đại Việt trong những thế kỷ phân tranh Nam, Bắc, có ngăn chặn được sự quấy rối của các thương nhân Tây phương cũng nhờ nơi tổ chức chính trị chặt chẽ ở hai miền. Cuộc thử sức giữa thuỷ quân và Thế tử Nam Hà Nguyễn Phúc Tần với hạm đội Hoà Lan vào cuối năm Quý Mùi (1643) mà kết quả là chiến thắng về tay quân Nguyễn đã làm cho Công ty Đông Ấn Độ Hoà Lan (VOC) - nói rộng ra, các thương nhân Tây phương - chịu bằng lòng đến buôn bán dưới sự kiểm soát của các chính quyền hiện hữu.
Tình thế đã đổi khác khi thời gian trôi qua. Biến động Tây Sơn làm đảo lộn các trật tự cũ. Duệ Tông dắt Nguyễn Ánh và tiếp theo sau đó, Đông cung Dương chạy vào Đồng Nai. Họ Trịnh ở phương bắc bề ngoài có vẻ hùng mạnh nhưng bên trong cũng bị mục nát vì sự nhu nhược của đám sĩ phu cầm quyền trước thái độ khinh lờn của đám Kiêu binh Thanh Nghệ. Từ 1674, họ đã giết quan Tham tụng Nguyễn Quốc Trinh, phá nhà Phạm Công Trứ. Một lần nữa vào năm 1741 họ lại phá nhà và chực giết Tham tụng Nguyễn Quý Cảnh. Chỉ còn đợi Trịnh Sâm chết đi (1782) với rối loạn bỏ trưởng lập thứ là Kiêu binh có thể can thiệp vào việc vua chúa để rồi huênh hoang tuyên bố rằng “ngày nay, được có triều đình, khiến vua tôn ngồi yên mà hưởng phú quý đều là sức của chúng mình”. Họ đã đi đến tột đỉnh của quyền hành nhưng vì thiếu một lý tưởng, thiếu một người cầm đầu sắc sảo, chúng ta không gặp được ở Bắc Hà một chế độ quân chính mà chỉ một tình trạng ô hợp, hỗn loạn của Kiêu binh thôi.
Nhìn về phương bắc, bực thầy của Đại Việt, cùng thời gian cũng đang ở trong tình trạng ruỗng nát bên trong cái vỏ hào nhoáng của triều đại Càn
Long (1736-1796) rực rỡ. Chiến thắng của quân Thanh ở Tân Cương (1755) mở rộng biên giới phía tây ngăn chận tham vọng bá chủ của Nga hoàng đồng loã với đế quốc Anh, nhưng tạo gánh nặng chiến phí gìn giữ quân đội thống trị. Ở nội địa, dân số vùn vụt tăng vượt xa số lượng đất đai khai khẩn không đủ cung ứng cho nhu cầu, tạo nên vấn đề cấp thiết và quan trọng nhất cho Trung Hoa mãi đến bây giờ. Giai cấp địa chủ bản xứ vốn đã hợp tác với quân Thanh, bây giờ lại hưởng thụ thêm mối lợi đất đai tăng giá nên cố sức giữ cái đà tích luỹ bằng cách ngăn chận công thương nghiệp không cho phát triển mạnh. Mâu thuẫn xã hội gặp dịp bùng dậy đồng loạt với mâu thuẫn mang hình thức quốc gia chủ nghĩa. Loạn nổi lên ở Sơn Đông năm 1774, năm sau Bạch Liên giáo phất cờ phản Thanh phục Minh ở Hà Nam, rồi An Huy. Đàn áp của chính quyền thật tàn nhẫn trên 6 tỉnh có nhiều tín đồ và cuộc loạn hao của tốn người dữ dội nhất từ 1793 đến 1802 mới chấm dứt.
Tình hình đáng chú ý hơn là trong khi Nam Bắc Hà, Trung Hoa ở các tình trạng rối ren, ngưng trệ kinh tế, kỹ thuật thì Tây phương bắt đà những tiến bộ kỹ thuật từ thế kỷ XV, càng ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Xét lịch sử Âu châu, sử gia Tây phương nhận thấy từ năm 1640, trái với tình trạng ngưng trệ trước đó, là bắt đầu cho một giai đoạn thịnh vượng về kinh tế. Sự tiến triển của hạ tầng cơ sở cứ biến đổi dần, ngấm ngầm mà chắc chắn suốt tiền bán thế kỷ XVIII.
Đầu tiên là sự phát triển dân số. Thuyết Malthus(1766-1834) là ý thức của Âu châu hoảng hốt lên vì sự gia tăng đó. Các tay lãnh đạo, trí thức ưu tú là những người trẻ tuổi. Thế kỷ XVIII là “thế kỷ của tuổi trẻ Âu châu”. Gia tăng dân số gây nên sự nghèo đói cho đám bần cùng khiến họ phải ra tỉnh, đi ra nước ngoài. Dòng xuất cư phiêu lưu tìm sang giàu khích động ở các thế kỷ trước vì vàng bạc của Mỹ châu, vì các chuyện kỳ lạ của Marco Polo đưa về, đến bây giờ vì biến đổi đã kể vẫn tồn tại với những người bỏ xứ mà đi.
Đáng kể là những người Âu châu ra ngoài nước - buôn bán, truyền đạo, phiêu lưu - hưởng được cả những thành quả về tiến triển kỹ thuật xảy ra trên đất nước họ. Thế kỷ XVIII ở Âu châu thấy xuất hiện những khoa học thuần tuý đồng loạt và có tương quan với những phát triển kỹ thuật trong các ngành dệt, máy hơi nước, chế tạo kim khí, nhất là ở Anh.
Tất nhiên, những tiến bộ này giúp ích cho sự phát triển lực lượng quân sự mà Âu châu tăng tiến từ khi biết dùng thuốc súng của người Trung Hoa qua dân Ả Rập. Nếu trước kia Alexandre de Rhodes ngắm chiếc thuyền Nam chinh của chúa Trịnh mà không thấy chiếc thuyền Hoà Lan nào dài bằng, thì đến thế kỷ này tình thế đã đảo ngược. Chưa nói đến dự trù can thiệp của Pigneau de Béhaine dựa trên sự kiêu hãnh về ưu thế quân sự của Tây phương, Chapman trong chuyến đi dò xét Nam Hà năm 1778 theo lệnh của Toàn quyền Anh ở Ấn Độ cũng có cảm tưởng tương tự.
Nhận xét về thực lực Tây Sơn, ông ghi: “Các đạo quân của Nhạc ít đáng
kể, giá trị quân sự kém lắm và tôi có thể nói chắc chắn rằng độ 100 người có kỷ luật sẽ đánh lui toàn bộ quân đội của ông ta. Thuỷ quân của ông gồm có vài chiếc thuyền chiến và 3 hay 4 ghe chài lấy của người Trung Hoa...” Có thể là còn một số quân rải rác các nơi, đi theo Nguyễn Huệ, nhưng riêng chính Nguyễn Nhạc cũng nhận thấy được ưu thế kỹ thuật Tây phương. Chính ông đã hỏi Chapman xem thử ông này có thể dùng các tàu dưới quyền để giúp ông được không? Với các điều kiện nào? Nhạc muốn có các cố vấn Anh, muốn có các tàu chiến Anh phụ giúp để thực hiện mộng khuất phục nước Cao Miên, toàn thể bán đảo đến tận Xiêm và các tỉnh Nam Hà phía bắc còn ở trong tay quân Bắc Hà. Đánh đổi lấy sự trợ giúp đó, Tây Sơn có thể nhường đất cho Anh quốc lập thương điếm.
Rồi không phải chỉ ở lãnh địa Tây Sơn Chapman mới gặp sự nài ép giúp đỡ quân sự đó. Ông đến Phú Xuân vùng chiếm đóng của Trịnh, một viên quan Bắc Hà đón tiếp ông cũng ló bộ mặt phản đối chính quyền và mong ông giúp một tay[101]. Tất cả minh chứng rằng mọi người thời bấy giờ đều biết đến sự hùng mạnh của Tây phương, cho dù chỉ mới biết qua các đội thương thuyền lẻ tẻ. Nhưng tương quan lực lượng của các quốc gia Tây phương có mặt ở Á châu vào hậu bán thế kỷ XVIII không giống như ở các thế kỷ trước. Những biến chuyển ở Âu châu đã gây nên sự thay đổi đó.
Người Bồ Đào Nha từ thế kỷ XIV đã tranh chiếm được nền độc lập trong tay dân Hồi giáo rồi dùng đám quân binh phong kiến thất nghiệp vào trong công việc tìm kiếm đất mới. Họ dùng võ lực giành giựt độc quyền bán hương liệu Á đông trong tay người Ả Rập. Đế quốc của họ là một chuỗi những thương điếm gần bờ biển, có võ trang. Kinh đô của đế quốc đó là Goa trên bờ biển phía tây Ấn Độ.
Nhưng từ 1580 nước họ sáp nhập vào Tây Ban Nha dưới quyền của Philippe II. Đế quốc họ tan rã dần vì sự tranh chiếm của người Hoà Lan. Đến thế kỷ XVII, khi họ giành được tự trị thì Ấn Độ đã mất. Chút quyền bảo trợ Gia tô giáo mà họ đã hưởng được của các Giáo hoàng về các vùng Đông của đường ranh giới ấn định bởi các hiệp ước Tordesillas 1499 rồi cũng sẽ bị sự cạnh tranh của các nước, nhất là nước Pháp với hội Truyền giáo, mà yếu dần đi và mất hẳn.
Tuy vậy khi xảy ra rối loạn ở Đại Việt, họ cũng muốn can thiệp vào. Có hai chiếc tàu Bồ ở Đà Nẵng vào dịp Tây Sơn ra Quảng Nam. Họ từ Macao tới. Macao là một nhượng địa mà người Bồ đã đem tiền lo lót đám quan lại Trung Hoa để lập nên thương điếm. Vào cuối thế kỷ XVIII, chính quyền ở đây dưới tay một viên quan cai trị do Lisbonne đề cử, đại diện cho vị Phó vương thành Goa với một Biện lý, một uỷ viên, hai thẩm phán và nhiều vị cố vấn[102]. Nhưng lực lượng quân sự của Bồ ở một nơi rất gần Đại Việt này
thực không đáng kể. Pigneau nói một cách mỉa mai về việc có ý định cầu viện một nơi như Macao, không có lấy một tên quân[103]. Viên biện của Phái đoàn Truyền giáo ở Macao thời đó là Letondal thì ghi rõ hơn: “Có độ 4 - 50 tên Cipaye hay mọi da đen không được huấn luyện kỹ càng và ăn mặc lôi thôi”[104].
Đế quốc Tây Ban Nha, vì hiệp ước Tordesillas, dồn toàn lực ở Mỹ châu thu nhặt bạc vàng và truyền giáo. Nhờ chuyến viễn du của Magellan (1519- 21), họ chiếm được Phi luật tân, biến đất này thành đất của Chúa, sung túc nhờ việc giao thương Á - Mỹ châu (qua Mễ tây cơ) bằng các thuyền galion. Họ cũng có quyền lợi tôn giáo ở Đại Việt. Các nhà tu hành khất (Franciscains) ở đây thường liên lạc với Manille. Họ có mặt trong vụ giúp đỡ Duệ Tông rồi Nguyễn Phúc Ánh. Quyền lợi tôn giáo lẫn lộn với quyền lợi quốc gia thường gây nên sự xung đột giữa người Tây Ban Nha và người Pháp[105].
Trong khi đó, người Hoà Lan mà tiếng tăm của họ ngày trước làm cho người Việt gán danh từ Hoà Lan đạo cho Gia tô giáo lại không có hành động nào đáng kể ở bán đảo này. Công ty Đông Ấn Độ của họ (VOC) thất bại ở Nam Hà, Đài Loan bèn dồn trở về quần đảo Nam Dương lo khai thác nhân vật tài lực ở đây. Vào hậu bán thế kỷ XVIII, họ bị người Anh cạnh tranh ráo riết: hiệp ước Breda 1763 cho họ toàn quyền ở Nam Dương, nhưng hiệp ước 1784 mở rộng vùng biển này cho các tàu Anh vào giao thương.
Biến chuyển xảy ra bất lợi cho các đế quốc già cỗi như vậy vì trong thế kỷ XVII, XVIII nước Anh đã phát triển mạnh về kinh tế để nắm quyền trên biển cả. Cạnh tranh với người Anh nhờ sự hùng mạnh của thời đại Louis XIV, người Pháp cũng phát triển ở Ấn Độ. Một tay phiêu lưu, François Martin, xây dựng nên thành phố Pondichéry. Dupleix (1697-1763) có tham vọng muốn thành lập một đế quốc Pháp ở Ấn Độ nên mở rộng đất chiếm được về phía nội địa rồi gặp phải tham vọng của người Anh ngăn cản lại. Từ trận Chiến tranh Kế vị ở nước Áo (1740-1748) đến trận Chiến tranh Bảy năm (1756-1763), Anh - Pháp xung đột nhau ở Âu châu rồi mở rộng chiến tuyến đến tận các thuộc địa. Karikal bị chiếm 4-1760, Pondichéry đầu 1761 rồi tiếp theo, Mahé, Nelisseram trên bờ biển Malabar lần lượt lọt vào tay quân Anh vì lỗi lầm nghiêm trọng của Lally Tollendal. Kết quả Trận chiến Bảy năm là người Pháp còn có 5 thành phố: Karikal, Pondichéry, Chandernagor, Mahé, Yanaon. Rồi vì Chiến tranh giành độc lập Hoa Kỳ, xung đột Anh - Pháp tái phát. Chandernagor (7-1778), Karikal (8-1778), Pondichéry (10-1778), Mahé (3-1779) phải bị quân Anh chiếm đóng lần nữa và chỉ giao hoàn người Pháp sau hoà ước Versailles 1783.
Cuộc xung đột ở thuộc địa thực ra có tính cách vì quyền lợi các thương
nhân, “chiến tranh các tay buôn”, như Voltaire đã nhận định. Kết quả là ở thuộc địa, nói riêng ở Ấn Độ, người Pháp bị thua thiệt, mất đất, hết tiền. Sau 1763, người Anh làm chủ nền thương mại nội địa, nắm trong tay các thợ dệt Ấn, điều khiển các ông Hoàng Ấn (nabab), xúi họ cản trở người Pháp. Ở Bengale, các giấy thông hành Pháp không có giá trị gì, tàu họ bị đóng thuế 2 lần, bị lục lọi, soát xét, ngăn cấm chở vàng bạc xuôi sông Gange (chỉ thị của W. Hastings 1769). Trước tình trạng đó, Bộ trưởng Necker phải giải tán Công ty Đông Ấn Độ và để cho các thương nhân được tự do buôn bán riêng rẽ (nghị định 13-8-1770).
Xung đột Anh - Pháp nghiêng thất lợi về phía người Pháp đã khiến cho họ phải tìm cách hướng về nơi khác Ấn Độ để vừa trả thù, vừa tìm lại thế làm quân bình lực lượng ở hải ngoại.
Ngày trước kia, P. Poivre đã chú ý tới vị trí địa lý thuận tiện của đất Nam Hà đối với việc buôn bán của người Pháp. Chiến tranh càng làm tỏ rõ giá trị ý kiến ấy ra. Trong những văn kiện bí mật, người Pháp đã nhận xét: “Hình như chỉ có xứ Nam Hà là đã tránh khỏi sự chú ý của người Anh, nhưng làm sao người ta có thể tin rằng họ sẽ không dòm ngó tới? Nếu họ quyết định ở đó trước ta thì mãi mãi ta sẽ bị loại trừ ở đấy, ta sẽ mất một điểm tựa quan trọng trong phần đất này của Á châu, phần đất làm cho chúng ta nắm quyền ngăn chặn người Anh buôn bán với người Trung Hoa khi có chiến tranh xảy ra, che chở việc thương mãi của ta ở khắp nơi trên Ấn Độ và làm cho họ luôn luôn lo ngại”[106].
