🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tương Lai Nghề Nghiệp Của Tôi - Kim Ran Do Ebooks Nhóm Zalo NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG – XÃ HỘI Ngõ Hoà Bình 4, Minh Khai, Hai Bà Trưng, Hà Nội ĐT: 04.3246920 Fax: 04.36246915 TƯƠNG LAI NGHỀ NGHIỆP CỦA TÔI Chịu trách nhiệm xuất bản: Giám đốc NGUYỄN HOÀNG CẦM Chịu trách nhiệm nội dung: Tổng biên tập VŨ ANH TUẤN Biên tập: Đinh Thanh hòa Sửa bản in: Phí Mai Bìa: Thiên Thanh Trình bày: Diệu linh ISBN: 978-604-65-1803-7 In 3.000 cuốn, khổ 13 x 20.5 cm tại Công ty Cổ phần in & Thương mại PRIMA. Giấy chấp nhận đăng kí kế hoạch xuất bản số: 1810-2014/CxB/04-192/LĐXH, cấp ngày 18/09/2014 Quyết định xuất bản số: 795/Qđ-NXBLĐXH, cấp ngày 18/09/2014. In xong và nộp lưu chiểu quý IV-2014. Hãy vững tin để tìm kiếm công việc trong mơ của bản thân T rong xã hội phát triển ngày nay, rất nhiều vấn đề được đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách xã hội trong đó việc làm luôn là bài toán nan giải và biến đổi không ngừng. Đối với những thanh niên sắp rời khỏi ghế nhà trường, áp lực kiếm được một công việc ổn định mà mình yêu thích cũng như ổn định rất nặng nề. Họ luôn có những câu hỏi thường trực như Làm cách nào để tìm được việc làm? Làm cách nào để gây dựng nên sự nghiệp mà mình mơ ước?, v.v… Nhiều bạn trẻ lựa chọn định hướng nghề nghiệp theo những lối mòn tư duy, định kiến sẵn có của xã hội và cuốn vào vòng xoáy mưu sinh mà bản thân không mấy hài lòng. Nhưng một số khác đang dũng cảm tiên phong mở ra những con đường nghề nghiệp mới, hoặc gây dựng và phát triển những ngành nghề đang lụi tàn và đi vào quên lãng, đồng thời dồn sức trẻ vào những ước mơ của mình. Cuốn sách Tương lai nghề nghiệp của tôi mang đến cái nhìn toàn cảnh về những trải nghiệm của các bạn trẻ trên thế giới, những mô hình việc làm hoặc mới mẻ, hoặc tái tạo những ngành nghề cũ nhằm đúc kết ra hai từ khóa: • “FUTURE” − xu hướng việc làm toàn cầu trong tương lai. • “MY JOB” − chiến lược tìm kiếm việc làm phù hợp với bản thân. Mỗi từ khóa đều được minh họa và phân tích tường tận, mang đến một cái nhìn mới mẻ trong vấn đề giải quyết việc làm cũng như gạt bỏ những định kiến cố hữu của xã hội. Chúng tôi tin sau khi đọc xong cuốn sách này, các bạn sẽ có được một niềm tin vững vàng hơn trên con đường định hướng và gây dựng nên sự nghiệp cho riêng mình. Trân trọng giới thiệu tới quý độc giả! Tháng 10 năm 2014 Công ty cổ phần Sách Alpha Những biến đổi to lớn của thị trường việc làm đang được tạo ra bởi những người hùng trẻ tuổi V iệc rất nhiều bạn trẻ đang thoái chí vì không thể tìm được việc làm đã đặt ra cho toàn xã hội một bài toán khó. Hiện nay, Hàn Quốc đang phải đối mặt với nhiều vấn đề nan giải như phúc lợi xã hội, giáo dục, kinh tế, vấn đề thanh thiếu niên, mà điều cốt lõi để giải quyết mọi vấn đề này đều có thể được gói gọn trong câu hỏi “Làm thế nào để tạo ra được nhiều việc làm tốt?” Sau khi cho ra mắt tác phẩm đầu tay Tuổi trẻ - Khát vọng và Nỗi đau, tôi càng cảm nhận được gánh nặng to lớn mà vấn đề nhức nhối này mang lại. Trong cuốn sách đó, tôi đã viết: “Nếu tự tách vỏ để chui ra ngoài, bạn đã tự tạo cho mình cơ hội sinh tồn, nhưng nếu đợi ai đó đập vỡ vỏ cho mình, bạn sẽ trở thành món ăn trên bàn ăn của người khác. Bởi vậy, hãy đi theo tiếng gọi của ‘ngày mai’ để tạo dựng ‘sự nghiệp của bản thân’.” Sau đó, có rất nhiều bạn trẻ hỏi tôi cách để tìm được việc làm và gây dựng sự nghiệp của bản thân. Đây cũng chính là câu hỏi xuất hiện thường xuyên nhất trong những bức thư mà độc giả gửi về cho tôi, đồng thời cũng là câu hỏi mà các bạn học sinh, sinh viên khao khát nhận được lời giải đáp nhất khi tìm đến các trung tâm tư vấn, định hướng việc làm. “Em thậm chí còn không biết mình muốn làm gì và nên làm gì nữa...” Cảm nhận được một phần trách nhiệm của bản thân trước bài toán nan giải mang tên “tương lai và sự nghiệp” đang đặt ra cho thế hệ trẻ, đồng thời, với tư cách là một người thầy, một chuyên gia nghiên cứu về những điều còn ẩn giấu trong xu thế tiêu dùng, trong cuốn sách này, tôi đã thử dấn thân, đào sâu nghiên cứu về vấn đề việc làm. Và như vậy, trong khoảng thời gian một năm liên tục cân nhắc, tìm hiểu vấn đề này, vào một ngày đầu xuân năm 2012, tôi đã gặp đạo diễn Lee Jae Hyuk của nhóm sản xuất chương trình KBS Panorama. Sau khi đưa vấn đề này ra thảo luận cụ thể, chúng tôi nhất trí đi tới quyết định bắt tay vào thực hiện bộ phim tài liệu đề cập tới một trong những vấn đề nóng hổi nhất hiện nay của toàn xã hội − vấn đề việc làm. Nếu như trước đây, vấn đề việc làm vẫn được nhìn nhận theo một mô hình cũ kỹ mang nặng màu sắc chính trị và thiên về lý thuyết, thì những kết luận của nhóm nghiên cứu chúng tôi đứng trên lập trường “sự nghiệp tương lai” hy vọng sẽ mang đến cái nhìn toàn cảnh về một mô hình việc làm mới đang được gây dựng trên nền tảng là xu hướng tương lai của thế giới. Sau cuộc gặp gỡ với đạo diễn Lee Jae Hyuk, tôi bắt tay vào tiến hành song song việc viết cuốn sách này và tham gia vào quá trình sản xuất bộ phim tài liệu Sự nghiệp tương lai. Với tư cách một nhà nghiên cứu về tiêu dùng luôn cập nhật xu thế trong nhiều năm trở lại đây, tôi cùng đạo diễn Lee Jae Hyuk, người chuyên thực hiện các bộ phim tài liệu phản ánh và đào sâu các vấn đề tồn tại trong xã hội, đã bỏ qua cách nhìn cảm tính và những quan điểm cá nhân để nhìn nhận vấn đề này dưới lăng kính phân tích mang tên “triển vọng tương lai” nhằm điều tra một cách triệt để thị trường việc làm hiện nay, đồng thời mang lại cho các bạn trẻ đang đứng trước ngưỡng cửa sự nghiệp thêm một nguồn giải đáp và giải pháp tham khảo đáng tin cậy. Nói cách khác, với tầm nhìn định hướng tương lai trên quy mô hội nhập toàn cầu, cuốn sách này cùng dự án phim tài liệu của chúng tôi được triển khai với mong muốn đi sâu tìm hiểu hai vấn đề chính: Xu hướng việc làm toàn cầu trong tương lai sẽ biến đổi ra sao; và đâu là chiến lược cần thiết để tìm được công việc phù hợp, tạo dựng sự nghiệp của bản thân? Để tìm được lời giải đáp thỏa đáng nhất cho hai vấn đề lớn trên, tôi đã cất công dành toàn bộ thời gian một năm nghiên cứu của mình để đến nhiều quốc gia, với hy vọng có thể phản ánh trung thực nhất về tất cả thời gian và công sức của những người trẻ tuổi trên con đường nỗ lực gây dựng “sự nghiệp của bản thân” trong “thời đại bất ổn” như hiện nay. Trong dự án này, tôi có cơ hội được gặp rất nhiều bạn trẻ và các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực đến từ 10 quốc gia trên thế giới từ châu Á cho tới châu Âu. Với cuốn sách này, tôi mong muốn có thể tái hiện một cách chân thực và sống động nhất tiếng nói, nỗi niềm cùng những hình ảnh thực tế thường ngày diễn ra trong cuộc đấu tranh giành thế thượng phong giữa những lợi ích nhỏ bé và thất bại to lớn của các bạn trẻ đang cống hiến hết mình cho sự nghiệp. Bên cạnh đó, không thể không đề cập đến những biến đổi chóng mặt của thị trường việc làm và sự xuất hiện đáng mong đợi của những ngôi trường dạy nghề. Sau khi kết thúc hành trình thám hiểm dài ngày này, tôi tin rằng chúng ta có thể cập bến một vùng đất mới mẻ và màu mỡ, mở rộng lãnh thổ cho thị trường việc làm thế giới đang dần bị dịch chuyển bởi sức mạnh của những người hùng trẻ tuổi không ngừng nỗ lực tìm lối đi cho riêng mình. Ngày nay, một “công việc tốt” không nhất thiết phải nằm trong một nhóm nghề cụ thể nữa. Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để khám phá ra những giá trị còn tiềm ẩn trong bất cứ công việc gì, từ đó bắt tay vào làm và hiện thực hóa bản ngã thông qua công việc ấy. Trong quá trình này, chúng ta tuyệt đối không thể tiết kiệm công sức, và quan trọng là phải chứng tỏ được những nỗ lực cụ thể như thế nào. Nếu trong cuốn Tuổi trẻ − Khát vọng và Nỗi đau, tôi muốn củng cố thêm động lực và giúp cho các bạn trẻ thấu hiểu tại sao phải thực sự biến sự nghiệp trở thành đầu tàu dẫn lối cho cuộc đời mình, thì cuốn sách này lại gửi gắm câu trả lời cụ thể cho câu hỏi cần phải làm thế nào để tìm được một công việc hoàn toàn phù hợp với bản thân. * * * Đã đến lúc chúng ta phải chấm dứt các cuộc đối đầu vô nghĩa và thay đổi hoàn toàn khuôn mẫu cứng nhắc do trường tư tưởng thủ cựu lạc hậu để lại. Bởi trong cuộc chạy đua với thời gian, toàn thể bộ máy xã hội đang cho thấy những biến đổi vô cùng mạnh mẽ. Đã từng có thời kỳ khi mà mức độ hấp dẫn của nghề đọc lời dẫn tại rạp chiếu phim lên tới đỉnh điểm, cũng có một thời mọi thanh niên đều nuôi mộng trở thành nhân viên ngân hàng hay giáo viên. Nghề luật sư vốn được coi là biểu tượng vững chãi nhất cho công việc tốt và ổn định trong suốt một thời gian dài, song gần đây, không ít luật sư đang phải đối mặt với tình trạng thất nghiệp kéo dài. Những người làm việc trong lĩnh vực tín dụng-ngân hàng cũng gặp phải hoàn cảnh tương tự, khi mà các phương tiện thông tin đại chúng liên tục đưa tin về những vụ lừa đảo tín dụng mới xảy ra gần đây. Qua đây, có thể thấy được rằng “công việc tốt” là một khái niệm biến đổi theo dòng chảy thời đại. Như vậy, việc làm hay nghề nghiệp cũng mang tính “xu thế”. Trong dòng chảy không ngừng của các xu thế xã hội, yêu cầu đặt ra trước tiên chính là phải định hình được hình thức biến đổi của thị trường việc làm thế giới đang khiến hoạt động “việc tìm người, người tìm việc” xáo trộn mạnh mẽ bằng 6 xu hướng nghề nghiệp (job trend) được gọi là ‘FUTURE’ (Tương lai). Tiếp đó, nhiệm vụ thứ hai sẽ được hoàn thiện với từ khóa ‘MY JOB’ (Nghề nghiệp của tôi) bao gồm 5 đề án và phương án giải quyết vấn đề tìm kiếm một công việc phù hợp với bản thân trong dòng chảy của xu hướng việc làm trên toàn thế giới. Tôi hy vọng những từ khóa này có thể nâng tầm triển vọng cho thị trường việc làm trong tương lai và trở thành công cụ đắc lực cho các bạn trẻ, không những giúp mở rộng tầm mắt mà còn hướng các bạn đến với những cơ hội, lĩnh vực rộng lớn hơn để các bạn hoàn toàn có thể thử sức và làm nên sự nghiệp. 11 từ khóa được đề cập trong cuốn sách này không phải là những kết luận võ đoán được rút ra từ việc tập hợp tài liệu của cuộc điều tra trước đây, từ trực quan hay từ những tài liệu tham khảo nào khác. Đây là kết quả phân tích mang tính khoa học, tổng hợp toàn bộ hệ thống dữ liệu và các học thuyết, phương pháp nghiên cứu tích lũy trong suốt thời gian qua của đội ngũ các nhà nghiên cứu tại Trung tâm phân tích xu hướng tiêu dùng thuộc Viện Nghiên cứu Khoa học Đời sống Đại học Quốc gia Seoul, được biết tới là trung tâm nghiên cứu xu hướng xã hội hàng đầu tại Hàn Quốc, nơi xuất bản thường niên tuyển tập Xu hướng Hàn Quốc được đông đảo độc giả đón nhận. Cuốn sách mà các bạn đang cầm trên tay là tài liệu phân tích, điều tra dựa trên cuộc sống hiện tại cũng như triển vọng tương lai của những bạn trẻ hài lòng với cuộc sống và tự tin với công việc của mình. Mặt khác, cuốn sách này cũng có thể được coi như một sách lược dành cho tất cả những ai mong muốn có một sự nghiệp thực sự chứ không chỉ là một chỗ làm đơn thuần. Đồng thời, thông qua cuốn sách này, tôi hy vọng có thể giúp độc giả tìm ra con đường cho riêng mình và khám phá ra những ý nghĩa, giá trị của các chính sách xã hội. Nói cách khác, với cuốn sách này, hy vọng những nỗ lực của chúng tôi không chỉ mở ra một hướng đi mới cho các bạn trẻ trên bước đường hoạch định tương lai, hay cho những ai có ý định bắt đầu một cuộc sống mới, mà còn có thể trở thành cơ sở lý luận tiến bộ đề cao tính thực tiễn cho các nhà chính sách, doanh nhân, nhà giáo dục trong công cuộc xây dựng chiến lược phát triển thị trường việc làm. Một cuộc cách mạng quy mô lớn đã trỗi dậy. Các bạn trẻ, đã đến lúc phải tìm kiếm cho mình một công việc phù hợp thực sự, vì chính tương lai của các bạn! Tháng 6 năm 2013 Kim Rando và Lee Jae Hy Lời nói đầu Tại sao chúng ta cần phải làm việc? “Có tới hàng triệu con thiên nga đang lãng phí cả cuộc đời bằng việc tự coi mình là vịt con xấu xí.” — NARENDRA JADHAV — T rích Untouchables: My Family’s Triumphant Journey Out ofthe Caste System in Modern India (tạm dịch: Tiện dân: Hành trình vẻ vang của gia đình tôi trong cuộc chiến thoát khỏi chế độ đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ hiện đại) Không có được thì khổ sở, có được rồi thì lại mệt mỏi Chỉ tính riêng trong năm 2012, các cơ sở giáo dục tại Hàn Quốc đã đẩy 560.000 cử nhân đại học và 630.000 học sinh tốt nghiệp cấp ba ra xã hội. Trong đó, có 290.000 cử nhân đại học nhanh chóng tìm được việc làm ngay sau khi tốt nghiệp. Đối với những học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học, có khoảng 450.000 người tiếp tục theo học đại học và 50.000 người quyết định tìm việc ngay. Thực tế cho thấy rằng, trong số những người lao động tìm việc làm, chỉ tồn tại một con số rất nhỏ những người may mắn giành được một công việc ổn định với mức lương hấp dẫn ở các doanh nghiệp tư nhân lớn hay tại các cơ quan nhà nước. Thế hệ trẻ Hàn Quốc đang vật vã, quằn quại do nạn thất nghiệp gây ra. Nhưng trong đại nạn này, nạn nhân không chỉ có những người trẻ tuổi. Trong xã hội hiện đại ngày nay, ngay cả việc thế hệ trung và cao niên đã về hưu cũng coi cuộc sống sau công sở là một cơ hội để tự do “thiết kế” phần đời tiếp theo và nuôi hy vọng gieo cấy mùa vụ thứ hai trên cùng một mảnh đất cuộc đời đã không còn là điều xa lạ. Tuy nhiên, vấn đề làm sao để tìm được một công việc phù hợp cho đối tượng lao động này lại tiếp tục đặt ra một bài toán khó cho xã hội. Việc làm không chỉ đơn giản là vấn đề tiền bạc và kế mưu sinh. Chúng ta cần phải nhận thức được đây là vấn đề thuộc về phạm trù giá trị xã hội và đạo đức của con người. Bởi vậy mới dẫn đến hậu quả những người thất nghiệp dài hạn khó tránh khỏi các căn bệnh nguy hại về mặt tư tưởng. Tôi từng được nghe một lời thổ lộ thẳng thắn đến mức bất thường của một người đứng xếp hàng trong một hàng dài bất tận tại một hội chợ việc làm. “Nếu có được một nghề nghiệp tốt, dám chừng tôi có thể đánh đổi bằng cả linh hồn.” Đánh đổi tất cả để có được công việc ưng ý mà bạn đã ao ước bấy lâu nay liệu có thể giải quyết được vấn đề của bản thân? Tìm được việc làm rất khó khăn, nhưng đạt được điều mình mong muốn không có nghĩa là mọi khó khăn chấm dứt, bạn vẫn tiếp tục phải đối mặt với những vấn đề nhức nhối mà công việc đó mang lại. Từ chuyện nhỏ nhất là mỗi sáng bạn phải chiến đấu với cơn buồn ngủ để đến công sở, để rồi ngay sau đó, bạn lại rơi vào dòng người chật vật ngược xuôi để đến chỗ làm đúng giờ. Nếu chốn công sở là chiến trường muôn vàn hiểm nguy thì những người làm việc tại đó ắt phải trở thành những chiến binh để có thể tồn tại. Họ tất bật, hối hả, dùng giấy bút làm vũ khí thay cho cung tên và luôn phải nắm vững những kế hoạch tác chiến chắc thắng. Đây được coi là toàn bộ chiến lược sinh tồn của những “chiến binh công sở”. Ngay cả vào những ngày may mắn hiếm hoi được tan sở đúng giờ thì cũng đừng vội quên tình trạng giao thông ngoài kia đang hỗn loạn khi thành phố bước vào giờ tan tầm. Nhưng vào những ngày làm tăng ca hay làm đêm, chắc chắn cuộc chiến với sự mệt mỏi cả về thể chất lẫn tinh thần sẽ còn vắt kiệt sức lực của bạn hơn nữa. Cứ như vậy, mỗi tháng một lần những con số đầy hứng khởi sẽ lại được thêm vào và lấp đầy tài khoản ngân hàng của bạn, cùng với đó là những lợi ích có được từ công việc. Thế nhưng, ngay ngày hôm sau, các dịch vụ ủy thác thanh toán đã gần như thổi bay con số ấy và tài khoản của bạn lại trở về trạng thái gần như trống rỗng. Sổ lương − thành quả của lao động chẳng lẽ chỉ như bến đỗ tạm thời với những con số lưu lại chẳng bao lâu đã vội bỏ đi? Nhiều người lao động tại Hàn Quốc không hy vọng công việc sẽ giúp họ hiện thực hóa bản ngã mà chỉ mong nó mang lại cảm giác yên ổn khi vượt qua một tháng làm việc mà không “hề hấn” gì. Thực tế, mỗi người đều dành thời gian cho công việc và công sở nhiều hơn cả thời gian sinh hoạt ở nhà, công việc đang chiếm phần lớn thời lượng của cuộc sống. Công việc và công sở chính là căn nguyên của nỗi bất an và liên quan trực tiếp đến những căng thẳng mà nhiều người đang phải gánh chịu. Việc làm chính là thứ nếu không có được thì khổ sở mà có được rồi thì cũng vì nó mà hao tâm tổn sức. Rốt cuộc, đâu là lý do để con người lao động và làm việc? Chẳng lẽ đối với con người, công việc cũng không khác nào một sự trừng phạt, giống như tảng đá của Sisyphus1? Vậy, đâu là ý nghĩa thực sự của công việc đối với con người? 