🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tùy Tưởng Lục Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Tác giả B A K I M Tuỳ Tưởng Lục * * * Người dịch: Trương Chính Ông Văn Tùng * * * Biên tập, hiệu đính: Lê Thanh Minh Trình bày, vẽ bìa, tạo ebooks Matthoigian2001@ Nguồn text: Vũ Thư Hiên Rạng Đông xuất bản Copyright © Rạng Đông giữ Bản quyền https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn MỤC LỤC THÂN PHẬN TRÍ THỨC TRONG XÃ HỘI CỘNG SẢN GIỚI THIỆU TÁC GIẢ Nhà văn Ba Kim - Danh nhân văn hóa Trung Quốc MƯỜI NĂM, MỘT GIẤC MỘNG TÔI VÀ VĂN HỌC TÊN CỦA TÔI NGÔI NHÀ CŨ CỦA TÔI NHỮNG CƠN ÁC MỘNG CỦA TÔI HAI MƯƠI NĂM TRƯỚC THƯƠNG NHỚ TIÊU SAN LẠI NHỚ TIÊU SAN LỜI LẼ HÙNG HỒN TÊN BỢM NON NHỚ ĐỒNG CHÍ PHƯƠNG CHI NHỚ ĐỒNG CHÍ LÃO XÁ CHIẾC GƯƠNG LỚN CON 'PHỐC" CON TÌM TÒI LẠI BÀN VỀ TÌM TÒI TÌM TÒI, BÀI THỨ BA TÌM TÒI, BÀI THỨ TƯ TẰM MÙA XUÂN NHỚ LÊ LIỆT VĂN NHỒI SỌ VÀ TUYÊN TRUYỀN SỐT TƯ TƯỞNG PHỨC TẠP NÓI THẬT "NGƯỜI ĐẾN TUỔI TRUNG NIÊN” LẠI BÀN VỀ NÓI THẬT VIẾT THẬT LẠI NÓI VỀ TÊN BỢM NON NHÀ VĂN GIẤC MƠ NAGASAKI NÓI VỀ MƠ https://thuviensach.vn TÔI VÀ BẠN ĐỌC NHỚ ĐỒNG CHÍ MAO THUẪN NHỚ VỀ CHỊ CẢ PHƯƠNG LỆNH NHŨ TƯỞNG NHỚ ÔNG PHONG LỜI TỰA "CẬN DĨ TUYỂN TẬP" BÉ ĐOAN ĐOAN NHỚ THƯƠNG ANH MÃ VỀ NÓI THẬT, BÀI THỨ BA TƯỞNG NHỚ ĐỒNG CHÍ TRƯƠNG MÃN ĐÀO NÓI THẬT, BÀI THỨ TƯ TỰ MỔ XẺ "LỜI NGƯỜI ĐÁNG SỢ' TẦNG LỚP TRÍ THỨC NHẬT KÝ CỦA TÔI THƯƠNG NHỚ HỒ PHONG NẰM BỆNH CHUỒNG BÒ ĐỒNG CHÍ TRIỆU ĐAN HOÀI NIỆM LỖ TẤN TIÊN SINH KỶ NIỆM PHÙNG TUYẾT PHONG LỜI NÓI SAU https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn THÂN PHẬN TRÍ THỨC TRONG XÃ HỘI CỘNG SẢN Đọc “Tuỳ Tưởng Lục” của Ba Kim Thường khi gặp được một cuốn sách hay là tôi phải đọc một lèo. Có khi thức trắng đêm đọc cho bằng xong. Chưa xong thì trong người cứ anh ách, ngủ không yên. Lâu ngày thành cái tật, sửa không được. Cuốn Tuỳ Tưởng Lục1tôi đang có trong tay là của một bạn văn trong nước gửi cho. Anh biết chắc tôi sẽ thích món quà của anh. Mà thích thật. Trước hết, đó là cảm giác gần gụi của thân phận tác giả với thân phận người đọc, của sự đồng cảm. Cứ đọc xong một bài, có khi chỉ một đoạn, lại phải đặt sách xuống, thừ người ra mà ngẫm nghĩ. Có chỗ, ứa nước mắt. Thích thì thích, nhưng tôi đã không đọc nổi Tuỳ Tưởng Lục của Ba Kim một mạch. Chắc nó cũng có sức lôi cuốn tương tự với những ai từng sống trong xã hội cộng sản và có một chút trăn trở về xã hội ấy (dù chỉ một chút thôi): nó thật sự là cái gì vậy? nó có xứng với ta, với con người, không? liệu nó còn tương lai không? Tuỳ Tưởng Lục là lời tâm sự thật thà của một trí thức háo hức đi tìm chân trời mới, rồi lớ ngớ thế nào lại thấy mình rơi tõm xuống địa ngục. Trong Tuỳ Tưởng Lục có đủ nỗi nhục nhằn tinh thần và những mất mát làm trái tim suốt đời rỉ máu, không kể đến những đớn đau thân xác. Tuỳ Tưởng Lục, bản tiếng Việt2là một tập những bài viết của Ba Kim trong tuổi trên 80, nghĩ gì viết nấy, không câu nệ thể loại, đề tài. Hai dịch giả danh tiếng - Trương Chính và Ông Văn Tùng – tự chọn các bài để dịch. Sự chọn lựa của hai ông rất khéo: vừa đủ để người đọc được biết về một thảm hoạ xảy ra ở nước láng giềng đã nhiều năm, nhưng vì bị bưng bít nên https://thuviensach.vn không ai biết vân mòng nó ra làm sao, đồng thời cũng tránh được cơn giận dữ ở các bậc quyền cao chức trọng dễ chạnh lòng. Tuỳ Tưởng Lục nguyên bản tiếng Hoa là một tác phẩm đồ sộ, gồm 5 tập, không rõ bao nhiêu trang, tập đầu in năm 1978, tập cuối in năm 1986. Những bài được chọn để dịch đều ít nhiều dính dáng tới cuộc “Đại Cách mạng Văn hoá Vô sản” kéo dài mười năm - từ 1966 đến 1975. Người Việt nào từng chịu đựng cuộc Tiểu cách mạng văn hoá vô sản ở Việt Nam (nó không có tên gọi, kéo dài và âm thầm) sẽ tìm thấy trong Tuỳ Tưởng Lục3 những lý giải cho câu hỏi: vì sao nên nỗi? Những nghiên cứu khoa học cho ta biết trong trí nhớ của con người có một bộ lọc kỳ diệu. Nó thường xuyên xoá đi giúp ta những hình ảnh xấu, những kỷ niệm buồn. Không có cái bộ lọc ấy thì cuộc sống con người khốn nạn lắm. Thật vậy, tôi cũng thường quên những điều tồi tệ, chỉ những kỷ niệm đẹp mới được ghi lại. Tác giả Tuỳ Tưởng Lục chắc cũng không khác. Không thế, không sống nổi. Vậy mà, với Tuỳ Tưởng Lục Ba Kim lại chống cái trí nhớ có lợi cho con người ấy. Trải qua những năm tháng bị dập vùi, ngẫm lại thân phận mình và thân phận đồng bào trong cái xã hội “không thể tưởng tượng nổi”, ông kêu gọi mọi người không được quên cái Ác và tội của nó. Quên là chết. Nhớ thì đau đấy, khổ đấy, nhưng phải khắc cốt ghi xương, rằng nó đã có, cái Ác ấy, nó hằng có, lúc tiềm tàng, lúc hiện diện, cho nên phải luôn cảnh giác với nó, để mặc nó lộng hành thì con người không thể nào có được cuộc sống yên lành. Phải chặn đứng cái Ác khi còn chưa muộn, phải trói nó lại, cách ly nó khỏi đời sống, tìm mọi cách tiêu diệt nó. Không thể để lũ ác nhân cứ tự do hoành hành, tác yêu tác quái, rồi bất kể hậu quả là thế nào, chúng cứ nhơn nhơn lớn lối với bàn dân thiên hạ, coi như không có chuyện gì xảy ra, chỉ có mình chúng là duy nhất đúng đắn, là vô cùng sáng suốt: “Thành tích là căn bản, sai lầm là nhất thời”. Đối với lũ ác nhân đội lốt thiên thần dường https://thuviensach.vn như cứ đạt được một thành tích nào đó, dù chỉ trong tưởng tượng, thì cái gì cũng được phép. Đánh người tuỳ thích. Giết người tha hồ. Gần ba chục năm đã trôi qua kể từ hạo kiếp của Ba Kim kết thúc. Nhưng ông lúc nào cũng bị dằn vặt bởi câu hỏi: lấy gì bảo đảm rằng vào một lúc nào đó, lại không có một tên nào đó, hoặc vài ba tên nào đó, hoặc cả một lũ một lĩ nào đó, sẽ lặp lại lần nữa, hoặc hơn một lần nữa, cái cuộc thiên hạ đại loạn từng đẩy ông, các bạn ông, và không biết bao nhiêu người Trung Quốc hiền lành vô tội khác, xuống địa ngục? Trong một bài nói chuyện với giới văn hoá ở Nhật (trong bài không ghi rõ ngày tháng, nhưng chắc chắn là phải sau 1975), Ba Kim cảnh báo: “Mười năm đại hoạ đó là sự việc lớn trong lịch sử loài người, chẳng những dính líu đến chúng tôi, mà còn dính líu đến tất cả loài người”. Nếu Đại cách mạng văn hoá vô sản không xảy ra ở Trung Quốc ắt phải xảy ra ở một nước nào khác, ông nói thế. Ba Kim đúng. Đúng ở chỗ ông đã nói ra. Nhưng ông cũng sai. Sai ở chỗ ông biết mà không nói hết. Đúng là cuộc Đại cách mạng văn hoá vô sản không phải chỉ là bài học cho một nước. Nó là bài học chung cho cả loài người. Chưa kể những nơi mà nó khơi dậy những tiểu cách mạng văn hoá vô sản như ở Việt Nam và Cambodia. Ở đó những di hoạ khủng khiếp của nó không biết đến bao giờ mới tuyệt diệt. Cái hoạ này lớn hơn ta tưởng nhiều. Nó lớn ở chỗ người trong cuộc không nhận ra nó khủng khiếp tới mức nào, đừng nói gì người ngoài. Mà không phải chỉ ở những nơi nào nó diễn ra mới chịu hậu quả tai hại. Cứ xem châu Âu của truyền thống dân chủ và tự do trong thập niên 60 thế kỷ trước thì thấy. Hồi ấy đã có bao nhiêu trí thức châu Âu hoan hỉ chào mừng những cuộc “vận động” của những “mao-nhiều” Trung Quốc, cứ như thể dưới bóng lá cờ năm sao đang diễn ra một cuộc đổi đời thật sự, biến mọi sự xấu thành tốt. Đã có bao nhiêu người ở khắp thế giới này hướng về Thiên An Môn với hi vọng được thấy một thế giới mới sẽ từ đó toả ra khắp https://thuviensach.vn năm châu bốn biển? Và cho tới hôm nay rải rác đâu đó vẫn còn những “mao ít” mang huy hiệu Mao Trạch Đông trên ngực, miệng hô: “Cái thế giới này phải cải tạo bằng khẩu súng trường ”, tay trói du khách đem đi giấu để đòi tiền chuộc. Ba Kim sai, ở chỗ nơi “Đông phương hồng, mặt trời lên, Trung Hoa chúng ta có Mao Trạch Đông” không phải chỉ có một cuộc Đại cách mạng văn hoá vô sản. Trước nó đã có hết cuộc “vận động” này đến cuộc “vận động” khác, và như một quy luật, cuộc “vận động” nào cũng kết thúc bằng một địa ngục, không phải cho người này thì người kia. Ai theo dõi tình hình Trung Quốc cận đại cũng biết rằng trước cái đận Ba Kim và các trí thức đi theo đảng cộng sản bị hạ ngục, bị trấn áp, đã có biết bao nhiêu nạn nhân thuộc các thành phần khác: đảng viên Quốc dân đảng, viên chức chính quyền cũ, tư sản, địa chủ… và những người được gọi bằng cái tên chung “phản động”. Số người bất hạnh ấy là bao nhiêu không ai biết. Đảng cộng sản độc tôn cai trị không thống kê. Nhưng không phải vì thế mà Ba Kim quên những người ấy. Hoặc lờ họ đi. Họ cũng là người như ông chứ. Chẳng lẽ ông có thể phớt lờ một sự thật rành rành rằng ở Trung Quốc mọi cuộc “vận động” “xây” cái này, “chống” cái kia, bao giờ cũng đi kèm với trống rong cờ mở ban đầu và kết thúc thắng lợi với máu chảy, người chết. Lệ là thế. Không thế không phải là cách mạng. Theo lý thuyết của chủ tịch Mao. Ba Kim được các nhà phê bình văn học bản địa coi là một trong bốn cây đại thụ của nền văn học Trung Quốc (ba người kia là Lỗ Tấn, Mao Thuẫn, Quách Mạt Nhược). Cách đánh giá của họ không có sự đồng thuận ở bên ngoài Trung Quốc. Nhưng đánh giá theo cách nào thì Ba Kim cũng là một nhà văn lớn. Ông tên thật là Lý Nghiêu Đường, tự Phế Cam, người tỉnh Tứ Xuyên, con nhà giàu có, từng du học Pháp. Năm 23 tuổi, khi còn là học sinh trường trung học La Fontaine ở thị trấn Chateau-Thierry, ông viết cuốn tiểu thuyết đầu tay Diệt Vong, được độc giả rất hoan nghênh. Từ năm 1930- 1949 ông viết nhiều (Ái Tình Tam Bộ Khúc, Kịch Lưu Tam Bộ Khúc), dịch cũng nhiều. https://thuviensach.vn Sau năm 1949, khi lục địa Trung Hoa đã hoàn toàn bị nhuộm đỏ, Ba Kim cũng như rất nhiều văn nghệ sĩ đã đi theo đảng cộng sản. Tự nguyện hoàn toàn. Một lòng một dạ. Với tất cả tâm hồn hướng thiện nồng cháy. Tuy nhiên, Ba Kim viết ít hơn hẳn so với trước. Nhà trí thức Ba Kim không theo kịp (hay đã cố gắng mà không sực nổi) những khẩu hiệu “Quán triệt phương hướng phục vụ công nông binh, phục vụ chủ nghĩa xã hội”, “thực hiện phương châm “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”, “Tiến hành phương pháp chủ nghĩa hiện thực cách mạng kết hợp với chủ nghĩa lãng mạn cách mạng”… Nào có phải chỉ có những khẩu hiệu rổn rảng mà thôi. Theo sau chúng là những cuộc đấu tranh có máu đổ, có người chết. Nào “Phê phán phim Vũ Huấn” (1951), “Phê phán cuốn “Nghiên cứu Hồng Lâu Mộng” của Du Bình Bá”, “Phê phán quan điểm duy tâm của Hồ Thích” (1954), “Chống tập đoàn phản cách mạng Hồ Phong” (1955), “Chống phái hữu trên mặt trận văn nghệ” (1957), “Chống “chủ nghĩa xét lại” (1959). Đây là chỉ nói về các cuộc “vận động” nhằm nện cho trí thức nhừ tử. Chứ còn tư sản, địa chủ thì Mao chủ tịch và các đồng chí của ông ta đã quét sạch sành sanh. Tất cả sự tàn nhẫn của đảng cộng sản đối với trí thức, xét cho cùng, chỉ có mục đích bắt họ phải khuất phục đảng vô điều kiện. Nhưng chưa phải thế đã đủ, những cuộc “vận động” kia hoá ra mới chỉ là khúc nhạc dạo cho một cuộc “cách mạng” còn tàn bạo và gớm ghiếc gấp bội. Tên của nó là “Đại Cách mạng Văn hoá Vô sản”. Tháng 8 năm 1966, đùng một cái, Ba Kim rơi xuống địa ngục. Ông tả lại: “… Tôi thật giống như một du hồn bị đưa đến “Thập điện Diêm Vương”. Mỗi chuyện tôi làm trong quá khứ đều bị nêu ra, từng cái một, để bỏ tôi vào vạc dầu mà tra tấn, mà thay xương đổi thịt! Mười bức vẽ đưa vong linh đi qua thập điện Diêm Vương, âm khí thê thảm, máu chảy đầm đìa,không biết mình là người hay là quỷ, là thú vật hay hồn ma, xuống âm ty hay đã xuống địa ngục rồi. Bấy giờ Tiêu San còn sống, sáng dậy tôi https://thuviensach.vn mở mắt, nghe tiếng nàng, tôi gọi thì nàng nói: “Không sống nổi nữa!” (Tuỳ Tưởng Lục). Nói đùng một cái, là vì Ba Kim đang sống yên lành, hơn nữa, còn hữu hảo lắm lắm với chính quyền cộng sản, vào thời điểm ấy ông còn là cán bộ cấp cao về văn nghệ nữa; ấy thế mà một hôm, vừa mới đi tiễn các nhà văn Á-Phi ở sân bay về đến nhà thì gặp người của cách mạng ập tới, túm lấy, trói tay giải đi. Úm ba la, Ba Kim – nhà văn cộng sản - trở thành “đối tượng của chuyên chính vô sản”. “Đối tượng”, chữ ấy thoạt nghe có vẻ vô thưởng vô phạt, nhưng nghĩa của nó trong thực tiễn xã hội chủ nghĩa chỉ có người trong cuộc mới hiểu được nó là cái gì. Nó có nghĩa nôm na là “kẻ thù”. Không phải chỉ là kẻ thù giai cấp được định nghĩa trong các tác phẩm kinh điển mác-xít, được dùng nhiều nhất trong các trước tác của Stalin, Mao Trạch Đông, không phải thế. Ở cái xã hội được gọi là Xã hội Chủ nghĩa (viết hoa) ai cũng có thể trở thành “kẻ thù” hết. Mà đã là kẻ thù thì còn cái gì tốt đẹp, vui vẻ, chờ đợi họ trên con đường khổ ải đã trở thành quen thuộc chứ. Nhất là người dân ở nước Trung Hoa đỏ. Ở nước này ai cũng biết mỗi khi có một cuộc “vận động cách mạng” (lần thứ n trong lịch sử) là y như rằng các “đối tượng” của cách mạng (hay của chuyên chính vô sản thì cũng rứa) sẽ được “xử lý” như thế nào. Nhà văn Ba Kim hiền lành không dám chống lại đảng cộng sản, thậm chí trong ý nghĩ. Thế mà đùng một cái ông bị đảng ném vào cái đống lúc nhúc đủ mọi thứ “kẻ thù của cách mạng”. Ông bị mang đi đấu khắp nơi, từ thấp đến cao, lúc “bồi đấu”, lúc “dạo đấu”, lúc “chính đấu”, đủ kiểu. Nhà ở của ông bị lục lọi khám xét lanh tanh bành, đồ đạc bị cướp thả cửa…, bản thân bị đưa đi “học tập” (Ba Kim gọi là làm “bò”, bị bắt đi lao động cải tạo ở “trường 7.5”). Bởi vì Ba Kim có tội, theo quan niệm của cách mạng, của đảng cộng sản, hay nói cho đúng hơn, của một số “ông bà” cách mạng (than ôi, chẳng bao lâu sau những ông bà cách mạng này lại bị các ông bà cách mạng khác vạch mặt chỉ tên rằng đó là một “bè lũ” phản cách mạng). Tội của Ba Kim không được toà án nào tuyên. Mấy ông bà cách mạng nắm https://thuviensach.vn Đảng cộng sản lúc ấy chỉ cần phán: Ba Kim là “tên đại phản cách mạng”. Thế là đủ. Bói ra ma, quét nhà ra rác, những gì Ba Kim viết, trường hợp của ông cũng không khác gì của các nhà văn khác, tháng trước năm trước được khen, tháng sau năm sau bị chửi, là chuyện thường tình. Trong các văn kiện nói về cuộc trấn áp rùng rợn này, đảng cộng sản Trung Quốc ra một khẩu hiệu sắt máu: “Đánh gục tại chỗ, lấy chân đạp xuống, suốt đời không cho ngóc đầu dậy!”