🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tuổi Già - Tập 2 Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn SIMONE DE BEAUVOIR TUỔI GIÀ NGUYỄN TRỌNG ĐỊNH dịch TẬP 2 NHÀ XUẤT BẢN PHỤ NỮ HÀ NỘI 1998 https://thuviensach.vn XUẤT BẢN VỚI SỰ CỘNG TÁC CỦA ĐẠI SỨ QUÁN PHÁP TẠI VIỆT NAM ÉDITÉ AVEC LE CONCOURS DE L'AMBASSADE DE FRANCE AU VIETNAM Dịch theo bản tiếng Pháp LA VIEILLESSE Nhà xuất bản Gallimard 1973 https://thuviensach.vn PHẦN THỨ HAI CON − NGƯỜI − TRONG THIÊN − HẠ https://thuviensach.vn LỜI GIỚI THIỆU Chúng ta đã nghiên cứu người già với tư cách khách thể, đối tượng của khoa học, của Lịch sử, của xã hội: chúng ta đã miêu tả họ trong tính khách quan bên ngoài. Nhưng người già cũng là một chủ thể biết phản ứng lại hoàn cảnh. Chúng ta thử tìm hiểu xem họ sống ra sao những năm tháng cuộc sống già lão ấy. Cái khó là ở chỗ đối với tuổi già, chúng ta không thể có quan điểm theo thuyết duy danh (point de vue nominaliste) cũng như theo thuyết khái niệm (point de vue conceptualiste). Tuổi già là hiện tượng xảy tới cho những người trở nên già lão; không thể đóng khung vô số kinh nghiệm về lớp tuổi ấy vào trong một quan niệm, thậm chí trong một khái niệm. Nhưng ít ra chúng ta cũng có thể đối chiếu những kinh nghiệm ấy với nhau, tìm cách rút ra những hằng số và giải thích những sự khác biệt giữa những kinh nghiệm ấy. Một trong những khiếm khuyết trong cách xem xét này là các ví dụ của tôi chủ yếu do những người hạnh ngộ cung cấp, vì chúng ta đã thấy là chỉ một mình họ hay hầu như chỉ một mình họ có phương tiện và thời gian để làm chứng nhân cho bản thân mình. Tuy nhiên, những thông tin họ cung cấp thường có tác dụng vượt qua trường hợp của chính họ. Tôi sẽ sử dụng những dữ kiện ấy trong lúc không quan tâm tới trật tự thời gian. Số lượng lớn những lời sáo mòn chúng ta đã bắt gặp liên quan tới tuổi già, cho thấy đó là một hiện thực xuyên suốt lịch sử. Dĩ nhiên, cuộc sống người già không giống nhau trong không gian và thời gian; nhưng qua sự đa dạng ấy nổi lên những hằng số cho phép đối chiếu một số bằng chứng trong lúc không phải xem xét ngày tháng. Cái khó lớn nhất là sự giao thoa − như chúng ta đã nhận thấy giữa các yếu tố xác định cuộc sống người già: mỗi một yếu tố ấy chỉ có ý nghĩa đích thực trong mối quan hệ giữa nó và những yếu tố khác. Mọi sự chia cắt đều võ đoán. Trong những chương dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt xem xét mối https://thuviensach.vn quan hệ giữa con người với cơ thể và hình ảnh của nó trong tuổi già; quan hệ giữa con người với thời gian, với Lịch sử, với hoạt động làm biến đổi thế giới (praxis); quan hệ giữa con người với người khác, với thế giới. Tôi đề nghị bạn đọc đọc những chương ấy theo tinh thần một sự tổng hợp cuối cùng. https://thuviensach.vn CHƯƠNG NĂM MỞ VÀ KẾT CỦA TUỔI GIÀ. TRẢI NGHIỆM CỦA THÂN THỂ Chết sớm hay sống già: không có sự lựa chọn nào khác. Thế nhưng, như Goethe từng viết: “Tuổi tác chiếm đoạt chúng ta một cách bất ngờ”. Mỗi người là chủ thể duy nhất đối với bản thân mình và chúng ta thường ngạc nhiên khi số phận chung trở thành số phận của riêng mình: bệnh tật, đoạn tuyệt, tang tóc. Tôi còn nhớ nỗi bàng hoàng của mình khi bị ốm lần đầu tiên trên đời, tôi tự bảo mình: “Người đàn bà người ta khiêng trên chiếc băng ca kia, chính là mình đây”. Nhưng những tai họa ngẫu nhiên dễ dàng hội nhập với lịch sử của con người vì chúng đến với chúng ta trong hoàn cảnh đặc thù của mình: tuổi già là một định mệnh, và khi nó xâm chiếm cuộc sống, nó làm chúng ta bàng hoàng: “Việc gì xảy ra vậy? Cuộc sống thôi mà, và tôi đã già” − Aragon từng viết như vậy. Thời gian trong vũ trụ chuyển động, dẫn tới một sự biến đổi của cá nhân, điều đó làm chúng ta sửng sốt. Lúc đã 40 tuổi, tôi vẫn bán tín bán nghi khi đứng trước một tấm gương soi, bụng bảo dạ: “Mình đã 40!” Đứa trẻ sơ sinh, chú bé thiếu niên đều có một lớp tuổi. Những điều cấm kỵ và nghĩa vụ nói chung chúng phải tuân theo, thái độ của những người khác đối với chúng không cho phép chúng quên điều đó. Đến tuổi trưởng thành, chúng ta không nghĩ tới nữa: hình như khái niệm ấy không áp dụng cho chúng ta. Nó giả định là người ta quay về quá khứ và tính sổ trong lúc hướng về tương lai, chúng ta từ từ trượt từ ngày này qua ngày khác, từ năm này qua năm khác. Tuổi già là cái đặc biệt khó được tự giác chấp nhận vì bao giờ chúng ta cũng xem nó như một thứ xa lạ: phải chăng tôi đã trở thành một người khác trong lúc tôi vẫn là chính bản thân mình? https://thuviensach.vn “Vấn đề ngụy tạo thôi − người ta bảo tôi như vậy − Chừng nào bà cảm thấy mình trẻ, thì bà vẫn trẻ”. Như thế là không nhận rõ cái chân lý phức tạp về tuổi già: tuổi già là một mối quan hệ biện chứng giữa thực thể của tôi đối với người khác − như nó được xác định một cách khách quan − và ý thức của tôi về bản thân mình thông qua thực thể ấy. Ở tôi, chính người kia là người cao tuổi, tức là cái bản thân tôi đối với người khác; còn người khác kia, chính là tôi. Thông thường, thực thể của chúng ta đối với người khác là phức tạp giống như bản thân người khác. Mọi lời nói về chúng ta có thể bị phủ nhận nhân danh một sự phán xét khác. Trong trường hợp này, không được phép một sự tranh cãi nào: mấy từ “một ông già sáu mươi” thể hiện một sự kiện duy nhất đối với tất cả mọi người. Chúng tương ứng với những hiện tượng sinh học mà một công trình nghiên cứu có thể phát hiện ra. Nhưng kinh nghiệm bản thân của mình không chỉ ra cho chúng ta số năm tháng của mình. Không một cảm giác bản thể (impression cénesthésique) nào phát hiện cho chúng ta những hiện tượng thoái hóa của quá trình già lão. Đấy là một trong những nét phân biệt tuổi già với bệnh tật. Bệnh tật báo cho người ta biết sự hiện diện của nó, và cơ thể tự bảo vệ mình chống bệnh tật một cách có khi còn tai hại hơn cả bản thân tác nhân kích thích; nó tồn tại đối với chủ thể bị bệnh rõ rệt hơn đối với những người xung quanh thường không hiểu rõ tầm quan trọng của nó. Còn tuổi già thì xuất hiện đối với người khác rõ rệt hơn đối với chính bản thân chủ thể; nó là một trạng thái cân bằng sinh học mới: nếu quá trình thích nghi diễn ra suôn sẻ, thì con người trong lúc già đi không nhận ra nó. Thói quen cho phép che giấu những khiếm khuyết về vận động tâm thần (déficiences psychomotrices) trong một thời gian dài. Dù có những dấu hiệu phát sinh từ cơ thể chúng ta, thì chúng cũng nhập nhằng. Người ta có thể có khuynh hướng lẫn lộn một bệnh tật có thể chữa trị được với một quá trình già lão không thể đảo ngược. Là người chỉ sống để lao động và chiến đấu, Trotsky sợ phải già đi. Ông lo âu nhớ lại câu nói của Tourgueniev mà Lénine thường viện dẫn: “Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55”. Vào tuổi https://thuviensach.vn 55, năm 1933, trong thư gửi cho vợ, ông phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng: “Phải chăng tuổi tác đến thực sự, hay chỉ là một sự suy sụt tạm thời, tuy đột ngột, mà anh sẽ vượt qua? Chúng ta sẽ xem xem”. Ông buồn bã gợi lại quá khứ: “Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Sức khỏe của ông hồi phục và ông hoàn toàn hoạt động trở lại như trước. Ngược lại, có những hiện tượng khó chịu do già lão hầu như chỉ thoáng qua và không được nhắc tới. Người ta cho đó là những sự rối loạn bề mặt và có thể chữa khỏi. Lúc đó đã phải có ý thức về tuổi tác để tìm thấy nó trong cơ thể mình. Và thậm chí như thế nữa, không phải bao giờ cơ thể cũng giúp chúng ta “nội tại hóa” (intérioriser) trạng thái của mình. Chúng ta từng biết bệnh thống phong, bệnh viêm khớp là do già lão gây nên; nhưng vẫn không thể phát hiện ở chúng một quy chế mới. Chúng ta như thế nào thì vẫn như thế ấy, cộng thêm những bệnh thống phong. Về tính chất những sự đánh giá của người già về sức khỏe của mình, có những ý kiến khác nhau, và những sự khác biệt ấy đều có ý nghĩa. Theo bản báo cáo Laroque thì: “Sau tuổi 60, hơn một nửa số người được hỏi cho là sức khỏe của họ kém hay rất kém. Cảm giác này không phải bao giờ cũng ăn khớp với hiện thực, ở chỗ − ngoại trừ những chứng bệnh rõ rệt − nó thể hiện chủ yếu một phản xạ sợ hãi trước quá trình và những biểu hiện của sự già lão. Một cuộc điều tra của Tunbridge và Sheffield ở Anh năm 1956 đưa tới những kết quả ngược lại. Họ hỏi người già về sức khỏe và nhận thấy chỉ có 26% ông già sức khỏe tốt trong lúc 64% nghĩ là sức khỏe mình hoàn toàn tốt; còn các bà già thì 23% có sức khỏe tốt, trong lúc 48% nghĩ như số 64% các ông già trên đây. Những người điều tra kết luận là người rất già bị suy dinh dưỡng và là một người tàn tật về hô hấp, về vận động, về tâm thần. Nhưng người đó không nhận ra tình hình ấy. Quan niệm này hình như được khẳng định bởi một sự kiện tôi đã nói tới: những người bệnh cao tuổi đến thầy thuốc khám bệnh và dùng thuốc chữa bệnh ít hơn so với những bệnh nhân trẻ tuổi hơn. Họ sống trong một https://thuviensach.vn xã hội người ta ít chữa bệnh hơn ngày nay: lời giải thích này không đủ, vì trên nhiều điểm khác, họ bước kịp theo thời đại của mình. Giáo sư A. Ciusa, làm việc ở Viện Lão khoa Bucaret, trong lúc nhận xét nói chung người già không đòi hỏi quyền được bảo vệ sức khỏe, đưa ra hai lý do về hiện tượng ấy: “1/ − Họ không nhận ra thời điểm, trạng thái của họ mang tính chất bệnh lý; họ cho những sự rối loạn, thậm chí nghiêm trọng, gắn liền với tuổi tác. 2/ − Họ có thái độ bỏ mặc tiêu cực, thể hiện ra nhiều hơn nhiều một thái độ ngược lại là thái độ bực tức về những mối lo nghĩ. Thái độ bỏ mặc ấy là hệ quả của cảm giác cho mình là vô ích”. Tóm lại, ý kiến của Galien cho tuổi già nằm ở giữa độ đường của bệnh tật và sức khỏe, là một ý kiến xác đáng. Tuổi già là một trạng thái thông thường là không bình thường. Canghilem viết: “Quá trình giảm bớt dần phạm vi an toàn kéo theo sự hạ thấp khả năng chống chọi những sự xâm nhập của môi trường, tình hình ấy là bình thường, tức là phù hợp với quy luật sinh học về quá trình già lão”. Khi người già bảo là mình bị bệnh − ngay cả khi không bị bệnh họ nhấn mạnh hiện tượng bất bình thường ấy; họ áp dụng quan điểm của người còn trẻ lo ngại khi thấy có hiện tượng bị điếc, bị cận thị, có những biểu hiện khó ở, chóng mệt mỏi. Khi họ tuyên bố mãn nguyện về tình hình sức khỏe, khi họ không lo chữa bệnh, tức là họ yên trí với tuổi già: và lớp tuổi này phản ánh những hiện tượng rối loạn của họ. Thái độ này phụ thuộc vào sự lựa chọn nói chung của chính họ đối với tuổi già. Họ biết người ta coi người già như một loại thấp kém. Vì vậy, nhiều người già cho mọi sự ám chỉ đến lớp tuổi của họ là một lời thóa mạ: họ muốn bằng mọi giá nghĩ là mình trẻ: họ thích cho là mình kém sức khỏe hơn là mình già. Những người khác thì thích thú bảo là mình già, thậm chí là già trước tuổi: tuổi già cho người ta duyên cớ này nọ, cho phép hạ thấp yêu cầu; phó mặc cho tuổi già, đỡ vất vả hơn là khước từ nó. Những người khác nữa, tuy không vui vẻ chấp nhận tuổi già, nhưng vẫn thích tuổi già hơn bệnh tật vốn làm họ sợ hãi và buộc họ phải có một số biện pháp. Sau khi phỏng vấn những người ở trong một khu nhà của C.N.R.O.[1], một nhà điều tra tóm tắt như sau cảm tưởng của mình: “Toàn bộ cơ thể, cơ https://thuviensach.vn quan, chức năng đều không ổn... Tuổi già thể hiện ra bằng nỗi khó khăn về cơ thể, những bệnh tật và sự trì trệ của mọi chức năng. Hiện thực này nằm ở trung tâm đời sống hàng ngày; nhưng người ta quen dần, và nó không làm người ta khó chịu. Người ta nói tới nó một cách ung dung, xa vời... Người ta như thế đấy, nhưng người ta biết rõ nó bắt nguồn từ đâu... Người ta già lão, chẳng phải đến thầy thuốc làm gì.” Hiện tượng “bất bình thường một cách bình thường” này, tức là tuổi già, hình như hiện diện trên bình diện sức khỏe với một sự lẫn lộn giữa thờ ơ và khó chịu. Người ta xua đuổi ý nghĩ bệnh tật bằng cách viện cớ tuổi tác; người ta gạt bỏ khái niệm tuổi tác bằng cách viện cớ bệnh tật, và với lối đẩy lui đẩy tới ấy, người ta không tin vào cả tuổi già lẫn bệnh tật. Dáng vẻ cơ thể và gương mặt cho chúng ta biết chắc chắn hơn: nó tương phản biết chừng nào với mình lúc tuổi 20! Chỉ có điều là sự đổi thay này diễn ra một cách liên tục, và chúng ta chỉ nhận thấy một cách lờ mờ. Bà de Sévigné nói lên điều đó rất tài tình. Ngày 27 tháng giêng 1687, bà viết: “Thượng đế dìu dắt chúng ta qua những thời kỳ khác nhau của cuộc đời mình với tấm lòng xiết bao nhân ái tới mức hầu như chúng ta không nhận ra những thời kỳ ấy. Con đường dốc ấy chạy thoai thoải, người ta hầu như không nhận ra; chúng ta không thấy chiếc kim trên mặt đồng hồ chuyển động. Giả sử lúc 20 tuổi, người ta cho chúng ta là người lớn tuổi nhất trong gia đình và cho chúng ta thấy trong một chiếc gương soi gương mặt của mình ở tuổi 60, trong lúc so sánh nó với gương mặt ở tuổi 20, thì ắt hẳn chúng ta sẽ ngả ngửa và khiếp hãi gương mặt ấy; nhưng chúng ta tiến bước từng ngày một; hôm nay chúng ta như ngày hôm qua, và ngày mai chúng ta sẽ như ngày hôm nay; vì vậy, chúng ta tiến bước mà không cảm thấy, và đó là một trong những điều diệu kỳ của Thượng đế mà tôi vô cùng yêu mến[2]” Một sự thay đổi đột ngột có thể phá tan sự yên tĩnh này. 60 tuổi, Lou Andreas Salomé[3]rụng hết tóc sau một cơn bệnh; cho tới lúc bấy giờ, bà cảm thấy mình “không có tuổi”; nhưng đến lúc này, bà thừa nhận mình đã ở “bên mặt trái cuộc đời”. Tuy vậy, trừ phi có tai nạn tương tự, muốn dừng lại https://thuviensach.vn trước hình bóng trong gương và tìm thấy tuổi tác mình trong đó, thì đã từng phải có những lý do để băn khoăn về nó. Còn về những khuyết tật tâm thần, thì người bị khuyết tật không thể phát hiện ra chúng, nếu yêu sách của họ giảm sút cùng một lúc với năng lực. Ở tuổi 72, La Fontaine đinh ninh thể chất và tâm thần của ông hoàn hảo khi ông viết thư cho Maucroix ngày 26 tháng mười 1693: “Tôi vẫn tiếp tục mạnh khỏe, tôi ăn ngon miệng và với một sức cường tráng quá mức. Trước đây năm sáu ngày, tôi đi bộ tới Bois-le-Vicomte mà trước đó hầu như không ăn gì hết; đoạn đường những năm dặm kia đấy”. Nhưng tháng sáu năm ấy, Ninon de Lenclos viết thư cho Saint-Évremond: “Tôi biết là ông muốn La Fontaine có mặt ở Anh. Ở Paris, người ta không muốn như vậy: đầu óc ông ấy suy yếu lắm rồi”. Có thể vì nghi ngờ tình hình ấy nên ông tán dương sức khỏe của mình với Maucroix; nhưng ông không muốn quan tâm tới nó. Cả trong lĩnh vực này nữa, các dấu hiệu chỉ có giá trị trong một bối cảnh nhất định. Việc người khác phát hiện ra tuổi tác của chúng ta là lẽ bình thường, vì thâm tâm chúng ta thì cho là người khác già. Chúng ta không vui vẻ chấp nhận là mình già. O.W. Holmes nhận xét: “Người ta giật nẩy mình khi lần đầu tiên nghe người ta bảo mình già”. 50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: “Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!” Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thóa mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Bà de Sevigne phẫn nộ khi đọc mấy từ: “Chị già rồi” trong bức thư của bà de La Fayette muốn thuyết phục bà trở về Paris. Ngày 30 tháng mười một 1689 bà phàn nàn tình hình ấy với con gái: “Vì mẹ chưa thấy hiện tượng suy sụt nào khiến mẹ phải nhớ lại. Nhưng mẹ thường có những suy nghĩ và ước tính và mẹ thấy cuộc sống khá gian khổ. Hình như mẹ thấy mặc dù mình không muốn, mẹ vẫn bị lôi kéo tới cái điểm tất yếu phải chịu cảnh già nua; mẹ đã trông thấy nó, và mẹ muốn chí ít cũng không muốn đi xa thêm trên con đường bệnh tật, đau đớn, mất trí nhớ, gương mặt bị biến dạng hầu như https://thuviensach.vn lăng nhục mình và mẹ nghe một giọng nói cất lên: “Dù không muốn, cũng cứ phải cất bước đi thôi, hoặc nếu không muốn, thì đành phải chết đi vậy” − cái bước tận cùng ấy mà ai nấy đều ghê tởm −. Thế nhưng đây là số phận của tất cả những gì tiến bước lên quá đi chút đỉnh”. 