🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vân Đài Loại Ngữ
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
THÔNG TIN SÁCH VÂN ĐÀI LOẠI NGỮ 芸臺類語
LÊ QUÝ ĐÔN
Bản dịch của:
TẠ QUANG PHÁT PHỦ QUỐC VỤ KHANH ĐẶC TRÁCH VĂN HÓA 1973
https://thuviensach.vn
Thông tin ebook:
Đánh máy: Ngọc Sơn, teddy_M, kvkhuong, bipbip, inconchaylonton, windyclover, Cakeo, amibosi, Quanghop92, Gomu, suongkt, linling, vqsvietnam, HueChi, yeuhoatigone, linh_tt, kimduyen, nhapcua, Juicy, Searatsuki, stickman, danguyen, hhongxuan, LQL, yelgre, nhnhien, huonggiang, ngotheanh86, kimtientang, Vulinh236, orleander, Invisibleman, Minhhanhtuc, songsongsau, Quách Châu.
Soát lỗi: 1953snake, 4DHN, vqsvietnam
Phần Hán văn: 1953snake, Ngọc Sơn
Bìa: 1953snake
Làm ebook: 4DHN
Ngày hoàn thành: 31-5-2016
Ebook này được thực hiện theo dự án "1000 cuốn sách Việt một thời vang bóng" của diễn đàn TVE-4U
https://thuviensach.vn
Mục lục
Tiểu-sử của Lê- Quý-Đôn
Lời tựa
Bài tựa của tác-giả
QUYỂN I
1. LÝ-KHÍ (54 điều)
QUYỂN II
2. HÌNH-TƯỢNG
QUYỂN III
3. KHU-VŨ (93 điều)
QUYỂN IV
4- ĐIỂN-VỰNG (120 điều)
QUYỂN V
5 - VĂN-NGHỆ (48 điều)
QUYỂN VI
6 - ÂM TỰ
QUYỂN VII
7 - THƯ-TỊCH (sách vở)
QUYỂN VIII
8. SĨ-QUY
QUYỀN IX
9. PHẨM-VẬT
CHÚ THÍCH
https://thuviensach.vn
Tiểu-sử của Lê- Quý-Đôn
(1726 - 1784)
Lê-Danh-Phương (sau đổi là Lê-Quý-Đôn) tự là Doãn-hậu, hiệu là Quế đường, sinh ra trong niên-hiệu Bảo-thái thứ 7 (1726) đời Vua Lê Dụ-tông thời Chúa Trịnh-Cương ở xã Diên-hà, tỉnh Sơn-nam (nay là tỉnh Thái-bình)t con của ông Lê Phú-Thứ (sau đổi là Lê Phú Thứ) và bà họ Trương.
Ông Lê Phú Thứ là một danh-nho đỗ tiến sĩ trong niên-hiệu Bảo-thái (1724) làm quan đến chức Hình-bộ Thượng-thư.
Từ thủa bé, Lê-Danh-Phương đã nổ tiếng là thần đồng về trí thông minh và óc nhớ dai:
- 2 tuổi đã biết đọc chữ Hữu 有 (là có), chữ Vô 無 (là không). - 5 tuổi đã học được nhiều thiên trong kinh Thi.
- 11 tuổi học sử, mỗi ngày thuộc tám chín mươi trương và học kinh Dịch.
- 14 tuổi đã học hết Ngũ Kinh, Tứ thư sử truyện và đọc cả sách của Chư tử, trong một ngày có thể làm 10 bài phú mà không cần viết nháp.
Tài làm thơ của Lê-Danh-Phương lại càng đáng làm cho mọi người phải thán-phục.
Một hôm thấy Lê-Danh-Phương rắn đầu biếng học, cha ông quở trách, bắt ông phải ứng-khẩu làm một bài thơ Rắn đầu đề tạ tội với điều-kiện có nhiều tên rắn. Ông đọc ngay:
Chẳng phải liu-điu vẫn giống nhà,
Rắn đầu biếng học chẳng ai tha.
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ,
Nay thét mai gầm rát cổ cha.
Ráo mép chỉ quen lời lếu-láo,
Lằn lưng cam chịu vết roi tra.
Từ nay Châu Lỗ xin siêng học,
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.
https://thuviensach.vn
Thật đúng là bài thơ tạ tội rắn đầu biếng học, chứa đựng nhiều tên rắn như liu-điu, hổ lửa, mai gầm, hổ mang.
Một thần đồng như thế, thì ngũ-quan của ông ắt có gì đặc biệt khác thường: đó là hai mắt của ông luôn luôn dao-động.
Năm Canh-thân nhằm đầu niên-hiệu Cảnh-hưng (1740) Lê-Danh-Phương theo cha lên học ở kinh đô Thăng-long.
Năm Quý-hợi (1743), nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 4, ông ứng thí ở trường Sơn-nam đỗ Giải nguyên, lúc ấy ông 18 tuổi.
Năm Cảnh-hưng thứ 13. (1752), ông được 27 tuổi, thi hội đỗ đầu, vào thi Đình khoa Nhâm-thân (1752) đỗ Bảng nhãn.
Ông được bổ nhiệm chức Thụ-thư ở Viện Hàn-lâm.
Mùa xuân năm Giáp-tuất (1754), nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 15, ông được sung vào ban Toản-tu Quốc-sử.
Năm Bính-tý (1756), nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 17 ông phụng mệnh đi liêm phóng ở tỉnh Sơn-nam, tố giác một số quan chức ăn hối lộ.
Tháng 5 năm ấy, ông được biệt-phái sang Phủ Chúa Trịnh, coi Phiên-binh.
Tháng 8 năm ấy, ông được sai đi hiệp đồng ở các đạo Sơn-tây, Tuyên-quang, Hưng-hoá, đem cơ Tả-dực đánh giặc Hoàng-Công-Chất, có công to. Lúc về triều, ông dâng bài điều trần 19 khoản nói về chức chưởng Phiên-binh Chúa Trịnh khen và thưởng ông 50 lạng bạc.
Năm Đinh-Sửu (1757), nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 18, ông được thăng chức Thị-giảng Viện Hàn-lâm.
Năm Canh-thìn, nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 21 (1760), ông và Trần Huy-Mật sung sứ bộ sang nhà Thanh báo tang Thái Thượng-hoàng Lê Ý-tông băng và dâng cống.
Năm Tân-tỵ nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 22 (1761), ông và sứ-bộ đến Bắc-kinh yết kiến Hoàng-đế nhà Thanh. Trong dịp này, các nho thần nhà Thanh nghe tiếng ông đều có đến sứ quán thăm hỏi, ông cũng có gặp và giao du với sứ thần Triều-tiên.
https://thuviensach.vn
Từ trước sừ-bộ Việt-nam chưa từng đến nhà Thái-học bái yết Tiên-thánh Khổng-Tử. Ông liền cùng Trịnh-Xuân-Chú đến cung yết nhà Thái-học và hội đàm với quan Trợ-giáo Trương-Nguyên-Quan và Bác-sĩ trương Phương Thú.
Trên đường về của sứ-bộ, ông thường biện luận với viên Bạn-tống Tần Triều-Hãn uyên bác về học vấn. Tuy có nhiều điều bất đồng ý kiến, Tần-Triều Hãn đã phải than rằng: “Nhân-tài như Lê-Quý -Đôn, ở Trung-quốc cũng ít có” .
Ta có câu ngạn ngữ: Đi một ngày đàng, học một sàng khôn.
Cuộc đi sứ sang Trung-quốc này đã mang lại cho ông nhiều kiến-văn quý báu mà ông sẽ lần lượt kể lại trong sách Vân-đài-loại-ngữ của ông.
Năm Nhâm-ngọ nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 23 (1762), ông về triều được thăng-thưởng quan Hàn-lâm-viện Thừa chỉ, ông được chọn làm chức Học-sĩ ở Bí-thư các.
Những kiến văn, những quan-sát và những suy-tư của ông trong hai năm đi sứ sang Trung-quốc đã giúp ông định hướng đường lối chính trị của ông. Ông có hoài bão dựa vào Chúa Trịnh để hoàn-thành sự-nghiệp chính-trị hầu bổ cứu cái tệ nhân tuần thủ cựu của đời bấy giờ.
Nhưng hoài-bão này của ông không thành đạt, vì sau khi đi sứ trở về ông có nhiều người đố kỵ ganh-ghét. Họ tìm đủ phương-cách để gièm pha đè nén ông.
Những tờ điều-trần của ông dâng lên đều bị xếp để yên.
Năm Giáp-thân, nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 25 (1764). được bổ nhiệm chức Đốc-đồng xứ Kinh-bắc (Bắc-ninh), ông ngăn cấm các nhà quyền quý không được áp bức dân nghèo.
Năm Ất-dậu, nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 26 (1765), được được bổ nhiệm chức Tham-chính xứ Hải-dương, ông từ tạ không đi và xin miễn quan về nghỉ, có lẽ vì là người nổi tiếng về văn-học mà phải bổ ra làm quan ở ngoài, nên bất đắc chí.
Ông nghỉ ở nhà được hai năm đặc-biệt chú trọng về địa-lý.
Năm Đinh-hợi, nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 28 (1767) ông được khôi phục chức Thị-thư và tham gia biên tập Quốc-sử, kiêm chức Tu-nghiệp Quốc-tử giám.
https://thuviensach.vn
Năm Mậu-tý, nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 29 (1768), ông làm xong bộ sách Toàn Việt thi lục, dâng lên Chúa Trịnh, được thưởng 20 lạng bạc.
Tháng 8 năm Kỷ-sửu, nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 30 (1769), xứ Thanh hoa bị bộ tướng của Lê-Duy-Mật và Lê-Đình-Bản đánh cướp. Phan phái hầu làm Đốc lĩnh, ông làm Tán-lý quân vụ đem quân đi đánh giặc, cả phá quân Lê-Đình Bản ở núi Đồng-cổ vào tháng 9.
Năm Canh Dần, nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 31 (1770), ông thống-lĩnh quân kinh và quân thổ hơn 9.000 người, hội với quân Nghệ-an càn quét quân giặc. Lê-Đình-Bản phải đầu hàng. Lê Duy Mật phải tự sát. Ông được phong chức Thị-phó Đô ngự-sử.
Tháng 6, ông được thăng chức Công-bộ Hữu Thị-lang.
Tháng 7, ông dâng sớ xin lập đồn-điền ở vùng thượng du phía trên huyện Yên-định, phía dưới huyện Cẩm-thủy và các động sách của huyện Quảng-bình (nay là Quảng-hóa) và Nông-cống.
Chúa Trịnh liền sai quan Thiêm-sai Lý-Trần-Thản đi xem xét tại chỗ. Lý Trần-Thản về tâu rằng chưa thể làm được. Việc lập đồn-điền này bị xếp lại.
Năm Nhâm-thìn, nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 33 (1772) ông vâng lịnh Chúa Trịnh điều-tra về nỗi khổ-sở của nhân-dân và những điều nhũng-lạm của quan lại ở Lạng-sơn. Quan Đốc-trấn Lê-Doãn-Thân bị cách chức vì tờ báo-cáo của ông.
Ông đã định hướng đường lối chính-trị của ông là: Tận trung với Chúa Trịnh để trở thành một nhà chính-trị lỗi-lạc trong mai sau. Cho nên khi thấy quan Lễ-bộ Thượng-thư Trần-Huy-Mật, ngày trước đã đi sứ với ông sang Trung-quốc, tỏ thái-độ trung-thành với Vua Lê khi đứa con trai được chọn làm Phò-mã, ông liền đàn hặc Trần-Huy-Mật về tội bất kính đối với Chúa Trịnh. Lê-Duy-Mật bị giáng chức.
Ngày trước, khi Trịnh-Sâm còn ở Lương-phủ (cung riêng của Thế-tử), Phạm-Huy-Đỉnh rất được Trịnh-Sâm yêu mến. Ông liền lén lút tìm cách giao du thân mật với Phạm-Huy-Đỉnh. Do đó ông được Phạm-Huy-Đỉnh nâng đỡ dìu dắt lên cùng làm việc. Từ đó, phàm để tôn thờ Chúa Trịnh ức chế vua Lê, không có việc gì mà ông không hăng hái thi hành, cho nên quan lại đương thời đều kinh sợ ông.
https://thuviensach.vn
Tháng 4 năm Quý-tỵ, nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 34 (1773), Phạm-Huy Đỉnh được bổ nhiệm chức Thư-phủ sự của Chúa Trịnh, còn ông được bổ nhiệm chức bồi tụng.
Tháng 5 năm ấy, ông cùng với hoạn quan Nguyễn-Phương-Đình cùng với Xuân Quận-công Nguyễn-Nghiễm được lịnh cùng làm hộ tịch. Việc này do ông bàn định trước với Trịnh-Sâm, vì nhà nước nuôi dân phải biết rõ số dân để thi hành việc thuế má sưu dịch.
Nguyễn-Phương-Đình và Nguyễn-Nghiễm chỉ làm lấy lệ, mọi công việc đều do ông cáng-đáng.
Vì ông tra xét quá nghiêm khắc, nhân-dân phải căm hờn. Họ làm thơ nặc danh dán ở cửa Phủ Chúa, xin bãi chức Lê-Quý-Đôn mà dùng Hoàng-Ngũ-Phúc.
Chúa Trịnh-Sâm cho Hoàng-Ngũ-Phúc và Lê-Quý-Đôn lo làm hộ tịch.
Năm Giáp-ngọ, nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 35 (1774), ông đi đo và xét những ruộng cát ở ven biển xứ Sơn-nam. Ông đo được hơn chín ngàn một trăm mẫu, mỗi năm phải nộp 710.000 bát thóc cho nhà nước.
Tháng 9 năm ấy, tướng Hoàng-Ngũ-Phúc đem quân đánh Chúa Nguyễn. Chúa Trịnh-Sâm cũng đem quân đóng ở Hà-trung, để Lê-Quý-Đôn, Nguyễn Đình-Thạch, Nguyễn-Hoãn, Nguyễn-Đình-Huân làm chức Lưu-thủ kinh-đô. Những việc như hịch dụ văn thư, thiết quân mệnh tướng đều do Lê-Quý-Đôn làm
cả.
Ông công-bố 24 khoản thân sức đồn phòng, ngày ngày lo việc vận lương cho quân-đội Nam chinh, tuyển-bổ quân-sĩ.
Tháng 12 năm ấy quân Trịnh lấy được Thuận-hoá.
Năm Ất-vị nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 36 (1775), Chúa Trịnh đem quân về Thăng-long.
Lê-Quý-Đôn được thăng chức Lại-bộ Tả thị-lang kiêm Quốc-sử quán Tổng tài.
Tháng 10 năm ấy, xảy ra vụ gian lận ở trường thi. Lê-Quý-Đôn cấu kết với hoạn quan Phạm-Huy-Đỉnh cho Đinh-Thời-Trung (học trò của Lê-Quý-Đôn) tráo bài thi với Lê-Quý-Kiệt (con trai Lê-Quý-Đôn). Việc gian lận bị phát giác, Lê Quý-Kiệt bị hạ ngục, Đinh-Thời-Trung bị đày ở Yên Quảng
https://thuviensach.vn
Còn Lê-Quý-Đôn thì được Chúa Trịnh cho miễn nghị vì là bậc đại thần.
Mùa xuân năm Bính-thân, nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 37 (1776), Chúa Trịnh đặt ty Trấn phủ ở Thuận-hoá, ông được bổ vào Thuận-hoá làm chức Hiệp trấn Tham-tán Quân-cơ, cùng với Nghiêm Quận-công Bùi-Thế-Đạt làm chức Đốc-suất kiêm Trấn-phủ.
Vào đến Thuận-hóa, ông quy định thể-lệ tố-tụng, hạ lịnh cho dùng tiền kẽm, ba đồng ăn một, khai thông việc chở chuyên thóc gạo, giảm thuế đò thuế chợ, cấp bằng nấu muối và cải-cách y-phục.
Ông lại có dịp khảo cứu sấm-ký và hình-thế núi sông đất Tây-sơn.
Tháng 9 năm ấy, ông trở lại triều tâu với Chúa Trịnh-Sâm rằng: “Tây-sơn có đất thiên-tử, 12 năm nữa, sức mạnh của họ sẽ không có ai chống nổi. Đại-tướng trấn ở Thuận-hoá e không phải là tay đối địch với họ, xin Chúa để ý” .
Nhưng Chúa Trịnh-Sâm cho là lời quá đáng không hề lưu ý. Ông cũng là thầy địa lý cao siêu.
Tháng chạp, ông nhậm chức Hành-bộ phiên Cơ mật-vụ kiêm chưởng tài phú
Năm Mậu-tuất, nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 39 (1778), ông được bổ nhiệm chức Hành Tham-tụng. Ông cố xin đổi sang võ ban, liền được trao chức Hữu Hiệu-điểm, quyền Phủ-sự, phong tước Nghĩa-phái-hầu.
Năm Kỷ-hợi, nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 40 (1779), có người bổn thổ đất Tụ-long tên là Hoàng-Văn-Đồng, cha truyền con nối làm chủ mỏ đồng nơi ấy. Vì thiếu thuế, Hoàng-Văn-Đồng bị Lê-Quý-Đôn giam vào ngục. Hắn lại đút tiền cho cai ngục và trốn thoát. Sau đó hắn khởi loạn đem quân vây đánh Tuyên
quang và Sơn-tây, bị Nguyễn-Khản đánh dẹp và phải đầu hàng.
Những người đố kỵ với Lê-Quý-Đôn cho rằng ông đã gây biến và xin giáng chức. Ông bị biếm chức.
Năm Tân-sửu, nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 42 (1781), ông được sung chức Quốc-sử Tổng-tài.
Năm Quý-mão, nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 44 (1783), ông được bổ ra làm chức Hiệp-trấn xứ Nghệ-an.
Được một năm, ông lại về triều và được thăng chức Công-bộ thượng-thư.
https://thuviensach.vn
Ngày 14 tháng 4 năm Giáp-thìn, nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng thứ 45 (1784), ông Lê-Quý-Đôn thất lộc tại làng Nguyễn-xá, huyện Duy-tiên, hưởng thọ được 58 tuổi.
Qua nhưng hành vi của ông như thẳng tay đàn hặc bạn đồng liêu (việc ông Trần-Huy-Mật bị giáng) để tỏ dạ trung thành với Chúa Trịnh, như lén lút giao kết chặt chẽ với Phạm-Huy-Đỉnh để được ông này dìu đắt nâng đỡ cho làm việc, như cấu kết với Phạm-Huy-Đỉnh để gian lận bài thi cho con, như không từ một hành động nào để ức chế vua Lê và tôn thờ Chúa Trịnh, chúng ta có thể thấy Lê-Quý Đôn có học vấn uyên thâm nhưng không phải là bậc cao-sĩ.
Về sự-nghiệp văn chương, ông Lê-Quý-Đôn có lưu lại cho đời khá nhiều sách:
I. Về thi văn:
A. Sáng-tác:
- Quế-đường thi tập.
- Quế-đường văn tập.
B. Biên-tập:
- Toàn Việt thi lục.
- Hoàng Việt văn hải.
II. Về sử:
- Đại-Việt thông-sử.
- Phủ-biên tạp lục.
- Bắc sứ thông lục.
- Kiến văn tiểu lục.
III. Về kinh-điển chú-giải:
- Thư kinh điển nghĩa.
IV. Về tổng-loại:
- Vân-đài loại-ngữ.
- Kiến văn tiểu lục.
https://thuviensach.vn
V. Về triết-học:
- Quần thư khảo biện.
- Thánh mô hiền phạm lục.
- Âm chất văn chú.
Ngoài những tác-phẩm kể trên, ông Lê-Quý-Đôn còn để lại những bài văn hài-hước bằng chữ nôm:
- Lấy chồng cho đáng tấm chồng (kinh nghĩa).
- Chim khôn đậu nóc nhà quan (kinh nghĩa).
- Mẹ ơi con muốn lấy chồng (kinh nghĩa).
- Gái quá thì (phú).
Vân-đài loại-ngữ
(芸臺類語)
Vân 芸 tức vân-hương 芸 香, tên một thứ cây sống nhiều năm, cao hai ba thước, lá xanh lợt, khoảng tháng 6 tháng 7 trổ hoa, hoa có bốn cánh màu vàng nhiều hương thơm, dùng làm thuốc, trừ được loài mọt trong sách. Cho nên người ta dùng vân-hương ghép vào trong sách để giữ sách được nguyên vẹn lâu dài.
Vân đài là đài chứa sách (có trừ mọt bằng vân hương).
Loại-ngữ là những lời nói những câu chuyện được xếp thành môn thành loại chung với nhau.
Vân-đài loại-ngữ là một bộ sách bách-khoa tập hợp những kiến-thức về triết-học, khoa-học, văn-học, vạn-vật-học xếp thành loại với nhau trong 9 đề mục:
1. Lý-khí (vũ-trụ luận).
2. Hình-tượng (vũ-trụ học).
3. Khu-vũ (địa-lý).
4. Vựng-điển (điển lệ, chế độ).
5. Văn-nghệ.
6. Âm-tự (ngôn-ngữ văn-tự).
https://thuviensach.vn
7. Thư-tịch (sách vở).
8. Sĩ-quy (phép làm quan).
9. Phẩm-vật (vật-dụng và vạn-vật học).
Trong Sách Vân-đài loại-ngữ, Cụ Lê-Quý-Đôn phần nhiều trích nhặt những lời nói của người xưa của sách xưa. Cho nên đọc sách Vân-đài loại-ngữ chúng ta gặp luôn cách trình-bày: ông này nói thế này, sách kia chép thế nọ.
Nhưng phần nhiều những tác-giả và những sách sử kể ra là người Trung quốc là sách Tàu, và những sự-vật được trình-bày là việc bên Tàu và vật bên Trung-quốc.
Thỉnh-thoảng Cụ Lê-Quý-Đôn có ghi thêm lời phê-bình hay nhận xét của Cụ, hoặc có trình-bày những sự vật của nước ta để so sánh với của Trung-quốc.
Đọc sách Vân-đài loại-ngữ rất có ích, chúng ta thu-thập được những kiến thức, học-thuật, phong-tục, nhận-xét, phương-pháp, suy-luận, tư-tưởng của thời xưa một cách tổng-quát, bởi vì nước ta học theo văn-minh Trung-quốc.
Nhờ đọc sách Vân-đài loại-ngữ, chúng ta được biết:
- Ông Lê-Trừng con ông Lê-Quý-Ly (Hồ-Quý-Ly) được nhà Minh trọng dụng, đã đúc súng đại-bác cho nhà Minh.
- Nguồn gốc tiếng cây bồ-hòn, vốn là cây vô-hoạn (无患) đọc sai thành bồ hòn.
- Sự tích thuốc lào và hiểu được câu ca-dao từ xưa còn để lại:
Nhớ ai như nhớ thuốc lào,
Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên.
