🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tuyển tập truyện cổ tích thế giới
Ebooks
Nhóm Zalo
MỤC LỤC
1. NGƯỜI THỢ SĂN
2. SÁU CON THIÊN NGA
3. SÁU NGƯỜI HẦU
4. Ả GRÊTEN THÔNG MINH 5. ANH CHÀNG ĐÁNH TRỐNG 6. ANH VÀ EM GÁI
7. BA ANH EM
8. BA BÀ KÉO SỢI
9. BA CÔ CHỊ
10. BÀ LÃO CHĂN NGỖNG
11. BA NGƯỜI LÙN TRONG RỪNG 12. BA SỢI TÓC VÀNG CỦA QUỶ 13. BÁC NÔNG DÂN VÀ CON QUỶ 14. BẠCH TUYẾT VÀ HỒNG HOA 15. BẢY CON QUẠ
16. CÂY CỦ CẢI
17. CHÀNG KHỔNG LỒ TRẺ TUỔI 18. CHIM SƠN CA
19. CHIM ƯNG THẦN
20. CHỌN V
21. CHÚ BÉ NGHÈO DƯỚI NẤM MỒ 22. CHÚ BÉ TÝ HON
23. CHÚ HANH LƯỜI BIẾNG 24. CHÚ HANXƠ SUNG SƯỚNG 25. CÔ BÉ LỌ LEM
26. CÔ BÉ QUÀNG KHĂN ĐỎ 27. CỖ QUAN TÀI THUỶ TINH 28. CÔ BÉ CHĂN NGỖNG
29. CÔ HAI MẮT
30. CON NAM Ở AO
31. CON RẮN TRẮNG
32. CON THỎ BIỂN
33. CON NGỖNG VÀNG
34. CON MÈO ĐI HIA
35. CON QUỶ VÀ BÀ NÓ
36. CON QUỶ NHỐT TRONG LỌ 37. CUỘC NGAO DU CỦA TÝ HON
38. ĐỒ BỎ XÓ
39. ĐÓA HỒNG
40. ĐÔI GIÀY ỦNG DA TRÂU 41. ĐỨA CON VÀNG
42. GÃ XAY BỘT NGHÈO KHÓ 43. HAI ANH EM
44. HAI ÔNG CHÁU
45. HANXƠ SẮT
46. HÊNXEN VÀ GRÊTEN
47. HOÀNG ANH VÀ GẤU
48. JÔRINĐƠR VÀ JÔRIGƠN 49. LÊN THIÊN ĐÀNG
50. MÈO CHUỘT KẾT NGHĨA 51. NÀNG BẠCH TUYẾT
52. NGÔI NHÀ TRONG RỪNG 53. NGỌN ĐÈN XANH
54. NGƯỜI BẦY TÔI TRUNG THÀNH 55. NGƯỜI DA GẤU
56. NGƯỜI THỢ SĂN TÀI GIỎI 57. NHỮNG NGƯỜI KÔN
58. NƯỚC TRƯỜNG SINH
59. ONG CHÚA
60. QUÀ CỦA NGƯỜI TÝ HON 61. RAU LỪA
62. THẦN CHẾT ĐỠ ĐẦU
63. THỎ VÀ NHÍM
64. VỢ CHỒNG NGƯỜI ĐÁNH CÁ 65. VUA NÚI VÀNG
66. VUA QUẠ
67. VUA TRỘM
1. NGƯỜI THỢ SĂN
Ngày xưa có một vị Hoàng tử yêu vợ chưa cưới tha thiết. Một hôm, chàng đang ngồi bên nàng rất đỗi sung sướng thì nhận được tin cha ốm sắp chết muốn gặp mặt chàng trước khi nhắm mắt. Chàng bảo người yêu:
- Anh phải từ biệt em đi ngay. Anh tặng em chiếc nhẫn này làm kỷ niệm. Mai sau anh lên ngôi vua rồi, anh sẽ trở lại đón em.
Chàng lên ngựa ra đi. Khi chàng về gặp vua cha thì vua ốm thập tử nhất sinh sắp chết đến nơi. Vua cha phán:
- Con yêu dấu ạ. Cha muốn nhìn mặt con một lần cuối cùng trước khi chết. Con phải hứa với cha là sau khi cha chết đi, con sẽ lấy vợ theo ý muốn của cha.
Rồi vua cho chàng biết tên một nàng công chúa mà nàng phải lấy làm vợ. Trong lúc choáng váng cả người, Hoàng tử không suy nghĩ gì, chỉ thưa: - Thưa cha, con sẽ làm theo như ý cha.
Nhà vua, nhắm mắt từ trần. Hoàng tử lên ngôi vua. Hết thời gian tang lễ chàng phải giữ lời hứa với cha cho đi hỏi nàng công chúa ấy và được nàng nhận lời. Người vợ chưa cưới đầu tiên của chàng được tin đó buồn bã vì bị phụ tình ốm suýt chết.
Cha nàng liền hỏi nàng:
- Con yêu dấu, làm sao con buồn rầu thế? Con ước muốn gì, cha cũng cho.
Nàng nghĩ một lúc rồi nói:
- Thưa cha, con mong ước có mời một thiếu nữ từ mặt mũi, hình dáng, vóc người đều giống con y hệt.
Vua cha nói:
- Nếu là điều có thể làm được thì điều ước của con nhất định sẽ thành sự thật.
Vua sai người đi tìm trong khắp nước kỳ cho đến khi được đủ mười một thiếu nữ giống con gái mình y hệt, từ mặt mũi hình dáng, đến khổ người. Khi các thiếu nữ có đến trước công chúa, nàng cho may mười hai bộ quần áo đi săn y hệt nhau, cho mười một cô mặc vào, chính nàng cũng mặc một bộ. Sau đó, nàng từ biệt vua cha, cùng họ lên ngựa đi đến triều đình của người chồng chưa cưới cũ mà nàng đã yêu tha thiết. Nàng đến hỏi xem nhà vua có cần thợ săn và có muốn mượn cả mười hai người không? Vua nhìn nàng nhưng không nhận ra được. Vua thấy họ đẹp quá nên đồng ý mượn cả. Thế là họ thành mười hai người thợ săn của nhà vua. Nhà vua vốn có một con sư tử. Đó là con vật kỳ lạ biết hết mọi điều bí
ẩn. Một buổi tối nó nói với nhà vua:
- Bệ hạ đinh ninh là có mười hai người thợ săn phải không? Vua bảo: - Đúng, đó là mười hai người thợ săn.
Sư tử lại nói tiếp:
- Bệ hạ lầm rồi, đó là mười hai thiếu nữ đấy.
Vua đáp:
- Nhất định không đúng. Người làm thế nào chứng minh được việc ấy! Sư tử đáp:
- Ồ dễ thôi, bệ hạ chỉ việc rải đỗ vào phòng thì biết ngay. Đàn ông bước mạnh nên khi giẫm lên đỗ thì không hạt nào động đậy, nhưng phụ nữ bước thì thoăn thoắt lại hay xoay chân, hạt đỗ sẽ lăn đi.
Vua khen là kế hay, cho rắc hạt đỗ.
Nhưng có người hầu nhà vua có lòng tốt đối với những người thợ săn, nghe thấy nói nhà vua nhất định thử họ, liều đi kể cho biết hết và bảo: - Sư tử nó muốn mách nhà vua rằng các người là gái cả đấy. Công chúa cảm ơn bác ta rồi bảo các cô thiếu nữ:
- Các em cố sức giẫm mạnh lên các hạt đỗ nhé.
Sáng hôm sau nhà vua truyền mười hai người thợ săn đến phòng có rải hạt đỗ. Các cô thiếu nữ cố giẫm thật mạnh, bước đi của họ khỏe và chắc đến nỗi không một hạt đỗ nào lăn hoặc chuyển động, sau khi họ đi khỏi, nhà vua bảo sư tử:
- Mày đánh lừa tao rồi, chúng đi chắc bước, đó là đàn ông. Sư tử đáp:
- Vì biết là bị thử thách nên họ đã gắng đi cho chắc bước. Bệ hạ cứ để mười hai chiếc guồng kéo kéo sợi vào phòng, họ sẽ mừng rỡ và xán lại ngay, đàn ông thì không bao giờ thế.
Nhà vua cho là kế hay, bèn sai để guồng kéo sợi vào phòng. Nhưng người hầu vốn thật thà với những người thợ săn, đến nói lộ cho họ biết hết mưu kế. Công chúa bảo riêng mời một thiếu nữ: "Các em cố nhịn đừng có ngó tới guồng kéo sợi nhé". Sáng hôm sau vua cho triệu mười hai người thợ săn đến, họ vào phòng không chú ý gì đến guồng sợi. Vua lại bảo sư tử:
- Mày đánh lừa tao. đúng là đàn ông rồi, vì chúng không nhìn gì đến guồng kéo sợi
Sư tử đáp:
- Họ biết là bị thử thách nên cố nhịn đấy.
Nhưng vua nhất định không tin sư tử nữa.
Ngày nào mười hai người thợ săn cũng theo vua đi săn, càng ngày vua càng yêu quí họ. Một hôm trong khi họ đi săn, thì được tin vợ chưa cưới của nhà vua sắp tới. Người vợ chưa cưới chính thức nghe vậy đau khổ quá. Tim
bị nhói lên ngã lăn xuống đất bất tỉnh nhân sự.
Vua tưởng là người thợ săn yêu quí của mình bị làm sao vội chạy lại cứu… Vua lại tháo bao tay ấy thì thấy chiếc nhẫn mình đã tặng cho người vợ chưa cưới thứ nhất. Vua nhìn mặt nhận ra nàng. Lòng vua hồi hộp, vua hôn nàng lúc nàng mở mắt, vua bảo:
- Em là của anh, anh là của em. Thiên hạ không ai thay đổi được điều ấy. Vua phái sứ giả đến gặp người vợ chưa cưới kia xin nàng quay về nước vì vua đã có vợ rồi. Ai đã tìm thấy chiếc chìa khóa cũ thì không cần đến chiếc mới nữa.
Sau đó hôn lễ được cử hành. Sư tử được tha tội, vì quả là nó nói đúng sự thật.
Câu chuyện ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người con gái và tình yêu bất diệt. Với tình yêu chân chính, con người luôn tìm được hạnh phúc dài lâu. 6
2. SÁU CON THIÊN NGA
Ngày xưa có một ông vua đi săn ở một khu rừng lớn, vua đuổi đuổi theo một con thú hăng quá nên quân hầu không ai theo kịp. Tối đến, vua đứng lặng nhìn quanh, thấy đã bị lạc đường, không tìm được lối ra. Bỗng vua thấy có một mụ già, đầu lắc lư đi tới: đó là một mụ phù thủy. Vua bảo mụ:
- Này cụ, cụ có thể làm ơn chỉ cho tôi lối ra khỏi rừng được không? Mụ đáp:
- Tâu bệ hạ, được chứ. Cái đó già làm được, nhưng với một điều kiện mà nếu bệ hạ không chấp nhận thì bệ hạ không bao giờ ra được khỏi rừng này và sẽ chết đói ở đây.
Vua hỏi:
- Điều kiện gì hở cụ?
- Già có một đứa con gái đẹp nhất đời. Bệ hạ chưa từng thấy ai đẹp đến thế đâu, thật xứng đáng làm vợ vua. Nếu bệ hạ đồng ý lấy nó làm hoàng hậu thì già sẽ chỉ đường cho bệ hạ ra khỏi rừng.
Trong lúc hoảng sợ, vua bằng lòng ngay. Mụ già dẫn vua đến ngôi nhà nhỏ của mụ. Con gái mụ ngồi bên lửa. Cô đứng dậy ra đón vua ngay, như đã sẵn sàng chờ vua đến. Vua thấy cô tuyệt đẹp nhưng không thích, nhìn cô, vua cảm thấy rờn rợn. Sau khi vua đặt cô lên mình ngựa thì mụ chỉ đường cho vua.
Vua về đến cung điện làm lễ cưới.
Nguyên vua đã lấy vợ một lần và hoàng hậu sinh được bảy con, sáu trai một gái, vua yêu quí vô cùng. Sợ người dì ghẻ đối với con mình không tốt mà còn có thể làm khổ chúng nữa vua đưa chúng đến ở một tòa lâu đài hiu quạnh giữa rừng sâu. Lâu đài rất kín, đường đi đến khó mà tìm được, chính vua cũng không tìm ra đường nếu không được một bà lão cho một cuộn chỉ có phép lạ. Khi vua ném cuộn chỉ về phía trước, nó sẽ tự gỡ ra và chỉ đường cho vua. Nhà vua luôn luôn đi thăm các con yêu dấu, nên hoàng hậu để ý đến sự vắng mặt của vua, Mụ dì ghẻ tò mò muốn biết vua đi vào rừng một mình làm gì. Mụ bèn cho thị vệ của vua nhiều tiền, chúng nói lộ bí mật cho mụ biết và nói cả đến cuộn chỉ biết đưa đ
Mụ bứt rứt không yên tâm, mãi cho đến lúc mụ tìm ra được chỗ vua để cuộn chỉ. Mụ bèn may một số áo lót bằng lụa trắng và khâu bùa vào vì mụ học được ít phép của mẹ. Một hôm, vua ruổi ngựa đi săn vắng, mụ mang áo đi theo cuộn chỉ dẫn đường vào rừng. Bọn trẻ thấy từ xa có bóng người đến tưởng là cha yêu dấu, vội vui mừng chạy lại đón. Mụ bèn tung trùm lên mỗi đứa một cái áo, áo vừa đụng vào người thì chúng biến ra thiên nga bay vượt qua rừng biến mất.
Mụ hớn hở về nhà, tưởng là đã trừ được lũ con chồng. Nhưng mụ không
ngờ là còn cô con gái không chạy ra đón cha cùng các anh. Một hôm, vua đến thăm các con thì chỉ thấy con gái thôi. Vua hỏi: - Các anh con đâu?
Cô đáp:
- Trời ơi, cha yêu dấu! Các anh con đi mất rồi, bỏ lại mình con. Rồi cô kể cho vua nghe cô đứng ở cửa sổ nhìn thấy những gì, các anh cô hóa thiên nga bay qua rừng thế nào, và đưa cho vua xem những lông chim cô nhặt được ở ngoài sân. Vua rất buồn bã nhưng không ngờ là hoàng hậu làm việc độc ác ấy. Vua sợ cô gái cũng bị mất nốt nên định mang cô đi cùng. Nhưng cô sợ dì ghẻ nên xin vua hãy để cô ở lại tòa lâu đài trong rừng đêm ấy nữa.
Cô gái đáng thương nghĩ bụng:
- Mình không thể ở đây lâu được nữa, mình phải tìm các anh mới được. Đêm đến, cô trốn vào rừng. Cô đi suốt đêm hôm ấy cả ngày hôm sau, mãi đến lúc mệt quá không đi được nữa. Lúc đó, cô thấy một chiếc lều hoang. Cô bước vào thì thấy một căn buồng có sáu chiếc giường nhỏ. Nhưng cô không dám nằm vào chiếc nào, mà chui xuống nằm ở gầm giường, định ngủ đêm đó trên nền đất rắn
Nhưng tới lúc mặt trời sắp lặn cô nghe có tiếng lào xào và thấy sáu con thiên nga bay qua cửa sổ chui vào. Chúng ngồi xuống đất, thổi lẫn cho nhau, cho bay hết lông; bộ lông thiên nga trút ra như một chiếc áo lót. Cô gái nhận ra các anh mình, mừng lắm, chui ở gầm giường ra. Các anh trông thấy em cũng mừng rỡ chẳng kém. Nhưng vui chẳng được bao lâu, các anh bảo em:
- Em không ở đây được đâu. Đây là sào huyệt của bọn cướp, chúng về thấy em sẽ giết em mất.
Em hỏi:
- Thế các anh có cách nào che chở em không?
Các anh nói:
- Không, vì mỗi tối, các anh chỉ có thể trút bộ lông thiên nga, hiện nguyên hình người trong một khắc đồng hồ, sau đó lại phải biến thành thiên nga.
Em khóc hỏi:
- Thế không có cách nào giải thoát các anh à?
Các anh đáp:
- Không được đâu! Khó lắm. Trong sáu năm, em không được nói được cười. Trong thời gian ấy, em phải may cho các anh sáu chiếc áo lót nhỏ bằng hoa thúy cúc. Nếu em nói nửa lời là công toi hết.
Các anh vừa nói xong thì một khắc đồng hồ đã qua, các anh lại biến thành thiên nga bay qua cửa sổ mất.
Cô gái nhất định giải thoát cho các anh, dù có phải hy sinh tính mạng. Cô rời bỏ chiếc lều hoang, vào giữa rừng, leo lên cây ngủ đêm. Sáng hôm sau,
cô đi hái hoa thúy cúc và bắt đầu khâu áo. Cô chẳng nói năng được với ai mà cũng chẳng buồn hé miệng cười. Cô chỉ ngồi một chỗ chăm chú Một thời gian đã qua. Vua xứ ấy cùng thợ săn vào rừng tìm thú, đến cây cô ngồi. Họ gọi cô:
- Cô hãy xuống đây với chúng tôi, chúng tôi không hại gì cô đâu. Cô chỉ lắc đầu. Họ hỏi dồn mãi, cô liền ném xuống cho họ chiếc dây chuyền đeo cổ bằng vàng, tưởng làm như thế cho họ yên đi. Nhưng họ vẫn không chịu thôi, cô liền vứt chiếc thắt lưng của cô xuống. Thấy vẫn chưa ổn cô vứt thêm nịt bít tất, rồi dần dần dần vứt tất cả các thứ mặc trên người có thể vứt được, đến nỗi cô chỉ còn chiếc áo lót.
Những người thợ săn không vì thế mà chịu lùi. Họ trèo lên cây, ẵm cô xuống đưa đến trước mặt vua.
Vua hỏi:
- Nàng là ai? Nàng ngồi trên cây làm gì?
Cô không đáp. Vua dùng đủ các thứ tiếng vua biết mà cô vẫn câm như hến. Nhưng cô đẹp quá khiến lòng vua rung động. Vua yêu cô tha thiết. Vua khoác áo ngực cho cô, đặt cô lên kiệu ngồi trước mình đưa về cung điện. Vua cho cô mặc quần áo sang trọng, cô đẹp lộng lẫy như một ngày nắng đẹp, nhưng cô vẫn không nói nửa lời. Vua đưa cô lại ngồi ở bàn ăn, cho ngồi bên mình.
Dáng điệu nhu mì và e lệ của cô khiến vua rất hài lòng.
Vua nói:
- Ta thiết tha muốn lấy cô này, ta không lấy một ai khác trong thiên hạ đâu.
Mấy hôm sau, vua lấy nàng.
Vua có một bà mẹ ghẻ độc ác, không bằng lòng với đám cưới này, và nói xấu hoàng hậu trẻ tuổi. Bà bảo:
- Không biết cái con này ở đâu ra mà nó không nói năng gì được. Nó không xứng đáng làm vợ vua.
Hơn một năm sau, khi hoàng hậu sinh con đầu lòng. Mụ bắt trộm đi và lừa khi nàng ngủ bôi máu vào mồm nàng. Rồi mụ tâu vua là nàng ăn thịt người.
Vua không tin, không để ai làm hại nàng. Lúc nào nàng cũng ngồi khâu áo lót, ngoài ra không để ý đến cái gì khác. Lần sau, nàng lại sinh một đứa con trai kháu khỉnh. Mẹ ghẻ quỉ quyệt lại lừa vua như lần trước. Vua vẫn nhất định không tin lời mụ. Vua bảo:
- Nàng trong sạch và tốt bụng, không thể làm việc ấy đâu. Nếu nàng nói được và có thể tự bênh vực được thì sẽ minh oan được.
Nhưng đến lần thứ ba, mụ già lại ăn trộm đứa bé mới đẻ và lại tố cáo hoàng hậu. Nàng vẫn không nói nửa lời để minh oan. Vua không làm khác được phải đưa nàng ra tòa xử. Nàng bị kết tội chết thiêu.
Đã đến ngày hành hình, cũng là ngày cuối cùng của thời gian sáu năm không được nói, cười, ngày nàng sẽ giải thoát được các anh khỏi yêu thuật. Sáu chiếc áo lót đã khâu xong chỉ còn thiếu cánh tay áo chiếc cuối cùng. Khi nàng bị dẫn đến đống củi, ở dưới sắp châm lửa, nàng nhìn quanh thì thấy sáu con thiên nga bay trên không lại. Nàng cảm thấy mình sắp được cứu thoát, lòng mừng khôn xiết.
Thiên nga bay rào rào tới chỗ nàng, sà xuống thấp để nàng có thể ném áo lót lên tới được. Áo vừa đụng chim thì lông thiên nga rơi xuống liền, các anh nàng hiện lên hình người đứng trước nàng, vui vẻ, đẹp đẽ. Chỉ có người em cuối cùng là chiếc áo còn thiếu cánh tay trái vì vậy ở lưng còn có một cánh thiên nga. Anh em ôm nhau hôn trìu mến; hoàng hậu đến tìm vua, vua rất đỗi ngạc nhiên. Nàng nói:
- Tâu bệ hạ, giờ thiếp mới được phép nói và bộc lộ là thiếp đã bị oan. Nàng kể lại âm mưu mụ già đã lấy trộm ba đứa con đem giấu đi. Vua tìm được con mừng rỡ lắm, còn mụ dì ghẻ cay kia phải đền tội. Mụ bị trói trên đống lửa và bị thiêu ra tro. Vua và hoàng hậu cùng sáu anh hưởng hạnh phúc dài lâu.
Các em vừa được đọc một trong những câu chuyện hay trong bộ truyện cổ Grim. Truyện ca ngợi tấm lòng vàng của người con gái biết hy sinh tất cả để cứu các anh mình. Nàng rất xứng đáng được hưởng hạnh phúc lâu dài. 6
2. SÁU NGƯỜI HẦU
Xưa có một bà hoàng hậu già, vốn là một mụ phù thủy. Mụ sinh được một con gái đẹp vào bậc nhất trên đời. Nhưng mụ vốn chỉ tìm cách hại người nên mụ vẫn bảo: Ai đến cầu hôn cũng phải làm một việc đã, làm được mụ sẽ gả con gái cho, mà làm không xong thì mất mạng. Đã nhiều người chỉ vì mê nhan sắc phải liều thân nhưng làm chẳng nổi các việc mụ giao đành chịu quì gối rơi đầu.
Có vị hoàng tủ nghe đồn về sắc đẹp của người con gái ấy, tâu vua cha: - Cha cho con đi cầu hôn thử.
Vua khuyên hoàng tử:
- Không khi nào cha ưng đâu con ạ. Con đi là đi vào cõi chết đấy! Hoàng tử ốm tương tư nằm liệt giường suốt bảy năm không thầy thuốc nào chữa được. Vua thấy đã tuyệt vọng, buồn lắm, bảo con: - Thôi thế con cứ đi mà cầu may vậy. Cha cũng chẳng còn cách nào khác để giúp con nữa.
Hoàng tử nghe cha nói, đứng dậy ngay. Chàng thấy trong người lại khỏe và hớn hở lên đường.
Một hôm chàng đang phi ngựa cánh đồng hoang, bỗng thấy ở xa lù lù một vật gì tựa đống cỏ lớn. Lại gần nhìn kỹ, hóa ra đấy là bụng một anh chàng đang nằm dài dưới đất. Cái bụng ấy bằng quả núi con. Gã béo thấy có người phi ngựa đến vội đứng lên thưa:
- Nếu như ngài cần người, tôi xin theo hầu.
Hoàng tử đáp:
- Cồng kềnh như ngươi, ta biết dùng làm gì đây?
Gã béo nói:
- Thưa, chưa thấm vào đâu, tôi mà phình người ra thật sự, còn lớn gấp ba ngàn lần nữa.
Hoàng tử bảo:
- Nếu quả như thế thì có cơ dùng được. Ngươi đi với ta.
Gã béo đi theo hoàng tử. Lúc sau, lại thấy một người nằm dài dưới đất ghé tai sát mặt cỏ. Hoàng tử hỏi:
- Ngươi làm gì thế?
Người ấy đáp:
- Tôi đang lắng nghe.
- Nghe gì mà chăm chú thế?
- Nghe xem trên thế gian mới có chuyện gì xảy ra. Chẳng có gì lọt được khỏi tai tôi. Đến tiếng cỏ mọc tôi cũng nghe thấy.
Hoàng tử bảo:
- Thế ngươi thử nói xem, ngươi đã nghe trong triều của bà hoàng hậu già
có cô con gái đẹp nhất đời ấy?
Gã đáp:
- Tôi nghe có tiếng gươm chém soàn soạt: hẳn có kẻ đến cầu hôn bị chặt đầu.
Hoàng tử bảo gã:
- Đi với ta, có thể ta cần đến ngươi.
Ba người cùng đi. Lúc sau, họ thấy như có hai bàn chân ai ở trước mặt họ. Họ thấy cả bắp chân nhưng không nhìn được suốt hết. Họ lại đi một quãng đường nữa mới trông thấy thân người, rồi đi mãi mới trông thấy đầu. Hoàng tử thét lên:
- Chao ôi! Người đâu mà dài quá!
Gã người dài đáp:
- Nào đã thấm vào đâu! Tôi mà vươn ra thật sự thì còn dài đến gấp ba ngàn lần nữa, cao hơn quả núi cao nhất thế giới. Nếu người cần hỏi tôi, tôi xin theo hầu. Hoàng tử bảo gã:
- Đi với ta, có thể ta cần đến ngươi.
Họ đi một quãng, thấy có người hai mắt bịt chặt ngồi bên lề đường. Hoàng tử hỏi:
- Mắt ngươi hỏng hay sao mà không dám nhìn ra ánh sáng thế? Gã đáp:
- Không phải đâu! Tôi không dám gỡ khăn bịt mắt chính là vì nhãn quang mạnh lắm. Tôi đã nhìn vật gì, vật ấy ắt nổ tung. Nếu người dùng được Hoàng tử bảo gã:
- Đi với ta, có thể ta cần đến ngươi.
Họ lại đi và thấy một người đang nằm sưởi giữa nắng mà cứ run cầm cập, tay chân lẩy bẩy. Hoàng tử hỏi:
- Trời đang nóng ngột ngạt mà sao người lại rét được?
Gã đáp:
- Trời ơi, cơ thể tôi nó rất lạ. Người ta càng thấy bức thì tôi càng thấy rét, rét thấu xương thấu tủy. Ngược lại trời càng giá thì tôi càng thấy oi bức. Tôi ngồi giữa đồng bằng mà thấy oi bức không chịu nổi. Lúc ngồi giữa đống lửa mà thấy rét không chịu nổi.
Hoàng tử bảo:
- Thật là người kỳ dị! Ngươi có muốn theo ta thì đi với ta.
Họ lại đi tiếp và gặp một người đang vươn cổ mà dòm qua các chỏm núi. Hoàng tử hỏi:
- Ngươi làm gì mà hăng thế?
Gã bảo:
- Tôi có cặp mắt rất sáng, nhìn thấu mọi núi cao, rừng rậm, đồng ruộng, lũng sâu, có thể thấy khắp cả thế gian.