. Ở miền Bắc Việt Nam hồi ấy chẳng ai biết “Đại cách mạng văn hoá vô sản” là cái chi chi, trừ những bài ca ngợi nó, tít chữ to, in màu đỏ đậm, trên trang nhất tờ Nhân Dân. Trong những cuộc nói chuyện “nội bộ”, các lãnh tụ lớn lãnh tụ bé ra sức ca ngợi cuộc “Đại Cách mạng Văn hoá Vô sản” do chính Mao chủ tịch vĩ đại đích thân chỉ đạo. Trong thời gian này bà vợ của Mao chủ tịch vĩ đại là đồng chí Giang Thanh hồi ấy sang Hà Nội theo lời mời của chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách khách riêng. Bà ta hỗng lắm, là khách mà lại đòi xem trước những bài xã luận báo Nhân Dân, rồi tự mình sửa từng chữ từng câu. Chuyện này tôi không bịa – chính người làm báo Nhân Dân kể tôi nghe. Cầm trong tay những số báo ấy, người đọc giật mình thon thót, toát mồ hôi hột: liệu ở bên ta rồi có sẽ có cái “cách mạng” kiểu đó không? Mấy ông kễnh bên ta dám động cỡn lên làm một cái gì đó theo chân các Con Trời lắm. Nước Tàu ở gần ta quá, mà các ông kễnh của ta lại xính bắt chước. Cứ nghe các ông ấy nói thì cuộc “Đại Cách mạng Văn hoá Vô sản” ở bên Tàu hay lắm, rằng cuộc sống sẽ ngày một tốt đẹp hơn là nhờ có nó. Cứ như thể không có cách mạng thì người ta ăn cám cả. Ờ, người ta nói, có đấu tranh như thế thì cuộc sống sẽ tốt hơn thì… tốt thôi. Miễn đừng có khởi lên một cuộc đấu tranh “long trời lở đất” như cải cách ruộng đất. Kinh nghiệm sống trong các quốc gia xã hội chủ nghĩa cho người ta biết: phàm đã “đấu tranh” là y như rằng xã hội lộn tùng phèo, đầu chẳng phải phải tai, lành ít dữ nhiều, loạn xị bát nháo, kinh lắm. Các lãnh tụ https://thuviensach.vn quyền sinh quyền sát thì họ có lợi, chứ dân đen chỉ có nước chết, bị tóm cổ bắt đấu tranh mà không thể biết “tránh đâu”? Nhưng những tin vỉa hè, bây giờ được dân gian gọi bằng một cái tên hiện đại, mà rất trúng, là Thông tấn xã nhân dân, cho biết ở bên Tàu chẳng có cách mạng cách miếc gì hết, mà đang có một cuộc “thiên hạ đại loạn” với những tiểu tướng Hồng vệ binh hung hăng đâp phá, bắt bớ, và cả giết chóc nữa. Bắc Kinh mà đã báo mưa thì vua quan ở Hà Nội đi ô, bà con hãy cẩn thận! Nhưng than ôi, đã ở trong vòng kiềm toả của Đảng Cộng sản rồi thì có cẩn thận cũng bằng thừa. Thật vậy, chẳng bao lâu sau sự khởi đầu “Đại Cách mạng Văn hoá Vô sản”, Lê Duẩn - hoàng đế tân triều, ngồi trên ngai vàng vẫn còn quen tay bẻ ghi đường sắt, ra lệnh phát động ngay tắp lự một cuộc trấn áp bọn phản cách mạng, theo hình mẫu Trung Quốc, gọi là “bọn xét lại chống Đảng”. Cánh tay phải của Lê hoàng đế là Tể tướng giấu mặt Lê Đức Thọ và Đệ nhất đao phủ Trần Quốc Hoàn ra tay. Thế là tôi vào tù. Cùng với vô số người khác. Trong cuộc sống trong xà lim kín như bưng kéo dài hơn bốn năm, tôi không biết việc gì đang xảy ra bên ngoài bốn bức tường, nói gì đến những việc xảy ra ở tận bên Tàu. Đến lúc được đưa ra trại chung mới được nghe sơ sơ về cái cuộc cách mạng long trời lở đất ấy. Những người Trung Hoa từ đại lục chạy qua, bị bỏ tù bởi nước chư hầu, nước phên dậu của Thiên triều, tránh không kể kỹ. Không phải vì họ sợ, đã ở trong nhà tù Việt Nam rồi còn quái gì mà sợ, nhưng họ ngán nhắc tới những kỷ niệm hãi hùng. Còn tôi thì nghe cái sự kể sơ sơ ấy đã dựng tóc gáy. Còn khiếp hơn những chuyện kinh dị đọc trong sách nhiều. Mạng người như mạng ngoé. Dân thường còn thế, chắc trí thức Trung Quốc khốn khổ lắm. Đến những năm 1979-1980 khi cái răng Trung Quốc đùng đùng cắn môi Việt Nam một cái rõ đau, các nhà cầm cân nảy mực Việt Nam coi Trung Quốc là kẻ thù rồi, tôi mới được đọc lác https://thuviensach.vn đác vài cuốn sách bôi xấu những nhà lãnh đạo một thời của Thiên triều, đại loại như Hồng Đô Nữ Hoàng (Giang Thanh), những chuyện thâm cung bí sử có liên quan tới Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Bành Chân, Diệp Kiếm Anh, Hạ Long, Bành Đức Hoài, Chu Ân Lai… Nhưng mãi đến bây giờ, ba chục năm sau đó, qua Tuỳ Tưởng Lục tôi mới được biết cái ngày “hội cách mạng” ở Trung Quốc đã diễn ra với giới trí thức như thế nào? Tôi tin Ba Kim kể thật những gì ông viết về “Đại Cách mạng Văn hoá Vô sản”. Tôi tin ông không bịa, như thường thấy trong những hồi ký ba lăng nhăng thuộc dòng văn học tố khổ. Mặt khác, tôi còn tin rằng ông đã nói ít hơn những điều ông biết và có thể kể lại. Có thể cảm thông với ông, ông không dám nói đủ, nói hết, một phần do sợ hãi (sợ hãi là một thành tố của tính người xã hội chủ nghĩa, không có nó con người xã hội chủ nghĩa không thể tồn tại), phần khác do mặc cảm tội lỗi – xét cho cùng, ông đâu có hoàn toàn vô can trong những gì tồi tệ đã diễn ra? “Đại Cách mạng Văn hoá Vô sản”, theo lời tả của Ba Kim, bắt đầu một cách ào ạt, rầm rộ, với trống giong cờ mở, thanh la não bạt; hào hùng lắm, khí thế lắm. Trong không khí sôi động ấy các nhà văn, nhà thơ, nhà báo, hoạ sĩ…, nói tóm lại, tất tần tật các văn nghệ sĩ, các trí thức, lần lượt bị phái “tạo phản” (một tên gọi phái cực tả, là về sau kia) điểm mặt, lôi ra. Họ bị buộc đủ các thứ tội đối với cách mạng, từ khinh thị công nông, nói xấu lãnh tụ, xuyên tạc chủ nghĩa Mác, đến phản cách mạng, bán nước... Họ là đều là “hoa dại”, là “cỏ độc” hết, tuốt tuột. Phái “tạo phản” la hét đầu đường cuối phố: “Phải quét sạch, phải nhổ tận rễ mọi thứ hoa dại cỏ độc”. Quần chúng, như đàn cừu Panurge, ào ào theo sau, xông vào nhà những người bị đấu, lôi họ ra đường, bắt họ đội “mũ cao” (một hình thức nhục mạ), nhổ bọt vào mặt họ, ném đá vào người họ, hô to những khẩu hiệu đòi tiêu diệt họ. Và xung phong vào nhà bọn hoa dại cỏ độc mà ăn cướp, ăn cướp thực sự, theo nghĩa đen. https://thuviensach.vn Ba Kim tả: “Tôi bỗng trở thành ác bá văn chương”, thành “yêu ma quỷ quái”, thường xuyên bị lôi ra phê đấu. Về sau do “lũ bốn tên”, qua quyết định của sáu người có trách nhiệm ở Thượng Hải là Vương Hồng Văn, Mã Thiên Thuỷ, Từ Cảnh Hiền… đánh tôi thành “tên phản cách mạng không đội mũ cao”. đuổi tôi ra khỏi giới văn nghệ”. Phái "tạo phản" và tay chân của “lũ bốn tên” dán lên mấy nghìn tờ báo chữ to (đại tự báo) về tôi, thậm chí còn dán biểu ngữ ngay trên đường cái nói tôi là “quân bán nước”, “phản cách mạng”, cho tôi là thối tha. Trương Xuân Kiều tuyên bố công khai không cho tôi sáng tác nữa” (Tôi Và Văn Học). “Nghĩ lại những ngày ấy… tôi vẫn rùng mình rởn gáy. Tôi cảm thấy rành rành rằng tấm lưới xung quanh tôi ngày càng thít lại, mỗi tuần lễ một ghê gớm hơn”... Nực cười là tôi cũng cho nhân quyền là thứ của giai cấp tư sản, còn hạng “yêu ma quỷ quái” như chúng tôi không có tư cách hưởng những thứ ấy. Lúc đó sống một ngày dài bằng cả năm, còn bụng dạ nào mà cười? (Về Nói Thật. Bài Thứ Ba). “Tôi không giấu là nhiều lần tôi bị phái "tạo phản" lôi lên bục bắt “ngồi máy bay phản lực”; tôi cúi đầu nhận tội, diễn đủ các trò hề! Có lần, tôi và một ông bạn nhà văn già phải quỳ trên sàn hội trường phân hội Liên hiệp các nhà văn để tiếp thu những lời phê phán “phần tử cuồng loạn” của bọn học sinh “cách mạng” (Vô Đề). Không phải chỉ có Ba Kim bị nhục mạ. Vào thời kỳ đen tối ấy những công thần của cách mạng như Lưu Thiếu Kỳ, Trần Nghị, Đặng Tiểu Bình, Chu Đức, Trần Vân… cũng bị đấu, bị đội mũ cao giong phố trong tiếng hô đả đảo rầm trời, phải gục đầu quỳ gối trước các tiểu tướng Hồng vệ Binh. Nhưng đó là những nhà chính trị. Trí thức không thế. Trí thức là những người da không dày. Họ rất mẫn cảm với mọi tác động từ bên ngoài. Cách mạng vô sản chưa kịp tiêu diệt thì nhiều người trong đám văn nghệ sĩ đã tự tiêu diệt rồi. Ba Kim kể: “Dĩ Quần là người thứ nhất. Nghe nói, anh nhảy lầu ngày mồng hai tháng tám, nhưng cho đến hôm nay tôi vẫn chưa biết rõ anh bị bức phải nhảy lầu như thế nào. Tôi chỉ biết anh bị người ta bức tử với tội “không cần có chứng cứ”… “Dĩ Quần chết một tuần rồi tôi mới hay https://thuviensach.vn tin, còn như Lão Xá “vỡ ngọc” thì một thời gian lâu sau khi ông tự sát tôi mới biết”. Những người tự sát chưa chắc đã là những người hèn nhát. Phó Lôi, một người bạn mà Ba Kim mến phục, giải thích cái chết của bạn bè, và của chính mình, bằng câu: “Kẻ sĩ, có thể giết, không thể làm nhục”. Sau Dĩ Quần, Lão Xá, Ba Kim được tin Trần Đồng Sinh, Kim Trọng Hoa… “họ ở rất gần nhà tôi, thế mà tôi không biết họ chết vào lúc nào. Kim Trọng Hoa lặng lẽ treo cổ trong phòng, bà mẹ tám mươi chỉ nghe tiếng ghế đổ… Trần Đồng Sinh, thì nghe nói chết nằm vắt trên bếp ga, do đó người ta đoán anh tự tử. Nhưng anh đang ở trong thời kỳ “cách ly kiểm tra” mà, làm sao có thể mở bếp ga được?” (Hai Mươi Năm Trước). Cù Bạch Âm chỉ vì một bài “Tự bạch về đi tìm cái mới” mà “chịu đủ mọi nỗi dày vò như ở địa ngục”, kết thúc bằng cái chết bi thảm (Tìm Tòi). Ba Kim viết: “Trong Văn Cách, những trí thức bị chết oan đâu chỉ có hàng ngàn, hàng vạn. Họ nêu cao tấm gương phê phán cái triết lý “hãy cứu lấy mạng sống”. Tôi nhớ thời chống phái hữu, tôi có viết một bài báo bác lại luận điệu “không thể làm nhục” để đập tan bộ mặt kiểu cách của các nhà trí thức. Viết bài đó kỳ thực là tôi “cứu lấy mạng sống của tôi”. (Hai Mươi Năm Trước). Những trí thức tìm đến cái chết nhiều phần vì không chịu bị làm nhục, bị dày vò quá sức chịu đựng về thể xác. Trong gia đình Ba Kim, chính ông bị bắt bắt quỳ hằng giờ trên sàn đấu, bắt “đi máy bay phản lực”, Tiêu San, vợ ông, bị bọn "tạo phản" quất dây da bịt đồng vào mặt, hành hạ bà đủ trò trước khi bà nhắm mắt vì bệnh ung thư (tháng 7.1972). Con cái Ba Kim bị đẩy đi công tác nông thôn, ở tít tắp những nơi gọi là vùng sâu vùng xa. Gia đình nào vướng vào vòng Đại cách mạng văn hoá vô sản thì số phận cũng tương tự như vậy. “Tôi nghe người con dâu đồng chí Chu Tín Phương kể lại: bà Chu trước khi mất thường bị bọn đầu gấu lôi ra làm quả bóng xô đi đẩy lại, đến nỗi mình mẩy mềm nhũn. Có người khuyên bà trốn đi, bà nói: “Tôi mà trốn đi thì chúng nó lại hành hạ ông nhà tôi như thế thôi mà” (Thương Nhớ Tiêu San). Nhà văn nổi tiếng Lão Xá cũng bị đánh đập, https://thuviensach.vn thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Vợ Lão Xá kể: “Tôi không thể nào quên được trong đêm khuya đã tự mình lấy bông thấm nước, lau từng chút một những vết máu trên đầu, trên mình người thân của tôi như thế nào, mà không rõ chuyện này ở đâu, tại sao lại ra nông nỗi ấy…” (Lão Xá). Đến như thân sinh nhà văn Giả Bình Ao (mới nổi tiếng sau này), chỉ là một thầy giáo làng (một trí thức cấp thôn xã) thôi, không biết cứng đầu thế nào mà cũng bị trấn áp, gia đình tan nát. Giả Bình Ao cho một nhân vật của ông kể về những ngày ấy: “Ba năm trước, nổi lên một cơn gió, phải học tập Tiểu Cận Trang, kéo hết người ở ngoài đồng về, suốt ngày môi đỏ răng trắng nói a, hát a. Anh nhà tôi cáu kỉnh nói trước hội nghị xã viên: “Nông dân mình bới đất kiếm cơm, khua môi múa mép làm gì? Ăn ngũ cốc không tiêu được hay sao mà bày ra cái trò vớ vẩn ấy”, hôm sau liền bị bắt. Trong trại giam họ đánh đập anh ấy, đánh gãy cả chân, vết thương bị nhiễm trùng, rồi anh ấy chết”. Trong chuyện, người vợ kiên trì minh oan cho chồng, rốt cuộc bị các quan cấp xã cấp huyện trù dập, bị xã trưởng hiếp, tự tử mà chết. Đấy là cái mà cách mạng vô sản làm ra cho trí thức, lớn cũng như bé. Sau này, mọi tội do Đảng cộng sản gây ra trong Đại cách mạng văn hoá vô sản đều được vẫn cái đảng cộng sản ấy đổ tuốt tuột vào cái thùng rác tiện lợi là phái “tạo phản”. Nhưng không phải mọi trí thức đều tuẫn tiết. Phần lớn trí thức không làm thế. Không phải họ không có dũng khí. Cũng không phải họ không biết chán chường. Một trong những lý do khiến họ phải cố gắng sống sót là họ đã ăn phải “cháo lú” (từ của Ba Kim). Ba Kim tâm sự: “Những ngày ấy, cuộc sống ấy, quan hệ ấy giữa con người và con người, thật là đen tối quá chừng, giống như đang chịu tội giữa địa ngục vậy. Tôi lấy làm lạ, bấy giờ tôi đã ăn cháo lú gì mà có thể giơ hai tay lên, hô to đả đảo mình, cam lòng nhận tội, để cho kẻ khác tước đoạt quyền làm người của mình”. “Không phải là tôi đang nói mê. Năm 1966 quả thực tôi đã làm thế. Cháo lú đã làm tôi mê suốt mười năm. Năm 1983, https://thuviensach.vn nó lại định đưa tôi vào cảnh mộng một lần nữa, nhưng cái phép quỷ quái quen thuộc đã mất tác dụng làm cho tôi lú lẫn lần nữa” (Hai Mươi Năm Trước). Sao mà giống những gì xảy ra ở Bắc Việt Nam đến thế! Hãy nhớ lại thời kỳ cải cách ruộng đất mà xem. Có phải là như thế không? Nói cho đúng, sao mà Bắc Việt Nam giống Trung Quốc đến thế! Ở Việt Nam, trong những cuộc chỉnh huấn bắt đầu từ năm 1950 (sau khi biên giới Việt Trung được khai thông) và kéo dài nhiều thập niên sau, cứ thỉnh thoảng lại nổi lên một đợt, hiện tượng ăn phải “cháo lú” y hệt ở Trung Quốc. Người ta tự hành hạ mình bằng cách tự kiểm thảo, không phải là nhìn lại quá khứ để rút kinh nghiệm, mà là tự kiểm thảo (trước Đảng, có nghĩa là trước cấp trên) theo cách biểu diễn, bằng một sự thành khẩn không tin được, tức là thổi phồng những khuyết điểm của mình càng lớn càng tốt, rồi tự xỉ vả bằng những lời lẽ xúc phạm nặng nề nhất, thậm chí bịa đặt ra những tội lỗi mình không hề có đối với cách mạng, tự mình đả đảo mình (giống như Ba Kim). Đi xem phim Bạch Mao Nữ4, người ta bắn lên màn ảnh khi thấy tên địa chủ xuất hiện. Đi xem kịch người ta ném đá vào diễn viên đóng vai cường hào. Tất cả những cái đó được nhập cảng ồ ạt từ Trung Quốc đỏ. Thứ “cháo lú” này tôi đã được thấy tác dụng của nó như thế nào. Khi một đám đông đã ăn phải “cháo lú” tức thì xuất hiện sự “lên đồng tập thể”. Con người bỗng chốc mất hết tính người, tính thú ào ào nổi lên. Cuộc tổng đàn áp, tổng giết chóc, không cần tới những người cộng sản nữa, dân chúng khắc tự giết lẫn nhau, là đủ. Nhưng cũng lại phải nói cho công bằng, về đại thể, mức độ tàn bạo của những cuộc “vận động” cách mạng do đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo quả có thấp hơn ở Trung Quốc nhiều, quy mô quả có hẹp hơn nhiếu. Đơn giản vì Bắc Việt Nam là nước nhỏ, cái gì ở đó cũng chỉ “tiểu” thôi, chứ không thể “đại” (ở Trung Quốc đã Nhảy Vọt rồi người ta cũng phải thêm Đại vào cơ, cho nó oách). https://thuviensach.vn Khốn thay, số phận con người thì ai cũng như ai, cách mạng đại hay cách mạng tiểu thì cũng thế, mỗi con người chỉ có vỏn vẹn một cuộc đời để mà sống. Người Trung Quốc cũng y như người Việt Nam, chẳng có gì khác nhau. Bi kịch cho một con người lớn chẳng kém bi kịch của số đông chút nào, có khi còn lớn hơn. Bởi một con người là cái cụ thể, cái thấy được, cái biết được, rõ ràng hơn bất kỳ con số thống kê nào. Có người sẽ bảo: dân Trung Quốc hơn một tỉ, Đại Cách mạng Văn hoá Vô sản có làm chết đến mươi triệu không mà rộn? Mà có chết vài mươi triệu hay hơn nữa thì cũng chưa tới một phần trăm cơ mà. Xin thưa: một con người ở trong con số một triệu, hay mười triệu, vẫn là một người như tôi với ông đây này, có vợ có con, có mẹ có cha, có bằng hữu, có thân thuộc, có niềm vui nỗi buồn, có đau thương, có hạnh phúc…, có tất cả những gì thuộc về con người “không xa lạ với tôi”, nói theo cách của Mác. * * * Hồi trước, khi còn ở trong nước, cứ mỗi khi sơ kết hoặc tổng kết một đợt học tập do đảng chủ trương, thì cán bộ phải viết thu hoạch, tức là viết ra giấy những gì mình đã học được. Tôi bỗng nảy ra ý muốn viết ra cái thu hoạch của tôi sau khi đọc Tuỳ Tưởng Lục. Vậy, tôi đã thu hoạch được gì? Một là, xã hội cộng sản bao giờ cũng thù nghịch đối với trí tuệ. Mọi thứ trí tuệ khác, ngoài chính trị, chỉ có thể tồn tại với điều kiện làm tay sai trọn vẹn cho chính trị. Tay sai mà không trọn vẹn không được, nhất định phải loại trừ. Đảng chủ trương như thế, nhất quán là thế. Từ đây mà ra khẩu hiệu “chính trị là thống soái”. Tức là chính trị đứng trên tất cả, chỉ huy tất cả. Đàng sau cái khẩu hiệu về địa vị ấy là quyền lực thực sự của đảng cộng sản nói chung, của một lãnh tụ, hoặc của một nhóm lãnh tụ, nói riêng. Không một kẻ nào khác được phép len chân vào đấy. Trí tuệ không là cái gì hết. Đảng là ánh sáng soi đường, là lương tâm, là trí