🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vì Sao Các Quốc Gia Thất Bại: Nguồn Gốc Của Quyền Lực, Thịnh Vượng Và Nghèo Đói
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
THÔNG TIN EBOOK
Tên sách: Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại - Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói
Nguyên tác: Why Nations Fail: The Origins of Power, Prosperity and Poverty
Tác giả: Daron Acemoğlu, James A. Robinson
Người Dịch: Trần Thị Kim Chi
Thể loại: Chính trị
Nhà Xuất Bản Trẻ © 2013
The Happiness Project #9-NF
TVE-4U Read Freely - Think Freedom
Thực hiện: Bún, Bơ, Banycol
Hoàn thành: 07/2015
https://thuviensach.vn
DỰ ÁN HẠNH PHÚC
The Happiness Project #9-NF
Hạnh phúc luôn tồn tại xung quanh chúng ta, điều quan trọng ta phải biết nắm bắt, kéo nó về phía mình để đem lại an lành cho bản thân, cho cuộc sống! Cuốn sách này là một niềm vui nhỏ bé chúng tôi muốn dành tặng đến bạn, người đọc ạ!
"Hãy nhớ rằng không có hạnh phúc trong sự sở hữu hay sự thâu nhận, mà chỉ có trong sự trao tặng. Hãy mở rộng vòng tay - Hãy chia sẻ - Hãy ghì ôm. Hạnh phúc là một loại nước hoa, mà khi bạn rưới lên những người khác, thế nào cũng có một vài giọt dính trên người bạn." Og Madino
https://thuviensach.vn
TRUY TÌM CĂN NGUYÊN THỊNH VƯỢNG
Tại sao có những quốc gia giàu có, thậm chí là rất giàu có, trong khi có những quốc gia nghèo đói, thậm chí là rất nghèo đói? Để trả lời cho câu hỏi này, hai tác giả Daron Acemoglu và James S. Robinson đã dẫn dắt người đọc tham gia chuyến hành trình xuyên không gian và thời gian đến với những quốc gia, những nền văn minh tự cổ chí kim, từ các đế chế của quá khứ như Aztec, Inca, Maya, La Mã, Venice... cho đến các quốc gia đương đại như Mỹ, Anh, Châu Âu, Zimbabwe, Congo, Triều Tiên...
Với lượng thông tin dồi dào, kiến thức uyên bác và những phân tích sắc sảo, các tác giả lần lượt điểm lại và phản bác các lý thuyết phổ biến hiện tại về sự phồn vinh của một quốc gia. Liệu có phải một quốc gia chìm đắm trong đói nghèo là vì vị trí địa lý của nước đó không (Thuyết địa lý)? Hay các yếu tố văn hóa như tôn giáo, tính cách dân tộc, giá trị đạo đức xã hội .v..v. đã quyết định số phận đất nước như thế (Thuyết văn hóa)? Hay chỉ vì giới lãnh đạo không biết phải làm gì để đưa đất nước đi lên (Thuyết vô minh)? Câu trả lời của tác giả là rất dứt khoát: tất cả đều không phải.
Tập trung vào đối tượng nghiên cứu là các thể chế, cơ cấu tổ chức quốc gia, các tác giả đã tóm lược tất cả các thể chế của các quốc gia, bất kể khu vực nào, thời đại nào, ý thức hệ nào vào chỉ 2 loại: thể chế chiếm đoạt và thể chế dung hợp.
Thể chế chiếm đoạt (extractive institution) là một hệ thống tổ chức xã hội được giới lãnh đạo thiết kế nhằm mục đích chiếm đoạt thành quả lao động của người dân bằng cách tước đoạt quyền sở hữu của người dân, cấm đoán hoạt động kinh tế tư nhân, thu tóm quyền lực chính trị, loại bỏ các quyền tự do cá nhân, giáo dục nhằm mục đích tạo ra người tuân phục. Trong thể chế chiếm đoạt, chỉ nhà độc tài hay giới lãnh đạo là trở nên giàu có vô hạn vì đã chiếm đoạt được hầu hết thành quả lao động của người dân, còn phần lớn
https://thuviensach.vn
nhân dân sẽ chìm sâu vào đói nghèo và lạc hậu. Thể chế chiếm đoạt một khi đã hình thành thì sẽ có xu hướng tồn tại cho đến mãi mãi dù cho có thay đổi chính quyền, một vòng xoáy đi xuống sẽ hình thành khi chính quyền mới tiếp tục duy trì và tăng cường tính chiếm đoạt hơn cả chính quyền cũ, làm cho đất nước càng nghèo khổ hơn nữa.
Ngược lại, thể chế dung hợp (inclusive institution) lại tổ chức xã hội theo hướng tạo ra sự phát triển bằng cách khuyến khích người dân mưu cầu hạnh phúc và tài sản cho bản thân, quyền lực chính trị được phân tán và chịu sự giám sát từ nhiều phía, tôn trọng các quyền tự do cá nhân, giáo dục tập trung đào tạo ra con người tự chủ. Vì tạo ra động lực làm việc, động lực để sáng tạo, các thể chế dung hợp luôn mang đến sự thịnh vượng cho toàn bộ nhân dân, cho đất nước. Người dân một khi đã được nếm trải mùi vị của dân chủ, của tự do và thịnh vượng thì họ sẽ làm mọi cách để giữ lấy điều đó, từ đó tạo ra một vòng xoáy đi lên, đưa đất nước ngày càng tiến lên theo hướng dân chủ hơn, tự do hơn và thịnh vượng hơn.
Tóm lại, theo các tác giả, không phải quốc gia đó ở đâu, có nền văn hóa nào hay trình độ giới lãnh đạo mà chính việc có loại thể chế nào mới là yếu tố then chốt quyết định sự thịnh vượng của một quốc gia. Nói cách khác, chính sự khác biệt về thể chế mới là đường ranh giới của đói nghèo và phồn vinh chứ không phải là Bức tường Berlin (Đông Đức và Tây Đức) hay Vĩ tuyến 38 (Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc). Tuy thế, tác giả cũng nói rõ rằng, nếu có một điều gì đó tệ hại nhất thì đó không phải là một thể chế chiếm đoạt mà là một sự hỗn loạn vô chính phủ, nơi mà chiến tranh giữa chính phủ và các phe phái liên miên không dứt như Sierra Leone, Somalia, Congo. Vì thế, trước khi nói đến sự thịnh vượng, người ta phải nói đến hòa bình và ổn định.
Đi sâu vào phân tích đặc điểm của từng loại thể chế, tác giả cho rằng tuy thể chế chiếm đoạt triệt tiêu động lực lao động, triệt tiêu sức sáng tạo nên thường mang đến sự đói nghèo và lạc hậu nhưng không phải thể chế chiếm đoạt không thể đem lại sự phát triển, điển hình là Liên Xô trước đây và Trung Quốc ngày nay. Liên Xô từ năm 1928 đến 1970 đã tập trung đào tạo nhân lực, tập trung các nguồn lực kinh tế để phát triển công nghiệp nặng và
https://thuviensach.vn
đã có những thành công rực rỡ. Ưu thế của thể chế chiếm đoạt là quyền lực tập trung vào một hay một số nhỏ người nên khả năng điều phối các nguồn lực của quốc gia có thể diễn ra nhanh chóng và triệt để, từ đó tạo ra những mũi nhọn trong phát triển kinh tế. Tuy nhiên, không phải lúc nào việc tập trung nguồn lực cũng đưa các nguồn lực đến đúng chỗ, thường thì nhà độc tài hay giới lãnh đạo sẽ sử dụng hết các nguồn lực đó để làm giàu cho cá nhân mình, bất chấp sự cùng khổ của nhân dân (ví dụ như ở Ai Cập, Zimbabwe, Bắc Triều Tiên...).
Ngoài ra, thể chế chiếm đoạt còn có thể tạo ra sự phát triển bằng cách cho phép tồn tại một phần nào đó sự dung hợp, ví dụ như Trung Quốc từ thập niên 1980 đến nay. Về cơ bản Trung Quốc vẫn là một thể chế chiếm đoạt (không cho sở hữu đất đai, tập trung quyền lực chính trị, kiểm soát các quyền tự do cá nhân) nhưng Trung Quốc vẫn cho phép sự phát triển của kinh tế tư nhân, cải cách giáo dục, cho phép người dân sử dụng internet (một công cụ nguy hiểm đối với các chính quyền chuyên chế).
Nhưng điểm yếu chí tử của sự tăng trưởng dưới thể chế chiếm đoạt nằm ở tính bền vững của tăng trưởng. Vì không có sự sáng tạo nên dù vận dụng các nguồn lực khéo léo đến thế nào thì cũng có một giới hạn cho sự phát triển. Đó chính là lý do tại sao Liên Xô sụp đổ về kinh tế sau thập niên 1970. Chỉ thể chế dung hợp mới có thể khuyến khích người dân cải tiến cái cũ, sáng tạo ra cái mới, từ đó mở rộng quy mô các nguồn lực hiện tại, tạo ra nhiều của cải hơn. Vì thế, sự dung hợp là không thể thiếu trong tiến trình phát triển của đất nước.
Vậy, thể chế dung hợp có phải là tối ưu tuyệt đối hay không? Rất tiếc là không có gì là hoàn hảo cả. Chính sức sáng tạo khi được giải phóng hoàn toàn sẽ liên tục cho ra những thành quả mà một vài trong số chúng mang tính thay thế đối với cái hiện tại, tạo nên sự đe dọa đối với quyền lực của giới lãnh đạo, thậm chí đôi khi còn mang đến sự hỗn loạn, tác giả gọi đây là sáng tạo phá hủy. Máy dệt sợi đã làm thay đổi cấu trúc kinh tế, từ đó dẫn đến sự phân phối lại quyền lực chính trị. Máy in tước đoạt độc quyền tri thức của giới quý tộc và tăng lữ. Internet giúp con người vượt qua mọi rào cản, phổ biến tri thức, phân bổ lại quyền lực.... Vì sự sáng tạo phá hủy này
https://thuviensach.vn
mà thể chế dung hợp luôn bị những nhà độc tài, những chính quyền chuyên chế, hoặc thậm chí một bộ phận dân chúng ngăn cản phát triển. Tuy nhiên, nếu không dám mạo hiểm với phá hủy sáng tạo cũng đồng nghĩa với sẽ không có phát triển. Con đường đến với sự thịnh vượng đâu phải là con đường bằng phẳng.
Tới đây thì các tác giả đã hoàn chỉnh các bộ phận cho lý thuyết của mình, cho lời giải thích cho câu hỏi “Tại sao có những quốc gia giàu có và những quốc gia nghèo đói?”. Lý thuyết này đề cao tác dụng của dân chủ, tự do, xem đó là biểu hiện của một thể chế dung hợp - nguồn cơn của sự thịnh vượng - và lên án những thể chế chiếm đoạt - nguồn cơn của sự nghèo đói trên thế giới. Qua đó tác giả cũng vạch rõ mục đích của các chính quyền chuyên chế chỉ là muốn duy trì quyền lực, thâu tóm tài sản quốc gia và thành quả lao động của nhân dân nhằm vụ lợi cho một nhóm người có đặc quyền, bỏ mặc phần còn lại của đất nước trong lạc hậu và nghèo đói.
Từ tựa của cuốn sách là một câu hỏi (“Tại sao các quốc gia thất bại?”), các tác giả trong quá trình giải đáp câu hỏi này đã làm nhiều hơn chỉ là trả lời câu hỏi. Từ một lời giải thích, tác giả đã đưa ra một mục tiêu; từ một mục tiêu, người dân ở các quốc gia sẽ có được một lộ trình để đưa đất nước mình tiến tới sự thịnh vượng. Vì vậy, có thể xem đây là cuốn sách kinh tế - chính trị mang ý tưởng kích động nhất từng được xuất bản ở Việt Nam, người đọc sau khi kết thúc cuốn sách không khỏi nghĩ tới việc tạo nên một vòng xoáy đi lên ở đất nước mình, đưa Việt Nam thoát khỏi lạc hậu, tiến lên phồn vinh.
Banycol - Happiness Project
https://thuviensach.vn
GIỚI THIỆU
Sách được dịch và xuất bản sang tiếng Việt với sự hỗ trợ một phần về tài chính của Phòng Thông tin Văn hóa, Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Thành phố Hồ Chí Minh.
BÌA GẬP:
Được viết một cách hấp dẫn và thông minh, quyển sách Tại sao các quốc gia thất bại giúp giải đáp câu hỏi từng gây bối rối cho các chuyên gia qua nhiều thế kỷ: Tại sao một số nước giàu còn nhiều nước khác lại nghèo, bị chia rẽ giữa phồn vinh và nghèo khó, mạnh khỏe và bệnh tật, no đủ và đói kém?
Phải chăng lý do nằm ở văn hóa, thời tiết hay các yếu tố địa lý? Hay là do tình trạng thiếu hiểu biết về những chính sách đúng đắn?
Câu trả lời đơn giản là “không”. Không nhân tố nào trong số này có tính quyết định hay định mệnh. Bởi vì nếu thế, làm sao ta giải thích được lý do khiến Botswana trở thành một trong những nước tăng trưởng nhanh nhất thế giới trong khi những quốc gia châu Phi khác như Zimbabwe, Congo và Sierra Leone chìm đắm trong đói nghèo và bạo loạn?
Daron Acemoğlu và James Robinson chứng minh một cách dứt khoát rằng chính những thể chế kinh tế và chính trị do con người tạo ra là nguyên nhân căn bản của sự thành công (hay không thành công) về kinh tế. Chỉ cần đơn cử một trong những ví dụ thú vị: đất nước Triều Tiên có thành phần dân tộc đồng nhất rõ rệt, thế mà dân chúng Bắc Triều Tiên thuộc nhóm nghèo nhất thế giới trong khi những người anh em Nam Triều Tiên của họ lại nằm trong số những người giàu nhất. Miền nam đã hun đúc nên một xã hội tạo ra được các động cơ khuyến khích, ban thưởng cho sự đổi mới sáng tạo, và cho phép mọi người tham gia vào các cơ hội kinh tế. Thành công kinh tế này được duy trì nhờ chính phủ trở nên có trách nhiệm giải trình và đáp ứng nhanh chóng trước đại đa số quần chúng. Đáng buồn thay, người dân
https://thuviensach.vn
miền bắc phải chịu đựng hàng thập niên đói nghèo, đàn áp chính trị, và những thể chế kinh tế vô cùng khác biệt. Sự khác biệt giữa hai miền nam bắc là do hệ thống chính trị đã tạo ra các quỹ đạo thể chế hoàn toàn khác nhau.
Dựa vào 15 năm nghiên cứu sâu sắc, Acemoğlu và Robinson đã sắp xếp những bằng chứng lịch sử phi thường từ Đế chế La Mã, các thành bang Maya, Venice thời Trung cổ, Liên Xô, châu Mỹ La-tinh, nước Anh, châu Âu, Hoa Kỳ và châu Phi để xây dựng một lý thuyết mới về kinh tế chính trị rất thích hợp cho những câu hỏi lớn của ngày hôm nay như:
- Trung Quốc đã xây dựng một cỗ máy tăng trưởng có tính chuyên quyền. Liệu đất nước này có tiếp tục tăng trưởng với tốc độ cao như thế và sẽ chế ngự phương Tây?
- Phải chăng những năm tháng huy hoàng nhất của nước Mỹ đã lùi vào quá khứ? Phải chăng nước Mỹ đang chuyển từ một vòng xoáy đi lên, trong đó những nỗ lực của giới quyền thế nhằm củng cố sức mạnh đã bị kháng cự, sang một vòng xoáy đi xuống làm giàu và trao quyền cho một nhóm thiểu số ít ỏi?
- Đâu là con đường hữu hiệu nhất giúp đưa hàng triệu người thoát khỏi hố sâu đói nghèo và đi tới thịnh vượng? Phải chăng là bằng lòng nhân đạo nhiều hơn của các nước phương Tây giàu có? Hay là bằng cách học lấy bài học hóc búa từ những ý tưởng đột phá của Acemoğlu và Robinson về sự tương tác giữa các thể chế kinh tế và chính trị có tính dung hợp?
Quyển sách Tại sao các quốc gia thất bại sẽ thay đổi cách thức chúng ta nhìn và hiểu thế giới.
DARON ACEMOĞLU được phong danh hiệu Giáo sư Killian chuyên ngành Kinh tế học ở Viện Công nghệ Massachusetts (MIT). Năm 2005, ông được tặng Huân chương John Bates Clark dành cho những nhà kinh tế học dưới 40 tuổi được công nhận là đã có những đóng góp quan trọng nhất cho kho tàng tư tưởng và tri thức kinh tế.
JAMES A. ROBINSON là nhà khoa học chính trị và nhà kinh tế học, được phong danh hiệu Giáo sư David Florence về Chính phủ tại Đại học
https://thuviensach.vn
Harvard. Là chuyên gia nổi tiếng thế giới về châu Mỹ La-tinh và châu Phi, ông từng làm việc ở Botswana, Mauritius, Sierra Leone và Nam Phi.
BÌA 4:
“Tại sao các quốc gia thất bại là một quyển sách tuyệt diệu. Acemoğlu và Robinson đã nhằm vào một trong những vấn đề quan trọng nhất trong khoa học xã hội - một câu hỏi giày vò các nhà tư tưởng hàng đầu qua nhiều thế kỷ - và đã mang lại lời giải đáp xuất sắc nhờ tính đơn giản và sức thuyết phục của nó. Là sự hòa quyện nhuần nhuyễn giữa lịch sử, khoa học chính trị và kinh tế học, quyển sách này sẽ làm thay đổi cách tư duy của chúng ta về phát triển kinh tế. Tại sao các quốc gia thất bại là một quyển sách mà bạn phải đọc”.
—STEVENT LEVITT, đồng tác giả của tác phẩm Kinh tế học hài hước (Freakonomics)
“Có ba lý do khiến bạn sẽ yêu thích quyển sách này: Nó nói về sự chênh lệnh thu nhập quốc gia trong thế giới hiện đại, có lẽ là vấn đề lớn nhất của thế giới ngày nay. Nó lại càng thêm sống động với những câu chuyện kỳ thú làm cho bạn trở nên cuốn hút trong những bữa tiệc cocktail - như lý do gì khiến Botswana thịnh vượng còn Sierra Leone thì không. Và nó rất dễ đọc. Cũng như tôi, bạn không tránh khỏi sẽ đọc quyển sách một mạch từ đầu đến cuối, rồi đọc đi đọc lại thêm nhiều lần nữa”.
—JARED DIAMOND, tác giả của những tác phẩm bán chạy nhất từng đoạt giải Pulitzer như Súng, vi trùng và thép (Guns, Germs and Steel) và Sụp đổ (Collapse)
“Một quyển sách hấp dẫn và vô cùng dễ đọc. Và kết luận là một tin vui: các thể chế ‘chiếm đoạt’ chuyên quyền như những thể chế đang thúc đẩy tăng trưởng ở Trung Quốc ngày nay nhất định sẽ kiệt sức. Không có những thể chế dung hợp được hình thành trước tiên ở phương Tây thì sẽ không thể có tăng trưởng bền vững, vì chỉ có một xã hội thực sự tự do mới có thể đem
https://thuviensach.vn
đến sự đổi mới thực thụ cũng như hệ quả tất yếu của nó sự phá hủy sáng tạo”.
—NIALL FERGUSON, tác giả của tác phẩm Đồng tiền lên ngôi (The Ascent of Money)
“Trước đây, một triết gia người Xcốt-len ít ai biết đến đã viết một quyển sách về những điều làm các nước thành công và những điều khiến họ thất bại. Quyển sách Sự thịnh vượng của các quốc gia (The Wealth of Nations) đến ngày nay vẫn còn được đọc. Với cùng tinh thần sáng suốt và tầm nhìn lịch sử bao quát như thế, Daron Acemoğlu và James Robinson đã trả lời câu hỏi tương tự cho thời đại của chúng ta. Sau hai thế kỷ nữa, cháu chắt chút chít của chúng ta cũng sẽ vẫn đọc Tại sao các quốc gia thất bại”.
—GEORGE AKERLOF, giải Nobel kinh tế năm 2001
“Quyển sách Tại sao các quốc gia thất bại thật hay trên nhiều phương diện đến mức tôi không chắc có thể kể hết ra được. Nó giải thích về những miền đất rộng lớn trong lịch sử loài người. Dù ở châu Á, châu Phi hay châu Mỹ, nó đều thông thuộc như nhau. Nó công bằng cho cả cánh tả lẫn cánh hữu cũng như mọi xu hướng trung dung. Nó không nện thẳng cánh mà cũng chẳng lăng mạ cốt để lôi cuốn sự chú ý. Nó vừa làm sáng tỏ quá khứ vừa trao cho chúng ta một cách thức mới để tư duy về hiện tại. Chính quyển sách hiếm có trong kinh tế học này sẽ thuyết phục độc giả rằng hai tác giả muốn đem lại những điều tốt đẹp nhất cho những con người bình thường. Nó mang lại cho các học giả những tháng năm tranh luận, cho những độc giả bình thường những năm tháng chuyện trò bên bàn ăn theo kiểu ‘các bạn có biết không…’ Nó có những mẩu chuyện vui mà ta luôn luôn đón nhận. Nó là một quyển sách xuất sắc và bạn nên mua ngay, qua đó khuyến khích các tác giả tiếp tục sự nghiệp của mình”.
—CHARLES C. MANN, tác giả của 1491 và 1493
https://thuviensach.vn
ĐỀ MỤC
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
LỜI TỰA CHO BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT NAM
LỜI KHEN NGỢI DÀNH CHO Tại sao các quốc gia thất bại LỜI NÓI ĐẦU
Tại sao người Ai Cập tràn ngập quảng trường Tahrir để hạ bệ Hosni Mubarak và điều đó có ý nghĩa gì đối với nhận thức của chúng ta về nguyên nhân của thịnh vượng và đói nghèo
1 RẤT GẦN NHAU MÀ RẤT KHÁC NHAU
Nogales bang Arizona và Nogales bang Sonora có cùng thành phần dân cư, cùng văn hóa và địa lý. Tại sao thành phố này giàu còn thành phố kia nghèo?