Nguyên đầu tiên thuốc lào từ Ai-lao đem sang nước ta. Người ta hút thuốc lào trị được chứng hàn. Lúc mới đầu thuốc lào giá rất đắt, có người đã đổi một con ngựa lấy một cân thuốc lào. Thoạt tiên chỉ có người có bịnh hàn mới hút thuốc lào, dần dần đàn bà con trẻ ai ai cũng hút thuốc lào. Phong-trào hút thuốc lào bừng lên quá mãnh liệt, khiến nhà vua phải ra lịnh cấm hút thuốc lào, cấm trồng thuốc lào.
Nhiều người quá ghiền thuốc lào phải đục ống tre ở cột nhà làm ống điếu hút thuốc lào gây thành hỏa hoạn. Có người phải đào đất chôn bình điếu thuốc
https://thuviensach.vn
lào để tránh quan quân dò xét, rồi lén đào lên để hút nữa.
Đọc sách Vân-đài loại-ngữ chúng ta còn gặp được nhiều tích xưa chuyện lạ, lắm khi có vẻ hoang đường khó tin, như chuyện răng voi làm thành chữ thập xâu vào gỗ sơn-du, ném xuống sông thì Thủy-thần phải chết, vực sẽ biến thành gò.
Tất cả những kiến-thức về triết học, khoa học, văn học, vạn-vật học được xếp thành loại với nhau trong 9 mục sau đây:
1. Lý-khí. Mục này luận về vũ-trụ, về Thái-cực, Vô-cực. Cụ Lê-Quý-Đôn trình-bày những luận-thuyết của Chu-Hy, của hai anh em Trình-Hiệu, Trình-Di, của Trương-Tải. Trong khoảng trời đất chỉ có Lý và Khí. Lý là cái thể hình như thượng, là cái gốc của vạn-vật. Khí là cái vỏ hình nhi hạ, là cái khí-cụ làm nên vạn-vật. Cho nên khi sinh ra, người và vật đều bẩm-thụ cái lý mới có tính-tình, và cái khí mới có hình-hài.
Theo Cụ Lê-Quý-Đôn, đầy dẫy trong khoảng trời đất là khí. Còn theo chữ Lý thì chỉ để nói rằng cái khí là thực-hữu, chớ không phải hư không. Lý không có hình-tích, nhờ khí mới hiện ra được. Lý ở ngay trong khí.
2. Hình-tượng nói về vũ-trụ học. Cụ Lê-Quý-Đôn gom nhặt những kiến thức về sự vận-chuyển của mặt trời mặt trăng và tinh-tú trong vũ-trụ, về phận dã của các ngôi sao, về phép làm lịch, về thuyết trái đất tròn, về phép đo bóng mặt trời, về các động-vật được ghép vào thập nhị chi, về ngũ hành tương sinh tương khắc, về thủy-triều…
3. Khu-vũ nói về mối tương-quan giữa thiên-văn và địa-lý, giữa chính-trị và địa-lý, về phép làm bản-đồ, về các phương-hướng, về các kinh-đô của Trung Quốc qua các triều-đại, về địa-dư và lịch-sử của nước Việt Nam, về bốn đại châu trong thiên hạ…
4. Vựng-điền nói về tế-tự, về việc dùng hương khi cúng tế, về việc cầu mưa khi hạn-hán, về cách-thức giải-cứu nhật-thực, về lễ Vu-lan rằm tháng 7, về tiền giấy, về đồng cốt, về hôn-lễ nộp lụa nộp tiền xin cưới, về ngày sinh-nhật của Vua, về triều-hội, về nghinh-giá, về nhà trạm, về việc dùng kiệu, về phẩm-phục đời Đường, về tiền chi-phí của sứ-giả, về chế độ lương-bổng của nhà Đường và nhà Minh, về chế-độ ấm-sinh, về chế-độ khoa-cử, về chế-độ thi võ đời Đường, về
https://thuviensach.vn
cách-thức tuyển-dụng quan-lại, về quan-chế, về hộ-khẩu, tô thuế, lực-dịch, về quán-xá, điếm, trạm, về quân-chế, binh-chủng, vũ-khí…
5. Văn-nghệ nói về nguồn gốc của văn-học. Lục kinh là kho-tàng của tông giáo và đạo-đức. Văn-chương bắt rễ ở Lục kinh. Kinh Dịch là mối đầu về luận thuyết. Kinh Thư mở dòng cho chiếu, sách, chương, tấu. Kinh Thi lập ra thể-cách cho phú, tụng, ca, tán. Kinh Lễ gây mối cho minh, chầm, tụng, chúc. Kinh Xuân thu làm gốc cho ký, truyện, hịch.
Mục này lại nói về văn-chương thực-dụng, về văn-pháp, về thi-pháp, về cách bồi-dưỡng đạo-đức, tính-tình, tư-tưởng của nhà văn nhà thơ, về phép đọc sách…
6. Âm-tự nói về nguồn-gốc của âm dương của thinh âm và văn-tự, về mối tương-quan giữa thinh-âm và ca nhạc, về thinh-âm và lý-số, về hình và ý trong chữ Nho, về thổ-âm Quảng-đông, về phép viết chữ Nho, về ấn-loát…
7. Thư-tịch nói về các sách Kinh, sách Vĩ, về sách Quản-tử, sách Lão-tử, sách Âm phù kinh, sách Liệt-tử, sách Tuân-tử, sách Hàn-Phi-tử, sách Lữ-thị Xuân-thu, sách Tố-thư, sách Tân-ngữ, sách Khổng-tùng-tử, sách Thuyết-uyển…
8. Sĩ quy nói về cách xử sự của người làm quan đối với dân, với nước, với vua, với quan trên, với quan-chức đồng đẳng, với kẻ dưới sao cho phải đạo, cho ích nước lợi dân, để tránh tai vạ để phúc lành cho con cháu, về mánh khóe làm quan…
9. Phẩm-vật nói về nguồn-gốc của lâu-đài nhà cửa, xe thuyền, vải lụa, gầm vóc, về các giống lúa nếp lúa tẻ ở Việt-nam, về sự biến hóa của loài cá thành chim, về giống tê-giác, giống voi, giống cá…
Sách Vân-đài loại-ngữ không phải là một công-trình tập-thể, mà là công trình của một cá-nhân sưu-tập mọi vấn-đề trong khi đọc sách, chất chứa lâu ngày, sau đó mới phân-loại mà sắp đặt vào 9 mục.
Với những ưu-điểm và khuyết-điểm của nó, sách Vân-đài loại-ngữ rất có ích cho chúng ta về văn học, triết học, sử học, ngữ-học và về sinh-vật học.
Sài-gòn, ngày 16 tháng 5 năm 1972
TẠ-QUANG-PHÁT
Dịch-giả
https://thuviensach.vn
[1a] VÂN-ĐÀI LOẠI-NGỮ[1]
Lời tựa
Người xưa có ba điều bất hủ[2], mà lập ngôn[3] là một vậy.
Này, trong khoảng trời đất tự nhiên có đạo-lý bao-la vô cùng. Bản-thể của đạo-lý ấy thật tinh-vi. Công-dụng của đạo-lý ấy thật rõ-ràng. Chỉ có bậc thánh nhân quân-tử mới có thể dung hội[4] được và phát-minh ra thành những lời nói trứ-thuật trong sách sử. Tinh-thần còn ngụ ở đây, khuôn-khổ còn giữ ở đây, không phải là việc cẩu-thả vậy.
Những kẻ kiến-thức hẹp-hòi nhìn trời bằng ống, đong biển bằng bầu[5]thì làm sao đủ để nói với họ việc ấy được?
Ông Lê Quế-đường, người huyện Diên-hà, về sách thì không có quyển nào là không đọc, về vật thì không có món nào là không suy xét đến cùng.
Ngày thường nghiên-cứu được điều gì, ông liền biên chép thành sách. Sách của ông đề đầy bàn đầy chái không thể nào kể cho hết được.
Trong số sách của ông viết, bộ Vân-đài loại-ngữ là tinh tuý hơn cả.
Sách này chia ra làm chín quyển, môn loại rõ-ràng, nghĩa lý rành-rẽ. Trên nói về thiên-văn, dưới nói về địa-lý, giữa nói về nhân-sự. [1b] Cái học cách vật, trí tri, thành ý và chính tâm, cái công tu nhân, tề gia, trị quốc và bình thiên-hạ thì không có điều gì là không có ở trong sách ấy, cốt để phát-huy những ý tứ sâu-xa của các bậc hiền-triết đời trước và để bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học sau này.
Sau Lục-kinh[6], Luận-ngữ và Mạnh-Tử, Ông là người biết lập-ngôn chăng?
Ta với Ông qua lại thù ứng với nhau, may mà không bị khinh-bỉ là hạng già nua ngu độn, cho nên hôm nọ trong buổi đàm luận với nhau, tôi được Ông đưa cho xem bộ sách ấy.
Tôi đọc đi đọc lại thưởng-thức đôi ba lần và nhận thấy văn-chương tao nhã đầy đủ ý thú rộng-rãi sâu xa: dẫn giải mà mở rộng ra thì có thể suy cùng được cái tinh-vi của trời đất, gồm hết được các sự vật của xưa nay để đem ra sửa trị việc đời và giúp đỡ kế-hoạch của hoàng-gia, thì sự-nghiệp lớn-lao cao-xa ấy khó có thể lường độ trước được.
https://thuviensach.vn
Bậc hiền-triết đời trước có nói: “Thông hiểu việc Trời, Đất và Người gọi là nho” . Mà nội-dung trứ-tác của bộ sách Vân-đài loại-ngữ ngày có thể gọi là thông hiểu việc Trời, Đất và Người vậy chăng?
Ta nên bày ra trình cùng độc-giả và xin đem bộ sách này ra khắc bản in để truyền lại cho đời sau, cho nên viết bài tựa này.
[2a] Ngày mùng 1 tháng 7 mạnh thu năm Đinh-dần nhằm niên-hiệu Cảnh hưng (1777)
Khiêm-trai Trần-Danh-Lâm, người làng Bảo-triệu huyện Gia-định kính cẩn đề tựa.
[2b] VÂN-ĐÀI LOẠI-NGỮ
Bài tựa của tác-giả
Cổ-nhân nói cái học Cách vật trí tri[7], suy diễn phần công-hiệu của nó ra thì tiến đến việc tu thân (sửa mình) tề gia (yên nhà) trị quốc (trị nước) và bình thiên hạ (yên cả thiên-hạ). Cái học ấy thật rộng-rãi vậy.
Đạo tồn-tại ngay ở trong sự vật. Sự vật nào cũng có đạo: đạo ấy xa thì đến tận trời khắp đất, gần thì ở luân thường và các vật thường dùng hằng ngày của người ta. Không chỗ nào mà không có cái lý ấy của nó.
Đã có cái nghĩa ấy thì người quân-tử không thể không hiểu biết được.
Học để gom tụ trí-thức, hỏi để phân biệt điều hiểu biết, ôn lại việc cũ mà biết việc mới, thuần thục đôn hậu để trọng lễ, tháng ngày chất chứa thì tự nhiên hiểu biết thông suốt thấu đáo.
Suy cùng lý lẽ, thấu tận tính tình để đạt đến cái mệnh của Trời phú cho, thấu hiểu nghĩa lý đến mức thần-diệu để đem ra ứng-dụng, chẳng có gì mà không do đó mà ra cả.
Kinh Dịch nói: “Người quân-tử ghi nhớ rất nhiều những lời nói, những nết tốt của người đời trước để súc dưỡng đức hạnh của mình” .
Kinh Thư nói: “Người ta cầu được nghe biết nhiều để tùy thời đem ra kiến tạo công việc” .
https://thuviensach.vn
Khổng-Tử nói: “Con trẻ sao không học [3a] Kinh Thi, ở gần thì thờ cha mẹ, ở xa thì thờ vua, lại biết được nhiều tên cỏ cây chim thú” .
Đấy đều là công-phu cách trí.
Nhưng nếu ta giữ được gọn, chọn được tinh thì dù sự vật cổ kim rối loạn ở trước mắt, tự nhiên ta cũng có thể châm chước được phần gốc và phần ngọn, dung hội được phần bắt đầu và phần chung kết, để ta càng nhận thấy rằng tuy khác đường mà cùng về một chỗ, tuy khác lối mà cùng đến một nơi, thì làm sao có việc chê cười rằng đã rộng mà ít tóm tắt, đã nhọc mà không thành công được?
Tôi thường thử bàn luận về việc đó như sau:
Mặt trời mặt trăng và tinh-tú và văn-vẻ của trời. Khí hậu ở trong và ở ngoài tuy khác nhau, thứ-xá[8] triền-độ[9] có xuôi có ngược có chậm có mau, nào có cái gì là không có mực độ hằng thường không thay đổi?
Núi sông có cây là văn-vẻ của đất. Hình loại của cái này cái kia tuy khác nhau, mạch lạc, đầu cuối cao thấp mập ốm, nào có cái gì là không có mực đồ hằng thường không thay đổi?
Lễ nhạc và pháp-độ là văn-vẻ của loài người. Việc theo cũ đổi mới của đời xưa và đời nay, việc ưa chuộng ở trong hay ở ngoài nước, mỗi thứ đều có chỗ không đồng nhau. [3b] Nhưng cái ý nhân thời-thế mà lập ra chính giáo, thông biến cho thích-hợp với nhân-dân cũng chỉ có một mà thôi.
Việc nhỏ-nhen về nhân-sự, về vật dụng và về ăn uống, việc bé mọn về cư xử về thù-tiếp và tập-quán phong-tục cùng tính-tình thì không bao giờ không khác nhau, nhưng việc ở yên với nhau, nuôi dưỡng lẫn nhau, thân mến lẫn nhau và bảo bọc lẫn nhau thì cũng chỉ có một mà thôi.
Do đó mà nói thì việc tinh diệu của bậc thánh-nhân đã rập theo khuôn phép của trời đất và ủy khúc để cầu thành đại khái là thuận theo lẽ tự nhiên và cắt xén tô chuốt sơ lược mà thôi.
Người quân-tử đời xưa làm ra, người quân-tử đời sau noi theo, thì gọi cách vật là thế, gọi trí trí là thế, gọi gom đủ mọi lẽ để ứng phó với muôn sự là thế. Nhưng không phải chỉ lo phiếm mọi việc ở ngoại diện mà không lo cầu ở nội tâm đâu.
https://thuviensach.vn
Nếu không thế, lại ở mọi vật cứ lo suy cứu đến cùng thì chẳng gần như cái lầm đã phải mất con dê vì đường có nhiều lối rẽ hay sao[10].
Nhân đọc sách tôi trộm nhìn thấy thánh-nhân [4a] học hỏi như thế.
Thường thường lúc đọc sách tôi trích lấy những lời nói, những sự-tích trong các truyện ký rồi sửa đổi sơ lược, có khi lấy ý kiến mình mà bình-luận, có khi y theo bài văn cũ mà chép gom vào, chất chứa lâu ngày thành sách, chia ra làm 9 quyển, đề tên là Loại-ngữ.
Tôi tự suy độ, nói cao thì có khi thành xa vời trống không, nói thấp thì có khi thành thiển cận.
Nhưng mọi sự mọi vật đều có đầu mối để minh khảo xét tam tài (Thiên Địa Nhân) và ứng thù với hàng trăm điều biến đổi thì chưa ắt đã không có bổ trợ chút nào vậy.
Còn nói đến nghĩa lý thật to rộng thật tinh-vi để đạt đến lãnh-vực cách vật trí tri thì đã có những sách của các danh nho như Chu Đôn-Di ở Liêm-Khê, Trình Di, Trình-Hiệu ở Lạc-Dương, Trương-Tái ở Quan-trung, Chu-Hy ở Mân-trung[11] rồi.
Tôi là kẻ hậu học ngu bỉ nào dám làm những việc trùng điệp[12] ở trong lãnh-vực ấy, chỉ mong những bậc học-vấn cao kiến-thức rộng đính-chính cho.
Ngày rằm tháng 7 mạnh thu năm Quý-tỵ (1773) nhằm niên-hiệu Cảnh-hưng. Lê-Quý-Đôn ở huyện Diên-hà viết.
[5a] MỤC-LỤC DẪN
1. Lưỡng nghi Trời và Đất định ngôi, hai khí âm dương cọ sát vào nhau. Làm người làm vật có tính có mệnh. Nghề thuốc, nghề bói và nghề phong-thủy (địa-lý) thì chí lý vẫn còn. Tiên Phật Quỷ Thần thì mênh-mông không thể liệu dò được. Người ta đứng ở giữa chỉ noi theo lẽ thường.
Viết những lời về Lý khí làm quyển thứ nhất.
2. Ở trên thì tinh-tú (ngôi sao), ở dưới thì núi sông, nhà làm lịch thì đo lường độ số, nhà xem thiên-văn thì chia vạch phân dã[13] của các tinh-tú.
Những dị-luận (bàn-luận lạ-lùng) về đất-địa, những dị-thuyết (lý-thuyết lạ lùng) về thủy-triều ở biển cả, việc gán ngũ-hành (Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ)
https://thuviensach.vn
vào lục giáp (Giáp-tý, Giáp-dần, Giáp-thìn, Giáp-ngọ, Giáp-thân, Giáp-tuất) mỗi thứ đều có phân loại khác nhau và được thu nhặt đầu đủ mà chiết trung cho chính-đáng vừa phải.
Viết những lời về Tượng-hình làm quyển thứ hai.
3. Vua Hiên-Viên chia đất ra muôn khu-vực, vua Hạ-Vũ chia đất làm năm cõi. Trời dựng ra nước, đặt ra vua. Vua dựng đô lập ấp.
[5b] Có nước thì quan-hệ đến khí-vận, giữ nước thì quan-hệ đến hình-thế. Chỗ Hy-Thức[14] ở gọi là Minh-đô.
Nói về địa-dư của nước Việt cũng là nói đến sách Thặng[15] của nước Tấn đời Xuân-thu.
Viết những lời về Khu-vũ làm quyển thứ ba.
4. Phép tắc của người đời trước đặt ra gọi là điển, được người đời sau noi theo gọi là lệ.
Việc trị nước quý ở vô-vi[16]. Lập pháp cốt ở nhân theo đời trước.
Lòng người đời xưa và đời nay vốn không khác xa nhau. Điều lợi điều hại của đời xưa và đời nay đại khái giống nhau.
Thi-hành lễ giáo không cần biến đổi phong-tục. Cứu chữa tệ đoan chỉ ở việc xét rõ sự thật.
Câu nệ đời xưa hay luyến mộ đời nay không thể gọi là thông đạo-lý. Viết những lời về Điển-vựng làm quyển thứ tư.
5. Hòa thuận chất chứa ở trong, tinh hoa phát hiện ra ngoài, đường kinh của trời, đường vĩ của đất đều là văn-chương lớn-lao.
Thảo tờ tấu, dẫn tờ sắc cũng có quan-hệ đến chính-trị.
Ngâm vịnh trứ-thuật, không đi đến đâu mà không phải là văn? Nhận chân về nguồn gốc thì tát cả đều quay về thuần chính.
Viết những lời về Văn-nghệ làm quyển thứ năm.
[6a] 6. Thanh âm biểu hiện tâm tình của thiên-hạ. Văn-tự tả hết những hình tượng trong thiên-hạ.
https://thuviensach.vn
Việc xưng-hô, cách viết, lối vẽ của muôn nước trong hải nội mọi thứ đều khác nhau, nhưng ý-tứ và nghĩa-lý thì không khác nhau.
Thanh âm bất tất phải bắt chước theo luật lữ[17]. Văn-tự bất tất phải phục hồi lối chữ triện chữ lệ[18].
Những gì hòa-thuận bằng-phẳng giản-dị thì người thông đạt lấy mà dùng. Viết những lời về Âm-tự làm quyển thứ sáu.
7. Từ khi có văn-tự thì có sách vở. Sách Ngũ kinh (Dịch, Thi, Thư, Lễ, Xuân-thu), sách Luận-ngữ và sách Mạnh-Tử thật như mặt trời mặt trăng sáng chói. Sử truyện của Bách gia[19] gần giống như vô số tinh-tú. Điển-hình đều còn, chỉ thú đều biểu lộ.
Nếu mình có thể xem xét rộng ra và có thể tóm tắt lại được thì cũng có thể tăng thêm trí-thức bổ ích tinh-thần.
Viết những lời về Thư-tịch làm quyển thứ bảy.
8. Thờ vua và trị dân, giữ chức quan và theo việc chính-trị, kẻ bề tôi thì có phép thường, bậc vua chúa thì có điều dạy bảo mưu chước.
Các nhà nho thời trước trải qua các đời càng giữ gìn điều răn dạy. Công to nghiệp cả thường ở đó vậy.
Viết những lời về Sĩ quy làm quyển thứ tám.
[6b] 9. Muôn vật thì có hình dáng tán mạn. Trăm việc thì phức-tạp rối-reng. Trời đất vô tâm mà hóa thành vạn vật.
Người ta thường ngày sử-dụng mà không biết.
Chế-tạo thì có đồ khí-cụ và có tên.
Sinh trưởng thì vạn vật tự-nhiên có hình dáng và màu sắc.
Cho nên phải xem xét, phải nghiên-cứu hình tượng và chủng loại từ lúc khởi đầu.
Viết những lời về Khí-vật làm quyển thứ chín.
[7a] VÂN-ĐÀI LOẠI-NGỮ
Mục-lục
https://thuviensach.vn
Quyển 1. - Lý-khí: 54 điều Quyển 2. - Hình-tượng: 38 điều Quyển 3. - Khu-vũ: 93 điều Quyển 4. - Điển-vựng: 120 điều Quyển 5. - Văn-nghệ: 48 điều Quyển 6. - Âm-tự: 111 điều Quyển 7. - Thư-tịch: 107 điều [7b] Quyển 8. - Sĩ-quy: 76 điều Quyển 9. - Phẩm - vật: 320 điều Tổng: 67 điều
https://thuviensach.vn
[8a]VÂN-ĐÀI LOẠI-NGỮ
QUYỂN I
1. LÝ-KHÍ (54 điều)
Trời lấy thể hư-không làm đạo. Đất lấy thể tĩnh làm đạo. Người ta phải hư không và yên-tĩnh mới có thể hợp với cái đạo của trời đất, bởi vì hư-không thì tự nhiên sáng suốt, yên-tĩnh thì tự nhiên an-định.
Lòng sáng-suốt, lý an-định thì cái công chen dự vào việc trời đất là ở đó.
Đức-nguyên của trời lớn-lao thay! Vạn vật bắt nguồn từ đó, ấy là nói về khí. Đức nguyên của đất thuần hậu rất mực! Vạn vật do đó mà sinh ra, ấy là nói về hình.
Đứng về trời đất mà nói thì tất cả đều có hình và khí.
Đứng về vạn vật mà nói thì tất cả đều nhận phần khí ở trời và thành hình ở đất vậy.