68 tuổi, Casanova trả lời thẳng thừng với một phóng viên gọi ông là “ông già đáng kính”. “Tôi chưa đến cái tuổi khốn khổ không còn có thể có tham vọng sống nữa”. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy kể lại với Léautaud: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước. Một hôm, bất ngờ bước vào một căn phòng, Proust thảng thốt khi bỗng nhiên thấy thay vì người đàn bà mà ông không hề biết đến tuổi tác, là một bà cụ rất già. Trước chiến tranh, một người bạn của Sartre cũng đi du lịch với chúng tôi báo tin lúc bước vào phòng ăn một khách sạn: “Tôi vừa gặp ông bạn Pagniez của anh cùng đi với một bà già”. Chúng tôi sững sờ, vì chưa bao giờ nghĩ bà Lemaire có thể là một bà già: quả đấy là bà Lemaire. Một ánh mắt xa lạ đã biến đổi bà thành một người đàn bà khác. Tôi linh cảm đối với bản thân mình, thời gian cũng sẽ chơi những vố kỳ cục. Nỗi kinh ngạc còn xót xa hơn khi chúng ta đứng trước những con người cùng tuổi với mình. Mỗi một người đều trải qua cuộc thử nghiệm này: bắt gặp một người mình chỉ biết sơ sơ và nhìn ta với một ánh mắt bối rối. Ta tự bảo: người kia đã đổi khác! Hay ta đã đổi khác! Sau khi dự một đám tang ngày 25 tháng hai 1945, Léautaud nói lên điều khủng khiếp nhất là “trông thấy những con người mình quen biết, nhưng đã năm sáu năm nay không gặp nên không thấy già đi từng ngày, và vì vậy, khi gặp lại, bỗng thấy người đó già thêm năm sáu tuổi. Cảnh tượng thật hãi hùng, nhưng rõ ràng biểu hiện trước chính đôi mắt mình!” Và chúng ta kinh ngạc xiết bao trước một vài tấm ảnh! Chúng ta thử đọc đoạn văn dài trong Đi tìm thời https://thuviensach.vn gian đã mất trong đó Proust kể lại tình hình khi ông bước vào phòng khách của quận chúa de Guermantes sau nhiều năm xa cách: “Thoạt đầu, tôi không hiểu vì sao tôi ngập ngừng không muốn nhận biết vị chủ nhà, các tân khách, và vì sao mỗi người “lại có một mái đầu” nói chung xức phấn và làm họ thay đổi hoàn toàn. Vị hoàng thân thì... Mang một bộ râu cằm bạc trắng và, chân dận đôi giày nặng trịch như đúc bằng chì, có vẻ như đại diện cho một trong các Lớp tuổi của cuộc đời. Người kể chuyện thường thấy khó thống nhất cái hình ảnh trước mắt với ký ức của mình, và khi trông thấy Bloch chẳng hạn, không sao liên kết nổi “dáng dấp yếu ớt, ủ rũ của ông già trước mắt mình với nhiệt tình cường tráng của con người kia thuở thiếu thời. “Người ta nhắc đến một cái tên và tôi sững sờ khi nghĩ rằng nó được áp dụng vừa cho cô gái tóc hung nhảy điệu vanxơ tôi từng quen biết ngày trước, vừa cho vị phu nhân nặng nề, mái tóc bạc trắng lệt bệt đi cạnh mình”. Một số người vẫn giữ gương mặt hầu như nguyên vẹn ngày trước, nhưng “lúc đầu người ta ngỡ họ đau chân, và về sau mới hiểu là tuổi già đã gắn cho họ một cặp chân chì”. Những người khác nữa “không phải là những ông già mà là những chàng trai mười tám cực kỳ tàn tạ”. Proust có cảm giác “dự một buổi lễ hóa trang, trông thấy những con búp bê đẫm mình trong những màu sắc phi − vật chất của năm tháng, những con búp bê thể hiện thời gian ra bên ngoài”. Đấy là điều nổi bật hơn cả: có thể nói thời gian có thể trông thấy được bằng đôi mắt trần. “Dáng vẻ hoàn toàn mới của một con người như ông d’Argencourt, thể hiện trước mắt tôi một cách kỳ lạ cái hiện thực hiển hiện nhưng thông thường vẫn trừu tượng đối với chúng ta... Chúng ta có cảm giác mình theo cùng một quy luật với những con người đã từng biến đổi kia... Theo những sự biến đổi xảy ra ở tất cả những con người ấy, lần đầu tiên, tôi nhận thấy thời gian đã trôi qua đối với họ, và điều đó làm tôi choáng váng khi nhận ra thời gian cũng đã trôi qua đối với mình”. Vả lại, bà de Guermantes gọi ông là: “Người bạn cũ của tôi”. Một ai đó nói với ông: “Ông, một ông già Paris”. Trong buổi dạ hội ấy, ông tin chắc về tuổi tác mình: “Chúng ta không trông https://thuviensach.vn thấy dáng dấp, tuổi tác của chính mình, nhưng mọi người, giống như trong một tấm gương soi đối diện, trông thấy dáng dấp, tuổi tác của người kia”. Một hôm, ở Rome, tôi chứng kiến một sự biến đổi ngược chiều: một phụ nữ Mỹ cao lớn tuổi 60 ngồi ngoài hiên một tiệm cà phê trong lúc tôi cũng có mặt ở đây. Nói chuyện với một bà bạn, bà ta bỗng nhiên bật cười, một tràng cười lanh lảnh của thiếu phụ làm bà biến đổi và đưa tôi trở lại hai chục năm về trước, ở California, nơi tôi từng quen biết bà. Cả ở đây nữa, sự co lại đột ngột của thời gian cho tôi thấy với một sự hiển nhiên xót xa sức phá hoại của nó. Những tên tuổi lừng danh ngày trước cùng thời với mình, tôi thường bắt gặp trên màn ảnh hay trong họa báo gương mặt ngày nay của họ; tôi giật nảy mình khi trông thấy lại trong những bộ phim hay trên những tờ báo cũ vẻ tươi mát bị lãng quên của họ. Dù muốn dù không, rốt cuộc, chúng ta khuất phục trước quan điểm của người khác. 70 tuổi, Jouhandeau tự trách móc mình: “Trong một nửa thế kỷ, tôi không ngừng cho là mình ở tuổi 20. Đã đến lúc phải từ bỏ sự chiếm đoạt ấy”. Nhưng sự “từ bỏ này đâu dễ dàng đến thế. Chúng ta vấp phải một thứ gây tai tiếng về tinh thần: chúng ta phải chấp nhận một hiện thực vốn dứt khoát là chính bản thân mình, dù nó tới với chúng ta từ bên ngoài và chúng ta không thể nắm bắt được. Có một mâu thuẫn không thể vượt qua giữa sự hiển nhiên sâu kín bảo đảm sự hiện diện thường trực của chúng ta và niềm tin tưởng khách quan đối với sự biến đổi của mình. Chúng ta chỉ có thể giao thoa giữa hai trạng thái ấy, chứ không bao giờ có thể giữ chặt được chúng lại với nhau. Sở dĩ như vậy là vì tuổi già thuộc về cái phạm trù mà Sartre[4] gọi là: những cái không thể thực hiện được. Số lượng của chúng là vô tận vì chúng là mặt trái của hoàn cảnh chúng ta. Cái mà chúng ta là cái đó đối với người khác, chúng ta không thể thể hiện nó theo phương thức cái tự thân. Cái không thể thực hiện được, chính là cái “thực thể của tôi ở cách bức vốn hạn định mọi sự lựa chọn của mình và là mặt trái của chúng”. Là một phụ nữ Pháp, là nhà văn nữ, là người đàn bà tuổi 60: giữa thanh thiên bạch nhật, vị trí ấy của tôi là một hình thái khách quan tôi không nắm bắt được. Nhưng https://thuviensach.vn cái không thể thực hiện được chỉ xuất hiện với tư cách ấy dưới ánh sáng của một dự định nhằm thực hiện nó. Là người phụ nữ Pháp ở trên đất Pháp, không có gì thúc đẩy tôi băn khoăn về ý nghĩa của sự định danh ấy; giá ở nước ngoài hay ở một nước thù địch, thì quốc tịch của mình có thể là vấn đề đối với tôi và ắt hẳn tôi phải có thái độ đối với nó: đòi hỏi nó, che giấu nó, lãng quên nó v.v... Trong xã hội chúng ta, người già được coi là người già vì tập tục, vì thái độ của người khác, vì chính bản thân từ vựng: người già phải chấp nhận hiện thực ấy. Có vô số cách để làm việc ấy, nhưng không có cách nào khác cho phép tôi trùng khớp với hiện thực mình chấp nhận. Tuổi già ở phía bên kia cuộc đời mình mà tôi không thể có một kinh nghiệm nội tâm đầy đủ nào hết. Nói một cách khái quát hơn, cái tôi của tôi là một khách thể siêu nghiệm (objet transcendant) không nằm trong ý thức tôi và chỉ có thể nhằm tới từ xa. Mục tiêu ấy được thực hiện qua một hình ảnh: chúng ta tìm cách tự hình dung mình là ai, qua nhận thức của người khác về chúng ta. Bản thân hình ảnh ấy không nằm trong ý thức: nó là một chuỗi ý đồ hướng tới một đối tượng vắng mặt. Nó mang tính chất chủng loại, mâu thuẫn nhau và mơ hồ. Nhưng có những thời kỳ nó đủ cho chúng ta tin chắc về hình tích (identité) của mình: đó là trường hợp các trẻ em, nếu chúng cảm thấy được yêu mến. Chúng mãn nguyện với những gì phản ánh chính bản thân mình qua lời nói và hành động của người thân; chúng làm theo cái đó. Bắt đầu tuổi thiếu niên, hình ảnh ấy bị tan vỡ: cái vụng về của tuổi dậy thì bắt nguồn từ chỗ người ta không biết ngay tức thì thay thế hình ảnh ấy bằng cái gì. Lúc bắt đầu tuổi già cũng xảy ra một tình hình do dự tương tự. Trong cả hai trường hợp này, các thầy thuốc tâm thần nói tới chuyện “khủng hoảng về sự tự nhận định mình”. Nhưng có những sự khác biệt lớn. Cậu thiếu niên biết mình trải qua một giai đoạn chuyển tiếp; cơ thể cậu ta biến đổi và gây khó chịu. Còn người cao tuổi thì cảm thấy mình già qua những người khác trong lúc không cảm thấy những sự biến đổi quan trọng[5]; trong thâm tâm, họ không tán thành cái nhãn hiệu gắn chặt vào mình: họ không còn biết mình là ai nữa. Trong Xử tử, Aragon tượng trưng sự không hay biết ấy và https://thuviensach.vn nỗi hoang mang do nó gây nên: nhân vật không còn thấy hình bóng mình trong gương nữa; không thể tự nhận ra mình nữa. Cần tìm kiếm lý do của hiện tượng bất cân xứng ấy trong cái vô thức của những người trong cuộc. Freud từng nói như vậy: cái vô thức không phân biệt giữa cái chân và cái giả; nó là một tập hợp những niềm ao ước theo một cấu trúc nhất định; nó không mang tính chất suy ngẫm (réflexif). Nhưng nó có thể gây trở ngại hay không đối với sự suy nghĩ. Nó không ngăn cản quá trình chuyển dịch của cậu bé thiếu niên sang tuổi trường thành. Thật vậy, bản năng giới tính của người trưởng thành đã được dự báo trong bản năng ấy của chàng thanh niên, thậm chí của đứa trẻ. Nói chung, hai lớp tuổi này cho quy chế của người trưởng thành là điều đáng ao ước vì nó sẽ cho phép họ thõa mãn dục vọng của mình. Chàng thanh niên thì có những nỗi ám ảnh về nam tính, và cô thiếu nữ mơ màng về nữ tính sau này của mình. Trong các trò chơi, trong những câu chuyện họ kể cho nhau nghe, họ thích thú tiên đoán tương lai ấy. Trái lại, người trưởng thành liên kết tuổi già với những nỗi ám ảnh thiến hoạn. Và như nhà tâm phân học Martin Grotjhan nhấn mạnh, cái vô thức của chúng ta không biết tới tuổi già. Nó duy trì ảo tưởng về một sức thanh xuân vĩnh hằng. Khi ảo tưởng bị lung lay, thì kết quả là xảy ra đối với nhiều người một sự chấn thương về tinh thần quá tự say mê mình (traumatisme narcissique), dẫn tới một hiện tượng rối loạn tâm thần khiến người ta suy sụp (psychose dépressive). Chúng ta thấy rõ nguyên nhân sự “kinh ngạc”, ngỡ ngàng của người già nói chung khi “phát hiện” ra tuổi tác của mình. Trong phạm vi những điều không thể thực hiện được bao quanh chúng ta, đó là điều chúng ta muốn thực hiện khẩn trương nhất, và cũng là điều chúng ta kinh hãi nhất, dù tự giác hay không tự giác. Tình hình này cho phép chúng ta hiểu được thái độ của người già đối với hoàn cảnh của họ, những thái độ thoạt tiên thường khiến chúng ta bối rối. Người ta có thể sớm thừa nhận là mình già hay cho là mình trẻ mãi mãi, vì người ta không trải qua tuổi tác theo phương thức cái tự thân, vì chúng ta không có một kinh nghiệm trong suốt về tuổi tác như kinh nghiệm https://thuviensach.vn về điều mình suy nghĩ (le cogito). Những sự lựa chọn này thể hiện quan hệ tổng quát của chúng ta với thế giới. Lúc còn trẻ, Baudelaire nói lên nỗi chán ghét của mình đối với thế giới khi ông viết: “Dù có sống sáu nghìn năm, tôi cũng không có nhiều kỷ niệm hơn lúc này”. Do hoàn cảnh gia đình, cuộc sống của Flaubert đầy gian nan, vất vả. Từ nhỏ, ông đã tuyên bố là mình “già”. 54 tuổi, khi người chồng của cô cháu họ có nguy cơ bị phá sản, ông lo sợ họ phải bán mất Croisset và tỏ ra tuyệt vọng: “Tôi không chịu nổi nữa! Tôi cảm thấy mình kiệt sức. Những giọt nước mắt phải kìm nén làm tôi nghẹt thở và tôi gần như rơi xuống vực thẳm. Caro tội nghiệp của chú, sự phá sản của cháu làm chú đau lòng, sự phá sản hiện nay và cả tương lai. Chẳng có gì vui thú khi bị suy sụt”. Đây là một cuộc suy sụt về kinh tế làm ông lo sợ và cảm thấy ô nhục. Và ông vội liên kết với một sự suy sụt về sinh học do tuổi tác gây nên: “Cuộc sống chẳng có gì thú vị và tôi bắt đầu một tuổi già ảm đạm”. Croisset được cứu thoát, nhưng phụ thuộc vào người cháu rể vốn có quan hệ không tốt đối với ông và luôn luôn lo sợ bị phá sản, ông không làm việc được nữa, trở nên ốm yếu; ông khóc, ông run rẩy: “Tôi coi mình như người đã chết. Tôi muốn chết càng sớm càng tốt vì đã kiệt sức và giả dụ có một trăm tuổi cũng không già như thế này”. Rồi lại nói: “Ở tuổi tôi, người ta không bắt đầu lại nữa: người ta kết thúc, hay nói đúng hơn, người ta suy sụt”. Ông lại tiếp tục sáng tác được. Nhưng vẫn cảm thấy bị tuổi tác đè nặng rồi chết sớm. Nếu mệt mỏi vì nghề nghiệp, vì cuộc sống, thì người ta cho là mình già nua mặc dù hành vi không phải là hành vi của một người cao tuổi. Ekip của giáo sư Bourlière nghiên cứu một nhóm 107 giáo viên − 52 phụ nữ và 55 người đàn ông − gần 55 tuổi; 40% có vẻ trẻ hơn tuổi; chỉ có 3% có vẻ già hơn tuổi. Hoạt động trí tuệ và xã hội rất sôi nổi. Nhưng sức dẻo dai thể chất thấp hơn mức trung bình; họ phàn nàn về sự mệt mỏi thần kinh; tự đánh giá mình một cách bi quan và cho là mình già nua. Sở dĩ như vậy là vì nghề dạy học rất mệt mỏi về thần kinh. Làm việc quá sức, căng thẳng, họ cảm thấy mệt mỏi một cách xác đáng và ý nghĩ bị hao mòn kéo theo ý nghĩ già nua. https://thuviensach.vn Thông thường, người ta vận dụng khoảng cách giữa cái tự ta (en-soi) và cái cho ta (pour-soi), mong đạt tới tuổi thanh xuân vĩnh viễn mà cái vô thức của mình mong ước. Ở Mỹ, năm 1954, một êkip do Tuckmann và Lorge lãnh đạo phỏng vấn 1.032 người ở các lứa tuổi khác nhau, để tìm hiểu họ cảm thấy trẻ hay già. Xung quanh tuổi 60, chỉ rất ít người nhận là mình già; sau tuổi 80, 53% cho là mình già; 36% nhận mình ở lứa tuổi trung niên; 11% cho là mình vẫn trẻ. Gần đây, cũng trả lời câu hỏi như trên, phần lớn những người ở trong một khu nhà do C.N.R.O. Thành lập đều trả lời: “Tôi hoàn toàn không thấy là mình già... Tôi không bao giờ nghĩ tới tuổi già... Tôi không bao giờ đến khám thầy thuốc... Tôi còn 20 năm nữa. Về mặt này, nói tới chứng mù tâm thần (cécité psychique), tới hiện tượng bảo vệ tri giác (défense perceptuelle) − như một vài nhà tâm lý học thường làm − là không đủ. Mặc dù vẫn có thể có một tình trạng mù quáng như vậy. Có tình trạng này vì mọi thứ không thể hiện thực hóa được đều khuyến khích người ta khẳng định như vậy. “Đối với tôi, thì tình hình không phải như vậy”. Đối chiếu mình với những người cùng lứa tuổi, người ta muốn, tự xếp mình vào một lớp người khác họ, vì chỉ trông thấy họ từ bề ngoài. Một phụ nữ ở trong khu nhà của C.N.R.O. Nói: “Tôi hoàn toàn cảm thấy già; thỉnh thoảng, tôi giúp đỡ các bà già; và rồi bụng bảo dạ: nhà ngươi cũng thế, nhà ngươi cũng là một bà già rồi”. Một cách bột phát, đứng trước các bà già khác, bà thấy mình không có tuổi; phải cố gắng suy nghĩ, bà mới đồng hóa trường hợp của mình với trường hợp của họ. Khi nhận thức ra điều này, bà “mày tao chi tớ” với chính mình, thì đó là điều có ý nghĩa: bà ta nói với người khác, cái người khác mà chính bà là người khác ấy đối với những người khác, nhưng bản thân bà lại không có nhận thức trực tiếp nào về người khác ấy. Đối với người cảm thấy ở đúng vị trí của mình và mãn nguyện với vị trí ấy, lại có quan hệ tốt với những người xung quanh, thì tuổi tác vẫn trừu tượng. Đó là điều Saint-John Perse muốn nói khi ông viết trong một bài thơ: “Hỡi thời gian cao thượng, ngươi đã dối trá... Thời gian được tính đếm theo năm tháng, không hề là thước đo những ngày chúng ta