1. Trong thần thoại Hy Lạp, Sisyphus bị các vị thần trừng phạt bằng việc suốt đời phải đẩy một tảng đá lớn lên tới đỉnh núi rồi đứng nhìn tảng đá lăn xuống chân núi, sau đó lai phải trở xuống đẩy hòn đá lên đỉnh và tiếp tục lặp lại quá trình này. Lý do của hình phạt này là bởi các vị thần cho rằng không có hình phạt nào tàn khốc hơn sự lao động hoài công và vô vọng. (ND) Nghề có phải là “nghiệp”? Ấ Ấn Độ − quốc gia được mệnh danh là “đất nước của các vị thần” với trên 80% trong tổng số hơn 1 tỷ người theo đạo Hindu. Tại đây, người ta thờ rất nhiều vị thần, từ những vị thần có hình dáng giống con người, cho đến những vị thần mang lốt thú. Đây cũng là nơi tồn tại nhiều loại hình công việc đa dạng, y như sự phong phú trong dáng vẻ của các vị thần mà họ tôn thờ. Ở Ấn Độ có người làm nghề lấy ráy tai, giặt quần áo thuê, cho thuê điện thoại di động, phơi phân bò, kéo xe, v.v... và thậm chí ăn xin cũng được coi là một nghề. Theo một cuộc điều tra, có tới 50% người dân Ấn Độ cho biết hiện nay họ đang làm công việc mà họ ao ước khi còn nhỏ. Trong khi đó, con số đó tại các quốc gia phát triển thấp hơn rất nhiều như Mỹ (29%) và Anh (21%). Điều gì đã khiến người dân Ấn Độ hài lòng với nghề nghiệp của họ đến vậy? Theo Hindu giáo, mục đích của công việc không phải là tiền bạc mà mang tính chất tôn giao. Và chính hành vi lao động cũng đã là một hoạt động tôn giáo. Đạo Hindu có từ karma, có nghĩa là nghiệp. Theo đạo Hindu, người ta tin rằng kiếp này là kết quả của kiếp trước và cũng là sự chuẩn bị cho kiếp sau, bao gồm cả thân phận lẫn nghề nghiệp và đây chính là hệ quả tất yếu của “nghiệp”. Điều này có nghĩa là tại Ấn Độ, nghề nghiệp cũng giống như số mệnh và làm việc cũng là một hoạt động tôn giáo. Mặc cho những biến đổi của thời đại, nhiều người Ấn Độ vẫn giữ nguyên suy nghĩ nghề nghiệp đã được ấn định sẵn cho mỗi người từ khi họ được sinh ra. Và họ có một niềm tin mãnh liệt rằng nếu chăm chỉ tu hành với nghề nghiệp được định sẵn, kiếp sau họ sẽ được sinh ra với một cuộc sống tốt đẹp hơn. Như vậy đối với họ, nghề nghiệp là một thiên chức mà không một ai có thể đảm nhận thay họ được. Người Ấn Độ chấp nhận nghề của mình như một phần số mệnh và hoàn toàn không đặt nặng vấn đề phân biệt ngành nghề. “Cân bằng giữa công việc và cuộc sống” đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của xã hội phương Tây nhưng lại là điều hoàn toàn tự nhiên tại Ấn Độ. Ấn Độ chính là đất nước dù nghèo khó cùng cực vẫn có hơn 60% dân số trả lời “Có” khi được hỏi “Bạn có hài lòng với cuộc sống hiện tại không?” Ngược lại, ở một quốc gia phát triển như Hàn Quốc, người ta vì công việc mà phá vỡ sự cân bằng của cuộc sống, quỹ thời gian sum vầy sung túc bên gia đình trở nên eo hẹp và chỉ có 19% dân số hài lòng với cuộc sống hiện tại. Theo kết quả của một cuộc điều tra do hãng thông tấn Reuters thực hiện năm 2012 tại 24 quốc gia trên thế giới, có tới 81% dân số không cảm thấy hài lòng với cuộc sống hiện tại của họ. Chỉ số hạnh phúc và mức độ hài lòng với nghề nghiệp của người Ấn Độ đạt mức cao nhất trên thế giới. Nếu nhìn trên kết quả khảo sát thì Ấn Độ có vẻ là một đất nước yên bình, nhưng trên thực tế vấn đề phân biệt đẳng cấp tại đây đang ngày càng trở nên sâu sắc. Đặc biệt, tầng lớp hạ đẳng Dalit hay còn gọi là “tầng lớp tiện dân” có địa vị thấp nhất trong xã hội Ấn Độ vẫn phải chịu sự phân biệt đối xử gay gắt và trở thành nạn nhân của sự khinh miệt trong xã hội. Đúng như tên gọi tầng lớp tiện dân, chúng ta có thể tưởng tượng nhóm người Dalit phải chịu sự coi thường đến mức dường như họ không thể đi tiếp nếu chưa xóa sạch mọi dấu chân mình đã để lại. Năm 1950, chính phủ Ấn Độ ra pháp lệnh yêu cầu bãi bỏ hoàn toàn chế độ đẳng cấp. Tuy nhiên, bất chấp những cố gắng của chính phủ và luật pháp, chế độ đã tồn tại và chi phối cuộc sống của người dân Ấn Độ từ ngàn đời qua vẫn tiếp tục cho thấy những tác động sâu rộng của nó đến toàn bộ xã hội Ấn Độ. Những người thuộc tầng lớp Dalit không có khả năng tự bảo vệ sự tôn nghiêm tối thiểu của một con người chiếm khoảng 15% dân số Ấn Độ. Tức là có hơn 170 triệu người hiện đang phải sống cuộc đời “vịt con xấu xí” trong sự phân biệt đối xử gay gắt và không thể thoát khỏi sự kỳ thị cay độc của xã hội. Tuy nhiên, trong số “vịt con xấu xí” ấy cũng đã xuất hiện những con người tự tin vào bản chất “thiên nga” của mình và dám vượt qua bức tường hiện thực để trở thành người hùng mới của Ấn Độ. Sinh ra với thân phận của một tiện dân hạ đẳng, từng giữ Ấ chức Cố vấn Ngân hàng Trung ương Ấn Độ (RBI − tức Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ) và có khả năng trở thành ứng viên tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ tiếp theo của Ấn Độ − Narendra Jadhav được biết đến là nhà kinh tế học danh tiếng đầu tiên của Ấn Độ xuất thân từ tầng lớp Dalit và hiện đang nỗ lực triệt để trên mọi phương diện nhằm xóa bỏ hoàn toàn chế độ tại nước này. Narendra Jadhav − người được tôn vinh như “vị thánh sống” tại Ấn Độ − đã nói rằng “Không một ai kể từ khi sinh ra đã là ‘vịt con xấu xí’ trong cuốn sách Tiện dân: Hành trình vẻ vang của gia đình tôi trong cuộc chiến thoát khỏi chế độ đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ hiện đại. “Tôi cho rằng thành công là biến tiềm năng thành hiện thực. Trên thế gian này, không có người nào là vô dụng. Bất cứ ai cũng mang trong mình những sức mạnh tiềm tàng khổng lồ. Đó chính là thông điệp mà câu chuyện cổ tích ‘Vịt con xấu xí’ muốn truyền đạt. Tiếc thay, trong xã hội phân chia đẳng cấp tại Ấn Độ, có tới hàng triệu con thiên nga đang lãng phí cả cuộc đời bằng việc tự coi mình là vịt con xấu xí.” Trên đời không có ai sinh ra đã là “vịt con xấu xí”. Jadhav đã không chỉ vượt qua bức tường của thân phận và đẳng cấp mà hơn thế nữa, ông còn đạp đổ bức tường “không thể” hay “không có cách nào” vẫn án ngữ trong tư tưởng của vô số những con thiên nga trên toàn thế giới khiến chúng không thể sải cánh vươn cao. Suy nghĩ về mục đích chân chính của công việc Con người là một thực thể tồn tại có suy nghĩ. Nhà văn Pháp, Paul Bourget, từng nói: một người cần phải sống theo cách mà họ nghĩ, nếu không cuối cùng sẽ nghĩ theo cách mà họ đã sống. Chúng ta ngay từ thuở nhỏ đã được truyền tải vào đầu tư tưởng: nghề nghiệp là mục tiêu cuối cùng của cuộc đời. Khi người lớn hỏi trẻ con,“Ước mơ của con là gì?” thì điều mà họ hy vọng không phải là một câu trả lời sẽ giúp họ nhận ra quan điểm hay cách nhìn nhận cuộc sống của đứa trẻ, mà là câu trả lời của đứa trẻ về một nghề nghiệp cụ thể nào đó. Mỗi đứa trẻ phải nghe câu hỏi này nhiều đến nỗi dần dần chính yếu tố “là gì” ấy bỗng nhiên lại trở thành mục tiêu của chúng khi trưởng thành. Liệu có phải chúng ta đang chạy theo một mục tiêu vô nghĩa nên mới dẫn tới hàng loạt những cảm xúc bất mãn, bất an và mệt mỏi ngay cả khi đã có được một công việc, tức là đã đạt được mục tiêu của cuộc đời? Quá trình công nghiệp hóa được tiến hành gấp rút cùng với chủ nghĩa tư bản đã khiến con người quên đi mục đích chân chính của công việc. Tuy nhiên, khủng hoảng kinh tế cùng với nhiều hệ lụy đã dẫn tới sự sụp đổ của không ít tập đoàn lớn trên thế giới gần đây buộc chúng ta phải nhìn nhận lại một cách nghiêm túc về vấn đề nghề nghiệp. Trong bối cảnh mất ổn định của nền kinh tế hiện nay thì tiền bạc và địa vị không còn là mối quan tâm hàng đầu, con người chú trọng hơn tới việc theo đuổi ước mơ và tìm cho mình một hướng đi phù hợp. Kết quả của một cuộc điều tra đã cho thấy “tiền” chỉ đứng ở vị trí thứ 4 trong những đáp án cho một câu hỏi được đặt ra với nhiều người: “Theo bạn đâu là mục đích của công việc?”. Câu trả lời phổ biến nhất cho “mục đích của công việc” được các đối tượng tham gia khảo sát lựa chọn là “để tìm kiếm niềm vui trong cuộc sống”. Nhưng nếu câu hỏi này được thay đổi đi một chút thành “Lý do bạn bước ra khỏi nhà và đi làm ngày hôm nay là gì?” thì chưa biết chừng lần này “tiền” lại thắng thế và vươn lên vị trí số một. Tuy nhiên, cho dù hiện thực mà chúng ta đang trải qua có ra sao, chúng ta đang làm công việc gì thì chắc chắn cuối cùng, sâu trong tâm khảm mỗi con người, ai cũng hy vọng có thể tìm thấy niềm vui trong công việc và thậm chí còn có thể biến công việc thành một thú vui. Mặc dù vậy, việc tìm kiếm niềm vui ở đâu và cách để thực hiện mục đích chân chính của công việc lại là câu hỏi khó tìm được lời giải đáp thích đáng. Hơn ai hết và hơn bao giờ hết, ngay bây giờ, mỗi người cần nghiêm túc tự hỏi bản thân: “Đâu là công việc có thể mang lại niềm vui cho bản thân mình?” Đâu là lối thoát cho hiện thực tăm tối? “‘Công sở’ không thể trở thành sự bảo đảm cho chúng ta nhưng ‘nghề nghiệp’ thì hoàn toàn có thể. Tôi có một lời nhắn gửi tới những ai chuẩn bị bước vào môi trường công sở, hãy tìm cho mình một nghề mà bạn có thể dành cả đời để gắn bó với nó, thay vì tìm một nơi làm việc mà bạn chỉ có thể trụ lại lâu nhất từ 20 đến 30 năm.” - Kim Ho (Đại diện Công ty The LAB h) Một thực trạng đáng lo ngại trong xã hội là vấn đề việc làm ngày càng lạc vào vòng luẩn quẩn. Nếu như vấn đề của Ấn Độ là do chế độ đẳng cấp biến con người trở thành những chú vịt con xấu xí, thì những chú vịt con xấu xí của chúng ta lại là sản phẩm sinh ra từ căn bệnh tự kỷ ám thị và “ánh mắt của người đời”. Như vậy, thiên nga chẳng qua chỉ là cách gọi khác của “kẻ thất nghiệp tay trắng” và là biểu tượng cho những triển vọng và cái đẹp một thời rồi cũng dần phai nhạt theo năm tháng. Cái chết của người chào hàng nào đó Dù đã hơn 60 tuổi nhưng Willy vẫn phải vật lộn với những chi phí bảo hiểm và khoản trả góp chồng chất. Ông đã sống cả đời bằng nghề nhân viên tiếp thị nhưng vẫn chưa thoát khỏi những nỗ lực luẩn quẩn nhằm tháo gỡ hoàn cảnh không lấy gì làm sung túc của mình. Tuy đã ngoài lục tuần, song cuộc sống còn nhiều bộn bề khiến Willy chưa thể nghỉ ngơi. Nhưng chẳng may, Willy bị công ty sa thải, toàn bộ niềm hy vọng cũng theo đó mà tan biến, đẩy ông vào chốn đường cùng. Cuối cùng, Willy ngồi lên chiếc xe ô tô quen thuộc, nhấn ga hết cỡ và tự kết liễu đời mình với suy nghĩ ít ra khi chết đi ông còn có thể để lại cho gia đình một khoản tiền bảo hiểm. Đây là một cảnh trong vở kịch Cái chết của người chào hàng (Death of a sales man) của nhà viết kịch nổi tiếng người Mỹ, Arthur Miller, được công diễn lần đầu tiên vào năm 1949. Yếu tố then chốt tạo nên bi kịch của nhân vật Willy Loman trong tác phẩm này, một con người bình thường từng ấp ủ nhiều mơ ước nhưng cuối cùng đã bị hủy hoại vì những sức ép của cuộc sống hiện đại, chính là “thất nghiệp”. Trong cuộc sống hiện đại, mất việc cũng khủng khiếp như bị cướp đi ý chí tiếp tục sống của con người. Cái chết của Willy càng trở nên bi kịch và đau xót hơn bởi không ai biết đó là sự ra đi của một con người tên là “Willy” mà sau cùng sự việc này chỉ được nhắc tới như “cái chết của một người chào hàng vô danh nào đó”. Cái chết của người chào hàng là tác phẩm được sáng tác vào thế kỷ XX nhưng nội dung mà nó truyền tải vẫn còn giữ nguyên giá trị hiện thực sinh động khi bước sang thế kỷ XXI. Nhân vật nhân viên bán hàng trong tác phẩm này là nạn nhân của một xã hội văn minh và cái chết của ông được coi là bi kịch điển hình cho mặt trái của chủ nghĩa tư bản. Cái chết của người chào hàng không chỉ ứng với những nhân viên kinh doanh mà đã trở thành một cụm từ phổ biến trên toàn thế giới. Điều này cũng cho thấy tương lai của vô số nhân viên công sở đang bị uy hiếp mạnh mẽ. Đặc biệt, việc Nhật Bản đang dần xóa bỏ chế độ làm việc trọn đời, vốn được biết tới như là nét đặc thù của nền văn hóa công sở nước này, đang làm dấy lên mối lo ngại trong giới người làm công ăn lương. Gần đây, các doanh nghiệp Nhật Bản đang giảm thiểu số lượng lao động chính thức, thay vào đó, họ tuyển dụng nhân viên làm việc với các hợp đồng ngắn hạn hoặc không chính thức. Nếu như vào năm 1985 có tới 85% lao động được ký kết hợp đồng lao động chính thức thì đến năm 2007 con số này giảm xuống chỉ còn 64,8%. Mặt khác, cũng trong khoảng thời gian này, số lượng lao động không chính thức tăng từ 15% lên 35,2%. Khi khủng hoảng kinh tế nổ ra, biện pháp đầu tiên được các doanh nghiệp áp dụng khi cần phải tiết giảm chi phí chính là cắt giảm nhân lực. Việc đầu tiên là hạn chế tuyển dụng nhân viên mới, đồng thời giảm bớt số lượng nhân viên chính thức và cũng là lực lượng lao động mà công ty cần phải đảm bảo các điều kiện lao động liên quan. Tình trạng này vẫn tiếp diễn khiến việc trở thành nhân viên chính thức và bước qua cổng chính dẫn vào các doanh nghiệp lớn ngày càng trở nên chật hẹp với giới trẻ Nhật Bản. Điều này dẫn tới hiện tượng xuất hiện nhiều lao động không chính thức bước vào công ty bằng cổng sau rồi cũng bước ra chính từ cánh cổng đó. Sự thay đổi mô hình việc làm theo chiều hướng này đã thay đổi toàn bộ diện mạo xã hội Nhật Bản. Trong quá trình thay đổi này đã xuất hiện một hệ thống từ mới rất đa dạng như Freeter để chỉ những người không có công việc ổn định và coi những việc làm bán thời gian, nghề tự do là nghề kiếm sống; Hikikomori là từ để chỉ hiện tượng tự giam mình trong nhà và xa rời khỏi cuộc sống xã hội hay công việc; NEET ám chỉ một nhóm người “lông bông” không tìm được động lực làm việc, v.v... Tựu trung, hệ thống từ mới cùng với những hiện tượng xã hội ẩn sâu bên trong đó cho thấy thái độ lảng tránh cuộc sống của một bộ phận giới trẻ mang tâm lý bất an, mong manh trong xã hội hiện đại. Giờ đây, những người làm công ăn lương tại Nhật Bản đang phải đối mặt với một cái kết dành cho chế độ làm việc trọn đời bắt đầu được khởi xướng từ những năm 1990. Tuy nhiên, cần phải thấy được rằng đây không phải là vấn đề của riêng Nhật Bản. Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ IMF và khủng hoảng kinh tế thế giới trong những năm 2000, cái chết của người chào hàng đã nhanh chóng lây lan và trở thành một hiện tượng phổ biến toàn cầu. Điều đặc biệt nguy hiểm là những hệ lụy mà nó kéo theo đang nhằm thẳng vào thế hệ thanh niên chuẩn bị bước ra ngoài xã hội. Báo cáo mới đây của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đặt ra cho xã hội một tương lai u ám khi đưa ra con số 12,7% thanh niên trên toàn thế giới đang rơi vào tình trạng thất nghiệp và tình hình này còn tiếp tục xấu đi trong vòng 5 năm tới. Toàn thế giới đang oằn mình trong cơn bạo bệnh việc làm với những thanh niên thuộc thế hệ mất mát1. Chúng ta có thể tuyên bố rằng, giờ đây, giới trẻ toàn cầu đang đối mặt với một tương lai nghề nghiệp bấp bênh. 1. Thuật ngữ ám chỉ những thanh niên Nhật Bản lớn lên sau cuộc khủng hoảng kinh tế triền miên và phải chịu nhiều thiếu thốn trong công việc, tiền bạc, tình cảm, phải kiếm sống bằng những công việc không ổn định với mức lương bèo bọt. (ND) Mặc dù luôn duy trì một tỷ lệ tăng trưởng cao, tình hình kinh tế khá ổn định, song nước láng giềng Trung Quốc cũng gặp phải những vấn đề đáng lo ngại. Thực tế hiện nay tại Trung Quốc, cứ 10 thanh niên thì lại có 1 người không thể tìm được việc làm và con số này đang tiếp tục gia tăng. Câu hỏi đặt ra là 30 năm sau khi thực hiện cải cách mở cửa với tốc độ tăng trưởng chóng mặt, tại sao thanh niên Trung Quốc vẫn không tìm được việc làm? Vấn đề nằm ở sự phân biệt trong việc làm và nghề nghiệp. Thứ mà họ thiếu là những vị trí làm việc tốt. Những công việc ổn định với mức lương cao rất hạn chế, trong khi đó số lượng lao động trẻ có trình độ cao lại không ngừng tăng lên. Những lao động trẻ đã chú trọng đầu tư cho sự nghiệp giáo dục của bản thân cho rằng những công việc với mức lương thấp không phù hợp với trình độ của họ và chấp nhận trì hoãn tìm kiếm việc làm. Vấn đề của thị trường việc làm Trung Quốc là mâu thuẫn giữa tiêu chuẩn của người tìm việc và yêu cầu của công việc đặt ra từ phía nhà tuyển dụng. Trong khi đó, tình trạng này cũng tăng thêm gánh nặng cho giới trẻ Trung Quốc khi mà họ vốn đã được coi là thế hệ six pocket (six pocket generation). Hội chứng six pocket là thuật ngữ xuất phát từ chính sách một con của Trung Quốc, dẫn tới mô hình gia đình một con trở nên phổ biến tại nước này. Như vậy 6 người lớn trong một gia đình bao gồm cha mẹ, ông bà nội, ông bà ngoại sẽ tập trung tiền của và sức lực để chăm sóc một đứa trẻ duy nhất. Mỗi đứa trẻ sẽ được chăm chút tỉ mỉ và một mình thừa hưởng tất cả sự chiều chuộng của cả gia đình như một “tiểu hoàng đế”, song vấn đề sẽ nhanh chóng phát sinh khi đứa trẻ trưởng thành. Tình thế bị đảo ngược khi 6 người lớn trong gia đình ngày càng có tuổi, dẫn tới thực tế một người trẻ có trách nhiệm phụng dưỡng 6 người già. Điều này đặt lên vai thế hệ trẻ những áp lực vô cùng nặng nề. Gánh nặng gia đình khiến thế hệ trẻ đặt nhiều kỳ vọng vào một mức lương cao trong công việc. Tuy nhiên, kỳ vọng càng nhiều thì thất vọng càng lớn, và khi thực tế không như mong đợi thì họ dần mất đi niềm tin vào khả năng của bản thân. Sau khi chật vật để có được một công việc ưng ý, việc rơi vào môi trường cạnh tranh khốc liệt chốn công sở mà không có một chỗ dựa khiến họ không tránh khỏi cảm giác chán nản, muốn bỏ cuộc. Có thể thấy rằng thế hệ six pocket của Trung Quốc hiện đại có một cuộc sống không mấy hạnh phúc. Tỷ lệ sinh ngày càng giảm sút đã đẩy nhanh quá trình già hóa dân số, khiến gánh nặng xã hội tăng cao và dẫn tới căn bệnh trầm cảm nặng nề phổ biến trong giới trẻ hiện đại. Cần có chiến lược để “tìm kiếm công việc phù hợp với bản thân” Trong một cuộc phỏng vấn với tờ Hankyoreh, Kim Ho, đại diện công ty The LAB h, một chuyên gia về lĩnh vực tư vấn và quản lý rủi ro Hàn Quốc có đôi lời nhắn nhủ tới những người trẻ tuổi mới bước vào xã hội. “‘Công sở’ không thể trở thành sự bảo đảm cho chúng ta nhưng ‘nghề nghiệp’ thì hoàn toàn có thể. Tôi có một lời nhắn gửi tới những ai chuẩn bị bước vào môi trường công sở, hãy tìm cho mình một nghề mà bạn có thể dành cả đời để gắn bó với nó, thay vì tìm một nơi làm việc mà bạn chỉ có thể trụ lại lâu nhất từ 20 đến 30 năm.” Chúng ta đang sống