🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ung Thư – Sự Thật, Hư Cấu và Gian Lận Ebooks Nhóm Zalo MIỄN TRỪ TRÁCH NHIỆM Nội dung của cuốn sách thể hiện quan điểm cá nhân của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của Công ty Cổ phần Sách Thái Hà và Nhà xuất bản Thế Giới. Do đó, chúng tôi không chịu trách nhiệm đối với mọi sai sót hoặc hệ quả nào từ việc sử dụng những thông tin trong cuốn sách này. Chúng tôi hy vọng cuốn sách sẽ mang đến cho bạn những hiểu biết thực sự cặn kẽ về căn bệnh ung thư và từ đó tự tìm cho mình những phương pháp điều trị hợp lý nhất. Công ty Cổ phần Sách Thái Hà và Nhà xuất bản Thế Giới LỜI NGƯỜI DỊCH Cuốn Thoát khỏi ung thư (Cancer-Free) đã nhận được sự quan tâm của nhiều bệnh nhân ung thư và cả những người không mắc bệnh ung thư. Cuốn sách được tái bản bốn lần trong vòng hai năm. Nhiều bạn đọc cho rằng đấy là cuốn sách bổ ích, cho họ hy vọng, khích lệ họ rằng ung thư không phải là một bản án tử hình. Chính điều này đã tạo động lực để tôi tiếp tục chuyển ngữ cuốn sách bạn đang cầm trên tay: Ung thư – Sự thật, hư cấu, gian lận và những phương pháp chữa lành không độc hại (Cancer – Step Outside The Box). Cuốn sách có nhiều thông tin quan trọng được sắp xếp theo cách rất dễ đọc, bạn không thể tìm thấy lượng thông tin phong phú như thế ở bất cứ nơi nào khác. Theo tôi, cho đến thời điểm này, đây là cuốn sách đánh giá đầy đủ và thích đáng nhất các liệu pháp điều trị ung thư thay thế. Cuốn sách đã được tái bản sáu lần ở Mỹ, nhận được sự hưởng ứng của đông đảo độc giả tại Mỹ và các nước khác trên thế giới. Vì khối kiến thức to lớn trong nội dung cuốn sách có thể mang những điều bổ ích đến cho bệnh nhân trong điều trị ung thư và cho tất cả những người khỏe mạnh trong phòng ngừa bệnh ung thư, bạn nên đọc cuốn sách này. Dĩ nhiên, những quan điểm hay nhận xét của tác giả hoàn toàn mang tính cá nhân, dựa trên hiểu biết của mình về thực tế điều trị ung thư tại Mỹ hay một vài nơi khác, nên chúng ta không thể coi đây là một cẩm nang bách khoa duy nhất và thẩm quyền nhất về điều trị ung thư, mà chỉ nên coi là tài liệu tham khảo, bổ sung kiến thức cho chúng ta. Tôi chuyển ngữ nội dung sách trên cơ sở tôn trọng nguyên tác, rất mong độc giả lượng thứ những sai sót trong quá trình chuyển ngữ cuốn sách này và xin gửi ý kiến của quý vị đến địa chỉ email [email protected]. LỜI NÓI ĐẦU Trước khi bạn đọc cuốn sách này, tôi buộc phải viết dưới đây cảnh báo và miễn trừ trách nhiệm theo quy định của FDA1. Tôi không phải là bác sĩ; vì thế, tôi không bị “giáo dục sai” một cách chính thống. Tôi không được y học công nhận; do đó, cũng chẳng có chứng chỉ hay bằng cấp đáng hổ thẹn nào ở nhà hay văn phòng. Cuốn sách này dành cho mục đích giáo dục. Nó không thay thế cho việc chẩn đoán, điều trị, hay tư vấn của các chuyên gia y tế được cấp phép hành nghề. Các dữ kiện được trình bày trong sách chỉ mang tính chất cung cấp thông tin, không phải là tư vấn y tế, và không ai nên suy diễn rằng tôi đang hành nghề y. Tôi đã cố gắng để có thể đưa ra những thông tin xác thực nhất. Tuy nhiên, tôi không chịu trách nhiệm cho sự thiếu chính xác trong các nguồn tài liệu của mình, cũng như không chịu trách nhiệm về việc tài liệu này được sử dụng như thế nào. Đây không phải là một cuốn bách khoa toàn thư, do đó, nó không bao gồm thông tin về tất cả các liệu pháp điều trị ung thư thay thế, mà chỉ là những phác đồ điều trị tôi thấy quan trọng và hiệu quả nhất. Những tuyên bố của tôi về liệu pháp điều trị ung thư thay thế không được sự chứng nhận của FDA, cơ quan mà đôi khi tôi hay gọi là “Federal Death Administration – Cục quản lý Tử vong Liên bang”. Cuốn sách này dành tặng cho Charlene – người vợ xinh đẹp, nàng “công chúa” và người bạn tốt nhất của tôi. Nàng là “cô gái trong mộng” của tôi, mẹ bốn đứa con của chúng tôi – Brianna, Bryce, Tabitha và Charity. Nàng thực sự là nguồn cảm hứng, là món quà Thượng Đế đã ban cho tôi, là bằng chứng rõ ràng nhất về sự hiện diện của Đấng Tối Cao trong cuộc đời tôi và cũng là cổ động viên nhiệt thành nhất của tôi. Nàng thực sự là “làn gió nâng đỡ đôi cánh của tôi”. Theo Kinh Thánh, nàng là “một nửa Thiên định” của tôi. Nếu không có sự giúp đỡ và lòng tin của nàng dành cho mình, tôi sẽ chẳng bao giờ hoàn thành được cuốn sách này. Nàng không chỉ giúp đỡ và khích lệ tôi, mà còn là “đối tác lắng nghe” đầy trách nhiệm khi bàn bạc những chủ đề nào nên (và không nên) đưa vào cuốn sách. Cảm ơn em nàng công chúa, vì chính em, vì tất cả những gì em đã làm và vì bốn đứa con xinh đẹp của chúng ta. LỜI GIỚI THIỆU Một hôm tôi đi làm về, vợ tôi đang ở trong phòng ngủ. Tôi bước vào và cô ấy nhìn tôi nói: “Hôm nay, em đã đi khám bác sĩ, ông ấy nói em bị tiểu đường.” Theo tôi nhớ, tôi đã nói nguyên văn những lời này với cô ấy: “Thì sao nào? Phương pháp chữa trị tiểu đường típ 2 có trên trang web của anh, em chỉ cần vào đó xem thôi.” Sau đó tôi bước ra khỏi phòng mà không nói thêm lời nào. Vài giờ sau, tôi biết mình đã hơi thô lỗ, thế là tôi chạy đến cửa hàng thực dưỡng và mua những thứ sẵn có, những thứ còn lại tôi đặt mua trên Internet. Sau hai tháng, cô ấy đã có thể ngừng theo dõi đường huyết. Phương pháp chữa trị có thể tìm thấy ở www.cancertutor.com/Diabetes/Diabetes_Type_II.htm. Nếu vợ tôi nói rằng bác sĩ bảo cô ấy bị ung thư vú hoặc ung thư tuyến tụy hoặc bất kỳ loại ung thư nào khác, phản ứng của tôi với cô ấy cũng sẽ y hệt như vậy. Trang web của tôi tương tự như cuốn sách này, nó được thiết kế để chỉ dẫn mọi người đi đúng hướng và tránh lãng phí hàng tháng trời tự mình mày mò nghiên cứu. Chữa trị ung thư mới phát hiện không khó; tuy nhiên, có một vài loại ung thư (như ung thư biểu mô tế bào vảy) cần phải chọn hướng điều trị đúng ngay từ đầu, nếu không, bạn có thể sẽ không còn cơ hội thứ hai. Tế bào ung thư được mô tả là “không biệt hóa”. Nghĩa là tế bào ung thư không có chức năng hữu ích. Ví dụ, một nhóm tế bào ung thư không thể hình thành nên mô cơ, cũng như một tế bào ung thư không thể trở thành một phần chức năng của mô cơ. Tế bào ung thư không đóng góp được gì. Nó chỉ nằm đó. Một tế bào ung thư giống như một giọt dầu – bạn không thể hợp nhất nó vào cấu trúc của một chiếc xe hơi trong khi nó vẫn còn là một giọt dầu. Tương tự, tế bào ung thư không thể trở thành một phần của mô khối u, vì mô khối u phải được cấu thành hoàn toàn từ các tế bào khỏe mạnh. Các tế bào ung thư chỉ nằm bên trong mô khối u, sống dai dẳng và không ngừng phân chia. Về cơ bản, sinh thiết là tìm kiếm tế bào ung thư đang nằm bên trong. Vì phần lớn các tế bào trong khối u là những tế bào khỏe mạnh (tất cả các tế bào chức năng đều là những tế bào khỏe mạnh), nên những tế bào ung thư bên trong một khối u không đủ để giết chết một người. Nói cách khác, không có ai chết vì các tế bào ung thư bên trong một khối u. Khối u lành tính có thể tăng trưởng lên đến hàng chục kg nhưng vẫn không giết chết bệnh nhân. Thứ giết chết bệnh nhân ung thư là sự di căn của tế bào ung thư. Khi ung thư đã di căn đủ, lượng tế bào ung thư sẽ đủ để gây tử vong. Một số lượng lớn tế bào ung thư sẽ hút hết sinh khí của bệnh nhân ung thư bằng cách lấy glucose và chất dinh dưỡng từ các tế bào khỏe mạnh qua việc tạo ra các độc tố như axit lactic. Nhưng để gây tử vong, tế bào ung thư phải lan xa hẳn khỏi vị trí khối u chính (có số ít ngoại lệ với quy luật này, chẳng hạn như khi một khối u chặn dòng chảy của chất lưu quan trọng). Tuy nhiên, bất chấp những thực tế này, các bác sĩ ung bướu vẫn tiếp tục nói với bệnh nhân về khối u của họ. Trích đoạn dưới đây trong cuốn sách Alive and Well (Sống khỏe) của bác sĩ Philip Binzel giải thích những gì tôi đang nói. “Khi tìm thấy khối u ở bệnh nhân, điều duy nhất bác sĩ nói với bệnh nhân là những gì ông ta dự định làm với khối u. Nếu bệnh nhân có khối u đang được xạ trị hoặc hóa trị, câu hỏi duy nhất được đưa ra là: ‘Khối u sao rồi?’ Không ai hỏi tình hình bệnh nhân. Trong quá trình học y, tôi nhớ là có những bệnh nhân trông khỏe mạnh đã chạy xạ trị và/hoặc hóa trị. Khối u tuy nhỏ dần, nhưng bệnh nhân lại ngày càng ốm yếu hơn. Khi khám nghiệm tử thi, chúng tôi nghe ‘Thật kỳ lạ! Khối u đã biến mất!’ Đúng như thế, nhưng bệnh nhân cũng tử vong. Chúng ta sẽ lại lặp lại cảnh tượng này bao nhiêu triệu lần trước khi kịp nhận ra rằng chúng ta đang điều trị sai? Trừ vài ngoại lệ, còn ở ung thư giai đoạn đầu, khối u không gây nguy hiểm cho sức khỏe cũng như không đe dọa tính mạng. Điều gây nguy hiểm cho sức khỏe và đe dọa tính mạng là sự lây lan của bệnh đến khắp cơ thể. Phẫu thuật không thể ngăn chặn quá trình ung thư di căn. Xạ trị không thể ngăn chặn sự lây lan của căn bệnh này. Hóa trị cũng vậy. Làm sao chúng ta biết được điều đó? Chỉ cần nhìn vào số liệu thống kê! Có một khái niệm thống kê được gọi là ‘thời gian sống sót’. Thời gian sống sót là khoảng thời gian kể từ khi bệnh nhân được chẩn đoán ung thư lần đầu tiên đến khi bệnh nhân chết vì căn bệnh đó. Trong 50 năm qua, việc chẩn đoán sớm ung thư đã có những bước tiến lớn. Đồng thời, khả năng phẫu thuật loại bỏ các khối u cũng như việc sử dụng xạ trị và hóa trị làm co lại hoặc tiêu diệt các khối u cũng không ngừng phát triển. Thế nhưng, thời gian sống sót của bệnh nhân ung thư hiện nay không lâu hơn so với 50 năm trước. Điều này có nghĩa là gì? Rõ ràng là chúng ta đang điều trị sai!” Tóm lại, bác sĩ Binzel cho rằng không có gì trong y học chính thống ngăn chặn được sự di căn của ung thư. Bạn có thể nghĩ rằng hóa trị được tạo ra để ngăn chặn sự di căn của ung thư. Nhưng hóa trị không nhắm tới các tế bào ung thư. Nó tiêu diệt các tế bào phát triển nhanh, dù là tế bào ung thư hay không phải ung thư. Một số tế bào ung thư không phát triển nhanh nên hóa trị có thể bỏ sót chúng. Một số tế bào ung thư có khả năng kháng thuốc tổng hợp, vì vậy hóa trị không thể tiêu diệt chúng, v.v.. Điểm mấu chốt là nếu một người chịu đủ lượng hóa trị để tiêu diệt mọi tế bào ung thư, bệnh nhân đó sẽ chết vì độc tính của hóa trị trước cả khi các tế bào ung thư bị tiêu diệt hết. Hóa trị chỉ có thể làm chậm lại quá trình; nó không thể ngăn chặn ung thư di căn và giết chết bệnh nhân. Hóa trị làm “thuyên giảm”, nhưng trong hầu hết các trường hợp, bệnh tình sẽ lại trở nặng và gây tử vong. Nhiều bệnh nhân ung thư không sống đủ lâu để có thể thuyên giảm bệnh, số khác thì bệnh tình thuyên giảm rồi lại trở nặng nhiều lần. Phẫu thuật chắc chắn không ngăn chặn được ung thư đã di căn bởi trong hầu hết các trường hợp ung thư đã lan rộng đến mức không thể cắt bỏ. Xạ trị giống như một khẩu súng trường. Bạn có thể dập tắt một tấm thảm đang cháy (ví dụ ung thư di căn) với một khẩu súng trường không? Điều duy nhất y học chính thống có thể làm là thu nhỏ kích thước khối u, làm chậm quá trình ung thư và giúp bệnh nhân thuyên giảm tạm thời; y học chính thống không thể ngăn chặn sự di căn của ung thư – CHẤM HẾT! Có nghĩa là Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) chưa bao giờ phê chuẩn một loại thuốc hóa trị có thể nhắm đích tế bào ung thư hoặc ngăn chặn sự di căn của ung thư. Những loại thuốc hóa trị từng được họ phê duyệt đều gần như vô giá trị hoặc lợi bất cập hại. Hơn nữa, Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ (AMA) cũng chưa bao giờ phê chuẩn một quy trình có thể ngăn chặn sự di căn của ung thư. Trong y học chính thống, chưa từng có bác sĩ nào kê một loại thuốc tổng hợp hoặc thực hiện một quy trình y tế nhằm ngăn chặn sự di căn của ung thư. Đó không phải là những gì họ làm. Trong một số trường hợp, những gì họ làm là làm chậm lại quá trình ung thư. Bạn có thể thắc mắc liệu họ có muốn ngăn chặn sự di căn của ung thư và chữa trị cho bệnh nhân hay không? Dù bản thân các bác sĩ có thể muốn chữa trị cho bệnh nhân, nhưng theo những gì chúng ta được biết về ngành công nghiệp này, câu trả lời không thể chối cãi cho câu hỏi đó là “KHÔNG!” Cuốn sách này sẽ bàn về những liệu pháp điều trị ung thư tự nhiên, và cả một số liệu pháp điều trị ung thư chính thống đã bị các nhà chức trách (thường là AMA, FDA) cấm sử dụng bởi chúng rất hiệu quả trong chữa trị ung thư! Trong y học, những liệu pháp điều trị ung thư hiệu quả bị bãi bỏ còn các loại thuốc tổng hợp không hiệu quả (nhưng đem lại lợi nhuận vì chúng có thể được cấp giấy phép độc quyền nhãn hiệu) lại thường xuyên được FDA phê chuẩn. Đó là một mưu đồ bất lương chưa từng xuất hiện trước đây trên thế giới. Các bác sĩ tương lai sẽ nhìn vào thế hệ “bác sĩ” này bằng ánh mắt ghê tởm. Họ đã có nhiều cơ hội để chữa trị ung thư, nhưng thay vào đó, họ chôn vùi liệu pháp điều trị ấy và biến nó thành bất hợp pháp. Phương châm thích hợp đối với cả Big Pharma (ngành công nghiệp dược phẩm) và Big Medicine (AMA) là: “Lợi nhuận sẽ lớn hơn gấp bội nếu chỉ làm chậm thay vì ngăn chặn quá trình di căn của ung thư. Tất cả những thứ ngăn chặn sự di căn của ung thư đều PHẢI bị bãi bỏ.” Mục tiêu lâu dài của cuộc hôn nhân dị hợm có đi có lại giữa FDA, AMA và Big Pharma (thành phần cốt lõi của “ngành công nghiệp ung thư”) là biến ung thư thành căn bệnh mạn tính giống như tiểu đường, theo đó mỗi bệnh nhân sẽ trở thành một nguồn lợi nhuận dài hạn. Chỉ cần xem trên báo chí. Hầu như tuần nào cũng có một số thuốc mới được FDA phê chuẩn là kéo dài cuộc sống của bệnh nhân ung thư hơn so với các loại thuốc vô bổ trước đó. Đây chính là những gì họ muốn làm. Bạn sẽ không bao giờ thấy liệu pháp chữa khỏi bệnh ung thư trừ phi đó là loại ung thư cực kỳ hiếm gặp; thế nên tuyên truyền quan hệ công chúng mang lại lợi ích tài chính nhiều hơn cho ngành công nghiệp ung thư so với số tiền bỏ ra cho chữa trị. Chẳng hạn, bạn sẽ không bao giờ thấy liệu pháp chữa khỏi ung thư vú. Đứa con của cuộc hôn phối dị hợm này là bộ máy tuyên truyền của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS) với nhiệm vụ làm cho liệu pháp điều trị ung thư chính thống có vẻ hiệu quả hơn nhiều so với thực tế. Họ là những kẻ hóa trang cho con quái vật. Bạn có thể nghĩ rằng tỷ lệ chữa khỏi bệnh của y học chính thống là 40% đến 50% và đang tăng nhanh. Không hề. Nó chỉ được 3% trong suốt 80 năm qua và không có dấu hiệu gia tăng nào cả. Vậy có liệu pháp điều trị ung thư tự nhiên nào sử dụng những phân tử từ Mẹ Tự nhiên, đã được chứng minh là nhắm tới các tế bào ung thư, ngăn chặn sự di căn và chữa khỏi bệnh hay không? Bạn có thể cho rằng câu trả lời là “không”. Đó là câu trả lời sai. Có rất nhiều liệu pháp điều trị ung thư thay thế có thể ngăn chặn sự di căn của ung thư và thậm chí chữa khỏi bệnh hoàn toàn. Trong cuốn sách tuyệt vời này, Ty Bollinger sẽ bàn về những liệu pháp đáng tin cậy nhất trong số đó. Tuy nhiên, FDA chưa từng phê chuẩn những liệu pháp điều trị ung thư này, bởi các công ty dược không bao giờ trình lên FDA. Một phần là do Big Pharma không thể lấy bằng sáng chế các phân tử tự nhiên (điều này làm giảm lợi nhuận của họ), và một phần là vì AMA không muốn ung thư được chữa khỏi. AMA không cho phép các bác sĩ sử dụng những liệu pháp điều trị ung thư hiệu quả. Do những liệu pháp điều trị này không được ngành công nghiệp dược trình lên FDA, FDA dán cho chúng cái nhãn “chưa được kiểm chứng”, bất kể liệu pháp điều trị đó có bao nhiêu bằng chứng khoa học đi nữa. Do đó, các nhân viên kế toán, các bà nội trợ, nông dân, kỹ sư, v.v. đang dẫn đầu cuộc chiến chống lại ngành công nghiệp ung thư. Nhưng những người này hoàn toàn không có ảnh hưởng gì tới giới truyền thông. Trong khi đó, FDA, Viện Ung thư Quốc gia (NCI), Viện Y tế Quốc gia (NIH) lại không phải là những thiên thần. Họ cũng đã bán linh hồn và biết đích xác những gì đang xảy ra. Theo quy luật chung, những phân tử của Mẹ Tự nhiên LUÔN nhắm tới các tế bào ung thư hoặc không gây hại cho các tế bào bình thường. Vì vậy, các phân tử của Mẹ Tự nhiên có thể được sử dụng với những liều cao hơn nhiều so với các phân tử của Big Pharma. Thế nên, Mẹ Tự nhiên có tỷ lệ chữa khỏi cao hơn 30 lần so với thuốc chính thống ở các bệnh nhân được chẩn đoán ung thư! Mẹ Tự nhiên (tức Chúa Trời) biết về bệnh ung thư nhiều hơn so với các nhà hóa học trong ngành công nghiệp dược. Quan trọng hơn, Mẹ Tự nhiên ngay thẳng hơn rất nhiều so với giám đốc điều hành của các công ty dược. Mẹ Tự nhiên biết làm thế nào để nhắm trúng đích các tế bào ung thư và ngăn chặn sự di căn của ung thư. Vậy tại sao bạn không được tuyên truyền để tin vào thuốc thay thế? Tại sao bạn không được nghe những điều này cả nghìn lần trên truyền hình hoặc đài phát thanh hay trên các tạp chí lớn? Bởi nếu họ nói với bạn những điều này, ngành công nghiệp dược sẽ rút hết tiền quảng cáo và chuyển số tiền đó cho một đài hoặc tạp chí đối thủ. Ngoài ra, những người kiếm lợi nhuận khổng lồ nhờ cung cấp và hợp tác với y học chính thống cũng đang sở hữu những mạng lưới phát thanh và truyền hình lớn. Ví dụ, General Electric kiếm lợi nhuận khổng lồ từ việc cung cấp những thiết bị đắt tiền cho các bệnh viện và bán thuốc kê đơn, đồng thời sở hữu đài NBC và ít nhất 30 chi nhánh chính của NBC. General Electric là thành viên của ngành công nghiệp ung thư và họ sở hữu NBC! Những gì bạn biết về ung thư đã được tạo dựng cẩn thận và chế tác dưới tay các nghệ sĩ tuyên truyền trong ngành công nghiệp dược phẩm, tất cả nhằm mục đích không cho bạn biết về tính ưu việt to lớn của Mẹ Tự nhiên trong điều trị ung thư. Tin tốt lành là cuốn sách này, Ung thư – Sự thật, hư cấu, gian lận và những phương pháp chữa lành không độc hại, sẽ đem lại sự thật. Nó sẽ cho bạn biết về các liệu pháp điều trị ung thư thay thế thực sự hiệu quả. Hãy xem các số liệu thống kê thực tế: Tỷ lệ chữa khỏi bệnh 90% hoặc cao hơn có thể dễ dàng đạt được với các bệnh nhân ung thư không theo y học chính thống mà theo y học thay thế ngay từ đầu và tuân thủ nghiêm ngặt. Tỷ lệ chữa khỏi bệnh của y học chính thống là 3% hoặc ít hơn. Trước khi tìm đến liệu pháp điều trị ung thư thay thế, 95% bệnh nhân đã điều trị đầy đủ theo phương pháp chính thống và được trả về nhà chờ chết. Có nghĩa là y học thay thế phải tiếp nhận một số lượng lớn các bệnh nhân ung thư đã ở trong tình trạng nguy kịch. Đối với những người cho đến khi được trả về nhà chờ chết mới làm theo liệu pháp điều trị ung thư thay thế, chỉ có một số ít trong hơn 300 liệu pháp điều trị ung thư thay thế là đủ mạnh để cho họ cơ hội sống sót. Nhưng ngay cả đối với số ít những người tìm thấy một liệu pháp điều trị hiệu nghiệm, cao nhất họ cũng chỉ có tỷ lệ sống sót khoảng 50%. Nói cách khác, nếu bạn tìm đến y học thay thế trước và tuân thủ nghiêm ngặt thì tỷ lệ sống sót là 90% hoặc cao hơn. Nếu theo y học chính thống trước sau đó mới theo y học thay thế, bạn sẽ mất hàng năm trời chịu đựng và nếu may mắn bạn sẽ có 50% tỷ lệ sống sót. Bạn thấy đó, những cuốn sách như Ung thư – Sự thật, hư cấu, gian lận và những phương pháp chữa lành không độc hại là rất quan trọng. Cuốn sách này tiết kiệm cho bạn hàng tháng trời nghiên cứu tìm hiểu và chỉ cho bạn hướng chính xác cần phải đi. R. Webster Kehr còn được gọi là “Gia sư về ung thư” www.cancertutor.com www.new-cancer-treatments.org DẪN NHẬP Tôi là Ty Bollinger. 100 năm trước đây, ước tính cứ 80 người Mỹ thì chỉ có một người được chẩn đoán mắc ung thư. Hiện nay, khoảng 1/3 người Mỹ được chẩn đoán mắc ung thư. Ước tính đến năm 2020, tỷ lệ này sẽ tăng lên thành một phần hai. Tử vong do ung thư chiếm khoảng 12% trong tất cả các trường hợp tử vong trên toàn thế giới mỗi năm. Trên toàn cầu, hơn mười triệu người được chẩn đoán mắc ung thư hằng năm và gần bảy triệu người tử vong do ung thư. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, tỷ lệ ung thư toàn cầu có thể tăng 50% trong 15 năm tới. Mỹ đứng trong nhóm ba nước có tỷ lệ ung thư cao nhất ở cả nam giới và nữ giới. Nghe như một dịch bệnh đúng không? Hầu hết mọi gia đình đều chịu tác động của ung thư. Gia đình tôi cũng không phải ngoại lệ. Tháng 7 năm 1996, cha tôi – Graham Bollinger chết vì ung thư. Tháng 11 năm 1996, ông nội tôi – Conal Bollinger chết vì ung thư. Tháng 5 năm 1997, người anh em họ của tôi – Glenn McCoy chết vì ung thư. Tháng 7 năm 1997, chú tôi – Joel Bollinger chết vì ung thư. Tháng 2 năm 1999, bà tôi – Helen Cade chết vì ung thư. Tháng 8 năm 1999, ông tôi – D.E. McCoy chết vì ung thư. Tháng 2 năm 2004, mẹ tôi – Jerry Bollinger Taylor chết vì ung thư. Bạn thấy đấy, gia đình tôi đã bị ung thư tàn phá. Phần đầu cuốn sách này là để vinh danh cha mẹ tôi, tôi sẽ cố gắng kể câu chuyện về những ngày cuối cùng của họ, trận chiến của họ với ung thư, và cách mà cả hai đã truyền cảm hứng và gây xúc động cho những người đến thăm họ. Trong những tuần ngay trước khi cha tôi qua đời vào năm 1996, tôi bắt đầu “hành trình khám phá ung thư” của mình. Những gì học được trong cuộc hành trình đó thực sự làm tôi ngạc nhiên. Tôi không chỉ biết được hiệu quả đáng kinh ngạc của nhiều liệu pháp điều trị ung thư thay thế và sự phục hồi đáng kể của hàng ngàn bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối, mà còn biết được về sự đàn áp của ngành y tế với những liệu pháp này, cũng như sự ngược đãi với những người hành nghề y tự do can đảm và sáng tạo đã thoát khỏi “lối mòn” để phát triển những liệu pháp điều trị. Tôi đã biết được về những khía cạnh chính trị trong việc điều trị ung thư và sự tham lam của các công ty dược. Tôi đã biết được về cuộc chiến giữa những người đề xướng liệu pháp điều trị ung thư chính thống và liệu pháp điều trị ung thư thay thế. Tôi rất buồn vì cha mẹ tôi có lẽ vẫn còn sống, nếu kiến thức về những liệu pháp điều trị ung thư thay thế được phổ biến đến công chúng. Điều thú vị tôi học được là liệu pháp điều trị ung thư thay thế không chỉ là chạy ra cửa hàng thực phẩm dinh dưỡng mua một vài chai vitamin và khoáng chất. Tính khoa học phía sau liệu pháp điều trị ung thư thay thế thực sự đáng chú ý. Những cơ chế đặc trưng với những phác đồ cụ thể chống ung thư thật tuyệt vời. Trên thực tế, một số liệu pháp điều trị ung thư thay thế là do những người đoạt giải Nobel phát triển. Bây giờ, nếu vào Google gõ “ung thư”, bạn sẽ nhận được hơn 20 triệu kết quả. Nói có “quá nhiều thông tin trên mạng” cũng giống như nói đại dương “hơi bị ướt”. Lượng thông tin này có thể dễ dàng khiến những người mới bắt đầu nghiên cứu ung thư choáng ngợp. Lúc này, người ta dễ bị lạc trong rừng thông tin. Trong thời khắc sinh tử của cuộc đời, bạn sẽ tin tưởng ai đây? Nhiều trang web bán đủ các thể loại thuốc. Một số trang web như quackwatch.com chỉ chăm chăm đả kích liệu pháp điều trị ung thư thay thế; sự lơ là giả nhân giả nghĩa và có chủ đích của họ đối với cái đúng là điều đáng hổ thẹn. Các trang web khác thì quá hàn lâm và hầu như không thể hiểu được. Làm thế nào có thể phân loại mọi thứ? Ai đúng? Ai sai? Rất dễ bị quá tải, và nói, “ Thôi bỏ đi – đây là điều không thể.” Khi Sam Houston chiến đấu ở Santa Anna trong những năm 1830 và thoái lui mỗi ngày, tương truyền, ông đã nói rằng, “Giờ là lúc vạch một đường ranh giới trên cát.” Một người chăn bò dưới quyền ông đáp lại, “Thưa chỉ huy, có rất nhiều chỗ có cát để ngài lựa chọn.” Với rất nhiều thông tin dễ dàng truy cập về ung thư và điều trị ung thư, việc lựa chọn nơi để vạch một đường trên cát trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Tôi hy vọng rằng cuốn sách này sẽ là “đường vạch trên cát” của bạn bởi nó giải thích rõ ràng, súc tích những sự thật và cả những dối trá về ung thư và liệu pháp điều trị ung thư. Phần lớn mọi người không đủ tiền cũng như thời gian để mua và đọc hàng ngàn cuốn sách đã được xuất bản về ung thư. Tôi tin rằng cuốn sách này sẽ cung cấp nguồn thông tin súc tích nhưng toàn diện về những mưu đồ lắt léo phức tạp và đáng chê trách trong việc điều trị ung thư, đồng thời giúp độc giả đưa ra những quyết định sáng suốt liên quan đến dinh dưỡng, việc phòng chống ung thư cũng như những phác đồ điều trị ung thư thay thế. Tôi là một kiểm toán viên. Khi học thạc sĩ về thuế tại Đại học Baylor, một kỹ năng quý giá mà tôi đã rèn luyện được là khả năng nghiên cứu sâu một vấn đề vô cùng phức tạp, rồi đi đến kết luận dựa trên những điều kiện và thông tin cụ thể, sau đó tóm tắt kết quả. “Giải mã” Luật Thuế vụ thành ngôn ngữ thông thường là việc không dễ dàng, nhưng tôi tin rằng khả năng này đã giúp tôi tổng kết và sắp xếp khối lượng đồ sộ những nghiên cứu ung thư và viết cuốn sách này. Trong nghề kế toán, chúng tôi chuẩn bị báo cáo tài chính cho khách hàng. Một loại báo cáo tài chính là “tài liệu biên soạn”, về cơ bản, đó chỉ là biên soạn số liệu do khách hàng cung cấp. Nói cách khác, chúng tôi lấy thông tin của họ và trình bày theo một định dạng dễ hiểu. Cuốn sách này thực chất là biên soạn các thông tin mà tôi đã học được từ việc đọc hàng chục cuốn sách và tham khảo hàng ngàn trang web. Cuốn sách này không phải là một công trình học thuật. Tôi quyết định viết bằng ngôn ngữ thông thường, hạn chế sử dụng các thuật ngữ y học và không đưa ra những danh mục tài liệu tham khảo dài dằng dặc. Xin đừng hiểu nhầm, tôi có rất nhiều tài liệu tham khảo khoa học, và trích dẫn từ nhiều nghiên cứu cũng như chuyên gia. Nhưng tôi cố gắng rải rác các tài liệu tham khảo này trong suốt cuốn sách ở những tình huống cần thiết và phù hợp. Thành thật mà nói, có hàng chục cuốn sách giá trị về chủ đề ung thư, dinh dưỡng, và phác đồ điều trị, nhưng phần lớn trong số đó bị sa lầy vào các thuật ngữ y học cũng như những chi tiết kỹ thuật, dẫn đến việc chúng trở nên quá khó hiểu hoặc quá tẻ nhạt. Phần nhiều những cuốn sách đó khiến bạn có nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời. Bạn mang tâm trạng hoang mang lúc bắt đầu đọc; và khi đọc xong, thậm chí bạn còn hoang mang hơn. Số khác lại viết theo lối hành văn khó hiểu mà chỉ có các bác sĩ, các nhà khoa học và các viện sĩ mới tiếp thu nổi. Mục tiêu của tôi là đơn giản hóa để giúp bạn thực sự hiểu thấu đáo vấn đề y học phức tạp về ung thư, dinh dưỡng và sức khỏe toàn thể. Tuy nhiên, vẫn có nhiều thuật ngữ được sử dụng dựa trên những định nghĩa đưa ra trước đó trong cuốn sách, vì vậy tôi khuyên bạn đọc từ đầu đến cuối mà không bỏ qua phần nào. Tôi hy vọng rằng bạn sẽ tìm thấy thông tin hữu ích trong cuốn sách này để ngăn chặn, chiến đấu và/hoặc điều trị ung thư. Nếu bạn sẵn sàng mở lòng tiếp thu cái mới và bước ra khỏi lối mòn, tôi nghĩ cuốn sách này sẽ giúp ích cho bạn. PHẦN I: BIG 3 & LỢI NHUẬN KHỔNG LỒ CỦA BIG MEDICINE, BIG PHARMA Chương 1: CÔNG NGHIỆP UNG THƯ & MAFIA Y TẾ Hãy chuẩn bị tinh thần Những gì bạn sắp đọc có thể sẽ thách thức tất cả mọi thứ bạn từng nghe nói kể từ khi được sinh ra. Từ bé, chúng ta đã được dạy tin tưởng một cách mù quáng mọi thứ chúng ta đọc trên sách vở và Internet, những điều chúng ta nghe trên đài phát thanh, và những gì chúng ta xem trên TV. Kết quả là, nước Mỹ đầy rẫy những “sheeple” (những người ngoan ngoãn như cừu, dễ bị thuyết phục, trí tuệ phụ thuộc, và có xu hướng chạy theo đám đông). Trong cuốn sách này, tôi sẽ yêu cầu bạn bước ra khỏi “vòng cương tỏa” và thực sự nghĩ cho chính mình. Tôi sẽ yêu cầu bạn vượt qua nhân tố “không thể” đang phổ biến với hầu hết người Mỹ. Tanya Harter Pierce, tác giả cuốn Outsmart Your Cancer (Khôn ngoan hơn ung thư) gọi đấy là “nhân tố hoài nghi”. Khi tôi bắt đầu tìm hiểu về thành công của liệu pháp điều trị ung thư thay thế gần mười năm trước và muốn chia sẻ hiểu biết với những người khác, phản ứng phổ biến là “KHÔNG THỂ!” Nhân tố “không thể” dựa trên nhận thức sai lầm rằng nếu liệu pháp điều trị ung thư thay thế thực sự hiệu quả, bác sĩ ung thư khắp mọi nơi “không thể” cứ sử dụng liệu pháp điều trị chính thống. Điều hầu hết chúng ta không nhận ra là phần lớn các bác sĩ ung thư cũng phải chịu đựng các nhân tố “không thể”. Họ tin rằng nếu liệu pháp điều trị ung thư thay thế có hiệu quả, họ “không thể” tốt nghiệp trường Y mà không nghe về những phương pháp đó. Thật không may, các trường Y phần lớn nhận tài trợ từ các công ty dược phẩm lớn có quyền lợi được đảm bảo trong điều trị chính thống. Thông tin trong cuốn sách này có thể sẽ gây sốc cho bạn. Đôi khi, phản ứng tự nhiên của bạn là hoài nghi, ngờ vực và không tin. Tôi hoàn toàn hiểu được những phản ứng đó vì bản thân tôi đã từng như thế. Một nghiên cứu gần đây cho thấy truyền hình gây tổn thương não bộ và làm mất khả năng thể hiện tư duy phê phán, do đó nhiều người trong chúng ta lớn lên dán mắt vào truyền hình phải vượt qua sự tẩy não này để giải phóng tâm trí. Nếu bạn có thể bước ra khỏi “vòng cương tỏa” một vài giờ trong khi đọc cuốn sách này, tôi biết bạn sẽ rất vui vì đã làm điều đó. Thực tế là nó có thể cứu sống bạn hoặc người thân! Âm mưu & công nghiệp ung thư Tục ngữ có câu “Không có lửa làm sao có khói”. Sự thật là có rất nhiều thuyết âm mưu và cũng có nhiều trang web vạch trần chúng. Trong các thuyết âm mưu này, một số vô nghĩa, một số có vẻ hợp lý, và một số trong đó tiệm cận sự thật. Nhưng điều này không có gì mới. Trong phần giới thiệu cuốn sách của mình The Healing of Cancer (Chữa bệnh ung thư), Barry Lynes minh chứng rằng âm mưu này đã tồn tại hơn nửa thế kỷ: “Năm 1953, một điều tra của Thượng viện Mỹ báo cáo rằng tồn tại một âm mưu ngăn chặn điều trị ung thư hiệu quả. Thượng nghị sĩ phụ trách việc điều tra đã chết. Cuộc điều tra bị tạm dừng. Đó không phải là người đầu tiên cũng không phải là cuối cùng trong số những cái chết kỳ lạ có liên quan đến những người ở các vị trí làm thiệt hại cho những kẻ đang tiến hành chương trình ung thư quốc gia.” Ông tiếp tục, “Nhiều năm qua, Hiệp hội Y tế Hoa Kỳ (AMA) và Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS) lên danh sách đen các nhà nghiên cứu liệu pháp điều trị ung thư mới cần phải được loại trừ.” Ông Lynes trích lời một phóng viên điều tra đề cập đến AMA và ACS như thể một “hệ thống các ban kiểm tra sẵn sàng chộp giữ bất cứ ai quảng bá liệu pháp điều trị ung thư chống lại quan điểm và lợi nhuận cơ bản của họ.” Tôi đã từng tin rằng “âm mưu ung thư” là hậu quả không chủ ý của lòng tham tiền và thực sự không có ác ý trong bản chất của nó. Tuy nhiên, do những câu chuyện như ba câu chuyện dưới đây, tôi tin rằng mình đã có chút ngây thơ trong đánh giá ban đầu về tình hình. Năm 1931, Cornelius Rhoads, một nhà nghiên cứu bệnh học của Viện Nghiên cứu Y học Rockefeller, đã chủ ý gây nhiễm tế bào ung thư trên người để thí nghiệm ở Puerto Rico, và 13 người trong số họ đã chết. Sau đó, ông thiết lập các phương tiện chiến tranh sinh học cho quân đội Mỹ ở Maryland, Utah và Panama, và được bổ nhiệm vào Ủy ban Năng lượng Nguyên tử Hoa Kỳ. Tại đây, ông bắt đầu một loạt các thí nghiệm tiếp xúc với bức xạ trên lính Mỹ và bệnh nhân tại một bệnh viện dân sự. Sau đó, vào năm 1963, Chester M. Southam (người đã tiêm cho tù nhân ở nhà tù tiểu bang Ohio các tế bào ung thư sống hồi năm 1952) đã thực hiện những quy trình tương tự trên 22 bệnh nhân nữ người Mỹ gốc Phi để xem phản ứng miễn dịch của họ. Ông ta nói với các bệnh nhân rằng họ đã nhận được “một số tế bào”, nhưng phớt lờ sự thực đó là các tế bào ung thư. Mỉa mai thay, sau này Southam lại trở thành chủ tịch Hiệp hội nghiên cứu ung thư! Năm 1981, Tập đoàn Genetic Systems có trụ sở tại Seattle bắt đầu tiến hành thí nghiệm y học được gọi là “Giao thức số 126”. Theo đó, bệnh nhân ung thư tại Trung tâm Nghiên cứu Ung thư Fred Hutchinson ở Seattle được cấy ghép tủy xương có chứa tám protein thử nghiệm do Genetic Systems sản xuất, chứ không phải là cấy ghép tủy xương tiêu chuẩn. Kết quả là 19 “đối tượng thí nghiệm” đã chết vì những biến chứng liên quan trực tiếp đến điều trị thử nghiệm. Xin lưu ý trên đây không là các trường hợp cá biệt. Có hàng trăm chuyện tương tự trong thế kỷ qua. Bạn có thể tìm hiểu thêm những chuyện nhơ nhớp về các thử nghiệm y học trên người ở trang web sau đây www.www.naturalnews.com/019187.html. Như vậy, có phải là tất cả những người làm việc trong lĩnh vực y tế và lĩnh vực nghiên cứu ung thư đều đang chủ ý tham gia thử nghiệm trên người hoặc là một phần có ý thức của âm mưu kìm hãm việc chữa trị ung thư hay không? Tất nhiên là không. Hầu hết các bác sĩ, y tá, và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe đều thực sự quan tâm đến con người và đang làm những gì họ tin là tốt nhất cho bệnh nhân. Trên thực tế, hầu như tất cả mọi người (kể cả các chuyên gia y tế) đều chịu ảnh hưởng của ung thư. Trong cuốn băng năm 1975 The Politics of Cancer (Chính trị ung thư), G. Edward Griffin giải thích “hãy đối mặt với chuyện này, những người này cũng có thể chết vì ung thư như những người khác… rõ ràng họ không có chủ ý cản trở việc kiểm soát [chữa trị] ung thư. Nghĩa là, các tập đoàn y tế [dược, hóa] độc quyền đã tạo ra một khuynh hướng trong hệ thống giáo dục của chúng ta. Ở đó, chân lý khoa học thường bị hy sinh cho những lợi ích bất di bất dịch…” Trong cuốn sách này, bạn sẽ thấy các “hoàng đế” tự xưng là “chuyên gia” y tế về điều trị ung thư chẳng có cơ sở gì cả! Tôi sẽ chứng minh trong thế kỷ qua, đã có một âm mưu như sau: Ngăn chặn điều trị ung thư thay thế và bắt bớ những người ủng hộ những liệu pháp điều trị như vậy. Tẩy não công chúng để họ tin rằng Big 3 (hóa trị, xạ trị và phẫu thuật) là những lựa chọn khả thi duy nhất để điều trị ung thư. Quảng cáo và bán Big 3, bởi mục tiêu của công nghiệp ung thư là kiếm tiền. Trước hết, tôi xin giải thích một số thuật ngữ cơ bản. Big Medicine bao gồm Viện Ung thư Quốc gia (NCI), Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS) và Hiệp hội Y tế Hoa Kỳ (AMA). Các đại gia dược phẩm đa quốc gia được gọi tắt là Big Pharma. Công nghiệp ung thư được tạo thành từ mạng lưới các tập đoàn gây ô nhiễm, Big Medicine, FDA, Big Pharma, các tập đoàn công nghiệp hàng đầu và các nhóm vận động chính trị hành lang, với mục tiêu là giữ nguyên hiện trạng và che giấu công chúng về những liệu pháp điều trị ung thư thay thế, theo đó đảm bảo lợi nhuận cho cổ đông của Big Pharma. Theo tôi, những chiến lược đồi bại (của những doanh nhân và quan chức tham nhũng) có sự tương đồng ghê gớm với hành vi sát nhân. Vì vậy đôi khi tôi sử dụng thuật ngữ “mafia y tế” như một từ lóng chung (và tất nhiên, có hàm ý miệt thị) để ám chỉ tổ chức tội phạm này. Sự khởi đầu của “mafia y tế” Tôi xin nói một chút về nguồn gốc của “mafia Y tế”. Hãy quay trở lại năm 1910 để tìm hiểu về John D. Rockefeller và báo cáo Flexner. Tôi dám cá là bạn chưa bao giờ nghe nói về báo cáo này, phải vậy không? Mục tiêu của Rockefeller là thống trị thị trường dầu, hóa chất và dược phẩm, vì vậy công ty của ông ta (Standard Oil of New Jersey) đã mua quyền kiểm soát một công ty thuốc/hóa chất khổng lồ của Đức tên là I.G. Farben. Lưu ý, I.G. Farben là nhà tài trợ lớn nhất cho chiến dịch tranh cử của Adolph Hitler. Một năm trước khi Hitler lên nắm quyền, I.G. Farben đã quyên tặng 400.000 mác cho Hitler, đảng Quốc xã và đội cận vệ của ông ta (SS). Theo đó, sau khi Hitler nắm quyền, I.G. Farben là kẻ trục lợi lớn nhất trong cuộc chinh phạt thế giới của Đức trong Thế chiến thứ hai. Trong khi hàng triệu người đang bị cầm tù và giết hại thì I.G. Farben thu lợi nhuận. I.G. Auschwitz – công ty con 100% của I.G. Farben, là tổ hợp công nghiệp lớn nhất thế giới về sản xuất xăng dầu và cao su tổng hợp phục vụ cuộc chinh phạt châu Âu. Auschwitz sử dụng tù nhân trong trại tập trung làm “lao động nô lệ” ở nhà máy của họ. Nhưng lại không có “kế hoạch hưu trí” cho các tù nhân của trại tập trung Auschwitz. Những người không đủ sức lao động bị thải loại ở cổng chính của nhà máy Auschwitz và được đưa đến các phòng hơi ngạt. Thậm chí, khí hóa học Zyklon-B được sử dụng để thủ tiêu hàng triệu người vô tội là kết quả từ các dự án và nhà máy của I.G. Farben. Năm 1941, Otto Armbrust (thành viên hội đồng quản trị I.G. Farben chịu trách nhiệm về dự án Auschwitz) đã tuyên bố với các đồng nghiệp: “Sự hợp tác với SS là một phước lành. Chúng ta đã tìm ra những biện pháp tận dụng các trại tập trung để đem lại lợi ích cho công ty”. Tập đoàn I.G. Farben sử dụng các nạn nhân của trại tập trung như những con chuột bạch. Hàng chục ngàn người đã chết trong các thí nghiệm trên con người để thử nghiệm vắc-xin mới. Sau cùng, hơn 300.000 tù nhân chịu ảnh hưởng của hệ thống Auschwitz. Hơn 25.000 người đã phải làm việc cho đến chết, trong khi rất nhiều người khác bị giết chết trong các phòng hơi ngạt hoặc do những thí nghiệm thực hiện trên con người. Có người nghĩ rằng sau khi kết thúc chiến tranh, do dính líu đến cái chết của hàng triệu người ở Auschwitz, các thành viên hội đồng quản trị I.G. Farben sẽ bị các công ty dược phẩm Mỹ “tẩy chay”. Nhưng bạn đã bao giờ nghe về Tập đoàn Bayer chưa? Tất nhiên là rồi. Năm 1956, Bayer bổ nhiệm Fritz ter Meer, thành viên hội đồng quản trị I.G. Farben, người bị kết án tội phạm chiến tranh tại phiên tòa Nuremberg, làm Chủ tịch hội đồng quản trị. Hãy trở lại năm 1910 và bài học lịch sử của chúng ta về báo cáo Flexner. Nhằm xây dựng tập đoàn thuốc của mình, Rockefeller cần “giáo huấn lại” ngành y tế để kê đơn nhiều thuốc hơn, vì thế ông ta thuê Abraham Flexner đi khắp đất nước và đánh giá về thành công của các trường đại học y khoa tại Mỹ. Trong thực tế, có rất ít “đánh giá” của Flexner; kết quả nghiên cứu của ông đã được xác định từ trước. Rốt cuộc, Flexner đệ trình cho Quỹ Carnegie một báo cáo mang tựa đề “Giáo dục y tế ở Mỹ và Canada”, thường được gọi là “Báo cáo Flexner”. Công bố năm 1910, báo cáo Flexner đề nghị tăng cường các khóa học dược lý và bổ sung các phòng nghiên cứu ở tất cả các trường y “đủ điều kiện”. Tóm lại, ý chính của báo cáo đó là việc mở một trường y là quá dễ dàng và hầu hết các trường không giảng dạy nhiều về thuốc. Nói cách khác, các trường này không đẩy mạnh việc sử dụng thuốc. Với sự hậu thuẫn được bảo đảm nhờ báo cáo Flexner, Carnegie và Rockefeller bắt đầu “nâng cấp” giáo dục y tế bằng cách chỉ tài trợ những trường y giảng dạy những gì họ muốn. Nói cách khác, họ ngay lập tức đổ hàng trăm triệu đô la vào các trường y giảng dạy “chú trọng vào thuốc”. Đổi lại việc được tài trợ, các trường được yêu cầu tiếp tục giảng dạy các môn riêng về thuốc, không chú trọng vào y học tự nhiên. Hệ quả của báo cáo Flexner là tất cả các trường y được chính thức công nhận đều chú trọng tới thuốc và nghiên cứu thuốc. Năm 1913, AMA tiếp tục tấn công mạnh mẽ hơn bằng cách thành lập các “ban tuyên truyền” chuyên công kích các liệu pháp điều trị không chính thống và bất cứ ai thực hành các phương pháp đó. Mục đích từ đầu của báo cáo Flexner là dán nhãn cho các bác sĩ không chịu kê đơn là “lang băm” và “lang vườn”. Những trường y cung cấp các khóa học về liệu pháp điều trị tự nhiên và vi lượng đồng căn được yêu cầu cắt bỏ các khóa học đó khỏi chương trình giảng dạy hoặc không được công nhận. Không ngạc nhiên khi số lượng các trường y khoa được công nhận ở Mỹ đã giảm một nửa trong khoảng từ năm 1910 đến năm 1944. Nhà xã hội học y tế Paul Starr đã viết trong cuốn sách đoạt giải Pulitzer của mình, The Social Transformation of American Medicine (Sự chuyển hóa xã hội của nền y học Mỹ): “Hội đồng AMA đã trở thành cơ quan kiểm định quốc gia cho các trường y, số lượng các bang tuân theo sự kiểm định không thể chấp nhận được này ngày càng tăng”. Hơn nữa, ông lưu ý: “Mặc dù không có cơ quan lập pháp nào trao quyền cho hội đồng AMA về giáo dục y tế, nhưng quyết định của họ lại có sức mạnh của pháp luật”. Vì vậy, AMA đã trở thành cơ quan lập pháp mới và được trao quyền xác định những trường y nào theo đúng chuẩn y học chính thống và những trường nào không. Trái với quan niệm phổ biến, AMA không phải là cơ quan chính phủ. Đó là một tổ chức tư nhân hoạt động từ năm 1847 và về cơ bản đó là “nghiệp đoàn bác sĩ”. Sự khác biệt duy nhất giữa AMA và nghiệp đoàn công nhân ngành thép là các thành viên AMA mặc áo trắng, trong khi công nhân ngành thép mặc áo xanh. Và giống như nhiều nghiệp đoàn lao động khác, trên đỉnh của tổ chức này là các “ông trùm mafia”. Cuối cùng, kế hoạch của Rockefeller thành công vang dội và xung đột lợi ích giữa Big Pharma và Big Medicine tiếp diễn cho đến ngày nay. Trong cuốn sách Cancer-Gate: How to Win The Losing Cancer War (Cách đảo ngược cục diện cuộc chiến ung thư), bác sĩ Samuel Epstein giải thích rằng trong thế kỷ qua, ACS, NCI và AMA đều héo mòn vì các xung đột lợi ích cá nhân và tập thể về quyền lợi với Big Pharma. Như thừa nhận thẳng thắn của vị giám đốc hiện thời của NCI thì NCI đã trở thành một “công ty dược của chính phủ”. Bác sĩ Epstein