2 NHỮNG LÝ THUYẾT KHÔNG THUYẾT PHỤC
Các nước nghèo không phải vì yếu tố địa lý hay văn hóa, hay vì các nhà lãnh đạo đất nước không biết chính sách nào sẽ làm giàu cho dân chúng
3 TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ ĐÓI NGHÈO
Sự thịnh vượng và đói nghèo được quyết định bởi các động cơ khuyến khích hình thành từ các thể chế như thế nào, và nền chính trị sẽ quyết định đất nước sẽ có những thể chế như thế nào
4 NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ NHỮNG THỜI ĐIỂM QUYẾT ĐỊNH: SỨC NẶNG CỦA LỊCH SỬ
https://thuviensach.vn
Các thể chế thay đổi như thế nào thông qua xung đột chính trị, và quá khứ định hình hiện tại ra sao
5 “TÔI ĐÃ NHÌN THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ ĐANG CHẠY TỐT”: TĂNG TRƯỞNG TRONG CÁC THỂ CHẾ CHIẾM ĐOẠT
Điểm chung của Stalin, vua Shyaam, cuộc Cách mạng thời kỳ đồ đá mới, và các thành bang Maya là gì, và điều này giúp giải thích tại sao tăng trưởng kinh tế hiện nay của Trung Quốc không thể kéo dài
6 PHÂN HÓA THỂ CHẾ
Cách thức tiến hóa của các thể chế theo thời gian, thường là phân hóa một cách từ từ
7 BƯỚC NGOẶT THỂ CHẾ
Cuộc cách mạng chính trị năm 1688 đã làm thay đổi thể chế ở Anh và dẫn đến Cách mạng công nghiệp như thế nào
8 KHÔNG PHẢI TRÊN LÃNH ĐỊA CỦA CHÚNG TA: CÁC RÀO CẢN PHÁT TRIỂN
Tại sao giới quyền thế chính trị ở nhiều nước chống đối Cách mạng công nghiệp
9 ĐẢO NGƯỢC SỰ PHÁT TRIỂN
Chủ nghĩa thực dân châu Âu đã làm bần cùng hóa nhiều nơi trên thế giới như thế nào
10 TRUYỀN BÁ SỰ THỊNH VƯỢNG
Một vài nơi trên thế giới đi theo những lộ trình thịnh vượng khác với nước Anh ra sao
https://thuviensach.vn
11 VÒNG XOÁY ĐI LÊN
Các thể chế khuyến khích sự phồn vinh tạo ra những vòng lặp phản hồi tích cực giúp ngăn chặn nỗ lực của giới quyền thế nhằm lũng đoạn thể chế như thế nào
12 VÒNG XOÁY ĐI XUỐNG
Các thể chế tạo ra đói nghèo cũng tạo ra những vòng lặp phản hồi tiêu cực và tồn tại dai dẳng ra sao
13 TẠI SAO CÁC QUỐC GIA NGÀY NAY THẤT BẠI Chung quy vẫn là thể chế, thể chế và thể chế
14 PHÁ KHUÔN
Một vài nước đã thay đổi quỹ đạo kinh tế như thế nào thông qua thay đổi thể chế
15 TÌM HIỂU SỰ THỊNH VƯỢNG VÀ ĐÓI NGHÈO
Thế giới có thề khác nhau đến mức nào và hiểu biết về điều này có thể giúp ta giải thích lý do khiến hầu hết các nỗ lực chống đói nghèo đều thất bại ra sao
LỜI CẢM ƠN
TÀI LIỆU VÀ NGUỒN TRA CỨU
PHẦN HÌNH ẢNH
https://thuviensach.vn
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Bức tranh cách biệt giàu nghèo nổi lên rõ rệt trong thế giới toàn cầu hóa hiện nay. Tìm kiếm học thuyết lý giải được sự thịnh vượng hay đói nghèo của các nước - từ đó xây dựng một mô hình phát triển - là đề tài đã có rất nhiều nhà kinh tế học theo đuổi kể từ khi nền kinh tế hàng hóa hình thành sau Cách mạng công nghiệp ở Anh lần đầu tiên, cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19.
Từng có nhiều luận thuyết về cách biệt giàu nghèo dựa trên giả thuyết do địa lý, do văn hóa, do sự thiếu hiểu biết (giả thuyết vô minh). Giờ đây, Tại sao các quốc gia thất bại trình bày luận thuyết của hai nhà kinh tế học Daron Acemoğlu và James A. Robinson, lập luận rằng nguồn gốc của đói nghèo và thịnh vượng của các nước là do thể chế. Hơn 600 trang sách (ấn bản tiếng Việt) này là công trình đồ sộ mà hai tác giả dày công nghiên cứu lịch sử kinh tế - chính trị toàn cầu, từ thời tìm ra Tân thế giới cho đến nay. Những sự kiện và dữ liệu lịch sử tinh tế, tỉ mỉ, cho thấy những chương đen tối nhất cũng như huy hoàng nhất của xã hội loài người thời cận đại và hiện đại, công trình nhằm tập hợp lập luận cho giả thuyết giải thích cách biệt giàu nghèo là do thể chế. Những lập luận này chỉ rõ: dù có yếu tố ngẫu nhiên lịch sử, có sức hút mạnh mẽ của vòng xoáy đi xuống từ thể chế chiếm đoạt này sang thể chế chiếm đoạt khác, có yếu tố quyết định của thời cơ và cá nhân lãnh đạo, nhưng thịnh vượng hay đói nghèo không phải là định mệnh, không phải là số phận mặc định với bất cứ quốc gia hay dân tộc nào. Những thể chế dung hợp về chính trị và kinh tế đã đưa nhiều quốc gia đến sự thịnh vượng ngày nay, và vẫn đang tiếp tục theo quỹ đạo vòng xoáy đi lên.
Vì những giá trị đáng xem xét đó của công trình này, Nhà xuất bản Trẻ cân nhắc và giới thiệu Tại sao các quốc gia thất bại trên cơ sở tôn trọng đầy đủ quan điểm của các tác giả - những quan điểm trong sách không phải
https://thuviensach.vn
là quan điểm của nhà xuất bản - để bạn đọc thận trọng nghiên cứu và rút ra những hiểu biết đúng đắn cho riêng mình.
https://thuviensach.vn
LỜI TỰA CHO BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT NAM
TẠI SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
DARON ACEMOĞLU VÀ JAMES A. ROBINSON
VIỆT NAM là một trong những thành công về kinh tế trong 30 năm qua. Mặc dù hiện nay, với mức thu nhập bình quân đầu người khoảng 3.400 đô-la theo sức mua tương đương, tuy chưa phải là một nước giàu, song Việt Nam đã đạt được những thành tích giảm nghèo nổi bật: chỉ trong vòng ba thập kỷ, biến một quốc gia trong đó tình trạng nghèo là phổ biến trở thành một quốc gia với tỷ lệ nghèo chỉ còn khoảng 10% theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới. Bản thân thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam đã tăng gấp 10 lần trong giai đoạn này.
Tại sao vào thời điểm năm 1980, Việt Nam lại nghèo như vậy? Tại sao sau đó Việt Nam lại phát triển nhanh chóng? Các nhà kinh tế học và các nhà khoa học xã hội đã đưa ra nhiều cách giải thích khác nhau cho những sự kiện kiểu này. Một số người cho rằng sự thành công kinh tế của một quốc gia hoặc khu vực được xác định bởi vị trí địa lý hay điều kiện sinh thái của nó. Các học giả này đặc biệt quan tâm đến việc một quốc gia có nằm trong khu vực nhiệt đới hay không. Theo họ, vì Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới giữa hạ chí tuyến và xích đạo nên tiềm năng kinh tế nội tại của nó chỉ có giới hạn. Nhưng sự thay đổi sâu sắc trong quỹ đạo kinh tế của việt Nam trong 30 năm qua không hề liên quan tới sự thay đổi vị trí địa lý. Một số người khác sẽ lập luận rằng văn hóa của một dân tộc, các chuẩn mực xã hội, các giá trị hay đạo đức làm việc sẽ quyết định sự thành công hay thất bại về kinh tế. Nhưng một lần nữa, văn hóa Việt Nam đã không thay đổi kể từ thập niên 1980 trở lại đây. Cuối cùng, nếu bạn tham dự các lớp kinh tế phát triển ở các khoa kinh tế học hàng đầu thế giới, bạn sẽ được
https://thuviensach.vn
học là chúng ta đơn giản không biết tại sao Việt Nam đã nghèo trong gần suốt lịch sử của mình nhưng gần đây lại tăng trưởng nhanh chóng. Có lẽ là do cuối cùng Việt Nam cũng có được những nhà kinh tế học tài ba, hoặc nhờ đổi mới tư duy, hoặc đơn giản chỉ là do may mắn.
Cuốn sách này cung cấp các công cụ thích hợp để hiểu tại sao Việt Nam đã từng rất nghèo và tại sao tình trạng nghèo này bắt đầu thay đổi từ thập niên 1980. Nó cũng giúp chúng ta hiểu được liệu những thay đổi diễn ra ở Việt Nam trong ba thập niên vừa qua có bền vững hay không. Lịch sử trì trệ và sự tăng trưởng gần đây ở Việt Nam không xuất phát từ các nguyên nhân địa lý hay văn hóa mà xuất phát từ những quy tắc - hay thể chế - mà bản thân xã hội Việt Nam đã tạo ra. Để thành công về kinh tế, xã hội cần phải tạo ra được một tập hợp các thể chế kinh tế có thể thúc đẩy tài năng, kỹ năng, sự sáng tạo và năng lượng của người dân, và những năng lực này được phân phối một cách rộng rãi trong toàn xã hội, nhờ đó tạo thành một đặc tính quan trọng - tính dung hợp - của tập hợp thể chế kinh tế có khả năng tạo ra sự thịnh vượng. Tính dung hợp của tập hợp thể chế này tạo ra các cơ hội bình đẳng về kinh tế cho tất cả mọi người, đem lại cho họ quyền sở hữu tài sản, quyền tiếp cận với thị trường, cơ hội giáo dục và bình đẳng trước pháp luật. Chẳng hạn như lịch sử nghèo đói của Việt Nam trong thời phong kiến hoặc dưới thời Pháp thuộc có thể được giải thích bằng thực tế là các thể chế kinh tế trong những thời kỳ này không có tính dung hợp mà có tính tước đoạt: những thể chế được thiết kế để hạn chế cơ hội, để tạo ra ân sủng và độc quyền cho một vài nhóm thiểu số và bắt đa số còn lại phải trả giá. Họ dập tắt cơ hội của nhiều người, trao đặc quyền cho một số thiểu số trong giới quyền thế bản địa hay cho thực dân Pháp.
Nhưng tại sao trong lịch sử Việt Nam, giống như phần lớn thế giới, lại tồn tại các thể chế kinh tế có tính chiếm đoạt? Có thể thấy điều này rõ nhất khi xem xét trường hợp của thực dân Pháp. Với công nghệ quân sự ưu việt và sự thống trị chính trị, người Pháp đã có thể áp đặt một tập hợp các quy tắc tạo đặc quyền cho chính họ và tay sai. Vì vậy, chìa khóa để nhận biết
https://thuviensach.vn
một thể chế kinh tế có tính dung hợp hay chiếm đoạt nằm ở bản chất của chính trị và quyền lực chính trị. Trong nhà nước thuộc địa Pháp, quyền lực chính trị đã được phân phối trong phạm vi hẹp, và nhà nước được sử dụng để ủng hộ các lợi ích đặc biệt - do vậy thể chế chính trị có tính chiếm đoạt. Người Việt Nam, mặc dù chiếm đa số, nhưng đã bị trục xuất ra khỏi địa hạt quyền lực chính trị và bị tước đoạt cơ hội kinh tế. Điều này trên thực tế cũng đã từng tồn tại, ngay cả trước khi thực dân Pháp xuất hiện, chỉ khác là quyền lực được trao cho giới quyền thế trong nước chứ không phải nước ngoài.
Trong cuốn sách này, chúng tôi chứng minh rằng trong hầu hết mọi trường hợp, một nước sở dĩ nghèo là do họ có các thể chế kinh tế chiếm đoạt, bắt nguồn từ các thể chế chính trị chiếm đoạt. Còn các nước giàu sở dĩ giàu là bởi vì họ có các thể chế chính trị dung hợp, với nhà nước mạnh và có trách nhiệm giải trình, và quyền lực chính trị được phân phối một cách rộng rãi, và nhờ đó tạo ra các thể chế kinh tế dung hợp.
Để trở nên giàu có, một nước nghèo phải chuyển đổi từ các thể chế chiếm đoạt sang dung hợp. Trong địa hạt kinh tế, đây chính là căn nguyên tạo ra tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam gần đây. Sau khi đánh đổ chế độ thực dân và thống nhất đất nước, Việt Nam đã tạo ra một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trong đó nhà nước sở hữu toàn bộ đất đai và hầu hết các ngành công nghiệp. Tuy nhiên, các thử nghiệm với nền kinh tế chỉ huy trong thập niên 1970 và đầu thập niên 1980 đã cho thấy những hạn chế kinh tế nghiêm trọng của mô hình này. Trong khi đó, quá trình chuyển đổi của Trung Quốc dưới thời Đặng Tiểu Bình cho thấy rằng sự ra đời của các tổ chức kinh tế dung hợp hơn đã tạo ra tăng trưởng kinh tế trong khi vẫn giữ được quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản. Chính sách Đổi mới của Chính phủ Việt Nam từ năm 1986 được đưa ra nhằm chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Chính sách kinh tế Đổi mới đã đem lại những khuyến khích có tính thị trường, giải tán nông nghiệp tập thể, loại bỏ kiểm soát giá cả hàng nông
https://thuviensach.vn
sản, và cho phép nông dân tiêu thụ hàng hóa của họ trên thị trường. Giống như Trung Quốc, phong trào chuyển sang các thể chế dung hợp này đã thành công và bắt đầu phát huy những tài năng tiềm ẩn to lớn nhưng chưa được giải phóng của người dân. Những cải cách này cùng với những cải cách sau đó đã khuyến khích việc thành lập doanh nghiệp tư nhân và đầu tư nước ngoài. Như vậy, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam từ thập niên 1980 đã được thúc đẩy bởi phong trào chuyển sang các thể chế kinh tế dung hợp hơn, mặc dù quá trình chuyển đổi này vẫn còn một chặng đường dài trước mắt. Việt Nam sẽ phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách một cách toàn diện nếu muốn duy trì được đà tăng trưởng hiện nay và gia nhập hàng ngũ những quốc gia giàu mạnh nhất thế giới.
LỜI KHEN NGỢI DÀNH CHO Tại sao các quốc gia thất bại
“Acemoğlu và Robinson đã có những đóng góp quan trọng cho cuộc tranh luận về lý do khiến những nước tuy diện mạo có vẻ giống nhau song lại có sự phát triển kinh tế và chính trị hết sức khác nhau. Bằng nhiều ví dụ lịch sử có tính bao quát, họ cho chúng ta thấy sự phát triển thể chế, đôi khi dựa vào những hoàn cảnh hết sức tình cờ, đã đem lại những hệ quả to lớn. Độ mở của xã hội, sự sẵn lòng chấp nhận phá hủy sáng tạo, và tinh thần thượng tôn pháp luật tỏ ra có ý nghĩa quyết định đối với phát triển kinh tế”.
—Kenneth J. Arrow, giải Nobel kinh tế, 1972
“Quyển sách quan trọng và sâu sắc này cùng với các ví dụ lịch sử trong đó giúp khẳng định lập luận rằng các thể chế chính trị dung hợp ủng hộ cho các thể chế kinh tế dung hợp là nhân tố then chốt để đạt được sự thịnh vượng bền vững. Quyển sách này nhìn lại cách thức các chế độ tốt đẹp hình thành và đưa đến một vòng xoáy đi lên như thế nào, trong khi các
https://thuviensach.vn
chế độ tồi tệ vẫn nằm trong vòng xoáy đi xuống. Đây là một phân tích quan trọng không thể bỏ qua”.
—Peter Diamond, giải Nobel kinh tế, 2010
“Đối với những người nghĩ rằng vận mệnh kinh tế của một đất nước được xác định bởi yếu tố địa lý hay văn hóa, Daron Acemoğlu và Jim Robinson gửi đến họ những tin tức không mấy tốt lành. Chính những thể chế do con người tạo ra, chứ không phải vị trí của đất nước hay đức tin của tổ tiên, quyết định việc một quốc gia sẽ nghèo hay giàu. Là một sự tổng hợp xuất sắc công trình nghiên cứu của các nhà lý thuyết từ Adam Smith cho đến Douglass North với các nghiên cứu thực nghiệm gần đây của các nhà sử học kinh tế, Acemoğlu và Robinson đã viết nên một quyển sách thuyết phục và vô cùng đáng đọc”.
—Niall Ferguson, tác giả của Đồng tiền lên ngôi (The Ascent of Money)
“Acemoğlu và Robinson - hai trong số những chuyên gia hàng đầu thế giới về phát triển - phơi bày lý do tại sao không phải yếu tố địa lý, bệnh tật hay văn hóa giúp giải thích tại sao một số nước giàu trong khi những nước khác lại nghèo, mà đúng hơn, đó là vấn đề thể chế và chính trị. Quyển sách dễ lĩnh hội này mang lại những hiểu biết thú vị cho các chuyên gia cũng như độc giả phổ thông”.
—Francis Fukuyama, tác giả của The End of History and the Last Man và The Origins of Political Order
“Hai trong số các nhà kinh tế học xuất sắc và uyên bác nhất thế giới bàn về vấn đề gay cấn nhất: tại sao một số nước thì giàu và những nước khác lại nghèo? Được viết bằng những tri thức sâu sắc về kinh tế học và lịch sử chính trị, đây có lẽ là nhận định thuyết phục nhất được đưa ra hiện nay rằng ‘các thể chế là quan trọng’. Một quyển sách kích thích, phong phú thông tin và hoàn toàn mê hoặc”.
https://thuviensach.vn
—Joel Mokyr, giáo sư Nghệ thuật và khoa học Robert H. Strotz, và giáo sư Kinh tế và lịch sử, Đại học Northwestern
“Hãy tưởng tượng ta đang ngồi quanh bàn lắng nghe Jared Diamond, Joseph Schumpeter và James Madison suy ngẫm về hơn hai trăm năm lịch sử chính trị và kinh tế. Hãy tưởng tượng họ đang dệt các ý tưởng thành một khung lý thuyết mạch lạc dựa vào việc kiềm chế sự chiếm đoạt, đẩy mạnh sự phá hủy sáng tạo và xây dựng các thể chế chính trị định hình quyền lực, và bạn bắt đầu nhìn thấy cống hiến của quyển sách sâu sắc và hấp dẫn này”.
—Scott E. Page, Đại học Michigan và Viện Santa Fe
“Trong quyển sách bao trùm nhiều vấn đề một cách kinh ngạc này, Acemoğlu và Robinson đặt ra một câu hỏi đơn giản nhưng quan trọng, tại sao một số nước trở nên giàu có trong khi những nước khác mãi nghèo? Câu trả lời cũng đơn giản - vì nền chính trị đã xây dựng nên những thể chế chính trị có tính dung hợp hơn. Điều ấn tượng về quyển sách này là tính sinh động và rõ ràng trong văn phong, nét tao nhã của lập luận, và sự phong phú đáng kể của chi tiết lịch sử. Đây là một quyển sách phải đọc giữa thời điểm chính phủ các nước phương Tây phải đạt được một nguyện vọng chính trị nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng nợ với tỷ lệ bất thường”.
—Steven Pincus, giáo s ư Lịch sử và Nghiên cứu khu vực và quốc tế Bradford Durfee, Đại học Yale
“Không chỉ là một quyển sách hấp dẫn và thú vị mà còn là một quyển sách thật sự quan trọng. Nghiên cứu hết sức sáng tạo mà các giáo sư Acemoğlu và Robinson đã thực hiện, và đang tiếp tục thực hiện, về cách thức các áp lực kinh tế, chính trị và các chọn lựa chính trị cùng tiến hóa và ràng buộc lẫn nhau, và cách thức các thể chế ảnh hưởng đến sự tiến hóa đó, vô cùng cần thiết để ta tìm hiểu về thành công và thất bại của các xã hội và quốc gia. Và ở đây, trong quyển sách này, tri thức ấy được trình bày dưới
https://thuviensach.vn
một hình thức hết sức dễ hấp thu, quả thật là lôi cuốn. Ai đã cầm quyển sách này lên và bắt đầu đọc sẽ thấy khó lòng đặt xuống”.
—Michael Spence, giải Nobel kinh tế, 2001
“Quyển sách thú vị và dễ đọc này tập trung vào sự tiến hóa của mối liên kết phức tạp các thể chế chính trị và kinh tế, theo những chiều hướng tốt và xấu. Quyển sách đạt được sự cân bằng tinh tế giữa lôgic của hành vi kinh tế và chính trị và sự thay đổi chiều hướng hình thành từ các biến cố lịch sử ngẫu nhiên, lớn và bé, vào ‘những thời điểm quyết định’. Acemoğlu và Robinson trình bày nhiều ví dụ lịch sử cho thấy sự thay đổi đó có thể thiên về những thể chế thuận lợi, tích cực đổi mới và thành công kinh tế, hoặc là hướng tới những thể chế có tính áp chế và cuối cùng là suy tàn hay đình trệ. Thật tài tình khi họ có thể tạo ra cả sự phấn khích và suy tưởng như thế”.
—Rober Solow, giải Nobel kinh tế, 1987
https://thuviensach.vn
LỜI NÓI ĐẦU
QUYỂN SÁCH NÀY đề cập đến sự khác biệt to lớn về thu nhập và mức sống giữa những nước giàu trên thế giới như Hoa Kỳ, Anh và Đức, với những nước nghèo như vùng hạ Sahara ở châu Phi, Trung Mỹ và Nam Á.
Khi chúng tôi viết những dòng này, Bắc Phi và Trung Đông đang rung động bởi phong trào cách mạng nhân dân Ảrập (“Mùa xuân Ảrập”) khởi nguồn từ cuộc Cách mạng Hoa Nhài mà thoạt đầu được châm ngòi bởi cơn phẫn nộ của quần chúng trước việc tự thiêu của người bán hàng rong Mohamed Bouazizi vào ngày 17/12/2010. Ngày 14/1/2011, tổng thống Zine El Abidine Ben Ali, người từng cai trị đất nước Tunisia suốt từ năm 1987, đã bị phế truất, nhưng nhiệt huyết cách mạng chống lại ách thống trị của các nhóm quyền thế đặc ân ở Tunisia vẫn không nguội đi mà ngày càng sôi sục và lây lan sang phần còn lại của Trung Đông. Hosni Mubarak, nguyên tổng thống từng cai trị Ai Cập với bàn tay thép gần 30 năm, bị trục xuất vào ngày 11/12/2011. Vận mệnh của chế độ ở Bahrain, Libya, Syria và Yemen vẫn chưa ngã ngũ khi chúng tôi viết xong phần mở đầu này.
Cội rễ của bất mãn ở những nước này nằm ở cảnh đói nghèo của họ. Mức thu nhập bình quân của người Ai Cập xấp xỉ 12% so với người Mỹ, còn tuổi thọ thì kém hơn 10 năm; 20% dân số Ai Cập sống trong cảnh bần cùng. Cho dù những sự khác biệt này rất đáng kể, nhưng chúng vẫn chẳng đáng là bao so với chênh lệch giữa Hoa Kỳ và những nước nghèo nhất thế giới như Bắc Triều Tiên, Sierra Leone và Zimbabwe, những nơi có hơn một nửa dân số sống trong đói nghèo.