[8b] Đầy dẫy trong khoảng trời đất đều là khí cả.
“Lý” là ý nói có thật chớ không phải không có. Lý không hình dáng dấu vết, nương theo khí mà hiện lộ ra. Lý là ở trong khí vậy.
Âm và dương, lẻ và chẵn, biết và thực-hành, thể và dụng có thể đặt đối nhau mà nói. Nhưng lý và khí thì không thể đặt đối nhau mà nói được.
Thái-cực là một, là một khí hỗn-độn lúc đầu tiên.
Một sinh ra hai, hai sinh ra bốn để thành vạn vật. Ấy là Thái-cực chỉ có một mà thôi.
Con số Đại-diễn (của trời đất)[20]là 50, mà bỏ trống con số 1 không dùng là để tượng-trưng cho Thái-cực, thì không phải “có” chớ sao nữa?
Một lần mở ra một lần đóng lại gọi là biến.
Qua lại không cùng gọi là thông.
Đóng lại là không. Mở ra là có.
Qua khỏi là không. Tiến đến là có.
https://thuviensach.vn
Có và không cứ liên tiếp theo nhau. Người và vật cũng là một. Từ xưa đến nay lý ấy chưa từng đã không có ở đấy, thì có thể thấy rằng trong cõi hư không tịch-mịch vốn đã có cái [9a] lý ấy. Như vậy bảo rằng “cái có sinh ra từ cái không ”[21] có được chăng?
Trời thuộc dương, đất thuộc âm. Dương chủ về động, âm chủ về tĩnh. Đó là lời người ta phân-phối như vậy.
Cái dụng của trời thường động, nhưng cái thể của trời chưa từng không tĩnh. Cái thể của đất thường tĩnh, nhưng cái dụng của đất chưa đừng không động.
Trời mà không tĩnh thì bốn góc (đông, tây, nam, bắc) lấy gì mà yên định, bảy chính (mặt trời, mặt trăng và năm vì sao) lấy gì mà tựa mắc vào được.
Đất mà không động thì chỉ là một vật đóng cục thành khối mà cơ hồ tắt diệt hết ý sống.
Trời thì hành động mà khí tĩnh.
Đất thì hình tĩnh mà khí động.
Liệt tử nói: “Trời thì tích chứa khí, không có chốn nơi và không có hình. Mặt trời mặt trăng và tinh-tú thì tích chứa khí mà có ánh sáng chói-lọi vậy thôi”
[9b] Kỳ-Bá[22] nói: “Đất phía dưới người ta, ở giữa khoảng trống do đại khí nâng đỡ lên. Do đó không riêng chỉ có trời là nhẹ và trong nổi lên trên. Đất cũng nổi lên trên vậy.
Trời nổi lên bao bọc cả nước và đất.
Đất nổi lên trên nước và ở giữa trời.
Đấy cũng là thuyết Hồn thiên vậy.
Sách Khôn dư đồ thuyết của người Âu-tây nói: “Không có hơi khí thì trong bầu trời trống không, đất lấy gì mà treo lơ-lửng và ở giữa bầu trời được? ”
Sách ấy lại nói: “Chim-chóc bay được là vì lấy cánh vỗ hơi khí, cũng như người ta lấy tay vỗ nước mà lội vậy” .
Sách ấy lại nói: “Người ta quơ vẩy trong khoảng trống không thì nghe tiếng vi-vút. Nếu trong khoảng trống không ấy không có hơi khí thì không có vật gì khác để chuyển động sinh ra tiếng vi-vút được.”
https://thuviensach.vn
Khoảng không-trung yên lặng không có tiếng động.
Thấy trong vệt sáng từ kẽ hở xuyên vào bụi-bặm lớp-lớp bay lên bay xuống thì biết hơi khí đã khiến như thế.
Tôi nói mấy điều này là để chứng-minh hơi khí là có thật, thế mà người ta [10a] đều ngờ cho là lạ-lùng.
Xét theo sách Thông-luận của Tiết-Huyên[23] có câu: “Vẩy cây quạt thì có gió. Do đó mà thấy rằng trong khoảng trời đất không có chỗ nào là không có hơi khí” .
Sách ấy lại nói: “Trong khoảng trời đất bụi-bặm bay lớp-lớp không thôi dứt, không gián-đoạn, ấy là đều do hơi khí khiến như thế” .
Xem mặt trời soi chiếu vào cửa sổ thì có thể thấy rằng thuyết ấy rất hợp với lẽ ấy.
Sách Tố-vấn cũng nói: “Lên xuống ra vào, không chỗ nào là không có hơi khí” .
Dưới bầu trời trên mặt đất khắp nơi đều là gió-máy và hơi khí.
Chỗ gần người ta thì không thấy có gió, bởi lẽ các vật ở chung quanh ngăn trở, và sinh ý[24] làm tiêu tán hết.
Chỗ khá cao thì có gió lớn.
Chỗ cực cao thì có gió càng lớn, và vật-chất ở đấy cứng rắn và khô-ráo.
Cũng như đất sâu ở dưới núi, khi người ta đào xuống hơn hai trượng, thì mới thấy mềm và ướt, vừa lên khỏi mặt đất liền cứng-rắn thành đá.
Há rằng không phải gặp gió mà cứng hay sao?
Con trẻ ở trong bụng mẹ chỉ là một khối bào thai đầy máu mủ, mới [10b] sinh ra liền thấy cứng, thật là cùng một lẽ ấy.
Khi trời chìm xuống, khí đất bổng lên. Hơi khí của trời và của đất đều là sinh ý[25].
Gió-máy và hơi khí quanh quẩn qua lại trong khoảng ấy, không có lúc nào là không có và không phải động mới có còn tĩnh thì không đâu.
https://thuviensach.vn
Hơi khí chuyển động trong trời đất không gì lớn bằng bão và sấm. Bão thuộc âm. Sấm thuộc dương.
Hễ bão bắt đầu nổi lên mà có sấm động thì bão dứt. Đó làm âm bị dương ngăn.
Bão sắp dứt thì có sấm động. Đó là âm bị dương đánh tan.
Vùng Trung-châu ít sấm, bởi lẽ đất nước ở đấy dày và sâu, khí dương kiên cố, cho nên mùa đông mà có sấm là việc lạ.
Cõi Lĩnh-nam nhiều sấm, bởi lẽ đất nước ở đấy mỏng và cạn, khí dương tiết lậu đi mất, cho nên mùa đông mà sấm là việc thường.
[11a] Hơi khí khô ráo làm gió. Gió tan thì trời tạnh.
Hơi khí ẩm-ướt làm mây. Mây bốc lên làm mưa.
Đấy đều là hơi khí trung hoà tuyên sướng[26].
Hơi khí khô ráo và ẩm ướt lẫn lộn nhau thì làm sương mù. Sương mù thắng thế thì sinh ra chướng khí (khí độc). Đó là hơi khí bất hoà uất kết.
Cữ cụ [] là bão có phần chữ phong [] là gió, và phần chữ cụ [] là đủ, nói gió dữ ở đủ bốn phương đông tây nam bắc thổi đến.
Bão nổi lên buổi sáng thì kéo dài ba ngày. Bão nổi lên buổi chiều thì kéo dài bảy ngày. Bão nổi lên ban ngày thì kéo dài một ngày.
Lúc nổi lên, bão từ đông-bắc tới thì ắt từ hướng bắc thổi sang hướng tây, từ tây-bắc tới thì ắt từ hướng bắc thổi sang hướng đông rồi cùng đến hướng nam mà tắt dứt. Như vậy gọi là lạc tây (tắt ở phía tây) là hồi nam (quay về phía nam).
Nếu bão không lạc tây và không hồi nam thì qua tháng sau lại có bão nữa.
Bão nổi lên thật đúng giờ. Bão nổi lên ban ngày thì ngày sau dứt. Bão nổi lên ban đêm thì đêm sau dứt.
Bão là gió bất chính, là nghịch khí [11b] biến động mà cũng có độ thường như thế.
Trời cao xa cách mặt đấy không biết là mấy muôn dặm. Môn học trắc nghiệm đo tính ngang dọc, xuôi ngược, thêm bớt, nhân chia thật chẳng hơn một nắm con toán, mà đường vận-hành và vị thứ trải qua của thất chính (mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh) và nhị thập bát tú (28 chòm sao)[27] đều có thể biết được cả.
https://thuviensach.vn
Thì há chẳng phải là cái thế của nó rất lớn-lao, cái dụng của nó rất tinh-vi má quỹ-đạo của nó thật có thường độ hay sao?
Nếu không hằng-thường thì sao được yên-định? Nếu không được yên-định thì sao được lâu dài?
Cũng như gió là hơi khí mở đóng của trời đất, phát lên thì thành ra tiếng vi vút.
Người xưa còn truyền lại phép xem khí-hậu, đấy là nói cách xem khí-hậu ở trong đất liền.
Còn như ở biển cả mênh-mông há cũng có phép thường nhất định? Các đà công (cầm lái thuyền) và phu chèo thuyền lại có thể biết được ngày giờ, biết được chỗ nên tránh, chốn nên tới, bởi lẽ ở biển cả cũng có những dấu hiệu đáng tin rất thông thường như vậy.
Trang-Tử nói: “Gió nổi lên phương bắc, một luồng thổi sang hướng đông, một luồng thổi sang hướng tây, có khi thổi vút bay bổng lên như không, ai thở ra hít vào như vậy, [12a] ai cư-trú vô sự mà quạt phe phẩy như vậy? ”[28]. Đó cũng là lời có sở kiến chăng?
Ở phương bắc, khí âm thường nhiều mạnh, khí dương thường yếu kém không đủ.
Ở phương nam, khí dương thường nhiều mạnh, khí âm thường yếu kém không đủ.
Ở phương bắc tiết trời chưa rét lắm mà nước đã đông đặc thành băng, bởi lẽ khí dương tránh khí âm, để khí âm kết hợp ở dưới. Mùa đông rét có mưa tuyết, bởi lẽ khí âm lấn khí dương, để khí dương dồn lên trên.
Ở phương nam, khí âm phần nhiều tan biến ở dưới, cho nên nước không thể đông đặc thành băng. Mùa đông không có mưa tuyết bởi lẽ khí dương phần nhiều phát tiết ở trên cho nên mưa không thể biến thành tuyết được.
Đất lấy cát làm thịt, lấy đá làm xương, lấy cỏ làm lông, lấy sông nguồn làm mạch máu.
Cỏ cây trổ hoa trơn mướt là có sinh-khí dồi-dào.
Sông nguồn nước đầy tràn là có sinh-khí lớn-lao.
https://thuviensach.vn
Đất mầu-mỡ, đá đẹp-đẽ là sinh-khí có ở trong ấy.
Cây khô già mà mọc rêu là còn sống.
Đá bị đẽo phá vụn vặt mà còn kê dưới chân cột là còn tươi mướt. Ấy là sinh khí vẫn tồn-tại ở đấy.
Người [12b] và trời đất vốn là một gốc. Mà người ta suốt ngày cử-động làm việc ăn uống thì càng chung đụng với khí đất. Cho nên sách Khổng-Tử gia-ngữ nói: “Người sống ở đất cứng thì cương-nghị. Người sống ở đất bở thì yếu đuối. Người sống ở đất đen cứng thì tế-nhị. Người sống ở đất mầu-mỡ thì đẹp-đẽ. Người sống ở đất thưa mỏng thì xấu-xí.
Sách Nhĩ-Nhã[29] nói: Người ở đất Thái-bình thì nhân hậu. Người ở đất Đan-nguyệt thì mưu trí. Người ở đất Thái-mông thì đáng tín-nhiệm. Người ở đất Không-động thì vũ-dũng.
Sách Hoài-Nam-Tử[30] nói: Khí núi sinh nhiều con trai. Khí đầm sinh nhiều con gái. Khí nước sinh nhiều người câm. Khí gió sinh nhiều người điếc. Khí rừng sinh nhiều người yếu đuối. Khí cây sinh nhiều người khòm lưng. Khí đá sinh nhiều người mạnh-mẽ. Khí ở dưới thấp sinh nhiều người bị bịnh thũng. Khí hiểm sinh nhiều người bị bịnh bại xuội. Khí hang núi sinh người bệnh tê thấp. Khí đồi sinh nhiều người khùng. Khí rộng-rãi sinh nhiều người nhân-từ. Khí gò đống sinh nhiều người tham-lam. Khí nắng sinh nhiều người chết yểu. Khí lạnh sinh nhiều người sống dai. Đất nhẹ sinh nhiều người lanh-lợi. Đất nặng sinh nhiều người chậm-chạp. Người ở chỗ nước trong thì có tiếng nói nhỏ. Người ở chỗ nước đục thì có tiếng nói to. Người ở chỗ nước chảy xiết thì [13a] nhẹ-nhàng. Người ở chỗ nước chảy chậm thì nặng-nề. Đất Trung-châu sinh nhiều người tài-ba sáng-suốt.
Thái-sử Tập đồi Tống nói: “Người ở chốn núi rừng thì xanh mà gầy, bởi lẽ đã hấp-thụ nhiều khí cây. Dân ở chỗ sông đầm thì đen mà mướt, bởi lẽ hấp-thụ nhiều khí nước. Dân ở nơi gò đồi thì tròn mà cao, bởi lẽ hấp-thụ nhiều khí lửa. Dân ở miền bờ nước và đất phẳng thấp thì mưu trí mà chính trực, bởi lẽ hấp thụ nhiều khí kim. Dân ở vùng đồng bằng ẩm thấp thì mập béo mà tê thấp, bởi lẽ hấp thụ nhiều khí đất” .
Đấy toàn là những điều đã suy cùng vật lý. Giữ thuyết này mà suy-luận thì không có điều gì mà không hợp.
https://thuviensach.vn
Nước bị nắng to thì nổi bọt vẩn đục, trải qua một đêm gió bắc thì trở thành trong-veo, muôn khoảnh[31] một màu xanh biếc. Đó là do khí đã khiến ra như thế.
Núi trải qua một thời nắng lạnh lâu ngày thì sinh ra khói mù tối-tăm, trải qua một buổi sáng mưa to thì trở thành sạch trong sáng-sủa, muôn cảnh như đổi mới. Đó cũng là do khí đã khiến ra như thế.
Đương lúc đục tối âm-u, ai trông vào mà chẳng ưu sầu bứt-rứt?
Đến khi cơ trời [13b] biến chuyển phút chốc lại trong sáng, lòng người đua nhau thấy khoan-khoái mà không biết vì cái lẽ huyền-diệu đã có ở trong ấy.
Cơ mầu khi bĩ khi thái khi trị khi loạn đúng là như thế.
Chấn-động bằng sấm sét, nhuần thấm bằng gió mưa, mặt trời mặt trăng xoay vần, một thời lạnh một thời nóng nối tiếp nhau, Tạo-hóa phân phát sinh dưỡng vận-động mở đóng không phải là không có việc đâu. Suy cứu mà nói thì chẳng qua chỉ có giản (đơn giản) và dị (dễ-dàng) mà thôi.
Tính-tình của trời đất, đức nghiệp của thánh hiền đều không ngoài hai chữ giản-dị ấy. Trong hai thiên Thượng truyện và Hạ truyện, bậc thánh-nhân đã đôi ba lần chú ý đến vấn-đề ấy. Vậy mà bọn nhà nho chúng ta theo đuổi học-tập và chính-trị hà tất ưa việc lạ kỳ hiểm-hốc, chuộng việc phiền-phức vụn vặt vậy ư?
Khí rất thần-diệu, rất tinh-vi.
Khí thịnh thì tất nhiên thư-thái, khí suy thì tất nhiên vướng kẹt, xem ở gốc cây tươi hay [14a] khô thì biết.
Khí trong thì tất nhiên thông suốt. Khí đục thì tất nhiên vướng-kẹt, xem ở lòng người thông-minh hay ám muội thì biết.
Khí đầy thì tất nhiên nẩy lớn, khí vơi thì tất nhiên tiêu tán, xem ở con nước lên xuống lúc sớm chiều ở mặt biển thì biết.
Hòa thuận thì tất nhiên kết hợp, trái nghịch thì tất nhiên chia lìa, xem ở việc bình trị hay loạn lạc của thế đạo thì biết.
Nhật thực có thường độ, nhưng đối với việc biến đổi của nhân-sự thì chưa từng không quan-hệ lẫn nhau.
Người ta sắp làm điều chẳng lành thì mặt trăng đi vào độ giao-thực mà lần che mặt trời. Đó là khí người động đến trời.
https://thuviensach.vn
Trời sắp muốn mưa dầm thì người nào mang thương-tích vì bị đánh bị ngã liền thấy đau nhức trước. Đó là khí trời động đến người.
Những điều đó có thể chứng-nghiệm trời và người là cùng một lẽ.
Sách Tịnh thượng đàm của Du-Diệm nói: Muốn biết thời giờ và âm dương thì phải phân biệt bằng mũi.
Hơi khí trong mũi lúc dương [14b] thì ở lỗ bên trái, lúc âm thì ở lỗ bên mặt.
Khoảng giờ tý giờ hợi giao tiếp nhau (cuối 12 giờ và đầu 1 giờ đêm) thì hai lỗ mũi đều thông.
Điều này rất ứng-nghiệm bởi lẽ thân thể của người ta cũng là một bầu trời nhỏ vậy.
Trong sách Thiên đạo luận, Nhân-Loan đời nhà Chu (thời Lục-triều) có dẫn lời ở Tế khổ kinh rằng: Trời đất đến ngày tận thế thì cháy sạch, người và vật đều không còn.
Sách ấy lại nói: Ngày đại tận thế đã giao tiếp, thì trời đất mặt trời, mặt trăng và tinh-tú đều không còn nữa.
Điều này hợp với thuyết Tuất-hội Hợi-hội của Khang-Tiết.
Nhưng sách đạo-thư hoang-đường không có căn-cứ.
Còn Khang-Tiết thì theo hai quẻ Cấn và Phục trong kinh Dịch mà suy diễn ra, cho nên thuyết này đúng.
Sách Trường-lịch của Từ-Chinh nói: Trời đất hỗn-độn như quả trứng gà. Ông Bàn-Cổ sinh ra vào khoảng đó sống lâu được một vạn tám ngàn năm (18.000).
Trời đất mở-mang, khí dương trong làm trời, khí âm đục làm đất. Ông Bàn Cổ sống ở trong đó, một ngày biến đổi chín lần [15a] thành thần ở trên trời, thành thánh ở dưới đất.
Trời mỗi ngày cao thêm một trượng. Đất mỗi ngày dày thêm một trượng. Ông Bàn-Cổ mỗi ngày lớn thêm một trượng. Như thế trong một vạn tám ngàn năm (18.000) thì số trời thật cực cao, số đất thật cực dày, ông Bàn-Cổ cực lớn.
Sau đó lại có Tam Hoàng (Thiên-hoàng, Địa-hoàng và Nhân-hoàng), số bắt đầu từ 1, lập ở 3, thành ở 5, thịnh ở 7, cùng cực ở 9.
https://thuviensach.vn
Cho nên vòm trời cách mặt đất chín vạn dặm (90.000). Đó là thuyết hoang đường.
Còn thuyết Nguyên hội vận thế của Thiệu-Tử là suy sứu từ việc sinh ra, tiêu tán, kết cuộc và bắt đầu trong những quẻ Cấn, Phục, Kiền và Khôn trong Tiên thiên đồ mà tìm được.
Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu-Chí đời Tấn nói: Vua Vũ-Đế nhà Hán đào hồ Côn-minh thật cực sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy có đất. Cả triều-đình không giải-đáp nổi lý-do, mới đem hỏi Đông-Phương-Sóc. Đông-Phương-Sóc tâu: “Hạ thần ngu tối không đủ để biết việc đó. Có thể đem hỏi các đạo-nhân ở Tây-Vực” .
Vua Vũ-Đế cho là Đông-Phương-Sóc còn không biết, thì khó đem hỏi ai được nữa.
Đến [15b] thời vua Minh-Đế nhà Hán, có người đạo-nhân ngoại quốc vào Trung-quốc đến Lạc-dương. Lúc ấy có người nhớ đến lời nói của Đông-Phương Sóc, bèn thử đem việc tro đen đào được ở hồ Côn-minh dưới thời cua Vũ-Đế mà hỏi. Người đạo-nhân ấy nói: “Kinh Phật chép lúc trời đất sắp tận thế thì lửa cháy thiêu rụi cả, đó là phần dư thừa của cuộc tận thế thiêu rụi đó” .
Căn-cứ vào lời nói đó, thì trước một nguyên mười hai hội làm sao biết được là trời đất đã không có biến động hỗn hợp rồi mở-mang lại mới?
Chu-Tử nói: “Thường thấy trong núi có vỏ ốc vỏ trai là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp lại biến thành vật ở trên cao. Vật mềm lại biến thành vật cứng” .
Ở việc này mà suy cứu sâu-xa thì thấy có thể làm chứng-nghiệm cho điều ấy.
Sách Tố-vấn có nói về ngũ vận lục khí. Chử-Trừng cho là không phải. Ông cho là: Năm tháng ngày giờ và thứ-tự giáp-tý ất-sửu cho đến trời đất, ngũ hành, rét nóng, gió mưa bỗng chốc có biến đổi. Người ta cảm [16a] cái khí ấy, bịnh tật phát sinh ở thân-thể,
Khí khó liệu biết trước, cho nên bịnh khó định trước.
Khí không phải người ta làm ra được, cho nên bịnh người ta khó dò trước được.
Suy nghiệm nhiều sai lầm, cho nên cứu chữa dễ lẫn lộn.
https://thuviensach.vn
Chưa thấy lời này là đúng.
Tôi cho là khí của trời đất hẳn là âm dương ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi khác nhau, coi giữ trong năm tháng, lưu chuyển trong thời-tiết, thiên biến vạn hóa, người ta cảm phải, tuy chưa ắt là nhất nhất đều ứng nhau, nhưng đại khái cũng không sai nhau.
Như bịnh đậu mùa là một, tùy theo năm mà lạnh nóng khác nhau, nhưng hình dáng bịnh tật ấy vẫn là một, tùy theo thời-tiết khô ráo hay ẩm ướt mà bịnh chứng khác nhau, thì làm sao bảo cái thuyết khí vận là không chứng-nghiệm được?
Từ khi chuôi sao Bắc-Đầu chỉ hướng mão (tháng 2) chính là tiết Xuân-phân cho đến giữa hướng tỵ (tháng 4) chính là tiết Lập-hạ là lúc Thiếu-dương quân hỏa làm chủ khí, thiên [16b] độ đến đấy thí ấm-áp trong trẻo, thịnh-hành cái đức của vua.
Từ khi chuôi sao Bắc-Đẩu chỉ hướng tỵ (tháng 4) chính là tiết Tiểu-mãn cho đến giữa hướng vị (tháng 6) chính là tiết Tiểu-thử là lúc Thiếu-âm tướng hỏa làm chủ khí, thiên-độ đến đấy thì nóng nực, thịnh hành tướng hỏa.