Tin tức về loạn Tây Sơn ở Nam Hà được truyền đi đến các thuộc địa Anh - Pháp ở Ấn Độ nhờ những chuyến tàu buôn Tây phương ghé Đà Nẵng. Ta đã nói đến hai chiếc tàu Macao. Vào khoảng tháng 9-1777, chiếc tàu Diligent ghé Đà Nẵng chở về Ấn Độ L.M Jean de Loureiro, y sĩ của chúa Nguyễn, với hai vị quan đại thần xin đi nhờ vào Gia Định. Loureiro có vận động cầu cứu Tây phương giùm cho chúa Nguyễn. Thế là Anh - Pháp lại có đề tài để xung đột nữa. Warren Hastings, toàn quyền Anh, phái Chapman đi dò xét khoảng tháng 7-1778. Trước đó và cùng năm, viên tư lệnh thành Chandernagor, Chevalier, cũng đã thúc đẩy viên toàn quyền Pháp ở Pondichéry, De Bellecombe, nên nhân dịp này mà “hưng khởi uy thế và tăng tiến nền thương mại quốc gia”. Ông nhấn mạnh thêm rằng nếu không chịu làm trước người Anh, họ sẽ can thiệp vào và người Pháp “năm sau, sẽ đau đớn được tin rằng người Anh vừa có một thuộc địa mới nữa”[107].
Nhưng xung đột về Nam Hà không xảy ra giữa hai đế quốc. Chiến tranh Độc lập Hoa Kỳ (1775-1783) giải toả vấn đề Nam Hà. Hai chính quyền không lưu ý tới thì vấn đề bỏ lừng cho các sáng kiến cá nhân. Từ trào lưu xuất cư vào cuối thế kỷ XV, các thương nhân Tây phương đã
chứng tỏ tinh thần mạo hiểm phiêu lưu của họ. Chúng ta hãy nhận định ưu điểm của đám thương nhân nói chung về tinh thần mạo hiểm, sáng kiến un đúc thêm trong khi di chuyển so với đám người ở lì một chỗ, bảo thủ, kiến thức hẹp hòi, thiếu gan dạ. Hãy xét hành tung một Châu Văn Tiếp sau khi chống Tây Sơn, được triệu hồi về Gia Định đã lại ra Phú Yên chống đánh sát bên nách địch. Rồi khi Chúa chạy, quân tan, lần mò theo đường thượng đạo đi cầu viện, nhận được lời hứa, Tiếp lại theo đường rừng về tìm Chúa. Con người trung kiên đó đã từng đi buôn nguồn với chúa Tây Sơn là một ví dụ về tinh thần mạo hiểm của đám thương nhân.
Nhưng thương nhân Tây phương nhờ vào một phong trào rộng lớn hơn, đã có những hành động quyến rũ hơn. Chúng ta lưu ý đến một tác giả của hậu bán thế kỷ XIX, cũng là một tay phiêu lưu, ca tụng đám người tiền phong: “Vì một bao hạt tiêu, họ không ngần ngại cắt cổ nhau, từ chối sự cứu rỗi linh hồn, điều mà ở vào những lúc khác, họ đã tỏ ra rất bận tâm. Cái lối cứng đầu cứng cổ kỳ lạ trong khi theo đuổi ý muốn làm cho họ thách đố với chết chóc ở hàng ngàn hình thức: những rủi ro của biển cả xa lạ, các bệnh kỳ dị và ghê tởm, thương tích, bắt bớ, đói rét, dịch tể, tuyệt vọng. Điều đó làm cho họ trở nên to lớn, anh hùng, bi thống ngay cả trong những ham muốn buôn bán không thoả mãn của họ, trong khi cái chết lạnh lùng đến đem họ đi không chừa già trẻ. Hình như khó có thể tin rằng nội một lòng tham lam lại thúc đẩy những người ấy theo đuổi ý tưởng một cách liên tục, cố gắng và hy sinh một cách kiên trì như vậy... Với chúng ta, những người kế tục mà những thử thách như thế đã tránh khỏi, họ có vẻ sáng rực lên không phải vì những thành quả họ đã đạt được mà là vì chúng ta thấy ở họ những công cụ của định mệnh đã xô đẩy họ đi vào nơi vô định, tuân theo một tiếng nói bên trong, một khích động toàn thể để đi tìm một giấc mộng xa vời...”[108]
Riêng Đông Nam Á, điển hình cho đám người phiêu lưu này ở cuối thế kỷ XVII là Constantin Phaulkon đã làm cho Louis XIV tưởng thực hiện được tham vọng làm chủ một quốc gia: Xiêm La dưới triều Phra narai. Thế kỷ sau, thành công ở Ấn Độ của Dupleix (Pháp), Clive (Anh) về tiền bạc, danh vọng, gây nên sự thèm khát, ganh ghét ở các chính quốc. Vẻ huy hoàng rực rỡ của các triều đình Đông phương vẫn còn làm ngợp những tay phiêu lưu. Công ty Đông Ấn Độ Pháp suy sụp, Đế chính Pháp tan rã, các chức việc, võ quan thất nghiệp đua nhau đem kiến thức phục vụ các ông hoàng Ấn chống với người Anh. Trình độ kỹ thuật thu nhận ở quốc gia xuất phát, tinh thần gan dạ kèm với óc tổ chức khiến họ nổi bật lên giữa đám người họ phục vụ. Cho nên, không lấy làm lạ rằng những viên lính thuỷ đào ngũ của Pháp lại giữ những vai trò điều khiển quan trọng trong thuỷ quân Nguyễn Ánh sau này.
Hành động song song với đám người phiêu lưu vì tư lợi này còn có
những kẻ được gọi là Lớp người Phiêu lưu của Chúa và của Lòng Bác ái, tức là các tu sĩ Thiên Chúa giáo. Họ đi truyền giáo với mục đích đem những người “ngoại đạo” trở về nước Chúa. Ta cũng thấy ở họ tinh thần mạo hiểm không sợ gian nguy. L.M. Laneau can dự vào vụ Phaulkon bị bắt giam ở Ayuthia đến tháng 4-1691 mới được thả. Trong tù, ông viết thư (6-1690) cho Louis XIV: “Chúng tôi sẽ làm lại như cũ nếu phải bắt đầu làm lại...”[109]
Nhưng đồng thời, các tu sĩ này cũng không thể nào tách rời quyền lợi đạo giáo với quyền lợi tổ quốc của họ. Viên Tư lệnh thành Chandernagor đã nói rõ ràng trong một bức thư gởi cho Toàn quyền Pondichéry (12-2-1778): “Tôi luôn luôn lấy làm lạ rằng tại sao ông Bộ trưởng không ra lệnh cho các tu sĩ ở các nơi liên lạc thư từ với các người cầm quyền để báo cáo cho họ biết về tình hình chánh trị những nơi họ ở, với các chi tiết về buôn bán mà ta có thể gây được ở nơi đó. Điều đó chắc chắn có ích cho quyền lợi chung hơn là vài tên tín đồ mà họ phải chăm sóc. Với lại làm cả hai việc không có gì là mâu thuẫn hết. Trong khi một người là L.M, họ không nên quên rằng tình trạng tiên khởi của họ là người của vua họ và phải chú trọng đến việc phục vụ cho vua trong mọi việc cần đến họ”.[110]
Không phải là chính quyền ép buộc, các tu sĩ cũng công nhận việc phục vụ cho vua họ như một bổn phận thiêng liêng. Laneau trong thư nói trên, không ân hận đã bị bắt, vì “điều đó có liên quan quá nhiều đến thanh danh của Hoàng thượng.”
Chính trong cái ý thức tâm lý chung đó của thời đại mà chúng ta thấy các giáo sĩ đều đồng loạt hành động như nhau. Không phục vụ cho vua họ ở chính quốc thì họ phục vụ cho vương quyền nơi họ trú ngụ, nhất là khi đường lối phục vụ này có hy vọng dẫn đến kết quả tốt đẹp cho sự phát triển Đạo. L.M Jumilla có lần chê trách vua tôi nhà Nguyễn mà cũng phải theo phản ứng tự nhiên cho Duệ Tông chui xuống gầm giường, thoát tay Tây Sơn Nguyễn Lữ[111]. Các L.M ở Đồng Nai cũng như ở Thuận Hoá đều gọi Tây Sơn là “bọn phản loạn” (les révoltés), gọi Nhạc, Huệ là “kẻ bạo chúa”, “kẻ thoán đoạt” (le tyran, l’ursurpateur), bày tỏ trong các thư gởi đi tấm lòng hướng về cựu Nguyễn của họ. Chót hết là Bá-đa-lộc đã gạt bỏ bao lời mời gọi, dẫn dụ của Tây Sơn để hành động cương quyết trợ giúp Nguyễn Phúc Ánh. Cho nên, chính trong khung cảnh dó, có những tham vọng để phục vụ cá nhân, quốc gia hay tôn giáo từ bên ngoài sẵn sàng nhảy vào can thiệp mà chiến tranh chấm dứt phân chia ở Đại Việt thấy thêm một yếu tố quyết định vậy.
Chương 2 - GIA ĐỊNH, ĐẤT TRANH CHIẾM QUYẾT LIỆT
Tiết 3
ĐẤT GIA ĐỊNH VÀ CHÚA TÔI NHÀ NGUYỄN
*Tình trạng khai thác và tiềm lực của Gia Định * Trịnh chúa từ bỏ ý định Nam xâm * Đông Sơn Đỗ Thanh Nhân và Tây Sơn Nguyễn Lữ (1776) * Nguyễn Huệ tiêu diệt họ Nguyễn (1777) * Nguyễn Phúc Ánh và một giai đoạn mới của lịch sử họ Nguyễn.
Đất Gia Định[112]mà chú cháu Nguyễn Phúc Ánh dắt díu nhau vào hồi tháng 2 (Ất Mùi 1775) là nơi lập thành do công khai thác của hai nhóm người: đám Minh thần lưu vong nửa cướp, nửa quan và đám nông dân Việt nghèo khổ. Ở miền Đông, Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên khai phá đất đai và đáng chú ý hơn, họ mở mang thương cục, làm giàu bằng cách mua bán với đủ các hạng người: Trung Hoa, Tây phương, Nhật Bản, Chà-và (Mã Lai)[113]. Về phía cực Tây, Cảng Khẩu[114]Hà Tiên của Mạc Cửu cũng thịnh vượng bằng những sòng bạc rút tiền của đám thương nhân và bọn lưu dân Phú Quốc, Cần Giọt (Kampot), Rạch Giá, Vũng Thơm (Kompong Som), Trũng Kè, Cà Mâu[115]. Đám nông dân Việt thì phá rừng, vỡ đất, giành giựt đất ruộng của người Miên bản xứ[116].
Tất nhiên với sự khai thác vội vã như vậy, bản đồ xứ Gia Định vào hậu bán thế kỷ XVIII có những nét riêng biệt.
Việc Nguyễn Ánh tổ chức hành chánh ba năm sau (1778) cho ta thấy một vài đặc điểm đó. Ông hoạch định bản đồ và chia ranh giới cho các dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ liên lạc nhau. Dinh Trấn Biên lãnh một huyện (Phước Long) và 4 tổng (Tân Chánh, Bình An, Long Thành, và Phước An). Dinh Phiên Trấn lãnh một huyện (Tân Bình) và 4 tổng (Bình Dương, Tân
Long, Phước Lộc, và Bình Thuận). Dinh Long Hồ cải làm dinh Hoằng Trấn lãnh một châu (Định Viễn) và 3 tổng (Bình An, Bình Dương, Tân An). Đạo Trường Đồn (Định Tường) lãnh một huyện (Kiến An) và 3 tổng (Kiến Đăng, Kiến Hưng, Kiến Hoà)[117]. Rõ ràng là dân chúng (Việt) đã tập trung ở các thị trấn lớn và còn rải rác ở các nơi xa. Vùng Hà Tiên vì chiến tranh với Xiêm đã bị tàn phá, dân cư thất tán mãi đến thời trung hưng của Nguyễn Ánh (1788) cũng chưa gượng dậy được và còn chịu ảnh hưởng binh lực của người Xiêm. Các thị trấn Việt giăng hàng từ cù lao Đại Phố (Biên Hoà), Gia Định, Mỹ Tho, Long Hồ, Cần Thơ cắt đứt hẳn một khối đông đúc dân Miên ở khu vực Bassac, Trà Vinh đoạn tuyệt với chính quốc của họ. Khối dân này được hưởng sự thịnh vượng thương mãi do các cửa Cổ Chiên, Bassac, Mỹ Thanh vẫn là một ổ rối loạn, mệt cho những ai nắm quyền xứ Gia Định. Chính uy quyền của họ Nguyễn làm cho phần đất phức tạp này trở thành Đại Việt tách ra khỏi con mắt dòm ngó, không phải của đám vua quan Chân Lạp suy yếu mà là của quốc gia Xiêm đang lớn mạnh.
Đi vào Gia Định, Duệ Tông không những tránh thoát được gọng kìm Trịnh - Tây Sơn, bỏ rơi được vào tay địch một kẻ tranh quyền với mình mà còn kỳ vọng nơi đạo quân Tống Phúc Hợp để mưu đồ khôi phục. Kỳ vọng đó không phải là vô căn cứ vì đất Đồng Nai “vựa lúa của quốc gia” còn là nơi của đám dân tứ chiếng, cương cường, với đám hào phú Minh hương sống trong “lầu son gác tía”, “ngói lợp tường xây”, đủ tiềm lực nuôi dưỡng chiến tranh.
Viên lão thần Mạc Thiên Tứ tuy không còn thành trì để cai trị nữa, nhưng vẫn là cánh tay đắc lực của Duệ Tông. Là người Minh hương, làm quan triều, ông có đủ uy tín cũng như liên lạc hương ấp với đám hào phú Đồng Nai để kêu gọi họ giúp Nguyễn. Là tướng từng có tham vọng lớn lao (đã gây nên chiến tranh Xiêm - Việt 1769-1772), ông đủ quảng giao và biết rõ khả năng kẻ ông có thể lợi dụng được. Ông viết thư cho Bá-đa-lộc kêu ông này từ Nam Vang xuống vào khoảng giữa 1775[118]để bàn bạc chính sách cầu viện.
Những điều kiện thuận lợi đó, chú cháu Nguyễn Phúc Ánh đã không dùng được trong những năm đầu vào Gia Định, vì một mặt, Duệ Tông chưa giải quyết được những tranh chấp nội bộ, mặt khác, kẻ thù của họ anh em Tây Sơn nhân dịp rảnh tay phía bắc, đã theo đuổi họ đến tận cùng.
Gọi là rảnh tay phía bắc không phải chỉ vì Nguyễn Nhạc có một chính sách khôn ngoan đối với Trịnh Sâm mà còn vì Trịnh Sâm đã bỏ mộng tưởng chiếm đất Nguyễn. Thực vậy, đã nói đói kém, dịch tể ở Thuận Hoá, Quảng Nam ngăn bước tiến quân Trịnh. Trong khi đó ở Thăng Long, việc chiếm Phú Xuân mang lại cho Trịnh chúa cả một kho tàng to tát[119]để giúp cho
Sâm phung phí “làm ly cung ở trên Tây Hồ” mỗi tháng ba, bốn lần dạo chơi. Các nội thần giả làm đàn bà, bày hàng bách hoá chung quanh bờ hồ để bán cho các quan theo hầu Trịnh Sâm ghé lên mua trong tiếng nhạc dìu dặt, réo rắt của bọn nhạc công nấp đâu đó. “Triệu bất tường”[120]rõ rệt thêm trong sự nuông chiều thứ phi Đặng Thị Huệ. Cho đến năm 1777, khi con người làm “cho Chúa mất nước” này sinh được Trịnh Cán để có kẻ giành ngôi thế tử với Trịnh Khải, người con trưởng, thì nguy cơ nghiêng đổ ngai vàng đã không có cơ cứu vãn được.
