🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Văn Hóa Bách Việt Lĩnh Nam Và Mối Quan Hệ Với Văn Hóa Việt Nam Truyền Thống Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Văn hóa Bách Việt miền Lĩnh Nam và mối quan hệ với văn hóa Việt Nam truyền thống Mục lục I - DẪN NHẬP CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chương 2: VĂN HÓA BÁCH VIỆT VÙNG LĨNH NAM CHƯƠNG 3: MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HÓA BÁCH VIỆT VÙNG LĨNH NAM VÀ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM https://thuviensach.vn I - DẪN NHẬP 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1 Lịch sử văn hóa Việt Nam từ sau CN[1] cho đến nay gắn liền với các quá trình giao lưu, tiếp biến với văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa, khu vực và thế giới. Nhiều lớp văn hóa ngoại lai được tiếp nhận, cải biến và sử dụng đã ít nhiều làm lu mờ vai trò và ảnh hưởng của văn hóa truyền thống dân tộc – yếu tố quyết định bản sắc văn hóa và sự sống còn của một nền văn hóa độc lập. Rõ ràng, việc làm sáng rõ vị trí, vai trò và đóng góp của văn hóa Bách Việt trong văn hóa truyền thống ở Việt Nam và Nam Trung Hoa là rất cần thiết. Tính chất xán lạn của văn minh Trung Hoa không chỉ che khuất một phần hay tất cả các nền văn hóa của các dân tộc nhỏ hơn ở bên cạnh mà còn làm sai lệch trong hiểu biết của không ít nhân sĩ, trí thức thế giới. Theo chúng tôi, “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. “Văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam trong mối quan hệ với văn hóa truyền thống ở Việt Nam” là một đề tài mang tính cơ sở cho công cuộc tìm tòi, nghiên cứu cội nguồn dân tộc và văn hóa nước nhà. Lấy phương pháp luận văn hóa học làm cách tiếp cận, chúng tôi mong muốn làm rõ các vấn đề căn nguyên nguồn cội, tính chất của nền văn hóa Lạc Việt tổ tiên của chúng ta và các mối quan hệ văn hóa với các cộng đồng chủ thể lân cận trong chiếc nôi văn hóa Lĩnh Nam, trực tiếp làm tiền đề cho những nghiên cứu quan trọng về mối quan hệ chủng tộc và văn hóa Lạc Việt – Việt Nam về sau. 1.2. Vấn đề nguồn gốc Bách Việt của văn hóa Việt Nam, thực ra, đã được chính sử các triều đại Đại Việt – Đại Nam ghi chép từ trước, như Đại Việt Sử Ký(1272), Đại Việt Sử Lược (tk.[2]XIV), An Nam Chí Lược (1335), Việt Điện U Linh Tập (1392), Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (1697), Đại Việt Thông Sử (1759), Việt Sử Tiêu Án (1775) v.v., song thường chỉ bàn đến nguồn gốc văn hóa Việt Nam qua tư liệu truyền miệng, và viết bằng giọng chính sử. Đầu tk. XX, một số tác giả tiên phong tìm về cội nguồn bằng khoa học, ít nhiều đạt được các thành tựu đáng kể như Đào Duy Anh, Kim Định, Lê Văn Siêu v.v. Cho đến cuối tk. XX, các khoa học hiện đại phát triển thì vấn đề ngày càng được quan https://thuviensach.vn tâm sâu sắc hơn. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu ít được đặt dưới góc nhìn tổng quan, chưa đạt được tính nhất quán dù chúng là cơ sở dữ liệu vô cùng quý giá. Đến đây, chúng tôi nhận thấy thời điểm đã chín muồi để bắt đầu công cuộc nghiên cứu của mình. Luận án này nghiên cứu vấn đề bằng hướng tiếp cận văn hóa học, chủ động liên kết các góc nhìn, các hướng nghiên cứu và sử dụng tối đa thành quả nghiên cứu của người đi trước để phác họa một bức tranh tổng thể về nguồn gốc tộc người và văn hóa, quy luật phát triển và các mối quan hệ văn hóa truyền thống ở Việt Nam trong phạm vi văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam. Luận án này chỉ là một sự khởi đầu. 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Trong phạm vi tư liệu bao quát được, chúng tôi tiến hành phân thành ba mảng nội dung chính, gồm (1) lịch sử nghiên cứu các vấn đề chung về lịch sử và văn hóa Bách Việt; (2) lịch sử nghiên cứu văn hóa Bách Việt ở Lĩnh Nam; và (3) lịch sử nghiên cứu mối quan hệ văn hóa Bách Việt và văn hóa truyền thống ở Việt Nam. a. Lịch sử nghiên cứu các vấn đề lịch sử, văn hóa Bách Việt Có thể nói, nghiên cứu các vấn đề lịch sử, văn hóa Bách Việt cổ không mới, bởi trên thế giới đã có hàng nghìn tác phẩm, bài viết chuyên luận của giới nghiên cứu dân tộc học, khảo cổ học, sử học v.v. được công bố. Trong số ấy, các tác giả Trung Quốc (kể cả đảo Đài Loan) chiếm đa số. Ở Trung Quốc, toàn bộ hoạt động nghiên cứu lịch sử, văn hóa Bách Việt phân làm ba giai đoạn, gồm trước 1949, giai đoạn 1949-1979, và giai đoạn 1980 đến nay. Giai đoạn trước 1949, chúng tôi gọi là giai đoạn đặt nền tảng cho toàn bộ giới nghiên cứu Bách Việt về sau. Từ các triều đại phong kiến Tần-Hán đến Minh- Thanh, trong cổ sử Trung Hoa đã để lại nhiều tác phẩm dành riêng về Bách Việt, có thể kể như Ngô Việt Xuân Thu (thời Hán); Việt Tuyệt Thư (đời Đông Hán); Bách Việt tiên hiền chí (thời Minh). Đồng thời, các chính sử Trung Hoa như Quốc Ngữ (thời Xuân Thu), Dật Chu Thư (thời Chiến Quốc), Trúc Thư Kỷ Niên (thời Chiến Quốc), Sử Ký (thời Hán), Hán Thư (thời Hán); Hậu Hán Thư(thời Nam Triều- Tống), Tam Quốc Chí (thời Tấn), Tấn Thư (thời https://thuviensach.vn Đường), Tùy Thư (thời Lương), Cựu Đường Thư (thời Hậu Tấn), Tân Đường Thư (thời Tống), v.v. đều có những chương mục chuyên luận về diễn biến lịch sử văn hóa Bách Việt. Ngoài ra, các cuốn địa lý chí, địa phương chí cũng đóng góp quan trọng như Nam Việt Hành Kỷ (thời Hán), Hoài Nam Tử (thời Hán), Sơn Hải Kinh (thời Tấn), Thủy Kinh Chú (thời Hậu Ngụy), Thái Bình Ngự Lãm và Thái Bình Quảng Ký (thời Tống); Thái Bình Hoàn Vũ Ký (thời Tống), Giao Châu Ký (thời Tấn); Quảng Châu Ký (thời Tấn); Quảng Châu Chí (thời Tấn), Lĩnh Ngoại Đại Đáp(thời Tống), Đại Đường Tây Vực Ký (thời Đường), Nam Việt Chí (thời Nam Triều–Tống) v.v.. Nhìn chung, các cuốn cổ sử này đều do người Hán ghi chép qua lăng kính của người chinh phục và cai trị, chủ yếu là miêu thuật một cách tổng quát về sự tồn tại của các tộc người, các hiện tượng văn hóa Bách Việt cùng quá trình Hán hóa theo thời gian. Do vậy các nhận định, đánh giá trong các tác phẩm này cần phải được kiểm chứng lại qua các tư liệu của khoa học hiện đại, đặc biệt phải đặt dưới nhãn quan thuyết tương đối văn hóa (cultural relativism). Đến đầu tk. XX, các bài viết, tác phẩm chuyên luận thường gắn liền với khảo cứu khoa học hiện đại. Mốc khởi đầu được tính từ thập niên 1920, khi bài viết về văn hóa Bách Việt – “Nghiên cứu văn hóa sông Tường Kha giang” của Đồng Chấn Tảo[3] được công bố trên tờ Lĩnh Nam Học báo. Sau đó, nhiều tác giả nghiên cứu về Bách Việt bắt đầu các hoạt động khảo cứu của mình, đặc biệt năm 1936 thành lập Hội nghiên cứu Sử Địa Ngô Việt, năm 1937 xuất bản cuốn Ngô Việt văn hóa luận tùng[4] với tất cả 24 bài viết súc tích. Trong số các tác giả nghiên cứu Bách Việt thời ấy nổi lên nhà nghiên cứu La Hương Lâm, lần đầu tiên công bố cuốn sách tổng hợp nhất về Bách Việt, cuốn Bách Việt trong hệ thống Trung Hạ năm 1943, chính thức công bố 17 tộc danh Bách Việt gồm Vu Việt, Âu Việt, Mân Việt, Dương Việt, Sơn Việt, Nam Việt, Tây Âu, Lạc Việt, Việt Thường, Đằng Việt, Điền Việt, Việt Tê, Bặc Quốc, Đông Đề, Dạ Lang, Quỳ Việt v.v., đồng thời xác lập các dấu hiện nhận diện cơ bản của văn hóa Bách Việt như xăm mình, sử dụng rìu và kiếm đồng, trống đồng, giỏi chèo thuyền và đời sống sông nước v.v.. Điểm cần nhấn mạnh là trong bài viết “Nghiên cứu Việt tộc cổ” trước đó, tác giả này khẳng định Bách Việt khác với Hoa Hạ, song trong cuốn Bách Việt trong hệ thống Trung Hạ này lại đổi quan https://thuviensach.vn điểm, cho rằng Bách Việt là hậu duệ của dân Hạ vùng Trung Nguyên. Các bài viết khác đồng tác giả có “Nghiên cứu văn hóa Việt tộc cổ đại”, “Nghiên cứu phương ngôn Việt tộc cổ đại”, “Quan hệ đồng nguyên giữa giữa người Mã Lai và dân tộc Trung Hoa”, “Quan hệ giữa người Mã Lai và người Việt cổ”, “Văn hóa Việt tộc cổ đại”[5]v.v. lần lượt được công bố ở Trung Quốc và Đài Loan đã góp phần làm sáng tỏ quan điểm kết nối Hoa Hạ-Bách Việt – Đông Nam Á của tác giả. Ngoài La Hương Lâm, một số tác giả khác cũng lần lượt thể hiện quan điểm “Hạ Việt đồng nguyên (Hoa Hạ – Bách Việt cùng nguồn gốc)” qua một số công trình tiêu biểu. Lâm Huệ Tường viết Lịch sử các dân tộc Trung Quốc (1936), Lã Tư Miễn cũng công bố cuốn cùng tên (1934), Từ Tùng Thạch có các cuốn Lịch sử dân tộc lưu vực Việt Giang (1941), Nghiên cứu tộc Thái, tộc Đồng, tộc Việt (?) v.v.. Riêng Lâm Huệ Tường chủ trương phân hai hệ: hệ Bách Việt, gồm Vu Việt, Dương Việt, Âu Việt, Mân Việt, Nam Việt, Lạc Việt, Sơn Việt cư trú từ lưu vực Dương Tử đến bắc Việt Nam; hệ Bặc Shan, bao gồm tiền dân Ai Lao, Shan-Thái cư trú phía tây sông Hồng. Còn Từ Tùng Thạch đặc biệt nhấn mạnh dân tộc Choang hiện nay chính là “người Việt cũ (旧越人)” – hậu duệ trực tiếp, điển hình nhất của Bách Việt cổ. Bên cạnh các tác phẩm nói trên, người Trung Hoa còn xuất bản một số sách chuyên khảo (bài viết) tiêu biểu khác, như cuốn Thành phần dân tộc Trung Hoa(1923) của Lương Khải Siêu; cuốn Bàn về văn hóa Mân Trung (1923) của Hồ Thích Chi và Cố Hiệt Cương; cuốn Sơn Việt khảo (1924) của Lưu Chi Tường; cuốn Nghiên cứu đất Mân cổ (1924) và “Các khu vực phân bố của dân Sơn Việt thời Tam Quốc” (1934) của Diệp Quốc Khánh; cuốn Trung Quốc và Việt Nam(1928) của Long Tiềm; cuốn Nghiên cứu tiền dân Việt Đông (1932) của Đàm Kì Tương; cuốn Văn hóa Việt tộc cổ đại; cuốn Nghiên cứu nguyên lưu các dân tộc Nam Trung Quốc (1933) của Lang Kình Tiêu; cuốn Lược thuật lịch sử Việt Nam(1933) của Vương Tập Sinh; hai bài Nghiên cứu vua Chức nước Nam Hải thời Hán (1935) và Nghiên cứu Việt tộc ở nước Gia Cát Lượng thời Hán sơ (1936) của Phan Thời; bài “Nghiên cứu tục xăm mình dân Ngô Việt cổ” (của Lục Thụ Đan; cuốn Khảo sát văn hóa Ngô Việt của Tô Thiết; bài “Việt chi tính” của Lã Tư Miễn; cuốn Tổng hợp khảo cổ Ngô Việt (1940); bài Bàn về cổ sử bán đảo Việt Nam (1944) của Hàn Chấn Hoa; bài “Con cháu https://thuviensach.vn Việt vương Câu Tiễn di dân” (1944) của Vương Tân Dân; cuốn Nguồn gốc dân tộc Phúc Kiến (1946) của Lâm Huệ Tường; cuốn Nghiên cứu di tích vua Việt ở Mân Bắc (1948) của Tạ Đạo Phân v.v.[6]. Điều đáng nói là các tác giả đều có quan điểm như La Hương Lâm. Quan điểm này không có cơ sở và hoàn toàn trái ngược với các kết quả nghiên cứu của khoa học hiện đại. Ở Việt Nam, giai đoạn này chưa từng có tác phẩm nào thảo luận trực tiếp về Bách Việt hay nguồn gốc Bách Việt của người Việt Nam. Một vài chi tiết có liên quan được các sử gia Việt Nam lồng ghép vào các tác cuốn chính sử hay các chuyên luận của mình, như Đại Việt Sử Ký (1272, Lê Văn Hưu), Đại Việt Sử Lược (tk.XIV), An Nam Chí Lược (1335, Lê Tắc), Việt Điện U Linh Tập (1392, Lý Tế Xuyên), Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (1697, Ngô Sỹ Liên..), Đại Việt Thông Sử (1759, Lê Quý Đôn), Việt Sử Tiêu Án (1775, Ngô Thời Sỹ) v.v Giai đoạn 1949-1979, còn gọi là giai đoạn khủng hoảng trong nghiên cứu lịch sử văn hóa Bách Việt do tác động của điều kiện lịch sử – xã hội Trung Quốc đương thời, đặc biệt là Cách mạng văn hóa 1966-1976. Thời gian này có hai chuyên tác có giá trị. Thứ nhất là cuốn Dòng máu Trung Quốc trong các dân tộc Đông Nam Á (1954) của Từ Tùng Thạch xuất bản ở Hồng Kông. Tác giả chủ trương người Mã Lai – Đa Đảo ở Đông Nam Á vốn có xuất xứ từ Trung Quốc, địa vực cổ vào khoảng Chiết Giang, Phúc Kiến, sau khi nước Sở giết vua Vô Cương đã giong thuyền ra các hòn đảo Nam Dương, “đuổi bạt” dân Polynesia, thuần phục giống người da ngăm thân ngắn tại đó, tiếp thu dòng máu của họ để hình thành giống Mã Lai da nâu. Thứ hai là cuốn Nguyên lưu và văn hóa Bách Việt (1955) của La Hương Lâm cũng xuất bản ở Đài Loan, bao gồm cả thảy 9 bài viết tập trung các vấn đề tộc thuộc, phân bố, ngôn ngữ, văn hóa, diễn biến lịch sử của các dân tộc Bách Việt cổ cùng mối quan hệ giữa Bách Việt với người Mã Lai v.v. Quách Mạt Nhược trong cuốn Trung Quốc sử cảo (1976) chủ trương nước Việt tk. VI-V trCN do người Hạ, người Sở và dân Việt bản địa hợp thành, còn tác giả Từ Trọng Thư trong cuốn Hạ sử sơ thự(1979) nói rõ sau khi Thương diệt Hạ, dân Hạ di cư xuống phía Nam thành người Việt, lên phía bắc thành Hung Nô. https://thuviensach.vn Về các cuốn (hoặc bài viết) mang tính khảo cứu, phần đông do các tác giả bên ngoài Trung Hoa đại lục công bố. Tiêu biểu có các cuốn (bài) “Tôn Ngô và sự nghiệp khai phá Sơn Việt” (1951) của Phụ Lạc Thành; bài “Người bản thổ Nam Dương và dân tộc Bách Việt cổ Trung Quốc” (1951) và bài “Người Mân Việt cổ và các dân tộc bản địa Đài Loan” (1952) của Lăng Thuần Thanh; “Tôn Ngô khai phá Man Việt” (1953) của Cao Á Vĩ; “Khảo cứu dịch ngữ An Nam. Nghiên cứu bộ phận Việt tộc trong dịch ngữ Hoa – Di” (1953) của Trần Cảnh Hòa; “Địa vực tám quận Nam Hải” (1953) của Thi Chi Miễn; các bài “Nghiên cứu tiến trình lịch sử các dân tộc vùng tây nam thời tiên Tần” (1957); chuyên luận “Một trong các đặc trưng văn hóa đồ đá mới vùng đông nam Trung Quốc – bôn có nấc” (1958) của Lâm Huệ Tường; “Một trong các đặc trưng văn hóa đồ đá mới vùng đông nam Trung Quốc – đồ gốm hoa văn in (1959) của Lã Vinh Phương; bài “Sơ thám xã hội nguyên thủy ở Quảng Đông” (1959) của Đội khảo cổ Đại học Trung Sơn; bài “Sự phân bố nền văn hóa nguyên thủy ở Trung Quốc và Đông Nam Á” (1961)của Tưởng Toản Sơ; bài “Công thần khai phá đất Lĩnh Nam: Triệu Đà” (1962) của Hoàng Mạt Sa; bài “Bước đầu khảo cứu địa vực cư trú và kết cấu xã hội người Mân Việt cổ thời Tây Hán” (1963) của Diệp Quốc Khánh và Tân Thổ Thành; bài “Về tộc Mân Việt thời Đông Hán” (1964) của Diệp Quốc Khánh; bài “Nguồn gốc và quá trình phát triển của Đông Việt, Sơn Việt” (1964) của Trần Khả Úy; bài “Kinh doanh của các triều đại Tần – Hán ở phương Nam” (1973) của Tiêu Phồn; bài “Sơ thám nguồn gốc tộc Tây Âu” (1978) của Lương Chiêu Thao; bài “Dạ Lang giản luận” (1979) của Dương Đình Nghiên; bài “Bàn về tính chất xã hội nước Việt thời Xuân Thu – Chiến Quốc” (1979) của Tưởng Bính Chiêu v.v.[7]. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu Bách Việt trong giai đoạn khủng hoảng thiếu hẳn tính hệ thống, chủ yếu là đi vào các khía cạnh cụ thể và kế thừa quan điểm của các tác giả giai đoạn trước. Điều đáng ghi nhận là giới nghiên cứu đã bắt đầu ứng dụng các kết quả khảo cổ học vào công trình của mình, tuy nhiên họ vẫn bị chi phối bởi tư tưởng “tự ngã trung tâm”. Giai đoạn 1980 đến nay là giai đoạn phát triển. Đầu thập niên 1980 chứng kiến việc thành lập Hội Nghiên cứu lịch sử văn hóa Bách Việt tại Đại học Hạ Môn (tỉnh Phúc Kiến), cơ quan tiến hành nhiều kỳ hội thảo chuyên sâu về lịch https://thuviensach.vn sử văn hóa Bách Việt, lần lượt xuất bản các cuốn Tuyển tập lịch sử dân tộc Bách Việt (1982, 1985, 1989, 1998); Nghiên cứu nguồn gốc và quá trình phát triển Bách Việt (1986); Nghiên cứu lịch sử Bách Việt (1987); Nghiên cứu dân tộc Bách Việt(1990); Nghiên cứu Văn hóa Bách Việt Quốc tế (1994); Nhai mộ núi Long Sơn và văn hóa Bách Việt (2001), Nghiên cứu Bách Việt (2007) v.v.[8] với tổng cộng trên 300 bài viết chuyên luận. Điều mới mẻ của giai đoạn này là các tác giả đã phá thế “dĩ Hoa vi trung”, tìm tòi nghiên cứu khách quan và đồng thuận rằng Bách Việt và Hoa Hạ là hai trong số các tập đoàn dân cư cổ sơ độc lập nhau ở Á Đông và là hai nguồn văn hóa lớn hình thành nên diện mạo văn hóa Trung Hoa hôm nay. Tuy nhiên, các tác giả lại chụm lại ở một quan điểm mới, coi văn hóa Trung Hoa là nền văn hóa nhất thống từ đa nguyên, trong đó hai bộ phận cấu thành quan trọng nhất là Hoa Hạ (lưu vực sông Hoàng Hà) và Bách Việt (lưu vực sông Dương Tử trở xuống) (so với trước đó chỉ công nhận chiếc nôi Hoàng Hà). Hệ quả của quan điểm này là các tác giả cố tình níu kéo hết thảy những gì có nguồn gốc hoặc có liên quan đến Bách Việt vào Trung Quốc. Bên cạnh, hàng loạt tác giả (hoặc nhóm tác giả) đã công bố nhiều chuyên tác về Bách Việt. Tiêu biểu có Mông Văn Thông với cuốn Việt sử tùng khảo (1983); Tưởng Bính Chiêu với cuốn Tuyển tập tư liệu lịch sử dân tộc Bách Việt (1988); nhóm các tác giả Tưởng Bính Chiêu, Ngô Miên Cát, Tân Thổ Thành với cuốn Văn hóa Dân tộc Bách Việt (1988); Trần Quốc Cường, Tưởng Bính Chiêu, Ngô Miên Cát, Tân Thổ Thành với Lịch sử Dân tộc Bách Việt (1988); Vương Thắng Tiên với Nghiên cứu mới về di tục Việt tộc (1990); Hà Quang Nhạc với Lịch sử hình thành và phát triển Bách Việt (1991); Tống Thục Hoa với cuốn Bách Việt(1991); Trương Tăng Kỳ với Nước Điền và văn hóa Điền Việt (1997); Dương Tông với Văn hóa nước Mân Việt (1998); Lâm Úy Văn với Lịch sử kinh tế Bách Việt Trung Quốc (2003) v.v.. Thêm vào đó, hàng trăm bài viết khác nhau đi sâu thảo luận các vấn đề cụ thể của văn hóa Bách Việt, chủ yếu có phạm vi khảo sát là Nam Trung Hoa, ít quan tâm đến mối quan hệ lịch sử văn hóa với bắc Đông Nam Á (xem Tài liệu tham khảo và Phụ lục). https://thuviensach.vn Ở phương Tây đại diện có William Clifton Dodd với cuốn The Tai race: the elder brother of the Chinese (Chủng Thái: anh cả của người Trung Hoa, 1923); Izui Hisanosuke viết bài “On the song of the Yueh” (“Về bài hát Việt Nhân Ca”, 1953); Nai Likhit Hoontrakul Hoontrakul có cuốn The history records of the Siamese- Chinese relations (Các ghi chép lịch sử về mối quan hệ Siam và Trung Hoa, 1953); Edward H. Schafer với The empire of Min (Đế quốc Mân, 2006) v.v. Nhìn chung, xu hướng nghiên cứu chính vẫn là các vấn đề đương đại, tập trung ở yếu tố cộng đồng người Hán Hoa Nam đã hình thành và phát triển như thế nào, văn hóa Hoa Nam đã hấp thu văn hóa Hán như thế nào, hoàn toàn không lấy Bách Việt làm đối tượng nghiên cứu. Tại Nhật Bản, giai đoạn 1951 – 1975 đã công bố 17 bài viết, tiêu biểu có “Việt tộc trong văn minh Trung Quốc cổ đại” của Goto Kinpei; “Nghiên cứu mộ táng nước Nam Việt thời Hán” của Machida Akira; “Văn hóa Ngô Việt cổ” của Ichikawa, Kenjiro, v.v.. Tuy nhiên, các tác giả chỉ quan tâm vào các vấn đề cụ thể, không thể hiện rõ quan điểm về mối quan hệ văn hóa giữa Bách Việt và các tập đoàn khác. Ở Thái Lan, sự có mặt của cuốn Chủng Thái – anh cả của người Hán (nêu trên) của William Clifton Dodd [1923] được in lại bằng tiếng Thái Lan và sự ra đời của cuốn The history records of the Siamese-Chinese relations (Các ghi chép lịch sử quan hệ người Xiêm và Hán) của Nai Likhit Hoontrakul Hoontrakul (1953) ở Bangkok đã gây nên một làn sóng tìm hiểu cội nguồn người Lào-Thái-Shan trong các thập niên 1950 về sau. Cũng trong giai đoạn này, các phát hiện khảo cổ ở vùng bắc-đông bắc Thái Lan đã được ứng dụng vào nghiên cứu, góp phần làm sáng tỏ nguồn gốc Bách Việt (nhánh Tây Việt – thuật ngữ của chúng tôi) của người