trong một thời đại bấp bênh và nhiều rủi ro. Giờ đây, nơi làm việc không còn là lá chắn bảo hộ an toàn nữa. Thứ duy nhất có thể bảo đảm cho chúng ta trong mọi hoàn cảnh chỉ có thể là nghề nghiệp, là sự nghiệp của chúng ta. Thuật ngữ “cái chết của người chào hàng” không có ý ám chỉ những công ty trả lương cho người lao động ngày càng ít đi, mà chính xác phải là giá trị tồn tại của những công ty như vậy không còn giữ thế thượng phong như trước kia. Bởi trong thời đại ngày nay, nghề nghiệp đã trở nên quan trọng hơn nơi làm việc. Nếu tin tưởng vào sự nghiệp của bản thân và xác định được một mục đích rõ ràng thì bạn hoàn toàn có thể biến rủi ro thành cơ hội. Kazuo Inamori, nhà sáng lập Tập đoàn Kyocera − một trong những biểu tượng lớn của nền kinh tế Nhật Bản trong thế kỷ XX và lọt vào Top 100 doanh nghiệp lớn nhất trên thế giới, được mệnh danh là “bậc thầy kinh doanh”. Trên con đường đưa một doanh nghiệp nhỏ trở thành tập đoàn tầm cỡ thế giới, Kazuo Inamori đã trải qua không ít thăng trầm. Hơn ai hết, ông thấu hiểu tình cảnh khốn đốn của một nhân viên không được trả lương đúng hạn và trạng thái tâm lý băn khoăn, trăn trở về quyết định thay đổi công việc bám riết lấy tâm trí những người làm công ăn lương, bởi ông cũng từng có thời kỳ như vậy. Thế nhưng, Kazuo Inamori chưa bao giờ mất đi niềm hy vọng hay có ý định từ bỏ. Trong những trăn trở sâu sắc về công việc, thứ chiếm phần lớn cuộc đời của chính mình, Kazuo Inamori tin rằng nếu chỉ một giây phút nào đó, ông chấp nhận thỏa hiệp với công việc thì cả đời ông sẽ bị nó khuất phục. Bởi vậy, Kazuo Inamori tự đặt ra cho bản thân một câu hỏi mang tính quyết định vô cùng quan trọng. Đó chính là câu hỏi để đi tìm ý nghĩa và giá trị đích thực của công việc: “Tại sao mình lại làm việc?” Từ câu hỏi ấy, ông bắt tay vào công cuộc biến “việc của người khác” thành “sự nghiệp của bản thân”. Đó cũng chính là quá trình tận hưởng niềm vui trong công việc và gặt hái những thành công vượt bậc. Ông từng nói, để thấy được giá trị của cuộc sống, trước hết phải hiểu được công việc có ý nghĩa quan trọng như thế nào trong cuộc đời mỗi con người. Sức mạnh đã khiến một nhân viên công sở bình thường trở thành “doanh nhân hàng đầu Nhật Bản” hay “bậc thầy kinh doanh” thực ra lại bắt nguồn từ một suy nghĩ vô cùng giản dị “Hãy vui vẻ tận hưởng công việc mà bạn đang làm”. Kazuo Inamori đã viết như thế này trong cuốn Cách sống – từ bình thường trở nên phi thường, một tác phẩm nổi tiếng chứa đựng quan điểm về nghề nghiệp và thế giới quan của ông. “Nếu bạn thắc mắc ‘rốt cuộc chúng ta làm việc vì cái gì?’ thì mong bạn hãy nhớ kỹ lấy điều này. Việc mà bạn đang làm là hành vi quan trọng nhất nhằm tự rèn luyện bản thân, gọt giũa tâm hồn và tìm ra giá trị của cuộc sống.” Việc tìm kiếm giá trị của công việc không yêu cầu những triết lý cao siêu hay kiến thức chuyên môn đặc biệt. Con đường đi tìm giá trị của việc làm chỉ cần bắt đầu từ việc tự đặt ra cho bản thân câu hỏi về động cơ làm việc và tìm cách đón nhận tương lai gần ngay trước mắt, đó chính là ngày mai theo cách mà ta có thể cảm thấy hạnh phúc, chứ không phải một tương lai xa xôi nào khác. Chúng ta đang sống trong một thời đại đầy biến cố với tương lai bất định, nhưng đối với ai đó, ngay cả những khổ đau của thời đại không phải là trở ngại, mà chính là cơ hội bất tận cho tương lai. Tay golf chuyên nghiệp người Mỹ, Lee Trevino, từng nói: “Ngủ yên là điều khó khăn nhất trên đời, bởi tôi luôn nóng lòng muốn thức dậy để bắt tay ngay vào những việc cần phải làm.” Thế nhưng, trong thực tế,“thời gian làm việc” và “trách nhiệm công việc” luôn được đặt lên hàng đầu, còn “tìm kiếm niềm vui trong công việc” dường như là điều bất khả thi. Đối với các nhân viên công sở, thời gian hạnh phúc nhất trong tuần vỏn vẹn chỉ có thứ Bảy máu chảy về tim và thứ Sáu máu hơn thứ bảy, rồi ngay vào đêm Chủ nhật “hội chứng ngày đầu tuần” nhanh chóng ập đến kéo bạn trở về với tâm trạng trầm uất, mệt mỏi thường ngày. Liệu đến một lúc nào đó,“hạnh phúc trong công việc” sẽ xuất hiện khi có thêm nhiều người cảm thấy hứng khởi đi làm vào mỗi thứ Hai đầu tuần? Tôi tin rằng trong hiện thực lao động không lấy gì làm vẻ vang này, trong tương lai, con người có thể vì tình yêu với công việc mà trằn trọc, trăn trở chỉ có thể xảy đến khi chúng ta thực sự quyết tâm gây dựng nền tảng sự nghiệp của bản thân và thay đổi cấu trúc của nền kinh tế xã hội. Hy vọng rằng câu chuyện mà tôi bắt đầu ngay sau đây có thể trở thành sợi dây liên hệ tuy mong manh nhưng có thể giúp các bạn tìm thấy những đầu mối đầu tiên để tháo gỡ những vướng mắc, bất cập còn tồn tại trong xã hội và trong chính bản thân các bạn. PHẦN I XU HƯỚNG VIỆC LÀM TRONG TƯƠNG LAI: ĐÓN ĐẦU XU HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP ĐỂ NẮM BẮT SỰ NGHIỆP TƯƠNG LAI : FUTURE (tương lai) T hế nào là “một công việc tốt”? đã từng có thời, việc đầu quân vào một công ty lớn hay trở thành viên chức, hàng ngày mặc áo sơ mi trắng, đóng bộ âu phục, làm việc trong những tòa nhà cao tầng tại thành phố hay những “công việc bàn giấy” được coi là điển hình của những công việc tốt. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế hiện nay, khi mà các cơ hội tuyển dụng ngày càng trở nên hiếm hoi, cường độ công việc ngày càng lớn thì liệu cách nhìn nhận này có còn giữ nguyên giá trị? Trong xã hội hiện đại, vấn đề phân công lao động được thực hiện triệt để và kết quả của quá trình chuyên môn hóa tối đa này là sự ra đời của hơn 20.000 chủng loại nghề nghiệp mà chúng ta có thể thống kê được. Vấn đề đặt ra là trong xã hội đa nguyên hóa giá trị nghề nghiệp như ngày nay, quan niệm nghề nghiệp “sĩ, nông, công, thương” có nguồn gốc từ thời đại nông nghiệp lúa nước khó có thể tiếp tục được coi là chuẩn mực để đánh giá việc làm. Trong xã hội hiện đại, con người liên tục cho ra đời hệ thống các từ khóa mới để biểu hiện cho các mô hình biến đổi của xã hội như: chuyên môn hóa, hệ thống hóa, đa nguyên hóa, khu vực hóa, cá tính hóa, phạm trù hóa, v.v... Như vậy, trong bối cảnh xã hội ngày nay, chúng ta có thể thống kê và đưa ra 6 xu hướng việc làm toàn cầu nổi bật nhất như sau: 1) Sự xuất hiện của cổ cồn nâu (brown-collar); 2) Sự ra đời của nhân công xê dịch (nomad worker); 3) Xu hướng doanh nghiệp xã hội hướng thiện; 4) Biến sở thích thành nghề nghiệp và xu hướng nới lỏng quản trị; 5) Xu hướng trở về xây dựng quê hương; 6) Sự gia tăng của hình thức khởi nghiệp kinh doanh nhỏ và các doanh nghiệp quy mô nhỏ. From “white - Collar” to “brown - Collar” Từ “Cổ cồn trắng” đến “Cổ cồn nâu” : Sự bùng nổ của thế hệ trẻ cổ cồn nâu : P hép nhị phân giữa một bên là giới cổ cồn trắng (white-collar)1 luôn trở thành tâm điểm của mọi sự ngưỡng mộ với bên còn lại là giới cổ cồn xanh (blue collar)2 từng bị đánh giá thấp đang dần biến mất. Tại sao con người lại khao khát một công việc cổ cồn trắng đến vậy? Bởi cổ cồn trắng được coi là nghề nghiệp có tính chất ổn định, cường độ làm việc không quá căng thẳng, trong khi lương bổng lại cao. Nhưng những quan điểm đánh giá này về cổ cồn trắng không còn giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay. Khủng hoảng kinh tế nổ ra, khối nhân lực lương cao và giới hành chính, văn phòng là những đối tượng đầu tiên rơi vào danh sách cắt giảm biên chế. điều này làm sụt giảm nghiêm trọng tính ổn định vốn có của giới nghề nghiệp này. Mặt khác, giới văn phòng ngày càng phải chịu nhiều áp lực công việc gây ra những ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý và cảm xúc. Cùng với đó là tình trạng tăng ca không hưởng lương kéo dài và cường độ làm việc quá tải đang trên đà leo thang. Trong khi đó, gần đây, mức lương và điều kiện làm việc của giới cổ cồn xanh dần được cải thiện đáng kể. Bất kể so sánh về mức độ ổn định nghề nghiệp, môi trường làm việc tiện nghi hay ưu đãi lương bổng, rõ ràng giới cổ cồn trắng đang dần mất đi ưu thế vốn có. Trước những biến đổi của xã hội, thanh niên ngày nay cũng dần thay đổi quan điểm trong cách nhìn nhận đối với khối ngành kỹ thuật cổ cồn xanh với những yêu cầu nhất định về lao động thể chất. Thế hệ trẻ đang đi tiên phong trong cuộc cách mạng xóa bỏ sự phân biệt về màu áo trong ngành nghề. Bằng việc chuyên môn hóa và thêm “gia giảm” vào các giá trị gia tăng cho những công việc lao động thể chất từng bị xem nhẹ với tên gọi lao động cổ cồn xanh, giới trẻ ngày nay đang mở ra một thị trường rộng lớn mới mẻ cho giới cổ cồn xanh và đang có triển vọng “vượt mặt” cổ cồn trắng. Thực tế cho thấy ranh giới phân cách giữa cổ cồn trắng và cổ cồn xanh đang dần bị xóa mờ, tạo điều kiện thuận lợi cho một nhân tố mới - giới “cổ cồn nâu (brown collar)” có cơ hội vươn lên. Sau đây, các bạn sẽ được nghe câu chuyện về các tấm gương trẻ tuổi tài cao đã tự khoác lên mình những màu áo nghề nghiệp hoàn toàn khác biệt và góp phần nâng cao giá trị cho những công việc từng bị xã hội coi thường. 1. Từ để chỉ những người làm công tác chuyên môn, quản lý hoặc hành chính trong môi trường văn phòng, ngân hàng, v.v... Họ thường là bác sỹ, luật sư, nhà quản lý, v.v...(ND) 2. Từ để chỉ những người làm công việc lao động chân tay. Họ thường được biết tới như những công nhân mặc đồng phục xanh làm việc tại nhà máy, công trường, v.v...(ND) Anh: Trường Đào tạo Quản gia CHÙNG GỐI XUỐNG ĐÔI CHÚT, CẢ THẾ GIỚI TRONG TẦM TAY “Trong một vài năm trở lại đây, số lượng các tỷ phú, triệu phú tăng nhanh đột biến. Những người như vậy chắc chắn sẽ không tự tay làm việc nhà, họ cần tìm những người có khả năng quản lý những việc to nhỏ, lớn bé trong gia đình thay mình. Điều họ muốn là một người có trình độ chuyên môn đã được đào tạo bài bản để đảm đương hầu hết những công việc gia đình, chỉ ngoại trừ một số ít những việc mà đích thân họ phải động tay vào.” — GARY WILLIAMS — (Giám đốc Chương trình Đào tạo Quốc tế tại Học viện Quản gia Anh) Gần đây, người Anh bắt đầu thay đổi suy nghĩ về vấn đề việc làm. Theo kết quả của cuộc điều tra về mức độ hài lòng trong công việc do City&Guilds, cơ quan đào tạo việc làm Anh quốc, thực hiện: y tá chuyên nghiệp là nghề có mức độ hài lòng cao nhất, tiếp theo đó là nhân viên chăm sóc sắc đẹp, chủ tiệm hoa và đầu bếp. Ngược lại, những người hoạt động trong giới hành chính văn phòng như lĩnh vực tín dụng ngân hàng hay công nghệ thông tin đứng cuối bảng với mức độ hài lòng trong công việc vô cùng thấp. Cuộc điều tra này cũng mang lại một kết quả ngoài dự đoán khi đưa ra kết luận: những người lao động chân tay có mức độ hài lòng trong công việc hơn rất nhiều so với những người thuộc giới cổ cồn trắng. Trong bối cảnh này, tại nước Anh có một nhóm nghề đã vươn lên trở thành tâm điểm chú ý và giành được mối quan tâm đặc biệt chưa từng có. Đó chính là nghề quản gia. Chúng ta từng biết đến quản gia Alfried trong bộ phim Batman (Người dơi), một nhân vật luôn ăn vận giản dị, gọn gàng và trong tư thế sẵn sàng giúp đỡ những công việc hàng ngày cho anh hùng Batman. Nghề nghiệp của Alfried chính là quản gia. Tuy nhiên, đây chỉ là cách gọi hoa mỹ, trên thực tế quản gia cũng chính là “người hầu”, hay còn được gọi “người giúp việc”. Gần đây, để trở thành kiểu “người hầu” như thế, những người có trình độ học vấn cao tại Anh phải cất công tìm đến tận các ngôi trường cao đẳng dạy nghề để chuyên tâm tu nghiệp. Đây quả là một hiện tượng xã hội không dễ lý giải. Tuy nhiên, nếu bổ sung một thông tin rằng mức lương tối đa dành cho một “người hầu” như vậy có thể lên tới 240.000 đô-la mỗi năm thì chắc chắn câu chuyện sẽ rẽ sang một hướng khác. Chúng ta hãy cùng đi tìm hiểu căn nguyên dẫn tới hiện tượng xã hội lý thú này. Trung tâm đào tạo những quản gia chuyên nghiệp nhận mức lương lên tới 240.000 đô la/năm! Học viện Quản gia Anh (British Butler Institute) là trường đào tạo quản gia danh tiếng trên toàn thế giới. Bề ngoài, đây chỉ là một tòa nhà được xây dựng theo lối kiến trúc hiện đại không có gì nổi bật. Tuy nhiên khi bước vào bên trong, chúng ta sẽ bắt gặp những khung cảnh hoàn toàn lạ lẫm và khác biệt so với những giảng đường thông thường. Trước mặt các học viên không phải là bàn học mà là bàn ăn, trên mặt bàn bày biện chai rượu, ly uống rượu và các dụng cụ ăn uống khác, hoàn toàn không có sách vở hay máy tính xách tay. Tại đây, người ta tiến hành các chương trình giảng dạy đa dạng liên quan đến đào tạo quản gia chuyên nghiệp. Sau đây là tiết học về cách bài trí một bàn rượu theo phong cách châu Âu tại ngôi trường này. “Các bạn cắm dụng cụ mở nút vào chính giữa nút chai rồi từ từ xoay tròn. Khi kéo nút bấc lên cần phải cảm nhận được tình trạng của chiếc nút. Nếu là nút nhân tạo thì có thể dễ dàng nhấc lên một cách gọn ghẽ nhưng đối với nút bấc, chỉ cần một sai sót nhỏ thôi cũng đủ khiến nó bị vỡ.” Giảng viên đặt một chai rượu ngoại lên bàn rồi chậm rãi giải thích, đồng thời làm mẫu cách mở nút chai. Mọi công đoạn từ việc dùng dao để loại bỏ lớp giấy nhôm cho tới động tác nhấc nút bấc ra khỏi miệng chai bằng dụng cụ mở chuyên dụng đều được thực hiện một cách chuyên nghiệp. Điều này khiến chúng ta tưởng rằng đây là một kỹ thuật đơn giản, thế nhưng ngay sau khi giảng viên thực hiện xong công đoạn làm mẫu, các học viên trong lớp dồn dập đưa ra câu hỏi. “Thưa thầy, theo cách truyền thống thì chỉ cần bỏ phần trên của nắp nhôm thôi đúng không ạ? Những theo em, nếu mở toàn bộ chiếc nắp nhôm ra thì có lẽ sẽ gọn gàng, sạch sẽ hơn.” “Thầy có thể làm lại bước cắm dụng cụ mở nút chai vào nút bấc được không ạ? Công đoạn này yêu cầu phải thao tác chính xác đặc biệt là góc độ nên em muốn quan sát thêm một lần nữa.” Sau khi nghe câu hỏi, vị giảng viên hóm hỉnh trả lời: “Xin lỗi bạn nhưng không còn chai rượu nào để mở cả. Hay là tôi đóng nắp chai lại vào vị trí cũ rồi mở ra để bạn quan sát góc độ nhé.” Cả giảng đường ồ lên cười. Ngay sau đó là thời gian tự thực hành của các học viên. “Đây là tư thế khi tiến đến gần bàn của khách để phục vụ. Đi thẳng về phía trước, chân phải bước lên trên, luôn giữ cho lưng thẳng và hướng về phía bàn của khách, đồng thời hơi cúi người xuống một chút.” “Như vậy thì chân phải phải khuỵu gối xuống đúng không ạ?” “Để giữ đúng tư thế này thì cũng có thể nói là như vậy. Nào, bây giờ các bạn hãy thực hành tư thế này với câu hỏi ‘Xin lỗi, ngài có muốn dùng một chút rượu vang đỏ không ạ?’ nhé.” Theo sự hướng dẫn của giảng viên, các học viên trong lớp nghiêm túc luyện tập, lặp đi lặp lại các động tác, liên tục chỉnh sửa, thay đổi tư thế sao cho chuẩn nhất. Tôi tự hỏi, tại sao những học viên này lại tìm đến tận một ngôi trường đào tạo chuyên nghiệp để theo học một nghề không được đánh giá cao, làm công việc của những người phục tùng chủ nhân mà chúng ta thường thấy trên phim ảnh, nghề mà chúng ta vốn quen gọi là người giúp việc. Người đầu tiên tôi gặp và trò chuyện là một cô gái đến từ Hà Lan hiện đang theo học khóa quản gia tại đây. “Văn hóa quản gia của nước Anh là một nét truyền thống rất đặc sắc. Tôi cho rằng trở thành một phần của truyền thống này cũng là một điều vô cùng tuyệt vời. Với công việc này, khi chăm sóc người khác, tôi có thể mang tới cho họ cảm giác ấm áp khó quên cùng những trải nghiệm đặc biệt và chỉ cần như vậy thôi tôi cũng cảm thấy mãn nguyện rồi. Ngắm nhìn vẻ mặt rạng rỡ, hạnh phúc của mọi người, tôi cảm nhận được rằng những việc mình làm là có ích, bởi tôi đã góp phần tạo nên bầu không khí dễ chịu và thoải mái này.” Trên thực tế, tại Anh, không chỉ có duy nhất một trường đạo tạo quản gia chuyên nghiệp mà ngày càng có đông đảo các bạn trẻ tìm tới các ngôi trường như vậy với mong muốn trở thành quản gia. Vào những năm 1980, số lượng quản gia tại Anh chưa vượt qua con số 100, vậy mà tới năm 2007, quy mô này đã tăng lên thành 5.000 người. Con số thống kê này chắc hẳn sẽ mang lại cho các bạn cảm nhận thực tế nhất về mức độ nổi tiếng của nghề quản gia tại Anh. Nó bất chấp bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay, điều khiến nhiều người làm nghề quản gia gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm tại Anh. Nhưng cùng sự phất lên của tầng lớp phong lưu mới nổi và ngành công nghiệp du lịch như dịch vụ khách sạn, tại nhiều nơi như Trung Quốc, mức độ nổi tiếng của các quản gia Anh ngày càng được nâng cao. Mặc dù không có một mức lương chính xác và còn tồn tại mức chênh lệch rất lớn về điều kiện đãi ngộ ngay trong chính giới làm nghề quản gia nhưng một quản gia cũng có thể nhận được mức lương từ 20.000 đến 240.000 đô-la Mỹ/năm. Trong vô số các trường đào tạo quản gia được mở ra tại Anh, lý do lớn nhất để Học viện Quản gia Anh vẫn giữ được vị thế độc tôn cho tới ngày nay chính là nhờ đội ngũ giảng viên tại đây là các chuyên gia kỳ cựu trong lĩnh vực quản gia. Trong số đó, phải kể đến Nick Bonell − người có kinh nghiệm trong lĩnh vực này từ năm lên 8 tuổi khi bắt đầu với vai trò quản gia phụ tá trong một dinh thự tư nhân đồ sộ. Sau đó, Nick còn đảm nhiệm vai trò quản gia riêng cho các nhân vật tên tuổi tại Anh như Thủ tướng Anh, các gia đình quý tộc và CEO của những doanh nghiệp lớn. Không những vậy, Nick còn giữ các vị trí quan trọng trong một số khách sạn và nhà hàng cao cấp tại Anh. “Tôi đã làm quản gia riêng