Tại sao Ai Cập lại nghèo đến thế so với Mỹ? Những yếu tố ràng buộc nào khiến người Ai Cập không thể trở nên thịnh vượng hơn? Phải chăng đói nghèo của Ai Cập là không thể cứu vãn, hay hoàn toàn có thể xóa bỏ
https://thuviensach.vn
được? Cách thức tự nhiên để bắt đầu suy nghĩ về điều này là thử nghe những điều mà chính bản thân người dân Ai Cập nói về những vấn nạn mà họ đang phải đương đầu và tại sao họ lại vùng lên chống lại chế độ Mubarak. Noha Hamed, một người lao động 24 tuổi đang làm việc cho một công ty quảng cáo ở Cairo, trình bày rõ ràng quan điểm của cô khi tham gia biểu tình ở quảng trường Tahrir: “Chúng tôi khốn khổ vì tham nhũng, áp bức và nền giáo dục yếu kém. Chúng tôi sống trong một hệ thống tham nhũng buộc phải thay đổi”. Một người khác trên quảng trường, Mosaab El, sinh viên khoa dược 21 tuổi, bày tỏ sự đồng tình: “Tôi hy vọng rằng đến cuối năm chúng tôi sẽ có một chính phủ được bầu, nền tự do phổ cập sẽ được áp dụng và chấm dứt nạn tham nhũng từng chiếm lĩnh đất nước này”. Những người phản kháng trên quảng trường Tahrir đồng thanh nói về tham nhũng của chính phủ, việc chính phủ không thể cung cấp các dịch vụ công, và cách biệt giàu nghèo về cơ hội trên đất nước họ. Họ đặc biệt than phiền về sự áp bức và tình trạng thiếu vắng các quyền chính trị. Như Mohamed ElBaradei, nguyên giám đốc Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế viết trên mạng Twitter ngày 13/1/2011: “Tunisia: áp bức + thiếu công lý xã hội + bác bỏ các kênh thay đổi trong hòa bình = một quả bom hẹn giờ”. Người Ai Cập và người Tunisia đều cho rằng các vấn nạn kinh tế của họ có nguyên nhân cơ bản là do không có các quyền chính trị. Khi những người phản kháng bắt đầu trình bày những đòi hỏi của họ một cách hệ thống hơn, 12 nhu cầu đầu tiên tức thời được đưa ra bởi Wael Khalil, vị kỹ sư phần mềm và người viết blog này đã nổi lên như một trong những nhà lãnh đạo phong trào cách mạng Ai Cập, tất cả đều tập trung vào sự thay đổi chính trị. Những vấn đề như tăng tiền lương tối thiểu xem ra chỉ nằm trong số những nhu cầu chuyển đổi có thể được thực hiện về sau.
Đối với người Ai Cập, những yếu tố kềm hãm họ bao gồm một nhà nước tham nhũng và bất lực, và một xã hội trong đó họ không thể sử dụng tài năng, hoài bão, sự khéo léo và những gì họ đã học được. Nhưng họ cũng nhận ra rằng gốc rễ của những vấn đề này là chính trị. Tất cả những chướng ngại kinh tế mà họ phải đối mặt đều bắt nguồn từ cách thức thế lực chính trị
https://thuviensach.vn
ở Ai Cập đã phát huy và độc quyền hóa như thế nào bởi một nhóm đặc quyền. Họ hiểu, đó là điều đầu tiên phải thay đổi.
Vững tin vào điều đó, thế nhưng những người phản kháng ở quảng trường Tahrir lại có quan điểm khác xa với hiểu biết chung về chủ đề này. Khi lập luận về lý do khiến một đất nước như Ai Cập nghèo, hầu hết giới học thuật và những người bình luận nhấn mạnh vào các yếu tố hoàn toàn khác nhau. Một số người khẳng định rằng đói nghèo của Ai Cập chủ yếu là do yếu tố địa lý, do đất nước chủ yếu là sa mạc và thiếu mưa, đất đai và khí hậu không thuận lợi cho nông nghiệp. Những người khác nêu lên các đặc điểm văn hóa của dân Ai Cập có thể trở thành trở ngại đối với sự thịnh vượng và phát triển kinh tế. Họ lập luận, người Ai Cập thiếu kiểu đạo đức làm việc và đặc điểm văn hóa đã từng giúp người dân những nước khác trở nên thịnh vượng, và thay vào đó, họ chấp nhận những đức tin Hồi giáo không thích hợp cho sự thành công về kinh tế. Cách giải thích thứ ba, phổ biến trong giới các nhà kinh tế và các nhà bình luận chính sách, là dựa vào quan niệm cho rằng những người cai trị Ai Cập chỉ đơn thuần không biết những điều cần thiết để làm cho nước họ phồn vinh, và đã đi theo những đường lối chính sách và chiến lược không đúng đắn trong quá khứ. Trường phái này cho rằng, giá như những người cai trị đất nước nhận được những lời khuyên đúng đắn từ những cố vấn đúng đắn, thì đất nước sẽ thịnh vượng. Đối với giới học thuật và các nhà bình luận này, sự kiện Ai Cập được cai trị bởi những nhóm quyền thế tập trung vun vén cho cơ ngơi riêng của họ bằng tổn thất của xã hội dường như chẳng liên quan gì khi người ta tìm hiểu về các vấn nạn kinh tế của đất nước.
Trong quyển sách này, chúng tôi sẽ lập luận rằng, chính những người Ai Cập ở quảng trường Tahrir, chứ không phải hầu hết các nhà học thuật và giới phê bình, đã đúng. Thật vậy, Ai Cập nghèo chính là vì đất nước bị cai trị bởi một nhóm quyền thế tập trung, và những nhóm này đã tổ chức xã hội để phục vụ cho quyền lợi riêng của họ trong khi đại đa số quần chúng nhân dân phải trả giá. Quyền lực chính trị tập trung trong một nhóm nhỏ, được
https://thuviensach.vn
sử dụng để tạo ra tài sản khổng lồ cho những người nắm giữ quyền lực, chẳng hạn như gia sản tích lũy 70 tỉ USD của nguyên tổng thống Mubarak. Những người thiệt thòi là người dân Ai Cập, và họ quá hiểu điều đó.
Chúng tôi sẽ chứng minh rằng, cách lý giải đói nghèo của người Ai Cập, cách lý giải của nhân dân, hóa ra lại là một cách giải thích tổng quát về lý do tại sao các nước nghèo lại nghèo. Bất kể đó là Bắc Triều Tiên, Sierra Leone hay Zimbabwe, chúng tôi sẽ chứng minh rằng các nước nghèo họ nghèo vì cùng một lý do như Ai Cập. Những nước như Anh và Mỹ trở nên giàu có vì người dân nước họ lật đổ giới quyền thế, những người kiểm soát quyền lực, và tạo ra một xã hội trong đó các quyền chính trị được phân phối rộng rãi, trong đó chính phủ có trách nhiệm giải trình và phải đáp ứng trước công dân, và trong đó đại đa số quần chúng có thể tranh thủ các cơ hội kinh tế. Chúng tôi sẽ chứng minh rằng, để tìm hiểu lý do tại sao có tình trạng cách biệt giàu nghèo như thế trong thế giới ngày nay, ta phải đào sâu vào quá khứ và tìm hiểu các yếu tố động học lịch sử của các xã hội. Ta sẽ thấy rằng, lý do khiến nước Anh giàu hơn Ai Cập là vì vào năm 1688, nước Anh đã có một cuộc cách mạng làm biến đổi nền chính trị và nhờ đó chuyển hóa nền kinh tế. Nhân dân đã đấu tranh và giành được nhiều quyền chính trị hơn, và họ sử dụng những quyền ấy để mở rộng cơ hội kinh tế của họ. Kết quả là một quỹ đạo kinh tế và chính trị khác cơ bản so với trước và đạt đến đỉnh cao trong cuộc Cách mạng công nghiệp.
Cuộc Cách mạng công nghiệp và những công nghệ mà cuộc cách mạng đó mang lại đã không lan được tới Ai Cập vì nước này lúc bấy giờ đang chịu sự kiểm soát của Đế chế Ottoman, cũng cai trị Ai Cập hệt như cách của gia đình Mubarak sau này. Sự cai trị của Ottoman ở Ai Cập bị Napoleon Bonaparte lật đổ vào năm 1798, nhưng sau đó đất nước lại rơi vào sự kiểm soát của thực dân Anh, và cũng giống như Ottoman, gần như không quan tâm gì đến sự thịnh vượng của Ai Cập. Dẫu rằng Ai Cập đã tống khứ đế chế Ottoman và đế quốc Anh, và đến năm 1952, lật đổ cả nền quân chủ, thế nhưng đất nước không có được những cuộc cách mạng như
https://thuviensach.vn
cách mạng 1688 ở Anh, và thay vì chuyển biến chính trị cơ bản ở Ai Cập, họ lại đưa một nhóm quyền thế khác lên cầm quyền, và nhóm này cũng không quan tâm gì đến việc mang lại phồn vinh cho những người dân thường, chẳng khác gì Ottoman và Anh trước kia. Hậu quả là, cơ cấu cơ bản của xã hội vẫn không thay đổi, và Ai Cập vẫn nghèo.
Trong quyển sách này, chúng ta sẽ tìm hiểu xem những diễn biến ấy tự tái diễn như thế nào theo thời gian và vì sao đôi khi những diễn biến ấy lại thay đổi, như ở Anh năm 1688 và ở Pháp với cuộc cách mạng năm 1789. Điều này sẽ giúp chúng ta tìm hiểu xem liệu tình hình ở Ai Cập ngày nay có thay đổi hay không và liệu cuộc cách mạng lật đổ Mubarak có dẫn đến một hệ thống thể chế mới, có thể mang lại thịnh vượng cho những người dân thường Ai Cập hay không. Ai Cập đã có những cuộc cách mạng trong quá khứ mà không đem lại thay đổi nào, vì những người làm cách mạng chỉ đơn thuần tiếp quản sự thống trị từ những người bị họ hạ bệ và tái tạo một hệ thống tương tự. Quả thật, người dân thường khó mà đạt được quyền lực chính trị thực sự và thay đổi cách thức xã hội vận hành. Nhưng điều này là một việc khả thi, và ta sẽ tìm hiểu xem việc ấy đã xảy ra ở Anh, Pháp và Hoa Kỳ, cũng như ở Nhật Bản, Botswana và Brazil như thế nào. Về cơ bản, đó là sự chuyển đổi chính trị theo một cách thức cần thiết để một xã hội nghèo nàn trở nên giàu có. Có những bằng chứng cho thấy điều này xem chừng đang xảy ra ở Ai Cập. Reda Metwaly, một người phản kháng khác trên quảng trường Tahrir, lập luận: “Giờ đây bạn thấy người Hồi giáo và người Cơ đốc giáo sát cánh với nhau, giờ đây bạn thấy già trẻ lớn bé đều kề vai nhau, tất cả đều mong muốn cùng một điều”. Ta sẽ thấy rằng một phong trào rộng lớn như thế trong xã hội là một phần then chốt của những gì từng xảy ra trong những cuộc chuyển đổi chính trị khác. Nếu ta biết khi nào và tại sao việc chuyển đổi đó xảy ra, ta sẽ ở vào vị thế tốt hơn để đánh giá khi nào ta có thể dự kiến những phong trào như thế sẽ thất bại như đã từng thất bại trong quá khứ và khi nào ta có thể hy vọng chúng sẽ thành công và cải thiện cuộc sống của hàng triệu người.
https://thuviensach.vn
1. RẤT GẦN NHAU MÀ RẤT KHÁC NHAU
KINH TẾ HỌC VỀ RIO GRANDE
THÀNH PHỐ NOGALES bị chia cắt bởi một bờ rào. Nếu bạn đứng bên bờ rào ấy và nhìn về phương bắc, bạn sẽ thấy Nogales của bang Arizona thuộc địa phận hạt Santa Cruz. Thu nhập của một hộ gia đình bình quân ở đó vào khoảng 30 nghìn USD một năm. Hầu hết các thanh thiếu niên đều đến trường, và đa số người trưởng thành đều tốt nghiệp trung học phổ thông. Bất chấp mọi ý kiến về sự bất cập của hệ thống y tế Hoa Kỳ, dân chúng ở đây tương đối khỏe mạnh và có tuổi thọ cao theo tiêu chuẩn toàn cầu. Nhiều người sống trên 65 tuổi và được tiếp cận với hệ thống bảo hiểm y tế Medicare. Đó mới chỉ là một trong nhiều dịch vụ được chính phủ cung cấp mà hầu hết mọi người xem là đương nhiên, như điện, điện thoại, hệ thống thoát nước, y tế công cộng, mạng lưới đường sá kết nối họ với các thành phố khác trong khu vực và phần còn lại của Hoa Kỳ, và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, luật pháp và trật tự trị an. Người dân Nogales bang Arizona có thể thực hiện các hoạt động hàng ngày mà không lo sợ về tính mạng hay an ninh và không e ngại về trộm cắp, tước đoạt hay những thứ khác có thể đe dọa việc đầu tư vào kinh doanh và nhà ở của họ. Quan trọng không kém, người dân Nogales bang Arizona đương nhiên cho rằng, với toàn bộ tính chất phi hiệu quả và tham nhũng đôi khi vẫn có, chính phủ là đại diện của họ. Họ có thể bỏ phiếu thay thế thị trưởng, các hạ nghị sĩ và thượng nghị sĩ; họ đi bầu trong các cuộc bầu cử tổng thống để xác định ai sẽ lãnh đạo đất nước. Nền dân chủ đã trở thành bản tính bẩm sinh của họ.
Đời sống ở phía nam bờ rào, tuy chỉ cách vài bước chân nhưng rất khác biệt. Mặc dù Nogales thuộc bang Sorona là một khu vực tương đối trù
https://thuviensach.vn
phú của Mexico, thu nhập hộ gia đình bình quân ở đây chỉ vào khoảng 1/3 so với Nogales thuộc bang Arizona. Hầu hết người trưởng thành ở Nogales bang Sorona không có bằng trung học phổ thông, và nhiều thanh thiếu niên không đến trường. Các bà mẹ phải lo lắng về tỷ lệ tử vong sơ sinh cao. Điều kiện y tế công cộng yếu kém có nghĩa là sẽ không ngạc nhiên khi thấy người dân Nogales bang Sorona không thọ như những người láng giềng phương bắc. Họ cũng không được tiếp cận nhiều tiện ích công cộng. Đường sá xuống cấp ở phía nam bờ rào. Luật pháp và trật tự lại còn tệ hơn. Tỷ lệ tội phạm cao, và thành lập doanh nghiệp là một hoạt động đầy rủi ro. Chẳng những bạn có nguy cơ bị cướp bóc, mà việc xin đủ các loại giấy phép và hối lộ đủ mọi cấp chỉ để thành lập doanh nghiệp không thôi đã là một nỗ lực chẳng dễ dàng. Người dân Nogales bang Sorona mỗi ngày phải sống với các chính khách tham nhũng và kém năng lực.
Trái với những người láng giềng phương bắc, nền dân chủ là một trải nghiệm mới đối với họ. Mãi đến những cuộc cải cách chính trị năm 2000, Nogales bang Sorona, cũng như phần còn lại của Mexico, vẫn chịu sự kiểm soát đầy tham nhũng của đảng Cách mạng thể chế (PRI).
Làm thế nào hai nửa của một vùng đất mà thực chất là cùng một thành phố lại có thể khác nhau đến thế? Chẳng có sự khác biệt gì về địa lý, khí hậu, hay các loại bệnh tật phổ biến trong vùng, vì không có gì ngăn cản mầm bệnh không qua lại giữa Hoa Kỳ và Mexico. Lẽ dĩ nhiên, điều kiện y tế rất khác nhau, nhưng điều này không liên quan gì đến môi trường bệnh tật; đó là vì người dân phía nam biên giới sống với điều kiện vệ sinh yếu kém và thiếu sự chăm sóc y tế tươm tất.
Nhưng biết đâu dân chúng rất khác nhau. Có thể nào người dân Nogales bang Arizona là con cháu của dân di cư từ châu Âu, trong khi người dân phía nam là hậu duệ của những người Aztec? Không phải vậy. Nguồn gốc của người dân ở hai bên biên giới khá giống nhau. Sau khi Mexico giành được độc lập từ Tây Ban Nha vào năm 1821, vùng đất xung
https://thuviensach.vn
quanh “Los dos Nogales” trở thành một phần của bang Vierja California thuộc Mexico và điều này được giữ nguyên ngay cả sau cuộc chiến tranh Mexico - Mỹ năm 1846-1848. Quả thật, mãi đến sau khi nước Mỹ mua đất của Mexico trong doanh vụ Gadsden Purchase năm 1853 thì biên giới Hoa Kỳ mới mở rộng đến vùng này. Chính viên trung úy N. Michler trong khi khảo sát biên giới đã lưu ý sự tồn tại của “thung lũng Los Nogales nho nhỏ”. Ở đây, ở hai bên biên giới, hai thành phố đã mọc lên. Người dân Nogales bang Arizona (Hoa Kỳ) và Nogales bang Sonora (Mexico) có chung tổ tiên, tận hưởng thực phẩm và âm nhạc như nhau, và ta sẽ mạnh dạn nói rằng, họ có cùng “văn hóa”.
Lẽ dĩ nhiên, có một cách giải thích hết sức đơn giản và hiển nhiên về sự khác biệt giữa hai nửa của Nogales mà bạn có thể dự đoán từ nãy đến giờ: chính là do đường biên giới phân chia hai vùng đất này. Nogales bang Arizona thuộc về Hoa Kỳ. Người dân nơi đây được tiếp cận với các thể chế kinh tế của nước Mỹ, cho phép họ tự do chọn lựa nghề nghiệp, hấp thu nền giáo dục và các kỹ năng, và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ tốt nhất, nhờ vậy có tiền lương cao hơn. Họ cũng được tiếp cận các thể chế chính trị cho phép họ tham gia vào quá trình dân chủ bầu chọn người đại diện, và thay thế những người đại diện có hành vi sai trái. Đổi lại, các chính khách cung ứng những dịch vụ cơ bản (từ y tế công cộng cho đến đường sá, luật pháp và an ninh trật tự) mà người dân yêu cầu. Người dân Nogales bang Sorona không được may mắn như thế. Họ sống trong một thế giới khác được xác lập bởi những thể chế khác. Các thể chế khác nhau này tạo ra những động cơ hết sức khác nhau đối với người dân ở hai thành phố Nogales cũng như các nghiệp chủ và các nhà kinh doanh muốn đầu tư ở đó. Các động cơ hình thành bởi các thể chế khác nhau của hai thành phố Nogales và hai đất nước chính là lý do chủ yếu của những khác biệt về thịnh vượng kinh tế ở hai bên biên giới.
Tại sao các thể chế của Hoa Kỳ lại thuận lợi cho thành công kinh tế hơn hẳn so với các thể chế của Mexico hay phần còn lại của châu Mỹ La-
https://thuviensach.vn
tinh? Câu trả lời cho câu hỏi này nằm ở cách thức các xã hội khác nhau hình thành trong thời kỳ thuộc địa trước đây. Khi ấy, sự phân hóa về thể chế đã xảy ra với những hệ quả và tác động kéo dài cho đến tận ngày nay. Để tìm hiểu sự phân hóa này, ta phải bắt đầu ngay từ khi thành lập các thuộc địa ở Bắc Mỹ và châu Mỹ La-tinh.
SỰ RA ĐỜI CỦA BUENOS AIRES
Vào đầu năm 1516, nhà thám hiểm Tây Ban Nha Juan Díaz de Solís giong buồm đến cửa sông phía bờ đông Nam Mỹ. Lội vào bờ, de Solís xác lập vùng đất này thuộc về Tây Ban Nha, đặt tên con sông là Río de la Plata, “Dòng sông bạc” là do người dân địa phương sở hữu nhiều bạc. Các thổ dân địa phương phía bên kia cửa sông - người Charrúas ở nơi mà hiện nay là đất nước Uruguay, và người Querandí ở vùng đồng bằng về sau được gọi là người Pampas ở đất nước Argentina hiện đại - tỏ thái độ thù địch với những người mới đến. Thổ dân địa phương vốn là những người săn bắn hái lượm sống thành từng nhóm nhỏ mà không có người nắm quyền chính trị tập trung. Thực tế là, chính một nhóm người Charrúas đã đánh de Solís bằng gậy cho đến chết khi ông thám hiểm lãnh địa mới mà ông ra sức chiếm về cho Tây Ban Nha.
Năm 1534, vẫn đầy lạc quan, người Tây Ban Nha đưa một nhóm di dân đầu tiên từ Tây Ban Nha đến dưới sự lãnh đạo của Pedro de Mendoza. Họ thành lập một thành phố nhỏ trên vùng đất thuộc Buenos Aires trong cùng năm đó. Nơi ấy lẽ ra là một miền đất lý tưởng cho người châu Âu. Buenos Aires, hiểu sát nghĩa là “không khí trong lành”, là nơi có khí hậu ôn hòa dễ chịu. Thế nhưng thời gian lưu lại nơi đây của những người Tây Ban Nha đầu tiên thật là ngắn ngủi. Họ không đến để tìm kiếm khí hậu trong lành, mà để khai thác tài nguyên và cưỡng bức lao động. Tuy nhiên, thổ dân Charrúas và Querandí không gia ơn cho họ. Người dân bản xứ từ chối cung cấp lương thực cho người Tây Ban Nha và không chịu làm việc khi bị bắt. Họ tấn công những người mới định cư bằng cung tên. Người Tây Ban
https://thuviensach.vn
Nha đói khát, vì họ không dự trù sẽ phải tự cung cấp lương thực cho mình. Buenos Aires không phải như những gì họ hằng mơ tưởng. Họ không thể ép buộc thổ dân cung ứng sức lao động. Nơi đây không có vàng hay bạc để khai thác, và bạc mà de Solís nhìn thấy thật ra đến từ mọi ngõ ngách từ nhà nước Inca ở vùng núi Andes, xa mãi về phía tây.
Người Tây Ban Nha, trong lúc vật lộn để sống còn, cũng bắt đầu tổ chức những đoàn người thám hiểm nhằm tìm một vùng đất mới có thể mang lại tài nguyên phong phú hơn và người dân dễ chế ngự hơn. Năm 1537, một trong những đoàn thám hiểm này, dưới sự lãnh đạo của Juan de Ayolas, thâm nhập ngược lên thượng nguồn sông Paraná, tìm một lộ trình đến vùng đất của những người Inca. Trên đường đi, họ gặp thổ dân Guaraní với cuộc sống định cư tĩnh tại và một nền kinh tế nông nghiệp dựa vào ngô và sắn. De Ayolas ngay lập tức nhận ra rằng Guaraní là một cơ hội hoàn toàn khác so với người Charrúas và Querandí. Sau những xung đột ngắn ngủi, người Tây Ban Nha khống chế sự chống đối của thổ dân Guaraní và thành lập một thành phố nhỏ, Nuestra Señora de Santa María de la Asunción, mà ngày nay vẫn là thủ đô của Paraguay. Những người đi chinh phục kết hôn cùng các công nương Guaraní và nhanh chóng ổn định cuộc sống như một tầng lớp quý tộc mới. Họ điều chỉnh các hệ thống lao động cưỡng bức và cống nạp hiện hữu của Guaraní trong đó chính bản thân họ nắm quyền chỉ huy. Đây là một kiểu thuộc địa mà họ muốn thiết lập, và trong vòng bốn năm, Buenos Aires bị bỏ rơi khi toàn bộ người Tây Ban Nha từng định cư ở đó bỏ đến thành phố mới.
Mãi cho đến năm 1580, Buenos Aires, “Paris của Nam Mỹ”, một thành phố với các đại lộ rộng lớn theo kiểu châu Âu dựa vào tài sản nông nghiệp trù phú của người Pampas, mới được hình thành và có người định cư trở lại. Việc từ bỏ Buenos Aires và sự chinh phục thổ dân Guaraní phơi bày lôgic thuộc địa hóa châu Mỹ của người châu Âu. Những người Tây Ban Nha đầu tiên, và như ta sẽ thấy, cả thực dân Anh sau này, đều không hề quan tâm đến việc tự mình cày bừa trên mảnh đất ấy; họ muốn những
https://thuviensach.vn
người khác làm điều đó cho họ, còn họ chỉ muốn cướp bóc của cải, bạc vàng.