đang sống”. https://thuviensach.vn Gide, người giữ “Nguyên vẹn năng lực thể chất và tâm thần, viết ngày 19 tháng sáu 1930: “Tôi phải rất cố gắng để tự thuyết phục mình là ngày nay tôi ở lớp tuổi của những người mà tôi cho là rất già nua khi tôi còn trẻ”. Không hề có gì buộc chúng ta phải thừa nhận trong thâm tâm hình ảnh do người khác cung cấp và khiến chúng ta khiếp hãi. Vì vậy, chúng ta có thể phủ nhận hình ảnh ấy bằng lời nói và cả hành vi nữa[6]. Đây là một sự lựa chọn thông thường của một số phụ nữ hoàn toàn dựa vào nữ tính của mình và cho tuổi tác triệt để làm mất bản chất. Qua trang phục, hóa trang, điệu bộ, họ tìm cách lừa gạt người khác, nhưng chủ yếu tự thuyết phục mình một cách cuồng loạn là mình thoát khỏi quy luật chung. Họ bám chặt ý nghĩ là “cái đó chỉ xảy tới đối với người khác”, là đối với họ vốn không phải là những người khác, “cái đó không giống như thế”. Bất kỳ ai kiêu hãnh về sự sáng suốt của mình đều bác bỏ ảo ảnh ấy, nhưng nó không ngừng tái sinh nên phải không ngừng chống lại nó. Trong nhiều thư từ, bà de Sévigné nói tới cuộc đấu tranh ấy. Lúc còn trẻ, bà nói tới “tuổi già khủng khiếp”, về sau, bà thất vọng trước sự suy sụt của người khác. Ngày 15 tháng tư 1685, bà viết: “Trời đất! Bảo vệ cái cặn bã của tinh thần và của cơ thể thì thật là nhục nhã, và để lại một ký ức đáng được duy trì sẽ thú vị hơn nhiều là làm nó hư hỏng và biến dạng vì tất cả những sự khốn khổ mà tuổi già và những cảnh tàn tật mang tới cho chúng ta! Tôi sẽ yêu mến những xứ sở mà ở đó, vì tinh thần thân thiện, người ta giết chết bố mẹ già nếu họ tập làm quen với đạo Cơ đốc”. Năm năm sau, bà biết mình không còn trẻ nữa, nhưng bà phải tìm lý lẽ để tự thuyết phục mình. Sau một buổi dạo chơi trong một ngày xuân đẹp trời khiến bà hoan hỉ, ngày 20 tháng tư 1690, bà viết: “Thật đáng tiếc là một ngày vui vẻ, trẻ trung như vậy chẳng để lại cho mình gì hết: “Nhưng, than ôi! Khi tuổi tác làm ta lạnh giá Thì những ngày vui có trở lại bao giờ!” “Buồn thật đấy, nhưng tôi thích thỉnh thoảng tự chế giễu mình, để hành hạ trí tưởng tượng còn chất chứa những điều tầm phào và những niềm https://thuviensach.vn vui thú cần phải chối từ, tuy có khi người ta gọi đó là những điều vô hại”. Và ngày 26 tháng tư 1695, bà viết tiếp: “Chưa hề có gì thông báo cho tôi biết tuổi tác của mình, nhưng thỉnh thoảng tôi ngạc nhiên về sức khỏe bản thân; tôi đã chữa khỏi hàng nghìn điều bất tiện nho nhỏ ngày trước; chẳng những tôi tiến bước từ từ tựa một con rùa, mà còn sẵn sàng tin là sức khỏe mình như của một con tôm sống; tuy vậy, tôi cố gắng để khỏi bị những vẻ bề ngoài dối trá ấy lừa gạt”. Những sự giao thoa ấy, từ niềm tin sâu lắng đến hiểu biết khách quan, Gide thường hay nói tới trong Nhật ký. Tháng ba 1935, ông viết: “Giá có không ngừng tự bảo mình tuổi tác của mình, thì chắc hẳn, tôi cũng không cảm thấy tuổi tác ấy. Và dù có nhắc đi nhắc lại như một bài học thuộc lòng: mình đã quá tuổi 65, thì tôi vẫn khó tự thuyết phục mình điều ấy và chỉ một mực đinh ninh rằng: không gian để cho ham muốn và niềm vui, dũng khí và ý chí của mình còn có thể phát triển, cái không gian ấy chật hẹp lắm rồi. Chưa bao giờ chúng lại có nhiều yêu sách đến thế”. Ngày 17 tháng giêng 1943, ông viết: “Tôi không hề cảm nhận tuổi tác của mình, và chính vì không thực sự thuyết phục được mình về nó nên suốt ngày tôi tự bảo mình: Ôi ông già tội nghiệp, ông đã 73 rồi đấy”. Chừng nào cái cảm giác trẻ trung vẫn sống động trong thâm tâm thì sự thật khách quan về tuổi tác hình như là một vẻ bề ngoài; người ta có cảm giác mượn một chiếc mặt nạ xa lạ. Juliette Drouet viết thư cho Hugo, bảo đảm với ông là tình yêu của bà chống lại thời gian: “Bối cảnh đã đổi thay và em khoác vào mình vẻ ngụy trang của tuổi già”. Gide nói về vai trò, về trang phục. Ngày 6 tháng ba 1941, ông viết: “Tâm hồn tôi vẫn trẻ trung tới mức tôi luôn luôn thấy cái ông già bảy mươi không chút nghi ngờ gì nữa, chỉ là một vai trò tôi đóng; và những tật bệnh, những sự suy sụt nhắc tôi tuổi tác của mình khi tôi có thiên hướng né tránh. Lúc đó, như một diễn viên khéo léo mà tôi thủ vai, tôi phục hồi nhân vật của mình và tìm cách thể hiện cho tốt. https://thuviensach.vn “Nhưng phó mặc cho mùa xuân đang tới, có lẽ sẽ tự nhiên hơn nhiều đối với tôi; chỉ có điều là tôi cảm thấy mình không còn bộ trang phục cho cái đó nữa” Có quả là ông giả tạo đóng vai trò mà xã hội đòi hỏi ông phải đóng? Hay vì kinh hoàng tuổi già mà ông xem thái độ ông già bảy mươi tuổi của mình như một trò đùa? Dẫu sao thì tính không thể hiện thực hóa được của tuổi già cũng một lần nữa được khẳng định trong văn bản này. Nói tới hóa trang, trang phục, trò chơi, là một cách lẩn trốn vấn đề. Muốn thoát khỏi cơn “khủng hoảng tự nhận biết mình”, thì phải thành thực bám lấy một hình ảnh mới về chính bản thân chúng ta. Có những trường hợp người tráng niên xây dựng sẵn một hình ảnh khủng khiếp hay huy hoàng về tuổi già của mình: Swift, khi miêu tả những người Struddburg; Hugo, khi nhắc tới người Burgrave v.v.. Khi cần đến, họ viện dẫn, hay chí ít, cũng sử dụng hình ảnh ấy, nhưng nói chung, người ta bị bất ngờ và, để tìm thấy lại cách nhìn về bản thân mình, người ta buộc phải thông qua người khác: người ta thấy tôi thế nào? Tôi hỏi điều đó ở tấm gương soi của mình. Câu trả lời không chắc chắn: người ta nhìn chúng ta, mỗi người theo một cách, và nhận thức của chúng ta chắc hẳn không khớp với một nhận thức nào hết của họ. Mọi người đều thống nhất nhận thấy gương mặt của chúng ta là gương mặt một người già; nhưng đối với những người gặp lại chúng ta sau nhiều năm xa cách, thì gương mặt ấy đã thay đổi, đã tàn tạ; đối với những người xung quanh, nó vẫn là gương mặt của chúng ta; tính đồng nhất chiến thắng những sự biến chất; đối với những người xa lạ, đó là gương mặt bình thường của một người tuổi 60, tuổi 70. Còn đối với chúng ta? Chúng ta sẽ lý giải hình ảnh của mình, vui vẻ hay bực bội, hay một cách thờ ơ tùy theo thái độ tổng quát của mình đối với tuổi già. Voltaire có quan hệ tốt đẹp với tuổi già của mình tới mức ông đồng ý để Pigalle khắc tượng khỏa thân cho ông. Ông không ưa thích một chân dung nào trong số chân dung người ta từng tặng ông, và ý nghĩ một bức tượng bán thân mới đã bắt đầu làm ông khó chịu. Ông viết thư cho bà Necker: “Người ta bảo là ông Pigalle sẽ tới nặn khuôn mặt của tôi; nhưng, thưa bà, tôi phải có một khuôn https://thuviensach.vn mặt chứ: người ta khó có thể đoán định được vị trí của nó. Cặp mắt tôi thụt sâu tới ba put, đôi má như tờ giấy cũ không thể bám chặt vào những đốt xương không còn dính vào gì nữa hết. Vài bôn cái răng ít ỏi của tôi đã ra đi... Người ta chưa bao giờ tạc tượng một con người tội nghiệp trong tình trạng ấy”. Nhưng rốt cuộc ông chấp nhận. Trong lúc nghiêm khắc đánh giá vẻ ngoài của mình, ông vẫn bằng lòng với nó vì ông bằng lòng với cuộc sống nói chung của ông. Trong văn học cũng như trong đời sống, tôi chưa hề gặp một người phụ nữ thích thú với tuổi già của mình. Vì vậy, chưa bao giờ người ta nói tới bà già đẹp lão”; tốt nhất thì cũng chỉ nói: “Một bà già duyên dáng[7]!”. Trong lúc đó, người ta ca ngợi một số “ông già đẹp lão”; đàn ông không phải là một con mồi; người ta không đòi hỏi ở họ vẻ tươi mát, dịu dàng, duyên dáng, mà là sức lực và trí tuệ của người già tóc bạc, da nhăn không mâu thuẫn với lý tưởng nam tính ấy. Bức tranh Moïse của Michel-Ange, hình ảnh Booz trong thơ Hugo gợi lên những tấm gương tôn thêm vẻ đẹp ngoài đời. Ông nội Sartre, như tác giả miêu tả trong cuốn Từ ngữ, giống gương mặt vị lão trượng có quyền lực và khôn ngoan. Cụ luôn luôn hài lòng với bản thân mình; cụ có một sức khỏe tuyệt vời. Cụ khoan khoái trong vai trò người chú được tôn kính, người ông được yêu thương, ông già có sức cuốn hút. Theo Sartre, cụ luôn luôn có cảm giác mình đứng cho một nhà nhiếp ảnh vô hình chụp: tức là cụ đóng những vai nhằm áp đặt cho những người khác một hình ảnh mà cụ cho là hình ảnh của mình. Ví dụ thú vị nhất về lòng tự yêu mến mình trong cảnh già láo, là ví dụ nêu lên trong Nhật ký của Léautaud: tôi sẽ nói tới ở phần sau, trong quan hệ với bản năng giới tính của tác giả. Ở tuổi 80, trong lúc cảm thấy sắp đến ngày suy yếu Jouhandeau vẫn nhìn hình hài mình với một ánh mắt tán thưởng. Trong tập Suy ngẫm về tuổi già và cái chết ông viết: “Dĩ nhiên tôi chưa phải là một thứ vứt đi. Thậm chí tôi vẫn còn tương đối trẻ trung mặc dù tuổi tác, vì tôi nhỏ bé, nói đúng ra là mảnh mai; nhưng chắc hẳn tôi nghi ngờ trong cơ thể vết rạn nứt”, cái bóng dáng héo hơn, những dấu hiệu của quá trình già lão mà tôi https://thuviensach.vn bắt đầu che giấu một cách thành kính. Tôi không còn có thể tự chiêm nghiệm mình mà không âu sầu”. Trong quan hệ với bản thân mình, Yeats, lúc tuổi đã cao, ngập ngừng giữa những thái độ đối lập nhau. Giữa lúc chan chứa vinh quang − ông nhận giải Nobel lúc 57 tuổi − ông xót xa đối với tuổi già; ông chỉ còn nhìn được một mắt và sợ điếc, nhưng chính bản thân sự kiện tuổi tác làm ông phẫn nộ: “Tôi mệt mỏi và bực tức vì tuổi già; tôi vẫn là tất cả những gì là tôi trước kia và thậm chí còn hơn thế, nhưng một kẻ thù đã trói tôi ở mức tôi có thể lập được kế hoạch và tư duy tốt hơn trước, nhưng không còn có thể thực hiện được những gì tôi dự kiến và tư duy”. Tuy vậy, ông vẫn còn làm được những câu thơ rất đẹp. Trong nhiều câu, ông bộc lộ sự giận dữ đối với tuổi già: “Ôi trái tim ta, trái tim xao động, ta biết làm gì với sự phi lý này, với cảnh tàn tạ mà người ta buộc chặt vào ta như vào cái đuôi một con cầy?” Điều làm ông điên tiết, là khía cạnh bất kỳ của cái tuổi già không sao có thể tránh khỏi ấy; cả ông nữa, ông cũng vấp phải nỗi nhục nhã của cái hiện thực không thể thực hiện nổi ấy, ông vẫn là ông, nhưng người ta phải chịu một cách đối xử bỉ ổi. Trong một trong những bài thơ cuối cùng, ông gợi lại người phụ nữ ông từng yêu mến ngày trước và miêu tả cặp vợ chồng ông ngày nay: hai con bù nhìn già tương phản một cách khủng khiếp với hình ảnh buổi thanh xuân của họ. Đó là một cảnh tượng kinh hoàng tới mức giá một người đàn bà có thể trông thấy đứa con như lúc nó ở tuổi 60, thì có lẽ bà không muốn sinh con. Nhưng ông lại thích thú đóng vai một ông già kỳ cục. Ông làm Viện hàn lâm Allen sửng sốt khi tuyên bố trong một diễn từ là ông sẽ biến thành một cánh bướm “và bay, và bay và bay”. Nếu ghét tuổi già của mình, thì người già sẽ cảm thấy kinh tởm trước hình ảnh của chính bản thân mình. Thất bại trên chính trường và không còn lừng danh nữa, Chateaubriand ghét tuổi già của ông. Ông nói: “Tuổi già là một cảnh chết đuối”. Khi một họa sĩ muốn vẽ chân dung mình, ông bảo một cách kiêu hãnh: “Ở tuổi tôi, không còn đủ sinh lực trên gương mặt một con người để có thể giao phó những cái tàn tạ của nó cho một nét bút”. Wagner kinh hãi thấy mình già đi: Nhìn thấy mình trong tấm gương một https://thuviensach.vn cửa hiệu, ông buồn bã nói: “Tôi không nhận ra mình qua mái đầu hoa râm kia: tôi đã 68 tuổi rồi sao?” Đinh ninh tài năng sẽ giải thoát mình khỏi không gian và thời gian, hình như ông cho là đáng phẫn nộ khi thấy mình được xác định, bị ngưng đọng và thâu tóm trong hình hài mình. Cảm thấy vẫn trẻ trung ở tuổi 70, nhưng về sau, Gide gặp khó khăn trong việc thích nghi với tuổi già của mình. 80 tuổi, ông viết trong Như thế đấy: “A! Điều quan trọng là mình không phải gặp chính mình trong một tấm gương soi: với cặp mắt có nếp nhăn, đôi má lõm, ánh mắt mờ. Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Khi Léautaud nói với ông về “cái điều khủng khiếp là trở nên già lão”, Valéry đáp: “Bạn chớ nói với tôi điều ấy, tôi không bao giờ nhìn mình trong gương, trừ phi để cạo mặt”. Thực ra, tuy tuổi tác, gương mặt của Valéry và của Gide vẫn đẹp. Chính sự đổi thay quan sát thấy trong gương soi thể hiện trước mắt tuổi già của họ, và họ ghét bỏ tuổi già này. Cũng giống như vậy, khi Aragon viết: “Và tôi khiếp hãi trông thấy trên hai bàn tay những vết lốm đốm vì tuổi tác”, không phải chính bản thân những cái vết này làm ông ghê tởm, mà chính là tuổi tác do chúng báo hiệu. Ronsard nói lên nỗi chán ngán vì tấm thân tàn tạ của mình. Người ta thấy ông luôn luôn căm giận tuổi già. Một năm trước khi qua đời − lúc đó ông mới 60, nhưng ở thời đại ông, đó đã là tuổi già − ông ốm đau và khó ngủ. Ông phàn nàn tình trạng ấy trong nhiều bài xonê. Trong một bài, ông xót xa tâm sự: “Khi chỉ còn là một bộ xương trần trụi Làm mồi cho cái chết không xót thương, Ta đâu dám nhìn đôi cánh tay mình nữa Để khỏi run lên bần bật nỗi kinh hoàng”. Bức tranh miêu tả xót xa nhất của một người già về chính bản thân mình là bức tranh của Michel-Ange. Ông bị dằn vặt bởi những nỗi đau đớn về hình hài và lo nghĩ. Ông viết một cách chua xót: https://thuviensach.vn “Tôi trở nên tàn tạ vì những công việc kéo dài, và nhà chiêu đãi mà tôi tìm đến để sống và ăn chung là cái chết. Khuôn mặt tôi giống một con bù nhìn. Tôi giống như những mảnh giẻ rách căng trên những cánh đồng ngày nắng hạn và đủ để làm đàn quạ kinh hãi. Trong một tai tôi thì một con nhện chạy, còn trong tai nữa thì một con dê ca hát thâu đêm. Bị chứng sổ mũi hành hạ, tôi không ngủ ngáy gì được”. Ông cũng viết trong một bài xonê: “Xưa kia đôi mắt chúng ta vẹn toàn Lung linh ánh sáng như những chiếc gương soi. Nay chúng rỗng không, nhạt nhòa và tăm tối. Thời gian mang theo nó chỉ có thế thôi”. Và trong một bức thư gởi Vasari, ông thổ lộ: “Gương mặt tôi khiến người ta trông mà khiếp sợ”. Trong bức chân dung tự họa dưới gương mặt thánh Barthélémy trong bức bích họa Lời phán xét cuối cùng, ông miêu tả Barthélémy giống như một mặt nạ bóng ma, ảm đạm, hầu như bị vây dồn, làm mồi cho một nỗi sầu muộn mà ông nhẫn nhục chịu đựng một cách khó khăn. Thật thú vị khi xem xét những bức chân dung tự họa của các họa sĩ cao tuổi: qua nét mặt mình, họ thể hiện mối quan hệ của họ với chính bản thân cuộc sống của mình và với thế giới vào lúc tổng kết cuộc đời. Ở tuổi 60, Vinci vẽ gương mặt mình thành một bản phúng dụ về tuổi già, râu tóc xõa ra tựa suối, đôi mi rậm rì nói lên một sức sống không suy suyển và thậm chí dữ dội; đường nét được khắc họa theo kinh nghiệm và tri thức; đó là những nét của một con người đạt tới điểm đỉnh của cường lực trí tuệ, vượt qua những nỗi vui, buồn; ông vỡ mộng, bên bờ vực của nỗi xót xa nhưng ông bỏ mặc. Suốt đời để lại trên tranh những gương mặt khác nhau của mình, Rembrandt thể hiện trong bức chân dung tự họa cuối cùng một thứ di chúc. Ông biết mình đã đạt tới điểm đỉnh nghệ thuật của mình; ông có phía sau mình một sự nghiệp sáng tác mà ông có quyền kiêu hãnh; ông https://thuviensach.vn đã làm những gì mình muốn làm và ông đã thắng cuộc; nhưng ông biết cái phần thất bại bao hàm trong mọi sự thành công, và nhìn mình trong gương, hình như ông hỏi hình bóng mình, thế nào? Le Tintoret tự họa mình năm 1588, lúc tuổi hơn 70. Sartre đã phân tích bức tranh này trong một tác phẩm không công bố, và cho rằng Le Tintoret cho chúng ta biết là ông thất vọng. Ông vẽ trên tranh “một nỗi mệt mỏi sững sờ, im lìm như cuộc đời ông, cứng đờ như các tĩnh mạch ông... Ông thể hiện trên tranh nỗi cô đơn của một xác chết... Ông tự hỏi mình: Ta, một họa sĩ lớn, họa sĩ lớn nhất của thế kỷ mình, ta đã dùng hội họa để làm gì?...” Nhưng với dáng dấp oán hờn biết chừng nào! Thay vì thu nhận, ông lên án. Lên án ai? Chắc hẳn là con người... Người ta tưởng chừng nghe