Từ khi chuôi sao Bắc-Đầu chỉ hướng vị (tháng 6) chính là tiết Đại-thử cho đến giữa hướng dậu (tháng 8) chính là tiết Bạch-lộ, là lúc Thái-âm ầm thấp, thổ làm chủ khí, thiên-đô đến đến thì có mưa, thịnh hành khí ẩm thấp bốc lên.
Từ khi chuôi sao Bắc-Đầu chỉ hướng dậu (tháng 8) chính là tiết Thu-phân cho đến giữa hướng hợi (tháng 10) chính là tiết Lập-đông, là lúc Dương-minh táo, kim làm chủ khí, vạn vật đều khô ráo.
Từ khi chuôi sao Bắc-Đẩu chỉ hướng hợi (tháng 10) chính là tiết Tiểu-tuyết cho đến giữa hướng sửu (tháng chạp) chính là tiết Đại-tuyết, là lúc Thái-âm hàn, thủy làm chủ khí, thiên-độ đến đấy thì thịnh hành khí lạnh.
Từ lúc chuôi sao Bắc-Đẩu chỉ hướng sửu (tháng chạp) chính là tiết Đại-hàn cho đến giữa hướng mão (tháng 2) chính là tiết Kinh-trập [17a] là lúc Quyết-âm, phong mộc làm chủ khí, thiên-độ đến đấy thì thịnh hành phong khí (gió nhiều).
Đấy là nói mỗi khí giữ 60 ngày có lẻ để trải khắp độ tròn của bầu trời, chuyển hết rồi bắt đầu trở lại.
https://thuviensach.vn
Sách Thái-bình quảng ký[32] dẫn sách Luận-hành[33] chép rằng: Kính Dương-toại lấy lửa, kính Phương-chư lấy nước. Hai vật này vì hình-thể mà được gọi thế.
Kính Dương-toại thì đúng tháng 5 ngày bính-ngọ, giờ ngọ luyện đá năm màu mà chế-tạo, hình-thể giống như cái kính tròn, hướng vào mặt trời thì lấy được lửa.
Kính Phương-chư thì đúng tháng 11 ngày nhâm-tý nửa đêm giờ tý luyện đá năm màu mà chế-tạo, hình trạng giống như cái chén, hướng vào mặt trăng thì lấy được nước.
Sách Hoài-Nam-Tử chép: Kính Dương-toại đưa ra mặt trời thì phát cháy thành lửa. Kính Phương-chư đưa ra mặt trăng thì ướt mà thành nước.
Sách ấy chú rằng: Hai thứ kính ấu đều là tinh của đá năm màu. Trong khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt[34], lấy một vật dụng cầm trong tay hướng lên Thái-cực mà [17b] tức khắc được lửa được nước, vì có âm dương cảm động vậy.
Rượu là chất do người ta cất nên, mà khí của nó cũng cảm-ứng với mặt trời, bởi lẽ cũng có lý-do ở đấy.
Sách Thái-bình quảng ký chép: Nay rượu mới cất được, phần trong veo ở trên mặt vò thường theo mặt trời mà chuyển dời: Phần trong veo lúc sáng sớm ở phía đông, lúc giữa trưa ở phía nam, lúc xế chiều ở phía tây, lúc nửa đêm ở phía bắc, mặt trời ở góc nào thì cứ trong veo ở góc ấy.
Phùng-Triệu-Trương viết sách Cẩm nang bí lục chép: Nhà đánh cá sinh con nhiều gân cốt rắn chắc, bởi lẽ mẹ lạnh, con cũng lạnh, mẹ nực, con cũng nực. Lúc đứa con còn là bào thai trong bụng mẹ thì gió sương nắng nóng đã trải qua đầy đủ. Sau khi sinh ra, da thịt của đứa bé thành dày-đạn, gân cốt thành rắn chắc, khí độc không thể xâm phạm được.
Thuyết này thật là đúng. Khí luyện nên còn rắn chắc thay, huống hồ là tính tự nhiên.
Người đời dạy dỗ con trẻ từ lúc nó còn là bào thai trong bụng mẹ là muốn dưỡng dục thành [18a][35] cái tính tự nhiên ấy.
https://thuviensach.vn
Người ta ngủ say đã giấc rồi, hễ ai gọi thì tỉnh ngay. Đó gọi là khí gọi thần vậy.
Lúc nằm chiêm bao thấy gặp-gỡ, nói chuyện, làm-lụng, mừng giận, sau khi tỉnh giấc đều có thể nhớ cả. Đó là thần động khí vậy.
Thần khí của người ta là như thế. Thì thần khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không có, có thể biết được vậy. Cho nên bậc hiền-triết đời xưa nói: “Thiên tri, địa tri” (Trời biết, đất biết) là thế đó.
Lòng người thật lớn-lao, ở trên thì có thể thông với trời đất, ở giữa thì có thể dò biết được quỷ thần, ở dưới thì có thể xem xét vạn vật.
Lẽ huyền-diệu của tượng và số[36]lần ra ở hình và khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có ra chỗ không.
Trong khoảng tăm-tối huyền vi hay rõ-ràng sáng tỏ không chỗ nào là không phải đạo.
Giữ lòng cho chánh đáng rồi sau mới có thể biết đạo. Biết đạo rồi sau mới có thể thấy cơ vi. [18b] Thấy cơ vi rồi sau mới có thể thông đạt quyền biến.
Vận-mệnh do người tạo ra, chớ không phải vận-mệnh tạo ra người. Cái lý trời và người hợp nhất chẳng qua là như thế.
Kinh Dịch nói: Người nhân thấy đạo gọi là nhân, người trí thấy đạo gọi là trí. Trăm họ hằng ngày đều dùng đến đạo mà không hay biết.[37]
Sách Âm phù kinh nói: Của-cải và dụng-cơ là một vậy. Trong thiên-hạ không ai có thể thấy được, không ai có thể biết được. Người quân-tử được nó thì giữ vững lòng đoan chính trong lúc khốn cùng. Kẻ tiểu-nhân được nó thì nhẹ tính mệnh. Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một vậy. Chỗ uyên-áo của lý và khí đã tóm hết trong ấy.
Sự mở đóng, sự diệu dụng, sự cổ-vũ, sự tinh-vi trời đã lấy ban cho thánh nhân, thì thánh-nhân lấy đó mà thuận theo trời để chế vạn sự, thành vạn hóa, định vạn dân, phục vạn quốc.
Ngày giờ có lành có dữ. Kẻ làm mờ-mịt theo lối tắt cho mau há lại không gặp một ngày giờ bất lợi? Nhưng cũng [19a] không hại gì, bởi lẽ đã vô tâm. Người đã vô tâm thì không can hệ gì đến quỷ thần.
https://thuviensach.vn
Đã lựa chọn ngày giờ thì phải xem xét cho cẩn-thận, phải biết rõ nên tiến tới hay nên tránh đi. Hễ có ý phạm đến thì bị đạo của quỷ thần giận ghét.
Kinh Dịch nói: “Đạo Dịch không suy nghĩ gì cả, không làm gì cả, yên lặng chẳng động, cảm mà thông hiểu cớ-sự của thiên-hạ”[38].
Không cảm thì làm sao có ứng?
Bói bằng cỏ thi hay bói bằng mai rùa là đợi sự vật đưa đến rồi thuận theo mà cảm-ứng, tỷ như cái gương chưa soi thì không thấy có vật gì. Việc bói quẻ cũng đều là như thế.
Đạo Dịch biến động luôn, không ở một chỗ, lưu hành khắp lục hư[39], lên xuống không thường, cho nên có thể cùng tận được sự linh diệu ở lý số.
Lý ngụ ở khí. Số do ở khí. Lý số sinh ra ở tâm mà tác-động đến mọi việc, đó là sự chứng-nghiệm của khí.
Có yên định rồi sau mới lo. Có lo rồi sau mới được. Đó là sự tài thành (làm nên) của khí.
Sự vật đưa đến thì đón lấy để [19b] tìm hiểu sự khởi thủy của nó. Sự vật đi qua thì suy xét để nghiên-cứu sự chung kết của nó.
Chỉ có đạo Dịch mới thế được.
Sự biến đổi khi bình trị khi loạn lạc của đời xưa và đời nay đều do ở người. Những điều mà người làm đều là trời làm.
Khí thuận hòa thì làm. Lành thì đưa đến điềm lành.
Khí trái nghịch thì dữ, Dữ thì đưa đến điềm gở lạ-lùng.
Sự đưa đến khí hòa thuận hay khí trái nghịch đều có thời có lúc. Cho nên đạo Dịch không ngoài một chữ thời (thời buổi).
Khí có cơ (dụng cơ). Theo cái cơ ấy thì thấy thời.
Khí cái cơ thuận hòa báo hiệu thì các điều lành tụ tập lại, các sự lành khởi sinh, tâm đồng, chí thông, không lao nhọc mà đưa đến đời bình trị.
Khi cái cơ trái nghịch báo hiệu thì các điều dữ đều khởi sinh, tâm chí trống chọi nhau, trăm mối loạn lạc nổi lên mà không phải một người có thể vãn hồi được.
https://thuviensach.vn
Cho nên hiểu đạo Dịch quý ở việc có thể biết được lẽ đầy hay vơi, tiêu lụn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hận hay giận tiếc, tới hay lui, còn hay mất, mà cốt yếu là trở về chốn không mất lẽ chính đáng.
[20a] Chu-Tử nói: “Co duỗi, lại qua đều là khí, khí của người và khí của trời đất liên tiếp nhau không có gián cách. Lòng người vừa cảm động, tất liền đạt đến khí, rồi cùng với khí ấy co duỗi qua, cảm thông với nhau.
Cũng như việc bói toàn bằng mai rùa hay bằng cỏ thi đều là trong lòng đã tự có vật ấy rồi thì chỉ nói đến việc trong lòng mà thôi, cho nên hễ động đến thì có ứng ngay” .
Chu-Tử lại nói: “Người ta bẩm thụ cái khí của ngũ-hành trong trời đất. Cái khí ấy phải đi qua trong thân-thể người ta.
Nay lấy chi cán[40] của ngũ-hành mà suy diễn số mệnh của người, cũng như nhà địa-lý (phong thủy) suy xét chọn lựa vị-trí hướng mặt hay quay lưng đối với núi rừng đều là một lẽ ấy” .
Tôi nói: “Hợp hai thuyết ấy mà xem xét thì thấy Tiên-sinh không những chú trọng việc bốc phệ (bói bằng mai rùa và bói bằng cỏ thi) mà những lời bàn luận về mệnh số binh tượng đều không dẹp bỏ. Hai thuyết ấy thường bị các nhà háo biện bác bỏ. nhưng rốt cuộc đã đúng với lý khí và có kết cuộc không thể khinh được” .
[20b] Nhà địa-lý (phong thủy) nói: “Nhà biện-sĩ phần nhiều không nhận thuyết lý khí và bảo rằng vật hư nát rồi là vô tri” .
Tóm lược mà nói thì người với trời đất là cùng một nguồn, với tổ-tiên là cùng một mạch.
Sinh khí của trời đất thường lưu thông, thì tự nhiên có thể nhuần thấm đậm đà xương tàn khô.
Tinh-thần của tổ-tiên thường gom tụ lại thì tự nhiên có thể ân trạch cho dòng dõi được nhờ.
Thanh-Ô-Tử[41] nói: “Tinh-thần của tổ-tiên đã chết trở về nhà, hài cốt trở về đất. Khí lành cảm ứng thì quỷ thần giáng phúc cho người” .
Về lý lời này rất thấu đáo.
https://thuviensach.vn
Thanh-Ô-Tử lại nói: “Khí ở trong làm cho nảy sinh, khí ở ngoài làm cho thành hình.
Khí ở trong và khí ở ngoài thừa tiếp nhau thì tự nhiên thành phong thủy (địa-lý)” .
Thưởng-thức mấy lời này thì có thể trọn tin không còn nghi-hoặc nữa.
Hoành-Cừ không tin phong thủy, nhưng có nói: “Người phương Nam tin dùng sách Thanh nang kinh[42]thì còn có kẻ cho là được. Người phương Nam thử đất dành làm huyệt chôn, đem chỉ năm màu chôn xuống đất, trải qua một năm thì lấy lên xem.
Hễ khí đất tốt thì [21a] màu sắc không biến đổi. Hễ khí đất xấu thì màu sắc biến đổi.
Họ lại lấy một vật dụng chứa nước nuôi những con cá nhỏ rồi đem chôn xuống đất, trải qua một năm thì đem cá lên.
Thấy cá còn sống hay chết thì biết đất ấy tốt hay xấu.
Cho nên cỏ cây tươi tốt hay khô héo có thể cho mình biết cuộc đất (mà cỏ cây ấy đang mọc) tốt hay xấu.
Sach Dĩ ngược biên nói: Nói về những nhà xem sao đoán tính mệnh người ta thì có số Tử-Bình, số Ngũ-tinh và số Tử-vi tiền-định.
Các bậc sĩ-phu thích nghe số Tử-Bình, bởi lẽ nó ám hợp với lý, nói lên việc giàu sang nghèo hèn của người ra thường phần nhiều thật đúng.
Nghe những ẩn sĩ bảo: “Tử-Bình là người vào thời Ngũ-quý, thường ở ẩn trên núi Họa-san với các bậc ma-y đạo gia như Trần-Đồ-Nam, Lữ-Đồng-Tân. Thế thì Tử-Bình là người khác thường vậy.
[21b] Sách Tử-vi đẩu số, La-Luân viết bài tựa nói là mới được Tăng-Liễu Nhiên ở núi Họa-san truyền cho.
La-Luân tự xưng là cháu xa đời của Hi-Di (Trần-Đoàn tức Trần-Đồ-Nam).
Theo sách Hoạch-Mạn-lục của Trương-Thuấn-Dân đời Tống nói Hi-Di chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành trên đời mà thôi.
Ấy là người đời sau gom góp những lời nói của ông mà làm thành sách, và không nói gì đến Tử-vi đẩu số cả.
https://thuviensach.vn
Sách Tử-vi đẩu số này, lý thú khá hẹp-hòi, ý chừng ắt là kẻ hậu nho gán cho Hi-Di, không phải chân bản vậy.
Nếu quả do Hi-Di viết ra thì làm sao từ đời nhà Tống đến đời nhà Nguyên hàng bốn trăm năm không thấy lưu truyền trên đời, mãi đến khoảng giữa thời nhà Minh mới bắt đầu xuất hiện vậy? Người hãy xem xét kỹ.
Sách Giáp ất thặng của một nhà nho đời Minh nói: Ở Kinh-độ có sao chép sách số Tiền-định, những lời trong ấy đều là thơ thất ngôn nhưng quê mùa bỉ lậu giống như những lời nói ở trong chợ-búa bây giờ.
Sách ấy nói đủ từ cha mẹ vợ con anh em sang [22a] hèn, người ta đều kinh hãi cho là sách thần dị, tuy hạng quan chức cao cả như Tam công Cửu Khanh, chẳng ai là không thuận phục như ngọn cỏ ngả rạp dưới làn gió. Họ cho là Thiệu Nghiêu-Phu tái lai vậy.
Họ chẳng biết sách đó là do một ông thầy bói ở Kinh-đô tìm mua tuổi-tác lý lịch của người ta rồi biên tập sẵn trước để người ta tự tra tìm thấy đúng mà kinh hãi thán-phục.
Chưa từng có lối văn lý thô bỉ như thế mà có thể đoán định đầy đủ việc sang hàn thọ yểu của người ta.
Thuyết này rất đúng.
Này, Tạo-hóa ban-bố tính-mệnh hàng muôn thứ không đồng nhau cho loài người, thì làm sao chỉ lấy năm nào giờ nào tham hợp lại mà phán-đoán lấy vài câu ngâm quyết-định đại-khái sự lành dữ họa phúc của thiên-hạ được hay sao?
Lối thô-bỉ về văn-lý thì chẳng cần luận đến. Thuận đoán số-mệnh cũng chưa từng thấy sơ suất thô lỗ như thế.
Trong sách ấy, những lời nói về danh và lợi, [22b] được và mất, tính khí chậm chạp và mau-mắn, đường đời gian hiểm và phẳng lặng, thế đức cao dày và kém mỏng đều là những câu đầu lưỡi mà mọi người đều có thể tự mình độ lường, nhưng chẳng ai không cho là việc có thật, cho nên họ quá sức tin.
Sách Thạch lâm yến ngữ chép: Tống Thái-Tổ lúc hàn-vi thường vào miếu thờ Cao-Tân, thấy trên hương-án có hai cái chén bằng tre dùng để xin kẹo, bèn lấy để bói xem danh-vọng và địa-vị của mình mai sau thế nào.
Thói tục cho rằng một sấp một ngửa là keo của thánh thần thuận cho.
https://thuviensach.vn
Sách Tính lý gia lễ chép: Ngày xem bói phải đốt hương, hơ hai cái chén xin keo trên hương khói, cầu xin xong thì gieo hai cái chén vào mâm, hễ thấy một sấp một ngửa thì tốt. Ngày nay cách xin keo cũng như thế.
Sách Tựa nhật lục chép: Trước mặt kẻ sĩ dại không nên nói chuyện mộng mỵ. Trước mặt người thông đạt không nên nói chuyện số-mệnh.
Phàm người có lòng bậy-bạ thì bị ngũ-hành làm mê hoặc, một khi có bụng tư riêng thì dễ bị quỷ thần kiềm chế.
Lời nói này thật chí lý.
[23a] Những điều mình thấy trong mộng-mỵ điều thuộc về ảo cảnh chưa ắt đáng tin được cả. Nhưng cũng có điềm báo trước việc lành dữ rất linh-nghiệm như tiếng vang. Một lời đoán bói, quỷ thần đã ứng ngay, sự quan-hệ không phải là nhỏ.
Đem mộng-mỵ nói với kẻ si dại thì có khi họ đoán sai, há không phải mình chuốc lấy điều hối lỗi vào mình?
Đến việc vi diệu về mệnh số, người bậc trung trở xuống chưa dễ đã hiểu thấu triệt được.
Sách Luận-ngữ chép: Sự hưng thịnh hay đồi phế của đạo là do ở mệnh.
Ông Nghiêm-Quân-Bình xem bói ăn tiền ở chợ chốn đô-thị gặp người thì chỉ nói việc trung hiếu.
Người phàm tục không biết tu thân, mơ tưởng xằng việc lợi ích, khổ tâm cầu cạnh, chưa được thì đổ cho số mệnh. Rốt cuộc họ không tự suy xét lại mình.
Còn đối với người thông đạt mà đem số mệnh ra nói thì sẽ bị họ cười cho.
Trời thì không hơi tiếng, không mùi vị, nhưng khi giáng lâm thì rạng-rỡ, mệnh trời thì không thường, nhưng việc lớn nhỏ chưa [23b] từng không tiền định.
Thuyết tiền định, người xưa thường nói đến, đã thấy trong kinh sử, trên từ bậc vương công, dưới đến làng nước, có khi trong câu hát đồng-dao, lúc sơ khởi dường nhứ mơ hồ khó tin nhưng rốt cuộc đều có chứng nghiệm cả. Đó là số cũng là lý.
Sách Tả chuyện chép: Vua Thành-Vương nhà Chu đóng đô ở Giáp-Nhục (nay thuộc tỉnh Hà-nam) bói được số đời truyền nối là 30, bói được số năm
https://thuviensach.vn
truyền nói là 800, thé mà phúc tộ nhà Chu đã kéo dài quá lịch số đã định trước Ý thị nước Trần bói được câu:
Hữu-Vi chi hậu.
Trương dục vu Khương.
Ngũ thế kỳ xương.
Tịnh vu Chính-khanh,
Bát thế chi hậu
Mạc chi dữ kinh.
(Dòng dõi họ Hữu-Vi
Sẽ sinh ở họ Khương
Đến năm đời thì thịnh-vượng.
Đều làm đến chức Chính-Khanh.
Sau tám đời,
Thì không ai đọ được).
Về sau Trần-Kính-Trọng chạy sang nước Tề, con cháu về sau lại thôn-tính nước Tề.
Thúc-Tôn-Trang-Thúc nước Lỗ bói xem đứa con trai tên Bảo tương-lai sẽ ra sao, được mấy câu sau đây:
“Tương hành nhi quy chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ ngạ tử”
(Sắp đi thi quay về làm chủ việc cúng tế, nghe đứa sàm nịnh tên Ngưu, cuối cùng phải chết đói).
Về sau quả như thế.
Vua Hoàn-công nước Lỗ xem bói thấy sinh được đứa con trai tên là Hữu phù giúp công thất của Hoàn-công.
Đến sinh ra, đứa bé ở bàn tay có chữ [24a] Hữu. Đứa bé ấy lớn lên làm chức Chính-khanh đời đời nắm giữ vận-mệnh quốc-gia.
Bà Ấn-Khương nhà Chu mới có thai, Thai Thúc chiêm-bao thấy Thượng-Đế bảo mình rằng: “Ta sai đứa con ngươi, tên là Ngu. Hãy cho nó đất Đường thuộc Phân-dã sao Sâm. Con cháu sẽ sinh sản phồn-thịnh” .
https://thuviensach.vn
Đến khi sinh ra, đứa bé quản nhiên có chữ Ngu ở trên tay, được Thành Vương phong tước Đường, con cháu đời đời làm minh chủ các nước ở Hoa-hạ.
Khổng-Văn-Tử nước Vệ chiêm-bao thấy Khang-Thúc bảo mình: “Ta sẽ sai con người là Sử-Cẩu và Tôn-Ngữ giúp Nguyên” .
Về sau người ái thiếp của Tương-công sinh được đứa con, đặt tên là Nguyên. Nguyên cuối cùng nối ngôi. Cẩu và Ngữ đều làm quan Thượng-khanh.
Nàng Yến-Cật nước Trịnh chiêm-bao thấy Sứ-trời cho mình hoa lan và bảo: “Đấy là con ngươi” .
Về sau nàng sinh một đứa con, đặt tên Lan. Lan tức Trịnh Mục-công. Con cháu được phồn-thịnh.
Người nước Tào có lần nằm mộng thấy các quân-tử đến [24b] cung mời bàn tính làm mất nước Tào. Tào-Thúc và Chấn-Đạc xin đợi Công-Tôn-Cương làm chức Tư-thành cầm quyền chính.
Đến khi Tào-Bá-Dương lên ngôi, Công-Tôn-Cương là người nước Trịnh làm chức Tư-thành cầm uyền chính, phản-bội nước Tào, thông gian với nước Tống. Nước Tống bèn diệt nước Tào.
Dưới thời vua Hiển-công nước Tấn có câu đồng-dao[43] rằng:
Bính chi thần,
Long Vĩ phục thần.