TỪ CAJAMARCA…
Các cuộc thám hiểm của de Solís, de Mendoza và de Ayolas được tiến hành theo dấu chân của những cuộc thám hiểm nổi tiếng hơn sau khi Christopher Columbus lần đầu tiên nhìn thấy một trong những hòn đảo của quần đảo Bahamas vào ngày 12/10/1492. Quá trình bành trướng và thuộc địa hóa châu Mỹ của người Tây Ban Nha bắt đầu một cách nghiêm túc bằng việc thâm nhập Mexico của Hernán Cortés vào năm 1519, đoàn thám hiểm Francisco Pizarro đến Peru một thập niên rưỡi sau đó, và đoàn thám hiểm của Pedro de Mendoza đến Río de la Plata chỉ hai năm sau. Suốt một thế kỷ tiếp theo, Tây Ban Nha chinh phục và thuộc địa hóa hầu hết miền trung, tây và nam Nam Mỹ, trong khi Bồ Đào Nha chiếm lĩnh từ Brazil cho đến miền đông.
Chiến lược thuộc địa hóa của Tây Ban Nha hết sức hữu hiệu. Chiến lược đó được Cortés hoàn thành trước tiên ở Mexico, dựa vào quan sát rằng cách tốt nhất để người Tây Ban Nha vượt qua sự chống đối là thu phục người cầm đầu thổ dân. Chiến lược này giúp người Tây Ban Nha giành được của cải tích lũy của người cầm đầu và cưỡng bức người dân bản xứ cống nạp phẩm vật và lương thực. Bước kế tiếp là biến chính họ trở thành tầng lớp thế lực mới trong xã hội bản xứ và giành quyền kiểm soát việc thu thuế, cống nạp và lao động cưỡng bức hiện hữu.
Khi đoàn thám hiểm của Cortés đến thủ đô Tenochtitlan vĩ đại của người Aztec vào ngày 8/11/1519, họ được vua Aztec Moctezuma tiếp đãi theo lời khuyên của các cố vấn của nhà vua rằng nên chào đón người Tây Ban Nha trong hòa bình. Những gì xảy ra sau đó được mô tả tường tận theo tài liệu sưu tập sau năm 1545 của linh mục dòng Francisco Bernardino de Sahagún trong bộ sách nổi tiếng Florentine Codices.
https://thuviensach.vn
Ngay lập tức họ [người Tây Ban Nha] bắt giữ Moctezuma… rồi tất cả các khẩu súng cùng nổ vang… Nỗi sợ hãi tràn ngập. Cứ như thể mọi trái tim đều ngừng đập. Ngay trước khi trời dần tối, người ta hoảng loạn, kinh ngạc, sợ hãi và bàng hoàng.
Và ngay sau đó khi trời vừa rạng sáng, mọi thứ mà người Tây Ban Nha yêu cầu được công bố: bánh ngô trắng, gà tây nướng, trứng, nước, gỗ, củi, than… Việc này thật ra là họ buộc Moctezuma phải ra lệnh.
Và khi người Tây Ban Nha đã ổn định, họ yêu cầu Moctezuma phải giao nộp tất cả của cải của thành phố… một cách nôn nóng, họ tìm kiếm vàng. Rồi ngay sau đó Moctezuma đưa người Tây Ban Nha đi. Họ đi xung quanh ông… mọi người đều tóm chặt lấy ông.
Và khi họ đi đến nhà kho, một nơi được gọi là Teocalco, ngay sau đó những món đồ rực rỡ được mang ra; chiếc quạt lông chim đuôi seo, các đồ trang trí, những chiếc khiên, những chiếc đĩa bằng vàng… những chiếc lưỡi liềm mũi bằng vàng, những dải băng nẹp chân bằng vàng, những dải băng nẹp tay bằng vàng, những dải băng quấn trước trán bằng vàng.
Ngay khi ấy vàng được tháo ra… ngay lập tức họ châm lửa, thiêu cháy… tất cả những thứ quý giá. Tất cả đều cháy. Và người Tây Ban Nha đúc vàng thành từng thỏi… Họ đi khắp nơi… Họ thâu tóm mọi thứ, tất cả những gì họ tìm thấy mà họ cho là tốt.
Ngay sau đó họ đi đến kho riêng của Moctezuma… ở nơi được gọi là Totocalco… người ta mang đến tài sản riêng của Moctezuma… tất cả mọi thứ quý giá; những chiếc vòng cổ có mặt dây chuyền, những dải đeo tay với những chùm lông chim đuôi seo, những dải băng đeo tay bằng vàng, những chiếc vòng đeo tay, những dải băng bằng vàng đính vỏ ốc… và những chiếc vương miện kết ngọc lam, biểu tượng của người thống trị. Họ thâu tóm toàn bộ.
https://thuviensach.vn
Việc chinh phục người Aztec bằng quân đội hoàn tất vào năm 1521. Cortés, trên cương vị thống đốc tỉnh Tân Tây Ban Nha, khi đó bắt đầu phân chia nguồn lực quý giá nhất, người dân bản xứ, thông qua thành lập hệ thống cai trị được gọi là encomienda. Hệ thống này xuất hiện lần đầu tiên ở Tây Ban Nha vào thế kỷ 15 như một phần của việc tái chinh phục miền nam đất nước từ người Moors, người Ảrập từng định cư ở đó trong và sau thế kỷ thứ 8. Ở Tân Thế giới, hệ thống này có một hình thức tàn bạo hơn: một nhóm người dân bản xứ được phân bổ cho một người Tây Ban Nha đứng đầu được gọi là encomendero. Người dân bản xứ phải cống nạp cho encomendero phẩm vật và sức lao động, đổi lại, encomendero sẽ có trách nhiệm hoán cải họ thành các giáo dân Thiên chúa giáo.
Tài liệu sống động về sự vận hành hệ thống encomienda còn truyền lại cho chúng ta ngày nay là từ Bartolomé de las Casas, tu sĩ dòng Dominic vốn là một trong những người chỉ trích hệ thống thuộc địa Tây Ban Nha đầu tiên và kịch liệt nhất. De las Casas đến đảo Hispaniola của Tây Ban Nha vào năm 1502 với một đội thuyền do tân thống đốc Nicolás de Ovando chỉ huy. Ông ngày càng vỡ mộng và lo lắng trước cách đối xử bóc lột và tàn bạo đối với người dân bản xứ mà ông phải chứng kiến hằng ngày. Năm 1513, ông làm đức cha tuyên úy trong cuộc chinh phục Cuba của người Tây Ban Nha, thậm chí còn được bổ nhiệm làm encomienda vì sự phục vụ của ông. Tuy nhiên, ông từ bỏ tước vị và bắt đầu một chiến dịch bền bỉ nhằm cải cách các thể chế thuộc địa của Tây Ban Nha. Nỗ lực của ông lên đến đỉnh cao trong quyển sách Một giải thích ngắn cho sự hủy diệt người Anh-điêng (A Short Account of the Destruction of the Indies), viết vào năm 1542, như một đòn tấn công khinh miệt vào tính chất dã man trong sự cai trị của người Tây Ban Nha. Về hệ thống cai trị encomienda, ông từng viết như sau trong trường hợp Nicaragua:
Mỗi người định cư chiếm cứ một cơ ngơi trong thành phố được phân cho họ, bố trí thổ dân đến làm việc cho họ, chiếm lấy nguồn lương thực vốn dĩ khan hiếm của thổ dân cho bản thân họ, và thôn tính đất đai vốn thuộc sở
https://thuviensach.vn
hữu và là nơi làm việc của người bản xứ, nơi họ trồng trọt các sản phẩm theo truyền thống. Người định cư đối xử với toàn bộ thổ dân - người quyền quý, người già, phụ nữ và trẻ em - như thành viên trong hộ gia đình họ, và bắt những người này lao động suốt ngày đêm, không được nghỉ ngơi vì bất kỳ nguyên nhân nào, để phục vụ lợi ích riêng của người định cư.
Đối với việc chinh phục New Granada, hiện nay là đất nước Colombia, de las Casas tường thuật toàn bộ chiến lược hành động của người Tây Ban Nha:
Để đạt mục đích lâu dài là thâu tóm toàn bộ vàng hiện có, người Tây Ban Nha triển khai chiến lược thông thường là phân chia thành phố và người dân bản xứ giữa họ với nhau… rồi sau đó, họ đối xử với người bản xứ như nô lệ. Người chỉ huy đoàn thám hiểm sẽ bắt giữ vua của toàn lãnh thổ làm tù nhân trong sáu hay bảy tháng, đòi hỏi một cách trái phép ngày càng nhiều vàng ngọc hơn từ nhà vua… Vua hoảng sợ đến mức, trong nỗi lo lắng muốn được giải thoát khỏi sự kiểm soát của những người hành hạ mình, phải chấp thuận yêu cầu rằng ông sẽ chất đầy vàng trong một tòa nhà rồi giao nộp cho họ; vì mục đích đó, ông cử người đi tìm vàng, và từng chút một, họ đưa vàng về cùng với nhiều đá quý. Nhưng ngôi nhà vẫn chưa được chất đầy, và người Tây Ban Nha cuối cùng tuyên bố rằng họ sẽ xử ông tội chết vì thất hứa. Người chỉ huy, như một người đại diện cho luật pháp, ra lệnh xét xử nhà vua và chính thức buộc tội nhà vua, phạt ông bằng cách tra tấn nếu ông vẫn không tôn trọng cam kết. Họ tra tấn ông bằng cách bắt “đi tàu bay giấy”, đốt mỡ động vật dưới bụng ông, ghim chặt cả hai chân ông vào cọc bằng móc sắt và ghim cổ ông vào một móc sắt khác, rồi với hai người giữ hai tay ông, họ bắt đầu đốt đế dưới chân ông. Thỉnh thoảng, người chỉ huy sẽ đến xem và nhắc đi nhắc lại rằng họ sẽ tra tấn ông từ từ cho đến chết trừ khi ông giao nộp thêm vàng, và trên thực tế họ đã làm như thế, nhà vua cuối cùng chết trong nỗi đau đớn cực độ mà họ bắt ông phải chịu.
https://thuviensach.vn
Chiến lược và thể chế chinh phục hoàn tất ở Mexico nhanh chóng được áp dụng cho những nơi khác dưới thời đế quốc Tây Ban Nha. Không nơi nào các chiến lược và thể chế này được thực hiện hữu hiệu bằng cuộc chinh phục Peru của Pizarro. Như de las Casas bắt đầu trong tài liệu của ông:
Năm 1531, lại một kẻ đại gian ác khác cùng đoàn tùy tùng đến thám hiểm vương quốc Peru. Hắn bắt đầu với dự định bắt chước chiến lược và chiến thuật mà những nhà thám hiểm đồng liêu đã thực hiện tại những nơi khác ở Tân thế giới.
Pizarro bắt đầu trên bờ biển gần thành phố Peruvian của người Tumbes và tiến về phía nam. Ngày 15/11/1532, ông đến thành phố núi Cajamarca, nơi vua Inca Atahualpa cắm trại cùng các binh lính. Ngày hôm sau, Atahualpa, người vừa đánh bại em trai mình là Huáscar trong cuộc tranh tài giành quyền kế vị vua Huayna Capac mới băng hà, đi cùng đoàn tùy tùng đến nơi người Tây Ban Nha cắm trại. Atahualpa bị kích động vì tin tức về những hành động hung bạo mà người Tây Ban Nha gây ra, như vụ xâm phạm một ngôi đền Thần Mặt trời Inti. Những gì xảy ra sau đó ai cũng biết. Người Tây Ban Nha giăng bẫy và giật bẫy. Họ giết binh lính bảo vệ và tùy tùng của Atahualpa, có lẽ lên đến hai nghìn người, và bắt giữ nhà vua. Để được tự do, Atahualpa phải cam kết cống nạp một gian phòng chất đầy vàng và hai gian phòng như thế chất đầy bạc. Ông đã làm điều đó nhưng người Tây Ban Nha bội ước và siết cổ ông cho đến chết vào tháng 7/1533. Tháng 11 năm đó, người Tây Ban Nha thâu tóm thủ đô Cusco của người Inca, và giới quý tộc Inca ở đây bị đối xử hệt như Atahualpa, bị cầm tù cho đến khi họ cống nạp vàng bạc. Khi không thỏa mãn những đòi hỏi của người Tây Ban Nha, họ bị thiêu sống. Các kho báu nghệ thuật vĩ đại của Cusco, như đền thờ Thần Mặt trời, bị bóc gỡ vàng và nấu chảy thành vàng thỏi.
https://thuviensach.vn
Cho đến lúc này, người Tây Ban Nha tập trung chú ý vào người dân của đế chế Inca. Cũng như ở Mexico, dân chúng bị phân vào các encomienda, mỗi người trong đoàn người chinh phục của Pizarro sẽ được phân công phụ trách một encomienda. Encomienda là thể chế chính dùng để kiểm soát và tổ chức lao động trong giai đoạn thuộc địa ban đầu, nhưng chẳng bao lâu hệ thống này nhường bước trước một hệ thống khác vững mạnh hơn. Năm 1545, một người dân địa phương tên Diego Gualpa đi tìm một đền thờ bản xứ trên vùng núi Andes ở nơi mà ngày nay là Bolivia. Anh bị một luồng gió mạnh hất tung xuống mặt đất và ngay trước mặt anh là một vỉa quặng bạc. Đây là một phần của rặng núi bạc khổng lồ mà người Tây Ban Nha đặt tên là El Cerro Rico, có nghĩa là “Ngọn đồi giàu có”. Xung quanh nơi ấy mọc lên thành phố Potosí, mà vào thời hoàng kim năm 1650 có dân số lên đến 160 nghìn người, lớn hơn cả Lisbon hay Venice lúc bấy giờ.
Để khai thác bạc, người Tây Ban Nha cần thợ mỏ - rất nhiều thợ mỏ. Họ phái đến đây một tổng trấn, viên chức thuộc địa người Tây Ban Nha Francisco de Toledo, với nhiệm vụ chính là giải quyết vấn đề lao động. De Toledo đến Peru vào năm 1569, trải qua năm năm đầu tiên đi khắp nơi và tìm hiểu nhiệm vụ mới. Ông cũng được phân công nhiệm vụ điều tra toàn bộ dân số trưởng thành. Để tìm người lao động cần thiết, trước tiên de Toledo di dời gần như toàn bộ thổ dân, tập trung họ vào những thành phố mới gọi là reducciones - hiểu sát nghĩa là ‘thu gọn’ - giúp tạo điều kiện thuận lợi cho việc bóc bột lao động của vương triều Tây Ban Nha. Sau đó ông sửa đổi và điều chỉnh một thể chế lao động Inca gọi là mita, theo ngôn ngữ Quechua của người Inca có nghĩa là “vòng quay”. Theo hệ thống mita, người Inca sử dụng lao động cưỡng bức để điều hành các trang trại được thiết kế nhằm cung cấp lương thực cho các đền thờ, giới quý tộc và quân đội. Đổi lại, giới quyền thế của Inca đảm bảo an ninh và cứu đói. Trong tay của de Toledo, hệ thống mita, đặc biệt là mita ở thành phố Potosí, trở thành cơ chế bóc lột sức lao động lớn nhất và nặng nề nhất trong thời kỳ thuộc địa Tây Ban Nha. De Toledo xác lập một địa bàn hoạt động khổng lồ, chạy
https://thuviensach.vn
từ miền trung của Peru ngày nay và bao trùm phần lớn Bolivia thời hiện đại. Vùng này bao trùm khoảng hai trăm nghìn dặm vuông. Trong địa bàn hoạt động này, 1/7 nam giới, những người mới đến ở trong các reducciones, bị buộc phải lao động trong các hầm mỏ ở Potosí. Hệ thống cai trị mita của thành phố Potosí tồn tại suốt thời kỳ thuộc địa và chỉ bị bãi bỏ vào năm 1825. Bản đồ 1 trình bày địa bàn hoạt động của hệ thống mita bao trùm một phần đế chế Inca vào thời điểm bị người Tây Ban Nha đô hộ. Bản đồ này minh họa phạm vi bao trùm của hệ thống cai trị mita lên vùng đất trung tâm của đế chế, kể cả thủ đô Cusco.
Bản đồ 1: Đế chế Inca, mạng lưới đường sá Inca, và địa bàn hoạt động của hệ thống cai trị mita để khai thác khoáng sản (p. 34)
https://thuviensach.vn
Điều ấn tượng là, bạn vẫn còn thấy di sản của mita ở Peru ngày nay. Hãy xem sự khác biệt giữa các tỉnh Calca và Acomayo nằm kế bên. Dường như không có gì khác nhau giữa các tỉnh này. Cả hai đều ở vùng núi cao, và dân cư hai tỉnh đều là hậu duệ của người Inca nói tiếng Quechua. Thế nhưng Acomayo nghèo hơn nhiều, dân chúng tiêu dùng ít hơn khoảng 1/3 so với người dân Calca. Dân chúng biết điều này. Ở Acomayo, họ hỏi những người nước ngoài gan dạ: “Bạn có biết người dân ở đây nghèo hơn những người ở Calca ngoài kia không? Tại sao bạn còn muốn đến đây làm gì?” Gan dạ là vì, so với Calca, thật khó để đến được tỉnh Acomayo từ thủ đô Cusco, khu vực trung tâm cổ của đế chế Inca. Đường đến Calca được lát phẳng, trong khi đường đến Acomayo ở trong tình trạng đổ nát kinh khủng. Để đi qua Acomayo, bạn cần một con ngựa hay một con la. Ở Calca và Acomayo, người dân trồng cùng những loại hoa màu như nhau, nhưng ở Calca, họ bán hoa màu ra chợ lấy tiền. Còn ở Acomayo, dân chúng tự cung tự cấp. Sự khác biệt rõ rệt đối với mọi người và đối với dân chúng sống ở đó, có thể được hiểu như sự khác biệt thể chế giữa hai nơi này - sự khác biệt thể chế với cội nguồn lịch sử từ thời de Toledo và kế hoạch bóc lột người lao động bản xứ hữu hiệu của ông. Sự khác biệt lịch sử giữa Acomayo và Calca là ở chỗ, Acomayo nằm trong địa bàn hoạt động của hệ thống cai trị mita của thành phố Potosí. Còn Calca thì không.
Ngoài việc tập trung lao động và hệ thống cai trị mita, de Toledo còn hợp nhất encomienda vào một loại thuế thân, một số lượng bạc cố định mỗi người trưởng thành phải nộp mỗi năm. Đây là một cơ chế khác được thiết kế để bắt buộc dân chúng phải tham gia thị trường lao động và giúp các chủ đất Tây Ban Nha giảm tiền công. Một thể chế khác, được gọi là repartimiento de mercancias, cũng trở nên phổ biến dưới thời de Toledo. Hình thành từ động từ repartir trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là phân phối, repartimiento hiểu sát nghĩa là “sự phân phối hàng hóa”, liên quan đến việc bán hàng hóa cưỡng bức cho người địa phương với mức giá do người Tây Ban Nha ấn định. Cuối cùng, de Toledo áp dụng trajin - có nghĩa là “gánh nặng” - sử dụng người bản xứ thay thế động vật để mang
https://thuviensach.vn
vác hàng hóa, như rượu, lá coca, hay hàng dệt may trong công việc kinh doanh của giới quyền thế Tây Ban Nha.
Xuyên suốt thế giới thuộc địa Tây Ban Nha ở châu Mỹ, các thể chế và cơ cấu xã hội tương tự cũng nổi lên. Sau giai đoạn cướp bóc và thèm khát vàng bạc ban đầu, người Tây Ban Nha xây dựng một mạng lưới thể chế được thiết kế nhằm bóc lột người bản xứ. Toàn bộ hệ thống encomienda, mita, repartimiento và trajin được thiết kế để đẩy mức sống thổ dân xuống mức tồn tại tối thiểu và qua đó giành lấy toàn bộ thu nhập thặng dư cho người Tây Ban Nha. Họ đạt được điều này bằng cách chiếm đoạt đất đai, cưỡng bức lao động, trả tiền công thấp cho dịch vụ lao động, áp thuế cao, và tính giá hàng hóa cao mà thậm chí còn không được mua một cách tự nguyện. Cho dù các thể chế này tạo ra nhiều của cải cho vương triều Tây Ban Nha và làm cho những người chinh phục và hậu duệ của họ trở nên giàu có, chúng cũng biến châu Mỹ La-tinh thành một châu lục cách biệt giàu nghèo nhất trên thế giới và phá hủy nhiều tiềm năng kinh tế của nơi này.
…CHO ĐẾN JAMESTOWN
Khi người Tây Ban Nha bắt đầu chinh phục châu Mỹ vào thập niên 1490, nước Anh là một cường quốc châu Âu nhỏ đang phục hồi từ ảnh hưởng tàn phá của cuộc nội chiến, cuộc chiến Hoa hồng. Đất nước bấy giờ không ở vào vị thế tranh thủ cướp bóc bổng lộc và vàng bạc cũng như khai thác cơ hội bóc lột các dân tộc bản địa châu Mỹ. Gần 100 năm sau, vào năm 1588, sự thất bại thảm hại của Hạm đội Spanish Armada trong nỗ lực của nhà vua Tây Ban Nha Philip II nhằm xâm chiếm nước Anh, đã làm dấy lên những làn sóng rung động khắp châu Âu. Chiến thắng của nước Anh, mặc dù là một sự may mắn, đã báo hiệu quyết tâm ngày càng tăng của nước này trên biển mà cuối cùng sẽ giúp họ tham gia vào việc xâm chiếm thuộc địa.
https://thuviensach.vn
Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà người Anh bắt đầu công cuộc thuộc địa hóa Bắc Mỹ đúng vào lúc đó. Nhưng họ là người đến sau. Họ chọn Bắc Mỹ không phải vì nơi này hấp dẫn, mà vì đó là tất cả những gì còn sót lại. Những phần “đáng mơ ước” của châu Mỹ, nơi có đông đảo người dân bản xứ để bóc lột và nơi có các mỏ vàng mỏ bạc, bấy giờ đã bị chiếm cứ hết. Người Anh nhận lấy những gì còn lại. Khi cây bút người Anh và cũng là nhà nông nghiệp học Arthur Young thảo luận về nơi sản xuất “các sản phẩm lương thực”, qua đó ông muốn nói tới các hàng hóa nông sản có thể xuất khẩu, ông nhận xét:
Nhìn tổng thể, xem ra việc sản xuất lương thực của các nước thuộc địa giảm dần giá trị khi người ta càng đi xa mặt trời. Ở vùng West Indies, nơi nóng nhất, mỗi đầu người làm ra 8 bảng 12 hào 1 xu. Ở các thuộc địa phía nam châu lục, mỗi đầu người làm ra 5 bảng 10 hào. Ở các thuộc địa miền trung là 9 hào 6,5 xu. Ở các vùng định cư phía bắc chỉ có 2 hào 6 xu. Thước đo này chắc chắn cho ta thấy bài học quan trọng nhất - tránh thuộc địa hóa các vùng phía bắc.
Nỗ lực đầu tiên của người Anh để thiết lập một thuộc địa ở Roanoke, Bắc Carolina, từ năm 1585 đến 1587, là một sự thất bại hoàn toàn. Năm 1607, họ thử lại một lần nữa. Vào cuối năm 1606, ba con tàu Susan Constant, Godspeed và Discovery, dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Christopher Newport, khởi hành đến Virginia. Những người đi chinh phục, dưới sự bảo trợ của Công ty Virginia, tiến vào vịnh Chesapeake và ngược dòng lên một con sông mà họ đặt tên là sông James, theo tên vua Anh James I đang cầm quyền. Ngày 14/5/1607, họ thành lập vùng định cư Jamestown.