Thái Xiêm, Thái Lự, Thái Yong, Thái Yuan, Thái Hkun (Thái Lan), người Shan (Miến Điện), người Lào, Lào-Thái (Lào Isan), Thái, Tày, Nùng (Việt Nam), Thái Khamti và Thái A-hom (Ấn Độ) và Thái Vân Nam (Trung Quốc). Các tác giả tiêu biểu có Trưng Bằng [1993: 12], Trịnh Trương Thượng Phương, Sai Kam Mong [2004] v.v.. Nhóm tư liệu nghiên cứu cổ sử nhóm dân tộc Shan-Thái này rất có ý nghĩa trong nghiên cứu của chúng tôi, nhất là ở mối quan hệ nguồn gốc chủng tộc và văn hóa giữa hai vùng Lĩnh Nam và cao nguyên Vân-Quý. https://thuviensach.vn Một vài tác giả người Ấn gốc Thái Khamti bang Assam đã thực hiện một số công trình nghiên cứu nguồn gốc người Thái A-hom và Thái Khamti hiện đang định cư tại bang Assam của Ấn Độ. Trong số đó, các tác giả Lila Gogoi [1971], Puspadhar Gogoi [1996], Nomal Chandra Gogoi [2003], v.v. lần lượt công bố các bài viết khẳng định nguồn gốc từ vùng đất nay là Vân Nam của dân tộc mình. Ở Việt Nam cho đến nay hầu như không có chuyên luận nào dành riêng cho các vấn đề lịch sử, văn hóa cộng đồng Bách Việt nói chung. Do vậy, chúng tôi sẽ chủ động sàng lọc, sử dụng các tư liệu nói trên làm cơ sở cho các nội dung liên quan đến lịch sử và văn hóa Bách Việt dưới góc nhìn tổng thể. b. Lịch sử nghiên cứu văn hóa Bách Việt ở Lĩnh Nam Nếu như việc nghiên cứu các vấn đề lịch sử, văn hóa Bách Việt đơm hoa kết trái, nhất là từ giữa tk. XX về sau với hai quan điểm chủ đạo là “Hạ-Việt đồng nguyên” và “Hạ-Việt nhất thống” thì không có một công trình nào nghiên cứu có hệ thống về văn hóa Bách Việt ở vùng Lĩnh Nam (kể cả ở Trung Quốc). Một số chuyên luận và bài viết có khai thác yếu tố văn hóa Việt cổ ở Lĩnh Nam, song chủ yếu để đạt mục đích làm nền tảng cho sự thâm nhập và phát triển của văn hóa Hán từ thời Tần – Hán về sau mà thôi. Và do vậy, càng không có công trình nào bàn đến mối quan hệ văn hóa Bách Việt ở Lĩnh Nam và văn hóa truyền thống ở Việt Nam. Ở Trung Quốc, các tác giả và các công trình nghiên cứu ở mức độ tổng quát có thể kể như hai tác giả Vương Văn Quang, Lý Hiểu Bân với cuốn Lịch sử diễn biến phát triển dân tộc Việt: từ Việt, Liêu đến các dân tộc thuộc ngữ hệ Choang – Đồng (2007); Hội nghiên cứu Trống Đồng Trung Quốc công bố hai cuốn Tuyển tập nghiên cứu Trống Đồng 1 và 2 (1982, 1984); và Dư Thiên Xí với cuốn Lịch sử nước Nam Việt cổ (1988). Thứ hai, các nghiên cứu phân tán thành các bình diện cụ thể tương đối phong phú. Đó là các tác giả Đặng Thông với Nghiên cứu văn hóa cổ Nam Trung Hoa và khu vực lân cận (1999); Phùng Minh Dương với Việt Ca: văn hóa luận nghệ thuật ca hát bản thổ vùng Lĩnh Nam (2006); Trương Vĩ Tương, Tiết Xương Thanh với Hải cảng cổ ở Quảng Đông (2006) v.v.. Thứ ba là các nghiên cứu tập trung vào văn hóa người Hán ở Hoa Nam, thường chỉ coi văn hóa Bách Việt là yếu tố đóng vai trò phụ trợ để https://thuviensach.vn xây dựng văn hóa Nam Trung Hoa. Đó là Viên Chung Nhân với Văn hóa Lĩnh Nam (1998); Bảo tàng Quảng Tây có cuốn Âu Lạc di túy (2006); Trương Thọ Kỳ có Người Đản gia(1991); Tăng Mục Dã có Bàn về Lĩnh Nam (2005); Tạ Thế Trung với Luận thuật quốc tộc: Trung Quốc với bối cảnh Bắc Đông Nam Á (2004); La Chí Hoan với Văn hiến lịch sử Lĩnh Nam (2006); Hoàng Thục Sính với Nghiên cứu văn hóa tộc người và khu vực Quảng Đông (1999); Củng Bá Hồng với Quảng Phủ văn hóa nguyên lưu (1999) v.v.. Bên ngoài Trung Quốc, một số tác giả thế giới cũng có nghiên cứu về vùng văn hóa này, tuy nhiên cũng nhìn vấn đề ở giai đoạn lịch sử văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam giao lưu và hòa nhập vào văn hóa Hán về sau. Ở phương Tây, các tác giả tập trung đi nghiên cứu nguồn gốc văn hóa lịch sử của từng dân tộc cụ thể (người Việt, người Choang, người Thái, người Mường, người Lê, người Đồng v.v.), hoặc các chuyên tác bàn về các bình diện văn hóa, nghệ thuật, phong tục các dân tộc bên cạnh các công trình nghiên cứu khảo cổ học, ngôn ngữ học, di truyền học mang tính khu vực (vùng). Đại diện có Edward H. Schafer với The vermilion bird – T’ang images of the South (Chim chu tước – hình ảnh phương Nam thời Đường, 1967); Jeffrey Barlow với The Zhuang: Ethnogenesis (Dân tộc Choang: sự khai sinh dân tộc, 2005); Sow-Theng Leong với Migration and ethnicity in Chinese history – Hakkas, Pengmin and their neighbors (Sự thiên di và dân tộc tính trong lịch sử Trung Hoa – người Khách Gia, người Bình dân và các cộng đồng lân cận, 1997); Vallibhotama Srisakra với Zhuang – the oldest Tai (Choang – người Thái cổ xưa nhất, 1993) v.v. Tại Nhật Bản, chỉ một vài tác giả quan tâm đến vấn đề này, bởi lẽ nó cũng chỉ là một bộ phận của toàn khối Bách Việt. Các tác giả có thể kể như Hà Nguyên Chính Bác với bài “Quá trình kinh lược của Tần Thủy Hoàng ở Lĩnh Nam” (?); Hà Bạch Điểu Phương Lang với bài “Chủng tộc của dân bản thổ Hoa Nam” (?) v.v.. Ở Việt Nam cũng hoàn toàn chưa có công trình nào chuyên sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về văn hóa Bách Việt ở Lĩnh Nam, hoặc là nghiên cứu cơ tầng văn hóa truyền thống Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Bách Việt toàn vùng Lĩnh Nam. Một vài chuyên luận khai thác một số bình diện văn hóa Lĩnh https://thuviensach.vn Nam, trong đó có khai thác mối quan hệ nguồn gốc văn hóa Việt Nam với vùng Lưỡng Quảng Trung Quốc. Điển hình là cuốn Mối quan hệ văn hóa thời tiền sử giữa Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc của Trình Năng Chung (2009). Tác giả này đi từ so sánh khảo cổ học văn hóa kết luận rằng văn hóa tiền sử Bắc Việt Nam gắn liền với Nam Trung Hoa, và đây là khu vực sản sinh ra văn hóa Bách Việt. Tuy nhiên, tác giả đã không thảo luận văn hóa Bách Việt đã sản sinh ra như thế nào, diện mạo văn hóa Bách Việt ở Lĩnh Nam ra sao v.v.. Ngoài ra, tác giả Trịnh Sinh cũng có bài “Kỹ thuật luyện kim Bắc Việt Nam và Nam Trung Hoa” đăng trên tạp chí Khảo cổ học (1998) cũng nhất trí về tính thống nhất kỹ nghệ luyện kim vùng Lĩnh Nam. Kế thừa các thành tựu nghiên cứu quan trọng của các tác giả, chúng tôi nghiên cứu văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam với tư cách là một hệ thống văn hóa hoàn chỉnh bên trong cộng đồng Bách Việt cổ. Đây là nội dung hoàn toàn mới so với các tác giả đi trước. c. Lịch sử nghiên cứu mối quan hệ văn hóa Bách Việt và văn hóa truyền thống ở Việt Nam Có một thực tế là ở Việt Nam có rất nhiều công trình nghiên cứu về cội nguồn văn hóa truyền thống ở Việt Nam, rất nhiều tác phẩm đề cập đến tổ tiên Lạc Việt của người Việt Nam, đến cơ tầng văn hóa Đông Nam Á cổ của văn hóa Việt Nam, song không có công trình nào xét cội nguồn văn hóa Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Lĩnh Nam, lấy đó làm cơ sở để thảo luận trực tiếp về mối quan hệ hữu cơ giữa văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam và văn hóa truyền thống ở Việt Nam. Thứ nhất là nhóm các công trình chuyên sâu nghiên cứu về cội nguồn văn hóa Việt Nam với tư cách là một đối tượng độc lập, chuyên biệt, dù rằng trong đó ít nhiều có bàn đến văn hóa Bách Việt. Các tác giả tiêu biểu có thể kể Đào Duy Anh với Cổ sử Việt Nam (1950); Lê Văn Siêu với các cuốn Văn minh Việt Nam(1964), Việt Nam văn minh sử cương (1967), Việt Nam văn minh sử lược khảo(1972); Nguyễn Phương với Việt Nam thời khai sinh (1965); Viện khảo cổ học với bốn tập Hùng vương dựng nước 1, 2, 3, 4 (1970, 1972, 1973, 1974) trong đó có nhiều bài viết có giá trị của các tác giả Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Chử Văn Tần v.v.; Bình Nguyên Lộc với Nguồn gốc Mã Lai của người https://thuviensach.vn Việt Nam (1971); Lê Mạnh Thát với Lục độ Tập kinh và Lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta (1972); Kim Định với Nguồn gốc văn hóa Việt Nam (1973) và một số sách khác; Lê Văn Hảo với Hành trình về thời đại Hùng Vương dựng nước (1982); Hà Văn Tấn với Giao lưu văn hóa ở người Việt cổ (1982); nhóm tác giả Phạm Minh Huyền.. với cuốn Trống Đông Sơn (1987); Nguyễn Việt với Những nghiên cứu mới về tiền sử, sơ sử Việt Nam (Berlin, Đức, 1988) và Hà Nội, thời tiền Thăng Long (2010); Phạm Minh Huyền với Văn hóa Đông Sơn, tính thống nhất và đa dạng (1993); Trần Quốc Vượng với Việt Nam khảo cổ học (Tokyo, 1993) và Văn hoá Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm (2000); Hà Văn Tấn chủ biên cuốn Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam(1994); Nguyễn Lân Cường với Đặc điểm nhân chủng cư dân văn hóa Đông Sơn(1996); nhóm Đặng Văn Lung.. với Văn hóa Luy Lâu và Kinh Dương Vương(1998); Bùi Thiết với Việt Nam thời cổ xưa (1999); Trần Ngọc Thêm với Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam (1996, 1997, 2001, 2004); Chử Văn Tần với Văn hóa Đông Sơn, văn minh Lạc Việt (2003); Nguyễn Duy Hinh với Văn minh Lạc Việt(2004); Hà Văn Tấn với Đến với lịch sử văn hóa Việt Nam (2005); Ngô Đức Thịnh với Văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam (2006); Nguyễn Khắc Thuần với Tiến trình văn hóa Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỉ XIX (2007) v.v.. Nhóm người Việt hải ngoại cũng có đóng góp không nhỏ, chẳng hạn Phạm Việt Châu với Trăm Việt trên vùng định mệnh (1997); Cung Đình Thanh với cuốn Tìm về nguồn gốc văn minh Việt Nam dưới ánh sáng mới của khoa học (2003); Nguyễn Đức Hiệp với bài “Giao lưu văn hóa Việt-Tày- Nùng” trong cuốn Khoa học soi sáng lịch sử (2007); Nguyễn Văn Ưu với công trình Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương (2009) v.v.. Thứ hai là nhóm các công trình nghiên cứu các khía cạnh cụ thể của văn hóa truyền thống ở Việt Nam, trong đó có cội nguồn văn hóa Bách Việt. Nhiều nhất là các bài viết trên các tạp chí khoa học Nghiên cứu lịch sử, Khảo cổ học, Ngôn ngữ học v.v.. Tính riêng từ tháng 7 năm 1966 đến tháng 8 năm 1978, tạp chí Nghiên cứu lịch sử đã công bố 64 bài viết liên quan đến Việt tộc, tiêu biểu có “Quá trình hình thành và phát triển Việt tộc” của Văn Tân; “Thử bàn về đặc điểm nhân chủng của người Việt” của Nguyễn Đình Khoa; “Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng trong sử sách cổ đại” của Nguyễn Xuân Lân v.v.. Các tác giả Phạm Đức Dương (1983, 1986), Nguyễn Ngọc Bích (1994), Nguyễn Tài Cẩn https://thuviensach.vn (1995), Phan Ngọc (1998), Nguyễn Ngọc San (2003) v.v. chuyên sâu thảo luận tỉ mỉ về nguồn gốc tiếng Việt cổ, trong đó có nhấn mạnh vai trò của giao lưu tộc người và ngôn ngữ thời Bách Việt. Các tác giả Hà Văn Tấn (1969), Hà Văn Tấn và Nguyễn Khắc Sử (1978), Hà Văn Tấn, Nguyễn Khắc Sử và Trình Năng Chung (1999); Nguyễn Đình Khoa (1986), Trịnh Sinh (1996, 1998), Phạm Huy Thông (2003) v.v. đứng ở góc độ khảo cổ học để phác họa chân dung văn hóa Lạc Việt cổ ở Việt Nam. Các tác giả Đinh Gia Khánh (1993), Nguyễn Văn Huyên (1995), Nguyễn Lân Cường (1996), Vũ Ngọc Khánh (1999, 2004), Chu Xuân Diên (1999), Trần Quốc Vượng (2005), Ngô Đức Thịnh (2006)[9]v.v. ít nhiều có bàn đến cội nguồn văn hóa Việt cổ (nền tảng văn hóa Đông Nam Á) trong văn hóa Việt Nam thông qua các cứ liệu khảo cổ, văn hóa. Một số tác giả Âu-Mỹ từng công bố một số công trình nghiên cứu về Việt Nam, song chủ yếu chỉ bàn về Việt Nam thời cổ trung đại, tức là từ đầu Công nguyên trở về sau, và rất ít đề cập đến cội nguồn văn hóa Bách Việt. Đại diện có thể kể Keith Taylor với The Birth of Vietnam (Sự khai sinh nước Việt Nam, 1983), Neil L. Jamieson với Understanding Vietnam (Tìm hiểu Việt Nam, 1993) v.v. Một số tác giả khác mở rộng nghiên cứu cả khu vực Đông Nam Á cổ, chẳng hạn Hall D.G.E. với A history of South-east Asia (Lịch sử Đông Nam Á, 1964), Eberhard Wolfram với The local cultures of South and East China (Văn hóa bản địa ở nam và đông Trung Hoa, 1968), Solheim II W.G. (1969), Charles F. Keyes với The Golden Peninsular (Bán đảo Vàng, 1977), Bernet Kempers A.J. với The kettledrums of Southeast Asia (Trống đồng Đông Nam Á, 1988), Charles F.W. Higham với The archaeology of mainland Southeast Asia (Khảo cổ Đông Nam Á lục địa, 1989), The Bronze age of Southeast Asia (Thời đại đồ đồng ở Đông Nam Á, 1996), Early cultures of mainland Southeast Asia (Văn hóa Đông Nam Á lục địa thời tảo kì, 2002), Dougald JW. O’Reilly với Early civilizations of Southeast Asia (Văn minh Đông Nam Á tiền sử, 2007), Ambra Calò với The distribution of bronze drums in Southeast Asia (Sự phân bố trống đồng ở Đông Nam Á, 2009) v.v.. Tại Trung Quốc, một vài tác giả có nghiên cứu về nguồn gốc văn hóa Việt Nam, song chủ yếu đặt dước góc nhìn văn hóa truyền thống Việt Nam là một phần của Bách Việt, trong khi văn hóa Bách Việt nằm dưới hệ thống văn hóa https://thuviensach.vn Hoa Hạ (thuyết Hạ-Việt đồng nguyên) hoặc là một bộ phận cấu thành văn hóa Trung Hoa (thuyết Hạ-Việt nhất thống). Chính vì thế, các tác giả chủ yếu phân tích và nhấn mạnh những điểm tương đồng hơn là tính chỉnh thể của văn hóa Việt Nam. Tiêu biểu có thể kể Dương Lập Băng với bài “Đánh giá các nghiên cứu của giới sử học nghiên cứu Việt Nam về lịch sử Việt Nam cổ đại” đăng trên Học thuật luận đàn (1982); Mông Văn Thông, Vương Văn Quang với Việt sử tùng khảo (1983); tác giả Phạm Hồng Quý với “Thảo luận về vấn đề hình thành dân tộc Việt Nam” đăng trên Động thái nghiên cứu dân tộc (1987), và các cuốn Dân tộc Việt Nam và vấn đề dân tộc (1999), Các dân tộc tương quan ở Hoa Nam và Đông Nam Á (2004); Quách Chấn Đạc với Việt Nam thông sử (2001) v.v.. Chúng tôi hoàn toàn kế thừa các thành quả nghiên cứu của các tác giả Việt Nam và phương Tây, sử dụng chúng làm tư liệu để khảo sát vấn đề chính là mối quan hệ nguồn cội giữa văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam và văn hóa truyền thống ở Việt Nam (chương 3). Do vậy, trọng tâm mà chúng tôi khảo sát và các mối quan hệ văn hóa, chứ hoàn toàn không nỗ lực phác họa diện mạo văn hóa truyền thống ở Việt Nam. Rõ ràng, nghiên cứu theo hướng này của chúng tôi không trùng lắp bất kỳ công trình nào tại Việt Nam và trên thế giới. Tóm lại, có thể thấy vấn đề nghiên cứu văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam và mối quan hệ với văn hóa truyền thống ở Việt Nam là một hướng nghiên cứu mới, dù rằng nhiều khía cạnh cụ thể của nó được khá nhiều tác giả đứng ở nhiều góc độ bàn đến. Chúng tôi mạnh dạn khẳng định tính độc lập và mới mẻ của công trình này. 3. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Nghiên cứu văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam và mối quan hệ của nó với văn hóa truyền thống ở Việt Nam, trước tiên là nhằm khảo sát các bình diện văn hóa Lĩnh Nam theo thành tố, qua đó nghiên cứu mối quan hệ tổng hợp, tương hỗ giữa các thành tố đó dựa trên cơ sở các thành tựu khoa học có liên quan nhằm nắm bắt được tính chất, nội dung, loại hình, đặc điểm, cấu trúc của vùng văn hóa này, để cuối cùng rút ra được quy luật phát triển của nó. Sau đến, trên nền tảng ấy, chúng tôi tiến hành xác định vị trí, tính chất, vai trò của văn hóa Lạc Việt, trực tiếp diễn giải mối quan hệ nguồn cội giữa nền văn hóa bộ https://thuviensach.vn phận của Lĩnh Nam này với văn hóa truyền thống ở Việt Nam, góp phần làm sáng tỏ căn nguyên văn hóa nước nhà. Việc dựng lại nội dung, diện mạo và tính chất của văn hóa truyền thống ở Việt Nam phải đặt trong bối cảnh chung của vùng Lĩnh Nam. Đây là điểm nhấn mạnh và là mấu chốt của mối quan hệ văn hóa Bách Việt – Việt Nam tính theo chiều dài lịch sử. Lĩnh Nam là một phần hữu cơ của văn hóa Bách Việt, nó vừa là chiếc nôi hình thành khối văn hóa này, nơi chứng kiến sự phân lập đông, tây của văn hóa Bách Việt vừa là nơi hội tụ của các dòng văn hóa trong và ngoài Bách Việt ở các giai đoạn hậu phân lập. Trong nhiều thiên niên kỷ của quá trình phân lập rồi dung hợp văn hóa ấy, văn hóa truyền thống ở Việt Nam được phôi thai và hình thành, tự thân nó có mang hệ thống các giá trị chung của họ Bách Việt, song lại thể hiện những “tư chất riêng” của một nhánh văn hóa Bách Việt được tôi luyện qua những gian nan của quá trình lịch sử – xã hội khắc nghiệt. Rõ ràng, việc nghiên cứu, tìm tòi căn nguyên văn hóa Việt Nam không thể không đặt trong bối cảnh văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam. Trong suốt thời gian lịch sử đằng đẵng ấy, văn hóa truyền thống ở Việt Nam sớm mang vào mình một thân phận lịch sử đặc biệt, cùng chen vai sát cánh với các dòng văn hóa Bách Việt ở Lĩnh Nam khác để chống lại sự xâm nhập và thay thế của văn hóa phương Bắc. Văn hóa Bách Việt ở Việt Nam truyền thống đã thực hiện thành công sứ mệnh ấy, trong khi các dòng văn hóa cùng truyền thống ở nhiều nơi khác lại thất bại. Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi đặt vấn đề dưới góc nhìn so sánh để tìm các yếu tố mang tính bản sắc của văn hóa truyền thống ở Việt Nam. 3.2. Do tính chất, yêu cầu của nội dung và đối tượng nghiên cứu, chúng tôi tiến hành hạn định đối tượng theo không gian, thời gian, chủ thể. Về không gian, chúng tôi tập trung vào dải đất từ Nam Dương Tử xuống đến Bắc Đông Dương của khu vực Đông Á, nơi sinh nhai của tổ tiên Bách Việt. Trong quá trình phân tích, chúng tôi lấy vùng đất này làm tiêu điểm, tiến hành khảo sát thông qua so sánh với khu vực phía bắc (văn hóa Hoa Hạ-Hán), khu vực phía nam (phần còn lại của Đông Nam Á cổ). Những dãy núi cao ở phía tây nối liền với cao nguyên Thanh Tạng tự thân nó đã làm bức tường chắn https://thuviensach.vn ngăn cách hai không gian đông-tây, vì thế việc so sánh theo chiều không gian này là không cần thiết. Về chủ thể, đối tượng chính là cộng đồng Bách Việt cổ, trong đó trọng tâm nằm ở các tộc người ở vùng văn hóa Lĩnh Nam (ba tộc Âu Việt, Nam Việt và Lạc Việt). Khi khảo sát quy luật phát triển văn hóa Bách Việt vùng này, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ văn hóa giữa nó và các vùng văn hóa đồng họ khác ở cao nguyên Vân-Quý, lưu vực Dương Tử, đất Phúc Kiến và Đài Loan. Do tính chất phức tạp của giao lưu tộc người và văn hóa, chủ thể của đối tượng nghiên cứu còn được đặt trong bối cảnh chung của văn hóa phương Nam, đặc biệt là khối dân cư Môn-Khmer ở bán đảo Đông Dương. Về mặt thời gian, luận án tiến hành theo trình tự thời gian hình thành, phát triển văn hóa Bách Việt ở Lĩnh Nam thời tiền sử đến các tk. III, II trCN, quá trình giao lưu, tranh chấp với văn hóa Hán trước và sau CN, quá trình hòa nhập vào văn hóa Hán từ đầu CN đến nửa sau thiên niên kỷ I sau CN, và quá trình phân lập văn hóa truyền thống ở Việt Nam từ giữa thiên niên kỷ I, phát triển mạnh từ nửa sau thiên niên kỷ I. Khái niệm “văn hóa truyền thống ở Việt Nam” trong tên luận án nằm trong khung thời gian này, có không gian là vùng đất nay là Bắc Bộ Việt Nam với chủ thể là cộng đồng Lạc Việt Cổ, sau phát triển thành tổ tiên chung Việt-Mường. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án như vậy là khá rộng, do đó chúng tôi sử dụng góc nhìn văn hóa học trong khảo sát vấn đề nhằm kết nối các sản phẩm nghiên cứu cụ thể. Để bổ trợ cho góc nhìn này, phần cơ sở lý luận thuộc chương 1 của công trình phần nào nói rõ cách tiếp cận vấn đề của chúng tôi. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TƯ LIỆU Đối tượng và mục đích nghiên cứu quy định phương pháp tiếp cận, và phương pháp tiếp cận sẽ quyết định kết quả của một công trình nghiên cứu khoa học. Nhận thức được điều này, chúng tôi đã tìm tòi ứng dụng, so sánh hiệu quả và cuối cùng rút ra được hệ thống các phương pháp nghiên cứu phù hợp cho mình. https://thuviensach.vn Trong luận án, chúng tôi sử dụng triệt để phương pháp liên ngành trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn. Phương pháp này được tổng hợp từ nhiều phương pháp cụ thể như: · Phương pháp hệ thống – cấu trúc, chủ yếu được áp dụng trong việc khảo sát hệ thống văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam, cũng như trong việc nhận định, đánh giá và so sánh mối tương quan giữa văn hóa Lạc Việt thời cổ đại và văn hóa truyền thống ở Việt Nam. Phương pháp này có lợi thế là giúp phân định khá rạch ròi các thành tố của văn hóa, nhờ vậy đảm bảo được khả năng bao quát mối quan hệ tương hỗ giữa các thành tố văn hóa bên trong. Thêm vào đó, việc xác định tọa độ văn hóa của đối tượng nghiên cứu theo trục không gian, thời gian, chủ thể, và loại hình văn hóa sẽ giúp kiện toàn hệ thống thông tin nghiên cứu. · Phương pháp loại hình, tiến hành phân loại loại hình văn hóa khu vực Đông Á thành hai kiểu chính do căn cứ vào sự khác biệt về điều kiện tự nhiên và nguồn gốc kinh tế – văn hóa, bao gồm loại hình kinh tế – văn hóa gốc nông nghiệp lúa nước phương Nam và loại hình kinh tế – văn hóa tổng hợp giữa nông nghiệp cạn và du mục phương Bắc. Mỗi khu vực gắn liền với những đặc trưng khác biệt về văn hóa truyền thống. Chẳng hạn, văn hóa Đông Nam Á cổ chú trọng ở vai trò tập thể, văn hóa phương Bắc vừa coi trọng vai trò tập thể vừa chú ý vị trí cá nhân, cả hai cùng khác biệt với kiểu văn hóa phương Tây vốn coi trọng vai trò cá nhân. · Phương pháp khảo cứu văn hiến, chủ yếu là tham khảo các tư liệu cổ sử Trung Hoa và Việt Nam để đối chiếu với các kết quả nghiên cứu của các lĩnh vực khoa học hiện đại (khảo cổ, ngôn ngữ, dân tộc học v.v.). Trong một số trường hợp, khảo cứu văn hiến là rất cần thiết, nhất là phác họa diện mạo văn hóa tinh thần của cộng đồng Bách Việt cổ như tín ngưỡng, phong tục, nghệ thuật v.v.. Danh mục các công trình cổ sử Trung Hoa và Việt Nam được khảo sát hoặc trích dẫn, chúng tôi bố trí sau phần Tài liệu tham khảo. https://thuviensach.vn · Phương pháp điền dã, được thực hiện chủ yếu ở phần đất Bách Việt nay thuộc Trung Hoa (Lĩnh Nam, Ngô Việt, Nhị Hồ) và đảo Đài Loan, đảo Kim Môn và quần đảo Bành Hồ. Từ năm 2005 đến nay, chúng tôi đã thực hiện hai chuyến điền dã dài ngày, cả hai đều áp dụng mô thức homestay (chủ yếu ở Quảng Đông) và điền dã dân tộc học. Chuyến thứ nhất kéo dài 6 tháng (từ tháng 9/2005 đến 2/2006), chuyến thứ hai 8 tháng (từ tháng 2/2008 đến tháng 9/2008). Ngoài ra, trong hai năm 2010 và 2011, chúng tôi còn thực hiện nhiều chuyến khảo sát ngắn ngày vào các dịp tết 3 tháng ba (tết Lồng tồng) ở Triệu Khánh (Quảng Đông), tết 5 tháng năm (Đoan ngọ) tại Gia Hưng (Chiết Giang) và tết 7 tháng bảy (tết Ngâu) tại Quảng Châu (Quảng Đông). Các vấn đề được quan tâm nhiều nhất là thu thập tư liệu thành văn, tiếp cận thành quả nghiên cứu của các tác giả Trung Quốc, thu thập các minh chứng cho các phong tục, tập quán cổ xưa, các dạng thờ tự, các di tích khảo cổ, các câu chuyện dân gian truyền miệng gốc Bách Việt, đồng thời kiểm nghiệm di sản văn hóa Bách Việt còn để lại trong văn hóa các hệ dân Hán phương Nam như Quảng Phủ, Quế Liễu, Đản Gia, Triều Châu, Khách Gia, Mân Nam, Tương, Can, Ngô Việt, Hải Nam v.v.. Địa bàn khảo sát chính là Quảng Đông (Nam Việt cổ) và Quảng Tây (Âu Việt cổ), song chúng tôi cũng dành rất nhiều thời gian đi khảo sát ở Phúc Kiến (Mân Việt cổ), Hồ Nam (Dương Việt cổ), Giang Tây (Can Việt cổ), Chiết Giang (Vu Việt cổ), Giang Tô và Thượng Hải (Câu Ngô cổ). Những chuyến du khảo kết hợp với hội nghị khoa học tại Đài Loan và quần đảo Bành Hồ ít nhiều góp thêm tư liệu thực tế cho công trình. Tại Việt Nam, chúng tôi chủ yếu khảo sát ở vùng núi và trung du phía Bắc với đối tượng chính là văn hóa các tộc người Tày, Nùng, Thái, v.v. để có thêm góc nhìn so sánh cần thiết. Nhờ áp dụng phương pháp điền dã này, chúng tôi xây dựng được một tủ sách về tư liệu nghiên cứu lịch sử, văn hóa Bách Việt ở Trung Hoa cho đến cuối năm 2008. Ngoài ra, trong thời gian thực tập khoa học 18 tháng tại Viện Harvard-Yenching (Đại học Harvard), chúng tôi đã bổ sung các tư https://thuviensach.vn liệu tiếng Anh, góp phần tăng cường tính khách quan cho nội dung luận án. · Phương pháp so sánh trong văn hóa học, đặc biệt ở hướng nghiên cứu so sánh song song hai dòng văn hóa cùng nguồn gốc nhưng phân lập độc lập trong quá trình lịch sử – xã hội (nhất nguyên nhị phân): (1) văn hóa Lạc Việt phát triển thành văn hóa truyền thống ở Việt Nam và văn hóa bộ phận còn lại của Bách Việt ở Lĩnh Nam hòa nhập vào văn hóa Hoa Nam. Mục đích của hướng nghiên cứu này là đi tìm bản sắc riêng của từng đối tượng, lý giải nguyên nhân của hiện tượng nhị phân và rút ra quy luật phát triển riêng của từng dòng văn hóa. Đây là một hướng nghiên cứu khá mới mẻ, bởi tính chất nước đôi: vừa so sánh trong (chất đồng nguyên), vừa so sánh ngoài (chất nhị phân). Trên thực tế, nhiều nền văn hóa thế giới được phân lập từ một nguồn gốc chung nào đó, việc phát triển thành bản sắc văn hóa riêng phần đông được tạo lập qua quá trình phát triển của lịch sử. Song trong trường hợp văn hóa truyền thống ở Việt Nam kế thừa từ cơ tầng Bách Việt, trước khi các yếu tố lịch sử – xã hội kích thích hình thành bản sắc văn hóa thì ngay tính chất của nền văn hóa, thành phần tộc người đã đóng vai trò quan trọng, thậm chí là then chốt trong việc hình thành bản sắc văn hóa Việt Nam. Ngoài các phương pháp nói trên, chúng tôi còn sử dụng (1) Cách tiếp cận địa văn hóa, chủ yếu áp dụng các lý thuyết vùng văn hóa, mở rộng là khảo cứu văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam và văn hóa truyền thống ở Việt Nam theo không gian, ứng dụng phương thức khảo sát văn hóa gắn liền với các điều kiện tự nhiên và loại hình sinh thái. Điểm mấu chốt của cách tiếp cận này là làm nổi bật vai trò tác động của điều kiện sinh thái đối với việc hình thành văn hóa, tính chất, đặc trưng của văn hóa. (2) Cách tiếp cận sử văn hóa, đặt trọng tâm ở ứng dụng các góc nhìn văn hóa theo lịch sử văn hóa, qua đó khảo sát sự biến thiên văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam và văn hóa truyền thống ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử dưới tác động của môi trường xã hội nhằm rút ra được quy luật phát triển của văn hóa. https://thuviensach.vn Nguồn tư liệu phục vụ cho luận án cực kỳ phong phú, phân thành tiếng Việt, tiếng Trung, tiếng Anh và các ngôn ngữ khác (Nga, Pháp, Nhật, Thái v.v.). Với hàng trăm chuyên luận và bài viết tiếng Việt, hơn 1000 tên gọi tài liệu tiếng Trung (xem Phụ lục) và hàng trăm tên gọi tài liệu tiếng Anh cùng các ngôn ngữ khác, chúng tôi hoàn toàn có đủ nguồn tư liệu để thực hiện luận án. Trong luận án này chúng tôi tạm thời chưa sử dụng được các kết quả nghiên cứu của các tác giả Đông phương học người Nga cũng như các tác giả người Pháp, người Đức, người Nhật v.v. do hạn chế về các ngoại ngữ Nga, Pháp, Đức, Nhật v.v.. 5. KẾT QUẢ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN 5.1. Trên phương diện khoa học · Cung cấp lượng thông tin quan trọng và cập nhật về nghiên cứu lịch sử văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam cùng quá trình vận động, phát triển của vùng văn hóa này, giúp làm nổi rõ các đặc trưng văn hóa truyền thống cũng như các yếu tố bản sắc văn hóa Bách Việt ở Lĩnh Phác họa quá trình hình thành tộc người và diện mạo văn hóa Lạc Việt cổ trong bối cảnh văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam để làm nền tảng xây dựng mối quan hệ lịch sử văn hóa giữa văn hóa Lạc Việt và văn hóa truyền thống ở Việt Nam. · Trực tiếp thảo luận và lý giải các thành phần tộc người, ngôn ngữ và văn hóa dung hòa hình thành văn hóa Lạc Việt của tổ tiên Việt Mường, mối quan hệ giữa văn hóa Lạc Việt và văn hóa các tộc người Bách Việt khác ở Lĩnh Nam. · Lý giải các căn tính quan trọng của văn hóa, các yếu tố phát sinh từ điều kiện môi sinh, thành phần tộc người, văn hóa và quá trình lịch sử – xã hội góp phần tạo dựng và gìn giữ bản chất văn hóa Đông Nam Á cổ của văn hóa Việt Nam. · Bổ sung tư liệu nghiên cứu trường hợp có ý nghĩa cho hướng nghiên cứu kết hợp văn hóa vùng, văn hóa sử và văn hóa so sánh, đặc biệt là hướng nghiên cứu so sánh song song “đồng nguyên https://thuviensach.vn đa phân” dưới tác động của môi trường sinh thái cùng quá trình lịch sử – xã hội của nhiều cộng đồng văn hóa nhân loại 5.2. Trên phương diện thực tiễn · Luận án góp phần cung cấp những cứ liệu quan trọng cho việc khẳng định nguồn gốc bản địa Bách Việt của văn hóa truyền thống ở Việt Nam – căn nguyên quan trọng giúp điều tiết các yếu tố văn hóa ngoại lai du nhập từ sau Công nguyên, gián tiếp giải tỏa nhiều mối hoài nghi và băn khoăn về nguồn gốc tộc người và văn hóa Việt Nam trong một bộ phận cư dân. · Các kết quả nghiên cứu cho thấy văn hóa truyền thống ở Việt Nam được kết tinh từ giá trị vật chất và tinh thần quý giá của biết bao tộc người, biết bao cộng đồng và trải qua biết bao thế hệ. Những kết luận về cội nguồn chung của các tộc người và văn hóa của các dân tộc có thể giúp ích hỗ trợ cho chính sách bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống và đoàn kết các dân tộc Việt Nam. · Quy luật phát triển của văn hóa Lạc Việt và văn hóa truyền thống ở Việt Nam được đúc kết trong luận án góp phần khơi dậy tinh thần yêu văn hóa, yêu dân tộc và quốc gia ở Việt Nam, gợi mở nhiều bài học lịch sử và văn hóa của tổ tiên, làm tư liệu tinh thần quý giá cho hiện tại và tương lai của đất nước. · Việc củng cố nền tảng văn hóa Đông Nam Á cổ của văn hóa Việt Nam giúp định hướng phát triển các mối quan hệ quốc tế trong khu vực, đặc biệt là với tư cách là một thành viên của Tổ chức các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) từ năm 1995. 5.2 KẾT CẤU VÀ QUY CÁCH TRÌNH BÀY LUẬN ÁN (1) Luận án này đi từ việc xác định tọa độ văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam với tư cách là một bộ phận của khu vực văn hóa Bách Việt và là một vùng văn hóa thống nhất trong đa dạng đến thảo luận, lý giải các thành tựu tiêu biểu của văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam qua hệ thống các thành tố văn hóa. Trong quá trình ấy, các đặc trưng tiêu biểu nhất của văn hóa Lạc Việt cổ được https://thuviensach.vn nhấn mạnh, làm nền tảng cho việc phân tích, khảo cứu quá trình phát triển của văn hóa Lạc Việt cổ thành văn hóa truyền thống ở Việt Nam. Xét theo không gian, chúng tôi đi từ phạm vi rộng (văn hóa Bách Việt) thu hẹp dần vào phạm vi khảo sát chính (vùng Lĩnh Nam) và đối tượng đích đến (vùng văn hóa Bắc Bộ Việt Nam). Theo đó, toàn văn luận án được chia làm ba phần: · Phần chính văn: ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, luận án có 3 chương – Chương 1 (51 trang) là chương Cơ sở lý luận và thực tiễn, bao gồm hai mục là Cơ sở lý luận được áp dụng trong nghiên cứu xuyên suốt luận án, và Cơ sở thực tiễn là phần xác định tọa độ văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam từ các góc nhìn là không gian, chủ thể, thời Các thông tin, nhận định ở chương này có tác dụng cung cấp một cái nhìn tổng quan và những dữ liệu cơ sở để tiếp cận sâu hơn từng vấn đề ở các chương sau. – Chương 2 (58 trang) mang tên Văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam gồm ba mục chính là Văn hóa nhận thức, Văn hóa tổ chức đời sống tập thể, Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội. Chương này tập trung phác họa toàn diện bức tranh văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam theo các thành tố văn hóa nhận thức, tổ chức xã hội và ứng xử. Nội hàm của văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam cùng các mối quan hệ bên trong và bên ngoài của nó, đến lượt mình, sẽ làm cơ sở cho phần nội dung chương 3. – Chương 3 (51 trang) là Chương Mối quan hệ giữa văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam với văn hóa truyền thống ở Việt Nam, gồm hai mục chính là Văn hóa Lạc Việt trong vùng Lĩnh Nam, và Từ văn hóa Lạc Việt đến văn hóa truyền thống ở Việt Nam. Nội dung chương này chủ yếu xây dựng theo trình tự thời gian văn hóa (khoảng thời gian hình thành, tồn tại và phát triển của nền văn hóa) để chứng minh mối quan hệ nguồn gốc Lạc Việt của văn hóa truyền thống ở Việt Nam. https://thuviensach.vn · Phần tài liệu tham khảo (38 trang) gồm 532 tài liệu, trong đó 380 công trình nghiên cứu thời hiện đại, 144 cuốn cổ sử Trung Hoa và 8 cuốn cổ sử Việt Nam, được trình bày theo quy định của bản “Hướng dẫn tổ chức đánh giá luận án tiến sĩ” số 8271/SĐH ngày 1/9/2000 của Bộ giáo dục Đào tạo. Riêng các cuốn cổ sử Trung Hoa và Việt Nam được trình bày dạng bảng biểu để dễ theo dõi. · Phần phụ lục (178 trang) gồm có 6 mục: (1) Tổng quan thành tựu kinh tế Bách Việt, (2) Dân ca Bách Việt cổ -Việt Nhân Ca; (3) Phong tục Bách Việt – tết lồng tồng 3 tháng ba, tết Đoan ngọ; (4) Danh nhân Bách Việt – Phạm Lãi, Tây Thi, Ôn Long Cơ, Hai Bà Trưng; (5) Di truyền Bách Việt; và (6) Cơ sở dữ liệu nghiên cứu lịch sử, văn hóa Bách Việt ở Trung Quốc tính đến 2008. Nội dung các mục Phần Phụ lục này góp phần bổ trợ cứ liệu khoa học cho các nhận định, luận điểm trong luận án. Trong toàn luận án có 11 bảng biểu và 96 hình bản đồ, hình minh họa (chương 1: 22 hình, chương 2: 45 hình, và chương 3: 29 hình). Các bảng biểu được đánh số riêng, ví dụ chương 1: bảng 1.1, bảng 1.2, bảng 1.3; chương 1: bảng 2.1, bảng 2.1.. Phần các bản đồ, hình ảnh minh họa cũng được đánh số thứ tự tương tự: H.1.1, H.1.2, H.1.3 v.v.. Ở cuối phần phần Mục lục chúng tôi lập bảng tra danh mục các bảng biểu; bảng tra danh mục các bản đồ và hình ảnh minh họa theo số trang để tiện tra cứu. Các đoạn trích dẫn được dịch sang tiếng Việt hoặc để nguyên âm Hán Việt nếu đã rõ nghĩa. Các câu, đoạn trích quan trọng được chú thích ở phần footnote cùng với âm Hán Việt. Các thuật ngữ được dùng trong luận án hầu hết đều là thuật ngữ thuộc chuyên ngành văn hóa học, một số vay mượn từ ngôn ngữ học, dân tộc học và khảo cổ học. Một số thuật ngữ được bổ sung tiếng Anh để đối chiếu. Phần dẫn nguồn, chúng tôi đặt ngay sau ý hay đoạn trích được lấy từ công trình các tác giả khác, gồm [tên tác giả năm xuất bản: số trang], ví dụ [Đào Duy Anh 1955: 47]. https://thuviensach.vn CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Cơ sở lý luận Văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam và mối quan hệ với văn hóa truyền thống ở Việt Nam là một đề tài thuộc mảng nghiên cứu kết hợp địa văn hóa và sử văn hóa. Cả hai góc nhìn này được đặt dưới lăng kính văn hóa so sánh. 1.1.1. Nghiên cứu từ góc nhìn đa văn hóa kết hợp với sử văn hóa Hướng nghiên cứu này chủ yếu được thực hiện theo hai góc nhìn, gồm địa văn hóa và sử văn hóa, tức nghiên cứu kết hợp giữa trục tung và trục hoành (ở chừng mực nhất định là nghiên cứu kết hợp đồng đại và lịch đại). Cả hai góc nhìn này luôn được tuân theo nguyên lý tương đối luận văn hóa (cultural relativism), không đồng thuận với quan điểm “dĩ Hoa vi trung” (Sinocentrism), cũng như không rơi vào chủ nghĩa vị chủng (ethnocentrism). a. Nghiên cứu vấn đề theo góc nhìn địa văn hóa Ở góc nghiên cứu địa văn hóa, chúng tôi đi từ cách tiếp cận địa lý để bàn về nguồn gốc hình thành, phát triển và lan tỏa văn hóa trong không gian địa lý, quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa của một hoặc vài nhóm tộc người thuộc cùng một khu vực văn hóa hay giữa các khu vực văn hóa với nhau. Luận án đặc biệt vận dụng các lý thuyết văn hóa vùng và liên quan đến văn hóa vùng, tiêu biểu là lý thuyết vùng văn hóa, lý thuyết loại hình kinh tế – văn hóa và lý thuyết sinh thái văn hóa. Lý thuyết vùng văn hóa (cultural area) giúp nhận diện đặc trưng văn hóa của con người trong quá trình lịch sử và trên một vùng không gian cụ thể, giúp phân biệt văn hóa vùng này với vùng khác, qua so sánh sẽ tìm ra những nét tương đồng (nét chung của vùng) và dị biệt (nét riêng của từng tiểu vùng, nhóm tộc người). Trong nghiên cứu vùng văn hóa, tập hợp nhiều yếu tố mang tính đặc trưng cho toàn vùng được chọn làm cơ sở để khảo sát. Trong số các đặc trưng ấy, “típ đặc trưng cho vùng” [Ngô Đức Thịnh 2004] là hạt nhân cơ bản, góp phần tạo nên những sắc thái riêng cho vùng văn hóa. Nghiên cứu theo hướng này, chúng ta có thể thấy được dấu ấn văn hóa của con người, các sắc thái văn hóa đa dạng của các vùng, của các tộc người, quy luật hình thành và https://thuviensach.vn biến đổi của văn hóa trong các môi trường không gian địa lý nhất định, đồng thời còn tìm thấy được cả con đường và các phương thức giao lưu, ảnh hưởng văn hóa qua lại giữa các vùng (xem thêm Khoa Nhân học [2008: 108]). Áp dụng vào đề tài luận án, lý thuyết này giúp phân định khu vực văn hóa Bách Việt với các khu vực văn hóa khác cùng thuộc vùng Á Đông (như Hoa Hạ Hán, Nam Đảo v.v.), đồng thời còn giúp xác định đặc trưng riêng của văn hóa Bách Việt tại Lĩnh Nam (một bộ phận của văn hóa Bách Việt) và văn hóa Lạc Việt (một bộ phận của văn hóa Lĩnh Nam). Song hành với lý thuyết vùng văn hóa là lý thuyết loại hình kinh tế – văn hóado C.L.Wisler và một số nhà khoa học khác phát triển trên nền tảng cơ bản của cách tiếp cận địa văn hóa. Các tác giả lựa chọn một tập hợp những đặc trưng tạo nên kiểu loại (type) hay loại hình văn hóa vùng. Trên cơ sở ấy, một số nhà khoa học Xô-viết những năm 1930 (đại diện là N.N. Cheboksarov) phát triển thành thuyết loại hình kinh tế-văn hóa, tiến hành phân loại văn hóa thế giới vào ba loại hình chính, gồm (1) loại hình kinh tế văn hóa săn bắt, hái lượm và đánh cá; (2) loại hình kinh tế văn hóa nông nhiệp dùng cuốc và chăn nuôi; và (3) loại hình kinh tế