Hoàng tử bảo gã:
- Nếu ngươi thuận thì đi với ta. Ta đang thiế tài ấy.
Hoàng tử đem sáu người hầu đến thẳng thành đô, chỗ mụ hoàng hậu già ngự trị. Chàng không để lộ tung tích, chỉ nói;
- Nếu người định gả con gái cho tôi thì sai gì tôi cũng làm. Mụ phù thủy thấy chàng đẹp trai, thế mà sa vào tay mụ thì mừng lắm. Mụ bảo:
- Tao sẽ giao cho mày ba việc, làm được cả thì ta gả con cho. Chàng hỏi:
- Việc thứ nhất là việc gì?
- Trước tao có đánh rơi xuống Hồng Hải mất một cái nhẫn, mày đi tìm về cho tao.
Hoàng tử lẻn về bảo sáu người hầu:
- Việc thứ nhất không dễ đâu, ta phải tìm một cái nhẫn rơi ở Hồng Hải, biết làm sao bây giờ?
- Để tôi xem nó chỗ nào? - Gã mắt sáng nói.
Gã ngó một lúc rồi nói:
- Kia rồi! Nó bị mắc trên một mũi đá ngầm.
Gã người dài duỗi lưng nói:
- Tôi lấy được ngay, chỉ tiếc chưa nhìn thấy
Gã béo hét:
- Chỉ cần thế thôi à?
Gã nằm phục xuống, ghé miệng sát mặt nước. Sóng biển xô nhau vào một hang ngầm. Gã uống một hơi dài cạn sạch nước, còn trơ đáy biển ráo khô như bãi cỏ. Lúc ấy, gã người dài mới cúi xuống, gã chỉ hơi nghiêng mình đã nhặt được nhẫn. Hoàng tử cầm nhẫn, mừng lắm, mang ngay về cho mụ già. Mụ kinh ngạc quá, kêu:
- Ừ, đúng cái nhẫn này rồi! Việc thứ nhất may mắn đã xong, nhưng còn việc nữa. Mày có thấy ba trăm con bò mộng đang ăn cỏ ở ngoài bãi trước lâu đài không? Mày phải ăn được bằng hết ba trăm con bò ấy, phải ngốn cả da, lông, xương, sừng. Dưới hầm có ba trăm thùng rượu vang, mày cũng phải nốc cho bằng cạn. Không được để sót một sợi lông bò, một giọt rượu. Bằng không, mày sẽ không còn được hoàn mạng.
Hoàng tử hỏi:
- Liệu tôi có được mời bạn cùng ăn không? Ăn uống thiếu bạn phỏng còn thú vị gì.
Mụ già cười nham hiểm:
- Cho mày mời một đứa bạn, Nhưng chỉ được một đứa thôi. Hoàng tử ra tìm sáu người hầu và bảo gã béo:
- Hôm nay ngươi là khách của ta, cứ việc ăn thật no nhé.
Gã béo căng bụng ăn một lúc hết sạch đàn bò ba trăm con, đến sợi lông cũng không còn. Ăn xong gã còn hỏi liệu sau bữa điểm tâm ấy có gì nữa
không. Gã tu cạn mấy trăm thùng rượu, chẳng cần rót ra cốc, chẳng bỏ sót một giọt.
Bữa ăn đã xong, Hoàng tử vào báo cho mụ già biết
Mụ kinh ngạc lắm, bảo:
- Chưa có đứa nào làm được thế, nhưng còn việc nữa.
Mụ nghĩ bụng: "Đằng nào rồi mày cũng mất đầu, thoát khỏi tay ta sao được".
Mụ hẹn:
- Tối nay, tao sẽ cho con gái vào phòng mày. Mày phải ôm nó mà ngồi suốt đêm, cấm ngủ. Đúng nửa đêm, tao sẽ đến xem. Nếu lúc ấy mày buông tay ra rồi, tức là mày thua cuộc.
Hoàng tử nghĩ thầm: "Khó gì việc này, ta thức được". Nhưng chàng vẫn gọi các người hầu vào, nói cho họ biết và bảo:
- Ai biết mưu sâu của nó thế nào! Cẩn thận vẫn hơn, các ngươi hãy thức canh và phải chú ý, chớ để nàng ra khỏi phòng.
Tối, mụ già đưa con lại, giao tận tay hoàng tử. Gã người dài vội nằm khoanh lại thành một cái vòng quanh hai người, còn gã béo đứng cạnh ngay trước cửa. Họ tưởng thế là chắc, không ai lọt vào nổi. Hai người ngồi trong, cô gái chẳng nói một câu nhưng nhờ ánh trăng rọi chếch qua cửa sổ soi tỏ khuôn mặt cô nên Hoàng tử vẫn thấy được dung nhan tuyệt vời ấy. Chàng cứ ngắm hoài, yêu thương, mừng rỡ tràn đầy, không hề thấy mỏi mắt. Khoảng mười một giờ khuya, mụ già niệm chú cho mọi người thiếp đi, rồi mụ hóa phép cướp người con gái.
Họ thiếp đi cho đến tận mười một giờ bốn lăm. Khi ấy yêu thuật hết linh nghiệm mọi người tỉnh dậy. Hoàng tử kêu:
- Vạ đến nơi rồi! Ta thua cuộc rồi!
Mấy người trung thành cũng bắt đầu than thở, bỗng gã thính tai bảo: - Im nào, để tôi xem nào!
Gã lắng tai nghe một lúc rồi bảo:
- Cô ấy đang ngồi than thân trong một quả núi đá, cách đây ba trăm giờ đi bộ. Cậu người dài là người duy nhất làm nổi việc này: cậu cứ duỗi dài người ra thì chỉ cần bước dăm bước là đến nơi.
Gã người dài bảo:
- Được, nhưng cậu mắt sắc phải đi với tớ, ta sẽ cùng dọn quả núi ấy đi. Nói đoạn, gã xốc luôn gã bịt mắt lên vai và chỉ trong nháy mắt, chưa kịp trở bàn tay hai gã đã đứng trước quả núi yểm bùa. Gã người dài vội tháo cái khăn bịt mắt gã kia. Gã kia mới trừng mắt, cả quả núi đã nổ tan ra ngàn vạn mảnh. Gã người dài vội bế bổng cô thiếu nữ lên và chỉ trong nháy mắt, gã đã về đến nơi. Gã lại đi đón nốt bạn về, cũng nhanh như thế. Trước khi đồng hồ điểm mười hai tiếng, họ đã ngồi lại cả ở đó, tỉnh táo và hớn hở. Đúng nửa đêm, mụ già rón rén bước lại. Vẻ mặt mụ kiêu kỳ như muốn
bảo: "Giờ thì mày ở trong tay tao rồi".
Mụ cứ tưởng con gái vẫn còn ngồi trong núi cách đây ba trăm dặm. Ngờ đâu mụ thấy con vẫn ngồi nguyên trong tay hoàng tử. Mụ kinh hãi quá, kêu: - Thằng này thật cừ hơn ta!
Mụ còn biết nói sao nữa, đành phải gả con gái cho Hoàng tử nhưng mẹ khẽ rỉ tai con:
- Thật là nhục cho con, không kiếm được tấm chồng tương xứng, để từ nay cứ phải vâng theo một đứa thường dân.
Người con gái bị tổn thương lòng kiêu kỳ sinh căm giận, nghĩ cách báo thù.
Sáng hôm sau, nàng sai chở ba trăm thước gỗ đến rồi nói với hoàng tử: "Mặc dầu ba việc đã làm xong, ta sẽ chỉ lấy chàng khi nào có kẻ dám ngồi giữa đống gỗ cháy mà chịu được lửa". Nàng nghĩ chẳng kẻ hầu nào chịu thiêu mình vì chủ đâu và vì yêu nàng tất chàng sẽ phải đích thân ngồi vào, thế là nàng thoát.
Sáu người hầu bàn nhau: "Bọn mình ai cũng đã được một việc, chỉ có cậu rét run chưa làm gì, giờ đến lượt cậu ấy". Họ đã khiêng gã rét run lên đống gỗ rồi đốt lửa. Lửa cháy suốt ba ngày, cả đống gỗ ấy ra tro. Nhưng lửa vừa mới lụi đã thấy người rét run đứng dậy giữa đống tro run rẩy như tầu lá mà bảo.
- Đời tôi chưa khi nào thấy rét như thế này, rét thêm tý nữa chắc là chết cóng mất!
Người con gái đẹp không còn kế nào khác, đành nhận lời lấy chàng trai lạ mặt. Nhưng lúc họ lên xe ra nhà thờ làm lễ cưới, mụ già lại nói: - Tao không chịu được cái nhục này!
Mụ sai binh tướng đuổi theo, hạ lệnh chúng phải giết sạch và đem bằng được con gái về cho mụ. Không ngờ gã thính tai nghe được cả những lời dặn dò kín đáo ấy. Gã hỏi gã béo:
- Làm thế nào đây?
Nhưng gã này đã có kế rồi, gã nhổ ngay nước biển đã uống khi trước, mới nhổ vài bãi đã thành cái hồ lớn chặn đường cỗ xe. Đám binh tướng của mụ già không sao tiến được và bị chết đuối rất nhiều. Mụ già biết tin lại cho một đội giáp binh nữa đuổi theo. Nhưng gã thính tai đã kịp nghe thấy tiếng đồ binh giáp va nhau lách cách. Gã giật cái khăn bịt mắt gã mắt sắc. Gã này mới chỉ hơi trừng mắt, quân thù đã tan tành như mớ thủy tinh vụn.
Đoàn người yên chí đánh xe đi tiếp. Khi cặp vợ chồng vào nhà thờ làm phép cưới đã xong, sáu người hầu nói với ch
- Giờ Người đã toại nguyện, không cần đến chúng tôi nữa. Chúng tôi xin đi nơi khác tìm vận hội.
Ở trước cung điện của hoàng tử, cách độ một nửa giờ đi bộ, có một cái thôn nhỏ. Lúc họ đi ngang đấy, thấy một người đang chăn lợn ngoài thôn.
Hoàng tử bảo vợ:
- Nàng có biết thật ta là ai không? Ta không phải là con vua đâu mà chỉ là con của một người chăn lợn. Người chăn lợn kia chính là cha ta đấy. Rồi đôi ta cũng sẽ phải giúp cha một tay.
Nói đoạn, chàng xuống xe. Dắt ngang vào quán trọ. Chàng rỉ tai bảo kẻ hầu trong quán, đợi đêm lấy trộm quần áo sang trọng của hai người đi. Sáng hôm sau, lúc hai người thức dậy, quần áo mất sạch chẳng còn gì mặc. Mụ chủ cầm vào cho nàng một cái áo cũ với đôi tất đen cũng đã cũ. Mụ còn làm như món quà lớn lắm, mụ bảo:
- Không có chồng cô, tôi chẳng cho cô tí gì đâu!
Nàng lại càng tin: "Đúng chồng mình chỉ là anh chăn lợn". Nàng cũng đi chăn lợn với chồng và nghĩ bụng: "Cũng là đáng đời mình, cứ hay kiêu kỳ ngạo nghễ". Như thế được tám hôm, chân nàng đau nhức quá không thể chịu được nữa.
Khi ấy có một người đến hỏi nàng có biết chồng nàng là ai không. Nàng đáp:
- Có chứ! Là anh chàng chăn lợn. Nhà tôi vừa ra xong, hình như đi mua dây bán rợ gì đấy.
Nhưng mấy người nọ bảo:
- Lại đằng này đi, chúng tôi sẽ đưa chị đến nơi.
Họ dẫn nàng lên cung điện. Lúc nàng vào đến phòng lớn thì chồng nàng đã ở đấy, mình khoác hoàng bào, nhưng nàng không nhận ra. Mãi đến lúc chồng bá cổ hôn nàng mới biết.
Chàng bảo:
- Ta chịu khổ vì em đã nhiều, nên em cũng cần chịu khổ vì ta. Đám cưới được tổ chức ngay và người kể chuyện này cũng rất muốn đến dự.
Câu chuyện đưa các em qua nhiều tình tiết thật hấp dẫn và lý thú. "Quả quýt dày thì có móng tay nhọn", mọi phép thuật của bà Hoàng Hậu độc ác đã bị sáu người hầu phá còn Hoàng Tử được hưởng hạnh phúc trọn vẹn.
4. Ả GRÊTEN THÔNG MINH
Ngày xưa có một cô ả nấu bếp tên là Grêten. Ả thường đi giày gót đỏ khi dạo chơi, ả ngó đông ngó tây, thích chí nghĩ bụng mình cũng vào loại xinh đấy chứ. Về đến nhà, ả cao hứng uống ngụm rượu vang; ả nếm tất cả những món ăn ngon nhất ả đã nấu, nếm đến no nê. Ả nói: "Người nấu bếp là phải biết món ăn mình nấu vị ra sao chứ!".
Một hôm ông chủ bảo ả: "Grêten này, tối nay nhà có khách mày hãy thịt hai con gà mái, mà nấu cho ngon nhé" - "Thưa ông, xin ông hãy để cháu lo, Grêten trả lời.
Ả giết hai con gà mái, nhúng nước sôi, làm lông, xiên vào xiên, đến chiều thì mang quay trên lửa. Gà vàng dần và đã vàng rộm đều mà khách vẫn chưa đến, Grêten thưa với chủ: "Thưa ông, nếu khách chưa đến thì cháu phải nhấc con gà ra khỏi lửa. Thật là đáng tiếc. Gà vừa chín tới, tí nữa ăn ngay thì ngọt thật".
Chủ nói: "Thôi để tao chạy đi gọi khách ngay!"
Chủ vừa quay lưng đi thì Grêten nhấc gà ra khỏi và nghĩ: "Đứng gần lửa mãi vừa nóng vừa khát. Biết bao giờ khách mới đến? Trong khi chờ, mình phải xuống hầm uống ngụm rượu vang đã". Ả chạy xuống hầm, lấy một cái vò rượu rồi nói: "Lạy chúa phù hộ cho con" rồi uống một hơi dài. "Rượu đã chảy là chảy mạnh, ả nói, khó mà ngừng được". Ả lại uống tiếp một cách thoải mái. Ả lại chạy lên bếp, đặt gà lên lửa, phết bơ và vui vẻ quay cái xiên. Gà quay thơm điếc mũi, ả nghĩ bụng hãy còn thiếu cái gì đó, phải nếm xem sao. Ả nhúng ngón tay vào nước sốt, liếm và nói: "Ồ! Nhưng con gà mái này ngon tuyệt! Không ăn ngay thì thật là có tội, thật đáng xấu hổ!".
Ả chạy ra cửa sổ nhìn xem ông chủ và khách đã về chưa. Nhưng ả chẳng thấy ai cả. Ả lại quay về với những con gà và nghĩ: "Một cánh bị cháy, tốt nhất là chặt đi". Ả chặt cái cánh và ăn ngon lành. Ăn xong một cánh, ả tự bảo: "Mình phải chặt nốt cái cánh kia đi, nếu không ông chủ về thấy có gì thiếu". Ả xơi cả cái cánh, rồi ra cửa sổ xem chủ về chưa. Nhưng không thấy ai! Ai mà biết được ông ấy chợt nghĩ ra cái gì! Không thấy bọn họ trở về, có thể là đi đâu đấy.
Ả nói: "Này Grêten ạ, việc gì phải thắc mắc! Khi bắt đầu ăn con gà thì hãy uống nữa đi và chén nốt đi! Sau đó thì sẽ yên tâm. Tại sao lại phí của giời thế!". Ả lại chạy xuống hầm, uống ra trò, rồi lại chén nốt con gà một cách vui vẻ.
Thế là ăn hết sạch một con gà. Chủ thì vẫn chưa về. Grêten liếc nhìn con gà thứ hai và nói: "Phải cho con này đi theo con kia thôi, không thể tách chúng ra được. Đối xử với con kia thế nào thì hẳn là đối xử với con này cũng phải thế.
Mình cho là nếu có uống thêm một chút, thì cũng chẳng hại gì". Ả lại phấn khởi uống, con gà thứ hai cũng chạy theo con thứ nhất. Khi ả đang ăn ngon lành thì ông chủ về - "Nhanh lên, Grêten!" Ông gọi to khách đến ngay bây giờ đấy" - "Thưa vâng," Grêten trả lời, "xong ngay đây ạ".
Ông chủ đến bàn ăn xem sắp xếp đã đủ chưa. Ông mang con dao để cắt thịt đi mài.
Đúng lúc đó, khách gõ cửa khe khẽ, lịch sự. Grêten ra cửa, thấy khách thì đư ngón tay lên môi ra hiệu và nói: "Khẽ chứ! Khẽ chứ! Ông hãy mau chạy ngay đi! Nếu chủ tôi trông thấy ông thì nguy cho ông đấy. Chủ tôi mời ông đến ăn nhưng cốt để xẻo đôi tai ông đấy. Ông có nghe thấy tiếng mài dao không?"
Khách nghe quả là đúng có tiếng mài dao, vội ba chân bốn cẳng chạy xuống cầu thang. Grêten lúc đó cũng vội chạy lên chỗ ông chủ mồm loa mép dải: "Ông ơi, khách của ông sao mà quí hóa thế!" "Ô mày nói gì lạ vậy, Grêten?" - "Ông ta cướp của cháu hai con gà đặt trên đĩa rồi biến đi" - "Tệ quá! - Ông chủ nói, tiếc rẻ hai con gà ngon - ít ra thì ông ta cũng phải để lại một con cho mình chứ!".
Ông gọi to mời khách trở lại, nhưng khách giả đò không nghe thấy. Ông liền chạy theo khách, dao hãy còn cầm ở tay và réo: "Một thôi! Một thôi!" Ý nói là khách ít ra cũng phải để lại một con gà. Nhưng khách lại hiểu là chủ đòi một cái tai, nên chạy lao như gió, để mong giữ được cả hai tai nguyên vẹn về nhà.
Câu chuyện đã cho thấy sự khôn khéo của người ở và gây cười cho người đọc. Nói lên quan hệ giữa chủ và tớ - Ông chủ kém thông minh thường bị người ở khôn ngoan lừa.
5. ANH CHÀNG ĐÁNH TRỐNG
Một buổi tối, chàng đánh trống trẻ tuổi đi một mình giữa cánh đồng. Tới bên một cái hồ, anh thấy trên bờ ba chiếc áo trắng của ai vứt đó. Anh khen: "Vải đẹp quá!". Rồi nhét luôn một chiếc vào túi. Về nhà, anh cũng quên khuấy mất câu chuyện nhặt được của rơi. Anh lên giường nằm, sắp ngủ chợt nghe như có tiếng người gọi tên mình. Anh lắng nghe thì quả có tiếng gọi rất khẽ: "Anh đánh trống ơi, anh đánh trống ơi, dậy đi thôi". Đêm tối quá, anh không nhìn thấy rõ người nhưng anh thấy rõ một cái bóng cứ lơ lửng trước giường anh nằm.
Anh hỏi:
- Mày muốn gì?
T đáp:
- Trả lại cho tôi cái áo, cái áo anh đã lấy của tôi ở bờ hồ tối nay ấy. Anh đánh trống nói:
- Được, ta sẽ trả, song mày phải cho ta biết mày là ai đã.
"Trời!", tiếng người đáp. "Tôi là con gái một ông vua hùng cường. Chẳng may tôi sa vào tay một mụ phù thủy và bị nó đầy lên ngọn núi Thủy tinh. Ngày nào ba chị em tôi cũng xuống hồ tắm. Hôm nay vì mất áo, tôi không về được nữa. Các chị đã bay đi cả rồi, riêng tôi phải ở lại. Tôi van anh, anh hãy trả lại áo cho tôi".
Anh đánh trống nói: "Cứ yên chí, cô bé đáng thương ơi, tôi sẵn lòng trả lại áo cho cô".
Anh rút túi lấy áo trả lại cho người đứng trong bóng tối. Người con gái vội cần lấy định đi ngay.
Anh gọi cô ta lại:
- Hãy khoan đã, may ra tôi có thể giúp cô chăng?
- Muốn giúp tôi thì chỉ có cách là anh lên ngọn núi Thủy tinh mà cứu tôi thoát khỏi phép thuật của mụ phù thủy. Nhưng anh lên núi làm sao nổi, dù anh có lọt vào sát tới chân núi, anh vẫn không thể lên được. Anh đánh trống nói:
- Tôi thương cô và tôi không sợ gì hết. Nhưng tôi không biết đường đi. Người con gái đáp:
- Đường đi qua một khu rừng lớn. Trong rừng có bọn khổng lồ ăn thịt người, tôi chỉ được phép nói với anh thếNói xong cô gái biến mất. Sớm hôm sau, trời vừa rạng sáng, anh đánh trống lên đường, đeo trống đi thẳng vào rừng không chút sợ hãi. Đi được một lát mà vẫn chưa thấy tên khổng lồ nào, anh nghĩ bụng: "Phải đánh thức cái bọn ngủ trưa này dậy". Anh bèn xoay trống ra phía trước, khua vang một hồi, khiến chim chóc trên cây đều xao xác bay đi.
Chỉ một lát sau, thấy một tên khổng lồ nằm ngủ trong bụi cỏ nhỏm dậy. Hắn đứng cao lênh khênh như một cây thông.
Hắn thét:
- Thằng nhóc kia, mày làm gì mà khua ầm lên, làm mất giấc ngủ ngon. Anh đáp:
- Ta đánh trống để chỉ đường cho hàng vạn người còn đi sau ta và sắp kéo cả đến đây bây giờ.
Tên khổng lồ nói:
- Ui chao, tao sẽ giẫm chết bọn mày như giẫm chết đàn kiến ấy. Anh đánh trống tiếp lời:
- Mày tưởng mày chống cự nổi họ à? Mày cúi xuống định chộp một người thì người đó lập tức nhảy đi và ẩn nấp ngay. Nhưng đợi lúc mày đi nằm, ngủ lại rồi, từ khắp các bờ bụi, họ mới kéo ra và trèo lên người mày. Người nào cũng có một cây búa sắt giấu trong thắt lưng, họ sẽ đập vỡ sọ mày ra.
Tên khổng lồ thấy ngài ngại. Hắn nghĩ bụng: "Mình mà dây với lũ ranh ma này, kéo lại bị hại. Sói và gấu, ta bóp cổ chết tươi ngay, nhưng cái đám sâu đất này thì khó chơi đây.
H
- Nghe này, thằng nhóc, mày hãy cút đi, ta hứa từ nay về sau không đụng đến mày và đồng bọn của mày. Và nếu như mày muốn gì nữa thì cứ nói, ta sẵn sàng làm mày vui lòng.
Anh đánh trống nói:
- Chân mày dài, mày có thể chạy nhanh hơn tao, mày hãy đem ta lên ngọn núi Thủy tinh. Ta sẽ ra hiệu cho người của ta rút đi thì mày được yên ổn.
Tên khổng lồ nói:
- Lại đây, giống sâu bọ kia, leo lên vai ta mà ngồi, ta sẽ đem mày lên đó. Tên khổng lồ nhấc anh lên. Ngồi yên trên đó rồi, anh lại bắt đầu khua trống rộn lên một hồi. Tên khổng lồ nghĩ bụng: "Có lẽ nó đang làm hiệu cho bọn kia rút".
Đi được một quãng thì gặp một tên khổng lồ nữa. Hắn nhấc luôn anh đánh trống khỏi vai tên kia và mắc anh vào một khuy áo. Anh đánh trống vội bám vào cái khuy, to bằng cái chậu sành ngồi chắc ở đó, ngó nhìn xung quanh, có vẻ rất thích thú. Lại gặp một tên thứ ba, tên này lôi anh ra khỏi cái lỗ khuy áo và giắt anh lên vành mũ của hắn. Anh đánh trống ngồi rập rình trên đó, nhìn qua các ngọn cây, thấy tít tắp phía xa xanh biếc có một trái núi. Anh nghĩ bụng: "Chắc là ngọn núi Thủy tinh". Mà cũng đúng thế thật.
Tên khổng lồ chỉ đi có vài bước nữa là tới sát bên chân núi, hắn đặt anh xuống đất. Anh đánh trống đòi hắn đưa luôn anh lên đỉnh núi, song hắn lắc
đầu nói lẩm bẩm câu gì trong miệng rồi quay vào rừng.
Trước mặt anh chàng đánh trống đáng thương là một trái núi cao ngất, đến bằng ba trái núi thường xếp chồng lên nhau. Sườn núi láng như gương, không còn biết trèo lên bằng cách nào cho được. Anh cố trèo lên nhưng vô hiệu, lần nào cũng bị tuột. Anh nghĩ bụng: "Ước gì lúc này mình là chim". Nhưng ước suông nào được ích gì, cành vẫn không thấy mọc. Giữa lúc anh đứng ngây ra chưa biết làm gì bỗng cách đấy không xa lắm có hai người đang cãi nhau rất hăng. Anh đi lại phía họ thì thấy họ đang tranh nhau một cái yên ngựa vứt trên mặt đất, người nào cũng muốn lấy cái yên đó.
Anh nói:
- Các anh mới ngốc làm sao, ngựa chẳng có, giành giật nhau cái yên để làm gì?
Một người đáp:
- Tranh nhau cái yên đó là có lý do, ai ngồi lên yên muốn đi đâu cũng được. Dù muốn đến tận cùng thế giới thì cũng chỉ nói một câu là sẽ tới ngay trong nháy mắt. Yên vốn là của chung chúng tôi, bữa nay đến lợt tôi cưỡi song gã này lại không chịu.
Anh đánh trống nói:
- Được để tôi phân xử cho.
Anh đi một quãng và cắm một cái gậy trắng xuống đất. Đoạn anh quay lại bảo:
- Giờ hai người cứ nhằm cái đích kia mà chạy, ai đến trước thì người đó sẽ được ngồi trước.
Hai người thi nhau chạy, song họ mới chạy được vài bước thì anh đánh trống đã nhảy tót lên yên ngựa. Anh ước được lên ngọn núi Thủy tinh, tức thì chưa kịp trở bàn tay, anh đã ở trên đó rồi.
Trên núi có một chỗ đất bằng. Ở đó có một ngôi nhà xây bằng đá đã cũ. Trước cửa có một cái ao cá lớn, phía sau là rừng rậm. Anh chẳng thấy người nào, vật nào cả. Khung cảnh yên lặng, chỉ có tiếng gió thổi vi vu trên ngọn cây và mây lững lờ trôi qua sát ngay trên đầu.
Anh bước tới gõ cửa. Gõ đến lần thứ ba thì thấy một mụ già ra mở cửa. Mặt mụ đen xạm, đôi mắt đỏ ngầu. Mụ mang một cặp kính trên cái sống mũi dài thườn thượt, ngó anh trừng trừng và hỏi anh muốn gì. Anh đáp: - Cho tôi vào ăn và ngủ nhờ
Mụ già nói:
- Được, nếu người chịu làm cho ta ba việc.
Anh đáp:
- Được thôi, tôi chẳng ngại việc gì hết, dù là việc nặng nhọc. Mụ già cho anh vào, cho anh ăn và tối hôm đó xếp cho anh một cái giường rất êm.