Cuối năm 1775, Nguyễn Nhạc dẹp xong cuộc chống đối ở hai phủ Thăng (Bình), Điện (Bàn) (Quảng Nam) của Tôn Thất Xuân, Tôn Thất Quyền với mưu chủ Trương Phúc Tá và viên hào phú người Hoa tên Tất. Nhạc để cho Tham tướng Nguyễn Văn Duệ giữ Quảng Nam[121]mà không gặp phản ứng nào của Phú Xuân hết. Thực là một khuyến khích cho Nguyễn Nhạc trong việc đuổi theo họ Nguyễn.
Viên Tiết chế đi Gia Định vào tháng 2 năm Bính Thân (1776) là Nguyễn Lữ, lần đầu mà cũng là lần cuối cầm đầu quân tướng. Duệ Tông vội chạy đi Đồng Chàm ở Trấn Biên tị nạn, kêu Tống Phúc Hợp về cứu. Nhưng ngay ở Gia Định, Chúa cũng còn có một lực lượng phụ tá dưới quyền Đỗ Thanh Nhân, viên tướng từ Quảng Nam vào.[122]
Ông này đã tụ tập được 3.000 người ở Ba Giồng12[123]với các tướng Huỳnh Đức, Trần Bố, Đỗ Hoành, Võ Nhàn, Đỗ Kỳ, lấy tên Đông Sơn quân (cái tên mang quan niệm phong thuỷ, ma thuật, ngụ ý chống đối Tây Sơn, không chỉ một hòn núi nào hết). Binh tướng quay về với những vũ khí thô sơ, biến chế tại chỗ: dao xà gạc, đoản đao, gậy lao, gậy vung nhựa sối[124].
Sử quan nhà Nguyễn ghi ba trận thắng của quân Đông Sơn và quy công khôi phục Sài Gòn cho Đỗ Thanh Nhân. Thực ra trong lúc chưa có trận đụng độ to tát nào để ghi tên chiến trận thì Nguyễn Lữ đã vội vã vơ vét thóc lúa Gia Định chở trên hai trăm thuyền về Quy Nhơn. Thiếu người cầm đầu có tài, gan dạ, Tây Sơn đã bỏ mất một cơ hội tiêu diệt họ Nguyễn.
Vừa lúc ấy, binh tướng Tống Phúc Hợp cũng từ Bình Khang kéo vào với Lý Tài. Ở địa vị một viên Ngoại hữu do chiến công khắc phục Sài Gòn mà có và là chủ tướng Đông Sơn, Đỗ Thanh Nhân không dung một viên tướng Tây Sơn, cho dù là tướng đã quy phục. Xung đột xảy ra. Bị gọi là “đồ chó heo” ngay tại vùng đất đầy người Trung Hoa, Lý Tài tức giận chiêu mộ hơn 8.000 người, chia làm bốn sắc cờ, lập đội Trung đao quân riêng cho người Minh hương, lên chiếm núi Châu Thới[125]dùng giáo, tầm vông, dao, súng
điểu thương, trong tháng 8 thắng quân Đông Sơn ở suối Lồ Ồ[126]rồi đe doạ chiếm thành Phiên Trấn. Tình thế trở nên phức tạp hơn khi Đông cung Dương bỏ chùa Thập Tháp trốn xuống cửa Thi Nại đi vào Nam (5 tháng 10 âl)[127]. Vốn có quen Lý Tài từ lúc ở Hội An, Dương cố thuyết phục Duệ Tông chiêu hàng Lý Tài. Tài giữ sứ giả, đem quân xuống Sài Gòn, chịu để Dương chiêu an trong lúc quân Đông Sơn chạy về Ba Giồng khiến Duệ Tông phải chạy theo. Như vậy, Đông cung Dương đã thắng Duệ Tông một lần nữa. Cuộc đảo chánh thành khi Đông cung sai Trương Phúc Thận “rước” được Duệ Tông về chùa Kim Chương[128]để công nhận nhường ngôi cho. Dương thành Tân Chính vương dưới sự chuyên chính của Bảo giá Đại tướng quân Lý Tài.
Trong khi xảy ra sự phế lập ở Sài Gòn thì Nguyễn Ánh ở Ba Giồng với Đông Sơn. Không nên lấy làm lạ điều này. Từ khi vào Gia Định được chức Chưởng sử cầm Tả dực quân, ở bên Duệ Tông để bàn việc binh, khắn khít với Duệ Tông lúc chạy trốn Tây Sơn, Nguyễn Ánh luôn luôn hướng về Duệ Tông[129]chống Lý Tài “kiêu hoành nan chế”. Gia Định trong chia rẽ, Đông Sơn ở Ba Giồng chống Hoà Nghĩa quân ở Phiên Trấn, là miếng mồi ngon cho Tây Sơn.
Họ vào tháng 3 năm Đinh Dậu (1777) như họ đã hứa[130]cả thuỷ lẫn bộ, cầm đầu là Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ.
Tân Chính vương đem quân đi Trấn Biên. Tướng tiền đạo của Vương gặp Tây Sơn đều bị giết, Vương lui về Sài Gòn. Thuỷ binh Tây Sơn cũng đang dằng co ở đây. Hoà nghĩa quân giết được Tuần sát Tuyên ở Hốc Môn. Nhưng gặp lúc Trương Phúc Thận kéo quân từ Cần Giuộc[131]về tiếp viện, quân Hoà Nghĩa tưởng là Đông Sơn đánh tập hậu bèn bỏ Hốc Môn chạy về Bến Nghé. Tây Sơn thừa thế đuổi theo, thuỷ bộ ép đánh. Lý Tài hoảng hốt chạy về Ba Giồng bị giết, còn Duệ Tông được 4.000 quân Đông Sơn rước về trú ở Rạch Chanh[132]rồi đi Tài Phụ.
Tháng tư, Tây Sơn tiến đến đuổi Duệ Tông về Long Hưng. Gặp lúc Đỗ Thanh Nhân từ Rạch Giá đến, cả hai bèn đi Cần Thơ gặp Mạc Thiên Tứ. Sau khi bàn định, Đỗ Thanh Nhân bèn đi cầu Trần Văn Thức và Châu Văn Tiếp giúp đỡ. May mắn nhờ chuyến đi này ông tránh được nạn lớn.
Về phần Tân Chính vương ông chạy thua ở Rạch Chanh về Trà Tân[133] rồi được Tống Phúc Thiêm rước về Ba Vác[134]. Tháng 7, Tây Sơn đánh tan viện binh Bình Thuận của Trần Văn Thức và tiến đến Ba Vác. Tống Phúc
Hoà (em Tống Phúc Hợp) không giữ được lâu, tự tử. Vương chết cùng 18 người theo (19-9-1777) không có dịp để thực hiện ý định chạy ra Bình Thuận với Châu Văn Tiếp.
Số phận của Duệ Tông cũng được định đoạt sau đó. Chúa đã bỏ chạy đi Trấn Giang (Cần Thơ) tức là nơi Mạc Thiên Tứ và các con Tứ chống giữ. Nhưng Tứ từ trận Hà Tiên cũng không có thực lực nên bàn với Duệ Tông xin qua Kiên Giang đón thuyền đi Quảng Đông cầu viện. Chúa chạy về Long Xuyên, nhưng Tây Sơn đuổi kịp đến nơi. Chúa cùng Nguyễn Phúc Đổng, anh Nguyễn Phúc Ánh, và cha con Chưởng cơ Trương Phúc Thận, Lưu thủ Lượng, Tham mưu Nguyễn Danh Khoáng đều bị giết (18-10-1777).
Lúc bấy giờ Nguyễn Ánh ở đâu mà lại thoát khỏi cái vạ diệt tộc này? Sử quan nhà Nguyễn không lưu ý nhiều đến việc chạy trốn không lấy gì làm vẻ vang cho chúa của họ nên không xét đến nơi chốn lưu lạc của ông. Họ thay thế cái nhục lẩn tránh Tây Sơn bằng câu chuyện cá sấu đưa qua sông, một bằng chứng mạng số đế vương của ông hoàng này. Tuy nhiên, do đó ta cũng thấy những ngày chạy trốn thật đầy kinh hoàng. Thế mà, chỉ trong một tháng sau ta thấy ông có mặt ở Long Xuyên với Đỗ Thanh Nhân[135]. Điều đó chứng tỏ ông vẫn theo Duệ Tông từ lúc rời Ba Giồng. Nhờ đó mà được Pigneau đem giấu trốn và sai Hồ Văn Nghị đem thức ăn nuôi sống[136]. Nguyễn Ánh thoát nạn thật là một may mắn, trong khi Duệ Tông và Tân Chính vương chết đi không hẳn là một bất hạnh cho họ Nguyễn. Hai người chết đi, chấm dứt một giai đoạn trong lịch sử họ Nguyễn, giai đoạn suy vong, tranh chấp quyền lợi riêng tư trong cái thế nghiêng ngửa của dòng họ.
Đối với Tây Sơn, con bài Đông cung Dương đã không dùng đến nữa từ khi họ phá Tống Phúc Hợp ở Phú Yên. Nhưng thực ra nó vẫn giúp ích Tây Sơn trong việc cùng với Duệ Tông chống đối làm phân rẽ thế lực Gia Định cho đến bấy giờ.
Thất mã, đắc mã, cái chết tỉa Duệ Tông và Tân Chính vương ở vào trường hợp đó. Tin chắc đã xong việc Gia Định, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ kéo binh về Quy Nhơn để lại Tổng đốc Chu, Tư khấu Uy, Điều khiển Hoà cùng Cai cơ Chấn chia binh cai trị[137]. Nhưng khi anh em Tây Sơn xây thành Chà Bàn[138], Nguyễn Nhạc xưng đế, hiệu là Thái Đức, phong Lữ làm Tiết chế, Huệ làm Long nhương Tướng quân ở đất Quy Nhơn, thì họ cũng thấy ở Gia Định một trong những người cuối cùng của dòng họ Nguyễn tập hợp tàn binh chống lại. Thực là khó chịu cho họ.
Tiết 4
NGUYỄN PHÚC ÁNH VÀ QUYỀN UY Ở GIA ĐỊNH
Cuộc khởi binh ở Long Xuyên * Những nhận xét về Nguyễn Ánh * Vụ Đỗ Thanh Nhân * Cố gắng tổ chức kinh tế ở vùng Tây Sơn và giới hạn khả năng công phá Gia Định của họ.
Cả dòng họ Nguyễn sau biến cố Ba Vác và Long Xuyên gần như là không còn ai hoạt động nửa ngoài Nguyễn Ánh. Thực vậy, về phía vai chú Nguyễn Ánh có Tôn Thất Chất chết cùng năm này, Tôn Thất Đãng (1744- 1786) không hoạt động, Tôn Thất Xuân (1759- 1780) chạy sang Xiêm với Mạc Thiên Tứ và mắc nạn ở đấy, Tôn Thất Thăng nằm lì ở Phú Xuân. Hai người anh thì Tôn Thất Cao chết trận (không rõ năm nào), Tôn Thất Đổng cùng chết với Duệ Tông. Một người em, Tôn Thất Điển còn sống tới 1783.
Phải nhận rằng sau biến cố 1777, nếu kẻ sống sót không phải là Ánh thì biến chuyển ở Gia Định còn gây nhiều phiền phức cho họ Nguyễn. Bởi vì, chúng ta lưu ý rằng ở Gia Định lúc bấy giờ Lý Tài đã mất, Mạc Thiên Tứ lưu vong, lực lượng còn lại có người cầm đầu là quân Đông Sơn. Mà như ta đã biết, Nguyễn Ánh đã nhân danh Duệ Tông điều khiển quân Đông Sơn thì nay Duệ Tông chết đi, vị chúa không chối cãi của họ là chàng thanh niên 16 tuổi này.
Tháng 10 âm lịch 1777, ông trở về khởi binh ở Long Xuyên. Gặp Thánh Nhân ở Sa Đéc[139]và Cai cơ Hồ Văn Lận tiếp với quân Cần vương Tống Phúc Khuông, Nguyễn Văn Hoằng, Tống Phúc Lương, Dương Văn Trừng, ông đánh thắng ở Long Hồ. Tháng 12 Đinh Dậu, quân Nguyễn thừa thế trở về Sài Gòn, đuổi Tổng đốc Chu, Tư khấu Uy về Quy Nhơn[140].
Tháng giêng năm Mậu Tuất (1778), họ Nguyễn lập lại chính quyền dưới bóng cờ của Đại nguyên suý Nhiếp quốc chính Nguyễn Phúc Ánh. Như đã nói, một giai đoạn mới mở đầu, không phải chỉ riêng cho họ Nguyễn mà còn kéo dài cho lịch sử Việt Nam nữa. Những biến cố mới sẽ tuỳ thuộc không ít thì nhiều vào con người này mà ta muốn biết. John Barrow dựa trên các tài liệu của L. Barizy, của một viên thư ký Trung Hoa của chính quyền Gia Định (Trịnh Hoài Đức?) và các giáo sĩ mà vẽ rõ một Nguyễn Ánh lúc đứng tuổi với “dáng người cao trung bình, vẻ mặt đều đặn, nhẹ nhõm”, “màu da đỏ hồng, rám nắng vì dầu dãi..”.. Sử quan im lặng về điểm hình dạng này vì không dám mạn thượng, vì không có thói
quen tả thực. Nhưng khi nói đến tính tình thì ta thấy họ không tiếc dịp đề cao vị hoàng đế của họ. Theo họ, Nguyễn Ánh là người “thông duệ túc thành”. Ông rất trung thành với Duệ Tông, không bỏ vua khi nguy hiểm. Với bầy tôi, ông biết chia ngọt xẻ bùi trong ngày nằm gai nếm mật. Trong đời sống công cũng như tư, ta thấy ông lúc mềm mỏng, lúc cương quyết, ứng phó khá lẹ làng với tình thế. Ông tổng hợp được nơi mình vai trò của một chính trị gia, một võ tướng. Chúng ta có thể thấy vai trò ông đóng phải khó khăn tới chừng nào khi nghĩ rằng trong thời kỳ cầm quyền, dưới tay ông lố nhố một đám quan binh phức tạp vì tình thế (hôm qua cướp, nay quan, sớm đầu tối đánh) và lại phức tạp vì cấu tạo nữa (quân Việt xen lẫn quân Miên, Chàm, Mã Lai, Tây phương, Trung Hoa).
“Người ta tả ông gan dạ, không thô kệch, dồi dào biến trá trong mọi tình thế. Ý tưởng đúng đắn; không khi nào khó khăn ngăn chặn được ông và chướng ngại không làm cho ông lùi bước... Cử chỉ của ông đối với người ngoại quốc thật dễ thương và hoà nhã. Các sĩ quan dưới quyền ông rất kính phục ông. Ông đối xử với họ rất nhã nhặn, thân mật và tốt..”[141]. Sử quan còn cho ta biết ông bắn được súng điểu thương, bơi lội giỏi.
Những hình ảnh ấy tuy có lúc được vẽ vời cho có vẻ “chơn mạng đế vương” nhưng không hẳn quá xa sự thật. Cũng nhìn xét nhân vật quan trọng này để đồng thời tán tụng một bề trên của mình, L.M Lelabousse viết trong bức thư đề ngày 14-4-1800:
“Ông hoàng này có lẽ là con người nóng nảy, đoản tính nhất trong xứ, nhưng... những lời rầy la của Giám mục d’Adran đã làm đằm tính bồng bột đó”. Ông cương quyết nhưng không hung tàn, ông hay nghiêm trị nhưng theo lệ luật.
“Ông có đủ đức của tâm hồn cũng như của trí tuệ. Ông có tính biết ơn, bao dung và tế nhị về điểm danh dự. Lớn lên trong tai ương, ông chịu đựng được nghịch cảnh một cách can đảm, xứng đáng với nhà thông thái đã huấn luyện cho.
“Lúc trẻ ông ưa rượu, nhưng từ khi phải cầm đầu công việc, ông đã bỏ đi đến bây giờ không nếm lấy một giọt... Vì vậy, ông mới ra những lệnh rất nghiêm khắc chống với những ai say sưa...[142]
“Các đức tính trí tuệ không nhường những đức tính tâm hồn. Hăng hái, thông tuệ, thẳng thắn, ông hiểu ngay từ lúc đầu những việc phức tạp nhất. Ông nhớ mọi chuyện rất tài và ông bắt chước rất dễ dàng...