văn hóa nông nghiệp dùng cày với sức kéo động vật. Đối chiếu vào đối tượng nghiên cứu của luận án, chúng tôi dễ dàng xác định văn hóa Bách Việt được loại xếp vào hình thứ hai, từ đó tiến tới nhận diện một số dấu hiệu quan trọng của kiểu thức (type) kinh tế-văn hóa của nền văn hóa này cũng như từng vùng, từng tiểu vùng của nó. Cách tiếp cận đi từ ngoài vào trong giúp nhận diện và nhấn mạnh các yếu tố mang tính đặc thù của văn hóa Lạc Việt, giúp lý giải nguyên do, động lực và phương thức phát triển văn hóa Lạc Việt thành văn hóa truyền thống ở Việt Nam trong khi văn hóa Bách Việt ở các vùng khác đã dung hòa vào văn hóa Hán. Thứ ba là lý thuyết tân tiến hóa luận gắn với môi trường sinh thái, hay còn gọi là lý thuyết sinh thái văn hóa (cultural ecology). Tiêu biểu là J. Steward (1902- 1972), người nhấn mạnh mối quan hệ giữa một nền văn hóa và môi trường của nó. Theo đó, văn hóa được cho là có một mối quan hệ sáng tạo và năng động giữa văn hóa và môi trường. Các nền văn hóa, vùng văn hóa có thể tiến hóa theo con đường riêng của mình dưới tác động của nhiều yếu tố, trong đó môi trường sinh thái đóng vai trò quan trọng. Những biến đổi xã hội bên https://thuviensach.vn trong một nền (vùng) văn hóa mang tính chất tiến hóa phải bắt đầu từ sự thích nghi với môi trường để biến thành một nền văn hóa tĩnh. “Một tập hợp của những nét tạo nên hạt nhân của nền văn hóa” đóng vai trò quan trọng, chúng nảy sinh như hậu quả thích nghi của nền văn hóa đối với môi trường và xác định độ hòa nhập giống nhau của chúng (xem thêm Khoa Nhân học [2008: 28- 29, 221]). Bách Việt là một khu vực văn hóa phân bố rộng theo không gian và đa dạng về tính chất trong cái phổ chung đặc thù của nó (tính đa dạng và tính thống nhất). Việc đi tìm dấu vết của văn hóa Bách Việt trong nguồn cội văn hóa Việt Nam phải bắt đầu từ việc khoanh vùng không gian văn hóa (không gian sinh tồn của một nền văn hóa) với điều kiện môi sinh gần gũi nhất (đồng bằng Bắc Bộ và vùng núi xung quanh, xa hơn là toàn bộ Lĩnh Nam). Chính vì thế, việc phân định đặc trưng sinh thái và ảnh hướng của nó đến văn hóa cấp vùng giúp làm nổi bật cái riêng của cả vùng Lĩnh Nam, làm nền tảng để đi sâu vào phân biệt theo cấp tiểu vùng, nhấn mạnh đặc điểm sinh thái từng địa phương, làm cơ sở quan trọng trong việc nhận diện đặc trưng tộc người, đặc trưng quá trình lịch sử – xã hội, góp phần lý giải sự phân lập văn hóa truyền thống ở Việt Nam trong đại gia đình văn hóa Lĩnh Nam. Có thể thấy ba lý thuyết nói trên đều trực tiếp hoặc gián tiếp bàn đến loại hình văn hóa. Loại hình văn hóa được xác định thông qua các phẩm chất, đặc trưng chung của nền văn hóa. Ở một phạm vi không gian nhất định, các nhà nghiên cứu đều có thể xác định loại hình văn hóa thông qua các phẩm chất, đặc trưng, và thường được nhận diện thông qua so sánh với các khu vực lân cận. Tác giả Ngô Đức Thịnh [2004] cho rằng loại hình văn hóa là “típ đặc trưng cho vùng”, là hạt nhân cơ bản, góp phần tạo nên những sắc thái riêng cho vùng văn hóa. Theo Trần Ngọc Thêm [2001], cả lục địa Á-Âu có thể được phân thành ba vùng với ba kiểu loại hình văn hóa, gồm (1) vùng văn hóa gốc nông nghiệp lúa nướcĐông Nam Á cổ; (2) vùng văn hóa mang kiểu loại hình bán nông bán du, có thể chia nhỏ thành hai khu vực là Đông Bắc Á trọng thế tục (2a) và Tây Nam Á, Nam Á trọng tâm linh (2b), và 3) vùng văn hóa gốc du mục, thương https://thuviensach.vn mại phương Tây (xem hình 1.1). Khi đi vào từng vùng cụ thể, ta vẫn có thể xác định được cả ba loại hình này. Ứng dụng vào khu vực Đông Á, chúng tôi tiến hành phân loại hình văn hóa khu vực Đông Á thành hai kiểu chính, bao gồm loại hình văn hóa gốc nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á cổ và loại hình văn hóa gốc kết hợp nông nghiệp khô và du mục Đông Bắc Á. Tác giả Trần Ngọc Thêm [2001] thì gắn hai loại hình này với hai đặc tính lần lượt là văn hóa trọng tĩnh và văn hóa trung gian song thiên về trọng động. Khái niệm trọng tĩnh hay trọng động được hiểu trong khung văn hóa Á Đông: H.1.1. Các vùng văn hóa ở lục địa Á – Âu [Trần Ngọc Thêm 2001] Bảng 1.1. So sánh loại hình văn hóa Đông Nam Á và Đông Bắc Á [Trần Ngọc Thêm 2001] https://thuviensach.vn Theo cách phân chia này, văn hóa Bách Việt thuộc phạm vi Đông Nam Á cổ, vì vậy nó mang đầy đủ các đặc trưng cơ bản của loại hình gốc nông nghiệp lúa nước. Luận án còn sử dụng các cách tiếp cận của lý thuyết giao lưu, tiếp biến văn hóa (acculturation), cộng sinh văn hóa (cultural co-existence) v.v. nhằm bổ trợ cho việc chứng minh, phân tích, giải thích các luận điểm, luận cứ cụ thể. b. Nghiên cứu vấn đề từ góc nhìn sử văn hóa Đứng ở góc nhìn sử văn hóa, luận án tập trung nghiên cứu quá trình phát triển lịch sử của văn hóa và quy luật cơ bản của nó. Trong nhiều trường hợp, nghiên cứu văn hóa không thể tách rời nghiên cứu sử văn hóa. Franze Boas (1858-1942) từng nói “văn hóa của mỗi dân tộc được hình thành trong quá trình lịch sử gắn liền với môi trường xã hội nhất định và trong điều kiện địa lý nhất định” [Khoa Nhân học 2008: 24]. Với đặc trưng đề tài liên quan đến tính chất “nhất nguyên nhị phân” của văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam, ngoài việc quan tâm đặc biệt đến khía cạnh văn hóa nhìn theo không gian, chúng tôi cũng coi trọng ý nghĩa chi phối của các quá trình phát triển lịch sử văn hóa từng bộ phận. Sự phân lập của văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam thành văn hóa truyền thống ở Hoa Nam và văn hóa truyền thống ở Việt Nam chịu sự quy định chung của cả yếu tố loại hình văn hóa lẫn các điều kiện lịch sử – xã hội. Nghiên cứu vấn đề từ góc nhìn sử văn hóa sẽ góp phần minh chứng sự tồn tại và tác động của các vận động văn hóa qua các thời kì lịch sử, trong đó chú trọng đến sự giao thoa, tương tác, tranh chấp và giải tranh chấp giữa đối tượng nghiên cứu (văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam) và các “đối tác” (văn hóa Hoa Hạ- Hán, văn hóa các cư dân còn lại ở Đông Nam Á cổ), qua đó kiểm chứng tính chất chi phối của loại hình văn hóa đến sự hình thành diện mạo văn hóa truyền thống ở Việt Nam và phần đất Lĩnh Nam nay thuộc Trung Hoa. Sự phối hợp các bình diện quan sát không gian văn hóa và lịch sử văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam, đứng ở khía cạnh phương pháp luận, còn giúp tránh đi vào lối mòn địa lý quyết định luận(xem thêm Ngô Đức Thịnh [2004]) và tuyệt đối hóa vai trò lịch sử xã hội. Chính vì thế, trong các phần nội dung triển khai liên quan đến việc xác định một vùng văn hóa, tiểu vùng văn hóa hay khu vực văn hóa, chúng tôi đều bám https://thuviensach.vn sát các mô thức mang tính đặc trưng của vùng văn hóa nhìn theo không gian để làm nền tảng để lý giải cho tồn tại và phát triển văn hóa gắn liền với chủ thể và trong những hoàn cảnh lịch sử – xã hội cụ thể. Theo chiều dài lịch sử – xã hội, vùng văn hóa Lĩnh Nam (cũng như toàn Bách Việt) chịu sự thâm nhập của văn hóa Hoa Hạ – Hán từ phương Bắc. Điều này làm cho các tiểu vùng khác nhau của Lĩnh Nam vận động văn hóa theo các chiều hướng khác nhau, dần hình thành các dòng chảy văn hóa chuyên biệt (cụ thể là văn hóa Nam Trung Hoa và văn hóa Việt Nam). Nói cách khác, đây là xu hướng nghiên cứu song song hai đối tượng văn hóa “nhất nguyên nhị phân”, trong đó lấy yếu tố loại hình văn hóa làm cơ sở, đồng thời coi trọng các vấn đề kinh tế, địa lý, xã hội, lịch sử v.v., các tác nhân tạo nên sự khác biệt giữa hai bộ phận. Và do vậy, tri thức liên ngành phải được áp triệt để để đạt tính chỉnh thể trong nghiên cứu. Trong lý thuyết lịch sử văn hóa của mình, Hippolyte Taine (1828-1893)[10] từng nhấn mạnh vai trò của ba động lực làm nên sự biến thiên văn hóa giữa các cộng đồng tộc người gồm (1) chủng tộc, (2) môi trường) và (3) thời điểm (xem Đỗ Lai Thúy [2002: 64-73]). Tuy nhiên lý thuyết này nếu không áp dụng chính xác sẽ dẫn đến sự nhấn mạnh vai trò tuyệt đối của lịch sử – xã hội mà bỏ qua vai trò nội tại của nền văn hóa hình thành trong quá trình tương tác với môi trường sống. Chúng tôi tránh khuyết điểm này bằng cách triển khai thác triệt để sự kết hợp của các lực chi phối của yếu tố môi trường với chủ thể và thời điểm để xác định quy luật phát triển của văn hóa Bách Việt ở trường hợp cụ thể là văn hóa truyền thống ở Việt Nam trong bối cảnh Lĩnh Nam. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng thêm cách tiếp cận đặc thù luận lịch sử(historical particularism), tức xem xét những nét văn hóa riêng lẻ trong bối cảnh xã hội mà nó xuất hiện nhằm bổ trợ cho các phân tích tình huống. 1.1.2. Nghiên cứu từ góc nhìn văn hóa so sánh Trong nghiên cứu văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam, ta không thể không đặt đối tượng nghiên cứu ở cấp độ cao hơn, quy mô rộng lớn hơn là khu vực văn hóa Bách Việt. Điều đó có nghĩa là góc nhìn văn hóa so sánh trong cần phải được chú ý. https://thuviensach.vn Ngạn ngữ cổ có câu “mọi vật đều được nhận biết qua so sánh”. Tác giả Chương Học Thành (章学诚) từng nói “Vạn vật có phong phú mới là văn của vạn vật, vạn sự có so sánh mới thấy chủng loài”[11]. Một tác giả khác là Phương Hán Văn [2003] từng viết “Văn hóa so sánh là khoa học tiến hành nghiên cứu so sánh các loại hình văn hóa khác nhau, ở đó, khái niệm các loại hình văn hóa khác nhau chỉ các dân tộc khác nhau, các khu vực khác nhau, các quốc gia khác nhau có truyền thống văn hóa, đặc tính văn hóa, lịch sử phát triển văn hóa và hình thái văn hóa khác nhau. Đặc tính của văn hóa học so sánh là thông qua nhận thức biện chứng giữa tính đồng nhất và tính dị biệt (còn gọi là tính sai dị) giữa các nền văn hóa khác nhau ấy có thể phát hiện, nắm bắt được quy luật phát triển của văn hóa. Văn hóa so sánh là khoa học nghiên cứu coi so sánh ý thức, so sánh phương thức tư duy và phương pháp so sánh là đặc trưng chứ không phải là so sánh hình thức. Đây chính là sự thống nhất giữa bản thể luận, phương pháp luận và thực tiễn của văn hóa học so sánh”. Trong nghiên cứu văn hóa so sánh hẳn nhiên đã có tính xuyên văn hóa (cross culture). Trong văn hóa so sánh, không gian, thời gian và chủ thể văn hóa (tộc người/nhóm tộc người chủ thể của một nền văn hóa) là các đối tượng nghiên cứu chính. Để làm rõ nội dung, luận án này tập trung so sánh các “mô típ đặc trưng vùng” (theo cách nói của Ngô Đức Thịnh [2004]) giữa văn hóa Bách Việt và các khu vực lân cận do các yếu tố điều kiện môi sinh – điều kiện kinh tế truyền thống và quá trình lịch sử – xã hội quy định nên. Theo cách phân chia này, ta lại có hai tiểu loại nghiên cứu khác nhau, gồm (1) so sánh loại hình; và (2) so sánh lịch sử. Các xu hướng nghiên cứu này ít nhiều được các tác giả trên thế giới triển khai theo và bước đầu đạt được những thành quả đáng khích lệ. Toynbee trong bộ Nghiên cứu lịch sử (2002) qua quá trình nghiên cứu lịch sử các xã hội, đặc biệt là các nền văn minh trọng tâm của thế giới (Hy Lạp cổ, Ai Cập cổ, Do Thái cổ, Ấn Độ và Trung Hoa v.v.) triển khai nhiều trường hợp so sánh các tổ hợp văn hóa kiểu “nhất nguyên đa phân”. Chẳng hạn, đó là trường hợp sự phân lập văn hóa chủng Ấn-Âu trong văn hóa châu Âu, Ba Tư và Ấn Độ thời cổ đại; sự phân lập các nền văn hóa bản địa ở Bắc Mỹ – Trung Mỹ – Nam Mỹ thời cổ- https://thuviensach.vn trung đại; sự phân lập Kitô giáo thành Công giáo La Mã và Chính thống giáo thời đầu CN; sự phân lập của các giáo phái Hồi giáo ở bán đảo Arập, vùng Lưỡng Hà, Ba Tư và Bắc Phi từ tk. VII về sau; sự tan rã của đế quốc Ottoman thời trung cổ và sự hình thành tính đa dạng của dòng văn hóa này trải rộng theo không gian v.v.. Trong tất cả các trường hợp ấy, tác giả nhấn mạnh vai trò tương tác của hai yếu tố môi trường sinh thái và quá trình lịch sử – xã hội cụ thể. Tại khu vực bắc Đông Nam Á, sự đa phân văn hóa của cộng đồng người Tày- Thái gốc Bách Việt sau quá trình thiên di từ cao nguyên Vân Quý xuống đã từng là tâm điểm nghiên cứu của không ít các tác giả. Các công trình tập trung nhiều nhất vào mảng so sánh văn hóa dân gian (thần thoại, sử thi, thơ ca) của các cộng đồng Lào, Lào-Thái (ở Lào), Thái, Choang (Trung Quốc), Thái Shan (Miến Điện), Thái Ahom, Thái Khăm-ti (Ấn Độ), Thái Tây Bắc, Tày, Nùng (Việt Nam), Thái Yuan, Thái-Siêm (Thái Lan) v.v. Các tác giả đi từ nhiều cách tiếp cận khác nhau so sánh các dị bản truyền khẩu của một dang thức cụ thể, qua phân tích so sánh đã tìm ra quá trình hình thành, thiên di của cộng đồng Tày-Thái vào cuối thiên niên kỷ I sau CN và quá trình thích nghi, hòa nhập của họ ở nơi ở mới (Đông Nam Á). Tác giả Phan Đăng Nhật [2010] dùng lý thuyết hóa thạch ngoại biên để tiến hành nghiên cứu so sánh bộ sử thi Chàng Chương anh hùng (Khủn Chưởng, Khun Chương, Thạo Hùng) của cư dân Thái Tây Bắc, Thái tây Nghệ An (Việt Nam) và Lào-Thái (đông bắc Lào) đã chứng minh sống động lịch sử thiên di của cộng đồng này từ Vân Nam xuống phía nam, cùng mang theo bộ sử thi, song tại khu vực trung tâm hoặc gần trung tâm, bộ sử thi có xu hướng giản lược hóa, trong khi bộ phận cư dân di cư sâu về phía ngoại diên lại bảo tồn gần như nguyên vẹn. Trong những năm gần đây, người Trung Quốc xây các đập thủy điện lớn tại Vân Nam đã trực tiếp ảnh hưởng đến điều kiện môi sinh và văn hóa các cộng đồng cư dân trung hạ lưu sông Mê- kông, xu hướng nghiên cứu so sánh nguồn cội các cộng đồng hậu duệ Bách Việt (Tày-Thái-Lào-Choang-Việt) và Môn-Khmer (Môn, Khmer, Kui, Mnông v.v.) lại trở nên rất sôi nổi. Nhiều hội thảo quốc tế được mở ra (ví dụ hội thảo châu Hồng Hà tháng 11/2010 (Vân Nam, Trung Quốc); hội thảo so sánh văn hóa Lan Thương-Mê- kông (tháng 12/2010, Tp. Hồ Chí Minh) và nhiều hội nghị tương tự được mở ở Thái Lan, Campuchia đã phần nào nói lên https://thuviensach.vn thực trạng ấy. Các nghiên cứu trong các hoạt động này, theo chúng tôi, có ý nghĩa đặc biệt bởi chúng đã góp phần so sánh đặc trưng văn hóa của các cộng đồng cư dân hậu duệ Bách Việt tại Nam Trung Hoa và Đông Nam Á lục địa, qua đó đã ít nhiều nhấn mạnh đến vai trò của môi sinh và lịch sử xã hội khác nhau ở từng địa phương đã góp phần “đúc khuôn” các phong cách văn hóa chuyên biệt. Ở Trung Quốc, hầu như không có công trình chuyên khảo nào tiến hành nghiên cứu so sánh tổng thể các dòng chảy hậu duệ của văn hóa Bách Việt dưới góc nhìn xuyên văn hóa. Từ thập niên 1980 đến nay, họ đã xuất bản hàng chục sách chuyên khảo nhưng đại đa số đều là nghiên cứu các vấn đề lịch sử, kinh tế, văn hóa Bách Việt ở bên trong lãnh thổ của họ (xem Tài liệu tham khảo). Dù vậy, ta vẫn có thể tìm thấy một ít bài viết (sách chuyên khảo) tiến hành so sánh văn hóa truyền thống của các dân tộc hậu duệ Bách Việt ở Nam Trung Hoa như Choang, Đồng, Thái, Bố Y.. với các tộc người bản địa ở đảo Đài Loan hay với các dân tộc nhóm Tày-Thái ở Đông Nam Á như Tày, Nùng ở Việt Nam Shan ở Lào, Thái Lan hay Miến Điện v.v.. Tiêu biểu là Tạ Thế Trung [2004] với cuốn Luận thuật quốc tộc: Trung Quốc với bối cảnh Bắc Đông Nam Á, tìm hiểu phân tích so sánh các cổ tục Bách Việt như phụ tử liên danh (bố con nối họ, nối tên), tùng mẫu cư (ở nhà vợ, matrilocal), tùng thê mẫu cư (ở nhà mẹ vợ, sororalocal), tùng cữu cư (ở nhà cậu, avuculocal) v.v., nhất trí với quan niệm coi trọng môi trường sinh thái là nền tảng để con người xây dựng cấu trúc xã hộivà tư tưởng của mình. Dù vậy, tác giả này đứng ở góc nhìn dân tộc học trong nghiên cứu, trong đó tập trung chủ yếu ở mối quan hệ “Hoa-Di hợp nhất” bắt đầu từ thời Tần-Hán trở về sau. Đại đa phần các công trình nghiên cứu so sánh văn hóa Bắc – Nam lấy phối cảnh Nam Trung Hoa đều lấy tộc người Hoa Hạ-Hán làm trung tâm. Tiêu biểu có thể kể công trình Địa lý lịch sử, nhân văn Lĩnh Nam: nghiên cứu so sánh các hệ dân Quảng Phủ, Khách Gia và Phúc Lão của Tư Đồ Thượng Kỷ [2001]. Tác phẩm này lấy chất nhất nguyên của văn hóa Trung Nguyên trong văn hóa các hệ dân người Hán ở Hoa Nam (cụ thể là Quảng Phủ, Khách Gia và Phúc Lão) và tính tương đồng của điều kiện môi sinh Hoa Nam làm nền tảng https://thuviensach.vn để nghiên cứu so sánh văn hóa trong các bối cảnh lịch sử – xã hội riêng của từng nhóm. Đương nhiên, cách tiếp cận chính là lịch sử văn hóa. Nhìn xa hơn lên phía Bắc, những công trình nghiên cứu so sánh mối quan hệ văn hóa các tộc trên cao nguyên Mông Cổ và người Hoa Bắc cũng rất sôi nổi, nhất là khía cạnh chất du mục hay bán nông bán du của các cộng đồng tộc người nơi đây. Nhà văn Khương Nhung với tiểu thuyết Tô-tem sói (狼图腾 Lang đồ đằng) là một thí dụ điển hình, đã mạnh dạn kết luận tính chất du mục phương Bắc của văn hóa Hoa Hạ – Hán thời kỳ tiền Nam tiến. Các công trình nghiên cứu này đặc biệt có ý nghĩa đối với chúng tôi, bởi chúng cung cấp một bức tranh đối trọng với văn hóa Bách Việt, nhờ thế các luận điểm, luận cứ được triển khai mang tính thuyết phục hơn. Sự thay đổi hoặc sự khác nhau về điều kiện môi sinh và lịch sử – xã hội dẫn đến sự biến thiên của nếp tư duy và cơ cấu xã hội. Trong trường hợp văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam, sự khác biệt về điều kiện địa lý sinh thái giữa đồng bằng sông Hồng và vùng Lưỡng Quảng là một trong các nhân tố quan trọng dẫn đến tính dị biệt trong nguồn cội văn hóa. Trong quá trình sinh tồn, các cộng đồng Bách Việt tại hai địa phương này tiếp tục tự điều chỉnh để thích nghi tốt nhất với điều kiện phát triển lịch sử xã hội mỗi bên. Cuối cùng, hai dòng văn hóa khác biệt nhau hình thành từ một nguồn gốc chung: văn hóa truyền thống ở Việt Nam và vùng văn hóa Hoa Nam. Nhiều sự kiện lịch sử gắn liền với các cuộc chiến tranh xâm lược và cai trị đã dần che khuất yếu tố nguồn cội. Như một hệ quả tất yếu, người Hoa Nam đã không còn nhớ nổi một bộ phận tổ tiên họ đã từng là người Bách Việt, và dòng chảy văn hóa Hoa Nam mà họ đang thụ hưởng mang đậm màu sắc Bách Việt. Trong nghiên cứu văn hóa so sánh, loại hình văn hóa cũng là một trong những mảng nội dung quan trọng. Loại hình văn hóa được tiến hành phân loại dựa vào căn nguyên lịch sử và văn minh của văn hóa, đặc trưng văn hóa chủ yếu và mối quan hệ giữa nó với các nền văn hóa khác. Tác giả đại diện cho xu hướng nghiên cứu này là nhà nghiên cứu Spengler (1880-1936) trong tác phẩm Sự suy tàn của thế giới phương Tây. Các tác giả về sau chịu ảnh hưởng của Spengler phải kể đến Toynbee (trong Nghiên cứu lịch sử) và Samuel Hungtington (1927-2008, trong Sự va chạm giữa các nền văn minh) trong việc https://thuviensach.vn phân định các hình thái văn hóa thế giới và mối quan hệ tương tác giữa chúng. Có thể nói, việc tiến hành so sánh loại hình văn hóa giữa hai đối tượng khác nhau đã được nhiều tác giả đặt nền tảng quan trọng. Do vậy, hướng triển khai so sánh hai đối tượng chia sẻ cùng một căn nguyên văn hóa không phải là điều quá mới mẻ, song như chúng tôi đã nhấn mạnh, việc áp dụng nó vào nghiên cứu căn nguyên văn hóa Việt Nam chưa từng có tiền lệ. 1.2 Cơ sở thực tiễn Trong phần này chúng tôi tiến hành định vị văn hóa vùng Lĩnh Nam theo tục không gian, thời gian và chủ thể để làm nền tảng tiến tới nghiên cứu nội hàm và các mối quan hệ bên trong và bên ngoài của vùng văn hóa này. 1.2.1. Văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam nhìn theo không gian a. Về các khái niệm Bách Việt, Lĩnh Nam (1) Khái niệm Bách Việt Tên gọi Bách Việt (百越) xuất hiện lần đầu tiên trong cuốn Lã Thị Xuân Thu(Hoài Quân) “Dương Hán chi nam, Bách Việt chi tế..” (杨汉之南,百越 之际..), dùng để chỉ cộng đồng nhiều nhóm cư dân nông nghiệp người Việt cư trú từ vùng Dương Tử xuống đến tận Bắc Đông Dương thời kì tiền-sơ sử. Cuốn Hán Thư (Cao Đế Kỷ) viết “Việt hữu bách chủng” (Người Việt có đến trăm chủng 越有百种). Cuốn Hán Thư (Địa Lý Chí) dẫn: “Từ Giao Chỉ đến Cối Kê, hơn bảy, tám ngàn dặm, người Việt ở lẫn với nhau, mỗi nhóm đều có chủng tính riêng của mình”. Thời ấy, các sử quan phương Bắc sử dụng nhiều tên gọi mang ý nghĩa phiếm diện để gọi cộng đồng này như Nam Man (南蛮), Tam Miêu (三苗) hay Miên Man (苗蛮). Cuốn Dật Chu Thư (thiên Vương Hội Giải) có ghi chép rằng từ thời Thương Thang, vùng phía đông đã có nhiều nhóm người Thù Châu (仇州), Cửu Di (九夷), Thập Man (十蛮), Việt Âu (越 沤).. cư trú, còn hướng nam lại có Âu (瓯), Đặng (邓), Quế Quốc (桂國), Tổn Tử (损子), Sản Lí (产里), Bách Bộc (百濮), Bách Khuẩn (百菌) sinh sống. Tất cả các sử liệu này đều làm nổi bật một nhận định chung: Bách Việt là một cộng đồng cư dân đa dạng, sinh sống vùng đông nam và nam hạ lưu sông Dương Tử. https://thuviensach.vn Thời Tây Chu còn có cuốn Trúc Thư Kỷ Niên (Bamboo annals) có ghi sự kiện “Vu Việt lai tân” (于越来宾, Khách Vu Việt đến viếng) vào năm thứ 24 đời vua Chu Thành Vương, tức khoảng 1040 trCN [Tưởng Bính Chiêu.. 