tuệ nhân loại. Đảng độc https://thuviensach.vn tôn, độc đoán, mặc sức muốn làm gì thì làm. Không kẻ nào được cãi lại. Thậm chí không được rón rén phát biểu ý kiến khác với gì đảng đang nói (bởi vì lúc đảng nói A lúc đảng nói B, không thể biết đàng nào mà lần). Cứ nghển cổ lên mà đánh hơi, rồi gió chiều nào theo chiều ấy, tha hồ tự do phát biểu ý kiến. Trong một xã hội khép kín như thế, Đảng Cộng sản có làm điều gì sai đến mấy thì cả xã hội cũng phải chịu. Người dân không còn quyền gì khác ngoài quyền được cúi đầu vâng lệnh và xưng tụng công đức kẻ cai trị. Cũng từ đây mà ra cái sự tung hô Chủ nghĩa Mác-Lênin là vô địch, là bách chiến bách thắng, là chân lý vĩnh cửu, tồn tại muôn đời. Nền chuyên chế được thiết lập thì cũng là lúc lưỡi gỗ lên ngôi. Khi toàn bộ phương tiện truyền thông trong xã hội được vận dụng để phục vụ kẻ cai trị thì người dân ắt bị đẩy vào tình trạng mụ mẫm. Về tình hình này, Ba Kim tả: “Nhưng tôi năm 1970 và tôi năm 1967- 1968 không còn là một người nữa. Từ tháng 9 năm 1966 trở về sau, dưới sự uy hiếp và lãnh đạo bằng roi da của phái "tạo phản", tôi hoàn toàn suy nghĩ bằng đầu óc người khác; người khác gào “Đả đảo Ba Kim!”, tôi cũng giơ tay hưởng ứng”. “Càng nghĩ càng thấy phái "tạo phản" nói phải, càng nghĩ càng thấy mình có tội. Nói tôi là “hứa tử hiển tôn” của giai cấp địa chủ, tôi nhận. Nói tôi viết Dòng Nước Xiết là “dựng bia, lập truyện” cho giai cấp địa chủ, tôi cũng nhận. Năm 1970, chúng tôi xuống lao động ở nông thôn 3 năm, bị lôi ra ruộng để cùng bị đấu với địa chủ ở đó, tôi cũng cúi đầu nhận tội. Năm 1967 trở đi, tinh thần và diện mạo tôi khác hẳn. Trong tâm linh tôi có cái gì tích luỹ được từ trước tôi bỏ sạch. Tôi ưỡn ngực tiếp thu vô điều kiện mọi chỉ thị của phái "tạo phản". Về sau tôi tự phân tích nói là ăn phải bùa mê thuốc lú, tôi bị thôi miên, nên không hay biết gì nữa. Kỳ thực tôi chưa đào sâu đấy thôi. Trong khoảng hai năm ấy, những khi tôi thành khẩn bái mộ thần linh, bên tai tôi lúc nào cũng văng vẳng một tiếng nói nhân từ: “Tin thần linh thì cả nhà sẽ được cứu”. Nguyên thuỷ chung tôi vẫn giữ trong đầu cái triết lý “bảo toàn tính mạng” “Lúc ấy, tôi cho rằng mình có tội thì cách chuộc tội là thật sự cải tạo, cách cải tạo là cứ thực hiện đúng từng câu mọi huấn thị, mệnh lệnh, quyết nghị của phái "tạo phản" (Mười Năm, https://thuviensach.vn Một Giấc Mộng). Món “cháo lú” được nấu kỹ theo đúng tinh thần “chính trị là thống soái” đem đến kết quả là thế. Một tình hình tương tự người Việt Nam đã được thấy trong cải cách ruộng đất, ở cuộc vận động trí thức và các thứ đám đông khác đánh “hội đồng” nhóm "Nhân văn - Giai phẩm". Cái khác là nhóm "Nhân văn - Giai phẩm" còn dám nho nhoe đòi “trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ”, chứ Ba Kim và nhiều người bạn ông thì chưa kịp đòi gì. Trường hợp của Ba Kim chắc giống như trường hợp Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo… và một số trí thức khác ở miền Bắc. Không thuộc nhóm "Nhân văn - Giai phẩm" họ cũng bị trấn áp theo lối nhân thể. Cái sự trấn áp bằng bất cứ phương tiện gì, bằng bất cứ giá nào, đối với những trí tuệ không giống mình, được gọi một cách miệt thị là ngoại lai, tạo ra bùa mê thuốc lú cho cả xã hội. Xét đến cội nguồn của nó ta thấy đó chính là sự sợ hãi của nền chuyên chế đối với trí tuệ. Nếu trí tuệ sống thì quyền lực độc tôn không thể tồn tại. “Kẻ nào suy nghĩ khác ta, kẻ đó chống lại ta”, đó là lời Lê Duẩn. Nhưng đó cũng là chủ trương của mọi chế độ độc tài chuyên chế, phát xít hay cộng sản thì cũng vậy. Mặc dầu bị ăn “cháo lú”, nhà văn Ba Kim có lúc cũng tỉnh ra. Ông viết: “Những người cho chúng tôi là nô lệ, cầm roi da huơ huơ trước mặt chúng tôi, thật ra chúng chẳng có cái quái gì hết! Chúng không biết ngày mai chúng sẽ ra sao nữa. Có lẽ có người thấy tôi nghĩ như thế cho là kỳ quặc. Thật ra cũng dễ lý giải thôi. Mấy mươi năm tôi viết sách làm văn, cuối cùng còn có được một chút “trí thức”; bây giờ thì tôi biết rõ vì sao “lũ bốn tên” hận thù “trí thức” làm vậy! Dù chỉ với một chút “trí thức”, “mày” cũng còn thấy được khe hở của “tao”, huống chi là “phần tử trí thức”, huống chi là kẻ có văn hoá!” (Mười Năm, Một Giấc Mộng). Có coi mọi người dưới quyền cai trị của mình là nô lệ thì mới có tình trạng “Trương Xuân Kiều tuyên bố công khai không cho tôi sáng tác nữa”, là Ba Kim hết được viết. Trương Xuân Kiều không cần phải là trí thức giỏi hơn, sáng suốt hơn Ba Kim. Trương Xuân Kiều chỉ cần là Đảng. Trong Tuỳ Tưởng Lục, như nhận xét ở trên, Ba Kim còn chưa dám nói thẳng điều ông nghĩ. Ông ngần ngại, ông do dự. Bởi vì ông vẫn còn nằm https://thuviensach.vn trong vòng kiềm toả của chế độ. Ông còn sợ, nói thẳng ra là như thế. Nhưng ta chỉ cần thay “lũ bốn tên” bằng “chế độ hiện hành” là bức tranh xã hội mà ông vẽ ra trong Tuỳ Tưởng Lục lập tức có đủ màu sắc chân thực, sinh động. Gần đây có tin nhà cầm quyền Trung Quốc định đúc tượng đồng của ông trong lúc ông còn sống. Phải chăng đó cũng là cách để cho Ba Kim ngậm miệng? Nhà cầm quyền một xã hội như thế, bất kể ở nước nào, không chỉ sợ những “tư tưởng thù địch” hiện đại, mà cả những nhà tư tưởng cổ xưa. Hãy xem báo Tiền Phong, số ra ngày 16.8.1973 tại Hà Nội (tức là trong lúc Đại cách mạng văn hoá vô sản còn đang hoành hành ở Trung Quốc) với bài: “Quét sạch những tàn dư tệ hại của Khổng giáo” thì thấy. Bài báo viết: “… cần phải khẳng định dứt khoát rằng: lễ giáo phong kiến, đặc biệt là lễ giáo Khổng tử, không có một chút nhân tố tích cực nào nữa... Chúng chỉ là những xiềng xích những độc hại… Là thế hệ thanh niên của thời đại Hồ Chí Minh, chúng ta đang sống, chiến đấu, lao động, học tập vì độc lập tự do của Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải bảo vệ sự sáng tạo của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chính vì thế mà chúng ta không thể dung hoà được với Khổng giáo cùng với hệ tư tưởng phản động và tư tưởng bảo thủ của nó. Vì sự nghiệp cách mạng, chúng ta phải kiên trì đấu tranh để quét sạch nó ra khỏi mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như quét sạch những đống rác vậy”. Tác giả Nguyễn Thanh Dương, tổng biên tập báo, dưới tên ký là Thanh Bình, đã viết đúng như thế. Khi có người hỏi tại sao ông ta lại đánh cả Khổng giáo, thì Nguyễn Thanh Dương trả lời: “Tôi viết theo chủ trương của trên. Tôi chỉ làm nhiệm vụ mở đầu, các báo và tạp chí khác đang được lệnh viết tiếp. Đây là một chiến dịch do trên chỉ đạo đấy…”. “Trên” ở đây là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ. “Trên” của “trên” là Quang Minh Nhật báo ở bên Tàu. Tờ này đăng một bài với nội dung y hệt, nhưng sớm hơn tờ Tiền Phong ở Việt Nam ít ngày. Với những người cầm quyền như thế, chỉ có một tư tưởng được phép sống, được toàn quyền thống trị, là tư tưởng Mác-Lê, hay, lại nói cho đúng https://thuviensach.vn hơn, tư tưởng Mao Trạch Đông, tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng Lê Duẩn, hoặc, lạy Chúa tôi, tư tưởng Nông Đức Mạnh... Hai là, xã hội cộng sản là một xã hội trái tự nhiên. Bây giờ thì ai cũng biết rằng cái gọi là xã hội xã hội chủ nghĩa là một sản phẩm thuần tuý tư biện, từ Mác. Nó không phải là một xã hội tự nhiên thành. Nói nôm, là một xã hội bịa đặt. Kể ra nghe cái luận điểm rằng loài người ngu tối trước kia chỉ biết cúi đầu chép sử, nay đã đến lúc nó đứng dậy tự làm ra lịch sử cho mình, thì khoái cái con ráy lắm. Khốn nỗi, tự nhiên có quy luật của nó, không phải muốn thế nào cũng được. Nước thì phải chảy xuôi. Thứ sản phẩm bịa đặt muốn tồn tại được phải nhờ vào dối trá. Thành thử trong cái xã hội đó kẻ cầm quyền phải thay đổi mọi khái niệm thông thường vốn có của loài người, tạo ra một hệ khái niệm khác hẳn để biện minh cho việc làm của nó. Không thể lấy sự hiểu thông thường vốn dĩ có ở các xã hội thông thường để hiểu hắn ta nói cái gì. Chẳng hạn, về tự do báo chí, theo cách hiểu của tổng bí thư Nông Đức Mạnh là: “Báo chí viết gì, nói gì, thông tin gì, bao giờ cũng phải vì lợi ích của cách mạng, của đất nước, của Đảng” (Nói tại Thông tấn xã Việt Nam, tháng 6.2003). Tổng thư ký Hội nhà báo Việt Nam Vũ Văn Hiển trước đó cũng đã nhấn mạnh với các hội viên của ông ta: “Nếu nói đến tự do báo chí ở Việt Nam thì cần hiểu đó là việc tự do hoạt động để phục vụ Đảng” (báo Nhân Dân, 20.6.2002). Những lời nói như thế ở các xã hội thông thường chỉ có thể là những lời nói mê nói sảng. Trong một xã hội chuyên chế, mà xã hội Xã hội Chủ nghĩa là một xã hội như thế, những định chế của nó chỉ còn cái tên là giống với những định chế của các xã hội khác, chứ chúng, hoặc rỗng ruột, hoặc được thay thế bằng nội dung khác hẳn, thậm chí trái ngược. Trải qua Đại Cách mạng Văn hoá Vô sản, Ba Kim than thở: “Nước chúng ta có Hiến pháp 1954, quyền công dân của tôi đáng ra phải được Hiến pháp bảo vệ. Hiến pháp ấy đã được toàn thể đại biểu bỏ phiếu thông qua, trong đó có lá phiếu của tôi… Nhưng đến khi đáng ra phải phát huy tác dụng của nó thì chúng ta chẳng ai tìm thấy nó ở đâu cả, phảng phất như nó https://thuviensach.vn chẳng hề tồn tại, hoặc giả là vô ích, không bằng báo chữ to. Hai mươi năm trước, tôi đã bị nhốt “chuồng bò” như thế đấy. Hiến pháp đã mất tăm mất tích, nhân quyền bị dày xéo. Tôi giơ cao quyển “sách đỏ”, đọc to “chỉ thị tối cao”, đang là người biến thành súc vật, mặc cho người ta phanh thây, xé xác”. Tội nghiệp cho Ba Kim quá! Ba là, xã hội cộng sản là một xã hội đầy bất trắc. Nhìn bề ngoài, đôi khi người ta nhầm: cái xã hội ấy có vẻ ổn định đáo để. Lấy Bắc Hàn làm thí dụ. Ở đó không có lộn xộn – không đảo chính, không đình công, không biểu tình. Dân chúng im re, lúc nào cũng sẵn sàng rầm rập đồng ca những bài ca ngợi Kim tướng quân (tức là ông Kim Nhật Thành, Kim Bố), hoặc ca ngợi lãnh tụ vĩ đại (Kim Chính Nhật, Kim Con). Dân sống trong sự sáng tạo không ngừng, khi gần chết đói, họ phát hiện cỏ cho trâu bò ăn cũng muối dưa được, chẳng kém gì món Kim Chi. Cho đến khi hàng triệu người chết đói thực sự, xã hội Bắc Hàn vẫn “ổn định”. Khi thấy dân chúng Bắc Hàn không còn cái gì mà ăn nữa, có cơ nổi loạn vì đói quá hoá liều, thì lãnh tụ Kim Con bèn mang vũ khí nguyên tử ra doạ cả thế giới: “Chúng mày không viện trợ cái ăn cho nước ông thì ông cho nổ bom nguyên tử đây này”. Bom nguyên tử ở Bắc Hàn chưa chắc đã ném được ở đâu xa, điều chắc chắn là nó sẽ nổ được, ngay tại bệ phóng, ở trên đất Bắc Hàn. Nhưng như thế thì Nhật và Nam Hàn cũng đã lĩnh đủ tai hoạ phóng xạ. Trước lời đe doạ ấy chỉ có Trung Quốc là bình chân như vại, chắc còn tin ở lời dạy của Mao Xếnh Xáng: “Chiến tranh có thể làm chết vài chục triệu người Trung Quốc, nhưng bọn đế quốc rồi sẽ bại, Trung Quốc sẽ tất thắng”. Xin đừng nghĩ rằng ở Bắc Hàn không có Hiến pháp, không có pháp luật. Có cả đấy, có hết. Chỉ thừa chứ không thiếu. Cái gọi là ổn định xã hội ở các nước gọi là xã hội chủ nghĩa, được thực hiện bằng dùi cui, về cơ bản là nhà tù, trước hết, và trong nội dung của nó, là ổn định quyền lực. Để ổn định một thứ quyền lực không hình thành bởi sự lựa chọn của các thành viên của xã hội, tức là dân chúng, thì không thể https://thuviensach.vn nào đặt ra được những định chế ổn định, mà phải thay đổi chúng xoành xoạch, đặng đối phó với mọi biến chuyển. Cái gọi là Hiến pháp mà Ba Kim tin rằng “đã được toàn thể đại biểu bỏ phiếu thông qua, trong đó có lá phiếu của tôi” thế tất chỉ có thể là bánh vẽ. Câu nói cửa miệng “chính quyền của dân, do dân, vì dân” của các quan cách mạng không bao giờ được nhân dân coi là lời nói thật. Khi nhà cầm quyền – lúc này là Đảng Cộng sản, lúc khác là một nhúm người cơ hội nhân danh đảng cộng sản – thấy cần phải thay đổi, hoặc giải thích xuyên tạc điều này điều nọ trong Hiến pháp, thì nó chỉ cần ra một nghị quyết là mọi cái lại lộn tùng phèo. Cho nên mới có hiện tượng hôm nay Lâm Bưu - người học trò của Mao chủ tịch, người kế vị xứng đáng của Mao chủ tịch – ra mọi chỉ thị bắt cả xã hội tuân theo, được ca ngợi rầm trời, mai đã trở thành kẻ cầm đầu “lũ bốn tên” bị nguyền rủa hết nước hết cái, rồi chết bất đắc kỳ tử trên đường chạy trốn. Chuyện Lưu Thiếu Kỳ, trong khi còn nguyên chức danh chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, “yên tâm” nằm dài dài trong ngục cho đến khi biến thành một thây ma thối rữa, là chuyện bình thường ở cái xã hội đó, nói gì đến Ba Kim. Tôi có kinh nghiệm cá nhân trong chuyện này. Một năm sau khi Mao Trạch Đông khởi lên Đại cách mạng văn hoá vô sản ở Trung Quốc, hoàng đế Lê Duẩn chưa tuyên bố Tiểu cách mạng văn hoá vô sản, tôi lúc ấy chưa kịp chống đảng cộng sản, chỉ mới tỏ ra khó chịu với nó mà thôi, thì đã bị nó bỏ tù rồi. Chắc hẳn nó bỏ tù tôi là vì trong khi không bằng lòng nó, tôi đã trót dại nói ra ở đâu đó, với ai đó, mà nó nghe thấy qua kẻ nào đó, nó được kẻ nào đó báo cáo, thế là chẳng cần đối chiếu việc làm (ở đây là lời nói) có vi phạm Hiến pháp và pháp luật hay không, nó cho tôi ở chín năm liền tù tì hết nhà tù này đến trại tập trung khác, không cần xét xử. Những bạn tù bị tội như tôi nhiều vô số kế. Nhiều người trong họ không về nhà nữa mà nằm lại trong các nghĩa trang lổn nhổn gò đống bên các trại. Bây giờ, trong nước Việt Nam ổn định, những công dân dám nghĩ tới tình trạng tụt hậu hiện tại và tiền đồ đen tối của đất nước, dám phát biểu đôi https://thuviensach.vn điều, đúng sai không cần biết, lập tức bị tống giam, rồi giải toà, xử án kín, hoặc không cần xử án. Tên của họ là: Nguyễn Đình Huy, Phạm Thái, Nguyễn Đan Quế, Đoàn Viết Hoạt, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích Tuệ Sĩ, Nguyễn Văn Lý, Phan Văn Lợi, Nguyễn Hữu Giải, Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Phạm Quế Dương, Trần Khuê, Trần Dũng Tiến, Vũ Cao Quận, Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình …, và rất nhiều người khác nữa. Mà chẳng cứ những người có ý muốn hoặc đã có hành động đấu tranh cho dân chủ hoá cái xã hội trong đó mình đang sống mới phải nơm nớp lo sợ sự trấn áp có thể giáng xuống đầu mình bất cứ lúc nào. Ai cũng sợ. Không sợ là điếc không sợ súng. Hoặc ăn quá nhiều “cháo lú” nên tưởng tai vạ nào rồi cũng chừa mình ra. Bởi vì mình là người được đảng tin tưởng chẳng hạn. Ba Kim thú nhận ông đã từng có ý nghĩ như thế. Đảng Cộng sản sợ dân chủ hơn sợ ma nhiều. Đảng thừa thông minh để biết rằng dân chủ hoá xã hội có nhiều cách, nhưng cách nào rồi cũng dẫn tới kết cục bi thảm cho những kẻ quen ăn trên ngồi trốc nơi “đỉnh cao trí tuệ”. Vì thế đảng cầm quyền phải tìm cách chống lại. Cách chống tốt nhất là cho các công dân biết họ chỉ là những tù nhân dự khuyết. Nhiều người chỉ nhìn thấy sức mạnh bạo lực của Đảng cộng sản mà không nhìn thấy nỗi sợ hãi được giấu kín sau bức bình phong dữ tợn của nó. Nó sợ những tư tưởng dân chủ đến nỗi cấm người ta không được viết trên vòng hoa phúng điếu tướng Trần Độ, một công thần khai quốc của Đảng hai chữ “vô cùng”, trong dòng chữ “vô cùng thương tiếc” theo thông tục. Dựa trên sức mạnh của bạo lực được trả lương để bảo vệ chế độ, nhà nước Xã hội Chủ nghĩa của Đảng Cộng sản sẽ còn tiếp tục đàn áp những công dân đòi dân chủ chừng nào nhà nước đó còn chưa trút hơi cuối cùng. Một xã hội phi nhân bản không vì con người như thế không thể có tương lai. https://thuviensach.vn Bây giờ nói đến xã hội xã hội chủ nghĩa có thể phát triển tốt là người ta dẫn Trung Quốc ra. Trung Quốc quả đang có những bước tiến rất dài trong phát triển kinh tế, chủ yếu dựa vào biện pháp khuyến khích phát triển tư doanh, là cái mà trước kia họ chống đến cùng. Điều đó chẳng hề có nghĩa là nhà cầm quyền Trung Quốc đang đi trên con đường xây dựng cái chủ nghĩa xã hội nọ. Vì chẳng ai nhìn thấy bóng dáng nó đâu ở chân trời tít tắp. Các ông Con Trời bèn khẳng định rằng đúng thế, ta chưa thấy được xã hội cộng sản bằng mắt thường, nhưng dưới sự lãnh đạo duy nhất đúng đắn và vô cùng sáng suốt của ban lãnh đạo đảng hiện tại, cái xã hội mơ ước ấy sẽ trở thành hiện thực sau… một thế kỷ. Tức là vào lúc chẳng có ai trong những người nói và những người nghe hôm nay còn sống. Bất cứ ông thầy bói tay mơ nào cũng có quyền phán một lời tiên đoán tương tự. Ấy là chưa kể ban lãnh đạo đảng hiện tại có bền vững lâu dài không, hay sẽ trở thành một “bè lũ ba tên” hoặc “bè lũ năm tên rưỡi” vào một lúc nào đó. Ai dám nói chắc? Cái mà chúng ta biết chắc là ở Liên Xô, chủ nghĩa xã hội đã tồn tại và phát triển đến mức cao nhất nó mà có thể đạt tới trong hơn hai phần ba thế kỷ, đã đưa Liên Xô trở thành một trong hai cường quốc lớn nhất thế giới, thế mà rồi sụm đổ như một “người khổng lồ chân đất sét”5. Cái xã hội bị các nhà Mác-xít coi là bất toàn hoá ra không phải là cái chứng minh cho sự tồn tại cái xã hội mà họ cho rằng hữu lý. Con người là một sinh vật có tư duy. Cho dù có phỉnh nịnh, cưỡng bức nó ăn thứ “cháo lú” trộn lẫn với bạo lực, trước sau gì nó cũng sẽ suy nghĩ đến điều phải nghĩ ra. Như Ba Kim đi đến kết luận cho cái xã hội mà ông đang phải sống: “Chúng ta mở miệng ra là nói “xã hội mới”, nhưng cái xã hội mới ấy, chúng ta càng ngày càng không hiểu nó ra làm sao cả, càng ngày càng thấy nó dễ sợ. Bạn bè, người này tiếp người kia, bị quăng xuống vực thẳm trước tôi”. https://thuviensach.vn “Và cả sau tôi nữa!”. Ông có nói thêm lời tiên đoán như vậy cũng không sai. Vũ Thư Hiên https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn GIỚI THIỆU TÁC GIẢ Ba Kim tên thật là Lý Nghiêu Đường, tự Phê Cam, có nhiều bút danh, nhưng thường được biết với bút danh Ba Kim. Ông thuộc thế hệ sau Lỗ Tấn, Quách Mạt Nhược, Mao Thuẫn; nổi tiếng những năm ba mươi, cùng một lần với Lão Xá, Tào Ngu, Diệp Thánh Đào; hiện là chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc. Ông người Tứ Xuyên, sinh năm 1904, tính đến nay đã ngoài 90. Gia đình ông vốn là một gia đình trưởng giả ở Thành Đô, cha mẹ đều mất sớm; năm 19 tuổi, ông rời Thành Đô, đến Nam Kinh học. Ba năm sau, ông du học Pháp, nhưng không bao lâu, bỏ học để theo đuổi nghiệp văn chương. Tác phẩm đầu tay của ông là cuốn tiểu thuyết Diệt Vong, đăng ở tạp chí Tiểu thuyết Nguyệt báo. Tác phẩm ấy, ông viết từ năm 1927, khi đang học ở trường Alliance Francaise6ở Paris. Sách in ra7, được nhiều người biết tiếng; ông liền về nước, ở lại Thượng Hải, chuyên viết văn và dịch sách. Năm 1932, ông sang Nhật; mùa xuân năm 1934 lại trở về Trung Quốc, xuất bản tờ Văn học Quý san ở Bắc Kinh; năm 1935, trở lại Thượng Hải, mở nhà xuất bản Văn hoá Sinh hoạt. Trong chiến tranh chống Nhật, ông sống nhiều nơi, có trở lại Thành Đô, rồi đến Quế Lâm. Giai đoạn 1930-1949, ông sáng tác dồi dào, nhiều tác phẩm được xuất bản, trong đó có hai bộ tiểu thuyết trường giang: Ái tình tam bộ khúc,8gồm ba tập: Lộ9, Vũ,10 Điện11. Tiếp theo là Kịch lưu tam bộ khúc cũng gồm 3 tập Gia, Xuân, Thu.12 Đã có Ba Kim tuyển tập-1936, Ba Kim đại biểu tác-1940. Sau giải phóng, có Ba Kim tuyển tập-1951, do Khai Minh, Bắc Kinh xuất bản. Ngoài những tác phẩm kể trên, ông dịch nhiều sách, phần lớn của các nhà văn Nga: Tourgueniev, Gorky... Đề tài chủ yếu của ông là nam nữ thanh niên trí thức, tình yêu và gia đình phong kiến. https://thuviensach.vn Từ ngày Giải phóng, Ba Kim ít viết. Lý do là vì từ đó trở về sau, ở Trung quốc đã xảy ra nhiều cuộc đấu tranh tư tưởng cực kỳ quyết liệt, có lúc là đấu tranh chống Chủ nghĩa Cải lương, Chủ nghĩa Duy tâm, có lúc thì trực tiếp bảo vệ đường lối văn nghệ Mao Trạch Đông... dưới những khẩu hiệu: "Quán triệt phương hướng phục vụ Công, Nông, Binh, phục vụ Chủ nghĩa Xã hội", thực hiện phương châm "trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng", "Tiến hành phương pháp Chủ nghĩa Hiện thực Cách mạng kết hợp với Chủ nghĩa Lãng mạn Cách mạng". Các cuộc đấu tranh ấy cứ kéo dài, liên lụy đến nhiều văn nghệ sĩ. Một là "Phê phán phim Vũ Huấn", năm 1951, hai là “Phê phán cuốn "Nghiên cứu Hồng lâu mộng" của Du Bình Bá”, năm 1954; ba là “Phê phán quan điểm học thuật duy tâm của Hồ Thích”, năm 1954; bốn là “Đấu tranh chống tập đoàn phản cách mạng Hồ Phong”, năm 1955; năm là “Đấu tranh chống phái hữu trên mặt trận văn nghệ”, năm 1957; sáu là "Đấu tranh chống Chủ nghĩa Xét lại”, năm 1959; bảy là “Phê phán Chủ nghĩa Giáo điều”, năm 1960; tám là "Đại cách mạng Văn hoá", từ năm 1966 đến năm 1975. Bảy cuộc đấu tranh trước, Ba Kim không dính, nhưng đến cuộc đấu tranh thứ tám, thì ông không tránh khỏi. Và, như ông nói, đang là "người", ông đã biến thành "bò", bị nhốt vào "chuồng bò" suốt mười năm. Đại cách mạng Văn hoá chấm đứt, ông mới từ "bò" trở lại làm "người". Bấy giờ ông lại cầm bút. Biết mình không còn sống được bao nhiêu nữa, ông tranh thủ viết để bù lại mười năm mất trắng. Đó là hoàn cảnh sáng tác Tuỳ tưởng lục mà chúng tôi trích dịch. Tác phẩm này có thể nói là cuối đời ông. Tùy tưởng lục gồm 5 tập, tập đầu xuất bản 1978, tập cuối xuất bản năm 1986. Trong thời gian này, ông vào bệnh viện chữa trị hai lần, một lần ngả gãy chân, một lần mắc bệnh thần kinh, nằm hàng tháng trời. Mặc dù tuổi cao, sức yếu, bệnh tật liên miên, ông vẫn cố hoàn thành kế hoạch đặt lúc đầu, mỗi ngày viết một ít, xong bài nào, đăng báo bài ấy. Tập đầu không có https://thuviensach.vn đề riêng, mà gọi là Tùy tưởng lục tập một; tập hai đề là Chân thoại13, tập ba đề là Sách cầu14, tập bốn đề là Bệnh trung15, tập năm là Vô đề. Đó là tên từng tập, thật ra, mỗi bài đều có tên riêng, nghĩ đến chuyện gì, viết chuyện đó, đúng như cái tên chung "Tuỳ tưởng". Phần lớn là những thiên hồi ký, hoặc có tính chất hồi ký. Chọn dịch những bài này, chúng tôi cho là có nhiều ý nghĩa nhất, một là những bài cũng cho chúng ta biết đời sống văn học Trung Quốc trong hơn năm mươi năm, từ 1930 trở về sau, đặc biệt là giai đoạn 1926 đến 1975 qua cảm nghĩ của một nhà văn có tiếng là nhớ lâu, nhớ tỉ mỉ. Đủ thứ chuyện, chuyện của bản thân, chuyện của người khác, không sót chuyện nào. Một điểm nữa là những điều ông nói đều là những "lời nói thật", có gì nói nấy, không che giấu, không tô vẽ, nhất là khi nói về bản thân mình, khi phân tích thái độ, tình cảm, tâm trạng của mình trong các cuộc đấu tranh. Về Tuỳ tường lục, trong Lời tựa chung, tác giả nói một cách khiêm tốn rằng: "Những trang này chỉ ghi lại cảm nghĩ của tôi, tuỳ lúc, tuỳ nơi, không có hệ thống mà cũng chẳng cao siêu gì, nhưng cũng không ôn hoà, êm thấm, không bệnh mà rên, không đau, không ngứa". "Tôi không nói những điều mọi người nói. Nói như thế thì nói cũng bằng không nói; viết cũng như không viết". Báo chí Trung Quốc thì nhận định: "Đây là một tác phẩm lớn, chân thực, sinh động, nhiệt tình của tác giả thấm qua từng trang giấy". Người dịch Trương Chính và Ông Văn Tùng Bính Tí, Tháng 5 năm 1996 https://thuviensach.vn Nhà văn Ba Kim (1904-2005) https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn Nhà văn Ba Kim - Danh nhân văn hóa Trung Quốc Nhà văn Ba Kim – “Người thợ cả của văn học Trung Quốc”, nguyên Chủ tịch Hội Nhà văn, Phó Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc - đã từ trần hồi 19h06 ngày 17-10-2005 tại Thượng Hải, thọ 101 tuổi. Ba Kim tên thật là Lý Nghiêu Đường, sinh tháng 11-1904 tại Thành Đô, Tứ Xuyên, có nhiều bút danh như Dư Nhất, Vương Văn Huệ… Năm 1920 ông vào học Trường Ngoại ngữ Thành Đô, đến năm 1923 thì ông bỏ nhà, một gia đình phong kiến, ra đi rồi vào học các trường Trung học ở Nam Kinh, Thượng Hải. Năm 1927, ông sang Pháp du học. Tại đây ông đã xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay “Diệt vong” dưới bút danh Ba Kim. Từ đó, không mấy người còn nhớ đến tên thật của ông nữa… Năm 1928, Ba Kim quay trở lại Thượng Hải để sáng tác và làm phiên dịch. Từ 1929 đến 1937, ông đã viết rất nhiều sách, trong đó đáng chú ý nhất có “Gia đình”, “Giấc mơ của biển”, “Ngày Thu giữa mùa Xuân”, “Manh nha”, “Tuyết”, “Cuộc đời mới”, Bộ ba tiểu thuyết tình yêu “Sương mù, Mưa, Điện”; các tập truyện ngắn “Phục thù”, “Tướng quân”, “Thần Quỷ-Người”; các tập tản văn: “Hải hành tập ký”, “Nhớ lại”, “Đoản giản”. Phong cách độc đáo và bút lực mạnh mẽ của Ba Kim đã khiến người ta kinh ngạc. Đại văn hào Lỗ Tấn đã ca ngợi Ba Kim là “Một nhà văn có nhiệt tình, có tư tưởng tiến bộ; một trong số ít nhà văn tốt có thể đếm được trên đầu ngón tay”. Trong thời gian này, Ba Kim còn đảm nhiệm chức vụ Tổng biên tập Nhà xuất bản Đời sống văn hoá, làm chủ biên một loạt sách như “Văn quý nguyệt san”, “Văn học tùng san”. Sau khi cuộc chiến kháng Nhật bùng nổ, Ba Kim đã bôn ba khắp nơi tham gia kháng chiến và biên tập các báo “Gào thét”, “Cứu vong Nhật báo”, hoàn thành nốt hai tiểu thuyết “Xuân”, “Thu” trong bộ ba “Gia đình”, viết bộ ba tiểu thuyết “Kháng chiến” (còn gọi là Lửa), mấy tập truyện ngắn, mấy cuốn tản văn. https://thuviensach.vn Thời kỳ cuối và sau khi kháng chiến thắng lợi, ông đã viết một loạt tiểu thuyết dài và vừa như “Đêm lạnh”, “Phòng bệnh số 4”… là những cú đòn chí tử giáng vào chế độ cũ sắp sụp đổ. Sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, Ba Kim đã được giao các chức vụ quan trọng như Phó chủ tịch Văn liên Trung Quốc, Chủ tịch Hiệp hội Tác gia Trung Quốc, Chủ tịch Trung tâm Bút hội, Phó Chủ tịch Hội nghị Chính Hiệp Nhân dân Toàn quốc các khoá 6,7,8,9. Ông là đại biểu Đại hội Nhân dân Trung Quốc các khóa 1,2,3,4,5 và là Phó Chủ tịch Quốc hội khoá 5. Ông đã nhiều lần tham gia các đoàn đại biểu đi thăm nước ngoài và các cuộc giao lưu văn học Quốc tế. Trong “Cách mạng Văn hóa”, Ba Kim đã bị đấu tố. Ông chính là người đã đề xướng lập Trung Quốc Văn học quán, chủ biên các tạp chí “Thu hoạch”, “Văn nghệ nguyệt báo”, “Thượng Hải văn học”. Các tác phẩm của ông được xuất bản trong thời kỳ mới có: Các tập truyện ngắn “Câu chuyện anh hùng”, ký sự văn học “Sống giữa những người anh hùng”, tiểu thuyết tản văn “Ba Kim cận tác”, 5 tập tùy bút “Tùy tưởng lục”, “Ba Kim 60 năm văn tuyển”, “Sáng tác hồi ức lục”. Về tiểu thuyết, Ba Kim thành công nhất ở mảng đề tài viết về sự tan vỡ của gia đình kiểu cũ và tâm lý phản kháng của lớp người trẻ. Bộ ba “Gia đình” là tác phẩm thành công nhất và có ảnh hưởng lớn lao nhất trong phương diện này. Với tài kể chuyện, bút pháp độc đáo, “Gia đình” đã chiếm trọn cảm tình của mấy thế hệ độc giả Trung Quốc. Có thể nói, “Gia đình” đã ấn định nên địa vị quan trọng của Ba Kim trong lịch sử văn học Trung Quốc hiện đại. Để ghi nhận những công lao, cống hiến của ông với nền văn học Trung Quốc, tháng 11-2003, nhân dịp sinh nhật ông lần thứ 100, Quốc vụ viện Trung Quốc đã quyết định phong tặng ông danh hiệu “Nhà văn Nhân dân”. Ở Trung Quốc, Ba Kim chiếm trọn tình cảm của những người yêu văn học không chỉ bởi những tác phẩm đầy tính nhân văn mà còn bởi nhân cách, phẩm chất của ông. Người ta truyền tụng nhau câu chuyện về tình yêu thủy chung của ông với bà vợ và tìm đọc những câu nói của ông về mọi vấn đề từ văn học, lối sống, cách mạng văn hóa đến tình yêu, tình bạn. https://thuviensach.vn Ba Kim có rất nhiều bạn văn. Trong bối cảnh phức tạp đầy biến động của các phong trào chính trị ở Trung Quốc hồi thế kỷ trước, nhiều nhà văn Trung Quốc đã không giữ nổi nhân cách… thế nhưng Ba Kim hầu như không có kẻ thù. “Tình bạn là ngọn đèn trong cuộc đời, tách rời nó thì cuộc đời tôi không có ánh sáng; rời khỏi nó thì cuộc đời tôi sẽ không đơm hoa kết trái. Tôi không nói về tình bạn bằng những ngôn từ sáo rỗng đẹp đẽ. Mặc dù cuộc đời tôi sẽ nhanh chóng trở về với cát bụi, trái tim rực lửa của tôi vẫn cháy trong lòng bạn bè. Tình bạn giữa chúng ta không bao giờ có hồi kết” Đó là tuyên ngôn của Ba Kim về tình bạn. Cuộc hôn nhân của Ba Kim là câu chuyện đẹp về mối duyên trời định giữa nhà văn và người đọc. Năm 1936, ở tuổi 32, Ba Kim đã rất nổi tiếng và được rất nhiều người đẹp si mê, theo đuổi, trong số hàng chục bức thư tỏ tình ông nhận được mỗi ngày luôn có một lá của cô học sinh Trung học Tiêu San. Cô mạnh dạn hẹn gặp nhà văn trẻ và cuộc gặp này đã cuốn họ vào mối tình kéo dài 8 năm trời, cho đến khi làm lễ cưới đúng ngày 1-5-1944. Khi ấy Ba Kim 40 tuổi, còn Tiêu San thì 26. Họ đã có với nhau hai con, một trai một gái và sống bên nhau 28 năm hạnh phúc “không bao giờ nặng lời”. Trong những năm tháng động loạn, Ba Kim đã không biết bao lần giấu vợ chuyện mình bị đối xử tàn tệ và bà cũng không ít lần đưa đầu ra hứng thay chồng những cú quật bằng dây lưng. Cho đến tháng 7-1972, bà phải lên bàn mổ bởi chứng ung thư tá tràng trong tiếng khóc thống thiết của Ba Kim bởi ông đã cảm nhận được điều xấu nhất đã đến… Sau khi Tiêu San qua đời, Ba Kim đã đem hộp tro thi hài bà về đặt trong phòng ngủ bất chấp sự khuyên can của bạn bè và người thân. Là người giản dị và đầy nhân ái, Ba Kim đã di chúc tặng hết sách của mình cho thư viện các trường, ông thường xuyên dành ra một khoản tiền để tặng cho các cây bút trẻ thành công nhưng lại từ chối đề nghị lập ra giải thưởng mang tên mình. Thu Thủy Việt Báo (Theo Tiền Phong) https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn TUỲ TƯỞNG LỤC Kể ra, tôi đã qua cửa ải tám mươi rồi. Người ta ở đời, sống đến tám mươi không phải chuyện dễ. Lúc chưa tám mươi, tôi thường nghĩ: qua tám mươi, chắc có thể "làm theo ý mình" chăng! Theo cách tôi giải thích thì "làm theo ý mình" cũng chẳng qua là làm vài việc mình muốn làm. Với một ông già, nguyện vọng ấy đại khái không phải là yêu cầu quá đáng! Có điều, ngay một nguyện vọng như thế cũng không thể thực hiện được. Người ta không ngớt tìm đến nhà; có người quen kẻ thuộc, mà cũng có những bạn đọc chưa hề biết mặt. Họ đến liên tiếp vì "những chuyện vui buồn" khác nhau, lôi kéo tôi đi làm anh đánh trống thổi kèn cho rôm rả. Họ muốn tôi viết chữ, đề từ cho các loại sách báo, yêu cầu tôi đảm nhiệm chức vụ danh dự này nọ. Tôi đã nhiều lần giải thích: nhà văn thì nên gặp bạn đọc qua tác phẩm là hơn, không thể tách rời tác phẩm ra mà khoa chân múa tay với bạn đọc được. Tôi lại