“Ông rất cần mẫn. Ban đêm, ông đọc nhiều. Ông rất tò mò tìm hiểu[143] “Đó là vị Hoàng đế vĩ đại nhất từ xưa đến nay cửa xứ Cochinchine. Giám mục d’Adran và ông hoàng này là hai con người vĩ đại mà những vẻ tráng lệ của xở này sẽ còn giữ lại hình ảnh oai hùng. Thế kỷ của họ sẽ lưu
danh...”[144]
Ảnh hưởng của Bá-đa-lộc ở Nguyễn Ánh không phải là không quan trọng, nhưng không phải chỉ như thế. Giáo dục mà ông hoàng này hấp thụ là một thứ giáo dục Khổng môn được khuôn nắn trong thực tế. “Lớn lên trong tai ương…”, Lelabousse nói có lý. Gia Long là một Nguyễn Ánh được tập thành trong biến cố. Tuổi trẻ, gặp gia biến quá sớm, trước một kẻ thù gần như là vô địch, bị rượt đuổi tận hang cùng ngõ hẻm, ông mang nhiều mặc cảm yếu ớt, hay than thở và bị bắt buộc mong đợi, trông cậy ở người nhiều. Nhưng tình thế giúp ông tự chủ dần dần. Việc khu trừ Đỗ Thanh Nhân là một ví dụ điển hình.
Nguyễn Ánh vừa yên vị ở Gia Định thì tháng hai năm Mậu Tuất (1778), quân Tây Sơn lại kéo vào. Quy Nhơn mắc bận rộn việc xưng đế của Nguyễn Nhạc nên phái vào Tổng đốc Chu, Tư khấu Uy và Hộ giá Phạm Ngạn. Tây Sơn chiếm đánh các vùng Trấn Biên, Phiên Trấn và ven biển. Cựu tướng Hoà Nghĩa đạo Trần Phượng thua trận ở sông Phước Lộc. Tháng ba năm đó, để Đỗ Thanh Nhân trấn giữ Sài Gòn, Nguyễn Ánh bỏ đi Bến Lức[145]Lê Văn Quân và Nguyễn Văn Hoằng chận đánh được Tây Sơn ở Bến Lức khiến họ phải rút ra ngoài sông lớn. Mở cuộc phản công, Đỗ Thanh Nhân chận được Tư khấu Uy ở sông Bến Nghé[146]trong lúc Nguyễn Văn Hoằng tiến đánh Đồng Nai (Biên Hoà) giết Liêm. Lăng thâu Trấn Biên. Thuỷ quân bị Lê Văn Duyệt phá, Phạm Ngạn theo đường bộ về Bình Thuận gặp cản trở của Châu Văn Tiếp và Lê Văn Quân phải thối lui về Quy Nhơn[147].
Việc Đỗ Thanh Nhân ở lại chống giữ cho thành chứng tỏ lần nữa vai trò quan trọng của ông trong chiến tranh. Địa vị ông sẽ càng vững chắc khi Gia Định thấy yên ổn, thoát khỏi những chuyến nhiễu lược thường xuyên của Tây Sơn.
Trong các năm 1778, 1979, 1980, Gia Định lo củng cố thực lực của mình: Nguyễn Ánh lo tổ chức hành chánh, chia doanh trấn, đặt người coi giữ, tạo chiến thuyền, trữ lượng phòng bị chiến tranh. Sức mạnh Gia Định cũng cần phải được chứng minh với phiên thuộc, nhất là với Chân Lạp đang thừa thế rối ren để tìm cách thoát khỏi ảnh hưởng của Đại Việt.
Từ tháng 6 âm lịch (1779), ở Chân Lạp, Nặc Vinh đã giết Nặc Thâm và bức tử Nặc Tôn để chiếm chính quyền. Đỗ Thanh Nhân đem quân đánh dẹp, lập Nặc Ấn là con Nặc Tôn lên làm vua, lưu Hồ Văn Lân ở lại bảo hộ rồi rút quân về.[148]
Ngay chính trên đất Gia Định cũng không yên vì thiểu số người Miên ở vùng Trà Vinh dưới quyền của tù trưởng Ốc Nha[149]. Họ chiếm cứ một
vùng mà sử quan phải tả là “rừng sâu, đầm lớn, cỏ dầy, tăm tối”. Đỗ Thanh Nhân lúc bấy giờ giữ chức Ngoại hữu Phụ chính Thượng tướng quân, nhân dịp tức vị của Nguyễn Ánh (đầu Xuân 1780) bèn cất quân phá rừng, mở đường tiến đánh. Dương Văn Trừng lấy móc sắt câu các thuyền lại với nhau, dựng bè chuối trên thuyền để ngăn tên giặc và theo nước thuỷ triều, quan binh đã tiến lên phá được sức kháng cự của địch quân.
Chiến thắng Trà Vinh xong, Đỗ Thanh Nhân trở về sửa soạn chiến thuyền, huấn luyện thuỷ binh cùng bộ binh. Ông tiếp tục học hỏi về khoa học, kỹ thuật Tây phương với Bá-đa-lộc.
Việc tổ chức ở Gia Định chắc có Bá-đa-lộc nhúng tay vào một ít. Ông này đã có mặt ở đây từ 1775 mà mối liên lạc mật thiết với Nguyễn Ánh được các nhà truyền giáo rõ từ năm 1777. Tuy nhiên, người quan trọng vẫn là Đỗ Thanh Nhân.
Kiêu căng trong quyền tước, ỷ thị nơi lực lượng Đông Sơn trong việc giữ gìn quyền vua, Đỗ Thanh Nhân trở thành chuyên chế. Ông mộ thêm vây cánh riêng cho ông. Bản tính hung bạo, ông làm cho cả xứ phải sợ hãi, thù ghét. Quân Đông Sơn cũng có những hành động tàn ác như Trung đao quân của Lý Tài thuở trước: họ dùng hình phạt rất thảm khốc, thiêu sống người, giết cả đàn bà có mang. Có tham vọng không cùng, Đỗ Thanh Nhân còn muốn chiếm lấy chánh quyền. Ông cắt xén các khoản chi phí trong cung. Nguyễn Ánh tới phủ riêng ông không thèm giữ lễ. Ông cho tay chân nắm các chức vụ, và để cho những ai thân hậu được mang họ của ông như một vị chúa tể vương tước.
Nhưng một võ tướng thô bạo như Đỗ Thanh Nhân tự dẫn mình đến chỗ chết mà không hay biết.
Một người chín chắn, có ý thức về địa vị của mình, có nhiều phụ tá mưu lược như Nguyễn Ánh, tất không thể nào chịu ép một bề. Vào gần nửa đêm một ngày nào đó, ông đi tìm Bá-đa-lộc để hỏi ý kiến. Ông này phân vân giữa Đỗ Thanh Nhân và Nguyễn Ánh, cả hai người ông đều có ý giữ liên lạc để lợi dụng truyền đạo, nên trả lời thối thác một cách khôn ngoan. Ánh khóc về, vẫn không bỏ ý định giành lại quyền binh.
Tống Phúc Thiêm thấy được ý Ánh, tâu xin trừ “giặc bên cạnh vua”. Ánh suy nghĩ rất lâu và hai người bàn bạc kỹ lưỡng. Cuối cùng mưu kế được đặt ra. Nguyễn Ánh giả bệnh ở mãi trong cung, các quan văn võ phải vào vấn an. Nhưng trong mấy ngày đầu, Đỗ Thanh Nhân không tới. Đến cuối ngày thứ ba, ông tới với một số đông vệ sĩ như thường lệ. Để quân hầu ở ngoài, Nhân tiến vào trong gặp mẹ, vợ Nguyễn Ánh trong phòng bệnh, cả hai không hay biết gì hết. Nhân chưa kịp nói một lời thì một nhóm vệ sĩ ở phòng bên cạnh tiến ra, giết chết ngay.
Nhưng mối lo sợ của Nguyễn Ánh khi nghĩ tới hậu quả vụ trừ Đỗ Thanh Nhân đã xảy ra. “Tôi ngại có rối loạn lớn”. Quả vậy, quân Đông Sơn mất
chủ tướng bị phân ra làm 4 đạo. Một số quân trung thành với chủ cũ chạy về Ba Giồng, căn cứ cũ, làm phản dưới quyền của Đỗ Bảng, Võ Nhàn - anh của Phò mã Chưởng hậu quân Võ Tánh sau này.
Các loạn tướng không được may mắn như mấy lần chống đối trước. Trong tháng 5 nhuận, Nguyễn Đình Toàn, Tống Phúc Lương được lệnh đánh họ ở sông Lương Phú. Tống Phúc Lương vụng về làm bại binh. Lương bị biếm, Cai cơ Nguyễn Văn Quý, Phan Văn Tuyên thay. Đỗ Bảng, Võ Nhàn đều bị trừ[150].
Như vậy, Nguyễn Ánh cũng đã trải qua một cơn thử thách. Lần này, kẻ địch không phải từ ngoài vào mà là nằm trong tâm phúc. Thử thách đó làm vững chắc thêm kinh nghiệm cầm quyền của ông. Vụ này đã gây nên sóng gió trong chính quyền Gia Định. Cuộc bạo loạn của các phản tướng Đông Sơn là một trong những nguyên nhân làm ngưng cuộc tiến quân ra Phú Yên hồi giữa năm 1781.
Sử quan nhà Nguyễn vẫn cho là vụ này làm đầu mối cho việc Tây Sơn lại tấn công vào Nam: được tin Đỗ Thanh Nhân bị giết, Nguyễn Nhạc mừng rỡ “Hữu Phương chết rồi, các tướng khác không đáng lo” rồi chuẩn bị nam chinh[151]. Sự thực không giản dị như vậy. Đỗ Thanh Nhân cũng như Châu Văn Tiếp năm sau, không đủ là một cản trở nguy hiểm cho Tây Sơn.
Chúng ta lưu ý rằng từ 1775, lúc tiến lúc lui, quân Nguyễn vẫn giữ các vùng Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận trong khi Tây Sơn chuyên chú vào việc tấn công Gia Định tới ba lần rồi. Tại sao vậy? Không phải tại có Châu Văn Tiếp cản trở ở vùng ngoài như người ta vẫn tưởng. Chuyến nam chinh 1777, Tây Sơn kéo vào bằng cả đường bộ mà không gặp cản trở quan trọng. Tổng đốc Chu, Hộ giá Phạm Ngạn những lần rút lui tuy bị chận đánh nhưng vẫn về được Quy Nhơn. Có thể coi bọn Châu Văn Tiếp như các đội tiền đồn lẻ tẻ, lẩn tránh trên vùng núi rừng trong khi đại bản doanh đóng ở Gia Định với họ Nguyễn cầm đầu. Đánh vào nơi phải đánh, đó là lý do Tây Sơn “nhập khấu” Gia Định.
Tây Sơn còn biết Gia Định ở một điểm nữa: đó là sự sung túc ở miền này. Họ hẳn không quên việc họ cướp thuyền lương của Mạc Thiên Tứ viện trợ cho Duệ Tông vào năm 1774, việc Nguyễn Lữ chở lúa thóc kho Gia Định về Quy Nhơn. Ngoài ra, họ còn cướp tiền bạc của các phú thương Hoa kiều ở cù lao Đại Phố nữa. Có thể nói tiền của, thóc lúa đó đã nuôi nấng quân Tây Sơn chật vật đánh giặc.
Tình trạng nghèo cực ở vùng Tây Sơn không phải là một điểm lạ. Họ nổi dậy thừa hưởng một xứ cùng khổ sẵn, càng cùng khổ hơn vì tàn phá của chiến tranh, làm ruộng đất bỏ hoang, công nghệ lụn bại, khiến họ khó khăn khi muốn phát triển quyền lực quá giới hạn địa phương quê hương họ.
Chiếm thêm Quảng Nam, họ chỉ thêm được một xứ tan nát của Nguyễn, Trịnh để lại. Họ phải mua những vật dụng cần thiết nhất của các thuyền buôn Trung Hoa nhập cảng với giá cắt cổ. Tiền bạc do đó hụt lần và họ phải phá nhà thờ, nhất là chùa để lấy chuông tượng đúc tiền.
Nguyễn Nhạc cũng ước lượng được tài nguyên trong xứ rất dồi dào: tiêu, đậu khấu, quế, gỗ mun, ngà voi, thiếc... mà dân chúng không biết lợi dụng vì họ “ngu dốt”. Nhưng ông cũng biết rằng các nước khác coi các thứ này là quý giá và chúng có thể đem lại lợi tức cho quốc gia ông. Cho nên, gặp Chapman, ông vội vã mời buôn bán, đưa ra một thuế biểu: 10.000 quan cho một chiếc tàu 3 cột buồm, 7.000 quan cho tàu 2 cột buồm, 4.000 quan cho những chiếc nhỏ hơn. Bị chê mắc, ông hạ xuống còn 7.000 quan, 4.000 quan và 2.000 quan. Rồi mời mọc Chapman về nhà riêng, ông lại ném ra một ý kiến tỏ ra hàng đầu: tha thuế. Cuộc thương thuyết thật tức cười nhưng cũng cho ta thấy được tình cảnh đáng thương của Tây Sơn trong việc thực hiện mơ ước lớn lao với các phương tiện eo hẹp.
Thực vậy, chính quyền Quảng Nam cho Chapman một giấy phép buôn bán, bắt mọi người ai mua đồ của ông phải trả đủ, không được ức hiếp, ngược đãi ông cũng như khách hàng của ông. Nếu không tuân, họ sẽ phải chịu những hình phạt nặng nề. Nhưng điều đáng nguy cho cả Tây Sơn là Chapman không tìm được một người nào trong tỉnh để thảo luận việc bán buôn. Ta hiểu tại sao có điều đó: chỉ có người Trung Hoa mới làm nghề buôn bán to lớn, thế mà Faifo vừa bị tàn phá đến tận gốc thì ai đâu mà giao dịch với ông[152].
Tóm lại chiến tranh không phải là không hao tốn cho Tây Sơn. Sau này, Nguyễn Ánh có lần kéo quân ra cũng vì lương vận tải không kịp mà phải rút về. Cho nên, những chuyến đánh vào rồi lại quay ra của Tây Sơn phải được giải thích bằng sự giới hạn của lương tiền cung cấp chiến tranh. Giới hạn này lại chuyển qua hình thức khác, giới hạn quy định của gió mùa. Đánh vào khi còn mùa gió bấc, rút về khi nổi gió nam, Tây Sơn phải liệu định thời gian hành quân thu đến mực tối thiểu: chiến thuật yểm kích, đánh mạnh rút nhanh mà người ta vẫn khen Nguyễn Huệ, có một phần nguyên cớ từ các giới hạn này.
Chật vật như vậy nên khi anh em họ xưng Đế ở Hoàng đế thành (Chà Bàn), khinh địch đưa vào Nam toán quân yếu kém của Tổng đốc Chu, họ đã để mất một cơ hội diệt Nguyễn Ánh. Phải chờ tới năm sau khi Nguyễn Ánh đã thu nhận những yếu tố mới (tiết 5) để cải thiện binh lực[153]. Tây Sơn sợ tàu Hoà Lan trở nên e dè. Đỗ Thanh Nhân chết rồi, Nguyễn Ánh còn tổ chức được một cuộc tiến quân ra Phú Yên. Tây Sơn hẳn không dám vội xét đoán hậu quả cái chết của Nhân sẽ có lợi cho họ. Thực ra, chỉ có lúc tin Hữu
Phương chết hợp với điều chứng kiến tận mắt về khả năng của đội quân Tôn Thất Dụ tiến ra, họ mới vững lòng ồ ạt phản công, “nhập khấu” Gia Định lần nữa để ghi trận Ngã Bảy vào sổ quân công của họ như ta sẽ thấy.