ông nhắc đi nhắc lại một cách vô tận: “Tôi không hiểu”. Tuy nhiên; “ở ông vẫn có một cái gì đó buộc chúng ta giữ khoảng cách của mình; niềm kiêu hãnh khắc khổ trong nỗi thất vọng của ông”. Trong bức tranh tự họa của Titien ở tuổi 80 hay 90 (theo ngày sinh người ta dự đoán), vẻ mặt nghiêm trang và thanh thản của ông ra chiều khá ước lệ. Tôi chỉ biết một bức tranh tự họa của người già thật sự vui vẻ: bức của Monet tặng Clemenceau. Tuy vào một lúc nào đó, mắt ông có bị mờ và ông không phân biệt chính xác màu sắc nữa, nhưng ông không bao giờ ngừng vẽ: ông bổ khuyết những thiếu sót của tri giác bằng ký ức. Về sau, thị giác của ông trở lại hoàn toàn bình thường và ở vào tuổi cao nhất, ông cho ra đời những tuyệt tác kỳ lạ nhất. Có lúc ông nghi ngờ giá trị của sự nghiệp hội họa của mình nhưng đó là vấn đề thứ yếu: niềm vui hội họa chiếm ưu thế. Có một sức làm việc kỳ lạ, sức khỏe tuyệt vời được săn đón và yêu đời, đó là những nét ông tự thể hiện mình trong tranh, trong cái chúng ta có thể gọi là sự sung mãn của tuổi già: thẳng thắn, tươi cười, sắc da sáng sủa, bộ râu rậm rì, ánh mắt tràn đầy nhiệt tình và niềm vui. Chúng ta phải kể tới bức tranh tự họa của Goya lúc 70 tuổi. Ông phủ nhận tuổi tác mình; tự họa dưới những nét một người tuổi 50. *** https://thuviensach.vn Dù tìm thấy một hình ảnh ít nhiều có sức thuyết phục, ít nhiều làm chúng ta mãn nguyện, chúng ta vẫn phải trải qua tuổi già mà mình không thể thể hiện nổi. Và trước hết, chúng ta trải qua nó trong cơ thể mình. Không phải cơ thể ấy báo cho ta biết tuổi già; nhưng một khi chúng ta biết tuổi già nằm ở trong cơ thể, thì cơ thể ấy làm chúng ta lo lắng. Thái độ thờ ơ của người già đối với sức khỏe của họ mang tính chất bề ngoài hơn là thực sự; nếu xem xét kỹ, chúng ta tìm thấy ở họ nỗi ưu tư. Đôi khi nỗi ưu tư này dẫn tới bệnh tưởng. Thông thường, người nghỉ hưu chú ý tới cơ thể mình, mặc dù công việc không đòi hỏi sự chú ý ấy nữa. Họ phàn nàn về những nỗi đau đớn của mình để tự che giấu mình là họ đau khổ vì bị mất uy tín. Đối với nhiều người, bệnh tật được dùng làm cớ cáo lỗi cho sự sút kém từ nay là phần riêng của họ. Nó có thể là một sự biện minh cho thói lấy mình làm trung tâm: từ nay, cơ thể họ đòi hỏi tất cả mọi sự chăm sóc của họ. Nhưng những thái độ ấy được xác định trên một cơ sở lo âu thực sự. Một vài nhà văn cao tuổi thú nhận nỗi lo âu này. Trong Nhật ký, ngày 10 tháng sáu 1892, Edmond de Goncourt than thở: “Những năm hãi hùng, những ngày lo âu trong khi một nỗi đau nho nhỏ hay một chút khó ở khiến chúng ta nghĩ ngay tới cái chết”. Chúng ta biết là chống chọi những sự xâm lược từ bên ngoài có khó khăn hơn và chúng ta cảm thấy dễ bị tổn thương. Trong Nhật ký, Léautaud viết: “Điều không mấy thú vị ở một lớp tuổi nào đấy là hễ hơi khó ở tí chút, người ta vội tự hỏi có điều gì nguy ngập sắp xảy tới với mình đây”. Những hiện tượng suy sụt người ta nhận thấy, tự thân chúng cũng đã là đáng buồn; và chúng tiên báo những sự suy sụt khác nghiêm trọng hơn. Léautaud còn viết thêm: “Sự mòn mỏi, tàn phá, xuống dốc chỉ có thể mỗi lúc một thêm nghiêm trọng. Có lẽ đó là điều xót xa nhất trong cảnh già lão, đó là cái cảm giác không thể đảo ngược tình hình. Khi bệnh tật, người ta vẫn có hy vọng chữa chạy hay chí ít cũng ngăn chặn, không cho tiến triển. Một trường hợp tàn tật do tai nạn gây nên chỉ đóng khung trong bản thân nó. Còn những sự thoái hóa do già lão thì không thể chữa khỏi và chúng ta biết rõ là càng ngày chúng càng trầm trọng thêm lên”. https://thuviensach.vn Sự tàn phá này là tất yếu, không một ai thoát khỏi. Nhưng nó chậm hay nhanh, bộ phận hay toàn thể, có ảnh hưởng nhiều hay ít đối với toàn bộ cuộc sống thì còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Đối với những người hạnh ngộ có một phạm vi tự do nhất định nhờ vị trí của mình, tình hình ấy phụ thuộc nhiều vào cách thức người trong cuộc nắm lại vận mệnh của mình[8]. Thông thường, sức nặng của cơ thể không quan trọng bằng thái độ đối với nó. Rất mực lạc quan, Claudel viết trong Nhật ký: “Tám chục tuổi! Không còn mắt, không còn tai, không còn răng, không còn cẳng chân, không còn hơi thở! Và kỳ lạ thay, rốt cuộc, người ta cũng không cần tới chúng!”. Với vô số bệnh tật, một con người như Voltaire, mà cơ thể là một gánh nặng suốt đời, và từ thời trai trẻ đã tuyên bố là như người hấp hối, lại thu xếp ổn thỏa hơn ai hết. Lúc 70 tuổi và sau đó nữa, ông nói về mình trong khi tự cho mình là “ông già ốm đau”, rồi “ông lão 80 ốm đau”. Lúc đó, ông vận dụng quan điểm của người khác cho bản thân mình, nhưng không phải là không thích thú về vai trò của mình; khi đối với bản thân ông, chính cái tôi lên tiếng; ông cho mình đã quen với hoàn cảnh của mình: “Tôi đã đau khổ tám mươi mốt năm nay, và cũng trong tám mươi mốt năm nay, tôi đã thấy biết bao nhiêu người đau khổ và chết chóc xung quanh mình”. Ông viết: “Trái tim không già đi, nhưng đặt nó trong đổ nát thì thật là đáng buồn”. Ông nhận xét: “Tôi phải chịu tất cả mọi tai họa gắn liền với sự suy sụt”. Nhưng giàu có, vinh quang, được tôn kính, tích cực hơn bao giờ hết, và say mê những gì ông viết, ông chấp nhận hoàn cảnh của mình một cách thanh thản: “Quả là tôi có hơi điếc, hơi mù, hơi bị liệt, với ba hay bốn tật nguyền tồi tệ, nhưng không hề có gì làm tôi mất hy vọng”. Trái lại, những người khác làm tật nguyền của mình thêm trầm trọng vì oán hờn. Chateaubriand viết: “Thật là một nhục hình khi giữ nguyên vẹn thực thể tinh thần của mình bị cầm tù trong một cái vỏ bọc vật chất tàn tạ”. Lời than vãn này đáp lại lời than vãn của Voltaire. Chỉ có điều là Voltaire may mắn được sống trong sự hòa hợp hoàn toàn với thời đại ông và thậm chí tượng trưng cho nó, khiến ông có một niềm lạc quan đầy sức sống. Chateaubriand, mất hết uy tín cô đơn trong một thế kỷ không còn quan tâm https://thuviensach.vn tới ông không thoát khỏi những nỗi oán hờn. Tuy cho tới năm 1841, ông vẫn có thể sáng tác tập Ký ức bên kia thế giới (Mémoires d’outre-tombe), đọc lại và chỉnh lý tác phẩm cho tới tận năm 1847 − một năm trước khi qua đời -, ông vẫn để cho hình hài tàn tạ. Thái độ đắm chìm vào tuổi già vì nỗi kinh hoàng nó gây nên, các thầy thuốc khoa tâm thần gọi là “chứng chuốc thêm khổ vào mình” (“gribouillisme”). Người ta cường điệu tình hình lên. Hơi bị đau chân một chút, người ta làm như thể bị liệt; có phần bị lãng tai, người ta thôi không muốn nghe nữa. Những chức năng không được sử dụng nữa thoái hóa dần, và lúc đầu đóng vai trò người tàn tật, rốt cuộc, người ta trở thành tàn tật. Đó là một sự phản ứng phổ biến, do nhiều người già có thái độ oán giận, yêu sách, thất vọng một cách chính đáng. Họ trả thù người khác bằng cách cường điệu tình trạng bất lực của mình; trường hợp này thường xảy ra trong nhà thương điên: vì bị người ta bỏ mặc, họ tự bỏ mặc nốt và khước từ mọi sự nỗ lực nhỏ nhặt nhất; vì người ta không quan tâm tới họ, không chống lại xu hướng ấy nên cuối cùng nhiều người trở nên liệt giường. Đối với những người không chịu cảnh chìm đắm, thì già lão, tức là chiến đấu chống lại tuổi già. Đó là nỗi khắc nghiệt mới trong cuộc sống của họ: sống không còn phụ thuộc vào bản thân mình nữa. Ở tuổi 40, một con người khỏe mạnh không bị trói buộc về mặt sinh học. Họ có thể tận dụng sức lực của mình vì biết có thể nhanh chóng phục hồi. Nguy cơ bệnh tật hay tai nạn không làm họ khiếp hãi quá mức: trừ trường hợp cực kỳ nghiêm trọng, họ khỏi bệnh nhanh và trở lại như xưa. Người cao tuổi thì phải lượng sức; một nỗ lực quá mức có thể làm tim ngừng đập; một cơn bệnh có thể làm họ vĩnh viễn bị suy yếu; một tai nạn sẽ là vô phương cứu chữa hay chỉ chữa khỏi một cách chậm chạp vì vết thương phải rất lâu mới thành sẹo. Những chuyện ấy đã là chuyện cấm kỵ: chắc chắn họ sẽ bị đánh bại, và sẽ là lố bịch nếu có thái độ khiêu khích. Muốn tham dự một cuộc biểu tình, họ không thể chạy tương đối nhanh nữa và sẽ là một gánh nặng cho những người đồng đội trẻ hơn. Hoạt động trí óc hay chân tay, tập luyện, thậm chí giải trí cũng làm họ mệt mỏi. Thông thường người cao tuổi chịu những nỗi https://thuviensach.vn đau cụ thể hay mơ hồ khiến cuộc sống không còn hứng thú gì nữa. Colette bị bệnh thấp khớp hành hạ. Khi có người ca ngợi sự nổi tiếng, vẻ hạnh phúc rõ rệt của bà, bà đáp: “Đúng đấy, nhưng cũng có chuyện tuổi tác đây − Nhưng ngoài tuổi tác ra? − vẫn có vấn đề tuổi tác thôi mà”. Trong mười năm cuối đời, mẹ tôi rất đau đớn vì bệnh viêm khớp, mặc dầu mỗi ngày uống tới mười viên axpirin. Bà cụ, thân mẫu Sartre, hầu như không còn hứng thú với cuộc sống vì bị bệnh thống phong hành hạ. Dù người già nhẫn nhục chịu đựng những bệnh tật ấy, chúng vẫn xen vào giữa thế giới và họ; chúng là cái giá họ phải trả cho phần lớn hoạt động của mình. Vì vậy, họ không còn có thể nhượng bộ những ý muốn thất thường, tuân theo những sự thôi thúc của mình: họ băn khoăn về những hệ quả và bị dồn vào những sự lựa chọn. Nếu đi dạo chơi để thưởng thức một ngày đẹp trời, thì khi về, bị đau chân − nếu tắm thì bị bệnh viêm khớp đày đoạ. Muốn cất bước, muốn tắm rửa, họ thường phải có người giúp đỡ: ngần ngại đòi hỏi sự giúp đỡ ấy, họ đành chịu vậy. Hệ số nghịch cảnh của sự vật tăng thêm: cấp bậc thang khó bước lên hơn, các khoảng cách phải vượt qua dài hơn, đường phố phải đi lại, nguy hiểm hơn, những thứ phải mang xách, nặng nề hơn. Thế giới thì đầy rẫy cạm bẫy, gai góc. Không còn được phép lượn lờ nữa. Mỗi lúc, các vấn đề lại được đặt ra, và sai lầm bị trừng phạt một cách nghiêm khắc. Để thực hiện những chức năng tự nhiên, người già cần tới những thứ nhân tạo: kính mắt, tai giả, gậy. Léautaud ghi nhận: “Cả cái đó nữa, cả cái lô kính mắt trên bàn làm việc của tôi, cũng đều là tuổi già”. Điều chẳng may là phần lớn người già rất nghèo, không thể mua kính tốt, máy nghe tốt − rất đắt tiền; họ đành chịu tình trạng nửa mù, nửa điếc.Tự khép kín mình lại, họ rơi vào trạng thái trì trệ, khiến họ không còn nghĩ chuyện đấu tranh chống lại sự suy tàn. Một sự suy sụt bộ phận thường kéo theo một tình trạng buông xuôi mà sau đó, trên mọi bình diện, là một sự xuống dốc nhanh chóng. Đối với người già mà hoàn cảnh kinh tế còn tạo cho những khả năng này nọ, thì cách phản ứng lại những bất lợi của tuổi tác phụ thuộc vào những sự lựa chọn trước kia của họ. Những người suốt đời lựa chọn cái https://thuviensach.vn bình thường thì không khó khăn lắm trong việc giữ gìn sức khỏe. Tôi có biết một ông già hoàn toàn thích nghi với tuổi tác của mình: đó là ông nội tôi. Là người ích kỷ, hời hợt, giữa các hoạt động vô bổ tuổi trưởng thành và trạng thái không hoạt động trong những năm cuối đời, khoảng cách không lớn bao nhiêu. Cụ không phí sức, không lo nghĩ vì không lấy gì làm điều: sức khỏe cụ vẫn rất tốt. Dần dà, những buổi dạo chơi của cụ ngắn dần, cụ thường ngủ nhiều hơn trong khi đọc tờ Tin tức miền Trung. Cho tới lúc qua đời, cụ có cái mà người ta gọi là “một tuổi già tốt đẹp”. Chỉ có nghèo nàn về tình cảm và trí tuệ mới có thể chấp nhận trạng thái cân bằng buồn bã ấy. Có những người dành cả cuộc đời để chuẩn bị cho cái đó và cho đó là tuyệt đỉnh của mình. Cornaro, vị trưởng lão ở Vonidơ thế kỷ XVI, là như vậy. Với một sức khỏe tuyệt vời lúc 85 tuổi, ông là một tấm gương cho hậu thế trong tập chuyên luận ông viết vào thời kỳ ấy: Bàn về cuộc sống điều độ và quy củ. Ông nhấn mạnh sự tiết độ trong hưởng thụ khoái lạc, cách sử dụng khôn ngoan thời khóa biểu và nhất là tính thanh đạm trong chế độ ăn uống: trong hơn nửa thế kỷ, mỗi ngày, ông chỉ tiêu thụ 12 aoxơ thức ăn đặc và 14 aoxơ vang. Ông miêu tả cuộc sống giữa đám bè bạn, con, cháu quây quần xung quanh, thị giác và thính giác hoàn hảo, đọc sách, viết sách, cưỡi ngựa, săn bắn, đi du lịch. “Tôi thấy tuổi tác tuy cao vẫn là điều thú vị nhất và đẹp đẽ nhất trong đời mình. Tôi sẽ không đổi tuổi tác và cuộc đời mình lấy tuổi thanh xuân tươi tốt nhất”. Ông cho đó là phần thưởng vì đã biết thận trọng sử dụng những của cải trên đời. Thực ra, ông có ít ưu điểm hơn, chứ không hẳn như ông nói, vì hoàn cảnh ưu đãi ông một cách hào phóng. Ông có một tài sản to lớn, ở một ngôi nhà tuyệt vời giữa một khu vườn mênh mông. Ông sống gần một trăm tuổi và một trong những bà cháu họ khẳng định ông vẫn mạnh khỏe và thậm chí tráng kiện cho tới phút cuối cùng. Trên tất cả các mặt thận trọng, điềm tĩnh, tiết độ, Fontenelle cũng có cách sống đẹp trong tuổi già. Ông thầm thì khi sắp mất ở tuổi gần trăm: “Tôi chỉ cảm thấy một chút khó sống”. Một trong những người viết tiểu sử ông kể lại: Ông sinh ra yếu ớt, và để giữ gìn sức khỏe, “ông tránh hết sức https://thuviensach.vn thận trọng mọi xúc cảm”. Ông nổi tiếng về tính chất vô cảm. Một hôm, lấy tay chỉ vào trái tim ông, bà du Tencin bảo ông: “Bộ óc ông cũng ở cả đây nữa”. Thông minh, sắc sảo, say mê khoa học, ông mới 29 tuổi khi viết cuốn sách khiến ông nổi tiếng, cuốn Những cuộc đàm thoại về tinh đa nguyên của các thế giới (Les Entretiens sur la pluralité des mondes), và sau đó là nhiều công trình khác, ông không sáng tạo gì hết, ông chỉ phổ biến khoa học đương thời, nhưng với tài ba rất khéo léo. Ông được bầu vào Viện hàn lâm khoa học. Ông quan tâm và đề cập tới tất cả mọi thứ. Ông không ngần ngại tỏ rõ lập trường: ông bênh vực các tác giả hiện đại chống lại các tác giả cổ đại; ông phê phán tôn giáo. Nhưng ông vẫn giữ đầu óc tỉnh táo và tránh mọi sự quá sức. Ông đến với tuổi già trong lúc sức khỏe rất tốt và với lòng hoan hỉ. Theo ông, lớp tuổi hạnh phúc nhất là “từ sáu mươi đến tám mươi”, “ở tuổi này, lập trường người ta đã ổn định. Người ta không còn tham vọng; không ham muốn gì nữa hết và hưởng thụ những gì mình đã gieo vãi. Đó là lớp tuổi đã gặt hái xong”. Theo lời bà Geoffrin, lúc 82 tuổi, ông vẫn còn là một người nói chuyện kỳ lạ. Nhưng 88 tuổi, ông bị điếc; 94 tuổi, mắt ông kém nhiều. Các vị chủ nhà ông tới thăm buổi tối cho là ông quấy rầy. Swift là nạn nhân vừa của một nỗi bất hạnh về sinh lý học − khi ông mất, người ta thấy có nước trong sọ não, vừa của hoàn cảnh xứ Allen, và của những khuynh hướng đen tối của ông đối với loài người. Ông luôn có nhiều tham vọng, cay cú chuyện tiền bạc: sự nghiệp và tài sản ít ỏi khiến ông không mãn nguyện. Rất chú ý tới dư luận, ông dễ dàng cảm thấy mình bị công kích − nhất là vì có lúc quả là ông bị công kích thực sự. Mặc dù ông viết những lời ca ngợi chính bản thân mình, ông vẫn không tự yêu mến mình. Vì tất cả những lý do ấy, ông khinh ghét đồng loại, ông bày tỏ nỗi căm hờn khi miêu tả người Yahou rồi người Struddburg; qua những người này, ông vẽ nên những bức tranh khủng khiếp về tuổi già. Ông điên cuồng giãy giụa khi bị tuổi già xâm chiếm, ở tuổi 59, khi mất Stella, ông đã rất suy sụt: tai kém, chóng mặt: “Tôi luôn luôn rất ốm yếu, run rẩy và điếc lác... Và sẽ hoàn toàn vui lòng nếu được Thượng đế gọi”. Sau khi khẩn nài https://thuviensach.vn đảng Bình dân, đảng Bảo thủ, rồi lại đảng Bình dân, ông hy vọng nữ hoàng Caroline trao cho một chức vụ quan trọng ở Anh; nhưng ông bị thất sủng và từ Luân đôn, vĩnh viễn trở về Dublin. Hơn bao giờ hết, ông chán ngán thành phố này, “nơi dơ dáy nhất châu Âu”. 