cũng ghi lại vì tiền mà công nghiệp ung thư ngăn cản hàng núi thông tin về những nguyên nhân gây ung thư do môi trường thay vì tạo điều kiện cho cộng đồng tiếp cận những thông tin này. Trong cuốn The Politics of Cancer Revisited (Chính trị ung thư), bác sĩ Epstein nói rõ, “Chính các cơ sở điều trị ung thư cũng đã không cung cấp cho công chúng, đặc biệt là người Mỹ gốc Phi và những nhóm người người nghèo có tỷ lệ mắc ung thư cao không tương xứng, những thông tin về tránh tiếp xúc chất gây ung thư, theo đó tước đi quyền được biết của họ và ngăn cản họ có hành động tự bảo vệ – một sự phủ nhận trắng trợn về công bằng”. Đó là một bài toán kinh tế đơn giản. Việc che giấu công chúng về các nguyên nhân gây ra ung thư dẫn đến nhiều bệnh nhân ung thư hơn. Nhiều bệnh nhân ung thư dẫn đến bán được nhiều thuốc hóa chất, liều xạ trị và ca phẫu thuật hơn. Không phải đạo đức và lương tâm, tiền bạc mới là yếu tố quyết định của công nghiệp ung thư và mafia y tế. Nói thẳng, mục đích của họ là làm thuyên giảm tạm thời các triệu chứng ung thư bằng thuốc, trong khi chẳng bao giờ tập trung vào nguyên nhân gây ung thư. Việc này đảm bảo bệnh nhân phải đến bác sĩ thường xuyên và đòi hỏi họ thường xuyên quay trở lại các hiệu thuốc để mua bổ sung đơn thuốc. Luật chơi là vậy, dễ hiểu và đơn giản. Big Pharma là tập hợp của các công ty có mô tả rõ nhất là “những kẻ trục lợi dược phẩm”. Từ chối hay thỏa hiệp. Bỏ mặc ngoài tai. Nghĩ đến những điều hạnh phúc. Hoặc tiếp tục đọc và cởi mở tâm trí. Đó là lựa chọn của bạn. Tôi có một yêu cầu: Xin đừng bỏ qua những sự thật trong cuốn sách này chỉ vì bác sĩ không bao giờ nói cho bạn về chúng, hoặc bởi vì một số trong đó khó tin, hoặc bởi vì liệu pháp điều trị ung thư thay thế bị Công nghiệp ung thư dán nhãn “lang băm” hoặc “vô nghĩa”, hoặc bởi vì rất nhiều trong số các sự thật đó đối lập hoàn toàn với những gì bạn nghe ở bản tin hằng đêm. Hãy cố gắng bước ra khỏi lối mòn và cởi mở tâm trí cho những điều có thể bạn đã bị lừa dối và rằng có những liệu pháp điều trị ung thư hiệu quả hơn rất nhiều so với Big 3 (hóa trị, xạ trị và phẫu thuật). Bác sĩ Robert Atkins diễn tả đúng nhất: “Không chỉ có một, mà có rất nhiều liệu pháp chữa trị ung thư. Nhưng tất cả đều bị ACS, NCI và những trung tâm ung thư lớn cản trở một cách có hệ thống. Họ muốn giữ nguyên hiện trạng”. Sự tồn tại của mafia y tế và Big Pharma phụ thuộc vào việc loại bỏ (bằng mọi giá) các liệu pháp điều trị tự nhiên hiệu quả. Bằng cách khiến việc tiếp cận các phương thuốc tự nhiên trở nên khó khăn hơn, các “băng đảng y tế” đang bảo vệ sự độc quyền của họ, đồng thời nuôi dưỡng sự cuồng vọng của chính mình. Chân lý phải được nói ra, đặc biệt là liên quan đến liệu pháp điều trị ung thư, mafia y tế và bè lũ Big Pharma của họ đang tiến hành một âm mưu tống tiền khổng lồ, và những chiến lược của họ làm cho Pol Pot trông giống như một cậu bé của dàn hợp xướng! Bất kể bạn là bác sĩ hay bệnh nhân, nếu bạn cản trở mafia y tế, sau đó rất có khả năng bạn sẽ được đầu gấu hỏi thăm, họ sẽ hăm dọa và ép buộc bạn phải khuất phục và vâng lời. Theo lời bác sĩ Henry Jones: “Ngay sau khi độc quyền y tế được thiết lập, nó đã bắt đầu xúc tiến một kế hoạch nhằm tiêu diệt tất cả đối thủ cạnh tranh. Một cuộc thanh trừng trên toàn quốc được tổ chức chu đáo cũng như được tài trợ đầy đủ đã được thực hiện đối với tất cả các cơ sở không chính thống. Trong suốt nửa đầu của thế kỷ 20, độc quyền y tế này đã tìm cách đóng cửa hơn 40 trường y. Ý định của họ là hạn chế tối đa số lượng bác sĩ để phí khám chữa bệnh tăng lên. Sau Thế chiến thứ hai, độc quyền y tế bắt đầu kiểm soát chặt chẽ số lượng chuyên khoa y tế được phép giảng dạy, đồng thời cấm đoán hoặc loại bỏ hơn 70 nghề chuyên môn liên quan đến chăm sóc sức khỏe. ‘Bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng’, như thường lệ, là cái cớ hợp lý cho cuộc chiếm đoạt quyền lực này. Cho dù đối tượng hủy diệt dưới tay sự độc quyền y tế là người chữa bệnh theo phép vi lượng đồng căn, bà đỡ, người chữa bệnh bằng phương pháp nắn khớp xương, hoặc những người kê đơn qua mạng, cuộc thanh trừng cũng được thực hiện theo cách tương tự…” Cuộc chiến ung thư “Cuộc chiến ung thư” được Chính phủ liên bang chính thức tuyên bố năm 1971, và được Tổng thống Richard Nixon ký thành luật. Trong gần bốn thập kỷ qua, nó thực sự trở thành một vũng lầy, một cuộc chiến nắm chắc phần thất bại và không có hồi kết, tiêu tốn hàng tỷ đô la mỗi năm. Từ năm 1971, hơn hai nghìn tỷ đô la đã được chi cho các nghiên cứu và liệu pháp điều trị ung thư chính thống. Tuy nhiên, mặc cho (hoặc có lẽ bởi) những chi phí khổng lồ này, công nghiệp ung thư vẫn tiếp tục bỏ qua những ý tưởng sáng tạo trong lĩnh vực điều trị ung thư thay thế. Theo bác sĩ John Bailer, người đã làm nhân viên NCI trong 20 năm và là biên tập viên tờ tạp chí của tổ chức này, phát biểu tại Hội nghị thường niên của Hiệp hội Mỹ vì sự tiến bộ khoa học vào tháng 5 năm 1985: “Đánh giá tổng thể của tôi là chương trình ung thư quốc gia phải được xem như là một thất bại”. Thực tế là, công nghiệp ung thư (do các “trùm mafia” dẫn dắt) đã tiến hành một cuộc chiến khác – cuộc chiến chống lại những người ủng hộ việc sử dụng các liệu pháp điều trị ung thư thay thế. Bản chất của cuộc chiến mới này là đồng đô la toàn năng. Bạn không tin tôi ư? Năm liệu pháp điều trị ung thư thay thế hàng đầu là gì? Liệu bạn có thể nêu tên một liệu pháp điều trị ung thư thay thế không? Mafia y tế và Big Pharma nắm phương tiện truyền thông trong tay họ, do đó các liệu pháp điều trị ung thư mà hầu hết chúng ta được biết là Big 3. Trừ phi là người hay tìm hiểu trên mạng, còn không ,nhiều khả năng là bạn không được tiếp xúc với nhiều thông tin có giá trị về những liệu pháp điều trị ung thư thay thế. Sự thật là vì liệu pháp điều trị chính thống đem lại lợi nhuận cao nhất, nên chúng được chào mời như liệu pháp điều trị hiệu quả nhất. Tất cả xoay quanh khía cạnh kinh tế của ung thư, chứ không phải là tìm cách chữa trị. Trong cuốn sách Gangsters in Medicine (Những gã găng-xtơ trong y học), Thomas Smith đã nói một cách chính xác, “[Hệ thống y tế] không được lập ra để cứu và chữa bệnh; mà đó là một tổ chức thương mại kiếm tiền cho các thành viên.” Là kiểm toán viên, tôi có xu hướng quan sát mọi thứ từ góc độ kinh tế. Tôi phải nói rằng xét trên góc độ đó, Công nghiệp ung thư có mô hình kinh doanh hoàn hảo. Big Pharma và các công ty hóa chất khác kiếm được lợi nhuận khổng lồ từ việc bán hóa chất gây ung thư được đưa vào (đôi khi cố ý) trong thực phẩm, nước và không khí của chúng ta. Sau đó, họ kiếm thậm chí nhiều lợi nhuận hơn qua sản xuất và bán những thuốc độc hại, đắt đỏ và không hiệu quả để điều trị ung thư và các bệnh khác gây ra bởi chính sản phẩm của họ. Rồi họ bán thêm các loại thuốc làm cho cơ thể chịu đựng được các tác dụng phụ của thuốc chính. Trong ngôn ngữ kinh doanh, Công nghiệp ung thư đang ngồi trên một “con bò sữa”. Thật không may, con bò sữa này là mưu đồ bất lương nhắm vào chi phí của bệnh nhân ung thư. Đau đớn hơn, họ để cho những kẻ nộp thuế (như bạn và tôi) tài trợ cho những nghiên cứu tìm ra thêm nhiều cách không chữa khỏi ung thư trong khi vẫn đẩy mạnh bán thuốc của họ với lợi nhuận ghê gớm. Để đảm bảo công chúng vẫn vui vẻ không hay biết những thông tin thật về ung thư, họ đã thành lập nhóm cổ vũ (như ACS) để truyền bá thông tin sai lệch, trong khi phần còn lại của mafia y tế bận rộn chiến đấu trong cuộc chiến thù địch tranh giành lãnh địa để đảm bảo liệu pháp điều trị ung thư thay thế tiếp tục bị kìm hãm và các bác sĩ sử dụng những liệu pháp này bị ngược đãi và không thể hành nghề. Một cách chiến đấu của cuộc chiến tranh giành lãnh địa này là thông qua quảng cáo. Big Pharma không chỉ kiếm hàng tỷ đô la mỗi năm qua việc bán thuốc, mà họ còn đổ hàng tỷ đô la mỗi năm vào quảng cáo thuốc kê đơn. Vì người dân Mỹ thường đưa ra quyết định quan trọng dựa vào những gì nhìn thấy trên TV và những gì nghe được trên đài phát thanh, nên không khó hiểu khi phần lớn chúng ta không biết đến liệu pháp điều trị ung thư thay thế. Mafia y tế đã thực hiện tất cả mọi thứ trong quyền lực của họ để đảm bảo rằng bạn không biết sự thật về điều trị ung thư thay thế. Các đài truyền hình và phương tiện truyền thông khác không dám phát sóng bất cứ thứ gì có thể làm tổn hại đến một trong những khách hàng quảng cáo lớn nhất của họ – Big Pharma. Tôi tức giận và phẫn nộ vì mafia y tế ngăn chặn liệu pháp điều trị ung thư tự nhiên, đàn áp các bác sĩ sử dụng liệu pháp này và khiến chúng gần như không thể tiếp cận, theo đó gây ra cái chết cho hàng triệu nạn nhân ung thư. Câu chuyện có thật sau đây sẽ khiến bạn đau lòng. Câu chuyện về Alexander Horwin (theo lời của mẹ em, bà Raphaele): “Vào ngày 10 tháng 8 năm 1998, con trai chúng tôi Alexander Horwin lúc đó mới hai tuổi được chẩn đoán mắc loại u não nhi phổ biến nhất ở trẻ em, u nguyên bào tủy. Sau khi Alexander trải qua hai ca phẫu thuật não, chồng tôi và tôi tìm được liệu pháp không độc hại tốt nhất đã được chứng minh thành công trong việc điều trị ung thư não. Tuy nhiên, vào ngày 21 tháng 9 năm 1998, FDA đã từ chối cho Alexander tiếp cận liệu pháp điều trị có khả năng cứu sống này. Các chuyên gia ung thư nói rằng nếu không dùng hóa trị “hiện đại” của họ thì ung thư sẽ sớm tái phát. Chúng tôi không biết gì về lịch sử, hiệu quả và thực tế nguy hiểm của hóa trị nhưng theo bản năng chúng tôi biết đó là một lựa chọn tồi cho điều trị. Tuy nhiên, khi FDA từ chối cơ hội tốt nhất để Alexander sống sót bằng cách sử dụng liệu pháp không độc hại đã cứu những đứa trẻ khác, chúng tôi không còn lựa chọn điều trị nào khác. Bất đắc dĩ, chúng tôi bắt đầu chạy hóa trị vào ngày 7 tháng 10, năm 1998. Phác đồ điều trị là CCG 9921 bao gồm tiêm tĩnh mạch bốn loại thuốc hóa trị: vincristine, cisplatin, cyclophosphamide (còn gọi là cytoxan), và VP16 (còn gọi là etoposide). Alexander hoàn thành tháng thứ ba chạy hóa trị vào tháng 12 năm 1998 và qua đời vào ngày 31 tháng 1 năm 1999. Nó mới có hai tuổi rưỡi” Vâng, chắc chắn là có một cuộc chiến giữa mafia y tế và những người ủng hộ liệu pháp điều trị ung thư thay thế. Nếu bạn tin mafia y tế hành động vì lợi ích cao nhất cho cộng đồng, có lẽ bạn nên đọc cuốn sách do bác sĩ Harvey Wiley viết, ông là người sáng lập FDA (năm 1906) và là vị Giám đốc đầu tiên của tổ chức này. Trong cuốn The History of the Crime Against the Food Law (Lịch sử tội ác chống lại đạo luật thực phẩm), ông mô tả sự tham nhũng trắng trợn xảy ra trong vòng một vài năm sau khi thành lập. Ông nhanh chóng nhận ra rằng mục đích ban đầu đã bị biến chất; ông từ chức và sau đó viết cuốn sách. Các vấn đề tương tự tiếp tục tồn tại ở FDA trong gần một thế kỷ. Mafia y tế có lịch sử tham nhũng và xung đột lợi ích với Big Pharma. Theo cựu ủy viên FDA, bác sĩ Herbert Ley, như trích dẫn ở bản ghi chép San Francisco vào ngày 1 tháng 1 năm 1970: “Điều làm tôi khó chịu là mọi người nghĩ rằng FDA đang bảo vệ họ. Không phải vậy. Những gì FDA đang làm và những gì công chúng nghĩ họ đang làm khác nhau một trời một vực.” Năm 1969, bác sĩ Ley điều trần trước Ủy ban Thượng viện và mô tả một số trường hợp cố tình gian dối trong kiểm nghiệm thuốc. Một trường hợp liên quan đến một giáo sư đã thử nghiệm gần 100 loại thuốc cho 28 công ty dược khác nhau. Bác sĩ Ley khai nhận, “Những bệnh nhân đã chết phải rời khỏi bệnh viện hoặc loại ra khỏi nghiên cứu và được thay thế bằng các bệnh nhân khác cho thử nghiệm mà không khai báo trong hồ sơ. 41 bệnh nhân được báo cáo tham gia các nghiên cứu thực ra đã chết hoặc không ở trong bệnh viện trong thời gian nghiên cứu.” Trong những năm đầu thập niên 1970, một nghiên cứu nội bộ của FDA tiết lộ một phần năm các bác sĩ thực hiện nghiên cứu thực nghiệm các loại thuốc mới đã “ngụy tạo số liệu” gửi đến các công ty dược và đút túi tiền thù lao. Nói cách khác, 20% bác sĩ chỉ nhồi nhét số liệu giả! Theo bác sĩ Judith Jones, cựu Giám đốc Bộ phận thử nghiệm thuốc tại FDA, nếu các dữ liệu thu được từ một bác sĩ lâm sàng chứng minh không đạt yêu cầu đối với loại thuốc đang được nghiên cứu, quy trình vận hành tiêu chuẩn cho công ty dược đó là tiếp tục thử nghiệm ở những nơi khác cho đến khi có được kết quả thỏa đáng và những chứng thực mong muốn. Những kết quả không thuận lợi hầu như không bao giờ được công bố và bác sĩ lâm sàng bị ép phải giữ mồm giữ miệng. Các bác sĩ là những “nhà nghiên cứu thuốc” chính cho Big Pharma. Hãy nhớ rằng tiền thưởng cho các bác sĩ lâm sàng để ngụy tạo dữ liệu là rất lớn. Khi đánh tráo thành kết quả “nghiên cứu thuận lợi”, các bác sĩ được thưởng các khoản tài trợ nghiên cứu, quà tặng, và đặc quyền hậu hĩnh. Theo John Braithwaite trong cuốn Corporate Crime in the Pharmaceutical Industry (Liên minh tội ác trong ngành công nghiệp Dược), Big Pharma trả tiền lên đến 1.000 đô la cho mỗi sản phẩm, tạo điều kiện cho rất nhiều bác sĩ kiếm được hơn một triệu đô la một năm chỉ từ nghiên cứu thuốc. Và đừng bị đánh lừa – các bác sĩ biết rất rõ nếu họ không tạo ra “kết quả thuận lợi” cho Big Pharma, “việc hái ra tiền” của họ sẽ sớm chấm dứt. Bạn thấy đấy, rất nhiều loại thuốc PHẢI được bán. Để đạt được điều này, mọi thứ đều có thể: dối trá, lừa gạt, và lại quả. Trong cuộc chiến với ung thư này, mọi thứ đều đã được định đoạt và có cực kỳ ít cơ hội thành công cho những liệu pháp điều trị ung thư thay thế. Để thành công trong cuộc chiến chống ung thư, chúng ta phải có những người dũng cảm nói ra mà không sợ bị dán nhãn “lệch lạc chính trị” hay “tuyên truyền thuyết âm mưu” (đây là cách xúc phạm thanh danh nhằm bác bỏ những nhà tư tưởng phản biện). Mike Adams (vị thần sức khỏe) là một chiến binh như vậy. Với phong cách hết sức thẳng thắn, ông khẳng định: “Y học phương Tây đã làm hỏng con người. Ngày nay, ngay cả khi thuốc kê đơn được tiêu thụ thường xuyên hơn bao giờ hết trong lịch sử nền văn minh, tỷ lệ béo phì và bệnh mạn tính vẫn tăng vọt.” Ông tiếp tục: “Tây y đơn giản là không hiệu quả. Đó là hệ thống y học đã lỗi thời bị chi phối bởi lợi ích tài chính của các công ty dược, các quan chức thèm khát quyền lực của FDA, và các bác sĩ lạc hậu mà cái nhìn thiển cận về sức khỏe ngăn cản họ khám phá những căn nguyên trong việc điều trị. Các trường y hiện đại thậm chí không dạy về việc chữa bệnh hay dinh dưỡng. Không một bác sĩ nào của y học phương Tây dạy tôi dù chỉ một chút thôi về sức khỏe.” Bạn tôi Webster Kehr mô tả cuộc chiến ung thư như sau: “Khi mọi người nghe từ ‘cuộc chiến’, họ nghĩ đến súng đạn, xe tăng, máy bay phản lực và binh lính. Họ nghĩ về những tên độc tài nông cạn vung nắm đấm trên truyền hình. Nhưng cuộc chiến trong y tế rất khác. Những kẻ độc tài trong cuộc chiến này che giấu ý định thật của họ. Đây là ‘cuộc chiến’ mà vũ khí là thông tin. Chào mừng thế kỷ 21, thế kỷ mà kẻ thù nguy hiểm và chết chóc nhất của nước Mỹ đang ở quanh ta.” Bất luận bao nhiêu người cạo trọc đầu hoặc chạy chữa khắp nơi, chừng nào mafia y tế còn nắm quyền kiểm soát, “cuộc chiến ung thư” sẽ không bao giờ thắng lợi được. Theo bác sĩ Linus Pauling (hai lần đoạt giải Nobel): “Hầu hết các nghiên cứu ung thư là gian lận và các tổ chức nghiên cứu ung thư lớn đều sao lãng nhiệm vụ đối với những người ủng hộ họ.” Cuộc chiến ung thư này là một trong những trò lừa đảo đắt giá nhất (về mặt tiền bạc và nỗi đau khổ của con người). Lượng tiền khổng lồ đã chi tiêu để theo đuổi cuộc chiến, nhưng “hoàng đế ung thư” vẫn trơ ra đó. Theo C.S. Lewis trong The Screwtape Letters (Những lá thư Screwtape): “Tội ác lớn nhất không diễn ra trong những “sào huyệt tội phạm” bẩn thỉu mà Dickens thích mô tả. Thậm chí cũng không phải trong các trại tập trung và trại khổ sai. Ở những nơi đó chúng ta đã thấy kết quả cuối cùng. Nhưng tội ác này được thai nghén và tổ chức quy củ trong những văn phòng sạch sẽ, phủ thảm, ấm áp và chiếu sáng, với những người đàn ông trầm lặng mặc áo cổ trắng, cắt móng tay gọn gàng. Do đó, thật tự nhiên, đối với tôi, biểu tượng địa ngục là thứ gì đó giống như… các văn phòng kinh doanh những phi vụ bẩn thỉu.” Chương 2: DỐI TRÁ, TUYÊN TRUYỀN & THAM LAM Trò ảo thuật Tôi từng rất sợ bị chẩn đoán mắc ung thư. Chỉ mới gần đây tôi mới bắt đầu hiểu lý do tại sao mình lại sợ đến vậy. Tôi cùng với 99% người Mỹ đã bị đánh lừa và tẩy não để tin vào những lời dối trá của bộ máy tuyên truyền Big Pharma, họ làm cho trường học, sách báo, tạp chí chuyên ngành, tạp chí, chương trình phát thanh, chương trình truyền hình, và tất nhiên, phần lớn các bác sĩ chính thống, y tá và các chuyên gia y tế khác thấm nhuần sự lừa dối. Cố tình bóp méo sự thật luôn là quy trình hoạt động tiêu chuẩn của các giám đốc truyền thông đại chúng. Họ không thể cho phép báo chí khách quan trình bày các sự kiện như thực tế xảy ra. Điều đó quá nguy hiểm. Những sự kiện xảy ra hằng ngày luôn được thêu dệt có lợi cho một phía nào đó. Những người không đồng ý với sự thêu dệt này và có tư duy độc lập thường bị gán là “cực đoan” và “gàn dở”. Cái thật trở thành hư cấu và hư cấu trở thành cái thật. Đây là toàn bộ “trò ảo thuật”. Theo nhà báo Mỹ Russel Wayne Baker, “Một người có giáo dục là người biết rằng thông tin hầu như luôn không đầy đủ và thường xuyên sai sự thật, gây hiểu nhầm, hư cấu, gian dối.” Nhưng trò ảo thuật này không có gì mới. Bắt đầu từ gần một thế kỷ trước, khi đó, nhờ khả năng kỳ lạ trong việc dàn xếp lại một vấn đề, Edwin L. Bernays được mệnh danh là “Cha đẻ của thêu dệt”. Qua ghi chép tuyên truyền của ông ta từ năm 1928, chúng ta biết được Bernays đã lấy những ý tưởng từ người cậu nổi tiếng của mình (Sigmund Freud) và áp dụng vào khoa học thuyết phục quần chúng còn đang mới mẻ. Sự khác biệt duy nhất là thay vì sử dụng những nguyên lý này theo cách tâm lý học của Freud (để khám phá vô thức), Bernays sử dụng kỹ thuật của cậu ông cho mục đích tiếp thị để tạo ra những ảo tưởng, lừa dối, và tẩy não công chúng. Trong một trích dẫn, Bernays từng mô tả công chúng như là một “bầy đàn cần được dẫn dắt”. Bernays không bao giờ chệch hướng khỏi chân lý cơ bản của mình và “kiểm soát quần chúng mà họ không hề hay biết”. Bernays đã làm điều đó như thế nào? Kỹ thuật của ông ta rất đơn giản: tạo ra ảo tưởng rằng có một số nghiên cứu triển vọng bằng cách sử dụng các cụm từ như “rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra…” hoặc “nghiên cứu đã chứng minh…” hay “các nhà điều tra khoa học đã tìm thấy…”, nhưng sau đó không bao giờ thực sự trích dẫn bất cứ điều gì. Nếu ai đó nghi ngờ hay thắc mắc thì tấn công nhân phẩm và/hoặc trí tuệ của họ. Theo Adolph Hitler: “Nếu anh nói dối mãi, cuối cùng mọi người cũng sẽ tin đó là sự thật… Lời dối trá càng lớn, càng có nhiều khả năng mọi người sẽ tin điều đó.” Những kỹ thuật này ngày nay vẫn đang được hầu hết các nhà quảng cáo, kể cả Big Pharma sử dụng. Ví dụ, Big Pharma thường xuyên phát triển thuốc kê đơn mới hơn và tốt hơn, với mục đích chính là để tăng lợi nhuận cổ đông, mặc dù thực tế là phần lớn các loại thuốc này đều độc hại và nguy hiểm. Chúng được quảng cáo hết lần này đến lần khác, trên truyền hình, đài phát thanh, tạp chí, tạp chí y khoa, và trong tài liệu khuyến mại. Mặc dù không có bằng chứng khoa học hỗ trợ cho việc sử dụng các loại thuốc này, chúng ta vẫn bị tác động để tin đó là giải pháp cho những vấn đề y tế của mình. Nếu bất cứ ai dám chống đối, nhân phẩm của họ sẽ bị công kích, còn trí tuệ thì bị thách thức. Một nghiên cứu gần đây ở Đức thực hiện đã phát hiện ra rằng 94% thông tin trong tài liệu quảng cáo do Big Pharma gửi đến các bác sĩ hoàn toàn không có cơ sở khoa học. Mike Adams nói thẳng: “Các công ty dược phẩm can dự vào các trò gian lận khoa học nhằm bóp méo các nghiên cứu của họ và làm cho thuốc được phê duyệt dựa trên cơ sở khoa học không vững vàng. Nhưng những gì làm tôi ngạc nhiên về nghiên cứu mới này là mức độ của nó: 94% thông tin tiếp thị là vô căn cứ và không có cơ sở khoa học. Đó là một con số đáng báo động – có nghĩa là 19 trong 20 tuyên bố của các công ty dược trong các tài liệu tiếp thị của họ là dối trá.” Liên quan đến các liệu pháp điều trị ung thư, tẩy não và lừa dối là thiết yếu, vì mục đích của công nghiệp ung thư là liên tục thuyết phục