cho những nhân vật quan trọng từ khi còn rất nhỏ. Có thể nói từ các phép tắc trên bàn ăn cho tới việc bảo vệ đời sống cá nhân của gia chủ, tôi đều có kinh nghiệm. Ngay chính tại nước Anh cũng không có nhiều quản gia thực sự dạn dày kinh nghiệm. Đây chính là lý do giúp tôi có thể giữ vững cương vị của một giảng viên đào tạo quản gia chuyên nghiệp trong vòng 5 năm qua. Tôi nghĩ rằng thật hoài phí nếu chỉ giữ những kinh nghiệm này cho riêng mình và không còn gì đáng mừng hơn nếu tôi có thể truyền đạt lại tất cả những kinh nghiệm và kỹ thuật mà mình đã đúc rút được trong suốt nhiều năm làm việc cho các bạn học viên, nhằm góp phần đào tạo nên nhiều thế hệ quản gia tài giỏi hơn trong tương lai.” Điều mà Nick mong mỏi đang dần trở thành hiện thực. Một con số không nhỏ những học viên tốt nghiệp từ ngôi trường này hiện đang có mặt và làm việc trong vai trò quản gia chuyên nghiệp tại khắp nơi trên thế giới. Các lĩnh vực mà họ tham gia cũng vô cùng đa dạng, từ quản gia tư trong các dinh thự cao cấp; nhân viên phục vụ trên các chuyến tàu hỏa hay tàu biển hạng sang, trên các phi cơ riêng, các siêu du thuyền; hoặc quản gia trong tư gia của các đại sứ hay nhà ngoại giao; quản lý khách sạn - khu nghỉ dưỡng - nhà hàng cao cấp, v.v... Nhờ có những hoạt động sôi nổi trong nhiều lĩnh vực đa dạng trên toàn thế giới cùng với niềm kiêu hãnh và tự tôn nghề nghiệp của các quản gia, giờ đây nước Anh đang trở thành tâm điểm chú ý của toàn thế giới với tư cách “đất nước của các quản gia” thay vì được biết tới như đất nước của các quý ông trong quá khứ. Những chuyên gia đang được tìm kiếm bởi các tỷ phú, triệu phú, những nhân vật ưu tú trên toàn thế giới Trong số những học viên của Học viện Quản gia Anh, có rất nhiều người mơ ước trở thành nhân viên phục vụ trên du thuyền. Tại Anh, ngành công nghiệp du lịch bằng tàu biển đã phát triển từ lâu và nhân viên phục vụ trên du thuyền có nhiệm vụ cung cấp tới du khách các dịch vụ du lịch cần thiết như phục vụ đồ uống, bữa ăn, nơi ở, đồ nội thất, v.v... Họ là những nhân viên cung cấp dịch vụ trên biển. Thêm vào đó, họ thường được biết đến là những lao động có mức thu nhập tương đối cao. Chỉ riêng điều kiện làm việc trên một du thuyền xa hoa, lộng lẫy, giữa bốn bề biển xanh cũng đã đủ để người ta phải mơ ước. Tuy nhiên, hiện thực công việc của họ khác xa với viễn cảnh đẹp đẽ mà chúng ta vẫn thấy trên những thước phim. Nhân viên phục vụ trên du thuyền phải thực hiện mọi yêu cầu của chủ lao động, cũng đồng nghĩa với việc luôn phải cúi đầu, giữ phép lịch sự đối với tất cả du khách và phải tự tay thực hiện những việc tưởng chừng tầm thường nhất như phục vụ bữa ăn hay dọn dẹp vệ sinh, v.v... Trên thực tế, ngoài việc giảng dạy những kỹ năng căn bản dành cho quản gia như dọn dẹp, nấu nướng, là quần áo thì những tiết học như hướng dẫn cách rót rượu vang hoặc sâm panh, cách lau giày cưỡi ngựa, cách chăm sóc thú cưng, v.v... cũng chiếm một thời lượng không nhỏ trong chương trình đào tạo của Học viện Quản gia Anh. Lý do của việc xây dựng và phân bổ môn học như vậy bởi như chúng ta đã biết, một trong những vai trò quan trọng nhất của quản gia là đảm đương các công việc trong sinh hoạt gia đình. Có lẽ do không phổ biến văn hóa thuê quản gia làm việc trong gia đình nên chúng ta còn cảm thấy lạ lẫm với những khóa học như thế này và càng khó tin hơn khi giới trẻ ngày nay có thể đảm đương được công việc như vậy. Nếu bạn còn nghi ngờ về nghề quản gia và các khóa học quản gia, thì tôi tin rằng các bạn sẽ còn bất ngờ hơn nữa về suy nghĩ đáng ngạc nhiên của Daniel Louise Loudon, một nhân viên phục vụ trên tàu du lịch hiện đang theo học tại trường đào tạo quản gia với mong muốn nâng cao kỹ năng và trình độ nghề nghiệp một cách chuyên nghiệp. “Bề ngoài, phục vụ viên trên tàu du lịch có vẻ rất bóng bẩy. Với công việc này, hàng ngày bạn được tận hưởng những tiện nghi chẳng kém gì trong khách sạn sang trọng, được thưởng thức đồ ăn cao cấp, hơn nữa còn có cơ hội tham quan nhiều quốc gia trên thế giới. Nhưng nghiệp vụ thực tế của những phục vụ viên như chúng tôi là phục vụ đồ ăn cho du khách và dọn dẹp trên du thuyền. Phục vụ viên trên du thuyền chính xác chỉ là người làm những công việc giống như một quản gia, khác chăng chỉ là về địa điểm làm việc mà thôi. Bởi vậy, khó tránh khỏi những bỡ ngỡ ban đầu để có thể thích nghi được với môi trường làm việc đặc thù này. Ảo tưởng về viễn cảnh có thể tận hưởng cuộc sống xa hoa cùng những nhân vật trong giới thượng lưu sẽ hoàn toàn sụp đổ khi bạn thực sự bắt tay vào công việc. Mặc dù vậy, càng có kinh nghiệm trong nghề, tôi càng tự tin vào bản thân. Niềm kiêu hãnh nghề nghiệp càng dâng trào trong tôi khi ngắm nhìn một chiếc du thuyền sạch đẹp nhờ có những giọt mồ hôi lao động cần mẫn của mình. Công việc này giúp tôi cảm thấy mọi công sức mình bỏ ra đều có ích. Cho dù có mặt hành khách hay có ai quan sát hay không tôi vẫn tự giác làm tròn trách nhiệm quản lý và dọn dẹp sao cho du thuyền luôn sạch sẽ và gọn gàng. Chính tôi cũng phải bất ngờ về những thay đổi này của bản thân. Không thể ngờ rằng công việc tưởng chừng như tầm thường nhất là dọn dẹp vệ sinh lại mang lại cho tôi niềm tự hào to lớn đến vậy.” Khủng hoảng kinh tế kéo dài khiến người tìm việc tại Anh một phen điêu đứng nay lại có thêm tia hy vọng nhờ sự trỗi dậy của nghề quản gia – một công việc hiện được coi là mảnh đất màu mỡ vẫn đang chờ người lao động khai phá. Với nghề này, bạn có thể làm việc bất chấp tuổi tác nếu có chuyên môn và vẫn còn khả năng lao động. Do đó, hiện nay quản gia là một nghề mặc dù còn khá mới mẻ, song đã không chỉ nhận được mối quan tâm đặc biệt của giới trẻ mà còn nổi tiếng trong giới chuyên môn và nhân viên công sở. Theo Gary Williams, Giám đốc Chương trình Đào tạo Quốc tế tại Học viện Quản gia Anh, quản gia là một nghề có triển vọng và có xu hướng phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới. “Các bạn có thể thấy chỉ trong một vài năm trở lại đây, số lượng các tỷ phú, triệu phú tăng nhanh đột biến. Những người như vậy chắc chắn sẽ không tự tay làm việc nhà, họ cần tìm những người có khả năng quản lý những việc to nhỏ, lớn bé trong gia đình thay mình. Điều họ muốn là một người có trình độ chuyên môn đã được đào tạo bài bản để đảm đương hầu hết những công việc gia đình, chỉ ngoại trừ một số ít những việc mà đích thân họ phải động tay vào. Như vậy, trong xu thế chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao, chắc chắn nhu cầu về quản gia trong gia đình sẽ được đẩy mạnh. Thực tế là chỉ riêng năm 2013, ngành công nghiệp quản gia của Anh đã ghi nhận mức tăng trưởng 200% so với năm 2012. Nghề quản gia hiện đang trở thành một xu hướng mới và chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào một tương lai phát triển rực rỡ của thị trường việc làm quản gia.” Hòa chung với bầu không khí này, xã hội cũng bắt đầu thay đổi quan điểm về nghề quản gia. Nếu như trước đây, quản gia chỉ được biết đến như “lớp người chuyên dọn dẹp và làm việc vặt” thì nay người quản gia đã được gắn liền với hình ảnh “những chuyên gia chăm sóc thân cận nhất của những nhân vật xuất chúng có thế lực trên thế giới”. “Các học viên tìm đến với chúng tôi không chỉ có người Anh mà còn từ khắp nơi trên thế giới như Mỹ, Phần Lan, New Zealand, Trung Quốc, v.v... Những con người với quốc tịch và màu da khác nhau nhưng tất cả đều có chung một quyết tâm − trở thành quản gia chuyên nghiệp. Để trở thành quản gia, có rất nhiều người đã đăng ký trước và đang chờ để được nhận vào học. Song, có lẽ chúng tôi không thể đáp ứng hết nhu cầu học tập của họ. Một công việc không giới hạn tuổi tác như nghề quản gia thu hút được sự quan tâm của người đăng ký thuộc mọi lứa tuổi từ 16 cho tới 70. Kinh nghiệm cũng như nghề nghiệp trước đây của các học viên cũng “muôn hình, vạn trạng”. Có người từng là luật sư, có người là bác sĩ nha khoa và không ngoại trừ cả những sinh viên mới tốt nghiệp đại học. Do đó, khó mà tìm được điểm chung nào khác giữa các học viên tại đây ngoài mơ ước trở thành quản gia. Nhưng có lẽ chỉ riêng điều này cũng đủ để nói lên tất cả. Chúng ta có thể thấy, ngay lúc này đây, tất cả những con người này đều đang quyết tâm trở thành quản gia với mong muốn thay đổi cuộc đời mình. Và tôi tin tưởng rằng lựa chọn của họ là một lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, quyết định đi theo nghề quản gia đang giúp họ tiến gần hơn tới một đáp án chính xác.” Những bạn trẻ đến từ “đất nước của những quý ông” đã tự khoác lên mình bộ đồng phục quản gia để bắt tay vào một công việc khác biệt, dành riêng cho họ. Lồng ngực rộn ràng nhịp đập thanh xuân, họ mang sức trẻ đi chăm sóc cho mọi người để tự tay vun đắp nên một ngày mai tươi sáng cho bản thân. Quyết định của họ không có gì khó hiểu và hành động của họ giúp ta nhận ra rằng, có khác chăng, thay vì nhận lợi ích từ sự chăm sóc của người khác, những con người này chăm sóc người khác để có được cảm nhận chân thực hơn về thứ được gọi là thành quả lao động. Những giọt mồ hôi chân chính vẫn âm thầm rơi xuống của những con người như vậy có sức mạnh bền bỉ, dần nhuộm lên một sắc áo khác cho thế giới nghề nghiệp. Hà Lan: Thợ đóng móng ngựa VẺ ĐẸP TỪ VIỆC GÕ BÚA CỦA NGƯỜI THIẾU NỮ “Tôi đã bắt đầu cưỡi ngựa từ khi lên 7 tuổi nên tôi rất yêu quý chúng. Tôi yêu lũ ngựa đến nỗi có thể cảm nhận được sự đau đớn của chúng nếu như chúng bị ốm... Ngay từ khi có khái niệm về nghề nghiệp, công việc duy nhất mà tôi có thể nghĩ đến là đóng móng ngựa... Mỗi khi bắt tay vào việc, tôi dồn toàn bộ sự tập trung vào các công đoạn chế tạo móng ngựa vì thế lần nào cũng vậy, phải đến khi hoàn thành xong hết mọi việc tôi mới chợt nhớ đến vấn đề tiền công.” — LOTTE — (Thợ đóng móng ngựa) Hà Lan nổi tiếng là quốc gia thành công trong việc phát triển các chương trình đào tạo nghề nghiệp vô cùng đa dạng, phong phú. Tại Hà Lan, chúng ta dễ dàng bắt gặp những thanh niên không tiếp tục tu nghiệp tại các trường đại học thông thường, thay vào đó, họ nuôi dưỡng mơ ước đẹp đẽ của bản thân tại những trường đào tạo nghề chuyên nghiệp. Mặc dù mới chỉ 16 tuổi, Lotte đã đứng vào hàng ngũ những bạn trẻ theo đuổi mơ ước của bản thân từ rất sớm. Khác với bạn bè cùng trang lứa, Lotte từ chối những nơi làm việc ổn định thường được các cô gái trẻ ưu tiên lựa chọn và tự mình bước trên con đường riêng. Lý do của Lotte rất đơn giản và chỉ có một − đó là tình yêu đối với loài ngựa. Tuổi thơ của Lotte gắn liền với lũ ngựa, có thể nói cô đã lớn lên cùng đàn ngựa và tiếp tục gắn bó với chúng vì nghề nghiệp hiện nay của cô là thợ đóng móng ngựa. Công việc của một thợ đóng móng ngựa là xác định giống, kiểm tra tình trạng sức khỏe của ngựa và chuẩn bị các dụng cụ cần thiết để đóng móng sắt cho chúng. Loài ngựa cần được đóng móng sắt để bảo vệ bộ móng guốc của chúng. Nhưng nếu việc đóng móng không được thực hiện đúng cách, đúng thời điểm thì không những bộ móng guốc ngựa không được bảo vệ mà còn khiến chân chúng bị thương và ảnh hưởng đến sự di chuyển. Đó chính là lý do loài ngựa cần tới những người thợ đóng móng lành nghề như Lotte. Tuy nhiên, nghề đóng móng ngựa là một công việc yêu cầu khả năng lao động thể chất với cường độ cao, do đó thường được coi là công việc nặng nhọc ngay cả đối với nam giới. Hơn nữa, thợ đóng móng cần phải trực tiếp tận mắt kiểm tra tình trạng của ngựa và lấy số đo chính xác để chế tạo móng sắt riêng cho từng con nên công việc này yêu cầu phải thường xuyên di chuyển địa điểm làm việc. Như vậy, có thể nói, nghề đóng móng ngựa là một công việc hoàn toàn không phù hợp với một cô gái 16 tuổi như Lotte. Tuy nhiên, bất chấp mọi khó khăn, hiện nay, Lotte vẫn đang kiên trì theo đuổi khóa học đào tạo thợ đóng móng ngựa chuyên nghiệp tại trường đào tạo nghề. Và thực tế đã cho thấy Lotte là một thợ đóng móng ngựa rất có năng lực, không những vậy, cô gái trẻ này hoàn toàn đủ khả năng để tự khởi nghiệp và điều hành một công ty riêng của mình. Mới đây, tại cuộc thi tay nghề quốc tế EuroSkill, Lotte đã giành vị trí quán quân và là một trong số ít những tay thợ trẻ được công nhận là thợ lành nghề dù tuổi đời còn rất trẻ. Lotte thổ lộ cô đã luôn ao ước được trở thành thợ đóng móng ngựa từ khi còn nhỏ. “Tôi đã bắt đầu cưỡi ngựa từ khi lên 7 tuổi nên tôi rất yêu quý chúng. Tôi yêu lũ ngựa đến nỗi có thể cảm nhận được sự đau đớn của chúng nếu như chúng bị ốm. Đó chính là lý do để tôi trở thành thợ đóng móng ngựa như bây giờ. Móng sắt rất quan trọng đối với loài ngựa, nếu bộ móng của chúng không được chăm sóc cẩn thận và đúng cách thì chúng không thể đi lại bình thường được. Đối với loài ngựa, bộ móng guốc chính là thước đo thể hiện chính xác nhất tình trạng sức khỏe của chúng. Ngay từ khi còn bé, tôi đã tự hứa với bản thân nhất định khi lớn lên sẽ phải chăm sóc tốt cho loài ngựa. Cũng chính vì điều nay mà cho tới khi tôi học trung học, cha mẹ đã lo lắng rất nhiều về con đường sự nghiệp tương lai của tôi. Điều đó cũng dễ hiểu bởi không ai có thể phủ nhận sự thật rằng thợ đóng móng ngựa là một nghề khá vất vả đối với nữ giới. Vì thế, thay vì học nghề đóng móng ngựa ngay từ đầu, tôi đã từng thử sức với bộ môn cưỡi ngựa chuyên nghiệp trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên trong thâm tâm, tôi chưa bao giờ ngừng suy nghĩ về việc trở thành một người thợ đóng móng ngựa. Cuối cùng, niềm đam mê mạnh mẽ đã thôi thúc tôi theo đuổi nghề nghiệp mình hằng ao ước và biến tôi trở thành một thợ đóng móng ngựa chuyên nghiệp như bây giờ.” Chế tạo và sửa chữa móng sắt cho ngựa thực chất là quá trình xử lý một khối sắt. Rèn một khối sắt to nặng rồi đặt vào lò nung, sau đó lấy miếng sắt ra khỏi lò và lặp lại những công đoạn trước đó. Để có thể cho ra lò một chiếc móng sắt tốt đòi hỏi phải trải qua nhiều công đoạn phức tạp và tốn nhiều công sức. Mặc dù vậy, khi chúng ta có niềm đam mê mãnh liệt và thực sự dành nhiệt huyết cho một việc nào đó thì mọi khó khăn, trở ngại đều trở nên vô nghĩa. Đó chính là chân lý đã được chứng minh bởi một nhân vật hoàn toàn có thực − cô gái trẻ mạnh mẽ mang tên Lotte. “Đối với tôi, thách thức lớn nhất chính là làm sao để chăm sóc tốt cho lũ ngựa và giúp chúng có thể bước đi thoải mái, nhẹ nhàng trên chính bộ móng sắt do tôi làm ra. Điều này thôi thúc trong tôi quyết tâm cần phải quan tâm chăm sóc cho các chú ngựa tận tình hơn nữa. Khi đóng móng và chăm sóc cho ngựa, tiền bạc tuyệt đối không phải là vấn đề mà tôi nghĩ đến. Dĩ nhiên, tiền cũng rất cần thiết nhưng đối với tôi, được sống và làm công việc mình yêu thích còn quan trọng hơn. Mỗi khi bắt tay vào công việc, tôi dồn toàn bộ sự tập trung vào các công đoạn chế tạo móng ngựa vì thế lần nào cũng vậy, phải đến khi hoàn thành xong hết mọi việc tôi mới chợt nhớ đến vấn đề tiền công.” Kết thúc cuộc nói chuyện với tôi, Lotte trở lại với chiếc xe cá mập của cô. Trên thân xe có đề một dòng chữ lớn “Cửa hiệu móng ngựa của Lotte”, cũng là tên “doanh nghiệp” mà Lotte sở hữu. Lotte là một cô gái vô cùng đặc biệt, một thiếu nữ dành tình yêu lớn cho những cánh đồng rộn tiếng vó ngựa hơn là một văn phòng tiện nghi, sạch sẽ. Đã từng có thời điểm, mọi người cố can ngăn Lotte đi theo con đường riêng của mình bằng cách áp đặt cô gái khác biệt này vào những quan niệm cổ hủ, lạc hậu với câu nói cửa miệng “Con gái thì phải...”. Cũng có ai đó tỏ ra ái ngại cho viễn cảnh tương lai của cô bằng lời trách cứ “Còn trẻ mà sao cứ phải...”