Tiết 5
KỸ THUẬT TÂY PHƯƠNG RỤT RÈ BƯỚC VÀO CHIẾN TRANH NAM HÀ
Mới mẻ trong quân lực Nguyễn Ánh * Trận Ngã Bảy * Vụ cầu Tham Lương và hậu quả * Châu Văn Tiếp và Nguyễn Huệ.
Khi các đối phương mở cuộc chiến tranh thanh toán nhau thì họ thử dùng tất cả phương tiện để đạt tới mục đích. Trong cuộc tranh chấp Tây Sơn - Nguyễn ở buổi đầu này, lòng can đảm, gan dạ của chiến sĩ Tây Sơn bị ngăn cản rất nhiều vì hậu thuẫn kinh tế giới hạn, vì thiếu phương tiện nối liền với một chiến trường xa nơi xuất phát. Cho nên thấy được kỹ thuật cao độ của Tây phương Nguyễn Nhạc mới đề nghị với họ xin người luyện tập sĩ tốt, mướn tàu chở binh lính, mở giao thương. Nhưng ông đã thất bại như ta đã thấy và sẽ thấy vì xứ sở ông, do ảnh hưởng của chiến tranh, thiếu mất đám người trung gian quan trọng: thương nhân Trung Hoa.
May mắn hơn Tây Sơn, Nguyễn Ánh ở Gia Định có những điều kiện để lôi kéo thương nhân Trung Hoa, lại thêm các giáo sĩ Tây phương, một trung gian quan trọng khác nữa. Trong khi phân trần về hành động đã can dự vào chính trị Đại Việt, Giám mục d’Adran chứng minh cho ta thấy xác nhận trên trong bức thư đề ngày 26-7-1779: “Hai chiếc tàu từ Macao đến Bassac trong năm nay để buôn bán... Một người Trung Hoa đưa ý kiến với ông lớn của xứ Cochinchine cho ông ta biết rằng tàu chứa đầy đại bác, diêm tiêu, lưu hoàng và các thứ khí giới, đạn dược khác. Ông quan mà tôi rất quen đó đương hết sức cần các thứ hàng hoá này, vội vã bắt tôi viết thư cho các quan coi tàu yêu cầu họ bán cho ông hết hay một phần. Hay nếu có thể, họ đem tàu giúp xứ Cochinchine: đổi lại, họ được hưởng quyền ghé bến và những quyền lợi khác nữa”[154].
Tuy các vị chủ tàu có phàn nàn về thái độ tham dự của Bá-đa-lộc, cách giao thiệp này cũng đưa tới kết quả là vào khoảng tháng hè 1781 trong cuộc duyệt binh tháng 5 Tân Sửu với không dưới 3 vạn quân, 80 thuyền đi biển, 3
đại chiến thuyền, sử quan ghi rõ có hai chiếc tàu Tây (Tây dương thuyền). Thực ra, Bá-đa-lộc và các L.M giòng Franciscain ghi nhận tới 3 chiếc tàu Bồ Đào Nha chở đầy binh lính, khí giới súng đạn và lương thực. Chính Bá-đa lộc, “bằng cách nói chuyện chơi” cũng đã du nhập kiến thức, kỹ thuật mới vào Gia Định khi ông dạy Đỗ Thanh Nhân lối dùng lựu đạn, làm giúp một thước đo góc đạc điền, một rapporteur, một ống loa, một dụng cụ thiên văn và những dụng cụ toán học khác... Hơn nữa, ông còn cho người giúp việc của ông, Mãn-noài, Emmanuel..., một tay lính thuỷ breton, sang phụ tá Nguyễn Ánh, điều khiển một chiếc tàu Bồ.
Có được lực lượng như vậy, Nguyễn Ánh tuy vừa mới xử xong Đỗ Thanh Nhân, vẫn tưởng rằng có thể tấn công ngay Tây Sơn. Sau kỳ duyệt binh, ông sai Tôn Thất Dụ làm Tiết chế bộ binh Bình Thuận cùng Tống Phúc Thiêm, Nguyễn Hữu Thuỵ, Dương Văn Trừng ra Hòn Khói[155]hợp với Châu Văn Tiếp tiến đánh. Hai chiếc tàu Bồ nhân dịp này giương buồm chạy thẳng. Chiếc thứ ba dưới quyền Mãn-noài không trốn được. Tuy chỉ có một mình, nó cũng làm cho binh Tây Sơn nghe đồn bọn “Olane” giúp vua, bây giờ thấy chiếc tàu do tay “Ông Cả” tạo ra, “chạy không cần nước”, đâm ra sợ hãi bỏ trốn khỏi Bình Thuận, Bình Khang, Phú Yên[156]. Nhưng cuộc tiến quân không đạt kết quả vì bộ binh Tây Sơn với nhiều voi thiện chiến đã đánh đuổi quân Nguyễn Ánh làm Châu Văn Tiếp phải chạy về Chà Rang. Gặp lúc dư đảng Đông Sơn nổi dậy, quân Nguyễn rút về Gia Định.
Tốn thực nhiều để trang bị tàu Bồ mà không được ích lợi gì, triều đình Gia Định lấy làm tức giận. Nếu phải e ngại phản ứng ngoại quốc thì Mãn noài có đó để ra tay trả thù ngay, luôn tiện thanh toán mối hiềm Pháp, Tây Ban Nha trên bình diện đạo cũng như đời ở xứ này. Mãn-noài đã phục cho viên chủ tàu Antonio Rodiguez say trong một tiệc rượu, rồi giết chết cùng với 27 lính Bồ khác và L.M Antonio làm Tuyên uý dưới tàu, chỉ để thoát có 8, 9 kẻ bơi trốn vào bờ (tháng 9-1781).
Tất cả những việc xảy ra làm suy kém binh lực Nguyễn Ánh, tuy nhiên họ cũng còn mạnh hơn đạo thuỷ binh Tây Sơn kéo vào đầu tháng 4-1782, như nhận xét của Pigneau. Sử quan Nguyễn ghi đạo quân Nhạc, Huệ vào cửa Cần Giờ tháng ba Nhâm Dần có độ vài trăm thuyền. Tống Phúc Thiêm lãnh thuỷ binh từ khi Đỗ Thanh Nhân chết đi, được lệnh dẫn binh ra sông Ngã Bảy đợi. L.M Ginestar ghi nhận quân Gia Định có hơn 400 thuyền chiến, 70 ghe Tàu (?) và chiếc tàu Bồ của Mãn-noài cướp.
Nguyễn Ánh đứng ở đầu thuyền, chiến đấu rất hăng. Nhưng Tây Sơn thừa thế gió lớn thổi thuận, xông thẳng lên, ào ạt tiến đánh. Tống Phúc Thiêm mang phần lớn binh thuyền bỏ chạy, Nguyễn Ánh phải lui. Tây Sơn đuổi theo nhưng bị Mãn-noài cản trở. Hai lần họ cố trèo lên tàu mà không
được vì Mãn-noài dùng lựu đạn ném họ tan tành. Lần đầu tiên chiến cụ Tây phương chứng tỏ trực tiếp hiệu nghiệm của nó. Nhưng quân địch vẫn ào ạt xông lên lần thứ ba. Lần này họ thành công. Mãn-noài một mình ở lại giữ thuyền, châm lửa cho thuyền nổ, mình chết. TâySơn đã thắng trận nhờ gan dạ nhưng phải mất rất nhiều mạng.[157]Thực là một mối cám hận cho Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ.
Nguyễn Ánh bỏ chạy về Ba Giồng, có khi lẩn trốn trong khu rừng Romdoul của Chân Lạp.[158]Tây Sơn đuổi theo vào cuối tháng tư dương lịch, bắt vua quan Chân Lạp hàng phục và bắt tất cả những người Việt chạy loạn ở đấy phải về nước. May mắn cho Nguyễn Ánh, một việc vừa xảy ra ở Phiên Trấn khiến Tây Sơn bị ngăn trở phần nào trong việc săn đuổi.
Lúc bấy giờ Tiết chế Bình Thuận Tôn Thất Dụ nghe Tây Sơn vào Gia Định vội xuất binh đem Nguyễn Văn Đàm, Trần Văn Tự, tướng Hoà nghĩa Trần Công Chương đi vào cứu giá. Tháng 1 âm lịch, viện binh đến Vườn Trầu[159]gặp bộ binh Tây Sơn, họ bèn phục binh đánh. Tham tán Hồ Công Siêu bị đạn chết. Về phía Tây Sơn, Hộ giá Phạm Ngạn bị Chương giết ở cầu Tham Lương. Vừa lúc ấy đại binh Tây Sơn kéo đến, họ phải rút lui.
Cái chết của Phạm Ngạn gây ra một cuộc giết chóc Minh dân tàn bạo không từng thấy. Nhạc, Huệ đã mất khôn ngoan rồi sao?
Chúng ta hãy lưu ý trước tiên đến cá nhân người bị giết. Tài liệu không nói rõ gì hơn, nhưng ở chỗ khác ta thấy Nguyễn Huệ có một người vợ họ Phạm đã sinh ra Quang Toàn. Trong xã hội cũ của chúng ta, mối liên lạc tông tộc, địa phương là một bảo đảm cho sự vững bền của triều đình. Cho nên họ Trịnh lựa quân Tam phủ cho làm Ưu binh, hưởng đặc quyền. Họ Nguyễn trọng người Tống Sơn đến nỗi lấy phẩm từ “quý” thay thế cho cái tên huyện riêng kia để gọi những người cùng xứ đã theo Nguyễn Hoàng vào Nam là dân Quý Huyện, Quý Hương, cho hưởng rất nhiều ưu đãi đến như Tống Phúc Phượng theo Tây Sơn tới thế cùng lực kiệt mới hàng vẫn được kể vào hàng thần từ nhà Nguyễn. Tây Sơn vươn lên trong một xã hội rạn nứt mà vẫn trong khuôn khổ cũ cũng không thoát khỏi thông lệ đó. Vụ Quang Toàn phong tước cho anh em, vụ Bùi Đắc Tuyên sẽ là những chứng cớ mạnh mẽ. Ở đây, Phạm Ngạn có bà con với Nguyễn Huệ không? Ta đã nói tài liệu im lặng. Nhưng mối thâm tình với hai ông chúa Tây Sơn thì hẳn Phạm Ngạn đã có. Chức Hộ giá với mấy lần Nam chinh mà không có Nhạc, người cần “hộ giá”, chứng tỏ vai trò quan trọng, địa vị thân thuộc với Tây Sơn của ông. Ông cầm quân có nghĩa như chính Nhạc cầm quân vậy.
Đằng khác, nhìn vào hoạt động của kẻ mà Nhạc trút căm hận lên đầu, ta cũng thấy nhiều điểm sáng tỏ. Từ những biến loạn 1776, 1777 tàn phá cù lao Đại Phố ở Biên Hoà thì thương nhân Trung Hoa kéo về quây quần quanh
thành Gia Định. Lý Tài chết đi nhưng đám Hoà Nghĩa quân vẫn còn. Nguyễn Ánh khôn ngoan đã thu dụng họ, tuy không đồng hoá được quân đội họ. Ta thấy trong trận 1779 có tên Hoà Nghĩa quân của Trần Phượng, trận Vườn Trầu có Trần Công Chương, và năm sau nữa có Hoà Nghĩa đạo của Trần Đình với các tướng Tổng binh Trần Hưng, Lâm Húc. Như vậy, người Trung Hoa, buôn bán cũng như binh lính từ dân ngụ cư mà ra đều ở trong một thế hợp tác chặt chẽ với Nguyễn Ánh. Thực lực Gia Định đã làm cho Tây Sơn phải thắng mà hao quân ở Gia Định, làm cho họ bại mất viên Hộ giá thân tín ở cầu Tham Lương, Nhạc và Huệ hẳn không thể không hiểu chính là vì đám dân Trung Hoa ở đây. Ra lệnh tàn sát, Nhạc đã tuân theo sự xúi giục của tình cảm, có sự góp sức của lý trí. Hờn oán làm cho lệnh càng ghê gớm.
L.M Castuera có mặt ở Chợ Quán ghi nhận (thư ngày 7-7-1782có ) gần 4.000 người Trung Hoa bị giết. Sử quan nhà Nguyễn tăng số lên “hơn vạn”. Trịnh Hoài Đức cũng vậy. André Tôn (thư ngày 1-7-1784) nói có từ 10.000 đến 12.000 người chết. Đáng lưu ý là con số trên vạn là nhận xét của những người Việt quen ước lượng phóng đại. Tuy nhiên cảnh tượng diễn tả thật là kinh khiếp và hẳn không xa sự thật bao nhiêu: “Người Trung Hoa, bất luận binh lính hay dân buôn, mới đến hay ở lâu, đều bị bắt giết, thây chất ngổn ngang vất đầy sông ngòi, đến nỗi nước ứ không chảy, cả tháng hơn người ta không ai dám ăn tôm cá, uống nước sông”. Một không khí khủng bố bao trùm khắp vùng: những ai có hàng Trung Hoa trong nhà như vải lụa, trà thuốc, hương giấy... đều vất cả ra đường mà không người dám lượm[160].
Thế là sau vụ Hội An, theo với sự đưa đẩy của chiến tranh, Tây Sơn càng trở nên cô lập. Như đã thấy, thương nhân Hoa cung cấp vật dụng cho người Việt, xuất cảng những sản vật trong nước, là một nhân tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế ở đây. Tuy Tây Sơn sẽ còn đủ khôn ngoan để ve vãn các giáo sĩ, cố tìm cách lôi họ về phía mình với đạo luật tự do hành giáo (tháng 12-1783), nhưng thương nhân Tây phương thấy gương ở các bạn Đông Á của họ và của cả chính họ nữa, trở nên dè dặt, lo ngại: một việc chiếc tàu của Chapman bị quân Trịnh ở Phú Xuân cướp bóc vào giữa năm 1778 mà mãi đến giữa năm 1793 còn làm cho phái bộ Macartney lo lắng khi phải ghé vào Tourane[161]đủ chứng tỏ. Phải chờ đợi để người ta quên, nhưng thời gian lại không đứng về phía Tây Sơn.
Tuy nhiên, bận rộn ở vùng Bến Nghé đã làm cho Tây Sơn phải xao lãng nơi khác. Nguyễn Ánh lại trở về giồng Lữ, có thêm hai người Hoa phụ tá là Thống binh Hạp và Kính. Đô đốc Tây Sơn, Nguyễn Học, đuổi theo bị Nguyễn Kim Phẩm đánh giết thâu hơn 80 thuyền. Mừng rỡ tưởng có thể đánh thẳng về Gia Định, Ánh sai Nguyễn Huỳnh Đức làm tiên phong, Tôn
Thất Cốc làm trung quân, Trần Xuân Đàm, Kim Phẩm hộ giá, tiến quân kéo về Ngã Tư. Nhưng Nguyễn Huệ, không biết có biết đến Hàn Tín không, đã dàn binh xoay lưng ra sông, đánh thật dữ. Nguyễn Ánh phải chạy về Bến Lức được Lưu thủ Vinh Trấn doanh rước về Hậu Giang, qua Rạch Giá, Hà Tiên, theo thuyền nhỏ trốn ra Phú Quốc.
Tưởng yên được Gia Định, Tây Sơn rút về Quy Nhơn, lưu lại hàng tướng Đông Sơn Đỗ Nhàn Trập với Hộ bộ Bá và 3.000 quân để coi sóc (tháng 5 âm lịch). Số quân và tên tướng thật không đủ giữ. Cho nên, chỉ tháng sau đó là Hồ Văn Lân đã đánh đuổi Đô đốc Nguyễn Loan, chiếm Long Hồ rồi cùng với Dương Văn Trừng, Nguyễn Văn Quý đánh Bến Lức, thắng thêm một trận nhỏ. Nhưng đáng e ngại chính là lực lượng Châu Văn Tiếp với cây cờ thêu “Lương Sơn tá quốc” bày tỏ ý định trung thành với nhà Nguyễn. Quân Tiếp kéo vào với những viên thuộc tướng sau này sẽ nổi danh như: Lê Văn Quân, Nguyễn Long. Hộ bộ Bá muốn rút quân thì Đỗ Nhàn Trập ngăn lại quyết thử sức. Ông bị tiên phong Phạm Văn Sĩ xông vào đánh trước rồi hậu đội Tiếp cũng công kích nên phải đại bại. Nhàn Trập và Bá chạy về Quy Nhơn[162].