Sớm hôm sau, đợi anh đã ngủ no mắt rồi, mụ mới rút từng ngón tay
khẳng khiu của mụ ra một cái đê khâu đưa cho anh và bảo: - Giờ ngươi đi làm đi, ngươi hãy cầm lấy cái đê này tát cạn ao trước nhà cho ta, hẹn đến tối phải xong, và cá dưới nước đã bắt hết lên phải xếp theo từng giống cá và tùy theo cỡ lớn nhỏ.
Anh đánh trống nói:
- Thật là một việc hiếm có.
Nhưng anh vẫn cứ ra ao và bắt đầu tát nước. Anh tát suốt sáng, nhưng với một đê khâu bé tẹo, sao tát cạn nổi một lượng nước lớn như vậy, dù có dài đến ngàn năm đi nữa?
Đến giữa trưa, anh tự nhủ:
- Thế là toi công, làm cũng như không làm.
Anh dừng tay rồi xuống. Vừa khi ấy, một người con gái từ trong nhà đi ra, xách một làn thức ăn đưa cho anh và
- Anh ngồi thừ ra đấy trông buồn quá, có điều gì thế?
Anh ngước nhìn thấy người con gái thật là tuyệt đẹp. Anh nói: - Chà, mới việc thứ nhất đã làm chưa xong, không biết rồi những việc khác sẽ ra thế nào? Tôi đi tìm một nàng công chúa ở đâu trong này song không thấy; tôi muốn đi nữa đây.
Người con gái bảo:
- Cứ ở đây, tôi sẽ giúp anh làm việc khó khăn này. Anh mệt rồi, hãy tạm ngả đầu vào lòng tôi đây mà ngủ. Lúc nào anh trở dậy, việc cũng sẽ vừa xong.
Anh đánh trống không đợi mời đến lần thứ hai. Anh nhắm mắt thì người con gái xoay chiếc nhẫn thầm nói:
- Nước lên đi, cá ra đi.
Tức thì nước lên hơi như sương trắng và cùng mây trôi đi. Cá quẫy lên, nhảy cả lên bờ nằm cạnh nhau xếp theo loại và theo cỡ lớn nhỏ. Đến khi tỉnh dậy, anh đánh trống ngạc nhiên thấy mọi việc đã đâu vào đấy. Nhưng người con gái bảo:
- Có một con cá không nằm cùng với đồng loại của nó, mà lại nằm riêng một mình. Chiều tối, mụ già đến, thấy mọi việc đã xong như ý mụ muốn, thế nào mụ cũng hỏi: "Tại sao có một con cá này?". Khi ấy anh hãy ném ngay con cá vào mặt mụ mà nói: "Để phần mày đấy, con mụ phù thủy già ạ".
Chiều tối, mụ già đến. Mụ vừa dứt lời hỏi, anh đánh trống ném ngay con cá vào mặt mụ. Mụ cứ lờ đi như không có việc gì xảy ra, chẳng nói một câu, nhưng mụ nhìn anh một cách rất nham hiểm.
Sớm hôm sau, mụ bảo:
- Việc hôm qua dễ quá, ta phải giao cho mày một việc nặng hơn. Bữa nay, mày phá cho cả khu rừng ngoài khi, phải bổ cây thành củi, bổ xong phải xếp thành từ thước một và cũng hạn cho đến chiều tối phải xong. Mụ đưa cho anh một cây rìu, một con dao rựa với hai con nêm. Nhưng
lưỡi rìu lại bằng chì, con dao với nêm đều bằng sắt tây. Anh vừa bắt tay vào việc, rìu đã bị quằn lưỡi, rựa và nêm đều bẹp rúm. Anh không còn biết xoay xở ra sao. Nhưng đến trưa, người con gái hôm trước lại đem thức ăn tới cho anh. Cô an ủi anh:
- Anh ngả đầu vào lòng tôi mà ngủ đi, khi nào anh tỉnh dậy, mọi việc sẽ xong cả.
Người con gái lại xoay chiếc nhẫn thần. Trong nháy mắt cả rừng chuyển mình răng rắc, rồi sập xuống, từng cây gỗ cứ tự tách ra thành củi, rồi những thanh củi nhỏ lại tự xếp thành từng thước. Dường như có những người khổng lồ vô hình nào đã làm việc đó.
Lúc anh thức giấc, người con gái bảo:
- Anh thấy không, gỗ đã được bổ và xếp thành đống rồi. Chỉ còn mỗi một cành. Chiều nay mụ già có tới hỏi sao còn sót thì anh lấy cành cây quật cho mụ một cái mà bảo: "Để phần cho mày đó, mụ phù thủy ạ". Mụ già đến, mụ nói:
- Thấy không việc thật là quá dễ. Nhưng còn cái cành kia để cho ai đó? Anh đáp:
- Để cho mày đó, mụ phù thủy ạ.
Rồi anh quất cho mụ một roi. Nhưng mụ vẫn cứ lờ đi như không có gì xẩy ra. Mụ chỉ cười mỉa m
- Sớm mai mày phải đem hết gỗ chất lại thành một đống, nhóm lửa đốt đi cho ta.
Trời vừa sáng thì anh thức giấc và bắt đầu di chuyển gỗ. Nhưng chỉ có một mình anh thì làm sao chuyển nổi được cả một rừng gỗ. Công việc cứ ì ạch mãi. Nhưng người con gái không bỏ anh trong lúc khó khăn. Buổi trưa, cô đem thức ăn đến cho anh. Ăn xong, anh lại ngả đầu vào lòng cô mà ngủ.
Lúc anh tỉnh dậy thì cả đống gỗ đã đỏ rực lửa, ngọn lửa liếm đến tận trời xanh. Người con gái nói:
- Anh ạ, lát nữa con mụ đến, thế nào nó cũng sẽ bắt anh làm nhiều thứ, nó bảo gì anh cứ nhận, đừng sợ, nó không làm gì được anh đâu. Anh mà sợ thì lửa sẽ bắt vào người anh và thiêu anh ra tro tức khắc. Cuối cùng, khi anh đã làm xong mọi việc rồi, anh hãy ôm luôn cả con mụ quẳng nó vào đống lửa.
Người con gái đi được một lúc thì mụ già rón rén tới. Mụ kêu: - Chà, rét quá, nhưng đống lửa cháy to cũng làm ấm được nắm xương già; ta thấy dễ chịu quá. Nhưng còn khúc gỗ không cháy kia kìa, mày hãy khuân ra đây cho ta. Mày làm xong được nốt việc này, ta cho mày tự do muốn đi đâu thì đi. Cứ nhanh nhẹn mà bước vào đi.
Anh đánh trống không nghĩ ngợi lâu, nhảy luôn vào giữa đống lửa, nhưng lửa không đụng gì đến anh, cũng không thiêu mất một sợi tóc của anh. Anh khuân khúc gỗ ra, đặt xuống.
Khúc gỗ vừa chạm mặt đất thì biến thành người con gái đẹp đã từng giúp anh qua bao khó khăn. Thấy quần áo óng ánh như vàng của nàng anh nhận ngay ra đó là công chúa.
Nhưng mụ già vẫn cười rất thâm độc. Mụ bảo:
- Mày tưởng con bé ấy đã ở trong tay mày rồi sao? Chưa đâu! Mụ vừa định chạy đến chỗ người con gái để lôi cô ta đi thì mụ bị anh dang hai tay ôm lại, nâng bổng lên và ném vào giữa đống lửa đang ngùn ngụt cháy. Lửa cuốn lấy mụ, dường như lửa cũng lấy làm mừng được kết liễu cuộc đời một mụ phù thủy.
Công chúa ngước nhìn anh đánh trống, thấy anh đẹp trai, lại nhớ đến anh đã không tiếc cả tính mạng để cứu mình, nàng bèn đưa tay cho anh và bảo: - Chàng đã dám làm tất cả vì thiếp, thì thiếp cũng sẽ sẵn sàng làm tất cả vì chàng. Chỉ cần chàng hứa chung thủy, thiếp sẽ xin lấy chàng. Của cải không thiếu, riêng số của mụ phù thủy thu gom tại đây, cũng thừa đủ đối với chúng ta.
Công chúa dẫn anh vào trong nhà, hòm, rương đều đầy ắp của. Hai người không lấy vàng, không lấy bạc mà chỉ lấy châu báu. Họ không muốn ở trên núi Thủy tinh lâu nữa. Anh bảo công chúa:
- Nàng hãy ngồi ghé vào bên yên, chúng ta sẽ bay xuống như chim. Nàng đáp:
- Thiếp không ưa cái yên ngựa cũ kỹ đó, thiếp chỉ cần xoay chiếc nhẫn thần này của thiếp thì đôi ta ở nhà rồi.
Anh đánh trống nói:
- Tốt thôi, thế thì nàng hãy ước cho chúng ta đến trước cổng thành. Trong nháy mắt, hai người đã ở đó. Anh đánh trống bảo:
- Anh muốn về qua nhà cho cha mẹ biết tin đã. Nàng cứ đợi anh ở cánh đồng này, anh sẽ trở lại ngay.
Công chúa
- Trời ơi, thiếp xin chàng, chàng hãy lưu ý, về nhà chàng chớ có hôn cha mẹ chàng lên má bên phải; nếu không chàng sẽ quên hết mọi việc còn thiếp sẽ cứ phải bơ vơ chờ mãi ở cánh đồng này.
- Ta quên nàng sao được,
Anh nắm tay nàng hứa sẽ trở lại ngay tức khắc.
Lúc anh về tới nhà, không người nào biết anh và anh đã thay đổi quá nhiều. Ba ngày trên núi Thủy tinh dài bằng ba năm. Anh phải tự giới thiệu, khi đó bố mẹ mới sung sướng ôm chầm lấy anh. Quá xúc động anh quên bẵng mất lời người con gái đã dặn, hôn luôn bố mẹ vào cả hai bên má. Sau khi anh hôn lên má bên phải bố anh và mẹ anh thì anh không còn nhớ gì đến nàng công chúa nữa. Anh dốc túi lấy ra một nắm những hạt ngọc lớn nhất, để lên mặt bàn.
Bố mẹ không biết dùng của cải đó vào việc gì. Ông cụ bèn làm một tòa
lâu đài thật lộng lẫy; chung quanh nhà nào vườn, nào rừng, nào đồng cỏ, như dinh cơ của một ông hoàng vậy… Lúc đã xây nhà xong, bà cụ bảo: - Mẹ đã kiếm cho con được một người con gái rồi đấy, ba hôm nữa sẽ làm lễ cưới.
Bố mẹ anh muốn sao, anh cũng bằng lòng hết.
Còn nàng công chúa đáng thương kia vẫn đứng đợi ngoài ở ngoài cổng thành. Mãi đến tối, nàng mới tự nhủ: "Chắc là chàng đã hôn lên má bên phải của cha mẹ chàng nên đã quên ta mất rồi". Trong dạ rất buồn nàng bèn ước được một ngôi nhà nhỏ hẻo lánh trong rừng, nàng không muốn trở về triều đình vua cha nữa. Chiều nào, nàng cũng vào thành, đi qua trước cửa nhà chàng. Đôi khi chàng cũng có trông thấy nàng nhưng không nhận ra được là ai. Sau nàng thấy thiên hạ bàn tán: "Mai sẽ làm lễ cưới anh ta đấy", nàng tự nhủ: "mình cứ cố xem, biết đâu không chiếm lại được trái tim chàng".
Đợi tới ngày thứ nhất của lễ cưới, nàng xoay chiếc nhẫn và ước: "Một chiếc áo sáng như mặt trời".Tức thì cái áo hiện ngay ra trước mặt nàng, rực rỡ lạ thường, như dệt toàn bằng ánh nắng vậy. Khi khách khứa đã đến đông đủ cả, nàng mới bước vào trong phòng. Anh rất ngạc nhiên về tấm áo đẹp, nhất là cô dâu. Xưa nay cô dâu vốn chỉ mê quần áo đẹp, vội tiến lại tiến về phía người khách lạ, hỏi xem khác có muốn bán áo chăng.
Công chúa đáp:
- Tôi không lấy tiền, chỉ cần đêm tân hôn cho phép tôi đứng ngay tại trước phòng chú rể ngủ, tôi sẽ cho không chiếc áo.
Cô dâu thích áo quá đồng ý ngay, nhưng sau đó cô đã tinh khôn trộn ngay ít thuốc ngủ vào cốc rượu của chú rể, làm chú rể ngủ li bì. Đợi lúc đâu đấy yên tĩnh cả, công chúa mới đến ngồi trước cửa phòng ngủ, khẽ mở cánh cửa gọi vọng vào trong:
- Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp. Chàng quên thiếp rồi sao?
Trên núi Thủy tinh, chàng ngồi bên cạnh thiếp,
Chống mụ phù thủy, thiếp đã bảo vệ chàng!
Chàng nắm tay thiếp, thề thốt trăm năm
Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp! Nhưng nào có ích gì, anh đánh trống vẫn không tỉnh giấc. Rạng hôm sau, công chúa đành bỏ đi, không được gì cả.
Tối thứ hai, nàng công chúa lại xoay chiếc nhẫn thần và ước: "Một chiếc áo bằng bạc như ánh trăng". Thấy nàng mặc chiếc áo thanh lịch như ánh trăng đi vào đám lễ, cô dâu lại nổi lòng tham và lại đồng ý cho nàng đứng một đêm nữa trước cửa phòng ngủ để đổi lấy chiếc áo. Đợi đến đêm khuya thanh vắng nàng:
- Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp. Chàng quên thiếp rồi sao?
Trên núi Thủy tinh, chàng ngồi bên cạnh thiếp,
Chống mụ phù thủy, thiếp đã bảo vệ chàng!
Chàng nắm tay thiếp, thề thốt trăm năm
Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp! Nhưng nàng không thể đánh thức được chàng đánh trống đã uống thuốc ngủ. Sớm hôm sau, công chúa lại đành trở về ngôi nhà nhỏ trong rừng, lòng buồn vô hạn. Có người ở trong nhà nghe được tiếng than của nàng đêm trước đã kể lại cho chú rể nghe. Họ cũng nói cho chàng rõ là vì chàng đã uống phải thuốc ngủ trong rượu nên không thể nghe thấy được những lời than đó. Tối ngày thứ ba, công chúa lại xoay chiếc nhẫn thần và ước: "Một chiếc áo lấp lánh như sao". Thấy nàng mặc chiếc áo đó vào dự lễ, hai chiếc áo trước đã đẹp mà còn thua xa, cô dâu rất tức tối. Cô ta tự nhủ: "Ta phải lấy chiếc áo ấy và nhất định ta sẽ lấy được". Cũng như hai lần trước công chúa lại đổi chiếc áo để được phép qua một đêm ở trước cửa phòng chú rể. Nhưng lần này chú rể không uống cốc rượu đưa trước khi đi ngủ anh để rượu ra mé sau giường nằm.
Và đến lúc trong nhà đã yên tĩnh đâu đấy cả, anh nghe có tiếng có tiếng người dịu dàng gọi:
- Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp. Chàng quên thiếp rồi sao?
Trên núi Thủy tinh, chàng ngồi bên cạnh thiếp,
Chống mụ phù thủy, thiếp đã bảo vệ chàng!
Chàng nắm tay thiếp, thề thốt trăm năm
Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp! Anh chợt nhớ lại tất cả mọi chuyện. Anh kêu lên:
- Trời! Sao ta lại có thể ăn ở bội bạc như thế nhỉ? Nhưng lỗi chính là ở cái hôn, cái hôn giữa lúc bối rối ta đã đặt lên má bên phải của cha mẹ ta, nó đã làm cho ta u mê đi.
Anh vùng dậy, dắt tay công chúa dẫn đến trước giường nằm của bố mẹ. Anh nói:
- Đây mới là cô dâu thật, nếu như con lấy người kia thì con sẽ có lỗi vô cùng.
Bố mẹ anh nghe rõ đầu đuôi câu chuyện cũng bằng lòng. Tức thì trong phòng lớn đèn nến lại được thắp sáng trưng, tiếng kèn lại vang lên, bè bạn, họ hàng được mời ngay trở lại, đám cưới thật được tổ chức trong bầu không khí vui vẻ, tưng bừng.
Cô dâu kia được giữ lại mấy chiếc áo đẹp coi như của bồi thường và cô ta cũng hài lòng.
Các em được ng một câu chuyện về cuộc đời. Những người hiền hậu, tốt bụng sẽ có hạnh phúc, còn những kẻ có tâm địa xấu xa sẽ bị trừng phạt.
6. ANH VÀ EM GÁI
Một hôm, anh dắt em gái đi thủ thỉ nói:
- Từ ngày mẹ mất, anh em mình không có lúc nào sung sướng nữa. Mẹ ghẻ hàng ngày đánh đập, xin cái gì thì thượng cẳng chân hạ cẳng tay đuổi đi. Ăn thì chỉ có mấy miếng bánh mì đầu thừa đuôi thẹo. Con cún ở chân bàn còn sướng hơn anh em mình, thỉnh thoảng nó còn được mẹ ghẻ vứt cho một miếng ngon. Lạy trời phù hộ để mẹ chúng mình thấy tình cảnh này! Thôi em ạ, anh em mình hãy bỏ nhà đi đi.
Hai anh em đi suốt hai ngày qua đồng ruộng bãi hoang. Trời đổ mưa, anh bảo em:
- Trời khóc cùng với anh em mình đấy.
Chiều tối, hai anh em tới một khu rừng to. Chúng đi đường xa, vừa đói vừa mệt, chui vào hốc cây ngủ.
Sáng hôm sau, khi chúng bừng mắt dậy thì mặt trời đã lên cao, nắng chiếu vào trong hốc cây. Anh nói:
- Em ạ, anh khát quá. Hễ gặp suối là anh uống ngay. Mà nghe như có tiếng suối đâu đây.
Anh đứng dậy dắt em đi tìm suối. Mẹ kế vốn là một mụ phù thủy. Mụ đã thấy hai đứa trẻ ra đi nên mụ rón rén bước theo. Mụ phù phép vào tất cả các suối trong rừng.
Hai anh em thấy một cái suối chảy như thác bạc xuống đá. Anh muốn uống, nhưng em nghe như có tiếng rì rào trong suối:
Ai uống nước ta, sẽ hóa ra cọp. Ai uống nước ta, sẽ hóa ra cọp. Em bảo anh:
- Em xin anh, anh chớ có uống, kẻo lại hóa thành thú dữ xé xác em mất. Anh khát đến cháy cổ, vẫn cố nhịn không uống:
- Thôi đợi đến suối sau.
Tới suối thứ hai, em nghe thấy tiếng rì rào:
- Ai uống nước ta, sẽ thành chó sói. Ai uống nước ta, sẽ thành chó sói. Em lại bảo anh:
- Anh ơi, em xin anh chớ có uống, kẻo lại hóa thành chó sói ăn thịt em. Anh không uống, nói:
- Đến suối sau, em muốn nói gì thì nói, thế nào anh cũng phải uống, anh khát quá rồi.
Hai anh em đến suối thứ ba thì em nghe thấy tiếng rì rào:
- Ai uống nước ta sẽ hóa thành con mang. Ai uống nước ta sẽ hóa thành con mang.
Em bảo:
- Ối anh ơi, em xin anh, anh chớ có uống kẻo lại hóa thành con mang bỏ
em mà chạy.
Nhưng anh đã quì gối, cúi xuống uống nước suối. Môi vừa dính nước thì người đã hóa thành con mang
Em khóc than thương hại cho anh. Con mang cũng khóc lóc và ngồi rầu rĩ bên em. Mãi sau em mới nói:
- Anh mang thân mến ơi, anh mang cứ yên tâm, em sẽ không bao giờ rời anh mang ra đâu.
Rồi em tháo nịt vàng ra buộc cổ mang, lại đi nhổ cói tết một sợi dây mềm, dắt mang vào rừng sâu.
Người và vật đi mãi thì tới một căn nhà nhỏ. Em nhìn vào thấy nhà bỏ không, nghĩ bụng ở lại đấy được. Em đi kiếm rêu và lá khô làm đệm cho mang… Sáng sáng, em đi tìm củ, quả dại và hạt dẻ để ăn, lấy cỏ non, đút cho mang ăn. Mang vui thích nhảy nhót quanh em. Buổi tối, khi em mệt, em gối đầu vào lưng mang ngủ một giấc ngon lành. Nếu anh lại biến thành người được thì cuộc đời của hai anh em thật sung sướng.
Chúng sống quạnh hiu như vậy một thời gian trong rừng hoang. Một hôm, vua tổ chức một cuộc săn lớn trong rừng. Tiếng tù và, tiếng chó sủa, tiếng người đi săn hò hét cười đùa vang trời. Mang nghe thấy, muốn nhập cuộc quá đi mất. Mang bảo em:
- Anh xin em, em hãy cho anh nhập cuộc săn. Anh không chịu được nữa. Mang van xin mãi, em đành để cho đi.
Em nói với mang:
- Nhưng thế nào chiều tối anh cũng phải về nhé. Em sẽ đóng cửa lại để đề phòng bọn đi săn độc ác. Anh về nhớ gõ cửa nói: "Em ơi em, hãy mở cho anh vào, để em nhận ra anh. Nếu anh không nói thì em không mở cửa đâu nhé".
Mang nhảy ra ngoài trời rất là thảnh thơi vui thú. Vua và quần thần thấy con mang đẹp, đuổi theo Nhưng không kịp. Lúc tưởng là bắt được đến nơi thì mang nhảy vọt qua bụi cây biến mất. Chiều tối, mang về nhà gõ cửa nói: - Em ơi em, hãy mở cửa cho anh vào.
Cửa mở, mang nhảy vào, nằm nghỉ suốt đêm trên đệm ấm. Sáng hôm sau, cuộc săn lại bắt đầu, mang ta nghe tiếng tù và, tiếng người đi săn la hò, sốt ruột bảo: "Em ơi em, mở cửa cho anh, thế nào anh cũng phải ra mới được".
Em mở cửa cho mang ra và bảo: "Nhưng đến tối anh phải về nhé, nhớ nói câu em dặn".
Vua và quần thần vừa thấy con mang đeo vòng vàng thì đuổi theo liền, nhưng mang chạy nhanh hơn họ. Họ dồn mang suốt ngày, đến tối thì vây được mang. Một người bắn trúng chân mang khiến mang bị thương nhẹ, khập khiễng đi không được nhanh. Người đi săn theo dõi mang đến tận căn nhà nhỏ và nghe thấy mang gọi:
- Em ơi em, hãy mở cửa cho anh vào.
Cửa mở ra rồi đóng lại liền.
Người đi săn nhớ kỹ những điều mắt thấy tai nghe, kể lại cho vua. Vua phán: "Ngày mai lại đi săn".
Em thấy mang bị thương sợ lắm. Em lau sạch máu, đắp lá, bảo mang: - Mang ơi mang, mang ra nằm nghỉ trên nệm đi cho khỏi.
Nhưng vết thương nhẹ nên sáng hôm sau mang không thấy đau gì nữa. Thấy ở bên ngoài cuộc săn lại nhộn nhịp, mang bảo:
- Mang không nhịn được nữa đâu, mang đi đây. Không phải dễ mà bắt được mang đâu!
Em khóc lóc bảo:
- Lần này thì họ giết chết anh mất, rồi em ở một mình trong rừng, chẳng ai nghĩ đến em nữa. Không, em không để anh ra đâu.
Mang đáp:
- Thế thì mang ở đây cũng đến sốt ruột mà chết. Hễ mang nghe tiếng tù và là lòng lại rộn lên.
Em không biết làm thế nào, đành rầu rầu mở cửa. Mang vui vẻ, nhảy tót vào rừng.
Vua trông thấy mang, ra lệnh cho các người đi săn:
- Đuổi nó cho đến đêm, nhưng chớ đụng đến nó.
Mặt trời vừa lặn thì vua bảo người đi săn đã đến báo vua lần trước: - Nào đi, ngươi hãy dẫn ta đến căn nhà nhỏ trong rừng.
Tới cửa, vua gõ và gọi:
- Em ơi em, hãy mở cửa cho anh vào.
Cửa mở, vua vào, thấy một cô gái đẹp tuyệt trần. Cô sợ quá vì không thấy mang của mình mà lại thấy một người đội mũ miện vàng. Vua nhìn cô rất dịu dàng, cầm lấy tay cô bảo:
- Nàng có muốn theo trẫm về cung làm hoàng hậu không?
Cô nói:
- Thiếp xin vâng, Nhưng xin cho mang đi cùng, thiếp không bỏ mang đâu.
Vua đáp:
- Mang sẽ nàng suốt đời và sẽ không bao giờ bị thiếu thốn gì. Giữa lúc ấy thì mang nhảy vào. Em lấy dây buộc mang, dắt ra khỏi nhà. Vua đặt em lên ngựa cùng ngồi đưa về cung, làm lễ cưới rất to. Em lên
ngôi hoàng hậu, hai vợ chồng hưởng hạnh phúc lâu dài. Mang được chăm nom săn sóc, tha hồ nhảy nhót trong vườn thượng uyển.
Mụ dì ghẻ ác nghiệt đã làm cho hai anh em phải bỏ trốn, vẫn tưởng là sau đó em bị thú rừng ăn thịt và anh thì bị bắn chết. Khi mụ được tin cả hai anh em đều sung sướng thế thì mụ ghen tức lồng lộn. Mụ lại nghĩ cách hại chúng. Con gái mụ xấu như ma lem, chỉ có độc một mắt, dằn vặt mụ:
- Số con phải được làm hoàng hậu cơ!
Mụ an ủi con:
- Mày cứ yên trí. Tao sẽ không để lỡ dịp đâu.
Hoàng hậu đẻ ra một đứa con trai xinh đẹp, trong khi vua đi săn vắng. Mụ phù thủy già chỉ chờ đợi lúc ấy. Nó hóa phép biến thành một người hầu gái, vào trong phòng hoàng hậu nói:
- Tâu lệnh bà, nước tắm đã sẵn sàng, mời lệnh bà đi tắm cho khỏe người, lệnh bà đi ngay kẻo nước nguội.
Con gái mụ đứng sẵn đó. Hai mẹ con khiêng hoàng hậu mệt lả vào buồng tắm, khóa cửa lại bỏ đi. Chúng hun lửa ở trong buồng tắm để cho bà hoàng hậu trẻ đẹp bị chết ngạt.
Mụ già làm xong việc ấy liền đội mũ cho con, đưa vào nằm giường hoàng hậu. Mụ hóa phép cho con biến thành hoàng hậu hình dáng vẻ người y hệt, nhưng không sao chữa được con mắt hỏng cho con. Con mụ đành nằm nghiêng về mé mắt hỏng để vua không nhận ra. Buổi tối, vua đi săn về, nghe nói hoàng hậu sinh con trai mừng lắm, định tới giường hoàng hậu th
Mụ già vội nói:
- Chớ chớ, bệ hạ chớ có kéo rèm lên. Hoàng hậu chưa nhìn ánh sáng được đâu, phải nghỉ ngơi đã.
Vua lui về, không biết có hoàng hậu giả nằm trong giường. Đến nửa đêm, mọi người đều ngủ, người bảo mẫu một mình thức bên nôi Hoàng tử thấy cửa mở ra, hoàng hậu thật bước vào. Bà bế con ở nôi ra, cho con bú. Rồi bà giũ gối cho con, đặt con nằm và đắp chăn cho con. Bà cũng không quên con mang, bà đi tới góc phòng nó nằm và vuốt lưng nó. Sau đó, bà lẳng lặng ra. Hôm sau, người bảo mẫu hỏi lính canh có thấy ai ban đêm vào cung không. Lính canh đáp:
- Không, chúng tôi chẳng thấy ai cả.