. Nhưng tất cả đã là quá khứ, giờ đây, khi nhìn vào Lotte, tất cả mọi người chỉ có thể dành cho cô những tràng vỗ tay tán thưởng. Lotte đứng bên biển hiệu công ty mang tên mình, tự tin cầm chắc cây búa, giáng từng nhát chính xác và mạnh mẽ. Dáng vẻ kiên cường ấy của một cô gái mới 16 tuổi chắc chắn sẽ khiến nhiều người trong chúng ta phải ngưỡng mộ. Bằng sức mạnh của một nghề nghiệp chân chính và lành mạnh, Lotte − một cô gái trẻ trung, trong sáng đến từ Hà Lan đang góp phần lan tỏa sức trẻ ra thế giới. Hà Lan: Trường đào tạo thợ mộc MƠ ƯỚC CỦA CÁC THỢ MỘC TẠI ĐÂY LÀ DIY1 1. Viết tắt của “Do-it-yourself ”. Có nghĩa là tự mình làm mọi việc. Đây cũng chính là một kỹ năng sống nên có của những người hiện đại, năng động. Nó sẽ giúp bạn phát huy khả năng sáng tạo, thực hiện ý tưởng của mình phục vụ cho cuộc sống. “Tôi không quan tâm mình có kiếm được nhiều tiền hay không, quan trọng là tôi có thể làm công việc mang tính sáng tạo mà khó ai làm được. Mỗi khi chạm vào các thớ gỗ, tôi cảm nhận được một niềm hạnh phúc vô hạn và hầu như không còn ý thức về thời gian. Đó chính là lý do tôi chọn cho mình con đường trở thành thợ mộc thay vì bác sĩ.” — JULIAN — (Học viên trường đào tạo thợ mộc) Hà Lan là một quốc gia có tới 40% diện tích lãnh thổ là những vùng đất được khai hoang bởi bàn tay con người. Bởi vậy, từ lâu người Hà Lan đã nổi tiếng với câu nói “Chúa đã tạo ra thế giới, nhưng chính người Hà Lan đã tạo ra đất nước Hà Lan”. Liệu đây có phải là biểu hiện cho tinh thần quật cường của những người đi khai hoang lấp biển mở rộng bờ cõi? Ở Hà Lan, người ta có tâm lý dành sự ưu ái đặc biệt cho những người lao động chân tay hơn là giới cổ cồn trắng. Nhưng tâm lý này của người Hà Lan không chịu ảnh hưởng bởi xu hướng thay đổi nghề nghiệp đang diễn ra trên toàn thế giới. Nếu như ở nhiều nơi khác, con người buộc phải chuyển đổi nghề nghiệp do mới xuất hiện ý thức về rủi ro và nhận ra rằng “nếu có tay nghề thì ít nhất cũng không thể chết đói” kể từ sau khi khủng hoảng kinh tế nổ ra trên toàn cầu; thì tại Hà Lan, từ lâu người dân đã có truyền thống dành sự tôn trọng và ưu đãi nhất định cho những người làm nghề kỹ thuật. Thời gian gần đây, ngày càng có nhiều bạn trẻ Hà Lan tìm đến các trường đào tạo nghề và đặc biệt, các khóa học nghề thợ mộc đang trở thành một trong những lựa chọn được ưu ái nhất. Như chúng ta đã biết, bây giờ là thời đại của công nghiệp tự động hóa, máy móc và robot đang dần thay thế bàn tay con người. Tuy nhiên, giới trẻ Hà Lan lại cho rằng chính nhờ quá trình tự động hóa đang được tiến hành triệt để này mà những sản phẩm được tạo ra bởi bàn tay khéo léo của con người mới càng phát huy giá trị. Xuất thân và điều kiện của những học viên tìm đến các trường đào tạo nghề rất đa dạng, từ học sinh cấp Ba cho tới nhân viên công sở. Các học viên có thể tự do lựa chọn khóa học phù hợp với các điều kiện và hoàn cảnh của bản thân, do đó, ngay cả giới văn phòng cũng dễ dàng tham gia vào các khóa học như thế này. Họ vẫn đi tới công ty như mọi nhân viên văn phòng khác, nhưng khi tan sở, họ ngay lập tức khoác lên mình bộ đồ bảo hộ thay cho áo sơ-mi trắng, cầm trên tay dụng cụ lao động, nhanh nhẹn đứng vào bàn làm việc đầy mùn cưa. Không biết họ đang ấp ủ DIY điều gì? Những thanh niên khắc cuộc đời mình lên gỗ Hout-en Meubilerings College,“Trường Cao đẳng Gỗ và Nội thất” hay còn được gọi nôm na là “Trường Đào tạo Nghề mộc”. Được thành lập vào năm 1929 với chức năng là một trường Cao đẳng dạy nghề chuyên nghiệp, ngôi trường này đã và đang góp phần đào tạo ra nhiều nhà thiết kế đồ nội thất, thợ chế tạo thuyền gỗ, chuyên gia phục chế đồ cổ, kiến trúc sư trang trí nội thất, chuyên gia tư vấn nội thất, thợ chế tạo đàn piano, v.v... cho xã hội. Đặc biệt, đây là ngôi trường có bề dày truyền thống bậc nhất, được đánh giá cao trong lĩnh vực đào tạo các nhà thiết kế đồ nội thất. Trong một vạt rừng gần đường quốc lộ dẫn đến trường dạy nghề mộc có vô vàn những cây xanh đang mỗi ngày đua nhau vươn cao. Có lẽ khi nhìn một cái cây như vậy, chúng ta đơn thuần chỉ thấy nó rất đẹp, nhưng đối với nhiều bạn trẻ, cây cối luôn khiến họ cảm thấy phải tôn kính bởi trên thực tế mỗi cái cây đều đại diện cho niềm hy vọng của họ. Bỗng nhiên, tôi lại cảm thấy thật đáng tiếc cho tình cảnh của những cây trồng hai bên đường, luôn bị bảo phủ bởi một lớp bụi dày, hàng ngày phải chịu đựng khói bụi của thành phố đông đúc, ngột ngạt thay vì được sống trong khu rừng rậm rạp. Hay đây là cảm xúc tiếc nuối khi nhận ra nét tương đồng giữa hàng cây hai bên đường với hình ảnh của một thế hệ trẻ mà đối với họ, cả thế giới chỉ gói gọn trong “doanh nghiệp lớn ở thành phố lớn”? Trên thực tế, rừng rậm vẫn luôn là môi trường sở hữu các điều kiện phát triển toàn diện nhất đối với cây xanh. Có lẽ các thợ mộc dự bị đang theo học tại trường đào tạo này cũng chính là những cái cây tìm đường trở về với rừng già vì không muốn trở thành đám cây trồng ven đường trong thành phố lớn. Bước vào các lớp học ở trường đào tạo thợ mộc, bạn sẽ cảm nhận được mùi hương thoang thoảng, ngai ngái của gỗ lúc nào cũng phảng phất nơi đầu mũi. Toàn bộ không gian tràn ngập những âm thanh ngắn và chắc nịch được phát ra từ những dụng cụ thô ráp, như tiếng gõ búa, tiếng lưỡi cưa, v.v... Nhìn quanh một vòng lớp học, mọi học viên đều đang tất bật với công việc của mình bên bàn làm việc chuyên dụng: người tập trung xẻ gỗ, người tỉ mỉ trau chuốt các thớ gỗ bằng giấy nhám, có người lại đang cẩn thận đóng từng chiếc đinh vào một sản phẩm bắt đầu được định hình. Trong số đó, tôi để ý ngay tới một học viên sở hữu ngoại hình khá ấn tượng với bộ râu xồm xoàm và chiếc mũ đỏ nổi bật. Đó chính là Julian. “À, tôi đang đục rãnh lên miếng gỗ này. Cần phải tạo ra rãnh hình răng cưa để khớp các mảnh gỗ lại với nhau. Tuần này tôi được học về phương pháp liên kết các mảnh gỗ bằng cách ứng dụng chức năng của nhiều loại dụng cụ. Phải bắt tay vào thực hành mới thấy việc này khó hơn tôi tưởng rất nhiều. Tôi đã bắt đầu làm sản phẩm này từ hôm qua nhưng thấy không hài lòng lắm nên đang thử làm lại lần nữa. Sau lần thực hành trước, tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm nên lần này, tôi tin mình sẽ làm tốt.” Tuy mới 25 tuổi nhưng Julian đã có những trải nghiệm sống vô cùng thú vị. Sau 3 năm làm sinh viên y khoa, Julian đã quyết định chuyển hướng và nhập học trường Cao đẳng nghề để chuyên tâm theo đuổi giấc mơ trở thành thợ mộc. Ở Hà Lan, mọi trường đại học đều là trường bán công, do đó, hầu như không tồn tại việc xếp thứ hạng dành cho các trường đại học, tuy nhiên Đại học Y vẫn luôn nổi danh bởi sự cạnh tranh khốc liệt mà các sinh viên cần phải vượt qua để có thể tu nghiệp thành công. Đặc biệt, Đại học Y trực thuộc Đại học Amsterdam, nơi Julian từng theo học, luôn tự hào sở hữu tỷ lệ chọi hàng đầu. Rõ ràng, đứng trên quan điểm nghề nghiệp ở bất cứ quốc gia nào, bác sĩ luôn là nghề được ưa chuộng và Hà Lan cũng không ngoại lệ. Như vậy, chỉ riêng thành công trong việc đứng vào hàng ngũ sinh viên y khoa và sẽ sớm trở thành một bác sĩ trong tương lai cũng đã đủ để đảm bảo cho Julian một địa vị xã hội đáng ngưỡng mộ. Vậy điều gì đã khiến anh từ bỏ một nghề nghiệp được đảm bảo chắc chắn như vậy để theo đuổi nghề mộc? “Ban đầu tôi rất hứng thú theo học nghề y. Tôi đã từng yêu thích và hãnh diện khi theo đuổi nghiệp thầy thuốc bởi đó là công việc có thể cứu sống nhiều sinh mạng con người. Nhưng thời gian trôi qua, tôi dần nhận ra đây không phải là công việc mình thực sự đam mê. Khi học ngành y, cho dù có cố gắng và quyết tâm đến đâu, tôi cũng không thể có được cảm giác hài lòng. Bởi vậy, tôi cẩn trọng xem xét và nhận ra rằng ngay từ khi còn nhỏ, tôi đã yêu thích việc tự tay làm ra thứ gì đó. Với suy nghĩ này, tôi đã thử sức bằng việc tham gia vào khóa học chế tác đồ gia dụng và nhận thấy công việc này hoàn toàn phù hợp với mình. Mỗi khi chạm vào các thớ gỗ, tôi cảm nhận được một niềm hạnh phúc vô hạn và hầu như không còn ý thức về thời gian. Điều này khiến tôi quyết tâm trở thành thợ mộc và cách tôi chọn để thực hiện mơ ước là học tập tại ngôi trường này.” Mơ ước của Julian là trở thành thợ đóng thuyền gỗ. Mặc dù hiện tại khả năng của Julian mới chỉ dừng lại ở các sản phẩm ván trượt bằng gỗ. Tuy nhiên, tôi tin rằng với quyết tâm và niềm đam mê với công việc, một vài năm tới sẽ là khoảng thời gian đủ để Julian rèn giũa tay nghề và không lâu nữa anh bạn này có thể tự tay đóng nên những con thuyền gỗ lớn. Julian chia sẻ, anh chưa bao giờ cảm thấy hối hận vì đã lựa chọn từ bỏ nghề y để theo đuổi nghề mộc. “Dĩ nhiên, nếu trở thành một bác sĩ, bạn không những kiếm được nhiều tiền mà còn nhận được sự tôn trọng của xã hội, nhưng đó lại không phải cuộc sống mà tôi mong muốn. Tôi không quan tâm mình có kiếm được nhiều tiền hay không, quan trọng là tôi có thể làm công việc mang tính sáng tạo khó ai làm được. Việc nhận được sự tôn trọng của xã hội cũng rất quan trọng, nhưng đối với tôi, có thể sống và tự do tận hưởng những chuyến đi của riêng mình còn là điều đáng trân trọng hơn. Đó chính là lý do tôi chọn cho mình con đường trở thành thợ mộc thay vì bác sĩ.” Julian − chàng trai đã cởi bỏ chiếc áo blouse trắng để đến với những thân gỗ thô mộc đang chờ được tạo hình, đang bước những bước đầu tiên trên con đường nhuộm một màu sắc tươi mới cho tương lai của bản thân. Vừa kéo cưa, Julian vừa khẽ mỉm cười, nụ cười mãn nguyện ấy của anh mang lại cho tôi một cảm giác thanh khiết và nhẹ nhàng như tỏa ra từ một khu rừng xanh mướt. Bước ra khỏi lớp học của Julian, tiếng máy móc đinh tai phát ra từ phòng học bên cạnh thu hút sự chú ý của tôi. Trong phòng, mọi học viên đều được trang bị một dụng cụ bịt tai chuyên dụng và đang tiến hành xẻ gỗ bằng cưa điện. Khoảng cách hết sức mong manh giữa tay người thợ giữ lấy thanh gỗ và lưỡi cưa đang không ngừng phát ra thứ âm thanh đinh tai nhức óc khiến công việc này trở nên vô cùng nguy hiểm, một chút sai sót cũng có thể dẫn đến tai nạn nghiêm trọng nếu bất cẩn để lưỡi cưa cứa vào bàn tay. Một anh bạn trẻ vừa giơ ngón tay trỏ quấn chặt bông băng lên vừa nói với giọng khoái trá: “Đây là vết thương do hôm qua trong lúc xẻ gỗ tôi đã bất cẩn để lưỡi cưa cứa nhẹ vào tay nhưng bây giờ thì ổn rồi. Bị thương khi đang làm việc cũng là chuyện thường gặp ở đây.” Thomas, một chàng trai 23 tuổi quyến rũ với mái tóc vàng lộ ra khỏi chiếc mũ len, cũng tới đây để tìm kiếm một cơ hội nghề nghiệp mới. Thomas từng gắn bó với nghề kỹ sư khoan vài năm, cho tới khi không còn cảm thấy hứng thú với công việc này nữa. Cuối cùng sau nhiều lần đắn đo, anh quyết định thử sức với nghề mộc và đang theo học tại trường đào tạo nghề mộc cho tới nay. Mặc dù mới bắt tay vào học nghề chưa lâu, song Thomas đã có thể tự tin rằng mình sẽ gắn bó lâu dài với công việc này như là nghề nghiệp thứ hai của bản thân. “Thực ra quyết định đến với nghề mộc không hề dễ dàng đối với tôi. Việc từ bỏ những kỹ thuật mà bạn đã thành thục để học lại từ đầu những kỹ năng mới không đơn giản như bạn nghĩ. Số tiền mà tôi dành dụm được trước đây cũng không nhiều, nhưng tôi hài lòng với lựa chọn của mình bởi tôi đang được làm công việc mình yêu thích. Tạo ra một vật gì đó bằng gỗ, nhất là việc chế tạo thuyền gỗ thực sự là một điều đặc biệt. Nếu tự làm, bạn sẽ phải mất đến 2 năm mới đủ để hoàn thiện một chiếc thuyền gỗ. Nhưng đổi lại, cảm giác khi hoàn thành một sản phẩm như vậy thật tuyệt. Bởi vậy, tôi sẽ học hành thật nghiêm chỉnh. Cho đến khi có thể kiếm ra tiền bằng nghề mộc với chính năng lực của mình, tôi sẽ cố gắng sống tiết kiệm với số tiền dành dụm được trong suốt thời gian đi làm.” Thay đổi công việc không phải là điều đơn giản. Những kỹ thuật và kiến thức mà bạn đã tích lũy trong một thời gian dài hầu như không giúp ích gì nhiều khi bạn muốn chuyển sang một nghề mới. Điều này cũng đồng nghĩa với việc bạn phải quay trở lại vạch xuất phát. Hành động này của bạn nếu không vấp phải sự phản đối của cha mẹ thì cũng rất có khả năng chính bạn lại là người sẽ hối hận với quyết định của mình. “Hoàn toàn không có gì khó khăn cả. Hiện nay, ở Hà Lan, việc thay đổi nghề nghiệp ngày càng trở nên dễ dàng hơn. Ngay cả bố tôi năm nay đã 54 tuổi, nhưng ông cũng đang đi học để thử thách bản thân với một công việc mới.” Một đất nước nơi mà mọi người không lấy gì làm lạ trước cảnh tượng hai cha con, với sự cách biệt khá xa về tuổi tác, cùng cắp sách tới trường. Tôi tự hỏi liệu có phải đây chính là nguồn lực phát triển của Hà Lan ngày nay? Phòng học kế bên là nơi hướng dẫn chế tạo nhạc cụ. Từ những thanh gỗ bình thường, qua đôi bàn tay khéo léo của các học viên đều được đẽo gọt trở thành những cây đàn ghi-ta tinh xảo với đường cong hoàn hảo. Tôi có dịp gặp gỡ một học viên còn rất trẻ, cô gái này đã bắt đầu việc học tập tại trường dạy nghề mộc ngay sau khi tốt nghiệp cấp ba và năm nay mới bước sang tuổi 18. “Thường ngày, tôi rất thích tự tay làm ra các vật dụng, mặc dù vậy, tôi mới chỉ coi đó là một sở thích cá nhân. Trước khi mẹ tôi đưa ra gợi ý về việc học tại đây thì tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc biến sở thích thành nghề nghiệp chính thức. Bởi vậy, ban đầu, tôi không thực sự tin tưởng và cũng không đặt quá nhiều hy vọng vào con đường này. Nhưng chỉ khi thực sự học tập một cách nghiêm túc, tôi mới nhận ra đây là công việc hoàn toàn phù hợp với mình. Thực sự, tôi không mấy hứng thú với việc học hành, sách vở, nhưng chương trình học ở đây phần lớn được tiến hành theo phương pháp thực hành trực tiếp. Với phương pháp học tập này, việc tiếp thu những kỹ thuật phức tạp và đa dạng trở nên vô cùng thú vị đối với tôi.” Chỉ cần từ 16 tuổi trở lên thì bất cứ ai cũng có thể đăng ký học tại trường Đào tạo nghề Hà Lan, bởi vậy, đây là nơi thu hút đông đảo thanh thiếu niên nằm trong độ tuổi từ 10 đến 19 tới để tìm hiểu về các ngành nghề trong xã hội. Các khóa học tại trường dạy nghề nhanh nhất là 6 tháng và lâu nhất có thể kéo dài tới 4 năm. Điều này cũng đồng nghĩa với việc nếu nhanh chóng hoàn thành khóa học thì chỉ đến khoảng năm 20 tuổi, các học viên đã có đầy đủ tư cách hành nghề. Nhưng liệu đây có phải là độ tuổi quá sớm để các bạn thanh thiếu niên có thể bước vào mặt trận nghề nghiệp? “Một người có những đặc điểm nào để được coi là hoàn toàn phù hợp với một nghề nào đó? Dẫu sao thì người ta cũng phải trải qua cả một đời mới đi đến kết luận đâu là nghề nghiệp cuối cùng của họ. Trước hết, tôi muốn tìm được một công việc mà mình thực sự yêu thích và trực tiếp trải nghiệm nó. Sở thích của tôi là biểu diễn ghi-ta. Đôi khi, tôi cũng thường tự vẽ nên viễn cảnh một ngày nào đó mình sẽ đứng trên sân khấu và biểu diễn bằng cây đàn ghi-ta do chính tay mình tạo nên. Và chắc chắn, tôi sẽ vô cùng hạnh phúc nếu điều đó trở thành sự thực.” Trường dạy nghề tại Hà Lan có thể coi là ngôi trường đa sắc màu, trong số các học viên tại đây, có cả những bạn học sinh chỉ mới 16 tuổi đang chuẩn bị cho nghề nghiệp đầu tiên trong đời, cũng có những nhân viên công sở khoảng 20-30 tuổi ấp ủ hy vọng tìm kiếm một cơ hội nghề nghiệp mới, nhưng tất cả đều có chung một mục đích: tiếp thu kỹ thuật nghề nghiệp một cách nghiêm túc. Thực tế hiện nay, bất cứ khi nào các trường đào tạo nghề ở Hà Lan mở đợt tuyển sinh, số lượng người đăng ký học sẽ vượt qua chỉ tiêu tuyển sinh một cách nhanh chóng. Điều này đủ để thấy tại Hà Lan, nhu cầu học nghề của người dân rất lớn. Aino, một giảng viên phụ trách giảng dạy kỹ thuật chế tạo đồ gia dụng, cho biết: ngày nay tại Hà Lan “tiêu chuẩn lựa chọn nghề nghiệp đã thay đổi từ ánh mắt của người khác sang hạnh phúc của bản thân”. “Ngay từ khi còn nhỏ, tôi đã dành một niềm say mê đặc biệt cho việc đục đẽo, hàn gắn các vật dụng. Bởi vậy mà lúc nào trong tay tôi cũng có nếu không phải là đinh, búa thì cũng là những lọ sơn. Suốt 24 năm qua, tôi không ngừng chế tạo ra các đồ vật và bây giờ cũng vậy. Cho dù ngày càng có nhiều loại máy móc tối tân, nhưng niềm đam mê tôi dành cho những công việc thủ công vẫn vẹn nguyên. Điều tôi không ngờ tới là ngay cả các em học sinh ngày nay cũng có những cảm nhận như vậy. Giống như tôi đã nói, chúng tôi không coi công việc làm mộc là công việc của thợ mộc đơn thuần. Đó là việc sáng tác của người nghệ sĩ khi cho ra đời các sản phẩm đồ gia dụng. Nếu không giữ tâm niệm như vậy, hay các em học sinh không coi công việc mà các em đang làm là quá trình “tự tay làm nên các tác phẩm” thì có lẽ các em khó lòng đi hết được chương trình đào tạo đầy khó khăn và thử thách tại đây. Tham gia vào các khóa học dạy nghề, học viên không những tiếp thu được các kỹ thuật mà còn dần hiểu được rằng làm việc không chỉ đơn thuần là để kiếm tiền và việc làm cũng không chỉ là một công cụ để kiếm tiền.” Một khi bạn đã xác định được công việc mà mình thực sự yêu thích thì những định kiến của xã hội cũng không làm ảnh hưởng tới quyết định của bạn. Đối với những bạn trẻ yêu cây cối và ham thích công việc cần tới sự khéo léo của đôi bàn tay, cũng như với những người thầy đang dẫn dắt họ thì việc phân biệt cổ cồn trắng hay cổ cồn xanh sẽ không có giá trị. Tuy cầm trên tay những dụng cụ lao động thô ráp thay vì cây bút trơn tru, nhưng hơn ai hết, họ hiểu được giá trị của những giọt mồ hôi chứa đầy công sức của bản thân. Cùng với thời gian, có thể bàn tay họ sẽ có thêm nhiều chai sạn, nhưng đối với những con người trẻ tuổi này, chai sạn chỉ như những vòng năm trong thân cây. Đó là những vòng năm sẽ ngày càng tăng theo thời gian. Hàn Quốc: Ride Artee NGƯỜI PHU KÉO XE VƯỢT QUA DỐC KHỔ NẠN ĐỂ ĐẾN VỚI HẠNH PHÚC “Quan niệm của xã hội ư? Điều quan trọng là chính bản thân mình. Tiếng gọi từ con tim sẽ dẫn dắt chúng ta đến nơi mà ta thực sự thuộc về. Nhưng trước khi tìm được nơi dành riêng cho mình, chúng ta cần phải có dũng khí để dấn bước đi theo tiếng gọi con tim và bỏ qua ánh mắt của người đời.” — LEE IN JAE — (Giám đốc của Ride Artee) Thế hệ cổ cồn trắng trẻ không những đã dám thử sức ở những lĩnh vực vốn chỉ dành cho giới cổ cồn xanh để tìm kiếm hạnh phúc và thành công, mà họ còn tạo nên một làn sóng mới mang tên cổ cồn nâu đã và đang lan tỏa mạnh mẽ tại châu Âu. Nhưng liệu xu thế này có còn giữ nguyên tầm ảnh hưởng khi áp dụng vào bối cảnh của Hàn Quốc hiện nay? Bởi cho đến nay, Hàn Quốc vẫn chưa thoát khỏi quan niệm phân chia tầng lớp theo thứ bậc “sĩ, nông, công, thương” có truyền thống lâu đời và coi hình ảnh nhân viên của công ty lớn, vận quần âu, áo vest, thắt cà vạt phẳng phiu là hình mẫu tượng trưng cho “sự thành đạt”. Thế nhưng cũng tại Hàn Quốc, đã bắt đầu xuất hiện những gương mặt trẻ dám khoác lên mình cánh áo nâu với quyết tâm phá vỡ những định kiến và quan niệm xưa cũ này. Tại đây, chúng ta đang đề cập đến tấm gương thành đạt của những thanh niên bất chấp nạn thất nghiệp nghiêm trọng chưa từng có đang hoành hành, đã dám mạo hiểm từ chối yêu cầu phải