Quân phục chân chân.
Thủ Quắc chi cân (kỳ).
Thuần chi bôn bôn,
Thiên-sách thôn thôn.
Hỏa trung thành quân.
Quắc công kỳ bôn.
(Sáng ngày bính,
Sao Vĩ không hiện.
Quân-đội mặc một màu rất dồi-dào.
Đoạt lấy cờ kỳ nước Quắc.
Sao Thuần nhấp nháy.
Sao Thiên-sách lu mờ.
https://thuviensach.vn
Sao Hỏa-trung thành quân.
Vua Quắc-công phải bỏ chạy).
Về sau vua Hiền-công nước Tấn thắng nước Quắc, ngày tháng đúng với câu đồng-dao này.
Dưới thời vua Văn-công nước Lỗ có câu đồng-dao rằng:
Cù-dục chi vũ,
Công tại ngoại dã
Văng quỹ chi mã[44]
Cù-dục thù-thù,
Công tại Can-hầu.
Trưng kiến dữ nhu.
Cù-dục lai sào.
Viễn tai dao dao.
Trù phủ táng lao,
Tống phủ dĩ kiêu.
(Cánh chim sáo.
Vua ở ngoài đồng.
Tặng vua con ngựa.
Chim sáo nhảy nhót.
Vua ở Can-hầu.
Đòi quần đòi áo.
Chim sáo đến làm ổ.
Xa xôi diệu vợi.
Trù-phủ nhọc nhằn.
Tống-phủ kiêu-căng).
Về sau nước Lỗ có loài chim ấy đến làm ổ, Chiêu-công [25a] chạy ra nước ngoài, Định-công nối ngôi, nhất thể đúng như lời đồng-dao.
Cuối đời vua Định-vương nhà Chu, có người nước Tần bị yêu nhập nói rằng:
Chu kỳ tu vương
Diệc khắc tu kỳ chức.
Chư hầu phục hưởng.
https://thuviensach.vn
Nhị thế cung chức vương thất.
Kỳ hữu gián vương vị.
Chư hầu bất đồ
Nhi thụ kỳ loạn tai.
(Ông vua nhà Chu đã có râu lúc sinh ra.
Cũng làm trọn chức vụ.
Chư-hầu đều phục theo.
Hai đời cung chức nhà Chu.
Có kẻ dòm ngó ngôi vua.
Chư-hầu không nghĩ đến,
Mà chịu loạn tai).
Về sau Vua Linh-vương nhà Chu sinh ra đã có râu, không làm điều ác với chư-hầu, con là Cảnh-Vương cũng được trọn đời. Đến khi Kính-vương lên ngôi thì Vương-Tử-Triều quả nhiên lấn ngôi, Vua thua chạy sang nước Tống.
Sách Sử-ký chép: Vua Mục-công nước Tần bị bịnh quyết (bịnh chân tay lạnh buốt) ngủ năm ngày mới tỉnh dậy, tự nói là mình gặp Thượng-Đế sai Mục-công dẹp yên loạn nước Tấn.
Về sau, Mục-công quả nhiên ba lần lập vua cho nước Tấn.
Cuối đời vua Tuyên-vương nhà Chu có câu đồng-dao rằng: “Yếm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc” (Cây cung làm bằng) gỗ trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thật làm mất nước nhà Chu).
Về sau có người đem bán hai thứ ấy. Vua Tuyên-vương sai bắt người ấy. Người ấy chạy sang nước Quắc, rồi nuôi nàng Bao-Tự đem dâng lên cho vua U vương nhà Chu gây nên cái họa ở núi Ly-sơn[45].
[25b] Căn-cứ vào những việc kể trên mà xem xét thì không những việc hưng thịnh hay đồi phế của nước nhà, mà số phận thông thường vận cùng khốn hay thông đạt của sĩ-phu đều được định trước ở cõi u-minh thiêng-liêng. Họ tên, tướng mạo hành chỉ, động tĩnh của mọi người đều có sự tiền định cả, không phải người ta tự-do được đâu.
Sách Trung-dung chép: Đạo chí thành có thể biết trước được. Nước nhà sắp hưng thịnh tất nhiên có điềm lành. Nước nhà sắp bại vong tất nhiên có yêu nguyệt (điềm dữ). Những điềm ấy thấy ở quẻ bói bằng cỏ thi hay bằng mai rùa, động ở
https://thuviensach.vn
chân tay. Họa phúc sắp đến, lành hay không lành tất nhiên thấy trước được, bởi lẽ lòng người có một điểm linh thông, quỷ thần thác vào đó mà báo cho biết.
Như vào thời Tây-Hán, các sách sách sấm-vĩ[46] của những thuật sĩ lưu truyền nói nhà Hán được nhận mệnh trời thêm một lần nữa, chép rõ-ràng tên họ của vua Quang-Vũ, lại nói đời thứ 9 họ Xích-Lưu[47] nhận mệnh trời ở núi Đại tông (Thái-sơn).
Như thế, có thể nói sách sấm-vĩ đã viết rõ-ràng, Người thông-đạt biết việc đã qua, xét việc sẽ đến, chép rõ-ràng thành sách để người đời sau hiểu biết, hẳn [26a] đã có nhiều điều đoán lạ lùng và rất trúng.
Nhưng nói về bậc vua chúa thì phải gìn giữ thường tâm, cẩn-thận thường đức, chớ nói việc điềm lành, việc thuật số để nẩy lớn lòng mê hoặc của thói tục ngu-si.
Cho nên Lý Nghiệp-Hầu nói: “Số trời thì người khác có thể nói được, chớ bậc vua chúa tể-tướng không thể nói được” . Chính là vì lẽ đó.
Trong vũ-trụ chỉ có một lẽ mà thôi: Người ta tin những gì đã thường thấy, và nghi-ngờ những gì không được thấy.
Sách Trúc-phổ của Đái-Khải-Chi đời nhà Tấn chép: “Trời đất vô biên, thương sinh (nhân-dân) vô lượng. Người ta nghe thấy điều gì đều noi theo sự tiến đạt của lề-lối cũ rồi sau mới biết” .
Thế thì có đáng gì mà nói đến nữa.
Nếu tai mắt không nghe thấy mà biết, liền cho là không có như thế, thì há chẳng phải là hạng ngu-si thiển-cận hay sao?
Sách Gia-huấn của Nhan-Chi-Thôi ở nước Tề chép: “Vua Vũ-đế không tin có thứ keo nối được dây cung. Vua Văn-đế nước Ngụy không tin có thứ lửa giặt được vải. Người rợ Hồ thấy gấm, không tin có thứ sâu ăn lá cây [26b] nhả tơ dùng dệt ra gấm. Xưa ở đất Giang-nam người ta không tin có cái mùng bằng lông có thể chứa ngàn người, đến khi đến Hà-bắc lại không tin có thể chở được hai vạn thạch”[48].
Đó là những điều thực-nghiệm cả.
Lấy thuyết ấy mà suy luận có thể thấy rằng sự vật không thể biết cho xiết được. Này, trên từ bầu không-gian, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng quái lạ
https://thuviensach.vn
muôn điều, lấy ý mà độ lường thì uổng phí tinh-thần, lấy lời mà biện-bạch thì thêm miệng lưỡi, mà đại-khái không đạt đến thực cảnh được, như thế để làm gì?
Cho nên cái học của người quân-tử chỉ noi theo lẽ thường mà thôi.
Người xưa bảo: “Biển ở Nam Bắc Đông Tây có bậc thánh-nhân ra đời” . Mọi người đều đồng một lòng ấy, và đồng một lẽ ấy.
Quốc-vương Mặc-Đức-Na nước Hồi-hồi dựng nước đúng vào đầu niên-hiệu Khai-hoàng nhà Tùy ở Trung-quốc, chế ra phép làm lịch, khảo xét [27a] thiên tượng tự làm thành một quyển sách.
Lợi-Mã-Đậu (Matteo Ricci, 1552-1668, Giáo-sĩ người Italie). Nam-Hoài Nhân (Ferdinandus Verbiest, 1623 – 1688, Giáo sĩ người Belgique), Ngải-Nho Lược[49] (Giuleo Aleni, người Italie, vào Trung-quốc trong thời nhà Minh) là những người Tây-dương ở Âu-châu (Europe) trong khoảng niên-hiệu Vạn-Lịch nhà Minh vào Trung-quốc. Họ nói về trời về đất sâu sắc vô cùng. Họ bàn về lý chính-trị và phép làm lịch cũng có nhiều điều mà các tiên nho chưa tìm ra được. Ngôn-ngữ và văn-tự tuy không thông nhau, nhưng nghĩa lý sở đắc ở tâm thân, tài thức đầy đủ về học vấn, thật có khác gì với ở Trung-quốc đâu?
Thuyết của nhà tu theo Tiên là luyện hình. Thuyết của nhà tu theo Phật là luyện thần. Hình và thần đều nhờ có khí mới đứng vững được.
Khí tụ thì đạo thành. Khí tan thì đạo bất thành.
Lấy mặt trời mặt trăng làm thí-dụ.
Tiên-gia thì như thể-chất. Phật-gia thì như hình-ảnh. Thể-chất di-chuyển trên trời chưa hẳn là không có, hình-ảnh tan trong nước chưa hẳn là không còn.
[27b] Trương-Trạm viết bài tựa sách Liệt-Tử nói: “Sách này đại lược nói rõ mọi cái thực hữu, đều lấy chỗ rất hư-không làm chủ, muôn phẩm-vật đều lấy chỗ tiêu-diệt chung cuộc làm thực-nghiệm, thần tuệ thì lấy sự ngưng đọng tịch-mịch mà thường toàn, tưởng niệm lấy việc phụ vào vật để tự táng diệt, tri giác và hóa mộng thì ý chỉ cũng tham chước với kinh Phật” .
Thật đáng tin như vậy.
Xem trong sách Liệt-Tử Lâm-Loại trả lời Tử-Cống rằng: “Chết và sống chỉ là một đi và một về. Chết ở cõi bên này làm sao biết chẳng phải là sinh ở cõi bên kia? ”
https://thuviensach.vn
Thì thuyết luân-hồi vốn đã có rồi không phải bắt đầu từ kinh Phật.
Thánh-nhân (Khổng-Tử) không nói việc thần quái, lại nói: “Chưa biết được cái sống thì làm sao biết được cái chết? ”
Những thuyết này cứ giữ lại mà không bàn luận đến thì hơn.
Sách nhà Phật có thuyết luân-hồi[50] mà các nhà nho thường không tin. Nhưng những việc mà xưa nay người ta đã nghe thật thấy được ghi chép vào sách vở thì vô số không thể xiết được. Thật ra thì không phải không có cái lý ấy.
Khổng-Tử nói: “Đức của quỷ-thuần rất [28b] dồi-dào, mắt trông thì không thấy, tai lắng thì không nghe, đầy dẫy như ở trên, như ở hai bên tả hữu.
Thuyết Âm-ty Địa-phủ tựa hồ hoang-đường. Tóm lại mà nói thì Tạo-hóa thật huyền-bí vi-diệu, cõi âm cõi dương chia cách khiến người ta không thể thấy được, không thể nghe được đó thôi.
Lúc cúng tế, quỷ thần tới nơi.
Thể phách tuy tiêu tan nhưng thần thức còn kết tụ.
Kinh Phật nói việc đầu thai nhận lấy hình-hài cũng là nói cái thần-thức ấy.
Phần tinh-túy của mặt trời và mặt trăng giáng xuống làm lửa và nước. Hơi khí của lửa và của nước bốc lên làm gió làm sấm.
Sự huyền-diệu của trời đất biến hóa qua qua lại lại không thể lường được, huống chi là của người ta.
Tả-truyện là một bộ sách chép nhiều việc thần quái.
Thải-tử nước Cung thác vào lời đồng bóng để quả phạt Huệ-công, tức là thuyết Thiên tào phán sự[51].
Trung-Hàng-Yển chiêm-bao thấy kiện nhau với Lê-công, tức là thuyết Địa ngục câu đối[52].
[28b] Tề-hầu chiêm-bao thấy con heo to.
Tấn-hầu chiêm-bao thấy ác quỷ to cùng với Lương-Tiên và Hồn-Lương-Phu gây tai họa, tức là thuyết Quỷ oan ức tìm báo thù.
Tử-Dư đem điềm báo trước trong mộng để bảo-tồn Hàn-Quyết.
https://thuviensach.vn
Một ông lão cảm ơn đã gả chồng cho con gái của lão mà báo ơn Ngụy Khỏa[53]. Đó là khí với mạch của hai người vốn tự cảm thông nhau.
Vệ-hầu chiêm bao thấy Đế-Tướng đoạt mất phần cúng tế.
Tấn-hầu chiêm-bao thấy ông Cổn nhà Hạ (cha của vua Vũ nhà Hạ) hóa thành con gấu vàng vào trong cửa.
Thế thì những bậc tiền-bối xa-xôi đời trước cũng còn lưu lại ảnh-hưởng cho đời sau.
Những việc xưa của thời nhà Chu còn rành rành có thể khảo xét được.
Trong khoảng vũ-trụ, cõi âm và cõi dương, cõi tối và cõi sáng, tuy đường lối có khác nhau, nhưng tâm tình vẫn là một. Thật có cái lẽ ấy.
Kinh Dịch nói: Tinh-khí là vật, du-hồn là biến, vì cớ đó mà biết được tình trạng của quỷ-thần.
Quỷ là nói co lại. Thần là nói duỗi ra. Co lại mà có thể duỗi ra cho nên linh ứng sáng-suốt mà làm [29a] thần. Cho nên Lão-Tử nói: “Lấy đạo trị thiên-hạ thì quỷ sẽ không thiêng[54]” . Ấy là nói cõi âm dương, cói tối cõi sáng đều có vị-trí phân-định rõ-ràng không có việc xâm lấn nhau.
Thánh-nhân hiểu biết rộng-rãi, không có sự vật nào là không soi xét đến.
Xem những điều ghi chéo trong sách Khổng-Tử gia ngữ thấy những chuyện như Biết chuyện Chuyên-xa[55]. Nói rõ về mũi tên Khổ-thỉ[56], Phân biệt được Quỷ-võng và Phần-dương[57].
Như thế há rằng Khổng-Tử không nói chuyện quái dị hay sao? Nhưng Ngài đặc-biệt không muốn làm nẩy lớn lòng mê-hoặc của học-giả nên thường lược qua không nói đến. Thì há rằng những việc quái dị thật không có hay sao?
Khéo thay Quách-Phác đã viết bài tựa ở sách Sơn-hải kinh[58] rằng: “Vũ trụ trống rộng, các loài sinh-vật rộn-rịp, âm dương hun xông, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn tự tung bốc lẫn nhau, du-hồn linh quái động tượng mà cấu kết, lưu hình ở núi sông, ghi dạng ở cây đá, ôi làm sao có thể nói cho xiết được? ”
Bài tựa ấy lại nói: “Vật loại tự nó không lạ, đợi [29b] ta nói đến rồi sai mới thành lạ, vậy cái lạ ấy tại ta, chớ không phải tại vật là lạ, bởi lẽ người ta tin những
https://thuviensach.vn
gì đã từng thấy quen, và cho là lạ những gì ít nghe nói đến. Đó là chỗ thường bị che lấp ở tâm tình của người ta.
Lời nói này đủ để xác-định việc bàn luận cho ngàn đời.
Trình-Tử nói: “Người xưa bói bằng mai rùa và bằng cỏ thi để quyết định việc nghi ngờ. Đời sau thì không như thế, họ xem bói để tính sự cùng thông của mệnh-số, để hỏi việc thành đạt hay không của bản thân mà thôi” .
Tôi trộm nghĩ thánh-nhân bày việc nói toán ra dạy hẳn là để người ta giải quyết điều hiềm nghi, định-đoạt việc do-dự, chớ không phải là cho người ta dùng để doanh cầu việc lợi lộc và đạt thông. Cho nên thánh-nhân nói: “Kinh Dịch không phải để mưu tính cho kẻ tiểu-nhân. Nhưng kẻ sĩ quân-tử xử sự với mình cũng có điều nghi ngại muốn hỏi đến quỷ thần, như Tất-vạn bói cỏ thi để hỏi việc ra làm quan. Trùng-Nhĩ bói cỏ thi để trở vào nước, tuy là mưu tính cho bản thân nhưng cũng không có hại gì đến chính nghĩa.
[30a] Làm nhà cửa kỵ chỗ có sao Thái-tuế, Tống Thái-tổ nói: “Phía tây của đông-gia (nhà ở phía đông) tức là phía đông của tây-gia (nhà ở phía tây), như vậy thì sao Thái tuế ở đâu? ”
Không phải vậy.
Thần trong một năm là một linh khí. Khi đi trên trời chớ không phải ở dưới đất.
Cứ theo lời của Tống Thái-tổ thì gọi phía tây là đến tận Tây-hải mới thôi. Ngoài Tây-hải còn có đất nước nữa, và lấy bờ ấy làm phía đông.
Làng nước dân-cư đều có giới hạn, có bốn phương Đông Tay Nam Bắc của thiên-hạ, có bốn gốc đông tây nam bắc của ngôi nhà.
Việc xây cất nhà cửa đã vô tâm thì thôi.
Nếu có khi mình tự xem phương hướng mà thấy đã phạm thần-sát hay có khi nghe người ta nói đã phạm thần-sát mà cứ làm bừa đi, đó là bất kính thì làm sao gặp điều lành được?
Lưu-Khang-Công nói: “Nhân-dân nhận lấy khí trung-hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh. Cho nên có những quy-tắc về động-tác [30b] và uy-nghi về an định số phận” .
https://thuviensach.vn
Kinh Dịch nói: “Suy xét cho cùng cái lý, ngẫm nghiệm cho hết cái tính để đến cái mệnh. Chữ mệnh ấy lại gọi là giáng trung (lòng thành trời ban cho), lại gọi là bỉnh di (giữ đạo, thường), lại gọi là minh đức (làm sáng tỏ đức hạnh).
Hậu thế nói mệnh là cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi. Người xưa xem bói không chỉ dùng toàn cỏ thi mà thôi.
Sách Ly-tao của Khuất-Nguyên nước Sở có câu: “Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên[59] hề, mệnh Linh-Phân vị dư chiêm: Tìm cỏ quỳnh mao để bói theo cách đình chuyên, sai ông Linh-Phân bói cho ta.
Sách chua:
Linh-Phân là tên người biết rõ cách bói cỏ thi vào thời xưa.
Đình là tre chẻ nhỏ.
Chuyên, người nước Sở thường kết cỏ chẻ tre để nói, gọi là chuyên.
Soi tỏ việc đã qua, xem xét việc sắp đến thì tự nhiên đã có thần-linh thông giải, một cộng cỏ nhỏ-nhen tưởng không có quan-hệ gì.
Kinh-Phòng lấy tiền gieo để lấy hào, chia ra âm dương và lấy thế-ứng. Đời sau bắt chước theo.
Phương xa tục lạ lại có ngõa bốc[60], kê [31a] bốc[61], điểu bốc[62] và hưởng bốc[63]. Những cách nói này đều có thể đoán biết trước việc lành dữ, bởi lẽ đi đếm việc gì không có lý ở trong ấy cả.
https://thuviensach.vn
[1a] VÂN - ĐÀI LOẠI - NGỮ
QUYỂN II
2. HÌNH-TƯỢNG
Thuyết trời xoay qua bên trái, mặt trời mặt trăng và năm vì sao (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) chuyển qua bên mặt xưa nay còn phân vân, người ta còn cãi nhau.
Tôi trộm bảo rằng kinh Dịch có nói: Trời đất xuôi thuận mà chuyển động, cho nên mặt trời mặt trăng đi không quá độ bốn mùa không sai.
Chỉ dùng một lời này cũng đủ để quyết đoán rồi.
Từ ở mặt đất mà xem, chỉ thấy thất diệu (mặt trời, mặt trăng, Kim-tinh, Mộc-tinh, Thủy-tinh, Hỏa-tinh, Thổ-tinh) đi qua bên trái, nào thấy chuyển về bên mặt đâu? Trở ngược lại mà suy để cầu hợp với trời thì không chỗ nào không thể gọi là thuận động.
Bảo-Chương thị ở sách Chu-lễ lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu. Lãnh-vực phong cho chư-hầu đều có vì sao từng địa-phận để xem lành dữ. Nhưng sách ấy không còn lưu truyền.
Ông Ban-Cố đời Hán mới bắt đầu lấy mười hai triền-thứ (trạm dừng) theo lịch Tam-thống phối-hợp [1b] với mười hai phân-dã.
Quan Thái-sử Trần-Trác nước Ngụy lại nói rõ quận nào nước nào thuộc vào độ số của sao nào.
Cả thế-giới thật lớn-lao, các quận các nước ở Trung-châu quả có đủ để đương hết hay không?
Sao Giác, sao Trương, sao Khang chiếm độ số ít thì phân-dã phải hẹp.
Sao Đẩu, sao Ngưu chiếm độ sổ nhiều thì phân-dã phải rộng. Có lẽ dường như thế.
Còn Tây-vực và Bắc-mạc thì xa rộng không cùng. Mà ngoài Minh-hải và Bột-hải lại còn có đất nước cách xa Trung-châu không biết mấy muôn dặm lại không được ứng vào một vì sao nào là tại làm sao?
https://thuviensach.vn
Cho nên Nha-Chi-Thôi nói: “Lúc trời đất mới mở-mang đã có tinh-tú, chín châu chưa chia, liệt quốc chưa phân. Về sau người ta cắt ranh-giới chia phân-dã cũng như làm triền-thứ (trạm dừng) cho tinh-tú.
Từ thời Phong-kiến trở về sau mới có việc chia cắt. Số quốc-gia có thêm có bớt, nhưng số tinh-tú không có lên.
Rủi lành họa phúc cứ trong ấy mà không sai, thì với sự lớn-lao của bầu trời bày hiện-tượng, với sự nhiều vô số của tinh-tú giăng ra, tại sao phân-dã của tinh tú chỉ quan-hệ đến nước Trung- [2a] quốc mà thôi vậy?
Sao Mã, sao Mao-đầu là triền-thứ của nước Hung-nô.
Còn Tây-vực Đông-di, Điêu-đề, Giao-chỉ sao lại bỏ rơi?
Cứ như thế mà suy cầu thì cuối cùng không xong được.
Nhà sư Nhất-Hạnh cho rằng núi sông của thiên-hạ còn ở hai miền nam bắc cũng rất mênh-mong. Nay xem nước Bắc-Địch thì cho thuộc sao Mã, nước Triều tiên thì cho thuộc sao Cơ, nước Giao-chỉ thì cho thuộc sao Chẩn, các bộ lạc ngoài biên ải thì đại-lược cho y theo các sao. Đó là theo thuyết cũ vậy.