1998: 2]. Người Trung Hoa còn gọi cộng đồng Bách Việt bằng hai tên gọi khác là Dương Việt và Di Việt. Cuốn Chiến Quốc Sách có ghi sự kiện Ngô Khởi “Nam công Dương Việt” (tấn công Dương Việt phía Nam) thời Sở Điệu Vương (楚悼 王). Cuốn Sử Ký cũng viết “Từ Cửu Nghi, Thương Ngô đến dân Đạm Nhĩ phía nam có phong tục giống với vùng nam Dương Tử, đều là dân Dương Việt”[12], thiên Thái Trạch Truyện 蔡泽传 cũng có viết “Nam thu Dương Việt”… Tại Trung Quốc còn có thuyết cho tên gọi Bách Việt (Bai’yue) xuất phát từ ngôn ngữ Việt cổ, theo đó “Bách” (Bai) là âm đọc lệnh đi của từ “Bu” hoặc “Pu”, tức “người”, do vậy Bách Việt chính là “người Việt” [Tăng Chiêu Toàn.. 2004: 23- 33]. Bên cạnh cũng có quan điểm cho tên gọi Bách Việt là phiếm định, chỉ chung chung các cộng đồng phi Hán ở phía nam sông Dương Tử. Cơ sở của thuyết này là từ “Bách”, tức trăm, dùng để diễn tả số nhiều, và do vậy “Bách Việt” là để chỉ nhiều cộng đồng sắc tộc khác nhau chứ không phải chỉ một cộng đồng chung. Đến nay, thuyết này có rất ít tác giả đồng thuận, bởi vì các khoa học chuyên ngành trong suốt mấy thập niên qua đã dần giải mã Bách Việt, xác định khá hoàn chỉnh diện mạo văn hóa tập đoàn này. Ngoài tên gọi Bách Việt, Di Việt, Dương Việt gọi chung, sử sách Trung Hoa còn gọi tên một số vùng đất (bộ bộc) hay quốc gia phương Nam bằng các tên 符 娄,Thù Châu (仇州),Âu Thâm (沤深),Cửu Di (九夷),Thập Man (十 蛮), Việt Âu (越沤),Âu Đặng (瓯邓),Quế Quốc (桂国),Tổn Tử (损 子),Sản Lý (产里),Cửu Khuẩn (九菌) v.v.. Luận án chúng tôi không nhằm đi vào các tên gọi này mà xem xét cộng đồng Bách Việt dưới hệ thống phân vùng và tiểu vùng dựa vào các tiêu chí vị trí địa lý và đặc trưng văn hóa tộc người. Theo Meacham [1983: 148-149] và nhiều nhà khoa học khác, cộng đồng Bách Việt nằm ngoài vùng văn minh Trung Hoa, do vậy Bách Việt không tham gia trực tiếp vào sự ra đời của “văn minh Trung Hoa cổ đại”. https://thuviensach.vn H.1.2. Mô hình rìu lưỡi xéo có cán, chữ “Việt” nguyên thủy mô phỏng hình rìu lưỡi xéo khắc trên trống đồng [Trần Ngọc Thêm 2001] H.1.3. Hình người cầm rìu nhảy múa khắc trên trống đồng [Trần Ngọc Thêm 2001] Bản thân từ “Việt 越” là tên gọi do người phương Bắc đặt ra. Đông đảo giới học thuật thống nhất chung rằng từ “Việt” xuất phát từ hình ảnh cái rìu (戉 /yue/, rìu đá, rìu đồng – hình 1.2-3), một di vật văn hóa độc đáo của người Việt cổ, nên người Hoa Hạ – Hán dùng từ này để chỉ người Việt, sau biến thể thành Việt (越/yue/). Hiện có nhiều ý nghĩa được lý giải từ “Việt” (戉), cụ thể gồm lưỡi cày, bôn đá có tay cầm, cái rìu (loại rìu mặt phẳng có khoét lỗ) v.v.. Một số dân tộc được cho là hậu duệ Bách Việt hiện vẫn còn dùng tộc danh là Yue (Việt). Ngoài người Việt (Kinh) ở Việt Nam, người Choang (Trung Quốc) tự gọi mình là Bố Việt (布越 = người Việt). Người Bố Y tự xưng là Bu Yuei, trại âm từ Bu Yue(người Việt), đồng thời gọi sấm sét là “Yei” (biến âm của từ “Việt”, xuất phát từ niềm tin “Lôi công dùng rìu tạo ra sấm sét” [Vương Văn Quang 2007: 44]. Ngoài từ Việt (越), từ thời kì người Hán vượt Ngũ Lĩnh trở về sau xuất hiện thêm từ Việt bộ Mễ (粤) để phân biệt người Việt vùng này với bộ phận nam Dương Tử, đặc biệt dùng nhiều trong cuốn Hán Thư. Theo chúng tôi hai chữ này tuy khác nhau về cách viết, song lại là hai từ đồng âm, đồng nghĩa, song ở đây cũng cần khu biệt rằng, từ Việt (越) thường được dùng để chỉ (1) cộng đồng người Việt ở vùng Dương Tử – Lĩnh Bắc; và (2) sau này để chỉ người Việt nói chung ở Lĩnh Nam. https://thuviensach.vn Từ Việt (戉) hiện có các cách kiến giải sau: . “Việt” (戉 = rìu) là “hoa” (铧 = lưỡi cày). Giới khảo cổ Trung Hoa lấy các mảnh đá mài ba góc ở di chỉ văn hóa Lương Chử làm dấu hiệu nhận diện văn hóa Việt. Sách Việt Tuyệt Thư có ghi khi người Vu Việt tấn công Ngô Cung có dùng lưỡi cày. Về sau, từ “việt”(戉) chỉ “lưỡi cày” (铧) được dùng để gọi người Việt. . “Việt” (戉) là bôn đá có tay cầm. Người Việt sớm sử dụng các loại bôn đá, nhất là loại bôn có tay cầm, giống như người Hoa Hạ phương Bắc dùng rìu đá vậy. . “Việt” (戉) là rìu (斧). Sách Thuyết Văn Giải Tự có viết ““việt”, là loại rìu” (戉. 斧也 Việt, phủ dã). La Hương Lâm [1943] cho rằng loại rìu “việt” (戉) người Việt cổ sử dụng có hình “phủ việt” (斧戉), là loại vũ khí hoặc nhạc khí. . “Việt” (戉) có mối tương quan với thạch bôn và thạch phủ (rìu đá) của người Việt cổ. Rìu đồng được phát triển từ “việt” (戉) bằng đá. Cả bôn đá (hình 1.4-5) và rìu đá đều là hai sản vật đặc biệt của văn hóa Bách Việt cổ. . “Việt” (戉) là loại rìu đá mặt phẳng có khoét lỗ. Di chỉ văn hóa Mã Gia Bang (马家滨) hay văn hóa Lương Chử (良渚文化) đều có nhiều phát hiện loại rìu này, dùng làm vũ khí hay lễ khí [Tưởng Bính Chiêu.. 1998: 13-16]. Người Bách Việt xưa được nhận diện thông qua hàng loạt các dấu hiệu quan trọng trong dân tộc học, khảo cổ học như: H.1.4. Bôn có nấc [Trần Ngọc Thêm 2004] https://thuviensach.vn H. 1.5. Bôn có tay cầm [Bảo tàng Quảng Tây 2006: 256] Trong văn hóa tinh thần: huyền thoại mang nét lưỡng hợp, nguyên lý Mẹ, thờ tổ tiên, tín ngưỡng đa thần, dùng thuyền rồng tế bái thủy thần, dùng kê bốc, xà bốc..; H.1.6. Thần Đồ và Uất Lũy trong văn hóa dân gian Nam Trung Hoa có nguồn gốc từ gà thần Bách Việt [www.sishu.cn] https://thuviensach.vn H.1.7. Li vẫn (xi vẫn) – một trong chín con của rồng, xuất thân từ tục thờ cá ngao vùng hạ lưu Dương Tử [Eberhard Wolfram 1968] Trong văn hóa tổ chức xã hội: tổ chức đời sống theo thôn làng, liên làng rồi lên nhà nước, làm nông nghiệp lúa nước, coi trọng vai trò phụ nữ..; Trong văn hóa vật chất: cắt tóc xăm mình (có nơi búi tóc), ở nhà sàn, thức ăn thiên về thủy sản, phụ nữ mặc váy, nhuộm răng đen (có nơi nhổ răng), thạo dùng thuyền và giỏi đi biển, chế tác đồ sứ mang hoa văn kỷ hà (geometric pottery, 几何 印纹陶), sử dụng bôn có nấc (rìu có mấu, stepped adze, 有段石 锛) và bôn có tay cầm (rìu có vai, shouldered adze, 有肩石锛), sính trân châu (vùng Hợp Phố – Lôi Châu ở Lĩnh Nam, khác với truyền thống sính kim ngọc phương Bắc), tả nhậm...[13] Các dấu hiệu trên đây chỉ mang tính tương đối và tính đại diện. Trên thực tế, cộng đồng Bách Việt đa dạng về nguồn gốc và văn hóa, lại cư trú trên địa bàn rộng với địa hình phức tạp, cho nên một số đặc trưng trên đây có thể đúng với vùng này nhưng có thể chưa chính xác với vùng khác. Chẳng hạn, chỉ rất ít địa phương có tục nhổ răng cửa hoặc có hình thức huyền táng trong phong tục chôn cất người chết v.v.. Thứ hai, các dấu hiệu trên đây có thể xuất hiện rải rác hoặc rộng khắp các khu vực còn lại ở Đông Nam Á, đặc biệt là khối Nam Đảo. Đến lúc ấy, ta lại phải sử dụng đến kết quả nghiên cứu ngôn ngữ học, nhân chủng học để tiếp tục https://thuviensach.vn khu biệt. Chẳng hạn, về mặt ngôn ngữ học, Bách Việt thuộc nhánh Nam Á, đa phần các cư dân Đông Nam Á còn lại nói các ngôn ngữ Nam Đảo, Tạng-Miến v.v.. Trong nhân chủng học hình thể, giới nghiên cứu vẫn có thể chỉ ra sự khác biệt tương đối về màu da, chiều cao, kích thước hộp sọ, hệ thống gen di truyền v.v.. H.1.8. Mộ gò (mộ thổ đôn) vùng hạ lưu Dương Tử [Tưởng Bính Chiêu.. 1998] H.1.9. Huyền táng ở Vũ Di Sơn [shehui.daqi.com] Cư dân Bách Việt cổ nói các ngôn ngữ mà giới khoa học hiện đại xác định thuộc hai nhánh Nam Á (Austro-asiatic) và Tày-Thái (Thái/Tai), cùng với khối Môn- Khmer và Nam Đảo (Austronesien), hợp thành chủng Đông Nam Á cổ (Indonesien). Có thuyết cho bên trong Bách Việt tiếp tục phân ra ba nhóm lớn, gồm nhóm Thái (Tày-Thái), nhóm Mèo-Dao, và nhóm Việt-Mường. Kim Định [1999] gọi là Âu Việt, Miêu Việt và Lạc Việt. Trần Ngọc Thêm [2001] bổ sung thêm https://thuviensach.vn Môn-Khmer thành nhóm thứ tư. Nguyễn Văn Ưu [2009] lại bỏ bớt nhóm Mèo Dao, Mon-Khmer nên chỉ còn hai nhóm lớn là nhóm Thái và nhóm Việt. Điều này rất phù hợp với kết quả nghiên cứu ADN mang nhiễm sắc thể Y ở tập đoàn Bách Việt cho thấy tập đoàn này mang vết tích di truyền học khởi nguồn đơn tuyến, theo đó Bách Việt có thể đã hình thành ở dải đất nay là Lĩnh Nam vào khoảng 4-5 vạn năm trước, về sau phân tán từ từ thành hai nhánh chính, gồm Đông Việt có trung tâm ở hạ lưu Dương Tử, và Tây Việt có trung tâm là vùng Tây Song Bản Nạp [Lý Huy 2002]. Bách Việt là cư dân nông nghiệp lúa nước với văn hóa đồ đá mới và văn hóa lúa nước xán lạn vào loại sớm nhất thế giới (Hà Mẫu Độ, Mã Gia Bang (hình 1.10)). Trong mối quan hệ so sánh với vùng Hoa Bắc, văn hóa Bách Việt thiên về nông nghiệp lúa nước, do vậy mang đầy đủ các đặc trưng cơ bản của văn hóa gốc nông nghiệp lúa nước: tư duy lưỡng phân, óc tổng hợp mạnh, lối sống hài hòa với thiên nhiên, tính cộng đồng và tính dân chủ cao trong lối sống tập thể, coi trọng tình cảm, dung hợp trong tiếp nhận văn hóa v.v.. Mối quan hệ văn hóa Bách Việt với văn hóa khối cư dân miền trung và miền nam bán đảo Đông Dương (khối Môn-Khmer) khá mật thiết, chủ yếu là giữa vùng Lĩnh Nam và Vân Quý của Bách Việt với vùng đất này (chương 3). Còn so với văn hóa khối Nam Đảo (Đông Nam Á hải đảo), văn hóa Bách Việt thiên về kiểu văn hóa lục địa, trong khi Nam Đảo cơ bản vẫn là cư dân nông nghiệp gắn với yếu tố biển cả. Trong nội bộ Bách Việt, nhánh phía đông bao gồm Ngô Việt, Mân-Đài và bộ phận đồng bằng ở Lĩnh Nam thiên về nông nghiệp châu thổ, còn nhánh phía tây, bao gồm Nhị Hồ, Vân-Quý và bộ phận vùng núi, thung lũng ở Lĩnh Nam chuyên nông nghiệp ven sông, thung lũng, đồi gò (ruộng bậc thang). Sau thời Hán, một số nhóm dân Việt bị đồng hóa thành người Hán. Một số nhóm khác phải chạy lên sinh sống vùng núi non hiểm trở, nhóm này được gọi chung là Sơn Việt (山 越). Tên gọi Sơn Việt xuất hiện sớm nhất là trong cuốn Hậu Hán Thư (thiên Linh Đế Kỷ): “Dân Sơn Việt vùng Đan Dương bao vây thái thú Trần Dần”. Sau đó, cuốn Tam Quốc Chí (thiên Ngô Chí) cũng có https://thuviensach.vn nhắc tới tên gọi Sơn Việt. Có thể thấy, đây là tên gọi chung của tập đoàn các nhóm cư dân hậu duệ Bách Việt qua quá trình xâm nhập và đồng hóa của người phương Bắc đã chạy lên núi trú nạn tạo thành. Vị trí văn hóa Mã Gia Bang (1), Hà Mẫu Độ (2), Đại Buộn Khanh (3), Đại Vấn Khẩu (4), và Ngưỡng Thiều (5) ở Đông Á [Chang Kwang-Chih 1999: 49] Xét theo không gian, chúng ta có thể dựa vào mật độ tập trung cư dân Bách Việt, tính chất đậm đặc của các đặc trưng văn hóa Bách Việt (đã nêu trên) để phân khu vực văn hóa Bách Việt cổ thành hai bộ phận, gồm bộ phận trung tâmvà bộ phận ngoại diên. Bộ phận trung tâm đến lượt nó phân thành 5 vùng văn hóa (xem hình 1.11), gồm: Ngô Việt: hạ lưu Dương Tử, vịnh Hàng Châu (nay thuộc các tỉnh Giang Tô, Chiết Giang và thành phố Thượng Hải của Trung Quốc); Nhị Hồ: vùng hồ Động Đình và hồ Phàn Dương (thuộc các tỉnh Hồ Nam, Giang Tây, An Huy và một phần tỉnh Hồ Bắc của Trung Quốc); Mân-Đài: nay là đất Phúc Kiến, quần đảo Bành Hồ và đảo Đài Loan; Vân-Quý: vùng cao nguyên thuộc hai tỉnh Vân Nam và Quý Châu Trung Quốc; https://thuviensach.vn Lĩnh Nam: nay là vùng đất thuộc các tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam thuộc Trung Quốc và Bắc Bộ Việt Nam. Các vùng văn hóa Bách Việt [vi.wikipedia.org] Bộ phận ngoại diên có thể phân thành ba vùng theo phân bố địa lý, gồm vùng Hoài Di (lưu vực sông Hoài), Ba Thục (Tứ Xuyên) và bắc Đông Nam Á lục địa (bên ngoài Vân-Quý). Công trình của chúng tôi tập trung chủ yếu vào phần văn hóa Bách Việt ở vùng Lĩnh Nam, và do vậy phạm vi khảo sát chỉ ở bộ phận trung tâm. (2) Khái niệm Lĩnh Nam Dãy Ngũ Lĩnh – phần kéo dài của rặng Himalaya vươn ra bờ biển Thái Bình Dương tại phía nam Phúc Kiến bắc Quảng Đông kết thành một bức tường thành tự nhiên phân đôi hai vùng bắc, nam; bao gồm các dãy: Đại Dữu (大庾 岭, hay Đại Dữu): dãy núi chạy từ Đại Dữu Giang Tây đến Nam Hùng Quảng https://thuviensach.vn Đông); Việt Thành (越城岭): dãy núi chạy từ nam Hồ Nam đến Hưng An Quảng Tây; Minh Chữ (萌渚岭, hay Lâm Gia, Lâm Hạ) dãy núi chạy từ huyện Giang Hoa Hồ Nam đến ranh giới Hạ Huyện – Chung Sơn thuộc Quảng Tây; Đô Bàng (都庞岭): dãy núi chạy từ huyện Lan Sơn Hồ Nam đến Liên Huyện Quảng Đông); và Kỳ Điền (骑 田岭): từ ranh giới Sâm Huyện và Tuyên Chương ở Hồ Nam đến bắc Quảng Đông[14]. Đường đi của dãy núi này hiện là ranh giới tự nhiên giữa các tỉnh Hồ Nam, Giang Tây, Phúc Kiến ở phía bắc với các tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông ở phía nam. Có hai thuật ngữ Lĩnh Nam trên thực tế: (1). Lĩnh Nam để chỉ phần đất Trung Hoa và Đông Nam Á phía nam Ngũ Lĩnh; (2). Lĩnh Nam để chỉ phần phía nam của khu vực văn hóa Bách Việt cổ, tức các tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam (Trung Quốc) và Bắc Bộ (Việt Nam). Công trình này của chúng tôi sử dụng thuật ngữ Lĩnh Nam theo nghĩa thứ hai, tức coi văn hóa Lĩnh Nam là bộ phận hữu cơ của văn hóa Bách Việt, chủ yếu phân bố ở phía nam dãy Ngũ Lĩnh (Trung Hoa) đến hết đồng bằng sông Mã (Việt Nam). Lĩnh Nam là một bộ phận cố hữu của khu vực văn hóa Bách Việt. Cuốn Sử Kýcũng viết “Từ Cửu Nghi, Thương Ngô đến Đạm Nhĩ phía nam có phong tục giống với vùng nam Dương Tử, đều là dân Dương Việt” (Cửu Nghi, Thương Ngô dĩ Nam chí Đạm Nhĩ giả, dữ Giang Nam đại đồng tục, nhi Dương Việt đa hĩ). Các công trình nghiên cứu khảo cổ học, nhân loại học, ngôn ngữ học và văn hóa học cho thấy vùng văn hóa này là một bộ phận độc đáo của văn hóa Bách Việt. https://thuviensach.vn Địa hình Lĩnh Nam [vi.wikipedia.org] Lĩnh Nam là vùng văn hóa cực nam của khối Bách Việt, và do vậy văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam có nhiều điều kiện hơn để tiến hành giao lưu chủng tộc và văn hóa với khối cộng đồng cư dân ở phía nam, cụ thể là khối cư dân Môn-Khmer. Trong chương 3, chúng tôi chứng minh sự tham gia của cộng đồng Môn-Khmer phía đông vào văn hóa Lạc Việt, để rồi trải qua quá trình lịch sử-xã hội lâu dài hình thành nên văn hóa truyền thống ở Việt Nam. b. Điều kiện tự nhiên Vì nằm ở cực nam, Lĩnh Nam mang đặc trưng địa hình tổng hợp của các vùng Bách Việt khác. Để hiểu được đặc trưng ấy của Lĩnh Nam, việc xem xét vùng văn hóa này trong toàn thể các điều kiện tự nhiên của Bách Việt là rất cần thiết. Khu vực văn hóa Bách Việt nằm ở phía đông lục địa Á-Âu, phía bắc là lưu vực sông Dương Tử, phía tây tiếp giáp với lòng chảo Tứ Xuyên, phía nam đến tận phía bắc bán đảo Đông Dương, phía đông giáp Thái Bình Dương. Xét theo vĩ độ, Bách Việt gần như nằm dọc hai bên chí tuyến bắc (gần đối xứng bắc nam). Trong cái khung không gian ấy, vùng Lĩnh Nam nằm ngay dưới chí https://thuviensach.vn tuyến bắc, bên dưới dãy Ngũ Lĩnh, phía tây giáp vùng cao nguyên Vân-Quý, phía nam đến bắc Đông Dương (đèo Ngang ở Việt Nam), phía đông giáp Thái Bình Dương, có thời tiết thuộc á nhiệt đới gió mùa. Lượng mưa trung bình hằng năm thuộc hạng cao nhất thế giới [Trần Ngọc Thêm 2001]. Địa hình toàn khu vực văn hóa Bách Việt rất phức tạp, gồm sơn địa, bán sơn địa, đồi gò, đồng bằng, bồn địa, thung lũng v.v., đặc biệt có rất nhiều ao hồ[15]. Đặc trưng tính đa dạng này của tự nhiên góp phần quy định nên tính đa dạng của loại hình kinh tế và văn hóa của các tộc (chi tộc) bên trong Bách Việt. Đó chính là nguyên do tại sao cộng đồng này phân thành nhiều nhóm để được gọi thành “Bách Việt”. Dù vậy, đại đa số người Bách Việt tập trung các đồng bằng, thung lũng ven sông, các đồi gò thấp lấy nghề trồng lúa làm chủ đạo, cho nên tính chất sông nước Bách Việt nổi bật hơn so với văn hóa Hoa Hạ-Hán phương Bắc: văn hóa lúa nước (xem thêm Solheim [1971, 1973]). Trên đại thể có ba đồng bằng lớn hoặc tương đối lớn, gồm đồng bằng Dương Tử, đồng bằng Châu Giang và đồng bằng sông Hồng-sông Mã. Cao nguyên Vân-Quý được cho là vùng đất cao nối liền vùng núi Himalaya với đồng bằng. Vùng Mân-Đài do năm giữa dãy Ngũ Lĩnh chạy theo hướng đông tây và dãy Vũ Di Sơn theo hướng nam Bắc nên địa hình tự nhiên đa phần cũng là đồi núi và biển đảo. Hai vùng Nhị Hồ và Ngô Việt ở trung và hạ lưu Dương Tử có địa hình xen kẽ giữa đồng bằng, sông ngòi, ao hồ, thung lũng và đồi núi thấp. So với các vùng văn hóa khác, vùng Lĩnh Nam dường như tổng hợp hết các yếu tố tự nhiên nói trên. Ở đây có vùng đồi núi cao phía tây (giáp với cao nguyên Vân- Quý), đồi núi thấp ở đông bắc và tây nam, hai đồng bằng sông Châu Giang và đồng bằng sông Hồng-sông Mã ở phía đông và đông nam, các thung lũng ven các con sông, đồng bằng ven biển bắc vịnh Bắc Bộ, bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam. Dù với địa hình phức tạp, khu vực văn hóa Bách Việt có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho các hoạt động kinh tế trồng trọt. Nhà nghiên cứu Chêng Tê K’un [1959: 111] từng ví von tự nhiên vùng này là “hạnh phúc (blessing)” trong khi lưu vực Hoàng Hà ở phía bắc là “buồn thảm/khắc khổ (sorrow)”. https://thuviensach.vn Bàn về thời tiết, khu vực văn hóa Bách Việt nằm chủ yếu ở vùng nhiệt đới, á nhiệt đới, khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, sản vật phong phú, điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi nên điều kiện sống tương đối tốt. Theo Vương Văn Quang [2007: 12- 13], chính đây là điều kiện tối quan trọng quyết định tính chỉnh thể cao trong văn hóa. So với Đông Bắc Á, tự nhiên Bách Việt gắn liền với khu vực còn lại ở Đông Nam Á, phù hợp với nghề nông nghiệp lúa nước, trong khi vùng Hoàng Hà và các khu vực còn lại là quê hương của các loại lúa cạn như kê, mạch (hình 1.13). Mưa nhiệt đới gió mùa có phạm vi xa nhất về phía bắc đến tận sông Dương Tử, khiến khí hậu toàn bộ khu vực Nam Dương Tử ẩm ướt. Mưa nhiều, dòng nước chảy siết từ vùng núi non xuống đồng bằng, tạo cảnh quan đặc trưng núi và nước, làm nền tảng cho kiểu họa họa tranh sơn thủy [Edward L. Shaughnessy 2005: 15-16]. H.1.13. Sự khác biệt trong nguồn gốc cây lương thực ở phương Bắc và phương Gina L. Barnes [1993: 93] Với các điều kiện địa lý, địa hình, thời tiết và khí hậu thuận lợi nói trên, vùng đất Nam Dương Tử – Bắc Đông Dương được cho là khu vực có tự nhiên phong phú, giàu có vào bậc nhất châu Á. Con người sống trong điều kiện thiên https://thuviensach.vn nhiên ưu đãi như vậy có xu hướng trở nên ỷ lại vào tự nhiên, kém năng động và sáng tạo [Li Hui-Lin 1983: 54]. Đông Nam Á cổ, trong đó có Bách Việt, là quê hương cây lúa nước [Luca Cavalli-Sforza.. 