nói tôi không có quyền giáo huấn bạn đọc, cũng không dám ra lệnh cho ai làm theo lời mình nói. Từ thuở nhỏ, tôi không hề luyện thư pháp, lớn lên lại không dụng công. Chữ tôi viết, chính tôi xem cũng không thuận mắt, trông giống như quỷ vẽ bùa. Bảo tôi đề mấy chữ, có khác gì đưa tôi ra làm trò cười cho thiên hạ. Việc ấy thì tôi chịu, Nhưng một vài người cứ nhất định ép tôi và đã kết luận về tôi, nói rằng: tôi chẳng qua là một cái xác rỗng tuếch, chỉ có cái tên mà thôi! Ngoài việc đem cái tên ra lừa bịp người hoặc hù doạ người, thì vô tích sự! Những vị tìm đến nhà yêu cầu tôi làm những việc như thế, thì họ quyết định: "Cái xác rỗng tuếch ấy sắp xuống lỗ rồi, không lợi dụng, sẽ bỏ mất cơ hội cuối cùng", cho nên họ https://thuviensach.vn cứ lôi kéo tôi, không chịu thả ra. Còn tôi, tôi đành phải van xin họ: "Hãy để cho tôi viết vài bài văn thực lòng mình thôi! Giả sử chỉ vì cái tên mà sống thêm, thì chẳng còn có ý nghĩa gì nữa!". Quả thực, tôi không muốn như thế mà qua ngày đoạn tháng. Nhưng van xin, thoái thác, trốn tránh, có khi cũng không được. Tôi vẫn không thể không nhượng bộ, nêu tên mình chỗ này, ứng phó chỗ kia. Có kẻ cười tôi "không cam tâm yên lặng cho rồi!" Họ đâu có biết chính vì không được yên lặng mà phải khổ tâm... Có kẻ trách tôi "ôm đồm quá". Thật ra, ngoài viết Tùy tưởng lục, tôi chẳng làm việc gì nữa, vả lại, có làm cũng không làm được! Đương nhiên, tôi cũng không cam tâm để bất cứ ai bài bố cho tôi. Tôi tuy già rồi, lại bệnh tật, thiếu ý chí chiến đấu, nhưng tôi còn có thể suy nghĩ độc lập, thế thì sao tôi lại không lợi dụng kinh nghiệm thất bại của mình, tự bảo vệ lấy mình? Mất tiền học, cũng phải học được chút gì chứ! Tám mươi tuổi rồi, lẽ nào còn phải dạ dạ vâng vâng, lấy lòng người, chiều ý người, mà mình thì chịu thiệt? Đã không thể "làm theo ý mình" thì tôi không ngại mỉm cười, rồi đóng cửa mà dưỡng thân! Đó là kiểu"đánh trường kỳ" của tôi. Cứ như vậy, tôi tranh thủ từng chút thời gian mà viết Tuỳ tưởng lục. Tôi còn định viết một ít những cái khác nữa, có lúc quả thực khao khát lắm. Như thế là vì sao? Tôi tự phân tích: nhắm mắt xuôi tay, là hết, còn lưu luyến gì nữa? Có đấy! Đó là Tổ quốc tôi, đồng bào tôi, tôi thật muốn moi trái tim tôi ra cho họ thấy! Mấy chục năm qua, tôi sống không phải là uổng cơm! Tôi viết cả một chồng sách thế kia, không kể hay hay dở, rút cục tôi đã đem những điều mắt thấy tai nghe và những điều tôi cảm thụ viết ra, nhiều hay ít, tự tôi cũng không biết nữa. Người khác đã "kết luận" về tôi, tại sao tự tôi lại không làm một bản tổng kết? Có lẽ tôi không phải tham gia hội phê đấu nào nữa đâu, không ai có thể lại bắt tôi viết kiểm thảo. Tự tôi, tôi cũng không thể viết kiểm thảo nữa, tôi vốn đã viết những bản thảo hồ đồ rồi đó ư? Hãy vứt đi, quên đi là xong! Nhẹ nhõm biết bao! Nhưng nghĩ rằng tương lai sẽ có những bài bình luận, phê phán, nghiên cứu, sẽ có những lời đồn đại thất https://thuviensach.vn thiệt, tôi lại không thể làm thinh được. Nói thật tình, hai hôm trước đây, tôi lại nằm thấy một giấc mộng kỳ quái rất ghê sợ: mấy bộ mặt hung ác, dữ tợn, gần đây cứ quanh quẩn trước mặt tôi. Tôi biết hồi đó có một số người biến thành mãnh thú, sau đó, lại hoàn nguyên làm "người", mà lại xuất hiện với tư thế "nhà cách mạng"! Có thể đó là điều hay. Nhưng trong giấc mộng kỳ quái của tôi, những con người được hoàn nguyên làm "người" đó, khi làn "gió bất chính" nổi lên, càng ngày càng dữ dội, thì họ lại biến thành "mãnh thú". Tất nhiên, chúng ta không thể tin vào mộng mị, có điều hồi tưởng lại quá khứ, ghi lại một số kinh nghiệm, mặc dù không thành một bản tổng kết ra trò, đối với người sau, không phải không có ích. Tôi nhớ rất rõ câu nói nổi tiếng sau đây: "Người ơi! Người hãy cảnh giác!" Chính vì vậy mà tôi phải sống tiếp và viết tiếp https://thuviensach.vn Tôi nhớ một chuyện khác. Tháng mười năm ngoái, ở Hương Cảng, tôi nhận học vị danh dự của trường Đại học Trung văn trao tặng. Mấy hôm sau, trên một tờ báo hàng ngày địa phương, thấy đăng một bài đề là "Viết thật". Tác giả bài báo không tán thành bài "diễn từ khen ngợi tôi" của trường Đại học Trung văn. Ông ta dùng những điều tôi nói mà phê phán tôi, chế giễu tôi, chứng minh rằng tôi chẳng "kiên cường", "dũng cảm" gì cả! Nghe không vui tai chút nào, nhất là sau bài "diễn từ khen ngợi" dài kia; nó giống như bị một xô nước lạnh dội vào đầu, khiến tôi thấy khó chịu! Nhưng liền đó, tôi lại cảm thấy đầu óc đang nóng bừng của tôi tỉnh táo lại. Bài báo kia nói những chuyện trong "Văn cách"16, tôi không bao giờ quên. Tôi vốn nghĩ như thế này: quá khứ thì không thể xoá đi được, nhưng tương lai thì chúng ta có thể tạo ra. Không "kiên cường", có thể biến thành "kiên cường", không có "dũng khí" cũng sẽ tìm ra "dũng khí". Tóm lại là "sự tại nhân vi", do người làm ra cả. Tôi mắc nợ nhưng không định chạy làng; mắc nợ thì trả, trả xong sẽ chẳng nhẹ nhàng lắm sao! Tôi đề xướng nói thật, tranh thủ nói thật, chính vì sai mà phải nhận, nhận rồi thì sửa, cũng như có bệnh thì chữa, có chữa mới khỏi. Đúng là trên thế giới, cũng có người tự xưng "luôn luôn mình đúng". Họ nổi mụn nhọt, nhưng lại nói trên người họ nở hoa. Họ muốn kẻ khác nói những lời tốt đẹp. Tôi không muốn học theo họ... Nhưng năm ấy, tôi nhận được quá nhiều những lời giáo huấn thê thảm. Những ngày dài dằng dặc trong "chuồng bò", tôi luôn luôn cảm thấy người ta đem quả tim tôi bỏ vào vạc dầu, nấu đi nấu lại. Tôi nhớ hồi bé, khi thân phụ tôi qua đời, trong nhà thiết linh đường, rước hoà thượng về tụng kinh. Tôi phảng phất lại thấy bức vẽ "Thập điện Diêm vương" treo ở giữa phòng lớn, Theo truyền thuyết dân gian ngày trước, người ta chết rồi phải vào "Thập điện Diêm vương", bị tra khảo, thậm chí phải đi qua "Nại hà kiều" lên núi dao, bỏ vạc dầu, chịu mọi thứ hình phạt thảm khốc. https://thuviensach.vn Ở những nơi ấy, vong linh còn phải trải qua một lần nữa những điều gặp trong đời người, không phải là để "ôn lại giấc mộng cũ", mà là chịu thẩm tra nghiêm, làm rõ phải trái, ân đền, oán trả, sau đó mới "ăn cháo lú", cho quên hết mọi chuyện, rồi qua "Điện luân hồi", trở lại làm người! Tôi từng tin những điều nhảm nhí ấy, có điều chỉ trong một thời gian rất ngắn mà thôi! Bức vẽ "Diêm vương", do hoà thượng mang từ chùa tới, cất đi rồi thì tôi cũng quên luôn. Chẳng biết vì sao, sau 50 năm, tôi lại nhớ đến, nhưng lần này khác lần trước kia, tôi không thể không bước vào đó. Từ khi bị lùa vào "chuồng bò", các vị lãnh đạo, "quần chúng cách mạng", và cả tôi nữa, suốt ngày, ai ai cũng luôn miệng nói "trở lại làm người". Họ bắt tôi biến thành "bò", bắt tất cả những người sống giống như tôi biến thành "bò". Bây giờ, lại cần họ đến làm chức vụ Diêm vương, làm chức vụ đầu bò mặt ngựa! Mười năm hạo kiếp, thì mấy năm đầu ghê sợ nhất. Tôi thật giống như một du hồn bị đưa đến "Thập điện Diêm vương". Mỗi chuyện tôi làm trong quá khứ đều bị nêu ra từng cái, từng cái một, để bỏ tôi vào vạc dầu mà tra tấn, mà thay xương đổi thịt! Mười bức vẽ đưa vong linh đi qua điện Diêm vương, âm khí thê thảm, máu chảy đầm đìa, tôi không biết mình là người hay quỷ, là thú vật hay hồn ma, xuống âm ty hay là đã xuống địa ngục rồi?. Bấy giờ Tiêu San17còn sống, sáng dậy tôi mở mắt, nghe tiếng cô ta, thì tôi gọi, cô ta nói: "Không sống nổi nữa!". Nếu phải nói thật suy nghĩ của tôi ra, thì như thế này: không còn hy vọng, không còn tiền đồ, tôi không chịu đựng nổi Diêm vương đầy đọa tôi thường kỳ như thế này nữa rồi! Tôi chưa đi đến bước đường cùng, chỉ vì tôi không muốn từ biệt Tiêu San. Trừ tình cảm đối với Tiêu San ra, tôi đã bị nạn "sùng bái cá nhân", ép như ép dầu, ép mỡ, rút kiệt khô, chẳng còn gì! Còn đâu lòng tin và lý tưởng của thời trung niên? Còn đâu "đạo đức, dũng khí" gì gì? Một tờ "lệnh cưỡng bức" đưa ra, thế là tôi cam tâm biến thành "bò", còn đâu là "chiến sĩ kiên cường" nữa? Nói khoác chẳng được việc gì, người ta không có cách nào thay đổi bộ mặt thật của mình được. Tôi cũng vậy, tôi không muốn bôi son trát phấn lên mặt tôi, mà cũng không cần phải bôi nhọ vào cho thêm dơ bẩn. https://thuviensach.vn "Tự mình chửi mình không biết xấu hổ", không phải là điều đáng sỉ nhục; điều đáng sỉ nhục là tôi có nói thật hay không! Nhưng mà cái thời phải trái không phân biệt, người và quỷ lẫn lộn đã qua rồi. Trong hạo kiếp máu và lửa, từng đốt xương của tôi bị ném vào vạc dầu sôi, hàng trăm hàng nghìn lần, rõ ràng tôi không "ngã nhào", mà cũng sẽ không thể "ngã nhào" nữa, điều tin tưởng ấy thì tôi vẫn giữ được. Tôi không giấu là nhiều lần tôi bị "phái tạo phản" lôi lên bục bắt "ngồi máy bay phản lực"; tôi cúi đầu nhận tội, diễn đủ các trò hề! Có lần, tôi và một ông bạn nhà văn già phải quỳ trên sàn hội trường phân hội Liên hiệp các Nhà văn để tiếp thu những lời phê phán "phần tử cuồng loạn", của bọn học sinh "cách mạng". Ông bạn Tây Ngạn lần ấy bị đánh gãy hai cái răng cửa. Tình cảnh lúc bấy giờ rõ ràng trước mắt tôi như vừa xảy ra hôm qua. Tôi không hề xấu hổ, cũng không thấy bị sỉ nhục, tôi chỉ nghĩ: "điều sỉ nhục to lớn kia có lẽ là một thứ trừng phạt, hoặc giả là một thứ thù lao, cho cái thói sùng bái cá nhân" của tôi hồi đó chăng? Tôi bị tước quyền làm "người"; tôi làm, tôi chịu, còn nói năng gì nữa! Nhưng từ đó, tôi nghĩ ra điều này: Không thể để cho điều sỉ nhục to lớn kia lại đến với tôi một lần nữa. Bây giờ tôi chưa quên điều ấy. Rút cục, tôi có "dũng khí" hay không, có "kiên cường" hay không, hãy xem tôi có quyết tâm để cho bi kịch "Văn cách" tái diễn hay không? Tuyệt đối tôi không quỳ lần nữa trên sàn mà tiếp thu phê phán. Tôi định đem bài báo "Viết thật" làm tấm gương soi mình, nhưng tôi chẳng thấy được gì rõ ràng cả. Tác giả đem những người bị vũ nhục, bị "Văn cách" hãm hại và cả những người bị lừa trong cuộc lừa lớn "mê tín cá nhân" ra làm đối tượng công kích, phê phán, như người đứng bên này bờ sông nhìn lửa cháy bên kia sông, không chút quan tâm đến tấn đại bi kịch của Tổ quốc, của dân tộc mình. Cho dù ông ta không bị lùa vào "chuồng bò", không phải "ngồi tàu bay phản lực” thì chẳng phải là điều gì vinh quang! Văn chương của ông ta chỉ là vẽ rõ mặt mũi ông ta ra để cho thế hệ sau trông thấy mà thôi. https://thuviensach.vn (Trích, Tập Vô Đề) https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn MƯỜI NĂM, MỘT GIẤC MỘNG Hồi mười mấy tuổi, tôi có đọc cuốn tiểu thuyết Anh, do Lâm Cầm Nam dịch, có lẽ là cuốn Anh hùng Thập tự quân, trong đó có một câu tôi nhớ mãi: "Thân thể nô lệ thì đáng thương, tâm hồn nô lệ thì đáng bỉ"; đó là lời một công chúa nói với một kỵ sĩ. Do hiểu nhầm, chứ kỵ sĩ ấy không phải là nô lệ, dù là thân thể hay tâm hồn. Cuối cùng, hình như hai người thành vợ chồng, "hữu tình nhân chung thành quyến thuộc". Không phải cái kết cục ấy làm tôi thích thú, nhưng thật không ngờ một câu nói trong tiểu thuyết đã phản ánh đúng tâm trạng của tôi trong mười mấy năm hạo kiếp. Trải qua cuộc rèn luyện mười mấy năm ấy, tôi mới hiểu ý nghĩa từ "nô lệ". Những lúc hối hận quá, tôi từng nghĩ đến câu danh ngôn kia. Đối chiếu với tình cảnh của tôi lúc bấy giờ, tôi thấy rõ bản thân tôi hơn bao giờ hết. Trước kia, tôi cứ nghĩ mình thì có liên quan gì với hai chữ “nô lệ" chứ, nhưng rõ ràng tôi đã làm nô lệ suốt mười năm! Cuộc sống mười năm nô lệ ấy cũng hết sức phức tạp. Những người viết tiểu thuyết chúng tôi hay nói: "Sống với không sống, khác nhau xa lắm", Sự thật là như thế. Trước kia, hai nhóm từ "thân thế nô lệ" và "tâm hồn nô lệ", tôi hiểu qua loa, chỉ dừng lại ở mặt chữ. Thí dụ, khi viết cuốn "Gia đình", tả U Hoàng nói về Giác Tuệ, U cầu khẩn: "Bà lớn có linh thiêng hãy che chở cho cậu ấy", tôi nghĩ bụng như thế là "tâm hồn nô lệ". Lại khi viết đoạn đối thoại giữa Minh Phượng và Giác Tuệ; Giác Tuệ nói muốn cưới cô ta làm vợ, cô ta nói không được, và không đồng ý, dù cô ta nguyện làm "a hoàn" hầu hạ cậu ta suốt đời; tôi cũng cho như thế là "tâm hồn nô lệ". Trong "Văn cách", tôi bị phê đấu; một trong những tội của tôi là "xuyên tạc hình tượng nhân dân lao động". Có người đem U Hoàng và Minh Phượng ra làm ví dụ: đáng lẽ hai nhân vật kia phải đứng lên "tạo phản", đằng này tôi lại tả thành hai tên nô lệ trung thành, cúi đầu trước "kẻ thù giai cấp". Trước kia, tôi thường đọc lại và sửa chữa tác phẩm của tôi, đoạn tả hai nhân vật U Hoàng và Minh Phượng, tôi không thấy vấn đề gì to tát. Bỗng nghe phê phán, tôi cảm thấy có vấn đề, https://thuviensach.vn quả là nghiêm trọng thật. Lúc bấy giờ đang bí không tìm ra lối thoát, tôi hoàn toàn bị cái luận điệu của "phái tạo phản" chi phối. Tôi nghĩ bụng: "Tôi lớn lên trong gia đình địa chủ quan liêu, chịu sự giáo dục đủ các kiểu của gia đình cũ, xã hội cũ, luôn tiếp xúc với người trong gia đình cũ, xã hội cũ, nên rất có khả năng tôi nhìn người, nhìn việc với con mắt của địa chủ phong kiến". Càng nghĩ càng thấy "phái tạo phản" nói phải, càng nghĩ càng thấy mình có tội. Nói tôi là "hứa tử hiền tôn" của giai cấp địa chủ, tôi thừa nhận. Nói tôi viết "Dòng nước xiết”18là "dựng bia, lập truyện" cho giai cấp địa chủ, tôi cũng thừa nhận. Năm 1970, chúng tôi xuống lao động ba năm ở nông thôn, tôi bị lôi ra ruộng để cùng bị đấu với tên địa chủ ở đó, tôi cũng cúi đầu nhận tội. Tôi nghĩ: cho đến 23 tuổi, tôi vẫn dựa vào gia đình mà sống, tiền tôi mua bánh ăn hàng ngày là máu, mồ hôi của nông dân, bị phê bị đấu có gì không phải! Nhưng tôi năm 1970 và tôi năm 67-68 không còn là một người nữa. Từ tháng 9 năm 1966 trở về sau, dưới sự uy hiếp và lãnh đạo (có thể nói là lãnh đạo bằng roi da) của "phái tạo phản", tôi hoàn toàn suy nghĩ bằng đầu óc người khác; người khác gào: "Đả đảo Ba Kim!", tôi cũng giơ tay hưởng ứng. Cử chỉ ấy, nay nghĩ lại, tôi thấy không sao giải thích nổi. Nhưng hồi đó, không phải tôi giả vờ. Tôi thật lòng tỏ ý muốn người khác đả đảo tôi đến cùng, để tôi có thể làm lại từ đầu, trở lại làm người, làm một con người mới. Tôi quyết tâm chịu nhục để tự cải tạo. Thậm chí tôi đau khổ thật sự khi "phái tạo phản" không hiểu dụng tâm ấy của tôi. Tôi tự nhủ: "họ không tin mình, cũng chẳng sao, mình phải chịu đựng khảo nghiệm". Sau mỗi lần phê đấu, theo lệ thường "phái tạo phản" bảo tôi viết "thu hoạch". Bấy giờ đã mệt nhừ người rồi, nhưng nghe bảo phải nạp lên ngay, thì tôi liền phấn chấn, nghiêm túc trình bày những điều tôi suy nghĩ và thừa nhận rằng: những lời người khác phê đấu tôi đã đánh trúng khuyết điểm nguy hại của tôi, rằng phê đấu thật sự cứu vớt tôi, rằng "phái tạo phản" là cứu tinh của tôi! Thời kỳ ấy, tôi chỉ suy nghĩ theo những khẩu hiệu "phái tạo phản" thường gào lên và cái "chân lý” họ tuyên truyền lặp đi lặp lại. Tôi có cách suy nghĩ riêng https://thuviensach.vn của tôi. Nếu hỏi nữa, tôi chỉ còn có thể nói: "xin để cho tôi được sống". Sau năm 1969, tôi dần dần phát hiện ra rằng "chân lý" mà "phái tạo phản" bảo tôi tin, thì chính họ có tin đâu! Những điều họ nói bằng miệng không