🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tướng Lĩnh Việt Nam Thế Kỉ Xx Qua Lời Kể Của Người Thân Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn TƯỚNG LĨNH VIỆT NAM THẾ KỶ XX QUA LỜI KỂ CỦA NGƯỜI THÂN ---❊ ❖ ❊--- Tác giả: Nguyễn Mạnh Hùng Phát hành: ThaiHaBook Nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân Nguồn text: Waka Đóng gói: @nguyenthanh-cuibap ebook©vctvegroup https://thuviensach.vn Lời Cảm Ơn Cuốn sách "Tướng lĩnh Việt Nam thế kỷ XX qua lời kể của người thân" được Công ty Cổ phần Sách Thái Hà và Nhà xuất bản Quân đội nhân dân hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân và tổ chức. Trước hết, chúng tôi xin trân trọng cảm ơn sự ủng hộ và giúp đỡ của các gia đình tướng lĩnh. Nếu không có sự quan tâm, góp ý và động viên chân thành từ thân nhân của các tướng lĩnh, chúng tôi khó lòng biên soạn được cuốn sách này. Không chỉ gửi bài viết và ảnh tư liệu để đóng góp cho cuốn sách, các gia đình đã có những gợi ý thiết thực và cung cấp những thông tin quý báu để chúng tôi có thể tiếp cận các nguồn tư liệu và gặp gỡ các nhân chứng lịch sử. Chúng tôi đặc biệt bày tỏ sự tri ân sâu sắc đối với ông Hoàng Anh Tuấn (cháu trai Đại tướng Hoàng Văn Thái), ông Phạm Hồng Minh (con trai Trung tướng Phạm Hồng Sơn) và ông Trần Kiến Quốc (con trai Thiếu tướng Trần Tử Bình) - họ đã ủng hộ nhóm biên soạn ngay từ những ngày đầu, cung cấp những thông tin hết sức có giá trị và truyền cảm hứng cho nhóm biên soạn trong suốt quá trình thực hiện cuốn sách này. Nhóm biên soạn cũng xin gửi lời cảm ơn tới Ban biên tập ảnh thuộc Thông tấn xã Việt Nam đã nhiệt tình cung cấp một số hình ảnh minh họa trong sách. Cuối cùng, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của độc giả để cuốn sách được hoàn chỉnh hơn trong những lần in sau. Thay mặt nhóm biên soạn TS. Nguyễn Mạnh Hùng https://thuviensach.vn Lời Nhà Xuất Bản Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, giữ vững non sông bờ cõi Việt Nam. Trong thế kỷ XX, nhân dân ta đã tiến hành thắng lợi hai cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc, đó là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Cùng với sức mạnh của toàn Đảng, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Quân đội nhân dân Việt Nam đã trực tiếp góp phần làm nên một Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" đặt dấu chấm hết cho ách đô hộ của thực dân Pháp đối với nước ta; đó là Đại thắng mùa Xuân 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất nước nhà. Những chiến công và thành tích vẻ vang của quân đội ta bắt nguồn từ sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh mà thường xuyên và trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; trong đó có phần đóng góp công sức, xương máu của lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân. Trong khói lửa chiến tranh, trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân đội đã xuất hiện nhiều lớp cán bộ điển hình, mẫu mực, có trình độ chỉ huy, tác chiến giỏi; luôn nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó. Nhiều đồng chí trở thành sĩ quan cấp tướng trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Những chiến công, những bài học về nghệ thuật quân sự, về cách đánh mà các vị tướng để lại được phản ánh trong rất nhiều sách đã được xuất bản. Bộ sách "Tướng lĩnh Việt Nam thế kỷ XX qua lời kể của người thân" do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân phối hợp cùng https://thuviensach.vn Công ty Cổ phần Sách Thái Hà xuất bản và phát hành sẽ góp thêm một góc nhìn mới về chân dung các vị tướng trong những khoảnh khắc đời thường, về những điều mà chỉ có người thân của họ mới được chứng kiến. Tập 1 của bộ sách được xuất bản lần này giúp bạn đọc tìm hiểu về cuộc sống đời thường của 15 trong số các vị tướng được thụ phong trong thời kỳ chiến tranh giải phóng. Tư liệu về quá trình hoạt động cách mạng, công tác và trong cuộc sống đời thường của các vị tướng rất phong phú, sâu sắc. Những câu chuyện được kể thông qua người thân là những kỷ niệm không quên, ấn tượng sâu sắc, tình cảm thân thương... song đã diễn ra từ rất lâu rồi, nên khó tránh khỏi những thiếu sót. Dù vậy, cuốn sách cũng cung cấp cho bạn đọc những tư liệu để tham khảo. Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp, phê bình của người thân, gia đình các vị tướng cùng các đồng chí và bạn đọc gần xa. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc! NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN https://thuviensach.vn Lời Nói Đầu Tôi may mắn được đến thăm Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhiều lần từ năm 1995. Một thực tế là tôi đã học được rất nhiều từ vị Tổng tư lệnh đa tài, khiêm tốn, bản lĩnh, dễ gần. Những bài học chúng tôi mang áp dụng vào quản trị doanh nghiệp cũng như cuộc sống và thấy rằng rất tuyệt vời. Hóa ra nghệ thuật chiến tranh với nghệ thuật kinh doanh, nghệ thuật sống rất gần nhau và có rất nhiều điểm tương đồng. Từ những lần đến thăm Đại tướng, tôi thật may mắn được biết đến các anh chị Võ Điện Biên, Võ Hồng Nam, Võ Hồng Anh, Võ Hạnh Phúc, Võ Hòa Bình. Tôi lại may mắn học được thật nhiều từ những người con tuyệt vời của Đại tướng. Rồi sau này tôi may mắn biết đến và có dịp gặp gỡ, trao đổi, học hỏi từ các anh Chu Thế Sơn, con trai Đại tướng Chu Huy Mân; Văn Tiến Huấn, con trai Đại tướng Văn Tiến Dũng; Hoàng Quốc Trinh, con trai Đại tướng Hoàng Văn Thái; Lê Đông Hải, con trai Đại tướng Lê Trọng Tấn,… Những câu chuyện được nghe các anh kể lại về cha của mình làm cho tôi trưởng thành rất nhiều. Tôi cũng mang những bài học quý giá từ các vị tướng nổi tiếng áp dụng vào cuộc sống, quản trị doanh nghiệp và thấy quá tuyệt vời. Chúng ta đã bước vào những ngày đầu tiên của năm 2015, một năm có rất nhiều sự kiện quan trọng: 40 năm ngày thống nhất đất nước, 70 năm ngày Quốc khánh nước Việt Nam. Nhiều lần thầy trò chúng tôi bàn bạc về các đề tài sách sẽ xuất bản trong năm nay và một trong các đề tài tạo hứng thú cho chúng tôi chính là các vị tướng tài năng. Chúng tôi nghĩ về sự kiện quan trọng: Ngày 28 tháng 5 năm 1948, lễ phong tướng đầu tiên được tổ chức tại Việt Bắc. Có 1 Đại tướng, 1 Trung tướng và 9 Thiếu tướng được phong. Quân đội nhân dân Việt Nam đã có 11 vị tướng đầu tiên. Sau này còn có những vị tướng khác được phong trong chiến tranh giải phóng. https://thuviensach.vn Chúng tôi thấy rằng mỗi vị đều có những tài năng khác nhau, những công lao to lớn khác nhau, đó là sự hội tụ những giá trị nghệ thuật quân sự đáng để mỗi chúng ta học tập và phổ biến. Do quỹ thời gian cũng như khả năng còn rất hạn chế, chúng tôi quyết định chỉ tìm hiểu về những vị tướng từng tham gia chiến tranh giải phóng. Hơn thế nữa, chúng tôi chưa có ý định xuất bản ngay sách về cuộc đời và sự nghiệp của những vị tướng tài ba này mà muốn khai thác một khía cạnh nhỏ: Những vị tướng qua lời kể của người thân. Theo chúng tôi, người thân của các tướng lĩnh gồm cả gia đình và bạn bè, đồng chí thân thiết. May mắn đã mỉm cười với chúng tôi khi chúng tôi đã liên lạc được và nhận được bài viết, thông tin từ 15 gia đình tướng lĩnh. Những cuộc gặp gỡ trực tiếp, qua điện thoại và email với các thành viên của 15 gia đình đã giúp chúng tôi có nhiều tư liệu quý, nhiều câu chuyện vô cùng có giá trị cung cấp cho bạn đọc có thêm tài liệu tham khảo. Chúng tôi thành tâm biết ơn các bác, các anh, các chị đã hết sức nhiệt tình và tin tưởng để giúp chúng tôi hoàn thành bản thảo cuốn sách này. Về cách xếp thứ tự các vị tướng trong sách, chúng tôi có nhiều băn khoăn. Thường thì danh sách được xếp theo vần chữ cái ABC. Tuy nhiên, chúng tôi thấy chưa ổn. Cũng có cách xếp thứ tự theo năm sinh của các vị tướng, rồi cách xếp theo cấp hàm,… Cuối cùng chúng tôi quyết định chọn cách xếp theo năm phong hàm. Cách xếp thứ tự này có thể chưa phải là tốt nhất nhưng chúng tôi cũng chưa tìm ra cách xếp tốt hơn. Cuốn sách được xuất bản ngay trước thềm năm mới âm lịch Quý Mùi 2015. Chúng tôi tin rằng bạn đọc sẽ học được rất nhiều từ những câu chuyện rất mộc mạc, giản dị nhưng ý nghĩa này. Tuy nhiên, đây cũng mới chỉ là tập 1 của bộ sách. Chúng tôi kính mong nhận được thông tin từ người thân của các vị tướng còn lại để có thể xuất bản nhân dịp 02-09-2015 tới. Mọi thông tin xin được gửi về [email protected][email protected]. Cuốn sách không thể tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy chúng tôi kính mong nhận được sự góp ý của quý vị và bạn đọc để có thể hoàn thiện nội dung trong lần tái bản tới. https://thuviensach.vn TS. Nguyễn Mạnh Hùng Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Thái Hà Books https://thuviensach.vn 1 Thiếu Tướng Lê Thiết Hùng Thiếu tướng Lê Thiết Hùng (1908 - 1986) tên thật là Lê Văn Nghiệm, quê xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Ông tham gia cách mạng từ năm 1925, vào Đảng năm 1930, nhập ngũ năm 1944, được phong Thiếu tướng năm 1946. Năm 1925, ông tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội). Từ năm 1940 đến năm 1945, ông tốt nghiệp Trường Quân sự Hoàng Phố ở Trung Quốc, về nước hoạt động ở Chiến khu Cao - Bắc - Lạng, tổ chức và làm Chính trị viên Đội vũ trang đặc biệt; Giám đốc đầu tiên của Trường Quân sự Cao Bằng. Tháng 8 năm 1945, ông chỉ huy lực lượng vũ trang giành chính quyền ở Thất Khê, Đồng Đăng, Na Sầm. Cuối năm 1945, ông làm Khu trưởng Khu 4. Tháng 3 năm 1946, ông là Tổng chỉ huy Quân tiếp phòng. Từ năm 1948 đến năm 1950, Thiếu tướng Lê Thiết Hùng làm Tổng thanh tra quân đội; chỉ huy mặt trận Bắc Kạn, Tuyên Quang; Hiệu trưởng Trường bổ túc Quân chính trung cấp. Giai đoạn 1950 - 1954, ông đảm nhiệm chức Hiệu trưởng Trường Lục quân; Cục trưởng Cục Quân huấn Bộ Tổng Tham mưu. Giai đoạn 1956 - 1963, ông làm Tư lệnh Bộ Tư lệnh Pháo binh. Năm 1963, ông làm Đại sứ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên. Tháng 5 năm 1970, ông làm Phó Ban Đối ngoại Trung ương. Ông được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương https://thuviensach.vn Hồ Chí Minh, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất... (Nguồn: Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, trang 599) Phụ tử tình thâm Vũ Trọng Đại Một chiều mùa đông tháng 12, chúng tôi đến gặp cô Lê Mai Hương ở nhà riêng nằm giữa phố Trần Hưng Đạo. Đây cũng là nơi tướng Lê Thiết Hùng ở khi còn sinh thời. Cô đón chúng tôi vẫn với nụ cười dễ mến, giọng nói nhỏ nhẹ, tình cảm như lần gặp đầu tiên trước đó nửa tháng. Cô khẽ khàng đi pha trà, rót nước mời khách, và giọng nói chợt xa xôi khi hồi tưởng về người cha của mình. Lê Mai Hương là con duy nhất của Thiếu tướng Lê Thiết Hùng với người vợ thứ hai, bác sĩ quân y Nguyễn Tuyết Mai. Hai người kết hôn năm 1948, một năm sau ngày mất của người vợ đầu là bà Hồ Diệc Lan, con gái nhà cách mạng Hồ Học Lãm. Bà Hồ Diệc Lan qua đời ở tuổi 27 vì nhiễm bệnh phổi quá nặng, khi đó họ chưa kịp có với nhau mặt con nào. Vợ chồng Thiết Hùng - Tuyết Mai hẹn ước rằng khi nào cách mạng thắng lợi mới sinh con. Thế nhưng cuộc kháng chiến kéo dài đằng đẵng. Người ngoài cũng phải sốt ruột, giục giã vì mãi không thấy vợ chồng tướng Hùng sinh con. Cuối cùng phải đến 10 năm sau ngày cưới, bé gái Lê Mai Hương cũng đã chào đời sau bao mong mỏi, trông chờ. Trong thời chiến, dù đang ở hậu phương, người ta cũng khó có thể có được cuộc sống bình yên như lẽ thường, nhất là trong gia đình của một vị tướng. Hàng ngày tướng Lê Thiết Hùng đi làm về rất khuya, thường 11, 12 giờ đêm mới về đến nhà. Bà Mai đi làm ở xa, chỉ tối thứ năm, tối thứ bảy mới về, chủ nhật lại vội vã đi. Bé Hương ở nhà với bà nội và một người bác, nhưng không được ở gần bố. Lớn lên Lê Mai Hương mới biết mọi người trong nhà không cho cô con gái nhỏ gần bố để giữ sức khỏe cho tướng Lê Thiết Hùng. Ông yếu đi nhiều sau lần lái xe bị tai nạn những năm trước đó: chấn thương nặng và phải nằm viện suốt 6 tháng trong tình trạng mất trí nhớ. Di chứng của vụ tai nạn ấy đeo đẳng ông đến hết cuộc đời. https://thuviensach.vn Thêm nữa, công việc lúc nào cũng bề bộn. Bé Hương không biết gì, đêm đến đợi người lớn ngủ lại len lén lên gác ngủ với bố. Còn tướng Lê Thiết Hùng thì cứ thao thức chờ con. Nỗi xúc động dâng lên nghẹn lời, cô Hương dừng lại hồi lâu. Đang lúi húi ghi chép, tự nhiên bặt tiếng, tôi ngẩng lên nhìn, thấy cô ngồi ngay đó, trước mặt tôi, im lặng. Dường như cô đang cố kiềm chế cảm xúc của mình, nhưng nước mắt đã trào ra rưng rưng trên khóe mắt. Ở cái tuổi tri thiên mệnh mới có mụn con nên tướng Lê Thiết Hùng thương và cưng chiều con gái lắm. Còn nhớ những ngày ông tham gia chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ, chỉ sau khi chiếm được đồi A1, bắt được tướng De Castries, vừa vì mừng vui, hạnh phúc, vừa vì căng thẳng dồn nén mà ông ngất đi, bất tỉnh suốt 7 ngày. Sau này, ông được đi nghỉ ở Sochi (Liên Xô) một tháng để hồi phục sức khỏe. Trong đoàn cùng đi chuyến này với ông có bà Bảy Huệ, vợ ông Nguyễn Văn Linh. Những người khác khi về lo sắm sửa mua quà cho người thân, còn ông để dành được ít rúp lẻ thì ngoài bánh kẹo cho mẹ, ông chỉ mua quà cho con: một cái máy khâu tay cho trẻ con, một con búp bê và một cái xe đạp 3 bánh. Ông hầu như không bao giờ quát mắng con, cũng không tiếc con bất kỳ thứ gì, thậm chí bỏ cả súng, tháo cả đạn cho con chơi. Cô bé hạnh phúc trong vòng tay cha, nhưng sẽ sớm biết điều đang chờ phía trước: Chiến tranh và chia ly. Năm 1964, Lê Mai Hương lên 6, cũng là lúc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Bé Hương về quê sơ tán. Trước đó, năm 1963, tướng Lê Thiết Hùng nhận nhiệm vụ mới: ông chuyển sang ngành ngoại giao, làm Đại sứ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Triều Tiên cho đến năm 1970. Kể từ đó mỗi năm bé Hương chỉ gặp được bố một lần, có năm không gặp được lần nào. Khi về nước, tranh thủ được giờ nào là ông Hùng chỉ chơi với con: cho con đi công viên, làm ngựa cho con cưỡi… Năm 1969, Lê Mai Hương học lớp 5, cô được bố cho sang Triều Tiên ba tháng. Hai bố con đi tàu. Trên đường đi qua Trung Quốc, ông Hùng kể cho con nghe về Mao Trạch Đông và cách mạng Trung Quốc. Tới các nhà ga, từ xa bé Hương thấy những tiểu Hồng vệ binh tươi cười vẫy chào đoàn tàu đang tới. https://thuviensach.vn Họ cầm những cái rổ. Bé Hương reo lên: "Bố ơi bố, người ta cho kẹo kia kìa". Ông Hùng nói: "Thế à, họ cho kẹo cơ à". Đến gần mới biết là họ phát huy hiệu Mao Trạch Đông. Ông Hùng cười vui vẻ: "Con bé này đúng là tham ăn thật". Ông lấy mấy cái huy hiệu cài lên ngực con. Thế rồi hai bố con lại nói chuyện về Mao Trạch Đông. Giọng cô Hương cứ tươi vui dần theo những kỷ niệm chơi đùa cùng bố, để rồi tiếng cười vỡ òa ra trong trẻo khi kể về những câu chuyện trong chuyến hành trình sang Triều Tiên. Nhưng giọng cô chùng lại: đến biên giới Trung Quốc - Triều Tiên, một sự cố xảy ra khiến vị Đại sứ không thể vui vẻ được nữa. Tại Tân Nghĩa Châu (Sinuiju), thành phố kề bên sông Áp Lục ở biên giới Trung - Triều, Đại sứ Lê Thiết Hùng biết tin một nữ sinh viên năm thứ hai người Việt ở đây buổi sáng tập thể dục nhưng lên cơn đau tim, ngất xỉu, được đưa đi cấp cứu nhưng không kịp nên đã qua đời. Ông buồn lắm. Đưa con gái đến Bình Nhưỡng, ngay ngày hôm sau ông quay lại Tân Nghĩa Châu để viếng nữ sinh viên xấu số. Ông khóc mãi vì thương sinh viên của mình mất khi còn trẻ quá, lại ở xa gia đình, xa người thân. Đại sứ Lê Thiết Hùng được ông Kim Nhật Thành (khi đó là Thủ tướng) và các Phó Thủ tướng quý mến. Thế nên lưu học sinh Việt Nam ở Triều Tiên được ưu ái, được chu cấp tiền bạc, ăn uống đầy đủ. Đại sứ Lê Thiết Hùng với tâm huyết lớn lao dành cho Tổ quốc nên đặt kỳ vọng vào các bạn trẻ. Ông muốn họ dành tâm sức vào việc học tập để sau này về cống hiến cho đất nước. Thế nhưng ông không biết tâm lý của họ cũng muốn dành dụm được chút ít trong thời gian du học. Ông kiên quyết là tiền nước bạn cho chỉ để lưu học sinh của ta ăn uống thật tốt, có sức khỏe để còn học tập, thế nên lưu học sinh khi đó ở Triều Tiên chẳng mua sắm được gì nhiều nhặn khi về nước. Họ cảm thấy không được vui. Cuối năm 1969, ông Lê Thiết Hùng thôi làm Đại sứ và về Việt Nam. Về nước, lập tức ông lại cuốn vào công việc. Ngày thường cứ đến nửa đêm, có sớm cũng là 9 giờ tối ông mới về đến nhà. Bà Mai cũng vậy nên có tuần bé Hương không gặp bố mẹ mình vì đi ngủ rồi thì bố mẹ mới về. Đến năm https://thuviensach.vn 1973, ông Lê Thiết Hùng bị một cơn nhồi máu cơ tim nhưng rất may bà Mai là bác sĩ giỏi nên phát hiện kịp thời, đề nghị tổ y tế cấp cứu tại chỗ chứ không đưa vào bệnh viện. Ông bất tỉnh suốt ba ngày. Bộ Chính trị lo lắm, mọi người ai cũng nói: "Anh ấy đi chiến trường bao nhiêu năm, vào sinh ra tử mấy lần mà không chết, lúc này không thể để anh ấy chết được". Thế rồi ông cũng qua khỏi. Song người ta tiên liệu rằng ông chỉ còn sống được hai năm nữa. Nhờ thế, công việc của ông cũng giảm được đôi chút, nhưng lại trở về guồng quay cũ cho đến khi giải phóng miền Nam năm 1975. Năm 1975, Lê Mai Hương vào đại học, ở trong trường nên một, hai tuần mới về nhà một lần. Trong hoàn cảnh ấy, bố con gặp nhau cũng chỉ nói chuyện được dăm ba câu. Từ năm 1970, Lê Thiết Hùng làm Phó ban CP-48 về Campuchia, rồi Phó Ban Đối ngoại Trung ương Đảng cho đến khi nghỉ hưu. Năm 1978, ông nghỉ hưu. Sức khỏe của ông yếu đi nhiều. Ông ở nhà nhưng bạn bè, khách khứa vẫn đến chơi luôn. Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc diễn ra, khách khứa vãn dần. Nhưng từ năm 1982, mọi người lại đến chơi tấp nập. Khoảng năm 1983, cuộc sống gia đình càng trở nên khó khăn hơn trong cái khó khăn chung của xã hội. Ông Lê Thiết Hùng hưởng lương của cấp tướng chuyển sang dân sự, về hưu khi là Phó Ban Đối ngoại Trung ương Đảng hàm tương đương Bộ trưởng, được hưởng tiêu chuẩn ở phố Tôn Đản. Nhưng khi ấy ông chỉ còn được hưởng tiêu chuẩn ở phố Nhà Thờ, tức là cao hơn cán bộ cấp cục, vụ một chút. Ngoài ra không còn nhiều tiền để chi tiêu. Bà Mai vì thế phải cố gắng xoay xỏa, tằn tiện hơn. Ông ăn uống giản dị, cơm chan nước tương cũng được, nên chẳng than phiền gì. Có gì ngon ông đều nhường cho con gái. Có lần, lâu lắm rồi gia đình mới mua được cá nục. Ông Lê Thiết Hùng quê Nghệ An nên rất thích ăn cá nục kho. Lê Mai Hương đem cá ra kho. Cả nhà ăn xong để phần cho ông Hùng hai con cá. Ông ăn đến con thứ hai, đang định gắp thì con mèo ngồi cạnh lấy chân khều mất con cá trên đĩa. Ông ngồi thần cả người ra. Tuổi trên 70, sức khỏe yếu, bị bệnh tật hành hạ nhưng tướng Lê Thiết Hùng không kêu ca, đòi hỏi bất kỳ điều gì. Lúc này ông bị đau thần kinh https://thuviensach.vn tọa nặng. Hàng ngày ông tự xoa bóp. Khi đau quá, ông mới phải nhờ đến người khác. Ông nằm ra, nhờ người cháu đang tuổi thanh niên giẫm mạnh lên lưng, hông, như vậy mới đỡ chứ bấm huyệt không tác dụng gì. Gia đình làm nhiều cách để cải thiện cuộc sống. Như nhiều gia đình khác, nhà tướng Hùng cũng nuôi lợn, gà. Chồng Hương và Hương lo việc mua thức ăn, còn ông lo việc chăm sóc. Tính ông ngăn nắp, cẩn thận, việc đâu ra đấy, đến chăn lợn, gà cũng vậy. Đức tính này được rèn giũa khi ông hoạt động tình báo trong lòng quân đội Tưởng Giới Thạch cuối những năm hai mươi của thế kỷ trước. Nó vẫn phát huy tác dụng khi ông tướng đã về hưu, ở nhà chăn lợn, nuôi gà. Không nhớ là dịp gì, cả bà Mai và cô Hương đều vắng nhà mấy ngày. Một mình ông vừa cho gà ăn vừa nấu cám cho lợn, dọn chuồng, tắm cho lợn sạch sẽ. Nhưng khi cả nhà về, ông lăn ra ốm. Năm 1984, Lê Mai Hương lúc đấy đã đi làm trong ngành công an. Cô Hương còn nhận việc về nhà làm thêm. Thời buổi ấy nhiều nhà làm vậy để có thêm thu nhập. Cô Hương nhận giấy in bao bì cao Sao vàng của Nhà in Tiến Bộ để về dán, gấp thành vỏ bao thành phẩm, mỗi chiếc được trả mấy xu. Tướng Hùng chẳng nề hà gì, ông cần mẫn từ sáng tới tối ngồi dán vỏ bao cho con. Năm 1983, Lê Mai Hương có con đầu lòng nhưng không giữ được. Tướng Hùng bị sốc nặng, tưởng không qua được. Tuần đầu sau khi cháu mất, ông im lặng trong đau đớn. Ai hỏi cũng không nói, dù chỉ một câu. Ông buồn bã hàng tháng trời. Năm 1984, bệnh tình của ông càng nặng hơn. Nhưng đến năm sau, cô Hương sinh con gái đầu. Ông phấn khởi lắm, nhận ngay nhiệm vụ chăm cháu. Sau thời gian nghỉ sinh 3 tháng, cô Hương đi làm trở lại. Thế là hàng ngày ông bế cháu, rồi pha sữa, cho cháu ăn, thay tã cho cháu. Bà Mai cũng không tranh được nên bà chăm ông, giữ gìn sức khỏe cho ông để ông chăm cháu. Khi cháu được 10 tháng tuổi thì tướng Hùng mất. Trước khi ông mất khoảng chục ngày, cháu cứ nhìn thấy ông là hét lên. Sáng hôm đó, ông đặt cháu trong cũi, nói: "Chào cháu, ông đi nhé". Ông đi chơi về, vào nhà tắm, bị lên cơn đau tim rồi mất. https://thuviensach.vn 2 Đại Tướng Văn Tiến Dũng Đại tướng Văn Tiến Dũng (1917 - 2002) quê ở xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Ông tham gia cách mạng từ năm 1936, kết nạp Đảng năm 1937, nhập ngũ năm 1945. Ông được phong Đại tướng năm 1974. Những năm 1943, 1944, ông làm Bí thư Ban Cán sự Đảng Hà Đông, Bắc Ninh, Ủy viên Thường vụ rồi Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ. Nhiều lần ông bị thực dân Pháp bắt giam. Tháng 1 năm 1945, ông bị kết án tử hình vắng mặt. Ông làm Ủy viên Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, phụ trách tổ chức chiến khu Quang Trung, chỉ đạo vũ trang giành chính quyền ở các tỉnh Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, từ tháng 11 năm 1945 đến năm 1946, ông làm Chính ủy Chiến khu 2. Từ tháng 12 năm 1946 đến năm 1949, ông làm Cục trưởng Cục Chính trị Quân đội quốc gia Việt Nam, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương. Từ tháng 10 năm 1949 đến năm 1950, ông làm Chính ủy Liên khu 3. Giai đoạn 1951 - 1953, ông làm Đại đoàn trưởng kiêm Chính ủy đầu tiên của Đại đoàn 320. Tháng 11 năm 1953, ông là Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, ông là Trưởng đoàn đại biểu của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam trong Ủy ban Liên hiệp đình chiến thi hành Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam. Từ năm 1954, ông làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, trực tiếp chỉ đạo các chiến dịch: Đường 9 - Nam Lào (1971); Trị https://thuviensach.vn Thiên (1972); Tây Nguyên (1975); Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh (4- 1975). Giai đoạn 1980 - 1986, Đại tướng Văn Tiến Dũng giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (1984 - 1986). Đại tướng Văn Tiến Dũng là tác giả của nhiều tác phẩm quân sự như: "Mấy vấn đề về nghệ thuật quân sự Việt Nam"... Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ khóa III đến khóa VI (Ủy viên dự khuyết khóa II), Ủy viên Bộ Chính trị (3-1972) khóa IV, V (Ủy viên dự khuyết khóa III), Đại biểu Quốc hội từ khóa II đến khóa VII. Đại tướng Văn Tiến Dũng được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công (hạng Nhất, hạng Nhì), Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất... (Nguồn: Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, trang 1160) Mãi khắc ghi những lời cha dặn Vũ Trọng Đại Theo đề nghị của tôi từ lần gặp trước, cô Văn Tuyết Mai cho tôi xem những album ảnh của gia đình. Bà Nguyễn Thị Kỳ [1], hệt như lần trước, ngồi cạnh cô Mai và theo dõi chăm chú. Thỉnh thoảng bà lại nói điều gì đấy về những bức ảnh mà bà đặc biệt ghi nhớ. Hoặc những mẩu chuyện không đầu không cuối khi ký ức bất chợt hiện về. Sau hồi lâu vừa xem ảnh vừa trò chuyện với cô Mai và bà Kỳ, tôi cũng chọn được một số ảnh minh họa cho sách. Tôi nhận ra hai điều: đầu tiên là tính cẩn thận của Đại tướng Văn Tiến Dũng. Hầu như sau mỗi bức ảnh đều có bút tích của ông, ghi rõ ảnh chụp bao giờ, ở đâu. Không chỉ ảnh khi làm việc, công tác mà ngay cả ảnh sinh hoạt đời thường cũng vậy. Về đức tính ấy của tướng Dũng, sau này tôi đã được một người khác xác nhận [2]. Điều thứ hai, tôi thấy lạ là trong cả mấy cuốn album, không có bức ảnh nào chụp được đầy đủ cả gia đình. Cô Mai giải thích: gia đình thời chiến không phải lúc nào cũng sum họp được. Đại https://thuviensach.vn tướng Văn Tiến Dũng có 6 người con (3 trai, 3 gái) thì hầu như người nào từ nhỏ cũng đã vào trường thiếu sinh quân, lớn lên đi bộ đội rồi mỗi người công tác một nơi nên chẳng mấy khi cả nhà ở cùng một chỗ với nhau. Xếp gọn lại mấy quyển album, cô Mai bắt đầu kể chuyện về cha mình. Có vẻ như cô không biết nên bắt đầu từ đâu. Trầm ngâm một lúc, cô bắt đầu nói về tính cách của cha. Cha cô là người điềm tĩnh, hiền nhưng nghiêm khắc. Bình thường ông hay tươi cười nhưng khi trách phạt lại rất nghiêm nghị. Ông đang cười nói nhưng nếu nghiêm giọng lại thì người nghe hiểu là có chuyện. Ông không mắng mỏ những người mắc lỗi mà gọi người đó ngồi đối diện, rồi từ tốn phân tích khuyết điểm và nêu cách sửa chữa. Trong gia đình hay khi ở ngoài cũng vậy. Nếu con cái mắc lỗi, ông xử lý như với cấp dưới. Như có lần con trai ông là Văn Tiến Trình, khi chưa đi bộ đội thì nghịch ngợm lắm, thế là ông gọi vào phòng làm việc, đóng cửa lại để chỉnh huấn. Những lúc như thế dù biết là không bị bố nạt nộ gì đâu nhưng con ông ai cũng sợ. Nói đến đây, cô Mai so vai, le lưỡi rồi nhìn sang mẹ. Bà Kỳ mỉm cười, không nói gì. Tính điềm tĩnh ấy cũng khiến ông chịu khó lắng nghe, suy nghĩ cẩn thận trước khi trả lời hoặc trao đổi với người khác. Tướng Dũng thương con cái. Thương con nhưng không chiều con. Ông dạy con tính tự lập, không ỷ vào địa vị của bố. Ông thể hiện tình thương của mình với các con bằng sự quan tâm đến chuyện học tập ở trường hay việc phấn đấu ở đơn vị. Những lúc có thời gian rảnh, không bận bịu với các chiến dịch hoặc đi chiến trường, ông thường đi xuống địa phương thăm các đơn vị bộ đội để nắm tình hình, nhất là đi thăm hỏi những cơ sở cách mạng ngày xưa, như Mỹ Đức (Hà Đông), Trung Mầu (Gia Lâm), Cổ Loa (Đông Anh), và ông dẫn các con theo cùng. Hay vào các cuối tuần, nếu không bận, ông thường đưa cả gia đình đi tham quan các danh lam thắng cảnh quanh Hà Nội như chùa Trầm, chùa Thầy, chùa Trăm Gian, chùa Hương… Ông thích thăm chùa chiền vì ngày trước lúc còn hoạt động cách mạng bí mật, ông từng ở chùa gần ba năm khi mất liên lạc với tổ chức. Khi đó, ông giả trang thành nhà sư ở chùa Bột Xuyên (Mỹ Đức, Hà https://thuviensach.vn Đông), ngày ngày tụng kinh gõ mõ, tối đi tuyên truyền, gây dựng cơ sở cách mạng. Nói về tính cần kiệm của cha mình, cô Mai cứ cười mãi. Câu chuyện cô kể nghe như giai thoại. Khi ở nhà tướng Dũng thường đi guốc mộc. Vì dùng đã lâu, đôi guốc bị hỏng. Nhưng ông không bỏ. Mòn thì đóng đế, sứt quai thì đóng đinh lại cho chắc. Đôi guốc ấy ông sửa đi sửa lại bao lần, đến khi trên đôi guốc không còn chỗ để đóng đinh nữa thì ông mới chịu thay guốc mới. Hay như việc dùng giầy cũng vậy. Tướng Dũng tự nhận chân mình là chân Giao Chỉ. Vì chân ông đặc biệt nên quân nhu phải đóng giầy riêng. Biết nhiêu khê như thế nên ông càng giữ lắm. Nếu hỏng lại tự sửa, tận dụng đến khi không thể sửa nữa mới thôi. Thực ra cũng nhờ ông khéo tay. Ngoài việc tự sửa giầy dép, ông còn tự sửa cả quần áo cho đến lúc lấy vợ. Tuổi thơ khốn khó, cộng với thời trẻ đi lao động kiếm sống cực nhọc tại xưởng dệt đã giúp ông rèn luyện đức tính ấy. Về thói quen hàng ngày của Đại tướng Văn Tiến Dũng, cô Mai rất thích thú, kể say sưa. Bố cô giữ nếp làm việc và sinh hoạt rất chặt chẽ. Suốt mấy chục năm hầu như không sai bao giờ: 5h sáng dậy vừa tập thể dục vừa nghe tin buổi sáng, 6 giờ ăn sáng rồi vào Thành làm việc, 11 giờ về nhà nghỉ trưa, 1 giờ chiều đi làm, 5 giờ rời cơ quan là chơi thể thao khoảng 30 phút đến 1 tiếng, 6 giờ ăn tối xong sẽ đi dạo quanh sân, vừa đi vừa áp chiếc đài nhỏ lên tai để nghe tin tức. Ông có hai sở thích đặc biệt: đầu tiên là yêu thể thao, phải nói là say mê mới đúng. Ông thường xuyên luyện tập thể dục thể thao và coi đó là một chế độ trong ngày. Ông nói với cán bộ bảo vệ: "Thiếu cơm một bữa thì được, nhưng không thể thiếu thể thao". Chiều nào cũng vậy, sau giờ làm việc ở cơ quan, Đại tướng lại cùng anh em bộ phận giúp việc nhà riêng: bảo vệ, bác sĩ, lái xe… chơi thể thao, khi thì bóng đá, bóng chuyền, còn nếu trời mưa thì vào phòng đánh bóng bàn. Thanh niên trong khu phố lính Hoàng Diệu trạc tuổi cô Mai thời đó cứ có thời gian là lại sang nhà tướng Dũng để tham gia cùng. Những lúc như thế, nhà tướng Dũng luôn rộn tiếng reo hò: khó mà phân biệt được ai là sĩ quan, ai là chiến sĩ, ai là tướng, tất cả đều hò https://thuviensach.vn reo như nhau. Không chỉ chơi mà ông còn hăng say cổ vũ cho những hoạt động thể thao trong quân đội. Vào mùa hè, nếu không chơi các môn đó thì ông đi bơi ở Câu lạc bộ Quân nhân. Ông còn kéo cả vợ đi bơi cùng. Về già, ông luyện tập những môn nhẹ nhàng như đạp xe, đi bộ. Những năm cuối đời, không thể đi bộ ngoài trời thì ông đi bộ trong nhà. Sở thích thứ hai là nghe hát chèo. Luôn luôn trong giờ buổi trưa, khi ăn cơm là ông lại mở đài nghe chương trình phát thanh dân ca và nhạc cổ truyền. Cô Mai nói thêm: trong bữa cơm, ông thường kể chuyện hoạt động cách mạng: ông bị bắt giam ba lần; cánh tay trái của ông giờ không thể giơ lên cao do khuỷu tay ông bị xiên dây thép qua trong những trận đòn tra ở nhà tù Hỏa Lò. Ưa thể thao là thế nhưng ông cũng hút thuốc. Song không phải như cách thông thường. Thời trẻ ông hút thuốc nhưng đã bỏ từ lâu, cả bà Kỳ lẫn cô Mai đều không biết ông bỏ thuốc từ bao giờ. Tuy nhiên, bà Kỳ thường mua sẵn một bao thuốc lá bỏ sẵn vào trong ngăn kéo bàn làm việc của ông. Chỉ khi có tin vui, như tin thắng trận báo về, khi đó ông mới lấy ra một điếu để hút. Đó là cách ông tự thưởng cho mình. Lần lượt nắm giữ những chức vụ cao cấp chỉ huy quân đội nhưng ông lại hay nhường vợ vì bà Kỳ nóng tính. Đại tướng rất nể vợ, người nội tướng của mình. Cô Mai nói đến đây lại nhìn mẹ cười cười. Bà Kỳ làm việc ở Ban Tổ chức Trung ương Đảng. Ngoài mấy người con ruột, ông bà còn nuôi nấng, dạy dỗ một số con các bạn chiến đấu đã hy sinh trên chiến trường, con các cơ sở cách mạng, con liệt sĩ, tất cả ăn ở học hành chung như anh em một nhà, và bữa ăn trong nhà bao giờ cũng vui vẻ, náo nhiệt. Trong gia đình tướng Dũng, mọi việc sinh hoạt của con cái đều do bà Kỳ giải quyết để chồng yên tâm công tác, không làm phân tán suy nghĩ, tư tưởng của ông. Đã ba tiếng đồng hồ trôi qua. Bà Kỳ ngồi lâu nên đã mỏi lưng. Bà chầm chậm đứng dậy khỏi ghế, chào tôi, không quên dặn cô Mai nhớ cất album ảnh. Đợi bà đi khỏi, cô Mai nói với tôi: bà vẫn khỏe nhưng trí nhớ đã suy giảm. Giờ bà không nhớ những chuyện gần đây, nhưng vẫn nhớ và thường hay kể chuyện ngày xưa khi bà còn trẻ, cái thời ông bà đang yêu. https://thuviensach.vn Kể chuyện cho tôi nghe, nhưng cô Mai không yên tâm, cô sợ là mình không nhớ hết những kỷ niệm quý giá về bố mình. Cô nói chúng tôi liên hệ với hai người con gái khác của Đại tướng Văn Tiến Dũng là cô Văn Minh Tâm và cô Văn Việt Hoa. Cô Tâm đã ở cái tuổi xưa nay hiếm nhưng vẫn khỏe khoắn, nói chuyện từng việc đâu đấy rõ ràng. Cô bảo bố cô thường dặn con mấy việc: Thứ nhất là tiền của, vật chất, tất cả chỉ là phương tiện để giúp người ta thực hiện được mục đích cách mạng của mình. Thứ hai là con người ta không phải lúc nào cũng tốt hết, mà có những lúc mắc sai lầm, nhưng khi người ta có sai lầm thì mình tìm cách kéo người ta lên, chứ đừng đẩy người ta xuống. Còn khi người ta có vấn đề gì với mình, theo cái tâm của Phật, thì để người ta tự thấy cái sai của người ta, chứ không nên phản ứng. Ông dặn con phải chú ý học tập và rèn luyện làm sao để xứng đáng là con của bố. Ông chỉ nói có vậy, nhưng cô Tâm luôn ghi nhớ và làm theo lời bố dặn. Cô Hoa là con gái út của Đại tướng Văn Tiến Dũng, hiện đang sống ở Nga. Qua email, cô nhắn chúng tôi đọc lại những kỷ niệm mà cô đã viết khi bố cô qua đời. Nói về tính cách của bố mình, cô Hoa viết: từ nhỏ anh chị em trong nhà đã quen tính trầm tư của bố. Song đằng sau vẻ trầm tư, ít nói đó là cả một tâm hồn bao la, giàu tình cảm, đôi khi lãng mạn. Những lúc vui ông còn làm thơ tặng các con. Trong bữa ăn, cả đại gia đình ngồi quanh bàn tròn to, ông lắng nghe những câu chuyện buồn, vui của các con, thêm vào những lời bàn hài hước, dí dỏm. Ông cười rất sảng khoái. Rồi ông kể chuyện tiếu lâm khi ở nhà tù Sơn La, anh em tù chính trị kể cho nhau nghe để quên cái đói, cái rét, làm cho mọi người trong nhà cười ngất. Là người con được sống gần bố nhiều hơn cả, thường có dịp tâm sự với bố, cô Hoa hiểu ra rằng: gần ba năm làm sư ông ở chùa Bột Xuyên, thấu hiểu kinh kệ nhà Phật, tu tâm tích đức như người nhà Phật, mặc dù để che mắt địch song giáo lý đạo Phật đã ảnh hưởng đến cách sống của bố cô rất nhiều. Từ một người tử tù trở thành tướng lĩnh, suốt cuộc đời cho đến lúc nhắm mắt, ông đã sống cuộc sống đức hạnh, hết lòng vì Đảng, vì dân. Trong hồi ức của ba người con của Đại tướng Văn Tiến Dũng, chúng tôi nhận thấy những điểm chung, có lẽ đó chính là những ấn tượng, kỷ niệm https://thuviensach.vn sâu đậm nhất của họ về cha mình: tính kỷ luật, tác phong nghiêm túc nhưng không hà khắc; sự gần gũi, chan hòa với mọi người dù trong công việc hay ở gia đình; niềm đam mê thể thao để rèn luyện sức khỏe, và sở thích này ảnh hưởng mạnh mẽ đến những người xung quanh. Trên hết, họ tự hào về cha mình. Họ tham gia quân ngũ, theo đơn vị mình đi khắp mọi miền Tổ quốc hoặc công tác ở bất cứ vị trí, lĩnh vực nào thì cũng đều ghi nhớ những lời dặn của cha, cố gắng noi theo tấm gương cha mình. https://thuviensach.vn 3 Thiếu Tướng Trần Tử Bình Thiếu tướng Trần Tử Bình (1907 - 1967) tên thật là Phạm Văn Phú, quê ở xã Tiêu Động, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1931, nhập ngũ năm 1945, được phong Thiếu tướng năm 1948. Năm 1929, ông tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội). Tháng 2 năm 1942, ông là Ủy viên Xứ ủy dự bị Bắc Kỳ, Bí thư Khu ủy Khu D (Phú Thọ, Vĩnh Yên, Tuyên Quang), rồi Bí thư Khu ủy Khu B (Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình). Ông bị thực dân Pháp bắt giam nhiều lần. Từ tháng 3 đến tháng 8 năm 1945, ông vượt ngục, giữ chức vụ Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, Bí thư Chiến khu Hòa - Ninh - Thanh, tham gia lãnh đạo khởi nghĩa ở Bắc Bộ. Tháng 10 năm 1945, ông là Chính ủy Trường Quân chính. Tháng 3 năm 1947, ông là Phó Bí thư Quân ủy Trung ương phụ trách công tác cán bộ và kiểm tra Đảng. Tháng 10 năm 1950, ông là Chính ủy Trường Lục quân kiêm Phó Tổng thanh tra quân đội. Năm 1957, ông là Đại sứ Việt Nam tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III, Đại biểu Quốc hội khóa II, III. Ông được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất… (Nguồn: Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, https://thuviensach.vn NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, trang 1008) Cha Trần Tử Bình, niềm tự hào của anh chị em chúng tôi Trần Kiến Quốc [3] Anh em trong gia đình tôi gọi thân phụ là Cha có căn nguyên của nó. Cha tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình Công giáo. Cả cái làng Tiêu Thượng (xã Tiêu Động) của miền quê đồng chiêm trũng huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam là dân theo Đạo toàn tòng. Ngày nhỏ do chiến tranh kéo dài rồi tứ tán mưu sinh mà anh em tôi không có điều kiện về thăm quê. Năm 1993 sau ngày mẹ tôi mất, anh em về quê cảm ơn họ hàng đã lên Hà Nội viếng và đưa tiễn bà. Về quê mới biết, cha tôi còn một "mảnh đất cắm dùi" rộng chừng 16 mét vuông. Ông bà nội chúng tôi từng có túp lều tranh rách nát trên mẩu đất này… Cuộc đời của cha Nghe cha tôi kể lại, dòng họ chúng tôi là họ Phạm, gốc Thanh Hóa, vì nghèo đói mà các cụ phiêu bạt về tận thôn Đồng Chuối, Tiêu Thượng, kiếm kế sinh nhai. Ông nội là Phạm Văn Công, còn cha tôi là Phạm Văn Phu. Nhà nghèo quanh năm, ông bà nội chẳng có ruộng, đầu đội trời, vai gánh đôi quang, lang thang nhặt phân rơi, bán cho nhà có ruộng. Cho tới Thế chiến thứ hai, người nghèo muốn sống được chỉ có cách sung lính. Ông nội tôi được tuyển làm lính thợ và bị đẩy