61 tuổi, ông viết bài đả kích chua cay nhất về con cái những người Allen nghèo đói. Sự chán ghét đối với thế giới và cuộc sống dữ dội tới mức hơn bao giờ hết ông cảm thấy cần phô bày nó ra bằng mực đen giấy trắng: chắc hẳn vì thế, ông chống lại sự suy tàn một cách quyết liệt, điên cuồng. Để chiến thắng bệnh điếc và những cơn chóng mặt, ông tự bắt buộc mình phải luyện tập: những buổi dạo chơi dài trên lưng ngựa hay đi bộ. Khi trời mưa, ông cuồng nhiệt đi lên đi xuống thang gác. Nỗi kinh tởm của ông đối với cơ thể con người được thể hiện qua những bài thơ đùa tục tĩu. Tuy sống giữa những người đàn bà đứng tuổi và bị các thiếu phụ cuốn hút, càng ngày ông càng khinh ghét phụ nữ. Nỗi oán giận vò xé ông. Trong một lời ghi chép, ông viết là sau khi nữ hoàng Anne qua đời, “những chức trách cao nhất trong Giáo hội rơi vào tay những kẻ dốt nát nhất; những kẻ cuồng tín nhất được mơn trớn, Allen hoàn toàn bị phá sản và rơi vào cảnh nô lệ trong lúc vài bốn bộ trưởng kiếm chác bạc triệu”. Sức khỏe ông suy tàn. Ngày 3 tháng tư 1733, ở tuổi 65, ông viết: “Những con chóng mặt ngày trước, khiến tôi ốm yếu từ một tháng nay tới mức tôi phải giao phó mình vào tay Deally và uống thuốc hàng ngày. Tôi loạng choạng trong bóng tối. Nhưng tôi phấn đấu và cười ngựa ít nhất mỗi tuần ba lần. Ngoài những tật bệnh này, tôi chỉ nói thêm là đã mất một nửa trí nhớ và mọi năng lực sáng tạo”. Và ngày 9 tháng mười 1733, viết tiếp: “Tinh thần tôi hoàn toàn sa sút”. Niềm an ủi duy nhất của ông là viết những bài văn đả kích ngày càng dữ dội; hình như đó là lý do ông khăng khăng muốn tiếp tục sống: ông không muốn thôi không căm hờn và bộc lộ nỗi căm hờn ấy. Ông viết một bài văn đả kích về một “dưỡng đường của những người bệnh nan y”; theo ông, người ta nhốt trong đó những kẻ dại dột không thể chữa khỏi, những đồ vô lại không thể chữa trị, những mụ ác mô vô phương cứu chữa, những kẻ không thể chữa trị thuộc nhiều loại khác nữa: cụ thể là một nửa dân tộc, và cả bản thân ông ta nữa. Phải chăng văn bản này thể hiện một niềm lo lắng cá nhân; phải chăng ông sợ trở thành https://thuviensach.vn người điên? Dẫu sao, ông cũng cảm thấy có những sự tương hợp với người điên vì ông đã di tặng toàn bộ tài sản cho nhà thương điên Dublin. Tất cả bạn bè ông đều đã chết; ông viết thư cho Pope: “Giờ đây, tôi chỉ còn có một mình anh: anh hãy cố gắng để sống sau tôi”. Khác xa niềm lạc quan của một La Fontaine, ông hoàn toàn có ý thức về sự sa sút trí tuệ của mình. Khi được chúc mừng 70 năm ngày sinh, ông nói một cách chua chát: “Tôi chỉ còn là cái bóng của bản thân mình”. Bệnh gut hành hạ ông. Ông không chịu được cảm giác mình bị sa sút, luôn luôn oán hờn và nghi ngờ mọi người có ác ý. Ông tiếp tục phẫn nộ chống lại đường lối của nước Anh đối với Alien. Khi Luân Đôn cho hạ mệnh giá đồng tiền vàng của Alien, ông kéo lá cờ đen lên tháp chuông Saint Pattrick. Năm 1742, ông đánh nhau với một trong các vị linh mục phụ tá của mình; lúc đó, một ủy ban tuyên bố: “Ông không còn sáng suốt về tinh thần và ký ức nữa”. Sau đó, ông còn sống vất vưởng ba năm. Là người đương thời và bạn của Emmerson, Whitman lấy cảm hứng thơ ca từ một chủ nghĩa lạc quan theo thuyết sức sống (optimisme vitaliste). Ông ca ngợi cuộc sống dưới mọi hình thức. Khi còn ở tuổi tráng niên, ông ca ngợi một cách trữ tình tuổi già. Chúng ta đọc trong Lá cỏ: Gửi tuổi già “Ta thấy người là một cửa sông càng đổ ra đại dương thì càng trải rộng một cách huy hoàng”. Bị một cơn cấp phát lúc 54 tuổi, ông ngồi bất động, hầu như bại liệt trên ghế phôtơi, mặc dầu vốn là người tràn đầy nghị lực và say mê thiên nhiên. Ông quyết định chịu đựng cơn thử thách một cách thanh thản. Với nghị lực cao, ông tập đi ròng rã ba năm. Lúc đó, ông sống ở nhà người em trai, trong thành phố nhỏ Camden; 65 tuổi, ông trở lại tương đối mạnh khỏe và sống một mình trong một ngôi nhà nhỏ. Một năm sau, sau một cơn say nắng, một cơn cấp phát mới khiến chân cẳng và xương cốt “biến thành chất giêlatin”. Ông cố giữ niềm vui sống nhưng cảnh sống cô đơn đối với ông là một nhục hình. Bạn bè − rất đông và rất yêu quý ông − biếu ông một cỗ xe https://thuviensach.vn ngựa; ông phát khóc lên vì sung sướng và ngay ngày hôm ấy, cho ngựa kéo xe chạy theo nước kiệu lớn trên đường phố: ông thấy con ngựa quá già và thay bằng một con khác, hăng hái hơn. Và trong nhiều năm, ông dạo chơi ở nông thôn. Cuối cùng, ông làm việc được hai, ba tiếng mỗi ngày, đọc báo và tạp chí, đón tiếp bạn bè và mọi tôi chủ nhật, đến ăn tối với một trong những người bạn ấy. Ông ít nói nhưng biết lắng nghe và người ta thích chuyện trò với ông. Thỉnh thoảng, để kiếm chút ít tiền, ông đọc sách trước công chúng. Ông tự chữa bệnh bằng cách tắm và xoa bóp. Ông kỷ niệm năm sinh lần thứ 69 cùng với nhiều bạn bè. Ông viết: “Đối với bản thân mình − trái tim linh hoạt còn đập trong lồng ngực. Hình hài già nua, bị liệt và tàn tạ, trơ ì như một tấm khăn lượm rủ xuống quanh tôi. Những ngọn lửa thiêu cháy trong giòng máu lờ đờ nhưng chưa ngừng chảy. Niềm tin vẫn nguyên vẹn, giữa bè bạn yêu thương”. Thơ ca, tình bạn, thiên nhiên vẫn còn là những lẽ sống khiến trái tim ông vẫn rộn ràng, mặc dù ông nhận biết cảnh suy tàn của mình. Nhưng hai ngày sau, ông lại bị một cơn cấp phát, và một ngày sau nữa là hai cơn khác. Toàn thân ông run rẩy, bập bẹ gọi tên những người bạn vắng mặt. Suốt một tuần, ông không chịu đi khám bệnh. Cuối cùng, thầy thuốc tới và giúp ông chữa bệnh. Ông viết: “Con tàu già nua không còn đủ sức làm những cuộc hành trình nữa. Nhưng cây cờ hiệu vẫn ở trên cột buồm và tôi vẫn cầm tay lái.” Thời kỳ dưỡng bệnh kéo dài; ông cảm thấy rất mệt mỏi, đắm chìm vào những cơn ngủ lịm. Nhưng ông vui mừng thấy đầu óc vẫn minh mẫn và sử dụng được cánh tay phải: “Giờ đây, khi tôi chỉ còn hai thứ ấy, chúng đối với tôi quý giá biết chừng nào!”. Ông bị bệnh tiểu đường, bị rối loạn tuyến tiền liệt và bóng đái, làm ông hết sức đau đớn. Ông phải bán xe ngựa và ngựa đi. Trong căn phòng nhỏ, bề bộn giấy tờ nhưng cửa sổ bao giờ cũng mở, ông vất vả lết mình từ giường tới phôtơi. Bạn bè mua tặng ông chiếc phôtơi lăn và Traubel-em đưa ông ra bờ sông Delaware, ông vốn https://thuviensach.vn thích ngắm cảnh, mặc dù mắt nhìn đã kém nhiều. Với sự giúp đỡ của Traubel, ông chữa bản in những vần thơ cuối cùng trong tập Cành nhánh tháng Một, và xuất bản toàn tập. Thỉnh thoảng, niềm lạc quan ngày trước trỗi dậy, và ông viết: “Nhưng khi cuộc đời xế bóng và mọi đam mê cuồng nhiệt nguôi ngoai... Thì lúc đó là những tháng ngày giàu có, tĩnh lặng và hạnh phúc nhất đời”. Ông cũng nói tới những “đỉnh cao chói lọi của tuổi già”. Chắc hẳn ông muốn tự thuyết phục mình; nhưng không phải vì vậy mà ngấp nghé tuổi 70, ông không thể ngăn mình tự vịnh một cách không vui: “Âu sầu, lải nhải và già nua, nhắc đi nhắc lại hoài với cái giọng rè rè, với những tiếng kêu của loài chim ó”. Người ta tổ chức long trọng sinh nhật lần thứ 70 của ông; và tổ chức thân mật kỷ niệm năm sinh 71. Sau đó, ông sống thêm hai năm. Swift, Whitman chịu những cơn rối loạn cơ thể; nhưng dù có được sức khỏe tuyệt vời, người già vẫn có cảm giác cơ thể mình nặng nề. Goethe làm những người đương thời kinh ngạc vì sức thanh xuân của ông. Chưa bao giờ dáng dấp ông thanh lịch hơn lúc tuổi 60. 64 tuổi, ông có thể ngồi trên yên ngựa sáu tiếng liền. 80 tuổi, ông không hề bị tàn tật; năng lực, trí nhớ vẫn nguyên vẹn. Dẫu sao, Soret, một người bạn thân, năm 1831, kể lại trong Nhật ký, vào năm 1831 − lúc này Goethe 82 tuổi “Hôm nay, tôi trải qua 15 phút buồn bã ở nhà Goethe. Ông tỏ ra mệt nhọc; ông cho tôi xem một cái gì đó và bước vào phòng ngủ. Một lát sau, ông quay ra trong trạng thái rất bồn chồn nhưng cố gắng che giấu, gương mặt đỏ lựng, vừa nói nhỏ vừa thở dài. Một hôm, trong lúc đọc diễn từ, ông bị một lỗ hổng trong trí nhớ; trong hai mươi phút, ông im lặng nhìn thính giả sững sờ trong sự kính trọng, rồi trở lại nói chuyện như thế không hề có. Chuyện gì xảy ra. Từ đó, trạng thái cân bằng bề ngoài của ông bị suy yếu nhiều. Cuối cùng, ông mệt mỏi nhanh và chỉ còn làm việc vào buổi sáng; ông thôi không đi du lịch nữa. Trong ngày, ông thường thiu thiu ngủ. https://thuviensach.vn Sức sống mãnh liệt của Tolstoï trở nên nổi tiếng: ông hết sức chăm chút nó. 67 tuổi, ông tập đi xe đạp và trong những năm sau, ông đi ngựa, đi xe đạp, đi bộ trên những chặng đường dài; ông đánh quần vợt tắm sống những ngày lạnh giá; mùa hè, ông cắt cỏ có khi trong ba tiếng liền, ông sáng tác Phục sinh viết Nhật ký và nhiều thư tín, tiếp khách, đọc sách báo, theo dõi thời sự. Năm 1859, khi Sa hoàng cho lính Kazăk chống lại giáo phái Đukhôbo, ông cho đăng ở Luân Đôn một bài báo dữ dội về cuộc đàn áp. Ông phát động một chiến dịch báo chí ở nước ngoài, kêu gọi lòng từ thiện của công chúng và nhận tiền nhuận bút để trao lại cho “ủy ban cứu trợ”. Ông vui vẻ kỷ niệm sinh nhật lần thứ 70. Bị hội đồng giáo hội tối cao Nga (saint-synode) rút phép thông công, người ta tổ chức nhiều cuộc biểu tình ủng hộ ông. Nhưng đến năm 1901, sức khỏe ông kém sút: ông bị bệnh khớp, đau đầu, có cảm giác nóng rực ở dạ dày. Ông gầy đi nhiều. Một cơn bệnh sốt rét khiến ông liệt giường. Ông chấp nhận ý nghĩ chết. Ông hồi phục và đi nghi ở Crimê. Ông đi dạo chơi bằng xe ngựa và bắt đầu cuốn tiểu luận: Tôn giáo là gì? Tchékhov bị quá trình già lão đeo đuổi. Ông viết thư cho một người bạn: “Bệnh tật chủ yếu của tôi, là cảnh già lão”. Năm 1902, ông bị viêm phổi, người ta lo sợ cho mệnh hệ của ông; nhưng từ trên giường bệnh, ông đọc cho Macha, con gái ông, viết những ý nghĩ, những bức thư. Khỏi bệnh, ông hết sức chăm chút sức khỏe, khiến Sonia bực mình: Bà ghi nhật ký: “Từ sáng chí tối, hết giờ này sang giờ khác, ông chỉ lo chăm sóc cơ thể”. Tháng năm, ông bị bệnh thương hàn: lần này nữa, ông cũng thoát chết. Nhưng − vẫn theo lời ghi của Sonia -, ông trở nên “một ông già nhỏ bé, gầy gò và tội nghiệp”, ông vẫn không bỏ cuộc chiến đấu ông bắt đầu đi dạo chơi, mỗi ngày một thêm dài hơn; bắt đầu tập lại thể dục, cưỡi ngựa. Và cũng bắt đầu sáng tác trở lại. Ông biên soạn một tuyển tập, nhan đề Tư tưởng- các nhà hiền triết, một vài truyện ngắn, hai vở kịch, một tiểu luận trong đó ông công kích Shakespeare mà ông vốn thù ghét. Ống tiếp tục viết cuốn tiểu thuyết Hadji Mourat bắt đầu từ 1890, phê phán nghiêm khắc chế độ chuyên chế. Năm 1905, ông viết những Bức thư công khai, một mặt cho Nicolas II, mặt khác cho những nhà cách mạng. Ông soạn Sách đọc cho trẻ em, viết cuốn Những lời dạy của chúa Giêxu có giải https://thuviensach.vn thích cho trẻ em và tổ chức những lớp học buổi tối cho con cái nông dân. Nhưng ông bị lương tâm cắn rứt vì trái ngược với tư tưởng của mình và tuy đã giao lại tài sản cho gia đình, ông vẫn sống với tư cách điền chủ. Những cuộc xung đột với Sonia ngày một thêm nhiều và khiến ông hoang mang. Mùa đông 1907-1908, ông bị ngất mấy lần kèm theo hiện tượng mất trí nhớ. Phẫn nộ vì vụ đàn áp những người khủng bố, ông viết thư phản đối và cảnh cáo bộ trưởng Stolypine. Ông kêu gọi công khai: Tôi không thể im lặng được nữa. Những cuộc hành quyết nông dân nổi loạn làm ông tuyệt vọng. Ông vừa nói vừa khóc: “Tôi không thể sống như thế này nữa!” Ông bị viêm tĩnh mạch, và một lần nữa người ta nghĩ ông sẽ chết; nhưng lại thoát nạn và ghi trong một cuốn sổ tay bảy đề tài tiểu thuyết mới. Lễ kỷ niệm sinh nhật thứ 80 của ông thể hiện một sự tôn kính đặc biệt, ông xúc động rơi nước mắt. Ông rời bữa tiệc, kiệt sức và khi đi nằm, bảo con gái là Macha: “Tâm hồn bố nặng nề lắm!”, nhưng ông ngủ yên lành. Những tháng sau, những buổi cãi vã với Sonia làm ông kiệt sức. Tháng chín 1909, ông đi Matxcova. Một đám đông đứng chật hai bên đường xe ông chạy qua và hoan hô ông. Khi xuống xe ở ga Cuôcxcơ, ông hầu như bị đè bẹp giữa đám đông ra đón trong sự bất lực của cánh sát; kinh hoàng, loạng choạng, hàm dưới run cầm cập, cuối cùng ông lên được toa tàu, ngồi phịch xuống ghế và nhắm mắt, kiệt sức nhưng sung sướng. Vài tiếng sau, ông bị ngất, mê sảng và lắp bắp; người ta nghĩ là ông sẽ chết. Nhưng không chịu khuất phục, ngày hôm sau, ông lên lưng ngựa, tiếp tục trở lại công việc sáng tác và thư tín. Ông viết cuốn truyện La Khodynka, và Lời nói đầu tác phẩm Những con đường đời. Ông trao đổi thư từ với Bernard Shaw, với Gandhi. Những mâu thuẫn trong cuộc đời, những cuộc cãi vã với Sonia trở nên không thể chịu nổi tới mức ông đi trốn. Đã từ lâu, ông ước mơ rời bỏ gia đình và của cải để sống cuộc sống khổ hạnh theo đòi hỏi của đạo lý ông theo đuổi. Quyết định ra đi ở lớp tuổi ông giả định một niềm say mê và một sức mạnh tâm hồn xứng đáng với một con người còn rất trẻ. Nhưng cơ thể ông là cơ thể một ông già; nó không chịu nổi những nỗi vất vả của cuộc hành trình và ông qua đời trong nhà một viên trưởng ga. Cả ông nữa, ông chỉ duy trì được sức khỏe và theo đuổi các hoạt động cho đến cùng nhờ một cuộc https://thuviensach.vn chiến đấu không ngừng chống bệnh tật và những hiện tượng suy yếu của tuổi tác. Từ tuổi 60, Renoir sống trong tình trạng nửa bại liệt. Ông không còn đi lại được nữa. Bàn tay ông cứng đờ. Nhưng ông tiếp tục vẽ cho tới lúc qua đời, thọ 78 tuổi. Người ta nặn các tuýp màu lên bảng màu cho ông, buộc chặt vào cổ tay ông chiếc bút vẽ được giữ bằng một găng ngón và do ông điều khiển bằng cánh tay. Ông bảo: “Người ta không cần bàn tay để vẽ”. Ông đi dạo chơi ở nông thôn trong một chiếc phôtơi lăn, hoặc nếu đường quá dốc, thì nhờ người bê trên cánh tay đến những nơi ông ưa thích, ông làm việc kinh khủng; giữ nguyên khả năng sáng tạo. Ông có cảm giác tiến bộ không ngừng và vì vậy rất vui mừng. Nỗi ân hận duy nhất của ông, là thời gian làm ông phong phú với tư cách nghệ sĩ cũng đồng thời là thời gian dịch ông lại gần nấm mồ. Năm 70 tuổi, Giovanni Papini vẫn còn mạnh khỏe. Ngày 9 tháng giêng 1950, ông viết thư cho một người bạn: “Tôi chưa tự mình cảm thấy cảnh già lão. Tôi luôn ham muốn học tập và ham muốn làm việc”. Đã từ lâu, ông miệt mài với hai cuốn sách mà ông cho là những cuốn sách quan trọng nhất đời mình: Lời Phán xét cuối cùng, mà năm 1945, ông đã viết xong 6.000 trang, và cuốn Quan hệ với con người, ông viết một cuốn sách về Michel-Ange và bắt đầu cuốn Quỷ sứ. Nhưng lúc ấy, ông bị bệnh xơ cứng cột bên teo cơ (sclérose latérale amyotrophique), thứ bệnh tất yếu dẫn tới liệt hành não (paralysie bulbaire) (nhưng chắc hẳn ông không biết). Là một người Cơ đốc giáo kính tín, ông cho đau khổ là một thứ giá trị tinh thần và phục tùng ý Chúa. Nhưng ông băn khoăn về hai công trình chưa hoàn thành: “Tôi cần đọc sách, đọc đi, đọc lại và cũng cần một cặp mắt mới, những ngày không ngủ, một nửa thế kỷ nửa để sống. Nhưng khốn thay, tôi hầu như bị mù lòa và hầu như hấp hối”. Ông đi lại hết sức khó khăn và rất mệt mỏi. Bệnh nặng thêm lên. “Ngày một mù thêm, một bất động thêm, một im lặng thêm... Tôi chết đi mỗi ngày một ít, từng liều lượng nhỏ một, theo công thức vi lượng đồng cân (formule homéopathique)”, ông không còn sử dụng được chân trái, rồi đến các ngón https://thuviensach.vn tay. Ông tâm sự: “Ý nghĩ không thể hoàn thành các tác phẩm đã bắt đầu làm tôi buồn bã”. Và quả vậy, ông không hoàn thành hai cuốn sách lớn. Đó là một công trình rất lớn, ông không thể biên soạn xong bằng cách đọc cho người ta chép. Ông chỉ đọc được đoạn cuối cuốn Quỷ sứ và những bài viết mang nhan đề Tiếng vang. Một trong những số bài viết ấy mang tên Hạnh phúc của những người bất hạnh, trong đó ông miêu tả tình trạng của ông và kể ra những lý do khiến ông không thể chịu nổi tình trạng ấy. Ông tuyên bố “Tôi luôn luôn mong muốn sự tuẫn đạo hơn là sự ngu xuẩn”, ông vẫn nói chuyện sôi nổi. Nhưng giọng ông