Như vậy, nhờ Châu Văn Tiếp, Nguyễn Ánh lại làm chủ Gia Định lần nữa. Ông lại lo tổ chức binh bị. Có một số người từ Phú Xuân trốn vào đầu, nhưng cũng không phải là kẻ có tài. Lực lượng của ông sau mấy lần tan rã đã yếu ớt đến nỗi ông phải lo sai sứ thông hiếu với Xiêm để đề phòng Tây Sơn “nhập khấu”.
Tuy nhiên, những tháng cuối năm, ông cũng lo tổ chức phòng thủ. Trên bờ nam sông Sài Gòn (sông Tân Bình), Ánh lập luỹ Vàm Cỏ (Thảo câu) cho Dương Văn Trừng giữ, phía bờ bắc lập luỹ Cá Trê (Giác ngư) cho Tôn Thất Mân giữ. Có cầu tre nối hai bờ. Giữa sông bày hơn 100 thuyền có Giám quân Tô giữ bè nứa đợi Tây Sơn đến dùng hoả công đốt.
Nguyễn Ánh không phải chờ lâu vì chiến tranh vẫn mang tính cách định kỳ của nó, quy định bởi những trận gió mùa. Lần này là với Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ.
Từ đầu tháng 3-1783, Bá-đa-lộc đã phải hội bàn với Nguyễn Ánh về việc tránh Tây Sơn. Người ta không tính việc chạy qua Chân Lạp vì chiến tranh và đói kém đã tàn phá xứ này. Phải tính chuyện chạy ra các hải đảo ở vịnh Xiêm. Bá-đa-lộc được uỷ thác sửa soạn tàu bè, lương thực đề phòng phải đi.
Ngày 19-3 có tin Tây Sơn đến. Cũng bằng cửa Cần Giờ. Tới nơi, Tây Sơn chia binh làm hai đạo: Tư khấu Nguyễn Văn Kim đánh bắc ngạn và Đô đốc Lê Văn Kế đánh nam ngạn. Lưu thủ Thăng và Tiên phong Tuý định dụ thuỷ quân Tây Sơn mắc vào kế hoả công mà không tính đến việc nước triều đưa quân địch lên theo với đà gió đông thổi ngược lại. Mồi lửa quay lại đốt thuyền Chúa. Lê Văn Kế chặt đứt cầu nổi làm chết Tôn Thất Mân. Dương
Văn Trừng bị bắt. Châu Văn Tiếp may thoát được, chạy thẳng qua Xiêm cầu viện. Nguyễn Ánh về Ba Giồng với 5, 6 người tướng và hơn 100 quân. Ở đó cũng không yên, ông chạy thẳng ra Hà Tiên gặp Bá-đa-lộc rồi hai người trốn qua Phú Quốc, ở hai nơi khác nhau[163].
Nhưng quân Nguyễn còn chưa chịu thua. Không biết sự việc tiến triển ra làm sao, hai tháng sau, Nguyễn Ánh lại trở về ông tập trung quân đóng ở Đồng Tuyên và phân phối nhiệm vụ cho các tướng sĩ: Nguyễn Kim Phẩm được làm Tiền phong, Nguyễn Huỳnh Đức trông coi đám binh người Miên làm Hậu ứng; Trung quân có Tôn Thất Dụ, Nguyễn Đình Toàn, Lại bộ Hồ Đồng, Binh bộ Minh, Tham nghị Trần Đại Thể, Tham mưu Trần Đại Huề (con Thể); Chưởng cơ Hoằng giữ Tả chi, Nguyễn Văn Quý Hữu chi. Nguyễn Huệ nghe tin đem binh tới. Trận chiến xảy ra và Toàn, Quý, Minh, Huề bị giết, Huỳnh Đức, Hồ Đồng bị bắt về làm tay chân Nguyễn Huệ. Mất hết thuyền, đạo quân trốn chạy trong một xứ đầy sông rạch này phải đem thân làm mồi cho cá. Nguyễn Ánh bắt đầu từ nay một cuộc đời lưu vong thật sự.
Tiết 6
CHIẾN THẮNG TÂY SƠN TRƯỚC VIỆN BINH XIÊM LA
Tây Sơn săn đuổi * Giao thiệp Gia Định và Xiêm La * Viện binh Xiêm và chiến bại * Ảnh hưởng.
Sau trận Đồng Tuyên, Nguyễn Ánh lại thêm một lần khốn đốn. Trong lúc quân lính chết đuối thì nhờ biết bơi, ông đã thoát nạn. Có những may mắn đưa đến cho ông Chúa này để sử quan nhà Nguyễn lại có dịp tán tụng phước mạng đế vương. Qua Rạch Chanh, ông nhờ đến một con trâu nằm trên bờ; giữa dòng nước triều chiều chảy xiết chìm trâu thì may sao một con cá sấu (?) lại đưa giúp ông qua bờ bên kia[164]. Tây Sơn đã có mặt tại Hậu Giang chận mất con đường chạy trốn quen thuộc, ông phải chạy xuống trú ở Mỹ Tho, rồi từ đó đưa gia quyến đi Phú Quốc.
Bị săn đuổi, binh tướng trở lòng. Đó là đám người từ lâu vẫn khó đồng hoá: quân Hoà Nghĩa đạo. Nguyên để có người điều khiển đám tân binh, Ánh sai Tôn Thất Cốc trông coi rồi sai tướng Hoà Nghĩa Trần Đình về cửa Cần Giờ để do thám. Công việc thật khó khăn mà tướng sai thì không đủ uy tín, Đình không thi hành. Ánh sai Cốc giết đi. Thuộc tướng của Đình là Trần Hưng và Lâm Húc làm phản chiếm Hà Tiên. Rủi ro cho Nguyễn Kim Phẩm và công chúa Ngọc Chú, người về Hà Tiên thu binh, người mua gạo mắm, đều bị bọn này giết chết.
Tuy nhiên việc quân đội Gia Định có mặt ở các đảo vịnh Xiêm gây nên khó khăn cho các đám cướp biển ở vùng này. Vinh-ly-ma, một tướng Xiêm từ sau loạn Phi-nhã Oan-sản (1781) tụ tập một đám người Mã Lai chiếm cứ đảo Cổ Long trong vịnh Kompong Som, thấy lẽ khôn ngoan là đem thuộc binh ra thần phục Nguyễn Ánh. Đội quân lưu vong lái thêm 100 chiến thuyền và 200 người nữa.
Thêm người tất thêm miệng ăn cho đám quân thiếu thốn sẵn. Nguyễn Ánh phải dùng binh Vinh-ly-ma quen cướp giựt hai ba lần vào Hà Tiên và quanh đó để kiếm khí giới, lương thực. Tin tức nơi trú ẩn lộ ra ngoài.
Tháng 6 âm lịch, lúc Nguyễn Ánh đang ở mũi Đá Chồng thì Tổng suất Tây Sơn là Phan Tấn Thuận kéo binh tới vừa thuỷ vừa bộ. Cai cơ Lê Phước Điển phải đóng vai trò Lê Lai thuở trước, Ánh mới chạy thoát về đảo Cổ Long.[165]Tôn Thất Điển, Tôn Thất Cốc, Hoảng, Vinh-ly-ma đều bị bắt và bị giết.[166]Tây Sơn vẫn không tha. Một tháng sau, phò mã Trương Văn Đa lại đem quân đến Cổ Long vây ba vòng trùng trùng, điệp điệp, quyết không để Ánh thoát lần nữa. Rủi ro cho Tây Sơn, một trận bão đánh đắm nhiều thuyền để Ánh nhân đó thoát ra, chạy đi Cổ Cốt.
Tây Sơn rút đi, Ánh lại mò về Phú Quốc. Tình cảnh đám quân bại thật thảm thương: thuyền Ánh gãy nát cột buồm, quân lính hết lương phải bứt cỏ mà ăn rồi sống nhờ một thuyền gạo của một người đàn bà Hà Tiên đem giúp. Để vợ con lại hải đảo, Ánh táo bạo đem một chiếc thuyền vào cửa Ma Ly[167]do thám tình hình. Độ 20 thuyền Tây Sơn thấy được đến vây, ông giương buồm chạy thẳng ra biển, lênh đênh suốt 7 ngày đêm. Gặp được dòng nước ngọt, thoát chết khát, ông quay trở về Phú Quốc.
Không ở yên được một chỗ, Ánh phải sai Cai cơ Nguyễn Văn Chính về Long Xuyên chiêu binh, tập mã. Thuyền đến cửa sông Ông Đốc[168]thì bắt được tướng Tây Sơn là Quản Nguyệt, Ánh sai chém đầu thị chúng. Oai vũ chưa thấy đâu mà chỉ làm động đến Tây Sơn. May mắn, đạo quân tuần đêm bắt được viên Phó chiến Dạng trong đội phục binh ở cửa sông do Lưu thủ Long Xuyên của Tây Sơn là Nguyễn Hoá điều động. Rõ được cơ mưu, Ánh
giục thuyền chạy mau cho thoát.
Lúc bấy giờ Lữ, Huệ đã về Quy Nhơn, để lại Trương Văn Đa với Chưởng tiền Bảo. Nguyễn Ánh trôi dạt Hòn Chông, rồi Thổ Châu, Cổ Long, Cổ Cốt... sống cuộc đời vật vờ phẫn chí của viên chúa tể trong cơn bại vong. Ông phải thay phiên chèo chống, chia sớt cùng khổ với bọn tòng thần cùng vài trăm binh trên độ mươi lăm chiếc thuyền. Tướng sĩ có khi vài ngày không ăn, phải đào rễ cây nhấm nhá cầm hơi.[169]
Vắng Nguyễn Huệ, dư đảng Ánh ở đất liền tưởng có dịp nổi lên thành công. Hồ Văn tân đánh ở Tân Châu, Tôn Thất Hội chiếm giồng Sao[170], đắp luỹ cự địch trong khi Lê Văn Quân lại giữ sông Tân Hoà. Quân Tây Sơn tiến đánh giồng Sao rồi phá tan đồn Tân Hoà. Tháng giêng năm Nhâm Thìn (1784), kiện tướng Ánh không còn ai ở Gia Định vì Hội, Quân đều bỏ chạy sang Xiêm, chỗ trú cuối cùng.
Châu Văn Tiếp sau trận Cá Trê đã theo đường thượng chạy một mạch qua Xiêm kêu xin viện binh. Tiếp thực táo bạo trong lúc Ánh không dám liều lĩnh[171]. Sở dĩ có sự dè dặt này vì bang giao Xiêm Việt lúc bấy giờ tuy có dấu hiệu cải thiện nhưng chưa đủ cho Ánh thấy Xiêm tỏ ra quên những cừu thù cũ.
Nam Vang và Hà Tiên là hai địa điểm đầu mối gây chiến. Ta đã biết âm mưu mở rộng Hà Tiên qua phía Xiêm đã gây nên trận chiến tranh giữa Mạc Thiên Tứ và Trịnh Quốc Anh[172]. Khi Duệ Tông bị bắt, Tứ với Tôn Thất Xuân chạy trốn bị thuyền Xiêm bắt về Vọng Các. Mùa xuân 1778, Ánh sai Cai cơ Lưu Phúc Trưng qua tìm Tứ. Mùa hạ năm đó sứ bộ của Cai cơ Tham, Tịnh đi Xiêm thì gặp rủi ro: một thuyền Xiêm đi buôn Quảng Đông về qua Hà Tiên bị Lưu thủ Thăng giết cướp. Có người Chân Lạp lại nói dèm rằng Gia Định có mật thư cho Tứ, Xuân làm nội ứng để chiếm Vọng Các. Muốn khỏi lo lắng, Trịnh Quốc Anh cho giết Tứ, các con lớn Tử Diên, Tử Hoàng, Tử Thượng và Tôn Thất Xuân, Tham, Tịnh, 50 người tuỳ tùng, chỉ chừa lại con nhỏ và cháu Tứ phải đi đày thôi[173]. Tình hình bang giao không mấy khả quan thì lại tiếp xảy ra việc tranh quyền bảo hộ Chân Lạp.
Vào cuối năm 1781, Trịnh Quốc Anh phái các tướng Chất-tri, Xô-si qua Chân Lạp hỏi tội Nặc-ấn, trả thù vụ Nặc-vinh bị Đỗ Thanh Nhân giết. Nặc ấn thua rút binh về Colompé cầu cứu với Gia Định vào cuối tháng giêng 1782. Nguyễn Hữu Thuỵ và Hồ Văn Lân tiến quân lên Loveck[174]. Chiến tranh còn dằng dai thì ở Xiêm xảy ra chính biến. Giặc thành Cổ Lạc (Korat) nổi dậy, Trịnh Quốc Anh sai Phi-nhã Oan-sản[175]cầm quân dẹp mà không
biết tại sao lại không lưu ý rằng người cầm đầu cuộc loạn lại là em Sản. Sản quay giáo đem quân về Vọng Các bắt Anh cầm tù. Ở Chân Lạp, Chất-tri cầu hoà với Thuỵ, bẻ tên thề, nhận cờ, đao, kiếm của Thuỵ tặng rồi kéo quân về giết Quốc Anh, vu tội cho Sản rồi giết luôn. Chất-tri, Xô-si, và cháu là Ma lặc làm đệ nhất, đệ nhị, đệ tam Phật vương, cùng nhau cai trị truyền dòng Rama[176].
Việc kết giao với Nguyễn Hữu Thuỵ, tiếp theo với việc Rama I kêu Mạc Tử Sanh về Vọng Các nuôi, có thể coi như những dấu hiệu khuyến khích Nguyễn Ánh tới gần Xiêm hơn. Cho nên, khi bại binh ở sông Ngã Tư, Ánh sai sứ bộ trên 100 người theo đường Chân Lạp qua Xiêm cầu viện. Dân Chân Lạp gặp dịp may trả thù kẻ thất thế, bèn giết gần hết sứ bộ với Nguyễn Hữu Thuỵ, Trần Xuân Đàm. Chỉ có Nguyễn Văn Nhân, Cao Phước Trí là chạy thoát[177]. Tuy bị trở ngại, Nguyễn Ánh khôn ngoan vẫn cố giữ liên lạc thân thiện để hi vọng nhờ cậy. Mùa thu năm 1782, khi trở lại Gia Định rồi, ông cũng sai sứ đi Xiêm nữa.
Đến nay, Xiêm vương nghe lời Châu Văn Tiếp ai cầu, một mặt sai Tiếp theo thượng đạo trở về tìm chủ, một mặt sai Thát-xỉ-đa đem thuyền đi Hà Tiên tìm rước Ánh ở Long Xuyên vào tháng 5- 1784[178]. Nhưng có phải vì lời kêu xin khẩn thiết của Châu Văn Tiếp ngày nay và vì nhớ mối kết giao với Nguyễn Hữu Thuỵ trước kia mà Xiêm vương cho rước Nguyễn Ánh để rồi tính việc trợ giúp không? Có những tài liệu khiến ta phải dè dặt.
Bá-đa-lộc đến Bangkok vào đầu tháng 11-1783 có gặp ở đây một sứ giả của Tây Sơn[179]. Tài liệu thật là ít ỏi để cho ta có thể biết thêm về ngày tháng tới lui, sứ mệnh giao phó, sự tiến hành công việc của viên sứ giả này ở Bangkok. Tuy nhiên do đó, ta cũng thấy Xiêm phải lựa chọn Nguyễn Ánh và Tây Sơn mà quyết định nghiêng về bên nào lại tuỳ thuộc vào tình hình Chân Lạp.