sang Pháp. Vậy là có chút tiền gửi về cho bà nội. Cũng vì thế mà cha tôi được gửi vào nhà thờ, trước là phục dịch các cha cố, sau là học lỏm chữ, học lỏm Kinh Thánh. Cha tôi sáng dạ, học nhanh, hay được cha cố cho đi đây đi đó nên tầm mắt được mở rộng. Sau đó, cha tôi được vào học ở Chủng viện Hoàng Nguyên (thuộc giáo phận Hà Đông). Cuối năm 1925, cả nước có phong trào đấu tranh đòi Pháp thả cụ Phan Bội Châu, rồi tháng 4 năm 1926 có phong trào để tang cụ Phan Chu Trinh. Vì được tiếp xúc với sách báo tiến bộ, cha tôi được giác ngộ tinh thần yêu nước và cầm đầu nhóm chúng sinh của Chủng viện ủng hộ hai cụ Phan. Việc làm này trái ý các cha nên ông bị đuổi học. Với các gia đình Công https://thuviensach.vn giáo có con được vào học trường dòng là niềm kiêu hãnh và kỳ vọng sau này có nghề kiếm cơm; nhưng với việc cha tôi bị nhà thờ đuổi học là một nỗi sỉ nhục. Ông bà nội cùng cha tôi bị nhà thờ "rút phép thông công". Không thể sống nổi ở Đồng Chuối, ông bà nội phải rời bỏ quê hương, tha phương cầu thực, đi làm thuê làm mướn cho các nhà thờ, lên tận cả nhà thờ Hưng Hóa, Phú Thọ; sau về tá túc ở Phúc Tá, Ân Thi, Hưng Yên. Từ ngày bị đuổi học cha tôi như đứng giữa ngã ba đường. Đi đâu, làm gì để kiếm sống? Có thực mới vực được đạo, có ít chữ, có ít kiến thức về Kinh Thánh, cha tôi đã đi giảng Đạo kiếm miếng ăn. Trong những ngày vất vưởng ấy, ông gặp hương sư Vĩnh Trị - một nhà giáo yêu nước. Ông giới thiệu cha tôi với nhà cách mạng Tống Văn Trân. Qua tâm sự, ông Trân khuyên cha tôi nên vào Nam kiếm sống vì đây là vùng "đất mới", dễ tìm đường xuất dương cứu nước. Cuối năm 1927, cha tôi ký hợp đồng với Hãng tuyển phu Phan Tất Tạo, đi làm phu cao su ở Đồn điền Phú Riềng, Nam Bộ. Những ngày tập trung ở Hải Phòng xuống tàu đi Nam, vì biết chữ hơn người, ông đã giúp đỡ bạn thuyền đấu tranh đòi chủ đảm bảo điều kiện sống. Dọc đường lênh đênh trên biển, ông là chỗ dựa của những người bỏ quê tha phương. Đến đồn điền, ông lại trở thành hạt nhân đoàn kết giữa các phu phen. Được Ngô Gia Tự giác ngộ, ông được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, rồi tháng 10 năm 1929 trở thành đảng viên Đông Dương Cộng sản Đảng. Vào dịp Tết năm 1930, ông là bí thư chi bộ lãnh đạo cuộc đấu tranh của 5.000 phu cao su, làm chủ Đồn điền Phú Riềng trong mấy ngày Tết. Cuộc đấu tranh thất bại, ban lãnh đạo bị bắt. Cha tôi bị Tòa đại hình Sài Gòn kết án khổ sai, đày ra Côn Đảo. Nhà tù là trường đại học lớn, ông học được nhiều lý luận cách mạng và gặp nhiều bạn tù mà sau này họ là những người lãnh đạo của nước Việt Nam mới (Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng...). Nhờ có Mặt trận Bình dân ở Pháp mà nhiều tù chính trị ở Côn Đảo được trả tự do. Cha tôi cũng được về đất liền nhưng bị đưa ngay về quê hương quản thúc. Ý chí cách mạng không tắt, ông tiếp tục hoạt động. Ông https://thuviensach.vn là Bí thư chi bộ rồi Bí thư Huyện ủy Bình Lục, Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam, đến năm 1941 là Xứ ủy dự bị Bắc Kỳ. Cuối năm 1943, ông lại bị bắt ở Thái Bình. Tại Phủ Lý, Hà Nam ông đã bẻ song cửa để trốn thoát nhưng không thành, bị đưa về nhà tù Ninh Bình rồi về Hỏa Lò, Hà Nội. Lợi dụng Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945, ông cùng các tù chính trị tổ chức hai đường vượt ngục: "thăng thiên" (vượt tường rào) và "độn thổ" (chui cống ngầm) cho hơn 100 tù chính trị Hỏa Lò về với phong trào, vào các đêm 10, 12 tháng 3 năm 1945 và sau đó. Tháng 8 năm 1945 là Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ cùng ông Nguyễn Khang, cha tôi đã tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa thành công ở Hà Nội và 10 tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Sau ngày cách mạng thành công, cha tôi lấy tên mới là Trần Tử Bình với nghĩa sống cuộc đời phong trần, lãng tử, đấu tranh vì sự bình đẳng bác ái. Chúng tôi còn giữ được tấm ảnh ông gửi cho anh cả Trần Kháng Chiến (khi anh tình nguyện nhập ngũ chống Mỹ, cứu nước vào năm 1965), với lưu bút phía sau: "Cuộc đời cha theo cách mạng đã 3 lần bị thực dân Pháp bắt, 10 năm bị giam trong nhà tù đế quốc, 2 lần vượt ngục nhưng tự hào vì đã góp sức làm nên một Phú Riềng Đỏ lịch sử 1930 khi 23 tuổi và Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội năm 1945 khi 38 tuổi". Sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, ông nhận ngay nhiệm vụ xây dựng Trường Quân chính Việt Nam (tiếp nhận từ Trường Quân chính kháng Nhật của ông Hoàng Văn Thái) - nhà trường đào tạo cán bộ đầu tiên của nước Việt Nam mới, sau này là Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn. Ngày 16 tháng 5 năm 1946, nhà trường được vinh dự đón Chủ tịch Hồ Chí Minh lên dự lễ khai giảng và trao lá cờ thêu 6 chữ vàng "TRUNG VỚI NƯỚC, HIẾU VỚI DÂN". Đầu năm 1948, sau khi cùng ông Lê Thiết Hùng chỉ huy bộ đội bẻ gãy gọng kìm phía tây của giặc Pháp, dùng tàu thủy tấn công dọc sông Lô, hòng tấn công tiêu diệt đầu não kháng chiến của ta ở Việt Bắc, Cụ Hồ đã ký quyết định tấn phong hàm Thiếu tướng cho cha tôi và 8 cán bộ cao cấp cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Trung tướng Nguyễn Bình. https://thuviensach.vn Tiếp sau đó, ông là Phó Tổng Thanh tra quân đội, tham gia điều tra, xét xử vụ tham nhũng lớn nhất đầu tiên trong quân đội - vụ án Trần Dụ Châu năm 1950, mang lại niềm tin cho nhân dân, cán bộ, chiến sĩ trước khi vào trận đánh lớn. Vì công tác chuẩn bị cán bộ cho tổng phản công vô cùng cần thiết, một lần nữa ông nhận nhiệm vụ cùng Thiếu tướng Lê Thiết Hùng đưa Trường Lục quân Việt Nam sang Trung Quốc, đào tạo gần 1 vạn cán bộ quân sự cung cấp cho chiến trường. Hòa bình lập lại, ông là Phó Tổng Thanh tra quân đội, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ, tham gia sửa sai cải cách ruộng đất. Đến năm 1957, ông được cử đi làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Bắc Kinh, Trung Quốc. Với 8 năm liên tục làm ngoại giao, ông đóng góp nhiều công sức trong việc vận động sự ủng hộ tối đa của nhân dân Trung Quốc cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước. Tiếc rằng, ngày mồng 3 Tết năm 1967, ông đột ngột từ trần tại Hà Nội, hưởng thọ 60 tuổi. Chuyện đời thường của cha tôi Cha mẹ tôi sinh được 8 người con và đặt tên gắn với những sự kiện trọng đại của nước Việt Nam mới: Yên Hồng (khi mẹ tôi bụng mang dạ chửa chị vẫn "súng lục giắt lưng", xông xáo, tham gia lãnh đạo khởi nghĩa ở huyện Kim Động và tỉnh lỵ Hưng Yên), Kháng Chiến (sinh sau ngày 19 tháng 12 năm 1946), Thắng Lợi (sinh sau Chiến dịch Biên Giới 1950), Kiến Quốc (khi Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động thi đua Kháng chiến - Kiến quốc), Thành Công (sau thắng lợi Điện Biên Phủ 1954), Hữu Nghị (kỷ niệm ngày cùng Trường Lục quân đóng ở đất bạn), Hạnh Phúc (cô con gái sinh sau 5 anh trai) và Việt Trung (khi cha tôi nhận nhiệm vụ "đi sứ" năm 1957). Khi vài ba tuổi được sống gần cha thì chưa hiểu biết gì, đến tuổi đi học thì cha tôi lại đi công tác xa biền biệt. Hiểu sự thiếu thốn tình cảm của các con, mỗi lần về, ông thường đưa chúng tôi ra công viên Ba Đình hay Bảy Mẫu chơi, cha con có dịp trò chuyện. Đúng kỳ họp phụ huynh của đứa https://thuviensach.vn nào, cha tôi đều thu xếp đến trường, gặp thầy cô để biết tình hình học hành của con cái. Từ năm 1964 - 1965, giặc Mỹ ném bom ra miền Bắc, chúng tôi phải sơ tán theo trường về vùng rừng núi, thiếu thốn đủ điều. Lần nào về nước, cha tôi đều mua đèn bão (đốt bằng dầu), bóng đá, bóng bàn, kèn harmonica… tặng nhà trường, để các cháu có đèn thắp sáng và có đồ chơi giải trí sau giờ học. Với bọn trẻ, ông không lý luận phức tạp mà chỉ giảng dạy rất giản dị, làm chúng tôi nhớ mãi: là con em cán bộ cao cấp không có nghĩa là có quyền ăn trên ngồi trốc… chỉ khi nào có lao động sáng tạo thì các con mới có tự do chân chính. Ngay khi ngồi vào mâm cơm, đứa nào làm rơi vãi, ông bắt nhặt hạt cơm bỏ vào miệng: "Hạt gạo là hạt vàng mà người nông dân phải vất vả, một nắng hai sương mới làm ra, các con ăn phải biết quý trọng"… Quần áo của thằng anh mặc chật thì để cho đứa em, ở nhà tôi có cái áo của đứa thứ 3 còn được dùng cho đứa thứ 8. Mặc quần áo vá không có gì đáng ngượng hay câu "đói cho sạch, rách cho thơm" còn được chúng tôi dạy cho con cháu. Khi đã trưởng thành, Trần Thành Công là chủ một doanh nghiệp may mặc đã gắn ngay cổng nhà máy câu khẩu hiệu: "Có lao động sáng tạo mới có tự do chân chính!". Với hạnh phúc gia đình, mẹ tôi phải chịu nhiều thiệt thòi. Chúng tôi còn lưu giữ nhiều bức thư qua lại giữa cha, mẹ. Mẹ tôi từng trách cứ cha: "Hòa bình lập lại rồi, các gia đình khác được đoàn tụ thì anh lại đi công tác xa biền biệt, sang tận xứ người". Vậy mà cha tôi đã nhẹ nhàng viết thư về: "Anh hiểu nỗi lòng em, nhưng hạnh phúc của cá nhân không thể tách rời hạnh phúc của đất nước, dân tộc. Mong em cùng anh chia sẻ". Nhớ thời bao cấp khó khăn, dù đã có lương hưu, mẹ tôi vẫn tăng gia nuôi lợn, nuôi thỏ để cải thiện đời sống. Sáng sáng, bà con dân phố thường thấy bà xách làn ra chợ Cửa Nam, nhặt nhạnh rau thừa về chăn nuôi. Có người lên tiếng "phê bình": "Chị là vợ tướng, lại là cán bộ cao cấp, làm thế thì còn mặt mũi nào?". Bà cười: "Là vợ tướng thì cũng phải lao động. Tôi lao động chân chính, có ăn cắp của ai đâu mà phải xấu hổ?". Nhiều người nghĩ, cha chúng tôi qua đời thì các con sẽ mất đi điều kiện để tiến thân. https://thuviensach.vn Nhưng tấm gương của ông bà, lời dạy của ông bà đã dẫn lối cho chúng tôi. Anh em tôi chẳng ai làm quan to nhưng đều là những công dân tốt, được bà con, bạn bè quý mến. Ngày 11 tháng 4 năm 1966 ông nội tôi mất. Vì bận công tác ở Bắc Kinh, không thể về chịu tang, cha tôi đã nhờ Văn phòng Trung ương (bác Bân, chú Đỉnh) cùng đồng chí, bạn bè thân thiết (chú Ngô Minh Loan, Nguyễn Cơ Thạch, Lê Quý Quỳnh…) giúp tổ chức tang lễ... Còn nhớ mãi hình ảnh bà nội ngồi còng lưng, buồn rầu, lầm rầm đọc Kinh Thánh. Ai cũng xúc động khi nghe trên loa đọc bài điếu của cha tôi gửi về: Cha ơi, cha ơi Một đời cần cù lao động, tay xách, nách mang, Một gánh bên nồi bên con, nay đông mai bắc Một đời lầm than vất vả Nay đến khi tắt thở Cha, con cũng chả gặp nhau Con ân hận vô cùng! … Nhưng công tác cách mạng là trên hết Cha, con xa cách nhưng lòng con hiếu thảo, Cha biết cho lòng con Xin vĩnh biệt cha từ đây, An giấc ngàn thu. Con của cha - Trần Tử Bình Với đồng chí đồng đội Cha chúng tôi mất sớm nhưng nhiều chuyện về cha, chúng tôi được nghe qua các chú, các bác là bạn bè, đồng đội của cha. Mỗi lần Tết đến hay giỗ cha, tôi đều thấy các chú, các bác từng cùng cha mẹ hoạt động thời kỳ bí mật, hay thời kỳ trong quân ngũ qua lại thăm viếng, làm chúng tôi hiểu cha mẹ tôi đã sống như thế nào. Chú Nguyễn Trung con cụ Ba Triệu - điền chủ lớn ở Cổ Tiết, Phú Thọ, từng là cơ sở bí mật đón Bác và Trung ương trên đường từ Hà Nội lên Việt https://thuviensach.vn Bắc sau ngày 19 tháng 12 năm 1946. Chú từng là Tỉnh ủy viên tỉnh Yên Bái… Thời kỳ 1956, chú bị quy sai. Nghe tin ấy, cha tôi đã phóng xe lên tận Phú Thọ, yêu cầu thả ngay chú ra rồi thay mặt Đảng xin lỗi chú. Sau này chú kể lại: "Khi cha cháu đến giải cứu, xin lỗi và mời chú tiếp tục công tác, chú đã trả lời: Thôi anh ơi, anh cho em về nhà với vợ với con... Nhưng chính sự chân thành và thân tình của cha cháu, sau đó chú mới trở lại làm việc". Lại như chú Nguyễn Văn Bồng, là công chức thuế của Pháp, được giác ngộ rồi tham gia cướp chính quyền ở Hương Canh, Vĩnh Phúc. Chú là học sinh Trường Quân chính, khi đó cha tôi là Chính ủy, cuối năm 1945 và được cha tôi bồi dưỡng, giới thiệu kết nạp Đảng. Vậy mà chú cũng bị quy sai. Cha tôi biết tin đã đến nói thẳng và sửa sai. Trên bàn thờ nhà chú, cùng với di ảnh các cụ thân sinh là di ảnh cha tôi. "Anh Trần Tử Bình đã sinh ra chú lần thứ hai", chú luôn nói như thế mỗi lần chúng tôi đến thăm. Chuyện ông Dương Văn Khái cũng vậy, là Bí thư chi bộ Nông trường Đông Hiếu, Tây Hiếu (Nghệ An) vì có ít chữ mà cũng bị quy sai. Sáng sớm hôm ấy chuẩn bị lên đoạn đầu đài thì thấy có chiếc xe com-măng-ca phóng tung bụi đến. Bước xuống xe là một ông mặc quân phục tướng. Sau khi xem qua bản án, ông tuyên bố: "Nhân danh Thanh tra Chính phủ, tôi - Phó Tổng Thanh tra - hủy bản án này". Nói rồi ông lên xe đi tiếp. Sau này vô tình tôi lại gặp ông khi chơi với anh Bính, con rể ông. Biết tôi là con trai Tướng Bình, ông đã tâm sự: "Thật ra chú có biết cha cháu là ai. Chắc chỉ nghe báo cáo ở Nghệ An có vụ đó mà cha cháu phi ngay về. Nhưng chỉ cần cha cháu không thật trách nhiệm, chỉ đến muộn vài giây thì chắc chú đi rồi. Thấy thằng con bé tí ngồi vắt vẻo trên cành cây, nhìn bố sắp bị người ta xử mà chả hay biết gì. Thật đau lòng. Cha cháu đúng là người sinh ra chú lần thứ hai". Từng được các cơ sở cách mạng đùm bọc những ngày hoạt động bí mật gian khó, khi cách mạng thành công cha mẹ tôi không quên ơn họ. Có dịp rảnh là các cụ lại về địa phương thăm hỏi; hay tìm mọi cách giúp đỡ, xác minh để họ được hưởng chế độ "Gia đình có công với nước". Họ không quên anh Núi, ông Lang Tiêm, chị Đề, chị Tân… (tên hoạt động bí mật của https://thuviensach.vn cha mẹ tôi). Thậm chí, các bà, các cô bác thuộc lòng cả tên từng đứa chúng tôi. Chúng tôi còn được về cùng ăn, cùng ngủ với bà con ở các cơ sở cách mạng (như bà Bủ Chính ở Cổ Tiết), để hiểu hơn những ngày gian khổ vất vả của cha mẹ. Ngày mẹ chúng tôi mất, bà con ở nhiều cơ sở cách mạng ở Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình nghe tin cũng lên đưa. Những năm gần đây mỗi khi gia đình có đại sự, học trò, đồng đội của cha tôi đều có mặt. Thật cảm động khi thấy các tướng lĩnh trong bộ đại lễ phục, trên ngực gắn đầy huân chương, chống gậy đến với gia đình thầy Trần Tử Bình. Kỷ niệm với Bác Làm đại sứ ở Trung Quốc, cha tôi có nhiều dịp được đón tiếp Bác những lần sang thăm chính thức và không chính thức. Xuất thân là người lao động, cha tôi cho liên hệ với Công xã Trung - Việt giúp sứ quán trồng lê, táo, nho ngay trong vườn. Vào ngày nghỉ, cán bộ, công nhân viên dành thời gian chăm sóc cây. Năm 1962, vườn cây cho ra lứa đầu tiên. Sứ quán thu hoạch, đóng thùng gửi về nước. Cha tôi gửi biếu Bác Hồ, bác Tôn, bác Cả và bạn bè thân thiết. Sau đó chú Vũ Kỳ - bạn tù Hỏa Lò của cha tôi, thư ký của Bác - có gửi cho cha tôi một bức thư cảm ơn:"Bác giao cho tôi viết thư cảm ơn anh và cán bộ Đại sứ quán ta ở Bắc Kinh, đã gửi quà "cây nhà lá vườn" cho Bác và văn phòng. Bác khen hoa quả rất ngon, nhất là táo, lê và ngợi khen tinh thần lao động, ý thức xây dựng sứ quán tươi đẹp của anh chị em. Bác gửi lời chúc anh mạnh khỏe!". Những ngày giáp Tết Đinh Mùi 1967, cha tôi về họp Trung ương, không may bị cảm lạnh phải cấp cứu vào Bệnh viện Hữu nghị Việt - Xô. Chiều 30 Tết, mẹ tôi và em gái Hạnh Phúc đang ngồi chơi với cha thì thấy Bác và chú Vũ Kỳ đến thăm. Cha tôi định xuống giường chào Bác thì Bác xua tay: - Chú còn mệt, cứ nằm nghỉ. Thế sức khỏe của chú ra sao rồi? - Dạ, vào viện có thuốc và được nghỉ ngơi nên huyết áp đã ổn định hơn. - Cha tôi trả lời. https://thuviensach.vn - Vậy là tốt, chú cố gắng chữa cho khỏi. Công việc cách mạng ngoài kia đang rất cần nhiều người như chú. Và hôm nay có chút quà cho chú đây. Chú Vũ Kỳ lấy trong túi ra mấy quả táo, đặt lên bàn. Bác vui vẻ: - Đồng chí Chu Ân Lai Tết này có gửi sang ít hoa quả biếu Bác. Nay Bác có quà cho chú bồi dưỡng chóng lành bệnh, sớm về làm việc. Vậy chú là "bệnh nhân đặc biệt" của hai nước Việt, Trung đấy nhé. Còn vài giờ nữa là sang năm mới, Bác tranh thủ đi thăm mỗi nơi một tí. Nghe anh em báo cáo, Đại sứ Trung Quốc - Chu Kỳ Văn cũng bị cao huyết áp, đang điều trị tại đây. Tết nhất xa nhà lại bị ốm, chắc đồng chí cũng buồn. Bác tranh thủ sang thăm đồng chí ấy. Chúc chú chóng khỏi bệnh và chúc cả nhà một năm mới đầy hạnh phúc! Nói rồi Bác chia tay cha mẹ tôi. Ai ngờ, chỉ ba ngày sau, sớm mồng 3 Tết, cha tôi chuyển bệnh và vĩnh viễn ra đi. Ngày cha tôi mất, ba anh em tôi (Thắng Lợi, Kiến Quốc, Thành Công) ở xa quê hương, không thể về để tiễn cha. Sau này xem bộ ảnh tang lễ ở Câu lạc bộ Quân nhân trên đường Hoàng Diệu, có hình ảnh Bác đến viếng, ôm lấy mẹ tôi chia buồn mà không sao cầm được nước mắt. Cha tôi sống mãi với quê hương Tháng 8 năm 2004, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã cùng gia đình tổ chức Lễ tưởng niệm Thiếu tướng Trần Tử Bình tại Bảo tàng Cách mạng Hà Nội. Chúng tôi cảm động khi được đón hơn 200 khách mời là bạn bè, cơ sở cách mạng, đồng chí, đồng đội thân thiết của cha mẹ về dự. Nhiều bản tham luận sinh động đánh giá đúng công lao của cụ với đất nước. Thế mới biết cha mẹ chúng tôi đã sống thế nào, cho dù các cụ đi xa đã lâu. Mảnh đất 16 mét vuông cắm dùi ấy, sau này chính quyền địa phương quy hoạch lại, nhà chú em họ ở sát rào được dời ra vùng đất mới và gia đình có một diện tích đất rộng hơn. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông (5-5-1907 - 5-5-2007), cũng tròn 40 năm ngày mất (1967 - 2007) anh em chúng tôi đầu tư cùng họ hàng, bà con địa phương xây dựng Nhà tưởng niệm Thiếu tướng Trần Tử Bình và Nhà văn https://thuviensach.vn hóa thôn Tiêu Thượng. Chúng tôi lại vinh dự được đón đại diện các tỉnh nơi các cụ từng hoạt động thời kỳ bí mật, các đơn vị (Tổng Thanh tra quân đội, Trường Sĩ quan Lục quân, Bộ Ngoại giao) nơi cha mẹ từng công tác cùng các bạn bè, đồng chí đồng đội, học trò của cụ về dự. Bác Võ Nguyên Giáp không về được, đã cử cô Đặng Bích Hà đi thay cùng một lá thư chúc mừng. Thư có đoạn: "Được biết nhân dịp này, con cháu của Anh cùng Đảng ủy, chính quyền địa phương, nhân dân xã Tiêu Động, Bình Lục, Hà Nam và xã Tân Phúc, Ân Thi, Hưng Yên đầu tư tiền của, công sức xây dựng Nhà tưởng niệm Thiếu tướng Trần Tử Bình và Nhà văn hóa thôn Tiêu Thượng cùng Trường Mầm non Trần Tử Bình - thôn Phúc Tá. Đây là những việc làm đầy ý nghĩa nhằm tôn vinh người chiến sĩ cách mạng đã hy sinh cả cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ hôm nay và mai sau. Tôi đánh giá cao việc làm này. Mong các đồng chí và bà con lương, giáo quê hương cùng con cháu học tập tấm gương sáng của Anh, xây dựng địa phương ta thật giàu, đẹp. Chúc các đồng chí và bà con mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt!". Đầu năm 2008, Bộ Ngoại giao đã tổ chức lễ truy tặng Huân chương Sao vàng cho cha tôi tại Nhà khách Chính phủ, đúng vào nơi cách đó 63 năm, sáng ngày 19 tháng 8 năm 1945, hai Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ - Nguyễn Khang, Trần Tử Bình chỉ huy quần chúng cách mạng tiến vào, cướp chính quyền từ chế độ cũ về tay nhân dân. Cũng thật vô tình, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết người thay mặt Đảng, Nhà nước trao cho gia đình tấm huân chương này nguyên là Bí thư Tỉnh ủy Sông Bé - mảnh đất mà ông Trần Tử Bình cùng chi bộ Đảng đã làm nên một Phú Riềng Đỏ lịch sử vào năm 1930. Nhớ ngày mới hòa bình, cha mẹ tôi đón ông bà nội lên Hà Nội để tiện chăm sóc. Cứ sáng chủ nhật, ông nội lại chống gậy dọc đường Hoàng Diệu lên nhà thờ Cửa Bắc nghe giảng Đạo. Nhưng biết mình là con chiên ghẻ bị rút phép thông công nên ông chỉ đứng ngoài bờ rào, hướng vào bên trong. Các chú ở Cục Bảo vệ đã thắc mắc với cha tôi. Ông giải thích "đó là tín https://thuviensach.vn ngưỡng, niềm tin của dân có Đạo, điều chính tôi là con cũng phải tôn trọng". Và khi nhà thờ Tiêu Thượng được bề trên và bà con giáo dân góp tiền của, công sức xây lại, gia đình tôi được vinh dự "tiến" bộ cửa chính ra vào. Đây là một vinh hạnh vì với người Công giáo thì cửa đó là nơi đón họ sinh ra, được đặt tên Thánh và cũng là nơi tiễn họ lên Thiên đàng, về với Chúa. Hôm bàn giao cửa cho nhà thờ, ngày 27 tháng 10 năm 2010, cha Được (giáo dân cùng thôn Tiêu Thượng) từ Hà Nội về làm lễ trả lại "phép thông công" cho Phê-rô Phạm Văn Phu - Trần Tử Bình. Đó là những gì chúng tôi tự hào về cha mình! https://thuviensach.vn 4 Thiếu Tướng Trần Đại Nghĩa Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa (1913 - 1997) tên thật là Phạm Quang Lễ, quê ở xã Chấn Hiệp, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Ông nhập ngũ năm 1946, được phong Thiếu tướng năm 1948, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1949, giáo sư, viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô năm 1966. Trong kháng chiến chống Pháp, ông có nhiều đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và phát triển ngành công nghiệp quốc phòng. Trong kháng chiến, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, Trần Đại Nghĩa đã thiết kế, hướng dẫn thiết kế và tổ chức sản xuất thành công nhiều loại vũ khí: mìn, đạn, lựu đạn, bom phóng, súng bazoka, súng SKZ. Năm 1947, ông là Cục trưởng đầu tiên của Cục Quân giới kiêm Cục trưởng Cục Pháo binh (tháng 5 năm 1949). Tháng 9 năm 1950, ông là Thứ trưởng Bộ Công thương. Năm 1952, khi đang giữ chức Cục trưởng Cục Quân giới, ông được tuyên dương Anh hùng lao động. Trong giai đoạn 1964 - 1972, ông đảm đương các chức vụ: Chủ nhiệm Ủy ban Kiến thiết cơ bản nhà nước, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học - Kỹ thuật nhà nước kiêm Phó Trưởng ban Cơ khí Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12 năm 1972). Từ năm 1973 đến năm 1977, ông là Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kỹ thuật Bộ Quốc phòng. Tháng 3 năm 1977, ông chuyển ngành, đảm đương chức vụ Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam. https://thuviensach.vn Từ năm 1980 đến năm 1983, ông là Chủ tịch Ủy ban Nghiên cứu vũ trụ của Việt Nam, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học - Kỹ thuật Việt Nam. Ông có nhiều cống hiến trong sự nghiệp xây dựng và phát triển khoa học - công nghệ của Việt Nam. Ông là Đại biểu Quốc hội khóa II, III. Với những cống hiến to lớn của mình, ông được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất... (Nguồn: Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, trang 1000) Hồi ức về ba, người cả đời vì nghĩa lớn Trần Dũng Trí [4] 1. Với quê hương đất nước Ba tôi tên thật là Phạm Quang Lễ sinh ngày 13 tháng 9 năm 1913 tại xã Chấn Hiệp, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long (nay là xã Hòa Hiệp, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long) trong một gia đình nhà giáo nghèo giàu lòng nhân ái ở miền quê Vĩnh Long "địa linh nhân kiệt" giàu truyền thống đấu tranh cách mạng. Ông nội là giáo viên tiểu học. Ba sinh ra giữa lúc đất nước còn chìm đắm trong kiếp nô lệ, nhân dân lầm than đói khổ. Ông nội tôi bị bệnh qua đời khi ba tôi mới 7 tuổi. Bà nội và người chị gái (hơn ba tôi 2 tuổi) đã vất vả tần tảo nuôi dạy ba tôi ăn học. Trong hoàn cảnh khó khăn, với tư chất thông minh, giàu nghị lực, ba đã cố gắng vươn lên và luôn đạt kết quả học tập xuất sắc trong mọi bậc học. Năm 1926, ông thi đỗ hạng ưu vào Trường Trung học Mỹ Tho, được nhận học bổng 4 năm học (1926 - 1930). Năm 1930, ông được tuyển thẳng vào Trường Trung học Pétrus Ký (Sài Gòn) và được học bổng 3 năm liền. Năm 1933, ông đỗ thủ khoa tú tài bản xứ và tú tài Tây, đến tháng 9 năm 1935 được sang Pháp du học. Từ đây giấc mơ về lòng yêu nước, về Tổ quốc bắt đầu hình thành và lớn dần trong ông. Ước mơ cháy bỏng của ông là phải học tập, tiếp thu được nhiều tri thức để trở về giúp đất nước đánh đuổi giặc Pháp đô hộ, giành độc lập cho dân tộc. Thực hiện quyết tâm và hoài bão đó, bằng sự nỗ https://thuviensach.vn lực không ngừng, tập trung cao độ trong khoảng 4 năm, ông đã theo học và tốt nghiệp kỹ sư, cử nhân các trường: Đại học Bách khoa, Đại học Mỏ, Đại học Điện, Đại học Sorbonne, Đại học quốc gia cầu đường Paris, Học viện Kỹ thuật hàng không. Năm 1939, ông làm việc tại Nhà máy điện khí Thomson, rồi nhà máy sản xuất máy bay tại Pháp. Năm 1942, ông sang Đức làm việc trong Nhà máy chế tạo máy bay Halle và Viện Nghiên cứu vũ khí, kỹ thuật hàng không. Sau đó, ông trở lại Pháp làm cho một số công ty chế tạo máy bay của Pháp, tham gia Hội Việt Nam Ái hữu tại Pháp. 2. Với Bác Hồ và sự nghiệp Ngày 22 tháng 6 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Paris, là thượng khách của nước Pháp. Phạm Quang Lễ cùng một số trí thức Việt kiều được tiếp kiến Bác Hồ, được Người ân cần chỉ bảo và kêu gọi trở về Tổ quốc phục vụ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Đây cũng là thời khắc đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời ba tôi để tiến tới thực hiện thắng lợi quyết tâm và hoài bão đã được ông nung nấu bao lâu nay. Theo hồi ký của ba tôi, năm 1946 ông giữ cương vị kỹ sư trưởng với mức lương 5.500 francs/tháng (tương đương 22 lượng vàng lúc bấy giờ). Nếu ở lại Paris, ba tôi sẽ có cuộc sống đủ đầy. Mặc dù biết điều kiện sống và làm việc ở trong nước thời kỳ chiến tranh còn nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng ba tôi vẫn quyết định về nước với Bác Hồ (1946) và xác định cho mình sẽ làm được công việc nặng nề mà Bác Hồ giao phó với tên gọi mới: Trần Đại Nghĩa mà Bác Hồ đặt cho. Đó là nghĩa vụ thiêng liêng và cũng là niềm vinh dự lớn đối với ba tôi. Ba tôi về nước, lên chiến khu Việt Bắc với nhiệm vụ tổ chức nghiên cứu, thiết kế chế tạo vũ khí trang bị cho bộ đội ta đánh giặc. Từ chiến khu Việt Bắc đến Điện Biên Phủ, cho tới cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và cuối cùng là Đại thắng mùa Xuân 1975, đất nước thống nhất; trong suốt chặng đường đó ba tôi được cách mạng giao cho rất nhiều trọng trách. Song dù trên cương vị một vị tướng phụ trách ngành quân giới hay là Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước, Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam… ba tôi cũng hoàn thành https://thuviensach.vn xuất sắc nhiệm vụ và có những đóng góp cụ thể, rõ ràng được các thế hệ kế tiếp thừa nhận và tôn vinh. Trong sổ ghi nhật ký của mình, ba tôi đã viết: "Ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhiệm vụ của tôi đã hoàn thành, vì hoài bão của tôi hồi nhỏ, sứ mạng của tôi rất đơn giản là tham gia về mặt khoa học, kỹ thuật vũ khí trong cuộc đấu tranh vũ trang cách mạng để giải phóng đất nước, và nay đất nước đã được giải phóng, tôi không muốn gì hơn nữa, vì một đời người không thể làm hơn". 3. Những bài học kinh nghiệm trong việc học tập, chế tạo vũ khí phục vụ đất nước trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước Để thực hiện hoài bão nghiên cứu chế tạo vũ khí rồi về nước phục vụ, ba tôi đã bí mật, âm thầm tìm mọi cách tận dụng mọi cơ hội học về kỹ thuật vũ khí ở nước ngoài để khi có thời cơ sẽ trở về Tổ quốc góp sức đánh đuổi giặc ngoại xâm. Trong 11 năm ở Pháp, ngoài sự ham học hỏi, cần cù, trí thông minh sáng tạo, ông còn đặt ra cho mình phương pháp tiếp cận, khối lượng kiến thức và công nghệ cần đạt được để có thể áp dụng vào thực tiễn ở Việt Nam và ông đã thực hiện được điều đó: Tốt nghiệp các trường có liên quan đến chuyên ngành vũ khí, sưu tập các tài liệu chế tạo vũ khí tại các viện bảo tàng vũ khí, các thư viện; bằng mọi cách làm việc cho các hãng nổi tiếng nước ngoài như hãng chế tạo máy bay Pháp, Nhà máy điện khí Thomson, hãng chế tạo máy bay và Viện Nghiên cứu Vũ khí, kỹ thuật hàng không của Đức để tiếp thu kỹ thuật và công nghệ chế tạo vũ khí; đã đọc các tài liệu gốc của Pháp và Đức về nghệ thuật quân sự để nâng cao hiệu quả thiết kế chế tạo vũ khí. Vì vậy khi theo Bác về nước, hành trang của ông gồm 3 bằng kỹ sư, 1 bằng cử nhân khoa học, 2 chứng chỉ, đặc biệt là 30.000 trang tài liệu nghiên cứu ghi chép, sưu tầm và hơn 1 tấn tài liệu về chế tạo vũ khí - kết quả của sự nỗ lực phi thường của ông. Đặc biệt, kinh nghiệm vượt khó của ông trong việc tự nghiên cứu vũ khí đã giúp ông rất nhiều trong việc triển khai nghiên cứu chế tạo và đào tạo cán bộ trong nước về chế tạo vũ khí. https://thuviensach.vn Trong kháng chiến chống Pháp do cách mạng Việt Nam chưa thông thương với các nước xã hội chủ nghĩa nên ông tập trung vào các công việc chính sau: nghiên cứu và chỉ đạo kỹ thuật chế tạo vũ khí phù hợp với cách đánh và nguồn lực của ta; đào tạo kỹ thuật cơ bản về vũ khí và công nghệ chế tạo vũ khí cho cán bộ mà ta còn thiếu; xây dựng hệ thống tổ chức, cơ sở nghiên cứu, sửa chữa chế tạo vũ khí ngày càng đông đủ về đội ngũ, đa dạng về tổ chức, hiệu quả và chất lượng về sản xuất vũ khí. Nhờ đó, ông cùng đồng chí, đồng nghiệp đã nghiên cứu chế tạo thành công nhiều loại vũ khí, đạn dược phục vụ đắc lực và có hiệu quả cho bộ đội chiến đấu. Với thành tích xuất sắc trong nghiên cứu và sản xuất vũ khí, ông được phong quân hàm Thiếu tướng đợt đầu tiên (1948), trở thành trí thức đầu tiên được phong danh hiệu Anh hùng lao động (1952) và giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu tiên (1996) đối với cụm công trình nghiên cứu và chỉ đạo kỹ thuật vũ khí gồm bazoka, súng SKZ và đạn bay trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954). Trong kháng chiến chống Mỹ với cương vị là Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần chuyên trách chỉ đạo về mặt vũ khí quốc phòng, ông cùng các nhà kỹ thuật quân sự xây dựng phương hướng cơ bản và kế hoạch dài hạn về vũ khí, trong đó nhấn mạnh các vấn đề trọng tâm, một là sử dụng có hiệu quả cao vũ khí được viện trợ; hai là nghiên cứu chế tạo các loại vũ khí phù hợp với cách đánh của ta; ba là nghiên cứu các biện pháp đối phó với kỹ thuật chiến tranh hiện đại của Mỹ. Ông cũng trở thành cố vấn, chỗ dựa tinh thần cho các nhà khoa học trẻ trong các chương trình, đề tài nghiên cứu và nhiệm vụ quan trọng đối phó với chiến tranh hiện đại của Mỹ. 4. Đối với gia đình Dù bận trăm công nghìn việc với các trọng trách lớn nhưng trong đời thường ba tôi thực sự là người ông, người cha mẫu mực, nhân hậu, hết lòng yêu thương con cháu, tôn trọng mọi người. Ba tôi sống giản dị, tiết kiệm và hòa đồng. Mẹ tôi là Nguyễn Thị Khánh, sinh năm 1927 quê ở Bắc Ninh, năm 1947 là y tá thuộc Cục Quân giới. Khi gặp ba, lúc đó ba là Cục trưởng Cục Quân giới, mẹ thấy: "Ba có đức tính cần cù, chịu khó, hiền khô như đất, chẳng bao giờ to tiếng với ai lại rất tôn trọng cá tính người khác, ít nói https://thuviensach.vn và suốt ngày đọc sách nghiên cứu. Rất kín đáo, chẳng bao giờ nói về mình cả bởi ông là người khiêm tốn không thích phô trương…". Mẹ tôi kể lại câu chuyện ngày cưới đáng nhớ của mình: "Lễ cưới của ba mẹ tổ chức vào ngày 2 tháng 9 năm 1947 tại Bắc Cạn. Đám cưới rất đơn giản, ông Xuân - Bí thư Đảng ủy Cục tuyên bố lý do, anh em chúc mừng rồi uống nước chè. Anh em đòi khao, anh Nghĩa mở ví ra còn 50 đồng tiền tài chính đưa cho anh Hòa ra Bắc Cạn (cách đó 5km) mua một sọt mắc coọc mang về gọt vỏ mời mỗi người vài miếng. Sau đó anh em bí mật góp nhau mỗi người 5 đồng đưa cho chị Hằng cấp dưỡng làm một bữa cơm mời mọi người cùng ăn". Ba mẹ tôi sống rất hạnh phúc và trọn đời yêu thương nhau. Sau ngày đất nước hòa bình, trở về Hà Nội, được ba động viên, mẹ đã nỗ lực học tập thành y sĩ, về sau thành bác sĩ y khoa, là bác sĩ điều trị tại Phòng Y tế Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo - Hà Nội. Cha mẹ tôi sinh được 4 người con trai: Trần Dũng Trí (1951), Trần Dũng Triệu (1953), Trần Dũng Trình (1955), Trần Dũng Trọng (1959). Anh em tôi được ba mẹ đặt cho họ Trần - là dòng họ mà Bác Hồ đã đặt cho ba tôi - với mong muốn các con sẽ nối tiếp sự nghiệp của ba. Đến nay các con của tôi và các cháu (con của các em tôi) đều mang họ Trần. Ba tôi đã từng nói với mẹ tôi: "Đời sống còn khó khăn, cần phải chi tiêu tiết kiệm, khi nào đất nước tiến lên mọi người sẽ được sung sướng trong đó có chúng ta". Trong những bữa cơm có gì ăn nấy, ông không bao giờ phàn nàn về những bữa ăn do mẹ tôi hoặc người phục vụ nấu. Khi tôi và các em tôi còn nhỏ và cho tới lúc trưởng thành, ba thường dạy dỗ chúng tôi: "Nhờ ơn Đảng, Bác Hồ, các con được đảm bảo đời sống, được học hành. Vì vậy các con phải cố gắng rèn luyện, học hành thật tốt để sau này phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Trong cuộc sống hàng ngày các con phải sống có đạo đức, kính trên nhường dưới, đoàn kết, yêu thương giúp đỡ bạn bè, phải sống trung thực và tự lập". Ba tôi là người cha hiền lành nhưng cũng rất nghiêm khắc. Sau giờ làm việc, ông đều dành thời gian để kèm cặp anh em chúng tôi học tập. https://thuviensach.vn Phương thức học mà cha chúng tôi truyền cho con hết sức đơn giản: Không được học thuộc lòng mà phải biết tóm tắt lại kiến thức đã học, gạch đầu dòng những vấn đề chính để nhớ cho dễ dàng. Ba thường răn dạy con cháu trong gia đình: "Tuổi trẻ phải sống có hoài bão lớn. Ngày nay hòa bình rồi, phải có suy nghĩ, ước mơ làm kinh tế giỏi, sáng tạo khoa học kỹ thuật và thực hiện bằng được ước mơ của mình…". Những lời răn dạy của ba đã theo chúng tôi trong suốt chặng đường đời: "Phải cố gắng học tập, phải sống và làm việc bằng chính khả năng của mình, không được dựa dẫm vào người khác". Ba còn dạy: "Khi nào gặp khó khăn, gian khổ, hãy nghĩ đến Bác Hồ và Tổ quốc, nhân dân thì sẽ vượt qua được hết, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ". Với riêng tôi (là con trai trưởng trong nhà) nên ba nhắc tôi phải làm gương cho các em. Khi tôi tốt nghiệp Đại học Kỹ thuật Quân sự, ba tôi nói: "Ba rất mừng vì con đã học xong đại học và là một sĩ quan quân đội, do quân đội đào tạo. Vì vậy, ở nơi nào cần và được tổ chức phân công thì con phải chấp hành, ba không can thiệp vào công việc của con. Khi ra làm việc con phải tiếp tục học tập, phấn đấu và rèn luyện để hoàn thành nhiệm vụ tốt nhất". Khắc ghi lời răn dạy của ba, kính trọng và tự hào về ba, tất cả các anh em chúng tôi hoàn toàn tự hào và tự tin để nói rằng chúng tôi đã đem theo tất cả những mong ước, dạy bảo của cha vào cuộc sống, trở thành một công dân tốt của quê hương. Tôi công tác ở Cục Kỹ thuật thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân, nay đã nghỉ hưu với quân hàm Đại tá. Hai em Trần Dũng Triệu và Trần Dũng Trình cũng đã tốt nghiệp Đại học Kỹ thuật Quân sự (nay là Học viện Kỹ thuật Quân sự - Bộ Quốc phòng). Em Triệu công tác ở Cục Khoa học Công nghệ - Bộ Quốc phòng, nay đã nghỉ hưu với quân hàm Đại tá. Em Trình là Tiến sĩ ngành kỹ thuật truyền thông, hiện là Phó Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam. Em Trọng là công nhân Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo. Năm 1991, em Trọng theo ba mẹ tôi vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. https://thuviensach.vn Năm 1975 miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất. Ba mẹ tôi mới có dịp trở lại miền Nam về quê hương Vĩnh Long, nơi ba tôi được sinh ra và lớn lên, gặp gỡ bà con họ hàng sau 38 năm xa cách. Ba tôi thắp nén nhang lên mộ ông bà nội và nói: "Con đã về đây, đã làm theo đúng lời nguyện ước của ba, má khi xưa, đã học hành thành đạt và cống hiến hết mình cho Tổ quốc." Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa (1913 - 2013), nhân dân tỉnh Vĩnh Long, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã xây dựng Khu tưởng niệm Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa với mong muốn góp phần phục vụ cho nhu cầu học tập, nghiên cứu rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân về một tấm gương hiếu học, một tinh thần phụng sự khoa học, phục vụ cách mạng cao cả của Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa. Hôm nay đã gần 18 năm ba tôi đi xa (1997 - 2015) và 102 năm ngày sinh của ba (1913 - 2015), chúng tôi ôn lại những chặng đường cuộc đời của ba đã phấn đấu vì nghĩa lớn. Chúng tôi vô cùng tự hào về ba, cố gắng rèn luyện bản thân và dạy bảo con cháu học tập, công tác theo tấm gương sáng của ba - một người học trò chân thành xứng đáng với niềm tin của Bác Hồ kính yêu. https://thuviensach.vn 5 Thiếu Tướng Hoàng Sâm Thiếu tướng Hoàng Sâm (1915 - 1968), tên khai sinh là Trần Văn Kì, quê ở xã Văn Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Ông tham gia cách mạng và là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1933. Ông nhập ngũ năm 1944, được phong Thiếu tướng năm 1948. Từ năm 1934 đến năm 1935, ông bị mật thám Thái Lan bắt giam, rồi bị trục xuất sang Trung Quốc. Từ năm 1937 đến năm 1939, ông là Tỉnh ủy viên tỉnh Cao Bằng, Thường trực Tỉnh ủy phụ trách cơ quan in và công tác giao thông liên lạc ở biên giới. Giai đoạn 1940 - 1943, ông là Đội trưởng Đội vũ trang tuyên truyền của Tổng bộ Việt Minh, bảo vệ Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 năm 1941; Tỉnh ủy viên tỉnh Bắc Kạn, phụ trách tự vệ chiến đấu trừ gian, củng cố cơ sở cách mạng, tổ chức du kích khu vực biên giới hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn. Tháng 12 năm 1944, ông là Đội trưởng Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, chỉ huy đánh trận Phai Khắt (25-12-1944) và trận Nà Ngần (26-12-1944). Ông tham gia Ủy ban Giải phóng, phụ trách quân sự khu giải phóng gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Giai đoạn 1946 - 1950, ông là Khu trưởng Khu 2, chỉ huy mặt trận Tây Tiến, Tư lệnh Liên khu 3. Năm 1951, ông là phái viên Bộ Quốc phòng, tham gia chiến dịch với Đại đoàn 312 và Đại đoàn 304. https://thuviensach.vn Tháng 7 năm 1952, Thiếu tướng Hoàng Sâm làm Tư lệnh Liên khu 3. Những năm 1953, 1954, ông là Đại đoàn trưởng Đại đoàn 304, Chỉ huy trưởng mặt trận Trung Lào. Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, ông chỉ huy tiếp quản Sơn Tây, Hà Đông; là Đại đoàn trưởng Đại đoàn 320, chỉ huy tiếp quản Hải Phòng. Giai đoạn 1955 - 1968, Thiếu tướng Hoàng Sâm là Tư lệnh các quân khu: Tả Ngạn, Hữu Ngạn, Quân khu 3, Trị - Thiên. Ông là Đại biểu Quốc hội khóa II, III. Ông được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất... (Nguồn: Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, trang 482) Ký ức về bố Hoàng Sâm Hoàng Sùng [5] Những ký ức mà tôi được biết về bố tôi, liệt sĩ, Thiếu tướng Hoàng Sâm không nhiều vì khi bố mất tôi mới 16 tuổi, còn em trai út mới 7 tuổi, nhưng đã có nhiều dịp được các bác, các chú đồng đội của bố tôi kể lại. Hồi còn nhỏ khi ngồi chơi với bố, tôi hay hỏi vì sao bố bị nhiều sẹo nhỏ ở chân và cả tay nữa thế, thì bố tôi nói bị nhiều vắt cắn khi phải ngủ nhiều đêm trong rừng, rồi mùa đông ngủ trong hang núi, giật mình tỉnh dậy thì đã thấy một con rắn to chui vào chăn ngủ chung - còn bé nên nghe bố kể chuyện tôi sợ lắm. Hồi chiến tranh phá hoại đi sơ tán ở Thái Nguyên, tôi mới biết con vắt và bị vắt cắn như thế nào. Có lần tôi nhìn thấy vết sẹo to bằng ngón tay ở trên khoeo chân, hỏi ra thì bố tôi kể khi đi công tác bị địch phục kích bắn rất nhiều, bố tôi bị trúng 1 viên đạn, thoát được quân địch nhưng vì máu ra nhiều nên bố bị ngất đi. Sáng sớm đồng bào lên rẫy thấy và cõng về bản đắp lá, bóp được đầu đạn ra, chữa lành mới cho đi tiếp. Khi ở chiến khu Việt Bắc, bố tôi đi công tác xa nhiều, vì thế có một ông gọi là quan lang nổi tiếng trong vùng vì có thiện cảm với cách mạng đồng thời mến mộ ông Hoàng Sâm nên một hôm đã đem đến tặng cho một con ngựa vừa đẹp, khôn và cá tính. Con ngựa này ngoài chủ còn không ai https://thuviensach.vn cưỡi được nó (nhiều người thử cưỡi đều bị nó hất ngã xuống đất, hoặc nằm lăn ra để đè lên). Vì thế bố tôi có ngựa đi công tác đỡ vất vả lại nhanh chóng, an toàn do con ngựa này không sợ tiếng súng, đi nhanh, không sợ gặp hổ. Khác với các con ngựa khác, con ngựa này khi ăn cỏ, thóc bao giờ cũng phải có một ít thuốc phiện trộn vào. Sau Cách mạng Tháng Tám bố tôi chỉ huy đoàn quân Tây Tiến theo chỉ lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Mẹ tôi có kể cho chúng tôi nghe về đoàn quân Tây Tiến khi tiến vào rừng sâu nước độc, không chiến đấu nhiều nhưng tổn thất do bệnh tật mà chủ yếu là sốt rét (vì mẹ tôi hồi đó công tác ở kho quân lương). Chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc sống trong hòa bình. Bố tôi được đi học tại Học viện Quân sự Mátxcơva, tiếp đó là Học viện Quân sự Bắc Kinh. Công tác ở Quân khu Tả ngạn một thời gian thì năm 1961 bố tôi được Bộ Quốc phòng cử sang Lào cùng chiến đấu, xây dựng lực lượng Pathét Lào. Thời gian mấy năm đó bố tôi đã được quân dân nước bạn quý mến. Vì thế, cũng những năm đó, một số tướng lĩnh Lào cùng vợ con sang Việt Nam thăm Bộ Tư lệnh Quân khu Tả ngạn và gia đình tôi. Trong cuộc gặp thắm tình hữu nghị, đoàn kết và tình bạn tình đồng chí, họ chia tay nhau trong bữa cơm thân mật như một gia đình. Khi hoàn thành nhiệm vụ, bố tôi đã được tặng Huân chương Đầu voi cao quý của nước Lào. Khi được ở nhà những ngày nghỉ, bố tôi thường thích trồng rau, cây ăn quả cùng chăn nuôi gà, chim câu, thả cá và nuôi một vài con chó. Thỉnh thoảng đi công tác xa trên quãng đường dài, trở về đi qua chợ quê, bố tôi và các chú, các bác thường nghỉ chân xem chợ, tiện thì mua ít gà con, cây giống và hạt rau đem về, sau đó giao nhiệm vụ ấy cho tôi (bố tôi có dạy cách làm và kiểm tra). Mỗi chiều đi làm về, bố tôi lại chăm sóc cây, cho gà ăn. Bố tôi thích nuôi gà để lấy trứng cho cả nhà ăn, cho gà ấp vài ổ để có thêm gà con, còn lại là gà giò để khi cần thì thịt. Tôi còn nhớ khi cuối năm sắp Tết khoảng tháng 10 thì phải, có hai con gà trống thiến nuôi hàng bữa cho ăn cơm nóng (nắm chim chim rồi bóp mỏ cho gà nuốt cùng nước). Tết đến thịt gà luộc xong đem treo lên khoảng 2 tiếng mới đem xuống chặt ra https://thuviensach.vn xếp vào đĩa, để khách đến nhà cùng gia đình thưởng thức. Bố tôi bảo làm thế thịt gà ăn sẽ ngon hơn. Những cách làm này bố tôi đều được học của đồng bào dân tộc vùng rẻo cao trong kháng chiến chống Pháp. Mẹ tôi tên là Phan Thị Mỹ Lệ, thời Pháp thuộc là nữ sinh Trường Đồng Khánh, Hà Nội (nay là Trường Trưng Vương), sau đó là giáo viên cấp II dạy các môn xã hội như Văn, Sử, Địa (trong kháng chiến chống Pháp có vài năm phục vụ tại kho quân lương ở chiến khu Việt Bắc). Vì vậy sau những giờ ở trường, mẹ tôi có thời gian ở nhà để chấm bài, thu xếp việc nhà, chăm nuôi dạy dỗ con cái, đồng thời lo cho bố tôi từng bữa cơm, chuẩn bị trước và sau khi đi công tác về. Bố thường thức khuya làm việc và dậy rất sớm nên bao giờ mẹ tôi cũng dậy trước đó đun nước và pha một ấm trà để bố uống, sau đó ăn sáng chủ yếu là bát cơm nếp hoặc cơm rang. Trong bữa cơm hàng ngày ông ăn không nhiều nhưng bao giờ cũng phải có một hoặc hai chén rượu, cuối cùng mới uống một bát nước canh chứ không chan với cơm như mọi người thường làm. Cùng với những lần đi công tác hay nghỉ chủ nhật, bố tôi hay cùng các chú lái xe, bảo vệ đi bắn chim, mục đích là rèn luyện, cùng nhau vui vẻ, khi về liên hoan mừng thắng lợi. Khi công tác ở chiến khu, bố tôi đã được đồng bào, đồng đội quý mến cho tới tận sau này. Tôi được biết trong cuộc kháng chiến chống Pháp, bố tôi có hai người em kết nghĩa, sau này đều là những sĩ quan quân đội: Việt Hồng (quê ở Hương Canh, Vĩnh Phú) đã từng tham gia giải đua mô tô của quân đội các nước xã hội chủ nghĩa, mang huy chương về cho Quân đội nhân dân Việt Nam và Đức Long (dân tộc Dao đỏ) công tác ở Đoàn văn công Quân khu 1. Trong kháng chiến chống Pháp chú Đức Long làm liên lạc ở chiến khu. Đến nay các chú không còn nữa nhưng trong tôi vẫn nhớ như in những dịp bố tôi cùng các chú ngồi nói chuyện cười vang khi ôn lại chuyện xưa. Trên đường đi công tác hay ngày nghỉ chủ nhật khi không đi công tác, bố tôi thường ghé thăm các bạn hữu trong kháng chiến như các bác Lê Quảng Ba - Bằng Giang - Nam Long, ở Thái Nguyên; như bác Mai Trung https://thuviensach.vn Lâm ở công an vũ trang hoặc bác Tỷ cùng gia đình sống ở bãi giữa dưới chân cầu Long Biên hoặc các già bản trên núi rừng đã từng nuôi dưỡng. Tình cảm gặp gỡ thiêng liêng ấy đều được chúc tụng thông qua những chén rượu nồng cùng những câu chuyện đầy ý nghĩa trong tình đồng chí đồng đội. Quà của núi rừng Việt Bắc là chút măng khô hay chai mật ong, chút mộc nhĩ thắm đượm tình anh em. Khi rảnh rỗi có điều kiện, bố tôi tự làm và cho mọi người thưởng thức những món ăn từ thời kháng chiến chống Pháp như củ sắn hoặc cá nướng bằng than củi phía trên có để những cục đá, như thế cá và sắn chín giòn và không bị cháy. Mọi người thưởng thức đều khen. Nhà tôi thỉnh thoảng có khách tới chơi (đều là các cô, chú, bác cùng công tác với bố tôi). Bố tôi thường nhắc tôi chào bằng bác, sau này tôi có thắc mắc thì bố tôi nói con cứ chào thế mặc dù chú đó ít tuổi hơn bố. Đấy là chào nể, là tết con ạ. Một hôm buổi sáng khoảng năm 1961 - 1962 bố tôi xách cặp đi làm bên Quân khu, gần nên đi bộ - khi tới cổng Bộ Tư lệnh chào xong chú gác cổng nhất định không cho vào. Bố tôi hỏi chú ấy tại sao không cho vào thì chú ấy nói sao binh nhì lại già thế. Khi chú trực ban ra thì ông mới được vào. Trong bữa cơm cùng gia đình, vì thời kỳ đó thật khó khăn, thường thì bố tôi ăn chung nhưng có tiêu chuẩn riêng bao giờ bố tôi cũng gắp thức ăn đều cho mọi người. Tuy tôi còn bé nhưng bố tôi đã hướng dẫn và dạy tôi làm nhiều việc như chăn nuôi, dọn vườn, trồng trọt, lau đánh giày, hay lau chùi các loại súng đạn của bố nên đến bây giờ tôi thích làm các việc mà trước đây tôi đã từng làm và yêu thích. Tôi nhớ mãi giữa năm 1968 thì bố tôi được lệnh đi chiến trường B. Khi ấy Quân khu 3 đang đóng quân tại Chi Nê (Hòa Bình), cả nhà tôi cũng đã sơ tán ở đó. Trước lúc đoàn xe được ngụy trang tiến về phía Nam, cả nhà đưa tiễn bố lên đường. Chúng tôi chỉ biết im lặng nhìn theo còn mẹ tôi đứng đó khóc thầm nhìn bố tôi ra đi khi trời còn chưa sáng. https://thuviensach.vn Từ chiến trường ác liệt bom đạn, bố tôi có gửi được một số thư về cho mẹ kể nhiều chuyện trong chiến trường và tình hình mọi mặt. Các thư viết bố tôi đều gọi mẹ tôi là mẹ Lan (lấy tên của chị cả tôi). Lá thư cuối được viết dài hơn, gần hết hai trang giấy. Có đoạn bố tôi đã viết: "Bái biệt Lệ (đấy là tên của mẹ)" để tỏ lòng biết ơn người bạn đời đã cùng chung sống bấy nhiêu năm. Những năm tháng được chung sống cùng bố tôi không nhiều nhưng chúng tôi là những người con đã học được ở ông đức tính giản dị khiêm nhường, chịu thương chịu khó, không ngại gian khổ và rất có tình nghĩa. Các con, cháu, chắt của ông luôn tự hào vì đã có người cha - ông - cụ như thế. Hai bài thơ ngắn do mẹ tôi viết sau khi bố tôi mất, cùng với cảm xúc khi Bác Hồ mất năm 1969. Tưởng nhớ anh Hoàng Sâm Vẫn mái nhà xưa anh đi đâu? Na, cam… ra quả đượm muôn sầu. Ơn người chăm sóc không còn nữa? Quả trĩu trên cành nghĩa nặng sâu. Giàn lý, giàn nho, nọ cây đào! Nhớ anh trước gió lá rì rào. Phi lao thẳng tắp vi vu mãi… Mát rượi mong anh tự hôm nao. Nhìn cá lội bơi lúc xế chiều Thương anh mơ ước biết bao nhiêu Trở về ta nấu nồi riêu cá Chan húp mát lòng bên con yêu. Anh đã đi rồi theo tổ tiên Nhà xưa vắng vẻ cảnh triền miên Hương thơm tỏa khói bao quanh ảnh Hồn nhắn vợ con sống nhẫn kiên. Cỏ đã mọc xanh trên mộ rồi! Thương anh ngồi khóc lệ tuôn rơi. https://thuviensach.vn Tình riêng nhỏ bé bên non nước, Khắc phục lâu dài nỗi đầy vơi… Ước mơ Tổ quốc được thanh bình Con cháu tự do sống quang vinh Nghĩa cả quên mình anh không tiếc Ngàn thu yên nghỉ dạ đinh ninh… Hà Đông, tháng 1 năm 1969 Bác Hồ và anh Sâm Nước mắt chan hòa Bác tới thăm Con sao không dậy vẫn yên nằm? Phải chăng trọn vẹn tình non nước Ngủ giấc say sưa với tháng năm. Bác tặng vòng hoa đẹp nhất hoa Đặt bên linh cữu thật xót xa Cúi đầu vĩnh biệt con thương tiếc Cảm động, run run, Bác lặng… ra. Chín tháng trôi qua rồi một ngày: Bác Hồ tạ thế, gió heo may. Ra đi trời khóc, muôn người khóc Tang tóc, biệt ly, ôi đắng cay. Người "đi" nghĩa vụ đã xong rồi Tiếp bước cha anh tiến lên thôi Nam, Bắc hai miền giành thắng lợi, Bài ca Độc lập vọng muôn nơi. Tháng 5 năm 1970 https://thuviensach.vn 6 Thiếu Tướng Nguyễn Sơn Thiếu tướng Nguyễn Sơn (1908 - 1956) tên thật là Vũ Nguyên Bác, quê ở xã Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Ông tham gia cách mạng năm 1925, được phong Thiếu tướng năm 1948; đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1925, ông tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội), được Nguyễn Ái Quốc giới thiệu vào học Trường Quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc). Tháng 8 năm 1927, ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc; tham gia khởi nghĩa Quảng Châu. Năm 1929, ông tham gia Hồng quân công nông (Trung Quốc), đảm nhiệm các chức vụ Chính trị viên đại đội, Chính ủy trung đoàn, Chủ nhiệm chính trị Sư đoàn 34, Quân đoàn 12. Tháng 1 năm 1934, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản nước Cộng hòa Xô viết Trung Hoa, Ủy viên Chính phủ Dân chủ công nông Xô viết Trung ương. Từ năm 1934 đến năm 1936, ông tham gia Vạn lý trường chinh; là Tổng biên tập báo "Kháng địch" của Biên khu Tấn - Sát - Ký. Năm 1938, ông là giáo viên chính trị trường Cán bộ Quân chính kháng Nhật, Biên khu Tấn - Sát - Ký. Năm 1945, ông về nước, đảm đương chức vụ Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ. Trong các năm 1946, 1947, ông là Hiệu trưởng Trường Lục quân trung học Quảng Ngãi; Tham mưu trưởng Bộ Quốc phòng; Cục trưởng Cục Quân https://thuviensach.vn huấn Bộ Tổng Tham mưu; Khu trưởng Khu 4. Từ năm 1948 đến năm 1949, ông là Tư lệnh kiêm Chính ủy Liên khu 4. Năm 1950, ông được cử trở lại Trung Quốc. Năm 1954, ông là Cục phó Cục Điều lệnh Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc; Giám đốc tòa soạn tạp chí "Huấn luyện chiến đấu", Thiếu tướng Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc. Năm 1956, ông về Việt Nam. Ông là tác giả của một số tác phẩm và bài viết về quân sự và văn học bằng tiếng Việt và tiếng Trung. Ông được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì... (Nguồn: Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, trang 723) Con gái khi về già nhớ bố mẹ Nguyễn Thanh Hà [6] Đã cuối năm 2014, những ngày cuối cùng của tháng 12, đông lạnh tôi đã sang tuổi 66 của cuộc đời, cứ ngồi một mình lại nhớ bố Sơn, mẹ Huân, lại nhớ những ngày không nhiều trong cuộc đời có đủ cả bố mẹ và các em Cương, Hồng, Hằng ở Bắc Kinh, Trung Quốc. Bắc Kinh bây giờ thay đổi rất nhiều, chẳng ai giúp tôi biết được ngày xưa ấy ở cùng bố Sơn, mẹ Huân là ở đâu. Tường Thu con gái tôi đang công tác ở bên ấy (cháu là Trưởng Thông tấn xã Việt Nam ở Bắc Kinh) nhiều lần động viên mẹ: mẹ thử nhớ bằng linh cảm xem sao? Thật khổ, hồi ấy tôi mới 5, 6 tuổi, bé tí. Bây giờ tôi nhớ dần từng kỷ niệm có bố Sơn, mẹ Huân rồi biết đâu bố mẹ lại cho tôi cái linh cảm chính xác. Ngày ấy nhà mình ở tầng dưới phía trái của một tòa nhà hai tầng trong một doanh trại lớn của bộ đội Trung Quốc, cổng doanh trại nằm trên đường Tràng An kéo dài về phía tây Bắc Kinh, mình vẫn nhớ doanh trại ấy nằm phía nam đường Tràng An. Chẳng biết bố Sơn mang từ đâu về một cái đĩa đen to có bài thơ "Đêm nay Bác không ngủ", tóc bố xoăn tít, miệng ngậm điếu thuốc lá, mắt nheo https://thuviensach.vn nheo gọi mấy chị em mình, Hà gà tồ khoảng 5 tuổi, Cương chúa phá 4 tuổi, Hồng mắm tôm mới hơn 2 tuổi nhưng đã bập bẹ tiếng Việt cùng vào nghe mà nghe đi nghe lại bài thơ: "Đêm nay Bác không ngủ" bằng tiếng Việt Nam. Khả năng thuộc lòng của mình kém nên không thuộc được nhưng bố Sơn có nói về Bác Hồ cho lũ trẻ thơ ngây chúng mình nghe. Mình vẫn nhớ căn phòng làm việc của bố toàn sách. Mẹ Huân sinh em Hằng xong thì cả nhà lại chuyển vào khu trung tâm hơn. Năm 1990 mình nghỉ hưu sang Trung Quốc đi buôn, có được chú Hàn Thư Văn và anh Trần Hàn Phong dẫn đến khu nhà giống hệt nhà hồi ấy là khu nhà bác Tôn Nghị ở. Bây giờ chắc họ đã giải tỏa gần hết. Tại khu nhà mới có bếp ở phía trong nhà, vào ngày chủ nhật bố mẹ hay làm cơm mời các cô bảo mẫu người Trung Quốc trông bọn mình và các chú bộ đội Trung Quốc bảo vệ bố mình cùng ăn cơm. Hình ảnh bố Sơn tay cầm chảo xào nấu mà lửa bốc lên cao trong chảo in rất sâu trong trí nhớ của mình. Mình thì thích và nhớ món chẻo của người dân Đông Bắc Trung Quốc, cả nhà đều gói chẻo, bố Sơn, mẹ Huân và các cô bảo mẫu cùng gói còn các chú thì luộc và vớt. Bọn trẻ chúng mình vui lắm cứ chạy vòng quanh. Sau này mỗi lần nhìn thấy các đầu bếp cầm chảo có lửa bốc cao trong chảo, mình lại nhớ hình ảnh bố Sơn. Trong nhà mình đã thành thói quen từ bao giờ chẳng biết nữa, bọn trẻ chúng mình trong nhà, nói với nhau và với bố mẹ là phải nói tiếng Việt Nam. Nhiều ngày chủ nhật bố mẹ hay đưa Hà gà tồ và Cương chúa phá vào các trường đại học có anh Vũ Tuyên Hoàng, anh Vũ Huyền Giao con trai bác Lê Hằng Phương với bác Vũ Ngọc Phan. Mình học nói cho chuẩn tiếng Việt Nam. Mình còn nhớ rất rõ một lần bố mẹ và hai đứa chúng mình cùng đi trong sân trường với các anh, mà anh Giao cứ nhắc bọn mình nói đi nói lại từ "tàu bay", nói đi nói lại anh vẫn không chịu, đến bây giờ trong lòng vẫn không biết hồi bé nói sai như thế nào. Lần khác, Cương chạy từ ngoài sân về mách mẹ Huân bằng tiếng Trung Quốc, hình như mách mẹ cái gì đó về mình, bố Sơn từ trong phòng sách đi ra, nghe được giận quá, đá phốc vào đít Cương, Cương lăn vài vòng mà không dám khóc. Chị em mình đứa nào cũng rất nhớ nỗi giận ấy của bố. https://thuviensach.vn Thời cuối những ngày ở Bắc Kinh ấy, mình rất thương bố. Phát hiện bố mắc bệnh ung thư phổi. Bố được đưa đến bệnh viện chuyên chữa phổi để mổ. Mình nhớ mình gặp cô Hồ Thị Bi ở bệnh viện gần núi ấy. Mình quá bé để hiểu nhưng mẹ Huân bảo sáng ngày thứ nhất bố mổ, nặng quá bác sĩ lại khâu lại, chiều hôm ấy bố Sơn đã tỉnh, ngày thứ hai bố ngồi dậy được. Ngày thứ ba mẹ Huân đưa mình đến bệnh viện thăm bố. Bố Sơn đã ra ban công vẫy mình đang đứng ở sân. Khi bố đã về nhà, có lần bác sĩ thay băng cho bố, mình trực tiếp được nhìn thấy vết mổ của bố, chỉ còn vai trái là bố đứt người ra làm đôi. Bây giờ nhớ lại thì biết bố đau đến thế nào. Bố Sơn mình yêu các con lắm, lúc bố còn học ở Học viện Quân sự ở Nam Kinh, mẹ Huân, em Cương và mình cùng ở với bố. Bố học ở đấy từ năm 1951 đến năm 1954. Chẳng biết từ mấy tuổi mình được gửi vào nhà trẻ. Tối chủ nhật vào trường, tối thứ bảy được bố mẹ đón về nhà. Chẳng biết mấy tuổi nhưng vẫn nhớ sự nôn nóng mong bố mẹ đến đón của mình. Mình nhớ hình ảnh bố Sơn luôn dang tay đón mình chạy ào vào lòng bố, được bố bế xốc lên