chúng ta rằng liệu pháp điều trị ung thư thay thế không hiệu quả, trong khi đồng thời nói rằng Big 3 điều trị ung thư hiệu quả. Trò ảo thuật hoành tráng này khiến cho David Copperfield chỉ như một tay nghiệp dư! Phần lớn các “tri thức” về liệu pháp điều trị ung thư chính thống được cấy một cách khoa học vào ý thức cộng đồng bằng âm thanh và quảng cáo mỗi ngày. Đấy gọi là tẩy não. Chúng ta bị tẩy não để tin rằng thuốc kê đơn là giải pháp cho ung thư (và tất cả các bệnh khác nữa). Bạn có ốm không? Chỉ cần xem truyền hình trong nửa giờ, viết ra tên của loại thuốc kê đơn mới nhất và gọi điện cho bác sĩ của bạn. Tôi tin chắc rằng ông ấy sẽ vui vẻ kê thuốc đó cho bạn. Bạn thấy đấy, bác sĩ của bạn chắc cũng bị tẩy não rồi. Big Pharma trả tiền cho hơn 90% diện tích quảng cáo trên các tạp chí y khoa. Tôi sẽ trích dẫn một số số liệu thống kê không thể tin nổi liên quan đến tạp chí y khoa ở phần sau cuốn sách này. Lần gần nhất bạn trông thấy quảng cáo về dinh dưỡng liên quan đến sức khỏe là khi nào? Và còn những “chuyên gia” dinh dưỡng nói rằng bạn nên ăn đồ tươi sống và thực phẩm toàn phần? Nhiều bác sĩ chính thống sẽ khuyên bạn đừng nghe điều vô nghĩa đó, rằng không có bằng chứng củng cố cho mối tương quan giữa chế độ ăn uống và các bệnh thoái hóa như ung thư. Họ sẽ nói với bạn rằng những bác sĩ tin bệnh ung thư có thể chữa khỏi nhờ sự thay đổi trong chế độ ăn uống chỉ là lũ “lang băm”. Xin hãy nhận thức rằng đây là một đặc tính khác nữa của chiến dịch tuyên truyền hiệu quả: hạ thấp phe đối lập. Chúng ta bị tác động để tin hầu như bất cứ điều gì, miễn là thông tin đến từ một “nguồn tin cậy”. Trong bài báo mang tên The Doors of Perception: Why American Will Believe Almost Anything (Cánh cửa nhận thức: Tại sao người Mỹ cả tin), bác sĩ Tim O’Shea kể về câu chuyện chì được đưa vào nước Mỹ: “Năm 1922, General Motors đã phát hiện ra rằng cho thêm chì vào xăng sẽ làm cho ô tô chạy khỏe hơn. Khi có một số lo ngại về sự an toàn, GM đã trả tiền cho Cục Khai thác mỏ để làm “thử nghiệm” giả và công bố nghiên cứu giả rằng “đã chứng minh” hít phải chì là vô hại. Charles Kettering vào cuộc. Là người sáng lập Viện Tưởng nhớ Sloan-Kettering nổi tiếng thế giới về nghiên cứu y học, Charles Kettering cũng tình cờ là ủy viên ban quản trị của General Motors. Do một số trùng hợp kỳ lạ, chúng tôi nhanh chóng có được các báo cáo do Sloan- Kettering phát hành nói rằng chì có tự nhiên trong cơ thể và cơ thể có cách để loại trừ phơi nhiễm ở mức độ thấp. Thông qua kết hợp với Quỹ vệ sinh công nghiệp và tập đoàn quan hệ công chúng khổng lồ Hill & Knowlton, Sloan-Kettering đã phản đối tất cả nghiên cứu chống chì hàng năm trời. Không có tổ chức khoa học đối lập, trong 60 năm tiếp theo, ngày càng nhiều xăng bị pha chì, cho đến những năm 1970, 90% xăng của chúng ta đã được pha chì. Cuối cùng sự việc trở nên quá hiển nhiên và không thể giấu giếm rằng chì là chất gây ung thư, điều họ đã biết từ lâu, và xăng pha chì đã bị loại bỏ vào cuối năm những năm 1980. Nhưng trong những năm 1960, ước tính khoảng 30 triệu tấn chì đã được thải ra ở dạng hơi trên đường phố và đường cao tốc Mỹ – 30 triệu tấn. Đó là quan hệ công chúng đấy bạn ạ.” Bộ máy tuyền truyền ung thư và tẩy não Mafia y tế và Big Pharma đã cơ bản kiểm soát hoàn toàn các chính trị gia và giới truyền thông. Mọi người không thể bị tẩy não nếu không có một chiến dịch tuyên truyền rầm rộ. Và hãy tin chắc bộ máy tuyên truyền ung thư (truyền hình, báo chí, tạp chí chuyên ngành, đài phát thanh…) vẫn tiếp diễn và mạnh mẽ. Các vị điều hành truyền thông và xuất bản rất thận trọng không công bố điều gì gây khó chịu cho đối tác quảng cáo lớn nhất của họ (Big Pharma) và nhào nặn nội dung để làm đối tác này. Một điều tra mới đây về các bản tin truyền hình cho thấy gần 25% toàn bộ quảng cáo là về thuốc kê đơn: Viagra, Claritin, Celebrex, Allegra, Levitra, Zoloft, Cialas, Nexium và danh mục cứ kéo dài liên tục. Hằng năm, Big Pharma dành hàng trăm triệu đô la cho quảng cáo thuốc kê đơn trên truyền hình và báo chí. Chúng ta bị tẩy não như thế đó. Họ liên tục tấn công dồn dập bằng câu thần chú là thuốc mới hơn và tốt hơn là giải pháp duy nhất cho bệnh dịch. Rốt cuộc, hầu hết chúng ta tin vào những gì thấy trên truyền hình và những điều bác sĩ nói. Đây là cốt lõi tuyên truyền: mọi người không cần được dạy làm thế nào để tư duy độc lập. Họ phải chịu tác động để tin tưởng vào sức mạnh của những gì họ nghe thấy trên truyền hình và đài phát thanh. Kết quả là chúng ta bị mất đi khả năng tư duy độc lập. Chúng ta trở nên ngày càng ngớ ngẩn. Thú vị là khi xem TV thì hoạt động ở những vùng não trên (như tân vỏ não) bị giảm đi, trong khi hoạt động ở những vùng não thấp (như hệ viền) tăng lên. Tức là là chúng ta trở thành những “thây ma” khi xem TV và dễ dàng bị thao túng. Bạn đã bao giờ nhận ra chúng ta liên tục được cảnh báo không nên tham khảo thông tin về phòng chống và điều trị ung thư từ internet? Các dòng tít nói rằng các trang web ung thư thay thế gây rủi ro cho sức khỏe! Chúng ta thường xuyên thấy các bác sĩ (nhiều người trong đó đã bán linh hồn của họ) nói kiểu như thế này: “Không có bằng chứng rõ ràng về liệu pháp điều trị thay thế có thể ngăn ngừa ung thư”. Để có một tuyên bố như vậy, bác sĩ phải nói dối trắng trợn hoặc hoàn toàn không hay biết gì về nghiên cứu ung thư trong thế kỷ qua. Điều rõ ràng là Công nghiệp ung thư đang tiến hành chiến dịch tuyên truyền sâu rộng, dựa trên nỗi sợ hãi và sự thiếu hiểu biết, để ngăn cản mọi người tìm hiểu về liệu pháp điều trị ung thư thay thế. Thành thật mà nói, công nghiệp ung thư mong mọi người cứ duy trì sự thiếu hiểu biết. Họ không muốn mọi người được biết về bất cứ điều gì khác hơn so với liệu pháp điều trị mà họ đang xúc tiến và kiểm soát. Lý tưởng nhất, những gì Công nghiệp ung thư mong muốn là một dạng kiểm duyệt. Cuối cùng, họ muốn các trang web được đánh dấu để ấn định những trang nào là những trang web ung thư “chính thức”. Tất nhiên, chỉ những trang web đăng tải nội dung đồng tình 100% với Công nghiệp ung thư tham nhũng mới đủ điều kiện được chứng nhận. Vì vậy, dưới ánh sáng của những sự thật trên, hãy luôn ghi nhớ rằng những gì bạn nghe về liệu pháp điều trị ung thư chính thống từ các bác sĩ, trong tạp chí y tế, trên truyền hình, trên đài phát thanh là một mê cung của sự dối trá và lừa gạt nhằm thuyết phục rằng các loại thuốc hóa học mới hơn, tốt hơn là giải pháp chữa trị ung thư và khiến chúng ta tài trợ nghiên cứu thuốc nhiều hơn. Và hãy luôn nhớ rằng ngay cả các biên tập viên của tạp chí y khoa cũng tự bán mình cho Big Pharma. Như Albert Einstein từng nói, “Tầng lớp cầm quyền có trường học và báo chí chịu sự chỉ đạo của nó. Điều này cho phép nó thống trị cảm xúc của quần chúng.” Ngoài kiểm duyệt, công cụ khác thường được sử dụng để tẩy não và làm mọi người lầm lạc là ngụy trang. Bạn hẳn từng thấy những con côn trùng ngụy trang là cành cây hay lá cây. Đó là những gì công nghiệp ung thư làm. Họ vờ vịt hành động vì lợi ích tốt nhất của bệnh nhân ung thư, trong khi thực ra họ đang hành động vì lợi ích cao nhất của mình. Đừng bị lừa dối mà tin rằng công nghiệp ung thư toàn những con người vị tha cực kỳ mong mỏi tìm cách chữa trị ung thư. Họ chỉ quan tâm đến một thứ và một thứ duy nhất: TIỀN. Không nghi ngờ gì, trang web về liệu pháp điều trị ung thư thay thế yêu thích của tôi là www.cancertutor.com của Webster Kehr. Tôi trích dẫn ông trong suốt cuốn sách do ông nắm vững vấn đề này và có cái nhìn sâu sắc hơn bất cứ ai mà tôi từng gặp. Dưới đây là ý kiến của ông về các phương tiện truyền thông và mối quan hệ với Big Pharma: “Các phương tiện truyền thông thường xuyên sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau để tẩy não công chúng. Tất cả đều có thể được tóm tắt trong một câu: ‘giả nhân giả nghĩa’. Họ nói dối, che giấu thông tin, đánh lừa, nói một nửa sự thật, v.v.. Các phương tiện truyền thông chỉ là phường đàng điếm vô dụng. Họ bán mình cho kẻ trả giá cao nhất, chính là ngành công nghiệp dược phẩm thối nát. Tất cả mọi thứ họ nói chỉ cốt làm hài lòng những người trả giá cao nhất.” Rất nhiều bệnh nhân ung thư được các bác sĩ chính thống thông báo đã ở “giai đoạn cuối” và bắt đầu sử dụng liệu pháp thay thế, đã hoàn toàn bình phục và còn sống và sống khỏe trong 10, 15, 20 hoặc nhiều năm sau chẩn đoán “giai đoạn cuối”. Tuy nhiên, công nghiệp ung thư phớt lờ sự tồn tại của những người sống sót ấy hay gạt bỏ họ như một giai thoại. Gần đây, tôi đã làm một cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh và một trong những người được mời đến đã dùng chính xác cụm từ đó. Khi tôi nói với anh ta bốn người mà cá nhân tôi biết đã hồi phục từ ung thư giai đoạn cuối nhờ liệu pháp điều trị ung thư tự nhiên, anh ta nói: “Tôi không muốn nghe về giai thoại của anh”. Thật là một gã hề. Một mánh khóe của công nghiệp ung thư là tuyên bố rằng những người khỏe lên nhờ liệu pháp thay thế vì một lý do chưa biết nào đó đã phục hồi kỳ diệu là do phản ứng chậm của Big 3. Thật lố bịch! Một thủ đoạn phổ biến khác nữa là tuyên bố bệnh nhân ung thư được chữa khỏi nhờ các liệu pháp thay thế chỉ đơn giản là trải qua “sự thuyên giảm tự nhiên”. Đây là biệt ngữ y tế cho “sự phục hồi không giải thích được” nhằm che giấu sự thiếu hiểu biết của bác sĩ về những gì thực sự xảy ra. Nghiên cứu toàn diện nhất từng được tiến hành về thuyên giảm tự nhiên của ung thư cấp tính chỉ đưa ra 176 trường hợp trên thế giới từ năm 1900 đến 1965. Nói theo thống kê, điều này gần như không bao giờ xảy ra. Vì vậy, khi bạn nghe các bác sĩ chính thống gán cho sự phục hồi kỳ diệu và bất ngờ của một bệnh nhân ung thư điều trị thay thế là “thuyên giảm tự nhiên”, hãy thấy tiếc cho họ. Họ chỉ đơn thuần ảo tưởng trong một thế giới ma trận mộng mơ được Công nghiệp ung thư tạo ra. Tiền bạc & lòng tham Trong Kinh Thánh, Timothy 6:10 có nói: “Lòng tham tiền bạc là gốc rễ của mọi loại tội lỗi.” Yếu tố tài chính trong điều trị ung thư thật đáng kinh ngạc! Trong năm 2010, tính riêng tại Mỹ, chi phí điều trị ung thư là trên 75 TỶ ĐÔ LA! Quá dễ để thấy lý do tại sao mafia y tế không từ thủ đoạn nào để tiêu diệt “lang băm”. Những kẻ kiếm chác từ liệu pháp độc hại như hóa trị và xạ trị có thể bị mất việc và phải tìm cách khác để cho con cái đến Harvard hay Yale nếu liệu pháp điều trị thay thế không độc hại, tự nhiên và hiệu quả được công nhận. Tiếp thị thuốc độc hại đắt tiền là trọng tâm của Big Pharma. Các công ty dược không những kiếm hàng tỷ đô la lợi nhuận từ các loại thuốc hóa trị độc hại mỗi năm, mà họ còn kiếm hàng triệu đô la lợi nhuận mỗi năm qua việc phát triển các loại thuốc điều trị những hậu quả gây ra bởi các loại thuốc hóa trị! “Không có thứ gì thuộc lĩnh vực chăm sóc sức khỏe có thể làm sinh lời nhiều hơn thuốc kê đơn. Đó là một loại hình kinh doanh mà tất cả đều phải ghen tị.” – New York Times, 28 tháng 7 năm 1989. Trong cuốn sách The Story of the Medical Conspiracy Against America (Câu chuyện về âm mưu y tế chống lại nước Mỹ), Eustace Mullins trích dẫn Patrick McGrady, người từng là biên tập viên khoa học của ACS và người phát ngôn chính của ACS trên truyền thông trong hơn hai thập kỷ. Năm 1978, McGrady đã có một tuyên bố thú vị: “Không ai trong các cơ sở khoa học và y tế (tại ACS) có khả năng làm khoa học thực sự. Họ là những nhà chuyên môn tài ba biết làm thế nào để có tiền. Nhưng họ không biết làm thế nào để ngăn chặn ung thư hoặc chữa cho bệnh nhân.” Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao, mặc dù đã chi hàng tỷ đô la cho nghiên cứu ung thư qua nhiều thập kỷ và không ngừng hứa hẹn chữa khỏi bệnh nhưng vẫn luôn là “chỉ chút nữa thôi”, và ung thư không ngừng gia tăng. Bạn có nghĩ Big Pharma thực sự muốn ai đó xuất hiện với phương pháp chữa ung thư tự nhiên, không độc hại, không tốn kém, và hiệu quả? Hay bạn nghĩ Big Pharma sẽ bằng mọi giá nắm giữ lợi nhuận của họ? Bạn có thực sự nghĩ rằng Công nghiệp ung thư đang tìm kiếm một “phương thuốc thần kỳ” để quét sạch ung thư? Phương thuốc thần kỳ sẽ dẫn đến chấm dứt các chương trình nghiên cứu, những thủ thuật và chấm dứt lối sống xa hoa của các giám đốc điều hành Big Pharma. Phương thuốc thần kỳ sẽ thắt nút “vòi tiền” của Công nghiệp ung thư và làm liệu pháp điều trị Big 3 trở nên lỗi thời trong khi đó là mấu chốt để duy trì dòng tiền. Đáng buồn thay, thực tại là nhiều người trong cộng đồng y tế hoàn toàn không quan tâm đến việc đi tìm phương thuốc thần kỳ chữa trị ung thư, vì nó sẽ khiến Big Pharma mất hàng tỷ đô la… Một lưu ý thú vị là trong điều lệ của ACS (Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ) có ghi điều khoản nói rằng nếu ngày nào một phương pháp chữa khỏi ung thư được tìm thấy, thì vào ngày hôm đó, hiệp hội sẽ giải thể. Nghĩ thử xem, động lực thực sự của tổ chức này là tìm kiếm cách chữa trị ung thư sao? Yêu cầu ACS tìm cách chữa ung thư chẳng khác nào nói rằng, “Hãy đi tìm cho ra. Rồi sau đó, khi đạt được mục tiêu thì hãy nhanh chóng chấm dứt sự tồn tại của mình”. Thực tế, bản chất việc loại bỏ ung thư là trái ngược với lợi ích của Big Pharma, vì sẽ phá hỏng đầu tư của họ. Theo tôi, mục tiêu chính của Big Pharma là duy trì bệnh, chứ không diệt trừ nó. Họ sẽ giữ cho con bò sữa sống khỏe bằng mọi giá. Sự tồn tại của họ phụ thuộc vào việc loại bỏ thành công liệu pháp điều trị bệnh ung thư thay thế bằng mọi cách. Không một doanh nghiệp sinh lời nào lại cố gắng tự đào thải. Đơn giản vậy thôi. Thế nên Công nghiệp ung thư sẽ không bao giờ đưa ra phương pháp chữa khỏi ung thư. Đó là màn kịch khổng lồ của lòng tham và thủ đoạn chính trị đã biến một thách thức y tế dễ giải quyết thành trò gian lận mà ngày nay chúng ta gọi là công nghiệp ung thư. Bạn đã từng nghe nói về Định luật hai của Parkinson chưa? “Chi phí tăng để phù hợp với thu nhập.” Hằng năm, thùng quyên góp cho ung thư được gửi đi khắp nơi, đến các công ty, tổ chức và cả cá nhân. Câu thần chú là – “Hãy chu cấp tiền bạc cho chúng tôi, vì chúng tôi đang tiến bộ hằng ngày và chúng tôi không thể dừng lại bây giờ. Chúng tôi sắp tìm ra rồi!” Doanh thu tăng cho nên chi phí phải được tạo ra để lý giải cho doanh thu. Điều này cấm kỵ các nghiên cứu về những phương pháp chữa trị ung thư tự nhiên và không tốn kém. Chính vì vậy, toàn bộ bộ máy của công nghiệp ung thư được thiết lập để ngăn chặn và kiểm duyệt bất kỳ thông tin nào làm giảm lượng cầu với liệu pháp điều trị ung thư nhân tạo và đắt đỏ. Để bảo vệ quyền lợi của Big Pharma, mọi tiềm năng thành công của liệu pháp điều trị ung thư thay thế đều phải bị phủ nhận, ngăn chặn và cấm đoán bằng mọi giá. Công nghiệp ung thư không từ thủ đoạn nào để ngăn chặn và kiểm duyệt tất cả các liệu pháp điều trị ung thư thay thế. Kể cả hối lộ. Nguyên nhân chính khiến hệ thống y tế trở thành một mớ hỗn độn như hiện nay là do Big Medicine đã bán mình cho Big Pharma. Trong cuốn Dissent in Medicine – Nine Doctors Speak Out (Bất đồng quan điểm trong y học – Chín bác sĩ lên tiếng), bác sĩ Alan Levin viết: “Bác sĩ trẻ được các công ty dược cung cấp những khoản tài trợ cho nghiên cứu. Các trường y khoa được cung cấp những khoản tiền lớn cho thử nghiệm lâm sàng và nghiên cứu dược phẩm cơ bản. Các công ty dược thường xuyên tổ chức bữa tối và tiệc xa hoa cho các nhóm y bác sĩ. Họ cấp kinh phí xây dựng các tòa nhà bệnh viện, trường y khoa, và các viện nghiên cứu độc lập… các bác sĩ hành nghề bị ép sử dụng phác đồ điều trị mà họ biết không hiệu quả. Một ví dụ rõ ràng là hóa trị ung thư.” Theo Mike Adams: “Không ngoa nếu gọi đó là diệt chủng y tế. Những công ty thuốc này dường như đã xác định liều cho toàn dân với càng nhiều đơn thuốc càng tốt, miễn là tạo ra lợi nhuận cho các cổ đông. Đạo đức kinh doanh không có chỗ trong Công nghiệp dược ngày nay: quan trọng là tiền, lợi nhuận, quyền lực và sự kiểm soát.” Trong cuốn sách The Medical Mafia (Mafia y tế), bác sĩ Guylaine Lanctot nói: “Các cơ sở y tế phối hợp chặt chẽ với các công ty thuốc đa quốc gia có mục tiêu chính là lợi nhuận, và cơn ác mộng tồi tệ nhất của việc đó sẽ là một đại dịch về sức khỏe. Rất nhiều loại thuốc PHẢI được bán ra. Để đạt được điều này, người ta làm bất cứ điều gì: những lời dối trá, lừa gạt, và tiền lại quả. Các bác sĩ là nhân viên bán hàng chính của các công ty dược. Họ được thưởng bằng các khoản tài trợ nghiên cứu, quà tặng, và đặc quyền xa hoa. Người mua chủ yếu là công chúng – từ trẻ sơ sinh đến người cao tuổi – họ PHẢI được triệt để kê đơn thuốc và tiêm phòng… bằng bất cứ giá nào! Tại sao các nhà chức trách cấm y học thay thế? Bởi vì họ phải phục vụ ngành công nghiệp không thể kiếm tiền với các loại thảo mộc, vitamin và vi lượng đồng căn. Họ không thể cấp giấy phép độc quyền nhãn hiệu cho những phương thuốc tự nhiên. Thế nên họ thúc đẩy thuốc tổng hợp. Họ kiểm soát thuốc men, do đó, họ có thể yêu cầu các trường y được dạy và không được dạy những gì.” Vào tháng 7 năm 2004, bác sĩ Marcia Angell viết một bài báo có tựa đề The Truth About The Drug Companies (Sự thật về các công ty dược). Trong hơn 20 năm, bác sĩ Angell là biên tập viên của tờ New England Journal of Medicine, một trong những tạp chí y khoa uy tín nhất trên thế giới. Bà khẳng định: “Trong hai thập kỷ qua, công nghiệp dược phẩm đã xa rời khỏi mục đích cao cả ban đầu là tìm ra và sản xuất các loại thuốc mới hữu ích. Giờ đây nó chủ yếu là bộ máy tiếp thị để bán thuốc với lợi nhuận không minh bạch, ngành công nghiệp này dùng sức mạnh tiền bạc và quyền lực để tập hợp mọi tổ chức, bao gồm cả Quốc hội Mỹ, FDA, các trung tâm giáo dục y khoa, và các tổ chức y tế chuyên nghiệp… Thực tế ngạc nhiên nhất vào năm 2002 là lợi nhuận của 10 công ty dược trong Fortune 500 (35,9 tỷ đô la) cao hơn so với lợi nhuận của tất cả 490 doanh nghiệp khác cộng lại (33,7 tỷ đô la)”. Điểm mấu chốt của y học chính thống là gì? Theo Webster Kehr: “Tìm một chất tự nhiên chữa được bệnh gì đó, giấu sự thực này đi, sau đó thêm bớt, tổng hợp và biến đổi chất tự nhiên lõi, rồi xin giấy phép độc quyền nhãn hiệu cho biến đổi đó, và tạo lợi nhuận khổng lồ”. Trong cuốn World Without Cancer – The Story of Vitamin B17 (Thế giới không ung thư – câu chuyện về vitamin B17), Edward Griffin viết: “Với hàng tỉ đô la chi phí mỗi năm cho nghiên cứu, thêm hàng tỉ nữa từ doanh thu bán thuốc liên quan đến ung thư, và với biểu quyết nhanh của các chính khách cho các chương trình gia tăng chưa từng có đầy hứa hẹn của chính phủ, ngày nay, chúng ta thấy, nhiều người sống nhờ ung thư hơn là chết vì nó. Nếu điều bí ẩn này được giải quyết bằng vitamin đơn giản, ngành kinh doanh khổng lồ và công nghiệp chính trị này có thể bị quét sạch trong một đêm. Kết quả là khía cạnh khoa học không phức tạp như khía cạnh chính trị trong chữa trị ung thư.” Công nghiệp ung thư tồn tại và phát triển mạnh bằng cách mãi đi tìm “cách chữa” nhưng không bao giờ tìm ra. Sức mạnh của hàng tỷ đô la không hướng đến vịêc tìm kiếm cách chữa bệnh, trừ phi việc chữa trị đó đòi hỏi thuốc được cấp giấy phép độc quyền nhãn hiệu có thể bán với giá cao và bệnh nhân cần phải dùng suốt đời, từ đó tạo ra “nguồn thu nhập” vĩnh cửu. Thế nên, trên thực tế, Công nghiệp ung thư kéo dài mãi mãi sự dối trá và lừa gạt. Sự lừa gạt này to lớn không kể xiết, nó đã kéo dài hơn một thế kỷ, và gây ra cái chết sớm không mong muốn của hàng chục triệu người, trong đó có cha mẹ tôi. Bác sĩ Matthias Rath đoán đúng khi ông nói: “Công nghiệp dược là một ngành công nghiệp đầu tư được thúc đẩy bởi lợi nhuận của các cổ đông. Cải thiện sức khỏe con người không phải là động lực của ngành công nghiệp này… trong lịch sử nhân loại, không có một tội ác nào so bì được với tội diệt chủng được tiến hành bởi các tập đoàn dược vì lợi nhuận đầu tư kinh doanh nhiều tỷ đô la vào bệnh tật.” Bác sĩ, tạp chí y khoa, xung đột lợi ích và lừa gạt Nếu có vấn đề về sức khỏe, tôi rất tin tưởng các bác sĩ sẽ chăm sóc tôi tốt nhất có thể. Nếu bị tai nạn xe hơi và cần phải nối lại một chi, chắc chắn tôi sẽ chạy đến bệnh viện. Người bạn tốt của tôi, bác sĩ Irvin Sahni, là một trong những bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình cột sống tốt nhất trên thế giới. Những quy trình thủ thuật được ông phát triển đều thực