Thực vậy, trong tháng 12-1783, Trương Văn Đa dẫn quân tấn công Chân Lạp. Trước đó, Nặc Ấn bị Chiêu-thuỳ-biện, một người Mã Lai, nổi dậy đánh đuổi đến phải trốn qua Xiêm. Đa đến, Biện vốn được Xiêm công nhận làm phụ chính ở đây từ trước, vội vàng chạy qua cầu viện. Và rồi Tây Sơn giáp mặt quân Xiêm. Trương Văn Đa nghe tin điệp viên báo rằng quân Xiêm sẽ tiến theo đường Lào đánh Quy Nhơn, nên quyết định khai chiến. Xiêm cũng đòi Tây Sơn trả những kẻ thù của Xiêm mà Tây Sơn giữ (?) không thì chiến tranh. Và chiến tranh xẩy ra. Tây Sơn bị Xiêm vây, hai bên đánh nhau vài lần.
Cuối cùng Trương Văn Đa rút khỏi Nam Vang (6-1-1784). Nhưng từ đó “chiến tranh càng ngày càng nhen nhúm giữa người Xiêm và bọn giặc ở Sài
Gòn”.[180]
Để phân tán lực lượng Tây Sơn, Xiêm vương nghĩ tới Nguyễn Ánh. Và đó là cớ quan trọng nhất để giải thích việc Nguyễn Ánh được “rước mời” vào Vọng Các. Cuộc đón rước nếu thực tình và diễn tiến trong bình đẳng thì sao lại để xẩy ra những điều mà khi gặp lại Bá-đa-lộc lần thứ hai, Ánh phải than phiền về “cách thức người ta lôi ông vào Xiêm”?
Tuy vậy, Ánh cũng ở Vọng Các chờ đợi đưa về. Đây là dịp may mắn cho Xiêm vương có thể mở rộng cương giới về phía Thuỷ Chân Lạp. Viện binh Xiêm gồm có hai vạn quân, ba trăm chiến thuyền dưới quyền điều khiển của Chiêu Tăng, Chiêu Sương, xuất binh ngày Nhâm thìn tháng sáu (25-7-1784).
Chiến tranh dùng Xiêm binh chiếm Gia Định được Nguyễn Ánh tóm thuật trong một bức thư gởi cho J. Liot[181]:
“Từ Thầy theo Ta mà trở về[182]thì Ta cùng Xiêm binh tựu tại Mang Thít[183]hạnh công Tây tặc, thủ thắng tàu một chiếc, hải đạo[184]5 chiếc. Nhẩn ngày sau trực tấn xứ Lạch[185]. Nay thì Xiêm binh đại tứ lỗ lược, dâm nhơn phụ nữ, lược nhơn tài vật, túng sát bất dung lão thiếu. Vậy nên Tây tặc binh thế nhựt thạnh, Xiêm binh thế nhựt suy. Cớ ấy qua tháng chạp, mùng tám vừa thất lợi, các giai hội tản”...
Sử quan ghi cẩn thận hơn: tháng 7 âm lịch, khi quân Nguyễn Ánh và Xiêm chiếm Kiên Giang rồi đánh Đô đốc Tây Sơn Nguyễn Hoá ở Trấn Giang (Cần Thơ), quân Xiêm chia nhau đồn trú Ba Vác, Trà Ôn, Mang Thít, Sa Đéc. Nguyễn Ánh lo kiến tạo lực lượng riêng. Ông sai Cai cơ Trịnh Ngọc Trí đi đến các làng kêu cựu thần đang lẩn trốn và hào kiệt nổi lên hưởng ứng quan binh. Kết quả sơ khởi cũng khả quan: ở Vũng Liêm[186], phó Đốc chiến Lý của Tây Sơn ra hàng. Cai cơ Nguyễn Tấn Văn hàng Tây Sơn ở trận Cá Trê năm ngoái nay cũng trở về. Sau đó là Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Khiêm bị bắt sau trận Đồng Tuyên và dư đảng Đông Sơn do Nguyễn Văn Thành chiêu dụ.
10 âm lịch, Nguyễn Ánh chịu một cái tang đau đớn: Châu Văn Tiếp quá hăng hái tiến sâu vào trận địa chết đổi mạng với Chưởng tiền Bảo ở Mang Thít. Trương Văn Đa vội rút về Long Hồ, sai người cấp báo Quy Nhơn.
Quân Xiêm hoành hành dữ. Ánh kêu với cận tướng[187], rồi bỏ ra các hải đảo, gặp Bá-đa-lộc ở Thổ Châu vào tháng 12-1784, than thở với ông này rằng: người Xiêm lừa gạt ông, lấy cớ lập lại quyền binh cho ông chỉ để dùng danh vị ông mà cướp bóc dân chúng và bắt sống ông thôi[188]. Trong khi
đó, các tướng ông còn lại ở lục địa cố gắng tìm chiến thắng. Lê Văn Quân tiếp tục công việc của Châu Văn Tiếp, làm Khâm sai Tổng nhung, đem Chưởng cơ Đổng tiến chiếm Ba Lai, Trà Lọt.
Nhưng không lâu, tháng chạp Giáp Thìn, Nguyễn Huệ kéo quân vào. Chạm với một kẻ địch lạ tay, Nguyễn Huệ đánh mấy lần không thủ thắng đã có ý rút quân về. Vừa lúc một hàng tướng của Nguyễn Ánh, Lê Xuân Giác, liền cho Huệ kế phục binh, đánh mạnh, bất thần, hợp với sở trường viên tướng trẻ mà đầy khả năng này.
Huệ đem lính thiện chiến mai phục ở Rạch Gầm, rạch Xoài Mút[189]rồi dụ quân Xiêm tới. Quen mùi chiến thắng, quân Xiêm tiến sâu vào nội địa bị đánh úp tan tành, chỉ còn vài nghìn người lẩn trốn theo đường bộ Cao Miên chạy về nước. Thực là một chiến thắng làm choáng váng địch quân. Nguyễn Ánh không trông cậy gì ở viện binh Xiên nữa. “Họ sợ Tây Sơn như sợ cọp”.
Nguyễn Ánh chạy về Trấn Giang sai Cai cơ Châu Phúc Trung tâu sự tình lên Nhị vương nước Xiêm. Cuộc đời lao đao bị săn đuổi lại bắt đầu qua Thổ Châu rồi Cổ Cốt. May mắn hơn, lần này đã quen sẵn, ra Cổ Cốt, Nguyễn Ánh gặp Cai cơ Trung đem binh Xiêm rước. Tháng ba năm Ất Tỵ (1785), với các tướng tòng vong trên 5 thuyền và 200 binh, Nguyễn Ánh lủi thủi vào Vọng Các.
Nhưng hi vọng chưa dứt, ông còn mong chờ. Trong khi đó Tây Sơn lại bắt đầu tính chuyện tuôn đổ sức mạnh có sẵn của họ ngược lên phía bắc, cưỡng bách đám dân chúng ở đây nhìn nhận oai quyền, giá trị của kẻ bà con phương xa về đã thu nhặt được trong chuyến viễn du mấy trăm năm cách biệt.
PHẦN THỨ HAI - SỰ TAN RÃ Ở BẮC HÀ VÀ PHẢN ỨNG DỘI NGƯỢC KHI TÂY SƠN BÀNH TRƯỚNG (1786 – 1789)
Chương 3 CHIẾN TRANH BẮC HÀ 1
Tiết 7
CHIẾN TRANH TIÊU DIỆT HỌ TRỊNH
Vai trò Nguyễn Hữu Chỉnh trong chiến tranh phá vỡ phân tranh cũ * Cùng đích mơ ước của Nguyễn Nhạc ở Phú Xuân * Chiêu bài “Phò Lê diệt Trịnh” cũ kỹ khi năng lực mới đem ra sử dụng.
Trong thời gian tiến mạnh về nam, khi dân Đại Việt chậm chạp nhưng chắc chắn biến đổi người và tự để mình biến đổi, thì cả vùng Á châu cũng thấy được thế giới mở rộng với các thuyền buôn Âu châu mang xa lạ đến. Riêng ở Việt Nam, người Bồ đến Hội An (Nam Hà), người Hoà đến phố Hiến (Bắc Hà) rồi sau đó là người Anh, người Pháp. Theo với họ cũng có nhưng người Á châu (Trung Hoa, Nhật, Mã Lai, Xiêm La...) đã hành nghề từ trước nhưng lại tăng tiến theo trào lưu giao thương khích động.
Người ta ghi nhận rằng hoạt động thương mại hồi này ở ta không lấy gì làm khởi sắc cho lắm vì tình trạng nghèo đói của dân chúng. Mọi cung cấp ra cũng như vào phần lớn do đám lái buôn Trung Hoa. Nhưng trên bình diện quốc gia và địa phương, sự giao thương đem lại hàng hoá, con người, tư tưởng khác cũng gây những xáo trộn quan trọng.
Ngoại thương làm khích động nội thương: trầm hương, kỳ nam, tiêu, cau, ớt... đi từ núi, từ đồng xuống biển, cá mắm, đồng sắt từ biển lên núi, đồng. Người đi buôn vượt khỏi ràng buộc của hương ước, của “lệ làng”, tiếp xúc với người khác xứ, khác nước trở nên tiến bộ, có sáng kiến và dám liều hơn. Chúng ta đã thấy nhân dịp chúa Nguyễn phát triển thế lực về phía nam, phía tây, nảy sinh ra một dòng trao đổi sản vật giữa miền núi và đồng bằng dọc biển qua các nguồn để hợp với những nguyên nhân khác gây ra và nuôi dưỡng biến động Tây Sơn.
Nhưng trong lúc nhóm Nam Hà ly khai yếu ớt phải sẵn sàng chờ đón thu nhận, thích ứng với hoàn cảnh và một chừng mực phương tiện mới, thì Bắc Hà vẫn dựa trên cơ cấu trường cửu có sẵn ở trung châu Nhĩ Hà để cố gang
tồn tại. Điều đó giải rõ tại sao biến loạn Tây Sơn xảy ra ở Nam Hà, nhưng cũng cho ta thấy trước thời kỳ nghiêng đổ của Bắc Hà. Sớm hay muộn Tây Sơn cũng là một thế lực đe doạ họ Trịnh như Hoàng Ngũ Phúc đã thấy. Đúng vậy, ảnh hưởng giao thương làm đa tạp hoá xã hội cũng có ở Bắc Hà đồng thời với sự tan rã triều chính.
Lịch sử chính thống không ghi rõ có một “thương ban” bên cạnh văn, võ và giám ban của họ Trịnh, chịu chức tước củng cố hay quấy đảo triều Chúa. Nhưng những nhân chứng thời đại đã cho ta thấy họ Trịnh và võ quan ủng hộ đám dân Thanh, Nghệ đi buôn bán trở nên giàu có hơn, cũng như họ đã ban đặc quyền cho ưu binh Tam phủ để bảo vệ cơ nghiệp nhà Chúa vậy.
Lúc thái bình người ta không chú ý để ghi nhận sự có mặt của lái buôn vì họ ở dưới bậc chót của giai tầng xã hội. Nhưng họ vẫn kiên nhẫn làm giàu không kể câu “vi phú bất nhân” vì người ta lúc nào cũng cần tiền và chứng tỏ, lúc bình thời, người ta mua chuộc họ bằng quan tước, khi hoạn lạc, người ta tha hồ cướp bóc họ. Đám thương nhân “các lái” của Trịnh đã trải qua như vậy chuyến loạn ở Thăng Long, lúc Tây Sơn ra Bắc:
“Đám các lái rất phè phỡn trong thời đói kém, vì lợi dụng được lúc thiếu gạo để bán mắc... và để cho những người nghèo khổ chết đói dọc đường. Đám các lái mất hết, thuyền, thóc, tiền sạch cả. Ở đây, chúng tôi thấy họ đi qua, trần truồng để trở về xứ Thanh”.
Đám các lái đó không phải buôn bán loanh quanh xóm chợ làng quê mà thôi. Vị trí tập trung và số lượng của họ cho biết tầm hoạt động rộng lớn của họ: họ ở “gần cửa Bạng, nơi hòn Biện Sơn, nhân số lên tới gần 3.000 người”[190].
Nguồn lợi tức của họ không tuỳ thuộc vào đất ruộng nên họ có gia tư, sản nghiệp lớn, trong lúc đám nông dân đói kém sạt nghiệp và trong lúc đám sĩ phu xuất thân từ đồng quê cũng hoảng hốt trước tình cảnh thảm thương xảy ra chung quanh nên đâm ra chán đời, bi quan[191]. Họ sống sung túc rồi muốn danh vọng. Nguyễn Hữu Chỉnh cũng ở trong số đó[192].
Ông người làng Đông Hải, huyện Nghi Lộc, trấn Nghệ An. Không phải tình cờ mà cha ông lái buôn, gia tư kể hàng vạn, có con đỗ Hương cống mà vẫn cứ nương tựa Quận Việp Hoàng Ngũ Phúc. Đó là vì võ quan cần tiền của lái buôn và lái buôn cần thế lực của nhà quan để làm giàu cho dễ.
Cuộc sống sung túc tạo cho Chỉnh hơn người. Học khắp các kinh sử, đỗ Hương cống năm 16 tuổi, hay Nôm (nghĩa là không chịu nho hoá), hào hiệp, giao du rộng rãi, ứng biến lanh lẹ, giỏi thuỷ chiến đến có danh hiệu “con cắt nước”, Chỉnh là một bộ mặt đặc biệt, nổi bật của Bắc Hà thời ấy. Chỉnh ý thức được tài mình, cho nên không phải là quá huênh hoang khi ông nói với Nguyễn Huệ: “Nhân tài Bắc Hà có một mình Chỉnh, Chỉnh đi rồi ấy là cái
nước trống không”.
Mơ ước làm chim bằng tung cánh đến xưng tước là Bằng lĩnh hầu, Bằng quận công, Chỉnh có tầm mắt rộng rãi hơn bọn sĩ phu, võ quan đương thời. “Thiên hạ vạn nước, lo gì không chỗ đi”, đó là lời Chỉnh trả lời thái độ rụt rè của Trấn thủ Nghệ An, em rể Quận Việp, khi phải trốn cái vạ Quận Huy bị quân Tam phủ giết chết. Nguyễn Nhạc, Châu Văn Tiếp rồi bây giờ Nguyễn Hữu Chỉnh, những người khác xứ, lúc bạn lúc thù nhưng đều giống nhau ở chỗ xuất thân, đó là những bộ mặt nổi loạn làm khuấy đảo thêm dữ dội xã hội Đại Việt của thế kỷ XVIII vậy.
Tháng 11 Nhâm Dần (1782), Chỉnh đi theo Tây Sơn, “ngày đêm vì giặc bày mưu thiết kế”. Sử quan nhà Nguyễn thấy rõ rằng Chỉnh “rốt lại thành mối lo cho Bắc Hà”[193]. Nhưng vượt trên sự lo lắng cho cơ nghiệp một dòng họ, ta cũng thấy việc Chỉnh vào Quy Nhơn là quan trọng: đó là sự tập trung, hợp tác của những năng lực làm gẫy đổ cơ cấu chính trị đương thời, đó là sự tiếp sức làm đổ vỡ nốt cái thế phân tranh cũ kéo dài hơn hai trăm năm rồi.
Tây Sơn mạnh, điều đó không ai là không nhận thấy. Lê Quý Đôn đem chuyện sấm ký, nói Tây Sơn có đất thiên tử chẳng qua cũng chỉ thay người đương thời ý thức được cái sức mạnh đó mà thôi. Từ khi đuổi đánh quân Xiêm vào đầu năm 1785, quân Tây Sơn bắt đầu dòm ngó phía bắc, nơi kinh đô cũ của Chúa Nam Hà. Chiếm được Thuận Hoá mới là đạt đến cùng đích mơ ước của Nguyễn Nhạc như khi ông thổ lộ với Chapman từ 1778.