Hoàng hậu đến mấy đêm như thế mà không bao giờ nói một câu gì. Người bảo mẫu nhìn thấy bà nhưng không dám nói hở cho ai biết. Sau một thời gian, hoàng hậu bắt đầu nói trong đêm tối:
- Con ta ra sao? Mang của ta ra sao? Ta còn đến hai lần nữa thôi. Người bảo mẫu không trả lời, nhưng khi hoàng hậu biến đi, thì chị tìm vua kể lại hết. Vua phán:
- Trời! Sao lại có chuyện thế nhỉ! Đêm nay ta sẽ thức trông con. Đến tối, vua vào buồng hoàng tử. Vào khoảng nửa đêm, hoàng hậu lại hiện ra và nói:
- Con ta ra sao? Mang của ta ra sao? Ta còn đến một lần nữa thôi. Rồi hoàng hậu chăm sóc con như thườngệ, trước khi biến mất. Vua không dám lên tiếng, nhưng đêm sau lại thức. Hoàng hậu nói: - Con ta ra sao? Mang của ta ra sao? Ta đến lần này là lần cuối cùng. Vua không nhịn được nữa, liền chạy lại nói:
- Đúng nàng là vợ yêu quí của ta rồi!
Bà trả lời:
- Thưa đúng, em là vợ của nhà vua.
Vừa lúc đó thì nàng sống lại, tươi tắn, hồng hào, khỏe mạnh. Nàng bèn kể lại cho vua nghe tội ác của mụ phù thủy độc ác và con mụ. Vua cho đem hai đứa ra xử. Chúng bị tội chết, án xử xong thì mang lại hiện nguyên hình thành người. Hai anh em cùng nhau sống sung sướng mãi đến khi chết.
Qua câu chuyện ta thấy rằng chân lý luôn thuộc về những người trung hậu. Bằng tìm yêu của mình người em gái đã giải thoát cho người anh và họ xứng đáng được hưởng hạnh phúc.
7. BA ANH EM
Một người có ba con trai, cả cơ nghiệp có một cái nhà. Người con nào cũng muốn sau này, khi bố mất, nhà sẽ về mình. Ông bố thì con nào cũng quí, thành ra rất phân vân, không biết tính sao cho các con vừa lòng. Bán nhà đi thì có tiền chia cho chúng, nhưng là của hương hỏa nên ông không muốn bán. Sau ông nghĩ được một kế, bảo các con:
- Chúng mày hãy đi chu du thiên hạ, thử gan thử sức một phen. Mỗi đứa học lấy một nghề. Đứa nào giỏi nhất, bố cho cái nhà. Ba người con lấy làm thích lắm. Người con cả muốn trở thành thợ đóng móng ngựa, người thai muốn làm thợ cạo, còn người em út muốn làm thầy dạy võ. Ba anh em hẹn nhau ngay về, rồi chia tay ra đi.
Cả ba người đều gặp được thầy giỏi truyền cho biết hết bí quyết nhà nghề. Người đóng móng ngựa được làm việc cho nhà vua và nghĩ bụng: "Phen này, chắc nhà không thoát khỏi tay mình". Người thợ cạo được sửa tóc cho những nhà quyền quí nên chắc mẩm là được nhà. Anh học võ bị đấm nhiều miếng nhưng vẫn cắn răng chịu, nghĩ bụng: "Nếu sợ bị đấm thì bao giờ được nhà?".
Đến hẹn, ba anh em trở về nhà. Nhưng chẳng ai biết làm thế nào để thi thố tài nghệ của mình, bèn ngồi bàn với nhau. Đương lúc ấy chợt có một chú thỏ băng qua cánh đồng. Anh thợ cạo reo lên: "May quá, thật là vừa đúng dịp".
Anh liền cầm đĩa xà phòng, đánh bọt, đợi thỏ ta đến gần, anh vừa chạy theo vừa quét xà phòng, cạo râu thỏ mà không hề làm thỏ xầy da chút nào. Người bố khen: "Khá lắm! Nếu hai thằng kia không làm được trò gì hay hơn thế thì cho mày cái nhà".
Một lát sau có một cỗ xe ngựa chạy qua như bay.
Anh đóng móng ngựa nói: "Bố xem tài con nhé!".
Anh liền chạy đuổi theo cỗ xe, tháo bốn móng sắt của một con ngựa và thay luôn bốn móng mới trong khi ngựa vẫn phi đều.
Người bố lại khen: "Mày giỏi lắm! Mày chẳng kém gì em mày. Không biết cho đứa nào cái nhà đây!".
Lúc bấy giờ người con út mới nói:
- Thưa bố, bây giờ đến lượt con, bố cho con thử tài.
Vừa lúc ấy trời bắt đầu mưa. Anh ta rút ngay gươm múa kín trên đầu, người không dính một giước nào. Trời mưa ngày càng to, anh ta múa càng hăng, áo quần vẫn khô như đứng nơi kín đáo.
Người bố ngạc nhiên quá reo lên:
- Con thật là tài nhất! Thôi con được cái nhà rồi.
Hai anh cũng phục người em út lắm và đồng ý với cha.
Ba anh em rất mực thương nhau nên ở cùng một nhà, mỗi người làm nghề của mình. Họ tài khéo nên kiếm được nhiều tiền. Họ sống sung sướng như vậy mãi cho đến lúc tuổi già, một người ốm chết, hai người kia buồn rầu cũng chết theo. Cả ba anh em vừa khéo vừa giỏi, lại vừa quí mến lẫn nhau, đều được chôn chung một mộ.
Các em được nghe một câu chuyện về cuộc đời. Những người hiền hậu, tốt bụng sẽ có hạnh phúc, còn những kẻ có tâm địa xấu xa sẽ bị trừng phạt.
8. BA BÀ KÉO SỢI
Ngày xưa có một cô gái lười biếng, không chịu kéo sợi. Mẹ cô khuyên bảo thế nào cô cũng không nghe. Một hôm, bà mẹ không chịu được nữa, tức quá đánh cô, cô khóc gào lên. Vừa lúc đó, hoàng hậu đi qua nghe tiếng khóc bèn dừng xe lại, vào nhà hỏi bà mẹ vì cớ gì mà lại đánh con gái đến nỗi nó kêu ầm lên thế. Bà mẹ sợ nói con gái mình lười thì xấu hổ, nên. Mới tâu:
- Thần bảo cháu thôi đừng kéo sợi nữa vì nhà nghèo làm gì có cúi đưa cho cháu, nhưng cháu cứ đòi kéo mãi.
Hoàng hậu nói:
- Ta thích nghe tiếng guồng sợi vù vù lắm. Ngươi cứ cho con gái nhà ngươi đến cung, ta có nhiều cúi, nó tha hồ mà
Bà mẹ thấy vậy mừng lắm để hoàng hậu đem con gái về cung. Về đến cung, hoàng hậu dẫn cô đến ba buồng đầy ngập cúi rất tốt. Hoàng hậu bảo cô gái:
- Con kéo cho hết chỗ cúi này. Kéo xong ta sẽ cho lấy con trai cả ta. Con nghèo khổ ta không kể làm chi, chăm chỉ là của hồi môn quí giá lắm rồi. Cô gái rất lo vì dù có sống đến ba trăm năm và làm việc từ sáng đến tối cũng không sao kéo hết chỗ cúi đó. Cô ngồi khóc một mình ba ngày liền không nhúc nhích. Hôm thứ ba, hoàng hậu tới ngạc nhiên thấy cô vẫn chưa làm gì cả.
Nhưng cô thoái thác rằng vì xa mẹ, buồn rầu nên chưa làm được. Hoàng hậu cũng cho là phải, nhưng khi quay gót, dặn rằng:
- Mai con phải bắt đầu làm đi nhé.
Khi cô gái còn lại một mình một bóng, không biết xoay xở ra sao. Trong lúc bối rối ra sao, cô ra đứng cửa sổ. Cô thấy có ba bà đến. Bà thứ nhất có một bàn chân to bèn bẹt. Môi dưới bà thứ hai trễ xuống quá cằm. Bà thứ ba có một ngón tay cái bèn bẹt. Ba bà ngừng lại trước cửa sổ, ngước mắt lên nhìn cô và hỏi cô có việc gì mà phải lo âu. Cô gái kể lể sự tình khốn khổ. Ba bà hứa sẽ đến giúp:
- Nếu em bằng lòng mời chúng ta đi ăn cưới em, nếu em không thẹn gọi chúng ta là chị họ, nếu em bằng lòng để chúng ta ngồi cùng tiệc cưới với em, thì chúng ta sẽ kéo sợi giúp cho, chẳng mấy chốc mà xong. Cô gái đáp:
- Vâng, em rất đồng ý. Xin mời các chị vào làm ngay cho.
Ba bà thợ dệt lạ lùng vào buồng thứ nhất, thu xếp chỗ ngồi và bắt đầu kéo sợi. Bà thứ nhất chắp sợi và đạp guồng. Bà thứ hai rấp nước vào sợi. Bà thứ ba xe chỉ và ấn xuống bàn cho nhẵn. Mỗi lần bà hất ngón tay cái là một con sợi rất mịn rơi xuống đất. Cô gái giấu không cho hoàng hậu biết có ba bà giúp mình. Mỗi khi xe hoàng hậu đến, cô cho hoàng hậu xem số sợi đã xe.
Hoàng hậu khen cô hết lời.
Cúi buồng thứ nhất xe hết, ba bà xe đến cúi buồng thứ hai. Rồi đến cúi buồng thứ ba, chẳng mấy chốc cũng xe xong. Ba bà từ giã cô và dặn: - Em chớ quên lời hứa nhé, hạnh phúc sẽ tới với em.
Sau khi thấy buồng đã hết cúi và những con chỉ chất thành đống, hoàng hậu định ngày cưới. Chú rể sung sướng lấy được vợ kéo léo đảm đang, ca tụng vợ mãi.
Cô dâu nói:
- Em có ba người chị, họ đã giúp đỡ em nhiều. Trong hạnh phúc của em, em không thể quên các chị ấy được, xin chàng cho phép em mời ba chị đến ăn cưới và dự tiệc với chúng ta.
Chú rể và hoàng hậu nói:
- Nhẽ nào lại không cho phép?
Nghi lễ vừa bắt đầu thì ba bà đến, ăn mặc kỳ quặc. Cô dâu nói: - Em xin chào mừng ba chị!
Chú rể hỏi thầm cô dâu:
- Chết nỗi, sao em có họ hàng xấu xí thế?
Rồi chàng hỏi bà có chân bẹt:
- Vì đâu mà chân bà rộng thế?
- Vì tôi đạp guồng.
Rồi chàng hỏi bà thứ hai:
- Vì đâu mà môi mà trễ như thế?
- Vì tôi rấp nước bọt vào sợi.
Rồi chàng hỏi bà thứ ba:
- Vì đâu mà ngón tay cái bà bèn bẹt?
- Vì tôi xe chỉ.
Hoàng tử khiếp sợ, nói:
- Từ nay về sau vợ đẹp của ta không được mó đến guồng sợi nữa. Thế là vợ chàng thoát được cái việc kéo sợi mà cô ta không thích. Câu chuyện nói lên rằng số phận con người thường gặp những may rủi.
Khi gặp may mắn thì một con người lười biếng nhưng biết giữ lời hứa như cô gái trong truyện cũng trở nên sung sướng. Nhưng các em chớ quên một điều sự may mắn không phải lúc nào cũng chờ đón chúng ta mà nó chỉ đến khi các em thực sự chăm chỉ.
9. BA CÔ CHỊ
Ngày xưa có một ông vua rất giàu, vua giàu đến nỗi tưởng là của cải của mình không bao giờ hết được. Vua sống xa hoa, chơi bàn cờ bằng vàng, con ki bằng bạc. Vua sống như thế một thời gian thì của cải tiêu tan hết. Vua phải đem cầm lần lần những thành thị và lâu đài, sau cùng chỉ còn có mỗi một tòa lâu đài cổ trong rừng. Vua, hoàng hậu và ba công chúa dọn đến đấy ở, họ sống chật vật, hàng ngày bữa ăn chỉ có khoai tây thôi.
Một hôm, vua định đi săn xem có bắn được con thỏ gì chăng. Vua nhét khoai tây đầy túi rồi ra đi. Vua đến ven một khu rừng lớn không dám vào vì người ta kể rằng trong đó có nhiều thú rùng rợn lắm. Gấu ăn thịt người, phượng hoàng mổ mắt, chó sói, sư tử và nhiều loại thú dữ. Vua chẳng sợ gì cả, tiến thẳng vào rừng. Thoạt tiên vua không thấy gì. Có những cây to, ở dưới thật là yên lặng. Vua đi vơ vẩn như vậy một lúc rồi thấy đói, liền ngồi xuống gốc cây định ăn khoai tây, thì bỗng có một con gấu ở trong rừng hiện ra, lạch bạch đến thẳng phía vua và càu nhàu:
- Sao ngươi lại dám ngồi ở gốc cây mật ong của ta? Tội ngươi thật đáng chết.
Vua sợ hãi, đưa cho nó khoai tây để nó nguôi giận. Nhưng gấu cất tiếng nói:
- Ta thiết gì ăn khoai tây của ngươi, ta muốn ăn thịt ngươi cơ. Ngươi chỉ có một cách thoát thân là gả cho ta con gái đầu lòng của ngươi. Nếu ngươi bằng lòng thì ta còn cho thêm ngươi nửa tạ vàng nữa.
Vua sợ bị ăn thịt nói:
- Ta sẽ gả cho, miễn là ngươi để cho ta yên lành.
Gấu liền chỉ đường cho vua về và còn càu nhàu sau lưng vua. - Trong bảy ngày nữa, ta sẽ đến đón cô dâu đấy.
Vua yên trí về nhà, nghĩ nhất định là gấu không chui lọt nổi lỗ khóa, hơn nữa nhất định là không có cái gì để ngỏ. Vua ra lệnh cho khóa tất cả các cửa ngõ, kéo cầu treo lên, và dặn con gái phải bình tĩnh. Muốn bảo vệ được cô chắc chắn khỏi bị chú rể gấu bắt đi, vua cho cô ở một phòng nhỏ tít dưới lỗ châu mai trên mặt thành. Cô phải trốn vào đấy cho qua bảy hôm. Nhưng sáng tinh sương hôm thứ bảy, khi mọi người con ngủ thì có một cỗ xe lộng lẫy đóng sáu ngựa đến lâu đài. Có nhiều kỵ sĩ mặc áo bằng vàng vây quanh xe. Cỗ xe đến nơi thì tự nhiên cầu treo hạ xuống, khóa tự nhiên bật tung ra, xe đi vào sân, một vị Hoàng tử trẻ và đẹp bước xuống. Vua nghe tiếng động tỉnh dậy, nhìn ra cửa sổ thấy Hoàng tử đã đón con gái đầu lòng của mình ở tít trên căn phòng nhỏ khóa kín, và vừa bế nàng lên xe. Vua chỉ kịp kêu lên:
- Thôi vĩnh biệt, thiếu nữ yêu kiều! Đi đi mãi, hỡi cô dâu của gấu! Cô ngồi trên xe còn vẫy chiếc khăn trắng nhỏ. Rồi cỗ xe phóng đi như
gió cuốn, tiến sâu mãi vào khu rừng thiêng.
Lòng vua nặng trĩu, vì vua đã chót gả con gái cho gấu. Vua buồn quá, cùng hoàng hậu khóc ba ngày liền. Đến ngày thứ tư, khóc hết nước mắt, vua nghĩ là việc đã xảy ra rồi cũng đành thôi. Vua xuống sân, ở đấy có một cái hòm gỗ mun nặng khó mà nhấc lên được. Vua chợt nghĩ đến điều gấu đã hứa, liền mở ra thì thấy trong đó có nửa tạ vàng sáng lấp lánh.
Vua nhìn thấy vàng thì cũng nguôi buồn. Vua đem vàng chuộc lại các thành thị đã đem cầm rồi lại quay về cuộc sống giàu sang ngày trước. Cứ như thế cho đến khi hết nửa tạ vàng thì vua lại phải đem cầm hết mọi thứ và lại phải lui về lâu đài trong rừng ăn khoai tây.
Vua còn có một con chim ưng. Một hôm, vua đem nó ra đồng định kiếm lấy một cái gì ăn cho ngon một tí. Chim ưng cất cánh bay, tới khu rừng thiêng âm u, vua không dám vào nữa. Vua vừa tới thì có một con đại bàng vút lên đuổi chim ưng. Chim ưng bay về phía vua. Vua định dùng giáo ngăn đại bàng, nhưng đại bàng quắp lấy giáo bẻ gẫy như một cây sậy, rồi lấy móng bóp nát chim ưng. Nó lấy móng kia quặp vào vai vua và bảo:
- Tại sao ngươi đến quấy rối khoảng trời của ta? Tội ngươi đáng chết, muốn sống phải gả cho ta con gái thứ hai của ngươi.
Vua nói:
- Được, ngươi sẽ được con gái ta, nhưng ngươi cho ta gì.
Đại bàng đáp:
- Một tạ vàng. Trong bảy tuần nữa ta sẽ đến đón nàng về.
Rồi nó thả vua ra, bay thẳng vào rừng.
Vua rất buồn bã vì lại gả con gái thứ hai của mình cho chim dữ. Vua không dám nói gì với con về việc ấy. Sáu tuần lễ đã trôi qua. Đến tuần thứ bảy, công chúa ra một bãi cỏ trước lâu đài định giũ vải phơi cho trắng. Bỗng có một đoàn kỵ sĩ oai phong lẫm liệt đến. Người đẹp nhất đi đầu nhảy xuống gọi:
- Hãy nhảy lên đây, hỡi thiếu nữ yêu kiều! Hãy cùng đi, hỡi cô dâu mới của đại bàng.
Nàng chưa kịp trả lời thì chàng đã đỡ nàng lên ngựa, phi vào rừng nhanh như cắt. Thôi vĩnh biệt, vĩnh biệt!
Ở lâu đài, người ta đợi mãi chẳng thấy công chúa. Mãi sau vua mới nhớ ra là có lần trong thế bí đã hứa gả con gái cho một con đại bàng. Hẳn là nó đã đến đón cô đi. Khi vua đỡ đau buồn chút ít, chợt nhớ đến lời hứa của chim đại bàng, liền đi đến và tìm thấy trên bãi cỏ hai quả trứng vàng, mỗi quả nặng nửa tạ. Vua nghĩ bụng: "Cứ có vàng là ngoan đạo" và xua đuổi tất cả những tư tưởng buồn chán ra khỏi đầu óc. Cuộc sống vui chơi lại bắt đầu và đến khi hết nhẵn tạ vàng. Vua lại dọn về lâu đài trong rừng và nàng công chúa còn lại lại phải luộc khoai tây.
Vua không muốn đi săn thỏ trong rừng hay chim ưng trên trời nữa,
nhưng vua thèm ăn cá. Công chúa phải đan lưới để vua đi đánh cá ở một cái hồ gần rừng. Ở đó có một chiếc thuyền quăng lưới, kéo lên được một mẻ cá hương chấm đỏ rất đẹp. Vua định chèo vào bờ thì thấy thuyền mắc chặt một chỗ, vua loay hoay mãi mà không trèo ra được. Bỗng có một con cá voi to lớn vùng vẫy ngoi lên hỏi:
- Tại sao ngươi lại bắt những thần dân
Nó mở mồm to ra như định nuốt cả vua lẫn chiếc thuyền. Vua thấy cái mồm kinh khủng của nó thì mất hết cả can đảm, chợt nghĩ đến cô gái thứ ba liền kêu lên:
- Ngươi tha chết cho ta, ta sẽ cho ngươi con gái út của ta.
Cá voi càu nhàu:
- Được lắm, để rồi ta cho ngươi cái gì nhé. Vàng thì ta chẳng có vì vàng đối với ta xoàng quá. Nhưng đáy hồ của ta rải ngọc châu, ta sẽ cho ngươi ba bị đầy. Đến tháng thứ bảy ta sẽ lại đón dâu.
Nói xong con cá lặn xuống.
Vua ghé vào bờ, mang cá hương về nhà, nhưng khi cá đã rán rồi vua chẳng thiết ăn con nào. Vua nhìn thấy con gái, đứa con độc nhất còn lại, đẹp nhất, mà vua yêu nhất, thì vua lại nhói lên như hàng ngàn mũi dao đâm vào thịt.
Sáu tháng trôi qua, hoàng hậu và công chúa chẳng hiểu làm sao mà vua mắt mũi lúc nào cũng ủ rũ.
Đến tháng thứ bảy, đúng lúc công chúa đang đứng ngoài sân, trước một cái giếng có ống phun nước và hứng một cốc nước đầy thì bỗng có một cỗ xe sáu ngựa trắng và người mặc quần áo bằng bạc đi tới. Từ trên xe bước xuống một Hoàng tử rất đẹp, từ thủa nhỏ nàng không thấy ai đẹp đến như thế. Chàng xin nàng một cốc nước. Nàng vừa đưa cốc ra thì chàng ôm lấy nàng bế lên xe.
Xe ra cửa băng qua đồng tới hồ:
- Thôi vĩnh biệt, thiếu nữ yêu kiều! Hãy đi đi, cô dâu xinh đẹp của cá voi. Hoàng hậu đứng bên cửa sổ nhìn thấy cỗ xe chạy xa dần.
Bà thấy vắ con gái, lòng đau xót, bà gọi nàng, tìm nàng khắp nơi. Nhưng bà chẳng nghe thấy tiếng đáp, chẳng trông thấy nàng ở đâu. Khi bà biết chắc chắn sự việc, bà òa lên khóc. Vua nói rõ cho bà biết đầu đuôi: chắc con cá voi đã đến đón nàng đi. Bị buộc phải hứa gả con cho nó, vua cứ luôn luôn buồn bã. Vua muốn an ủi bà, bèn cho bà biết sẽ nhận được nhiều của cải. Hoàng hậu không thiết và bảo đứa con còn lại duy nhất của bà quí hơn tất cả những kho tàng trên thế gian.
Trong khi Hoàng tử cá voi đến chiếm công chúa, có thị vệ mang đến lâu đài ba bao nặng. Vua mở ra thấy đầy châu ngọc to bằng hạt đậu lớn. Vua lại giàu có, giàu hơn trước kia. Vua chuộc lại thành thị, lâu đài, nhưng vua không trở lại cuộc sống xa hoa nữa. Vua sống yên tĩnh, tiết kiệm. Mỗi khi
nghĩ đến ba con gái yêu, không biết sống giữa đám thú rừng ra sao, có thể bị chúng ăn thịt rồi, thì vua mất hết niềm vui.
Không ai an ủi được hoàng hậu. Hạt lệ bà khóc con còn nhiều hơn cả các hạt ngọc cá voi đã bỏ ra đổi lấy công chúa út. Về sau, bà mới hơi nguôi nguôi. Cách đó một thời gian, bà lại thật vui vì bà lại sinh được một cậu con trai xinh đẹp. Đứa con ra thật bất ngờ nên gọi nó là Rainan, có nghĩa là đứa con kỳ diệu. Đứa trẻ khỏe mạnh to lớn. Hoàng hậu thường kể cho nó nghe việc ba chị bị ba con vật bắt giữ ở trong khu rừng thiêng. Khi cậu mười sáu tuổi, cậu đòi vua cho áo giáp và gươm. Được những thứ đó rồi, cậu muốn đi phiêu lưu, cậu từ biệt cha mẹ rồi lên đường.
Cậu đi thẳng đến khu rừng thiêng, chỉ nghĩ đến việc tìm các chị. Lúc đầu, cậu đi lang thang trong rừng rậm, không gặp một người nào hay một con vật nào. Sau ba ngày, cậu thấy ở trước một cái hang một thiếu phụ ngồi chơi với một con gấu con. Một con gấu khác rất bé ngồi trên đùi nàng. Rainan nghĩ bụng chắc là chị cả mình. Cậu để ngựa lại, đi bộ đến và nói:
- Chị yêu dấu, em là em Rainan của chị, em đến thăm chị đây. Công chúa nhìn cậu, thấy cậu giống bố y hệt, không nghi ngờ gì lời cậu nói. Nàng sợ hãi bảo:
- Em yêu dấu ơi, trời ơi! Nếu em còn muốn sống thì em hãy chạy đi cho nhanh. Nếu anh gấu, chồng chị về thấy em thì nó ăn thịt em Nhưng Rainan bảo:
- Em không sợ, em nhất định ở lại với chị xem tình hình chị ra sao. Khi công chúa thấy không lay chuyển được ý chí của em, nàng đưa em vào hang tối tăm, đúng là chỗ ở của gấu. Một bên có một đống là và cỏ khô, trên đó là nơi chồng cô và các con ngủ, bên kia là chiếc giường đẹp lộng lẫy, bọc vải đỏ và nạm vàng của công chúa. Nàng bảo em chui xuống gầm giường và tuồn cho em thức ăn.
Được một chốc, gấu về nhà nói: "Ta đánh hơi thấy mùi thịt người" và định rúc đầu xuống gầm giường. Công chúa vội gọi:
- Cứ bình tĩnh, có ai mà lại vào đây được!
Mồm còn dính máu, gấu càu nhàu:
- Ta tìm thấy ở trong rừng một con ngựa và ăn thịt nó rồi. Tất phải có người đi với ngựa, ta đánh hơi thấy rồi.
Rồi nó lại định chui vào gầm giường. Nàng liền đá vào bụng gấu, nó lộn nhào một cái rồi đi ra ổ nằm, đút cẳng vào mồm mà ngủ.
Cứ bảy ngày một lần, gấu lại hiện nguyên hình là một Hoàng tử đẹp trai, hang của nó biến thành một tòa lâu đài lộng lẫy và thú vật trong rừng biến thành thị vệ, cứ đến ngày ấy, chàng đến đón công chúa. Những thiếu nữ xinh đẹp ra cửa lâu đài đón nàng, thật là một buổi hội tưng bừng, nàng vui mừng say sưa ngủ. Nhưng khi nàng tỉnh dậy thì thấy mình nằm trong hang gấu tối tăm, chồng đã biến thành gấu càu nhàu ở chân mình. Chỉ có cái giường và tất
cả các thứ khác mà nàng đã sờ đến là vẫn nguyên không biến. Thành thử nàng cứ sống sáu ngày trong đau khổ, đến ngày thứ bảy thì nàng được an ủi. Nhưng vì nàng còn trẻ, tuy chỉ được có một ngày, nàng cũng vui với cuộc sống. Nàng sinh được hai Hoàng tử sáu ngày hình gấu, chỉ ngày thứ bảy mới là hình người.
M lần như thế nàng lại nhét đầy các thức ăn ngon lành, bánh trái hoa quả vào giường rơm để ăn suốt tuần, con gấu vâng lời nàng và nàng muốn gì nó làm nấy.
Khi Rainan tỉnh dậy thì thấy mình nằm trên giường lụa, người hầu hạ chầu chực, mặc cho chàng quần áo sang trọng, vì hôm ấy đúng là ngày thứ bảy.