Cho dù những người định cư trên các con tàu thuộc sở hữu của Công ty Virginia là người Anh, họ tuân theo một mô hình thuộc địa hóa chịu ảnh hưởng nặng nề của khuôn mẫu thuộc địa hóa do Cortés, Pizarro và de Toledo thiết lập. Kế hoạch ban đầu của họ là bắt giữ người đứng đầu địa
https://thuviensach.vn
phương và sử dụng ông như một phương thức để chiếm đoạt lễ vật cống nạp và cưỡng bức dân chúng lao động sản xuất lương thực và tạo ra của cải cho họ.
Lần đầu tiên đổ bộ lên Jamestown, thực dân Anh không biết rằng họ đang ở trên lãnh thổ của liên minh Powhatan gồm khoảng 30 chính thể trung thành với một nhà vua được gọi là Wahunsunacock. Thủ đô của Wahunsunacock đặt tại thành phố Werowocomoco, chỉ cách Jamestown 20 dặm. Kế hoạch của thực dân là tìm hiểu thêm về vị trí phương hướng của mảnh đất này. Nếu không thể dụ dỗ người dân bản xứ cung cấp lương thực và lao động, chí ít thực dân cũng có thể trao đổi với họ. Quan niệm tự mình làm việc và trồng cây lương thực dường như không tồn tại trong tâm trí thực dân. Đó không phải là điều mà những người chinh phục Tân thế giới đã làm.
Wahunsunacock nhanh chóng nhận thức được sự hiện diện của thực dân và xem xét dự định của họ một cách đầy hoài nghi. Ông đảm nhiệm một vùng đất vốn là một đế chế khá lớn ở Bắc Mỹ. Nhưng ông có nhiều kẻ thù và thiếu sự kiểm soát chính trị tập trung áp đảo đối với người Inca. Wahunsunacock quyết định xem thử dự định của người Anh là gì, thoạt đầu ông phái các sứ giả đến nói rằng ông muốn có mối quan hệ bằng hữu với họ.
Khi mùa đông năm 1607 trôi qua, những người định cư ở Jamestown bắt đầu cạn kiệt lương thực, và người lãnh đạo được bổ nhiệm vào hội đồng cai trị thuộc địa, Edward Marie Wingfield là một người hay do dự và không quyết đoán. Tình thế được ứng cứu nhờ vào thuyền trưởng John Smith, người có những ghi chép là một trong những nguồn thông tin chính về sự phát triển thuộc địa ban đầu. Ông này vốn có một tính cách thú vị và kích động hơn bình thường. Chào đời ở vùng nông thôn Lincolnshire nước Anh, ông trở thành một người lính đánh thuê, bất chấp mơ ước của cha là cho ông đi làm kinh doanh. Thoạt đầu, ông chiến đấu cùng quân đội Anh ở Hà
https://thuviensach.vn
Lan, sau đó tham gia lực lượng Áo phục vụ ở Hungary chống lại quân đội của Đế chế Ottoman. Ông bị bắt ở Romania, bị bán làm nô lệ và phải làm công việc đồng áng. Một ngày kia, ông xoay sở để khống chế chủ nô, đánh cắp quần áo và ngựa rồi trốn thoát đến biên giới nước Áo. Smith gây vạ trong cuộc hành trình đến Virginia rồi bị bỏ tù trên con tàu Susan Constant do nổi loạn sau khi bất tuân mệnh lệnh của Wingfield. Khi con tàu cập bến Tân thế giới, kế hoạch là đưa ông ra xét xử. Tuy nhiên, quả là nỗi kinh hoàng tột độ đối với Wingfield, Newport và những kẻ chinh phục quyền thế khác khi họ mở niêm phong mệnh lệnh, họ nhận ra rằng Công ty Virginia đã chỉ định Smith làm thành viên hội đồng cai trị để cai quản Jamestown.
Khi Newport giong buồm trở về Anh để lấy thêm người và hàng hóa tiếp tế, còn Wingfleld thì không quyết đoán về những gì nên làm, chính Smith là người đã cứu thực dân. Ông phát động một loạt thương vụ trao đổi để bảo đảm nguồn cung lương thực. Trong một lần mua bán này, ông bị bắt dưới tay Opechancanough, một người em trai của Wahunsunacock, và được đưa đến trước mặt nhà vua ở Werowocomoco. Ông là người Anh đầu tiên gặp Wahunsunacock, và chính trong lần gặp gỡ đầu tiên đó, theo một vài tài liệu, mạng sống của Smith chỉ được cứu thoát bằng sự can thiệp của Pocahontas, con gái Wahunsunacock. Được thả tự do ngày 2/1/1608, Smith quay về Jamestown, lúc bấy giờ vẫn còn thiếu hụt lương thực một cách ngặt nghèo, cho đến khi Newport kịp thời quay về từ Anh sau đó trong cùng ngày.
Thực dân Anh ở Jamestown không học hỏi được gì nhiều từ kinh nghiệm ban đầu này. Khi năm 1608 trôi qua, họ tiếp tục tìm kiếm vàng và kim loại quý. Xem ra họ vẫn không hiểu rằng để sống còn, họ không thể dựa vào người dân địa phương nuôi sống họ thông qua cưỡng bức hay trao đổi. Chính Smith là người đầu tiên nhận ra rằng mô hình thuộc địa hóa từng phát huy tác dụng tốt đối với Cortés và Pizarro không thể áp dụng ở Bắc Mỹ. Chỉ đơn giản là tình huống cơ bản quá khác biệt. Smith nhận xét rằng, không như người Aztec và Inca, người dân Virginia không có vàng. Quả
https://thuviensach.vn
thật, ông ghi trong nhật ký: “Bạn phải biết, thực phẩm là toàn bộ của cải của họ”. Anas Todkill, một trong những người định cư đầu tiên để lại một quyển nhật ký lớn, bày tỏ nỗi thất vọng của Smith và những người khác về những gì hé lộ qua sự thừa nhận này:
“Không chuyện trò, không hy vọng, không làm việc, mà là đào vàng, lọc vàng, chở vàng”.
Khi Newport quay về Anh vào tháng 4/1608, ông mang theo một lô đồng thau, khoáng sản cũng có màu vàng. Ông quay lại vào cuối tháng 9 với mệnh lệnh từ Công ty Virginia là phải kiểm soát người dân bản xứ chặt chẽ hơn. Kế hoạch của họ là ban thưởng cho Wahunsunacock với hy vọng sẽ chiêu dụ ông thuần phục vua Anh James I. Họ mời ông đến Jamestown, nhưng Wahunsunacock vẫn hết sức ngờ vực thực dân Anh, và không có ý định mạo hiểm để bị bắt. John Smith ghi chép lại phúc đáp của Wahunsunacock: “Nếu vua của các ông tặng quà cho tôi, tôi cũng là một vì vua, và đây là đất đai của tôi… Cha ông phải đến với tôi, chứ không phải tôi đến với ông ấy, tôi sẽ không đến pháo đài của ông, mà cũng sẽ không cắn miếng mồi câu như thế”.
Nếu Wahunsunacock không “cắn miếng mồi câu như thế” thì Newport và Smith sẽ phải đến Werowocomoco để làm lễ tấn phong. Chung quy sự kiện xem ra là một thất bại hoàn toàn, với điều duy nhất bộc lộ rõ rệt là quyết tâm của Wahunsunacock rằng đã đến lúc cắt đứt với thực dân. Ông ra lệnh cấm vận thương mại. Jamestown không thể trao đổi hàng hóa tiếp tế được nữa. Wahunsunacock sẽ bỏ đói họ.
Newport giong buồm một lần nữa về Anh vào tháng 12/1608. Ông mang theo một lá thư do Smith viết, nài nỉ các giám đốc Công ty Virginia thay đổi cách suy nghĩ về thuộc địa. Không có triển vọng gì để làm giàu nhanh chóng bằng cách bóc lột Virginia theo đường lối của Mexico và Peru. Không có vàng hay kim loại quý, và không thể cưỡng bức người dân bản xứ làm việc hay cung cấp lương thực. Smith nhận ra rằng nếu muốn có
https://thuviensach.vn
một thuộc địa vững chắc, chính những người đi chinh phục sẽ phải làm việc. Do đó, ông van xin các giám đốc gửi sang đúng người: “Khi các ông lại cử người sang đây, tôi tha thiết mong các ông gửi sang khoảng ba mươi người thợ mộc, người làm ruộng, làm vườn, ngư dân, thợ rèn, thợ nề và những người đào bứng cây, với trang bị tốt, còn hơn là 1.000 người như những người chúng tôi đang có”.
Smith không muốn có thêm một thợ kim hoàn nào nữa. Một lần nữa, Jamestown sống sót là nhờ vào khả năng xoay sở của ông. Ông tìm cách lừa phỉnh và ức hiếp các nhóm thổ dân để họ trao đổi hàng hóa với ông, và khi họ không đồng tình, ông chiếm lấy những gì ông có thể chiếm được. Quay trở lại vùng định cư, ông chịu toàn bộ trách nhiệm và đặt ra quy luật “ai không làm việc thì không được ăn”. Jamestown sống sót qua mùa đông thứ hai.
Công ty Virginia vốn dĩ là một doanh nghiệp hoạt động vì lợi nhuận, và sau hai năm thảm họa, xem ra không có chút hơi hướng lợi nhuận nào cả. Các giám đốc công ty quyết định rằng họ cần một mô hình cai trị mới, họ thay thế hội đồng cai trị bằng một thống đốc duy nhất. Người đầu tiên được bổ nhiệm vào vị trí này là Ngài Thomas Gates. Lưu ý đến một vài khía cạnh cảnh báo của Smith, công ty nhận thấy họ cần phải thử một điều đó gì mới mẻ. Nhận thức này được dẫn dắt bởi các sự kiện diễn ra vào mùa đông 1609-1610 - cái gọi là “mùa đông chết đói”. Phương thức cai trị mới không có chỗ cho Smith, vốn đã bất mãn quay về Anh vào mùa thu năm 1609. Không có tài tháo vát của ông, và với sự bóp nghẹt nguồn cung lương thực của Wahunsunacock, những người đi chinh phục ở Jamestown đã phải bỏ mạng. Trong số 500 người bước vào mùa đông, chỉ có 60 người còn sống sót đến tháng 3. Tình cảnh tuyệt vọng đến mức họ buộc phải ăn thịt đồng loại.
“Điều gì đó mới mẻ” được Gates và cấp phó của ông, Ngài Thomas Dale, áp dụng ở thuộc địa là chế độ làm việc khắc nghiệt tàn bạo đối với
https://thuviensach.vn
những người Anh định cư - lẽ dĩ nhiên không áp dụng đối với giới quyền thế điều hành thuộc địa. Chính Dale là người ban hành “Luật thiêng liêng, đạo lý và thượng võ”, trong đó có các điều khoản:
- Không nam giới hay phụ nữ nào được bỏ trốn từ thuộc địa sang phía người dân bản xứ, vi phạm sẽ bị phạt tử hình.
- Bất kể ai trộm cướp trong vườn, công cộng hay tư nhân, hay trong vườn nho, hay lấy trộm bắp ngô, đều bị phạt tử hình.
- Không một thành viên nào của thuộc địa được bán hay lấy bất kỳ hàng hóa nào của đất nước này cho một thuyền trưởng, thủy thủ hay chủ tàu để họ chở ra khỏi thuộc địa nhằm mục đích sử dụng riêng, vi phạm sẽ bị phạt tử hình.
Công ty Virginia lập luận, nếu không thể khai thác bóc lột được người dân bản xứ, có lẽ họ có thể làm điều đó với chính những người đi định cư. Mô hình phát triển thuộc địa mới giúp Công ty Virginia sở hữu toàn bộ đất đai. Nam giới được bố trí ở trong các lán trại, và được cấp khẩu phần do công ty ấn định. Các nhóm lao động được tuyển chọn, mỗi nhóm được giám sát bởi một đại diện công ty. Hệ thống cũng gần giống như luật quân đội, với sự hành quyết là biện pháp trừng phạt đầu tiên. Như một phần của các thể chế mới của thuộc địa, điều khoản đầu tiên vừa nêu trên là quan trọng. Công ty đe dọa tử hình những người nào bỏ trốn, ứng với cơ chế lao động mới, việc bỏ trốn sang sống với thổ dân trở thành một phương án ngày càng hấp dẫn hơn đối với những người đi định cư bị bắt buộc phải lao động. Phương án khả dĩ khác, ứng với mật độ dân số thấp ngay cả của người bản xứ ở Virginia ngày ấy, là triển vọng sống một mình ở biên giới ngoài tầm kiểm soát của Công ty Virginia. Khả năng đối phó của công ty trước các phương án này thì có hạn. Công ty không thể ép buộc những người Anh định cư làm việc với khẩu phần ít ỏi.
https://thuviensach.vn
Bản đồ 2: Mật độ dân số ở châu Mỹ năm 1500 (p. 44)
Bản đồ 2 trình bày ước lượng mật độ dân số ở các vùng khác nhau của châu Mỹ vào thời điểm người Tây Ban Nha chinh phục vùng đất này. Mật độ dân số ở Hoa Kỳ, ngoài những khoảnh nhỏ, nhiều nhất cũng chỉ đến 3/4 người trên một km2, ở miền trung Mexico hay Peru thuộc vùng núi Andes,
https://thuviensach.vn
mật độ dân số lên đến 400 người trên một km2, cao hơn gấp 500 lần. Những gì người ta có thể làm ở Mexico hay Peru đều bất khả thi ở Virginia.
Phải mất một thời gian Công ty Virginia mới nhận ra rằng mô hình thuộc địa hóa ban đầu không phát huy tác dụng ở Virginia, và phải mất một thời gian nữa, họ mới thấm thía thất bại của “Luật thiêng liêng, đạo lý và thượng võ”. Bắt đầu từ năm 1618, một chiến lược hoàn toàn mới mẻ được áp dụng. Vì không thể ép buộc thổ dân cũng như những người định cư, phương án duy nhất là tạo cho họ các động cơ khuyến khích. Năm 1618, công ty bắt đầu “hệ thống cấp đất theo đầu người”; cấp cho mỗi nam giới định cư 50 mẫu đất và thêm 50 mẫu nữa cho mỗi thành viên gia đình và cho toàn bộ người phục vụ mà gia đình mang đến Virginia. Những người định cư được cấp nhà và được giải thoát khỏi các hợp đồng ràng buộc, và vào năm 1619, một cơ quan lập pháp được thành lập, thực chất trao cho mọi nam giới trưởng thành một tiếng nói trong luật pháp và thể chế cai quản thuộc địa. Đó là khởi điểm của nền dân chủ ở Hoa Kỳ.
Phải mất 12 năm Công ty Virginia mới học xong bài học đầu tiên rằng những gì từng phát huy tác dụng đối với người Tây Ban Nha ở Mexico cũng như ở Trung và Nam Mỹ sẽ không có tác dụng ở phương bắc. Thời gian còn lại của thế kỷ 17 chứng kiến một loạt cuộc vật lộn của công ty với bài học thứ hai: phương án duy nhất để một thuộc địa có thể đứng vững về mặt kinh tế là xây dựng những thể chế mang lại động cơ khuyến khích cho những người định cư đầu tư và tích cực làm việc.
Khi Bắc Mỹ phát triển, giới quyền thế của nước Anh hết lần này đến lần khác ra sức thiết lập các thể chế giới hạn nghiêm ngặt các quyền kinh tế và chính trị đối với mọi người, ngoại trừ một ít dân cư đặc quyền của thuộc địa, như người Tây Ban Nha đã làm. Thế nhưng trong mọi trường hợp, mô hình này đều bị đổ vỡ, như từng xảy ra ở Virginia.
Một trong những nỗ lực tham vọng nhất được bắt đầu chẳng bao lâu sau khi công ty Virginia thay đổi chiến lược. Năm 1632, mười triệu mẫu đất
https://thuviensach.vn
ở mạn trên vịnh Chesapeake được vua Anh Charles I cấp cho Cecilius Calvert, lãnh chúa Baltimore. Hiến chương Maryland cho phép lãnh chúa Baltimore hoàn toàn tự do thành lập một chính phủ theo bất kỳ đường lối nào ông muốn, với điều VII quy định rằng Baltimore sẽ có “quyền lực tự do hoàn toàn và tuyệt đối để cai quản tỉnh nhà một cách tốt đẹp và hạnh phúc, trên tinh thần chung của sự ban bố này, để ban hành, thực hiện và duy trì luật pháp theo bất kỳ hình thức nào”.
Baltimore vạch ra một kế hoạch chi tiết để thành lập một xã hội trang viên, biến thể Bắc Mỹ của phiên bản nông thôn nước Anh thế kỷ 17 lý tưởng hóa. Đất được chia ra thành nhiều lô rộng hàng nghìn mẫu, được điều hành bởi các lãnh chúa. Các lãnh chúa sẽ tuyển mộ tá điền - những người lao động trên những mảnh đất này và phải nộp tô cho giới quyền thế - những người có đặc quyền kiểm soát đất đai. Một nỗ lực tương tự khác được thực hiện sau này vào năm 1663, với việc thành lập Carolina của tám chủ sở hữu đặc quyền, trong đó có Ngài Anthony Ashley Cooper. Ashley Cooper cùng với thư ký của ông, nhà triết học Anh vĩ đại John Locke, soạn thảo Hiến pháp cơ bản của Carolina. Văn kiện này, cũng như Hiến chương Maryland trước đó, là bản phác thảo cho một xã hội có tôn ti thứ bậc của giới đặc quyền dựa vào sự kiểm soát của một tầng lớp thế lực có đất. Phần mở đầu văn kiện lưu ý: “Việc cai quản tỉnh nhà sẽ được thực hiện theo cách phù hợp nhất với chế độ quân chủ mà chúng ta đang sống và tỉnh này là một phần trong đó; và chúng ta sẽ tránh dựng nên một nền dân chủ cho đa số”.
Các điều khoản của Hiến chương cơ bản phác thảo một cơ cấu xã hội cứng nhắc. Ở dưới đáy cơ cấu đó là các trang viên, với điều khoản 23 quy định: “Tất cả con cái của trang viên sẽ là trang viên, và cứ thế áp dụng cho mọi thế hệ”. Phía trên trang viên, những người không có thế lực chính trị, là các chủ đất lớn và nhỏ (landgrave và cazique) tạo thành tầng lớp quý tộc. Các chủ đất lớn được cấp mỗi người 48 nghìn mẫu đất, và các chủ đất nhỏ được cấp mỗi người 24 nghìn mẫu. Các chủ đất lớn và nhỏ đều có đại diện
https://thuviensach.vn
trong quốc hội, nhưng họ chỉ được phép tranh luận những biện pháp đã được phê duyệt trước bởi tám người chủ sở hữu đặc quyền ban đầu.
Hệt như các nỗ lực áp đặt luật lệ hà khắc ở Virginia đã từng thất bại, các kế hoạch xây dựng cùng một loại thể chế như vậy ở Maryland và Carolina cũng chịu chung số phận với những lý do tương tự. Trong mọi trường hợp, xem ra người ta không thể ép buộc những người định cư vào một khuôn khổ xã hội tôn ti thứ bậc cứng nhắc, bởi lẽ đơn giản là có quá nhiều phương án mở ra cho họ ở Tân thế giới. Thay vào đó, họ cần phải được khuyến khích làm việc. Và chẳng mấy chốc, họ đòi hỏi các quyền tự do kinh tế và chính trị nhiều hơn. Ở Maryland cũng thế, những người định cư khăng khăng đòi hỏi đất đai riêng, và họ buộc lãnh chúa Baltimore phải thành lập một cơ quan lập pháp. Năm 1691, cơ quan lập pháp thuyết phục nhà vua công bố Maryland là một thuộc địa của nhà vua, qua đó bãi bỏ các đặc quyền chính trị của lãnh chúa Baltimore và các chủ đất lớn của ông. Cuộc chiến tranh kéo dài tương tự cũng diễn ra ở hai miền Carolina, một lần nữa các chủ đất cũng thua cuộc. Nam Carolina trở thành một thuộc địa của nhà vua vào năm 1729.
Cho đến thập niên 1720, toàn thể 17 thuộc địa ở vùng đất mà sau này sẽ trở thành Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đều có cơ cấu cai trị tương tự như nhau. Trong tất cả các trường hợp, họ đều có một thống đốc, và một tổ chức lập pháp dựa vào sự bầu chọn của các chủ sở hữu tài sản nam giới. Đó không phải là những nền dân chủ; phụ nữ, nô lệ và những người không có tài sản không được bỏ phiếu. Nhưng các quyền chính trị lại rất phổ cập so với các xã hội khác lúc bấy giờ. Chính các cơ quan lập pháp và các nhà lãnh đạo này đã kết hợp lại tạo thành Quốc hội lục địa đầu tiên vào năm 1774, khúc dạo đầu của nền độc lập ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Các cơ quan lập pháp này tin rằng họ có quyền xác định tư cách thành viên và quyền thu thuế riêng. Điều này, như ta biết, đã gây rắc rối cho chính phủ thuộc địa Anh.
https://thuviensach.vn
CÂU CHUYỆN VỀ HAI BẢN HIẾN PHÁP
Giờ thì rõ ràng là chẳng phải ngẫu nhiên khi Hoa Kỳ, chứ không phải Mexico, ban hành và thực thi một hiến pháp tuân theo các nguyên tắc dân chủ, phân định giới hạn cho việc sử dụng quyền lực chính trị, và phân phối quyền lực đó rộng rãi trong xã hội. Văn kiện mà các đại biểu soạn thảo ở Philadelphia vào tháng 5/1787 là kết quả của một quá trình lâu dài được khởi động bằng sự ra đời của cơ quan lập pháp ở Jamestown năm 1619.
Sự tương phản giữa quá trình lập hiến diễn ra vào thời điểm độc lập của Hoa Kỳ và quá trình diễn ra sau đó một chút ở Mexico thật là sâu sắc. Vào tháng 2/1808, quân đội Pháp của Napoleon Bonaparte xâm lược Tây Ban Nha. Đến tháng 5, họ chiếm Madrid, thủ đô Tây Ban Nha. Đến tháng 9, vua Tây Ban Nha Ferdinand bị bắt và buộc phải thoái vị. Hội đồng hành chính quốc gia, được gọi là Hội đồng Trung ương, thay ông cầm quyền trong cuộc chiến chống Pháp. Hội đồng nhóm họp lần đầu ở Aranjuez, nhưng lui về miền nam khi đối đầu với quân Pháp. Cuối cùng, họ đến cảng Cádiz, dù bị bao vây bởi lực lượng Napoleon nhưng vẫn trụ vững. Ở đây, Hội đồng thành lập một quốc hội, gọi là Cortes. Năm 1812, Cortes soạn thảo cái mà sau này trở thành Hiến pháp Cádiz, kêu gọi thành lập một nền quân chủ lập hiến dựa trên quan niệm chính quyền là cơ quan quyền lực thể hiện ý chí của nhân dân. Hiến pháp cũng kêu gọi chấm dứt các đặc quyền đặc lợi và thực hiện sự bình đẳng trước pháp luật. Các yêu cầu này bị giới quyền thế Nam Mỹ ghét cay ghét đắng trong khi họ vẫn còn đang cầm quyền trong một môi trường thể chế định hình bởi hệ thống cai trị encomienda, lao động cưỡng bức và quyền lực tuyệt đối dành cho họ và nhà nước thuộc địa.
Sự sụp đổ nhà nước Tây Ban Nha với sự xâm lăng của Napoleon tạo ra một cuộc khủng hoảng hiến pháp xuyên suốt châu Mỹ La-tinh thuộc địa. Người ta tranh cãi về việc liệu có công nhận thẩm quyền của Hội đồng Trung ương hay không, và đáp lại, nhiều người châu Mỹ La-tinh bắt đầu
https://thuviensach.vn
thành lập hội đồng riêng của họ. Chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi họ bắt đầu nhận thức triển vọng trở nên hoàn toàn độc lập với Tây Ban Nha. Tuyên bố độc lập đầu tiên diễn ra ở La Paz, Bolivia năm 1809, cho dù nhanh chóng bị đập tan bởi quân đội Tây Ban Nha từ Peru cử đến. Ở Mexico, thái độ chính trị của giới quyền thế được định hình bởi cuộc khởi nghĩa Hidalgo năm 1810 dưới sự lãnh đạo của một linh mục, Cha Miguel Hidalgo. Khi quân đội Hidalgo đánh bại Guanajuato vào ngày 23/9, họ giết viên thống sứ cai quản thuộc địa, rồi bắt đầu giết người da trắng một cách vô tội vạ. Tình hình giống như một cuộc chiến tranh giai cấp hay xung đột chủng tộc hơn là một phong trào giành độc lập, và điều đó khiến toàn bộ giới quyền thế hợp nhất lại để chống trả. Nếu độc lập cho phép tham gia chính trị phổ cập, thì ngay cả giới quyền thế địa phương, chứ không chỉ người Tây Ban Nha, sẽ chống lại điều đó. Hậu quả là, Hiến pháp Cádiz, vốn mở đường cho sự tham gia chính trị phổ cập, bị giới quyền thế Mexico xem xét một cách hết sức hoài nghi; họ không bao giờ công nhận tính hợp pháp của hiến pháp đó.
Năm 1815, khi đế quốc châu Âu của Napoleon sụp đổ, vua Tây Ban Nha Ferdinand VII quay lại cầm quyền và Hiến pháp Cádiz bị hủy bỏ. Khi vương triều Tây Ban Nha bắt đầu ra sức giành lại các thuộc địa châu Mỹ, họ không gặp trở ngại gì với những người Mexico trung thành. Thế nhưng năm 1820, một đội quân Tây Ban Nha vốn tập hợp ở Cádiz để khởi hành đến châu Mỹ nhằm giúp khôi phục lại thẩm quyền của người Tây Ban Nha đã nổi dậy chống đối vua Ferdinand VII. Chẳng bao lâu, các đơn vị quân đội khắp đất nước tham gia cùng họ, và Ferdinand VII buộc phải khôi phục Hiến pháp Cádiz và triệu tập Quốc hội Cortes. Quốc hội lần này thậm chí còn triệt để hơn so với khi soạn thảo Hiến pháp Cádiz; họ đề xuất bãi bỏ tất cả các hình thức cưỡng bức lao động. Quốc hội cũng tấn công vào các đặc quyền - ví dụ như quyền của quân đội được xét xử tội phạm trong các tòa án riêng. Cuối cùng, đứng trước việc ban hành các văn kiện này ở Mexico, giới quyền thế ở đó quyết định rằng tốt hơn họ nên hoạt động riêng lẻ và tuyên bố độc lập.
https://thuviensach.vn
Phong trào độc lập này do Augustín de Iturbide, vốn là một sĩ quan trong quân đội Tây Ban Nha, lãnh đạo. Ngày 24/2/1821, ông công bố Kế hoạch Iguala - tầm nhìn của ông về một đất nước Mexico độc lập. Bản kế hoạch khắc họa một nền quân chủ lập hiến với hoàng đế Mexico, và hủy bỏ những điều khoản của Hiến pháp Cádiz mà giới quyền thế Mexico cho là đe dọa đến vị thế và các đặc quyền của họ. Kế hoạch này nhận được sự ủng hộ ngay tức thời, và Tây Ban Nha nhanh chóng nhận ra rằng họ không thể ngăn chặn một điều tất yếu. Nhưng Iturbide không chỉ tổ chức cho Mexico ly khai. Nhận ra môi trường quyền lực tuyệt đối, ông nhanh chóng chớp lấy thời cơ quân đội yểm trợ để tuyên bố chính mình là hoàng đế, một vị trí mà nhà lãnh đạo vĩ đại của nền độc lập Nam Mỹ Simón Bolivar mô tả là “nhờ ân đức của Chúa và của lưỡi lê”. Iturbide không bị ràng buộc bởi những thể chế chính trị như đã ràng buộc các tổng thống Hoa Kỳ; ông nhanh chóng trở thành một kẻ độc tài, và đến tháng 10/1822, ông bãi bỏ quốc hội được phê chuẩn theo hiến pháp, và thay thế bằng một hội đồng cố vấn do ông tuyển chọn. Dù vậy, Iturbide không trụ được lâu, kiểu sự kiện này sẽ lặp đi lặp lại hết lần này đến lần khác ở Mexico thế kỷ 19.
Hiến pháp Hoa Kỳ bấy giờ không tạo ra một nền dân chủ theo các tiêu chuẩn hiện đại. Việc ai được bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử còn phụ thuộc vào quyết định của mỗi bang. Trong khi các bang miền bắc nhanh chóng trao quyền bỏ phiếu cho tất cả nam giới da trắng bất kể thu nhập và tài sản của họ là bao nhiêu, các bang miền nam chỉ làm điều đó một cách từ từ. Không bang nào trao quyền bỏ phiếu cho phụ nữ hay nô lệ, và khi quy định hạn chế về tài sản và của cải được bãi bỏ đối với nam giới da trắng, thì quy định về quyền bỏ phiếu theo sắc tộc, công khai tước quyền bầu cử của người da đen, được ban hành. Lẽ dĩ nhiên, chế độ nô lệ được xem là hợp hiến khi Hiến pháp Hoa Kỳ được soạn thảo ở Philadelphia, và cuộc đàm phán nhớp nhúa nhất liên quan đến việc phân chia số ghế trong hạ viện giữa các bang. Số ghế này được phân bổ trên cơ sở dân số của các bang, nhưng các đại biểu quốc hội của các bang miền nam lúc bấy giờ yêu cầu phải tính cả nô lệ. Các đại biểu miền bắc bác bỏ. Họ đạt được thỏa hiệp
https://thuviensach.vn
rằng khi phân bổ số ghế cho hạ viện, một nô lệ sẽ được tính bằng 3/5 của một người tự do. Xung đột giữa miền nam và miền bắc Hoa Kỳ được kiềm chế trong quá trình lập pháp khi quốc hội thống nhất quy tắc 3/5 và các thỏa hiệp khác. Những biện pháp chắp vá khác cũng phát sinh theo thời gian - ví dụ như Thỏa hiệp Missouri, một thỏa thuận trong đó một bang ủng hộ chế độ nô lệ và một bang phản đối chế độ nô lệ luôn luôn được bổ sung vào cùng với nhau trong liên minh, để duy trì cân bằng trong Thượng viện giữa những người ủng hộ và những người chống đối chế độ nô lệ. Những biện pháp quấy quá này giúp duy trì các thể chế chính trị của Hoa Kỳ vận hành trong hòa bình cho đến khi cuộc nội chiến xảy ra giúp giải quyết triệt để cuộc xung đột theo chiều hướng thuận lợi cho phe miền bắc.
Cuộc nội chiến vô cùng đẫm máu và khốc liệt. Thế nhưng cả trước và sau chiến tranh, vẫn có những cơ hội kinh tế to lớn cho đông đảo dân chúng, đặc biệt là ở miền bắc và miền tây Hoa Kỳ. Tình hình ở Mexico rất khác. Nếu nước Mỹ có được năm năm ổn định chính trị từ 1860 đến 1865, thì Mexico trải nghiệm sự bất ổn gần như triền miên trong 50 năm độc lập đầu tiên. Điều này được minh họa rõ nhất qua sự nghiệp của Antonio López de Santa Ana.
Santa Ana, con trai của một quan chức thuộc địa ở Veracruz, nổi bật lên với tư cách một người lính chiến đấu chống Tây Ban Nha trong cuộc chiến tranh giành độc lập. Năm 1821, ông chuyển sang sát cánh với Iturbide và không bao giờ hối tiếc. Ông trở thành tổng thống Mexico lần đầu tiên vào tháng 5/1833, tuy nhiên ông tại vị chưa đến một tháng vì muốn để Valentín Gómez Farías giữ cương vị tổng thống. Vai trò tổng thống của Gómez Farías kéo dài được 15 ngày, sau đó Santa Ana cầm quyền trở lại. Tuy nhiên, thời gian tại vị của ông cũng ngắn ngủi hệt như lần trước, rồi ông lại được thay thế bởi Gómez Farías vào đầu tháng 7. Santa Ana và Gómez Farías cứ thế tiếp tục điệu luân vũ này cho đến giữa năm 1835, khi Santa Ana bị thay thế bởi Miguel Baragán. Nhưng Santa Ana không phải là một kẻ bỏ cuộc. Ông quay lại làm tổng thống vào năm 1839, 1841, 1844,
https://thuviensach.vn
1847, và cuối cùng từ năm 1853 đến 1855. Tổng cộng, ông làm tổng thống 11 lần, trong những lần đó ông chịu trách nhiệm về việc mất các vùng đất Alamo và Texas cũng như cuộc chiến tranh tàn khốc Mexico - Hoa Kỳ, dẫn đến việc mất thêm những vùng đất mà sau này trở thành bang New Mexico và Arizona của Mỹ. Từ năm 1824 đến 1867, có đến 52 đời tổng thống ở Mexico, hiếm có ai trong số đó lên cầm quyền theo bất kỳ một quy trình phê chuẩn hợp hiến nào.
Hệ lụy của tình trạng bất ổn chính trị chưa từng thấy này đối với các khuyến khích và thể chế kinh tế thật là hiển nhiên. Bất ổn dẫn đến các quyền sở hữu tài sản không bảo đảm. Bất ổn cũng làm suy yếu nghiêm trọng nhà nước Mexico, khiến nhà nước có rất ít thẩm quyền và năng lực để huy động thuế cũng như cung ứng các dịch vụ công. Quả thật, cho dù Santa Ana là tổng thống Mexico, phần lớn đất nước không nằm trong sự kiểm soát của ông; điều này dẫn đến sự thôn tính Texas của Hoa Kỳ. Thêm vào đó, như ta vừa thấy, động cơ nằm đằng sau tuyên ngôn độc lập của Mexico là để bảo vệ các thể chế kinh tế phát triển trong thời kỳ thuộc địa, đã làm cho Mexico trở thành “một đất nước của bất bình đẳng”, theo lời nhà thám hiểm Đức vĩ đại và nhà địa lý học về châu Mỹ La-tinh Alexander von Humbolt. Các thể chế này, đặt xã hội dựa trên sự bóc lột người dân bản xứ và tạo ra các độc quyền, đã trói chặt các động cơ khuyến khích kinh tế và sáng kiến của quần chúng nhân dân. Khi Hoa Kỳ bắt đầu trải qua cuộc Cách mạng công nghiệp vào nửa đầu thế kỷ 19, Mexico lại càng nghèo hơn.
CÓ MỘT Ý TƯỞNG, THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP VÀ KIẾM MỘT KHOẢN VAY
Cách mạng công nghiệp bắt đầu ở Anh. Thành công đầu tiên của cuộc cách mạng này là cải tiến sản xuất vải bông bằng máy móc mới chạy bằng bánh xe nước và sau đó bằng động cơ hơi nước. Cơ giới hóa sản xuất sợi bông đại trà giúp tăng năng suất người lao động, trước hết trong ngành dệt
https://thuviensach.vn
rồi sau đó trong các ngành công nghiệp khác. Đổi mới chính là động cơ của các đột phá công nghệ xuyên suốt nền kinh tế, với các nghiệp chủ và doanh nhân nôn nóng đi tiên phong trong việc áp dụng các ý tưởng mới. Sự bùng phát đầu tiên này nhanh chóng lan khắp Bắc Đại Tây Dương đến Hoa Kỳ. Dân chúng nhìn thấy những cơ hội kinh tế to lớn trong việc áp dụng công nghệ mới được phát triển ở Anh. Họ cũng như được tiếp thêm nguồn cảm hứng để tự mình phát minh, sáng chế.
Chúng ta có thể hiểu bản chất của những phát minh này bằng cách xem xét ai là người được cấp bằng phát minh. Hệ thống bằng phát minh nhằm bảo vệ quyền sở hữu ý tưởng được hệ thống hóa trong Luật Độc quyền do Quốc hội Anh thông qua năm 1623, phần nào là một nỗ lực nhằm ngăn nhà vua không được tùy ý cấp “giấy chứng nhận đặc quyền” cho bất kỳ ai nhà vua thích - mà thực chất là ban phát độc quyền kinh doanh. Điều ấn tượng nhất trong bằng chứng về việc cấp bằng phát minh ở Anh là những người được cấp bằng phát minh xuất thân từ mọi thành phần chứ không chỉ có người giàu và giới quyền thế. Nhiều người phát tài nhờ vào bằng phát minh. Đơn cử ví dụ Thomas Edison, nhà phát minh máy quay đĩa, bóng đèn điện, và nhà sáng lập công ty General Electric, hiện vẫn là một trong những công ty lớn nhất thế giới. Edison là em út trong gia đình có bảy anh chị em. Cha ông, Samuel Edison, từng làm nhiều nghề, từ cắt mái lợp nhà cho đến may đo và giữ quán rượu. Thomas Edison không đi học nhiều ở trường nhưng được mẹ dạy học tại nhà.
Từ năm 1820 đến 1845, chỉ có 19% người nhận bằng phát minh ở Hoa Kỳ có bố mẹ hành nghề chuyên môn hay xuất thân từ các gia đình địa chủ lớn. Trong cùng kỳ, có đến 40% người nhận bằng phát minh chỉ có trình độ tiểu học hay thấp hơn, giống như Edison. Hơn nữa, cũng lại như Edison, họ thường khai thác bằng phát minh của họ thông qua việc thành lập doanh nghiệp. Cũng hệt như nước Mỹ vào thế kỷ 19 có tính dân chủ chính trị nhiều hơn bất kỳ một quốc gia nào khác trên thế giới lúc bấy giờ, đất nước này cũng dân chủ hơn bất kỳ một nước nào khác trong lĩnh vực phát minh
https://thuviensach.vn
đổi mới. Điều này hết sức quan trọng để trở thành một đất nước đổi mới kinh tế nhất thế giới.
Nếu bạn nghèo nhưng bạn có một ý tưởng hay, việc lấy bằng phát minh, suy cho cùng cũng không đắt đỏ gì lắm, nhưng mới chỉ là bước ban đầu. Bước tiếp theo, sử dụng bằng phát minh ấy để kiếm tiền lại là chuyện hoàn toàn khác. Lẽ dĩ nhiên, có một cách là bán bằng phát minh cho ai đó. Đây là điều mà thoạt đầu Edison đã làm để huy động chút vốn, khi ông bán phát minh điện báo phát cùng lúc bốn tín hiệu của ông cho Western Union để lấy 10 nghìn USD. Nhưng bán bằng phát minh chỉ là một ý tưởng hay đối với những người như Edison, vốn có những ý tưởng phát minh còn nhanh hơn so với việc đưa chúng vào thực tiễn. (Ông đạt kỷ lục thế giới với 1.093 bằng phát minh được cấp ở Hoa Kỳ và 1.500 bằng phát minh trên toàn thế giới.) Cách thực tế để kiếm tiền từ một bằng phát minh là khởi sự doanh nghiệp riêng. Nhưng để thành lập doanh nghiệp, bạn cần có vốn, và bạn cần các ngân hàng cho bạn vay vốn.
Các nhà phát minh ở Hoa Kỳ một lần nữa cũng thật may mắn. Trong thế kỷ 19 đã có sự phát triển nhanh chóng hoạt động ngân hàng và trung gian tài chính, tạo điều kiện thuận lợi cho sự tăng trưởng và công nghiệp hóa mau lẹ trong nền kinh tế. Nếu như vào năm 1818 ở Hoa Kỳ chỉ có 338 ngân hàng hoạt động với tổng tài sản 160 triệu USD, thì đến năm 1914 đã có tới 27.864 ngân hàng với tổng tài sản là 27,3 tỉ USD. Các nhà đầu tư tiềm năng ở Hoa Kỳ dễ dàng tiếp cận vốn để thành lập doanh nghiệp. Hơn nữa, sự cạnh tranh dữ dội giữa các ngân hàng và các tổ chức tài chính ở Hoa Kỳ có nghĩa là nguồn vốn này dễ tiếp cận với lãi suất tương đối thấp.
Điều này không xảy ra ở Mexico. Trên thực tế, vào năm 1910, năm bắt đầu cuộc Cách mạng Mexico, chỉ có 42 ngân hàng ở Mexico, và hai ngân hàng trong số đó kiểm soát đến 60% tổng tài sản ngân hàng. Không như ở Hoa Kỳ với sự cạnh tranh gay gắt, trên thực tế không có cạnh tranh giữa các ngân hàng ở Mexico. Tình trạng thiếu cạnh tranh này có nghĩa là các
https://thuviensach.vn
ngân hàng có thể tính lãi suất cho vay rất cao, và thường hạn chế việc cho vay trong những thành phần giàu có đặc quyền, những người này sau đó sử dụng việc tiếp cận tín dụng của họ để tăng cường kiểm soát các ngành khác nhau trong nền kinh tế.
Hình thức hoạt động của ngành ngân hàng Mexico thế kỷ 19 và 20 là hệ quả trực tiếp của các thể chế chính trị sau khi đất nước giành độc lập. Sự hỗn loạn của thời kỳ Santa Ana được nối tiếp bằng nỗ lực không thành của chính phủ Napoleon III nhằm tạo ra một chế độ thuộc địa ở Mexico dưới thời vua Maximilian từ năm 1864 đến 1867. Người Pháp bị trục xuất và một hiến pháp mới được soạn thảo. Nhưng chính phủ do Benito Júarez thành lập, và sau khi ông chết, chính phủ của Sebastián Lerdo de Tejada, chẳng bao lâu bị thách thức bởi một quân nhân trẻ tên Porfirio Díaz. Díaz là một tướng lĩnh chiến thắng trong cuộc chiến chống Pháp và ấp ủ tham vọng quyền lực. Ông thành lập quân nổi dậy và vào tháng 11/1876 đã đánh bại quân chính phủ trong cuộc chiến Tecoac. Tháng 5 năm đó, ông tự bầu mình làm tổng thống. Ông tiếp tục cai trị Mexico theo đường lối ngày càng độc đoán và không nao núng cho đến khi bị lật đổ trong cơn bộc phát cách mạng 34 năm sau.
Cũng như Iturbide và Santa Ana trước ông, Díaz bắt đầu sự nghiệp như một vị chỉ huy quân đội. Con đường sự nghiệp từ quân đội bước vào chính trường như vậy chắc chắn cũng đã được biết tới ở Hoa Kỳ. Vị tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ, George Washington cũng là một vị tướng lĩnh thành công trong cuộc chiến tranh giành độc lập. Ulysses S. Grant, một trong những vị tướng Liên minh chiến thắng trong cuộc nội chiến, trở thành tổng thống năm 1869, và Dwight D. Eisenhower, chỉ huy tối cao của Lực lượng đồng minh ở châu Âu trong Thế chiến thứ hai, là tổng thống Hoa Kỳ từ năm 1953 đến 1961. Tuy nhiên, không như Iturbide, Santa Ana và Díaz, không ai trong các quân nhân này dùng vũ lực để lên cầm quyền. Mà cũng không ai dùng vũ lực để tránh phải chuyển giao quyền lực. Họ tuân theo hiến pháp. Cho dù Mexico đã có hiến pháp vào thế kỷ 19, thế nhưng hiến
https://thuviensach.vn
pháp không giúp mang lại sự hạn chế đối với những gì Iturbide, Santa Ana và Díaz có thể làm. Những người này chỉ có thể bị tước đoạt quyền lực theo cùng một cách thức như khi họ chiếm quyền lực: thông qua sử dụng vũ lực.
Díaz vi phạm các quyền sở hữu tài sản của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho sự tước đoạt những vùng đất đai rộng lớn, và ông ban bố độc quyền và đặc ân cho những người ủng hộ ông trong mọi ngành nghề, kể cả ngân hàng. Hành vi này chẳng có gì mới mẻ. Đây chính là điều thực dân Tây Ban Nha đã làm, và cũng là điều Santa Ana đã làm theo chân họ.
Lý do khiến Hoa Kỳ có một ngành ngân hàng tốt hơn hẳn cho sự thịnh vượng kinh tế của đất nước không liên quan gì đến sự khác biệt về động cơ của những người sở hữu ngân hàng. Thật vậy, động cơ lợi nhuận, vốn là nền tảng của bản chất độc quyền của ngành ngân hàng ở Mexico, cũng tồn tại ở Hoa Kỳ. Nhưng động cơ lợi nhuận này được phân phối một cách khác nhau do các thể chế khác biệt triệt để của Hoa Kỳ. Các chủ ngân hàng đứng trước các thể chế kinh tế khác nhau, những thể chế bắt họ chịu sự cạnh tranh gay gắt hơn nhiều. Và điều này chủ yếu là do bản thân những chính khách soạn thảo luật lệ cho ngân hàng cũng đứng trước những động cơ khuyến khích vô cùng khác biệt, được hun đúc bởi các thể chế chính trị khác nhau. Quả thật, vào cuối thế kỷ 18, ngay sau khi hiến pháp Hoa Kỳ đi vào hoạt động, một hệ thống ngân hàng có vẻ tương tự như hệ thống ngân hàng của Mexico bắt đầu nổi lên. Các chính khách ra sức thiết lập các ngân hàng nhà nước độc quyền, để họ có thể trao cho bạn bè và đối tác của họ nhằm đổi lấy một phần lợi nhuận độc quyền. Các ngân hàng cũng nhanh chóng cho các chính khách, những người giám sát họ, vay tiền, hệt như ở Mexico. Nhưng tình hình này không trụ được lâu ở Hoa Kỳ, vì những chính khách cố gắng tạo ra các ngân hàng độc quyền vẫn phụ thuộc vào quá trình bầu cử và tái bầu cử, chứ không như ở Mexico. Tạo ra các ngân hàng độc quyền và cho các chính khách vay tiền là một doanh vụ béo bở đối với các chính khách, nếu họ có thể thoát được. Tuy nhiên, điều này đặc
https://thuviensach.vn
biệt không tốt đối với người dân. Không như ở Mexico, ở Hoa Kỳ, dân chúng có thể kiểm tra các chính khách và tống khứ những người nào sử dụng chức vụ để làm giàu cho bản thân hay xây dựng độc quyền cho các thân hữu của mình. Vì thế, độc quyền ngân hàng sụp đổ. Sự phân phối đại trà các quyền chính trị ở Hoa Kỳ, nhất là so với Mexico, bảo đảm sự tiếp cận tài chính và nguồn vốn một cách công bằng. Điều này, đến lượt mình, bảo đảm rằng những người có ý tưởng và phát minh có thể hưởng lợi từ đó.