thích ứng với văn hóa tập thể gò bó hay phải lao động trí óc trong không gian văn phòng bị hạn chế bởi những vách ngăn và vượt qua những lo ngại cũng như phản đối của mọi người xung quanh. Họ đường hoàng khoác lên mình tấm tạp dề hay bộ đồng phục lao động và khiến chúng ta phải kinh ngạc bởi những thành quả mà họ gặt hái được khi khởi nghiệp bằng những nghề bị đánh giá thấp, nhưng đó cũng chính là con đường rộng mở dẫn họ đến với một tương lai “thành công và hạnh phúc”. Chàng nhân viên trẻ nổi tiếng của Bukchon - nơi thời gian trôi về quá khứ Khu vực kéo dài từ Quảng trường Gwanghwamun tới Jongno phần nào cho thấy nhịp sống hối hả và tấp nập tại trung tâm thành phố Seoul. Nơi đây khiến các dây thần kinh của con người luôn ở trong trạng thái căng như dây đàn bởi thứ tạp âm điển hình của một đô thị hiện đại − tiếng còi xe inh ỏi phát ra từ mọi phía, giữa dòng người tấp nập như nêm bao bọc bầu không khí. Nhưng từ Jongno ngược về hướng núi Bukak rồi rẽ vào một con dốc dẫn ta đến với những ngõ nhỏ của Bukchon cổ kính và trầm lắng như không tưởng. Nằm ngay giữa lòng thủ đô hiện đại và năng động, Bukchon là nơi quy tụ và còn lưu giữ được những ngôi nhà cổ được xây dựng theo phong cách kiến trúc truyền thống của Hàn Quốc. Cảm xúc đến từ khung cảnh cổ kính, mộc mạc nhưng trang nhã mà nơi đây mang lại thật khó kiếm tìm ở nơi nào khác giữa trung tâm đô thị. Nằm xen giữa hàng cây um tùm như đang ôm lấy những mái nhà cổ trong làng cổ Bukchon là các phòng triển lãm và những quầy hàng, cửa hiệu bán đồ lưu niệm san sát. Cảnh tượng yên bình với sự giao thoa, cộng hưởng hài hòa giữa quá khứ và hiện tại này dễ khiến lòng người thư thái, bước chân bất giác chậm lại. Trong con ngõ nhỏ yên tĩnh ấy có một chàng trai trẻ đang mải miết chạy xe. Chiếc xe đạp kéo tưởng như đã biến mất từ rất lâu ở Hàn Quốc, nay chỉ còn thấy trên các con phố du lịch ở nước ngoài không ngờ lại xuất hiện trở lại trong một ngõ nhỏ Seoul. Chàng trai đánh thức cả ngõ nhỏ tĩnh mịch bằng tiếng chào tràn đầy sức sống “An nyeong ha se yo!” (Xin chào!). Nghe tiếng chào quen thuộc của cậu, một cụ già bước lên xe như một thói quen. Bấy giờ cậu thanh niên nọ mới đạp thật lực vào pê-đan để lên dốc. Tôi cứ mải nhìn theo chiếc xe đạp kéo đang lăn bánh, cảm tưởng như thời gian đang trôi ngược về quá khứ. Giữa thế kỷ XXI, ta lại bắt gặp cảnh tượng từ thế kỷ trước dội về. Liệu có phải chàng trai kia đã theo cỗ máy thời gian lạc về thời hiện đại? Tôi tự hỏi liệu còn câu chuyện nào đượm trong những giọt mồ hôi của chàng kéo xe trẻ tuổi này? Hình ảnh chàng trai mẫu mực từ một nhân viên chứng khoán thành người kéo xe Ride Artee là công ty xe đạp kéo duy nhất tại Hàn Quốc, hoạt động tại khu vực Bukchon, Seochon, Insa-dong và Gwanghwamun của Seoul. Người sáng lập và hiện cũng là một trong những nhân viên kéo xe của Ride Artee là anh Lee In Jae. Lee In Jae năm nay 29 tuổi, cũng như các nhân viên trong công ty của mình, mỗi ngày anh có hàng chục cuốc xe lên xuống các sườn dốc của Seoul. “Căn cứ tập trung phương tiện” của anh là một gara nhỏ nằm trên đường Jongno 4-ga. Khi tôi đến cũng là lúc Lee In Jae đang lúi húi chỉnh sửa chiếc xe đạp kéo. Thấy tôi bước vào, anh vội vàng cởi bỏ đôi găng tay dính đầy dầu mỡ, để lộ đôi bàn tay chai sạn, mu bàn tay và cánh tay đầy vết trầy xước. Có lẽ chàng thanh niên này đã sớm quen với công việc lao động chân tay? Trước khi tôi kịp đặt câu hỏi để tìm lời giải đáp cho thắc mắc của mình, Lee In Jae đã vui vẻ giới thiệu với tôi về hình thức kinh doanh đặc biệt của anh. “Xe đạp kéo vốn là phương tiện di chuyển nhưng đồng thời cùng có thể trở thành một sản phẩm du lịch thú vị. Đặc biệt làng cổ Bukchon ở Seoul lại là địa điểm tham quan rất hấp dẫn. Không một phương tiện di chuyển nào phù hợp hơn xe đạp kéo trong việc mang lại cho du khách cảm giác hoàn toàn yên tâm và thư thái trong suốt hành trình khám phá một địa điểm tham quan như thế này. Đặc biệt, chúng tôi đã khai thác và phát triển các tour tham quan đa dạng bằng xe đạp kéo trong vòng 40 phút kèm theo dịch vụ hướng dẫn viên du lịch tại Bukchon và Seochon. Hiện nay, công ty chúng tôi đang cung cấp hai tour tham quan theo chủ đề, Tour Hành trình Lịch sử và Tour Cung đường Tình Yêu. Cùng được thực hiện bằng phương tiện di chuyển là chiếc xe đạp kéo, song, hai tour này lại mang tới cho du khách những cung bậc cảm xúc hoàn toàn khác nhau. Nếu như Tour Hành trình Lịch sử là cơ hội để du khách trải nghiệm không gian văn hóa, lịch sử truyền thống của thành phố Seoul, thì Tour Cung đường Tình Yêu lại như một cuộc hẹn hò lãng mạn dành cho các cặp đôi. Hiện nay, chúng tôi đang tiếp tục khảo sát và dự kiến mở thêm một tuyến tham quan nữa dọc cung đường Jeong-dong phía sau Deoksugung (Cung Deok-su).” Tại Ấn Độ, nghề kéo xe như của In Jae là cần câu cơm trong cảnh khốn cùng chỉ được lựa chọn bởi những người nghèo khó thuộc tầng lớp thấp nhất hay còn gọi là tiện dân hạ đẳng trong xã hội. Chúng ta hẳn không còn xa lạ với cảnh tượng những phu kéo xe tập trung gần các địa điểm tham quan nổi tiếng tại các thành phố lớn ở Trung Quốc như Bắc Kinh. Những chiếc xe đạp kéo này giống với phương tiện trải nghiệm dành cho khách du lịch hơn là những phương tiện giao thông thực thụ. Thế nhưng đối với những người điểu khiển xe đạp kéo, phương tiện này lại phản ánh gánh nặng lao động vất vả của họ. Những phu kéo xe mà chúng ta thấy thường có địa vị xã hội rất thấp trong khi thu nhập của họ cũng rất bèo bọt. Cho dù có yêu thích xe đạp kéo đến đâu và tâm niệm “lao động là vinh quang” thế nào thì cũng không mấy ai muốn gắn bó với nghề kéo xe cả đời. Không những vậy, Lee In Jae còn là một cử nhân tốt nghiệp Đại học Weslayan tại Mỹ và từng làm việc tại Công ty Chứng khoán Macquarie sau khi trở về nước. Không khó để nhận ra Lee In Jae hoàn toàn đáp ứng đủ tiêu chuẩn để trở thành hình mẫu lý tưởng cho một chàng trai trẻ sáng giá. Vậy lý do nào đã khiến cậu thanh niên này từ bỏ một công việc lao động trí óc đáng mơ ước để bước chân vào giới “lao động chân tay” như hiện nay? Có lẽ đã quá quen với câu hỏi này, Lee In Jae khẽ mỉm cười rồi giãi bày một cách thoải mái như có sự chuẩn bị trước: “Khi còn đi làm tại công ty, tôi có quá nhiều mối bận tâm. Tôi luôn cảm thấy không thoải mái khi lúc nào cũng phải gò mình trong những bộ comple, không những vậy có quá nhiều áp lực đến từ những việc nhỏ nhặt không đáng. Môi trường làm việc tại công ty rèn luyện cho con người tác phong chuyên nghiệp nhưng tôi lại có cảm giác tầm nhìn của mình ngày càng trở nên hạn hẹp. Trên tất cả, lý do lớn nhất là tôi không nhận thấy hiệu quả thực sự trong những việc mình làm. Chuỗi hành động lặp đi lặp lại từ nhà đến công ty rồi lại từ công ty trở về nhà mỗi ngày càng lúc càng vượt quá sức chịu đựng của tôi. Và rồi tôi nhận ra rằng con người chỉ sống có một lần, chi bằng hãy sống một cuộc đời mà mình vẫn hằng mơ ước. Nếu vậy, rõ ràng lựa chọn dành cho tôi không phải là bó mình giữa bốn bức tường văn phòng, chi bằng hãy bước ra ngoài, tự do tự tại và tạo dựng nên những mối nhân duyên trong đời. Và kỷ niệm về một thời sinh viên làm phu xe đạp kéo bán thời gian tại Boston chợt ùa về khi tôi đang băn khoăn, trăn trở tìm hướng đi cho tương lai. Khi đó, tôi thực sự rất yêu thích công việc ấy. May mắn là tại Hàn Quốc vẫn chưa có những người kéo xe chuyên nghiệp. Việc trở thành người khởi xướng cho thứ mà chưa ai từng làm sẽ mang nhiều ý nghĩa hơn. Nhận thấy đây là một cơ hội nên tôi không phải đắn đo nhiều để đưa ra quyết định thử sức với công việc này.” Đối với chàng thanh niên In Jae − người đã tìm ra giá trị trong những việc mà mọi người đều lẩn tránh, thì công việc không chỉ đơn thuần là công cụ để kiếm tiền. Nếu là công việc mà bản thân yêu thích, không những vậy còn có thể sẻ chia hạnh phúc ấy cho nhiều người thì ánh mắt của người đời hay những định kiến xã hội không còn là điều quan trọng nữa. Bởi In Jae hiểu được rằng bản thân công việc đã là “cuộc sống”. Kết thúc công đoạn chuẩn bị phương tiện và trước khi ngồi lên xe để bước vào cuộc hành trình, In Jae đặc biệt thêm vào câu chuyện của mình một điểm nhấn. “Tôi nghĩ rằng việc đầu tiên là phải bỏ qua ánh mắt của người khác dành cho mình. Quan niệm của xã hội ư? Tiếng gọi từ con tim sẽ dẫn dắt chúng ta đến nơi mà ta thực sự thuộc về. Nhưng trước khi tìm được nơi dành riêng cho mình, chúng ta cần phải có dũng khí để dấn bước đi theo tiếng gọi con tim và bỏ qua ánh mắt của người đời. Tôi tin rằng nếu tiếp tục nỗ lực hết mình, không ngừng nghỉ để đi theo một con đường đã định thì tiền bạc sẽ tự động đổ vào túi của ta. Tôi biết con đường phía trước còn nhiều gian nan và một lúc nào đó tôi có thể sẽ gặp khó khăn về tài chính, nhưng dù sao đây vẫn là công việc mà tôi yêu thích và tôi sẽ kiên trì đến cùng với nó.” Nhiệt huyết và tinh thần đó là động lực để In Jae vẫn có thể tươi cười rạng rỡ và guồng chân đạp xe dưới cái nắng gay gắt của ngày hè. Chàng thanh niên ấy đang mải miết đi theo tiếng gọi của con tim bất chấp đó không là con đường mà phần đông xã hội đang hướng tới. Liệu quyết tâm của chàng trai trẻ này có thể lay động được tâm hồn của những thanh niên thành thị khác. Chỉ trong vòng 1 năm sau khi khởi nghiệp, In Jae đã sở hữu 6 chiếc xe đạp kéo chuyên dụng và biến 16 thanh niên như anh trở thành những phu xe rong ruổi trên các triền dốc tại trung tâm thành phố Seoul. Mang theo khát khao xóa bỏ khuôn khổ cứng nhắc của định kiến xã hội nặng nề trên con đường chinh phục những đỉnh đồi đổ dốc, Ride Artee là doanh nghiệp trẻ duy nhất cung cấp dịch vụ xe đạp kéo du lịch tại Seoul. Quý khách xin đừng áy náy. Bởi đối với chúng tôi, mỗi lần nhấn chân vào bàn đạp lại là một niềm vui mới Đúng như lời In Jae nói, đối với những người chưa từng một lần đi xe đạp kéo thì khó mà giải thích hết được. Cảm giác khi ngang dọc khắp Seoul bằng xe đạp kéo quả thực vô cùng thú vị. Từ trên xe đạp kéo, phong cảnh trung tâm Seoul vội vã, hối hả như mở ra qua những thước phim quay chậm khiến lòng người bất giác trở nên thong dong, thư thái. Nếu còn điều gì khiến hành khách phải bận tâm thì có chăng chính là cảm giác vừa thương vừa áy náy trước dáng vẻ cần mẫn của người phu xe. Dường như đoán được suy nghĩ của tôi, In Jae đi chậm lại rồi mở lời trước. “Chúng tôi luôn có một điều cần phải nhờ cậy hành khách. Hy vọng quý khách tuyệt đối đừng cảm thấy ái ngại cho người kéo xe bởi đây là công việc mà chúng tôi yêu thích. Đối với chúng tôi, kéo xe chẳng khác nào vừa tập thể dục lại vừa kiếm được tiền. Hơn nữa, cảm xúc mỗi lần chở khách đều không giống nhau, mỗi chuyến đi chúng tôi lại cảm nhận được niềm hạnh phúc mới mẻ. Chúng tôi hồ hởi, hào hứng với những mối nhân duyên giữa người với người được kết nối thêm mỗi ngày.” Đối với những người lao động thực sự và có niềm kiêu hãnh nghề nghiệp, nếu chúng ta không khéo léo trong việc bày tỏ sự cảm thông thì rất dễ biến thành một sự xúc phạm nghề nghiệp. Chỉ tin vào những gì đang diễn ra trước mắt mình mà vội vàng võ đoán về hoàn cảnh của người khác, điều này cũng giống như định kiến về nghề nghiệp đã ăn sâu bén rễ trong tư tưởng của mỗi chúng ta. Ngược lại, việc dành những khát khao và ao ước mơ hồ về một nghề nghiệp nào đó chỉ bởi sự hào nhoáng, bóng bẩy mà nó mang lại khiến ta không thể thoát khỏi hệ tư tưởng cũ kỹ với những quan niệm nghề nghiệp sai lầm và lệch lạc. Gần đây, thanh thiếu niên đang chạy theo trào lưu trở thành nghệ sĩ, nhưng tất cả những gì chúng ta biết về lĩnh vực này chỉ dừng lại ở những gì đang diễn ra trên sân khấu. Con người thường đánh giá lẫn nhau qua vẻ bề ngoài và quả nhiên chúng ta cũng đang có xu hướng đánh giá về nghề nghiệp chỉ qua “bề nổi”. Nhờ có lời “nhờ cậy” của In Jae, tôi dần nhìn ra được những định kiến vốn không dễ thừa nhận. Trong công việc lao động chân tay đơn thuần và chân chính kia, chúng ta có thể nhận thấy những mầm mống đổi thay có tiềm năng biến đổi cả xã hội đang dần đâm chồi. Chiếc xe đạp kéo đang chạy bon bon từ từ dừng lại. Có vẻ như In Jae còn điều gì muốn thổ lộ. Đảm nhiệm cả vai trò của một hướng dẫn viên du lịch, chàng thanh niên này đã quen với việc vừa đạp xe vừa nói chuyện với hành khách. In Jae chỉ hướng cho tôi nhìn về phía triền đồi trước mặt rồi nói: “Con đường dốc này giống như đường đi làm của chúng tôi. Đây là ngọn đồi mà hàng ngày chúng tôi đều phải đi qua sau khi lấy xe đạp kéo ra từ bãi đỗ xe. Ban đầu, chúng tôi gọi đây là “đồi khổ nạn”, bởi xe đạp kéo rất dễ phát sinh hỏng hóc mỗi lần leo lên con dốc đó. Hồi đó, chúng tôi mới chỉ có hai chiếc xe đạp kéo mà lượng khách thì ngày càng nhiều. Điều này khiến chúng tôi nảy sinh ý định gắn thêm động cơ để xe có thể chạy nhanh hơn và như vậy có thể đáp ứng được hết nhu cầu của khách hàng. Quả nhiên động cơ mới được gắn thêm vào giúp cho xe chạy nhanh hơn và cũng đỡ tốn sức hơn. Tuy nhiên, một vấn đề mới phát sinh lại khiến chúng tôi phải đắn đo là xe đạp kéo sau khi được trang bị thêm động cơ lại hay xảy ra hỏng hóc hơn. Vấn đề kỹ thuật của xe đạp kéo chỉ là một phần, việc gắn động cơ vào xe đạp kéo có lẽ đã đánh mất đi sức hấp dẫn hoàn toàn tự nhiên, vốn là sức cạnh tranh lớn nhất của Ride Artee. Kịp thời nhận ra điều này, chúng tôi đã khôi phục lại tâm niệm ban đầu khi mới bắt tay vào công việc. Như vậy, động cơ được tháo bỏ và những chiếc xe đạp kéo với bàn đạp nguyên thủy lại được hồi sinh. Mỗi khi nhìn thấy ngọn đồi kia tôi lại nhớ về thời đó.” Từ bỏ công việc công sở thuận lợi và ổn định, tự mình vượt qua hết ngọn đồi này tới ngọn đồi khác, đối với In Jae, chiếc xe đạp kéo không chỉ là món quà luôn mang lại niềm vui. Việc vượt qua những ngọn đồi, những con đường mới lại tiếp tục mở ra trước mắt chàng thanh niên ấy như một sự hoán đổi của khó khăn và khổ nạn. “Cũng có những ngày chúng tôi không có khách. Vào những ngày như thế, bắt gặp những người đang đi lên dốc, chúng tôi tự nghĩ đằng nào thì mình cũng cần phải đi xuống dốc nên chúng tôi hô lên “Chúng tôi chở khách miễn phí!”. Có lẽ bởi vậy nên người lớn trong xóm rất yêu quý chúng tôi.” Như vậy, những chàng trai của Ride Artee đã góp phần biến ngọn đồi “khổ nạn” trở thành đường về nhà hạnh phúc của rất nhiều người. Artee có nghĩa là người bạn thân hay người bạn lâu năm. Những chiếc xe đạp kéo của In Jae đang dần chiếm vị trí quan trọng như người bạn thân cùng đồng hành trên những nẻo đường thành phố. Cứ thế, những chiếc xe đạp kéo mang dáng dấp truyền thống thổi vào khung cảnh Seoul hiện đại hơi thở ấm áp và thân thiện, như những gì một người bạn thân thiết lâu năm có thể khiến ta phải đổi thay. Những chàng phu xe trẻ của Ride Artee không muốn bánh xe của họ chỉ dừng lại ở trung tâm thành phố Seoul, mơ ước của họ là vươn ra ngoài Seoul và đi tới mọi miền đất nước, cùng kết bạn bốn phương. In Jae xứng đáng được coi là một thanh niên dũng cảm đã biến phu kéo xe − biểu tượng của sự lao động vất vả gắn với nhiều đau khổ trở thành một nghề đáng mơ ước. Suy nghĩ và hành động táo bạo của chàng trai trẻ ấy đã đưa hình ảnh của những phu kéo xe xuất hiện trong các thước phim đen trắng vào hiện thực cuộc sống để trở thành một điều gì đó thật gần gũi và thân thương, không những vậy hành động đó còn có thể thắp sáng cho tương lai của bản thân anh. Kết thúc cuộc tìm hiểu thu thập thông tin, chúng tôi chào tạm biệt và bóng cậu thanh niên In Jae cứ xa dần. Trên lưng áo đồng phục của Ride Artee mà cậu khoác trên người nổi bật dòng chữ “YOLO”. Đây chính là cách viết tắt cho khẩu hiệu “You Only Live Once” (Bạn chỉ sống một lần) và cũng là phương châm sống của In Jae. “Chúng ta chỉ sống một lần! Một cuộc đời để sống, một công việc mà mình mơ ước, làm những việc mà mình có thể, một sự nghiệp duy nhất của bản thân... Tôi sẽ sống thật hạnh phúc. Tôi sẽ ghi nhớ và trân trọng mọi mối nhân duyên trong cuộc đời chỉ xuất hiện một lần duy nhất của mình.” Chia tay với tôi, In Jae đón một đôi bạn trẻ lên chuyến xe của mình. Bấy giờ, chiếc xe đạp kéo mới nhanh chóng tăng tốc như thể đã gặp được chủ nhân thực sự của nó. Cảnh tượng chẳng khác nào một bức họa phong cảnh ấy khiến tôi chợt nhớ đến câu thoại cuối cùng trong bộ phim tài liệu Chiếc xe đạp kéo cũ (My Barefoot Friend): “Phu kéo xe mà không chở ai đó thì sẽ lạc lối. Đối với Shallim thì ai đó chính là gia đình.” Chàng phu xe trẻ, In Jae, đến từ Ride Artee cũng giống như vậy. Cậu chở ai đó để không đánh mất tương lai và sự nghiệp của bản thân. Đối với cậu, ai đó chính là bạn bè. Utopia for “nomad-worker” Địa đàng trần gian dành cho “nhân công xê dịch” : Bạn có phải là Nomad-Worker? : N omad working là thuật ngữ được tác giả người Nhật Sasaki Toshinao sử dụng lần đầu tiên vào năm 2009 và đã ngay lập tức gây được sự chú ý. Nomad với ý nghĩa ban đầu là “dân du mục” nhưng khi được ghép với Working sẽ được hiểu với nghĩa mở rộng là sử dụng các thiết bị di động để làm việc kết hợp với di chuyển mà không bị hạn chế về thời gian hay không gian. Sự phát triển rộng rãi của hiện tượng smart worker - những người có thể làm việc mọi lúc, mọi nơi - đã mang lại cơ hội đổi đời và trở thành những Nomad-Worker cho các nhân viên công sở làm công ăn