Chị cậu cùng hai Hoàng tử xinh đẹp và anh rể gấu mừng rỡ bước vào vì thấy cậu đã đến. Thôi thì mọi thứ đều đẹp lộng lẫy, suốt ngày vui vẻ. Nhưng đến tối công chúa bảo:
- Em yêu dấu, bây giờ thì em liệu đi ngay đi! Đến tang tảng sáng, chồng chị sẽ lại biến ra gấu. Nếu sáng ngày, anh ấy vẫn thấy em còn ở đây, anh ấy sẽ không cưỡng lại bản chất gấu mà sẽ ăn thịt em đấy.
Hoàng tử gấu vừa tới đưa cho cậu vài sợi lông gấu mà dặn: - Nếu gặp nạn thì em cứ sát lông vào người, anh sẽ đến cứu em ngay. Mọi người hôn nhau từ biệt. Rainan lên một cỗ xe thắng sau ngựa đen,
rồi đi. Đường đi vượt núi đèo, qua bãi hoang rừng rậm, qua bụi qua bờ, không dừng không nghỉ. Mãi cho đến lúc trời hửng sáng Rainan bỗng thấy mình trên mặt đất, ngựa xe biến mất. Đến khi trời sáng tỏ, cậu thấy sáu con kiến lật đật đi tới, tha một vỏ hạt dẻ.
Rainan thấy mình vẫn ở trong rừng thiêng, cậu muốn đi tìm các chị. Cậu lại đi lang thang một mình trong hiu quạnh ba ngày, nhưng chẳng được việc gì.
Đến ngày thứ tư, cậu nghe thấy một con chim đại bàng bay rào rào rồi hạ xuống tổ. Rainan trốn trong bụi rậm, đợi đến lúc nó bay đi. Bảy giờ sau nó lại bay lên không. Rainan bèn nhoi ra, đến trước cây gọi:
- Chị yêu dấu, nếu chị ở trên đấy thì hãy lên tiếng cho em biết. Em là Rainan, em của chị đây, em đến tìm chị đây.
Cậu nghe có tiếng vọng từ trên xuống:
- Nếu em là Rainan, em yêu của chị mà chị chưa từng nhìn thấy, thì hãy lên đây với chị.
Rainan định trèo lên, nhưng thân cây to mà lại trơn quá. Cố trèo ba lần đều uổng công. Bỗng một cái thang tết bằng dây lụa được thả xuống. Cậu liền trèo lên tổ đại bàng. Tổ vững chắc như một chiếc bao lơn trên cây thùy dương.
Chị cậu ngồi dưới một chiếc tán bằng lụa màu hồng. Trong lòng nàng ủ một quả trứng đại bàng, ấp cho nở. Hai người mừng rỡ. Nhưng một lúc sau,
công chúa nói:
- Em yêu dấu ạ, thôi em mau mau đi ngay. Nếu đại bàng chồng chị thấy em thì anh ấy móc mắt ăn tim em mất.
Rainan đáp:
- Không, em cứ ở đây cho đến khi chồng chị biến thành người cơ. - Việc ấy chỉ xảy ra trong sáu tuần nữa. Nhưng nếu em chịu được thì em cứ trốn vào trong thân cây rỗng, ngày ngày chị sẽ thả thức ăn xuống cho. Rainan chui vào trong thân cây, công chúa ngày ngày thả thức ăn xuống cho cậu. Hễ đại bàng bay đi thì cậu lại trèo lên với chị.
Sáu tuần sau đại bàng biến thành người. Rainan tỉnh dậy thấy mình nằm trên giường cũng như ở nhà anh rể gấu, nhưng có phần lộng lẫy hơn. Cậu sống bảy ngày rất vui vẻ ở nhà anh rể đại bàng. Đến ngày thứ bảy, từ biệt nhau, đại bàng cho cậu ba chiếc lông và dặn:
- Gặp cơn hoạn nạn, em hãy xát lông này vào người, anh sẽ lại cứu. Rồi người anh rể cho người hầu đi chỉ đường cho cậu. Tới sáng, bỗng tất cả mọi người biến đâu hết cả, còn lại mình Rainan đứng trên đỉnh núi cao, giữa cảnh hoang vu rùng rợn.
Rainan nhìn quanh, thấy mặt nước sáng như gương của một cái hồ lớn, phản chiếu những ánh nắng đầu tiên sáng loáng. Cậu nghĩ tới người chị thứ ba, chắc là chị ấy đấy. Cậu liền đi xuống, len lỏi qua các bụi cây và phiến đá.
Cậu đi như vậy ba ngày. Lắm khi cậu mất hút cả hồ. Nhưng đến sáng ngày thứ tư thì cậu tới bên hồ. Cậu đứng trên bờ kêu:
- Chị yêu dấu ơi, nếu chị có ở dưới đấy thì hãy lên tiếng, em là Rainan của chị đây, em đến thăm chị đây.
Nhưng không có ai trả lời. Tất cả đều im lặng. Cậu bẻ vụn bánh mì ném xuống nước bảo cá:
- Hỡi cá yêu dấu, hãy đi gặp chị ta, bảo là Rainan đứa trẻ kỳ diệu đã đến đây và muốn đi tới chỗ chị ở.
Nhưng cá hương chấm đỏ đớp bánh mì mà không nghe thấy cậu nói gì. Cậu thấy có chiếc thuyền liền cởi ngay áo giáp ra, chỉ cầm trong tay một thanh kiếm trần, nhảy xuống thuyền chèo. Cậu chèo mãi thì thấy một ống khói xây bằng thạch anh vọt lên trên mặt nước tỏa ra một mùi thơm êm dịu. Rainan liền chèo thuyền tới đó, chắc là chị mình sống ở dưới. Rồi cậu ngồi vào trong ống khói mà tụt xuống. Công chúa bỗng thấy hai chân người vung vẩy thì sợ quá.
Một lát sau, nàng thấy cả thân người tụt xuống, cậu tự nhận là em nàng. Nàng sung sướng vô cùng, nhưng cũng rất buồn rầu bảo em: - Cá voi đã biết tin là em định tìm chị và phàn nàn là nếu em đến đúng lúc anh ấy là cá voi, thì anh ấy sẽ thèm ăn thịt em, không nhịn được, anh ấy sẽ đập tan nhà bằng thạch anh của chị, chị cũng sẽ đến bỏ mình trong ngọn sóng.
- Thế chị có thể giấu em cho qua hạn phù phép không?
- Ấy chết, không được, vì em có thấy là tường bằng pha lê trong suốt Nàng suy nghĩ mãi, chợt nghĩ đến buồng để củi. Nàng liền xếp củi thật khéo - trông ngoài không biết được, giấu đứa trẻ kỳ diệu vào trong. Một lát sau, cá voi đến. Công chúa run như lá liễu rung rung. Cá bơi mấy vòng quanh tòa nhà pha lê. Khi nó thấy mảnh áo của Rainan trong đống củi lòi ra, nó quẫy mạnh đuôi, thở phì phò. Nếu nó mà nhìn thấy nhiều lần nữa, ắt là nó sẽ đập tan nhà ra. Ngày nào, cá voi cũng đến lượn quanh. Mãi cho đến tháng thứ bảy, hết phù phép. Rainan thấy mình ở trong một tòa lâu đài còn lộng lẫy hơn cả lâu đài của đại bàng, ngay chính giữa có một hòn đảo đẹp đẽ. Cậu sống cả một tháng trời rất là vui vẻ cùng chị và anh rể. Một tháng sắp hết thì cá voi cho cậu ba cái vẩy mà dặn:
- Nếu em bị hoạn nạn, thì em cứ xát vẩy vào người, anh sẽ giúp em. Rồi cá voi lại để cậu chèo vào bờ. Đến nơi, cậu thấy bộ áo giáp vẫn còn đó. Đứa trẻ kỳ diệu lại đi bảy ngày trong hoang vu.
Trong bảy đêm, cậu ngủ ngoài trời. Bỗng cậu thấy một tòa lâu đài có cánh cổng bằng thép trên cửa có một cái khóa rất chắc. Phía trước có một con bò rừng mắt nảy lửa đang canh gác lối vào. Rainan xông đến, chém mạnh vào cổ nó, nhưng cổ nó bằng thép, gươm gãy tan ra từng mảnh như thủy tinh. Cậu dùng giáo đâm, nhưng giáo gẫy vụn như là một sợi rơm. Bò rừng lấy sừng ghì cậu, tung cậu lên không, khiến cậu mắc lủng lẳng trên cành cây.
Trong cơn nguy khốn Rainan chợt nhớ đến ba sợi lông gấu. Cậu xát lông vào bàn tay thì lập tức có một con gấu lạch bạch chạy ra, đánh bò rừng và xé nó ra. Nhưng từ trong bụng bò rừng có một con vịt trời vút lên không và bay đi thật nhanh. Rainan liền xát vào người ba cái lông đại bàng, lập tức có một con đại bàng rẽ mây bay đến đuổi theo con chim đang bay thẳng về phía một cái hồ, sà xuống nó và xé nhỏ nó. Nhưng Rainan thấy nó thả xuống nước một quả trứng vàng.
Cậu liền xát ba vẩy cá vào lòng bàn tay. Một con cá voi bơi lại ngay, ngậm quả trứng và nhô lên bờ. Rainan cầm lấy, dùng búa đập vỡ thì thấy trong đó có một chiếc chìa khóa nhỏ. Đó chính là chiếc chìa khóa mở được chiếc cửa bằng thép. Chìa khóa vừa đụng vào khóa thì cửa mở tung ra, Rainan bước vào. Cậu đi đến đâu, then cửa tự động bật ra đến đấy.
Cậu qua bảy cửa, vào bảy phòng đẹp lộng lẫy, sáng trưng. Ở phòng cuối cùng, có một thiếu nữ nằm ngủ trên giường. Nàng đẹp tuyệt vời khiến cậu hoa mắt lên. Cậu định đánh thức nàng dậy, nhưng chỉ mất công vì nàng ngủ say như chết. Chàng tức quá đập vào một chiếc bảng đen ở bên giường. Thiếu nữ tỉnh dậy ngay, nhưng lại ngủ tiếp.
Chàng liền cầm lấy bảng, ném lên nền đá, bảng vỡ tan nghìn mảnh. Ngay
lúc đó, thiếu nữ mở mắt ra. Phép thuật tiêu tan. Thiếu nữ ấy là em gái của ba anh rể Rainan. Vì nàng không chịu yêu một tên phù thủy, nó đã bắt nàng ngủ say như chết và biến ba anh nàng thành ba con vật. Phù phép sẽ còn hiệu lực nếu bảng đen vẫn y nguyên.
Rainan đưa nàng ra. Cậu vừa đến trước cửa thì các anh con rể cỡi ngựa từ ba phía đi lại cùng vợ con. Nàng vợ đại bàng đã ấp xong trứng và ẵm lại một cô bé xinh đẹp. Mọi người đi tới gặp vua và hoàng hậu đã già. Đứa trẻ kỳ diệu đưa ba chị về nhà, và cách đó ít lâu, chú kết hôn với nàng thiếu nữ xinh đẹp kia.
Khắp nơi đều vui mừng, con mèo chạy về nhà, câu chuyện tôi kể đến đây là hết. Ông Vua trong câu chuyện rất giàu có, đúng không nào? Thế nhưng tại sao ông Vua đó lại phải đem ba cô con gái cho Gấu, Đại Bàng và Cá Voi? Phải chăng do ông Vua sống rất xa hoa.
Qua câu chuyện, ta thấy rằng: dù giàu có đến đâu nhưng sống xa hoa thì tất cả của cải phải đội nón ra đi.
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
10. BÀ LÃO CHĂN NGỖNG
Ngày xưa có một bà già nua, sống cùng đàn ngỗng tại một nơi hẻo lánh giữa núi rừng. Bà ở trong một căn nhà nhỏ. Chúng quanh có một khu rừng lớn. Sáng nào bà cũng chống nạng lẩy bẩy đi vào rừng. Bà bận nhiều việc lắm, một người nhiều tuổi như bà tưởng khó có thể làm nổi: đi kiếm cỏ cho ngỗng, hái quả dại vừa tầm tay với, vác cả lên lưng về nhà.
Trông thì tưởng chừng bác nặng đến ngã khuỵu xuống mất, nhưng cũng may là bao giờ bà cũng mang về được tới nhà. Bà gặp ai cũng chào hỏi niềm nở:
- Chào người bà con. Hôm nay trời đẹp nhỉ! Bà con thấy già đi tha cỏ về thì chắc lấy làm lạ lắm nhỉ, ai mà chẳng phải vác gánh nặng của mình trên lưng.
Tuy vậy, thiên hạ không thích gặp bà lão, họ thường đi đường vòng để tránh bà. Khi một ông bố cùng con trai đi qua mặt bà, ông khẽ bảo con: - Con phải coi chừng mụ già này. Mụ ấy thâm hiểm lắm. Đó là một mụ phù thủy đấy.
Một buổi sáng, có chàng thanh niên đẹp trai đi qua rừng. Trời nắng, chim kêu ríu rít, gió mát thổi qua cành lá, lòng chàng lâng lâng vui sướng. Chàng chẳng gặp một ai. Bỗng chàng nhìn thấy bà phù thủy đang cắt cỏ bằng liềm. Bà đã nhét vào thay nải một mới nặng, cạnh đó còn có hai giỏ đầy lê và táo dại.
Chàng nói:
- Này bà lão, bà làm thế nào mà mang hết đi được?
Bà già đáp:
- Thưa ngài, thế mà tôi vẫn phải mang cho được đấy. Con nhà giầu có đâu cần như vậy. Nhưng nông dân thường nói: "Thôi đừng ngó quẩn ngó quanh làm gì! Cái lưng người vốn nó phải còng."
Chàng đứng bên bà, bà bèn bảo:
- Thế chàng giúp già một tay có được không? Lưng chàng còn thẳng, chân còn cứng, đối với chàng thì dễ thôi. Nhà già cũng gần đây, trên cái bãi hoang kia, ở ngay sau núi, chàng chạy một lát thì đến ngay đấy mà. Chàng thanh niên thương hại bà lão,
- Quả cha tôi không phải là nông dân, mà là một vị bá tước giàu có, nhưng thôi cứ để tôi mang giúp bà chiếc tay nải kia.
Bà già nói:
- Nếu chàng cố giúp cho thì quý hóa quá. Chắc chắn là chàng phải đi mất một giờ đấy, Nhưng đối với chàng thì thấm vào đâu. Chàng phải mang giúp cho cả táo và lê đến đấy nữa nhé!
Nghe nói đi mất một giờ thì vị bá tước trẻ tuổi hơi phân vân, nhưng bà
già không buông chàng ra, bà buộc khăn gói trên lưng chàng, khoác đôi giỏ vào cánh tay chàng và nói:
- Chàng thấy chưa, cũng dễ thôi mà!
Bá tước vừa đáp vừa nhăn nhó:
- Đâu, không dễ đâu! Cái bọc nặng như là bọc đá ấy, lê táo cũng nặng như chì. Thở chẳng ra hơi nữa!
Chàng muốn trút tất cả mọi thứ, nhưng bà già không chịu. Bà nói mỉa: - Trông kìa! Có đời thuở nhà ai một vị trai tráng mà không chịu mang cái mà một bà già như ta đã từng lê đi bao nhiêu lần. Nói hay, nói đẹp thì sao mà mau thế! Hễ công việc thật thì chỉ muốn lẩn thôi.
Bà nói tiếp:
- Sao chàng lại chần chừ, đứng ỳ ra như thế! Chịu khó nhấc chân lên chứ. Không ai đỡ gói cho đâu.
Còn đi trên đất bằng thì chàng còn chịu nổi. Nhưng khi lên núi, phải trèo, đá lăn dưới chân chàng y như chúng là những vật sống thì thật là quá sức chàng. Mồ hôi nhễ nhại trên trán, chảy ròng ròng xuống lưng chàng, khi thì nóng bốc lên, khi thì lại lạnh toát sống lưng. Chàng
- Bà già ơi, tôi không chịu nổi nữa, cho tôi nghỉ một tí.
Bà già đáp:
- Không nghỉ ở đây được. Để đến nơi đã, hãy nghỉ. Bây giờ cứ đi đi. Biết đâu thế chả là điều hay cho chàng.
Bá tước nói:
- Mụ già kia, mụ thật hỗn xược.
Chàng định vứt chiếc khăn gói đi, nhưng loay hoay mãi mất công toi. Khăn gói dính chặt vào lưng chàng y như là nó mọc từ lưng ra. Chàng quay cuồng, vặn vẹo mãi mà không tài nào thoát ra được.
Bà già thấy vậy cười và nhảy nhót trên đôi nạng một cách khoái trá. Bà nói:
- Chàng ơi, xin chàng chớ tức giận, mặt chàng đã đỏ chín lên như gà chọi rồi. Chàng cứ chịu khó đeo khăn gói đi, đến nhà, già sẽ thưởng cho xứng công. Chàng biết làm sao bây giờ? Chàng đành tuân theo số phận, nhẫn nhục lê theo bà già. Bà ta có vẻ mỗi lúc một lanh lẹn, còn chàng thì thấy gánh trên vai mỗi lúc một thêm nặng. Rồi bỗng bà nhún người nhảy một cái, ngồi trên khăn gói.
Bà gầy khẳng khiu như cái cọc rào, mà sao nặng hơn cả một mụ nông dân béo ị. Chàng thanh niên lảo đảo, Nhưng nếu chàng không chịu đi thì bà lấy roi và cành gai đánh vào chân chàng. Chàng không ngừng rên rỉ, trèo lên núi, mãi đến khi sắp khuỵu xuống mới tới nhà bà. Đàn ngỗng thấy bà già gọi thì vỗ cánh vươn cổ lên, chạy ra đón và kêu quang quác. Một mụ đã có tuổi, mạnh khỏe to lớn, xấu như ma lem, cầm roi theo sau đàn ngỗng. Bác ta bảo bà lão:
- Mẹ ơi, có việc gì mà sao lâu thế?
Bà lão đáp:
- Con cứ yên tâm, chưa gặp điều gì dữ cả. Trái lại, chàng đây lại mang giúp cho mẹ. Này con ạ, khi mẹ mệt chính chàng ta lại cõng mẹ trên lưng nữa. Thành ra đường đi không thấy xa, đi rất vui vẻ và luôn luôn đùa giỡn với nhau.
Mãi sau bà già mới chịu tụt xuống, đỡ khăn gói khỏi lưng chàng, lấy giỏ khỏi tay chàng, thân mật nhìn chàng và bảo:
- Thôi bây giờ, chàng hãy ngồi ở chiếc ghế dài trước cửa mà nghỉ. Chàng thật đáng được trả công một cách xứng đáng. Mà nhất định là có thôi. Rồi bà bảo mụ chăn ngỗng:
- Con hãy vào trong nhà, con ạ. Con đứng một mình với chàng trai trẻ thật là không tiện, không nên đổ dầu vào lửa. Chàng ta có thể mê con đấy. Bá tước chẳng biết nên cười hay nên khóc. Chàng nghĩ bụng: đồ của thừa như thế, giá có trẻ hơn ba chục tuổi cũng chẳng làm cho mình rung động được. Trong khi ấy, bà lão vuốt ve đàn ngỗng như con, bà cùng mụ con gái vào nhà. Chàng thanh niên ngả mình trên chiếc ghế dài ở gốc một cây táo. Không khí êm dịu, ấm áp. Chung quanh rải ra một đống cỏ xanh rờn, đầy hoa ngọc châu, hoa bách lý và hàng trăm thứ hoa khác. Một con suối trong veo, lóng lánh ánh mặt trời chảy ngang. Đàn ngỗng trắng nhởn nhơ đi qua đi lại hoặc lội bì bõm dưới nước. Chàng nghĩ bụng:
- Ở đây thật là yêu kiều, nhưng ta buồn ngủ quá, mắt cứ díp lại. Ta phải ngủ đi một tí mới được. Chỉ mong đừng có cơn gió nào thổi bay đôi chân mình đi, chân mình đã nhũn ra như bùi nhùi mất rồi.
Chàng ngủ được một lát thì bà già đến lay dậy, bà bảo:
- Dậy đi, chàng ơi! Chàng không ở lại đây được đâu, quả là già đã làm cho chàng vất vả, nhưng cũng chưa hại gì đến tính mạng. Giờ thì già trả công cho chàng. Tiền bạc và của cải thì chàng không cần đến cho thứ khác.
Nói rồi, bà nhét vào tay chàng một chiếc hộp nhỏ làm bằng một viên ngọc xanh nguyên khối và dặn:
- Chàng hãy giữ hộp này cẩn thận, nó sẽ mang phúc đến cho chàng. Bá tước vùng dậy, cảm thấy trong người khoan khoái, lại sức, cảm ơn bà già rồi lên đường, không buồn quay lại nhìn con gái xinh đẹp của bà lấy một lần. Chàng đi được một quãng đường vẫn còn nghe thấy tiếng ngỗng kêu vui vẻ từ xa vọng lại.
Bá tước phải lang thang ba ngày trong rừng hoang mới tìm ra được lối đi. Chàng đến một thành phố lớn. Ở đấy không ai biết chàng. Người ta dẫn chàng đến cung điện. Vua và hoàng hậu đã ngự triều. Bá tước quì xuống, rút chiếc hộp bằng ngọc xanh ở túi ra để xuống chân hoàng hậu. Bà truyền cho chàng đứng dậy, chàng cầm lấy chiếc hộp dâng lên bà vừa mở ra xem thì ngã xuống đất bất tỉnh nhân sự. Bá tước bị bọn thị vệ nắm chặt lấy định đem tống
ngục.
Nhưng hoàng hậu mở mắt, truyền phải tha chàng. Bà đuổi mọi người ra và muốn tiếp chuyện riêng chàng. Khi chỉ còn mình bà với bá tước, hoàng hậu khóc lóc thảm thiết và bà nói:
- Giàu sang phú quí đối với ta có làm gì, vì sáng nào ta thức dậy cũng phải lo âu phiền não. Ta có ba con gái, con gái út đẹp nhất, thiên hạ coi là của quí kỳ diệu. Da nó trắng như tuyết, má nó hồng như táo, tóc nó rực rỡ như ánh sáng mặt trời. Khi nó khóc, không phải giọt lệ thường, mà là hạt châu, hạt ngọc ở mắt nhỏ ra. Năm nó mười lăm tuổi, vua cho đòi ba chị em nó đến trước ngai vàng. Chàng không thể tưởng tượng quần thần trố mắt ra nhìn thế nào khi đứa thứ ba bước vào. Thật y như mặt trời mọc. Vua phán "Các con ạ, cha không biết ngày nào cha chết. Hôm nay, cha muốn quyết định xem sau khi cha chết, mỗi con được hưởng gì. Các con đều yêu cha cả, nhưng con nào yêu cha tha thiết nhất sẽ được hưởng cái quý nhất". Cô nào cũng nhận là yêu cha tha thiết nhất.
Vua hỏi: "Các con hãy nói xem các con yêu cha thế nào. Cha sẽ hiểu được lòng các con". Cô cả non yêu cha như yêu đường ngọt nhất". Cô thứ hai nói: "Con yêu cha như yêu chiếc áo đẹp nhất của con". Cô thứ ba lặng thinh. Vua cha liền hỏi: "Thế nào, con yêu ta như thế nào?". Cô đáp: "con không biết lấy gì ví lòng con yêu cha". Nhưng vua cha đòi cô phải nói lên cái gì để ví. Sau mãi cô mới nói: "Món ăn ngon nhất mà thiếu muối thì con không thể ăn ngon được. Do đó con yêu cha như muối". Vua cha nghe vậy, nổi giận phán: "Nếu mày yêu ta như muối thì ta sẽ lấy muối thưởng tấm lòng của mày". Vua liền chia giang sơn làm đôi cho hai cô con gái lớn và sai buộc lên lưng cô đi một bị muối, rồi cho hai người nông nô dẫn cô vào rừng hoang.
Hoàng hậu nói tiếp:
- Tất cả chúng tôi đều van xin, nhưng vua vẫn không nguôi giận. Chao ôi! Con tôi nó khóc lóc thảm thiết làm sao khi nó phải từ bỏ chúng tôi. Suốt dọc đường rãi đầy châu ngọc ở mắt nó tuôn ra. Sau đó ít lâu, vua hối hận vì đã quá nhẫn tâm. Vua cho đi tìm đứa con đáng thương khắp trong rừng nhưng chẳng ai thấy nó. Ta cứ nghĩ nó bị thú dữ ăn thịt là ta lại buồn rầu. Đôi khi, ta tự an ủi với hy vọng là nó vẫn còn sống, chui rúc trong một cái hang nào đó hay nương tựa ở nơi nào có người thương hại. Chàng có thể tưởng tượng được không, khi ta mở chiếc hộp con bằng ngọc xanh của chàng ra, ta thấy có một hạt ngọc đúng như hạt lệ ở mắt con ta nhỏ ra. Chàng hiểu tại sao ta thấy ngọc mà lòng ta xúc động. Chàng phải nói cho ta biết làm sao ngọc ấy lại vào tay chàng. Bá tước kể lại cho hoàng hậu biết là chàng nhận được ngọc của một bà lão trong rừng, có vẻ khả nghi lắm, chắc là một mụ phù thủy. Chàng không hề nghe nói gì về công chúa hoặc trông thấy nàng. Vua và hoàng hậu quyết định đi tìm bà lão vì nghĩ là ngọc ở đâu ắt là có thể
tìm ra tung tích con mình ở đó.
Bà lão ngồi ở ngoài trời, chỗ bãi hoang, kéo sợi bên chiếc giường. Trời đã tối. Ở dưới bếp, một thanh củi hắt ra ánh sáng leo lắt. Bỗng ở ngoài có tiếng ồn ồn, ngỗng từ đồng cỏ về nhà, kêu quang quác ầm lên. Một lát sau, một người đàn bà bước theo vào. Bà lão chả buồn chào đáp lại người ấy chỉ khẽ gật đầu.
Người đàn bà lại ngồi bên mẹ cầm guồng quay sợi nhanh nhẹn như một thiếu nữ. hai người ngồi vậy hai giờ, không nói với nhau nửa lời. Mãi sau có tiếng động khẽ ở cửa sổ. Rồi có đôi mắt sáng như lửa chằm chằm nhòm vào. Đó là một con cú, nó hú lên ba lần. Bà già ngẩng lên nhìn một tí rồi bảo:
- Con ạ, đlúc con đi ra làm việc rồi con ạ.
Người đàn bà đứng dậy đi ra. Bác đi đâu vậy? Bác băng qua đồng cỏ, đi mãi đến thung lũng. Sau đó bác đến một dòng suối, trên bờ có ba cây sồi cổ thụ. Trong khi ấy mặt trăng tròn và to đã lên quá đỉnh núi. Trăng sáng đến nỗi có thể tìm được cái kim nhỏ. Bác bỏ miếng da úp trên mặt ra rồi xuống suối rửa. Xong xuôi, bác nhúng miếng da vào nước rồi đặt xuống đồng cỏ để phơi khô và cho bạc màu dưới ánh trăng. Bác biến đổi khác hẳn. Chưa ai được thấy một người đẹp đến thế! Mái tóc hoa râm vừa rơi xuống thì mới tóc vàng sổ ra như ánh mặt trời, phủ lên khắp người như một chiếc áo khoác. Đôi mắt cô thiếu nữ sáng người như sao trên trời, đôi má ửng hồng mịn dịu như hoa táo.