mỗi ngày một thêm khó hiểu. Ông đặt ra một quy ước: ông gõ mặt bàn, một số tiếng gõ nào đó tương ứng với một chữ cái. Với một sự kiên nhẫn không thể tưởng tượng nổi, ông đọc từng chữ một. Ông yêu cầu đọc to lên cho ông nghe cho tới khi ông không còn hiểu nổi gì nữa. Thái độ bướng bỉnh của Renoir, của Papini có nguồn gốc trong niềm say mê đốt cháy tâm can họ. Nhưng có những người khác, tuy ít dấn sâu vào công việc, vẫn kiên quyết chống lại sự suy tàn bằng ý thức nhân phẩm. Họ sống những ngày tháng cuối cùng như một sự thách thức. Đấy là chủ đề truyện Ông già và biển cả của Hemingway. Một lão ngư ra biển một mình câu được một con cá rất lớn và kiệt sức với công việc đánh bắt nó; ông đưa được nó lên bờ, nhưng không thể bảo vệ nó chống lại cá mập, và cuối cùng đành bỏ lại trên bờ biển một bộ xương trần trụi. Nhưng chẳng mấy quan trọng. Bản thân sự kiện có mục đích tự thân của nó: vấn đề đối với ông già là khước từ cuộc sống tựa cỏ cây (vie végétative) vốn là cuộc sống của phần lớn đồng loại ông và khẳng định cho tới cùng những giá trị mạnh mẽ của lòng dũng cảm và khả năng chịu đựng. Ông già đánh cá bảo: “Một con người có thể bị thủ tiêu nhưng không chịu bị đánh bại”. Hemingway tìm cách, bằng ngụ ngôn luân lý này, gạt bỏ những nỗi ám ảnh theo đuổi ông − mặc dù nó chẳng có mấy sức thuyết phục ông bắt đầu gặp khó khăn trong sáng tác, không còn có thể duy trì hình ảnh ông cố gắng suốt đời tự xây dựng về bản thân mình: sức sống dạt dào, nam tính mạnh mẽ. Ông nghĩ tới tự sát và cuối cùng dùng súng kết liễu cuộc đời. https://thuviensach.vn Dưới những gương mặt ít mang tính sử thi hơn, người ta bắt gặp thái độ bướng bỉnh của ông lão ngư ở nhiều người già. Có những nhà thể thao già tiếp tục tham gia điền kinh, quần vợt, bóng đá, đua xe đạp, trong đó có người chơi tới tuổi 92. Nói chung, họ chỉ lập được những thành tích bình thường, nhưng họ quan tâm theo dõi tuổi tác của mình. Nhiều người sau khi nghỉ hưu đến sân vận động đều đặn hơn. Từ tuổi 60 hoạt động thể thao khiến hai phần ba số họ gặp bất trắc[9]. Nhưng họ không thấy khó khăn về mặt chức năng Thể thao không làm chậm lại quá trình lão hóa các cơ quan, nhưng góp phần làm chúng hoạt động tốt. Về mặt tinh thần, thái độ khăng khăng của các nhà thể thao già góp phần làm tăng sức khỏe, và những người xung quanh thường tìm cách làm họ nản chí, cần tôn trọng thái độ ấy. Giảm bớt quá nhiều hoạt động của mình dẫn tới sự giảm sút toàn thể con người. Các bà già ở Bah tiếp tục đội những vật nặng trên đầu, vì hiểu rõ điều đó. Người cao tuổi hiểu rằng khi phấn đấu chống lại sự suy tàn, họ làm chậm quá trình ấy lại. Họ hiểu rằng ánh mắt không thương xót của những người xung quanh cho sự suy yếu về thể chất của họ là bằng chứng của hiện tượng suy sút phổ biến mà từ tuổi già biểu thị. Họ muốn chứng minh cho những người khác và cho bản thân họ là họ vẫn là một con người. Tinh thần và thể chất gắn bó chặt chẽ với nhau. Muốn làm được công việc đem một cơ thể đã bị biến đổi theo chiều xấu thích nghi trở lại với thế giới, thì phải duy trì lòng ham sống. Và ngược lại, sức khỏe tốt thúc đẩy sự duy trì những mối quan tâm về tinh thần và tình cảm. Thông thường, cơ thể và tinh thần cùng nhau “phát triển hay thoái hóa”. Nhưng không phải bao giờ cũng vậy. Sức khỏe La Fontaine tốt nhưng ông vẫn bị suy thoái về tinh thần; đôi khi một trí tuệ lớn vẫn tồn tại trong một cơ thể bị tàn phá. Hoặc cả hai đều bị suy thoái, nhưng theo những nhịp độ khác nhau: tinh thần tìm cách chống đỡ, nhưng bị hiện tượng thu teo của cơ thể chiến thắng, như trong trường hợp Swift. Lúc ấy, người già cảm thấy một cách bi thảm một thứ không thích ứng với bản thân mình. Alain cho rằng người ta chỉ muốn những gì có thể có được; nhưng đó là một thuyết duy lý quá giản đơn. Bi https://thuviensach.vn kịch của người già, thông thường là ở chỗ những gì họ muốn, họ đều không thể làm được. Họ quan niệm, họ dự kiến; nhưng đến khi thực hành, thì cơ thể chối từ; sự mệt mỏi làm tan niềm phấn chấn; họ tìm kiếm kỷ niệm trong một mớ hỗn độn; tư duy họ rời khỏi đối tượng nó nhằm từ trước. Lúc ấy, người ta cảm thấy tuổi già như một thứ bệnh tâm thần trong đó người ta kinh hãi thoát ra khỏi bản thân mình − dù không có bất trắc bệnh ký. Những nhà đạo đức học vốn ca ngợi tuổi già vì lý do chính trị hay tư tưởng cho rằng tuổi già giải thoát cá nhân khỏi hình hài. Bằng một thứ bù trừ, cái bị cơ thể đánh mất, tinh thần lại được. Platon viết: “Cặp mắt của trí tuệ chỉ bắt đầu sắc sảo khi đôi mắt của cơ thể bắt đầu sút kém”. Sénèque thì bảo: “Tâm hồn sẽ ở độ tuổi tươi tốt và hân hoan khi không còn nhiều quan hệ với cơ thể nữa”. Và theo Joubert: “Những người tuổi rất cao, thì cơ thể trở nên thanh khiết”[10]. Khi bắt đầu không còn sức cường tráng, Tolstoï tự an ủi với những điều trái với sự thực (contre vérités): “Tiến bộ tinh thần của loài người là nhờ người già mà có những người già trở nên tốt hơn và khôn ngoan hơn”. Juliette tội nghiệp, lúc 71 tuổi, viết cho Hugo trong lúc muốn thuyết phục ông về tình yêu của bà: “Tất cả những gì mà tuổi già lấy mất của cơ thể tôi, thì tâm hồn tôi giành giật lại trong một sức thanh xuân bất tử và tình yêu rực rỡ”. Nhưng từ 1878, bị ung thư gậm nhấm, bà chỉ còn cảm thấy tuổi già là một sự suy sụp: “Tôi cố bíu lấy tình yêu của mình cũng chỉ vô ích, tôi cảm thấy rõ rệt tất cả mọi thứ đều tan tác ở mình: cuộc sống, ký ức, sức lực, lòng dũng cảm”. Jouhandeau ca ngợi quá trình phong phú nội tâm mà ông cho là xảy ra sau khi cơ thể suy tàn. Cơ thể càng suy sụt, thì tâm hồn càng được nâng cao”. Như thế nào? Hướng tới cái gì? Ông không nói. Ông thuyết giáo sự nhẫn nhục nhân danh thứ mỹ học nào: Phạm vi ánh mắt giảm dần. Đối với chúng ta, cái chết đến từng bậc một, và trên trần gian này, chúng ta như đã tách khỏi nó. Chúng ta chớ vì thế mà bực tức một cách khiếm nhã”. Những lời nói vô vị theo thuyết duy linh ấy là khiếm nhã nếu chúng ta xem xét cuộc sống thực tế của tuyệt đại đa số người già: chắc hẳn theo sau cái đói, cái rét và tật bệnh, không có một chút lợi nào về tinh thần. Dẫu sao, https://thuviensach.vn những lời nói ấy vẫn là những luận cứ không có một chút cơ sở nào. Và dù những người theo đạo Lão-mới (néo-taoiste) vốn cho tuổi già là một điều kiện cần cho tinh thần thánh (sainteté), nó vẫn không đủ. Cần sự tu luyện khổ hạnh và sự xuất thần bất tử. Kinh nghiệm phủ nhận triệt để quan niệm cho rằng tuổi tác dần tới một sự giải thoát về xác thịt, ở buổi bình mình của tuổi già, cơ thể vẫn có thể có sức lực ngày trước hay tìm thấy một thế cân bằng mới. Nhưng trải qua năm tháng, nó bị tàn phá, trở nên nặng nề, cản trở hoạt động của trí óc. Năm 1671, lúc mới 61 tuổi, Saint Evremond viết: “Hôm nay tinh thần tôi gắn bó chặt chẽ với cơ thể mình. Thực ra, như thế không phải vì niềm hứng thú của một mối quan hệ êm đềm; mà chính vì sự cần thiết chúng giúp đỡ lẫn nhau, nương tựa vào nhau”. Ngày 19 tháng ba 1943, Gide than vãn về “mọi thứ tật bệnh của tuổi già, khiến người già trở thành một con người thật khốn khổ. Hầu như không bao giờ trí tuệ tôi có thể làm mình quên thể xác của mình, và cái đó có hại cho công việc nhiều hơn, chứ không phải như người ta có thể nói”. Thực ra, cơ thể, với tư cách công cụ, trở thành trở lực; những cái “tuổi già đẹp” không tự thân mà có, không bao giờ; chúng thể hiện những thắng lợi liên tục và n thất bại được vượt qua. *** Hiện tượng thanh khiết các nhà đạo đức học nói tới, đối với họ, chủ yếu là sự dập tắt bản năng tình dục: họ ca ngợi người cao tuổi thoát khỏi cảnh nô lệ ấy và, qua đó, có được tâm hồn thanh thản. Trong một khúc bi thương nổi tiếng, nhà thơ Xcôtlen Robert Burnes miêu tả một cặp vợ chồng già lý tưởng, mọi ham muốn xác thịt đã được dập tắt. Hai vợ chồng “đã từng leo bên nhau ngọn đồi cuộc sống và trước kia đã từng hưởng những giờ diễm phúc”, giờ đây, họ phải “cùng nhau theo tiếp con đường dẫn tới đích cuộc hành trình, bước chân không còn vững chắc, nhưng tay nắm chặt tay”. Công thức sáo mòn này được khắc sâu trong lòng thanh niên và những người tráng niên, vì họ từng bắt gặp nó nhiều vô kể trong những cuốn sách buổi thơ ấu, và lòng tôn kính ông bà họ thuyết phục họ về chân lý của nó. Ý nghĩ quan hệ tình dục hay cảnh bạo lực giữa những người cao https://thuviensach.vn tuổi khiến người ta công phẫn. Nhưng cũng có một truyền thống hoàn toàn khác. Từ ngữ “ông già tà dâm” là một lời sáo trong dân gian. Qua văn học và nhất là hội họa, câu chuyện Suzanne và hai ông già, có giá trị một huyền thoại. Hài kịch không ngừng lặp đi lặp lại đề tài ông già si mê. Chúng ta sẽ thấy là truyền thuyết trào phúng này gần chân lý hơn so với những diễn từ giáo huấn của những người duy tâm thích miêu tả, tuổi già như thế nào thì miêu tả như thế ấy. Ở cả hai giới nam, nữ, xung năng dục tình (pulsion sexuelle) nằm ở giới hạn của tâm thần thân thể (psychosomatique); người ta không biết chính xác nó do cơ thể quy định ra sao. Điều người ta nhận thấy − như chúng tôi đã nói ở phần trên -, là hiện tượng thoái triển các tuyến sinh dục, gắn liền với quá trình già lão, kéo theo sự giảm sút, thậm chí mất hẳn chức năng sinh dục. Phản xạ với các yếu tố dục tình ít hơn, chậm hơn hoặc không có, chủ thể đạt tới giai đoạn cực khoái (orgasme) khó khăn hoặc không thể đạt tới được; người đàn ông thấy khả năng cương cứng (érection) giảm bớt hay mất hẳn. Nhưng Freud chứng minh rằng bản năng giới tính không phải là sinh dục: dục năng (libido) không phải là một bản năng, nghĩa là một hành vi có sẵn từ trước, với một đối tượng và một mục tiêu cố định. Chính năng lượng được dùng vào những sự biến đổi của xung năng dục tình đối với đối tượng, mục tiêu của nó, và đối với nguồn gốc kích thích. Nó có thể tăng, giảm, chuyển dịch, ở tuổi thơ, bản năng giới tính mang tính chất đa hình (polymorphe), không tập trung vào cơ quan sinh dục. “Chỉ sau khi kết thúc một quá trình chuyển biến phức tạp và bấp bênh, xung năng dục tình mới được tổ chức dưới ảnh hưởng của tính trội của khả năng sinh dục, và lúc ấy tìm thấy lại tính cố định và tính mục đích rõ rệt của bản năng[11]. Từ đó, có thể kết luận ngay rằng một cá nhân tuy chức năng sinh dục đã giảm sút hay mất hẳn, nhưng không phải vì vậy mà vô tính (asexué): đó là một con người hữu tính (sexué) − và thậm chí người bị thiến hoạn và người bất lực vẫn là hữu tính, người đó có thể thực hiện bản năng giới tính của mình mặc https://thuviensach.vn dù một sự cắt xẻo nào đấy. Theo Sartre, có một lối bản năng giới tính theo kiểu không được thỏa mãn cũng như theo kiểu được thỏa mãn[12]: nó chỉ biến mất cùng với cái chết. Sở dĩ như vậy là vì nó cũng là một cái gì khác một tập hợp phản xạ sinh ra một thứ khảm ghép (mosaique) các cảm xúc và hình ảnh lại với nhau. Đó là một tính ý đồ (intentionnalité) tồn tại trong cơ thể, nhằm vào những cơ thể khác và kết hợp động tác chung của sự sống. Nó tồn tại trên thế giới và tạo cho thế giới một phạm vi dục tình. Băn khoăn về bản năng giới tính của người già, tức là tự hỏi khi tính trội của khả năng sinh dục không còn trong tổ chức giới tính thì mối quan hệ của con người với bản thân mình, với người khác, với thế giới sẽ như thế nào. Tất nhiên sẽ là phi lý nếu giả định có hiện tượng thoái lui đơn thuần về bản năng giới tính của trẻ em. Không bao giờ, bất cứ trên bình diện nào, người già “rơi trở lại vào tuổi thơ”, vì tuổi thơ được xác định bởi sự chuyển động đi lên. Mặt khác, bản năng giới tính của tuổi thơ tự đi tìm kiếm bản thân nó. Còn bản năng giới tính của người già thì giữ lại kỷ niệm về bản năng ấy ở tuổi trưởng thành của mình. Cuối cùng, các yếu tố xã hội là triệt để khác nhau giữa tuổi trẻ và tuổi già. Hoạt động tình dục có rất nhiều mục đích. Chúng nhằm giải quyết tình hình căng thẳng do xung năng dục tình gây nên và mang tính chất dữ dội của một nhu cầu − nhất là ở tuổi thanh niên − về sau, trừ trường hợp phải chịu trên lĩnh vực này một sự tước đoạt ngặt nghèo, cá nhân tìm kiếm một niềm hứng thú tích cực hơn là một sự giải thoát, và đạt tới hứng thú này bằng niềm cực khoái; trước và sau hiện tượng này là một loạt cảm xúc, hình ảnh, huyền thoại tạo cho chủ thể những “niềm vui thích sơ bộ”, kết quả của sự phát ra những “xung năng bộ phận” cắm sâu từ tuổi trẻ thơ, và đối với chủ thể, chúng có thể có giá trị bằng hay hơn bản thân niềm cực khoái. Việc tìm kiếm hứng thú này ít khi chỉ là việc thực hiện đơn thuần một chức năng: thông thường đó là một bước phiêu lưu trong đó mỗi bên đối tác thực hiện cuộc sống của mình và cuộc sống của người kia một cách đặc biệt; trong ham muốn, rối loạn, ý thức hình thành để nắm bắt đối phương với tư cách cơ thể sao cho làm mê hoặc và chiếm đoạt nó; ở đây, có https://thuviensach.vn hai sự hiện thân tương hỗ và biến đổi thế giới thành thế giới dục vọng. Ý muốn chiếm hữu tất yếu thất bại nếu đối phương vẫn là chủ thể; nhưng trước khi kết thúc, tấn kịch về sự tương hỗ diễn ra trong sự ôm ấp dưới một trong những hình thức cao nhất và có ý nghĩa nhất của nó. Nếu mang bộ mặt một cuộc đấu tranh thì nó làm nảy sinh oán hờn; thông thường, nó bao hàm một sự đồng lõa thiên về sự âu yếm. Đối với một cặp yêu nhau một tình yêu trong đó không còn khoảng cách giữa “cái ta” và đối tác, thì bản thân sự thất bại đã được khắc phục. Vì trong sự ôm ấp vì tình yêu, chủ thể tồn tại với tư cách cơ thể làm mê hoặc, nên có một mối quan hệ nhất định với bản thân mình về phương diện tự yêu mình. Những ưu điểm nam tính hay nữ tính của chủ thể được khẳng định, thừa nhận: chủ thể cảm thấy mình có giá trị. Có khi mối quan tâm tới sự đề cao giá trị này chỉ đạo toàn bộ hoạt động tình ái; nó trở thành một ý đồ cám dỗ thường xuyên, một sự khẳng định liên tục sức mạnh nam tính, sự quyến rũ nữ tính: sự hứng khởi của nhân vật mình nhận đóng vai. Chúng ta hiểu được điều đó: những niềm thỏa mãn của một cá nhân đối với hoạt động tình dục của mình rất đa dạng và phong phú. Dù tìm kiếm trước hết lạc thú, hay sự thay hình đổi dạng của thế giới bằng dục vọng, hay một sự thể hiện bản thân, hay nhằm cùng một lúc tất cả những mục đích ấy, thì chúng ta đều hiểu rằng đàn ông hay đàn bà đều không muốn khước từ những thứ đó. Theo quan điểm của các nhà đạo đức học muốn tuổi già phải trong trắng, người ta không thể nuối tiếc những lạc thú mà người ta không ham muốn nữa. Đó là một cách nhìn rất thiển cận. Quả là thông thường, ham muốn không được đặt ra một cách tự thân: người ta ham muốn một sự hưởng thụ hay một cơ thể nhất định. Nhưng khi nó không còn xuất hiện một cách bột phát nữa, thì người ta có thể luyến tiếc sự tiêu vong của nó. Người già thường muốn có ham muốn, vì luyến tiếc những kinh nghiệm không thể nào thay thế nổi, vì vẫn gắn bó với thế giới dục tình từng trải qua thời gian thanh niên hay tráng niên: qua dục vọng, họ làm sống lại những màu sắc đã nhạt phai của những thời ấy.Và cũng chính qua dục vọng, họ cảm thấy sự trọn vẹn của mình. Chúng ta cầu mong sức https://thuviensach.vn thanh xuân vĩnh hằng và nó bao hàm sự sống sót của dục năng. Một số người tìm cách chống lại hiện tượng thoái triển hoạt động sinh dục (involution génitale) bằng các vị thuốc[13]. Những người khác, trong lúc vẫn chịu chấp nhận hiện tượng ấy, tìm cách tự khẳng định mình là những kẻ hữu tính bằng cách này hay cách khác. Thái độ bướng bỉnh chỉ bắt gặp ở những cá nhân đánh giá bản năng giới tính một cách tích cực. Những người chỉ có hoạt