lương bình thường. Khoa học kỹ thuật phát triển, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin được thiết lập rộng rãi giúp cho bất kỳ ai, tại bất cứ đâu cũng có thể truy cập internet và tìm kiếm những thông tin cần thiết. Trong thời đại “internet ở khắp mọi nơi” như ngày nay, có rất nhiều người theo đuổi những công việc chuyên môn không nhất thiết phải làm việc trong một văn phòng bí bách, họ có thể lang thang khắp thành phố, vừa tiêu tiền vừa kiếm tiền. Chỉ cách đây mấy năm, tại Nhật Bản, giới SoHo - bao gồm những người mở ra một văn phòng làm việc nhỏ hoặc làm việc tại nhà còn nhận được sự chú ý, thì hiện nay, nhờ có mạng lưới wifi phủ sóng khắp mọi nơi, giới Nomad-Worker có thể làm việc tại bất kể thời gian và không gian nào, lại trở thành tâm điểm của sự quan tâm. đây là một phương thức làm việc mới xuất hiện trong bối cảnh ngày càng có nhiều người trẻ tuổi muốn được làm việc tự do trong không gian mà họ yêu thích. Những người làm việc tự do thuộc nhóm Nomad-Worker không chỉ đơn thuần là “những lao động không chính thức”. Họ giống như những cư dân tự do thế hệ mới có thể điều hoà giữa chất lượng cuộc sống và công việc nhờ những điều kiện lao động linh hoạt hơn. Họ là những người lao động chính thống và cũng là những người chiến thắng khi có thể tự tin lựa chọn cho mình một cuộc sống tự do chứ không phải là kẻ thất bại như nhiều người lầm tưởng áp đặt. điều quan trọng là khoảng cách giữa người lao động chính thức và lao động không chính thức đang được thu hẹp. “Cây cầu nối” giữa hai trường phái này đã được đặt ra để chúng ta có thể giao lưu và đưa ra lựa chọn phù hợp với mình. Thông qua một hệ thống những ví dụ và tiền lệ đa dạng dưới đây, tôi muốn tìm kiếm cơ hội giúp cho một thế hệ Nomad Worker thành công có thể chứng tỏ được tài năng của mình. Nhật Bản: không gian làm việc chung “The Terminal” DÂN DU MỤC THỜI ĐẠI KỸ THUẬT SỐ ĐANG GÓP PHẦN THAY ĐỔI THỊ TRƯỜNG VIỆC LÀM “Khi bạn làm việc tại một công ty, ngày nào bạn cũng phải lên đường tới văn phòng vào lúc 9 giờ sáng và tan sở lúc 6 giờ chiều. Thế nhưng một sự thật trớ trêu là không phải ý tưởng lúc nào cũng nảy ra trong đầu bạn trong khoảng thời gian từ 9 giờ sáng đến 6 giờ chiều mỗi ngày. Sau khi trở thành một nhân công xê dịch, tôi mới nhận ra mình sống về đêm.” — YAMANO KOHEI — (nhân công xê dịch) Nằm ở trung tâm thành phố Tokyo, Shibuya được coi là khu vực dành cho giới trẻ. Shibuya về đêm rực rỡ ánh đèn neon hắt ra từ những tấm biển quảng cáo luôn “sáng như ban ngày”. Nhưng khuất sau ánh đèn rực rỡ ấy là cả một thế hệ trẻ Nhật Bản đang ẩn mình trong bóng tối để cố quên đi nỗi bất an về tương lai. Hikikomori là thuật ngữ dùng để gọi tên một bộ phận thanh niên tự giam mình trong bốn bức tường và cắt đứt mọi mối liên hệ, từ chối tiếp xúc với xã hội. Kết quả thống kê cho biết hiện nay thành viên của cộng đồng Hikikomori tại Nhật Bản đã lên tới 700.000 người. Hơn một nửa trong số này không hề tự nguyện, mà vì một số lý do như không thể thích ứng với môi trường làm việc hoặc không thể tìm được việc làm, nên không còn cách nào khác, họ buộc phải làm quen với cuộc sống của những Hikikomori. Suy thoái kinh tế kéo dài kèm theo tình trạng thiếu việc làm đã cướp đi tương lai và cuộc sống của nhiều thanh niên Nhật Bản. Trong bối cảnh này, đâu là con đường hiện thực hoá ước mơ và khát vọng tuổi trẻ dành cho họ? Đáp án duy nhất chính là việc làm. Đêm đã về khuya tại Shibuya, trong một cửa hàng bán đồ ăn nhanh luôn sáng đèn 24/24 giờ như thế này, tất cả những người có mặt tại đây đều thuộc một trong hai nhóm người: những người tiêu tiền và những người kiếm tiền. Thế nhưng hai nhóm người này lại mang dáng vẻ trái ngược đến lạ kỳ. Một bên là những thanh niên đến đây để lấp đầy cái dạ dày trống rỗng nhưng lại hiếm khi rời mắt khỏi màn hình máy tính dù đã là nửa đêm; một bên là những nhân viên trẻ làm việc tại quán ăn này, tuy đã về khuya song họ vẫn bận rộn không ngơi tay. Trong cùng một không gian, tồn tại hai nhóm người đứng ở hai lập trường hoàn toàn khác nhau, một bên là những người ngồi lì hàng tiếng đồng hồ và một bên là những người đứng liên tục suốt ca làm việc. Tuy vậy, thực chất tất cả đều đang cùng thực hiện một hành động − “làm việc”. Cộng đồng Freeter sinh ra trong thời kỳ đóng băng của thị trường việc làm Nhật Bản Khái niệm việc làm trọn đời đang nhanh chóng sụp đổ tại Nhật Bản. Lý do xuất phát từ tình trạng kinh tế khó khăn kéo dài khiến các chủ lao động Nhật Bản có xu hướng lựa chọn hình thức tuyển dụng nhân viên không chính thức thay vì chính thức như trước đây nhằm duy trì khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Chính sách hưởng lương và thăng tiến theo thâm niên làm việc hay chế độ làm việc trọn đời vốn là chính sách lao động đặc thù của Nhật Bản một thời đang dần biến mất. Vị trí trước đây vốn thuộc về các lao động chính thức thì nay đã được thay thế bởi những lao động không chính thức như nhân viên tạm thời hay nhân viên hợp đồng. Hiện tượng này đã rút số lượng lao động chính thức tại Nhật Bản từ 85% vào năm 1985 xuống còn 64,8% vào năm 2012; cũng trong thời kỳ này, số lượng lao động không chính thức đã tăng từ 15% lên 35,2%. Hệ quả khác là trong xã hội ngày càng có nhiều thanh niên bỗng chốc bị đẩy vào điểm mù của lao động. Sống trong một hiện thực xã hội bất ổn và phải đối mặt với một tương lai bấp bênh, thế hệ trẻ buộc phải từ bỏ hy vọng tìm kiếm một công việc ổn định. Lựa chọn của họ là duy trì cuộc sống tự do của mình bằng nhiều công việc bán thời gian thay vì dừng lại ở một nghề nghiệp nhất định nào đó. Nhóm người này được gọi chung bằng cái tên Freeter, đây là một từ mới trong tiếng Nhật được ghép bởi từ “free” (tự do) với từ “arbeiter” (người lao động). Freeter là tên gọi khác của những người chuyên làm công việc bán thời gian, chấp nhận làm những công việc đơn giản, không ổn định mà họ tìm được để trang trải cho cuộc sống sau khi đã từ bỏ việc tìm kiếm trong vô vọng một công việc ổn định, dù đã cố gắng hết sức song vẫn không thành công. Freeter cũng phản ánh một thực trạng rất đáng lo ngại đang diễn ra trong giới trẻ Nhật Bản. Theo Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi Nhật Bản, cộng đồng Freeter hiện đang chiếm 10% trong đội ngũ lao động trẻ dưới 34 tuổi, tương đương với 220.000 người dân nước này. Tuy nhiên, các chuyên gia dự đoán trong bối cảnh thị trường việc làm Nhật Bản đang có dấu hiệu đóng băng trở lại như hiện nay, thời gian tới sẽ ngày càng có nhiều người buộc phải gia nhập cộng đồng Freeter. Mặc dù vậy, bên cạnh những thanh niên buộc phải gia nhập nhóm Freeter do hoàn cảnh xã hội xô đẩy, cũng có không ít bạn trẻ tự nguyện lựa chọn cuộc sống của các Freeter và con số này ngày càng tăng. Đối với những trường hợp này, họ không phải là những Freeter “ngắn hạn” tạm thời chấp nhận những công việc bán thời gian để trang trải cuộc sống cho đến khi tìm được một công việc ổn định. Có thể nói rằng, những thanh niên này sau khi quan sát và nhìn nhận cuộc đấu tranh đang diễn ra ngay trước mắt mình thì đã tự rút ra kết luận và tự động thoả hiệp với cuộc sống, mà theo đó, họ trở thành những Freeter như một lựa chọn phù hợp nhất vì cuộc sống của chính mình. Đi theo khuynh hướng chủ nghĩa cá nhân ở Nhật Bản, cùng với lối suy nghĩ tự do tự tại đặc thù “Hãy sống cho hiện tại ngay lúc này thay vì chạy theo một tương lai mơ hồ” và hoà mình vào hiện thực xã hội, những Freeter tự phát đang len lỏi và lấp đầy mọi ngõ ngách trong thành phố. Giờ đây tại Nhật Bản, Freeter đang nổi lên như một nhóm nghề mới, một lựa chọn cho những ai yêu thích cuộc sống năng động. Đi theo tiếng gọi của thế hệ trẻ, “Hãy sống tự do và đừng bó buộc bản thân trong một tổ chức nào đó”, cơ cấu việc làm của Nhật Bản cũng đang trên đà biến đổi. Sự tồn tại của các Freeter đã không còn xa lạ với xã hội Nhật Bản. Theo như câu nói “Nếu đã không thể thay đổi tình thế thì Freeter chi bằng hãy cứ mỉm cười với hiện tại”, thì các Freeter tự phát chính là những người chấp nhận hiện thực bất ổn không thể tránh khỏi và tiếp nhận nó như một phần của cuộc sống. Và sự thật là trong sự bất ổn của cuộc sống đã xuất hiện không ít những Freeter tìm được bước chuyển mình đầy triển vọng trong dòng chảy nghề nghiệp. Giống với Freeter ở đặc điểm làm việc tự do không bị hạn chế tại một địa điểm cố định, song Nomad Worker là dân du mục ngang dọc khắp thành phố, họ theo đuổi chủ nghĩa tự do phóng khoáng và đang làm rung chuyển mạnh mẽ một thị trường việc làm đình trệ tại Nhật Bản. Nomad Working (“xê dịch trong công việc”) - Một mô hình làm việc mới Tokyo là nơi có thể tìm thấy nhiều Nomad-Woker (nhân công xê dịch) nhất. Bởi nơi đây có thể coi là môi trường làm việc lý tưởng nhất dành cho các Nomad-Worker với hệ thống các nhà hàng, quán cà phê, cửa hàng ăn nhanh, v.v... kinh doanh 24/24 giờ được tìm thấy dễ dàng tại khắp nơi trong thành phố. Ren là một trong những thanh niên Nomad-Worker tại Nhật Bản mà tôi có dịp gặp gỡ. Đối với Ren, các quán cà phê tại Shibuya vừa là không gian thư giãn, tận hưởng cảm giác thư thái giữa những bộn bề, tấp nập của cuộc sống đô thị, vừa là nơi tác nghiệp. Ren tỏ ra hài lòng với cuộc sống hiện tại khi anh có thể làm việc mọi lúc, mọi nơi với chiếc máy tính xách tay nối mạng hơn là đầu quân cho một doanh nghiệp nào đó. Tuy nhiên, tại sao nhân công xê dịch lại lựa chọn làm việc ở bên ngoài thay vì giam mình trong nhà như những Hikikomori? Tại sao họ lại tự đẩy mình vào những không gian công cộng lạ lẫm, đông đúc, có thể mang lại những ức chế tinh thần không nhỏ để làm việc? “Công việc của tôi đòi hỏi phải luôn đưa ra được những ý tưởng sáng tạo. Mặc dù quán cà phê hay các địa điểm công cộng thường lộn xộn hơn những không gian đóng khác, nhưng khi làm việc trong những không gian mở như thế này, hiệu quả công việc của tôi tăng lên rất nhiều. Tôi không thích nán lại quá lâu ở một nơi nào đó, hơn nữa nhà cửa chật chội lại gây cảm giác bí bách. Những thanh niên tự lập tại Tokyo hầu hết đều sống trong những không gian rất chật hẹp. Nhà cửa chật chội không đáp ứng đủ không gian làm việc nên lựa chọn của chúng tôi là làm việc ở bên ngoài.” Khoa học kỹ thuật phát triển đã mang tới cho nhân loại cơ hội làm việc tại bất cứ đâu trên thế giới. Và số lượng nhân công xê dịch tăng lên mạnh mẽ đang là xu thế chung của toàn cầu. Tạp chí kinh tế Mỹ Business 2.0 gọi đây là những white-collar nomad (dân du mục cổ cồn trắng). Tên gọi này không đơn thuần dùng để chỉ những người lang bạt nay đây mai đó mà còn mang ý nghĩa những lao động trí thức có trình độ chuyên môn sâu rộng và phong phú. Sự bùng nổ của xu thế làm việc “xê dịch” tại Nhật Bản đang dần lớn mạnh với nhân tố quyết định là những lao động trí thức trẻ trình độ cao. Một ngày của những nhân công xê dịch như Ren có đôi chút khác biệt. Hàng ngày, Ren ra khỏi nhà từ sáng sớm, đến ngay cửa hàng phục vụ đồ ăn nhanh để giải quyết bữa sáng và bắt tay vào lịch trình dày đặc của mình. Việc đầu tiên là kiểm tra hòm thư điện tử, Ren nhận công việc qua e-mail và ngay lập tức tiến hành nhiệm vụ của buổi sáng. Đến trưa, khi cửa hàng đồ ăn nhanh trở nên đông đúc, Ren tìm đến những cửa hàng tiện lợi bớt ồn ào hơn. Ren thường ăn cơm hộp tại những cửa hàng tiện lợi như vậy sau đó đi dạo trên phố để đầu óc được thư giãn, nhưng cũng có lúc, Ren tiếp tục suy nghĩ về các ý tưởng công việc ngay trong những giờ nghỉ trưa như vậy. Đến chiều, Ren thường tìm cho mình một chỗ ngồi trong một quán cà phê nào đó để tiếp tục làm việc hoặc đọc sách. Cũng có thể ngồi tại một quán cà phê suốt cả buổi chiều nhưng trung bình một ngày Ren thường ghé vào hai hoặc ba quán. Ren trao đổi công việc hoàn toàn qua e-mail và thực hiện các cuộc hội ý hay thảo luận công việc qua điện thoại di động do đó hầu như không có lý do gì để gặp gỡ trực tiếp với người khác. Tuy nhiên, chàng thanh niên này không thấy cô đơn bởi anh cảm thấy hoàn toàn thoải mái và tự do với cuộc sống của mình. Đi tới chỗ này chỗ kia trên phố là cuộc sống thường ngày của Ren và cũng là cách sống mà anh lựa chọn. Ren cho rằng trong thời đại làm việc không biên giới như ngày nay, lựa chọn của anh là một trong những lựa chọn sáng suốt để vừa làm việc vừa tận hưởng cuộc sống. Những nhân công xê dịch của thời đại công nghệ thông minh, những công dân trẻ được trang bị các sản phẩm kỹ thuật số tiên tiến hàng đầu, tất cả đều đang chuyển mình để tìm kiếm vị trí của bản thân trong một thị trường việc làm đầy biến động. Nhật Bản ngày nay cũng đang ủng hộ và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thế hệ nhân công xê dịch này, bởi họ nhận thấy được hiệu quả thực tế cũng như triển vọng lớn của sự dịch chuyển này. Thanh niên Nhật ngày nay không chấp nhận ngồi yên một chỗ và đứng ngoài quá trình đổi thay không ngừng của thị trường việc làm. Tại Nhật thậm chí còn xuất hiện một địa điểm gặp gỡ dành cho những người có chung quan điểm như vậy, nơi này có tên gọi The Terminal nằm tại Harajuku, Tokyo. 9 giờ sáng đến 6 giờ chiều? Với chúng tôi là 24 giờ TỰ DO! The Terminal tại Harajuku, Tokyo là một nơi được trang bị máy tính và các trang thiết bị văn phòng khác đáp ứng đầy đủ tiện nghi của một không gian làm việc, dành cho tất cả những ai có nhu cầu tới đây làm việc và được coi là “không gian làm việc chung”. Nhìn qua thì nơi đây không khác gì so với cảnh tượng thường thấy ở bất kỳ một công ty nào, nhưng thực tế, những người đang làm việc tại đây đều là những nhân công xê dịch có thể thay đổi vị trí của mình bất cứ lúc nào. Yamano Kohei, một nhà thiết kế đồ nội thất đã đều đặn tới đây hàng ngày thay vì đầu quân vào một công ty khác sau khi thôi việc tại công ty cũ cách đây hơn 3 năm. Giờ đây, Yamano Kohei không có ý định tiếp tục sống cuộc sống của một nhân viên công sở cho dù đó có là một công ty tầm cỡ. Đối với anh, việc ra đường và hòa mình vào dòng người tới công sở mỗi sáng không khác nào tham gia vào một cuộc chiến chỉ còn là quá khứ xa xôi. Giờ đây, mỗi sáng, Yamano Kohei có thể rời khỏi nhà muộn hơn một chút, đi đến The Terminal và chọn lấy một chỗ ngồi, thư thái thưởng thức một tách cà phê trong khi sử dụng máy tính được lắp đặt sẵn tại đây cho công việc bán thời gian của mình. Hình thức làm việc trực tuyến này giúp cho Yamono Kohei chủ động hơn trong công việc mà vẫn đảm bảo được thu nhập. Trong một ngày, anh có thể tham gia và xử lý công việc của ba, bốn công ty khác nhau và đương nhiên là thu nhập không hề kém gì so với việc đi làm cố định tại công ty. Hơn nữa, do không phải chịu nhiều ràng buộc về thời gian, cũng không phải để ý đến ánh mắt và thái độ của những người xung quanh nên công việc trở nên hết sức dễ chịu. “Vào những ngày đẹp trời, tôi có thể ra ngay công viên gần nhà và làm việc trên chính các thiết bị di động một cách thoải mái. Tôi thực sự cảm thấy hạnh phúc vì có thể làm chủ thời gian và làm việc theo cách riêng của mình mỗi ngày. Tôi hoàn toàn có thể làm việc tại quán cà phê hay thư viện nhưng tôi thường lui tới The Terminal bởi tại đây tôi có cơ hội gặp gỡ, trao đổi thông tin và cùng làm việc với những người cùng ngành, điều đó khiến tôi không còn cảm giác lạc lõng. Những người tới đây không chỉ được sử dụng máy vi tính mà còn có thể sử dụng các thiết bị văn phòng khác như máy fax, máy photocopy. Do đó, chúng tôi có thể làm việc mà hoàn toàn không gặp phải bất cứ trở ngại nào.” Theo Kohei, ưu điểm lớn nhất của hình thức xê dịch trong công việc (nomad-working) chính là quản lý thời gian một cách hợp lý. Hồi tưởng lại quãng thời gian luôn sống trong cảnh phải tuân thủ theo đúng khung giờ đi làm và tan sở đã được định sẵn của một công ty, Kohei tin tưởng chắc chắn vào hiệu quả vượt trội trong công việc mà anh đạt được khi được tự quản lý quỹ thời gian và làm việc theo giờ giấc mình mong muốn. “Khi làm việc tại một công ty, ngày nào bạn cũng phải tới sở vào 9 giờ sáng và tan sở lúc 6 giờ chiều. Thế nhưng một sự thật trớ trêu là không phải ý tưởng lúc nào cũng nảy ra trong đầu bạn trong khoảng thời gian từ 9 giờ sáng đến 6 giờ chiều mỗi ngày. Sau khi trở thành một nhân công xê dịch, tôi mới nhận ra rằng mình là người sống về đêm. Điều này có nghĩa là tôi hoàn toàn phù hợp với việc thức khuya dậy muộn, tôi thường thức cho tới bình minh của ngày hôm sau rồi mới đi ngủ và dậy muộn hơn một chút vào buổi sáng. Tôi tự tìm ra khung thời gian làm việc hiệu quả nhất của bản thân và quả nhiên là mức độ tập trung và hiệu suất công việc tăng lên một cách bất ngờ.” Gần đây, vấn đề thu hút được sự quan tâm lớn nhất của sinh viên đại học và những người làm công sở chính là quản lý thời gian. Hiện nay, việc trong chiếc điện thoại thông minh của mỗi người đều có ít nhất một vài ứng dụng quản lý lịch trình đã không còn là điều xa lạ. Điều này phản ánh một hiện trạng xã hội mang tên “Thời gian là tiền bạc và là sức cạnh tranh”. Tuy nhiên, tự tách mình ra khỏi khung giờ làm việc cố định “9 đến 6” để sử dụng thời gian của bản thân theo cách riêng và tạo ra hiệu quả lao động tối ưu là điều không hề dễ dàng. Đây cũng là lý do để yêu cầu thay đổi khung giờ làm việc “9 đến 6” được cố định trong một thời gian dài