sự phi thường. Nếu cách đây 50 năm, nhiều trường hợp trong y học là bản án tử hình, giờ đây lại dễ dàng chữa khỏi nhờ những tiến bộ tuyệt vời trong công nghệ y học. Vài năm trước, tôi đã xem một chương trình truyền hình đặc biệt về y học, ở đó các bác sĩ đã chữa khỏi cho một bé gái bị hội chứng rối loạn thần kinh bằng cách đặt một điện cực trong não của bé. Thực sự tuyệt vời. Tôi đã thấy một trường hợp đặc biệt nữa, các bác sĩ phẫu thuật tái tạo khuôn mặt một phụ nữ mà da mặt đã bị ký sinh trùng phá hủy. Tôi cực kỳ ngạc nhiên! Đây chỉ là một vài ví dụ về những tiến bộ to lớn của công nghệ và phẫu thuật y học trong nửa thế kỷ qua. Thế nhưng, trong khi những tiến bộ đáng kinh ngạc được thực hiện trong nhiều lĩnh vực của y học, thì tầm nhìn của hầu hết các bác sĩ liên quan đến điều trị ung thư đã bị những thông tin sai lệch của bộ máy tuyên truyền ung thư che khuất. Điểm mấu chốt là phần lớn các bác sĩ thực hiện chính xác theo lời mafia y tế và không học cách tư duy độc lập. Hầu hết các bác sĩ vẫn đang suy nghĩ “theo lối mòn” khi bàn đến ung thư. Vấn đề là ở chỗ “lối mòn” ung thư chủ yếu là do Big Pharma tạo ra nhằm cố gắng rao bán các chất độc của họ (chẳng hạn như hóa trị liệu) trong nỗ lực tăng trưởng lợi nhuận cho cổ đông thông qua chi phí của bệnh nhân ung thư. Công nghiệp ung thư được xây dựng trên nền tảng điều trị triệu chứng ung thư, trong khi hầu như không làm gì để điều trị nguyên nhân thực gây ra ung thư hoặc ngăn ngừa nó. Điều này khiến tôi nhớ đến một câu tục ngữ cổ của Trung Quốc: “Bác sĩ giỏi ngăn ngừa bệnh tật; bác sĩ bình thường xử lý bệnh sắp xảy ra; bác sĩ kém chữa thực bệnh”. Tuy nhiên, vấn đề không ở chỗ các bác sĩ… mà là hệ thống. Tôi tin rằng hầu hết các bác sĩ là những người vị tha và thực lòng mong muốn những điều tốt nhất cho bệnh nhân. Tôi tin rằng họ đưa ra quyết định dựa trên những gì họ nghĩ là tốt nhất cho bệnh nhân. “Nghĩ” là từ mấu chốt. Thật không may, hầu hết các bác sĩ ung bướu (bác sĩ ung thư) không hề suy xét các liệu pháp điều trị ung thư không được dạy trong trường y. Như đã đề cập, các bác sĩ cũng chịu đựng nhân tố “không thể”. Họ tin rằng nếu liệu pháp điều trị thay thế thực sự hiệu quả, thì họ không thể tốt nghiệp trường y mà không được học các phác đồ này. Nói cách khác, hầu hết các bác sĩ có xu hướng tin rằng không chỉ những gì họ được dạy phải đúng sự thật, mà còn tin rằng những gì họ không được dạy là không quan trọng! Họ đã bị tẩy não để tin rằng các liệu pháp điều trị hữu hiệu duy nhất cho ung thư là hóa trị, phẫu thuật, và xạ trị. Có khả năng họ hầu như không biết gì về dinh dưỡng hoặc các liệu pháp điều trị ung thư thay thế và tin tưởng tuyệt đối rằng những người thực hành liệu pháp thay thế chỉ là “lang băm”. Hãy hỏi bác sĩ của bạn về liệu pháp axit amin, hoặc liệu pháp enzymee, hoặc liệu pháp ô zôn. Hãy sẵn sàng chịu trừng phạt và/hoặc cười nhạo cho sự “ấu trĩ” của bạn. Bác sĩ của bạn tiếp tục việc học tập của mình ở đâu? Từ những tạp chí y khoa “uy tín”; như bạn thấy, những cuốn rất nổi bật bày biện trên tủ. “Thật tốt đẹp khi nghĩ về các tạp chí y học như những thành trì chí công vô tư của sự thật và tri thức, nhưng trên thực tế, đó là tổ chức kinh doanh và làm ra tiền, trong nhiều trường hợp, từ quảng cáo của công ty thuốc, và cũng từ các ấn phẩm bóng nhoáng những bài viết có lợi cho thuốc. Thật thú vị, một số cựu biên tập viên và cựu lãnh đạo của những tạp chí y khoa lớn, Richard Smith của BMJ, Richard Horton của Lancet, và cũng có một vài cựu Tổng biên tập của New England Journal of Medicine đã viết sách và phát biểu mạnh mẽ về tác động hữu ích của công ty dược phẩm lên xuất bản y tế. Có những xung đột mạnh mẽ trên tạp chí về công bố những bài viết có lợi cho công ty dược để thu về hàng trăm ngàn đô la doanh số bán thuốc nhờ in lại các bài viết có lợi và cũng làm cho các công ty dược vừa lòng để họ tiếp tục đăng quảng cáo”. – Bác sĩ Beatrice Golomb (trong một cuộc phỏng vấn với bác sĩ Joseph Mercola 6/12/2010). Tạp chí y khoa rất có thể là những nguồn duy nhất để bác sĩ theo kịp với những bước phát triển mới trong lĩnh vực y tế. Những tạp chí này làm ra vẻ khách quan, khoa học và liêm khiết, nhưng thực tế là họ không muốn xa lánh các nhà quảng cáo của họ – Big Pharma. Những quảng cáo thuốc kín trang trong những tạp chí y khoa hàng đầu tiêu tốn hàng triệu đô la! Năm 2004, bác sĩ Richard Horton, biên tập viên của tạp chí Lancet đã viết: “Tạp chí đã phân cấp thành những hoạt động rửa thông tin cho công nghiệp dược phẩm”. Tôi đồng ý 100% với bác sĩ Golomb. Nghĩ mà xem. Các biên tập viên của những tạp chí y khoa đó có thể thiếu cá tính, nhưng họ chẳng ngu ngốc. Họ biết ai “phết bơ bánh mì của họ”. Theo số liệu của bác sĩ Golomb, Big Pharma hiện chi 18,5 tỷ đô la mỗi năm cho các bác sĩ để thúc đẩy các loại thuốc. Đồng nghĩa với 30.000 đô la mỗi năm cho mỗi bác sĩ ở Mỹ! Nhưng ai đó có thể hỏi: “Các tạp chí y học có được bình duyệt chuyên gia không?” Thực tế là gian lận và lừa đảo trong bình duyệt chuyên gia cho các tạp chí y khoa diễn ra rất phổ biến. Ví dụ năm 1987, tờ New England Journal of Medicine (NEJM) có bài viết về nghiên cứu của bác sĩ R. Slutsky trong khoảng thời gian bảy năm. Trong thời gian đó, Slutsky đã công bố 137 bài báo trên một số tạp chí y khoa đã được bình duyệt chuyên gia. Tờ NEJM tiết lộ chứng cứ rằng 60 bài trong 137 bài viết này (44%) là “xuyên tạc thực tế” hoặc “lừa gạt trắng trợn”. Tiếp đó là hiệu ứng domino diễn ra khi những thông tin ngụy tạo của các tạp chí khoa học được các nhà nghiên cứu khác trích dẫn, họ lại tái trích dẫn, v.v.. Một ví dụ điển hình được phát hiện vào năm 2010 và được coi là “gian lận nghiên cứu lớn nhất trong lịch sử y học”. Bác sĩ Scott Reuben, một cựu thành viên của văn phòng phát ngôn của Pfizer, đã nhận tội giả mạo hàng chục nghiên cứu công bố trên các tạp chí y học. Reuben đã nhận một khoản trợ cấp 75.000 đô la từ Pfizer để nghiên cứu Celebrex năm 2005 và công bố “nghiên cứu” của mình trong một tạp chí y học. Sau đó, các hiệu ứng domino bắt đầu xảy ra khi hàng trăm bác sĩ và các nhà nghiên cứu bắt đầu trích dẫn nghiên cứu của ông như “bằng chứng” rằng Celebrex giúp giảm đau trong quá trình phục hồi sau phẫu thuật. Chỉ có một vấn đề với toàn bộ việc này là: Không có bệnh nhân nào từng được đưa vào nghiên cứu! Đúng thế… ông ta đã làm giả toàn bộ nghiên cứu và vẫn công bố nó. Theo Wall Street Journal, Reuben cũng làm giả dữ liệu nghiên cứu về Vioxx, một loại thuốc mà FDA thừa nhận đã gây ra hơn 50.000 ca tử vong! Nhìn chung, Reuben đã giả mạo tổng cộng 10 tài liệu “khoa học” và 21 bài viết đăng trên các tạp chí y học. Hóa ra, Reuben đã giả mạo dữ liệu nghiên cứu trong hơn 13 năm. Nhưng Reuben chỉ là phần nổi của tảng băng. Bạn đã nghe nói về bác sĩ Hwang Woo-suk chưa? Nhà khoa học Hàn Quốc lừng danh (nhưng bây giờ thì bị ghét bỏ) đã chứng kiến danh tiếng rực rỡ của mình tàn lụi nhanh chóng khi thẩm định chuyên gia phát hiện ra rằng nghiên cứu đã công bố của ông về nhân bản tế bào gốc, được cho là mang tính đột phá, thực ra là lừa đảo… Ở Na Uy, Jon Sudbo, một nhà nghiên cứu tại Trung tâm ung thư toàn diện Na Uy, đã thừa nhận bịa đặt kết quả nghiên cứu để chỉ ra các thuốc giảm đau OTC (không cần đơn bác sĩ) phổ biến (như ibuprofen) giảm nguy cơ mắc ung thư miệng. Thì ra nghiên cứu Sudbo công bố trên tạp chí y học uy tín của Anh The Lancet là hư cấu hoàn toàn. Sudbo “bịa ra” 454 bệnh nhân ung thư miệng trong nghiên cứu của mình. Một trường hợp gần đây nữa về gian lận y tế, vụ này ở Mỹ, liên quan đến Eric T. Poehlman, nhà nghiên cứu hàng đầu về bệnh béo phì, rõ ràng đã bịa đặt dữ liệu trong các tạp chí y học và trong các đơn xin tài trợ liên bang khi làm việc tại Đại học Vermont. Theo Boston Globe, Poehlman đã thay đổi và bịa ra các kết quả nghiên cứu từ năm 1992 đến năm 2002, trong giai đoạn đó, ông ta đã công bố hơn 200 bài viết. Mười năm trước, tôi có thể đã bị sốc bởi câu chuyện này, nhưng giờ thì không. Từ hàng ngàn giờ nghiên cứu, tôi biết rằng đây là quy trình hoạt động tiêu chuẩn của mafia y tế. Gian lận trong nghiên cứu đã xảy ra trong nhiều thập kỷ rồi. Một ví dụ nổi tiếng trong quá khứ là việc nhà nghiên cứu của Viện Ung thư Sloan-Kettering – bác sĩ William Summerlin, người vào năm 1974 đã lấy bút đen tô lên lông chuột bạch để cố chứng minh rằng liệu pháp điều trị ghép da mới của ông hiệu quả. Bạn có biết có một yêu cầu quy chuẩn đối với tất cả tạp chí y học rằng bất kỳ mối quan hệ tài chính nào giữa tác giả và nhà sản xuất đều phải công khai trong bài viết không? Đúng thế. Tuy nhiên, chúng ta đang sống trong thế giới thực, nơi điều này gần như không bao giờ xảy ra. Ví dụ, vào năm 1998, bác sĩ Henry T. Stelfox tiết lộ rằng 23 trong 24 tác giả (96%) ủng hộ tính an toàn của thuốc chẹn dòng canxi, đã có quan hệ tài chính với các công ty Big Pharma sản xuất ra chính những thuốc đó! Một bài báo gây ngạc nhiên vào ngày 5 tháng 2 năm 2006, do tạp chí PLoS Medicine phát hành đã kết luận: “Tính chất học thuật của các tạp chí mang lại uy tín cho cả các bài báo và quảng cáo trong các trang của tạp chí. Bằng những quảng cáo độc quyền tính năng đặc biệt cho các loại thuốc và thiết bị, tạp chí y học ngầm ủng hộ doanh nghiệp quảng bá cho các sản phẩm có lợi nhuận cao nhất. Quảng cáo và những thu xếp tài chính với các công ty dược phẩm làm ảnh hưởng tới tính khách quan của các tạp chí. Nghĩa vụ chính của công nghiệp dược là kiếm tiền cho các cổ đông. Nghĩa vụ chính của tạp chí là cung cấp thông tin cho các bác sĩ và bệnh nhân, những người phụ thuộc vào độ chính xác của thông tin trong các ấn phẩm này. Tạp chí y khoa không nên chấp nhận quảng cáo từ các công ty dược phẩm, các công ty thiết bị y tế, hoặc các ngành khác có liên quan đến y học.” Một báo cáo gây choáng váng được công bố trên BMJ tháng 6 năm 2010 cho thấy các nhà khoa học hàng đầu đã thuyết phục Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công bố đại dịch toàn cầu H1N1 (còn gọi là “cúm heo”) có mối quan hệ tài chính chặt chẽ với các công ty Big Pharma về lợi nhuận từ việc bán những loại vắc-xin đó. Báo cáo này được Deborah Cohen (biên tập viên của BMJ) và Philip Carter thực hiện (nhà báo của London Bureau of Investigation Journalism – Cơ quan điều tra báo chí London) đã phơi bày các mối quan hệ mờ ám khiến WHO tuyên bố đại dịch, dẫn đến hàng tỷ đô la lợi nhuận cho các nhà sản xuất vắc-xin Big Pharma. Trong khi toàn bộ “thủ đoạn” H1N1 đang hiện hữu, WHO lại từ chối tiết lộ mọi xung đột lợi ích giữa các cố vấn hàng đầu của mình và các công ty Big Pharma kiếm hàng tỷ dựa trên những quyết định đó. Nói cách khác, tất cả lại quả đã được “đưa dưới gầm bàn”. Không thể tin nổi, đáp lại báo cáo của BMJ, Tổng thư ký WHO (bác sĩ Margaret Chan) đã bảo vệ bí mật và nói rằng WHO chủ ý giữ các mối quan hệ tài chính bí mật để “…bảo vệ tính toàn vẹn và độc lập của các thành viên trong khi làm công việc quan trọng này… [và] cũng để đảm bảo tính minh bạch”. Vậy, hãy để tôi nói thẳng điều này – họ “giữ bí mật” để “đảm bảo minh bạch” sao? Liệu điều đó có mâu thuẫn chăng? Tôi tin rằng George Orwell sẽ gọi đó là “nói nước đôi”. Bạn còn nhớ nghiên cứu mà tôi đã đề cập trước đây kết luận các tài liệu quảng cáo gửi đến các bác sĩ từ các công ty dược phẩm hoàn toàn không có cơ sở thực tiễn khoa học? Nghiên cứu cho thấy hầu như tất cả các dữ liệu trong tài liệu quảng cáo khuyến mại của Big Pharma đều thiếu chính xác hoặc bị thổi phổng. Nói cách khác, tất cả chúng chứa đựng những lời nói dối. Điều đáng sợ là hầu hết các bác sĩ dựa vào thông tin trong các tài liệu quảng cáo khi đưa ra quyết định kê đơn thuốc cho bệnh nhân. Họ mù quáng tin tưởng vô căn cứ rằng Big Pharma tham gia nhiều nghiên cứu khoa học cũng như thử nghiệm lâm sàng nghiêm ngặt, họ đọc tài liệu quảng cáo, tin những lời nói dối, và sau đó kê đơn cho bệnh nhân. Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ (JAMA) đưa tin trong tháng 2 năm 2002 rằng có 87% bác sĩ tham gia việc thành lập hướng dẫn quốc gia về bệnh tật có quan hệ tài chính với Big Pharma. Trong số ra ngày 26 tháng 7 năm 2000 của JAMA, bác sĩ Barbara Starfield ghi nhận hơn 225.000 người chết mỗi năm là do lỗi y tế và nguyên nhân tử vong được xem là “do điều trị” (iatrogenic). “Do điều trị” nghĩa là gì? “Iatro” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, “iatros” là y tế hoặc thuốc, trong khi “genic” bắt nguồn từ “genesis” có nghĩa là nguồn gốc. Một nghiên cứu của giáo sư Đại học Harvard Lucian Leape cho thấy một triệu bệnh nhân bị thương tổn do sai sót trong khi điều trị tại bệnh viện hằng năm, với khoảng 120.000 ca tử vong. Cứ 200 bệnh nhân tại các bệnh viện ở bang New York thì có một bệnh nhân tử vong do điều trị. Viện dinh dưỡng Mỹ tài trợ cho một báo cáo độc lập về thuốc được “chính quyền phê duyệt” công bố vào năm 2006. Các giáo sư Gary Null và Dorothy Smith, cùng với các bác sĩ Carolyn Dean Martin Feldman và Debora Rasio đặt tiêu đề báo cáo là “Tử vong do y học”. Trong báo cáo này, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng nguyên nhân tử vong hàng đầu ở Mỹ không phải là bệnh tim hay ung thư – mà đó là thuốc chính thống. Họ nhận thấy số ca tử vong do điều trị ở Mỹ (tử vong gây ra bởi các bác sĩ và/hoặc liệu pháp điều trị y tế) là 783.936 người một năm! Thử so sánh, chỉ có 31.940 trường hợp tử vong do vũ khí mỗi năm, 19.766 trong số đó là tự tử. Vậy, điều gì đằng sau những sự cố dẫn đến tử vong “do điều trị”? Lợi nhuận và chính trị - đơn giản và dễ hiểu. Theo lời của Robert Scott Bell, y học hiện đại đã trở thành “Hội Thánh của sinh học thần bí”. Tôi hoàn toàn tán thành. Tính chất nguy hiểm của “hội thánh” ngụy khoa học này thật dễ thấy mỗi khi các bác sĩ đình công. Năm 1976, ở Bogota, Columbia, trong khoảng thời gian 52 ngày hoàn toàn không có bác sĩ, ngoại trừ cấp cứu, tỷ lệ tử vong đã giảm xuống 35%. Đến cuộc đình công khác của bác sĩ trong năm 1976 ở Los Angeles, tỷ lệ tử vong giảm 18%. Trong năm 1973, có một cuộc đình công của bác sĩ ở Israel. Theo thống kê, tỷ lệ tử vong giảm 50%. Một đánh giá năm 2008 công bố trên tạp chí danh tiếng Social Science & Medicine đã phân tích năm sự vụ riêng biệt, trong đó bác sĩ đình công dẫn đến giảm tỷ lệ tử vong. Rất lúng túng, họ cố đổ lỗi cho việc không có những phẫu thuật không cần thiết, nhưng cuối cùng, họ buộc phải thừa nhận rằng “các tài liệu cho thấy tỷ lệ tử vong giảm có thể là kết quả của các cuộc đình công”. Năm 1966, trong cuốn Annals of Internal Medicine (Biên niên sử về nội khoa), hai bác sĩ Beaty và Petersdorf viết: “Chồng chất những vấn đề do điều trị và trong nỗ lực thoát khỏi những rắc rối của chẩn đoán và điều trị, bác sĩ có thể làm vấn đề tệ hơn khi sử dụng những kỹ thuật đầy rủi ro.” Diễn giải: Các bác sĩ đôi khi thực hiện những quy trình rủi ro hoặc kê các loại thuốc độc hại để che giấu những vấn đề gây ra bởi thuốc độc hại và những quy trình rủi ro được họ tiến hành trước đó. Bạn hiểu ra vấn đề chưa? Các bác sĩ thật nguy hiểm! Có vẻ như cách tốt nhất để giảm tử vong là sa thải bác sĩ. Một lần nữa, cho phép tôi nhắc lại, tôi không nói cá nhân các bác sĩ có vấn đề. Hầu hết các bác sĩ tôi biết đều là những người thực sự nhân đức muốn giúp bệnh nhân của họ. Vấn đề là hệ thống. Hầu hết sinh viên y khoa không có lý do để nghi ngờ những kiến thức được dạy, còn nếu người nào dám hỏi những câu gây khó chịu, họ sẽ bị chế nhạo. Những bác sĩ trẻ muốn thành công biết rằng họ phải duy trì lòng trung thành mù quáng với “chân lý bền vững”. Một bác sĩ làm điều ngược lại sẽ sớm thấy mình chìm trong hố sâu và phải vật lộn để tồn tại! Để thành công, một bác sĩ phải tôn trọng sai lầm của người đi trước, giữ vững tín điều của thầy mình và đóng tâm trí lại trước những lý thuyết “bên ngoài lối mòn”. Trớ trêu thay, y học là lĩnh vực không có chỗ cho những ý kiến phản đối hiện trạng. Các bác sĩ không thể cảnh báo bạn về những gì bản thân họ không biết, và họ có ít thời gian trau dồi một khi bắt đầu hành nghề y. Về một ý nghĩa nào đó, họ đang bị giam giữ bởi một hệ thống không khuyến khích họ thu thập thông tin một cách độc lập và hình thành ý kiến của riêng mình. Nói thẳng, hầu hết các bác sĩ bị tẩy não để chỉ suy nghĩ “bên trong lối mòn” và áp lực xã hội níu giữ họ ở đó. Không như nhiều nước khác, Mỹ chỉ hỗ trợ một loại y học, đó là y học chính thống. Bởi thế, nhiều người Mỹ, gồm cả cha mẹ tôi, đã bị từ chối nhiều sự lựa chọn y tế quan trọng. Theo bác sĩ Alan Levin: “Bác sĩ gia đình của bạn không được tự do lựa chọn liệu pháp điều trị mà họ cảm thấy tốt nhất cho bạn, họ phải tuân theo mệnh lệnh ban hành bởi các bác sĩ mà động cơ và mối liên kết của họ làm cho quyết định của bác sĩ có thể không vì lợi ích tốt nhất của bạn.” Một số ít bác sĩ dám đặt câu hỏi về hiện trạng thì thường xuyên bị tẩy chay và ngăn cản. Bạn nên biết rằng bác sĩ có nguy cơ bị ngồi tù và thu hồi giấy phép hành nghề y vì đề xuất hoặc sử dụng các liệu pháp điều trị ung thư thay thế, mặc dù thực tế có bằng chứng khoa học mạnh mẽ chứng minh tính hiệu quả của những phương pháp này. Các bác sĩ dám cung cấp cho bệnh nhân niềm hy vọng mới và những liệu pháp điều trị mới sẽ bị khinh miệt, ngược đãi, quấy rầy, phỉ báng, ép buộc phải đi trốn và/hoặc dọa dẫm bỏ tù. Ví dụ, bác sĩ Stanislaw Burzynski ở Houston, Texas sử dụng thuốc chống ung thư không độc hại để điều trị thành công ung thư não, u lympho ác tính phi Hodgkin và nhiều loại ung thư phổ biến. Luật sư của FDA đã dành hàng chục triệu đô la và gần hai thập kỷ tìm cách tống bác sĩ Burzynski vào tù. FDA có hồ sơ theo dõi những cuộc khám xét bất ngờ văn phòng của những người thực hành liệu pháp điều trị thay thế, tiêu hủy hồ sơ y tế của họ và thậm chí đưa họ vào tù. Ngoài ra, nhiều bác sĩ sợ các vụ kiện tốn kém, mất nhiều thời gian và hãng bảo hiểm có thể bỏ rơi họ nếu họ sử dụng liệu pháp điều trị thay thế. Hội đồng y tế tiểu bang có thể phạt và thu hồi giấy phép của họ. Và hãy nhớ, bác sĩ cũng là con người. Do thực tế là các vị bác sĩ khác sẽ công khai chế nhạo họ nếu họ sử dụng liệu pháp điều trị thay thế, nhiều bác sĩ không chịu nổi phải kê đơn theo Big 3 là do áp lực của đồng nghiệp. Nhóm quan liêu rối ren gồm chính trị gia, luật sư, giám đốc điều hành và các tập đoàn quốc tế khổng lồ đang nắm quyền kiểm soát hệ thống chăm sóc sức khỏe, và chính họ là người ra lệnh liệu pháp điều trị ung thư nào được phép và những liệu pháp nào không được phép. Các bác sĩ về cơ bản bị bỏ rơi trong bóng tối khi nói đến hoạch định chính sách liên quan đến liệu pháp điều trị ung thư. Điểm cốt yếu: Đừng hy vọng một bác sĩ có suy nghĩ “theo lối mòn” chống lại hệ thống. Quá nhiều rủi ro. Thuốc kê đơn Bạn có biết thuốc kê đơn giết chết hơn 100.000 người Mỹ mỗi năm? Đó là con số từ trang web của chính FDA. Giả sử con số 100.000 mỗi năm là tương đối ổn định và không tăng nhanh hoặc giảm nhanh, thì kể từ ngày 11 tháng 9 năm 2001 đã có hơn một triệu người chết do phản ứng bất lợi của thuốc! Chúng ta chưa bao giờ ngưng cuộc thập tự chinh chống vũ khí chiến tranh (trong khi tử vong do tai nạn súng đạn giảm xuống còn khoảng 600 ca mỗi năm) và chi hàng tỷ đô la vào các máy soi, quấy rối tình dục và gây khó dễ cho hành khách tại các sân bay. Trong suốt thời gian đó, FDA và Big Pharma tiếp tục đưa các loại thuốc độc hại, nguy hiểm ra thị trường. Theo Ethan Huff, cây bút của NaturalNews.com: “Nếu al-Qaeda bị bắt vì đã thải hóa chất độc hại giả dạng thuốc cho thường dân vô tội, chúng sẽ được gửi thẳng đến vịnh Guantanamo không cần xét xử và bị giam vô thời hạn. Nhưng khi FDA làm điều tương tự trên quy mô lớn hơn nhiều, chẳng ai mảy may để ý. Tuy nhiên số người bị FDA giết bằng thuốc của họ nhiều hơn gấp bội so với số người thiệt mạng trong vụ 9/11 hoặc vụ ném bom ở thành phố Oklahoma. Và đến khi nào người dân Mỹ còn chưa đồng loạt thức tỉnh về thực tế này, chúng ta vẫn còn tiếp tục chứng kiến bạn bè, gia đình và con cái phải chịu những hủy hoại của cuộc tấn công khủng bố đang tiếp diễn này và bị tàn phá dưới bàn tay của Big Pharma và FDA.” Tôi đồng tình với Ethan. Bạn có biết thuốc kê đơn gây thương tổn hơn hai triệu người Mỹ mỗi năm không? Đây là điều cần