1994: 107] Quan sát thời tiết Bách Việt từ bên trong, do vĩ độ và địa hình có sự khác biệt, thời tiết các vùng văn hóa cũng có sự khác biệt. Các vùng Ngô Việt, Nhị Hồ, Vân- Quý mùa đông rất lạnh (có tuyết rơi) và kéo dài, vùng Mân-Đài dù nằm giáp biển, nơi có dòng hải lưu nóng chảy từ phía nam lên, song do địa hình đa phần là rừng núi nên tự nhiên nhìn chung khá khắc nghiệt. So với các vùng nói trên, thời tiết Lĩnh Nam một năm bốn mùa xuân, hạ, thu, đông rõ rệt; mùa đông không quá lạnh nên một số hoạt động kinh tế nông nghiệp truyền thống như nuôi, trồng vẫn được duy trì [Edward L. Shaughnessy 2005: 17]. Đây cũng là điểm khác biệt nổi bật mang tính đặc thù của tự nhiên Lĩnh Nam. Nhìn trong nội vùng Lĩnh Nam, điều kiện khí hậu nhìn chung là khá tương đồng, những khác biệt nếu có là do yếu tố địa hình (núi, đồng bằng, hải đảo) quy định và là không lớn. Về mặt địa lý học, vào khoảng trung kì thế Holocene (thế Toàn tân), khu vực Lĩnh Nam kéo dài lên phía Dương Tử nhìn chung ấm https://thuviensach.vn hơn hiện nay, do vậy người ta phát hiện được nhiều vết tích của các cánh rừng đước từng mọc dọc theo các bờ biển trong vùng[16]. c. Phân vùng Lĩnh Nam Các tiểu vùng Lĩnh Nam [vi.wikipedia.org] Tổng thể không gian Lĩnh Nam có thể phân thành bốn kiểu loại hình chính tương ứng với bốn tiểu vùng. Ở phần sau chúng tôi tiến hành nhận diện tộc người chính ở Lĩnh Nam, kết quả cho thấy không gian cư trú các tộc người cũng phân bố theo bốn tiểu vùng này. Chính vì vậy, chúng tôi sử dụng tên tộc danh để gọi tên tiểu vùng: (1) tiểu vùng Âu Việt: vùng núi và thung lũng ven sông ở phía tây bắc, nay thuộc Quảng Tây; (2) tiểu vùng Nam Việt: núi xen kẽ với đồng bằng ven biển theo kiểu “trong đồng có núi, trong núi có đồng” ở phía đông bắc, nay thuộc Quảng Đông; (3) tiểu vùng Đông Lạc Việt: vùng dải đất ven biển, bán đảo và hải đảo phía đông nam[17] (bờ bắc vịnh Bắc Bộ, bán đảo Lôi Châu, đảo Hải Nam Trung Quốc); và (4) tiểu vùng Tây Lạc Việt: đồng bằng tương đối bằng phẳng được bao bọc bởi hệ thống núi non ở Bắc Bộ Việt Nam (hình 1.15). Địa hình Lĩnh Nam nhìn chung cao dần và phức tạp dần về phía tây, thấp dần về phía đông. Hệ thống sông ngòi khá dày đặc, hầu hết đều chảy theo hướng tây bắc – đông nam hoặc tây – đông, tức bắt nguồn từ vùng núi phía tây https://thuviensach.vn Lĩnh Nam và đổ ra vịnh Bắc Bộ và Thái Bình Dương ở các cửa biển phía đông như Tây Giang (gồm các nhánh Tả Giang, Hữu Giang, Li Giang, Bắc Giang..), sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã v.v.. Vì thuộc vùng á nhiệt đới gió mùa nên mùa mưa Lĩnh Nam kéo dài sáu tháng với lượng mưa phong phú, lượng phù sa đổ về các khu vực đồng bằng ở phía đông khá lớn, biến khu vực này thành các cánh đồng lúa nước màu mỡ. Bảng 1.2: So sánh điều kiện tự nhiên các tiểu vùng Lĩnh Nam Qua bảng so sánh trên đây có thể thấy hai tiểu vùng Âu Việt và Tây Lạc Việt nằm ở hai cực núi – đồng bằng, trong khi hai tiểu vùng Nam Việt và Đông Lạc Việt giữ vị trí trung gian. Điểm khác biệt này của tự nhiên hai tiểu vùng sẽ được chúng tôi sử dụng để bàn thảo về sự khác biệt trong loại hình văn hóa, loại hình kinh tế văn hóa giữa hai tộc Âu và Lạc, sự gặp gỡ, dung hòa giữa hai kiểu loại hình này trong quá trình lịch sử – xã hội vùng đồng bằng sông Hồng sông Mã để cuối cùng hình thành nên diện mạo văn hóa truyền thống ở Việt Nam (chương 3). 1.2.2. Văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam nhìn theo chủ thể a. Chủ thể văn hóa Bách Việt Về nguồn gốc Bách Việt, hiện có ba thuyết đáng lưu ý. Thuyết thứ nhất cho Bách Việt là nhóm hỗn chủng, đại diện là Quách Mạt Nhược. Ông chủ trương nước Việt (Vu Việt) hình thành trên cơ sở hỗn dung giữa người Hoa Hạ và Sở. Theo thuyết này còn có hai nhà nghiên cứu nổi tiếng ở Trung Quốc là Lã Tư Miễn và Lâm Huệ Tường [1958]. Thuyết thứ hai chủ trương “Việt vi Vũ hậu” (người Việt là hậu duệ của Hạ Vũ), đứng đầu là Tư Mã Thiên. Tác giả này https://thuviensach.vn trong Sử Ký khẳng định Việt tộc là di dân Hạ sau khi Thương diệt đã di cư về phía Nam. Thuyết thứ ba cho Bách Việt là nhóm cư dân bản địa, gốc Mongoloid phương Nam. Thuyết này khẳng định Việt tộc chính là chủ nhân của văn hóa đồ gốm ấn văn vốn phát triển từ người nguyên thủy bản thổ, và là thuyết được đại đa số tác giả đồng tình nhất. Thuyết thứ nhất và thuyết thứ hai trên thực tế có ít người tán đồng, do nó không phù hợp với kết quả nghiên cứu của khoa học hiện đại nên ngày nay hầu như không thấy nhắc đến. Theo Tư Mã Thiên (Sử Ký. Việt Vương Câu Tiễn Thế Gia), Hạ Vũ đi tuần đến vùng Cối Kê và qua đời tại đó, từ đó quy dân Việt thành hậu duệ của Vũ, tức hậu duệ của Hoa Hạ. Quan điểm này đã được nhiều tác giả về sau sử dụng mà không cần cầu chứng. Cuốn Ngô Việt Xuân Thu cũng theo hướng này. Thời cận hiện đại, La Hương Lâm lúc đầu phủ định thuyết này, song về sau lại khẳng định “Việt vi Hạ hậu” dù “chứng cứ không trực tiếp” (trong Bách Việt trong hệ thống Trung Hạ). Tác giả Từ Trung Thư cụ thể hơn khi khẳng định sau khi bị chinh phục, dân Hạ di chuyển lên phía Bắc thành dân Hung Nô, di chuyển xuống phía Nam thì thành dân Việt. Gần nhất, Mông Văn Thông lại tiếp tục lặp lại quan điểm này, coi Việt tộc là hậu duệ của con thứ của Hạ Thiếu Khang [Tưởng Bính Chiêu.. 1998: 20]. Tuy nhiên, từ trước tới nay có rất nhiều ý kiến phủ định nguồn gốc Hạ hậu của Bách Việt. Chẳng hạn Hán Thư (thiên Địa Lý chí) viết “Từ Giao Chỉ đến Cối Kê hơn 7-8 ngàn dặm, người Việt ở lẫn với nhau, mỗi nhóm có chủng tính riêng..”. Quyển Thế Bản và Sử Ký thì cho “Việt vi Mỵ (Mễ) tính, dữ Sở đồng tổ”. Trong cách nhìn nhận của một số sử gia Trung Quốc, người Sở là người Hoa Hạ nam thiên, do vậy người Bách Việt là “hậu duệ Hoa Hạ”. Ở các nội dung sau, chúng ta sẽ thấy rằng cư dân Bách Việt khác cư dân Hoa Hạ trên nhiều phương diện, từ di truyền, ngôn ngữ, phong tục – tập quán đến kinh tế, đời sống. Thuyết Bách Việt gốc Mongoloid phương Nam là phù hợp hơn với các kết quả nghiên cứu đa ngành. Thuyết này quy về mốc thời gian tối cổ – kỷ Pleistocene, thưở cư dân thượng cổ di cư từ các trung tâm văn minh ở phía tây đến, chủng Mongoloid dần dà mở rộng xuống phía nam, đẩy lùi hoặc đồng hóa cư dân Australoid để hình thành tiểu chủng Mongoploid phương Nam vào cuối https://thuviensach.vn kỷ Pleistocene. Carter, George [1968: 22] gọi tiểu chủng này là Mã Lai[18], Trần Ngọc Thêm [2001] thì gọi là chủng Đông Nam Á cổ (Indonesién). Tại phía đông, họ đã sáng tạo nên văn minh Hà Mẫu Độ[19], văn hóa Mã Gia Bang, văn hóa Tung Trạch, văn hóa Lương Chử[20]v.v.. vùng Nam Dương Tử. Tại Phúc Kiến, Lĩnh Nam và đảo Đài Loan, họ đã sáng tạo nên văn hóa Đại Buộn Khanh (大坌坑)[21], văn hóa Đại Long Đàm (大龙潭) [Sauer 1952: 5, 24; Chang Kwang-Chih 1999: 54] và hậu kỳ văn hóa Hòa Bình. Vào sơ kỳ thời hình thành cộng đồng Bách Việt, một nhóm cư dân Mongoloid phương Nam thạo nghề biển cả vùng ven biển từ hạ lưu Dương Tử xuống đến Lĩnh Nam đã giong thuyền ra đảo Đài Loan rồi đi tiếp xuống quần đảo Nam Dương và Nam Thái Bình Dương để hình thành khối dân cư Nam Đảo. Trong di truyền học, nhiều công trình nghiên cứu so sánh gen di truyền giữa hậu duệ cư dân Bách Việt và các khối Hoa Hạ-Hán, Môn-Khmer và Nam Đảo cho thấy Bách Việt là một cộng đồng mang tính chỉnh thể. Cụ thể, công trình nghiên cứu nhiễm sắc thể của nhóm tác giả Trung Quốc ở Thượng Hải, đứng đầu là Lý Huy [2002] khẳng định Lĩnh Nam là chiếc nôi Bách Việt, sau phân tán khắp vùng Nam Dương Tử, đồng thời di truyền Bách Việt khác biệt rất lớn với các tập đoàn dân tộc khác ở Trung Quốc, ngược lại rất gần gũi với tập đoàn Nam Đảo, đặc biệt là nhóm các dân tộc bản địa tại đảo Đài Loan (xem phần phụ lục). Trong một nghiên cứu khác, haemoglobin E được cho là phổ biến rộng khắp Đông Nam Á [Nicholas Tarling 1992: 75]. Đây là một trong những tiêu chí quan trọng xác định tính chất Mongoloid phương Nam của Bách Việt cổ, vì nghiên cứu cho thấy loại haemoglobin này lan rộng khắp Đông Nam Á và Nam Trung Hoa, có thể là sản phẩm của sự hòa trộn giữa chủng Mongoloid với Australoid (Melanesia). Tương tự, Stephen Oppenheimer [1995: 64; 2002: 290] trong nghiên cứu so sánh gen di truyền Đông Nam Á – Thái Bình Dương cho thấy lượng haplogroup M119 và M122 ở Nam Trung Hoa (người Quảng Đông, Phúc Kiến, Choang..), Đài Loan (người Mân Nam), Việt Nam và Thái Lan gần tương tự nhau, đồng thời khác biệt nhiều hơn với các cư dân từ Philippines trở về phía https://thuviensach.vn đông (khu vực vốn phổ biến các kiểu R10, M11, M130/38 (tức hg 24), M 9/4/5 (tức hg10), kiểu haplo alpha Đại Dương, các kiểu gen đứt đoạn alpha đơn 4.2 kb (Ht 6), 3, 7 kb (Ht 7) v.v.). Đặc biệt hơn, khi đi vào nghiên cứu cụ thể gen di truyền khu vực Đông Nam Á, các tác giả Luca Cavalli-Sforza L. [1994: 234-238] xếp nhóm dân Nam Trung Hoa vào khu vực Đông Nam Á do chúng có cơ cấu hoàn toàn trùng khớp với khu vực này. Ông viết “..như chúng ta thấy, Nam Trung Hoa nhập vào Đông Nam Á, trong khi Bắc Trung Hoa nối với người Triều Tiên, Nhật Bản, Ainu, Bhutan, và Tây Tạng”[22]. Theo cách này, hàng trăm triệu người người Nam Trung Hoa được xếp vào nhóm A2 (cluster A2) cùng với các nhóm Thái, Khasi, Việt–Mường, Choang–Đồng, Semai, thổ dân Đài Loan v.v.. [Luca Cavalli-Sforza L. 1994: 225-235]. Trong nghiên cứu nhân chủng học, tác giả W.W. Howells [1983: 314] đã phân chia người Mongoloid hiện đại ở Đông Á thành 6 nhóm, lần lượt là (1) Siberia và vùng đông bắc Nga (Ainu, Oostyak, Yakut, Tungus, Koryak, Chukchi, Eskimo..); (2) Dải đất từ biển Caspian đến Manchuria (Kalmuks, Uyhurs, Kazakhs, Mongols, Buriats..); (3) Bắc Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản; (4) Đông, Tây và Nam Trung Hoa (lưu vực sông Dương Tử, ranh giới với nhóm thứ 3 là lưu vực sông Hoài); (5) Vân Nam, Quý Châu ở Trung Quốc, người Việt ở Việt Nam và thổ dân Đài Loan; và (6) các dân tộc Đông Dương (Thái, Lào.., trừ người Việt đã kể trên), Thái Lan, Mã Lai. Tác giả này nhấn mạnh “người Nam Trung Hoa giống với cộng đồng phi Hán (như Miêu, Thái – Shan) hơn là người Hoa Bắc” [1978: 26]. Khảo cổ cũng phát hiện răng kiểu Sundadont phổ biến khắp Đông Nam Á xưa được cho là có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực Nam Dương Tử- Bắc Đông Dương, hoàn toàn khác với kiểu Sinodont Mongoloid phương Bắc [Turner, C.G. 1989], thậm chí còn được cho là tổ tiên của kiểu răng Sinodont phương Bắc[23]. Có thể thấy, cách phân nhóm này khá tương đồng với kết quả nghiên cứu di truyền học của Bowles (1977) [dẫn trong Luca Cavalli-Sforza L. 1994: 223], thể hiện rõ nét chất Mongoloid phương Nam[24] của Bách Việt cổ. https://thuviensach.vn Trong ngôn ngữ học, cư dân Bách Việt xưa nói thứ ngôn ngữ chung giữa các nhóm Tày-Thái, Austro-asiatic và Nam Đảo. Trong số này, nhánh Nam Đảo tách ra sớm nhất. Nhánh Tày-Thái phát triển lan dần về phía tây và tây nam do tiếp xúc nhiều với cư dân Ba-Thục, Đê-Khương, Bách Bộc. Nhánh Austro asiatic nam Dương Tử – Lĩnh Nam có mối quan hệ mật thiết với bộ phận Môn Khmer phía đông. Tóm lại, Bách Việt là cộng đồng cư dân Mongoloid phương Nam, định cư trên địa bàn rộng từ lưu vực Dương Tử đến bắc Đông Dương thời tiền sơ sử, nói ngôn ngữ chung giữa các ngữ hệ Tày-Thái, Austro-asiatic, lấy nghề trồng lúa nước làm kinh tế cơ bản. Do địa bàn rộng, cảnh quan tự nhiên đa dạng đã khiến cộng đồng văn hóa này phát sinh tính đa dạng, dân gian gọi là Bách Việt. Để hiểu rõ hơn thành phần tộc người Bách Việt, chúng tôi mạnh dạn đề xuất sơ đồ sau để tiện theo dõi: Cây sơ đồ các chi tộc Bách Việt b. Chủ thể văn hóa Bách Việt ở Lĩnh Nam https://thuviensach.vn Phân bố các chi tộc Bách Việt cổ ở 4 tiểu vùng Lĩnh Nam [vi.wikipedia.org] Chủ thể văn hóa Lĩnh Nam thời tiền Hán hóa dĩ nhiên là người Bách Việt, cụ thể là ba chi tộc lớn: Âu Việt, Nam Việt và Lạc Việt, phân bố tương ứng với bốn góc tây bắc, đông bắc, tây nam và đông nam. + Tiểu vùng Âu Việt (tây bắc Lĩnh Nam) Tiểu vùng Âu Việt nằm ở phía tây bắc Lĩnh Nam, tức phần lớn Quảng Tây, là địa bàn cư trú chủ yếu của tộc Âu Việt chuyên sống bằng nghề nông nghiệp vùng cao, nghề nương rẫy, săn bắt và nghề rừng. Thời tiên Tần, người Âu Việt chủ yếu sống tập trung thành bộ lạc, văn hóa mang đặc trưng phân tán, sau phát triển thành nhà nước, trong đó lớn nhất là nước Tây Âu (西瓯國). Mẹ Âu Cơ trong truyền thuyết Lạc Long Quân-Âu Cơ và An Dương Vương Thục Phán được cho là xuất thân từ chi tộc này. Hàn Chấn Hoa [1985: 159] xác định ranh giới tương đối đất Tây Âu Việt như sau “phía nam núi Ngũ Lĩnh, phía tây Nam Việt, phía đông Lạc Việt, đại thể bao gồm các quận Uất Lâm và Thương Ngô đời Hán, trung tâm là vùng lưu vực sông Quế Giang–sông Tây Giang”. Còn tác giả Vương Minh Lượng [1993: 24] thì mở rộng địa vực văn hóa Âu Việt cổ lên phía trên Ngũ Lĩnh, đại thể vào khoảng phía nam các quận Quế Dương và Linh Lăng (nay thuộc Hồ Nam). Mãi đến khi nước Sở hùng mạnh, dân Âu Việt mới lui về nam Ngũ Lĩnh. Người Âu Việt có tục sùng bái trống đồng (được cho là du nhập từ hai trung tâm Đông Sơn và Điền Việt – xem chương 3), sản xuất đồ gốm có hoa văn thừng kiểu Âu Việt. Hiện có thuyết cho tộc danh Âu 瓯 trong Âu Việt 瓯越 bắt nguồn từ đồ gốm (âu 瓯: gốm, cái âu). Song cũng có thuyết phủ định quan điểm này, cho rằng danh xưng Âu (瓯) vốn xuất phát từ ý nghĩa “người” trong ngôn ngữ cổ tại địa phương. Hiện dân https://thuviensach.vn Lê ở đảo Hải Nam vẫn dùng từ “au” /au/ để chỉ “người” [Đàm Hiểu Hàng 1994: 49-51]. Ngoài ra, nhiều tác giả còn gọi chi tộc này là Tây Âu để phân biệt với chi tộc Đông Âu vốn cư trú ở lưu vực sông Âu thuộc nam Chiết Giang-bắc Phúc Kiến thời Tây Hán. Cư dân Tây Âu cổ được cho là nói ngôn ngữ thuộc nhóm Tày-Thái (Choang-Đồng hay Thái-Kadai). Người Âu Việt trải qua thời gian dài khá bình lặng suốt từ thời tiền sử cho đến cuối tk. III trCN. Các sách Thượng Thư, Dật Chu Thư có ghi các tên gọi “Nam Di”, “Thương Ngô”, “Nam Âu” v.v., theo suy luận là để nói đến khu vực cư trú của người Âu Việt. Một số công trình nghiên cứu chứng minh người Âu Việt là hậu duệ của “người Liễu Giang” (柳江人) cổ bản địa chứ không phải “thiên di từ Đông Âu đến” [Vương Minh Lượng 1993: 24-25]. Năm 218 trCN, quân Tần vượt Việt Thành Lĩnh (một trong Ngũ Lĩnh) chiếm đất Âu, bị quân Âu Việt đánh bại, “thây chết hàng chục vạn”, “ba năm không buông cung cởi nỏ” (Hoài Nam Tử). Trong cuộc chiến tranh này, vua Âu Việt là Dịch Hu Tống (译吁宋) đã bị giết [Trương Thanh Chấn.. 2002: 70-75]. Theo kết quả nghiên cứu điền dã, nữ thần Long Mẫu vùng trung lưu Tây Giang vốn là hình ảnh “nữ thần hóa” của thủ lĩnh Dịch Hu Tống[25]. Ngày nay, trải qua nhiều biến cố lịch sử, vùng này trở thành quê hương của nhiều tộc người hậu duệ Bách Việt như Choang, Thủy, Mao Nam, Dao, Xá.. và hai nhóm hệ dân Hán Lĩnh Nam là Quế-Liễu (vùng Quế Lâm, Liễu Châu) và Quảng Đông (trung lưu sông Tả Giang, Hữu Giang). + Tiểu vùng Nam Việt (đông bắc Lĩnh Nam) Ở tiểu vùng này, chủ nhân cổ xưa chủ yếu là người Nam Việt, cư dân nông nghiệp lúa nước cổ, giỏi các nghề thủ công truyền thống, nghề gốm, nghề đúc thuyền và đi biển. Họ tập trung chủ yếu ở vùng hạ lưu Châu Giang và lưu vực sông Bắc Giang (nay là bắc, đông bắc và trung Quảng Đông). Trước đây từng có thuyết cho rằng chính người Âu Việt là chủ nhân vùng này, nghĩa là không có khái niệm tộc Nam Việt. Song, theo các kết quả nghiên cứu dân tộc học, khảo cổ học gần nhất, Nam Việt có thể được xem như như một chi tộc Bách Việt. Nam Việt và Âu Việt đều thuộc Bách Việt, do vậy giữa họ vẫn có những nét tương đồng cơ bản, song do điều kiện tự nhiên và lịch sử – xã hội khác nhau nên tồn tại tính sai dị. Họ được cho là hậu duệ của “người Mã Bôi” (马坝 https://thuviensach.vn 人) sống vào khoảng cách nay hơn 12 vạn năm – hình 1.18 [Lâm Úy Văn 2003: 12]. Cuốn Sử Ký viết “Âu Lạc đánh nhau, Nam Việt lay động”, cho thấy 3 tộc Âu, Lạc và Nam Việt cơ bản là khác biệt nhau. Phục dựng hình ảnh người Mã Bôi (Australoid) ở Quảng Đông Tộc danh Nam Việt xuất hiện rất lâu trước thời Triệu Đà lập nước Nam Việt[26]. Họ từng lập ra các nước Phọc La (縛罗國), Bá Lự (伯虑國), nước Hoan Đầu (驩頭 國, còn gọi là nước Phiên Ngung (番禺國))[27] ở vùng đồng bằng Châu Giang, Bắc Giang [Tăng Chiêu Toàn 1994: 37-38]. Thành phần dân cư Nam Việt tương đối đa dạng. Thứ nhất là do Nam Việt là khu vực trung chuyển trên con đường giao lưu bắc nam Ngũ Lĩnh trong nội tộc Bách Việt: hạ lưu Dương Tử – hồ Phàn Dương – sông Bắc Giang – Tây Giang. Nhiều di chỉ nông nghiệp sớm ven sông Bắc Giang (như Thạch Hiệp (石硖)) và sông Can (như La Gia Giác (罗家角) ở Đồng Hương (桐乡), Tiết Giang Cương (薛家岗),Bão Mã Lĩnh (跑马) thuộc Giang Tây) được chứng minh là các “trạm giao lưu” giữa hai trung tâm nông nghiệp sớm là hạ lưu Dương Tử và bắc Đông Dương[28]. Thứ hai, từ khoảng giữa thiên niên kỷ I trCN về sau, https://thuviensach.vn