ở Nhật Bản càng trở nên mạnh mẽ hơn. Khai trừ chế độ phân bổ giờ giấc một cách cưỡng chế, thay vào đó là áp dụng hình thức làm việc đổi mới để tự bố trí thời gian làm việc phù hợp hơn chính là một dấu chấm phá rất khác biệt trong công việc. Với hành động phá vỡ khung giờ làm việc hành chính trước đây và lựa chọn làm việc một cách tự do, thoải mái suốt 24 giờ/ ngày, giới trẻ Nhật Bản đang làm việc sao cho phù hợp với bản thân thay vì uốn nắn, gò ép để bản thân phù hợp với công việc. Nhân tố chính trong quá trình biến đổi này chính là hình thức xê dịch trong công việc. Đối với những người bị buộc phải thôi việc do tình hình kinh tế khó khăn và cắt giảm biên chế đồng nghĩa với sự lên ngôi của hình thức lao động không chính thức thì việc có thể phải trở thành nhân công xê dịch cũng đồng nghĩa với một cuộc sống cô độc và buồn tẻ. Tuy nhiên, trên thực tế, những nhân công xê dịch như vậy có khả năng tự thiết kế thời gian ngày một hài hòa giữa công việc với cuộc sống cá nhân, sống và làm việc tích cực để chuẩn bị cho một ngày mai tươi sáng hơn, đồng thời không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân. Họ là những người không chấp nhận chạy theo công việc mà nhanh nhạy nắm bắt và nắm chắc công việc trong lòng bàn tay. Hiện nay, hình thức xê dịch trong công việc đang trở thành phương án thực tế nhất có thể giải quyết được vấn đề thiếu việc làm tại Nhật Bản và cũng là cơ hội để những bạn trẻ đang ẩn mình được thỏa sức thể hiện tài năng ra bên ngoài. Sức mạnh tiềm ẩn của thế hệ xê dịch mới được khai sinh cùng với xu hướng việc làm ẩn chứa bên trong đó đang dần vượt ra khỏi biên giới Nhật Bản để tung cánh hướng ra toàn thế giới. Anh quốc: Trung tâm văn phòng chung - Central Working SỰ RA ĐỜI CỦA E-LANCER “Mỗi khi đến Mỹ, phòng chờ ở sân bay JFK New York lại trở thành phòng làm việc của tôi. Tôi có mặt tại phòng chờ này hàng tháng và thường lưu lại New York trong vài ngày. Tuy nhiên, nếu xem xét lại thì sẽ thấy vấn đề nảy sinh và đây là vấn đề mà hầu hết mọi người đều gặp phải. Nếu làm việc trong quán cà phê thì phòng vệ sinh không thoải mái là một vấn đề, cũng không thể ở mãi trong khách sạn vì bạn sẽ nhanh chóng cảm thấy cô đơn. Điều này đã khiến tôi nảy ra ý tưởng ‘Nếu mang một phòng chờ sân bay vào giữa trung tâm thành phố thì sao nhỉ?’” — JAMES — (CEO của Central Working) Tại một thành phố với hơn 300 ngày mưa trong năm như London, hiếm khi gặp được một ngày trời quang mây tạnh, thời tiết ấm áp. Nhất là khi đứng tại ga tàu điện ngầm hay ga tàu hỏa ở London vào những ngày thời tiết âm u mây mù, con người ta rất dễ rơi vào cảm giác buồn chán bởi bầu không khí nặng nề cùng với ánh đèn leo lét, lạnh lẽo. Dù cho những nhân công xê dịch có coi trọng sự tự do và quen với việc hoạt động độc lập đi chăng nữa thì có lẽ đôi khi họ cũng cần một nơi để lui tới. Đặc biệt là khi chỉ có một mình trong một thành phố rộng lớn và bầu trời lúc nào cũng âm u như London, thay vì cảm thấy tự do, con người dễ bị một thứ cảm giác gần giống với tâm trạng cô đơn lấn lướt và chi phối. Sân ga Kings Cross được coi là trạm trung chuyển giao thông chính nối liền toàn bộ Anh quốc. Tại đây, những hành khách lên tàu thường sử dụng máy tính xách tay trên suốt chuyến đi như một thói quen. Điều tôi quan tâm không phải là nơi chuyến tàu hỏa sẽ đưa họ tới, mà là đích đến của thế giới ảo diễn ra bên trong những chiếc máy tính đang thu hút toàn bộ sự tập trung của họ, liệu đâu là nơi họ hướng về? Anh quốc không chỉ có trạm trung chuyển giao thông Kings Cross, mà còn có một trạm trung chuyển khác, một nơi dành riêng cho những nhân công xê dịch tách mình khỏi đám đông, bước lên một chuyến tàu và khi bước xuống, họ tụ họp lại với nhau tại đây. Nơi đây được biết tới là địa điểm tập trung của những nhân công xê dịch, một căn cứ bí mật nối liền thế giới ảo với thế giới thực. Central Working - Trạm trung chuyển ngoại tuyến dành cho các nhân công xê dịch Một mạng lưới kinh doanh đề cao tính sáng tạo ra đời đã mang lại không gian làm việc chung cho giới nhân công xê dịch Anh quốc vốn được biết đến với những hoạt động riêng lẻ và nhanh chóng trở thành đầu mối liên kết các nhân tố này lại với nhau. Hình thức hoạt động độc lập khiến các lao động tự do trước đây thường được liên tưởng đến những hòn đảo biệt lập với thế giới bên ngoài. Nhưng một không gian ngoại tuyến mới ra đời có vai trò như một trạm trung chuyển đã kết nối những hòn đảo biệt lập này thành một đại lục rộng lớn. Tại một nút giao thông quan trọng và nổi tiếng như Kings Cross, sự xuất hiện của các trung tâm văn phòng chung (co-working) như lời chào đón đối với các nhân công xê dịch đến từ mọi vùng miền nước Anh. Trong số những trung tâm dạng này tại King Cross, The Hub là cái tên tiêu biểu nhất. Trong khi The Terminal của Nhật Bản chỉ có dịch vụ cho thuê không gian làm việc đơn thuần thì các trung tâm co-working tại Anh hơi khác một chút. Tại Anh, các nhân công xê dịch không chỉ sử dụng chung một không gian làm việc mà còn được cung cấp kèm theo cả phần cứng lẫn phần mềm để trao đổi thông tin và hợp tác trong công việc, do đó, họ không làm việc riêng lẻ mà cùng cộng tác với các nhân công xê dịch khác. Đối với những người ở xa The Hub, họ thường tìm đến Central Working, nơi đang dần trở thành một trạm trung chuyển khác trong khu vực. Đi vào bên trong Central Working, ta sẽ có cảm giác như lạc vào một thế giới khác biệt. Tòa nhà này quy mô hơn nhiều so với trụ sở của các tập đoàn lớn, bao gồm những văn phòng làm việc được bài trí với nhiều phong cách khác nhau. Tại đây có quán cà phê, phòng chờ khởi hành ở sân bay, nhà hàng, nhưng cũng có cả những không gian khác mang lại cảm giác ấm cúng và thân thuộc như phòng khách gia đình. Đặc biệt, đập vào mắt tôi là những dãy bàn dài phục vụ nhu cầu sử dụng chung trong một không gian hoàn toàn mở không bị ngăn cách bởi những bức tường. Dãy bàn này là nơi gặp gỡ trao đổi thông tin của những lao động làm việc tự do, đây cũng là nơi cho ra đời ý tưởng dành cho các dự án hợp tác mới. Ngoài ra, để hỗ trợ tối đa cho giới lao động tự do, Central Working còn giữ chức năng vận hành các chương trình hỗ trợ đa dạng như: tổ chức các buổi hội thảo và tư vấn chuyên môn, sắp xếp các buổi gặp gỡ với các chuyên gia tên tuổi trong nhiều lĩnh vực. James Layfield, CEO của Central Working, giải thích, không gian mới mẻ này là nơi hiện thực hóa “những gì mà các văn phòng làm việc trước đây không đáp ứng được”. “Mỗi khi đến Mỹ, phòng chờ ở sân bay JFK New York trở thành phòng làm việc của tôi. Tôi có mặt tại phòng chờ này hàng tháng và thường lưu lại New York trong vài ngày. Tôi nghĩ rằng làm việc ở phòng chờ đó thật thoải mái và dễ chịu. Tuy nhiên, nếu xem xét lại thì sẽ thấy nảy sinh vấn đề và đây là vấn đề mà hầu hết mọi người đều gặp phải. Nếu làm việc trong quán cà phê thì phòng vệ sinh không thoải mái là một vấn đề, cũng không thể ở mãi trong khách sạn vì bạn sẽ nhanh chóng cảm thấy cô đơn. Điều này đã khiến tôi nảy ra ý tưởng ‘Nếu mang một phòng chờ sân bay vào giữa trung tâm thành phố thì sao nhỉ?’” James Layfield tin rằng, nếu kéo mọi người ra khỏi văn phòng với những góc làm việc được phân cách bởi tấm vách ngăn, hay ra khỏi những ngôi nhà chỉ có một mình thì họ sẽ phát huy được những khả năng bất ngờ. Giờ đây, lực lượng đông đảo các nhân công xê dịch sẽ không còn phải lang thang tại các phòng chờ sân bay hay quán cà phê nữa, thay vào đó, họ tham gia và giao lưu tại những diễn đàn ở các trung tâm co-working, điều này sẽ giúp họ thúc đẩy tính sáng tạo và nâng cao hiệu quả làm việc. “Về cơ bản, con người luôn yêu thích việc được ở cùng người khác, muốn có ai đó bên cạnh và thích tạo nên các cộng đồng. Khoa học kỹ thuật mang lại sự tự do cho con người nhưng khoa học càng phát triển con người càng có xu hướng tách mình ra khỏi cộng đồng. Tính cộng đồng chính là một trong những thứ mà con người hiện đại đang dần đánh mất và hiện tượng này trở thành một vấn đề xã hội. Nếu liên tục làm việc độc lập trong một không gian biệt lập như nhà riêng, những người làm việc tự do sẽ tự nhận thấy sự hạn chế và muốn quay trở lại hòa nhập với xã hội. Nhưng đối với những người lao động đã tự do trong thời gian dài, sẽ không dễ dàng khi quay trở lại làm việc trong một công ty bởi họ sẽ phải từ bỏ rất nhiều thứ. Đây là lý do mà họ cần tới những không gian làm việc chung, cần trao đổi và giúp đỡ lẫn nhau, đồng thời hình thành nên những cộng đồng cùng chung chí hướng. Những trung tâm co-working ra đời là nơi để mọi người có thể tìm thấy sự giúp đỡ khi họ cảm thấy đơn độc.” Ngay cả dân du mục trên thảo nguyên đôi khi cũng mong muốn được dừng chân và mong muốn này hoàn toàn có thể bắt gặp ở những nhân công xê dịch. Đằng sau dáng vẻ mạnh mẽ không biết mệt mỏi của những lao động tự do luôn chỉ đơn độc vượt qua mọi chuyện liệu có phải là những cá nhân cô đơn hy vọng tìm được người bạn đồng hành? Những trung tâm co- working tại Anh vẫn đảm bảo tự do cá nhân cần thiết, trong khi đảm nhiệm thêm chức năng “sạc pin” truyền năng lượng tập thể tới những cá nhân hoạt động độc lập. Bởi vậy, có thể nói nhiệm vụ hàng đầu của trung tâm co-working mà James đang điều hành chính là kéo con người xích lại gần nhau hơn. “Trước hết, phải kiến tạo được một môi trường mà các cá nhân hoàn toàn khác biệt có thể tìm thấy điểm chung và bắt tay với nhau trong công việc. Điều này có nghĩa là phải tạo nên những thời điểm có thể tập hợp được nhiều người. Giúp cho các cá nhân có điều kiện gặp gỡ và trò chuyện chia sẻ với nhau là điều vô cùng quan trọng. Tôi và các nhân viên của mình luôn cố gắng để có thể hòa hợp với tất cả những người đến đây bởi chúng tôi cần phải nhạy bén nhận ra những nhu cầu của họ để kịp thời đưa ra sự giúp đỡ và hỗ trợ tối đa. Do đó, công việc chủ yếu của tôi hiện nay là trò chuyện cùng những người đến với Central Working.” Trên thực tế, thời đại chuyển đổi của giới lao động tự do đang mở ra tại Anh khiến con số những người gia nhập cộng đồng này tăng đột biến. Chỉ riêng Central Working đã có tới 3 chi nhánh đang hoạt động hết công suất và sắp tới, trong năm nay, 5 chi nhánh mới sẽ được mở ra tại nhiều nơi trên toàn nước Anh. Những trung tâm như thế này được mở ra hy vọng có thể trở thành những căn cứ ngoại tuyến không chỉ cung cấp thêm điểm dừng chân cho giới lao động tự do mà còn là nơi thúc đẩy những ý tưởng mới phát triển và không gian chia sẻ việc làm. Giờ đây, dân du mục Anh không còn đơn độc nữa. Trước mắt họ là cánh cửa hiện thực dẫn vào thế giới thực thay vì những ô cửa sổ ảo như trước kia. Tại đây không tồn tại sự cạnh tranh hay khái niệm nhiệm vụ áp đặt bắt buộc. Thay vào đó là những con người với tinh thần tự do chia sẻ với nhau câu chuyện về sự nghiệp tương lai. E-lancer - Freelancer (lao động tự do) thế kỷ XXI Điều quan trọng nhất đối với một nhân công xê dịch không gì khác ngoài việc làm. Khi không có việc làm, họ không còn là nhân công xê dịch nữa mà ngay lập tức biến thành người thất nghiệp. Đặc biệt là trong tình trạng thiếu việc làm trầm trọng như tại Anh, nếu không phải là thành viên của một đoàn thể nào đó hay không có những mối quan hệ thì các lao động tự do khó mà tìm được việc. Cho dù trình độ chuyên môn của bản thân có uyên thâm đến đâu, nếu không có một vũ đài để phô bày tài năng thì đối với ai đó, lao động tự do rất có khả năng sẽ trở thành một sự mỉa mai khi bạn chỉ có thể tận hưởng sự tự do mà không nắm bắt được bất kỳ cơ hội nào để thể hiện năng lực. Do đó, trong dòng chảy của thời đại kỹ thuật số hiện nay đã xuất hiện những người chuyên săn lùng những vũ đài cơ hội như vậy. Chỉ với chiếc máy tính nối mạng, những freelancer thế kỷ XXI mang tên E-lancer đã có thể làm nên sự nghiệp. Đối với những E-lancer trẻ, phạm vi hoạt động của họ không chỉ dừng lại ở thế giới thực mà còn mở rộng ra cả trong những không gian ảo. Bên cạnh đó, địa điểm làm việc của họ không phải là quán cà phê hay trung tâm co-working mà ngay tại tư gia. Jason là một nhiếp ảnh gia tự do, với công việc này anh đi tới khắp nơi trên thế giới để quay phim và chụp ảnh. Bên cạnh đó, Jason còn là một nhà sản xuất phim hoạt hình máy tính làm việc theo hình thức E-lancer. Hiện nay, anh điều hành một công ty sản xuất phim và thực hiện các dự án điện ảnh. Jason đã từng có kinh nghiệm làm việc tại nhiều công ty với vô số những công việc khác nhau trong suốt 15 năm qua. Trong số những công ty Jason từng làm việc, cũng có không ít công ty nước ngoài. Thế nhưng, Jason chưa bao giờ chính thức đi làm tại bất kỳ công ty nào trong số đó. Bởi tất cả những trao đổi công việc đều có thể thực hiện qua các cuộc gọi video hay e-mail. “Sau khi trở thành một E-lancer, tôi bắt đầu với những dự án bình thường và thực hiện các cuộc họp với những người có liên quan khoảng hai, ba lần một tuần thông qua các cuộc gọi video. Cũng có khi các cuộc thảo luận như vậy diễn ra giữa nhiều người. Thông thường, khoảng hai, ba người sẽ cùng chia sẻ công việc tại một thư mục chung thông qua các dịch vụ lưu trữ trực tuyến và tôi đều đặn đăng tải các sản phẩm công việc của mình lên đó. Sau khi đã xem xét, kiểm định kỹ lưỡng sản phẩm lao động của tôi, họ sẽ đưa ra các ý kiến phản hồi thông qua các cuộc gọi video.” Những E-lancer như Jason đang xuất hiện ngày càng nhiều. Họ thực chất là những lao động tự do (freelancer) thực hiện các dự án công việc nằm trong lĩnh vực chuyên môn của bản thân thông qua sự hỗ trợ của các sản phẩm công nghệ như máy tính và Internet. Thế hệ freelancer trước đây thường tìm kiếm công việc thông qua các mối quan hệ xã hội. Trong khi đó, các E lancer ngày nay giải quyết những vấn đề công việc hoàn toàn qua Internet. Toàn bộ quá trình làm việc bắt đầu từ bước đầu tiên là tìm kiếm công việc cho tới hoàn thiện công việc, đương nhiên là cả việc “nộp sản phẩm” và cuối cùng là thanh toán thù lao, tất cả đều được thực hiện qua mạng. Trên thực tế, sự xuất hiện của các trang web như Elancer.com đã hỗ trợ đắc lực cho việc kết nối doanh nghiệp với các E-lancer và số người có nhu cầu sử dụng dịch vụ này ngày càng gia tăng với tốc độ chóng mặt. Jason cho rằng khi hoạt động với tư cách là một E-lancer, anh có thể làm việc với hiệu suất cao hơn nhiều so với bất kỳ công việc nào khác. Do không bị hạn chế trong một văn phòng hay địa điểm làm việc nhất định, bạn có thể sử dụng máy tính và các mạng lưới liên kết để xử lý nhiều công việc cùng một lúc. “Có thể kiếm tiền bằng nhiều cách khác nhau là một điều rất thú vị. Ngay lúc này, tôi đang thực hiện một dự án phim hoạt hình mới với tư cách là một nghệ sĩ hiệu ứng đồ họa máy tính và dự án này đã bắt đầu từ 5 - 6 tháng trước. Dự án đang dần đi vào hoàn thiện nên gần đây, mỗi khi có thời gian rảnh tôi lại truy cập vào trang web elancer.com để tìm kiếm công việc tiếp theo. Lần này, tôi chủ ý tìm kiếm những công việc liên quan đến nhiếp ảnh và quay phim. Nếu là 6,7 năm trước thì có lẽ cuộc sống này sẽ bất khả thi bởi nếu muốn có việc làm, bạn phải trực tiếp đi chào bán các sản phẩm của mình. Thu nhập từ lĩnh vực nhiếp ảnh có thể thấp hơn so với thu nhập từ việc sản xuất phim hoạt hình, nhưng tôi không muốn vì tiền mà phải làm mãi một việc. Ngay sau khi dự án này kết thúc, tôi sẽ tạm thời rời xa chiếc máy tính, hy vọng công việc mới sẽ giúp tôi phát triển tính sáng tạo của mình.” Do tiến hành công việc mà không cần đến các cuộc gặp mặt trực tiếp nên các E-lancer phải chấp nhận việc có thể phải đối mặt với những rủi ro không lường trước được. “Lựa chọn trở thành một E-lancer đồng nghĩa với việc bạn phải chuẩn bị tinh thần để đón nhận vô số những lời từ chối và thậm chí bị từ chối vào những giây phút cuối cùng. Trong thế giới trực tuyến, cho dù bạn có thể hiện tốt đến mức nào cũng rất có khả năng công việc đó chẳng đi đến đâu. Cũng có trường hợp người được chọn không phải là bạn hoặc các bên liên quan không thống nhất được lịch trình, kế hoạch với nhau và bạn buộc phải từ bỏ dự án. Điều này không có gì khó hiểu, vì trong môi trường làm việc không có nhiều ràng buộc như vậy, những thỏa thuận dễ đạt được thì cũng dễ dàng chấm dứt.” Tuy nhiên, khi đã xác định tinh thần sẵn sàng chấp nhận rủi ro thì điều mà các E-lancer như Jason nhận được là một cuộc sống như ý với những trải nghiệm phong phú và môi trường tốt nhất để rèn luyện, tích lũy kinh nghiệm chuyên môn. Đối với anh, thế giới trực tuyến là cánh cửa gần nhất và hiệu quả nhất để giao lưu với xã hội. Chỉ cần cánh cửa ấy còn mở thì khả năng thâm nhập và phát triển của Jason là vô hạn. Bắt tay vào một sự nghiệp chưa từng có E-lancer chính là một dạng biến thể khác của nhân công xê dịch được sinh ra trong quá trình phát triển của công nghệ thông tin. Giờ đây, con người không cần phải trực tiếp tập hợp lại để cùng làm việc, mà chỉ bằng việc kết nối, chúng ta cũng có thể đạt được hiệu quả công việc như mong muốn. Các E-lancer đã biến điều này thành hiện thực bằng cách hợp tác, tập trung kiến thức chuyên môn và khả năng sáng tạo để tạo ra các giá trị kinh tế to lớn. Nghệ sĩ ghi-ta trẻ Rex Pearson cũng là một E-lancer thể hiện tài năng của bản thân thông qua thế giới trực tuyến và góp phần