Nhà Thành-Chu xưa đóng đô ở đất Bân đất Kỳ, kế tiếp đóng đô ở đất Phong đất Hạo. Nay địa-phận nước Tần là đất của nhà Chu.
Đất chia cho một ngàn tám trăm chư-hầu.
Tống, Tấn, Tề, Vệ, Hàn, Yên đều là những nước lớn cũ.
Tần, Trịnh đều là những nước lớn mới.
Ngô, Sở, Việt, Thục đều là những nước rất nhỏ cũ, sau này mới trở thành lớn.
Nước Triệu là do một quan [2b] khanh nước Tấn được phong sau rốt, lấy họ làm tên nước. Ông Tạo-Phủ lúc mới lập ấp ở Triệu-thành bất quá là một nước phụ-dung[64].
Hai ông Cam-công và Thạch-công viết sách Tinh-kinh (sách xem sao) có nói: “Thiên-thị-viên có những sao ứng vào các nước Chu, Tần, Trịnh, Việt, Tấn, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yến, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở. Hễ thấy những sao nào bị biến động xâm phạm thì nước ấy có việc không lành” .
Lời này chưa được xét đúng hay không.
https://thuviensach.vn
Thời Xuân-thu trở về trước các nước lớn nhỏ ở lẫn lộn với nhau. Thiên-tử dựng một lượt hai kinh-đô, thì sách của Tinh-quan (quan xem sao) quả đã căn cứ vào đâu mà xem?
Tôi trộm nghĩ rằng Bảo-chương thị lúc bấy giờ lấy đất thuộc phân-dã của tinh-tú mà phân biệt cửu châu. Lãnh-vực phong chư hầu đều có tinh-tú theo địa phận. Tất nhiên có sách ghi chép nhất định mà nay đã mất.
Nhưng người xưa xem xét khí-hậu tự mình đã có phép, cho nên Sĩ-Văn-Bá mới đáp lời Tấn-hầu rằng: “Lục vật (tuế, thì, nhật, nguyệt, tinh, thần) bất đồng, dân tâm không in nhau, thứ tự sự việc không đồng một loại, việc của quan không chung một quy-tắc, khởi đầu thì giống nhau, kết cuộc thì khác nhau, làm sao cho thông-thường được? ”
[3a] Này, vòng trời có 365 độ và một phần tư độ, chia làm 12 vị thứ, ở dưới thì ứng với chín châu.
Người nghiệm xét rủi hay lành tất phải căn-cứ vào cuộc đất chuộng đức hạnh nhận vượng khí của tiên-vương đã ở.
Các nước chư-hầu lúc mới chịu phong, nhận chức và được họ phải đem việc tiến thoái dừng nghỉ của ngũ vĩ (năm hành-tinh: Kim-tinh, Mộc-tinh, Thủy-tinh, Hỏa-tinh, Thổ-tinh) tham chước mới có thể khiến địa-vực của mình hợp với vị thứ các sao trên trời.
Khảo xét việc đó ở sách Tả-truyện và Quốc-ngữ thì có thể biết được. Đại khái như nói:
Vương Nghiêu dời ông Át-bá ra Thương-khâu chủ về sao Thần (sao Đại hỏa), người nhà Thương nhân đó mà theo, cho sao thần là sao thuộc đất nhà Thương.
Vua Nghiêu dời ông Thực-Trầm ra Đại-hạ, chủ về sao Sâm, người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên sao Sâm là sao thuộc đất nước Tấn.
Sách ấy lại nói: nước Tống là vị-thứ sao Đại-thần, nước Trần là sao vị-thứ sao Thái-hạo, nước Trịnh là vị-thứ sao Chúc-dung đều là sao Hỏa-phòng. Nước Vệ là vị-thứ sao Chuyên-húc, sao này thuộc đức thủy, hư không, vượng về thủy[65].
https://thuviensach.vn
Sách ấy lại nói: Việc hỏa đời Đào-Đường thị (vua Nghiêu) chính là thuộc về ông Át-bá ở đất Thương-khâu [3b] giữ việc cúng tế sao Đại-hỏa mà lấy hỏa đức chép mùa, ông Tướng-Thổ (cháu của ông Khiết) nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương chủ về sao Đại-hỏa.
Sách ấy lại nói: Sao Tuế ở vào tinh-kỷ (tên tinh-thứ) mà đi sai đường vào Huyền-tiêu, Long là sao Tuế tinh thuộc tinh phận nước Tống nước Trịnh, thì đất ấy sẽ bị nạn đói.
Sách ấy lại nói: Sao Tuế bỏ vị-thứ hiện tại của nó mà ngụ vào vị thứ của nó ở năm sau để hại sao Điểu-noa thì có hại, nước nhà Chu và nước Sở không ưa.
Sách ấy lại nói: Nước Trần là dòng-dõi họ Chuyên-Húc, hễ sao Tuế ở Thuần-hỏa thì bị diệt vong, sao Tuế ở Tích-mộc thì sắp khôi-phục.
Mặt trời năm lần đến sao Thuần-hỏa thì nước Trần cuối cùng phải mất. Mặt trời rời khỏi sao Vụ-nữ thì vua nước Tấn sắp chết.
Sao Tuế ở vị-thứ sao Đại-lương thì nước Thái khôi-phục, nước Sở gặp nạn.
Khi Vũ-vương nhà Chu thắng nhà Thương, sao Tuế ở vào vị-thứ sao Thuần hỏa.
Khi Văn-công nước Tấn lấy được nước, sao Tuế ở vào vị-thứ sao Thực Trầm.
Mấy việc như loại này không có việc nào là không hợp với sự thật. Há như người đời sau đã xuyên-tạc đã phụ hội hay sao?
[4a] Năm thứ 2 đời vua Nhị-thế nhà Tần, năm ngôi hành-tinh (Kim-tinh, Mộc-tinh, Thủy-tinh, Hỏa-tinh, Thổ-tinh) tụ hội ở vị-thứ sao Đông-tỉnh và quay lưng về sao Nam-đẩu.
Có người nói: Sao Đông-tỉnh là địa-phận nước Tần thuộc phận Vị. Sao Nam-đẩu là địa phận nước Việt thuộc phận Sửu. Sửu và Vị đối nghịch nhau. Nước Tần mất vương-khí thì nước Việt được bá-khí, cho nên chức Úy Triệu-Đà hưởng ứng việc đó mà nổi lên.
Xưa nay môn lịch-học đều có căn-bản.
Lịch Thái-sơ[66] căn-bản vào chung luật.
Lịch Đại-diễn[67] căn-bản vào phép bói bằng cỏ thi.
https://thuviensach.vn
Lịch Thụ-thì[68] căn-bản vào bóng mặt trời.
Mỗi thứ lịch này đều có thể lập thành một thuyết riêng. Nhưng tổng yếu mà luận thì lịch Thụ-thì hơn cả, bởi lẽ tượng có trước số, số ở sau tượng, có tham chước vào chung-luật (âm luật) và thi-sách (phép bói bằng cỏ thi) để xét nghiệm thiên tượng thì được, nhưng khảo xét thiên tượng để cầu-hợp với chung-luật (âm nhạc) và thi-sách (bói bằng cỏ thi) thì không có điều cưỡng ép.
Bóng mặt trời là thiên tượng rõ-ràng, đo lường rành-rẽ để lấy khí trung-hòa, không có phụ hội [4b] dời đổi rồi sau mới phù hợp với vòng trời.
Thuyết Trung tinh[69] Cơ hành[70] trong sách Ngu-thư cũng đều lấy bóng mặt trời mà suy độ.
Nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày giáp-tý mùng một tháng 11 tiết đông chí làm đầu niên-lịch.
Ông Khang-Tiết lấy ngày giáp tháng tý sao giáp giờ tý làm số nguyên hội vận thế[71] không có ngày sóc hư, không có tháng dư nhuận, lấy 360 ngày làm một năm. Đó cũng là căn-bản.
Hoài-Nam-Tử nói: “Một luật là 5 tiếng. Mười hai luật là 60 tiếng. Lại nhân cho 6. Sáu lần sáu là 36. Thành ra 360 tiếng để đương với số ngày (360) trong một năm.
Phép làm lịch của người Tây-dương (Âu-Tây) cũng lấy 360 làm số độ trọn vòng trời, lấy 96 khắc làm 1 ngày, khiến mỗi giờ làm 8 khắc không có số lẻ để [5a] tiện suy toán thật là giản tắt.
Thuyết Thanh-đạo Xích-đạo xuất hiện từ Vĩ thư dịch kê lãm đồ. Thuyết Địa hữu tứ du xuất hiện từ sách Vĩ thư khảo linh diệu.
Sách Quy tâm thư của Nhan-Chi-Thôi chép: Trời là tinh khí, mặt trời là dương-khí, mặt trăng là âm-tinh (tinh túy của khí âm), ngôi sao là tinh khí của vạn vật.
Ngôi sao rơi xuống lại là đá.
Này vật to lớn và ở xa mà người ta không thể đo lường được, khiến người ta khó hiểu biết thì không gì bằng trời.
https://thuviensach.vn
Ngôi sao có khi rơi xuống lại là đá. Ngôi sao nếu phải hay không phải là đá thì không được có ánh sáng mà chỉ có chất nặng mà thôi thì dính mắc vào đâu?
Đường kính của một ngôi sao, thứ lớn đến hàng trăm dặm.
Một chòm sao, đầu đuôi cách nhau hàng mấy trăm vạn dặm.
Số ngôi sao trong một chòm sao là hàng vạn cái nối liền nhau, rộng hẹp, ngang [5b] lệch thường không dãn không co.
Hơn nữa ở ngôi sao và mặt trời mặt trăng, sắc sáng cũng như nhau chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi. Vậy thì mặt trời mặt trăng cũng là đá nữa sao?
Đá đã rắn chắc thì con quạ thỏ[72] làm sao ở được?
Đá ở trong không-khí thì há lại có thể chuyển vận một mình được?
Tôi cho rằng, ngôi sao trên trời có ánh sáng, ánh sáng ấy là khí. Khí ấy vừa rơi xuống liền bị gió tuyệt cao ở nửa từng không thổi mà đóng đặc lại thành đá, há rằng là đá sẵn có trên trời hay sao?
Mặt trời mặt trăng cũng là hơi khí chất chứa thành khối vĩ-đại có ánh sáng rực.
Ngôi sao là tinh-khí của vạn vật, cho nên khi rơi xuống thì thành đá. Mặt trời là Thái-dương, tinh của lửa.
Mặt trăng là Thái-âm, tinh của nước.
Không được lấy đó mà khép vào lệ cho rằng mặt trời mặt trăng cũng là đá.
Đến như việc đo lường đường kính rộng hẹp của các ngôi sao thì phép ghi trong sách lịch của Âu-tây là tinh-vi hơn hết.
Nhan-Chi-Thôi lại nói: “mặt trời, mặt trăng và tinh-tú nếu đều là hơi khí (thể hơi khí thì nhẹ nổi lên hợp với trời) thì qua lại, xoay [6a] vòng không được trái ngược sai lệch nhau, và chậm hay mau theo lý phải đồng như nhau.
Thì cớ gì mặt trời mặt trăng, năm hành-tinh (Kim-tinh, Mộc-tinh, Thủy-tinh, Hỏa-tinh, Thổ-tinh) và Nhị thập bát tú đều có độ số, dời chuyển không đều nhau, sao lại là hơi khí lúc rơi xuống chợt biến thành đá? ” .
Tôi xét theo lời Hách-Manh đời Hán đã nói: “Trời là không có chất gì hết. Ta ngẩng lên mà xem, thấy trời cao xa không cùng. Mặt trời mặt trăng và các
https://thuviensach.vn
tinh-tú tự-nhiên sinh ra lớp lớp trong khoảng hư không, đi hay đứng đều thuộc hơi khí cả. Cho nên thất diệu (7 ngôi: mặt trời, mặt trăng, Kim-tinh, Mộc-tinh, Thủy-tinh, Hỏa-tinh, Thổ-tinh) khi ẩn khi hiện vô thường, lúc tiến lúc thoái không đồng bởi lẽ không có móc dính vào đâu cả mà đều thành khác nhau. Cho nên sao Thần-cực (sao Bắc-đẩu) thường ở yên ở một độ số, sao Bắc-đẩu không cùng với những ngôi sao khác lặn về tây.
Các sao Nhiếp-đề đều đi về phía đông, một ngày đi 1 độ, một tháng đi 30 độ.
Cho nên tinh-tú không có móc dính vào đâu cả, điều này có thể biết được” .
Cát-Trĩ-Xuyên nghe được lời này cười ông ta rằng: “Nếu tinh-tú không quấn buộc vào trời, thì trời vô dụng” .
Người theo Hồn-thiên [6b] học[73] cho là Tam-viên (ba ngôi sao: Tử-vi, Thái-vi và Thiên-thị) và Nhị thập bát tú cùng với trời vận hành nhất định không dời đổi. Đó là kinh-tinh (hằng-tinh, ngôi sao không dời chuyển).
Mặt trời, mặt trăng, Kim-tinh, Mộc-tinh, Thủy-tinh, Hỏa-tinh và Thổ-tinh cùng vận-hành với những tinh-tú khác nhưng vô định. Đó là vĩ-tinh (hành-tinh, ngôi sao dời chuyển vận-hành mãi).
Kinh-tinh và vĩ-tinh lẫn lộn cho nên thiên-tượng hiện ra.
Trải qua các đời người ta đều bắt chước theo thuyết ấy.
Trong đời gần đây, người Âu-tây vào Trung-quốc thật tinh-thông về trắc nghiệm thiên-tượng có nói: Trời có chín từng:
1. Từng cao nhất là Tôn-động thiên, không có tinh-tú, mỗi ngày mang các từng trời khác từ đông sang tây chuyển sang bên trái một vòng.
2. Từng thứ nhì là Liệt-tú thiên.
3. Từng thứ ba là Trấn-tinh thiên.
4. Từng thứ tư là Tuế-tinh thiên.
5. Từng thứ năm là Huỳnh-hoặc thiên.
6. Từng thứ sáu là Thái-dương thiên.
7. Từng thứ bảy là Kim-tinh thiên.
https://thuviensach.vn
8. Từng thứ tám là Thủy-tinh thiên.
9. Từng thấp hơn hết là Thái-âm thiên.
Từ Trấn-tinh thiên (từng thứ 3) 7 từng trời[74] đều theo Tôn-động thiên quay sang bên trái. Nhưng mỗi từng [7a] đều có độ quay sang bên mặt từ phía tây sang phía đông.
Điều này phù-hợp với lời tỷ-dụ con kiến bò trên bàn xoay đá mài của Chu Bễ.
Mặt trời, mặt trăng và ngũ-tinh (Kim-tinh, Mộc-tinh, Thủy-tinh, Hỏa-tinh, Thổ-tinh) đều có một từng trời. Những từng trời ấy đều không giống với đất, cho nên cao thấp cách mặt đất không đều nhau. Số cao nhất và số thấp nhất đều lấy bán-kính của trái đất làm tiêu-chuẩn.
Điều này phù-hợp với thuyết “Viên tắc cửu trùng” (vòng quanh trái đất có chín từng) trong Sở-từ.
Bọn người Âu-Tây Nam-Hoài-Nhân (Ferdinandus Verbiest, 1623-1688) viết sách Khôn-dư đồ thuyết có câu: “Đất và biển vốn là hình tròn hợp lại thành một trái tròn ở giữa bầu trời tròn giống như cái lòng vàng ở giữa cái lòng trắng của trứng gà. Trời đã bao bọc trái đất, cho nên trời và đất có ứng-nghiệm với nhau” .
Sách ấy lại nói: “Người đời bảo trời tròn đất vuông. Đó là nói về ý nghĩa động tĩnh. Cái lẽ về vuông và tròn không phải nói về cái hình.
Họ lấy độ số đông tây nam bắc để chứng-minh hợp với ý nói trái đất tròn rất rõ-ràng.
[7b] Các nhà khảo sát hình tượng thiên-văn cho rằng thuyết này không ngoài cái thuyết Hồn-thiên của người xưa.
Theo bài Thiên-đạo luận của Nhân-Loan đời Hậu-Chu có nói: “Đạo-gia thường bảo trời tròn đất vuông. Nay đem bốn góc và bốn phương mà suy lường thì trời đất đều tròn” . Người xưa đã có thuyết ấy rồi.
Hai quyển Đồ-thuyết dịch ra chữ Tàu nói về đất-đai, sản-vật, phong-tục, nhân-vật, đồ dùng, chế-độ, yêu quỷ, quái dị của các nước, có nhiều điều không thể biết được, còn luận về núi gò, thủy-triều sớm chiều, sông biển, gió mây, sấm sét, thì đều có phần chí lý, bởi lẽ nước ấy tiếp giáp với biển, tập quen theo đường
https://thuviensach.vn
biển, cho nên căn-cứ vào điều chân-tri (biết thật), chân-kiến (thấy thật) mà suy lường hình-tượng thiên-văn, không phải đã ức độ một cách lửng-lơ vậy.
Nay những điều ghi chép trong sách Thuyết linh mười phần không còn được một, đã lầm về việc lựa chọn lấy hay bỏ rất nhiều.
[8a] Trong thiên Thiên-viên ở sách Đại đái lễ, Đan-Cư-Ly hỏi Tăng-Tử: - Trời tròn mà đất thì vuông, thật có như vậy chăng?
Tăng-tử đáp:
- Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (có chú: Người ta thì đầu tròn chân vuông; nhân đó mà hệ thuộc vào trời đất).
Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông. Như nếu thật là trời tròn đất vuông thì bốn góc không được che kín.
Về việc đó có nghe Khổng-Tử nói: “Đạo trời gọi là tròn, đạo đất gọi là vuông” .
Theo đó Khổng-Tử tuy không nói rõ đất hình tròn. Nhưng một câu: “Bốn góc không được che kín” đã hiện rõ đại ý rồi.
Vậy luận-thuyết “Đất tròn” của người Âu-Tây cũng không phải là mới lạ.
Sách Ngọc-Nghi chép: Độ mỗi nhất vạn, và chua: Lấy một độ chia làm muôn phần.
Xét sách Quảng-nhã chép: Một độ là 2.932 dặm. Những chòm sao trong Nhị thập bát tú cách nhau tính gộp chung được 1.070.913 dặm, [8b] đường kính là 356.970 dặm.
Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: Nhị thập bát tú cộng được 366 độ, mỗi một độ ước chừng 3.000 dặm. Tính vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là 1 thước. Một phân bao quản 30 dặm; 1 tấc bao quản 300 dặm, một thước bao quản 3.000 dặm. Tính trọn vòng trời cộng được 1.097.000 dặm.
Những thuyết này không giống nhau.
Xét sách Tấn-chí dẫn lời Xuân-thu khảo dị rằng: Vòng trời có 1.071.000 dặm. Một độ là 2.932 dặm.
Ý chừng thuyết này là đúng.
https://thuviensach.vn
Người Âu-Tây thì cho là vòng trời được chín vạn dặm (90.000). Một độ là 290 dặm. Thuyết này lại khác.
[9a] Sách Thượng-thư vĩ khảo linh diệu chép: Ngày dài thì bóng mặt trời được 1 thước 5 tấc. Ngày ngắn thì bóng mặt trời được 1 thước 3 tấc.
Sách Dịch-vĩ chép: Trong ngày đông-chí dựng cây nêu 8 thước, lúc giữa trưa nhìn bóng mặt trời dài hay ngắn để xem có điều hòa hay không.
Phép ấy cho biết: Ngày hạ-chí bóng mặt trời được 1 thước 4 tấc 8 phân. Ngày đông-chí bóng mặt trời được 1 trượng 3 thước.
Chu-Bễ nói: “Trong đất Thành-Chu ngày hạ-chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc, ngày đông-chí bóng mặt trời dài 1 trượng 5 thước 5 tấc.
Bài truyện về Hồng-phạm của Lưu-Hướng chép: Ngày hạ-chí bóng mặt trời được 1 thước 5 tấc 8 phân, ngày xuân-phân và thu-phân bóng mặt trời được 7 thước 3 tấc 6 phân.
Ở kinh-đô nhà Hán nhà Ngụy và nhà Tống bóng mặt trời khác nhau.
Về phép làm lịch của bốn nhà, cách xem thiên-văn và đo lường thiên-tượng thì đồng nhau, nhưng việc trần bày về đường vĩ-tuyến e khó bằng-cứ.
Bóng mặt trời đo theo Lưu-Hướng trong ngày xuân-phân và thu-phân là trực-tiếp suy ra chớ không phải theo những chứng-nghiệm lộ ra mà định trời dài hay ngắn[75].
Khảo sách Linh-diệu, Chu-bễ, Linh-hiến và phần chú Chu-lễ của Trịnh Huyền [9b] đều thấy nói: Bóng mặt trời trên mặt đất hễ một ngàn dặm thì sai một tấc.
Xét theo việc năm Nhâm-ngọ niên-hiệu Nguyên-gia thứ 19 (442) nhà Tống sai sứ sang Giao-châu đo bóng mặt trời thì thấy: Bóng mặt trời ở phía nam cây nêu dài 3 tấc 3 phân.
Hà-Thừa-Thiên khảo-sát bóng mặt trời ở Dương-thành nói: “Ngày hạ-chí bóng mặt trời dài 1 thước 5 phân. Tính ra Dương-thành cách Giao-châu muôn dặm mà bóng mặt trời thật ra chỉ sai 1 thước 8 tấc 2 phân, như vậy thì 600 dặm bóng mặt trời sai 1 tấc.
https://thuviensach.vn
Tín-Đô-Phương đời Hậu-Ngụy chú bốn thuật đo lường thiên-tượng theo phép Chu-bễ có nói: “Kim-lăng cách Lạc-dương từ nam đến bắc độ ngàn dặm mà bóng mặt trời sai 4 tấc, như vậy thì 250 dặm sai 1 tấc.
Lưu-Chước đời Tùy lấy bóng mặt trời ở hai ngày hạ-chí và đông-chí định chỗ mặt trời cao nhất chiếu xuống.
Theo sách Chu-quan bóng mặt trời ngày hạ-chí được 1 thước 5 tấc.
Nhóm Trương-Hành Trịnh-Huyền Vương-Phồn Lục-Tục đều cho rằng bóng mặt trời ngàn dặm thì sai [10a] 1 tấc.
Nói ở phía dưới vùng Nam Đái-nhật[76] 15.000 dặm, bóng mặt trời ở cây nêu rất đúng, lúc mặt trời cao thì lại khác.
Khảo xét việc đó ở phép trắc lượng thiên tượng thì không thể 1 tấc lại sai ngàn dặm. Và cũng không có điển nào nói như thế.
Nay Giao-châu Ái-châu dựng nêu mà đo bóng mặt trời, ở phía bắc cây nêu không có bóng mặt trời thì kể là năm vạn dặm (50.000), còn về phía nam qua vùng Đái-nhật thì 1.000 dặm sai 1 tấc, cũng không phải thật như vậy.