phải là những điều họ nghĩ trong bụng. Thật là kỳ quái: Ngày 23 tháng 5 năm 1969, học tập "bài nói" của Mao Chủ tịch, tôi viết "thu hoạch”, được tên cầm đầu ban chỉ đạo tổ chúng tôi hết sức biểu dương, treo lên cho mọi người xem, với lời mào đầu nói rằng: Tôi "đã thành tâm nhận tội và xin đi theo nhân dân". Thế mà hai ba hôm sau, không rõ trên nói thế nào, họ lại lôi tôi ra phê đấu, nói: Tôi giả vờ để người ta thương hại. Tôi bắt đầu thấy ai thật ai giả. Tôi viết thu hoạch đúng thời gian quy định, vận dụng "chỉ thị tối cao” mà tự chửi rủa. Nhưng rồi tư tưởng của tôi âm thầm chuyển hướng. Dần dần tôi lại có một phát hiện mới nữa: Tôi là một tên “nô lệ tâm hồn", một tên nô lệ tinh thần hết lòng hết dạ. Phát hiện ấy khiến tôi buồn bực, khó chịu. Tôi trăn trở, quằn quại. Tôi cảm thấy triết lý nô lệ như một sợi xích sắt quấn chặt người tôi. Tôi không còn là tôi nữa! Không có những suy nghĩ riêng, không dùng đầu óc mình mà suy nghĩ, người ta giơ tay, mình cũng giơ tay, người ta nói gì, mình nói nấy, mà lại làm một cách hứng thú. Như thế chẳng phải là "nô lệ tâm hồn" là gì? Khác với U Hoàng, khác với Minh Phượng trong tiểu thuyết, mặc dù họ giác ngộ không cao, nhưng họ biết thế nào là phải, thế nào là trái, U Hoàng không chịu "ở chỗ nhơ bẩn", Minh Phượng không chịu làm lẽ Phùng Lạc Sơn. Họ không phải là "nô lệ tâm hồn". Cố nhiên, họ tin số mệnh, tin có trời, nhưng họ không chịu cúi đầu khuất phục, họ cũng không suy nghĩ theo lý luận của cụ cố họ Cao. Họ tin số mệnh, nhưng họ cũng chống lại số mệnh. Họ không giống tôi năm 1967-1968. Lúc bấy giờ tôi không có tư tưởng phản kháng. Không có chút nào! https://thuviensach.vn Tôi không nhắc đến năm 1966. Tôi vào "chuồng bò" tháng 8 năm 1966, bị khám nhà ngày 10 tháng 919. Dạo ấy, tôi bị giày vò quá thể. Nghe tiếng đập cửa là toàn thân run bắn. Nhưng tôi cứ hy vọng người ta không đối xử với tôi như thế; đối với tôi, chắc người ta cũng phải khoan dung hơn. Người ta uy hiếp tôi chỉ là bề ngoài đấy thôi! Tôi thường tự hỏi thầm: "Thật như thế này ư?" Tôi cố níu lấy cái hy vọng sắp tuột mất. Tôi không thể không nghĩ như thế này: tuy tôi "có tội”, nhưng mấy mươi năm làm việc, ít nhiều tôi cũng có chút thành tích chứ! Tiếp theo, đến tháng Mười hai; tháng Mười hai ấy mới khủng khiếp làm sao. Một đòn rất nặng giáng vào đầu tôi, nó thôi thúc cho Tiêu San sớm ngã bệnh rồi không qua khỏi! Từng tốp, từng tốp Hồng vệ binh đến liên tiếp, trèo qua tường, xô cửa vào nhà, vật gì chưa niêm phong là tự ý lấy đi. Tối đến, ban ngày đến. Đêm khuya, tôi mệt mỏi quá rồi, phải nhẹ nhàng cầu xin chúng về đi cho. Ấy là không kể chuyện Tiêu San bị chúng quất dây da bịt đồng vào mặt! Tình cảnh như thế, phỏng tôi còn hy vọng nỗi gì? Từ đó, tôi không suy nghĩ, ngược lại, tôi toàn tâm toàn ý làm một tên nô lệ. Năm 1967 trở đi, tinh thần và diện mạo của tôi khác hẳn. Trong tâm linh tôi có cái gì tích luỹ được từ trước, tôi bỏ sạch. Tôi ưỡn ngực tiếp thu vô điều kiện mọi chỉ thị của "phái tạo phản". Về sau, tôi tự phân tích nói là ăn phải bùa mê thuốc lú, tôi bị thôi miên, nên không hay biết gì nữa. Kỳ thực, tôi chưa đào sâu đấy thôi. Trong khoảng hai năm ấy, những khi tôi thành khẩn bái mộ "thần linh", bên tai tôi lúc nào cùng văng vẳng một tiếng nói nhân từ: "Tin thần linh thì cả nhà sẽ được cứu". Nguyên là thuỷ chung tôi vẫn giữ trong đầu óc cái triết lý "bảo toàn tính mạng". Từ sau 1969, tôi thường nghĩ đến U Hoàng, so sánh U với tôi. U là một người thật thà, họ Viên, chúng tôi gọi U là "U Viên Viên". Mấy năm trước khi tôi và anh Ba tôi rời Thành Đô, U chăm sóc chúng tôi. U rất mến chúng tôi. Chúng tôi ra khỏi Tứ Xuyên không bao lâu, U xin thôi việc để về nhà, nhưng vẫn thường đến hỏi thăm tin tức chúng tôi. Thuỷ chung U rất quan tâm đến chúng tôi. Đầu năm 1971, tôi trở về Thành Đô lần đầu thì U đã mất rồi. Tôi không biết hỏi ai phần mộ của U ở nơi nào, kỳ thực tôi cũng không đến được trước https://thuviensach.vn phần mộ U, thắp nén hương cảm tạ U đã chăm sóc, quan tâm đến chúng tôi. Chỉ khi so sánh U với tôi, tôi mới biết tôi nợ U một tình thương sâu sắc bao nhiêu. U không phải là nô lệ, càng không phải là "nô lệ tâm hồn". Năm ngoái, tôi cố viết một đoạn trong hồi ký, nhắc lại chuyện hai năm ấy, nhốt trong "chuồng bò", tôi với đồng chí Vương Lỗ Ngạn, thái độ hai người khác nhau thế nào. Lúc ấy, tôi cho rằng mình có tội thì cách chuộc tội là thật sự cải tạo, cách cải tạo là cứ thực hiện đúng từng câu mọi huấn thị, mệnh lệnh, quyết nghị của "phái tạo phản". Lỗ Ngạn thì không phục. Ông ta luôn luôn tranh luận với người trong tổ giám đốc. Ông ta cho rằng có những sự sắp đặt không hợp tình lý, là có ý chỉnh người ta. Tôi thì lại cho rằng rèn luyện thì phải đau đớn, gian khổ, như thế càng có lợi cho cải tạo. Ngày nay nhìn lại mới thấy cách suy nghĩ của tôi thật là buồn cười! Tôi suy nghĩ theo những lời huấn thị của "phái tạo phản" nhưng lại đi đến kết cục của Đốtôiepski! Với "phái tạo phản", Đôt là một nhà văn "phản động", nhưng họ dùng mọi phương pháp, mọi thủ đoạn để bức bách tôi, cuối cùng cũng dẫn tôi theo con đường của Đốt. Điều đó cho thấy tư tưởng của mọi người rất hỗn loạn, chẳng ai đúng cả. Tôi nói thật đáng buồn cười, kỳ thực là đáng khóc. Tôi tự xưng là "trí thức", thì bị người ta cho là vì “phần tử trí thức" mà đối xử. Khi phê đấu, tôi vui lòng thừa nhận tôi là "quý tộc tinh thần", thực tế thì tôi là một tên "nô lệ tinh thần". Đến năm 1969, tôi tìm ra một vài khe hở. Những người cho chúng tôi là nô lệ, cầm roi da huơ huơ trước mặt chúng tôi, thật ra chúng chẳng có cái quái gì hết! Chúng không biết ngày mai chúng sẽ ra sao nữa. Có lẽ có người thấy tôi nghĩ như thế cho là kỳ quặc. Thật ra cũng dễ lý giải thôi! Mấy mươi năm tôi viết sách làm văn, cuối cùng còn có được một chút "trí thức"; bây giờ thì tôi biết rõ vì sao "lũ bốn tên" hận thù "trí thức" làm vậy! Dù chỉ với một chút "trí thức", "mày" cũng thấy được khe hở của "tao", huống chi là "phần tử trí thức", huống chi là có văn hoá! "Mày" có vũ khí để đối phó với "tao" ư? Không được! Với "mày", không xiềng xích, không xong! Kỳ thực https://thuviensach.vn vũ khí có thể giúp "mày" đấy, nhưng không, "tao" không yên tâm được. "Mày" có vũ khí thì "tao" không ngủ yên. Phải làm cho "trí thức" của "mày" bị gột rửa sạch trơn! Trong hai năm 1967-1968, tôi muốn đào cho sạch trơn chút ít trí thức của tôi đi, như quét rác trong nhà vậy. Nhưng không sao được. Quả nhiên, sau năm 1969, chút ít "trí thức" của tôi bắt đầu tác quái. Bùa mê thuốc lú mất dần hiệu lực. Tư tưởng của tôi bắt đầu hoạt động. Ngoài "phái tạo phản", bọn "cách mạng tả phái", còn có đội "tuyên truyền công nhân", "đại biểu quân đội"... Họ rất thích nói. Mỗi lời họ nói, mỗi hành vi, cử chỉ của họ, mắt tôi thấy cả, tai tôi nghe cả, tâm trí tôi ghi nhớ cả. Tư tưởng của tôi thay đổi, thay đổi rất chậm nhưng mà đang thay đổi, thay đổi trong nội tâm. Từ đó, tôi không còn là "nô lệ tâm hồn" nữa. Tôi bắt đầu cảm thấy "nô lệ tâm hồn” đáng khinh bỉ biết bao! Bề ngoài tôi vẫn như trước, tôi vẫn cúi đầu nhận tội. Nhưng tôi không thể nào suy nghĩ theo huấn thị của người khác nữa! Bỗng tôi phát hiện thấy xung quanh tôi là cả một cuộc lừa đảo to lớn. Tôi hoảng hốt, tôi đau khổ, tôi không tin. Tôi thấy ảo tưởng tiêu tan. Tôi đã lãng phí bao nhiêu thời gian quý báu. Nhưng tôi càng phải giữ gìn cẩn thận, bởi vì tôi sợ khi tôi thành tâm quỳ lạy trước sứ giả của "Thần linh" thì tôi tin tưởng, đến khi tôi thấy ra sự giả dối thì tôi lại hoảng sợ hơn. Bọn người hay nói những điều giả dối thì việc gì chúng cũng làm được! Dù thế nào tôi cũng phải bảo toàn lấy tính mạng mình. Tôi không tin rằng có thể cải tạo bằng khổ hạnh nữa. Trong trường hợp ấy, con đường của Đốtôiepski cũng không cứu nổi tôi. Tôi dần dần thoát khỏi tình trạng "tâm hồn nô lệ", trở lại tình trạng "thân thể nô lệ". Nói cách khác, tôi không phục tùng “đạo lý" nữa, tôi chỉ khuất phục trước quyền uy, cúi đầu trước vũ lực, nói những điều giả dối để được sống. Bây giờ tôi nhất định phải sống, để xem kết cục của chúng mày ra sao! Tôi lại nhớ năm 1966, tôi và Tiêu San, hai vợ chồng chúng tôi, nói câu này để cổ vũ nhau: "kiên trì rồi sẽ thắng". https://thuviensach.vn Tiêu San không còn nữa, nhưng tôi được trông thấy "lũ bốn tên" bị diệt vong! Đặt ra những điều giả dối, dùng những lời giả dối để lừa người, cũng dùng những lời giả dối để lừa mình, cuối cùng cũng bị người ta vạch mặt, bị toàn bộ nhân dân phỉ nhổ, bỏ rơi! "Lũ bốn tên" sụp đổ như vậy đó. Thời đại lấy "dã man" chinh phục "văn minh", dùng "vô tri" mà chiến thắng "trí thức", thời đại ấy cũng vĩnh viễn qua đi với "lũ bốn tên" rồi! Năm 1969, tôi bắt đầu ghi chép, học thuộc "Thần khúc" của Đăng-tơ, bởi vì tôi nghĩ rằng "chuồng bò" chính là "địa ngục". Tôi gột rửa được triết lý nô lệ là bắt đầu từ ấy. Không có ai hướng dẫn, tôi tự mò mẫm. Tôi nghiến răng chịu đựng mọi thứ giày vò, không phải để chuộc tội nữa mà để tìm cho ra phải trái. Tôi lần từng bước, từng bước, không sợ quỷ ba đầu sáu tay, không sợ hồn ma đen thui, không sợ nữ quái đầu tóc là một bầy rắn độc, không sợ sa mạc nóng bỏng... Kinh qua mấy năm khảo nghiệm, tôi thu hồi lại được niềm hy vọng đã mất, cuối cùng ra khỏi "chuồng bò". Không nhất định là tôi nhìn rõ người khác, nhưng tôi nhìn rõ bản thân tôi. Mặc dù tôi đã già yếu rồi nhưng tôi vẫn có thể suy nghĩ bằng đầu óc của tôi. Tôi còn có thể nói những lời thật lòng, viết được văn chương của chính mình. Tôi không còn là "tâm hồn nô lệ", cũng không còn là "thân thể nô lệ'' nữa. Tôi thật sự là tôi. Tôi trở về với thân thể tôi. Mười năm hạo kiếp ấy là một giấc mộng dài khủng khiếp làm sao! Trung tuần tháng 6-1983 https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn TÔI VÀ VĂN HỌC Bài nói tại "Diễn đàn văn hoá" ở Tôkiô Nhật Bản ngày 11-4 Tôi không thạo về khoa nói năng, lại cũng không quen diễn thuyết, cả đời tôi cũng chưa từng làm giảng viên. Lần này tới Nhật Bản, đến giảng đường Chiêu Nhật ở Tôkiô nói chuyện một lần về 50 năm đời sống văn học của tôi. Đó là một chuyện ngoại lệ, để đáp lại lòng tốt của các bạn đã mời tôi đến thăm. Tôi trước sau không bao giờ quên: trong Đại cách mạng Văn hoá, khi tôi bị liên quan đang bị phê phán, người quen ở trên đường gặp tôi cũng không dám nhận, các bạn Nhật lại đi khắp nơi nghe ngóng tin tức của tôi, đòi được gặp mặt tôi. Cũng có thể vì nhiều người hỏi đến tôi, nên "lũ bốn tên" mới không dám ra tay. Để các bạn Nhật hiểu biết tôi hơn nữa, tôi nói chuyện riêng của mình, cũng là để tự phanh phui. Chính vì tôi không thạo nói năng, có tình cảm gì cũng không diễn đạt ra được, nên mới phải nhờ đến giấy bút, dùng những tình tiết trong tiểu thuyết để giãi bầy sự yêu ghét của mình, từ một người đọc mà trở thành nhà văn. Năm 1928, tôi ở bên Pháp, viết xong bộ tiểu thuyết đầu tiên là "Diệt vong", gửi về nước, rồi các bạn tôi giới thiệu cho đăng trên một tạp chí có uy tín lúc bấy giờ là tờ “Tiểu thuyết nguyệt báo", và bước lên văn đàn một cách dễ dàng. Thế rồi sau đó khoảng một năm, tôi không còn phải tự mình viết xong lại gửi đi khắp nơi, Ban biên tập của Tạp chí đã tìm đến tôi để gom bài. Tôi chưa hề học qua văn học, sự rèn luyện về Trung văn cũng không nhiều, mặt mạnh duy nhất của tôi là đọc nhiều truyện. Các tác phẩm trong và ngoài nước, xưa và nay, hễ đến tay là đọc, đọc xong rồi cũng không quên hết. Trong óc tôi nhét đầy mọi thứ "tạp hoá". https://thuviensach.vn Tôi sáng tác, một là không phải để kiếm ăn, hai là không phải để nổi tiếng, tuy rằng tôi cũng phải ăn cơm, nhưng mãi tới năm 40 tuổi tôi mới lấy vợ, một mình tiêu pha chẳng hết bao nhiêu. Tôi sáng tác là để chiến đấu với kẻ thù. Cái đống "tạp hoá” kia có thể thành các loại vũ khí, khi tôi đánh nhau thì chẳng kể thứ vũ khí gì, hễ cứ dùng được, là tôi dùng liền. Hai hôm trước có một nhà văn Nhật Bản20hỏi tôi, ông làm thế nào mà cùng lúc lại có thể yêu mến các tác giả và tác phẩm thuộc các trường phái khác nhau? Tôi nói, tôi không phải là nhà văn học, không thuộc bất cứ trường phái nào, cho nên tôi không bị hạn chế. Người bạn ấy lại hỏi: "Rõ ràng ông đã viết ra bao nhiêu tác phẩm, tại sao ông lại bảo ông không phải là nhà văn học". Tôi nói, vì chính không phải là nhà văn học, nên tôi mới không bị hạn chế bởi quy tắc văn học, tôi cũng không lo người khác đuổi tôi ra khỏi giới văn học. Kẻ thù của tôi là cái gì? Tôi đã nói: "Tất cả những quan niệm cổ truyền xưa cũ, tất cả mọi chế độ bất hợp lý cản trở sự tiến bộ xã hội và sự phát triển nhân tính, tất cả những cố gắng để huỷ hoại tình yêu, chúng đều là kẻ thù lớn nhất của tôi. Tất cả những tác phẩm của tôi đều viết ra để tố giác, để phơi bày, để công kích những kẻ thù đó. Trong thời gian hai mươi năm, từ 1929 đến 1948, tôi viết rất nhanh và cũng viết được nhiều. Tôi cảm thấy như có một ngọn roi đang quất vào trái tim tôi, lại cảm thấy láng máng như có hồn ma, rồi lại cũng luôn luôn tuyệt vọng, gãi đầu bứt tóc. Tôi nói tôi viết cũng như tôi sống, lại cũng nói cái tầm cao nhất của tác phẩm là sự đồng điệu giữa sáng tác và cuộc sống, là sự đồng điệu của nhà văn với con người, ý chính ở đây là không nói dối. Gần đây tôi lại nói ở một nơi khác: Tầm cao nhất của nghệ thuật là không có kỹ xảo. Mấy chục năm trước, khi tranh luận với một người bạn, tôi đã từng nói: “Người sinh ra đã xinh đẹp thì chẳng cần phải tô son trát https://thuviensach.vn phấn, thế mà văn của tôi thì vốn như một người xấu như ma, xem ra không trang điểm, lại còn dễ coi hơn”. Ông bạn ấy bảo: "Nhưng tác phẩm lưu truyền lâu dài là nhờ vào kỹ xảo văn học, ai hơi đâu mà quan tâm đến lòng người, đến cuộc sống phản ánh trong tác phẩm và số phận của nhân vật. Đó cũng là sự chống lại với những lời lẽ ngon ngọt, ít xít ra nhiều, đảo lộn trắng đen. Tôi chúa ghét những lời giả mạo, lừa đời, bịp người. Trong hai chục năm đầu, tôi viết, và sau đó biên tập thành 14 quyển, gồm truyện dài, truyện vừa, truyện ngắn, trong đó có "Tam bộ khúc Dòng nước xiết", có "Vườn nghỉ” có "Đêm lạnh". Hai mươi năm lần thứ hai, nước Trung Quốc mới thành lập, mọi cái đều thay đổi, tôi muốn vứt bỏ cây bút cũ chuyên viết những gì đen tối, chuyển sang viết người mới việc mới, khốn nỗi vì không quen thuộc với cuộc sống mới, lại không dám thâm nhập, kết quả là tác phẩm viết ra đến ngay bản thân tôi cũng không hài lòng. Hơn nữa tôi lại thường xuyên tiêu phí phần lớn thời gian cho các hoạt động xã hội, cơ hội sáng tác lại càng ít. Hết lần này đến lần khác, tôi vạch kế hoạch, kêu xin lên trên, muốn phấn đấu để tranh thủ thời gian sáng tác. Thế nhưng kế hoạch đó chưa được thực hiện thì Đại cách mạng Văn hoá đến. Tôi bỗng trở thành "ác bá văn chương", "yêu ma quỷ quái", thường xuyên bị lôi ra phê đấu. về sau do "lũ bốn tên", qua quyết định của sáu người có trách nhiệm ở Thượng Hải là Vương Hồng Văn, Mả Thiên Thủy, Từ Cảnh Hiền v. v... đánh tôi thành