Trong khi con hổ non Tây Sơn gầm gừ nhìn ra thì con sư tử già Trịnh đã tàn tạ đến mức không thể cử động được. Những Linh mục thời bấy giờ ở Bắc Hà đã ghi lại những thiên tai, thuỷ loạn mà dân chúng phải gánh chịu. Đó là những trận hạn hán ghê gớm “làm dân xứ Nghệ không gặt được hột nào”. Trận dịch trâu bò tiếp theo vào năm 1784 làm chết 2/3 súc vật khiến cho người phải cày bừa thay. Nghề chài, nghề đã làm giàu cho cha Nguyễn Hữu Chỉnh ở xứ Thanh Nghệ cũng tàn tạ vì bão tố năm 1785. Trước khi Tây Sơn tới Bắc Hà phải chịu nạn đói vì lụt to, hạn lớn, sâu bọ nhiều, vì dịch đi tướt[194].
Những tai hoạ do nhà cầm quyền gây ra càng làm cho dân chúng điêu đứng hơn nữa. Những chương đầu của quyển Hoàng Lê nhất thống chí cực tả được tình trạng rối loạn chính quyền ở Bắc Hà vào những năm này.
Chúng ta thấy được đám quần thần văn võ chuyên nịnh bợ đưa đón lời Trịnh Sâm, chúc mừng Trịnh Cán. Có kẻ chuyên tố cáo người để làm quan như Đốc đồng Nguyễn Huy Bá ở trấn Thái Nguyên, có kẻ như Đặng Mậu Lân cậy quyền Thứ phi, làm nhục quan quân, bắt hiếp vợ con dân gian, thậm chí đến giết sứ giả Trịnh Sâm sau khi hỏi một câu rất hách: “Chúa là cái gì?”
Chúa là cái gì? Thực vậy, Chúa bị khinh khi vì gia đạo không yên. Trịnh Sâm yêu quý Thứ phi Đặng Thị Huệ, muốn cho con Huệ là Trịnh Cán lên nối nghiệp. Con trưởng Sâm là Trịnh Tông tưởng có thể nhân lúc Sâm nổi chứng đau bụng kinh niên nguy kịch mà mưu đồ giành quyền binh, nhưng thất bại gây ra vụ án Canh Tý (1780) mà lời than van uất ức của một nạn nhân là lời kết án chế độ: “Trời không có mắt, trào không có quan để cho Quốc Chấn chết oan”.
Đám ưu binh Tam phủ mà số lượng độ chừng 25 - 30.000 người[195] dùng để bảo vệ Chúa, thường ngày không có việc gì làm ngoài việc phá phách dân chúng, đe doạ các quan, bây giờ mới chen vào việc nhà Chúa. Trịnh Sâm mất sau hàng năm sống tránh ánh sáng mặt trời[196]để Trịnh Cán lên ngôi gây nên cái hoạ tương tranh. Kiêu binh phế Cán sau khi giết Huy Quận công Hoàng Đình Bảo, người che chở Nguyễn Hữu Chỉnh, rồi lập Trịnh Tông lên ngôi Chúa trong một cảnh mà Ngô Thì Chí tả một cách mỉa mai.
Quyền binh từ nay ở trong tay Kiêu binh. Chúa lập được thì vua cũng do họ lập được nốt. Họ hoành hành tàn phá phố phường dữ dội nhất vào những tháng đầu năm Giáp Thân (1781)[197].
Tình hình Bắc Hà như vậy, Chỉnh hay biết cặn kẽ nhờ căn vặn một thuyết khách của Chúa Trịnh. Cuối mùa xuân Bính Ngọ (1786), Trịnh Phu Như từ Thuận Hoá vâng mệnh trấn tướng Phạm Ngô Cầu vào Tây Sơn điều đình việc biên giới nhưng lại thóc mách nói cho Chỉnh rõ về tình hình đói kém ở Bắc Hà, dân với lính không ưa gì nhau. Với một viên trấn tướng đần độn, chậm chạp như Phạm Ngô Cầu thì ba vạn quân dưới quyền điều khiển của các viên Đại tướng, Phó tướng, Đốc thị, Phó Đốc thị cũng không thành một lực lượng gì hết, huống hồ là cách cai trị gay gắt, cướp bóc trong một xứ vừa qua nạn đói lại khiến cho người dân càng thù ghét lính tráng.
Cho nên, cuối tháng tư âm lịch Bính Ngọ, quân Tây Sơn trực phát Thuận Hoá dưới quyền Nguyễn Huệ có Vũ Văn Nhậm làm Tả Đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm Hữu Đô đốc với Tiết chế Nguyễn Lữ đi tiếp ứng[198]. Đánh trúng vào tâm lý mê tín của Phạm Ngô Cầu, Tây Sơn mưu khiến Cầu lập đàn chạy suốt 7 ngày đêm, mệt mỏi tướng sĩ, để hoảng hốt thấy giặc ầm ầm kéo đến không đường chống cự[199]. Đại diện cho nhóm “treo cờ điều” quyết chiến[200]ba cha con Hoàng Đình Thể và tướng Vũ Tá Kiên chết ở ngoài thành Phú Xuân vì Cầu muốn hàng đã không tiếp tế thuốc đạn. Số mệnh của ông quan Đại muốn “treo cờ bạc” này cũng không hơn gì: ông bị tống về Quy Nhơn rồi bị giết. Tây Sơn ca khúc khải hoàn vào Huế ngày 14-6-1786.
Trong trận này, quân lính Bắc Hà ở Phú Xuân rất ít người chạy trốn được về, lớp bị Tây Sơn giết, lớp bị dân chúng Thuận Hoá trừ.
Chiến tranh tàn sát vẫn được coi là vết nhơ cho Tây Sơn, nhưng không phải họ không có lý do để bào chữa. Lý do đó nằm trong nguyên tắc hành quân của họ. Đánh mau, đánh mạnh, đánh bất thần thì tất luật lệ giết chóc của chiến tranh được thi hành triệt để.
Người ta cũng có thể coi việc Tây Sơn trong trận đánh Thuận Hoá phá huỷ một chiếc tàu Bồ từ Macao tới, dìm nước anh em viên chủ tàu, giết hai người thuỷ thủ[201]như là một chứng cứ về lòng hiếu sát của họ. Thực ra, chúng ta lưu ý rằng thuỷ quân của họ chỉ là một đoàn thuyền[202]tuy tới hơn 400 chiếc, nhưng vẫn ọp ẹp so với chiếc tàu đồng Tây phương ở vùng tiến quân. Họ đã có kinh nghiệm của trận chiến mùa xuân 1782 ở sông Ngã Bảy. Phải đánh ồ ạt để lấp liếm cái yếu kém kỹ thuật của họ. Cho nên, phải tàn sát. Chứ bình thường họ cũng biết cố tìm cách lôi kéo các nước Tây phương theo họ.
Cuối năm 1785, một chiếc tàu Macao bị gió bạt vào Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc tịch thu chiếc tàu đó, cho người lái nhưng vụng về để chìm mất. Chủ tàu và thuỷ thủ được trả về Macao có lẽ vào lúc xuất quân đánh phú Xuân (5-1786). Tây Sơn cho người theo mang thư cho toàn quyền Manille xin giao thương và mua đại bác để đánh giặc, mua đồng để đúc tiền và luôn thể dò xét xem Nguyễn Ánh có đi Manille với Bá-đa-lộc không[203]. Nhưng dù sao chiến tranh cũng đưa họ tới chỗ cô lập với bên ngoài cũng như sẽ cô lập với dân chúng vì tính cách tận dụng nhân lực của họ.
Sau khi chiếm được Đồng Hới, đuổi tướng Ninh Tốn chạy về Bắc, Tây Sơn dừng lại. Thực vậy, vì như đã nói, đó là cùng tột ước muốn của Nhạc: chiếm để làm chủ cả giang sơn “họ ngoại” của mình. Ý định đó thể hiện trong việc xây lại luỹ Thầy cao 19 bộ, dày 1 sào. Không ai được ở nhà, cả đàn bà, con gái, người goá - trừ người còn cho con bú, đều phải đi đắp luỹ hoặc vào rừng đốn cây. Dịch vụ đó lại làm hao tốn thêm một xứ sở đã ít người sẵn vì chiến tranh, dịch tể, đói kém.[204]
Nhưng nếu Tây Sơn của Nguyễn Nhạc bắt đầu phải dè dặt thì Tây Sơn của Nguyễn Huệ với viên tướng chưa hề thua 33 tuổi tất không thể dừng lại bên dưới sông Gianh mà phải làm cái gì để “phô trương lòng gan dạ của họ”. Lại thêm vào đó là viễn tượng chiếm lại số vàng trong kho Phú Xuân mà Trịnh đã lấy về 12 năm trước, chưa kể kho vàng của chính họ Trịnh[205].
Nếu Nguyễn Huệ còn ngần ngừ thì có Nguyễn Hữu Chỉnh để đốc xúi thêm vào. Đem binh pháp ra để khuyến dụ Huệ, vạch rõ đất Bắc chỉ còn cái
vỏ rỗng không “tướng trễ, binh kiêu, triều đình không kỷ cương”, dùng chiêu bài Phù Lê, diệt Trịnh để tiến quân, dùng viễn tượng thành công lớn trong lời sấm để ngăn cái sợ trái lệnh Vua Anh, Chỉnh thực đã hết lòng tìm cách để trở về quê cũ với uy danh sấm sét vậy.
Nhưng đi đánh một xứ xa cũng phải cần tổ chức thêm lực lượng. Quân của họ lúc từ Quy Nhơn cũng lẫn lộn đủ thứ hạng và giống người. Ngoài người Việt Nam Hà, tất nhiên, họ còn có “những người Mường, Man di và các bọn mọi khác như Cao Miên, Cambien (?), Xiêm..”.[206], nghĩa là có thể nói đám người thiểu số miền núi, đồng bằng Nam Hà, đám tù binh ở chiếc tàu Bồ, trong các trận chiến thắng trước ở Gia Định. Bây giờ họ phải lấy thêm quân Thuận Hoá, Bố Chính. Tù binh Bắc Hà thì không còn nữa. Dân số ở đây lại sụt xuống nhiều vì đói, dịch tể đến nỗi người ta phải lôi đàn bà đi đắp luỹ sửa đường. Chỉ còn những người của các tôn giáo lẩn lút đứng ngoài chiến tranh là còn đông đúc. Cho nên, từ Phú Xuân cho tới sông Gianh, chỉ trong 5 ngày, tất cả đều bị bắt đi. Tây Sơn phá các chùa chiền và ép các nhà sư phải mang khí giới đi đánh giặc[207]. Những tín đồ Công giáo cũng không được chừa, hầu hết đều phải gia nhập vào đoàn quân viễn chinh ra Bắc[208]. Ngoài ra, Tây Sơn cũng cần kim khí. Họ phá nhà thờ, chùa chiền, một phần để bắt người, một phần để tìm các tượng và các chuông về đúc súng đại bác[209]. Đáng lưu ý là đám tân binh bị bắt buộc vác súng này, một khi bị lôi cuốn vào trận địa, vẫn trở nên những người lính can đảm, có kỷ luật.
Trước khí thế ào ạt như vậy, Thăng Long lại không nghĩ gì đến chống đánh. Họ cho đất Thuận Hoá là đất Nam Hà, mất đi cũng là “điều may”, chỉ cần giữ Nghệ An là được. Quân tướng sai đi trấn Nghệ An dưới quyền Trịnh Tự Quyền thì trùng trình đến 10 ngày chưa xong việc chỉnh bị.
Trong lúc đó thì Tây Sơn đã ra. Nguyễn Hữu Chỉnh lãnh 150 thuyền[210]. đi trước vào cửa Đại An nhắm vào kho lương Vị Hoàng (Nam Định) tấn phát. Trên đường đi, trấn thủ Nghệ An Bùi Thế Toại, Thanh Hoá - Tạ Danh Thuỳ nghe gió bỏ thành chạy. Tướng giữ Vị Hoàng cũng không hơn gì. Chỉnh thu được ở đây hàng trăm vạn hộc lương, giải quyết chắc việc tiếp tế cho quân đội rồi đốt lửa làm hiệu cho Nguyễn Huệ hay biết chiến thắng mà đến (16-7-1786).
Trịnh phải vội vã tổ chức quân chống cự. Trịnh Tự Quyền xuống giữ Sơn Nam đóng ở Kim Động. Bùi Thế Dận đem bộ binh yểm hộ cho Đinh Tích Nhưỡng dẫn thuỷ binh đến cửa Luộc. Nhưng quân Tây Sơn cũng vừa đến đánh tan quân Nhưỡng, xua Dận, Quyền chạy rồi chiếm giữ phố Hiến ngày
19-7. Hôm sau đoàn thuyền trực chỉ Thăng Long[211].
Tướng tá Kinh đô lo chạy vợ con, cất giấu của cải, không một người nào dám đánh giặc. Tham tụng Bùi Huy Bích bị công kích rồi bị Tông bãi chức, bắt ra trận đốc chiến. Trần Công Xán hiến mưu Chúa, gọi Hoàng Phùng Cơ, bộ tướng Hoàng Ngũ Phúc trước kia, từ Sơn Tây về góp 300 bản bộ binh với 1.000 người vội vã chiêu mộ bằng 5.000 lạng bạc quân phí, tất cả đem ra đóng ở hồ Vạn Xuân. Thuỷ quân của Kinh kỳ cũng đến đóng ở bến Thuý Ái chờ giặc.
Nếp sống thái bình, lừ đừ đã quen thói, quân Trịnh không lường được sức đánh hoả tốc của Tây Sơn. Giặc đến mà lính tráng không kịp lên thuyền để viên Thiên tướng Ngô Cảnh Hoàn một mình đầu thuyền cự chiến, bị súng lớn bắn chết lôi theo cái chết thảm thương hơn của người vợ bé Phan Thị Thuấn. Quân Tây Sơn đã ùa lên bộ mà quân Phùng Cơ còn ăn cơm thì cái thế thua thật đã rõ rệt nghiêng về phía nào rồi.
Tây Sơn chém giết cho chán rồi tiến quân lên bến Tây Long. Đám lính hộ vệ kinh thành bây giờ mới cho người ta thấy xấu hổ với danh vị ưu binh. Nghe súng hoả mai của giặc họ “sợ mất vía, bỏ cả khí giới, chạy thục mạng”. Cây cờ “Diệt Trịnh phù Lê” phất phới trên thành Thăng Long khiến cho “chỉ có Chúa Trịnh, bộ hạ cùng binh lính chạy trốn thôi” (21-7-1786)[212].
“Giặc Quảng” tiến vào Trịnh phủ lấy vàng bạc, súng lớn, súng tay, đồ đạc, voi ngựa, chỉ để lại cái xác vôi gạch. Quân tướng Tây Sơn chui rúc ở các chùa, vứt chôn các pho tượng, không một mặc cảm nào hết[213]. Binh lính cũng mang tinh thần cương cường của chủ tướng. L.M Le Roy ở Kẻ Vĩnh thấy họ đi lính “không lương, không tiền”, mà “không lấy cái gì của người Bắc hết, hoặc ăn cơm không muối, uống nước lạnh và ngủ ngoài trời”[214]. Ở cửa Bạng, La Mothe thấy họ cướp bóc, đốt phá, nhưng giết người rất ít, vì có lệnh cấm của “bạo chúa”[215]. Họ trị tội bọn trộm cướp một cách giản dị đến thành thô kệch, tàn nhẫn: có ai cáo là không cần phải dông dài, họ chặt đầu tức khắc[216]. Hình phạt cũng không miễn trừ cho binh lính họ.
Nhưng chiến thắng không đủ, người ta còn phải hợp pháp hoá việc tiến quân đối với dân chúng. Thực ra, ở cửa miệng người mạnh việc gì không phải. Ở đây, như đã thấy, người ta có sẵn để lợi dụng một chiêu bài cũ kỹ: “Phò Lê diệt Trịnh” và một lời sấm truyền tụng từ lâu trong dân gian rằng Trịnh sẽ mất nghiệp Chúa. Lẽ Trời như vậy, Tây Sơn chỉ là kẻ đại Thiên hành đạo thôi. Cho nên, Lý Trần Quán dù có tự phụ “đạo hiếu 3 năm đã trọn” có nhắc đến nghĩa vua tôi, tình thầy trò cũng không ngăn được tên học