Phép Trung quỹ phúc ảnh đời Đường chép: Phép Trung-quỹ, khởi đầu do Lý-Thuần-Phong làm lịch quy định 24 tiết khí. Phép Trung-quỹ và cái hay dở của Tổ-Trùng hơi khác nhau, nhưng chưa biết của ai là đúng.
Tăng Nhất-hạnh làm lịch Đại-diễn, vua có xuống chiếu cho quan Thái-sử phải đo bóng mặt trời khắp trong thiên hạ, tìm đất trung-thổ (đất ở giữa bốn phương) để làm định số.
Có lời bàn nói: “Sách Chu-quan dùng thổ-khuê[77] đo bóng mặt trời, lấy vị trí nào mà bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc làm đất trung tâm điểm.
Trịnh-Huyền cho là [10b] bóng mặt trời chiếu xuống đất hễ 1.000 dặm thì sai 1 tấc. Chỗ bóng mặt trời sai 1 thước 5 tấc tức là ở phía dưới vùng Nam Đái nhật 15.000 dặm.
Đất cùng với tinh-tú dời chuyển sang bốn hướng và thăng giáng trong vòng 3 vạn dặm. Do đó chia làm hai thì được chỗ địa-trung, tức nay là đất Dĩnh-xuyên và Dương-thành.
https://thuviensach.vn
Trong niên-hiệu Nguyên-gia (424-454) đời vua Văn-đế nhà Tống, trong cuộc đi đánh nước Lâm-ấp ở phương Nam, ngày tháng 5 có dựng nêu để xem bóng mặt trời, thấy bóng mặt trời ở phía bắc cây nêu, còn dựng nêu ở Giao-châu thì thấy bóng mặt trời ở phía nam cây nêu 3 tấc.
Trong niên-hiệu Khai-nguyên thứ 12 (725) đời vua Huyền-Tông nhà Đường, đo bóng mặt trời ở Giao-châu (nay là Thăng-long) trong ngày hạ-chí thấy bóng mặt trời ở phía nam cây nêu 3 tấc 3 phân, đồng với bóng mặt trời đo trong niên hiệu Nguyên-gia.
Sứ-giả Đại-tướng Nguyên-Thái nói: “Đất Giao-châu trông cùng tầm mắt mới cao trên 20 độ.”
Sách Hội-yếu chép: Khỏi mặt đất hơn 30 độ.
Tháng 8 ở trong biển trông lên dưới sao Lão-nhân thấy những ngôi sao lập lòe vừa sáng vừa to rất nhiều mà người xưa chưa từng biết, đó là những ngôi sao mà những nhà theo thuyết Hồn-thiên cho là thường giấu [11a] trong đất.
Lại ở phía bắc nước Thiết-lặc có nước Cốt-lợi-cán, ở đấy ban ngày thì dài, ban đêm thì ngắn. Đã về đêm mà trời như vàng vàng không tối. Chiều nấu đùi dê vừa chín thì trời đã sáng, bởi lẽ đó là vùng gần chỗ mặt trời mọc.
Sách Nam-cung của Thái-sử Giám nói: Chọn đất phẳng ở tỉnh Hà-nam, đầu tiên đặt dây mực rồi dựng cây nêu để kéo dây mà đo, bắt đầu từ Hoạt-đài.
Bóng mặt trời ở thành Bạch-mã ngày hạ-chí được 1 thước 5 tấc 7 phân.
Về phía nam hơn nữa ở Tuấn-nghi và Nhạc-đài bóng mặt trời được 1 thước 5 tấc 3 phân.
Về phía nam hơn nữa ở Phù-câu bóng mặt trời được 1 thước 4 tấc 4 phân. Trực-kính của chu-vi để đo thiên-độ được 1.406 dặm 24 bộ có hơn.
Nay đo bóng mặt trời cách Dương-thành 5.000 dặm thì thấy đã ở phía nam đất Đái-nhật, thì một độ phải giảm 2 phần ba (2/3).
Nam-cực và Bắc-cực cách nhau 80.000 dặm, đường kính là 50.000 dặm. Sức rộng lớn của vũ-trụ há chỉ như thế, thì cái thuật của Vương-Phồn chẳng khác nào lấy cái bầu đong nước biển vậy.
https://thuviensach.vn
Trong năm thứ 13 đến núi Đại-tông (núi Thái-sơn), lúc ấy ở chân núi thì ban đêm chưa dứt, mà ở chỗ Nhật-quan[78]trông về phương đông thấy mặt trời đã lần lần lên cao.
Xét theo phép, lúc sáng sớm đến lúc mặt trời mọc lên cách nhau 2 khắc rưỡi, nay thấy cách nhau đến 3 khắc có hơn nguyên do bởi ý của người xưa dùng thổ khuê trắc-lượng thiên-tượng để tuyên-bố hòa khí, giúp đỡ [13a] vật nghi chớ không cốt ở đo đường kính chu-vi của vị thứ các ngôi sao. Ý nghĩa tôn trọng lịch số là kính trao cho nhân-dân thời-tiết làm mùa và kính trọng thiên-tượng, chớ không phải ở lẽ phải trái của thuyết Hồn-thiên hay Cái-thiên.
Sách Thiên văn chí nước Tấn chép: Đất ở giữa bầu trời mà Dương-thành là trung điểm.
Sách Hà-đồ quát địa tượng chép: Núi Côn-lôn làm cột trụ, khí bốc lên thông với trời. Núi Côn-lôn là trung điểm của đất.
Chu-Tử nói: “Trung-điểm của đất ngày nay với của ngày xưa khác nhau. Thời nhà Hán, Dương-thành là trung-điểm của đất, còn triều nhà Tống, Nhạc-đài là trung điểm của đất, thì đã khác nhau khá nhiều.
Tạp-chí của Lưu-Định-Chi chép: Đính-tâm của trời phải là Dương-thành ở dưới núi Tung-sơn, còn đính-tâm của đất là núi Côn-lôn, so le không đối nhau.
Trong khoảng trời đất, phía đông-nam thì nắng nóng, phía tây-bắc thì lạnh rét.
Đất ở vùng lạnh rét thì đặc cứng dựng cao, cho nên miền tây-bắc có nhiều núi.
Đất ở [13b] vùng nắng nóng thì rã-rời sụp lở, cho nên miền tây-nam có nhiều nước.
Hợp miền đông-nam nhiều nước với miền tây-bắc nhiều núi lấy quân bình mà luận thì đất vẫn lấy Dương-thành làm trung-điểm. Nhưng lấy điểm cao-đính thì núi Côn-lôn làm trung-tâm.
Đấy đều là lấy lãnh-vực Trung-quốc mà nói.
Nhưng tôi xét lời của Trâu-Diễn cho là đất có chín châu, châu ở Đông-nam là Thần-châu, còn 8 vùng kia là Thứ-châu, Nhung-châu, Hấp-châu, Ký-châu, Thai-châu, Tế-châu, Bạc-châu, Dương-châu làm Xích-huyện[79].
https://thuviensach.vn
Trong hoàn-vũ, một trong chín châu ấy là Ký-châu chưa biết quả thật là ở đâu.
Nhà sư Ma-Đằng đáp lời vua Minh-đế nhà Hán rằng: “Nước Ca-tỳ-la-vệ là trung-tâm Tam thiên đại thiên thế-giới bách ức nhật nguyệt, các Phật Tam thế[80] đều sinh ra ở đấy cả” .
Hãn-Dung luận rằng: “Phật sinh ở nước Thiên-trúc vì nước Thiên-trúc là trung-tâm của trời đất và là nơi trung-hòa” .
Ông lại [14a] nói: “Sao Bắc-thần ở giữa bầu trời và ở phía bắc cõi người” . Lấy đó mà xem thì đất nhà Hán chưa ắt là ở giữa trời.
Nhà sư Thích Pháp-Lâm dẫn sách Trí-độ luận nói rằng: “Thiên thiên chồng số lên nhau cho nên gọi là tam thiên. Số thiên rồi lại số thiên nữa cho nên gọi là đại thiên. Nước Ca-tỳ-la-vệ ở trong đó” .
Kinh Phiên-thán gọi phía đông là chấn-đán vì lúc mặt trời mới mọc thấy sáng rực ở góc phương đông. Các đức Phật ra đời đều ở Trung-châu chớ không sinh ra ở nơi biên ấp.
Pháp-uyển truyện nói: Hà-Thừa-Thiên đời Tống cùng với Trí-tạng pháp-sư tranh-luận về mặt trời đến giữa bầu trời. Lúc mặt trời đến giữa bầu trời, nếu dựng cây nêu thì không có bóng mặt trời.
Nhà Hán dựng ảnh-đài (đài để đo bóng mặt trời), trong ngày Hạ-chí và Đông-chí dựng nêu có chút ít bóng tối.
Y theo Toán kinh một tấc trên trời bằng dưới đất ngàn dặm. Lúc ấy Hà Thừa-Thiên mới tỉnh ngộ.
Tóm lại mà luận: “Nước Thiên-trúc là trung-tâm của mặt đất” .
Nhà sư Thích-Minh-Khái [14b] bác lời sớ của ông Phó-Dịch có nói: “Trung quốc là trung-tâm của ba ngàn nhật nguyệt và của một vạn hai ngàn thiên-địa” .
Các thuyết kể trên khác nhau, không biết căn-cứ vào đâu.
Sách của người Âu-tây viết ra lúc sau cùng nói lại thật ly-kỳ. Những người Âu-tây ấy do đường biển hàng 10 vạn dặm đến Trung-quốc lịch duyệt đã rộng, đo xét lại tinh, cho nên người Trung-quốc đều tin theo mà không dám cho là sai.
https://thuviensach.vn
Nay chép các thuyết của họ nói về phân độ kinh tuyến các nước đại lược như sau:
Phàm các nước có lớn có nhỏ, hoặc ở về phía bắc phía nam, hoặc ở về phía đông phía tây đều lấy số độ mà chia, bởi lẽ đất và biển đã thành hình tròn như trái cầu.
Hai đầu trục nam bắc đối xứng với Nam-cực và Bắc-cực của trời gọi là hai cực Nam-cực và Bắc-cực của trái đất thì nhất định cách đường Xích-đạo đồng nhau. Phía trên và phía dưới đường xích-đạo là số vĩ-tuyến của trái đất đã rõ ràng.
Này, mặt trời mặt trăng mắc ở vòng trời bao bọc lấy trái đất chuyển vận ngày đêm không [15a] nghỉ vốn không có mọc lên hay lặn xuống. Chỉ như nước này gặp mặt trời soi chiếu thì là ban ngày, hay thấy mặt trăng và tinh-tú thì là ban đêm. Vì thế hễ thấy mặt trời lên thì đó là phương đông, hễ thấy mặt trời xuống thì đó là phương tây.
Nhưng phía tây của nước này là phía đông của nước kia, mà trái đất vốn không có chính đông chính tây.
Nhưng kinh-tuyến của trái đất phải bắt đầu đếm từ chỗ nào?
Trong bức toàn đồ vẽ ra đầu tiên, đất của hai đại châu Âu-la-ba (Europe) và Lợi-mạt-á đều ở phía tây nước Trung-hoa.
Khởi đầu xét trong bốn biển, Phúc-đảo ở về phía cực-tây. Thì phía ngoài đảo ấy là biển. Đi sang phương đông mà tìm đất thì thấy đất ở phương đông rộng bao la khôn cùng lại là những nước giao tiếp nhau.
Trong bức Nhất-thống-đồ, từ Bắc-cực qua Phúc-đảo đến Nam-cực vẽ một đường kinh-tuyến. Lấy đường kinh-tuyến này làm mức để tính độ số của đường ngang. Đường kinh-tuyến xuyên qua Phúc-đảo được kể là đầu và cuối của [15b] 360 độ.
Có người hỏi:
- Trái đất không có đông tây mà người làm bản-đồ lại có những chỗ như Đông-hải Tây-hải thì thật chẳng là lầm hay sao?
Đáp:
https://thuviensach.vn
- Người khéo vẽ bản-đồ cố nhiên lấy nước to làm chủ, cho nên lấy bên tả bên hữu của nước to ấy mà đặt tên biển tên địa-phương.
Như người Âu-la-ba (Europe) thì lấy Á-mặc-lợi-gia (América) làm phía tây, lấy Á-tế-á (Asia) làm phía đông, cho nên vẽ Á-mặc-lợi-gia ở bên hữu, vẽ Á-tế-á ở bên tả.
Như người Trung-hoa thuộc Á-tế-á tất nhiên vẽ Âu-la-ba (Europe) và Lợi mạt-á ở phía hữu và vẽ Bắc Á-mặc-lợi-gia (Bắc Mỹ-Châu) và Nam Á-mặc-lợi gia (Nam Mỹ-châu) ở phía tả.
Nếu không như thế thì tên các địa-phương sẽ lẫn lộn.
Sách Sơn hải toàn đồ giải thích rằng: Đất và biển vốn là hình tròn mà hợp thành một trái cầu ở trong bầu trời.
Trời đã bao bọc lấy đất thì đây và đó cảm-ứng nhau, cho nên trời có [16a] Nam-cực, Bắc-cực, đất cũng có Nam-cực Bắc-cực như vậy. Trời chia ra 360 độ, đất cũng chia ra 360 độ đồng như vậy.
Giữa trời có đường Xích-đạo. Từ đường Xích-đạo ấy xuống phía nam 33 độ rưỡi là đường nam Hoàng-đạo. Từ đường Xích-đạo lên đến phía bắc 33 độ rưỡi là đường Bắc Hoàng-đạo.
Cứ theo nước Trung-hoa ở vào phía bắc Bắc Hoàng-đạo, mặt trời đi ở đường Xích-đạo thì ngày đêm bằng nhau, mặt trời đi về nam-đạo thì ban ngày ngắn, mặt trời đi về bắc-đạo thì ban ngày dài.
Cho nên bầu trời có vẽ bức đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, vẽ hai bức đồ ngày dài đêm ngắn ở phía nam phía bắc thấy rõ bóng mặt trời đi.
Trái đất cũng có ba bức đồ ở dưới tương-đối với bầu trời.
Nhưng bầu trời bao bọc rất lớn-lao ở phía ngoài trái đất, cho nên độ trên trời rộng. Còn trái đất thì nhỏ bé nằm gọn trong bầu trời, cho nên độ dưới đất hẹp. Do đó độ số khác nhau.
Bề rộng của thiên-hạ khởi đầu từ Phúc-đảo là 10 độ đến 360 độ rồi lại [16b] tiếp liền nhau.
Thử xét ở Nam-kinh cách từ trung-tuyến trở lên 32 độ, cách từ Phúc-đảo sang đông 120 độ thì ở yên nơi ấy. Những đất ở từ trung-tuyến trở lên đất Bắc-
https://thuviensach.vn
cực thì thật thuộc về miền Bắc. Những đất ở từ trung-tuyến trở xuống thì thật thuộc về miền Nam.
Nhà Phật nói Trung-quốc ở vào Nam thiềm bộ châu kể cả số đất lồi ra lõm vào ở Tu-di sơn[81]. Việc sai lầm này có thể biết được.
Từ nhà Hán trở về sau, người ta nói đến phân-dã, lấy sao Ngưu sao Nữ là thuộc nước Ngô nước Việt, lấy sao Dực sao Chẩn là thuộc nước Kinh nước Sở.
Lưỡng-Quảng (Quảng-đông, Quảng-tây) tuy là giới-hạn đất Việt đã tách riêng ra.
Sách Địa-lý chí đời Tiền-Hán lấy những quận thuộc Uất-lâm và Thương-ngô ở tại Việt-tây đều thuộc về phân-dã sao Ngưu sao Nữ. Đỗ-Hựu, Âu-dương công, Tô Đông-pha đã phân biệt [17a] rồi.
Nhà sư Nhất-Hạnh có thuyết lưỡng-giới (hai cõi) lấy phía đông-bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc tinh-kỷ[82], lấy phía tây-bắc nước Việt liền với nước sở thuộc sao Thuần-vĩ.
Chu-Bạch Thái-Kham y theo đó mà khảo-luận không còn nghi ngờ nữa.
Thế thì tỉnh Quảng-đông là lãnh-vực Dương-châu. Những tỉnh Quảng-yên, Hải-dương và Sơn-nam hạ lộ của nước ta đề là nhánh ấy đúng vào phân-dã sao Nữ.
Quảng-tây là lãnh-vực Kinh-châu. Những tỉnh Lạng-sơn, Cao-bằng, Thái nguyên, Kinh-bắc, và Sơn-nam thượng lộ đều là nhánh ấy phải thuộc về sao Chẩn.
Vùng nào gần phía đông thì ấm nhiều lạnh ít, hàng năm ruộng thu gặt hai mùa.
Vùng nào gần phía tây thì lạnh ấm bằng nhau, ruộng chỉ thu gặt một mùa. Khí-hậu không thể nào không đổi khác.
Đến như Vân-nam là lãnh-vực Lương-châu. Những tỉnh Tuyên-quang, Hưng-hóa cho đến Sơn-tây liền về phái hữu với Thanh-hoa, Nghệ-an của nước ta đều là dư khí của mạch ấy, phải thuộc về sao Quỷ.
Sách Vĩ thư khảo [17b] linh diệu chép: một độ là 2.932 dặm có lẻ. Phủ Thái-bình tỉnh Quảng-tây ở đúng vào 13 độ sao Chẩn.
https://thuviensach.vn
Lạng-sơn, Cao-bằng, Thái-nguyên, Kinh-bắc, Sơn-nam thượng lộ của nước ta ước chừng ở đúng vào 14 độ sao Chẩn.
Phủ Liêm-châu tỉnh Quảng-đông ở đúng vào 6 độ sao Nữ. Những tỉnh An quảng, Hải-dương, Sơn-nam hạ lộ phải thuộc vào 7 độ sao Nữ.
Các loại sách thiên-văn trong Minh-chí đều lấy những châu Quảng-đông, Cao-hoá thuộc về phân-dã sao Ngưu sao Nữ, mà châu Khâm châu Liêm thuộc về phân-dã sao Dực sao Chẩn.
Tôi trộm nghĩ Liêm-châu là đất quận Hợp-phố, phía nam ven theo bờ biển phải là phân-dã tinh-kỷ, là dư chi sao Thuần-vĩ, phía hữu đến khoảng Nam-ninh và Thái-bình không được kéo dài đến ngoài biển được.
Vả lại Ngô-châu thuộc phân-dã sao Nữ mà hay huyện Bác-bạch và Lục-châu đều có đường lộ chạy vào xứ An-quảng của nước ta.
Khâm-châu thuộc tỉnh Quảng-đông [18a] lại cùng với châu Vạn-ninh thuộc tỉnh An-quảng liền đất với nhau thì phải thuộc phân-dã sao Nữ, điều ngày có thể biết được.
Sách Sơ-học ký chép: Đồng-hồ được chế-tạo bắt đầu từ thời Hoàng-đế, truyền-bá sang đời nhà Hạ nhà Thương.
Sáng ngày đông-chí, đồng-hồ rỉ chảy đến mức 45. Sau tiết Đông-chí ngày dài, cứ 9 ngày đồng-hồ rỉ chảy thêm 1 mức.
Sáng ngày Hạ-chí, đồng-hồ rỉ chảy đến mức 65. Sau tiết Hạ-chí ngày ngắn, cứ 9 ngày đồng-hồ rỉ chảy giảm 1 mức.
Cái đồng-hồ gồm có 3 từng, tròn và đều có bề kinh 1 thước đặt trên cái thùng hứng nước có góc vuông, có cái vòi rồng phun nước vào cái thùng hứng nước, nước chảy xuống dưới một cái cừ đặt ngang, trên nắp có đặt một hình người đầy đủ áo mão đúc bằng vàng gọi quan Tư thì (coi về giờ khắc), hai tay cầm một cây tên. Đó là phép lậu khắc của Ân-Quỳ.
Lấy đồng làm một cái ống hút nước (khát ô, con quạ khát nước) hình trạng giống như một cái móc uốn cong dẫn nước chứa đựng cho chảy vào [18b] một cái vòi rồng bằng bạc, phun vào cái đồi tưới (quán khí), nước rỉ chảy xuống 1 thăng cân nặng 2 cân thì trải qua 1 khắc. Đó là phép lậu khắc của Lý-Lan.
https://thuviensach.vn
Hà-Thừa-Thiên đời Tống đã sửa đổi phép lậu-khắc, trong tiết Xuân-phân và thu-phân sớm tối ngày đêm đều 55 khắc.
Đến thời vua Vũ-đế nhà Lương lấy ngày đêm làm 100 khắc phân-phối vào 12 giờ, mỗi giờ được 8 khắc nhưng còn phần dư thừa, lấy ngày đêm là 96 khắc, một giờ được 8 khắc đúng.
Đến niên-hiệu Đại-đồng thứ 10 (544) đời vua Vũ-đế nhà Lương lại đổi ngày đêm là 108 khắc, mỗi giờ 8 khắc, tiết Đông-chí ban ngày 48 khắc, ban đêm 60 khắc, tiết Hạ-chí ban ngày 70 khắc, ban đêm 38 khắc, tiết Xuân-phân và Thu phân, ban ngày 60 khắc, ban đêm 48 khắc, số buổi tối và buổi sáng đều 3 khắc.
Đến đời Trần lại y theo phép đời xưa [19a] ngày đêm là 100 khắc.
Nhà Đường chế ra phép Thủy hải phù tiễn có 4 cái thùng, lấy cây tên nổi làm khắc, chia ngày đêm có 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc 12 phân, mỗi khắc 60 phân, có 48 cây tên nổi, 2 cây tên nổi là 1 khí, 1 năm có 2.191.500 phân đều được khắc ở cây tên.
Cái ống hút bằng đồng dẫn nước rót xuống cây tên nổi, mực nước lần lần lên cao, lên đến mức phân biệt ngày đêm.
Trong tiết Xuân-phân, Thu-phân và Hạ-chí Đông-chí, mùa đông mùa hạ dài ngắn, lúc tối lúc sớm ẩn hiện đồng như bóng mặt trời, theo sách Chu quan không khác.
Nhà Tống, nhà Nguyên chế-tạo khác nhau nhưng đều lấy theo phép ngày đêm 100 khắc.
Sách Tam-tài đồ-hội dẫn các sách nói về nguồn gốc khí-hậu.
Sách Xuân-thu nội-sự chép: Vua Phục-Hy tạo ra tám tiết, lấy hào ứng với tiết-hậu.
Sách Tấn lịch chí chép: Viêm-đế phân ra 8 tiết để bắt đầu công việc nhà nông.
[19b] Đổng-Ba nói: “Vua Phục-Hy tạo ra bát quái (8 quẻ) mỗi quẻ có 3 vạch (3 hào) để tượng-trưng 24 tiết khí (8x3=24).