chú ý! Khi đi khám bác sĩ và thậm chí chỉ cầm một đơn thuốc, là bạn đang đánh cược với thuốc và bước vào cái bẫy của Big Pharma. Cách duy nhất để giành chiến thắng canh bạc này và thực sự phục hồi sức khỏe là từ bỏ tất cả thuốc kê đơn và thực hiện những thay đổi thiết yếu về chế độ ăn uống và lối sống. “Thế thì thuốc kê đơn không làm nên phép lạ cho sức khỏe con người sao? Chúng không làm cho chúng ta khỏe mạnh hơn sao?” Vâng, nếu xem 30 phút truyền hình vào giờ cao điểm, chắc chắn bạn sẽ thấy một loạt quảng cáo tuyên bố “sự thật tuyệt đối” của thuốc kê đơn, lớn tiếng tuyên bố chúng có thể làm điều kỳ diệu cho con người, chẳng hạn như giúp đỡ người bị trầm cảm, giảm cholesterol, tăng ham muốn tình dục, loại bỏ dị ứng, làm dịu cơn quấy của trẻ, và đảo ngược bệnh loãng xương. Nếu thuốc kê đơn rất tốt cho chúng ta, vậy hãy để tôi hỏi bạn một câu: “Tất cả những người ‘khỏe mạnh’ với thuốc đang ở đâu?” Thực sự không có ai, phải không? Nếu thuốc kê đơn tốt cho chúng ta, thì sẽ có hàng trăm triệu người Mỹ đang dùng thuốc kê đơn có tinh thần vững mạnh, thân thể tráng kiện, tràn đầy năng lượng? Vâng, những người này đang ở đâu? Thông thường, khi gặp ai đó đang uống nhiều loại thuốc kê đơn, họ có tinh thần uể oải, biểu hiện ốm yếu, thường xuyên mệt mỏi, cảm xúc không ổn định và chán nản. Nếu bạn đi xuống chợ ở địa phương và gặp những người khỏe mạnh nhất mà bạn thấy, bạn thử hỏi thuốc kê đơn nào là nguyên nhân cho sức khỏe của họ? Sau chút sửng sốt và bối rối, họ sẽ nói với bạn rằng họ không dùng thuốc kê đơn! Điểm mấu chốt là thuốc kê đơn làm cho người ta bệnh nặng hơn. Đây là lý do: Trong quá trình phát triển, thuốc kê đơn được thiết kế để nhắm tới mục tiêu đo lường một chỉ số duy nhất, chẳng hạn như mức cholesterol. Hãy xem xét thuốc statin làm ví dụ. Statin làm giảm cholesterol LDL, cơ chế thực hiện việc này có vấn đề. Nó làm giảm cholesterol bằng cách ức chế khả năng gan tạo ra tất cả các loại cholesterol, kể cả cholesterol HDL. Vì vậy, trong khi statin có thể ảnh hưởng tích cực đến một chỉ số, thì nó lại phá vỡ chức năng sinh lý của cơ thể theo nhiều cách khác. Có hơn 900 nghiên cứu chứng tỏ tác dụng phụ của statin, bao gồm thiếu máu, ung thư, mệt mỏi mạn tính, nhiễm a xít, rối loạn chức năng gan, rối loạn tuyến giáp, Parkinson, Alzheimer và thậm chí cả tiểu đường! Tất nhiên, toàn bộ “kế hoạch bấp bênh” về statin bắt đầu sụp đổ nhanh chóng một khi bạn nhận ra rằng công chúng ngây thơ về khoa học đang bị lừa bịp về mối tương quan không đúng giữa cholesterol “xấu” (LDL) cao và bệnh tim mạch. Bạn thấy đấy, cholesterol được vận chuyển bởi lipoprotein mật độ thấp (LDL) hay lipoprotein mật độ cao (HDL) giống hệt nhau. Cholesterol chỉ đơn giản là một thành phần cần thiết phải thường xuyên được cung cấp đi khắp cơ thể để giúp phát triển, nuôi dưỡng các tế bào. Đó là điều quan trọng đối với sức khỏe. Quan trọng nhất, cholesterol có lẽ là một thành phần thiết yếu trong bộ máy khởi sự quá trình giải phóng chất dẫn truyền thần kinh trong não. Đúng vậy. Cholesterol không phải là “kẻ xấu” như mafia y tế tuyên bố. Và cholesterol cao không phải là nguyên nhân gây ra bệnh tim mạch! Theo nghiên cứu gần đây tại Đại học Harvard, nguyên nhân chính của xơ vữa động mạch là những tổn thương và mảng bám trong động mạch do đường gây ra, đường là nguyên nhân giải phóng insulin. Insulin gây ra các tổn thương ở lớp nội mạc của động mạch và rồi bị tắc nghẽn bởi cholesterol. Vì vậy, cholesterol bị đổ lỗi, nhưng thủ phạm thực sự là đường. Cholesterol thực ra là “cơ cấu sửa chữa” của cơ thể để sửa chữa những hư hại động mạch do dư thừa đường trong chế độ ăn uống. Loại bỏ đường tinh luyện ra khỏi chế độ ăn uống và bạn sẽ không có bất kỳ vấn đề nào về tim mạch. Nói về cholesterol thế là đủ rồi, hãy trở lại với thuốc kê đơn. Khi bệnh nhân bắt đầu có thêm vấn đề gây ra bởi thuốc kê đơn thì họ làm gì? Họ quay trở lại bác sĩ và bác sĩ chẩn đoán họ mắc bệnh khác nữa hoặc bị rối loạn. Và rồi, bác sĩ cho họ thêm một đơn thuốc để giúp “ổn định” các vấn đề do thuốc đầu tiên gây ra. Đây chính xác là những gì Big Pharma mong muốn – các bác sĩ bán thêm cho bệnh nhân thuốc kê đơn đắt hơn! Đó là “cái bẫy của Big Pharma”. Đó là “đánh cược với thuốc”. Kết quả là gì? Thu nhập trên mỗi cổ phiếu cao hơn! Tất nhiên rồi! Và chu kỳ tiếp tục… hết đơn thuốc này đến đơn thuốc khác, như những toa chở hàng trên một chuyến tàu. Cuối cùng, bệnh nhân bị suy sụp và đau đớn (hoặc chết) bởi hóa chất độc hại từ thuốc kê đơn. Khi uống thuốc kê đơn thời gian dài, chắc chắn rằng bạn sẽ trở nên tồi tệ hơn so với lúc bắt đầu. Tôi không nói rằng thuốc kê đơn hoàn toàn vô ích. Có một số tình huống thuốc kê đơn rất hữu ích trong ngắn hạn. Tuy nhiên, đây không phải là cách mà những thuốc này đang được đẩy mạnh hiện nay. Do văn hóa tham lam tại Big Pharma và thiếu đạo đức phổ biến của họ, thuốc kê đơn đang được “thúc đẩy” như thuốc cả đời. Big Pharma có thể giành được “sự phù hộ” của FDA cho thuốc mới nhất của họ vì những thử nghiệm lâm sàng chỉ tập trung vào một dấu hiệu trong khi về cơ bản bỏ qua những tác động bất lợi lên toàn cơ thể của thuốc. Mục tiêu của họ là tác động tích cực vào một triệu chứng cụ thể, để được FDA chấp thuận càng nhanh càng tốt. Nghĩa là hàng ngàn dấu hiệu để nhắm tới và nếu một loại thuốc kê đơn có thể thay đổi tích cực chỉ một trong các dấu hiệu (không giết quá nhiều người trong thử nghiệm lâm sàng), sau đó có khả năng FDA sẽ phê duyệt thuốc, mặc dù thiếu bằng chứng về tác dụng hệ thống của thuốc lên các chức năng khác của cơ thể. Đây chỉ là một trong nhiều vấn đề với thuốc kê đơn vì tất cả các loại thuốc đều có tác dụng lên toàn bộ cơ thể. Rất nhiều hiệu ứng có hại khác mà thuốc có thể gây ra cho cơ thể người nhưng phần lớn đã bị bỏ qua. Vì thuốc kê đơn có tác dụng hệ thống, nên tất cả đều có tác dụng phụ có hại. Khi những người tham gia thử nghiệm lâm sàng bắt đầu cho thấy những tác dụng phụ, họ thường được miễn thử nghiệm để đảm bảo rằng các kết quả thử nghiệm về loại thuốc kỳ diệu mới nhất đều tích cực. Ví dụ, trong quá trình thử nghiệm lâm sàng cho Vioxx, những bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim do thuốc bị loại ra khỏi kết quả thử nghiệm và thực tế này đã bị giấu kín. Đây là quy trình vận hành tiêu chuẩn của mafia y tế và là cách duy nhất mà các loại thuốc cực độc được phê duyệt và coi là “an toàn”. Bạn tôi – Mike Adams, đã báo cáo rằng một số thuốc kê đơn được nâng giá kinh hoàng – 500.000% so với chi phí nguyên liệu thô (không, đây không phải lỗi in ấn) và một khoản lớn trong số tiền đó xoay vòng vào bộ máy truyền thông khổng lồ. Big Pharma tuyên bố rằng họ cần những chi phí cắt cổ đó để đầu tư vào nghiên cứu phát triển, nhưng trong thực tế, họ chi tiêu nhiều hơn gấp bội vào quảng cáo. Theo Adams, “Hệ thống y tế hiện đại của chúng ta là giả tạo. Một hệ thống quảng cáo thuốc hợp pháp do Big Pharma chi phối. Tính khoa học phần lớn bị bóp méo (và thường là giả mạo trắng trợn), đạo đức hoàn toàn biến mất và cái giá lâu dài của tất cả điều này sẽ rất lớn.” Mike hoàn toàn chính xác. Dưới đây là một vài câu chuyện khiến bạn bất ngờ. Tháng 8 năm 2012, Eli Lilly thừa nhận chi thưởng cho bác sĩ hơn 200 triệu đô la. Quý đầu năm 2012, Eli Lilly đồng ý chi trả 1,4 tỷ đô la để giải quyết các cáo buộc hình sự và dân sự của việc quảng cáo thuốc chưa được phê duyệt. Do Eli Lilly đã biết Zyprexa gây ra bệnh tiểu đường mà không cho bệnh nhân biết điều này, họ đã phải giải quyết rất nhiều vụ kiện về “việc không chịu cảnh báo” với tổng giá trị 1,2 tỷ đô la. Trong năm 2012, Eli Lilly đã đồng ý chi một khoản 1,42 tỷ đô la, trong đó 615 triệu đô la để giải quyết điều tra hình sự của Bộ Tư pháp và khoảng 800 triệu đô la để giải quyết các cuộc điều tra dân sự về tội gian lận tiền hỗ trợ y tế. Tháng 6 năm 2012, một tòa án Ý đã phán quyết vắc-xin MMR của Merck gây ra chứng tự kỷ ở một cậu bé 10 tuổi. Kết quả là, một tòa án ở Rimini, Ý quyết định cấp cho gia đình tiền trợ cấp hằng năm trong 15 năm với tổng giá trị 174.000 euro (gần 220.000 đô la). Tháng 7 năm 2012, hai nhà nghiên cứu khoa vi-rút học đã đệ đơn kiện lên liên bang chống lại Merck (chủ trước đây của họ) cáo buộc Merck đã làm sai lệch dữ liệu thử nghiệm để tạo ra tỷ lệ hiệu quả của vắc-xin là 95% hoặc cao hơn, pha vào máu thử nghiệm các kháng thể động vật để thổi phồng giả tạo sự xuất hiện kháng thể của hệ miễn dịch, gây áp lực để họ “tham gia các gian lận và che đậy hậu quả”, sử dụng kết quả thử nghiệm giả mạo để đánh lừa chính phủ Mỹ về “hàng trăm triệu đô la cho loại vắc-xin không cung cấp chủng ngừa tương ứng” và đe dọa các nhà khoa học, dọa dẫm tống họ vào tù, trừ khi họ im lặng. Tháng 7 năm 2012, trong vụ gian lận được coi là lớn nhất từ trước đến nay trong ngành công nghiệp dược, GlaxoSmithKline thú nhận tội hối lộ, gian lận và những tội khác và chấp nhận trả 1 tỷ đô là tiền phạt hình sự, 2 tỷ đô la tiền phạt dân sự. Theo các nhà điều tra liên bang Mỹ, GlaxoSmithKline (GSK) thường xuyên hối lộ các bác sĩ bằng các kỳ nghỉ xa xỉ và thanh toán hợp đồng diễn thuyết, ngụy tạo dữ liệu an toàn thuốc và nói dối FDA. GSK có một “mạng lưới tham nhũng” gồm 49.000 bác sĩ nhận tiền lại quả để kê nhiều thuốc của Glaxo cho bệnh nhân. Năm 2012, Pfizer đã đồng ý trả 2,3 tỷ đô la để giải quyết trách nhiệm hình sự và dân sự do quảng cáo bất hợp pháp thuốc chưa được phê duyệt Bextra (một loại thuốc giảm đau đã bị rút khỏi thị trường), Geodon (giống Zyprexa, một thuốc điển hình chống loạn thần kinh gây hại cho trẻ em), Zyvox (kháng sinh), và Lyrica (một loại thuốc động kinh). Chương 3: KHỦNG BỐ & ĐÀN ÁP “Những liệu pháp điều trị ung thư tự nhiên luôn bị đàn áp còn những nhà trị liệu có tiếng tăm thì bị khủng bố. Vấn nạn này diễn ra nhiều nhất chính tại nước Mỹ.” – Walter Last Thưa các bạn, đó là sự thật Sự đàn áp và bức hại đối với y học tự nhiên đã và đang tồn tại trong gần một thế kỷ qua là một thực tế. Ai nghi ngờ điều này hoặc là không để tâm hoặc là cố tình nói dối. Lịch sử không thiếu những ví dụ về các nhà tư tưởng độc đáo bị khinh miệt, chế giễu, hủy hoại và bị bỏ tù vì dám nghĩ khác với lối mòn cũng như cả gan đe dọa nguyên trạng và quyền lực của mafia y tế. Daniel Haley đã viết một cuốn sách tuyệt vời có tựa đề Politics in Healing: The Suppression and Manipulation of American Medicine (Chính trị trong chữa bệnh: Sự đàn áp và thao túng của Y tế Mỹ), trong đó ông chứng minh rằng các cơ quan chính phủ bao gồm FDA, NCI và FTC đã đàn áp một cách có hệ thống các liệu pháp điều trị ung thư hiệu quả và sự đàn áp đó vẫn còn tiếp diễn cho đến ngày nay. Cựu dân biểu tiểu bang New York, người đã dành cả cuộc đời nghiên cứu sức khỏe và chữa bệnh ở Mỹ, ngài Haley, là người đàn ông duy nhất có thể kể câu chuyện về thói tham lam tai hại và ảnh hưởng chính trị đã tác động đến các liệu pháp chăm sóc sức khỏe thay thế. Mười hai trường hợp dẫn chứng đã được ghi chép lại mà ngài Haley mô tả không phải là cá biệt. Tuy nhiên, điều khiến những tài liệu ấy trở nên đặc biệt là bởi đó là những hồ sơ công khai về hiệu quả chữa trị ung thư cũng như sự đàn áp nhằm gây khó khăn cho bệnh nhân ung thư tìm kiếm và sử dụng những liệu pháp này. Hơn một thế kỷ qua, hàng trăm bác sĩ sử dụng liệu pháp thay thế và các nhà nghiên cứu thảo dược có lương tâm đã bị đối xử như những tên tội phạm vì “tội” điều trị cho những bệnh nhân vô phương cứu chữa bằng những liệu pháp không được các cơ quan chính phủ chấp thuận, những kẻ nhào xuống các phòng khám với súng máy và áo giáp. Trong khi đó, cũng chính những cơ quan này lại làm bộ làm tịch trước ống kính truyền hình và công chúng, vờ vĩnh là đầy tớ của nhân dân và bảo vệ lợi ích chung. Theo bác sĩ Robert Atkins, “Có rất nhiều liệu pháp điều trị ung thư, và tất cả đều đang bị đàn áp nhẫn tâm và có hệ thống dưới tay các tổ chức về ung thư. Các tổ chức này bao gồm Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS), Viện Ung thư Quốc gia (NCI), FDA và các bệnh viện ung thư hàng đầu. Sự thật là các tổ chức uy tín này đều bị chi phối bởi thành viên và vây cánh thuộc ngành công nghiệp dược phẩm, ngành hưởng lợi rất nhiều từ liệu pháp hoá trị.” Tôi khuyên bạn nên đọc cuốn sách của nhà sử học y tế nổi tiếng Hans Ruesch, cuốn Naked Empress or the Great Medical Fraud (Nữ hoàng trần trụi hay Sự man trá không tưởng trong y tế). Trong cuốn sách này, Ruesch phơi bày rằng tham nhũng và gian lận tràn lan trong y học, truyền thông, khoa học, chính phủ và công nghiệp. Ruesch trích dẫn bác sĩ J.W. Hodge ở trang 75, “Độc quyền y tế hay hợp doanh y tế, nói hoa mỹ là Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ (AMA), không chỉ là tổ chức độc quyền xấu xa nhất, mà còn là tổ chức kiêu ngạo và nguy hiểm nhất. Mọi liệu pháp chữa bệnh an toàn, đơn giản và tự nhiên chắc chắn sẽ bị các nhà lãnh đạo kiêu ngạo của hiệp hội bác sĩ AMA công kích và lên án là giả mạo, gian lận, lừa bịp.” Ông tiếp tục: “Những người hành nghề y mà không hòa mình với hợp doanh y tế sẽ bị lăng mạ là lang băm nguy hiểm. Những chuyên gia vệ sinh phòng bệnh cố gắng khôi phục sức khỏe cho bệnh nhân bằng các liệu pháp tự nhiên không cần đến dao mổ hay thuốc độc, truyền huyết thanh, độc tố mạnh hay vắc-xin, sẽ ngay lập tức bị các bạo chúa y tế và những kẻ cuồng tín vồ chộp, bị lên án cay nghiệt, bị phỉ báng và bức hại hết mức có thể.” Những nhà y tế hoạt động tự do, với những ý tưởng điều trị ung thư sáng tạo, bị vu khống, gán cho là “lang băm” hoặc “lang vườn” và bị ngược đãi, trong khi phác đồ điều trị của họ bị hạ thấp và cấm đoán. Nhưng tại sao? Big Medicine nói rằng họ đang bảo vệ chúng ta khỏi liệu pháp điều trị ung thư thay thế vì chúng chưa được chứng minh khoa học là có hiệu quả và có thể trì hoãn liệu pháp điều trị ung thư chính thống hiệu quả hơn. “Điều trị ung thư chính thống hiệu quả hơn?” Đúng là trò đùa! Đó là cách họ nói về tỷ lệ 3% được chữa khỏi bằng hóa trị sao? Lập luận này thật nực cười nếu như không phải nó quá đau lòng đối với hàng triệu nạn nhân ung thư. Họ không hề bảo vệ chúng ta; họ đang bảo vệ con bò sữa của mình! Và chính xác thì “chứng minh khoa học là có hiệu quả” của FDA là gì? Snickers, Twinkies, Cupcakes, Coca Cola, và hàng ngàn sản phẩm đồ ăn nhanh khác được FDA “chấp thuận”, nhưng nếu bạn đưa ra liệu pháp điều trị ung thư thay thế, rất có khả năng kết cục của bạn là ở trong tù. Liệu tôi có đang thổi phồng chuyện này lên không? Xin hãy đọc tiếp… Harry Hoxsey Harry Hoxsey sinh năm 1901. Khoảng năm 1840, ông của Harry là John Hoxsey, một người chăn ngựa, có một con ngựa giống bị ung thư. Khi con ngựa được thả ra bãi cỏ, John nhận thấy con ngựa ăn chủ yếu một loại cây bụi đặc biệt. Vài tháng sau, con ngựa khỏi bệnh ung thư. Sau đó, John đã phát triển một loại thuốc bổ thảo dược có nguồn gốc từ những “cành cây kỳ diệu” này và bắt đầu điều trị cho những con ngựa mắc bệnh khác. John truyền lại công thức cho con trai, cha của Harry, người âm thầm sử dụng loại thuốc bổ này để giúp những người bị ung thư. Khi Harry mới 10 tuổi, ông đã bắt đầu giúp cha phân phát thuốc bổ này cho các nạn nhân ung thư giai đoạn cuối. Họ đã thành công lớn, và cuối cùng, khi người cha qua đời, Harry chịu trách nhiệm tiếp tục truyền thống chữa bệnh của nhà Hoxsey. Năm 1924, khi mới 23 tuổi, Harry đã mở Bệnh viện ung thư Hoxsey ở Dallas. Trong hơn 30 năm, ông đã điều trị (và chữa khỏi) cho nhiều bệnh nhân ung thư bằng cách sử dụng thuốc bổ Hoxsey. Đến năm 1950, Bệnh viện ung thư Hoxsey ở Dallas đã trở thành trung tâm ung thư tư nhân lớn nhất thế giới, có chi nhánh ở 17 tiểu bang. Vào thời điểm đó, người đứng đầu AMA là Morris Fishbein, cũng là biên tập viên của Journal of the American Medical Association (JAMA ‒ Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ). Fishbein đã cố gắng mua bản quyền thuốc bổ từ Hoxsey, nhưng khi bị từ chối, Fishbein tìm cách trả thù ông, sử dụng JAMA làm công cụ chính để hạ uy tín của ông. Trong suốt nhiều năm, Fishbein đã công bố nhiều bài báo trên JAMA và tuyên bố rằng thuốc bổ Hoxsey chỉ là một “chai nước dầu vô giá trị” làm bằng “cỏ dại sau vườn”. Và do thực tế ông đã cho bệnh nhân ung thư sử dụng những cỏ dại này, Hoxsey, người không phải là bác sĩ, đã bị bắt giữ hơn 200 lần chỉ vì hành nghề thuốc không có giấy phép! Có lẽ kẻ thù lớn nhất của ông là công tố viên Al Templeton, người đã bắt ông hơn 100 lần. Anh trai của Al là Mike bị ung thư giai đoạn cuối và đã điều trị bằng phương pháp chính thống. Sau khi các bác sĩ trả ông về nhà chờ chết, Mike đã đến Bệnh viện ung thư Hoxsey và cuối cùng đã được chữa khỏi. Khi Al biết anh trai mình đã phục hồi diệu kỳ từ ung thư giai đoạn cuối, ông đã từ bỏ công việc của mình và trở thành luật sư biện hộ cho Hoxsey. Không may, đây là thời kỳ mà liệu pháp điều trị ung thư chính thống Big 3 với lợi nhuận khổng lồ trong toàn bộ ngành Công nghiệp ung thư đã có vị trí vững chắc. Thuốc bổ Hoxsey rẻ tiền đã đặt lợi nhuận của Big 3 trước một mối đe dọa và họ nhận ra ngay điều đó, thế nên chẳng khó gì để đoán chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo: một chiến dịch bôi nhọ quy mô lớn. Qua mạng lưới lật đổ của những người chung quyền lợi và qua hàng loạt những bài báo vu khống, Công nghiệp ung thư đã gán cho Hoxsey là “lang băm ung thư tồi tệ nhất thế kỷ”. Tuy nhiên, nếu Hoxsey là một lang băm, chắc ông ấy không phải là lang băm giỏi, bởi các lang băm làm việc vì tiền, còn Bệnh viện ung thư Hoxsey điều trị cho toàn bộ bệnh nhân đến chữa, cho dù họ không có khả năng thanh toán. Thế nhưng mafia y tế vẫn không ngừng vu oan giá họa. Người của FDA sẵn sàng tràn vào nhà các bệnh nhân của ông, dọa dẫm họ, nói với họ rằng họ bị lừa gạt bởi một lang băm và lấy đi thuốc của họ. Tuy nhiên, vào năm 1954, một nhóm độc lập gồm mười bác sĩ từ khắp nước Mỹ đã tiến hành thanh tra hai ngày tại Bệnh viện ung thư Hoxsey ở Dallas, xem xét các bệnh sử và nói chuyện với bệnh nhân. Sau đó họ đưa ra một tuyên bố ấn tượng. Đó là bệnh viện đã “điều trị thành công những trường hợp bệnh lý được chứng minh là ung thư, cả trong và ngoài, không dùng phẫu thuật, xạ trị hoặc tia X”. Tất nhiên là những kết quả điều tra này đã bị Công nghiệp ung thư phớt lờ. Năm 1953, báo cáo Fitzgarld do ủy ban Thượng viện Mỹ tiến hành kết luận rằng ngành Y đã có “âm mưu đàn áp” liệu pháp Hoxsey. Vì một bài viết vu khống của Fishbein, Hoxsey đã kiện ông ta về tội phỉ báng và thắng kiện. Nhưng chừng đó là quá ít ỏi và muộn màng. Tên tuổi của Hoxsey cùng thuốc bổ của ông đã bị coi như rác rưởi và không bao giờ vãn hồi lại được. Tất cả các phòng khám, bệnh viện của Hoxsey rốt cuộc cũng bị đóng cửa. Bệnh viện ở Dallas đóng cửa năm 1960 và ba năm sau, để tránh áp lực, nữ điều dưỡng viên Mildred Nelson (một y tá trưởng lâu năm, có mẹ được chữa khỏi ung thư giai đoạn cuối nhờ thuốc bổ Hoxsey) đã chuyển hoạt động sang Tijuana, Mexico. Harry Hoxsey mất năm 1974, nhưng Trung tâm Y sinh vẫn tiếp tục điều trị tất cả các loại ung thư. Trước khi mất, Nelson chỉ định em gái bà là Liz Jonas lên làm quản lý của Trung tâm Y sinh. Như đã đề cập trong cuốn sách, chúng tôi lên kế hoạch đưa cha tôi đến bệnh viện này, nhưng đáng tiếc là ông không bao giờ hồi phục sau ca phẫu thuật. Những hồ sơ y tế của họ cho thấy nhiều bệnh nhân (một số nhập viện khi bị ung thư cấp) đã được giúp đỡ và thậm chí được chữa khỏi hoàn toàn bằng thuốc bổ Hoxsey. Cá nhân tôi biết một số người đã được chữa khỏi bằng phương pháp này, họ là những ví dụ về một liệu pháp điều trị ung thư thay thế thành công đã bị Công nghiệp ung thư phủ nhận và coi như là “lang băm”. Royal Raymond Rife Royal Raymond Rife là một nhà khoa học xuất sắc sinh năm 1888. Rife đã phát triển công nghệ vẫn còn sử dụng phổ biến hiện nay trong lĩnh vực quang học, điện tử, hóa phóng xạ và hóa sinh. Trong những năm 1920, Rife phát minh ra kính hiển vi vi rút đầu tiên trên thế giới. Vào ngày 3 tháng 11 năm 1929, tờ San Diego Union đã đưa trên trang nhất bài viết về kính hiển vi của ông, sau đó là một loạt các bài viết khác. Năm 1931, ông công bố kết quả nghiên cứu đến giới bác sĩ và các trường đại học Y. Hầu hết các bác sĩ và các nhà nghiên cứu danh tiếng đều