cao sung sướng. Mình vẫn nhớ hồi ấy ở Nam Kinh có bánh chưng gói cùng với táo tàu, nhưng gói như bánh giò của Việt Nam. Mỗi lần đưa mình vào trường, bố cũng mua cho mình một túm nhiều cái cho mang vào trường. Cái đêm mẹ sinh em Việt Hồng ở Nam Kinh, mình vẫn nhớ là mẹ không vào viện mà sinh ngay tại nhà riêng. Bố rất lo lắng, nhà rất đông người, mình cứ chạy đi chạy lại, thấy tiếng em khóc, thấy bố ôm chặt em. Thế là mình có hai đứa em là Cương và Việt Hồng. Về Bắc Kinh, khi vẫn còn trong doanh trại quân đội, mẹ sinh em Hằng ở bệnh viện, hôm bố đón em về mình nhớ lại không có mẹ đi cùng. Bố cứ bế và trêu em suốt dọc đường, bố rất vui, rất yêu em. Mình cứ nhớ vậy, nhưng thật lạ vì em còn rất bé nhưng bố cứ xốc nách giơ em lên cao. Lần mình về Triệu Sơn, Thanh Hóa, đến thăm một bà cho bố mẹ mình ở nhờ nhà khi bố mẹ vừa cưới, lại còn cho bố mẹ nằm cái giường đôi duy nhất có trong gia đình. Bà già kể: tôi có cậu con trai bé, ông Sơn rất thích bế và tung cậu bé lên cao. Mình nhớ ngay đến hình ảnh hồi bé bố đón em Hằng ở Bắc Kinh. https://thuviensach.vn Em Hằng sinh ngày 8 tháng Giêng năm 1955, khi bố Sơn mất ngày 21 tháng 10 năm 1956 em còn rất bé, mới chưa đầy 2 tuổi. Bố Sơn đặc biệt chú ý đến ngày sinh nhật của mỗi người trong nhà, mình thì nhớ lắm ngày sinh nhật của mình là ngày 15 tháng 8. Bố Sơn, mẹ Huân năm nào vào ngày này cũng chuẩn bị hai mâm to hoa quả mà mình thích. Mâm quả đó đầy đào, táo, lê, nho, quýt, chắc mình còn bé nữa nên thấy hai mâm quả to lắm. Sinh nhật mọi người có gì thì mình không nhớ nhưng ngày sinh của từng người trong nhà thì rất nhớ, nhớ đến tận già. Sinh nhật bố Sơn là ngày 1 tháng 10 năm 1908. Sinh nhật mẹ Huân là ngày 7 tháng 4 năm 1926. Sinh nhật em Cương là ngày 23 tháng 9 năm 1950. Sinh nhật em Hồng là ngày 2 tháng 10 năm 1953. Sinh nhật em Hằng là ngày 8 tháng Giêng năm 1955. Một lần bác Nguyễn Chánh cùng với mấy người đến thăm bố mẹ mình trong doanh trại quân đội Trung Quốc, bác cho chị em mình kẹo để trong lọ thủy tinh có hình ô tô rất đẹp, mình và em Cương sướng lắm. Rồi bố Sơn mời đoàn của bác Chánh đi ăn vịt quay Bắc Kinh, mình còn nhớ cửa hàng ở quảng trường trước Thiên An Môn. Lúc họ thổi vịt cho phồng to, bọn trẻ tụi mình chạy ngay đến chỗ họ thổi vịt, thấy lạ lùng, thích thú. Chắc là vào những ngày tháng 9 năm 1956, cả nhà ra ga Bắc Kinh lên một toa tàu hỏa. Rất đông người ra tiễn bố mình, bọn trẻ con thì sung sướng chạy lon ton. Mình còn nhớ toa cuối của đoàn tàu, cuối toa là một phòng có bàn to và ghế, còn lại là các phòng nhỏ, mỗi phòng có 4 giường. Bố Sơn nằm phòng đầu tiên rồi đến phòng 5 mẹ con mình. Còn lại mấy phòng là của chú Hàn Thư Văn, bí thư của bố, các chú bác sĩ bộ đội Trung Quốc. Mình nhớ rất rõ mỗi phòng hàng ngày đều có một đĩa hoa quả to bự. Hồi đó mình thích một loại quả gì đấy, bây giờ thì chẳng nhớ được. Mình chén hết quả trong phòng mình rồi sang phòng bố, không dám sang phòng các chú Trung Quốc. Bố mệt nằm ngồi dựa vào thành toa, nhưng thấy mình vào bố vẫn nhẹ nhàng: "Con thích thì cứ lấy ăn đi", cũng chẳng nhớ bao lần như vậy. https://thuviensach.vn Hồi đó sông Hoàng Hà và sông Trường Giang đều chưa có cầu. Tàu qua sông đều phải xuống phà. Mình và em Cương thì mỗi lần tàu xuống phà đều chạy ra khỏi toa thích thú. Nhưng bố Sơn rất mệt vẫn từ từ ra cửa toa, mẹ Huân và các chú bác sĩ ngăn không được. Lớn lên mới hiểu bố ra tạm biệt hai dòng sông - thực ra là vĩnh biệt hai dòng sông đã gắn với bố Sơn biết bao kỷ niệm, bố ra tận hưởng gió và hơi của sông. Mỗi lần bố ra rồi vào rất mệt. Mẹ Huân và các chú bác sĩ lại xúm vào chăm sóc bố. Thỉnh thoảng đi qua thành phố nào đấy lại có các đoàn người Trung Quốc lên tàu thăm hỏi, nói chuyện với bố mẹ. Nhớ nhất là khi đến Bằng Tường thì xuống ga vào lúc trời tối - cả đoàn xe đi đến một nhà khách của Trung Quốc. Tuy bọn trẻ chưa hết mệt nhưng đã thấy một đoàn xe ô tô của Việt Nam mà mẹ Huân giải thích: Các chú bộ đội Việt Nam đi một đoàn xe lên đón bố và cả nhà mình. Sau này lớn rồi mới biết bác Văn và Bộ Quốc phòng Việt Nam giao cho chú Hoàng Minh Phương đi một đoàn xe lên đón ở Bằng Tường. Sáng sớm hôm sau, lại lên đường bằng xe ô tô. Đến một bãi đất rộng bố Sơn đề nghị cho cả đoàn xuống ngồi nghỉ và ăn sáng. Mình bé quá nhưng vẫn nhớ ngồi ở một bãi cỏ ven đường. Bên kia đường có núi và có hai thác nước đổ xuống trông rất đẹp. Sau năm 1992, mình nghỉ hưu thường đi xe khách lên Bằng Tường tìm đường làm ăn, mình rất chú ý thì chỉ có hai thác nước ấn tượng với trí nhớ trẻ thơ của mình ở mỏ đá Đồng Mỏ. Nhưng người lớn biết thì lại bảo ở Đồng Đăng. Mình rất để ý nhưng từ Cửa khẩu Hữu Nghị đến Đồng Đăng, thậm chí đến thành phố Lạng Sơn cũng không có bãi cỏ, bãi đất nào đúng với ấn tượng trong trí nhớ của mình lúc còn bé mới 7 tuổi. Về đến Hà Nội trời cũng đã tối, mẹ Huân mượn xe đạp đèo mình đến ngay phố Yên Ninh, đến nhà chị Các báo cho anh chị là bố Sơn đã về đến Hà Nội. Chị Các vừa đi bán hàng xén về, anh chị vội vàng đưa các cháu đến gặp bố Sơn. Mình nhớ anh Quang, chị Các và các cháu đến, tuổi ngang bọn mình, được bố Sơn, mẹ Huân cho ăn chuối tiêu chín cuốc và cốm Vòng. Bố Sơn dù rất mệt nhưng vẫn vui vẻ ngắm con gái cả và các cháu ngoại ăn cốm. https://thuviensach.vn Sáng sớm hôm sau, mẹ Huân lại đèo xe đạp chở mình đến tòa soạn Báo Nhân dân ở phố Hàng Trống, vào nhà bà vợ ông Hồ Học Lãm đón chị Mai Lâm (lúc đó Hội Phụ nữ Trung ương giao chị cho bà Hồ Học Lãm nuôi). Phải đợi một lúc chị Mai Lâm mới về. Ấn tượng đầu tiên của mình khi gặp chị là tóc chị xoăn xoăn, người rắn rỏi. Mẹ Huân đón ngay chị về ở với bố Sơn. Chị em mình ở với nhau từ ngày đó. Ngôi nhà biệt thự số 91 phố Lý Nam Đế, một bên là đường tàu hỏa, sân rất rộng. Sau mấy ngày các chú Trung Quốc về nước, ngày nào bố cũng có nhiều khách đến thăm. Hôm đấy khi tiễn các chú, bố buồn lắm. Và bố phải vào nằm viện - Bệnh viện Hồng thập tự Việt Xô. Cứ chủ nhật các cô chú trông bọn trẻ chúng mình đều đưa vào thăm bố, mẹ thì ở bệnh viện với bố luôn. Một lần các chú cho vào thăm bố và hứa là về thì cho mấy chị em ra Bờ Hồ. Nhưng vào bệnh viện bố Sơn bảo mẹ Huân: "Em cho các con về đi, anh nhìn thấy chúng nó anh buồn lắm". Thế là các chú đưa về không cho đi Bờ Hồ. Về đến nhà chị Lâm rủ mình: "Chị đưa em ra Bờ Hồ, chị biết đường". Mình nghe chị, đi với chị. Hôm đó ở Bờ Hồ có đua thuyền, rất đông người. Chiều nhá nhem hai chị em mới về đến phố Lý Nam Đế ở Cửa Đông. Đang đi trên đường vắng ngắt, gặp một cô trông bọn mình, cô gọi: "Hai chị em về ngay, mọi người tìm các cháu mãi. Bố các cháu mất rồi". Mình còn chưa hiểu "mất" là gì. Chị Lâm giơ tay tát "bốp" vào mặt cô rồi khóc. Hai chị em được các cô chú đưa vào bệnh viện. Chạy vào đến phòng bệnh thấy bố nằm yên trên giường bệnh, mẹ Huân ôm lấy hai chị em nhẹ nhàng bảo: hai con ra hôn bố đi. Chị Lâm vừa khóc vừa chạy ra ôm bố hôn. Tội nghiệp chị ở trong nước biết "mất" là thế nào, mà mới về với bố đẻ được 3 tuần thì bố đã ra đi, chị khóc rất ghê. Mình thì chẳng biết gì, chạy ra ôm bố hôn vào má hóp lạnh ngắt của bố. Bố nằm yên lặng… Mình nghĩ bố đang ngủ sao lại lạnh thế nhỉ - chẳng biết gì nên không khóc. Hôm sau các cô chú đưa ra câu lạc bộ Quân đội mặc cho áo xô, quan tài của bố choàng lá cờ đỏ sao vàng, chị Các khóc rất ghê. https://thuviensach.vn Lúc Bác Hồ đến, mẹ Huân chạy ra nói với Bác: "Bác ơi, anh Sơn mất rồi" rồi khóc, còn bọn mình chạy ra đứng cạnh được Bác vuốt tóc. Mình vẫn chẳng biết và hiểu gì, cứ thấy bao nhiêu đoàn bộ đội vào viếng. Lũ trẻ lại còn rủ nhau ra bể bơi đằng sau nghịch. Mãi đến lúc đoàn viếng đám tang rất dài và dân đứng đông hai bên lề đường, đông lắm, mình vẫn còn ngẩn ngơ, đi theo xe một cô nào đấy dỗ mình chứ mình không đi với mẹ và các chị, các em. Đến lúc hạ quan tài có bố nằm trong xuống huyệt - lúc này mình mới chạy ra bờ huyệt - thế này thì bố bị chôn xuống đất rồi, bố không về được nữa, mới kêu gào khóc gọi bố. Sau những ngày tang, nhà rất vắng và mình thấy cần mẹ hơn trước vô cùng vì chẳng còn bố Sơn của chúng mình nữa. Một lần nữa mẹ kể với mình - con gái lớn nhất của mẹ đẻ ra - mới được 7 tuổi vài tháng: "Đảng và Chính phủ Trung Quốc cho bố một số tiền lớn con ạ, nhưng bố nói với mẹ là: anh đi làm cách mạng chứ có đi làm thuê đâu mà nhận tiền, nộp cho nhà nước em nhé. Anh sẽ viết sách lấy tiền nuôi các con em ạ. Nếu anh mất thì em hãy lấy tiền này gửi vào ngân hàng lấy lãi hàng tháng để nuôi các con còn quá bé của chúng mình". Hôm chú Hãnh làm việc ở Cục Cán bộ thuộc Tổng cục Chính trị mang hóa đơn nhận tiền đến, mẹ Huân đã không nhận và nói với chú Hãnh: "Anh Sơn đã dặn tôi là anh đi làm cách mạng chứ không phải là đi làm thuê nên tôi không nhận số tiền này được đâu, tôi phải làm theo lời anh dặn". Chị Các hơn mẹ Huân 2 tuổi. Chị sinh năm 1924 còn mẹ Huân sinh năm 1926. Chị có nói với mình nhiều lần: Hồi đấy ở Hà Nội một căn nhà có giá 1.000 nhân dân tệ, mà mẹ Huân nộp 28 căn nhà đấy em ạ. Hồi bé khi mấy chị em ngồi ăn cơm với tép rim với rau muống luộc và mỗi đứa chỉ có hai bộ quần áo lành, Bác Hồ gọi cho vào ăn cơm mà nhiều lần phải mặc áo ẩm chưa khô - lại ngồi tán với nhau: Giá mẹ giữ lại một phần tiền thì 5 chị em mình đỡ khổ nhỉ. Khi em Việt Hồng bị tâm thần phân liệt năm 1975, mẹ rất vất vả, bọn mình đều bộ đội, mình khuyên mẹ xin lại một ít tiền để mẹ nuôi chăm em. https://thuviensach.vn Mẹ Huân mình đã viết thư cho chú đại tá Hoàng Hải Phòng Hậu phương, Cục Cán bộ, Tổng cục Chính trị là không được cho bọn mình nếu bọn mình viết đơn gửi các chú. Mỗi lần viết lại những kỷ niệm về bố Sơn và mẹ Huân, mắt mình luôn nhòe lệ. Vậy đấy, bây giờ sang tuổi 66 và năm thứ 11 bị tai biến mạch máu não, càng nghĩ càng hiểu càng thương quá bố Sơn, mẹ Huân mình và rất tự hào được làm con gái yêu của bố mẹ. https://thuviensach.vn 7 Đại Tướng Hoàng Văn Thái Đại tướng Hoàng Văn Thái (1915 - 1986) tên thật là Hoàng Văn Xiêm. Ông quê xã Tây An, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Ông tham gia cách mạng năm 1936, vào Đảng năm 1938, nhập ngũ năm 1944, được phong Đại tướng năm 1980. Năm 1940, ông bị thực dân Pháp bắt giam. Năm 1941, ông chỉ huy Tiểu đội cứu quốc quân Bắc Sơn. Đến tháng 12 năm 1944, ông phụ trách công tác tham mưu trinh sát của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Từ tháng 3 đến tháng 8 năm 1945, ông tham gia chỉ huy giành chính quyền ở Chợ Đồn, Lục An Châu và Tuyên Quang; phụ trách Trường Quân chính kháng Nhật ở Tân Trào. Tháng 9 năm 1945, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ tổ chức Bộ Tổng Tham mưu. Giai đoạn 1945 - 1953, ông là Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ông là Tham mưu trưởng các chiến dịch: Biên Giới (1950), Điện Biên Phủ (1954)... Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, từ năm 1958 đến năm 1960, ông là Chủ nhiệm Tổng cục Quân huấn, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Thể dục Thể thao Nhà nước. Năm 1966, ông là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 5. Từ năm 1967 đến năm 1973, ông là Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, Phó Bí thư Trung ương cục miền Nam và Phó Bí thư Quân ủy Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. https://thuviensach.vn Giai đoạn 1974 - 1986, ông làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (1974 - 1981). Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ khóa III đến khóa V, là Đại biểu Quốc hội khóa VII. Đại tướng Hoàng Văn Thái được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công (hạng Nhất, hạng Nhì)... (Nguồn: Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, trang 484) Những điều ba dạy chúng tôi Hoàng Quốc Trinh [7] Hoàng Anh Tuấn [8] Ba mẹ chúng tôi có 3 người con, tôi là đứa phải xa nhà nhiều nhất, 4 tuổi (năm 1950) tôi đã đi vào nhà trẻ Việt Bắc, rồi sau đó sang Trung Quốc học. Hòa bình lập lại, tôi về nước, học phổ thông được vài năm tôi đi bộ đội, còn ba mẹ vào miền Nam mãi đến năm 1974 mới ra, khi đó tôi lại vào Nam phục vụ chiến đấu, rồi lập gia đình nên thời gian tôi bên ba không thực sự nhiều. Tuy thế, ba vẫn rất quan tâm tới việc dạy dỗ tôi và các em, mỗi khi có dịp, ba thường nhắc nhở và dạy bảo rất cẩn thận. Dù bận nhiều công việc, ông hay viết thư cho anh em tôi, cũng có lúc ông lên tận trường thăm, đồng thời hỏi han thầy cô việc học tập của chúng tôi. Về sau, mỗi khi từ miền Nam ra Bắc công tác, để đảm bảo công tác bí mật, ông không về nhà mà cho đón chúng tôi về nhà nghỉ ở Quảng Bá chơi với ông vài ba ngày. Ba tôi, dù ở đâu ông luôn theo dõi mỗi bước trưởng thành của các con mình. Thời gian tôi gần gũi ba nhiều là sau năm 1954, hòa bình lập lại gia đình chuyển về Hà Nội tại số 34 Hoàng Diệu. Hàng ngày, lúc rảnh rỗi vào buổi tối ông thường tập trung gia đình, đọc báo, tin tức cho nhau nghe, ông cũng trao đổi ý kiến với các con. Ba có đức tính luôn tôn trọng và lắng nghe tâm sự của các con, không mấy khi ông nóng giận mà luôn kiên nhẫn, hướng dẫn, uốn nắn từng chuyện cụ thể. Ba cũng thường xuyên quan tâm https://thuviensach.vn hỏi han việc học hành, với ông học tập và rèn luyện là cách để nâng cao hiểu biết và hoàn thiện con người. Một lần, ba lên thăm em tôi là Hoàng Quốc Hùng đang học tại Trường Nguyễn Văn Trỗi và gặp thầy Hòe cũng đã là giáo viên chính trị trước đây của ba. Đại tá Doãn Mậu Hòe sau này xúc động kể lại, ba tôi trước khi về đã cầm tay thầy và em tôi dặn dò: "Trước đây thầy Hòe dạy ba, nay thầy lại tiếp tục dạy con. Muốn nên người, con phải luôn "tôn sư trọng đạo", sống có nghĩa tình sau trước!". Bản thân ba không phải là người được học bài bản nhiều, nhưng ông rất chịu học, ông thành thạo tiếng Trung Quốc, tiếng Pháp, cũng như tiếng Tày, Nùng, ông còn biết cả tiếng Nga, Anh đủ để đọc tài liệu và giao tiếp. Ba còn là người có ý chí phấn đấu rất cao, năm 52 tuổi, ba xin vào Nam và ông đã đi dép cao su theo đường mòn Hồ Chí Minh như bao nhiêu chiến sĩ trẻ khác, ông là tấm gương cho chúng tôi noi theo về ý chí vươn lên, khắc phục khó khăn và tinh thần ham học hỏi, chịu lắng nghe để hoàn thiện bản thân. Ba tôi rất yêu lao động, sau mỗi ngày làm việc căng thẳng hay vào cuối tuần, ông thường cùng cả gia đình ra vườn tăng gia vừa để thư giãn vừa để giáo dục rèn luyện cho các con. Ông hay bảo nếu được chọn ba muốn làm một Giám đốc nông trường. Ông thường dạy chúng tôi: "Có lao động thì mới biết quý thành quả lao động và trọng người lao động". Vì vậy, nhà tôi lúc nào cũng có cây ăn trái, rau xanh, nào hồng xiêm, nhãn rồi su hào, bắp cải, bí xanh, ngô, khoai, sắn... và còn nuôi cả lợn, gà, vịt nữa. Ông là người dễ ăn và thích những thứ đơn giản quê hương như canh cua cà pháo, do vậy không ít lần gia đình tôi trả lại tiêu chuẩn lương thực, mang biếu hàng xóm láng giềng, hay cho gia đình các chú giúp việc của ba. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cấp trên và cũng là người bạn, người đồng chí và là hàng xóm nhà tôi đã viết về ba: "... Trong những năm tháng đảm nhiệm những chức vụ quan trọng trong Đảng, trong quân đội, anh Mười Khang vẫn giữ lối sống giản dị - cần https://thuviensach.vn - kiệm - liêm - chính, xa lạ với thói xa hoa hình thức, càng xa lạ với tệ tham nhũng, lãng phí... Anh siêng rèn luyện thân thể, lao động chân tay, đến cuối đời vẫn giữ nếp trồng rau, làm vườn như người dân ở Tiền Hải quê anh". Là một vị tướng nhưng ba luôn dặn anh em tôi không được "Con nhà lính tính nhà quan", luôn phải tôn trọng mọi người xung quanh, ra vào phải chào hỏi, thưa gửi từ anh gác cổng cho tới chú cần vụ. Tôi còn nhớ, có lần ba nói với chúng tôi: "Uy tín của ba là để làm việc, con đừng nhờ ba xin xỏ cho con điều gì". Tôi luôn nhớ điều này, sau này tôi cũng luôn nhắc nhở lời ba dặn, dạy dỗ các con của tôi giống như ba đã dạy tôi. Bản thân ba, đến lúc ông mất, tài sản giá trị nhất của ông là cái máy radio cassette mà ông thường hay nghe. Sau khi ba mất, gia đình tôi trả nhà lại cho quân đội, mẹ tôi về sống với em gái. Còn tôi, đi bộ đội từ năm 16 tuổi, các anh em tôi cũng thế, tất cả đều được trưởng thành trong môi trường quân đội cũng như bao thanh niên khác cùng thế hệ. Ba tôi sinh ra tại làng An Khang, xã Tây An, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, với ông vùng quê Thái Bình là đẹp nhất. Năm nào cũng vậy, dịp Tết ba thường dành thời gian về thăm quê và đưa chúng tôi về theo, ông luôn nhắc các con: "Không được quên cội nguồn, phải luôn tự hào về truyền thống của quê hương, dòng họ và gia đình". Tình cảm với quê hương của ba chúng tôi còn được thể hiện rõ nhất qua các tên, bí danh của ông trong quá trình hoạt động cách mạng đó là: Ngô Quốc Bình, là An, là Mười Khang và nhất là tên ông, Hoàng Văn Thái. Ba tôi còn là người rất yêu văn nghệ, ông rất thích nhảy và nhảy khá đẹp. Ông luôn khuyến khích chúng tôi hát, chơi một loại nhạc cụ gì đó, còn ông chơi đàn nhị rất hay, ngoài ra còn biết chơi đàn mandolin, biết thổi kèn acmonica và cả piano nữa. Lúc ông làm việc, ông rất thích mở nhạc giao hưởng của Beethoven, Mozart, và nhất là bài Hồ Thiên Nga của Tchaikovsky. Cuộc đời ông có rất nhiều cái được làm đầu tiên, Tổng tham mưu trưởng, Cục trưởng, Hiệu trưởng, Đại đoàn trưởng... nhưng cái ba rất tự hào được là người nhạc sĩ đầu tiên của quân đội. Ông chính là tác giả bài "Phất cờ Nam tiến", bài hát được sáng tác trước ngày https://thuviensach.vn thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ngày 22 tháng 12 năm 1944 một ngày. Cờ giải phóng phất cao Nam Tiến Trời Phương Nam dân chúng đang chờ ta Cờ Giải phóng dân chúng đang mong chờ Sông Mê Kông reo hò Kìa đang đón chờ Núi Trường Sơn vươn mình Giục quân ta mau tiến bước dâng cờ khởi nghĩa Cờ khởi nghĩa trên đài Thăng Long, kinh thành Huế, trên Sài Gòn, mũi Cà Mau Tiến bước mau, quân giải phóng. Và 9 tháng sau, lời bài hát đã thành hiện thực như một lời tiên đoán. Điều đặc biệt nữa là lời bài hát cũng như nói trước cuộc đời hoạt động cách mạng của