Thiên Nguyệt lịnh trong sách Lễ-ký có chú rằng: Chu-công chế ra giờ, định 24 khí, 72 hậu.
https://thuviensach.vn
Như vậy thì khí-hậu bắt đầu bày ra từ vua Phục-Hy và chế-định do Chu công.
Năm ngày là 1 hậu. Một tháng có 6 hậu. Năm lầu sáu là đủ 30 ngày. Ba hậu là 1 khí, tức 1 khí có 15 ngày.
Phép định tiết khí ngày giờ:
前九年推後九年通
幹食枝衝氣節同
閏月必定天中氣
此法教人最有功
Tiền cửu niên suy, hậu cửu niên thông.
Cán thực chi xung khí tiết đồng.
Nhuận nguyệt tất định thiên trung khí.
Thử pháp giáo nhân tối hữu công.
Dịch nghĩa
1. Chín năm trước suy tính thì thông hiểu được chín năm sau.
2. Gốc thực cành xung, khí tiết đồng.
3. Tháng nhuận tất nhiên định được khí trong trời.
4. Phép này dạy người ta rất có công.
Như năm kỷ-hợi ngày nhâm-tuất là tiết Lập-xuân, thì năm đinh-vị (9 năm sau) ngày giáp-thìn cũng là tiết Lập-xuân.
Nhâm là thủy sinh giáp là mộc, là thực thần, thìn và tuất xung khắc nhau, đó là cán thực chi xung. Còn những tiết khác thì cứ phỏng theo đó mà tính.
[20a] Phép định khí tiết thời khắc:
今年雨水明年春
天干不動加兩辰
Kim niên Vũ-thủy, minh niên xuân.
Thiên-can bất động, gia lưỡng thần.
Dịch nghĩa
1. Năm nay là tiết Vũ-thủy thì sang năm là tiết Lập-xuân.
https://thuviensach.vn
2. Không động gì đến thiên-can, chỉ gia thêm hai giờ.
Tính 24 khí cũng phỏng theo phép này:
時加三刻萬年靈
Thời gia tam khắc vạn niên linh.
Dịch nghĩa
Giờ thêm ba khắc, dẫu muôn năm cũng rất linh-nghiệm (không sai).
Như năm nay tháng giêng ngày mùng 3 canh-ngọ giờ tý. Một khắc đầu tiên là tiết Vũ-thủy. Trừ ngày canh-ngọ không động đến thiên-can, thêm 2 giờ tì gặp tuất. Tức năm sau ngày canh-tuất là tiết Lập-xuân.
Lại như 1 khắc đầu giờ tý là tiết Vũ-thủy, thì phải biết 3 khắc đầu tiên giờ tý là tiết Lập-xuân.
Phép xem giờ khắc mặt trời mọc và lặn.
Mặt trời mọc
I. - Giờ dần
Tiết:
- Hạ-chí: mọc giờ dần đúng 2 khắc.
- Mang-chủng[83], Tiểu-thử mọc: giờ dần đúng 3 khắc.
- Tiểu-mãn, Đại-thử: mọc giờ dần đúng 4 khắc
II. - giờ mão [20b].
Tiết:
- Lập-hạ, Lập-thu: mọc giờ mão 1 khắc đầu.
- Cốc-vũ, Xử-thử: mọc giờ mão 2 khắc đầu.
- Thanh-minh, Bạch-lộ: mọc giờ mão 3 khắc đầu.
- Xuân-phân, Thu-phân: mọc giờ mão 1 khắc đầu.
- Kinh-trập, Hàn-lộ: mọc giờ mão đúng 1 khắc.
- Vũ-thủy, Sương-giáng: mọc giờ mão đúng 2 khắc.
- Lập-xuân, Lập-đông: mọc giờ mão đúng 3 khắc.
https://thuviensach.vn
- Đại-hàn, Tiểu-tuyết: mọc giờ mão đúng 4 khắc. III. - Giờ thìn.
Tiết:
- Tiểu-hàn, Đại-tuyết: mọc giờ thìn 2 khắc đầu - Đông-chí: mọc giờ thìn 1 khắc đầu
Mặt trời lặn
IV. - giờ thân.
Tiết:
- Đông-chí: lặn giờ thân đúng 2 khắc.
- Tiểu-hàn, Đại-tuyết: lặn giờ thân đúng 3 khắc. - Đại-hàn, Tiểu-tuyết: lặn giờ thân đúng 4 khắc. V. - Giờ dậu.
Tiết:
- Lập-đông, Lập-xuân: lặn giờ dậu 1 khắc đầu. - Vũ-tuyết, Sương-giáng: lặn giờ dậu 2 khắc đầu. - Kinh-trập, Hàn-lộ: lặn giờ [21a] dậu 3 khắc đầu. - Xuân-phân, Thu-phân: lặn giờ dậu 4 khắc đầu. - Thanh-minh, Bạch-lộ: lặn giờ dậu đúng 1 khắc. - Cốc-vũ, Xử-thử: lặn giờ dậu đúng 2 khắc. - Lập-hạ, Lập-thu: lặn giờ dậu đúng 3 khắc. - Tiểu-mãn, Đại-thử: lặn giờ dậu đúng 4 khắc. VI. - Giờ tuất.
Tiết:
- Mang-chủng[84], Tiểu-thử: lặn giờ tuất 2 khắc đầu. - Hạ-chí lặn: giờ tuất 1 khắc đầu.
Bí-quyết đoán khí tiết ngày đầu tháng sắp tới:
https://thuviensach.vn
月朔原來自古有
前九將來與後九
大月五干連九支
小月四干八支偶
六六之年仔細思
教君走盡幾寒露
便做今年立春數
算來有本無差誤
四十七年前有閏
閏前二月定今逢
分毫不漏真消息
盡在先生掌握中
Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu,
Tiền cửu tương lai dữ hậu cửu.
Đại nguyệt ngũ can liên cửu chi,
Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.
Lục lục chi niên tử-tế tư,
Giáo quân tẩu tận kỷ Hàn-lộ.
Tiện tố kim niên Lập-xuân số,
Toán lai hữu bổn vô sai ngộ.
Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,
Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng.
Phân [21b] hài bất lậu chân tiêu tức,
Tận tại[85] tiên-sinh chưởng ác trung.
Dịch nghĩa
1. Ngày mùng một vốn từ xưa đã có,
2. Chín năm trước đem lại tính với chín năm sau. 3. Tháng đủ thì tính theo năm can và chín chi, 4. Tháng thiếu thì tính theo bốn can và 8 chi chẵn. 5. Năm sáu sáu suy nghĩ tử-tế,
6. Dạy ông trải hết mấy tiết Hàn-lộ.
https://thuviensach.vn
7. Thì làm được số Lập-xuân năm nay,
8. Tính ra có căn-bản không sai lầm.
9. Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,
10. Định năm nay phải gặp nhuận trước hai tháng.
11. Giảm tăng xác thật ly hào cũng không sót,
12. Đều ở trong bàn tay của ông.
Giả như năm mậu-tý, tháng giêng là tháng thiếu, ngày mùng 1 là ngày ất dậu, can ất đến can thứ tư là mậu, chi dậu đến chi thứ tám là thìn, 9 năm sau là năm bính-thân tháng giêng ngày mùng 1 là ngày mậu-thìn.
Giả như năm mậu-tý, tháng 2 là tháng đủ ngày mùng 1 là ngày giáp-dần, can giáp đến can thứ năm là can mậu, chi dần đến chi thứ chín là chi tuất, 9 năm sau là năm bính-thân tháng 2, ngày mùng 1 là ngày mậu-tuất.
Còn những năm khác cũng phỏng theo đấy mà tính.
Lại có bài bí-quyết rằng:
正月初一辰說
九年二月十五同
二月初一辰位
即是九年二月中
Chinh nguyệt sơ nhất thìn thuyết,
Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.
Nhị nguyệt sơ nhất thìn vị,
Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.
Dịch nghĩa
Nói mùng một tháng giêng là ngày thìn.
Ngày rằm tháng hai chín năm sau cũng đồng như vậy (cũng ngày thìn). Mùng một tháng hai là ngày thìn
Tức là rằm tháng hai chín năm sau cũng là ngày thìn.
Phép này rất đúng. Chỉ có trong tháng nhuận tiết khí nào ở ngày rằm thì dời lùi lại một ngày. Còn những tháng khac tương đối không sai.
https://thuviensach.vn
Luận về Lập-xuân.
Đem ngày giờ và khắc tiết Hàn-lộ ở 26 năm [22a] về trước đối-chiếu với tiết Lập-xuân năm nay thì thấy ngày giờ và khắc không sai.
Luận về tháng nhuận.
Xem tháng nhuận 47 năm trước và thêm vào 2 tháng thì biết tháng nhuận năm nay. Như năm canh-thìn về trước nhuận tháng 8 thì đến năm bính-dần (47 năm sau) nhuận tháng 10.
Sáu mươi năm là một hoa-giáp-tý chia làm đôi, từ giáp-tý ất-sửu thuộc kim đến nhâm-thìn quý-tỵ thuộc thủy cộng được 30 năm. Lại từ giáp-ngọ ất-vị thuộc kim đến nhâm-tuất quý-hợi thuộc thủy cũng là 30 năm.
Chính cung đối cung thuộc kim rồi thuộc hỏa, thuộc hỏa rồi thuộc mộc đều đồng nhau.
Về ý nghĩa lấy 60 năm trong 1 giáp-tý phối nạp vào âm, phần tiểu-chú ở sách Tứ thư đại toàn và chương Thiên thời địa lợi ở sách Mạnh tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm. Thuyết này cũng chưa rõ-ràng minh bạch.
Theo sách Thụy quế đường hạ lục chép: Âm luật chia:
[22b]
số 1 số 6 làm hành thủy
số 2 số 7 làm hành hỏa
số 3 số 8 làm hành mộc
số 4 số 9 làm hành kim
số 5 số 10 làm hành thổ
Nhưng trong ngũ hành, chỉ có hành kim và hành mộc là có âm tự nhiên.
Còn hành thủy hành hỏa và hành thổ phải nhờ nhau rồi sau mới thành âm, bởi lẽ nước (thủy) nhờ đất (thổ), lửa (hỏa) nhờ nước (thủy), đất (thổ) nhờ lửa (hỏa).
Cho nên
âm kim là số 4 số 9
âm mộc là số 3 số 8
https://thuviensach.vn
âm thổ là số 5 số 10
âm thủy là số 1 số 6
âm hỏa là số 2 số 7
Giáp kỷ tý ngọ là số 9
Ất canh sửu vị là số 8
Binh tân dần thân là số 7
Đinh nhâm mão dậu là số 6
Mậu quý thìn tuất là số 5
Tỵ hợi là số 4
Giáp-tý ất-sửu là số 34, làm âm số 4 thuộc kim, cho nên gọi là kim. Mậu-thìn kỷ-tỵ là số 23, làm âm số 3 thuộc mộc, cho nên gọi là mộc.
Canh-ngọ tân-vị là số 32, số 2 thuộc hỏa. Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi thổ.
Giáp- [23a] thân, ất-dậu là số 30, số 10 thuộc thổ, thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi thủy.
Mậu-tý kỷ-sửu là số 31, số 1 thuộc thủy, hỏa lấy thủy làm âm, cho nên gọi hỏa.
Tất cả 60 năm trong hoa-giáp đều như thế. Đó là khởi đầu của phép nạp âm. Sáu mươi năm (60) trong một giáp-tý là lịch, nạp âm là luật.
Địa-chi là phần phân biệt trong nạp âm.
Mười hai động vật thuộc 12 địa chi.
Thiên Sinh tiếu luận chép:
1. Đinh-hỏa ở trên trời là sao, ở thân-thể là mắt, sinh ở dậu, dứt ở tỵ. Tân kim sinh tý, ở thân thể là răng, cho nên con chuột, răng thì bén mà mắt ít sáng.
2. Tân-kim ở trên trời là thái-âm (mặt trăng), canh-kim sinh ở tỵ, dứt ở tý, mộ ở sửu, cho nên con bò ít răng, thuộc âm cho nên có bốn móng.
3. Canh-kim ở trên trời là sương [23b], ở thân-thể là da lông và xương, Kim sinh lớn ở tỵ, dứt ở dần, giáp lộc ở dần, ở thân-thể là móng, cho nên con cọp có
https://thuviensach.vn
năm móng, vuốt rất bén mà ngắn cổ.
4. Kỷ-thổ ở trên trời là nguyên khí, ở thân-thể là môi, sinh ở dậu, bịnh ở mão, ất-mộc lộc vượng, kỷ-thổ bịnh tuyệt thuộc âm, cho nên con thỏ có bốn móng, tai thì dài mà môi khuyết.
5. Quý-thủy ở trên trời là mưa, ở thân-thể là lỗ tai. Nhâm-thủy sinh ở thân, tử ở mão, mộ ở thìn, cho nên con rồng có năm móng, tai thì nhỏ, nghe thiếu kém.
6. Nhâm-thủy ở trên trời là mây, ở thân-thể là chân, sinh ở thân, dứt ở tỵ, gặp canh-kim thì sinh ở lại, cho nên con rắn không có chân mà chạy giỏi. Bính-hỏa là lộc, đinh-hỏa ký vượng, ở thân-thể là lưỡi, cho nên con rắn có hai lưỡi.
7. Giáp-mộc ở trên trời là sấm, ở lục-phủ là mật, ở thân-thể là móng tay, sinh [24a] ở hợi, tử ở ngọ, tý-lộc đến ngọ, ở thân-thể là mắt, cho nên con ngựa có dạ nhãn[86], không có mật, chân một móng.
8. Ất-mộc ở trên trời là gió, ở ngũ-tạng là gan, giáp-mộc sinh ở hợi, tử ở ngọ, mộ ở vị, cho nên con dê ngẩng lên trông, không có tròng ở mắt, có bốn móng.
9. Kỷ-thổ ở tạng-phủ là tỳ. Mậu-thổ là vị (dạ dày), bại ở dậu, thân được dương-kim, vô tình nhờ khí, cho nên con khỉ không có thận và tỳ. Nhâm-thủy ứng về chân, sinh ở thân, cho nên con khỉ chạy giỏi, thuộc dương, cho nên có năm móng.
10. Bính-hỏa ở dưới đất là lò lửa, sinh ở hợi, tử ở dậu. Đinh-hỏa sinh dậu, xung khắc với nước, bại ở dậu. Thủy (nước) chủ về thận, cho nên con gà có nội thận mà không có ngoại-thận (hòn dái), lại không có tiểu-trường (ruột non).
11. Mậu-thổ ở trên trời là sương, ở lục-phủ là vị (dạ dày). Kỷ-thổ ở tạng là tỳ. Canh-kim suy ở mậu-hỏa, mộ ở tuất, cho nên con chó chỉ có tiểu-trường (ruột non) mà không [24b] có tiểu đái. Nhâm-thủy đái khắc làm chân, cho nên con chó chạy giỏi.
12. Ất-mộc là gân, sinh ở ngọ, tử ở hợi, âm mộc bị thương, cho nên con heo không có gân.
Sách Dương-cốc mạn lục chép: Tý dần thìn ngọ thân tuất là thuộc dương cho nên thuộc vào số lẻ mà đặt tên. Con chuột có 5 ngón, con cọp có 5 vuốt, có rồng có 5 móng, con ngựa có 1 móng, con khỉ có 5 ngón, con chó có 5 ngón.
https://thuviensach.vn
Sửa mão tỵ vị dậu hợi thuộc âm, cho nên thuộc vào số chẵn mà đặt tên. Con bò có 4 móng, con thỏ có 2 móng, con rắn có 2 lưỡi, con dê có 4 móng, con gà có 4 móng, con heo có 4 ngón.
Người theo học-thuyết Trung-quốc nói ngũ-hành là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ (sắt, cây, nước, lửa, đất).
Người theo học-thuyết Thiên-trúc (Ấn-độ) nói tứ-hành là địa, thủy, hỏa, phong (đất, nước, lửa, gió).
Người theo học thuyết Âu-Tây nói tứ-hành là hỏa, khí, thủy, thổ (lửa, hơi, nước, đất).
Cử ra ngũ-hành là nói đồ dùng hằng ngày của người ta.
Cử ra tứ-hành là nói toàn [25a] thể các thức đại dụng.
Kim (sắt) và mộc (cây) đều sinh ở thổ (đất) mà gió tức là hơi, về lý vốn không khác nhau.
Trong ngũ-hành, kim sinh thủy (sắt sinh ra nước). Có thuyết nói kim là mẹ khí, ở trên trời là tinh-tú, ở dưới đất là đá. Mây từ núi đá phát ra. Mưa từ tinh-tú rơi xuống.
Cho nên hễ tinh-tú dao-động thì xem về gió về mưa. Hễ đá tảng ướt tươm thì xem về mưa về nước.
Tạ-Tại-Hàng đời nhà Minh nói: “Thể sắt rất cứng mà có thể nấu chảy thành chất lỏng, đó là ứng với ý nghĩa kim sinh thủy (sắt sinh ra nước)” .
Tôi trộm nghĩ: Trời có bốn mùa. Mùa thu chuyển sang mùa đông. Người ta có ngũ-tạng và lục-phủ. Phổi chuyển sinh thận. Kim sinh thủy (sắt sinh ra nước) đúng là hợp với ý ấy.
Lửa vốn vô hình mà có thần, thần truyền sang củi tùy người ta đốt.
Văn-tự (chữ) vốn [25b] vô hình mà có thần, thần ấy truyền sang giấy tùy người ta viết hay vẽ.
Lúc chưa đốt hay viết vẽ, thì ý của lửa hay ý của văn-tự không chỗ nào là không có, đã vi-diệu và có thần. Cho nên người xưa về văn-chương lấy tượng ở lửa.
https://thuviensach.vn
Kinh Dịch có câu: Vạn vật hiện hồ ly (vạn vật hiện rõ-ràng ở quẻ ly. Ly là phương nam, là quẻ về hành hỏa. Trong kinh Dịch những quẻ nào có thể ly ☲ (là lửa) phần nhiều là văn-minh.
Kim (sắt) sợ hỏa (lửa) khắc, nếu không có hỏa (lửa) thì kim (sắt) không lấy gì để thành hữu-dụng.
Thổ (đất) sợ mộc (cây) khắc, nếu không có mộc (cây) thì thổ (đất) không lấy gì để thành-công.
Mộc (cây) sợ kim (sắt) khắc, nếu không có kim (sắt) thì mộc (cây) không lấy gì để thành tài-liệu hữu-dụng.
Ba điều ấy (về kim, thổ, mộc) đều có ý nhờ vả nhau.
Thổ (đất) xung-khắc với thủy (nước) là chận ngăn được thế trôi chảy của nước.
Thủy (nước) xung-khắc với hỏa (lửa) là ngăn trở sức thiêu đốt của lửa. Hai điều ấy (về thổ, thủy) đều có ý kềm chế nhau.
Nhờ vả nhau để giúp đỡ vào chỗ bất cập (thiếu kém khả-năng). Kềm chế nhau để trừ bớt phần thái quá (dư thừa khả-năng).
Không thái quá và không bất cập thì Hóa-công [26a] thật đã toàn vẹn.
Tinh của hỏa (lửa) là động, tượng của hỏa (lửa) là ở trong thì tối ở ngoài thì sáng.
Người nào hấp-thụ được nhiều khí hỏa thì nông-nổi nóng-nảy, cho nên phần uẩn-súc không lâu dài.
Người nào hấp-thụ được nhiều khí thủy thì thường thâm-trầm dày-dặn, cho nên trí lự có thừa.
Văn-Tử nói: “Đạo của thủy (nước) thì lớn-lao không thể cùng, thâm sâu không thể dò. Vạn vật không có nước thì không sống. Trăm sự không có nước thì không thành. Nước ở trên trời là mưa là sương lộ, ở dưới đất là ao là đầm.
Hàn thi có câu: Núi là nơi mà hàng vạn người ngưỡng tròng, là nơi sinh ra các tài-liệu hữu-dụng, là nơi chứa giấu những của báu, là nơi các loài chim-chóc tụ tập, là nơi các loài thú ẩn náu, là nói đã nuôi dưỡng muôn loài mà không chán.
https://thuviensach.vn
Sách Ngoại-thư của hai anh em họ Trình là Trình-Di Trình-Hiệu chép: Nước giếng nước suối khác nhau hoàn-toàn, mạch nước không đồng nhau.
Ông Bá-Thuần (tên tự của Trình-Hiệu) lúc ở Phù-câu, nước đều mặn, chỉ có nơi tăng-xá thì nước hơi ngọt, cho nên không cho đàn bà đến múc nước, bèn cấm ngặt. Đã bị cấm ngặt [26b] một huyện lại không có nước, người ta bèn xem xét đầu mạch nước đào một cái giếng. Nước giếng ấy có mùi khác. Đó là nước ở mạch dưới đất chảy ra.
Lại như ở thành Tương-dương, nước giếng ở trong chùa thì mặn, nước giếng ở ngoài chùa thì ngọt.
Một hôm thấy ở chân tường có một lằn nứt. Do đó mới thử cho người đào một cái giếng gần tường thành, nước cũng ngọt.
Do đó đào giếng phải xem mạch nước ở đất như thế nào.
Lại có nhiều người bị bịnh bại-xuội vì khí đất bị ngăn trệ. Thường có người lấy đồ chứa trữ nước giếng nhiều chỗ trong châu, thì thấy những nước ấy đều nặng và đục cho đến đóng cặn đặc như keo. Uống nước ấy làm sao mà không bị bại-xuội được?
Thuật chữa trị bịnh ấy ở đấy là khai đào nhiều ngòi lạch cho khí đất được bài-tiết ra ngoài thì mới bớt được.
Khuất-Đại-Quân nói: “Giếng do mạch nước từ xa chảy đến thì tốt nhất. Suối tốt phần nhiều là ở một bên đô-thị [27a] hay đường cái, đất ở đấy đã phẳng lại hòa, gió đông-nam đã thưa lại sạch, rất cần yếu cho bếp núc muôn nhà. Uống nước đó không bịnh.
Sách Quảng-đông tân ngữ của Khuất-Đại-Quân nói: Nước biển trong mùa thu thì mặn nhiều, trong mùa xuân mùa hạ thì lạt nhiều. Nước biển càng mặn thì càng trong thấy đáy. Có câu ngạn-ngữ nói: “Nước biển mặn thì trong, lạt thì đục” .
Khuất-Đại-Quân nói: “Người ở tỉnh Quảng-đông rong chơi ở biển vào tháng 5, có gió nồm rất mạnh. Thuyền mới phóng ra biển, từ bờ biển thấy nước chỗ gần thì thấp, chỗ xa thì cao như ngàn trùng mây núi kéo lên tiếp với trời xanh.
Mỗi khi trông thấy khí vàng bốc lên thì biết nơi đó có đất nước và người ta ở, trong thấy khí trắng bốc lên thì biết nơi đó có núi non, trông thấy khí đen bốc
https://thuviensach.vn