hăng hái ủng hộ công trình của ông. Trong số đó có bác sĩ Milbank Johnson, chủ tịch chi nhánh Nam California của AMA và thành viên ban giám đốc Bệnh viện Pasadena. Vào năm 1933, Rife hoàn thiện công nghệ và chế tạo ra kính hiển vi tổng hợp Rife có khả năng phóng đại 60.000 lần kích thước bình thường của đối tượng. Không như kính hiển vi điện tử chỉ có thể quan sát mẫu vật chết do sử dụng các chất nhuộm màu hóa học kịch độc, kính hiển vi của Rife cho phép ông quan sát sinh vật sống động thông qua một quy trình được ông gọi là “nhuộm bằng ánh sáng”. Giống như rất nhiều khám phá quan trọng khác trong khoa học, những nguyên lý phía sau siêu hiển vi Rife tuy đơn giản nhưng vô cùng tài tình. Ví dụ, kính hiển vi không bao giờ cản trở chùm ánh sáng, và theo Rife, nhiễu xạ ánh sáng là nguyên nhân khiến kính hiển vi nghiên cứu tiêu chuẩn có độ phân giải thấp hơn. Thông qua kính hiển vi tiên tiến của mình, Rife có thể cho thấy “tính đa hình”, nghĩa là phát triển một sinh vật trong mẻ cấy khác có thể sinh ra một sinh vật hoàn toàn khác. Rife có thể quan sát các vi sinh vật trong cơ thể người, những sinh vật mà ông cảm thấy có thể gây ung thư. Ông quan sát phản ứng của các vi khuẩn khác nhau khi tấn công chúng bằng vô số các cách kết hợp của tần số vô tuyến và âm thanh. Ông đã sớm phát hiện ra rằng tần số nhất định mà ông gọi là “tần số dao động chết người”, sẽ tiêu diệt các vi khuẩn đa hình đang hoạt động trong ung thư. Vào đầu năm 1934, bác sĩ Milbank Johnson, người đã trở thành bạn bè và ủng hộ Rife, sắp xếp thử nghiệm lâm sàng chính thức thiết bị Rife Beam Ray (chùm tia Rife). Đội ngũ y tế gồm một danh các bác sĩ và các nhà bệnh lý học danh tiếng. Mười sáu bệnh nhân ung thư “giai đoạn cuối” từ Bệnh viện hạt Pasadena tình nguyện điều trị bằng máy Rife, thiết bị có thể tiêu diệt các vi khuẩn đa hình bên trong các tế bào ung thư. Sau ba tháng, toàn bộ mười sáu bệnh nhân đều còn sống. Các bác sĩ rất ngạc nhiên khi mười bốn bệnh nhân không còn dấu hiệu ung thư và được thông báo “khỏi” lâm sàng. Một tháng sau, hai bệnh nhân còn lại cũng được thông báo “thoát khỏi ung thư”. “Tỷ lệ chữa khỏi” của Rife với mười sáu bệnh nhân giai đoạn cuối này là 100%. Đây là một bước đột phá quan trọng! Và Mafia y tế xuất hiện. Người đứng đầu AMA thời kỳ đó là… bạn đoán đúng rồi đấy… gã xấu xa Morris Fishbein. Cũng giống như đã làm với Harry Hoxsey, Fishbein muốn tham gia bán các thiết bị này, vì vậy, ông ta đề xuất một thỏa thuận theo đó ông (và AMA) sẽ ban cho Rife ân huệ chính thức và sau đó yêu cầu bạn bè tại FDA nhanh chóng tiến hành thẩm duyệt thiết bị của Rife. Trong cuộc trao đổi, Fishbein mong muốn nhận được một phần lớn lợi nhuận từ việc bán hàng. Rife đã từ chối. Tương tự như những gì đã làm với Harry Hoxsey, Fishbein và bè lũ tìm cách hủy hoại Rife. Phòng thí nghiệm của Rife bị phá hoại, ảnh chụp, phim và hồ sơ bị đánh cắp. Kính hiển vi của ông bị đánh cắp, phòng thí nghiệm của ông bị đốt trụi, và một số người ủng hộ ông chết trong hoàn cảnh đáng ngờ. Năm 1940, hai bác sĩ ủng hộ Rife bị các nhân viên liên bang khám xét và tịch thu toàn bộ thiết bị, ghi chép. Cả hai sau đó đều được phát hiện đã chết và được cho là tự tử bằng thuốc độc. Tiến nhanh đến năm 1944… Bác sĩ Milbank Johnson thu xếp một cuộc họp báo để công bố việc chữa khỏi ung thư bằng máy của Rife. Có tin đồn rằng các đại diện Big Pharma đã tiếp cận bác sĩ Johnson và đề xuất một khoản tiền để ỉm đi thông tin về công trình của Rife. Thật bí ẩn, đêm trước buổi họp báo, bác sĩ Johnson đột ngột qua đời và tất cả ghi chép của ông được người thi hành di chúc tuyên bố là “mất tích”. Mặc dù ban đầu vụ này được cho là do tai nạn, vài năm sau các nhà điều tra khai quật thi thể của Johnson và phát hiện ra thuốc độc. Sau đó là cú đo ván – cảnh sát tịch thu một cách bất hợp pháp di sản 50 năm nghiên cứu của ông. Các tạp chí y tế vốn được các công ty dược phẩm tài trợ gần như toàn bộ và chịu kiểm soát của AMA, đã từ chối công bố bất cứ thông tin gì về phương pháp của Rife. Năm 1971, ở tuổi 83, Rife qua đời vì dùng quá liều valium và rượu. Để biết thêm thông tin về Royal Raymond Rife, bạn hãy đọc cuốn The Cancer Cure That Worked (Phương pháp chữa trị ung thư hiệu quả) của Barry Lynes. Câu chuyện Ralph Moss trích dẫn từ www.cancerdecisions.com “Năm 1974, tôi bắt đầu làm việc tại Trung tâm Ung thư Tưởng nhớ Sloan-Kettering, bệnh viện điều trị ung thư hàng đầu thế giới. Tôi là người duy tâm và là một tay viết trẻ đầy nhiệt huyết về chuyên ngành khoa học, tự hào là một phần của Sloan Kettering và “Cuộc chiến ung thư” của Nixon. Ngay từ khi còn nhỏ, những người hùng của tôi là các nhà khoa học. Công việc tại Sloan-Kettering giống như một giấc mơ trở thành hiện thực. Trong vòng ba năm, tôi đã thăng tiến đến vị trí Trợ lý Giám đốc công tác cộng đồng tại bệnh viện. Lúc đó tôi đã 34 tuổi, kết hôn với người yêu thời trung học, có một con gái và một con trai, 9 và 7 tuổi. Chúng tôi đã dự tính mua nhà và tiết kiệm cho việc học hành của lũ trẻ, vì vậy, bạn có thể hình dung chúng tôi vui mừng như thế nào khi tôi được thăng chức với mức lương cao. Khỏi phải nói, vợ chồng tôi đã thực sự kỳ vọng vào “tương lai tươi sáng” của tôi tại Sloan- Kettering. Nhưng không lâu sau đó, một chuyện đã xảy ra làm thay đổi cuộc sống của tôi mãi mãi. Phần lớn công việc của tôi là viết thông cáo báo chí về tin tức ung thư và các bản tin nội bộ bệnh viện. Tôi cũng xử lý các cuộc gọi từ báo chí và công chúng về các vấn đề ung thư. Một hôm, tôi đang thực hiện công việc thường nhật khi phỏng vấn một nhà khoa học đáng kính tại bệnh viện cho một bài viết trên bản tin mà tôi đang xử lý. Thì ra nhà khoa học này, bác sĩ Kanematsu Sugiura, đã nhiều lần thu được kết quả tích cực về việc thu nhỏ khối u trong những nghiên cứu trên chuột với một chất tự nhiên gọi là amygdalin (có thể bạn đã nghe nói về nó với cái tên laetril”). Phấn khích (và ngây thơ!) tôi đã nói “phát hiện” của mình về công trình của Sugiura cho Giám đốc công tác cộng đồng và các cấp trên khác, rồi lên kế hoạch cho ra một bài viết. Sau đó, tôi nhận được cú sốc của cuộc đời. Họ nhấn mạnh rằng tôi phải ngừng câu chuyện này ngay lập tức và không được nhắc lại một lần nào nữa. Tại sao? Họ nói rằng nghiên cứu của bác sĩ Sugiura không có căn cứ và hoàn toàn vô giá trị. Nhưng chính mắt tôi đã nhìn thấy kết quả đó! Và tôi biết bác sĩ Sugiura là một nhà khoa học thực thụ và một người có đạo đức. Sau đó, các sếp đã đưa ra một chỉ thị mà tôi sẽ không bao giờ quên: Họ bảo tôi nói dối. Thay vì câu chuyện mà tôi định viết, họ ra lệnh cho tôi viết một bài báo và thông cáo báo chí cho tất cả các cơ quan tin tức lớn nhấn mạnh rằng tất cả các nghiên cứu amygdalin đều không khả quan và chất đó không có giá trị điều trị ung thư. Tôi phản đối và cố gắng tranh luận với họ, nhưng họ không thèm nghe. Tôi sẽ không bao giờ quên cảm giác của mình trên chuyến tàu điện ngầm về nhà ngày hôm đó. Đầu óc tôi quay cuồng với một mớ hỗn độn những cảm giác lẫn lộn dữ dội, sốc, thất vọng, lo sợ cho cuộc sống của riêng mình và tương lai của gia đình, và đằng sau tất cả, một nhu cầu mãnh liệt muốn biết tại sao lại có sự che đậy này. Sau cuộc nói chuyện dài với vợ và cha mẹ tôi (họ choáng váng, như bạn có thể hình dung ra), tôi quyết định hoãn viết bất kỳ văn bản thông cáo báo chí nào về amygdalin, cho đến khi tôi có thể kín đáo quan sát toàn bộ sự việc chi tiết hơn. Mọi người trong văn phòng trông vui vẻ vì trút được gánh nặng, và chúng tôi lại bận rộn với những dự án ít gây tranh cãi khác. Vậy là sau đó vài tháng, tôi đã có thể thực hiện cuộc điều tra của riêng mình để giải đáp câu hỏi lớn mà tôi không thể bỏ qua: Tôi đang làm việc cho ai và tại sao họ muốn ỉm đi những kết quả tích cực trong nghiên cứu ung thư? Tài liệu của tôi dày lên bởi phát hiện được ngày càng nhiều sự thật thú vị – và đáng lo ngại. Trước đây tôi chưa bao giờ mảy may nghĩ đến chính trị ung thư. Giờ đây, khi chắp nối các mảnh ghép lại với nhau, tôi biết được rằng: Những người trong Hội đồng quản trị Sloan-Kettering là những nhà đầu tư có tên tuổi trong ngành công nghiệp hóa dầu và các ngành công nghiệp ô nhiễm khác. Nói cách khác, bệnh viện nằm dưới sự điều hành của những người làm giàu bằng việc đầu tư vào những thứ gây ung thư tồi tệ nhất trên hành tinh. CEO của các công ty dược phẩm hàng đầu sản xuất thuốc ung thư cũng chiếm số đông trong Hội đồng quản trị. Hiển nhiên họ có quyền lợi được đảm bảo bất di bất dịch trong việc thúc đẩy hóa trị và phá hoại ngầm những liệu pháp tự nhiên. Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng Giám đốc của Bristol-Myers Squibb – nhà sản xuất thuốc hóa trị hàng đầu thế giới, nắm giữ những chức vụ cao trong Hội đồng quản trị của Sloan- Kettering. Trong số chín thành viên của Ủy ban thể chế chính sách đầy quyền lực của bệnh viện, bảy người có quan hệ với công nghiệp dược phẩm. Chính bệnh viện cũng đầu tư vào cổ phiếu của những công ty thuốc này. Giám đốc các công ty thuốc lá lớn nhất tại Mỹ, Phillip Morris và RJR Nabisco, nắm giữ vị trí danh dự trong Hội đồng quản trị. Sáu thành viên Hội đồng quản trị cũng phục vụ trong Hội đồng quản trị của New York Times, CBS, Warner Communications, Readers Digest, và các hãng truyền thông khổng lồ khác. Chẳng có gì ngạc nhiên, lợi nhuận từ thuốc hóa trị là không thể đong đếm và các phương tiện truyền thông sôi nổi quảng bá cho mỗi loại thuốc mới như một “bước đột phá” trong ung thư. Tôi lưu giữ tất cả các ghi chép trong tủ tài liệu tại nơi làm việc. Tôi không có khái niệm khi nào tôi sẽ làm gì với chúng. Tôi chỉ biết rằng tôi cần phải hiểu sâu về điều này, vì chính bản thân tôi. Trong khi đó, mối quan tâm của công chúng với laetrile vẫn. không hề suy giảm. Rất nhiều người qua biên giới đến các bệnh viện ở Mexico để mua laetrile. Điện thoại thư ký của tôi reo liên tục bởi những người muốn biết ý kiến của Sloan-Kettering về giá trị của laetrile. Lại một lần nữa tôi được yêu cầu đưa ra các thông tin rằng kết quả của tất cả các nghiên cứu là không khả quan. Về nhà, tôi triệu tập một cuộc họp gia đình. Với sự ủng hộ của mọi người, tôi quyết định rằng không thể nói dối thay cho bệnh viện. Vào tháng 11 năm 1977, trước một cuộc họp báo, tôi đã tố cáo việc che giấu kết quả nghiên cứu amygdalin của Trung tâm Ung thư Tưởng nhớ Sloan Kettering. Có cảm giác như nhảy xuống từ ván nhún cao nhất ở bể bơi, nhưng tôi tin chắc rằng mình đã làm đúng. Tôi bị sa thải ngay hôm sau vì “không thực hiện trách nhiệm cơ bản nhất của mình” – dẫn theo câu trả lời của bệnh viện với New York Times, nói cách khác, không chịu nói dối nhân dân Mỹ. Khi định thu dọn đồ đạc của mình trong văn phòng, tôi thấy tài liệu đã bị niêm phong và hai nhân viên bảo vệ bệnh viện có vũ trang hộ tống tôi ra khỏi tòa nhà. May mắn thay cho tất cả chúng ta, tôi có một người vợ rất thông minh, suốt thời gian đó, cô ấy đã sao lại những ghi chép nghiên cứu của tôi và cất giữ một bộ tài liệu hoàn chỉnh ở một nơi an toàn. Những ghi chép đó đã trở thành cuốn sách đầu tiên của tôi – The Cancer Industry (Công nghiệp ung thư), cuốn sách vẫn được in ra (tái bản có bổ sung) và bày bán ở các cửa hàng sách. Cái ngày định mệnh ấy, khi đứng trước cuộc họp báo đông nghẹt người và nói ra sự thật, là khởi đầu của một cuộc hành trình mà tôi không bao giờ có thể dự đoán trước. Tôi dấn thân vào một nhiệm vụ mà tôi vẫn đang làm ngày hôm nay – giúp đỡ bệnh nhân ung thư tìm ra sự thật về các liệu pháp điều trị ung thư tốt nhất. Vâng, suốt những năm sau đó, chúng tôi không thể mua được nhà, lũ trẻ đến trường bằng học bổng và các khoản vay, vợ tôi phải đi làm công việc toàn thời gian. Song ngẫm lại, trải nghiệm làm một người bên trong nội bộ “công nghiệp ung thư” lại nằm trong những điều tốt nhất từng xảy đến với tôi. Giá trị của tôi đã được thử thách và tôi phải xem xét điều gì là quan trọng trong cuộc sống của mình. Nhờ trải nghiệm khó khăn này ở Sloan-Kettering, tôi đã tìm thấy hướng đi có ý nghĩa thực sự cho sự nghiệp, chứ không phải chỉ leo lên nấc thang sự nghiệp ở Sloan-Kettering và đánh mất linh hồn trong quá trình đó.” Khủng bố & đàn áp hơn nữa Bác sĩ Jonathan Wright là một chuyên gia dinh dưỡng được đánh giá cao, nhưng tội lớn nhất của ông là khuyến khích liệu pháp điều trị tự nhiên không được FDA phê duyệt. Vào mùa hè năm 1992, tờ The Civil Abolitionist đăng bài viết có tiêu đề FDA: The American Gestapo Ủ Prosecutor or Persecutor? (FDA: Ủy viên công tố hay kẻ khủng bố?) kể lại một câu chuyện. Ngày 6 tháng 5 năm 1992, giống như một cuộc đàn áp quân sự, phòng khám của bác sĩ Wright đã bị hơn 20 người đàn ông vũ trang tấn công, họ đạp tung cửa, chĩa súng vào cả bệnh nhân và nhân viên, tịch thu hồ sơ công tác, hồ sơ bệnh nhân, vật tư, và thiết bị. Các mật vụ “Gestapo” FDA dành 14 tiếng tại phòng khám, khám xét tất cả mọi thứ. Vào thời điểm đó, ông thậm chí còn chưa bị kết tội! Tại sao họ phải đạp cửa xông vào và rút súng? Bác sĩ Wright không phải là một tên tội phạm nguy hiểm. Sau khi tốt nghiệp Đại học Harvard và Trường Y của Đại học Michigan, ông là biên tập viên dinh dưỡng của tạp chí Prevention trong hơn một thập kỷ. Tuy nhiên, ông đã mắc lỗi không thể tha thứ – ông đã không kê đơn thuốc điều trị bệnh. Thay vào đó ông chọn sử dụng liệu pháp dinh dưỡng và vitamin. Một trong những liệu pháp điều trị yêu thích của ông là sử dụng L-Tryptophan để điều trị trầm cảm, nhưng FDA đã cấm loại axit amin này. Trùng hợp thay, nó bị cấm chỉ một vài tháng trước khi FDA đẩy mạnh Prozac cho điều trị trầm cảm. Bạn tôi, Jason Vale, được bác sĩ giáng bản án tử hình vào giữa những năm 1990 khi bị phát hiện mắc ung thư giai đoạn cuối. Thông qua nghiên cứu sâu rộng, ông phát hiện ra rằng những người từng bị ung thư tìm thấy những đặc tính chữa trị trong thứ đơn giản như hạt táo và hạt mơ. Hóa ra, những hạt đó chứa chất tự nhiên có thể tiêu diệt tế bào ung thư (vitamin B17). Jason lập tức bắt đầu cảm thấy tốt hơn khi ăn hạt táo hằng ngày. Trong thời gian ngắn, bệnh ung thư của Jason đúng là đã biến mất. Khi Extra phát sóng câu chuyện của Jason trên truyền hình quốc gia, nó được xếp hạng cao nhất trong các chương trình cho đến thời điểm đó vì vậy họ đã chọn phát lại vào tuần sau. Phản hồi của khán giả rất tuyệt vời và Jason chìm ngập với hàng ngàn cuộc điện thoại từ người dân trên toàn quốc. Kể từ đó, Jason đã truyền cảm hứng và giúp cho hàng ngàn người điều trị ung thư theo cách tự nhiên. Thông qua chế độ ăn uống thích hợp bao gồm hạt táo và hạt mơ, họ đã tạo nên câu chuyện thành công của riêng mình và may mắn thay họ vẫn còn sống để kể lại. Tháng 11 năm 2001, Jason đã bị FDA ép ký một “Sắc lệnh thỏa thuận” ngăn cản anh ta chia sẻ câu chuyện của mình. Mặc dù anh ấy không vi phạm bất cứ luật nào nhưng FDA vẫn cáo buộc hình sự chống lại việc Jason phân phối hạt mơ. Jason bị tuyên án vào ngày 18 tháng 6 năm 2004, với 63 tháng tù giam và 3 năm quản thúc. Sau khi thụ án gần 4 năm trong tù, Jason đã được thả đầu năm 2008. Ơn Chúa! Bác sĩ Max Gerson đã phát triển thành công một phác đồ điều trị cho bệnh nhân ung thư sử dụng một chế độ nghiêm ngặt về dinh dưỡng, nước ép tươi, và các enzyme tuyến tụy. Cộng đồng y tế đã có một cơ hội tuyệt vời để xem xét thích đáng liệu pháp điều trị ung thư thay thế khi một Ủy ban Thượng viện Mỹ đề nghị cấp kinh phí cho nghiên cứu sâu rộng điều trị của ông, và các thượng nghị sĩ đã rất ấn tượng với kết quả. Thế nhưng, AMA vận động hành lang quá mạnh chống lại việc nghiên cứu liệu pháp điều trị ung thư thay thế và đề nghị đó gần như thất bại tại Thượng viện. Sau đó, mafia y tế sử dụng ảnh hưởng của họ để ngăn chặn thành công của Gerson và gán cho ông là “lang băm”, mặc dù thực tế phác đồ điều trị của ông đã chữa khỏi nhiều bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối. Quy trình hoạt động tiêu chuẩn của mafia y tế và công nghiệp ung thư là nhanh chóng ngăn chặn mọi khám phá về liệu pháp điều trị ung thư thay thế và khiến công chúng nhìn nhận các bác sĩ phát hiện ra liệu pháp điều trị thay thế là những người thiếu năng lực hoặc những ông lang băm. Và họ khá hiệu quả – thậm chí họ có trang web cho mục đích này. Neal Deoul là nhà tài trợ nghiên cứu điều trị ung thư thay thế trong những năm 1990. Năm 1998, Tổng chưởng lý bang Maryland – Joseph Curran buộc tội ông phân phát tài liệu quảng cáo lừa đảo. Deoul đã tài trợ Tup Inc phân phối cesium và T-UP (chiết xuất lá cây nha đam) để chiến đấu với ung thư và AIDS, mặc dù thực tế là không hề có lấy một đơn khiếu nại của người tiêu dùng nào và có hàng trăm lời chứng thực từ những người tiêu dùng về những kết quả tốt. Trớ trêu thay, khi vụ kiện chống lại Deoul diễn ra tại tòa án, chính bản thân Deoul được chẩn đoán bị ung thư tiền liệt tuyến dạng cấp. Ông lặng lẽ và tự tin sử dụng cesium và T-UP điều trị ung thư tuyến tiền liệt. Tất nhiên, các bác sĩ của mafia y tế đã lớn tiếng phản đối và dự báo điều tồi tệ nhất nếu ông tiếp tục từ chối xạ trị và hóa trị, thế nhưng tình trạng của ông lại được cải thiện nhờ kết quả dùng thuốc của riêng ông… không có liệu pháp điều trị nào khác được sử dụng. Thật không may, việc điều trị thành công của ông trong cuộc sống thực đã không được phản ánh trong phòng xử án. Thẩm phán phát hiện ra Deoul và T UP Inc mắc tội vi phạm luật bảo vệ người tiêu dùng của Maryland. Vấn đề quan trọng là liệu các sản phẩm thực sự chống ung thư có bao giờ được nói đến trong kết luận của thẩm phán hay không. Jimmy Keller điều hành một phòng khám ung thư thay thế ở Baton Rouge, nhưng đã bị buộc phải rời khỏi đất nước đến Tijuana, Mexico. Keller đã thành lập phòng khám sau khi sử dụng các liệu pháp tự nhiên để chữa trị cho bản thân bị ung thư giai đoạn cuối. Ung thư của ông điều trị không thành công trong hơn hai thập kỷ trước đó bởi các chuyên gia ung thư chính thống, họ cắt bỏ tai và làm méo mó khuôn mặt của ông. Đúng là liệu pháp điều trị chính thống điển hình của Big 3, ung thư của Keller quay trở lại với mức độ mạnh hơn bình thường. Ông đã nghiên cứu phương pháp chữa bệnh tự nhiên, tự chữa khỏi cho chính mình, và sau đó bắt đầu giúp đỡ người khác chữa trị. Ông nghĩ mình đã được an toàn khỏi mafia y tế do ông ở Mexico. Như ông đã lầm. Tháng 3 năm 1991, Keller bị bốn tay săn tiền thưởng làm việc cho Bộ Tư pháp Mỹ, theo lệnh của FDA bắt cóc và buộc phải vượt qua biên giới Mỹ. Ở đó, Keller đã bị FBI bắt vì mười hai tội danh lừa đảo. Tội của ông là gì? Keller đã thực hiện cuộc gọi điện thoại qua đường dây liên bang để thu hút người dân đến bệnh viện của ông ở Mexico. Sau khi bắt cóc Keller bất hợp pháp từ đất Mexico, mà không dẫn độ, ông đã bị bỏ tù ở Texas. Thật ngạc nhiên, mức tiền tại ngoại của ông lên đến năm triệu đô la. Sau đó ông bị kết án và bỏ tù hai năm. Bác sĩ Joe Di Stefano (một chuyên gia dinh dưỡng được cấp phép) và bác sĩ Daniel Mayer (một chuyên gia nắn xương) sở hữu hai bệnh viện ở Florida, ở đó họ dùng sản phẩm gọi là Albarin, chiết xuất từ cây nha đam, cho các bệnh nhân ung thư. Albarin được phát triển bởi bác sĩ Ivan Danhoff, một giáo sư đã nghỉ hưu được biết đến như “cha đẻ của nha đam”. Bác sĩ Di Stefano và bác sĩ Mayer đã sử dụng Albarin trên 100 bệnh nhân ung thư được chuyển đến bệnh viện cho người hấp hối. Thật ngạc nhiên, 94 người trong số họ sống sót và không bị tác dụng phụ của liệu pháp điều trị. Nhìn chung, mức độ hồi phục là 80%. Vào đầu tháng 10 năm 2001, bác sĩ Di Stefano rời bệnh viện vào lúc nửa đêm sau một ngày dài làm việc, và giật mình nghe thấy tiếng động lạ phát ra từ thùng rác phía sau. Rác bị trải ra trên khắp mặt đất. Ông chăm chú nhìn lên phía trên các thùng rác và thấy hai kẻ lạ đang lục lọi. Thì ra các “thợ sục rác” là đặc vụ của FDA. Thế rồi, một tuần sau đó, đúng một tháng sau những cuộc tấn công được cho là “khủng bố” ngày 9/11, một cuộc tấn công “khủng bố” khác đã xảy ra. Vào ngày 11 tháng 10 năm 2001, 120 đặc vụ của FDA, DEA, Hải quan Mỹ đã đột kích và “tịch thu” các thiết bị tại các phòng khám ở Tampa và St Petersburg. Trong cuộc tấn công bất ngờ này, các đặc vụ thực thi pháp luật hỏi các bệnh nhân họ có muốn được ra khỏi nơi đó không, nhưng không một ai nói “có”. Một