SỰ THAY ĐỔI BỊ CHI PHỐI BỞI QUÁ KHỨ
Thế giới đã thay đổi từ thập niên 1870 đến 1880. Châu Mỹ La-tinh không phải là ngoại lệ. Các thể chế do Porfirio Díaz thiết lập không giống hệt như các thể chế của Santa Ana hay nhà nước thuộc địa Tây Ban Nha. Nền kinh tế thế giới bùng phát trong nửa sau thế kỷ 19, và các phát minh trong ngành giao thông vận tải, như tàu chạy bằng động cơ hơi nước và đường sắt, dẫn đến sự mở rộng đáng kể hoạt động thương mại quốc tế. Làn sóng toàn cầu hóa này có nghĩa là những nước giàu tài nguyên như Mexico - hay nói đúng hơn là giới quyền thế ở những nước này - có thể làm giàu cho bản thân bằng cách xuất khẩu nguyên vật liệu và tài nguyên thiên nhiên sang các nước công nghiệp ở Bắc Mỹ hay Tây Âu. Díaz và các thân hữu của ông nhận thấy họ đang sống trong một thế giới khác, luôn tiến hóa không ngừng. Họ nhận ra rằng Mexico cũng phải thay đổi. Nhưng điều đó không có nghĩa là nhổ bật gốc rễ các thể chế thuộc địa và thay thế bằng những thể chế tương tự như của Hoa Kỳ. Thay vì thế, đó là sự thay đổi “bị chi phối bởi quá khứ” (path-dependent) chỉ dẫn đến một giai đoạn tiếp theo của những thể chế vốn đã làm cho phần lớn châu Mỹ La-tinh trở nên nghèo đói và bất bình đẳng.
Toàn cầu hóa làm cho không gian rộng mở của châu Mỹ - “các biên giới mở” - trở nên quý giá. Thông thường các biên giới này chỉ mở một cách tưởng tượng, vì nơi đây được chiếm cứ bởi những người dân bản xứ bị tước quyền sở hữu một cách thô bạo. Dầu sao đi nữa, sự tranh giành
https://thuviensach.vn
nguồn tài nguyên quý giá mới mẻ này là một trong những quá trình xác lập châu Mỹ vào nửa sau thế kỷ 19. Việc mở cửa biên giới quý giá bất ngờ này không dẫn đến các quá trình song hành ở Hoa Kỳ và châu Mỹ La-tinh, mà dẫn đến sự phân hóa hơn nữa, được định hình bởi sự khác biệt thể chế hiện hữu, nhất là những thể chế liên quan đến việc ai được tiếp cận đất đai. Ở Hoa Kỳ, một loạt luật lệ, từ Luật Đất đai năm 1785 cho đến Luật Homestead năm 1862, đã trao quyền tiếp cận đất đai biên giới một cách rộng rãi. Mặc dù người bản địa bị gạt ra bên lề, điều này đã tạo ra một biên giới bình đẳng và năng động về kinh tế. Tuy nhiên, các thể chế chính trị ở hầu hết các nước châu Mỹ La-tinh tạo ra một kết quả hết sức khác. Đất biên giới được phân cho giới quyền thế chính trị và những người có của cải và quan hệ, làm cho họ càng trở nên có thế lực hơn.
Díaz cũng bắt đầu bãi bỏ nhiều di sản thể chế thuộc địa cụ thể làm cản trở thương mại quốc tế mà ông dự đoán có thể làm giàu cho ông và phe cánh của ông. Tuy nhiên, mô hình của ông vẫn không phải là loại mô hình phát triển kinh tế mà ông đã thấy ở phía bắc Rio Grande, mà là mô hình của Cortés, Pizarro và de Toledo, trong đó giới quyền thế sẽ giàu sụ trong khi những người còn lại bị gạt ra ngoài. Khi giới quyền thế đầu tư, nền kinh tế sẽ tăng trưởng đôi chút, nhưng sự tăng trưởng kinh tế đó luôn luôn trở nên đáng thất vọng. Và sự tăng trưởng đó cũng đạt được bằng tổn thất của những người không có quyền trong trật tự mới này, như người Yaqui bang Sonora, thuộc vùng sâu vùng xa của Nogales. Từ năm 1900 đến 1910, khoảng 30 nghìn người Yaqui bị trục xuất, thực chất là bị biến thành nô lệ, và bị bắt đi làm việc ở các đồn điền cây thùa sợi ở Yucantán. (Sợi của cây thùa sợi là một mặt hàng xuất khẩu giá trị, vì có thể sử dụng làm dây thừng và dây chão.)
Thể chế có hại cho tăng trưởng ở Mexico và châu Mỹ La-tinh tồn tại dai dẳng đến tận thế kỷ 20 được minh họa rõ rệt qua sự kiện là, tương tự như hồi thế kỷ 19, diễn biến thể chế dẫn đến tình trạng đình trệ kinh tế và bất ổn chính trị, nội chiến và bạo loạn khi các băng nhóm tranh giành
https://thuviensach.vn
quyền lực. Díaz cuối cùng mất quyền lực vào tay lực lượng cách mạng vào năm 1910. Cách mạng Mexico được tiếp nối bằng những cuộc cách mạng khác ở Bolivia 1952, Cuba 1959 và Nicaragua 1979. Trong khi đó, nội chiến triền miên nổ ra ở Colombia, El Salvador, Guatemala và Peru. Việc tước đoạt hay đe dọa tước đoạt tài sản tiếp tục một cách mau lẹ, với các cuộc cải cách (hay nỗ lực cải cách) ruộng đất ở Bolivia, Brazil, Chile, Colombia, Guatemala, Peru và Venezuela. Cách mạng, tước đoạt và bất ổn chính trị xảy ra cùng với chính phủ quân sự và các kiểu chế độ độc tài khác nhau. Cho dù cũng có sự chuyển hóa dần dần hướng tới nhiều quyền chính trị hơn, mãi tới những năm 1990, phần lớn các nước châu Mỹ La-tinh mới trở thành các nền dân chủ, và thậm chí khi ấy, họ vẫn chìm đắm trong tình trạng bất ổn.
Sự bất ổn này đi kèm với đàn áp và giết chóc tràn lan. Báo cáo của ủy ban chân lý và hòa giải dân tộc năm 1991 ở Chile xác định rằng đã có 2.279 người bị giết vì những nguyên nhân chính trị trong thời kỳ độc tài Pinochet từ năm 1973 đến 1990. Khoảng 50 nghìn người bị tù đày và tra tấn, và hàng trăm nghìn người bị mất việc làm. Báo cáo của Ủy ban Xác minh lịch sử Guatemala năm 1999 xác định tổng cộng 42.275 nạn nhân có danh tính, cho dù những người khác cho rằng có đến 200 nghìn người đã bị tàn sát ở Guatemala từ năm 1962 đến 1996, và 70 nghìn người bị giết hại dưới thời tướng Efrain Ríos Montt, người đã thực hiện những tội ác này mà không bị trừng phạt đến mức ông có thể tranh cử tổng thống vào năm 2003; may thay, ông đã không đắc cử. Ủy ban quốc gia về nhân sự mất tích ở Argentina nêu lên số người bị quân đội giết hại ở đó là 9 nghìn người từ năm 1976 đến 1983, cho dù ủy ban lưu ý rằng con số thực tế có thể cao hơn. (Ước lượng của các tổ chức nhân quyền thường đưa ra con số 30 nghìn người.)
TRỞ THÀNH TỈ PHÚ
https://thuviensach.vn
Tác động lâu dài của cách tổ chức xã hội thuộc địa và di sản thể chế của các xã hội này tạo nên sự khác biệt hiện nay giữa Hoa Kỳ và Mexico, và vì thế cũng định hình sự khác biệt giữa hai phần của Nogales. Sự tương phản giữa cách thức Bill Gates và Carlos Slim trở thành hai người giàu nhất thế giới - Waren Buffett cũng là một đối thủ - giúp minh họa những áp lực đã phát huy tác dụng. Sự vươn lên của Gates và Microsoft thì ai cũng biết, nhưng cương vị một người giàu nhất thế giới của Gates và nhà sáng lập một trong những công ty đổi mới công nghệ nhất đã không ngăn được Bộ Tư pháp Mỹ tiến hành vụ kiện dân sự chống lại công ty Microsoft vào ngày 8/5/1998, cho rằng Microsoft đã lạm dụng thế lực độc quyền. Vấn đề bất hòa cụ thể là cách thức Microsoft ràng buộc trình duyệt web Internet Explorer của họ với hệ điều hành Windows. Chính phủ theo dõi Gates một thời gian, và ngay từ đầu năm 1991, Ủy ban thương mại liên bang đã bắt đầu tìm hiểu liệu Microsoft có đang lạm dụng thế lực độc quyền về hệ điều hành máy tính hay không. Tháng 11/2001, Microsoft đạt được một thỏa thuận với Bộ Tư pháp. Hoạt động của công ty đã được khống chế, cho dù án phạt thấp hơn so với đòi hỏi của nhiều người.
Ở Mexico, Carlos Slim không kiếm tiền bằng phát minh đổi mới. Thoạt đầu ông đạt thành tích nổi trội trong các doanh vụ thị trường cổ phiếu, trong việc mua rồi tân trang lại những doanh nghiệp không có lời. Doanh vụ táo bạo chính của ông là thôn tính Telmex, công ty độc quyền viễn thông Mexico được tổng thống Carlos Salinas tư nhân hóa vào năm 1990. Chính phủ tuyên bố dự định bán 51% cổ phiếu kiểm soát (20,4% tổng số cổ phiếu) của công ty vào tháng 9/1989 và nhận hồ sơ dự thầu vào tháng 11/1990. Cho dù Slim không bỏ giá thầu cao nhất, một tập đoàn do ông lãnh đạo Grupo Carso đã trúng thầu. Thay vì trả tiền cổ phiếu ngay lập tức, Slim xoay sở trì hoãn việc thanh toán, dùng chính cổ tức của Telmex để trả tiền mua cổ phiếu. Doanh nghiệp một thời là độc quyền nhà nước giờ trở thành độc quyền của Slim, và nó mang lại lợi nhuận khổng lồ.
https://thuviensach.vn
Những thể chế kinh tế làm cho Carlos Slim trở nên giàu có như hiện nay vô cùng khác biệt so với các thể chế ở Hoa Kỳ. Nếu bạn là một nghiệp chủ Mexico, các hàng rào cản trở việc thành lập doanh nghiệp sẽ đóng vai trò quan trọng ở mỗi giai đoạn trong sự nghiệp của bạn. Những rào cản này bao gồm giấy phép tốn kém mà bạn phải kiếm được, những tệ nạn quan liêu mà bạn phải vượt qua, các chính khách và những doanh nghiệp đang hoạt động sẽ ngáng đường bạn, và nỗi khó khăn khi đi tìm nguồn tài trợ từ một khu vực tài chính thường móc ngoặc với các doanh nghiệp mà bạn đang phải cạnh tranh. Những rào cản này hoặc là không thể vượt qua, ngăn bạn bước vào những hoạt động làm ăn béo bở, hoặc sẽ là người bạn vĩ đại nhất của bạn, giúp bạn giữ khoảng cách an toàn với các đối thủ cạnh tranh khác. Lẽ dĩ nhiên, điểm khác biệt giữa hai tình huống là ở chỗ bạn quen biết những ai và có thể ảnh hưởng đến những người nào, cũng như có thể hối lộ cho ai. Carlos Slim, một người tài năng và tham vọng xuất thân từ thành phần di dân Libăng tương đối khiêm tốn, đã trở thành bậc thầy trong việc tìm kiếm những hợp đồng độc quyền; ông xoay sở để độc quyền hóa thị trường viễn thông béo bở ở Mexico, rồi mở rộng tầm ảnh hưởng đến phần còn lại của châu Mỹ La-tinh.
Cũng có những người từng phản đối công ty độc quyền Telmex của Slim, nhưng họ không thành công. Năm 1996, Avantel, nhà cung ứng dịch vụ điện thoại đường dài, kiến nghị lên Ủy ban Cạnh tranh Mexico yêu cầu kiểm tra xem Telmex có một vị thế chi phối trên thị trường viễn thông hay không. Năm 1997, ủy ban tuyên bố rằng Telmex có thế lực độc quyền đáng kể về dịch vụ điện thoại địa phương, các cuộc gọi đường dài quốc gia, và các cuộc gọi đường dài quốc tế, cùng những dịch vụ khác. Nhưng nỗ lực của các cơ quan điều tiết ở Mexico không đi đến đâu. Một lý do là vì Slim và Telmex có thể sử dụng cái gọi là recurso de amparo, hiểu sát nghĩa là “chống án để bảo vệ”. Amparo thực chất là một kiến nghị, lập luận rằng một luật cụ thể nào đó không áp dụng cho bạn. Ý tưởng về amparo có từ hiến pháp Mexico năm 1857 và thoạt đầu là nhằm bảo vệ tự do và các quyền cá nhân. Tuy nhiên, trong tay của Telmex và các doanh nghiệp độc
https://thuviensach.vn
quyền khác, quy định này trở thành một công cụ ghê gớm để củng cố thế lực độc quyền. Thay vì bảo vệ quyền lợi của dân chúng, amparo mang lại một lỗ hổng trong sự bình đẳng trước pháp luật.
Slim kiếm tiền từ nền kinh tế Mexico phần lớn nhờ vào các mối quan hệ chính trị của ông. Khi mạo hiểm tiến vào Hoa Kỳ, Slim đã không thành công. Năm 1999, tập đoàn Grupo Carso của ông mua lại doanh nghiệp bán lẻ máy tính CompUSA. Trước lúc đó CompUSA đã nhượng quyền cho công ty Dịch vụ COC để bán hàng hóa của họ ở Mexico. Slim ngay lập tức vi phạm hợp đồng này bằng dự định thiết lập chuỗi cửa hàng riêng để không phải cạnh tranh với COC. Nhưng COC kiện CompUSA ra tòa án Dallas. Không có quy định amparo ở Dallas nên Slim thua kiện và bị phạt 454 triệu USD. Luật sư của COC, Mark Werener sau đó nhận xét rằng “thông điệp của phán quyết này là, trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay, các doanh nghiệp phải tôn trọng luật pháp Hoa Kỳ nếu họ muốn đến đây”. Khi Slim phải phụ thuộc vào các thể chế của Hoa Kỳ, chiến thuật kiếm tiền thông thường của ông không còn tác dụng nữa.
HƯỚNG TỚI MỘT LÝ THUYẾT VỀ CÁCH BIỆT GIÀU NGHÈO TRÊN THẾ GIỚI
Chúng ta sống trong một thế giới bất bình đẳng. Sự khác biệt giữa các nước cũng tương tự như sự khác biệt giữa hai phần của Nogales, chỉ khác là trên quy mô rộng lớn hơn. Ở những nước giàu, dân chúng giàu có hơn, sống lâu hơn và có học vấn cao hơn. Họ cũng được tiếp cận với nhiều thú vui và chọn lựa trong cuộc sống hơn, từ các kỳ nghỉ cho đến con đường sự nghiệp, mà người dân những nước nghèo chỉ có thể mơ ước. Dân chúng ở những nước giàu cũng được lái xe trên những con đường không có ổ gà, và họ có nhà vệ sinh, điện và nước máy trong nhà. Chính phủ nước họ thông thường cũng không tùy tiện bắt bớ hay xâm hại họ; trái lại, chính phủ cung ứng các dịch vụ như giáo dục, y tế, đường sá, luật pháp và an ninh trật tự.
https://thuviensach.vn
Một điều cũng đáng kể nữa là: dân chúng được bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử và có tiếng nói trong đường lối chính trị của đất nước.
Những điểm khác biệt to lớn về cách biệt giàu nghèo trên thế giới thật là hiển nhiên đối với mọi người, ngay cả đối với những người ở các nước nghèo cho dù nhiều người không được tiếp cận với truyền hình hay internet. Chính nhận thức và thực tế khác biệt này đã thôi thúc nhiều người vượt sông Rio Grande hay Địa Trung Hải một cách bất hợp pháp để có cơ hội trải nghiệm mức sống và vận hội ở các nước giàu. Tình trạng cách biệt giàu nghèo này không chỉ gây ra hệ lụy đối với cuộc sống của dân chúng ở các nước nghèo, mà còn dẫn đến bất bình và oán hận, với những hệ lụy chính trị to lớn ở Hoa Kỳ và những nơi khác. Tìm hiểu lý do tại sao sự khác biệt này tồn tại và nguyên nhân của chúng là trọng tâm của quyển sách này. Phát triển nhận thức này không chỉ là mục đích, mà còn là bước đi đầu tiên để xây dựng những ý tưởng tốt đẹp hơn về cách thức cải thiện cuộc sống của hàng tỷ người vẫn còn sống trong đói nghèo.
Tình trạng cách biệt giàu nghèo ở hai bên bờ rào Nogales chỉ là bề nổi của tảng băng. Cũng như ở những nơi khác ở miền bắc Mexico được hưởng lợi từ hoạt động thương mại với Hoa Kỳ, cho dù không phải toàn bộ hoạt động đó đều là hợp pháp, người dân Nogales vẫn thịnh vượng hơn so những người Mexico khác vốn có thu nhập hộ gia đình bình quân hàng năm chỉ vào khoảng 5.000 USD. Sự thịnh vượng tương đối này của Nogales bang Sonora hình thành từ các nhà máy công nghiệp chế tạo maquiladora trong các khu công nghiệp; trong đó khu công nghiệp đầu tiên được Richard Campbell, Jr., một nhà sản xuất rổ từ California, xây dựng. Doanh nghiệp thuê đất đầu tiên trong khu công nghiệp này là Coin-Art, một công ty sản xuất dụng cụ âm nhạc thuộc sở hữu của Richard Bosse, người sở hữu công ty sáo và kèn saxophone Artley ở Nogales bang Arizona. Tiếp bước Coin-Art là Memorez (hệ thống dây máy tính); Avent (y phục bệnh viện); Grant (kính mát); Chamberlain (nhà sản xuất thiết bị mở cửa ga-ra cho Sears); và Samsonite (va-li). Đáng lưu ý, tất cả đều là các doanh nhân và
https://thuviensach.vn
doanh nghiệp gốc Hoa Kỳ, sử dụng vốn và bí quyết công nghệ của Mỹ. Do đó, sự thịnh vượng hơn của Nogales bang Sonora so với phần còn lại của Mexico là xuất phát từ bên ngoài.
Sự khác biệt giữa Mỹ và Mexico không đáng kể so với sự khác biệt giữa Mỹ với các nước khác trên thế giới. Một người Mỹ bình quân giàu gấp bảy lần so với một người Mexico trung bình và gấp 10 lần so với người Peru hay Trung Mỹ. Một người Mỹ trung bình cũng thịnh vượng gấp 20 lần so với một người dân hạ Sahara châu Phi, và gần 40 lần so với những người sống ở những nước châu Phi nghèo nhất như Mali, Ethiopia và Sierra Leone. Và không chỉ Mỹ, có một nhóm nước giàu tuy không đông nhưng hiện đang ngày một nhiều hơn - chủ yếu ở châu Âu và Bắc Mỹ, cùng với Úc, Nhật Bản, New Zealand, Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan - nơi dân chúng tận hưởng cuộc sống rất khác với cuộc sống ở phần còn lại của quả địa cầu.
Lý do khiến Nogales bang Arizona giàu hơn nhiều so với Nogales bang Sonora thật đơn giản; đó là do những thể chế rất khác nhau ở hai bên biên giới tạo ra những động cơ khuyến khích hết sức khác nhau cho người dân ở hai vùng. Hoa Kỳ cũng giàu hơn nhiều so với Mexico hay Peru do cách thức các thể chế kinh tế và chính trị đã định hình các động cơ khuyến khích đối với doanh nghiệp, cá nhân và các chính khách. Mỗi xã hội vận hành với một tập hợp các quy luật kinh tế và chính trị được tạo ra và thực thi bởi cả nhà nước và dân chúng. Các thể chế kinh tế sẽ định hình nên các động cơ kinh tế: động cơ khiến người ta muốn học tập, tiết kiệm và đầu tư, phát minh và áp dụng công nghệ mới… Chính quá trình chính trị sẽ định hình nên những thể chế kinh tế mà người dân đang sống trong đó, và chính các thể chế chính trị sẽ định hình nên cách thức vận hành quá trình này. Ví dụ, chính các thể chế chính trị của đất nước sẽ quyết định khả năng của dân chúng trong việc kiểm soát các chính khách và ảnh hưởng tới hành vi của họ. Điều này, đến lượt mình, sẽ quyết định liệu các chính khách có phải là đại diện của nhân dân, dù không hoàn hảo, hay là họ có thể lạm dụng quyền
https://thuviensach.vn
lực được ủy thác cho họ, hay quyền lực mà họ đã chiếm đoạt để tích lũy của cải riêng và theo đuổi chương trình hành động riêng, tác hại đến lợi ích của nhân dân. Các thể chế chính trị không chỉ bao gồm hiến pháp và nền dân chủ. Thể chế chính trị còn bao gồm sức mạnh và năng lực của nhà nước để điều tiết và quản trị xã hội. Cũng cần phải xem xét khái quát hơn những yếu tố xác định xem quyền lực chính trị được phân phối như thế nào trong xã hội, nhất là khả năng của các nhóm khác nhau cùng hành động một cách tập thể để theo đuổi mục tiêu của họ hay ngăn chặn những người khác theo đuổi mục tiêu của họ.
Vì các thể chế ảnh hưởng đến hành vi và động cơ khuyến khích trong đời sống thực tế nên chúng sẽ hun đúc nên thành công hay thất bại của các quốc gia. Nhân tài là quan trọng ở mọi cấp độ xã hội, nhưng cho dù như thế, cũng cần phải có một khung thể chế giúp chuyển hóa nhân tài thành một lực lượng tích cực. Bill Gates, cũng như những nhân vật huyền thoại khác trong ngành công nghệ thông tin (như Paul Allen, Steve Ballmer, Steve Jobs, Larry Page, Sergey Brin và Jeff Bezos) có tài năng và hoài bão phi thường. Nhưng suy cho cùng Gates đã đáp ứng với các động cơ khuyến khích. Hệ thống giáo dục ở Hoa Kỳ giúp Gates và những người như ông tiếp thu một tập hợp kỹ năng độc đáo bổ trợ cho tài năng của họ. Các thể chế kinh tế ở Hoa Kỳ giúp họ thành lập doanh nghiệp một cách dễ dàng, không phải đứng trước những rào cản không thể vượt qua. Các thể chế này cũng làm cho việc tài trợ cho các dự án của họ trở nên khả thi. Thị trường lao động Hoa Kỳ giúp họ tuyển dụng nhân sự phù hợp, và môi trường thị trường tương đối cạnh tranh giúp họ mở rộng công ty và tiếp thị sản phẩm. Các nghiệp chủ này tin chắc ngay từ đầu rằng các dự án mơ ước của họ có thể thực hiện được: họ tin tưởng vào các thể chế và tinh thần thượng tôn pháp luật mà các thể chế này đã tạo ra và họ không lo lắng gì về việc bảo đảm an toàn quyền sở hữu tài sản của họ. Cuối cùng, các thể chế chính trị giúp bảo đảm tính ổn định và liên tục. Trước hết, các thể chế chính trị giúp bảo đảm rằng sẽ không có nguy cơ một nhà độc tài nào đó sẽ lên cầm quyền và thay đổi luật chơi, tước đoạt của cải của họ, tống giam họ, hay đe
https://thuviensach.vn
dọa mạng sống và phương kế mưu sinh của họ. Các thể chế chính trị cũng bảo đảm rằng không có thế lực cụ thể nào trong xã hội có thể bẻ cong chính phủ theo một chiều hướng thảm họa về mặt kinh tế, vì quyền lực chính trị thì có giới hạn và được phân phối đủ rộng để có thể tạo ra một tập hợp thể chế kinh tế giúp hình thành các động cơ khuyến khích sự phồn vinh.