động giới tính một cách không hứng thú, do những mặc cảm cắm sâu từ buổi thiếu thời thì tìm cách viện cớ tuổi tác để khước từ. Tôi có biết một bà già, thời thanh xuân xin những chứng chỉ sức khỏe để tránh “khổ dịch của quan hệ vợ chồng”, về già, số năm tháng là một cái cớ thuận tiện hơn. Nếu bất lực một nửa, thờ ơ, hay nếu hành vi tình dục làm họ khiếp hãi, thì người đàn ông sẽ được nhẹ nhõm khi có thể ẩn náu trong một trạng thái trinh khiết mà từ nay họ cho là bình thường. Những người có một cuộc sống tình dục hạnh phúc có thể có những lý do để không kéo dài cuộc sống ấy. Một trong những lý do ấy, là mối quan hệ tự yêu mình với chính bản thân họ. Sự chán ghét cơ thể của chính mình có những hình thái khác nhau ở người đàn ông − và ở người đàn bà, nhưng tuổi tác có thể khiến họ chán ghét và lúc ấy, họ không muốn để sự chán ghét ấy tồn tại đối với một người khác[14]. Tuy nhiên có ảnh hưởng qua lại giữa hình ảnh bản thân với hoạt động tình dục: khi được yêu, cá nhân tự cảm thấy mình đáng yêu và không ngập ngừng trong tình yêu; nhưng thông thường, họ chỉ được yêu nếu tìm cách quyến rũ và một hình ảnh tự thân bất lợi khiến họ không có ý định quyến rũ nữa; thế là hình thành cái vòng luẩn quẩn ngăn cản họ có quan hệ tình dục. Một trở lực khác, là sức ép của dư luận. Người cao tuổi tuân theo cái lý tưởng theo quy ước do người ta đề xướng. Họ sợ sự phẫn nộ hay vẻ lố bịch không thôi. Họ trở thành nô lệ của dư luận. Họ chấp nhận trong thâm tâm những mệnh lệnh về sự đoan trang, sự trong trắng do xã hội áp đặt. Bản thân dục vọng của họ làm họ xấu hổ: họ không muốn là một ông già tà dâm, một bà già phóng đãng đối với chính bản thân mình. Họ chống lại https://thuviensach.vn những xung năng dục tình tới mức dồn nén chúng lại vào trong cái vô thức[15]. Như chúng ta có thể hình dung một cách tiên nghiệm, vì sự khác biệt về số phận sinh học và quy chế xã hội của họ, trường hợp của nam giới khác xa trường hợp của nữ giới, về mặt sinh học, đàn ông chịu thiệt thòi nhiều nhất; nhưng về mặt xã hội, đàn bà chịu bất lợi vì là đối tượng của tình ái. Người ta không nhận rõ hành vi của cả đôi bên. Nó từng là đối tượng của một số cuộc điều tra dùng làm cơ sở cho một số công trình thống kê. Giá trị những câu trả lời người điều tra thu nhận được, bao giờ cũng có thể bàn cãi. Và trong lĩnh vực này, khái niệm bình quân không có mấy ý nghĩa. Nhưng trong phụ lục, tôi vẫn nêu lên những câu trả lời tôi đã xem xét và có giữ lại một vài điều chỉ dẫn[16]. Đối với nam giới, các số liệu thống kê − như thường xảy ra − chỉ khẳng định những điều mà ai cũng biết: tần số giao hợp giảm bớt theo tuổi tác. Sự kiện này gắn liền với hiện tượng thoái triển cơ quan sinh dục, kéo theo sự suy yếu dục năng. Nhưng yếu tố sinh lý học không phải là yếu tố duy nhất có ảnh hưởng. Có những sự khác biệt rất lớn về hành vi của cá nhân: có người trở nên bất lực ở tuổi 60, và có người trên 80 vẫn rất năng động về mặt tình dục. Cần tìm xem do đâu có những sự khác biệt này. Yếu tố đầu tiên mà tầm quan trọng hiển hiện ra trước mắt là yếu tố hộ tịch (état civill) của chủ thể. Tần số giao hợp ở những người có vợ, có chồng cao hơn nhiều so với những người độc thân và những người góa chồng, góa vợ. Đối với những người thứ nhất, sự gần gũi làm nảy sinh những đòi hỏi về tình dục; thói quen, sự đồng tình thúc đẩy sự thỏa mãn những yêu cầu ấy. Những “trở lực tâm lý” dễ dàng khắc phục hơn nhiều. Bức tường đời sống riêng bảo vệ ông chồng già chống lại dư luận; vả lại, dư luận ủng hộ những mối tình hợp pháp hơn là phi pháp, ông ta cảm thấy ít nguy hiểm hơn một người khác trong hình ảnh mình. Cần hiểu ở đây cái từ hình ảnh này có nghĩa ra sao. Trong lúc những người phụ nữ − khách thể https://thuviensach.vn (femme objet), từ thuở nhỏ, đồng nhất hóa bản thân với toàn bộ hình ảnh cơ thể mình, thì chú bé coi dương vật của mình như là một bản thân mình thứ hai (alter ego): suốt đời, người đàn ông tự nhận biết mình qua dương vật của mình và cảm thấy mình đang gặp bước hiểm nghèo. Chấn thương tâm thần vì lòng tự yêu mình (traumatisme narcissiste) mà họ lo sợ, là sự sa sút của cơ quan sinh dục: không thể đạt được sự cương cứng, duy trì nó và thỏa mãn người bạn tình. Nỗi sợ hãi này có phần ít quan ngại hơn trong cuộc sống vợ chồng. Chủ thể có thể tự do lựa chọn lúc làm tình. Có thể dễ dàng bỏ qua một ý đồ không thành công. Mối thân tình vợ chồng khiến sự đánh giá của người bạn đời ít đáng sợ hơn. Vì ít lo lắng hơn, nên người đàn ông có vợ ít bị ức chế so với một người khác. Vì vậy, nhiều cặp vợ chồng tuổi rất cao vẫn duy trì hoạt động tình dục: những sự quan sát của các nhà xã hội học khẳng định những cuộc điều tra tôi kể lại. Tuy vậy, khá nhiều người đàn ông có gia đình chỉ còn những hoạt động rất thưa thớt hay hoàn toàn không còn. Nếu hiện tượng thoái triển tình dục xảy ra sớm, thì thường là do những nguyên nhân xa lạ đối với bản năng giới tính: sự mệt mỏi về cơ thể hay tinh thần, những mối lo nghĩ, tật bệnh hoặc, đối với một số chủ thể, ăn uống quá mức. Về mặt tình dục, người ta biết rằng dù còn trẻ, người đàn ông cảm thấy thay đổi đối tác: sự đơn điệu giết chết ham muốn ở họ. Lớn tuổi, họ chán ngán về người bạn đời quá quen thuộc, nhất là vì những người này đã già và không còn khơi gợi đối với họ nữa. Khi có thể, nhiều người đàn ông lớn tuổi tìm thấy lại sức cường tráng khi thay đổi đối tác cũ bằng một người mới mà thông thường họ chọn lựa, trẻ hơn. Hoàn cảnh góa vợ thường gây nên hiện tượng chấn thương tâm thần khiến người đàn ông tránh hoạt động tình dục trong một thời gian tương đối dài hay vĩnh viễn. Những người đàn ông góa vợ hay độc thân tìm kiếm lối thoát cho dục năng của họ khó khăn hơn nhiều so với những người có gia đình. Phần đông đã mất đi khả năng quyến rũ: nếu tìm bước phiêu lưu họ dễ bị thất bại. Và họ do dự thử xem. Đạo đức xã hội cho hành vi ngông cuồng của người già là đáng xấu hổ hay lố bịch. Không hề có gì bảo vệ họ https://thuviensach.vn chống lại nỗi kinh hoàng thất bại. Còn lại những cuộc tình mua bán được; nhiều người suốt đời ghê tởm chúng. Nhưng một vài người lại thực hiện chúng, hoặc đến với gái đĩ, hoặc có quan hệ với những phụ nữ được họ giúp đỡ về tài chính. Việc lựa chọn của họ − kiêng ky hay hoạt động − phụ thuộc vào thế cân bằng giữa cường lực của sự thôi thúc và sức mạnh cưỡng lại. Một giải pháp được nhiều người sử dụng là thủ dâm (onanisme). Một phần tư số người được tờ Sexology (Giới tính học) hỏi, cho biết là họ dùng thủ pháp này từ lâu hay từ tuổi 60: như vậy, hành động này đến với họ trong quá trình già lão. Các tài liệu thống kê, qua nhiều nguồn, cho biết ngay trong số những người đàn ông có vợ, nhiều người cũng vẫn sử dụng phương pháp ấy. Giao hợp là một hoạt động phức tạp và và khó khăn hơn thủ dâm nhiều, vì là một quan hệ với người thứ hai. Chắc hẳn, cũng có nhiều người đàn ông lớn tuổi thích ảo ảnh của họ hơn là cơ thể tàn tạ của người bạn đời. Và có khi do những mặc cảm cũ, hoặc vì ý thức về tuổi tác, người vợ chối từ. Lúc đó, thủ dâm là lối thoát thuận tiện nhất. Thử tìm xem đối với người đàn ông lớn tuổi, người phụ nữ ở lứa tuổi nào là khêu gợi hơn hết, chắc hẳn là điều thú vị. Nhiều người mong muốn người này rất trẻ; nếu không tính đến chuyện tiền bạc, thì có thể nguyện vọng của họ được thỏa mãn vì có số phụ nữ trẻ thích người già. Những người đàn ông lớn tuổi khác chỉ chú ý tới những phụ nữ từng trải: những người trẻ là vô nghĩa đối với họ. Những người khác nữa cảm thấy bối rối, khiếm nhã hay lố bịch bên cạnh một phụ nữ quá trẻ; họ có ý thức chẳng có một chút thích thú nào về tuổi tác của mình. Sự lựa chọn của họ phụ thuộc vừa vào điều họ mong chờ ở tình yêu, vừa vào nhận thức về chính bản thân mình. Hoàn cảnh xã hội ảnh hưởng tới hoạt động tình dục của chủ thể. Nó tồn tại ở người lao động chân tay lâu dài hơn so với người trí thức; ở người mức sống thấp lâu dài hơn so với những người thuộc các tầng lớp khá giả. Công nhân, nông dân có dục vọng trực tiếp hơn, ít lệ thuộc vào các huyền thoại tình dục hơn so với những người tư sản; hình hài các bà vợ tàn tạ https://thuviensach.vn nhanh nhưng họ vẫn tiếp tục làm tình; họ cho những bà vợ già của mình ít bị thoái hóa hơn so với những người có quyền có thế. Mặt khác, họ ít tự mãn hơn giới viên chức. Và họ ít bị ràng buộc hơn bởi sự phê phán của xã hội. Càng ở bậc thang xã hội thấp, thì người ta càng thờ ơ với dư luận xã hội. Những người già sống ngoài lề các ước lệ − đàn ông và đàn bà lang thang, những người ở trong nhà dưỡng lão − ngủ chung với nhau không ngượng ngùng, ngay trước mặt những người khác. Cuối cùng, đời sống tình dục càng phong phú và hạnh phúc thì càng tồn tại lâu bền. Nếu đề cao đời sống ấy vì lòng tự yêu mến thì người ta chấm dứt nó khi không còn tự ngắm mình một cách mãn nguyện nữa trong ánh mắt người bạn tình của mình. Nếu muốn khẳng định cường lực hay khả năng quyến rũ của mình, hay muốn chiến thắng tình địch, thì đôi khi, họ bằng lòng cho tuổi tác là một lý do để nghỉ ngơi. Nhưng nếu hoạt động tình dục của họ là tự phát và vui vẻ, thì họ sẵn sàng theo đuổi chúng cho tới lúc kiệt sức. Tuy nhiên, người lớn tuổi không tìm thấy trong hành vi giao hợp một niềm hứng thú mạnh mẽ như người trẻ vì hai giai đoạn xuất tinh rút lại chỉ còn một; họ không có cái cảm giác thống thiết đánh dấu sự chuyển dịch từ giai đoạn thứ nhất sang giai đoạn thứ hai; và cũng không có cảm giác hoan hỉ của một sự phóng ra, một sự bùng nổ: đó là một trong những huyền thuyết tạo nên giá trị của hành vi tình dục của nam giới. Người đàn ông già, dù còn có thể có một hoạt động bình thường, vẫn thường tìm kiếm những sự thỏa mãn gián tiếp, nhất là nếu người đó bất lực. Họ thích đọc sách tình ái, nhất là các công trình nghệ thuật phóng đãng, gặp gỡ phụ nữ trẻ, thích những sự tiếp xúc lén lút. Những sự lệch lạc nay là dễ hiểu. Nói đúng ra, Freud đã chứng minh rằng không có bản năng giới tính “bình thường”; bao giờ nó cũng mang tính chất “đồi bại”, khi nó không thoát ra khỏi nguồn gốc khiến nó tìm kiếm một sự thỏa mãn, không phải trong một hoạt động đặc trưng mà là trong việc “có được một niềm hứng thú” gắn liền với những chức năng phụ thuộc những xung năng khác. Cái nhìn và những sự mơn trớn giữ một vai trò quan trọng trong giao hợp. https://thuviensach.vn Riêng cá nhân tôi có biết một trường hợp kéo dài sinh hoạt tình dục ở người già và thái độ phản ứng của con cái họ. Ông Durand vốn là một giáo sư sử học, có vợ, có nhiều con và cháu. Ông vốn là một người đàn ông đẹp trai, tự hào về dáng dấp của mình, rất được phụ nữ yêu mến, và đặc biệt các nữ sinh. Vì thờ ơ, bà vợ ít nhiều làm ngơ đối với những mối quan hệ ấy. Một trong những cô học trò cũ của ông, nữ giáo viên và độc thân, cô G., là người tình của ông lúc ông 65 tuổi. Người ta thì thầm trong gia đình là trông thấy họ cùng nhau vào khách sạn. Cô G, được bổ nhiệm sang Angiéri. Khi cô về nước, ông Durand 85 tuổi. Vợ ông vừa mất và ông mất phương hướng vì chính bà là người quản lý gia đình. Bà con gái ông, 50 tuổi, rất yêu quý bố, ngày nào cũng tới thăm ông, tìm cho ông một người giúp việc tận tụy bà ta quen biết từ lâu; người này đến ở trong căn hộ ông. Ông vẫn hoàn toàn sáng suốt: khi mời các học sinh cũ tới nhà − và thường là như vậy − ông tỏ ra sắc sảo. Về thể chất, ông không tàn tật nhưng chân bị yếu; đi trên đường phố, ông sợ bị ngã, phải có người đỡ cánh tay. Trước kia, ông vốn hào phóng và ít quan tâm tới tiền bạc. Trở về già, ông trở nên hà tiện và hay lo sợ. Là tác giả một vài cuốn sách giáo khoa bán khá chạy, ông nghi ngờ nhà xuất bản ăn cắp của mình. Ông lĩnh lương hưu, nhưng không thể hiểu thế nào là một khoản thu nhập đều đặn nên phàn nàn một số tháng “xấu”, hoan hỷ khi có tháng “tốt” trong lúc số tiền trước sau vẫn như nhau. Ông bị táo bón và hết sức coi trọng các chức năng đường ruột của mình. Ông luôn luôn nói về chuyện đó. 85 tuổi, ông có thói quen tuyên bố vào buổi tối: “Hôm nay, thế là một ngày tốt đẹp”. Hoặc trái lại, vừa thở dài vừa nói: “Một ngày tồi tệ”, tùy theo ngày hôm ấy ông có đi ngoài được hay không. Trước kia, ông cùng bà vợ nghỉ hè ở nhà các anh em ruột hay anh em họ. Ông tỏ ra cực kỳ kiêu hãnh. Nay ông đến ở với một người con trai trong mùa hè và có cảm giác mình là gánh nặng cho họ. Sự lệ thuộc này làm ông tủi hờn. Ông nuôi mối hận thù thực sự đối với hai vợ chồng người con cả. Từ ngày trở về Pháp, cô G. Hầu như sống suốt ngày bên ông, trừ những lúc bà con gái tới thăm ông. Bà giúp việc cho ông biết là cô G. https://thuviensach.vn Thường thực hiện việc thủ dâm cho ông; còn ông thì không đụng tới cô ta. Buổi tối, sau khi đưa ông lên giường, cô ta chào tạm biệt trong lúc vỗ một cái khẽ vào mông ông. Tình hình kéo dài như thế trong mấy năm. Ông già ngày một ghét thêm các con trai. Một mùa hè, ở nhà người con trai cả, trong lúc thụt đường ruột, ông cố tình làm cho bẩn tường. Một lần khác, giả vờ nhầm lẫn, ông tiểu vào một chiếc tủ trong hốc tường. Ở Paris, vào khoảng 90 tuổi, ông bị những cơn rối loạn. Ông định nhảy qua cửa sổ hai ba bận. Gia đình cho là những nguyên nhân những cơn rối loạn này là những sự thái quá về tình dục. Họ họp gia đình. Theo bà người ở, thì cô G. Muốn đưa ông già về nhà cô. Người con trai quyết định “bắt cóc” ông. Ông được đưa tới nhà bà con gái, ở trong một căn buồng tầng trệt, ngoảnh ra một khu vườn. Bà người ở chăm sóc ông. Sau cuộc chuyển cư và cách lý bắt buộc này, ông cụ sống thêm một năm. Ông mất trí nhớ và hoàn toàn lẩm cẩm. Không bao giờ ông phản bác trực tiếp chống lại sự áp đặt của con cái. Thỉnh thoảng ông giả vờ kinh ngạc: “Đêm qua, bố đi du lịch. Lạ lắm... Bố rời bỏ căn hộ mình ở và tìm thấy một căn hộ khác giống hệt...” Ông bảo bà con gái: “Cảm ơn con đã sắp xếp cho bố một căn hộ giống hệt căn hộ của bố”. (Thực ra không hề giống tí nào). Ông tìm cách gặp lại cô G. Một hôm, ông đưa một nghìn phrăng cho người con trai bà ở: “Năm ngoái, có một bà dễ thương lắm. Cậu không biết tên bà ấy hả?” Và một cách vờ vĩnh, ông cũng tìm cách trả thù những người xung quanh. Càng ngày ông càng quan tâm tới chức năng bài tiết của mình. Một hôm, ông hỏi một bà em họ năm mươi tuổi − chắc hẳn một cách vờ vĩnh -: “Thế nào, cô em, cô làm thế nào khi đi cầu? Cô ngồi hả? − Phải, bà em họ đáp, mặt đỏ bừng,- Đúng, rồi sao nữa? Cô rặn... Rồi sau đó? Cô chùi?...” Ông vẫn chú ý tới chuyện tình dục. Ông kể lại là con gái ông tiếp một người tình. Một hôm, giả vờ không nhận ra cô, ông mời: “Này, cô bé hai chúng ta cùng nhau chơi được chứ?” Ông lợi dụng thói lẩm cẩm để trả thù gia đình. Nhưng cũng có sự thật là đầu óc ông lộn xộn. Ông không còn biết mình là ai nữa và ông bịa những câu chuyện huyễn hoặc; ông kể lại những cuộc du lịch tối hôm trước hay tối hôm trước https://thuviensach.vn nữa. Một năm sau, ông bị gãy xương đùi và bốn mươi tám tiếng sau thì qua đời. Cô G. Tìm cách biết được mộ ông. Cô ta đến nghĩa trang làng và nằm dài trên mộ hai mươi bốn tiếng. Chúng tôi có khá nhiều bằng chứng về sinh hoạt tình dục của những người đàn ông lớn tuổi. Nó phụ thuộc vào cuộc sống ngày trước và cả thái độ của họ đối với tuổi già nói chung và đặc biệt là đối với hình ảnh của họ. Như chúng ta đã biết, Chateaubriand ghét gương mặt ngày trước của ông tới mức cấm không cho người ta vẽ chân dung mình. Trong phần đầu cuốn Tình yêu và tuổi già − những tiếng hát buồn bã - ông sáng tác lúc 61 tuổi, chắc hẳn cho người phụ nữ miền Nam nước Pháp (l’Occitanienne) -, ông khước từ những lời tỏ tình âu yếm của một thiếu phụ: “Nếu cô bảo yêu tôi như một người cha, thì cô làm tôi kinh hoàng; nếu cô cho là yêu tôi như một người tình, thì tôi không thể tin. Tôi cho mỗi chàng trai là một tình địch được yêu mến hơn tôi. Thái độ kính trọng của cô làm tôi cảm nhận tuổi tác của mình, những sự mơn trớn của cô sẽ làm tôi ghen tuông hết sức phi lý...” “Già đi trên trần thế mà không hề mất đi những ước mơ, những điều cuồng dại, những nỗi buồn mơ hồ của mình, luôn luôn tìm kiếm điều không thể tìm thấy, và liên kết vào những nỗi đau cũ những nỗi thất vọng của kinh nghiệm, nỗi cô đơn trong ham muốn, niềm sầu tủi của trái tim, sự hắt hủi của tuổi tác, phải chăng đó không phải là quan niệm một cực hình mà những con quỷ trong thân hình tôi chưa đặt ra trong khu vực những nỗi đau vĩnh hằng?”