trong số các bệnh nhân than phiền “Chúng tôi đều là người lớn và tự nguyện đến đây. Sao các ông không ra khỏi đây và để chúng tôi yên?” Một đặc vụ FDA trả lời: “Đây sẽ là ngày điều trị cuối cùng của các anh!” Cuộc tấn công đồng thời xảy ra với bác sĩ Danhoff ở Grand Prairie, Texas và Jerry W. Jackson của Allied Pharmacy Services ở Arlington, Texas. Jackson là dược sĩ chuẩn bị chiết xuất nha đam. Trong mafia y tế tàn bạo này, FDA hài lòng với việc đóng cửa các bệnh viện và không cho phép sử dụng chiết xuất nha đam. Không ai đi tù. Nhưng nhiều bệnh nhân không được tiếp tục điều trị và ít nhất tám người chết trong vòng một năm. Tại sao chính phủ tấn công những người hành nghề y sử dụng chiết xuất nha đam? Họ đã trả lời những thắc mắc của các bác sĩ ung bướu địa phương, những người đã bị mất việc! Nhận thấy những bác sĩ này là một phần của mafia y tế, FDA đã hành động chớp nhoáng trong cuộc đột kích Gestapo như thế để loại bỏ mối đe dọa cạnh tranh này. Sau cùng, nếu hiệu quả của chiết xuất nha đam được biết đến rộng rãi, nó có thể hạn chế sức bán của các loại thuốc hóa trị lợi nhuận cao. Liệu có rõ ràng hơn không khi nói “cuộc chiến ung thư” thực sự là cuộc chiến chống lại liệu pháp chữa trị ung thư theo tự nhiên? Trong cuốn sách Politics in Healing: The Suppression and Manipulation of American Medicine (Chính trị trong chữa bệnh: Sự ngăn chặn và thao túng của Y tế Mỹ), Daniel Haley đã ghi nhận 11 trường hợp đàn áp có hệ thống các phương pháp chữa trị ung thư đã được chứng minh với các chất như hydrazine sulfate, DMSO, caesium chloride, và nha đam. Haley kết luận: “Trong một thị trường tự do, trong đó liệu pháp không độc hại có thể cạnh tranh công khai với các liệu pháp độc hại và thông tin không bị bưng bít, người tiêu dùng sẽ tự biết lựa chọn. Đây chính xác là những gì các công ty dược không muốn. FDA tìm mọi cách để loại bỏ những liệu pháp hiệu quả, không độc hại có thể cạnh tranh vượt trội với dược phẩm độc quyền nhãn hiệu và thường là độc hại. Bằng cách ngăn cản các liệu pháp này khỏi thị trường, FDA không bảo vệ công chúng khỏi bị tổn hại. Mà là bảo vệ các công ty dược phẩm khỏi sự cạnh tranh quyết liệt.” Thực tế là có rất nhiều liệu pháp điều trị ung thư thay thế thành công được tạo ra trong thế kỷ vừa qua và sau đó lại biến mất do bị đàn áp và khủng bố. Sự cố chấp khoa học phân cách nghiên cứu ung thư chính thống với thực tế vẫn còn nguyên vẹn. Có vô số những câu chuyện thực tế về khủng bố và đàn áp. Tôi sẽ không liệt kê tất cả ra đây mà để bạn tự tìm hiểu. Chỉ cần gõ những cái tên này vào bất kỳ công cụ tìm kiếm nào: bác sĩ Sam Chachoua, bác sĩ Hulda Clark, bác sĩ A. Keith Brewer, bác sĩ William Kelley, bác sĩ Gaston Naessens, bác sĩ Patrick Flanagan, bác sĩ Hans Nieper, JH Tilden, bác sĩ Kurt Donsbach, bác sĩ Stanislaw Burzynski, bác sĩ William Koch, bác sĩ FM Eugene Blass, bác sĩ Otto Warburg, bác sĩ Virginia Livingston, bác sĩ Günther Enderlein, bác sĩ Ernst T. Krebs, bác sĩ Philip E. Binzel, Jr và danh sách cứ kéo dài mãi. Rất nhiều cái tên đã mất… những cái tên khác thì đã bị nghiền nát vĩnh viễn. Điểm chung của tất cả những bác sĩ đáng kính này là gì? Tất cả bọn họ đều đã phát triển những liệu pháp điều trị thay thế thành công trong điều trị ung thư cho hàng ngàn bệnh nhân. Và tất cả đều bị công nghiệp ung thư bức hại do sử dụng liệu pháp điều trị “không được phê duyệt”. Những ví dụ này chỉ là phần nổi của tảng băng trôi khổng lồ. Mafia y tế có gần 100 năm lịch sử lũng đoạn, khủng bố và tổ chức đàn áp trên diện rộng những liệu pháp điều trị ung thư thực sự có hiệu quả. Hàng triệu người đã phải cam chịu và thậm chí mất mạng vì những kẻ vô trách nhiệm nhận hối lộ, nhắm mắt lại trước đổi mới, và chối từ làm những điều đúng đắn về đạo đức. Nhưng những gì đang xảy ra trong y học ngày nay không làm chúng ta ngạc nhiên nếu xét lại lịch sử. Bạn có biết nhiều khám phá vĩ đại nhất trên thế giới đã bị chối bỏ ngay từ đầu bởi cộng đồng khoa học? Những con người mở đường cho những khám phá này thường bị nhạo báng và quy cho là lang băm. Theo Arthur Shopenaur, nhà triết học thế kỷ 19, “Mọi sự thật đều đi qua ba giai đoạn trước khi được chấp nhận. Đầu tiên, nó bị nhạo báng; lần thứ hai, nó bị phản đối; lần thứ ba, nó được coi là hiển nhiên”. Điều trớ trêu của khoa học (có nhiệm vụ tìm kiếm những chân lý mới) là dường như hầu hết các thành viên của bất kỳ tổ chức khoa học nào cũng hết mình chống lại sự tiến bộ thực sự và kìm hãm những tư duy độc đáo. Bộ phận thô bạo, thành kiến và cố chấp ghê gớm nhất của Big Medicine chắc chắn là bộ phận liên quan tới ung thư. Thực ra, công nghiệp ung thư có một danh sách “lang băm ung thư” công bố trên nhiều trang web. Lang băm ung thư có những điểm chung gì? Họ sử dụng “những phương pháp chưa được chứng minh” để điều trị ung thư. Hãy xem xét điều này, “những phương pháp chưa được chứng minh” chính xác nghĩa là gì? Có phải những phương pháp này chưa thực sự được chứng minh, hay bằng chứng về thành công của những phương pháp này đã bị tịch thu? Bạn nên biết rằng công nghiệp ung thư đã hao tổn biết bao công sức để chôn vùi và ngăn chặn liệu pháp chữa trị ung thư thay thế thành công. Họ ngăn chặn cả những liệu pháp điều trị ung thư thay thế không hiệu quả; theo đó, dường như tất cả các liệu pháp điều trị mà họ ngăn cản đều không hiệu quả và họ chỉ đang “làm công việc của họ để bảo vệ chúng ta”. Tuy nhiên, thực tế là hàng trăm liệu pháp điều trị ung thư thay thế đang hiệu quả và không may là số ít những kẻ bán thuốc rong trị bá bệnh đã là con sâu làm rầu nồi canh để công nghiệp ung thư viện vào và khiến tất cả các liệu pháp điều trị ung thư thay thế (bao gồm cả các liệu pháp điều trị hiệu quả) trông như lang băm. Nói thật, hầu hết những hoạt động hằng ngày của y học chính thống cũng chưa được chứng minh nếu theo tiêu chuẩn của chính phủ. Năm 1978, Cơ quan đánh giá công nghệ (một cơ quan của Quốc hội) đã ban hành một báo cáo nghiên cứu chính thức kết luận “chỉ từ 10% đến 20% các quy trình đang được sử dụng trong hoạt động y tế được chứng minh là hiệu quả qua thử nghiệm kiểm tra”. Có nghĩa là khoảng 80% và 90% những gì các bác sĩ làm với bạn là phỏng đoán chưa được chứng minh khoa học. Theo định nghĩa của chính phủ thì phần lớn y học chính thống là “lang băm”. Theo Webster Kehr: “Bằng chứng khoa học về liệu pháp điều trị thay thế có thể so sánh được với kích cỡ con tàu của Nữ Hoàng Mary II. Bằng chứng khoa học về liệu pháp điều trị chính thống chỉ như con tàu cỡ chiếc bồn tắm. Tôi không phóng đại. Song, FDA vẫn cho rằng hóa trị và y học chính thống ‘có’ bằng chứng khoa học và các liệu pháp điều trị thay thế ‘không có bằng chứng khoa học’. Đó hoàn toàn là dối trá. Vậy làm thế nào mà FDA, NIH, NCI, AMA, ACS, v.v. ngăn chặn được bằng chứng vượt trội về mặt thống kê của liệu pháp điều trị thay thế cho ung thư? Bằng cách bỏ qua (ví dụ, liệt vào danh sách đen) và lảm nhảm về khái niệm ‘thuyên giảm tự phát’ và cái tôi gọi là ‘thuyên giảm tâm lý’.” Điều thú vị là tất cả các liệu pháp điều trị ung thư thay thế trong danh sách “lang băm” của Big Medicine có những đặc điểm chung sau: tất cả đều là tự nhiên, không độc hại, và không có độc quyền nhãn hiệu. Quan trọng nhất, tất cả chúng đều chữa trị thành công ung thư! Mặc dù hóa trị và xạ trị là những liệu pháp hoàn toàn chưa được chứng minh và thường sẽ giết chết bệnh nhân ung thư, thế nhưng chúng lại không nằm trong danh sách. Tại sao vậy? Bởi vì cả hai cách đó đều rất tốn kém và được độc quyền nhãn hiệu. Hãy để tôi giải thích. Giả sử tôi phát hiện ra một loại vitamin chữa khỏi ung thư. Chúng ta gọi là Vitamin Z. Để có thể nói cho bạn biết Vitamin Z làm việc thế nào và bán nó cho bạn, tôi sẽ cần phải có được phê duyệt của FDA cho Vitamin Z là một loại thuốc. Việc này sẽ tiêu tốn của tôi khoảng 200 đến 500 triệu đô la và mất nhiều năm để có được phê duyệt. Tuy nhiên, vì Vitamin Z là tự nhiên và tìm thấy trong hầu hết các loại rau, nên tôi không thể lấy bằng sáng chế. Vì vậy, ngay cả sau khi đã chi tiêu nửa tỷ đô la để phân loại Vitamin Z là “thuốc”, nó vẫn sẽ là một loại thuốc không có giấy phép độc quyền nhãn hiệu, và bất cứ ai cũng có thể bán nó mà không cần sự cho phép của tôi. Tôi đơn giản là lãng phí nửa tỷ đô la. Là một kiểm toán, tôi có thể cho bạn biết rằng việc cố gắng có được chấp thuận của FDA cho bán Vitamin Z như một loại thuốc không hề có đem lại lợi nhuận. Thế nên, mặc dù Vitamin Z là một vitamin tự nhiên, chữa được ung thư và không có các tác dụng phụ có hại, tôi cũng không thể nói với bạn rằng nó chữa được ung thư, vì nó chưa thông qua FDA xem xét. Nhưng tại sao Big Medicine che đậy thông tin về một việc quan trọng như chữa khỏi ung thư? Phải chăng họ không quan tâm đến sức khỏe của chúng ta? Họ không muốn những gì tốt nhất cho chúng ta sao? Buồn thay, câu trả lời cho các câu hỏi đều rõ ràng và đơn giản, “đúng”. Kể từ khi Big Medicine mang ơn Big Pharma, phác đồ điều trị của họ luôn bao gồm các loại thuốc đắt tiền và sinh lợi nhất, bất kể có đem lại lợi ích tốt nhất cho bệnh nhân hay không. “Gestapo” FDA nổi giận… Một lần nữa! Nếu bạn thực sự nghĩ rằng FDA ủng hộ tự do ngôn luận… hãy suy nghĩ lại. Trong một ví dụ vô lý khác nữa về chiến lược đàn áp của Gestapo thời hiện đại, vào đầu năm 2010 FDA đã gửi thư cảnh báo cho CEO của Diamond Foods thông báo rằng sản phẩm quả óc chó đóng gói của công ty ông “vi phạm luật thực phẩm, dược phẩm và mỹ phẩm của Liên bang”. “Chính xác Diamond Foods đã vi phạm như thế nào?” Vâng, họ đã cả gan nói sự thật về một số lợi ích đối với sức khỏe của quả óc chó trên trang web của mình, chẳng hạn như thực tế là quả óc chó làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim và đau khớp. Sao họ dám làm như vậy! Theo FDA, ngay khi Diamond Foods liệt kê những lợi ích cho sức khỏe của quả óc chó trên trang web, quả óc chó (mà tất cả chúng ta ngu ngốc cho là một loại thực phẩm) đã kỳ diệu biến thành một loại “thuốc”, vì thế Diamond Foods đã bán thuốc không được phê duyệt! Mặc dù thực tế là những lợi ích cho sức khỏe của quả óc chó đã được minh chứng bằng tài liệu khoa học trong nhiều thập kỷ và có hơn 30 chuyên gia đánh giá rằng quả óc chó giảm nguy cơ đau tim và cải thiện sức khỏe tim mạch, FDA tuyên bố quả óc chó đã trở thành “thuốc” và vì thế bị “ghi nhãn sai” còn Diamond Foods phạm tội làm “trái phép” những công bố về y tế. Bây giờ tôi thực sự tin rằng chúng ta đang sống trong ma trận! Cho phép tôi nói thẳng điều này. FDA đã phê duyệt cho Vioxx, thứ đã giết chết hơn 50.000 người, thế mà họ lại gây khó dễ với quả óc chó. Rõ ràng là FDA quan tâm đến việc bảo vệ lợi nhuận của Big Pharma hơn là đến sức khỏe của người Mỹ. Trường hợp vô lý này dẫn tôi trở lại khoảng một thập kỷ trước, khi Gestapo FDA và mafia y tế nhắm vào sự “nguy hiểm” của công nghiệp trồng anh đào. Bạn thấy đấy, những người trồng anh đào có đường dẫn trên các trang web của họ đến một số nghiên cứu khoa học xuất sắc (từ những nơi như Harvard) chỉ ra rằng anh đào làm giảm viêm và đau. FDA nhanh chóng gửi cho họ những thư huấn thị với những đe dọa thường lệ (bao gồm cả nhà tù) nếu họ không lập tức gỡ bỏ sự thật về anh đào trên các trang web của mình. Nếu không phải là một công ty dược phẩm, bạn không được đưa ra bất kỳ tuyên bố y tế nào về sản phẩm của mình, ngay cả khi những tuyên bố này được hỗ trợ bởi hàng ngàn công trình nghiên cứu đánh giá của chuyên gia. Tuy nhiên, nếu là một công ty dược phẩm, bạn chỉ cần trả đủ tiền cho các nhà nghiên cứu để tạo ra các dữ liệu, như ta đã thấy trong chương trước trường hợp hổ thẹn của bác sĩ Scott Reuben. Nói thẳng, FDA chẳng khác nào là “chân gỗ” cho mafia y tế, họ không quan tâm đến sự thật và cũng không quan tâm đến sức khỏe của chúng ta. “Băng nhóm” y tế hiện đại này chỉ quan tâm đến việc bảo vệ lợi nhuận của các công ty dược mà thôi. Hãy tưởng tượng có một loại thảo dược giúp làm dịu các cơn đau mạn tính do ung thư giai đoạn cuối. Chúng ta tạm gọi là “Mary Jane”. Nhờ công dụng của loại thảo dược kỳ diệu này, bệnh nhân ung thư khắp mọi nơi được sống cuộc sống không đau đớn, không nôn ọe, có cảm giác ngon miệng và không bị suy kiệt. Bạn sẽ nghĩ Mary Jane nên được trao cho tất cả các bệnh nhân ung thư, phải vậy không? Vâng, đáng buồn là bạn đã nhầm. Rất có khả năng, vì Mary Jane không thể được cấp giấy phép độc quyền nhãn hiệu, nó sẽ bị đặt ngoài vòng pháp luật như một loại “thuốc bất hợp pháp” và những người sử dụng Mary Jane để điều trị ung thư và giảm đau sẽ thành tội phạm. Chỉ có “thuốc hợp pháp” là được phép, cho dù thực tế nhiều thuốc hợp pháp gây chết người, trong khi nhiều “thuốc bất hợp pháp” (tức là, cây cỏ và thảo dược tự nhiên) hoàn toàn vô hại và thực sự có nhiều lợi ích cho sức khỏe. Mafia y tế không ngừng đàn áp những bác sĩ đưa ra những liệu pháp điều trị ung thư mới, hiệu quả, không độc hại, và họ bỏ qua mong muốn của bệnh nhân muốn thử những liệu pháp điều trị đó. Trong khi đó, họ tha thứ, hỗ trợ và bảo vệ bằng pháp luật những phương pháp của Big 3 đã được minh chứng là không hiệu quả và độc hại. Vấn đề quyết định không phải là điều trị ung thư thay thế có hiệu quả hơn so với Big 3. Vấn đề quyết định, thật đáng tiếc, lại là phác đồ nào sẽ đưa đến lợi nhuận lớn nhất cho người trục lợi từ thuốc (Big Pharma). Và những kẻ thắng là… Mafia Y tế và Big Pharma. Và những người thua là… các bệnh nhân ung thư! Chương 4: ĐIỀU TRỊ ĐỘC HẠI “Kết quả của hầu hết hóa trị liệu đều kinh khủng. Phương pháp này không có bất kỳ bằng chứng khoa học nào cho thấy khả năng kéo dài sự sống của bệnh nhân ung thư. Hóa trị là thứ vô dụng trong khoa học.” – Bác sĩ Ulrich Abel BIG 3 Nếu bạn bị ung thư, rất có khả năng bác sĩ của bạn đã hay sẽ sớm tư vấn cho bạn rằng chỉ có phẫu thuật, hóa trị, và/hoặc xạ trị là các phương pháp điều trị khả thi. Nếu bạn có một khối u, bác sĩ sẽ cố gắng cắt bỏ hoặc “cắt bớt” nhờ phẫu thuật. Sau khi cắt bỏ, họ thường đề nghị hóa trị để cố gắng tiêu diệt mọi tế bào ung thư còn lại bằng “độc chất”. Và họ sẽ kết thúc bằng xạ trị, để “đốt cháy” các tế bào ung thư còn sót lại. Đấy là lý do tại sao tôi và nhiều người khác xem phác đồ của Big 3 là “cắt bỏ, đầu độc và thiêu đốt”. Đây là phác đồ độc hại mà tất cả chúng ta đã bị làm cho mê muội để tin đó là cách điều trị ung thư tốt nhất. Hiện nay, với những tiến bộ trong y học hiện đại, người ta sẽ nghĩ rằng Big 3 đã cải thiện chẩn đoán ung thư, phải vậy không? Có phải hiện nay chúng ta có tỷ lệ chữa khỏi những người mắc bệnh ung thư lớn hơn so với năm 1950 không? Câu trả lời là “KHÔNG!”. Thực tế là thành tích của Big 3 rất thảm hại đến nỗi công nghiệp ung thư chỉ có thể coi đó là “thành công” nếu so sánh tỷ lệ sống sót của bệnh nhân điều trị theo Big 3 với tỷ lệ sống sót của bệnh nhân không điều trị gì cả! Các liệu pháp điều trị này đều xâm lấn, gây tác dụng phụ nghiêm trọng và chỉ điều trị triệu chứng, chứ không phải nguyên nhân gây ung thư. Thực tế là Big 3 gây ra sự di căn và tái phát ung thư! Theo số ra ngày 21 tháng 9 năm 1989 của tờ New England Journal of Medicine, “Những ung thư thứ phát là biến chứng phổ biến của liệu pháp hóa trị và xạ trị điều trị u lympho ác tính Hodgkin và phi Hodgkin cũng như các ung thư nguyên phát khác”. Bác sĩ Lucian Israel, một bác sĩ chuyên khoa ung thư nổi tiếng, đã lưu ý trong cuốn sách của ông Conquering Cancer (Chế ngự ung thư) rằng một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng bệnh nhân ung thư trải qua xạ trị có nhiều khả năng bị di căn ung thư đến các bộ phận khác trong cơ thể. Các chất phóng xạ sử dụng để tiêu diệt tế bào ung thư cũng gây nên các quá trình đột biến ADN tạo nên những tế bào ung thư mới loại khác. Trong cuốn sách The Cancer Industry (Công nghiệp ung thư), bác sĩ Ralph Moss nói: “Năm 1902, một bác sĩ người Đức ghi nhận trường hợp đầu tiên bức xạ gây ung thư ở người: khối u đã xuất hiện ở chỗ vết loét sâu do tiếp xúc với tia X. Nghiên cứu thực nghiệm được thực hiện vào năm 1906 đề ra giả thuyết rằng ung thư bạch cầu (ung thư máu) có thể phát sinh bởi tiếp xúc với nguyên tố phóng xạ radium. Vào năm 1911, 94 trường hợp ung thư do phóng xạ đã được báo cáo, hơn một nửa trong số họ (54) là các bác sĩ hoặc kỹ thuật viên. Năm 1922, hơn 100 bác sĩ X quang đã chết do tia X gây ra ung thư… Tôi từng tiếp một chuyên gia ung thư não tại phòng khách nhà tôi và biết được rằng ông sẽ không bao giờ làm xạ trị nếu bị u não. Tôi hỏi ông: “Nhưng, anh có gửi bệnh nhân đi xạ trị không?” và ông trả lời “Tất nhiên. Tôi sẽ bị tống ra khỏi bệnh viện nếu không làm thế.” Theo bác sĩ Robert F. Jones, viết trên Seattle Times ngày 27 tháng 7 năm 1980 “Các biến chứng sau xạ trị liều cao đối với ung thư vú là: ngực teo, rạn xương sườn, sẹo màng phổi và/hoặc sẹo phổi, tổn thương dây thần kinh, sẹo xung quanh tim… ngăn chặn tất cả tế bào máu, ức chế miễn dịch… Nhiều biến chứng xạ trị chỉ xảy ra vài năm sau khi điều trị. Tủy xương, trong đó các tế bào máu được sinh ra, bị phá hủy phần lớn trong môi trường chiếu xạ… Đây là một hiệu ứng không thể đảo ngược.” Trong cuốn sách Understanding Cancer (Hiểu về ung thư), bác sĩ John Laszlo (một cựu phó chủ tịch về nghiên cứu của ACS) chỉ ra khi hóa trị và xạ trị được làm cùng nhau, khả năng xảy ra ung thư thứ phát cao gấp 25 lần so với mức bình thường. Theo một nghiên cứu công bố trong Archives of Internal Medicine (2009), chụp cắt lớp vi tính (CT) gây ra ít nhất 29.000 trường hợp ung thư và 14.500 trường hợp tử vong ở Mỹ mỗi năm. Các nhà nghiên cứu thấy rằng những người này có thể đã chịu lượng bức xạ gấp bốn lần so với ước tính của các nghiên cứu trước đó. Dựa trên những đo lường chính xác hơn, một bệnh nhân có thể nhận lượng bức xạ từ một lần chụp CT tương đương 74 lần chụp X quang tuyến vú hoặc 442 lần chụp X quang ngực! Hầu như tất cả các phẫu thuật ung thư là không cần thiết. Theo bác sĩ Patrick McGrady: “Mặc dù việc phẫu thuật cắt bỏ hạch bạch huyết sau khi xạ trị đã được chứng minh là không thể ngăn chặn sự di căn của ung thư cổ tử cung, nhưng việc này vẫn thường xuyên được thực hiện trên cả nước. Đây rõ ràng là một phẫu thuật vô ích, chưa kể còn khiến phụ nữ rất khó chịu, sống không bằng chết.” Phẫu thuật thường là nguyên nhân cho sự di căn của ung thư, vì chỉ cần bác sĩ phẫu thuật phạm một sai lầm nhỏ hoặc xử lý bất cẩn mô khối u là có thể làm tràn hàng triệu tế bào ung thư vào máu của bệnh nhân. Sinh thiết cũng có thể dẫn đến lan truyền ung thư. Theo bác sĩ William Donald Kelley trong cuốn sách One Answer to Cancer (Giải đáp duy nhất cho ung thư): “Thường thì trong khi làm sinh thiết khối u ác tính được cắt ngang qua, và có xu hướng lan rộng ra hoặc thúc đẩy tăng trưởng. Kim sinh thiết có thể gây ra những kết quả bi thảm như vậy.” Một báo cáo năm 1986 trên tờ New England Journal of Medicine đánh giá tiến bộ chống ung thư ở Mỹ trong những năm 1950 đến 1982. Mặc dù có tiến bộ với một số hình thức ung thư hiếm gặp, chiếm 1‒2 % tổng số ca tử vong do căn bệnh này, báo cáo cho thấy tỷ lệ tử vong tổng đã tăng lên đáng kể từ năm 1950. “Khoảng 35 năm nỗ lực mạnh mẽ tập trung trên quy mô lớn vào cải thiện điều trị cần được đánh giá là thất bại”. Bản báo cáo kết luận thêm “Chúng ta đang thua trong cuộc chiến chống ung thư.” Khi Tổng thống Nixon tuyên bố “cuộc chiến ung thư”, các nhà nghiên cứu đã được tiếp cận hàng tỷ đô la tiền nghiên cứu dành cho nghiên cứu thuốc điều trị ung thư. Vì vậy, nếu là một bác sĩ y khoa kiếm tiền thông qua công bố nghiên cứu ung thư, tốt hơn là bạn đừng động đến hiện trạng (ví dụ Big 3), bởi vì nếu bạn làm vậy, sau đó bạn có thể bị rút tài trợ. Ví dụ, năm 1966, bác sĩ Irwin D. Bross và bốn đồng nghiệp đã công bố một loạt các bài báo mang tính đột phá nhan đề Is Toxicity Really Necessary (Độc tính có thực sự cần thiết không). Trong những bài viết này, họ chỉ đơn thuần đặt câu hỏi liệu có thể tìm thấy sự thay thế cho hóa trị và xạ trị, vì cả hóa trị và xạ trị đều rất độc hại. Kết quả là họ nhanh chóng bị mất tài trợ chính phủ cho các nghiên cứu thử nghiệm thuốc. Hóa trị mang tính chất độc hại, gây ung thư, phá hủy các tế bào hồng cầu, tàn phá hệ miễn dịch, và giết chết các cơ quan quan trọng. Hóa trị