nhiều lớp cư dân Ngô Việt, Nhị Hồ, Mân-Đài thiên di đến khi các cuộc xâm nhập của người Hoa Hạ càng tiến dần về phía nam. Từ sau khi người Hoa Hạ làm chủ đất này, họ đã sử dụng từ Việt bộ Mễ (粤) để gọi cư dân Nam Việt, trong đó có phần để phân biệt với cư dân Âu Việt gọi là Âu. Ngày nay, tên tắt của tỉnh Quảng Đông là Việt (粤). Thời Tây Hán, quận Nam Hải được lập ra trên cơ sở của nhóm cư dân và văn hóa Nam Việt, độc lập với quận Quế Lâm lập ra trên đất Âu Việt. Trị sở Nam Hải là Phiên Ngung, vốn là đất cố đô của nước Phiên Ngung cổ. Xét theo ngôn ngữ học, ngôn ngữ Nam Việt cổ cơ bản là Nam Á nhánh Tày–Thái có pha trộn tiền Việt- Mường [Eberhard Wolfram 1968]. Kim Định [2001: 63] thì khẳng định Nam Việt thuộc dòng Việt phía Đông là “Lạc Việt”[29]. Ngày nay, tiểu vùng này là vùng đất cư trú của tuyệt đại đa số người Hán thuộc các nhóm Quảng Đông, Triều Châu, Khách Gia. Nhìn chung, văn hóa tiểu vùng này thể hiện đặc trưng phân tán giữa các cộng đồng địa phương thống nhất. Phần bán đảo Lôi Châu (nay thuộc Quảng Đông) trước là khu vực của người Lạc Việt, nay do người Hán nhóm Việt Tây làm chủ. Tỉnh Hải Nam cũng được tách ra từ tỉnh này. + Tiểu vùng Đông Lạc Việt Ở góc đông nam Lĩnh Nam, bao gồm dải đất duyên hải bắc vịnh Bắc Bộ (nay thuộc Quảng Tây), bán đảo Lôi Châu (Quảng Đông) và đảo Hải Nam xưa về cơ bản là vùng đất của người Lạc Việt [Vương Minh Lượng 1993: 24], tức có mối quan hệ mật thiết nhất với khu vực đồng bằng sông Hồng-sông Mã. Các khảo sát văn hiến và ngôn ngữ học có thể minh chứng điều này. Cuốn Bách Việt Tiên Hiền Chí viết “Các vùng Ung (邕), Ung (雍), Tuy (绥), Kiến (建) phía tây đất Tường Kha là Lạc Việt”[30]. Cuốn Hán Thư cũng cho cư dân bản thổ đảo Hải Nam là người Lạc Việt. Các tác giả La Hương Lâm [1943], Tưởng Đình Du [1982: 217-230] v.v. cũng nói rõ cục diện này trong các công trình cụ thể của mình. Tác giả Vương Văn Quang [2007: 91] khẳng định Lạc Việt là chi tộc lớn nhất, có địa vực cư trú rộng nhất vùng Lĩnh Nam, bao gồm các phần đất nói trên, vùng Bắc Bộ Việt Nam cộng với cả vùng tây nam Quảng Tây, đông nam Vân Nam. La Hương Lâm [1943] khoanh vùng Lạc Việt gồm Bắc Bộ Việt Nam đến vùng ven biển tây nam Nam Ninh (Quảng Tây), kéo dài sang bán đảo Lôi Châu (Quảng Đông), gồm cả đảo Hải Nam. https://thuviensach.vn Thời Tần, nhà nước đặt quận Tượng Quận ở vùng Lạc Việt, có ý kiến cho rằng Tượng Quận bao trùm toàn bộ phần Tây Lạc Việt, song trên thực tế thì đó chỉ là phần Đông Lạc Việt này hoặc hữu danh vô thực. Thời Hán thuộc, dải đất này chia thành các quận Giao Chỉ, Cửu Châu, Nhật Nam, Uất Lâm, Hợp Phố, Đạm Nhĩ và Chu Nhai. Tác giả Tưởng Đình Du [1982: 217-230] đi từ nghiên cứu khảo cổ học cũng khẳng định như vậy. Sách Cựu Đường Thư (thiên Địa Lý Chí) cho vùng Mậu Danh (tây nam Quảng Đông) xưa cũng là nơi tạp cư của người Tây Âu và Lạc Việt, song phổ biến hơn vẫn là cư dân Lạc Việt, cụ thể người Lạc Việt cổ cư trú từ tuyến đường sắt Mậu Danh – Nam Ninh (Trung Quốc) trở về phía nam đến đồng bằng sông Mã (Việt Nam), bao gồm cả bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam [Trương Thanh Chấn.. 2002: 51; Jeffrey Barlow 2005]. Trong quá trình lịch sử xã hội từ đầu Công nguyên về sau, cư dân Hán phương Bắc (quan lại, binh lính, dân chiêu mộ, dân tự do), người Hán miền Giang Nam, người Hán Quảng Đông, người Hán Phúc Kiến v.v. không ngừng di chuyển ra tiểu vùng này làm cục diện quan hệ tộc người càng phức tạp thêm. Cư dân Việt Tây vùng bán đảo Lôi Châu dù đã nói phương ngữ Quảng Đông song lại có chất giọng khác với vùng Châu Giang [tư liệu điền dã tại Hóa Châu, Mậu Danh, Lôi Châu, Trạm Giang (Quảng Đông) năm 2008]. Sự khác biệt ấy bắt nguồn từ ở tố chất Lạc Việt, trong khi tiếng Quảng Đông có cơ tầng là ngôn ngữ Nam Việt cổ. Sự gắn kết giữa bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam như là một phần của Lạc Việt còn thể hiện qua tín ngưỡng Tiễn phu nhân[31] rất phổ biến trong vùng, nhưng rất hiếm thấy xuất hiện ở đồng bằng Châu Giang cùng thuộc tỉnh Quảng Đông và cùng một môi trường kinh tế – xã hội. Trong ngôn ngữ học, tiếng nói dân tộc Lê ở Hải Nam được xếp vào chi Kadai của nhóm Thái-Kadai do tìm thấy nhiều điểm chung với nhánh Tày-Thái và Nam Đảo. Theo chúng tôi, trong thành phần tộc người của họ có cả các yếu tố Đông Việt (nhóm quay trở về từ vùng Ngô Việt), Âu Việt và cư dân Nam Đảo từ quần đảo Nam Dương và người Chăm-pa từ dải đất nay là trung bộ Việt Nam vượt biển sang quần cư mà thành. Trong khi đó, phương ngữ Hán Hải Nam chưa thật sự hình thành[32]. Dân gian người Lê ở Hải Nam hiện còn lưu truyền thần thoại sáng thế thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa đảo Hải Nam và vùng đất liền đồng bằng sông https://thuviensach.vn Hồng[33]. Câu chuyện này có nhiều nét tương đồng với tích Âu Cơ – Lạc Long Quân ở Việt Nam, ở sự kết hợp hai yếu tố miền núi rừng (Âu Cơ, nàng tiên) và miền biển (Lạc Long Quân, vua rồng), và ở tục thờ chim thần, rồng-rắn. Nó còn phản ánh mối quan hệ nguồn cội giữa hai tiểu vùng Đông-Tây Lạc Việt trong lịch sử. Có thể thấy, qua quá trình biến thiên lịch sử, tiểu vùng này đã đi từ đồng nhất trong nguồn gốc văn hóa (Lạc Việt cổ) đến dị biệt do điều kiện tự nhiên đặc thù (địa lý phân tán) và hoàn cảnh lịch sử – xã hội đặc biệt. Tựu chung, tiểu vùng này có quan hệ nguồn gốc văn hóa và tộc người với tiểu vùng sông Hồng-sông Mã, song lại có quan hệ lịch sử – xã hội mật thiết với tiểu vùng Nam Việt. Tính chất phân tán của tự nhiên tạo nên tính dị biệt đã hạn chế sự ra đời của các nhà nước cổ đại có cơ cấu chặt chẽ. Dù vậy, trong các cuốn Sơn Hải Kinh, Thái Bình Ngự Lãm từng ghi nhận tên gọi các “nước Đạm Nhĩ” (儋 耳国), “nước Điêu Đề” (雕题国) v.v.. Hai tuyến di cư vào Lĩnh Nam của người Ngô Việt [Trịnh Tiểu Lô 2007: 237] + Tiểu vùng Tây Lạc Việt Ở tiểu vùng phía tây nam còn lại, tức vùng đất nay là Bắc Bộ Việt Nam, về cơ bản là vùng cư dân Lạc Việt. Ranh giới giữa tiểu vùng này và các không gian lân cận chỉ mang tính tương đối. Tác giả Vương Văn Quang [2007: 91] https://thuviensach.vn từng khẳng định địa vực Lạc Việt rộng lớn, gồm cả tiểu vùng Đông Nam nói trên, Bắc Bộ Việt Nam cộng với cả vùng tây nam Quảng Tây, đông nam Vân Nam. Trong luận án này, chúng tôi chủ yếu bàn tới đồng bằng sông Hồng-sông Mã và vùng núi và trung du phía Bắc (tức vùng văn hóa Tây Bắc và Việt Bắc của Việt Nam).Hai tuyến di cư vào Lĩnh Nam của người Ngô Việt [Trịnh Tiểu Lô 2007: 237] Sách Thủy Kinh Chú dẫn cuốn Giao Châu Ngoại Vực Ký viết “Thời Giao Chỉ chưa có quận huyện, đất có lạc điền, dân theo thủy triều lên xuống mà làm ruộng nên gọi là lạc dân”[34]. Trong tiếng Việt hiện vẫn còn câu nói “Âu rừng Lạc biển” hoặc “Âu bắc Lạc nam”. Truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ dù xuất hiện muộn song cũng phảng phất sự phân biệt Âu và Lạc. Hiện có thuyết cho từ Lạc (駱) xuất phát từ tên gọi “nước” trong tiếng Việt cổ (nước: nác € Lác € Lạc) [Vũ Thế Ngọc 2005]. Ngoài ra cũng có các quan niệm cho “Lạc” (駱) bắt nguồn từ “Lúa hay Ló”, “loài ngựa bờm trắng”, “cháy rần rật hay trôi cuồn cuộn” [Nguyễn Duy Hinh 2004:56-59] v.v.. Cư dân Lạc Việt cổ là chủ nhân của nền văn hóa Phùng Nguyên với đỉnh cao là văn minh Đông Sơn thời kì giữa và cuối thiên niên kỷ I trCN. Tuy vậy, thành phần tộc người Lạc Việt phức tạp nhất trong số các chi tộc Bách Việt ở Lĩnh Nam. Thứ nhất, do vùng này tiếp giáp với vùng Vân-Quý của Bách Việt và khu vực còn lại ở Đông Nam Á lục địa nên quá trình giao thoa tộc người và văn hóa diễn ra liên tục. Tiếng Việt-Mường hình thành trên cơ sở của sự tổng hợp Môn-Khmer, Tày-Thái (trong đó có cả yếu tố Nam Đảo và Australoid) là một minh chứng [Phạm Đức Dương 1983: 76-133]. Thêm vào đó, nhiều nét tương đồng giữa trống đồng Đông Sơn và trống đồng Điền Việt trên đất Vân-Quý phần nào phản ánh được vai trò cầu nối của hệ thống sông Hồng cũng như tính đa dạng của văn hóa tộc người trong vùng[35]. Bảng 1.3: So sánh điều kiện dân cư và văn hóa các tiểu vùng Lĩnh Nam https://thuviensach.vn Tiểu vùng này từng trải qua thời gian lịch sử văn hóa lâu dài, tiếp nối từ văn hóa Hòa Bình cổ xưa sang văn hóa Phùng Nguyên để hun đúc thành cơ tầng văn hóa Việt Nam về sau. Với vai trò là đồng bằng trung tâm, đồng bắc sông Hồng – sông Mã với đặc trưng khép kín đã điều tiết tính đa dạng chủng tộc và văn hóa ấy của tiểu vùng. Chính điều kiện tự nhiên[36], đồng bằng với nghề nông nghiệp lúa nước tập trung và điều kiện lịch sử-xã hội đã tạo nên tính đồng nhất trong văn hóa. Chính tính thống nhất ấy góp phần hình thành “sức phản kháng” mạnh mẽ trong thời chống Bắc thuộc, cuối cùng hình thành nhà nước Đại Việt độc lập từ cuối tk. X. 1.2.3. Văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam nhìn theo thời gian Lịch sử văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam gắn liền với lịch sử khu vực còn lại của Bách Việt, do vậy chúng tôi đặt vấn đề quan sát trong bối cảnh chung. Trên đại thể, chúng tôi phân làm ba giai đoạn, gồm Giai đoạn hình thành, phát triển và xung đột; Giai đoạn giao lưu – hòa nhập vào văn hóa Hán; Giai đoạn phân lập văn hóa truyền thống ở Việt Nam. Giai đoạn hình thành, phát triển và xung đột Giai đoạn này đến lượt mình được phân thành ba thời kì, gồm thời kì đồ đá cũ; thời kì đồ đá mới; và thời kì https://thuviensach.vn đồ đồng. Ở thời kì đồ đá cũ, cho đến nay giới khảo cổ học đã phát hiện nhiều di chỉ tối cổ ở khắp các vùng miền Bách Việt, cho thấy chủ nhân cổ xưa nhất là người Australoid. Lưu vực sông Dương Tử tập trung khá nhiều di chỉ như di chỉ xương người hóa thạch ở động Thần Tiên, động Liên Hoa, gò Cô Đôn, Tam Sơn Đảo v.v. (nay thuộc Giang Tô), trong đó tiêu biểu nhất là “người Nam Kinh” ở động Hồ Lô (Nam Kinh) được cho là “người đứng thẳng” mang đặc trưng thể chất phương Nam có niên đại vào khoảng mạt kì người vượn Bắc Kinh [Vương Văn Quang 2007: 14]. Ở Chiết Giang có di chỉ động Ô Quy (Kiến Đức), cũng được đánh giá là có mối liên hệ mật thiết với người vượn Nam Kinh. Tại vùng Mân-Đài, điển hình có các phát hiện nhiều chiếc răng hàm dưới hóa thạch của người thông minh thời kì cuối có niên đại khoảng 1 vạn năm tại động Hồ Ly (Tam Minh, Phúc Kiến), văn hóa Trường Tân (长滨), văn hóa Võng Hình (网形), “người Tả Trấn” đảo Đài Loan)[37]. Vùng Nhị Hồ góp mặt với 5 di chỉ tương tự tại huyện An Nghĩa và Tân Dư (Giang Tây) được cho là mang nhiều nét tương đồng với khi vực Hoa Nam, một số phát hiện rải rác ở Hồ Nam, Hồ Bắc khác. Vùng Vân-Quý có di chỉ người Nguyên Mưu ở Vân Nam, động Quan Âm (Kiềm Tây, Quý Châu). Ngoài ra còn phải kể đến một vài di chỉ khảo cổ có liên quan tại vùng trung thượng lưu các con sông Salween và Irrawaddy [Vương Văn Quang 2007: 14-17]. Tại Lĩnh Nam tiêu biểu có các di chỉ Mã Bôi (Quảng Đông) mang đặc trưng Australoid; “người Liễu Giang” mang đặc trưng Mongoloid phương Nam; di chỉ Bách Sắc v.v. (Quảng Tây); động Lạc Bút (Hải Nam, 11.000 năm trước). Tại phần đất Bắc Việt Nam phải kể đến di tích Núi Đọ, Thẩm Khuyên-Thẩm Hai, Thẩm Ồm [Bùi Thiết 1999: 26], văn hóa Sơn Vi và các di chỉ thuộc văn hóa Hòa Bình sớm, rải rác vùng Đông Nam Á. Đông Á, trong đó có Đông Nam Á, từng là quê hương của người tối cổ (ước tính từ 750.000 năm trước). Các di vật khảo cổ như người vượn Bắc Kinh, người Jetis ở Java cho thấy các khu vực này sớm trở thành khu vực hoạt động của người Homo- erectus [Bellwood 1979]. Các tác giả R. L. Ciochon và J.W. Olwen (1986) qua nghiên cứu các di chỉ văn hóa thượng cổ vùng Bắc Bộ Việt Nam đã khẳng định rằng Việt Nam xưa cũng là vùng cư trú của người Homo https://thuviensach.vn erectus[dẫn lại theo Nicholas Tarling 1992: 65]. Lâu dần về sau, vùng Bắc Trung Hoa hình thành chủng Mongoloid, còn khu vực Đông Nam Á – Châu Đại Dương lại là quê hương của chủng Australoid. Do những điều kiện nhất định, cư dân Mongoloid di cư xuốn phía nam, hòa lẫn với chủng Australoid, hình thành nên lớp cư dân Đông Nam Á cổ đại [Bellwood 1979]. Bên cạnh cũng có thuyết cho cư dân Đông Nam Á cổ vốn phát triển trực tiếp từ người Homo-erectus thời tối cổ [Weidenreich 1945; Coon 1963]. Giới khoa học đều thống nhất rằng vùng Đông Nam Á hải đảo xưa vốn nối liền với lục địa, mãi đến khoảng mốc thời gian 18.000 – 5.000 trCN mới có sự tách biệt. Vùng Nam Dương Tử – Bắc Đông Dương là nơi gặp gỡ giữa hai đại chủng này, hình thành tập đoàn Bách Việt cổ có ranh giới phía Bắc đến tận lưu vực sông Dương Tử, phía Nam đến Bắc Đông Dương [Trần Ngọc Thêm 2001: 53- 58]. Ở thời kì đồ đá mới, nổi bật nhất là văn hóa Đại Buộn Khanh, hậu kỳ văn hóa Hòa Bình (bên cạnh văn hóa Thanh Liên Cương ở Dương Tử). Văn hóa Thanh Liên Cương tập hợp nhiều nền văn hóa cổ cùng nguồn gốc và điều kiện môi sinh, đại diện có văn hóa Hà Mẫu Độ, văn hóa Mã Gia Bang. Văn hóa Hà Mẫu Độ được xem là nền văn hóa nông nghiệp lúa nước hàng tiên phong, chủ yếu phân bố ở hạ lưu sông Dương Tử kéo dài xuống vùng vịnh Hàng Châu [Luca Cavalli-Sforza L. 1994: 204-205]. Nền văn hóa này có niên đại vào khoảng 7000 năm trước, trong đó trung tâm Hà Mẫu Độ được cho là cội nguồn của nó, thể hiện đầy đủ và sinh động nền văn minh nông nghiệp Bách Việt cổ. Từng có thuyết khẳng định nông nghiệp lúa nước bắt đầu từ văn hóa Hà Mẫu Độ, sau đó lan tỏa khắp vùng Đông Nam Á cổ, tiêu biểu có Paul G. Bahn [2000: 113]. Văn hóa Mã Gia Bang tiếp nối Hà Mẫu Độ, phân bố chủ yếu ở vùng Gia Hưng, nằm cửa sông Dương Tử và vịnh Hàng Châu [tư liệu điền dã 2011]. Các phát hiện cho thấy cư dân địa phương chủ yếu làm nông nghiệp trồng trọt (lúa tẻ, lúa tiên). Kế đến là văn hóa Tung Trạch, hưng thịnh vào cuối kì văn hóa Mã Gia Bang, phân bố chủ yếu ở vùng Thanh Phố (Thượng Hải). Ngoài các vết tích lúa gạo còn phát hiện thêm các loại công cụ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt như rìu đá, dao đá, bình, bôi cùng nhiều sản phẩm làm bằng xương thú. Đồng thời, các di chỉ mộ táng cho thấy xã hội https://thuviensach.vn người Việt thời kì này đã phân hóa giàu nghèo. Cuối kì văn hóa Tung Trạch lại tiếp nối bằng văn hóa Lương Chử (3300-2200 trCN), phân bố chủ yếu ở Nam Giang Tô – bắc Chiết Giang. Nổi bật của nền văn hóa này là nhiều sản phẩm gốm (đen và xám). Các di chỉ mộ táng trong vùng cho thấy không những văn hóa vật chất đã phát triển nổi bật so với các nền văn minh trước mà sự phân hóa giai cấp xã hội cũng đã định hình rõ nét hơn. Ngành thủ công nghiệp (chủ yếu là đồ ngọc) đã phát triển song hành cùng ngành nông nghiệp lúa nước [Vương Văn Quang 2007: 3-4, 18-22]. Tại Lĩnh Nam, tổ hợp văn hóa Đại Buộn Khanh cũng trải qua quá trình hình thành và phát triển văn hóa Việt thời tiền sử với các đặc trưng thành tựu đặc thù, trong đó đặc biệt thể hiện mối quan hệ hữu cơ giữa Bách Việt cổ và cư dân Nam Đảo. Meacham [1977: 85] gọi tên nền văn hóa này là Đồ đá ven biển Bách Việt (Yueh Coastal Neolithic). Không gian phân bố của nền văn hóa này trải dài từ vùng Mân-Đài xuống hết Lĩnh Nam. Đây cũng là nền văn minh nông nghiệp lúa nước cổ gắn liền với chiếc nôi lúa nước Đông Ấn – Hoa Nam – Đông Dương. Tuy nhiên, Đại Buộn Khanh không tạo nên những trung tâm lớn như Hà Mẫu Độ hay Mã Gia Bang vùng Dương Tử. Tại phía nam Lĩnh Nam, văn hóa Hòa Bình (18.000-7.500 trước) hình thành bao trùm hầu hết bán đảo Đông Dương, phía bắc lên đến vùng Lưỡng Quảng. Các di vật chủ yếu là đồ đá, đồ xương và đồ gốm. Hiện tại, nhiều tác giả tìm thấy nhiều bằng chứng cho thấy giữa văn hóa Đại Buộn Khanh và văn hóa Hòa Bình có mối quan hệ mật thiết. Đây là thời kì manh nha hình thành khối Bách Việt. Theo khảo cổ học, tiền dân Bách Việt có thể đã hình thành từ 3-4 vạn năm tại Lĩnh Nam, niên đại này hơi sớm vì trong nghiên cứu sự chuyển đổi yếu tố Đen sang yếu tố Vàng[38]trong văn hóa Hòa Bình thì mãi đến cuối thời đá mới mới xuất hiện cộng đồng Mongoloid phương Nam. Chính vì thế, chúng tôi cho rằng, Bách Việt đã hình thành tại Lĩnh Nam vào cuối văn hóa Hòa Bình – văn hóa Đại Buộn Khanh cho đến các giai đoạn văn hóa Bắc Sơn – Hạ Long, tức vào khoảng 10.000 đến 4.000 năm trước. Tác giả Trần Ngọc Thêm [2001] ước đoán con số này là 5.000 năm. https://thuviensach.vn Ở thời kì này, cư dân bản địa Lĩnh Nam đã dần chuyển từ săn bắt, hái lượm sang trồng trọt và chăn nuôi do áp lực dân số tăng lên. Văn hóa Hà Mẫu Độ, Mã Gia Bang ở vùng Dương Tử, văn hóa Bắc Sơn, sơ kì Phùng Nguyên ở Lĩnh Nam là các ví dụ điển hình. Đời sống tín ngưỡng cư dân Lĩnh Nam hình thành và phát triển, quan niệm về cái Thiêng đặc biệt được coi trọng, nhiều thành tựu văn hóa sơ khai hình thành, làm nền tảng cho lớp văn hóa Bách Việt về sau. Ở thời kì đồ đồng, thành tựu đúc đồng Lĩnh Nam rất thịnh hành, sánh ngang bằng với vùng Ngô Việt. Vùng Ngô Việt có kỹ nghệ đúc đồng khá sớm, được cho là kế thừa thành tựu đúc đồng từ vùng Trung Nguyên. Đỉnh cao của nghệ thuật đúc đồng trong vùng phải kể đến hai nước Câu Ngô và Vu Việt cổ. Theo nhiều nhận định, kỹ thuật đúc kiếm của người Vu Việt là rất nổi bật, nhờ vậy kiếm Việt vương Câu Tiễn trở nên nổi tiếng cho đến tận hôm nay. Thời thịnh hành (tk. V trCN), trong vùng có nhiều danh sư đúc kiếm như Can Tướng (干将, được cho là người Can Việt), Âu Dã Tử (欧冶子); Mạc Tà (莫邪) v.v. (theo Ngô Việt Xuân Thu, Việt Tuyệt Thư). Cuốn Chu Lễ viết “Các loại đồng, thau ở vùng Ngô, Việt đặc biệt đẹp”. Các di chỉ khoáng sản thanh đồng nổi tiếng có thể kể như Hoản Nam (nam An Huy), Đồng Lĩnh (Thụy Xương, Giang Tây), Ma Dương (Hồ Nam) v.v. [Ngô Minh Sinh 1983: 52-57]. Song do sản xuất phát triển, vùng Ngô Việt sớm thịnh vượng và vươn tầm “tranh bá thiên hạ” để rồi cuối cùng bị “thiên hạ” thâu tóm vào cuối tk. IV trCN. Ở phía nam Ngũ Lĩnh, thời kì đồ đồng ở Lĩnh Nam lại rất thịnh đạt. Cuốn Thái Bình Hoàn Vũ Ký thì gọi vùng Lĩnh Nam là vùng đất “nhiều đồng, bạc”, “đào xuống vài chục thước là gặp khoáng sản, dân địa phương đào đúc thành đồ đồng” (có dẫn trong Lĩnh Ngoại Đại Đáp). Theo Stephen Oppenheimer [1998], thời đại đồ đồng ở Đông Nam Á (bao gồm cả Đông Sơn và Điền Việt diễn ra cách nay 5000- 6000 năm, thậm chí trước cả Trung Cận Đông và Trung Hoa, song phải đến nữa sau thiên niên kỷ I trCN mới phát triển mạnh mẽ (Đông Sơn, Điền Việt). Ngoài trống đồng – biểu tượng linh thiêng của văn minh Bách Việt vùng Lĩnh Nam, người ta phát hiện rất nhiều lưỡi cày đồng, rìu đồng, liềm đồng, cuốc đồng v.v.. với kỹ thuật đúc luyện trình độ cao, phần nào chứng tỏ sinh https://thuviensach.vn động trình độ văn minh tại địa phương. Giữa hai trung tâm Đông Sơn và Điền Việt, tác giả Ambra Calò [2009: 70, 82] qua quan sát thực tế, nghiên cứu so sánh từng chi tiết từ khuôn đúc, kỹ thuật đúc, hoa văn kết hợp với các điều kiện lịch sử địa lý giữa hai vùng đồng bằng sông Hồng và cao nguyên Vân Nam, đã kết luận rằng “trống đồng Vân Nam là sản phẩm tiếp nhận có bản địa hóa từ Đông Sơn (Dian drums are local adaptation of Dong Son drums)”. Đồ đồng được chế tác ngày càng nhiều, sản xuất phát triển, bắt đầu xuất hiện thặng dư xã hội, từ đó phân biệt giàu nghèo, làm nền tảng cho các kiểu liên minh bộ lạc và nhà nước sơ khai, tiêu biểu có Văn Lang ở đồng bằng sông Hồng, các nhà nước Phọc La, Hoan Đầu, Phiên Ngung cũng dần xuất hiện ở lưu vực Tây Giang. Trong văn hóa, đây là thời kì định hình tính chất các tiểu vùng nội thuộc. Trên đại thể, ba chi tộc Âu Việt, Nam Việt và Lạc Việt cư trú ở bốn tiểu vùng khác nhau với bốn kiểu hình thái kinh tế – xã hội khác nhau nên dần dà chuyển dịch và phân hóa. Văn hóa Âu Việt thiên về yếu tố rừng núi, văn hóa Lạc Việt phân hai kiểu nông nghiệp đồng bằng châu thổ (tiểu vùng Tây Lạc Việt) và văn hóa biển đảo (Đông Lạc Việt), văn hóa Nam Việt kết hợp cả ba kiểu này. Xét riêng tiểu vùng Tây Lạc Việt, đây là thời kì văn minh Văn Lang – Âu Lạc, còn gọi là văn minh Đông Sơn, thời kì đỉnh cao của văn hóa Lạc Việt mà thành tựu của nó làm nền tảng cho việc hình thành văn hóa truyền thống ở Việt Nam về sau. Giai đoạn giao lưu – hòa nhập vào văn hóa Hán Giai đoạn giao lưu – tranh chấp và hòa nhập vào văn hóa Hán được chia thành hai thời kì chính: thời kì văn hóa Hán mở rộng xuống Lĩnh Nam; và thời kì Hán hóa. – Thời kì văn hóa Hán mở rộng xuống Lĩnh Nam bắt đầu từ sự kiện Sở diệt Việt năm 333 trCN, một bộ phận cư dân Ngô Việt chạy về Mân-Đài và Lĩnh Nam, mang theo luôn dấu ấn văn hóa Hoa Hạ-Hán cùng vào. Từ sau khi nước Sở làm chủ Giang Nam, văn hóa Sở dần hưng thịnh và có xu hướng ảnh hưởng vào khu vực phía bắc Lĩnh Nam. Họ được cho là sứ giả mang văn hóa Trung Nguyên vào Lĩnh Nam và ngược lại mang văn hóa Lĩnh Nam giới thiệu lên phía bắc. Chữ Hán xuất hiện trên trống Cổ Loa II (tk. II trCN), di vật văn hóa Hán trong mộ cổ Việt Khê, rải rác các ngôi mộ trên đất Lưỡng Quảng v.v. là https://thuviensach.vn các minh chứng. Chúng tôi gọi đây là thời kì giao lưu văn hóa Lĩnh Nam – Hoa Hạ-Hán. Năm 221 trCN, Tần diệt Sở, thống nhất Trung Nguyên, bắt đầu mưu toan chinh phục Lĩnh Nam. Mở đầu là trận đánh năm 218 trCN, giữa quân Tần và quân Âu Việt phía nam dãy Việt Thành Lĩnh (Quế Lâm, Quảng Tây). Bốn năm sau, Âu Việt thất thủ, quân Tần do Đồ úy Thư và Phó tướng Triệu Đà làm chủ Lĩnh Nam, chia phía bắc và phía đông vùng này ra ba khu vực quản lý. Vùng đất Âu Việt đặt quận Quế Lâm, vùng Nam Việt đặt quận Nam Hải, vùng Đông Lạc Việt đặt Tượng Quận. Đồng bằng sông Hồng-sông Mã nằm ngoài tầm kiểm soát, đang chuyển từ nhà nước Văn Lang sang Âu Lạc cùng với sự suy thoái dần của văn minh Đông Sơn. Đồ úy Thư qua đời, Triệu Đà nhân cơ hội chiếm luôn hai quận còn lại (Quế Lâm, Tượng Quận) lập nước Nam Việt, đặt thủ đô Phiên Ngung, xây dựng trên cơ sở của văn hóa Nam Việt. Bằng mưu kế, nước Nam Việt thu phục Âu Lạc của An Dương Vương. Triệu Đà tự xưng “Nam man chi trưởng” (Nam Man đại trưởng lão) và chủ trương Việt hóa phong tục Nam Việt. Động thái này được đánh giá là phản ứng tranh chấp giữa văn hóa Bách Việt bản địa và văn hóa Hán đang du nhập ngày càng ồ ạt. Năm 111 trCN, nhà nước Nam Việt mất vào tay Hán Vũ Đế. Đây cũng là thời Hán Nho hình thành ở Trung Nguyên. Dưới chính sách đồng hóa mạnh mẽ, văn hóa Lĩnh Nam bắt đầu một thời kì mới: thời kì hòa nhập văn hóa Hán. – Thời kì hòa nhập vào văn hóa Hán kéo dài từ thời Hán Vũ Đế nắm quyền kiểm soát Lĩnh Nam và bắt đầu chính sách Hán hóa gắt gao từ khi Nam Việt mất cho đến trung kì thuộc Đường. Thời thuộc Hán, toàn Lĩnh Nam chia ra hai châu là Giao Châu và Quảng Châu, bên dưới lại chia tiếp thành nhiều quận, cắt cử các Thái thú cai quản. Chính sách Hán hóa nghiêm khắc đã đẩy văn hóa Bách Việt ở Lĩnh Nam vào một tình thế nguy cấp, cuối cùng nổ ra sự kiện khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 39. Cuộc khởi nghĩa thất bại năm 43, nhà Đông Hán lấy cớ dẹp loạn thắt chặt quản lý. Văn hóa Lĩnh Nam dần dà lấn sâu vào quá trình hòa nhập với văn hóa Hán ở các cấp độ khác nhau. https://thuviensach.vn H.1.20. Phố Châu Cơ Hương ngày nay [tư liệu điền dã 2008] H.1.21. Phục dựng cảnh di dân Hán thời Đường xuống Lĩnh Nam https://thuviensach.vn Bản đồ phân bố các phương ngữ Hán và tiếng Choang tại Lưỡng Quảng [Tư Đồ Thượng Kỷ 2001] Sau thời thuộc Hán đến thời thuộc Ngô rồi thuộc Đường, quá trình Hán hóa ở Lĩnh Nam đã trải qua hơn bảy tám thế kỷ. Văn hóa các tiểu vùng Âu Việt, Nam Việt và Đông Lạc Việt dần dà bị văn hóa Hán lấn át, cuối cùng là thay thế vào trung kì thuộc Đường. Cũng vào thời này, di dân Hán vào Lĩnh Nam ồ ạt[39], dần dà lan tỏa và làm chủ các cánh đồng, thung lũng màu mỡ đất Lưỡng Quảng. Các hệ dân Hán Hoa Nam là Quế Liễu, Quảng Phủ, Triều Châu và Phúc Kiến hình thành từ các cuộc di dân này. Tiểu vùng Tây Lạc Việt tuy chịu chung số phận lịch sử, song với các đặc trưng riêng của điều kiện sinh thái, yếu tố tộc người và loại hình kinh tế – văn hóa đã dần vận động theo một phong cách riêng, văn hóa Hán được du nhập ngày càng nhiều nhưng không đủ để thay thế căn nguyên văn hóa Lạc Việt. Trong văn hóa Việt Nam, đây là giai đoạn chống Bắc thuộc (xem chương 3). c. Giai đoạn phân lập văn hóa truyền thống ở Việt Nam https://thuviensach.vn Giai đoạn văn hóa này bắt đầu từ trung kì thuộc Đường cho đến tk. X, khi mà văn hóa Hán đã có chỗ đứng không thể lay chuyển được ở ba tiểu vùng Âu Việt, Lạc Việt và Đông Lạc Việt. Kết thúc thời thuộc Đường, nhà Tống tiến hành phân phần đất ba tiểu vùng này thành hai đạo trên cơ sở văn hóa – kinh tế các tộc người, gồm Quảng Nam Tây Đạo, gọi tắt là Quảng Tây; và Quảng Nam Đông Đạo, gọi tắt là Quảng Đông [tư liệu điền dã 2008]. Sự hòa trộn giữa nền tảng văn hóa Bách Việt (Âu Việt, Nam Việt, Đông Lạc Việt) và văn hóa Hán tại các địa phương này không ngừng được củng cố, cuối cùng hình thành vùng văn hóa Hoa Nam truyền thống. Tiểu vùng Tây Lạc Việt từ cuối thuộc Đường đã bắt đầu vận động cho sự tái độc lập chính trị nhờ vào nền tảng vững chắc của văn hóa Bách Việt cổ. Năm 938 Ngô Quyền đại thắng quân Nam Hán trên sông Bách Đằng, mở đầu cho một kỷ nguyên mới: văn hóa truyền thống ở Việt Nam. Đi từ đỉnh cao văn minh Đông Sơn sang các thời kì tranh chấp, hòa nhập văn hóa Hán đến thời kì phân lập văn hóa truyền thống ở Việt Nam là một quá trình dài, non mười thế kỷ. Chúng tôi dành trọn chương 3 của luận án để bàn thảo trực tiếp vấn đề này. 1.2.4. Văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam nhìn theo loại hình a. Tính tổng hợp của văn hóa Bách Việt ở Lĩnh Nam Lĩnh Nam là một bộ phận của văn hóa Bách Việt, do vậy việc quan sát so sánh vùng văn hóa này với các vùng văn hóa khác của Bách Việt là cần thiết để hiểu được đặc trưng loại hình văn hóa cùng với quy luật phát triển của nó. Các phân tích phần trên cho thấy vùng văn hóa Lĩnh Nam mang đặc trưng tổng hợp các kiểu loại hình kinh tế – văn hóa của các vùng văn hóa Bách Việt khác gộp lại, cụ thể bao gồm nông nghiệp lúa nước, nghề rừng, nghề nương rẫy, nghề biển (đánh bắt, thương mại) v.v.. tương ứng với kiểu địa hình phức tạp, có đồng bằng, thung lũng ven sông, núi cao, biển đảo.. Xét về tính chất, vùng văn hóa Lĩnh Nam đa dạng phức tạp song vẫn mang những nét chung của văn hóa Bách Việt do các điều kiện chủng tộc, ngôn ngữ, phong tục-tập quán và nguồn gốc văn hóa nông nghiệp quy định. Xét trong mối quan hệ so sánh với vùng đất phía nam tiếp giáp với Lĩnh Nam, đời sống kinh tế- văn hóa nông nghiệp lúa nước được xem như đặc trưng chung song https://thuviensach.vn giữa hai vùng này vẫn tồn tại các điểm khác biệt cơ bản như nguồn gốc chủng tộc, ngôn ngữ (Lĩnh Nam: Nam Á-Bách Việt; phần còn lại ở Đông Nam Á: Nam Đảo), tất nhiên cũng có những khác biệt về văn hóa, chẳng hạn nhóm Nam Đảo thạo nghề biển hơn, nhóm Lĩnh Nam thiên về nông nghiệp lúa nước vùng châu thổ đại lục v.v.. Bảng 1.4: So sánh loại hình kinh tế-văn hóa truyền thống các vùng văn hóa Bách Việt b. Tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam Lĩnh Nam đến lượt nó là một vùng văn hóa đa dạng do nhiều kiểu loại hình kinh tế – văn hóa tổng hợp tạo thành. Tuy kiểu tổng hợp mang tính hữu cơ, song ở chừng mực nhất định, chúng ta vẫn có thể phân vùng văn hóa này thành bốn tiểu loại hình kinh tế-văn hóa truyền thống đặc trưng khác nhau. Dù vậy, tất cả đều mang đặc trưng chung của văn hóa Lĩnh Nam, các đặc trưng riêng chỉ mang tính tương đối. Bảng 1.5: So sánh điều kiện tự nhiên và loại hình kinh tế- văn hóa truyền thống các tiểu vùng Lĩnh Nam https://thuviensach.vn Qua bảng trên có thể thấy, tiểu vùng Tây Lạc Việt đặc biệt nổi trội hơn ở tính đồng nhất văn hóa do loại hình sinh thái đồng bằng trung châu và loại hình kinh tế – văn hóa nông nghiệp lúa nước tập trung tạo nên. Hai tiểu vùng Âu Việt và Đông Lạc Việt do điều kiện địa hình và vị trí địa lý đặc thù quy định, tính dị biệt trong văn hóa Bách Việt truyền thống là đặc trưng nổi trội, trực tiếp ảnh hưởng đến các quá trình lịch sử – xã hội và sau. Tiểu vùng Nam Việt tuy không mang tính dị biệt cao song do điều kiện địa hình phân tán nên cũng không đạt được tính đồng nhất cao. Sự khác biệt loại hình văn hóa giữa bốn tiểu vùng Lĩnh Nam trực tiếp quy định nội dung và tính chất văn hóa Bách Việt https://thuviensach.vn trong vùng cũng như quyết định kết quả của quá trình giao lưu, tranh chấp và chống Hán hóa của từng tiểu vùng. Tiểu kết chương 1 Trong chương 1 này, chúng tôi đã tập trung vào mấy nội dung chính sau: 1. Ở phần cơ sở lý luận, chúng tôi xác định luận án sẽ được triển khai theo hướng kết hợp nghiên cứu địa văn hóa và sử văn hóa. Cả hai hướng này đều được triển khai theo phương pháp văn hóa so sánh. 2. Phần cơ sở thực tiễn tiến hành định vị văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam theo cấu trúc tọa độ (bao gồm không gian – chủ thể – thời gian) và loại hình. Lĩnh Nam là vùng văn hóa cực nam của khu vực văn hóa Bách Việt mang kiểu tự nhiên tổng hợp đồi núi, thung lũng, đồng bằng châu thổ, biển đảo của toàn vùng Bách Việt, có khí hậu á nhiệt đới gió mùa thuận lợi cho kiểu kinh tế tổng hợp, trong đó nông nghiệp lúa nước là nghề chủ đạo. Lĩnh Nam là chiếc nôi hình thành cộng đồng Bách Việt, sau phân tán thành hai nhánh là Tây Việt thiên di lên phía bắc đến các vùng hồ Động Đình, Phàn Dương, lên phía tây đến cao nguyên Vân-Quý; và nhánh Đông Việt di cư lên vùng duyên hải đông bắc, đến vùng hạ lưu Dương Tử và vùng đất Mân-Đài. Tại Lĩnh Nam, ba chi tộc Âu Việt, Nam Việt và Lạc Việt phân bố ở bốn tiểu vùng khác nhau, mỗi chi tộc có phong cách văn hóa riêng do các điều kiện sinh thái và quá trình lịch sử – xã hội quy định. Lịch sử văn hóa Bách Việt Lĩnh Nam chảy chung dòng chảy của Bách Việt, cụ thể phân thành ba giai đoạn gồm giai đoạn hình thành, phát triển và xung đột nội tộc; giai đoạn giao lưu-hòa nhập với văn hóa Hán; và giai đoạn phân lập văn hóa truyền thống ở Việt Nam. Mỗi giai đoạn thể hiện các xu hướng vận động riêng. Nhìn chung, đây là vùng tiếp nhận văn hóa Hán muộn và với mức độ trung bình, do vậy vẫn lưu giữ được cơ tầng văn hóa Bách Việt ở những tầng mức nhất định. Riêng tiểu vùng Tây Lạc Việt với các điều kiện tự nhiên, thành phần tộc người, đặc trưng văn hóa và quá trình lịch sử-xã hội đã phát triển dần theo https://thuviensach.vn xu hướng riêng, cuối cùng phân lập thành văn hóa truyền thống ở Việt Nam vào cuối thiên niên kỷ I sau CN. Vì là vùng văn hóa mang kiểu tự nhiên tổng hợp, kiểu loại hình kinh tế – văn hóa tổng hợp trên cơ sở nghề nông nghiệp lúa nước, là chiếc nôi hình thành, phân tán và tái hợp các cộng đồng Bách Việt và văn hóa Bách Việt, vùng văn hóa Lĩnh Nam của Bách Việt mang trong mình hai đặc trưng cơ bản là tính tổng hợp và tính thống nhất trong đa dạng. Vì là một bộ phận của văn hóa Bách Việt, văn hóa Lĩnh Nam nhìn chung mang kiểu loại hình gốc nông nghiệp lúa nước, gắn liền với truyền thống văn hóa Đông Nam Á cổ. https://thuviensach.vn Chương 2: VĂN HÓA BÁCH VIỆT VÙNG LĨNH NAM Trên cơ sở xác định cơ sở lý luận và thực tiễn ở chương 1, chúng tôi tiến hành khảo sát văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam góc nhìn hệ thống – cấu trúc, đặc biệt là theo trục từ tư duy đến thao tác, tức từ nhận thức đến hành động. Chính vì thế, chúng tôi phân văn hóa theo hệ thống các thành tố, bắt đầu từ văn hóa nhận thức, đến văn hóa tổ chức (văn hóa tổ chức đời sống tập thể, văn hóa tổ chức đời sống cá nhân) rồi đến văn hóa ứng xử (văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và văn hóa ứng xử với môi trường xã hội). Cấu trúc này được sử dụng theo tác giả Trần Ngọc Thêm [2001] trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. 2. 1. Văn hóa nhận thức Bề dày văn hóa Bách Việt cổ vùng Lĩnh Nam cùng với đặc thù của tự nhiên sông nước, khí hậu nóng ẩm địa phương đã tạo nên những nét đặc sắc trong văn hóa nhận thức. Là một vùng văn hóa tiêu biểu, Lĩnh Nam thừa hưởng nhiều thành tựu sáng tạo chung của cả Bách Việt. Chính vì thế, việc khu biệt sản phẩm văn hóa nhận thức của riêng của Lĩnh Nam so với Bách Việt khó có thể thực hiện được một cách rạch ròi. Trên bình diện nhận thức về tự nhiên, cư dân Lĩnh Nam cũng như nhiều cộng đồng nông nghiệp khác đều mang trong mình tư duy lưỡng phân (dualism) cao do đời sống nông nghiệp phụ thuộc vào tự nhiên. Tác giả Nguyễn Duy Hinh [2004] nhận định dân Bách Việt xưa thiên về tư duy trực diện, nhận thức gắn chặt với lối sống, biểu hiện cụ thể thành cặp đôi Đực–Cái và tín ngưỡng phồn thực. Cặp đôi Đực–Cái này trùng hợp ngẫu nhiên với cặp đôi Sáng–Tối của người Hoa Hạ, và đến khi người Hoa Hạ với tư duy triết học tốt hơn đã triết lý hóa thành quy luật âm dương. Lê Văn Hảo [1982: 29] cho rằng tư duy hài hòa và ý niệm đối xứng góp phần tạo nên nét cân đối của hoa văn gốm Phùng Nguyên[40] và trống đồng Đông Sơn. Tác giả Trần Ngọc Thêm [2001: 99-121] bằng phân tích ngôn ngữ học văn hóa chứng minh rằng bản thân hai khái niệm âm, dương có xuất xứ từ hai khái niệm ina, yang nghĩa là https://thuviensach.vn “mẹ” và “đất” của các ngôn ngữ Đông Nam Á cổ đại. Riêng Kim Định [1999: 229-252][41] chứng minh gốc tích Việt cổ của triết lý âm dương, tam tài và ngũ hành, tức theo dòng văn hóa nhận thức có các thành tố lẻ. Tác giả này còn tìm thấy sự tương đồng của sơ đồ Lạc thư với bố trí không gian của thành Cổ Loa xưa và cách sắp xếp bố cục trên bề mặt trống đồng[42]. Liêu Minh Quân [2004: 16-18] chứng minh bổ sung các quan niệm “Ba dã” (波也/po me/, chỉ mẹ-cha, cặp tiêu biểu của triết lý âm dương) và “Tam cái” (/, tức Tam thế, tương ứng với Tam tài (thiên-địa-nhân)) trong văn hóa Choang chính là hai thể hiện sinh động và “thuần phác” của triết học âm dương và tam tài của người Việt xưa ở Lĩnh Nam. Trong văn hóa Đông Sơn cũng từng có hình ảnh cóc ba chân (trống Hữu Chung) [Kim Định 1999. Phạm Ngọc Liễn (1999) nghiên cứu những bản khắc trên đá ở Sapa nhận diện thấy dấu hiệu của tam tài thiên – địa – nhân(45). Theo Nam Việt Chí, kinh thành thời Hùng Vương có “9 vòng 9 dặm” v.v.. Có thể từ nền tảng triết lý Âm dương và Tam tài, người Việt xưa đã phát triển thành triết lý Ngũ hành để lý giải sự hình thành và tồn tại của vạn vật. Một thể hiện khác của dòng văn hóa nhận thức theo dãy số lẻ có thể kể đến là phong tục lễ tết Lĩnh Nam thiên hẳn về các ngày tháng số lẻ (Tết xuân 1 tháng giêng, tết Lồng tồng 3 tháng ba, tết Đoan ngọ 5 tháng năm, tết Ngâu 7 tháng bảy v.v..). Đời sống văn hóa nông nghiệp lúa nước phụ thuộc nhiều vào tự nhiên (chế độ nước, thời tiết, lượng ánh sáng mặt trời), là điều kiện cần và đủ để người Bách Việt xưa tiến hành quan sát thiên văn để cố gắng đưa sản phẩm nhận thức ấy vào đời sống vật chất và tinh thần (tâm linh) của chính mình. Nhị thập bát tú với vai trò lớn lao của chòm sao Thanh long gắn liền với các hiện tượng hai mùa mưa-nắng ở Lĩnh Nam nói riêng, toàn cõi Bách Việt nói chung là một thí dụ. Ngoài ra, tấm ván gỗ khắc hình chòm Bắc đẩu trong phong tục tang ma xưa, chiếc rìu đá Bắc Sơn có niên đại 6000 năm trCN có khắc hình chòm sao Vũ Tiên (Hercules) [Trần Ngọc Thêm 2001: 164-165] v.v., tất cả nói lên rằng người Lĩnh Nam xưa đã từng đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong nhận thức về vũ trụ. Song, có lẽ do người Việt xưa mang tư duy tổng hợp, thiếu tính rạch ròi nên chỉ dừng lại ở mức đại khái chứ chưa thật sự nâng thành hệ thống hoàn chỉnh. https://thuviensach.vn Trong lịch pháp, cư dân Lĩnh Nam sớm biết đo đạc thời gian và dùng nông lịch. Chiếc trống đồng Hoàng Hạ được cho là có những bức thiên đồ cho phép xác định các ngày tiết trong năm bằng cách đo và xác định bóng nắng [Bùi Huy Hồng 1974: 364-372]. Hơn thế, hệ đếm giờ trong ngày và tháng trong năm đều nhất quán như vậy. Đó là loại lịch kiến Tý lấy tháng 11 âm lịch làm tháng khởi đầu năm mới vì nó hoàn toàn phù hợp với kiểu tự nhiên phương Nam. Nhiều cộng đồng cư dân biệt lập như người Khơ-mú (Kammu) vẫn ăn tết vào tháng 11. Còn cuốn Đại Nam nhất thống chí có ghi vùng Bất Bạt, Mi Lương (nay thuộc Hà Tây) đến tk.XIX vẫn lấy tháng 11 làm tháng đầu năm [Trần Ngọc Thêm 2001]. Nếu tính theo hệ lịch kiến Tý này thì ngày 5 tháng 5 vừa tròn tết Nửa năm. Trong công trình nghiên cứu của mình, Nguyễn Cung Thông [2009] đã chứng minh tên gọi gốc Việt cổ của 12 con giáp trong dãy Địa chi phương Đông. Tác giả Nguyễn Tài Cẩn [2000: 21] trước đó cũng từng tìm thấy mối liên hệ ấy của thìn và rồng/rắn, sửu với trâu, hợi và cúi, ngọ với ngựa, mão với mèo. Bảng 2.1: Mười hai con giáp theo âm Việt cổ theo công trình của Nguyễn Cung Thông Tác giả Bùi Huy Hồng [1973: 299] có dẫn lịch Bàu Ràn cổ tìm thấy ở Campuchia được cho là dùng tên 12 con giáp giống với tiếng Việt và tiếng Mường, tuy nhiên tác giả đã không phân tích sâu về chúng. Trong nhận thức về con người, người Việt cổ luôn coi con người là một tiểu vũ trụ, là bộ phận của đại vũ trụ. Quy luật sống và chết hoàn toàn tuân theo quy luật âm dương của tạo hóa. Sự sống của người Việt xưa bắt đầu từ sự sinh sôi nảy nở của đất (hạt gạo, hoa màu), do vậy đất là “người Mẹ vĩ đại”. Trong hôn nhân người Đông Sơn luôn phải có gói muối và nắm đất (âm và dương), sau có thêm cốm và hồng, trầu và cau. Sự sống bắt đầu từ đất và nước, do vậy https://thuviensach.vn