Nhưng cô gái xinh đẹp lại buồn rầu. Cô ngồi khóc thảm thiết, nước mắt tuôn lã chã trên mớ tóc dài rơi xuống đất. Cô cứ ngồi mãi cho đến khi trên cành cây gần đó có tiếng loạt xoạt, rào rào.
Cô nhảy chồm lên như con hoẵng nghe tiếng súng của người đi săn, đúng lúc ấy mặt trăng bị mây che phủ. Chỉ trong giây lát, cô lấy miếng da đắp lên mặt như cũ rồi biến đi như ngọn đèn bị gió thổi tắt.
Cô run rẩy như lá liễu, bỏ chạy về nhà. Bà già đứng trước cửa. Cô định kể lại sự việc xảy ra. Nhưng bà lão cười thân mật và bảo:
- Mẹ biết hết cả rồi.
Bà dẫn cô vào buồng và nhóm thêm một thanh củi nữa. Nhưng bà không ngồi bên guồng nữa mà đi lấy một cái chổi quét tước sạch sẽ. Bà bảo cô:
- Tất cả mọi thứ đều phải tinh tươm, sạch sẽ.
Cô bảo:
- Này mẹ, nhưng sao khuya rồi mẹ mới bắt đầu làm việc? Mẹ định Bà già hỏi:
- Thế con không biết mấy giờ rồi à?
Cô đáp:
- Chưa đến nửa đêm, Nhưng đã quá mười một giờ rồi.
Bà nói tiếp:
- Thế con không biết cách đây ba năm, đúng ngày này năm ấy, con đã đến đây với ta à? Vận hạn của con đã hết, chúng ta không thể cùng ở với nhau nữa.
Cô gái sợ hãi hỏi:
- Trời ơi, mẹ yêu dấu, mẹ định bỏ con à! Con biết đi đâu bây giờ? Con không có bạn bè, không có quê hương, con biết nương tựa vào ai? Mẹ muốn gì, con đều đã làm cả, có bao giờ con làm phật ý mẹ đâu. Xin mẹ đừng đuổi con đi!
Bà già không muốn nói cho cô gái việc sắp xảy ra.
Bà bảo cô:
- Mẹ không thể ở đây lâu hơn nữa. Nhưng khi mẹ dọn đi thì nhà cửa phải cho sạch sẽ. Vì vậy, con đừng làm cản trở công việc của mẹ. Về phần con, chớ có lo ngại. Con sẽ tìm ra một mái nhà có thể ở được. Con cũng sẽ hài lòng về công xá mẹ trả cho con.
Cô gái lại hỏi:
- Nhưng mẹ hãy nói cho con biết việc sắp xẩy ra.
- Mẹ bảo con lần nữa là đừng có quấy rầy mẹ trong khi mẹ bận làm. Con đừng nói gì nữa, con cứ về phòng riêng bỏ miếng da c mặt xuống, mặc chiếc áo lụa vào, chiếc áo mà con mặc khi con đến với mẹ, rồi cứ đợi ở trong phòng cho đến khi mẹ gọi ra.
Nhưng để tôi kể cho các bạn nghe về việc vua và hoàng hậu cùng bá tước ra đi tìm bà già ở bãi hoang. Ban đêm, vào rừng, bá tước bị lạc vua và hoàng hậu nên phải đi một mình. Chàng đi mãi đến xẩm tối. Chàng trèo lên một cây định ngủ qua đêm vì lo lạc đường. Ánh trăng vừa tỏ xuống, sáng khắp vùng thì chàng thấy có một bóng người thẫn thời từ trên núi xuống. Người đàn bà không cầm roi trong tay nhưng chàng nhận ra ngay là bác chăn ngỗng mà chàng đã gặp ở nhà bà già trước kia. Chàng kêu lên:
- Chà, mụ ấy đây rồi. Ta đã vớ được mụ phù thủy này thì mụ kia cũng không thoát được đâu.
Chàng rất ngạc nhiên khi thấy mụ đến bên suối, bỏ tấm da che mặt ra rửa thì mớ tóc vàng xõa xuống cả người. Trên đời, chàng chưa từng thấy có ai đẹp thế. Chàng nín thở, cố vươn cổ qua cành lá nhìn không chớp mặt. Không hiểu tại chàng vươn quá xa hay tại duyên có gì khác, bỗng cành cây kêu đánh rắc một cái và ngay lúc đó cô gái lại đeo bộ da mặt vào, nhảy như con hoẵng khỏi nơi đó. Cùng lúc ấy, mây che khuất mặt trăng, chàng không nhìn thấy nàng nữa.
Nàng vừa biến mất thì bá tước trèo xuống, rảo bước theo sau. Chàng đi được một lát thì thấy bóng tối lờ mờ, hai bóng người đi trên đồng cỏ. Đó là vua và hoàng hậu. Hai người nhìn thấy xa xa có ánh đèn trong chiếc nhà nhỏ của bà già bèn đi lại đó. Bá tước kể lại những điều kì lạ chàng được nhìn
thấy bên suối và hai người đinh ninh đó là cô con gái bị lạc. Họ vui mừng đi tiếp và chẳng mấy chốc tới căn nhà con. Chung quanh nhà, ngỗng nằm ngủ, đầu ấp vào cánh, không con nào động đậy. Họ nhìn qua cửa sổ thấy bà lão ngồi yên lặng, kéo sợi, đầu gật gù, không nhìn ngang ngửa.
Trong buồng sạch sẽ y như là nơi ở của những người ngoài trần tục, chân không dính một tí bụi nào. Nhưng họ không nhìn thấy con gái bà đâu cả. Họ đứng nhìn mọi thứ một lúc rồi đánh bạo, khẽ gõ cửa sổ.
Hình như bà lão vẫn chờ họ nên bà đứng dậy một cách niềm nở: - Xin các vị cứ việc vào, già biết các v
Khi họ vào buồng rồi bà lão nói:
- Nếu cách đây ba năm, các người đừng đuổi đưa con ngoan ngoãn dễ thương một cách bất công thì có phải đỡ một quãng đường dài không? Kể ra thì cũng chẳng thiệt hại gì cho cô ta, cô phải chăn ngỗng ba năm thôi. Cô chẳng tiêm nhiễm điều gì xấu cả, cô vẫn giữ được tấm lòng trong sạch. Các người đã bị trừng phạt khá đủ rồi vì đã sống trong lo sợ.
Nói rồi, bà lão đi đến phòng gọi:
- Con ơi ra đi con.
Cửa mở, công chúa đi ra, mặc áo lụa, tóc vàng mắt sáng người. Nàng đi tới cha mẹ, ôm choàng lấy cổ hôn. Lẽ dĩ nhiên là tất cả mọi người đều khóc vì vui mừng. Vị bá tước trẻ tuổi đứng bên họ. Khi nàng nhìn thấy chàng thì mặt nàng đỏ ửng như đóa hoa hồng chính nàng cũng không biết tại sao.
Vua bảo:
- Con yêu dấy ơi, biết lấy gì cho con bây giờ, giang sơn của cha, cha đã cho đi hết rồi.
Bà lão nói:
- Nàng không cần gì đâu. Già đã tặng cho nàng những giọt lệ đã vì các người mà khóc. Đó toàn là ngọc cả, đẹp hơn hạt châu dưới bể, quí giá hơn tất cả giang sơn nhà vua. Để trả công hầu hạ của nạng, già để cho nàng căn nhà con của già.
Bà lão nói xong thì biến mất. Ở trên tường có tiếng nổ khe khẽ, họ nhìn quanh thì thấy căn nhà nhỏ đã biến thành một tòa lâu đài rực rỡ, tiệc hoàng gia dọn linh đình, kẻ hầu người hạ chạy đi chạy lại tới tấp.
Câu chuyện còn tiếp diễn, nhưng bà tôi kể chuyện này trí nhớ kém quá nên quên mất đoạn sau. Thôi thì tôi cứ cho là nàng công chúa đẹp đẽ lấy bá tước, hai vợ chồng ở lại lâu đài, hưởng phúc trời cho. Tôi không rõ Nhưng tôi không ngờ những con ngỗng trắng như tuyết chăn ở bên nhà cũng đều là những cô thiếu nữ (xin đừng ai mếch lòng) mà bà cụ đã đem về nuôi, và có lẽ các cô ấy cũng đã hiện nguyên hình để làm thị nữ cho bà hoàng hậu trẻ tuổi.
Có một điều chắc chắn là bà lão không phải là một mụ phù thủy như người ta tưởng mà là một bà lão tốt bụng. Rất có thể đó là bà mụ khi sinh ra
công chúa đã chúc cho nàng khóc ra châu lệ chứ không phải nước mắt thường. Ngày nay truyện ấy không xẩy ra nữa, nếu không thì người nghèo khó chẳng mấy chốc trở nên giàu có.
Các em có bao giờ ăn cơm mà không có muối chưa, chắc là chưa đúng không nào? Vậy các em hãy thử ăn bảo bố mẹ làm các món ăn mà không cho muối xem sao! Ta coi muối là rất bình thường trong các bữa ăn mà không biết nó quý giá đến chừng nào. Từ đó các em có thể đoán được tại sao nàng công chúa út lại quý cha như muối.
11. BA NGƯỜI LÙN TRONG RỪNG
Ngày xưa có một người đàn ông góa vợ và một người đàn bà góa chồng. Người đàn ông có một con gái, người đàn bà cũng có một con gái. Hai đứa bé quen nhau thường rủ nhau đi chơi rồi về nhà người đàn bà góa. Bác ta bảo đứa con gái người đàn ông:
- Này cháu ạ, cháu về bảo bố là bác muốn lấy bố. Như thế, thì rồi sáng nào cháu cũng được rửa mặt bằng sữa và uống rượu vang, con bác thì chỉ rửa mặt bằng nước lã và uống nước lã thôi.
Cô gái về nhà kể lại cho bố nghe. Người đàn ông nghĩ bụng: - Không biết nên làm thế nào đây nhỉ! Lấy vợ thì sướng đấy và cũng khổ đấy.
Sau cùng, bác phân vân không biết nên quyết định thế nào, liền tháo một chiếc ủng ra bảo con
- Con cầm lấy chiếc giầy ủng này. Ở đế có một cái lỗ thủng. Con đem lên buồng xép trên gác treo lên đinh to rồi đổ nước vào. Nếu giầy giữ được nước thì bố lại cưới vợ, nếu nước chảy thì thôi.
Cô gái làm theo lời bố dặn. Nước làm cho da căng lấy kín chỗ thủng, giầy đầy nước. Cô đến bảo cho bố biết việc xảy ra. Bố bèn đích thân đến, thấy đúng thế. Bác liền đến nhà bà góa hỏi làm vợ. Lễ cưới được tổ chức.
Sáng hôm sau, khi hai cô dậy thì trước mặt cô con riêng người đàn ông đã có sữa để rửa mặt và rượu vang để uống, còn trước mặt cô con riêng người đàn bà thì chỉ có nước lã. Sáng ngày thứ hai trước mặt cô con riêng của người đàn ông cũng như cô con riêng của người đàn bà đều có nước lã để rửa mặt và nước lã để uống. Sang đến ngày thứ ba, trước mặt cô con riêng của người đàn ông có nước lã để rửa mặt và nước lã để uống. Còn trước mặt cô con gái người đàn bà có sữa để rửa mặt và rượu vang để uống, và cứ thế tiếp mãi. Người đàn bà ghét cay ghét đắng con chồng, chỉ tìm cách hành hạ nó mỗi ngày một thêm khổ sở. Mụ lại đố kỵ vì con chồng thì xinh đẹp, dễ thương, con gái mụ thì xấu xa ghê tởm.
Một hôm mùa rét, tiết trời băng giá, tuyết phủ đầy núi và thung lũng, mụ làm một chiếc áo bằng giấy, gọi con chồng lại bảo:
- Mày mặc chiếc áo này mà vào rừng hái cho tao một rổ dâu đầy, tao thèm dâu lắm.
Cô gái đáp:
- Trời ơi, mùa đông làm gì có dâu! Đất giá lạnh, tuyết phủ hết. Mà sao lại bắt con mặc áo giấy mà đi? ở ngoài rét, hơi thở giá lạnh. Gió thổi như cắt da, buốt như gai đâm vào thịt.
Mẹ ghẻ bảo:
- À, mày lại cãi tao à? Muốn sống thì đi ngay có lấy được đầy rổ dâu thì
hãy vác mặt v
Rồi mụ đưa cho cô một mẩu bánh mì rắn mà bảo:
- Ăn cả ngay đấy nhé!
Mụ nghĩ bụng, con chồng ra ngoài sẽ bị chết vì đói rét, thế là rảnh mắt mụ mãi mãi.
Cô gái vâng lời, mặc áo giấy vào, mang rổ ra đi. Tuyết phủ mênh mông. Không nhìn thấy một gốc cây xanh nhỏ. Cô vào rừng thấy một ngôi nhà nhỏ, có ba người lùn đứng trông ra. Cô khẽ gõ và cửa chào họ. Họ bảo cô vào. Cô vào buồng, ngồi bên chiếc ghế dài bên lò sưởi. Cô định sưởi và ăn sáng. Những người lùn bảo:
- Cho bọn tôi xin một tí.
Cô vui lòng chia mẩu bánh mì làm hai, cho họ một nửa. Họ hỏi cô: - Trời mùa đông thế này, cô mặc chiếc áo mỏng manh vào rừng làm gì? Cô đáp:
- Trời ơi, tôi phải hái cho được một rổ dâu đây, có lấy được thì mới dám về nhà.
Cô ăn xong bánh, họ đưa cho cô một cái chổi mà bảo:
- Cô cầm ra chỗ cửa sau mà quét sạch tuyết đi.
Khi cô ra ngoài rồi, ba người lùn bảo nhau:
- Cô ấy ngoan và tốt bụng quá, chia bánh cho chúng ta, vậy thì nên cho cô ấy cái gì nhỉ?
Người th
- Tôi ban cho cô ấy sắc đẹp ngày một lộng lẫy hơn.
Người thứ hai nói:
- Tôi ban cho cô ấy điều này: Cứ nói một tiếng thì một đồng tiền vàng ở miệng rơi ra.
Người thứ ba nói:
- Tôi ban cho cô ấy điều này: Một ông vua sẽ đến lấy cô làm vợ. Cô bé làm theo lời mấy người lùn. Cô đem chổi ra sau ngôi nhà nhỏ quét tuyết. Các bạn có biết cô bé thấy gì không? Toàn dâu chín là dâu chín; dâu hiện ra đỏ thắm trên nền tuyết trắng. Cô mừng rỡ nhặt đầy rổ. Rồi cô cảm ơn những người lùn, bắt tay chào từng người rồi chạy về nhà đưa cho dì ghẻ thứ mà bà hạch. Cô bước vào, vừa mở mồm ra thì một đồng tiền rơi ra ở mồm. Cô liền kể lại việc xảy ra trong rừng; cứ nói một tiếng là có một đồng tiền vàng rơi ở mồm ra, chẳng mấy chốc mà phòng đầy tiền vàng. Cô em con dì ghẻ kêu lên:
- Kìa trông có kẻ làm cao, vứt tiền như rác kìa!
Trong thâm tâm, cô ta ghen ghét, nên cũng muốn vào rừng tìm dâu. Mẹ bảo:
- Không được đâu, con gái nhỏ yêu dấu của mẹ ạ! Trời rét lắm. Con của mẹ đến chết rét mất.
Nhưng cô không để cho mẹ được yên, nên cuối cùng mẹ cũng phải chịu may cho cô một chiếc áo lộng lẫy để cô mặc, đưa cho cô bánh mì bơ và bánh ngọt đem theo đi ăn đường. vào rừng, đến đúng ngôi nhà nhỏ. Ba người lùn cũng đang đứng trông ra. Nhưng cô không buồn quay lại nhìn họ, cũng chẳng buồn chào hỏi họ, cứ thế lật đật bước vào phòng, ngồi bên lò sưởi lấy bánh mì bơ và bánh ngọt ra ăn.
Những người lùn hỏi cô:
- Cho chúng tôi ăn một tí nào.
Cô đáp:
- Mình tôi ăn còn chẳng đủ còn đâu mà chia cho người khác. Cô ăn xong. Họ bảo:
- Đây có cái chổi, cô cầm lấy ra quét sạch đằng sau nhà.
Cô đáp:
- Úi chà, tôi có là đầy tớ của các người đâu.
Cô thấy họ chẳng định cho cô gì cả liền đi ra cửa.
Những người lùn bàn nhau:
- Con bé này hư, độc ác, đố kỵ, ai có gì cũng ghen, ta cho nó gì đây? Người thứ nhất bảo:
- Tôi cho nó điều này: Mỗi ngày một xấu thêm.
Người thứ hai nói:
- Tôi cho nó điều này: Cứ nói mỗi một tiếng là một con cóc nhảy ở mồm ra.
Người thứ ba nói:
- Tôi muốn nó chết bất đắc kỳ tử.
Cô gái ra ngoài tìm dâu, nhưng chẳng được quả nào, càu nhàu đi về. Cô vừa mở mồm định kể lại cho mẹ chuyện xảy ra trong rừng thì nói mỗi tiếng là có một con cóc nhẩy ở miệng ra, khiến mọi người ghê tởm.
Dì ghẻ càng tức giận hơn nữa, chỉ tìm cách làm cho đứa con riêng của chồng, đang mỗi ngày một đẹp hơn, đau đớn ê chề.
Mụ lấy một cái nồi bắc lên lửa để luộc sợi. Luộc xong, mụ buộc sợi lên vai cô gái đáng thương, đưa cho cô một chiếc rìu, bắt cô ra sông đã đóng băng đào một cái lỗ để chuốt sợi. Cô ngoan ngoãn vâng lời, đi đào một cái lỗ trong đám băng. Cô đang mải cuốc thì có một cỗ xe đẹp lộng lẫy chạy đến, trong có vua ngồi. Xe ngừng lại, vua hỏi:
- Em ơi, em là ai, làm gì ở đây?
- Tâu bệ hạ, em là một cô gái nghèo khổ đang chuốt sợi.
Nhà vua động lòng thương, thấy cô đẹp quá, liền bảo:
- Em có muốn lên xe cùng đi với ta không?
Cô đáp là cô rất vui lòng, vì cô mừng là được đi rảnh mắt mẹ ghẻ và con gái mụ.
Cô liền lên xe đi với vua. Đến cung điện, lễ cưới được tổ chức linh đình,
theo đúng lời ban của những người lùn.
Hơn một năm sau, bà hoàng hậu trẻ tuổi sinh ra được một đứa con trai. Mẹ ghẻ được tin ấy cùng với con đi đến cung điện, giả vờ thăm hỏi. Nhưng vua vừa đi khỏi, không có ai ở đấy, mụ đàn bà độc ác nắm lấy đầu hoàng hậu, còn con gái hắn nắm lấy chân bà, chúng vứt bà qua cửa sổ xuống dòng nước chảy cạnh đó. Đứa con gái xấu xí của mụ nằm vào chỗ bà hoàng hậu ở giường, mụ già trùm khăn kín đầu nó. Khi vua về định nói với vợ thì mụ kêu lên:
- Bệ hạ hãy gượm đã, bây giờ chưa được đâu. Hoàng hậu đương ra mồ hôi như tắm, bệ hạ hãy để cho hoàng hậu nghỉ yên ngày hôm nay. Vua không ngờ có chuyện ác gì nên mãi sớm hôm sau mới lại đến. Vua định nói chuyện với vợ. Hoàng hậu giả cứ vừa trả lời thì cứ mỗi một tiếng là có một con cóc chứ không phải một đồng tiền vàng ở trong miệng ra. Vua hỏi sao vậy thì mụ già bảo đó là tại mồ hôi đổ ra nhiều quá, nhưng rồi sẽ thôi.
Nhưng đến đêm, gã phụ bếp thấy một con vịt bơi qua đường cống vào nói:
- Nhà vua làm gì thế?
Không ai trả lời, vịt lại nói:
- Khách khứa của ta làm gì thế?
Gã phụ bếp lên tiếng đáp:
- Họ ngủ say cả.
Vịt lại hỏi:
- Con nhỏ ta làm gì?
Gã đáp:
- Đang ngủ say trong nô
Vịt liền hiện nguyên hình thành bà hoàng hậu cho con bú, rũ chiếc giường nhỏ của nó, đắp chăn cho nó, rồi lại biến thành vịt bơi qua cống mà đi.
Bà đến ba đêm nữa. Đêm thứ ba, bà bảo gã phụ bếp:
- Ngươi đi tâu vua mang gươm đến vung ba lần trên đầu ta ở ngưỡng cửa.
Gã phụ bếp chạy đi bảo vua. Vua mang gươm lại vung trên đầu bóng ma hoàng hậu ba lần. Đến lần thứ ba, vợ vua hiện ra trước mặt, vui tươi, khỏe mạnh hơn lúc nào hết.
Vua mừng lắm, nhưng giấu hoàng hậu trong một phòng, mãi đến hôm chủ nhật, đứa bé làm phép rửa tội. Lễ rửa tội xong, vua bảo: - Một kẻ khiêng người khác ra khỏi giường, ném xuống nước thì đáng tội gì?
Mụ già đáp:
- Tốt nhất là bỏ tên côn đồ ấy vào một cái thùng cho lăn từ trên núi
xuống.
Vua phán:
- Ngươi đã tự kết án đó.
Vua sai đi lấy một chiếc thùng, bỏ mẹ con mụ vào đóng lại, thả từ trên núi cho lăn xuống sông.
Các em đã bao giờ nhìn thấy con cóc chưa? Nếu mỗi lời nói có một con cóc nhảy ra từ miệng như con bà gì ghẻ trong truyện thì thật là đáng ghê sợ, đúng không nào? Kẻ độc ác phải trả giá như vậy đó. Vậy các em hãy luôn ngoan ngoãn để không bao giờ phải bị trừng phạt như vậy nhé!
12. BA SỢI TÓC VÀNG CỦA QUỶ
Ngày xưa, ở một làng kia, có một người đàn bà nghèo sinh được một đứa con trai. Khi nó ra đời, người ta tiên tri là năm mười bốn tuổi, nó sẽ lấy được công chúa. Vào lúc đó, nhà vua vi hành qua làng, không một ai biết. Vua hỏi trong làng có sự gì lạ không, thì dân làng tâu:
- Gần đây có một đứa trẻ mà người ta tiên tri là năm mười bốn tuổi, nó sẽ lấy được công chúa.
Nhà vua vốn độc ác nghe nói như vậy tức lắm, liền đến ngay nhà bố mẹ đứa trẻ, giả vờ thân mật bảo:
- Các bác nghèo khó, hãy giao con cho tôi để tôi chăm sóc nó cho. Hai vợ chồng nhà kia trước con từ chối, sau thấy người lạ mặt đưa cho nhiều vàng, nghĩ bụng: "Con mình là đứa tốt số. Như thế lại hay cho nó", nên cuối cùng bằng lòng trao con.
Vua đặt đứa trẻ vào một cái hòm, cưỡi ngựa tới một chỗ nước sâu, ném hòm xuống, nghĩ thầm: "Thế là con gái ta thoát khỏi tay anh chàng rể bất đắc dĩ này".
Nhưng cái hòm không chìm, cứ nổi như một chiếc tàu nhỏ, nước không thấm vào một giọt. Hòm trôi lềnh bềnh cách kinh kỳ hai dặm, đến cửa cổng một cối xay thì bị mắc lại. May lúc đó có thằng bé xay bột trông thấy, lấy móc kéo vào. Nó tưởng trong có của, nhưng khi mở ra thì thấy một đứa bé khỏe mạnh, khôi ngô. Nó mang đứa trẻ về cho chủ. Hai vợ chồng này không có con, nên mừng lắm.
Họ hết sức chăm sóc, đứa bé hay ăn chóng lớn.
Một hôm, tình cờ vua vào nhà xay để tránh mưa. Vua hỏi vợ chồng người xay bột có phải gã thanh niên cao lớn là con trai họ không. Họ đáp:
- Tâu bệ hạ không phải, đó là đứa trẻ nhặt được cách đây mười bốn năm. Nó nằm trong một cái hòm trôi dạt tới cửa cổng, thằng bé xay bột nhà chúng tôi đã vớt nó lên.
Vua nghĩ thầm chắc là đứa bé tốt số mà mình đã vứt xuống nước trước kia, bèn nói:
- Này ta muốn nhờ gã này mang một lá thư đến cho hoàng hậu, có được không? Ta sẽ thưởng cho hai đồng vàng.
Bố mẹ nuôi vâng lệnh bảo gã chuẩn bị đi.
Vua viết thư cho hoàng hậu nói: "Khi gã thanh niên mang thư này đến, thì giết nó ngay và chôn nó đi. Phải thi hành mệnh lệnh này trước khi ta về". Chàng thanh niên cầm thư lên đường, nhưng đi lạc đến một khu rừng to. Trong đêm tối, chàng thấy một ánh đèn, lại gần thì là một cái nhà nhỏ. Chàng vào nhà thấy một bà lão ngồi một mình bên bếp lửa. Bà lão thấy chàng, hoảng sợ hỏi:
- Con ở đâu đến? Con đi đâu?
- Con ở nhà xay đến. Con phải mang thư đến cho hoàng hậu, nhưng bị lạc trong rừng. Con muốn xin ngủ lại đêm nay ở đây.
- Tội nghiệp! Con lạc vào nhà kẻ cướp rồi. Chúng về thì chúng sẽ giết con.
- Thôi, muốn ra sao thì ra. Cháu chẳng sợ. Vả lại cháu mệt quá, không đi được nữa đâu.
Chàng nằm lên ghế dài ng
Lát sau bọn cướp về, tức giận hỏi gã thanh niên nào ngủ đó. Bà lão nói:
- Trời ơi! Thằng bé có tội tình gì đâu! Nó lạc vào rừng, tôi thương tình cho nó vào đây. Nó phải mang thư cho hoàng hậu đấy.
Bọn cướp bóc dấu niêm phong thư thấy nói là phải giết ngay người mang thư này. Bọn cướp tuy nhẫn tâm mà cũng động lòng, tên tướng cướp xé tan lá thư đó, viết lá thư khác đại ý nói phải gả công chúa ngay cho chàng thanh niên mang thư này đến. Họ để cho chàng ngủ yên đến sáng. Sáng hôm sau, họ giao thư cho chàng và chỉ đường cho đi.
Hoàng hậu nhận được thư, theo lệnh tổ chức đám cưới linh đình, gả công chúa cho chàng tốt số.
Chú rể đẹp trai và tốt nết, công chúa sống với chồng hạnh phúc lắm. Sau đó ít lâu, vua về, thấy lời tiên tri đã thành sự thật, đứa bé tốt số đã lấy con mình, bèn nói:
- Chẳng hiểu sao lại thế, trong thư ta ra lệnh khác cơ mà.
Hoàng hậu lấy thư đưa vua xem. Vua thấy thư đã bị đánh tráo, bèn hỏi con rể thư cũ đâu, sao lại đánh tráo thư khác.