ba, ông là một trong số ít các vị tướng trận mạc, đã chỉ huy nhiều chiến trường, qua mọi miền đất nước, từ Việt Bắc tới miền Trung Khu 5, và cho tới miền Đông và đồng bằng Tây Nam Bộ. Phải chăng con người sinh ra đã có định mệnh! Viết về ông rất khó, bản thân ông từ những ngày đầu chống Pháp cho tới lúc ông mất, không ngày nào là không viết. Ông để lại một khối lượng bản viết tay chi tiết từng ngày tháng cho tới tận ngày mất, nhưng ông không mấy khi viết về mình, ngay cả trong hồi ký như quyển "Những năm tháng quyết định", ông luôn dùng chữ "Chúng tôi" và không có dòng nào nói về bản thân mình. Gia đình tôi cũng đã nhiều lần định viết một tác phẩm văn học nói về cuộc đời ông, nhưng khó quá, sự vĩ đại nhất của ông chính là sự khiêm nhường, ông - một "Nhân Tướng" trong một "Chiến Tướng". Không ai viết về ông hơn ông cả, chúng tôi để ông kể về chính mình qua bức thư ông dặn dò chúng tôi, sau đây là một trong số đó. Thư được viết vào tháng 7 năm 1967 khi ông đang là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 5. Các con yêu quý của ba... Bữa nay có người ra, ba biên thơ thăm hỏi sức khỏe các con và các con chuyển lời thăm của ba tới các thầy, cô giáo. https://thuviensach.vn Ba đã nhận được cuộn băng ghi âm và đã nghe tiếng nói, giọng hát của Châu, Hùng, Phượng. Các con nói tốt lắm, con nào cũng hứa hẹn sẽ học rất chăm, rèn luyện đạo đức tốt, yêu thầy, quý bạn, đoàn kết học tập, có khuyết điểm thì sửa chữa. Ba tin tưởng lắm, tin vào lời hứa của các con, tin ở sự dạy bảo của các thầy cô giáo và mong các con giữ đúng lời hứa đấy. Con Châu yêu quý, con vẫn giữ được nếp học chăm, vẫn được điểm 5 nhiều phải không? Vẫn giữ vững danh hiệu "Dũng sĩ diệt Mỹ" đấy chứ? Cố gắng con ạ, và phải cố gắng liên tục cơ. Phải tự rèn luyện cho mình tinh thần tích cực tấn công trong học tập như các chú bộ đội tích cực tấn công quân Mỹ vậy. Nhưng phải chú ý giữ gìn sức khỏe cho tốt nhé, con còn đau hành tá tràng không? Nghe mẹ con nói thế. Nếu có bệnh đó phải chú ý nghe theo lời thầy thuốc, kiêng ăn những thứ gì có hại. Còn mũi con thế nào? Vừa qua sang đó lạnh, con có bị đau, khó thở không? Con chú ý tập thể dục nhé, buổi sáng, tối, mỗi giờ nghỉ tập thở thật đều, con sẽ thấy đỡ. Ba rất mong con khỏe luôn để phấn đấu học thật tốt. Con Hùng yêu quý! Được tin con rất khỏe, không ốm đau gì, ba rất mừng. Còn phần học tập, cuối năm ngoái cũng khá đấy. Ba có lời khen ngợi. Nhưng còn một số môn điểm 4 phải không? Đến nay con đã phấn đấu đạt được nhiều điểm 5 chưa? Con mong lớn lên được vào bộ đội phải không? Được, cứ cố gắng học tập đi đã và phải rèn luyện sức khỏe thật tốt, phải lao động vất vả cho quen dần đi, đến tuổi tòng quân, tùy yêu cầu của Đảng, cũng có thể con được vào bộ đội như anh Trinh của con vậy. Con đã phấn đấu học tập đạt điểm "Dũng sĩ diệt Mỹ" chưa? Nếu chưa đạt, phải phấn đấu cho đạt như chị Châu ấy. Muốn đi đánh Mỹ sau này thì bây giờ phải có tinh thần học đánh Mỹ đã. Con đồng ý chứ? Con Phượng yêu quý! Ba nghe tiếng con nói trong máy ghi âm như người lớn rồi, có lẽ bây giờ con cũng đã gần bằng chị Châu rồi đấy nhỉ? Con hát khá lắm, có phải con hát cả hai bài "Giờ xuất trận" và "Quảng Bình quê ta ơi" phải không? Tiếng hát khá hay, giọng thanh, ngân dài và rất đúng nhạc. Các cô chú ở chỗ ba ai nghe cũng khen con hát hay đấy. Con và Châu, ngoài việc học tốt, nên tham gia văn nghệ, tập hát cho thật hay nhé, khi nào gặp ba phải hát thật nhiều bài cho ba nghe đấy. https://thuviensach.vn Còn việc học tập thế nào? Con đã phấn đấu giành danh hiệu "Dũng sĩ diệt Mỹ" chưa? Còn có điểm 2... không? Con đã hứa cố gắng học tập thật tốt, rèn luyện tư cách đạo đức tốt, bỏ những cá tính xấu. Vậy con phải cố gắng thực hiện đúng đấy nhé. Các con yêu quý của ba! Các con quan tâm nhiều đến sức khỏe của ba và khuyên ba chú ý giữ gìn, ba rất cảm ơn các con và báo cho các con biết: Ba vẫn khỏe. Ba sẽ thực hiện những lời dặn của các con: làm việc vừa sức, giữ sức khỏe tốt để chiến đấu lâu dài. Ba hiện nay có tóc bạc nhiều hơn trước, gầy hơn hồi ở nhà một ít. Nhưng ba khỏe, ăn khỏe, làm việc nhiều hơn trước mà ít đau đầu, huyết áp cũng bình thường thôi. Ba đi bộ giỏi lắm nhé, đi leo núi mà được 20km mỗi ngày và đi liền 10 - 15 ngày cơ. Đó sức khỏe của ba thế đó. Các con yên tâm và vui lòng chứ? Gần đây các con nghe đài báo, thấy quân ta ở miền Nam đánh thắng Mỹ dồn dập, trong đó có phần rất nhỏ của ba đóng góp tham gia đấy. Các con hài lòng đối với ba chứ? Thơ trước đã viết nhiều, có gửi kèm chuyện chiến đấu của các em bé, các con đã đọc kỹ chưa và phải học tập các em bé miền Nam đấy. Con Phượng trước có nói cố gắng và nếu được đi đánh Mỹ thì cũng không kém bạn Đào Văn Luyện, vậy cố học tập thực sự đấy nhé! Có thể bạn Đào Văn Luyện cũng đang học ngay trường con đấy. Trong này còn rất nhiều bạn như và còn hơn bạn Luyện nữa cơ. Các con vẫn viết thư đều cho mẹ đấy chứ? Còn chị Tuyết, Nguyệt, anh Trinh, chú Thiệm và ông bà ngoại nữa. Có thỉnh thoảng viết thư cho ông bà không? "Uống nước phải nhớ nguồn", bất kỳ đi xa mấy cũng phải nhớ đến ông bà sinh ra cha mẹ mình. Ông bà bây giờ già, ở nhà một mình, thỉnh thoảng các con viết thư thăm hỏi thì ông bà sẽ vui mừng khỏe mạnh. Thôi nhé, thư viết khá dài rồi đấy. Chúc các con luôn khỏe, học chăm, rèn luyện tu dưỡng đạo đức tốt, được thầy yêu, bạn mến. Hôn thật nhiều các con. Ba của các con. Thành. Ba đã đi xa gần 30 năm, nhưng với chúng tôi ông như vẫn còn hiện hữu trong cuộc sống, luôn theo dõi từng bước chân, sự trưởng thành của mỗi chúng tôi, hình ảnh thân thương mà tôn kính của ba như một lời nhắc https://thuviensach.vn nhở, động viên khích lệ chúng tôi phấn đấu vươn lên, sống ngay thẳng, trung thực, và là người có ích cho xã hội như những lời ba dạy bảo. https://thuviensach.vn 8 Trung Tướng Lê Quang Đạo Trung tướng Lê Quang Đạo (1921 - 1999) tên thật là Nguyễn Đức Nguyện, quê ở xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông tham gia cách mạng và là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1940, nhập ngũ năm 1945, được phong Trung tướng năm 1974. Những năm 1941, 1942, ông là Bí thư Ban Cán sự Đảng tỉnh Bắc Ninh; Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ. Từ năm 1943 đến năm 1945, ông là Bí thư Ban Cán sự Đảng thành phố Hà Nội, Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, biên tập viên các báo "Cứu quốc", "Cờ giải phóng", phụ trách báo "Quyết thắng" và tham gia các lớp đào tạo cán bộ Việt Minh ở chiến khu Hoàng Hoa Thám. Từ tháng 8 năm 1945 đến năm 1946, ông là Chính trị viên Chi đội Giải phóng quân tỉnh Bắc Giang; Bí thư Thành ủy Hải Phòng. Giai đoạn 1946 - 1949, ông là Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ, Bí thư Thành ủy Hà Nội, Phó Bí thư Khu ủy đặc biệt Hà Nội, Liên khu ủy viên Liên khu 3, Bí thư liên tỉnh Hà Nội - Hà Đông. Năm 1949, ông làm Phó Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Giai đoạn 1950 - 1954, ông phụ trách công tác tuyên huấn chiến dịch Biên Giới, là Cục trưởng Cục Tuyên huấn Tổng cục Chính trị, Ủy viên Ban Liên hiệp đình chiến Trung ương. Từ năm 1968 đến năm 1972, ông là Chính ủy các chiến dịch: Đường 9 - Khe Sanh, Đường 9 - Nam Lào và Trị Thiên. Giai đoạn 1955 - 1976, ông là Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Ủy viên thường trực Quân ủy Trung ương (1965 - 1976). https://thuviensach.vn Tháng 6 năm 1978, Trung tướng Lê Quang Đạo làm Phó Bí thư Thành ủy, kiêm Chính ủy Bộ chỉ huy Quân sự thành phố Hà Nội. Từ năm 1987 đến năm 1992, ông làm Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Tháng 8 năm 1994, ông là Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ khóa III đến khóa VI, Ủy viên Ban Bí thư các khóa IV, V, Đại biểu Quốc hội khóa VIII, IX. Trung tướng Lê Quang Đạo được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất... (Nguồn: Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, trang 597) Tướng Lê Quang Đạo với chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh Nhà văn Nguyệt Tú [9] Mùa thu 1967, Mỹ đưa hơn nửa triệu quân vào miền Nam, chiến tranh phá hoại ở miền Bắc đã "leo thang" đến mức rất cao, ác liệt. Thời gian này ở Hà Nội, liên tục báo động máy bay. Đồng bào sơ tán khỏi Hà Nội. Tôi tiếp tục công tác ở Báo Nhân dân, ở lại Hà Nội. Tháng 12 năm 1967, anh Đạo chuẩn bị đi chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, anh Đạo lúc đó 47 tuổi. Dù anh không nói nhưng tôi biết anh sắp đi B khi nhìn thấy quân trang anh được phát: võng dù, chăn dù, dép cao su... Tôi cẩn thận chuẩn bị hành trang cho anh. Tôi nghĩ rằng anh sẽ phải đi qua nhiều suối, nhiều sông. Chỉ đi đôi dép cao su thì không đủ. Tôi tìm mua cho anh một đôi bốt. Không cửa hàng mậu dịch nào có đôi bốt vừa chân anh. Chân anh nhỏ bằng chân tôi, chỉ đi cỡ 37. Chợt tôi nhìn thấy đôi bốt xanh của thiếu nhi Đức. Tôi mua đôi bốt ấy và tự nhủ: "Lội bùn nhiều chắc màu xanh sẽ phai bớt". Bấy giờ lại đang là mùa đông. Cần có chiếc áo khoác kiểu budong, nhẹ mà ấm cho anh. Tôi tìm được cho anh chiếc áo mưa màu nâu đỏ bằng vinilông cho nhẹ. https://thuviensach.vn Tuy hoàn cảnh giao thông lúc đó rất khó khăn nhưng vẫn có thể gửi thư từ chiến trường Quảng Trị ra Hà Nội. Thư đầu tiên, anh Đạo nhờ các đồng chí giao thông đưa về, chữ viết rất nhỏ. Anh muốn lá thư mang đi đường sao cho thật nhẹ. Anh kể: "Việc chuẩn bị ở nhà kể như là tốt, nhưng có thứ không hợp với anh như đôi bốt xanh, cái áo mưa thì đỏ quá. Để khỏi bị chú ý quá nhiều, anh liền đi dép và khoác nilông như mọi cán bộ, chiến sĩ. Vậy mà chiến sĩ ta tinh lắm, vẫn đoán là một cán bộ chỉ huy". Anh kể chuyện hành quân: "Anh như vậy cũng đã được thử thách vài chặng đường trèo đèo lội suối, kể cũng khá gay go đấy. Nhưng xét ra đôi chân vẫn còn tốt, ôn luyện lại cũng không lâu. Đi kịp anh em, lại được biểu dương là đi nhanh, đi khỏe nữa. Phong cảnh nhiều nơi rất đẹp, nhưng mải miết đi và mệt thở ra tai nên cũng chẳng thưởng thức được bao nhiêu. Bộ đội, thanh niên xung phong nô nức kéo đi như trẩy hội. Lớp thanh niên mới anh dũng, đáng yêu vô cùng. Qua đường họ chẳng biết anh là ai, một số chào: Bố ạ! Gặp một cậu chiến sĩ ở làng Phù Lưu gần làng mình, cậu ấy biết mình. Thế là họ bí mật giới thiệu nhau biết...". Thư viết ngày 23 tháng 1 năm 1968. Khi đọc thư tôi không biết rằng anh vừa thoát chết mấy hôm trước. Những chuyện gian khổ ác liệt anh ít kể trong thư. Một tháng sau, tôi nhận được bức thư anh viết ngày 22 tháng 2 năm 1968. "Nhận được thư và chút quà ở đây ý nghĩa thật lớn. Càng phấn khởi bao nhiêu càng cảm ơn các đồng chí đã trèo đèo lội suối qua hàng ngàn cây số dưới bom đạn địch mang đến cho. Thật là của một đồng công một nén. Các anh em cùng đi rất tận tụy dũng cảm, nhiều khi làm cho anh rất xúc động. Tuệ ạ, trong lúc gian khổ, nguy hiểm mới thấy hết tình đồng chí với nhau. Gian khổ nhưng thật lạc quan, vui tươi phấn khởi". Ba mươi năm sau, năm 1998, khi nhớ lại và suy ngẫm về chiến dịch Khe Sanh, anh Đạo kể: "Một ngày sau khi vào, chúng tôi đã mở được hội nghị đại diện các đơn vị, binh chủng tham gia chiến dịch để bàn kế hoạch https://thuviensach.vn tác chiến và giao nhiệm vụ chiến đấu cho từng đơn vị. Các đại biểu ra về khẩn trương triển khai thực hiện kế hoạch với quyết tâm rất cao. Mấy ngày sau, máy bay địch đến ném bom bắn phá dữ dội khu vực Sở chỉ huy suốt ngày đêm, làm đứt hết đường dây thông tin liên lạc. Chúng tôi vô cùng sốt ruột vì không nắm được tình hình bộ đội. Tư lệnh Trần Quý Hai và tôi, Chính ủy, bàn nhau quyết định đi đến Sở chỉ huy dự bị. Vào khoảng hơn hai giờ sáng hôm ấy, lúc ngớt bom, chúng tôi và anh em bắt đầu ra khỏi hang đá, đi thành hai tốp. Vừa ra khỏi hang, B52 lại ném bom rải thảm toàn bộ khu vực. Cây cối đổ rạp, đá hai bên sườn núi sạt lở chắn lấp cả lối đi. Do vậy, các đồng chí giao liên cũng không xác định được đúng đường đi nữa, cứ đi loanh quanh trong khe núi, dưới pháo sáng và bom đạn địch. Có một số đồng chí đã bị tử vong do đá văng vào người. Một bác sĩ đi cùng tôi tụt chân xuống một khe đá, may mà có chiếc ba lô con cóc to đeo đằng sau giữ lại, nếu không đã bị nguy hiểm đến tính mạng. Chợt thấy tiếng bom nổ rất to bên cạnh, lập tức chúng tôi nằm sấp xuống khe đá tại chỗ. Đồng chí Hòa cán bộ bảo vệ và một chiến sĩ đi cùng đã nằm đè lên che chở cho tôi, trên lưng mỗi người đều đeo một ba lô con cóc. Nhờ đó, tôi được an toàn. Nhưng hai đồng chí đều bị thương do đá văng vào. Lúc ấy tôi không kìm được xúc động trước tấm lòng và tinh thần dũng cảm của anh em, đồng chí". Sau khi anh mất, bác sĩ Trung trong đoàn của Bộ Tư lệnh (sau này là người chăm sóc sức khỏe cho anh Đạo) kể lại, thoát bãi bom B52, cả đoàn bị lạc mấy hôm. Mọi người nhịn đói hai ngày. Một đồng chí tìm được nắm gạo thính trong túi, chia ra thành mười ba suất, ăn cho đỡ đói. Mỗi suất chỉ nằm gọn trong lòng bàn tay. Anh Đạo chia đôi phần gạo thính của mình cho đồng chí liên lạc vừa dậy sau cơn sốt rét. Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh kéo dài. Gần bảy tháng liền, bộ đội ta vây hãm Tà Cơn. Mỹ hoàn toàn không biết đây là một chiến dịch nghi binh. Ngoài Tư lệnh và Chính ủy chiến dịch, không ai biết nhiệm vụ chiến lược thực chất của mặt trận Đường 9 - Khe Sanh. Mặt trận này có nhiệm vụ thu hút và giam chân càng nhiều càng tốt các lực lượng tinh nhuệ của Mỹ, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền https://thuviensach.vn Nam. Sau này, anh Đạo nói với tôi: "Khe Sanh, đó là một đòn nghi binh chiến lược". Ba mươi hai năm sau chiến dịch Khe Sanh, chị Lady Borton - một nhà văn Mỹ đến nhà người Chính ủy chiến dịch Khe Sanh năm xưa. Trước kia, anh Đạo còn sống, chị đã đến thăm gia đình. Chị đặt lên bàn thờ anh tập báo cáo mật của Westmoreland về chiến dịch Khe Sanh rồi thắp hương cho anh Đạo. Lady nói với tôi: "Đây là bản báo cáo mật của tướng Westmoreland, nguyên Tư lệnh quân Mỹ ở Việt Nam hồi năm 1968. Trong này có nói nhiều đến Khe Sanh. Hiện nay ở Mỹ, những tài liệu này đã công khai. Tôi lấy từ trên mạng Internet. Khi còn là Chính ủy chiến dịch Khe Sanh, ông Đạo chắc muốn biết điều này". Tôi không khỏi xúc động trước tấm lòng của chị. Tôi lần giở mấy tập rất dày các báo cáo bằng tiếng Anh. Những tài liệu này do một cựu chiến binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam thu thập khi nghiên cứu những hoạt động của đơn vị mình tại Việt Nam. Những bản báo cáo mật nói rõ tầm quan trọng của Khe Sanh đối với Tổng thống Mỹ. Luôn bị bóng ma Điện Biên Phủ ám ảnh, Johnson đã bắt Westmoreland hàng ngày báo cáo tình hình chiến sự ở Khe Sanh thông qua Walt Rostow tóm lược. *** Walt Rostow (Thư ký Tổng thống) gửi Tổng thống ngày 10 tháng 1 năm 1968: Chiến dịch quân sự đang diễn ra theo đúng kế hoạch. Con đường đến Khe Sanh đã bị cắt đứt. Sân bay tại Khe Sanh có thể bị quân Bắc Việt Nam ở những quả đồi gần đó kiểm soát. Westmoreland đã bị kẹt lại trong khu vực đó. Westmoreland phải giải quyết được các vấn đề về Khe Sanh: Đó là cơ hội tốt nhất để có Điện Biên Phủ. Kẻ thù đang tìm kiếm một Điện Biên Phủ… Để đẩy lui lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam ra khỏi Khe Sanh, Mỹ đã sử dụng hỏa lực và pháo binh không hạn chế, tạo nên những trận bão lửa dữ dội chưa từng thấy trong lịch sử chiến tranh. Nhà báo, sử gia Mỹ Stanley Karnow kể: "Tổng thống Lyndon Johnson và Washington đã nghĩ rằng Khe Sanh là một Điện Biên Phủ nữa. Và họ đã làm cả sa bàn Khe https://thuviensach.vn Sanh ở Washington. Thậm chí, họ cũng yêu cầu tướng Westmoreland - Tư lệnh Bộ Chỉ huy cố vấn quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam - phải ký giấy cam đoan không được để mất Khe Sanh vì đó là danh dự của nước Mỹ". Sau mấy tháng chiến đấu liên tục và quyết liệt, chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh đã hoàn thành nhiệm vụ phối hợp với quân và dân ta tấn công nổi dậy trên chiến trường toàn miền Nam, trực tiếp là Thừa Thiên-Huế, giành thắng lợi to lớn. Thắng lợi chính của mặt trận Khe Sanh là ta đã làm cho kẻ địch phải phân tán lực lượng và bị bất ngờ về hướng tiến công chiến lược chủ yếu của ta trong mùa xuân 1968. Anh Đạo ở Trường Sơn đã gần một năm tròn. Gia đình tôi đã rời số 2 phố Lý Thường Kiệt (nơi tạm trú thời gian máy bay Mỹ oanh tạc Hà Nội ác liệt) về nhà ở 28D Điện Biên Phủ. Một hôm đi làm về, tôi thấy con trai anh reo lên: - Bố sắp về! Nghe tin anh sắp về, tôi mừng lo lẫn lộn vì đường đi rất nguy hiểm. Chặng đường dài qua nhiều trọng điểm bắn phá của máy bay địch. Vào một buổi sáng đẹp trời, chiếc xe com-măng-ca đưa anh và các đồng chí cùng đi tiến vào sân giữa tiếng reo vui của các con. Tôi nhìn anh nước mắt chảy quanh. Anh gầy đi nhiều, nước da tái xạm. Bước xuống xe, anh vui mừng ôm lấy mẹ con tôi trong vòng tay, miệng cười. *** Có tiếng chuông điện thoại. Anh Đạo nhấc máy. Tiếng anh Vũ Kỳ ở Văn phòng của Bác Hồ: - Bác biết tin anh vừa ở Khe Sanh ra. Bác nói anh đến gặp Bác vào chiều mai. Anh Đạo rất vui được gặp Bác. Nhưng anh cũng lo Bác phê bình vì có những khó khăn ta không vượt qua được, mặc dù chiến dịch Khe Sanh căn bản hoàn thành nhiệm vụ. Anh biết Bác theo dõi hàng ngày tình hình chiến dịch. Bác chăm chú lắng nghe anh nói. Trái với nỗi băn khoăn lo lắng của anh Đạo, Bác Hồ rất vui. Bác giữ anh ở lại ăn cơm, anh rất mừng thấy Bác vui và khỏe. https://thuviensach.vn 9 Đại Tướng Nguyễn Chí Thanh Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1914 - 1967) quê ở xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Ông tham gia cách mạng năm 1934, nhập ngũ năm 1950, được phong Đại tướng năm 1959. Năm 1937, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1938, ông là Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên. Trong các năm 1938 - 1943, ông nhiều lần bị thực dân Pháp bắt cầm tù. Từ tháng 8 năm 1945 đến năm 1947, ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, phụ trách Xứ ủy Trung Bộ, được cử vào Tổng bộ Việt Minh, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên rồi Bí thư Phân khu ủy Bình - Trị - Thiên. Từ năm 1948 đến năm 1950, ông là Bí thư Khu ủy Khu 4. Giai đoạn 1950 - 1961, ông là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Phó Bí thư Tổng quân ủy. Giai đoạn 1961 - 1964 ông được Ban Chấp hành Trung ương Đảng cử phụ trách công tác nông nghiệp. Từ năm 1965 đến năm 1967, ông là Bí thư Trung ương cục miền Nam, Chính ủy Quân giải phóng miền Nam, tham gia lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng miền Nam và cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ông là tác giả của nhiều tác phẩm chính trị - quân sự. Ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa I, III, Ủy viên Bộ Chính trị khóa II, III. Ông được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương https://thuviensach.vn Chiến thắng hạng Nhất... (Nguồn: Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, trang 712) Một vài kỷ niệm về cha tôi Nguyễn Thanh Hà [10] Ngày giải phóng thủ đô, gia đình tôi về Hà Nội, ở nhà số 1 đường Cổ Ngư (sau này là đường Thanh Niên), một ngôi nhà cổ kính ven hồ Trúc Bạch. Vài năm sau chuyển về nhà 34 Lý Nam Đế, một ngôi biệt thự rộng rãi và có vườn hoa rất đẹp. Sau khi gia đình tôi chuyển về đó ít hôm, Bác Hồ đến thăm. Khi ra về, Bác bảo: "Nhà chú Thao đẹp, gọn gàng vậy là tốt. Nhưng nhiều vườn hoa quá, lãng phí, nên trồng rau tăng gia tốt hơn". Thế là ngày hôm sau, cả nhà cùng các chú cảnh vệ xoay trần ra đào vườn hoa, trồng rau, cây ăn quả… Đặc biệt, ba tìm không biết ở đâu mấy cây dừa miền Nam trồng ở trước và sau nhà. Đến đầu năm 1967, khi ông chuẩn bị vào Nam lần thứ hai thì cây dừa bói lứa quả đầu, ba cho hái mấy quả, quả đầu tiên đưa lên cho Mệ (bà nội tôi), còn lại bổ lấy nước cho mấy cha con uống. Uống xong, ông khà lên một tiếng thật sảng khoái rồi nói: "Chà, nước dừa ngon quá, uống được một hớp thế này, chết cũng sướng". Vài hôm sau thì ba mất, thật lạ, hai cây dừa cũng chết rụi vài tháng sau đó. Sau khi ba mất, vườn dừa sau nhà năm nào cũng sai quả, cả nhà tôi không ai ăn, được bao nhiêu bán đi, dành tiền làm giỗ ba, và sau này thêm giỗ mẹ. Căn nhà 34 Lý Nam Đế gia đình tôi ở đến năm 1986, thì trả lại cho Tổng cục Chính trị, làm trụ sở Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Nay mỗi lần đi qua đó, không lần nào chúng tôi không nhớ lại tuổi thơ và những năm tháng tươi đẹp, khi xung quanh còn ba, còn mẹ, còn một đại gia đình, và cả bốn chị em tôi đều lớn lên ở đó. Ngày trước, ai đi qua cửa nhà chúng tôi cũng thấy một bà cụ, tóc bạc trắng như cước, khi nào cũng đứng ở trên lan can gác hai nhìn xuống đường - đó là bà nội tôi, ở nhà gọi là Mệ. Mệ chính là người nuôi dạy và bảo ban ba đi làm cách mạng, bàn tay phải của Mệ chỉ còn bốn ngón tay do lấy tay bịt nòng súng của quan ba Pháp không cho nó chĩa vào mặt, bị nó https://thuviensach.vn bắn cụt mất một ngón tay… Khi ba từ Việt Bắc về Hà Nội, ba đưa Mệ từ Thừa Thiên ra ở cùng. Có hôm, ba cùng mấy người bạn đồng hương ngồi nói chuyện quê hương, cứ mong được về Nam đánh giặc giải phóng quê hương, Mệ đi qua nghe được, hứ một tiếng rồi nói: "Mấy thằng bay toàn đánh giặc mồm, có giỏi thì vô Nam mà đánh, ngồi đây mà nói chuyện đánh đấm làm chi rứa?". Sau này, được Bộ Chính trị và Bác Hồ cử vào Nam đánh Mỹ, có lẽ ba không bao giờ quên câu nói của Mệ, và đến đầu năm 1967, khi ba từ miền Nam ra, gặp Mệ đầu tiên, Mệ chỉ cười rồi nói: "Mi giỏi!" Nhưng cụ bà cũng hay chướng, ba biết nhưng không nói, bắt Mệ sinh hoạt chi bộ cùng các chú bảo vệ, thư ký. Mỗi khi Mệ nói gì, làm gì "sai quan điểm", ba nói nhỏ để mấy chú họp chi bộ kiểm điểm Mệ. Tôi vẫn nhớ một lần, không biết Mệ bị "phê bình" như thế nào, tức quá đứng giữa sân chửi: "Tổ sư cha bọn bây, thằng Thanh biểu bọn bây phê bình tau! Tau còn đẻ ra được thằng Đại tướng nữa cơ!". Trong gia đình, cả bốn chị em tôi đều kính trọng và nghe lời mẹ - cả ba cũng vậy. Về chuyện của ba và mẹ đã có nhiều người kể - đó thực sự là một tình yêu lớn và hết mực thủy chung. Có một câu chuyện thật cảm động và như một huyền thoại mà chúng tôi được nghe ba, mẹ kể lại: Năm 1947, Bình - Trị - Thiên vỡ mặt trận, mọi người mạnh ai nấy chạy, thương vong, hi sinh rất nhiều. Mẹ nghe người ta nói ba bị Pháp bắn chết rồi ném xác xuống sông. Ba thì nghe mẹ qua sông bị Pháp bắn chết trôi mất xác rồi. Ở Thừa Thiên có một tập tục, ai chết đuối không tìm ra được xác thì người nhà phải chạy dọc bờ sông, gọi tên người đó thì xác mới nổi lên được. Thế là ba mẹ mỗi người một bên bờ sông Hương, vừa chạy vừa gào tên nhau, "Thanh ơi!", "Cúc ơi!"... vấp ngã đứng lên chạy tiếp, gào tiếp… Thế rồi hai vợ chồng nghe tiếng gọi tên, rồi nhìn thấy nhau, mừng quá lội ào ra ôm nhau giữa sông. Nghe ba mẹ kể chuyện này, sau bao nhiêu năm đến bây giờ tôi vẫn không hình dung nổi khi đã tuyệt vọng đến như vậy, thì nỗi mừng gặp lại đó như thế nào, có lẽ chỉ thiếu vỡ tim ra mất. Ba khi nào cũng yêu thương và nghe lời mẹ trong chuyện gia đình. Mẹ rất nghiêm khắc và ít khi bộc lộ tình cảm, nên chúng tôi không hiểu được tình yêu mẹ dành cho ba như thế nào. Chỉ sau khi ba mất, và đến cuối đời https://thuviensach.vn mẹ, hơn mười năm sau chúng tôi mới hiểu, mười mấy năm đó mẹ như sống trong địa ngục vì nỗi nhớ thương ba không gì bù đắp nổi, không quên đi được dù một phút, một giây. Cuộc sống của mẹ những năm sau đó chỉ để nuôi dạy các con, khi đó em Vịnh còn bé quá, và chúng tôi cũng chưa nên người - còn về tâm hồn, mẹ đã chết cùng với ba từ ngày 6 tháng 7 năm 1967. Nói về ba và gia đình, không thể không kể đến một thành phần rất quan trọng đó là các chú, các cô. Họ là những người cùng sống, làm việc với ba mẹ nhưng lâu quá, gần gũi quá nên trở thành những thành viên trong gia đình, như những người ruột thịt. Hình như ở miền đất nào, chiến trường nào, ba cũng tìm thấy những người thân thiết như vậy, rồi tất cả những người đó dần dần tụ họp lại với nhau, gắn kết với nhau xung quanh ba và mẹ thành một đại gia đình đoàn kết và quý mến nhau. Như chú Chắt bảo vệ, cô Hiền ở chiến trường Trị - Thiên; đến cô Bảo, chú Chương, chú Duy, cô Mỹ thư ký, cô Toản bác sĩ, cô Mộ La phiên dịch, chú Cổn chăn ngựa, chú Thái nấu cơm, cô Mười bế em… ở Việt Bắc; chú Mai Quang Ca, chú Vũ thư ký, bác Diệp nấu cơm, chú Nghĩa lái xe, cô Phúc phục vụ… ở Hà Nội; chú Thuận bác sĩ, anh Thái bảo vệ ở chiến trường miền Nam… Ba mẹ đã sống với những người đồng chí thân cận đó, và cả gia đình họ như sống với những người anh em ruột thịt, và đến tận bây giờ, đã gần nửa thế kỷ rồi, các cô chú nhiều người mất, người nào còn sống thì cũng đã già lắm, nhưng cứ đến ngày giỗ ba, họ lại đến thắp nén hương và ngồi lại trò chuyện về ba mẹ như ngày xưa, như khi còn đầy đủ tất cả mọi người vậy. *** Một điều hạnh phúc và may mắn nhất của gia đình tôi là được Bác Hồ yêu thương và thỉnh thoảng được gặp Bác. Bác đã đến nhà tôi mấy lần và cứ mỗi lần như vậy cả gia đình tôi vui như ngày hội, đến cả tháng sau vẫn còn náo nức. Cũng như đối với tất cả mọi người dân Việt Nam khác, Bác là thần tượng của ba, nhưng có một cái gì đó rất thân thiết, gần gũi và cảm thông. Hồi đó ba hay vào báo cáo công việc với Bác, mỗi khi ra về ông thản nhiên đút bao thuốc hút dở của Bác vào túi, và Bác coi như không để ý https://thuviensach.vn - thế là hôm đó các chú ở nhà lại được một bữa vui, ba về chia thuốc cho mọi người hút, ngồi say sưa kể chuyện về Bác - vị Cha già dân tộc nhưng thân thiết, gần gũi và bao dung làm sao. Giữa năm 1967, ba từ miền Nam ra, cả nhà được báo trước đứng chờ ba ở cửa - Mệ, mẹ, mấy chị em và tất cả mọi người. Chờ mãi không thấy, sau lâu lắm mới thấy ông về, ba bảo: "Ba phải vào thăm và báo cáo tình hình với Bác trước hết, rồi mới về nhà được". Mấy tháng sau, hôm trước khi ông lên đường vào Nam lần thứ hai, cả nhà chờ cơm rất muộn, hỏi ra mới biết, ba được Bác gọi vào ăn cơm chia tay, cơm xong phải đi gặp vài người bàn nốt công việc. Sau đó, không hiểu sao ông lại quay vào Phủ Chủ tịch, ngồi dưới sàn nhà, lưu luyến mãi không muốn về. Ông nói với chú Vũ Kỳ: "Tôi đi lần này chắc sẽ hoàn thành việc Bác giao, chỉ băn khoăn một điều là sức khỏe của Bác…". Thế đấy, một vị tướng trước khi ra trận, điều lo lắng duy nhất là sức khỏe của Cha già… Không ngờ sáng sớm hôm sau ba mất, không thực hiện được ước mơ của mình là đưa Bác vào Nam thăm đồng bào chiến sĩ… Sau khi ba mất, hàng năm gia đình tôi đều được Bác gọi vào, cho ăn cơm, hỏi thăm tình hình sức khỏe của Mệ, công việc của mẹ, học hành của trẻ con… Khi chúng tôi ra về, Bác cho mỗi đứa mấy cái kẹo, riêng Vịnh thì phải hôn hai má Bác, kêu thật to mới được về… Những kỷ niệm ấy, suốt đời chúng tôi không quên được và biết rằng chúng tôi thật may mắn và hạnh phúc… Cùng với ba tôi, quây quần xung quanh Bác thời đó là các bác, các chú trong Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương. Chúng tôi có may mắn là cũng được biết, được gặp họ nhiều lần. Sau khi ba tôi mất, mỗi năm đến ngày giỗ ba, các bác, các chú đều đến nhà tôi thăm hỏi gia đình rất thân tình, giản dị… Chúng tôi đều ấn tượng về họ rất mạnh, vì họ đều là những người kiệt xuất, tài giỏi nhưng rất ân tình. Bây giờ thì các bác, các chú đều đã đi xa, về với Bác Hồ, nhưng tôi không thể nào quên được ấn tượng về những con người ấy, những nhân vật trung tâm của thời đại Hồ Chí Minh, những con người lỗi lạc, vĩ đại và phi thường. https://thuviensach.vn Được làm việc trong một tập thể như vậy, và sống trong một đại gia đình như vậy, ba là trụ cột của cả gia đình, là linh hồn và luôn bao bọc mọi người, ngược lại, ba cũng được cả gia đình yêu thương và bao bọc. Không biết ở cơ quan như thế nào, còn khi về nhà lúc nào cũng thấy ông cười, thanh thản và chiều chuộng mọi người. Sau này khi lớn lên, chúng tôi mới biết, khi còn sống, ba cũng có những thời điểm rất khó khăn, cũng rất nhiều lần ba phải dằn vặt, trăn trở suy nghĩ trước khi đưa ra những quyết định rất khó khăn cho chính bản thân mình, hay khi đóng góp cho Đảng và dân tộc… Tuy vậy, không bao giờ chúng tôi thấy điều đó thể hiện trong cuộc sống gia đình của ba. Ông lúc nào cũng cười, tự tin và lạc quan hết mức. Ba là Đại tướng, chúng tôi khi đó chưa hiểu gì về sự nghiệp và tài chỉ huy quân sự của ông. Chỉ có một điều mà ai cũng biết: quân đội là sự nghiệp, là lẽ sống, là máu thịt, là niềm say mê và là tình yêu của ông. Mẹ là bộ đội, ba chị em gái tôi đều vào bộ đội khi vừa tốt nghiệp lớp 10. Còn bé Vịnh, từ khi bốn tuổi, Ba đã thêu trên ve áo nó hai miếng phù hiệu đỏ không sao không gạch. Ba gọi chức của nó là "Binh bét" và luôn bảo rằng khi lớn lên con đường của nó là đi bộ đội. Có hôm ngồi chợt nhớ anh Trường Sơn (anh trai đầu của chúng tôi, đã mất từ năm 1947), ba chặc lưỡi nói: "Chà, thằng Sơn bây giờ còn sống thì đã gần hai mươi tuổi, đã vào Nam đánh Mỹ được rồi, không khéo làm đến hạ sĩ, cán bộ trung đội chứ chẳng chơi…". Sau này, khi vào Nam đánh Mỹ, ba đã lấy bút danh "Hạ sĩ Trường Sơn" trong các bài báo bình luận nổi tiếng về cuộc chiến tranh chống Mỹ, giải phóng dân tộc. Ngoài công việc, ba rất thích đi săn và về nông thôn. Vì ông cũng vừa bỏ được phận cố nông hơn chục năm đó thôi, nên mỗi khi đi như vậy, chúng tôi thấy ba sảng khoái, thanh thản vô cùng, như con cá được xuống nước vậy. Ba có biệt tài gợi chuyện những người nông dân, hình như họ không tin được ông là một cán bộ cao cấp, mặc dù lúc ấy những người đi xe Volga về nông thôn ít lắm. Họ kể chuyện cho ông nghe, phàn nàn với ông về những điều chưa được, cười nói với ông khi kể về chuyện làng xóm, chuyện hợp tác xã, chuyện gia đình… https://thuviensach.vn Tôi còn nhớ một lần vào năm 1961, được theo ba về thăm một hợp tác xã nông nghiệp ở Quảng Bình, ba không làm việc với Ban Quản trị, mà tìm đến một gia đình hai vợ chồng vừa thoát cảnh cố nông. Bước vào nhà, ông hỏi: "Thế nào, trong gia đình ta có cái gì nào? Tài sản có gì cho xem chơi nào!?". Người chồng chẳng biết ông là ai, trả lời thủng thẳng: "Hai vợ chồng, một cái nhà, một cái nồi, một nồi hai, một mâm thau chén bát, một cái giường, một cái phản. Ngoài chuồng có một gà mẹ mười con, lợn thì có chuồng rồi nhưng chờ lợn Hợp tác xã đẻ sẽ bán cho hai con". Ông hỏi: "Nhà có hai vợ chồng, tại làm sao có một giường một phản, thế tối ngủ chung hay ngủ riêng?". "Báo cáo ngủ riêng, vì có mang tám tháng rồi". Ông cười rất tươi, bảo: "À thế thì được, cầm lọ dầu bao giờ vợ đẻ mà dùng. Thế cuộc sống thế này, đối với Đảng có đề nghị gì không?". Chị vợ tranh lời: "Úi chào, đề nghị gì nữa, đến chết thôi chừ cũng tin Đảng hung rồi, năm năm nữa thì sung sướng hung rồi". Ông hỏi chị vợ: "Thế hai vợ chồng hạnh phúc chứ?". Hai vợ chồng nhìn nhau tủm tỉm cười… Họ nói chuyện y hệt những người nông dân với nhau vậy. Chưa bao giờ tôi thấy ông vui như lần ấy và tôi nhìn thấy trong tận cùng của ba vẫn là một người nông dân, một anh cố nông được Đảng đổi đời, cũng như vợ chồng anh cố nông kia vậy. Có lẽ chính là nhờ những mối quan hệ như bạn bè, người thân với những người nông dân miền Bắc, mà ba đã đóng góp được những ý kiến có giá trị trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sản xuất nông nghiệp thời bấy giờ. Là một Đại tướng, và là "Đại tướng nông dân", nhưng rất lạ là ba rất yêu và rất giỏi về văn hóa văn nghệ. Ông có nhiều người bạn là văn nghệ sĩ nổi tiếng, có những chú nhà văn nhà thơ, những cô nghệ sĩ hát, múa… rất thân thiết và coi ba như người anh, người bạn tâm giao. Tôi còn nhớ, năm 1967, khi ông từ miền Nam ra Hà Nội, ông thường đi các nơi kể chuyện đánh Mỹ, rất lạc quan và say sưa. Chúng tôi ngạc nhiên khi một hôm đi theo ông đến Tòa soạn Tuần báo Văn Nghệ, và thấy ông nói chuyện văn thơ với văn nghệ sĩ cũng say sưa, cũng lạc quan như nói chuyện đánh Mỹ vậy. https://thuviensach.vn Là một người cha nhân hậu và hết mực yêu thương các con, nhưng ba là người rất nghiêm khắc. Những lá thư gửi từ miền Nam ra cho chúng tôi, không bao giờ thấy ông chúc may mắn, thành đạt… mà chỉ dặn là khiêm tốn và chăm lao động. Ba hiền lắm, chưa bao giờ ba nặng lời, hoặc đánh mắng chúng tôi, nếu có gì sai, ba nghiêm khắc bảo ban, nhưng cũng hay xuê xoa để mẹ không mắng mấy chị em. Nhưng có những điều ba rất "kỵ", và không bao giờ bỏ qua. Tý bây giờ vẫn nhớ lần bị ba bắt quỳ giữa sân vì dám hỗn với chú bảo vệ. Vịnh lúc đó còn bé tí nhưng có lần bị xách tai đau điếng, vì tranh nhau mấy cái kẹo với thằng Phúc con chú Chắt bảo vệ. Đấy, ba dạy chúng tôi như thế: mọi sai lầm, khuyết điểm đều có thể tha thứ, và đều có thể sửa chữa được, nhưng có những điều không thể bỏ qua, đó là hỗn láo với mọi người xung quanh, thứ đến là giả dối, lười biếng, ích kỷ và đua đòi. Bây giờ nhớ lại những chuyện nhỏ như vậy, chúng tôi mới hiểu tình thương của ba đối với chúng tôi như thế nào… *** Sao viết về ba khó thế, con mà chỉ toàn ca ngợi ba thì ba sẽ không bằng lòng, tôi biết vậy. Nhưng không thể nói khác được, vì ba tôi là một con người như vậy - một con người và một người Cộng sản. Chúng tôi tuyệt đối tin như thế và luôn tự hào vì điều đó. Mấy chục năm sau khi ba mất, tình cảm không còn đầy đủ như khi ba mẹ còn sống, và cuộc sống cũng có khi này khi khác - nhưng chúng tôi luôn thanh thản, tự hào và hài lòng với cuộc sống của mình. Còn đòi hỏi gì thêm nữa, khi mình sinh ra và lớn lên trong một gia đình như vậy, có một người Cha như vậy! Câu chuyện trăm năm… (Hồi ức về Đại tướng Nguyễn Chí Thanh nhân dịp 100 năm ngày sinh của ông) Nguyễn Thanh Hà Năm nay là dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cha tôi - Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, tôi lại nhận nhiệm vụ của cả gia đình và các em: "Chị phải viết gì về ba đi. Hay là kể về chuyện mấy chị em mình, gia đình mình đã sống như thế nào sau 47 năm không còn ba!". https://thuviensach.vn Vâng, cha tôi, Nguyễn Vịnh, được nhiều người biết đến với cái tên Nguyễn Chí Thanh, quê ở làng Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cứ mỗi khi nhớ về quê hương, trong đầu tôi lại văng vẳng câu thơ của chú Tố Hữu: "Nỗi niềm chi rứa Huế ơi; Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên". Chú Tố Hữu là một người bạn của cha, cũng là người cùng quê, chỉ cách con sông Bồ nước xanh văn vắt. Nằm cách kinh thành Huế lộng lẫy không mấy xa, nhưng so với đất thần kinh, làng quê cha mẹ tôi khác một trời một vực. Đấy là mảnh đất khô cằn, sỏi đá nhiều hơn lúa gạo, luôn nghèo khó, hết bị thiên tai mưa bão trắng trời trắng đất, lại bị nhân tai - chiến tranh bom đạn liên miên tàn phá… Nhưng cũng chính mảnh đất khắc nghiệt ấy đã sản sinh ra những con người trong quê hương, gia đình tôi, thế hệ này qua thế hệ khác, luôn giữ và truyền ngọn lửa cách mạng không bao giờ tắt. Nhớ về quê hương, chúng tôi nhớ về những người trong gia đình mình. Ông nội tôi mất sớm, để lại cho bà nội tôi chín người con. Nhà nghèo phải đi làm thuê cuốc mướn, bà nội sớm có tinh thần chống áp bức, bất công. Không cần ai vận động, khi còn trẻ, bà nội luôn đi đầu trong những cuộc biểu tình của dân làng chống địa chủ, cường hào ác bá và bọn thực dân Pháp, đòi giảm tô giảm tức, chống thu hồi đất của nông dân. Tôi nhớ bàn tay phải của bà nội chỉ còn có bốn ngón. Bà kể trong một cuộc biểu tình, tên sĩ quan Pháp kê khẩu súng ngắn vào đầu bà dọa nếu không giải tán hắn sẽ bắn. Bà nắm lấy đầu nòng súng của tên quan Pháp, nói: "Tao thách mi bắn đó!". Nó bắn thật, thế là bà nội tôi mất một phần bàn tay phải. Chính bà nội đã truyền lại cho lớp con cháu tinh thần bất khuất, không chấp nhận cường quyền áp bức, không lùi bước trước uy vũ, bạo lực. Bà nội tôi hầu như không biết khái niệm "cách mạng" hay Việt Minh là gì. Khi ba tôi mới giác ngộ cách mạng, bà biết con mình giấu tài liệu trên mái nhà, đi hoạt động ngày đêm nhưng không một lời trách móc, vì bà luôn tin vào sự lựa chọn đúng đắn của con trai. Từ thuở thơ ấu cho đến ngày cuối cùng của ba tôi, bà nội đã ở bên cạnh ba, là chỗ dựa tinh thần của ba trong suốt cuộc đời. https://thuviensach.vn