Quyển sách này sẽ cho thấy rằng, trong khi các thể chế kinh tế là quan trọng để xác định liệu đất nước sẽ nghèo hay giàu, chính chính trị và các thể chế chính trị sẽ cho ta biết đất nước có những thể chế kinh tế nào. Suy cho cùng, các thể chế kinh tế tốt đẹp của Hoa Kỳ đã hình thành từ những thể chế chính trị đã xuất hiện dần dần sau năm 1619. Lý thuyết về cách biệt giàu nghèo trên thế giới của chúng tôi sẽ cho thấy cách thức tương tác giữa các thể chế chính trị và các thể chế kinh tế trong quá trình dẫn đến đói nghèo hay thịnh vượng ra sao, và cho thấy các vùng khác nhau trên thế giới đi đến những tập hợp thể chế khác nhau như thế nào. Việc nhìn lại lịch sử châu Mỹ vừa rồi đã bắt đầu cho ta chút nhận thức về những áp lực định hình các thể chế chính trị và kinh tế. Diễn biến thể chế khác nhau ngày nay có gốc rễ sâu xa từ quá khứ, vì một khi xã hội đã tổ chức theo một đường lối nhất định, điều này sẽ có xu hướng tồn tại dai dẳng. Chúng ta sẽ thấy rằng thực tế này hình thành từ cách thức tương tác giữa các thể chế chính trị và kinh tế.
Sự tồn tại dai dẳng và các áp lực tạo ra sự tồn tại đó cũng giúp giải thích lý do khiến người ta khó lòng xóa bỏ tình trạng cách biệt giàu nghèo trên thế giới và làm cho những nước nghèo trở nên thịnh vượng. Cho dù các thể chế là yếu tố then chốt cho sự khác biệt giữa hai miền Nogales cũng như giữa Mexico và Hoa Kỳ, điều đó không có nghĩa là sẽ có sự đồng thuận ở Mexico để thay đổi thể chế. Không nhất thiết rằng xã hội sẽ xây dựng hay áp dụng những thể chế tốt nhất cho tăng trưởng kinh tế và phúc lợi nhân dân, bởi vì những thể chế khác thậm chí có thể tốt hơn cho những người kiểm soát chính trị và kiểm soát các thể chế chính trị. Giới quyền thế và những người còn lại trong xã hội thường bất đồng về những tập hợp thể
https://thuviensach.vn
chế nào nên được giữ nguyên và những thể chế nào nên thay đổi. Carlos Slim chắc sẽ không vui khi thấy các mối quan hệ chính trị của ông biến mất và các rào cản thành lập doanh nghiệp giúp bảo vệ hoạt động kinh doanh của ông sụp đổ - bất kể việc thành lập các doanh nghiệp mới sẽ làm cho hàng triệu người Mexico trở nên giàu có. Vì không có sự đồng thuận như thế, cho nên việc xã hội sẽ có những luật lệ như thế nào sẽ được xác định thông qua chính trị: ai có quyền lực và quyền lực này được thực hiện như thế nào. Carlos Slim có quyền lực để đạt được những gì ông muốn. Quyền lực của Bill Gates bị hạn chế hơn nhiều. Đó là lý do khiến lý thuyết của chúng tôi không chỉ nói về kinh tế mà còn về chính trị. Đó là lý thuyết về ảnh hưởng của thể chế đối với thành công và thất bại của các quốc gia - vì thế đó là kinh tế học về đói nghèo và thịnh vượng; đó là lý thuyết về cách thức các thể chế được quyết định như thế nào và thay đổi ra sao theo thời gian, và vì sao vẫn không thể bị thay đổi ngay cả khi các thể chế ấy dẫn đến đói nghèo và bất hạnh cho hàng triệu người - và vì thế lý thuyết của chúng tôi là chính trị học về đói nghèo và thịnh vượng.
https://thuviensach.vn
2. NHỮNG LÝ THUYẾT KHÔNG THUYẾT PHỤC
VỊ THẾ CỦA CÁC QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
CUỐN SÁCH NÀY nhằm giải thích sự cách biệt giàu nghèo (hay bất bình đẳng) trên thế giới và một số mô thức khái quát nằm đằng sau sự cách biệt giàu nghèo này. Quốc gia đầu tiên có tăng trưởng kinh tế bền vững là Vương quốc Anh (liên minh giữa nước Anh, xứ Wales và Scotland từ năm 1707). Tăng trưởng bắt đầu một cách chậm rãi trong nửa sau của thế kỷ 18 khi cuộc Cách mạng công nghiệp, dựa trên những đột phá lớn về công nghệ và ứng dụng của chúng trong các ngành công nghiệp, dần dần bám rễ. Ngay sau nước Anh, Mỹ và hầu hết các quốc gia Tây Âu cũng bắt đầu công nghiệp hóa. Sự thịnh vượng của nước Anh cũng nhanh chóng lan sang các “thuộc địa định cư” của nước này như Canada, Úc và New Zealand - những nước cho đến nay vẫn nằm trong danh sách 30 quốc gia giàu nhất thế giới. Bên cạnh đó còn có Nhật Bản, Singapore và Hàn Quốc - những quốc gia đạt tới sự thịnh vượng theo một mô thức rộng rãi hơn, mô thức mà nhờ đó nhiều vùng lãnh thổ ở Đông Á khác như Đài Loan, rồi Trung Quốc, đạt được tăng trưởng cao trong những năm gần đây.
Có một sự tương phản rõ nét giữa nhóm đầu và cuối trong phổ phân phối thu nhập của các quốc gia trên thế giới. Nhìn vào danh sách 30 quốc gia nghèo nhất hiện nay, bạn sẽ thấy hầu như tất cả đều ở vùng hạ Sahara của châu Phi. Trong danh sách này bạn cũng sẽ thấy Afghanistan, Haiti và Nepal, những nước mặc dù không ở châu Phi nhưng có nhiều điểm tương đồng quan trọng với các quốc gia châu Phi như chúng tôi sẽ giải thích sau này. Nếu ngược dòng thời gian 50 năm trở về trước, bạn sẽ thấy danh sách 30 quốc gia giàu nhất và nghèo nhất không khác đáng kể so với hiện nay.
https://thuviensach.vn
Singapore và Hàn Quốc sẽ không nằm trong danh sách các quốc gia giàu nhất, và danh sách 30 quốc gia nghèo nhất cũng có đôi chút xáo trộn, nhưng bức tranh tổng thể nổi lên sẽ nhất quán một cách đáng kinh ngạc so với những gì chúng ta thấy ngày nay. Ngược dòng thời gian 100 hay thậm chí 150 năm, một lần nữa bạn sẽ thấy danh sách nhóm nước nghèo và giàu nhất thế giới hầu như không thay đổi.
Bản đồ 3: Sự thịnh vượng trên thế giới vào năm 2008 (p.73)
Bản đồ 3 miêu tả vị thế của các quốc gia vào năm 2008. Các quốc gia được tô màu đậm nhất là những quốc gia nghèo nhất thế giới, với thu nhập (thuật ngữ kinh tế là tổng sản phẩm quốc nội, viết tắt là GDP) bình quân đầu người hằng năm dưới 2.000 USD. Hầu hết các nước châu Phi nằm trong nhóm này (cùng với Afghanistan, Haiti và một số nước Đông Nam Á như Campuchia và Lào), và bên cạnh đó còn có Bắc Triều Tiên. Các nước được tô màu trắng là những nước giàu nhất, có thu nhập bình quân đầu
https://thuviensach.vn
người hằng năm từ 20.000 USD trở lên. Trong nhóm này, chúng ta thấy những khuôn mặt quen thuộc: Bắc Mỹ, Tây Âu, Úc và Nhật Bản.
Một mô thức thú vị khác có thể nhìn thấy ở châu Mỹ. Nếu liệt kê các quốc gia ở châu Mỹ từ giàu nhất đến nghèo nhất, bạn sẽ thấy dẫn đầu là Hoa Kỳ và Canada, kế tiếp là Chile, Argentina, Brazil, Mexico và Uruguay, và có thể còn thấy Venezuela, tùy thuộc vào giá dầu cao hay thấp. Sau những nước này sẽ tới Colombia, Cộng hòa Dominica, Ecuador và Peru. Phía dưới cùng là nhóm ba nước nghèo cá biệt, bao gồm Bolivia, Guatemala và Paraguay. Dù trở lại quá khứ 50 năm, 100 năm hay 150 năm, bạn sẽ luôn thấy ba nước này ở cùng vị trí cuối bảng. Vì vậy, vấn đề không là chỉ là Hoa Kỳ và Canada là giàu hơn Mỹ La-tinh, mà còn là tồn tại một sự phân hóa rõ ràng và liên tục giữa các nước giàu và nước nghèo trong phạm vi châu Mỹ La-tinh.
Mô thức thú vị cuối cùng là ở Trung Đông, ở đó chúng ta tìm thấy các quốc gia giàu dầu mỏ như Arập Saudi và Kuwait có mức thu nhập xấp xỉ với nhóm 30 nước giàu nhất. Tuy nhiên, nếu giá dầu giảm, họ sẽ nhanh chóng rơi trở lại vị trí thấp hơn. Các nước Trung Đông ít hoặc không có dầu mỏ như Ai Cập, Jordan và Syria đều co cụm xung quanh mức thu nhập tương tự như của Guatemala và Peru. Nếu không có dầu, các nước Trung Đông sẽ đều nghèo, mặc dù không quá nghèo như những nước ở vùng hạ Sahara ở châu Phi, nhưng sẽ tương tự như các nước ở Trung Mỹ và vùng Andes.
Trong khi các mô thức giàu nghèo tồn tại dai dẳng, chúng không hề cố định hay không thể thay đổi. Đầu tiên, như chúng ta đã nhấn mạnh, hầu hết sự cách biệt giàu nghèo trên thế giới hiện nay nổi lên từ cuối thế kỷ 18 theo sau cuộc Cách mạng công nghiệp. Cho đến giữa thế kỷ 18, khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia nhỏ hơn nhiều so với hiện tại, không những thế thứ bậc của các quốc gia vốn khá ổn định sau đó đã thay đổi rất nhiều nếu chúng ta tiếp tục ngược dòng lịch sử. Ví dụ như ở châu Mỹ, thứ bậc mà
https://thuviensach.vn
chúng ta thấy trong 150 năm trở lại đây hoàn toàn khác so với thứ bậc cách đây 500 năm. Thứ hai, nhiều quốc gia, chẳng hạn như phần lớn khu vực Đông Á, và gần đây là Trung Quốc, đã trải qua vài thập kỷ tăng trưởng nhanh chóng kể từ sau Thế chiến thứ hai. Tăng trưởng của nhiều nước trong số này sau đó bị đảo ngược. Ví dụ như Argentina đã phát triển nhanh chóng trong năm thập kỷ cho tới tận năm 1920, nhờ đó trở thành một trong những quốc gia giàu nhất thế giới, nhưng sau đó bắt đầu trượt dài. Ví dụ của Liên Xô thậm chí còn đáng chú ý hơn: phát triển nhanh chóng từ năm 1930 cho đến 1970, nhưng sau đó đã sụp đổ một cách nhanh chóng.
Điều gì nằm đằng sau những khác biệt lớn về đói nghèo và thịnh vượng và mô thức tăng trưởng? Tại sao các nước Tây Âu và các thuộc địa định cư của chúng bắt đầu phát triển trong thế kỷ 19, hầu như không ngoái lại phía sau? Điều gì giải thích sự “dai dẳng” trong bảng xếp hạng giàu nghèo ở châu Mỹ? Tại sao các nước hạ Sahara ở châu Phi và các quốc gia Trung Đông không thể đạt được tăng trưởng kinh tế như của Tây Âu, trong khi nhiều nước Đông Á lại trải qua những giai đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh đến chóng mặt?
Người ta có thể nghĩ rằng thực tế chênh lệch giàu nghèo giữa các quốc gia trên thế giới to lớn, dai dẳng, và có mô thức rõ rệt như vậy thì chắc hẳn sẽ phải có một lời giải thích được chấp nhận một cách rộng rãi. Sự thực không phải như vậy. Hầu hết các giả thuyết của các nhà khoa học xã hội về nguồn gốc của đói nghèo và thịnh vượng đều không thể giải thích một cách thuyết phục về tình trạng cách biệt giàu nghèo được mô tả ở trên.
GIẢ THUYẾT ĐỊA LÝ
Một lý thuyết về nguyên nhân của sự cách biệt giàu nghèo trên thế giới được chấp nhận rộng rãi là giả thuyết địa lý. Giả thuyết này cho rằng sự khác biệt lớn giữa các nước giàu và nghèo là do sự khác biệt về địa lý tạo ra. Nhiều quốc gia nghèo, chẳng hạn như những nước châu Phi, Trung
https://thuviensach.vn
Mỹ và Nam Á, nằm trong vùng nhiệt đới, bao gồm nhiệt đới cận chí tuyến bắc (tropic of cancer) và nhiệt đới cận chí tuyến nam (tropic of capricorn). Ngược lại, các nước giàu có xu hướng nằm ở các vùng ôn đới. Sự tập trung về mặt địa lý của đói nghèo và thịnh vượng đem đến cho giả thuyết địa lý một sức hấp dẫn bề ngoài, và do vậy trở thành xuất phát điểm cho lý thuyết và quan điểm của nhiều nhà chuyên môn và nhà khoa học xã hội. Nhưng sự thịnh hành của giả thuyết này không hề làm nó trở nên ít sai lầm hơn.
Ngay từ cuối thế kỷ 18, triết gia chính trị vĩ đại của Pháp Montesquieu đã ghi nhận và giải thích cho sự tập trung về mặt địa lý của sự thịnh vượng và nghèo đói. Ông lập luận rằng những người ở vùng khí hậu nhiệt đới có khuynh hướng lười biếng và thiếu tính hiếu kỳ. Kết quả là họ làm việc không chăm chỉ, thiếu sáng tạo, và đó là lý do khiến họ nghèo. Montesquieu cũng suy đoán rằng những người lười biếng có khuynh hướng được cai trị bởi những kẻ bạo chúa, cho thấy rằng vị trí nhiệt đới có thể giải thích không chỉ nghèo đói mà cả một số hiện tượng chính trị liên quan đến thất bại kinh tế, như chế độ độc tài chẳng hạn.
Lý thuyết cho rằng các nước nóng hẳn nhiên nghèo, mặc dù mâu thuẫn với những tiến bộ kinh tế nhanh chóng gần đây của các nước như Singapore, Malaysia và Botswana, vẫn còn được một số người ủng hộ mạnh mẽ, chẳng hạn như nhà kinh tế học Jeffrey Sachs. Các phiên bản hiện đại của quan điểm này không nhấn mạnh vào các tác động trực tiếp của khí hậu đối với nỗ lực làm việc hoặc tư duy, mà vào hai lập luận bổ sung: thứ nhất, các bệnh nhiệt đới, đặc biệt là sốt rét, rất có hại cho sức khỏe và do vậy cho năng suất lao động; và thứ hai, đất đai nhiệt đới hạn chế năng suất của sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, kết luận của những phiên bản mới này cũng không khác gì các phiên bản cũ: các vùng khí hậu ôn đới có lợi thế tương đối so với các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.
Tuy vậy, sự cách biệt giàu nghèo trên thế giới không thể được giải thích bởi khí hậu, bệnh tật hoặc bất kỳ phiên bản nào của giả thuyết địa lý.
https://thuviensach.vn
Chỉ cần nghĩ về Nogales là đủ. Điều ngăn cách hai khu vực không phải khí hậu, địa lý, môi trường dịch bệnh, mà chính là biên giới giữa Mỹ và Mexico.
Nếu giả thuyết địa lý không thể giải thích sự khác biệt giữa phía bắc và nam của Nogales, hoặc giữa Bắc và Nam Triều Tiên, hoặc giữa Đông và Tây Đức trước khi bức tường Berlin sụp đổ, thì liệu nó có thể là một lý thuyết hữu ích để giải thích sự khác biệt giữa Bắc và Nam Mỹ, giữa châu Âu và châu Phi hay không? Câu trả lời đơn giản là không.
Lịch sử minh chứng rằng không có mối liên hệ giản đơn và lâu dài giữa khí hậu hay địa lý với sự thành công kinh tế. Chẳng hạn như không phải bao giờ vùng nhiệt đới cũng nghèo hơn vùng ôn đới. Như chúng ta đã thấy trong chương trước, tại thời điểm Columbus phát hiện châu Mỹ, khu vực phía nam của vùng nhiệt đới cận chí tuyến bắc và phía bắc của vùng nhiệt đới cận chí tuyến nam, mà ngày nay bao gồm Mexico, Trung Mỹ, Peru và Bolivia, đã sản sinh ra các nền văn minh vĩ đại Aztec và Inca. Những đế chế phức tạp và tập trung về mặt chính trị này đã xây dựng đường giao thông và thực hiện cứu trợ nạn đói. Người Aztec đã phát minh ra cả tiền tệ và chữ viết, và người Inca, mặc dù thiếu cả hai công nghệ chủ chốt này, đã ghi lại một lượng lớn thông tin bằng cách thắt nút dây thừng. Ngược lại, vào cùng thời đại với người Aztec và Inca, ở phía bắc và phía nam khu vực sinh sống của người Aztec và Inca, mà ngày nay bao gồm Hoa Kỳ, Canada, Argentina, Chile, chủ yếu là nơi sinh sống của nền văn minh thời kỳ đồ đá, không có tiền tệ mà cũng chẳng có chữ viết. Do đó, việc vùng nhiệt đới ở châu Mỹ đã từng giàu có hơn nhiều so với vùng ôn đới đã cho thấy “thực tế hiển nhiên” về sự nghèo đói của vùng nhiệt đới theo giả thuyết địa lý không chỉ thiếu “thực tế” mà còn không hề “hiển nhiên”. Thay vào đó, sự giàu có ngày nay ở Hoa Kỳ và Canada là những ví dụ của sự “đảo chiều ngoạn mục” nếu so với trạng thái của những nước này trước khi người Âu châu tới.
https://thuviensach.vn
Sự đảo chiều này rõ ràng không liên quan gì đến vị trí địa lý, mà như chúng ta đã thấy, lại liên quan đến cách thức các khu vực này bị chiếm làm thuộc địa. Sự đảo chiều này cũng không chỉ giới hạn ở châu Mỹ. Người sống ở Nam Á, đặc biệt là ở Ấn Độ và ở Trung Quốc, đã từng giàu có hơn so với người dân ở nhiều quốc gia châu Á khác, và chắc chắn là giàu hơn người Úc và New Zealand. Điều này cũng được đảo chiều, với Hàn Quốc, Singapore và Nhật Bản nổi lên thành những quốc gia giàu nhất ở châu Á. Bên cạnh đó, Úc và New Zealand đã vượt qua hầu như tất cả các nước châu Á về sự thịnh vượng. Ngay cả vùng hạ Sahara ở châu Phi cũng có một sự đảo chiều tương tự. Gần đây hơn, trước khi bắt đầu có sự tiếp xúc mạnh mẽ của châu Âu với châu Phi, khu vực miền nam châu Phi có mật độ định cư thưa thớt nhất, đồng thời mức độ phát triển nhà nước thấp nhất và hầu như không có biện pháp kiểm soát lãnh thổ nào. Thế nhưng Nam Phi ngày nay là một trong những quốc gia thịnh vượng nhất ở vùng hạ Sahara của châu Phi. Tiếp tục ngược dòng thời gian thêm chút nữa, chúng ta cũng lại bắt gặp sự thịnh vượng ở vùng nhiệt đới. Một số nền văn minh tiền cận đại vĩ đại như Angkor ở Campuchia, Vijayanagara ở miền nam Ấn Độ, và Aksum ở Ethiopia, đã phát triển rực rỡ ở vùng nhiệt đới, cũng như các nền văn minh vĩ đại ở Thung lũng Indus của Mohenjo Daro và Harappa ở Pakistan. Với rất ít hoài nghi, lịch sử đã cho thấy rằng không hề tồn tại mối liên hệ giản đơn giữa vị trí nhiệt đới và sự thành công kinh tế.
Rõ ràng là các bệnh nhiệt đới gây ra nhiều đau khổ và nâng cao tỷ lệ tử vong trẻ em ở châu Phi, nhưng chúng không phải là lý do khiến châu Phi nghèo. Nguyên nhân chủ yếu của bệnh tật là do tình trạng nghèo đói và do các chính phủ không thể hoặc không sẵn sàng thực hiện các biện pháp y tế công cộng cần thiết để loại trừ chúng. Nước Anh vào thế kỷ 19 cũng không hề lành mạnh, song chính phủ từng bước đầu tư vào nước sạch, xử lý nước thải và sau cùng, vào dịch vụ y tế. Việc cải thiện sức khỏe và tăng tuổi thọ không phải là nguyên nhân cho sự thành công kinh tế của Anh, mà là một thành quả của những thay đổi chính trị và kinh tế trước đó. Điều này cũng đúng cho Nogales của Arizona.
https://thuviensach.vn
Phần cuối cùng trong giả thuyết địa lý là vùng nhiệt đới nghèo bởi vì nông nghiệp nhiệt đới về bản chất không hiệu quả. Đất đai nhiệt đới mỏng, không thể giữ dưỡng chất, và nhanh chóng bị những cơn mưa nhiệt đới xối xả làm xói mòn. Chắc chắn là có một phần sự thật trong lập luận này, nhưng như chúng ta sẽ thấy, yếu tố có tính quyết định giải thích tại sao nhiều nước nghèo có năng suất nông nghiệp thấp, đặc biệt ở vùng hạ Sahara của châu Phi, không phải là chất lượng đất. Đúng hơn, năng suất nông nghiệp thấp là một hệ quả của cấu trúc quyền sở hữu đất và các khuyến khích mà chính phủ và các thể chế tạo ra cho nông dân. Chúng tôi cũng sẽ cho thấy sự cách biệt giàu nghèo trên thế giới không thể được giải thích bởi sự khác biệt trong năng suất nông nghiệp. Sự cách biệt giàu nghèo to lớn trong thế giới hiện đại nổi lên vào thế kỷ 19 là do sự chênh lệch về công nghệ và công nghiệp chế tạo chứ không phải do sự khác biệt trong hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Một phiên bản có ảnh hưởng khác của giả thuyết địa lý là của nhà sinh thái học và sinh vật học tiến hóa Jared Diamond. Ông lập luận rằng nguồn gốc của sự chênh lệch giàu nghèo giữa các lục địa bắt đầu từ thời cận đại, cách đây 500 năm, nằm ở sự khác nhau trong kho tàng các loài động thực vật, và điều này ảnh hưởng đến năng suất nông nghiệp. Ở một số nơi, chẳng hạn như Fertile Crescent ở Trung Đông, có một số lượng lớn các loài có thể được con người thuần hóa. Ở các nơi khác, chẳng hạn như châu Mỹ, những loài này không tồn tại. Việc có nhiều loài có khả năng được thuần hóa đã làm cho các xã hội dễ dàng chuyển từ săn bắn hái lượm sang đời sống nông nghiệp. Kết quả là, nông nghiệp ở Fertile Crescent phát triển sớm hơn so với châu Mỹ. Mật độ dân số tăng lên cho phép chuyên môn hóa lao động, thương mại, đô thị hóa và phát triển chính trị. Điều quan trọng là, ở những nơi mà nông nghiệp chiếm ưu thế, đổi mới công nghệ đã diễn ra nhanh hơn rất nhiều so với các phần khác của thế giới. Như vậy, theo Diamond, sự khác biệt trong kho tàng các loài động thực vật đã tạo ra sự khác biệt trong cường độ của hoạt động nông nghiệp, dẫn đến con đường thay đổi công nghệ và thịnh vượng khác nhau giữa các châu lục.
https://thuviensach.vn