Chàng đáp:
- Tâu bệ hạ, con không biết. Chắc ban đêm con ngủ trong rừng, thư đã bị đánh tráo.
Vua tức giận nói:
- Như thế không ổn. Muốn lấy con ta thì phải xuống âm phủ nhổ ba sợi tóc vàng của con quỉ đem về nộ. Nếu người làm nổi thì vẫn được phép làm chồng con ta.
Vua định làm như thế để tống khứ chàng thanh niên đi.
Nhưng chàng đáp:
- Con không sợ quỉ, con sẽ lấy được tóc vàng về.
Chàng bèn cáo từ vua ra đi.
Khi chàng đến một thành phố lớn, lính canh hỏi chàng làm nghề gì và biết những gì.
Chàng đáp:
- Gì cũng biết.
Lính canh nói:
- Thế anh bảo giùm chúng tôi tại sao giếng ở chợ chúng tôi trước kia luôn chảy ra rượu vang, mà nay lại cạn hẳn đi, đến một giọt nước cũng không còn.
Chàng nói:
- Chờ khi tôi về, tôi sẽ bảo cho biết.
Chàng lại đi, đến một thành phố khác. Lính canh cũng hỏi chàng làm nghề gì và biết những gì.
Chàng lại đáp:
- Gì cũng biết.
Lính canh nói:
- Thế anh bảo giùm chúng tôi biết tại sao trong thành chúng tôi có cây táoước kia ra quả vàng mà nay đến một chiếc lá cũng không còn? Chàng lại đáp:
- Chờ tôi về, tôi sẽ cho biết.
Chàng lại đi, đến một con sông lớn.
Người lái đò hỏi chàng làm nghề gì và biết những gì.
Chàng đáp:
- Gì cũng biết.
Người lái đò nói:
- Thế anh bảo giùm tôi biết tại sao tôi cứ phải chở đò qua lại trên khúc sông này không có ai thay.
Chàng đáp:
- Để khi trở về tôi sẽ bảo cho biết.
Qua sông đến bến, chàng thấy cửa âm phủ tối om, ám khói. Con quỉ đi vắng. Ở nhà chỉ có một bà già ngồi trong một chiếc ghế bành rộng. Bà không có vẻ ác. Bà hỏi:
- Mày muốn gì?
- Cháu muốn lấy ba sợi tóc của con quỉ, nếu không thì mất vợ. - Kể thì quá đấy. Nếu con quỉ về mà thấy mày ở đây thì chắc chắn là mày mất đầu. Nhưng thôi, tao thương hại mày, để xem có cách nào giúp mày không.
Bà làm phép cho chàng biến ra kiến và bảo:
- Mày hãy bò vào trong áo ta thì mới toàn tính mệnh được. - Vâng, quí hóa quá, Nhưng con còn muốn biết ba điều:
"Một là tại sao giếng nước trước kia chảy ra rượu vang, nay bỗng cạn hẳn, không còn một giọt nước? Hai là tại sao cây táo kia trước có quả táo vàng mà giờ không có đến một cái lá? Ba là tại sao bác lái đò kia cứ phải chở đò mãi, không có ai thay".
Bà già nói:
- Ba câu hỏi này khó thật, Nhưng mày cứ yên tâm, lắng tai nghe con quỉ nói khi ta nhổ ba sợi tóc vàng của nó nhé.
Đến tối con quỉ về nhà. Vừa vào cửa, nó đã ngờ ngợ thấy mùi gì lạ. Nó nói:
- Quái, ta ngửi như có mùi thịt người ở đây, có phải không? Bà lão chế nó:
- Tôi vừa quét dọn ngăn nắp, bây giờ anh lại lục tung cả ra. Lúc nào mũi anh cũng chỉ ngửi thấy mùi thịt người. Thôi ngồi xuống ăn đi. Ăn uống xong, con quỉ thấy mền mệt, tựa đầu vào gối bà già và bảo bà bắt chấy cho. Được một lát, nó thiu thiu ngủ rồi ngáy khò khò. Bà già nhổ một sợi tóc vàng của nó, để bên mình.
Con quỉ hỏi:
- Ái chà, bà làm gì thế?
Bà lão nói:
- Tôi mộng thấy s không lành, nên tôi đã nắm tóc anh đấy. Con quỉ hỏi:
- Bà mộng thấy gì?
- Tôi nằm mộng thấy giếng ở chợ trước kia thường chảy ra rượu vang, nay cạn hẳn, đến một giọt nước cũng không còn? Tại sao thế? Con quỉ đáp:
- Chà! Nếu biết thì đã chẳng nên chuyện. Dưới tảng đá ở đáy giếng có một con cóc. Đem giết nó đi thì rượu vang lại chảy ra.
Bà lão lại bắt chấy cho con quỉ. Quỉ lại ngủ, Ngáy rung cả cửa kính. Bà già lại nhổ một sợi tóc nữa.
Quỉ cáu, nói:
- Ô hay, làm gì thế?
Bà lão đáp:
- Anh đừng giận nhé, tôi lại mộng đấy mà.
- Lại mộng gì nữa thế?
- Tôi thấy ở một nước nọ có một cây táo trước kia thường vẫn ra quả vàng mà nay đến một cái là cũng chẳng còn. Tại sao thế?
- Chà! Nếu biết thì đã chẳng nên chuyện. Có một con chuột nhắt gặm rễ cây. Giết nó đi thì cây lại ra quả vàng. Nếu để chuột gặm mãi thì cây đến chết mất. Nhưng thôi, đừng có mơ mộng gì nữa nhé, để cho tôi ngủ yên, nếu
còn làm tôi thức giấc, tôi sẽ tát cho đấy.
Bà lão dỗ dành con quỉ, rồi lại bắt chấy cho nó. Nó lại ngủ và ngá. Bà nhổ sợi tóc vàng thứ ba của nó.
Con quỉ chồm dậy, kêu lên và toan đánh bà, nhưng bà lại nói ngọt rằng: - Khốn nỗi cứ mộng mãi thì biết làm thế nào?
Con quỉ tò mò hỏi:
- Bà còn mộng thấy gì nữa?
- Tôi chiêm bao thấy có một người lái đò than phiền là cứ phải chở đò qua lại mãi mà không có người thay. Tại sao thế?
Quỉ đáp:
- Ngốc quá. Nếu có ai muốn qua sông, thì hắn chỉ việc trao mái chèo cho người ấy là thoát, và người kia sẽ chở đò thay hắn thôi.
Sau khi đã nhổ ba sợi tóc vàng của con quỉ và đã được nghe nó trả lời ba lần, bà già để cho nó ngủ đến sáng.
Con quỉ bước chân ra khỏi cửa, thì bà liền bắt con kiến ở trong nếp áo ba ra, hóa phép biến nó lại thành người.
Bà lão nói:
- Đây ba sợi tóc vàng đây, còn ba câu trả lời của con quỉ thì mày nghe được rõ rồi chứ?
Chàng đáp:
- Vâng, cháu đã nghe rõ rồi, cháu sẽ nhớ kỹ.
Bà lão bảo:
- Thôi thế mày thoát rồi nhé. Lên đường về được rồi đấy.
Chàng cảm ơn bà lão đã giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn. Chàng đi khỏi âm phủ, Trong lòng phấn khởi vì mọi việc đều được như ý. Khi chàng gặp bác lái đò, bác xin chàng giải đáp cho như chàng đã hứa. Chàng tốt số nói:
- Bác hãy chở tôi sang bờ bên kia, tôi sẽ bảo bác cách giải thoát. Tới bờ, chàng cho bác biết câu trả lời của con quỉ:
- Nếu có người muốn qua sông thì bác chỉ việc đặt mái chèo vào tay người ấy rồi đi.
Chàng lại lên đường, đến thành phố có cây trụi quả. Lính canh cũng đang chờ chàng giải đáp. Chàng nhắc lại lời của con quỉ:
- Giết con chuột nhắt gặm rễ cây đi, thì cây lại ra quả táo vàng. Họ cám ơn chàng và biếu chàng hai con lừa tải nặng vàng. Sau cùng, chàng đến thành phố có giếng cạn. Chàng cũng nhắc lại lời con quỉ:
- Có một con cóc ngồi dưới hòn đá ở đáy giếng, phải tìm nó giết đi, thì rượu vang lại chảy ra nhiều.
Lính canh cảm ơn chàng và cũng tặng chàng hai con la trở nặng vàng. Chàng về tới nhà; vợ chàng vui mừng khôn xiết, vì lại trông thấy mặt
chồng và thấy chồng đi gặp được mọi việc đều như
Chàng dâng vua ba sợi tóc vàng của con quỉ. Vua thấy bốn con la tải nặng vàng, mừng lắm, nói:
- Nay con đã làm xong mọi việc ta giao cho, thì con vẫn được lấy con gái ta. Này con, con lấy đâu ra nhiều vàng thế? Thật là một kho tàng vô giá! - Con lấy ở bên kia sông, đó là cát trên bờ.
Vua hốt của, hỏi:
- Ta có lấy được không?
Chàng rể đáp:
- Bẩm muốn lấy bao nhiêu cũng được ạ. Bệ hạ bảo người chở đò đưa sang bờ bên kia thì tha hồ lấy.
Ông vua tham lam kia vội lên đường ngay. Đến bờ sông, vua ra hiệu cho bác chở đò đưa qua sông.
Người lái đò mời vua xuống thuyền. Khi sang đến bờ bên kia, bác đặt mái chèo vào tay vua rồi nhảy lên bờ. Thế là ông vua, vì tham của mà chịu tội thành anh lái đò.
- Thế vua còn trèo đò nữa không?
- Sao! Thì đã có ai cầm mái chèo cho nhà vua đâu!
Các em vừa được đọc một câu chuyện thật là hấp dẫn. Chàng trai trong truyện có xứng đáng làm Vua của một nước sau khi ông Vua tham lam và độc ác trở thành người lái đò không? Chàng là một con người dũng cảm, nhân hậu và có trái tim tràn ngập tình yêu nên chàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc, đúng không nào?
13. BÁC NÔNG DÂN VÀ CON QUỶ
Xưa có một bác nông dân khôn ngoan ranh mãnh, mẹo vặt của bác thì không sao kể hết được. Lý thú nhất là chuyện bác có lần lừa được cả quỷ. Một hôm, trời xẩm tối, bác cày ruộng xong, sửa soạn về nhà thì thấy ở trên mảnh ruộng của mình một đống than hồng. Bác lấy làm lạ đến gần thì thấy một con quỉ nhỏ đen xì ngồi trên lửa.
Bác bảo:
- Mày ngồi trên đống của đấy à?
Quỷ đáp:
- Đúng rồi, ngồi trên đống của, chú mày suốt đời chưa thấy nhiều vàng bạc đến thế đâu!
Bác nông dân nói:
- Của cải trên đất của ta là thuộc về ta.
Quỷ đáp:
- Ừ, nó thuộc về chú mày, nếu chú mày làm ruộng hai vụ, hoa lợi được bao nhiêu chú mày chịu chia cho ta một nửa. Tiền thì ta có khối, ta chỉ thèm có ít hoa lợi thôi.
Bác nông dân nhận lời, bảo:
- Để sau này chia nhau khỏi lôi thôi, mày sẽ lấy cái gì mọc ở trên mặt đất, tao sẽ lấy cái gì mọc ở dưới.
Quỷ đồng ý. Bác nông dân đưa mưu trồng củ cải. Đến mùa bới củ cải, quỷ hiện lên để lấy phần hoa lợi của mình thì chỉ thấy rặt có lá úa vàng, còn bác nông dân thì được bới củ, thích chí lắm.
Qu
- Thôi được, chú mày đã lừa được ta một chuyến, chuyến sau thì đừng có hòng. Cái gì mọc trên mặt đất thì chú mày lấy, còn ta sẽ lấy cái gì mọc ở dưới.
Bác nông dân đáp:
- Thế cũng được.
Đến mùa, bác không trồng củ cải nữa mà gieo lúa. Lúa chín, bác ra đồng cắt lúa gần sát đất. Quỷ đến thấy chỉ có gốc rạ tức quá chui xuống vực. Bác nông dân nói:
- Ấy đối với cáo già thì phải cho một vố như thế.
Rồi bác đi lấy của.
Bằng hình ảnh của một bác nông dân thông minh, lanh lợi, câu chuyện đã ca ngợi trí thông minh của con người. Trong mọi hoàn cảnh khó khăn, con người luôn vươn lên để chiến thắng các thế lực đen tối, ác độc. Qua đó ta thấy được sự mong muốn vươn lên để khám phá, cải tạo thiên nhiên của con người.
14. BẠCH TUYẾT VÀ HỒNG HOA
Ngày xưa có một người đàn bà góa sống cô quạnh trong một túp lều gianh. Trước cửa là một cái vườn có hai cây hoa hồng, một cây ra hoa đỏ, một cây ra hoa trắng. Bà có hai cô con gái, trông đẹp như hai cây hồng. Vì vậy bà đặt tên hai con là Bạch Tuyết và Hồng Hoa.
Hai cô bé rất ngoan ngoãn, hay làm, trần gian thực hiếm có. Bạch Tuyết dịu dàng, thùy mị hơn Hồng Hoa. Hồng Hoa hay chạy nhảy ngoài đồng, hái hoa, bắt bướm. Còn Bạch Tuyết thì luôn ở nhà với mẹ, hoặc giúp việc nội trợ, hoặc đọc sách cho mẹ nghe. Hai chị em yêu nhau lắm, đâu cũng dắt tay nhau.
Khi Bạch Tuyết nói:
- Chị em chúng ta không rời nhau…
Thì Hồng Hoa nói tiếp:
- … suốt đời.
Bà mẹ lại nói thêm:
- Hai chị em có gì cũng phải chia nhau nhé.
Hai chị em thường vào rừng hái quả dại. Thú rừng thân mật đến hai chị em, không đụng chạm đến hai em. Thỏ ăn lá trong lòng bàn tay hai em. Hoẵng gặm cỏ bên cạnh hai em. Hươu nhảy nhót gần hai em. Chim trên cành hót vui tai hai em. Hai em không bao giờ bị nạn. Khi nào nhỡ muộn không về được, thì hai em nằm sát nhau trên thảm rêu, ngủ lại trong rừng đến sáng, mẹ biết vậy nên cũng chẳng lo ngại gì.
Bạch Tuyết và Hồng Hoa quét tước nhà cửa sạch sẽ lắm, nhìn vào thật thích mắt. Mùa hè thì Hồng Hoa làm công việc nội trợ, sáng nào cũng đặt trước giường mẹ một bó hoa trong đó có một bông hoa hồng trắng và một bông hoa hồng đỏ hái ở hai cây hồng của nhà. Mùa đông thì Bạch Tuyết đốt lửa và móc nồi lên bếp lửa. Nồi bằng đồng đánh sáng nhoáng như vàng. Tối đến, khi tuyết xuống, thì mẹ lại bảo:
- Bạch Tuyết ơi, con ra cài then cửa lại.
Rồi ba mẹ con ngồi bên lửa. Mẹ đeo kính, lấy quyển sách to ra đọc. Hai con vừa xe chỉ vừa nghe. Một chú cừu con nằm bên; đằng sau có một con chim gáy đậu, đầu rúc vào cánh.
Một buổi tối, mẹ con đang quây quần êm ái như thế, thì có tiếng gõMẹ bảo:
- Hồng Hoa, con chạy mau ra mở cửa, chắc có khách bộ hành tìm chỗ trú đêm đấy.
Hồng Hoa ra mở cửa, tưởng là thấy một người nghèo khổ. Nhưng không, một con gấu thò đầu to kệch và đen xì vào. Em hét lên một tiếng, lùi lại. Đồng thời cừu con kêu be be, chim gáy vỗ cánh và Bạch Tuyết trốn vào sau
giường mẹ.
Gấu nói:
- Đừng sợ, tôi không làm gì đâu, tôi rét cóng, chỉ muốn sưởi nhờ một tí thôi.
Bà mẹ bảo gấu:
- Tội nghiệp, lại gần lửa mà sưởi, cẩn thận kéo cháy lông nhé. Rồi bà gọi con:
- Bạch Tuyết, Hồng Hoa lại đây, gấu không làm gì các con đâu, nó không có ý xấu đâu.
Hai em chạy lại, rồi dần dần cừu con và chim gáy hết sợ cũng đến. Gấu nói:
- Các em rũ tuyết ở lưng xuống hộ tôi.
Hai em đi lấy chổi quét lông cho gấu. Gấu nằm gần lửa, kêu gừ gừ ra vẻ khoái lắm. Chẳng mấy chốc hai em hết sợ, bắt đầu đùa nghịch với người khách ngờ nghệch.
Hai em giật giật lông gấu, để chân lên lưng gấu, lăn gấu xuống đất, hoặc lấy cành cây quật gấu; hễ gấu gừ gừ, hai em lại cười khanh khách. Gấu cứ để hai em ngh, nhưng khi hai em nghịch quá thì gấu bảo: - Bạch Tuyết, Hồng Hoa để cho anh sống với. Hai em đừng đánh chết người yêu của hai em nhé.
Khi cả nhà đi ngủ, bà mẹ bảo gấu:
- Gấu cứ nằm bên lửa mà sưởi cho ấm kẻo ở ngoài lạnh giá. Trời vừa tảng sáng thì hai em mở cửa cho gấu ra, gấu đạp tuyết vào rừng. Từ đó, tối nào đúng giờ ấy gấu cũng đến nhà nằm bên bếp lửa và để cho
trẻ tha hồ trêu mình. Cả nhà thân với gấu, chờ cho con vật lông đen đến rồi mới cài then cửa.
Mùa xuân trở lại, cây cỏ xanh tươi. Một hôm gấu bảo Bạch Tuyết: - Bây giờ anh phải đi. Mùa hè này anh không thể đến đây được, em ạ. Bạch Tuyết hỏi:
- Anh đi đâu, anh gấu thân yêu?
- Anh phải vào rừng giữ của kẻo những thằng lùn tai ác ăn trộm mất. Mùa đông, khi đất có băng phủ, thì bọn lùn phải chịu ở dưới đất, không nhoi lên được; nhưng nay mặt trời sưởi mềm đất, thì chúng lại nhoi lên tìm cách ăn trộm của anh; cái gì đã vào tay chúng, chúng cất vào sào huyệt của chúng thì khó lòng mà lấy lại được.
Bạch Tuyết buồn rầu vì phải từ giã gấu. Lúc em mở then cửa cho gấu ra, gấu vướng phải móc cửa, hơi trầy da. Em nhìn thấy hình như có vàng sáng nhoáng dưới da gấu nhưng em không chắc lắm. Gấu rảo bước rồi khuất bóng sau rừng.
Cách đấy ít lâu, mẹ sai hai con gái vào rừng kiếm củi. Hai em trông thấy một cái cây to ai đã hạ xuống và có vật gì nhảy nhót hết chỗ kia trong đám
cỏ gần gốc cây. Hai em lại gần, nhận ra một thằng lùn, mặt già khọm, bộ râu bạc dài vướng vào kẽ cây, nhảy nhót như một chó con bị xích, không sao thoát được. Nó quắc đôi mắt đỏ ngầu nhìn hai em, thét rằng:
- Sao chúng bay cứ đứng đực đấy ra mà nhìn, không đến cứu tao? Hồng Hoa hỏi:
- Bác đã làm gì đến nỗi thế?
Thằng lùn đáp:
- Đồ ngu, mà lại còn thóc mách, tao muốn bổ cây này lấy củi nhỏ đun bếp.
Tao không dùng củi to, củi to làm cháy mất món ăn. Chúng tao ăn nhỏ nhẻ chứ đâu có ngốn như đồ tham ăn tục uống chúng mày. Tao đã chêm nêm được rồi, nhưng không ngờ nêm trơn quá, thình lình tuột ra mất. Gỗ ập lại nhanh như chớp, tao không kịp rút chòm râu bạc đẹp đẽ ra, nên tao bị giam ở đây. Thế mà chúng bay còn cười, đồ nhãi còn hơi sữa, đồ ngu ngốc không biết xấu mặt.
Hai em cố hết sức giúp thằng lùn nhưng không thể gỡ râu nó ra được. Hồng Hoa nói:
Để tôi đi gọi người đến.
Thằng lùn hộc lên:
- Đồ điên! Ai cầu? Có hai chúng mày đã là quá lắm rồi. Chúng bay không nghĩ ra cách gì khác nữa à?
Bạch Tuyết nói:
- Bác đừng sốt ruột, tôi sẽ có cách cứu b
Rồi em lấy kéo nhỏ ở túi ra, cắt ngọn râu thằng lùn.
Được thoát nạn, nó đi lấy một cái bị đầy vàng ở đám rễ cây và càu nhàu: - Đồ mất dạy! Chúng bay cắt mất một mẩu râu đẹp của ông. Quỉ sứ sẽ làm tội chúng mày.
Rồi nó đeo bị vàng lên vai, đi thẳng, không thèm nhìn hai em. Sau đó ít lâu, Bạch Tuyết và Hồng Hoa đi câu cá ăn. Khi đến gần bờ suối, hai em trông thấy cái gì như một con châu chấu to đang muốn nhảy nhót như muốn đâm xuống nước. Hai em chạy lại thì nhận ra thằng lùn trước.
Hồng Hoa hỏi:
- Bác làm sao đây? Bác muốn nhảy xuống suối à?
Thằng lùn gào lên:
- Tao đâu có ngu thế. Mày mở mắt ra mà trông, con cá khốn nạn này nó muốn lôi tao xuống sông đấy.
Nguyên thằng lùn đang ngồi câu cá, bỗng không may bị gió cuốn râu mắc vào dây câu. Một con cá to cắn câu, thằng lùn yếu sức không lôi nổi con cá lên, con cá khỏe hơn kéo thằng lùn xuống. Nó bám lấy cỏ lấy sậy, nhưng không ăn thua. Lúc nó sắp bị cá lôi xuống thì hai em đến kịp, giữ được nó
lại. Hai em gỡ cho râu nó, nhưng không ăn thua, vì râu cuốn chặt vào dây câu. Chỉ còn cách là lấy kéo cắt một đoạn râu nữa. Thằng lùn thấy thế kêu om lên:
- Đồ ranh con! Chúng bay làm nhơ nhuốc mặt người ta thế à! Ở đằng kia, chúng bay đã cắt râu tao, bây giờ chúng bay lại cắt đoạn râu đẹp nhất của tao, làm tao không dám để anh em trông thấy mặt nữa. Tao cầu cho chúng bay phải chạy cho đến mòn gót gi
Rồi nó đi lấy túi ngọc trai để trong đám sậy và không nói thêm nửa lời, lẩn sau một hòn đá.
Cách đó ít lâu, mẹ sai hai con gái ra tỉnh mua kim chỉ và băng. Con đường qua một bãi hoang rải rác có những tảng đá to. Hai cô bé thấy một con chim to liệng trên đầu mình hồi lâu, rồi xà xuống bên một tảng đá. Tức thì có tiếng kêu oe óe thảm thiết. Hai cô chạy đến thì sợ quá vì thấy con phượng hoàng đã quặp chặt lấy thằng lùn mà hai cô đã nhẵn mặt. Chim định tha nó đi. Hai cô bé níu chặt lấy thằng lùn, co kéo mãi làm cho con chim phải buông mồi ra.
Nhưng khi hết sợ thì thằng lùn lại nhè mồm ra mắng hai em: - Đồ chúng bay vụng quá, không biết nhẹ tay hơn một chút. Kéo mạnh quá làm cho chiếc áo mỏng của người ta rách tan tành như thế này à. Rồi nó cắp túi ngọc của nó, len lỏi qua đá vào hang. Hai em đã quen với thói bạc bẽo của nó rồi nên không để ý, lên đường ra tỉnh mua bán. Lúc trở về, hai em lại qua bãi hoang, thì bắt gặp thằng lùn đang đổ những viên ngọc ra một chỗ đất sạch, vì nó không ngờ có người đi qua đó muộn thế.
Dưới ánh nắng chiều hôm, ngọc lóng lánh muôn sắc. Hai em đứng lại xem.
Thằng lùn mắng:
- Chúng bay đứng đực ra đấy làm gì?
Mặt nó vốn bềnh bệch nay đỏ lên vì tức giận.
Nó toan chửi rủa nữa thì bỗng có tiếng gầm gừ kinh hồn, rồi một con gấu đen ở rừng đi ra. Thằng lùn hoảng hồn chồm dậy, định trốn về hang, nhưng không kịp vì gấu đã tới ngay
Nó sợ quá van lạy gấu:
- Lạy ngài, xin ngài tha cho con, con sẽ biếu tất cả châu báu của con là những viên ngọc đẹp kia. Xin ngài để cho con sống, ngài ăn thịt kẻ nhỏ bé gầy gò như con thật chẳng bõ dính mồm. Ngài xơi thịt hai con ranh kia thì hơn: thịt chúng mềm như thịt cun cút vậy.
Nhưng gấu không biết nghe, tát cho thằng quái gian ác một cái chết tươi. Hai cô bé chạy trốn, nhưng gấu bảo:
- Bạch Tuyết, Hông Hoa ơi, đừng sợ, chờ anh đi cùng với. Hai em nhận ra tiếng gấu bèn đứng lại. Khi gấu đến gần hai em thì bộ
lông gấu bỗng rơi xuống, gấu biến thành một chàng thanh niên đẹp trai mặc áo toàn vàng. Chàng nói:
- Anh là hoàng tử. Thằng lùn khốn nạn kia đã lấy của cải của anh, rồi phù phép cho anh hóa ra gấu, phải lang thang trong rừng cho đến khi nó chết mới được giải thoát. Thế là ác giả ác báo.
Bạch Tuyết lấy Hoàng tử và Hồng Hoa lấy em hoàng tử. Rồi bốn người chia nhau của cải thu thập được ở trong hang thằng lùn.
Bà mẹ già sống lâu, yên vui gần con cái. Bà đem hai cây hồng, trồng trước cửa sổ. Năm nào, hai cây cũng ra hoa trắng, hoa đỏ rất đẹp. Các em đã bao giờ nhìn thấy con Gấu chưa? Qua câu chuyện các em thấy Gấu cũng thông minh và đáng yêu đấy chứ! Bạch Tuyết và Hồng Hoa xinh đẹp và nết na rất xứng đáng được hưởng hạnh phúc.
15. BẢY CON QUẠ
Ngày xưa, có một người sinh được bảy con trai, nhưng không có con gái, cầu mãi cũng chẳng được. Mãi về sau, vợ có mang, bác ta chứa chan hy vọng; quả nhiên đứa con ra đời là con gái. Hai vợ chồng mừng lắm, nhưng đứa con gái lại bé quá. Vì thấy con yếu ớt, bố mẹ định làm phép rửa tội gấp cho con.
Bố vội sai đứa con trai chạy ra suối lấy nước. Sáu đứa kia cũng đi theo. Bảy đứa tranh nhau múc nước, cái bình lăn xuống nước. Chúng không biết làm thế nào, không đứa nào dám về nhà. Thấy con mãi không về, bố sột ruột, nói:
- Mấy thằng ranh lại mải chơi quên múc nước rồi.
Bố sợ con gái nhỡ chết không được chịu phép rửa tội, phát cáu, rủa con: - Ước gì cả bảy thằng hóa ra quạ tất.