tên "phản cách mạng không đội mũ cao", và đuổi ra khỏi giới văn nghệ. “Phái tạo phản” và tay chân của "lũ bốn tên" dán lên mấy nghìn tờ báo chữ to về tôi, thậm chí còn dán biểu ngữ ngay trên đường cái nói tôi là "quân bán nước", "phản cách mạng", cho tôi là thối tha. Trương Xuân Kiều tuyên bố công khai; tôi không được sáng tác nữa. Thế nhưng bạn đọc có cách nhìn của bạn đọc. Dù có quyền lực lớn hơn nữa, Trương Xuân Kiều cũng không moi được tôi ra khỏi trái tim của bạn đọc. Sự thực là như thế, sau khi "lũ bốn tên" sụp đổ, tôi vẫn được bạn đọc tin cậy. Tôi thường nói: "Sự trông đợi https://thuviensach.vn của bạn đọc chính là sự thúc giục đối với tôi". Các bạn đọc muốn tôi sáng tác, thì không cần phải chờ quan trên phê chuẩn". "Lũ bốn tên" đổ rồi, sách của tôi tái bản, lại có nhiều bạn đọc hơn. Tôi tuy có được "giải phóng lần thứ hai", nhưng rốt cuộc đã mất trắng gần mười năm thời gian, đúng là qua một cơn ác mộng, người đã hoá già nua. Năm nay tôi đã 76 tuổi, thời gian có thể làm việc được, không còn nhiều nữa. Tôi cần phải nắm chắc thời gian và cũng phải làm việc khẩn trương. Tôi vạch ra kế hoạch năm năm, tuyên bố phải viết tám quyển sách (trong đó có hai bộ tiểu thuyết dài) dịch năm cuốn hồi ký của Ghécxen. Lẽ ra tác giả viết tác phẩm, không phải để tuyên truyền đi mọi nơi, cứ viết ra là được, mà tôi khua chiêng dóng trống, gây dư luận lên như thế là mong người khác đừng quấy rầy, để tôi được ung dung cầm bút. Đây là lần cuối cùng tôi phấn đấu để giành thì giờ sáng tác. Tôi phải cầm bút lên, viết thật nhiều. Nhưng rốt cuộc là viết những gì? Năm quyển "Tuỳ tưởng lục" sẽ là kết quả khám phá trong cuộc sống. Tôi phải suy nghĩ thật tử tế, căn cứ vào kinh nghiệm của mình, nói lên cách nhìn của mình đối với nhiều vấn đề trong đời sống văn học. Hai cuốn tiểu thuyết sẽ phản ánh cảnh ngộ của bản thân tôi trong Đại cách mạng văn hoá, không hẳn là sẽ không viết cả những chuyện có thể xảy ra. Tôi cho rằng mười năm đại họa đó là một việc lớn trong lịch sử loài người, chẳng những dính líu đến chúng ta, theo tôi, còn dính líu đến tất cả loài người. Nếu như lúc đó không xảy ra ở Trung Quốc, thì về sau cũng sẽ xảy ra ở nơi khác. Tôi đã nói với một bạn Nhật Bản: "Chúng tôi gặp bước không may, thế nhưng bạn bè ở các nước khác lại tránh được một tai hoạ, chúng tôi cũng có thể được coi như một loại giáo viên phản diện". Tôi lại https://thuviensach.vn nói, "về mặt này, chúng tôi cũng có thể lấy đó làm kiêu hãnh. Các nhà văn xưa và nay ở trong nước và nước ngoài; ai đã có một sự từng trải" đáng sợ mà lại nực cười; kỳ cục mà lại đau đớn như thế? Lúc đó, các nhà văn Trung Quốc lại không một ai bỏ trốn, mỗi người đều ra biểu diễn, từng chịu xấu xa, bị thương tật, thậm chí còn bỏ mạng, nhưng cũng chịu được thử thách. Bây giờ, ngoái nhìn lại những điều đã nghĩ, đã làm của bản thân, và của người khác trong 10 năm đó quả thật không thể hiểu nổi. Bản thân tôi phảng phất y như bị thôi miên, trở nên ấu trĩ đến thế, ngu xuẩn đến thế, thậm chí coi tàn khốc, hoang đường là sự nghiêm túc, đứng đắn. Tôi nghĩ thế này: nếu như tôi không làm một cuộc tổng kết với cuộc sống gian khổ mười năm đó, bắt đầu từ cuộc triệt để phanh phui mình, làm rõ những sự việc xảy ra lúc đó, vậy thì có một ngày chưa biết chừng tình hình thay đổi đi một cái, tôi lại trúng phải thuật thôi miên, vô duyên vô cớ biến thành một con người khác, thế thì đáng sợ quá. Đấy là món nợ trong tâm linh, tôi cần sớm phải trả cho xong. Nó giống như một cây roi da quất vào tim tôi, phảng phất tôi lại gặp phải chuyện năm mươi năm trước. "Viết đi, viết đi!" Hình như có một tiếng gọi như thế luôn luôn vang bên tai tôi. Thế là tôi nhớ đến lời hứa của tôi với bạn đọc. Năm 1944, tôi dùng tiếng nói của bạn đọc để nêu ra yêu cầu với nhà văn: "Các anh đã lôi trái tim mọi người ra, để mọi người hiểu biết lẫn nhau, các anh đã đưa than đến trong đêm rét, mang sự an ủi vỗ về tới, giữa lúc người ta đau khổ". Tôi phải viết, tôi phải viết bằng ngòi bút hăng hái. Trước hết, tôi phải làm cho mình trở nên "hiền lành hơn một chút, trong sạch hơn một chút, có ích cho người khác hơn một chút". Tôi sắp bước tới đầu mút cuộc đời. Tôi không muốn xa rời nhân thế với hai bàn tay trắng, tôi phải viết, tôi quyết không dừng ngọn bút của tôi, để nó thắp cháy ngọn lửa, mạnh mẽ đốt cháy bản thân tôi, cho đến khi tôi thành tro bụi. Tình yêu của tôi, sự căm giận của tôi cũng không mất đi ở trên đời. https://thuviensach.vn Viết xong 1 giờ sáng ngày 9 tháng 4 tại Osaka. https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn TÊN CỦA TÔI Ở đây, tôi chỉ muốn nói đến bút danh của tôi, không phải cái tên cha tôi đặt cho để đi học. Cái tên ấy, là tên thật, đã bị cái bút danh kia đánh đổ, thay thế rồi..., đó là điều lúc đầu tôi hoàn toàn không ngờ tới. Mấy mươi năm nay, có người hỏi "Quý tính là gì", tôi vẫn nói tôi họ Lý. Nhưng người ta cứ gọi tôi là "Anh Ba", "Ông Ba", "Cụ Ba". Tháng 8 năm 1928, tôi viết xong cuốn tiểu thuyết "Diệt vong", trong phòng ăn trên tầng hai ký túc xá trường Trung học La Fontaine ở thị trấn Cháteau-Thierry, nước Pháp. Bản thảo trong năm quyển vở học sinh chuẩn bị gửi về cho người bạn ở Thượng Hải, nhờ anh ta lo cho việc in ấn. Trước khi gói lại gửi bưu điện, tôi sực nhớ ra rằng, mình không thể in tên thật của mình trên sách được. Để cho người ta biết tác giả là ai, tôi liền đề hai chữ "Ba Kim". Tôi bắt đầu dùng bút danh "Ba Kim" như thế. Đã nhiều lần tôi phải giải thích về cái tên ấy, nói rõ ý nghĩ của tôi lúc bấy giờ. Tôi thấy không cần nói thêm gì nữa. Thật ra, có nói thêm nữa cũng chẳng ích gì, người không tin cũng cứ không tin. Ngày nay, có mấy người nước ngoài đã viết về cái bút danh ấy của tôi rồi. Trước nay, tôi không phải là người hình thức chủ nghĩa. Tôi dùng bút danh là vì tôi giấu tên thật của tôi (cũng tức là con người thật của tôi). Tôi không thể hao phí tinh lực vào cái tên để biểu hiện mình. Kỳ thực, trước đó, năm 1922, tôi đã dùng một bút danh khác ký dưới những bài thơ và văn xuôi đăng báo. Có điều cái bút danh ấy, "Bội Can”, dễ để lộ mình ra. Vả lại, những cái đăng báo trước kia, tôi cũng không thích thú lắm. Hồi nằm dưỡng bệnh ở Château-Thierry, tôi có gửi cho người bạn Hoa Kiều ở Cựu Kim https://thuviensach.vn Sơn21đăng trên tờ nguyệt san "Bình đẳng", một số tạp cảm và những bài văn ngắn, trong đó có một số bài ký "Bội Can". Nhưng sau khi "Diệt vong" ra đời, tôi không dùng bút danh ấy nữa. Cuốn tiểu thuyết "Diệt vong" đăng trên tờ "Tiểu thuyết nguyệt báo", số tháng Giêng năm 1929, bốn kỳ liên tiếp, Nhưng bút danh Ba Kim lại xuất hiện lần đầu trên tờ Đông Phương tạp chí số 19, xuất bản tháng 10 năm 1928, Ở đây tôi phải kể về tôi một tí. Năm 1928, tôi nghỉ hè ở Château Thierry, sau đó đến Paris sống một thời gian, Một hôm, anh bạn Hồ Dũ Chi, đưa cho tôi xem cuốn "Bàn về Tolstoi", do Trosky viết, (bản dịch tiếng Pháp đăng trên tờ Thế giới). Anh muốn tôi dịch ra để đăng trên Đông Phương tạp chí nhân kỷ niệm lần thứ 100 năm sinh Léon Tolstoi. Vài ngày sau, tôi dịch xong, đưa cho Dũ Chi gửi về, bỗng nhớ đến cái bút danh mới kia. Không suy nghĩ, tôi liền ký vào bản dịch. Khi "Diệt vong” in ra, bọn các anh Dũ Chi mới biết tác giả là ai. "Diệt vong" đăng liên tiếp, được độc giả hoan nghênh, tôi mới có dịp lục tục in các tác phẩm của tôi. Tôi bước vào con đường văn học tương đối thuận lợi, tôi không gặp phải rủi ro; chỉ một lần ban biên tập tạp chí trả lại bản nháp một truyện vừa mà thôi. Truyện vừa ấy, sau tôi chữa lại, cũng tìm được nơi xuất bản. Cái bút danh ấy, tôi vốn định chỉ dùng một hai lần, thế mà tôi đã dùng nó hết lần này lượt khác... Các ông trong Ban biên tập thích những bút danh quen thuộc, những bút danh độc giả thường gặp, "Ba Kim" nhận được nhiều thư độc giả các nơi gửi tới. Tôi dùng bút danh ấy kết giao với không ít bạn bè mới. Lúc đầu, tôi còn có thể nấp sau tên thật của tôi mà sống như người bình thường, về sau tên thật bị bút danh đào thải, dù ai đó thừa nhận tôi là họ Lý, tôi cũng không thể an tâm được. Tôi nghĩ hà tất phải thắc mắc làm gì, con người ta sống ở đời, dùng tên gì mà chẳng được? Cho đến cuối năm 1933, cuốn tiểu thuyết "Manh nha" bị cấm, bút danh của tôi, ở Thượng Hải người ta kỵ huý, tôi mới phải dùng một bút danh khác, lúc đầu là "Dư Nhất" sau là "Vương Văn Tuệ" và "Hoàng Thụ Huy", lại "Âu https://thuviensach.vn Dương Kính Dung" nữa. Nhưng không bao lâu, ban kiểm duyệt sách báo Quốc dân đảng Thượng Hải bắt bỏ đi. Không biết bút danh "Ba Kim" từ đâu lại xuất hiện, nhưng phạm vi hoạt động bị thu hẹp trong vòng sách báo, do đó người nhận ra Ba Kim, không nhiều lắm. Trong mười bảy năm, sau ngày Giải phóng, tôi tham gia hoạt động xã hội tương đối nhiều, không có cách nào nấp sau cái tên thật của mình mà sống thanh nhàn một chút. Chính bản thân tôi cơ hồ cũng quên là mình có một cái tên thật. Cái tên thật ấy chỉ dùng để ghi trong hộ khẩu mà thôi. Những năm này, tôi viết ít, nhưng người biết tôi ngày càng nhiều. Thông qua bút danh, người gắn liền với tác phẩm, Tôi đi đâu, người ta cũng nhận ra tôi là tác giả tác phẩm này, tác phẩm nọ, có kẻ khen, có người chê. Tôi cảm thấy mình bị gò bó, phảng phất như ba bề bốn bên con mắt người ta đang nhòm ngó từng cử chỉ, từng hành động của mình. Họ dùng những câu tôi viết trong sách mà đánh giá lời lẽ, hành vi của tôi. Nói thật lòng, có một thời gian, tôi muốn thay đổi tên đi, để cho người ta không nhớ đến mình nữa. Thế rồi, phong trào "Văn cách" nổi dậy. Bây giờ, nhắc lại những ngày ấy, tôi không rét mà cứ run lên. Tôi cũng không thể nói cho rõ tôi đã làm thế nào mà sống được. Thượng tuần tháng tám năm 1966, tôi ở Thượng Hải tiếp mấy vị khách nước ngoài đến dự Hội nghị Á Phi họp khẩn cấp ở Bắc Kinh về. Khi trở lại cơ quan để học tập cảm thấy có một sự thay bậc đổi ngôi, đang là vị khách ở trên nhà trên biến thành thằng tù ngồi dưới thềm. Lại nhìn thấy tờ báo chữ to phê phán tôi: Trước mặt là biển cả, sau lưng lính tráng đang đuổi theo, trên đầu treo lơ lửng một thanh kiếm sắc sắp rơi. Tôi chỉ muốn cứu lấy cái mạng của tôi, nhưng không biết thoát ra bằng lối nào. Lúc đó, tôi nhận được một bức thư độc giả gửi tới, nói rằng "không cần đến cái bút danh của tôi nữa", "tôi cũ rích, tôi là đồ cổ", "tôi sùng bái nước ngoài, phải đập cho nát ra". Tôi hãi quá, vội trả lời, tỏ ý đồng tình; từ nay về sau nhất thiết không dùng nữa. Tôi hoàn toàn không thể suy nghĩ độc lập https://thuviensach.vn được, trong đầu óc chỉ có bốn chữ "Tội ác sâu nặng". Có lẽ đầu óc tôi đơn giản, cho rằng cái tên có một tác dụng ghê gớm, Tôi tính toán làm sao cho được như ý muốn, nên nghĩ rằng bỏ quách cái áo khoác nhà văn đi thì có thể trở lại làm người! Đều vô ích! "Phái Văn cách", "phái tạo phản" cần cái tên đen của tôi làm tấm bia cho mũi tên hòn đạn của chúng. Chúng không chịu gạt bỏ đi, trái lại, đi đâu chúng cũng tuyên truyền cho nó, những việc tôi làm, những lời tôi nói, dán khắp khẩu hiệu đả đảo tôi. Trên đường phố thì dựng một tấm bảng lớn chuyên phê phán tôi, ở xưởng máy và nhà trường thì mở hội "du đấu"22tôi. Ở hội nghị phê đấu, sát khí đằng đằng, người ta muốn "đạp nát" cái đầu "chó" Ba Kim. Bản thân tôi cũng theo mọi người, giơ tay lên, hô to khẩn hiệu "Đả đảo Ba Kim". Hết tháng này sang tháng khác, hết năm này qua năm khác, tôi không ngừng viết "kiểm thảo", viết "trình bày tư tưởng", cứ lặp đi lặp lại những câu như nhau. Tôi chán quá, không suy nghĩ nữa, mặc kệ nó muốn ra sao thì ra... Mười năm qua đi, tôi vẫn là Ba Kim, không thay đổi được bút danh, cũng không thể gác bút được. Xem ra, tôi không cần phải phí sức vì nó nhiều hơn nữa. Hôm nay, tôi đón năm tôi lên tám mươi ở trong bệnh viện. Không còn dài ngày nữa thì tôi càng nên quý trọng gấp bội. Viết thêm được chữ nào thì lưu lại được chữ ấy, là "bò" hay là "người", họ Ba hay họ Lý, hãy để cho người đời sau bàn luận. Ngày 29 tháng 11 năm 1983 https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn NGÔI NHÀ CŨ CỦA TÔI Tháng chín năm ngoái, nhà văn Nhật Bản, ông Thủy Thượng Miễn sau khi tham quan Thành Đô về, có ghé qua Thượng Hải. Tôi tiếp ông ở nhà riêng. Ông nói với tôi là ông có đến xem ngôi nhà cũ của tôi, chỉ thấy một gốc cây khô và một khoảnh vườn trống. Ông không rõ cây ấy là cây gì. Ông vỗ nhè nhẹ vào vỏ cây sần sùi, tưởng tượng những gì đã xẩy ra. Ông Thuỷ Thượng là bạn tôi. Đúng như ông nói: sức mạnh văn nghệ đã gắn bó hai chúng tôi. Năm 1963, tôi đến nhà ông ở Đông Kinh, thăm ông, chúng tôi hứng thú nói chuyện về vị Tổ thứ sáu Nam Tông, Huệ Năng23. Năm 1979, tôi lên Bắc Kinh dự hội nghị, nghe nói ông và Tĩnh Thượng Tịnh sang tham quan, rồi liền đến khách sạn Bắc Kinh, thăm hai ông. Tôi nói cho ông biết tình hình sau khi hai chúng tôi từ biệt nhau năm xưa. Năm 1980, tôi sang Đông Kinh lần thứ Tư. Một buổi sáng mùa xuân trong trẻo, chúng tôi ngồi ở khoảnh vườn nho nhỏ còn giữ phong vị Nhật Bản, ở khách sạn Tân Đại Cốc, nói chuyện về đời sống văn học, và quan niệm nghệ thuật, suốt cả buổi sang. Cái hộp đựng các bức ảnh để trên giá sách của tôi bốn năm nay thường làm tôi nghĩ tới tình bạn của nhà văn Nhật Bản ấy. Ông Thuỷ Thượng về nước không bao lâu thì Hội Liên hiệp giao lưu văn hoá Trung - Nhật gởi cho tôi bài "Thăm ngôi nhà cũ của Ba Kim". Đọc bài ông, tôi phảng phất như trở về cố hương mà tôi đã từ biệt năm 1929. Con mắt ông nhìn thấy những gì tôi muốn biết, kể cả con phố rộng thênh thang, ngôi nhà lầu ngay ngắn... Lại cả gốc cây khô "trơ trụi lá" ấy nữa. Trong ký ức tôi, không hề có cây khô ấy. Ngày trước, ở cái thiên tỉnh nhỏ ở cổng hoặc ở căn phòng bọn đầy tớ ở, không có cây. Có thể sau khi tôi đi rồi, người ta mới trồng. Tôi xa nhà https://thuviensach.vn đã sáu mươi năm nay, mấy tháng trước, chú em tôi đi công tác Thành Đô, tranh thủ đi qua "ngôi nhà cũ", có trông thấy hai cây ngân hạnh lớn. Tựa hồ chú ấy có nhận ra phòng đầy tớ ở ngày cũ, nhưng chú ấy cũng không nhớ có hai cây ngân hạnh. Hồi tôi vào nằm viện lần thứ hai, có người đưa cho con gái tôi mang vào tờ "Phú Xuân giang hoạ báo" của tỉnh Triết Giang vừa xuất bản, trong đó, chọn in một số tranh sơn dầu của các hoạ sĩ Tứ Xuyên. Có một bức đề là "Nhà cũ Ba Kim" của đồng chí Hạ Đức Hoa. Trong bức tranh này, đúng là có gốc cây già trơ trụi lá. Nó không giống gốc cây khô, to bằng bắp vế mà ông Thuỷ Thượng trông thấy. Có lẽ đó là một trong hai cây ngân hạnh mà chú em tôi thấy chăng. Trong đầu óc, tôi không có một ấn tượng nào, nên không phán đoán được. Nhưng tôi muốn được sờ đám đất ở đó mọc lên gốc cây to kia biết bao nhiêu! Tôi muốn được như ông Thuỷ Thượng vỗ vỗ thân cây thô tháp, xù xì kia biết bao nhiêu! Nằm trong bệnh viện, nghe nói nữ sĩ Tả Đằng Thuần Tử cùng sang Trung Quốc tham quan với ông Thuỷ Thượng, có đến Thượng Hải, tôi nhờ người đi tìm, yêu cầu nữ sĩ đưa bức tranh kia lại cho ông Thuỷ Thượng. Sau đó, tôi lại nhận