Vừa nói buông lời thì nghe thấy tiếng vỗ cánh trên đầu và bảy con quạ đen như than bay liệng.
Bố đã trót rủa rồi, hối lại không kịp nữa. Hai vợ chồng buồn vì mất bảy đứa con trai, nhưng được an ủi vì thấy đứa con gái quí mỗi ngày một khỏe lên và đẹp ra. Mãi sau cô nghe thấy láng giềng xì xào rằng cô đẹp thật, nhưng vì cô mà bảy anh cô phải khổ, thì cô mới biết rằng cô có anh. Cô buồn rầu, hỏi bố mẹ xem là mình có anh không và các anh nay ra sao. Bố mẹ không thể giấu con được nữa, nói tránh ra rằng đó là lòng trời, và cô sinh ra chẳng có tội gì.
Nhưng cô em hàng ngày vẫn bị lương tâm cắn rứt và quyết tâm giải thoát cho các anh khỏi bị phù phép. Cô bứt rứt lắm, trốn nhà ra đi khắp nơi mong tìm ra tung tích các anh để giải thoát các anh bằng mọi cách. Cô chỉ mang theo một chiếc nhẫn nhỏ là vật kỷ niệm của bố mẹ, một cái bánh mì để ăn, một bình nước nhỏ để uống và một chiếc ghế con để ngồi cho đỡ mỏi.
Cô đi mãi đi mãi, đi đến tận cùngới. Cô đi tới mặt trời, nhưng mặt trời nóng quá. Cô vội rời mặt trời và chạy đến mặt trăng, nhưng mặt trăng lạnh lẽo quá. Cô vội quay gót, đi tới các vì sao. Các vì sao tiếp cô niềm nở, vì sao nào cũng ngồi trên một cái ghế con. Sao Mai đứng dậy, cho cô một cái xương nhỏ và bảo cô:
- Không có cái xương nhỏ này thì con không thể mở được núi thủy tinh là chỗ ở của các anh con.
Cô bé cầm lấy cái xương, lấy khăn bọc cẩn thận, rồi đi mãi, đến núi thủy tinh. Cửa núi đóng. Cô cởi khăn tay ra để lấy cái xương, nhưng không thấy nữa.
Thế là cô đã đánh mất món quà của vì sao tốt bụng. Làm thế nào bây giờ? Cô muốn cứu các anh mà chìa khóa núi lại mất rồi. Cô bèn rút dao ra,
cắt mẩu ngón tay đút vào lỗ khóa. Cô bước vào, thấy một người lùn đi ra, hỏi:
- Con đến tìm gì ở đây?
- Con tìm các anh con là bảy con quạ.
- Bây giờ các ông quạ đi vắng, nhưng nếu con muốn chờ các ông về thì con vào đây.
Người lùn sắp bữa ăn tối cho bảy ông quạ vào bảy cái đĩa nhỏ và bảy cái cốc nhỏ. Cô bé ăn ở mỗi đĩa một miếng và uống ở mỗi cốc một hớp. Cô thả cái nhẫn mang theo vào cốc cuối cùng.
Chợt cô nghe thấy trên không có tiếng vỗ cánh. Người lùn liền nói: - Các ông quạ đã về đó.
Các ông quạ về thật. Mỗi ông đi tìm cốc đĩa của mình để ăn uống. Hết ông nọ đến ông kia hỏi:
- Ai đã ăn ở đĩa của tôi? Ai đã uống cốôi? Nhất định có người đụng đến cốc này.
Khi con quạ thứ bảy uống hết cốc, thì nó thấy cái nhẫn. Nó nhìn chằm chằm và nhận ra cái nhẫn của bố mẹ, bèn nói:
- Cầu Chúa cho em chúng ta ở đây thì chúng ta được giải thoát. Quạ vừa nói xong, cô bé đang đứng nghe sau cửa liền bước vào. Tức thì đàn quạ hóa ra người. Anh em ôm chặt lấy nhau hôn nhau mãi, rồi vui vẻ cùng nhau lên đường về nhà.
Cô gái trong câu chuyện thật là dũng cảm, tốt bụng. Bằng tình yêu và lòng quyết tâm cô đã giải thoát được cho các anh của mình.
16. CÂY CỦ CẢI
Ngày xưa có hai anh em đều đi lính. Anh thì giàu, em thì nghèo. Người em không muốn sống nghèo khổ mãi, bỏ lính về làm nông dân. Anh cuốc một vạt đất ở đầu cánh đồng và gieo hạt củ cải. Mầm mọc, củ lớn dần, lớn dần, lớn không ngừng đến mức có thể coi là củ cải chúa, cha bao giờ từng có củ cải nào to như vậy và cũng sẽ chẳng bao giờ sẽ thấy củ cải to như thế. Cuối cùng, nó thành một củ cải khổng lồ, một mình nó có thể chiếm hết một xe chở và phải gióng hai con bò để kéo xe. Bác nông dân không biết dùng củ cải ấy làm gì và tự hỏi không biết đây là phúc hay là họa. Rút cuộc, bác tự bảo: "Nếu mang bán thì người ta sẽ trả bao nhiêu? Nếu ăn củ cải thì ăn những củ nhỏ cũng đến thế thôi. Tốt nhất là ta mang tiến vua để tỏ lòng thành kính".
Bác khiêng củ cải lên một cái xe, gióng hai con bò, dắt xe đến cung nhà vua để dâng vua. "Cái vật kỳ lại này là cái gì vậy?" - Vua phán - "Ta đã từng trông thấy nhiều vật lạ, nhưng chưa thấy một vật khổng lồ như thế này, không biết mọc từ cái hạt giống gì ra? Hoặc giả ngươi là phù thủy và đã đích thân làm ra củ này?" - "Tâu bệ hạ, không phải thế đâu ạ" - Bác nông dân trả lời - "Thần là một anh lính nghèo nuôi thân không xong nên phải thôi lính về làm đất. Thần có một người anh giàu có, bệ hạ biết nhiều về anh ấy. Nhưng thần thì không có gì, nên bị mọruồng bỏ".
Nhà vua thương hại bác nông dân và phán: "Nhà ngươi sẽ không nghèo đói nữa, ta sẽ ban cho ngươi của cải để nhà ngươi cũng giàu như anh nhà ngươi".
Vua ban cho bác nông dân rất nhiều vàng, ruộng nương, đồng cỏ và gia súc, đến mức bác trở nên rất giàu, của cải người anh không sánh được. Khi người anh biết là em trở nên giàu có nhờ có một cây củ cải, thì anh ta ghen tức và nghĩ nát óc ra tìm một cách để cũng gặp may như em. Anh láu hơn em, mang biếu nhà vua vàng và ngựa, nghĩ rằng vua sẽ ban cho anh nhiều của cải hơn em. Nếu em ta chỉ biếu nhà vua có một củ cải mà được vua ban cho chừng nấy của thì vua sẽ ban cho ta biết mấy để đáp lại những tặng phẩm quý giá! Vua nhận đồ dâng của anh và phán là không có gì quý hơn và hiếm hơn là cây củ cải. Vua bèn cho anh cây củ cải to tướng. Người anh đành chất cây củ cải của người em lên một cái xe rồi kéo về nhà. Về đến nhà, người anh không biết trút cơn tức giận lên đầu ai. Cho tới khi nẩy ra ý nghĩ độc ác là giết em. Anh thuê những kẻ giết người và cho chúng nấp ở một nơi. Anh đến gặp em và bảo: "Chú ạ, Tôi biết nơi cất giấu một kho vàng, chúng ta cùng đi lấy rồi chia nhau". Người em đi với anh, không nghi ngờ gì cả. Khi hai người đi tới nơi đã định, những kẻ giết người nhảy xổ vào người em, trói em lại và chuẩn bị treo cổ lên một cái cây. Khi
chúng đang làm việc đó thì ở xa có tiếng hát và tiếng vó ngựa vọng lại. Chúng sợ hãi nhét người bị bắt - đầu lộn ngược - vào một cái bao, treo lên một cái cây rồi chạy trốn. Ở trên cây, người em giãy giụa cho tới khi cái bao bị thủng một lỗ, đầu lọt ra. Người đi tới chẳng qua là một cậu sinh viên đi lang thang, một thanh niên đang vừa ruổi ngựa trong rừng và hát vang lên. Người em ở trên cây thấy có người vừa qua bên dưới bèn kêu to:
- Cậu đến thật đúng lúc!
Cậu sinh viên ngó quanh, không biết tiếng nói từ đâu ra. Cuối cùng cậu nói:
- Ai gọi tôi thế?
Từ ngọn cây, người em trả lời:
- Hãy ngẩng lên mà. Tôi ở trên cao, trong một cái túi dạy khôn. Trong một thời gian ngắn, tôi đã học được không biết bao nhiêu điều hay; những điều học ở trường chẳng thấm vào đâu. Tôi học sắp xong rồi, tôi sẽ xuống và tôi sẽ giỏi hơn mọi người trên thế gian này. Tôi thông thiên văn, biết hướng đi của gió, cát ở ngoài biển, cách chữa mọi bệnh tật, công dụng của cây cỏ, các loại chim và các loại đá. Nếu anh chui vào đây, anh sẽ thấy ở trong túi dạy khôn này hạnh phúc biết chừng nào.
Cậu sinh viên nghe thấy thế ngạc nhiên vô cùng và nói:
- Quả là trời phù hộ cho tôi được gặp bác. Bác làm ơn cho tôi vào trong túi một lúc có được không?
Người em trả lời như có vẻ chần chừ: "Tôi cũng muốn để anh chui vào một tí nếu anh đưa tôi một ít tiền và ăn nói tử tế, nhưng anh hãy đợi một giờ nhé. Còn có điều tôi muốn học thêm đã". Cậu sinh viên chờ một chốc, sốt ruột năn nỉ xin người em cho chui vào vì anh nóng lòng muốn học khôn. Người em giả bộ như cũng chiều ý cậu và nói:
- Muốn để tôi bước ra khỏi cái nhà dạy khôn này, anh hãy hạ túi dọc theo cái dây thừng. Sau đó sẽ đến lượt anh vào". Cậu sinh viên hạ người em xuống, mở túi cho anh chui ra. Sau đó, cậu kêu lên:
- Giờ thì hãy kéo tôi lên cao nhanh lên!" Rồi anh chui vào trong túi. "Hượm đã!" - người em nói, - "như thế chưa được". Anh đẩy cậu sinh viên đầu lộn ngược vào túi, buộc miệng túi lại rồi kéo lên cây. Anh đẩy cho cái túi đu đưa trên không, rồi hỏi:
- Cậu thấy thế nào hở cậu? Cậu thấy đấy, cậu cảm thấy khôn ngoan đang đến đấy, cậu đã học được nhiều. Hãy cứ nằm im, cho đến khi nào khôn ngoan hơn."
Sau đó, người em nhảy lên con ngựa của anh sinh viên và đi. Được một giờ, anh cho người đến tháo cho cậu sinh viên xuống.
"Ở hiền gặp lành" là sợi chỉ đỏ xuyên suốt nội dung của các truyện cổ tích. Trong câu chuyện trên ca ngợi người em sống thật thà thì luôn gặp may mắn, hạnh phúc. Người anh tham lam dù có cố gắng đến đâu cũng không
bao giờ đạt được mục đích. >
17. CHÀNG KHỔNG LỒ TRẺ TUỔI
Xưa có một bác nông dân có đứa con giai nhỏ bằng ngón tay cái, nuôi mấy năm trời mà không lớn lên được chút nào. Một hôm, bố sắp ra đồng cày thì con bảo:
- Bố ơi, bố cho con đi với.
Bố nói:
- Đi với bố à? Thôi con ở nhà. Con chẳng giúp bố được việc gì, nhỡ lạc thì sao.
Thằng bé Tý hon khóc. Ông bố đành phải bỏ nó vào túi mang đi cho nó nín. Đến ruộng bố lấy con ra, đặt nó ngồi trên luống đất mới cày. Bỗng có một người khổng lồ vượt núi bên kia đi lại.
Bố dọa con:
- Kia kìa, ông ngoáo ộp đến bắt mày đấy.
Nghe thấy thế, ông khổng lồ chỉ bước vài bước đã đến luống cày. Ông lấy hai ngón tay khẽ nhấc đứa bé lên, ngắm nhìn một lúc, rồi lẳng lặng mang đi.
Ông bố sợ chẳng dám nói gì, yên chí không bao giờ lại được thấy mặt con.
Ông khổng lồ đem thằng bé về nhà, chăm cho nó bú. Nó lớn bổng lên và có sức lực như người khổng lồ. Hai năm sau, ông khổng lồ đưa nó vào rừng để thử sức. Ông bảo:
- Mày đi kiếm lấy cái que.
Thằng bé bây giờ đã khỏe lắm. Nó nhổ một cây non cả rễ. Nhưng ông khổng lồ nghĩ bụng: "Nó cần phải khỏe hơn thế nữa". Ông lại đem nó về nhà nuôi thêm hai năm. Thử sức lần thứ hai, nó khỏe hơn trước nhiều, nhổ được một cây cổ thụ. Nhưng ông khổng lồ vẫn chưa bằng lòng, lại nuôi nó hai năm nữa.
Hai năm sau, ông lại đưa nó vào rừng, sai nó lấy một cái que to. Nó nhổ cây sồi to nhất, dễ như bỡn. Nghe thấy tiếng kêu răng rắc, ông khổng lồ nói: - Được rồi, mày đã học thành tài.
Ông bèn đem nó về chỗ cánh đồng ông đã bắt nó. Bấy giờ, bố gã thanh niên khổng lồ đang cày. Nó đến bảo bố:
- Thưa bố, bố xem con đã khôn lớn đây này.
Nhưng ông bố hoảng hốt nói:
- Không, anh không phải là con tôi, anh đi đi, tôi không nhận anh đâu. - Thưa bố, chính con là con của bố, bố để con cày cho, con biết cày, có lẽ con cày còn giỏi hơn cả bố.
Bố đáp:
- Không, không, anh không phải là con tôi, anh không biết cày đâu, anh
đi đi.
Ông bố thấy anh ta to lớn đâm sợ, bỏ cày đó, lùi lại đứng sang một bên. Gã khổng lồ bèn cầm cày ấn mạnh, cày cắm sâu xuống đất. Ông bố thấy cày thế không đúng, kêu lên:
- Muốn cày thì đừng ấn quá như thế, chỉ tổ gãy cày.
Người khổng lồ trẻ tuổi bèn tháo ngựa, tự mình kéo cày và bảo bố: - Bố về nhà bảo mẹ chuẩn bị cho con một bữa ăn đẫy, để con cày nốt. Ông bố về nhà bảo nấu ăn.
Còn gã khổng lồ ở lại cày một mình ngót bốn mẫu, tháo cày ra rồi bừa một lúc hai bừa.
Bừa xong, gã vào rừng nhổ hai cây sồi để gánh hai cái bừa và hai con ngựa về, nhẹ nhàng như gánh rơm. Khi gã vào đến sân, bà mẹ chưa nhận ra con, hỏi người nào mà to ghê gớm thế. Ông bố nói:
- Con mình đấy.
Bà mẹ đáp:
- Không phải con mình đâu, nó đâu mà to lớn thế, con mình trước kia chỉ bé tí ti cơ mà.
Rồi bà nói to:
- Anh đi đi, chúng tôi không nhận anh đâu.
Chàng thanh niên không nói không rằng, đi nhốt ngựa vào chuồng, cho ngựa ăn thóc ăn cỏ, chăm sóc chúng chu đáo, rồi vào buồng ngồi và nói: - Mẹ ơi, con đói lắm rồi, mẹ làm cái ăn sắp xong chưa?
Mẹ đáp:
- Đã xong rồi.
Bà liền dọn ra hai đĩa đầy ắp, giá hai ông bà ăn tám ngày cũng đủ. Thế mà chàng thanh niên ăn hết, và còn hỏi có gì ăn nữa không. Bà mẹ nói:
- Không, hết cả rồi.
Chàng nói:
- Con ăn mới dính mép, còn phải ăn nữa.
Bà không dám nói gì, chạy xuống bếp nhóm lửa, nấu một nồi thịt lợn cho con ăn.
Con nói:
- Thế là lại được thêm vài miếng nữa.
Chàng ăn tuốt, nhưng vẫn chưa đủ no. Chàng bảo bố: sắm cho con một thanh sắt cứng, để trên đầu gối bẻ không gãy, rồi con đi chu du thiên hạ. Ông bố thích lắm. Ông sắm hai xe ngựa, đến lò rèn mua một thanh sắt to và dầy, hai con ngựa chỉ vừa đủ sức khéo. Chàng để thanh sắt lên đầu gối bẻ đánh cắc một cái, thanh sắt gãy đôi như que củi, chàng quẳng xuống đất. Ông bố lại thắng xe tứ mã đi, đem về một thanh sắt rất dài và to, bốn ngựa phải trầy trật mới kéo nổi. Chàng cũng bẻ thanh sắt gẫy đôi, vứt mảnh
xuống đất, rồi nói:
- Bố ạ, thanh này con không dùng được, cần thanh khác cứng hơn. Ông bố lại thắng xe tám ngựa, đem về một thanh sắt to lắm, tám ngựa kéo ì à ì ạch.
Chàng cầm thanh sắt bẻ một mẩu, nói:
- Bố ạ, con biết rằng bố không thể sắm được thanh sắt như ý muốn của con, vậy con không ở nhà
Nói xong chàng liền ra đi. Chàng đến một làng có bác thợ rèn bủn xỉn không cho ai cái gì bao giờ, suốt đời chỉ bo bo giữ của. Chàng đến xin việc. Thấy chàng to lớn lực lưỡng, bác thợ rèn nghĩ bụng: "Thằng này cừ đấy, đập hẳn là khỏe và nuôi cũng bõ tiền".
Bác hỏi:
- Anh lấy bao nhiêu tiền công?
Chàng đáp:
- Tôi không lấy công đâu. Nhưng cứ mỗi kỳ mười lăm ngày anh em lấy tiền công, thì tôi xin biếu ông hai quả đấm thôi.
Bác hà tiện thấy thế đỡ tốn tiền thích lắm. Sáng hôm sau, bác thợ rèn đưa thanh sắt đỏ ra. Anh thợ bèn đập một nhát búa đầu tiên mạnh đến nỗi thanh sắt bẹp dí, đe thụt sâu xuống, không lôi lên được nữa. Bác hà tiện cáu lên nói:
- Anh đập mạnh quá, không được. Anh mới đánh được một nhát búa, thì anh muốn trả công thế nào?
Chàng nói:
- Chỉ xin biếu ông một cái đấm khẽ thôi.
Thế là chàng đấm cho bác một cái, bay qua bốn xe cỏ. Rồi chàng lấy thanh sắt to nhất trong xưởng làm gậy đi đường.
Đến một trại kia, chàng hỏi có cần nuôi người không.
Chủ trại nói:
- Có, cần một người ở. Anh có khỏe, làm được việc. Anh muốn lấy công một năm bao nhiêu?
Chàng đáp lại là không cần tiền công, mỗi năm chỉ cần ông chủ chịu ba quả đấm thôi. Chủ trại cũng là một tay kiệt, lấy làm thích lắm. Sáng hôm sau, các người ở phải vào rừng kiếm củi. Tất cả đều dậy, trừ chàng khổng lồ vẫn nằm ngủ. Một người gọi chàng:
- Dậy đi mày, chúng tao đi kiếm củi, dậy cùng đi chứ.
Chàng cảu nhảu:
- Thì cứ đi đi, tao đi sau về trước cho mà xem.
Bọn kia chạy đi mách chủ rằng chàng vẫn nằm ngủ lì, không chịu cùng đi vào rừng. Ông chủ sai họ đánh thức chàng một lần nữa và bắt chàng phải buộc ngựa. Nhưng chàng vẫn bảo họ như trước:
- Thì cứ đi đi, tao đi sau về trước cho mà xem.
Chàng nằm ngủ thêm hai giờ nữa, rồi mới dậy ung dung lấy hai đấu đỗ nấu cháo ăn, xong buộc ngựa đi vào rừng.
Phải đi qua một con đường trũng. Chàng cho xe đi trước, rồi dừng ngựa lộn lại nhổ cây và lấp đường. Đến rừng, chàng thấy những người ở đang đánh xe củi chở về. Chàng bảo họ:
- Cứ việc đi đi, rồi tao về trước cho mà xem.
Chàng đi vài bước nhổ hai cây to nhất ném lên xe rồi quay về. Đến chỗ đường mới lấp, chàng thấy những người kia bị nghẽn, không đi được - Chàng bảo họ:
- Đấy nhé, nếu chúng mày cứ bắt chước tao, thì rồi cũng đến cùng về, mà lại ngủ được thêm một giấc nữa
Chàng thấy ngựa không đi được, bén tháo ngựa ra, để lên xe, rồi dùng một tay nắm càng xe kéo phăng qua nhẹ như bấc. Sang được bên kia rồi, chàng bảo chúng:
- Thấy chưa, tao thoát trước chúng mày nhé.
Chàng đi về trước, mặc kệ mọi người ở đó. Về đến nhà, chàng cầm lấy một cây, giơ cho chủ xem và nói:
- Ông xem thanh củi này có đẹp không?
Chủ trại bảo vợ:
- Thằng này khá, nó dậy trưa, mà lại về trước những thằng kia. Chàng ở trại được một năm. Bọn đi ở được lĩnh tiền công, chàng cũng đòi lĩnh. Ông chủ sợ phải ăn những quả đấm của chàng, cố xin hoãn, muốn gạ cùng chàng thay bậc đổi ngôi, thầy xuống làm tớ, tớ lên làm thầy. Nhưng chàng nói:
- Không, tôi là người ở, tôi cứ giữ địa vị người ở. Đã giao ước thế nào thì phải theo đúng như thế.
Chủ trại hứa chàng xin gì cũng cho, nhưng chàng khăng khăng chẳng chịu. Không biết làm thế nào, ông xin để cho nghĩ mười bốn ngày. Chàng bằng lòng. Chủ trại bèn họp tất cả gia nhân lại để xem có ai tìm ra kế gì không. Họ suy nghĩ mãi rồi đồng thanh nói: "Đụng vào thằng ấy thì toi mạng dễ như bỡn.
Nó đập chết người ta như đập ruồi". Họ bàn nên giả vờ bảo chàng xuống nạo giếng, khi chàng đã ở dưới đáy giếng thì ở trên lăn đá cối xay xuống cho vỡ đầu ra.
Chủ trại cho là kế hay. Chàng khổng lồ bằng lòng xuống giếng. Khi chàng ở đáy giếng, thì ở trên họ lăn đá cối xay to nhất xuống, tưởng thế nào chàng cũng vỡ đầu. Nhưng không, từ dưới, chàng gọi
- Này, ở trên ấy đuổi gà hộ, kẻo nó bới cát rơi xuống bụi vào mắt tớ. - Ông chủ giả vờ đuổi gà: - "S...S...S...S..."
Nạo giếng xong, chàng lên bờ, nói:
- Trông này, cổ tôi đeo vòng đẹp chưa?
Đó là cái thớt cối đá to choàng vào cổ chàng.
Chàng lại đòi tiền công. Nhưng chủ lại xin khất mười bốn ngày nữa để nghĩ.
Gia nhân tới họp xin chủ sai chàng đến xay bột ban đêm ở nhà xay có ma. Ai đến đấy cũng chết. Chủ cho là kế hay, gọi chàng đến. Buổi tối ông sai chàng đem tám thùng lúa mì đến cối xay ngay đêm đó, nói là vì cần đến bột.
Chàng nhét hai thùng vào túi áo bên phải, hai thùng vào túi áo bên trái, bốn thùng vào bao, hai đằng trước ngực, hai đằng sau lưng, rồi đi đến nhà xay có ma. Chủ nhà xay bảo cho chàng biết rằng đến xay ban ngày thì không việc gì, chứ đến xay ban đêm thì thế nào hôm sau cũng chết vì nhà có ma. Chàng đáp:
- Cháu nhất định cháu có cách thoát. Ông cứ đi nằm mà ngủ cho kỹ. Rồi chàng vào nhà xay lúa mì. Vào khoảng gần nửa đêm, chàng vào ngồi trong buồng chủ xay. Lát sau, cửa tự nhiên mở. Một cái bàn lớn đi vào. Rượu nho, thịt quay và nhiều món ăn ngon tự nhiên nhảy lên bàn. Ghế tự động kê xích lại. Chẳng có một ai đến. Chỉ thấy những ngón tay lấy đồ ăn vào đĩa, cầm dĩa và dao, không thấy gì khác nữa. Chàng đói bụng, lại thấy đồ ăn ngon, ngồi vào bàn, ăn thả cửa.
Khi chàng ăn đã no nê và những người khác đã vét sạch đĩa của họ, thì có tiếng thổi nến đánh phụt một cái. Trong đêm tối, hình như có ai vả vào mặt chàng, Chàng nghĩ bụngếu còn tát ta cái nữa, ta sẽ nện lại". Bị tát cái thứ hai, chàng đánh lại ngay. Suốt đêm hai bên đánh nhau, mãi đến tang tảng sáng mới thôi.
Sáng dậy, ông chủ nhà xay chạy đến xem chàng ra sao, thì ngạc nhiên thấy chàng vẫn còn sống. Chàng bảo ông:
- Cháu đã được ăn sướng mồm, cháu bị tát nhưng cháu cũng tát lại ra trò. Ông chủ nhà lấy làm lạ lắm vì nhà xay như vậy là mất thiêng. Ông hỏi chàng muốn lấy bao nhiêu tiền ông thưởng cho. Chàng đáp rằng chàng có đủ tiền tiêu, không muốn lấy. Chàng vác những bao bột về trại, báo với chủ công việc đã làm xong và xin tiền công.
Nghe nói, chủ trại hoảng hồn. Không biết làm thế nào, ông lên buồng, đi đi lại lại, toát mồ hôi trán. Ông mở cửa sổ cho thoáng, thì bất ngờ bị chàng ở khổng lồ đá cho một cái, ông bay qua cửa sổ tít lên trời. Chàng khổng lồ lại bảo bà chủ trại:
- Nếu ông không trở lại thì bà phải chịu cái đá khác.
Bà chủ kêu om lên:
- Không, không, tôi không chịu nổi đâu.
Chàng liền đá cho bà một cái, bay lên cao hơn ông vì bà nhẹ hơn. Ông réo gọi bà:
- Bà mày lại đây.
Nhưng bà đáp:
- Ông lại đây, chứ tôi không thể lại được.
Hai ông bà cứ lơ lửng trên không, không thể nào lại gần nhau được cho đến biết họ có còn bay lơ lửng nữa không. Còn chàng khổng lồ lại cầm gậy sắt lên đường.
Câu chuyện đưa các em qua các tình tiết rất dí dỏm. Từ một cậu bé tý hon trở thành gã khổng lồ có sức khỏe hơn người, chàng khổng lồ trẻ tuổi đi chu du thiên hạ để diệt trừ những kẻ gian ác. Qua đó ta có thể khẳng định rằng, con người trong các truyện cổ Grim luôn luôn ước mơ một cuộc sống tốt đẹp mà ở đó không có sự áp bức, bất công.