được bài thứ hai của ông Thuỷ Thượng "Tìm thăm nhà cũ" cắt ở bức hoạ báo, do nữ sĩ Tả Đằng chuyển. Tôi theo bước chân ông Thuỷ Thượng trở về ngôi nhà cũ ở Thành Đô, nhưng không thấy những nơi và những cảnh vật quen thuộc. Tôi nhớ, tháng 4 năm 1980, ở Đông Kinh, gặp ông Tri Điền Chính Hùng, người cùng đoàn du lịch từ Thành Đô về. Ông ta cho tôi một xấp ảnh chụp ngôi nhà cũ của tôi. Những bức ảnh này sau đăng trên tạp chí "Dã thảo". Trong ảnh, tôi thấy, có cái giếng đó là có thực, và là "dấu vết cũ" duy nhất mà ông Trì Điền chụp. Tôi nhớ cái giếng ấy, vì trong cuốn tiểu thuyết "Thu" của tôi, Thục Trinh nhảy giếng tự tử, chính là cái giếng này. Năm 1958, trong bài "Bàn về sáng tác cuốn Thu", tôi có viết như sau: "Ngày nay nó còn ở nguyên chỗ cũ. Tháng 12 năm kia, tôi có về đó một lần. Tôi từ biệt cái giếng ấy đã 33 năm, nó vẫn cũ kỹ như trước kia. Cạnh bờ giếng có một cây https://thuviensach.vn tùng, trên thân cây có một cành cụt, xù xì, ấy là chỗ người đầy tớ nhà tôi ra gánh nước thường mắc đòn gánh. Cây tùng giống như một người bạn cũ trung thành, ngày nay vất ở cạnh bờ giếng. Nhưng trong tấm ảnh ông Trì Điền chụp chỉ có cái giếng trơ trọi, chẳng hay cây tùng đã bị đẵn đi lúc nào? Ông Thuỷ Thượng không trông thấy cái giếng, có lẽ người ta không dẫn ông đến xem, hay là giếng bị lấp rồi. Dù sao, quá khứ vẫn là quá khứ, thời cũ và những di vật của nó, thì hãy chôn hết vào lãng quên cho rồi! Nhưng tôi còn muốn nói về ngôi nhà cũ của tôi. Tháng 5 năm 1923, tôi từ biệt ra đi, năm ấy ngôi nhà chưa có gì thay đổi. Đôi ang to tướng trước thềm ở cổng, thanh gỗ ngang bọc sắt ở bậc cửa, câu đối gỗ chữ đen trên nền đỏ ở tường: "Quốc ân gia khánh", "Nhân thọ niên phong". Tôi đã đưa tất cả những cái đó vào cuốn tiểu thuyết "Gia đình" của tôi. Cái công quán họ Cao trong bộ tiểu thuyết ba tập "Dòng nước xiết", tôi cũng tả ngôi nhà cũ của tôi. Cả hai "vị thần giữ cửa, tay cầm đại đao, đầu đội trời, chân đạp đất, sơn xanh đỏ" trước cổng lớn ngôi nhà tôi. Khoảng năm 1924, khi tôi ở Nam Kinh, thì Thành Đô mở đường lớn, cổng nhà tôi phải lùi vào; kết quả: không còn đôi ang đá, sư tử đá, câu đối gỗ nữa. Mặt cổng mới, tôi chỉ thấy một tấm ảnh lờ mờ không rõ. Nghe nói hai bên, còn có hiệu buôn, trong ảnh, cũng không thấy. Tôi bắt đầu viết bộ "Dòng nước xiết" năm 1931, lúc đầu không có kế hoạch gì to tát, nghĩ gì viết nấy, không ngờ đã tả công quán họ Cao giống như ngôi nhà của chúng tôi, lại là ngôi nhà tôi đã nhìn quen, trước khi xây cổng mới. Từ cổng đi vào, qua vòm cổng, qua thiên tỉnh, đến cổng thứ hai, lại qua thiên tỉnh, lên đại sảnh, đi vòng cửa ngách, lại qua thiên tỉnh trong, lên nhà chính và đi vào các phòng. Qua mé nhà bên trái, qua con đường tắt là đến phòng của Giác Tân; đi vào phía trong, một bên là vườn hoa, một bên là phòng nơi đầy tớ ở và bếp, rồi mới đến phòng của Khắc Minh. Men theo cửa sổ phòng thứ ba, đi qua một cửa nhỏ là Quế đường, sau Quế https://thuviensach.vn đường là vườn trúc. Tất cả những cái ấy đều tả theo sự thực. Trong tiểu thuyết chỉ có vườn hoa là tôi tưởng tượng ra thôi. Bấy giờ tôi lấy công quán của chúng tôi làm bối cảnh, chẳng phải là có ý tuyên truyền cho nó, mà chỉ là vì tôi không vạch kế hoạch tỉ mỉ. Nếu như trong trí óc không có một mô hình nào, thì thế nào cũng tả trước quên sau, trái ngược lung tung, độc giả chẳng biết đâu mà lần. Về vườn hoa, nhà cũ của chúng tôi chỉ có đoạn tả cảnh phía ngoài cửa sổ, thì có thể thấy cái giếng và cây tùng. Vườn hoa của chúng tôi nhỏ thôi. Phần lớn các bộ phận khác ở phía cổng trong, cảnh vật đều thực, tôi cũng miêu tả trong một cuốn tiểu thuyết khác "Tức viên" vườn nghỉ, Cho nên gần đây tôi có nói với ông bạn Nhật Bản, Thông Khấu đi tham quan Thành Đô rằng: "Đến Thành Đô, ông chẳng nên tìm nhà cũ của tôi làm gì, ông cứ lấy các phòng tả trong "Gia đình" và cái vườn hoa tả trong "Tức viên" ghép lại, là ngôi nhà cũ của tôi đó". Tôi xa nhà, mười tám năm sau mới trở lại Thành Đô lần đầu. Một buổi chiều, tôi đi trên con đường quen thuộc tìm dấu vết của tôi, bạn lứa ngày trước, chẳng biết họ tản mát đâu hết cả. Một bức tường cao vút vô tình chắn ngang trước mặt tôi. Người gác cổng ra nhìn tôi, với cặp mắt hoài nghi. Cạnh cổng lớn vừa mở ra, tôi thấy trên tường trắng xoá có một bức vẽ hình tròn, trên khảm bốn đại tự chữ triện đỏ chói: "Trường nghi tử tôn". Bức tường ấy vốn có mười tám năm trước. Tôi không làm sao xem lại những cái khác được nữa. Nghe nói nơi này là nhà ở của Lưu Triệu Lê, Trưởng Bảo an đương thời. Bức tường ở cổng có đề hai chữ đại tự "Lê các". Tôi đi qua trước cổng "Lê các" mấy lần, nhớ lại những chuyện ngày trước. Về sau, tôi viết thiên tản văn "Ánh đèn Ai - Nhi - Khắc". Đó là đầu năm 1941. Năm 1942, tôi về Thành Đô chữa răng, ở lại khoảng ba tháng, không đến đường Chính Thông Thuận lần nào, nghĩ bụng từ nay về sau mình không nên đến đó làm gì nữa!. https://thuviensach.vn Tháng 12 năm 1956, sau Giải phóng, tôi trở về Thành Đô lần thứ ba. Nghe nói ngôi nhà cũ của tôi bỏ trống, chẳng ai ở cả. Một hôm, ngồi chuyện gẫu với đồng chí Lý Tông Lâm, bấy giờ ông giữ chức Thị trưởng Thành Đô. Ông ta hỏi tôi: "Ông có muốn đến đó xem một chút không? Tôi nói: "Xem lại một chút cũng hay". Ngày hôm sau, ông ta đưa xe hơi đến Chiêu đãi sở, bảo tôi đi đến đường Chính Thông Thuận. Hôm ấy, có cô cháu gái đang cùng tôi ngồi nói chuyện, cùng đi. Vẫn là cái cổng có hai chữ "Lê Các". Phía trong cổng có cửa lắp kính màu, không còn thấy bức vẽ "Trường nghi tử tôn" đâu nữa. Cũng không thấy vườn hoa. Cổng trong vẫn còn. Đại sảnh vẫn còn. Cửa giữa vẫn còn. Nhà chính vẫn còn. Các phòng nhỏ vẫn còn. Phòng của anh Cả vẫn còn. Quế đường ở phía sau vẫn còn. vẫn còn hai cây quế, cả cây hương xuân. Vườn trúc ở sau Quế đường hình như vẫn giống hồi tôi ra đi. Sau đó tôi đi qua cái cửa nhỏ cũng trở ra, đi qua cửa sổ phòng chị Ba, đi qua con đường hẹp đến tam cấp lên phòng anh Cả, đến căn nhà nhỏ cửa sổ lắp kính. Cái nhà nhỏ lắp kính, trong Dòng nước xiết không có. Ngôi nhà cũ của tôi, không hề có căn nhà đó. Tôi còn nhớ năm anh Cả tôi cưới vợ, thầy tôi cho chữa cái chái bên trái căn phòng chúng tôi thường gọi là "phòng đóng dấu" thành ba phòng nhỏ, có hai phòng mở ra con hẻm ra vườn, để cho anh Cả ở, có một gian rất gần cửa ngách mở về phía thiên tỉnh trong, để cho anh Ba tôi và tôi ở. Hai ba năm trước, khi tôi ra đi, anh Cả tôi đã có con, không đủ chỗ ở, thầy tôi lại lấy hai khoảng đất nhỏ bên phải, bên trái thềm ở cổng trong xây thành một gian nhà nhỏ, cửa sổ ô vuông, lắp kính cho anh Ba tôi và tôi ở bên trái, còn gian bên phải bỏ trống. Căn nhà là cánh cửa kính, đối diện là cửa bé của cổng trong cửa sổ con và mặt nữa là vườn hoa. Cổng trong là hành lang sang dãy nhà đối diện. Ngoài con đường đi vào cửa chính, còn có cửa bên phải, bên trái. Về cái cổng trong, trong cuốn tiểu thuyết "Gia đình", tả cảnh lễ mừng thọ cụ cố họ Cao, có đoạn như sau: Chỗ phía trong cổng trước, bố trí cái sân khấu rất đẹp để hát tuồng... Trên đại https://thuviensach.vn sảnh, phía ngoài bộc cửa, lấy vải xanh che làm chỗ đào kép hóa trang", về sau, căn nhà nhỏ lắp kính chính là bên trái, bên phải sân khấu. Tôi phảng phất như vừa qua một giấc mộng dài. Tôi đã trở về với ngôi nhà tôi ở khi mới mười mấy tuổi. Tôi còn nhớ đêm khuya, tôi ở đó nghe anh Cả trên đại sảnh lần mò đến cái kiệu, đánh vỡ cửa kính. Tôi thất vọng lấy bút viết mấy câu tỏ ý phẫn nộ, nắm tay chà đi xát lại trên bàn. Tôi thề phải trả thù chế độ phong kiến. Giống như anh Cả còn ở đó nói với tôi điều gì. Giống như ông nội vừa ho, từ phòng bên phải đi sang, qua nhà chính. Giống như dì em cầm tay đứa con nhỏ vừa khóc vừa chửi đi lên. Giống như bà nội không biết từ đâu đi ra, vừa đánh vừa mắng, và tiếng khóc của con Sen. Giống như thế là tiểu thuyết ba tập mười năm để viết ra hiện lên trước mắt tôi. Đồng chí Lý Tông Lâm bảo người cùng đi theo, chụp cho tôi mấy pô ảnh. Tôi đứng dưới cửa sổ căn nhà nhỏ lắp kính; tôi đứng trước cửa sổ phòng ông tôi...; cùng họ trò chuyện; tôi đi qua mấy gian phòng trống rỗng; tôi đi qua thiên tỉnh. Tôi phảng phất nghe âm thanh của thời cũ, thấy lại hình bóng thời cũ. Trời tối dần. Tôi không dừng lại trước cửa chính, cũng không tìm ra nơi bọn đầy tớ ở, là nơi tôi thường lui tới thời còn thơ ấu. Tôi đi ra khỏi ngôi nhà cũ, ở đó chuyện thực và chuyện mộng, quá khứ và hiện thực trộn lẫn vào nhau. Tôi nghĩ bụng, sau này có trở về đây, nói thực lòng tôi không thể lưu luyến chốn ấy, đó là cái mồ chôn bao nhiêu điều tôi hồi ức. Tôi phải khai quật nó lên. Nhưng muộn lắm rồi. Năm 1960, tôi trở về Thành Đô lần thứ Tư, lại đến đường Chính Thông Thuận ngay: cái "Lê các" cũng không thấy nữa. Lần này tôi lưu lại một thời gian khá lâu, sáng sớm thường đi tản bộ đến con đường này, đi đi lại lại trước nhà ở của một đoàn Văn công bộ đội, nghe nói xây trên nền ngôi nhà cũ của tôi. Không tìm ra dấu vết của ngày cũ, tôi cũng chẳng buồn. Cây khô đã bị đào gốc rồi, nhưng những lời tôi tố cáo chế https://thuviensach.vn độ phong kiến và những cái đồi bại phong kiến để lại không thể cùng tồn tại với thời cũ, và cũng không hề tiêu vong cùng ngôi nhà cũ của tôi. Ngày 6 tháng 2 năm 1984 https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn NHỮNG CƠN ÁC MỘNG CỦA TÔI Trong mười năm "Văn cách", tôi bỏ phí không biết bao nhiêu thời gian quý báu, lại mang di chứng vào người. Hai hôm nay, vừa sáng sớm, anh con rể tôi ở cùng tôi trong phòng bệnh đỡ đần tôi, nói: "Đêm qua, ông lại la hét". Nó đã ba lần nói như vậy, tức là ban đêm, tôi toàn thấy những cơn ác mộng. Đời tôi, tôi nằm mộng luôn, nhưng thấy ác mộng thì nhiều nhất là thời "Văn cách", bây giờ nên nói thêm: và sau "Văn cách". Nói như vậy không phải là tôi không buông tha "Văn cách", mà trái lại "Văn cách" không buông tha tôi! Trong một thiên "tùy tưởng" trước, tôi có kể tôi thấy đánh nhau với quỷ quái, lăn từ trên giường xuống đất như thế nào. Rồi lại kể chuyện tôi nhầm chiếc xe tôi tập bước với cái cối xay gió của Đông Kisốt như thế nào. Trong mộng tôi còn bị quỷ quái bao vây, tấn công, mà không sao kêu lên được. Đáng sợ hơn là tháng năm năm ngoái, tôi ra viện lần thứ nhất, về nhà, thì cảm sốt. Nửa đêm tỉnh dậy, nằm trên giường mà nhìn thấy cảnh mộng ở phía ngoài phòng. Vợ chồng con gái tôi ngủ ở hành lang gác hai để săn sóc tôi, nghe tiếng tôi la hét, hốt hoảng chạy vào, hỏi vì sao tôi gào lên như thế. Tôi ú ớ, như tỉnh mà cũng như mê. Tôi nhận ra chúng nó, mà lại giống như cách tuyệt với chúng nó, bốn phía có hàng rào bao vây, không sao gần chúng nó được. Tôi sợ chúng nó đi ra, sợ đèn tắt, sợ trong bóng tối lại nghe tiếng hổ gầm, sói rú. Tôi nói "trở mình", kỳ thực muốn nói "cứu với", nhưng phát âm không rõ. Hàng rào đao kiếm bốn bên liền biến mất. Tôi mệt nhoài, nhắm mắt lại, bọn con lại tắt đèn yên tâm để tôi nằm nghỉ. https://thuviensach.vn Nửa đêm hôm sau, đang nằm trên giường tôi lại hét lên, thấy Hồng vệ binh trèo qua tường, đập phá cửa kính, xông vào nhà, lấy thắt lưng da quật! Mấy ngày liền thấy đủ thứ ác mộng, những việc trước kia lại hiện lên trong giấc ngủ. Chuyện bi thảm của người khác lại cũng tập trung vào mình tôi!... May mà thuốc hiệu nghiệm, cơn sốt lui nhanh, mỗi ngày lại có thể ngủ yên ba bốn tiếng. Tôi cũng dần dần có hy vọng sức khoẻ hồi phục. Nhưng đấu tranh với ác mộng, tôi chỉ thấy thất bại mà thôi, Không nói nằm mộng, ban ngày nghe tiếng động, tôi vẫn run lên. Có một thời gian, khoảng bốn năm năm, để phê đấu tôi, người ta lập ra các thứ tổ chuyên án, nào là "tổ phê Ba", "tổ đấu Ba", thành viên điều tới điều lui, cũng chỉ ba bốn người ấy, cứ thấy mặt là tôi đã chán ngấy rồi. Tôi than thở với Tiêu San. Trước mắt tôi, chúng cố ý tỏ ra như là loài "thú". Tôi cảm thấy ngày nào đó chúng nó sẽ nuốt sống tôi. Quả nhiên tôi nằm mộng thấy chúng mọc lông khắp người, há hốc mồm ra. Không phải bắt đầu từ đó tôi mới nằm thấy những cơn ác mộng, nhưng bắt đầu từ đó, những cơn ác mộng cứ luôn luôn đến trong giấc ngủ của tôi và càng ngày càng rùng rợn. Tôi thấy tôi chịu tội, tỉnh dậy còn đau khổ. Tôi thường nghĩ bụng: tôi đã bỏ khí giới đầu hàng, nhận hết các tội lỗi rồi, các ông hà tất phải sát khí đằng đằng, "ngược đãi tù binh" làm gì nữa? Để được sống, có lúc, tôi rất muốn cầu xin chúng ra ơn, không nên ngoảnh mặt đi, không nên gầm rú như lang sói, hổ báo như thế! Nhưng đứng trước mặt chúng, nghe chúng chửi bới lập tức tôi thấy trời xoay đất chuyển, cơ hồ muốn ngã nhào! Chúng giống như hổ báo, lang sói nhảy vào vồ lấy tôi, nhe răng nhọn hoắt cắn xé tôi. Tôi đâu phải bằng gang thép, chịu sao nổi? Vết thương của tôi do đó mà có, bệnh tình của tôi do đó mà phát sinh. Tôi giẫy giụa nhưng không ăn thua. Tôi sống nhưng mang bệnh trong người. Người sao lại biến thành thú? Người biến thành "thú" như thế nào? Tôi tìm hiểu mãi vẫn không rõ. https://thuviensach.vn Nhưng chân gãy chưa lành, thần kinh suy nhược, tôi lại phải vào nằm viện. Ngày 9 tháng 1 năm 1984 https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn HAI MƯƠI NĂM TRƯỚC Trời nóng không thể làm việc được. Tôi thường ngồi trên ghế mây nghĩ ngợi lung tung. Đầu óc không chịu yên cho, chẳng làm sao được. "Văn cách" phát động đến nay tròn hai mươi năm, đó là chuyện quan trọng nhất trong nửa sau đời tôi, quên làm sao được, không thể không để cho nó trăn qua trở lại. Cho nên mấy ngày nay trong đầu óc tôi toàn là chuyện hai mươi năm trước. Thời gian gần đây, nhớ lại cuộc sống của tôi lúc đầu vào nằm viện lần thứ hai, phảng phất như ôn lại giấc mộng cũ, lại như có người đứng trước tôi gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh. Giấc mộng cũ hay là tiếng chuông cảnh tỉnh cũng thế, vẫn đưa lại cảm giác đứng bờ bên này, nhìn đám cháy ở bờ bên kia. Chẳng khác chút nào với việc bị trói hàng dãy trên pháp trường, người run lập cập, thấy nguy đến nơi, chỉ cầu lấy mạng sống, bảo vệ mình, không tiếc bán rẻ người khác, bán rẻ tất cả những gì tốt đẹp nhất. Những ngày ấy, cuộc sống ấy, quan hệ ấy giữa con người và con người, thật là đen tối quá chừng, giống như là đang chịu tội dưới địa ngục vậy. Tôi lấy làm lạ, bấy giờ tôi đã ăn cháo lú gì mà có thể giơ hai tay lên, hô to đả đảo mình, cam lòng nhận tội, để cho kẻ khác tước đoạt quyền làm người của mình. Không phải là tôi đang nói mê. Năm 1966, quả thực tôi đã như thế. Cháo lú đã làm tôi mê mẩn suốt mười năm. Năm 1983, nó lại định đưa tôi vào cảnh mộng một lần nữa, nhưng cái phép quỷ quái quen thuộc ấy đã mất tác dụng không làm cho tôi lú lẫn nữa. Tôi nói: “Tôi phải giương to hai con mắt lên để xem nó trở lại như thế nào”. Kết quả quá khứ cuối cùng vẫn không phải là quá khứ! Tôi mới hiểu ra rằng, người bảo vệ quyền lợi của chính mình thì không thể nào bị thần tiên, hoàng đế, hay là chúa cứu thế nuốt trôi được. Bởi vì trên thế, giới làm gì có thần tiên, hoàng đế và chúa https://thuviensach.vn