. Trái lại, mãn nguyện, ở tuổi 65, với vị trí của mình trên thế giới, Goethe tự xét đoán mình một cách thú vị. Đi du lịch tới Wiesbaden, xứ sở thời thanh xuân của mình, ông trông thấy dọc đường một cầu vồng vẫn giữ màu trắng trong sương mù. Ông viết: “Thế đấy, hỡi ông già vui tính Xin ông chớ sầu não làm chi; https://thuviensach.vn Dù mái tóc ông đã bạc trắng Ông vẫn có thể nói lời: tôi yêu”. Tuy khí chất lạnh lẽo − với một thành tố luyến ái đồng giới quan trọng − ông vẫn luôn luôn dành một vị trí lớn cho tình yêu; trong vở Faust, nhân vật trẻ lại một phần để có thể lại đến với tình yêu; ngược lại, Goethe chờ đợi ở tình yêu một sự đổi mới tương tự sự đổi mới của con rắn lột lớp da cũ ra; là “ông già vui tính”, ông cần một niềm đam mê mới để sưởi ấm dòng máu. Ông gặp gỡ niềm đam mê này ở Wiesbaden: Willemer, chủ ngân hàng, bạn ông, giới thiệu với ông cô vợ trẻ, 30 tuổi, là Marianne ông ta vừa mới kết hôn. Đẹp, sắc sảo, bà say mê ca ngợi Goethe và xin ông ký tên vào những bài thơ hay bà sáng tác cạnh ông. Ông sẵn sàng vào cuộc, rồi bị cuốn hút và, như ông từng mong ước, ông nghĩ mình tìm thấy lại một sức thanh xuân mới. Một năm sau, ông trở lại gia đình Willemer; nhưng niềm đam mê của Marianne làm ông khiếp hãi; ông chia tay và không bao giờ quay trở lại. Họ thư từ cho nhau một thời kỳ dài. Cuộc phiêu lưu này là nguồn cảm hứng cho ông viết cuốn “sách Suleika” khúc trung tâm của tập Thơ trữ tình. Hành vi của ông ít thận trọng hơn nhiều khi, ở tuổi 72, tại Marienbat, ông say mê Ulrique, cô gái 17 đẹp rực rỡ. Trong năm đầu, vào năm 1821, ông chỉ chuyện phiếm với nàng, mang hoa tới cho nàng. Những năm sau, hầu như ông luôn luôn ở cạnh nàng, tìm cách đoán trước mọi ý muốn của nàng: “Cô bằng lòng chứ, cô gái bé bỏng của tôi?” − ông hỏi, vẻ băn khoăn −. Ông bỗng say mê bà Szymanowska, một nghệ sĩ pianô Ba Lan, nổi tiếng, thanh lịch và rất đẹp; nhưng chẳng bao lâu sau, ông lại trở lại với Ulrique. Trong thư gửi cho bà mẹ cô gái, ông viết: “Tôi thấy nàng qua hàng trăm thái độ khác nhau, và mỗi lần là một niềm vui mới”. Dần dà, niềm say mê của ông thêm mãnh liệt; ông muốn kết hôn với nàng − ông hỏi ý kiến thầy thuốc xem tuổi ông, có thể nên nghĩ tới chuyện kết hôn không. Đại công tước Charles-Auguste cầu hôn Ulrique cho ông. Goethe không nhận được câu trả lời ngay, ông cùng với gia đình nàng tới Carlsbat và dự lễ sinh nhật của nàng. Nhưng, vài hôm sau, chia tay họ, ông biết những lời tạm biệt cũng là những lời vĩnh biệt. Trong cỗ xe trên đường về, ông viết một bài https://thuviensach.vn thơ tuyệt vọng. Theo ông, bạn hữu cũng như sách vở không thể an ủi mình: “Vũ trụ không còn nữa đối với ta và bản thân ta cũng không còn nữa, tuy tới nay, ta là người được thánh thần ưu đãi. Họ đã thử thách ta, đã cử Pandore đến với ta, nàng vô cùng phong phú về của cải, nhưng cũng đầy rẫy những nỗi hiểm nguy, họ đã đẩy ta tới đôi môi hào hiệp của nàng. Nhưng giờ đây họ chia rẽ ta, bắt ta chịu cảnh hư vô”. Con trai, con dâu làm tình làm tội ông: họ lo sợ cho phần thừa kế của mình. Ông có niềm an ủi được gặp lại Szymanowska tới Weimar tổ chức một buổi hòa nhạc. Hôm bà ra đi, vào lúc xe ngựa lên đường, ông kêu vang: “Chạy nhanh lên, đưa nàng lại cho ta!”. Bà quay trở lại và ông siết chặt bà vào lòng, và khóc, không nói nửa lời: ông vĩnh biệt tình yêu, tuổi trẻ. Ông ngã bệnh, hay ít nhất cũng nằm trên giường bệnh, có lẽ để trốn tránh cảnh náo loạn trong gia đình, vì dự định hôn nhân vẫn chưa bị bỏ hẳn. Zelter, bạn ông, tới thăm và đọc to cho ông nghe ba lần liền, khúc bi thương ông sáng tác do sự khước từ của Ulrique. Ông chịu ngồi dậy và nhanh chóng khỏi bệnh. Ông đưa bài thơ vào một thi tập ông gọi là Thơ bộ ba về sự đam mê (Trilogie de la passion). Nhưng từ ấy, phụ nữ không còn tồn tại đối với ông nữa; ông một mực oán hờn cho tới lúc qua đời. Tình yêu của người già không phải bao giờ cũng gặp thất bại; ngược lại là đằng khác. Đối với nhiều người trong số họ, hoạt động tình dục kéo dài rất lâu. Công tước de Bouillon 66 tuổi khi sinh con trai là Turenne. Thân phụ công tước de Richelieu nổi tiếng, tục huyền lần thứ hai năm 1702, lúc 70 tuổi. Con trai ông, 62 tuổi, thống đốc Guyenne, sống phóng đãng. Lúc già, ông quyến rũ nhiều thiếu phụ. 78 tuổi, đội tóc giả, hóa trang, gầy gò, ông ta giống một con rùa thò đầu ra ngoài mai: nhưng ông ta vẫn có quan hệ với các nữ diễn viên Nhà hát lớn ở Pháp, ông có một người tình chính thức, và buổi tối đến với các gái đĩ; thỉnh thoảng đưa họ về nhà và thích nghe họ kể chuyện tâm tình. Lấy vợ lúc 84 tuổi, ông ta sử dụng thuốc kích dục; làm vợ mang thai; và còn phản bội vợ. Ông ta tiếp tục có hoạt động tình dục cho tới ngày chết, ở tuổi 92. Marivaux lấy vợ lúc 77 tuổi và có một con gái. Lakanal kết hôn lúc 77 tuổi và sinh một con trai. https://thuviensach.vn Một trường hợp cường tráng về tình dục rất quen thuộc là trường hợp Tolstoï. Cuối đời, ông thuyết giáo sự trinh khiết hoàn toàn đối với cả hai giới nam, nữ. Nhưng, 69, 70 tuổi, sau những buổi đi ngựa rong ruổi về, ông lên giường với vợ. Suốt ngày, sau đó, ông đi dạo chơi trong nhà, vẻ vui nhộn. Bản năng giới tính từng giữ một vị trí quan trọng trong buổi thanh xuân và thời tráng niên của Hugo. Ông thích dòm trộm chút đỉnh. Trong thơ ông thích gợi lên một thần đồng nội (faune) rình rập cảnh trần truồng của các nữ thần sông núi (nymphe); một cậu học sinh trung học nhìn nghé qua bức vách giấc ngủ của một cô gái đẹp; một cô gái đang tắm cởi tất để lộ bàn chân trần; một chiếc khăn choàng hé mở; một tấm áo dài vén lên. Ở Guernesey, với sự đồng lõa của bà vợ, và lấy cớ những cơn ngạt thở ban đêm, ông để một người đàn bà giúp việc, thường là trẻ và dễ nhìn, ngủ ở căn buồng cạnh ông; thỉnh thoảng, ông làm tình với cô ta, nhưng hình như theo sổ tay của ông − ông cũng nhìn cô cởi bỏ quần áo mà cô không ngờ. Khi ông xuất bản, năm 63 tuổi, cuốn Những khúc ca trên đường phố và trong núi rừng, Veuillot phẫn nộ so sánh ông với những ông già nhìn trộm Suzanne đang tắm. Các cuốn sổ tay của ông có rất nhiều nguồn tin về hứng dục trong tuổi già. Đối với ông, tuổi già không hề là một khuyết tật, mà trái lại, là một vinh dự; nó đưa người ta tới gần Thượng đế và phù hợp với tất cả những gì là cao siêu, sự trong trắng, vẻ đẹp. Chắc hẳn Hugo không có một mặc cảm tự ti nào. “Tôi tựa một khoảnh rừng bị chặt đốn nhiều lần: các mầm non vì thế ngày càng mạnh và sống lâu”. Vả lại, ông được nhiều phụ nữ trẻ yêu: thế là đủ để ông dành cho mình quyền yêu họ. Đương thời, có nhiều ví dụ đàn ông lớn kết hôn hay có quan hệ với phụ nữ trẻ. Charlie Chaplin không còn trẻ khi kết hôn với Oona và có với nhau nhiều con. Picasso tuổi đã quá 60 khi có hai con với Francoise Gilot. Bị bà này bỏ rơi, ông say mê và kết hôn với Jacqueline Roque. (Thời kỳ này, ông vẽ nhiều tranh đẹp phụ nữ khỏa thân, lồ lộ, trước một ông già còm nhom, thậm chí một con lừa). Các bức ảnh chụp ông tràn đầy sức sống và https://thuviensach.vn trẻ trung; chắc hẳn ông hình dung bản thân mình đẹp đẽ, với sự khẳng định tình yêu của Jacqueline; đó là một thứ tâm lý tự yêu khiến mình tự biếm họa mình: một cách kỳ lạ, ông tin tưởng mình tới mức có thể nghĩ chuyện chế giễu những ông già si mê nói chung, ông thoát khỏi cái lố bịch và cái khả ố trong tham vọng của họ lúc ông lên án chúng. 90 tuổi, Pablo Casals sức khỏe vẫn tốt tươi. Menry Miller kể lại: “Ngày nào cụ cũng dậy sớm, đi dạo chơi ngoài bãi biển, ở Puerto Rico; trở về nhà, chơi các bản nhạc của Bach trên piano trong nửa tiếng trước khi chơi viôlôngxen ba tiếng. Cụ đi du lịch và đăng đàn diễn thuyết. Trước đấy mười năm, lúc 80 tuổi, cụ kết hôn với một trong những cô học trò cũ, 20 tuổi: cuộc đời họ vẫn tiếp tục gắn bó với nhau. Bản thân Miller, một nhà báo, tự miêu tả mình là “chàng trai da nhăn, nhưng hăng say”, sắc da đồng hun, sống hạnh phúc, làm những người xung quanh kinh ngạc vì sức sống mãnh liệt. 75 tuổi, ông kết hôn với một phụ nữ Nhật Bản 29 tuổi. Bản năng giới tính, sức khỏe, hoạt động gắn bó với nhau: có thể nói cuộc đời của cá nhân được chương trình hóa ngay từ đầu; trừ phi những tai nạn xảy tới từ bên ngoài, sức sống và tuổi thọ đều được ghi trong cơ thể con người. Những ví dụ trên đây cho thấy đời sống tình dục kéo dài nếu nó từng phong phú. Nhưng cũng có khi một người đàn ông, cho tới lúc bấy giờ thờ ơ đối với phụ nữ, bỗng về sau tìm thấy những thú vui trong tình dục. Về mối quan hệ của một ông già với cơ thể, với hình ảnh, với giới tính của mình, chúng ta có một tư liệu kỳ lạ: cuốn Nhật ký của Léautaud. Nó cung cấp cho chúng ta một công trình tổng hợp sống động về những quan điểm khác nhau được xem xét trên đây. Léautaud luôn luôn tự ngắm mình một cách thú vị. 41 tuổi, ông ghi Nhật ký: “Mình không đến nỗi quá xấu trai. Thậm chí gương mặt mình khá biểu cảm, không một chút tầm thường”. Ông thừa nhận đó là gương mặt một người đàn ông 41 tuổi, “một gương mặt đã mang dấu ấn của thời gian”, về sau, ông thường nhắc đi nhắc lại là ông cảm thấy trẻ hơn tuổi. Chính qua người khác ông phát hiện sự già nua của mình và ông hết sức https://thuviensach.vn giận dữ. 59 tuổi, ông tự đánh giá mình với ánh mắt phê phán: “Về năng lực thể chất và tinh thần, mình như ở tuổi 40. Tiếc rằng gương mặt mình lại không như thế! Nhất là vì mình rụng răng. Tình hình này làm hỏng mọi thứ. Mình không còn dám tán tỉnh ai nữa hết”. Nhưng không phải vì vậy mà ông lại không nổi giận một lần nữa, khi một thanh niên nhường chỗ cho ông trên tàu điện, ở tuổi hơi 60. “A! Tuổi già hãy biến đi! Thật khủng khiếp!” Một hôm sinh nhật, ông ghi Nhật ký: “Hôm nay, mình bước vào tuổi 64. Mình không hề cảm thấy mình là ông già”. Ông già, phải là một người khác cơ, một lớp người được xác định một cách khách quan cơ; không có nhân vật ấy trong kinh nghiệm nội tâm của ông. Tuy vậy, thỉnh thoảng, tuổi tác đè nặng lên ông. Ngày 12 tháng tư năm 1936, ông ghi: “Mình không vui về sức khỏe, về trạng thái tinh thần của mình; cả niềm âu sầu bước vào tuổi già nữa. Nhất là cái đó!” Nhưng 70 tuổi, ông viết: “Tuổi 70, mình cố gắng giữ cho lanh lợi, nhẹ nhàng, dẻo dai như xưa”. Có thể ông bằng lòng với mình: tự quản lý lấy nhà cửa, chăm sóc đàn gia súc, hoàn toàn đi bộ ra phố, mang những giỏ thực phẩm nặng, viết Nhật ký và không biết mệt. “Chỉ có mắt mình là kém đi. Mình chẳng khác gì như lúc 20 tuổi. Mình vẫn giữ nguyên trí nhớ, và tinh thần sáng suốt”. Nhưng chính vì thế ông càng bực tức khi những người khác khiến ông nhận ra hiện thực. Ông 70 tuổi. Một hôm, trên tàu điện, một thiếu phụ mất đà vì tàu giật mạnh thảng thốt kêu lên: “Ôi! Cháu xin lỗi cụ! Suýt nữa, cháu ngã vào cụ”. Ông ghi Nhật ký, giận dữ: “Khốn nạn! Tuổi ta hiện lên gương mặt ta rõ rệt đến thế cơ ạ! Thì ra mình chẳng thấy rõ mình!”. Điều nghịch lý, là ông không bực mình vì già. Ông tiêu biểu cho một trong những trường hợp ngoại lệ tôi đã nói tới, trong đó tuổi già trùng hợp với một ảo ảnh tuổi thơ: người già bao giờ cũng ưa thích lứa tuổi ấy. Ngày 7 tháng ba năm 1942, lúc 72 tuổi, ông ghi Nhật ký: “Khi trở thành một ông già, người ta bỗng “đỏm dáng” muốn khỏe mạnh, giữ vẻ mảnh mai, dẻo dai, hoạt bát, sắc da mặt vẫn giữ nguyên, khớp xương không suy suyển, không bệnh tật, không suy yếu về thể chất cũng như tinh thần”. https://thuviensach.vn Nhưng sự đỏm dáng của ông đòi hỏi tuổi già của ông không hiện rõ đối với người khác: điều ông thích thú, là tưởng tượng mình vẫn trẻ trung mặc dù sức nặng của năm tháng. Vả lại, thỉnh thoảng, ông chịu đựng khó khăn sức nặng ấy. Ngày 2 tháng bảy 1942, ông viết: “Bảy mươi hai tuổi rưỡi. Sức khỏe mình tương đối tốt cũng vô ích, tuổi già và nhất là ý nghĩ chết ảnh hưởng tới mình sâu sắc”. Ông sợ sẽ có ngày rụng hết răng: “Lúc đó, mình sẽ chẳng ra làm sao nữa!... Chắc hẳn mình sẽ thui thủi ở nhà thôi”. Một hôm khác, ông ghi: “Mình ao ước chỉ ở tuổi 50 biết chừng nào, với sự trưởng thành hiện nay và những tri thức đã tích lũy được”. “Chịu nhẫn nhục, chịu hài lòng với bản thân mình: ôi, tuổi già đáng nguyền rủa. Nó hoàn toàn nằm trong mấy từ này”. Nhưng niềm mãn nguyện của ông lại nảy sinh: Gương mặt mình già đi nhiều. Da cằm mình bắt đầu có nhiều nếp nhăn. Ôi! Mình đâu còn trẻ nữa. Ngày 14 tháng giêng tới, mình bước vào tuổi 74 rồi”. Ông kiêu hãnh một cách chính đáng về sức khỏe của mình. “Khi người ta đến một độ tuổi nào đấy, như mình vài hôm nữa sẽ bước vào tuổi 75, mà vẫn mạnh khỏe, không biết đến mệt mỏi, trừ, than ôi! Đối với tình yêu, thì người ta có thể tự hào chứ. Hầu như người ta nhìn tuổi trẻ với một chút lòng trắc ẩn. Tuổi trẻ ư? Cái đó không quan trọng. Điều quan trọng là sống cho đến già”. Về mặt sinh học, bản năng giới tính của nữ giới ít chịu ảnh hưởng của tuổi già hơn nam giới. Trong lúc đàn ông tới một tuổi nào đấy không thể có hiện tượng cương cứng được nữa thì phụ nữ “ở bất cứ lứa tuổi nào vẫn nhận như một lò lửa mọi ngọn lửa và mọi chất liệu”. Cả một truyền thuyết dân gian nhấn mạnh sự tương phản này. Trong một trong những khúc ca trong Những Nàng thơ vui vẻ ở Caledonie (Joyeuses Muses de Calédonie) [17], một phụ nữ lớn tuổi phàn nàn về sự bất lực của ông chồng già; bà luyến tiếc “những vòng tay siết chặt, những năm tháng trẻ trung” nay chỉ https://thuviensach.vn còn là một kỷ niệm mờ nhạt, vì trên giường, ông ta chỉ nghĩ tới chuyện ngủ trong lúc dục vọng đốt cháy tâm can bà. Khoa học ngày nay khẳng định giá trị của những ý kiến này. Theo Kinsey, suốt đời, bản năng giới tính ở phụ nữ vững bền hơn ở đàn ông; ở tuổi 60, khả năng ham muốn, khoái lạc vẫn như ở tuổi 30. Nhưng tất cả các cuộc điều tra đều chỉ ra rằng trên thực tế, hoạt động của giới nữ ít hơn hoạt động của giới nam. Theo Kinsey, tuổi 50, 97% đàn ông còn sinh hoạt tình dục, còn đàn bà chỉ có 93%; ở tuổi 60 thì đàn ông chiếm 94%, còn đàn bà là 80%. Như vậy là vì về mục đích xã hội, ở mọi lứa tuổi, đàn ông là chủ thể, còn đàn bà là khách thể, là một thực thể tương đối. Có chồng, số phận của họ do số phận của chồng chỉ huy; trung bình, người chồng lớn hơn bốn tuổi và dục vọng giảm bớt. Hoặc nếu nó tồn tại, thì ông ta tìm kiếm những phụ nữ trẻ hơn. Còn phụ nữ lớn tuổi thì rất khó có quan hệ ngoài hôn nhân. Đàn ông ít thích họ hơn là phụ nữ thích đàn ông lớn tuổi. *** Có một niềm đam mê cắm rễ sâu trong bản năng giới tính và bị tuổi tác làm trầm trọng thêm: đó là ghen tuông. Lagache chứng minh rằng ghen tuông thường là kết quả của một sự chuyển đổi về tình cảm: người thợ cắt mà công việc sút kém đinh ninh là bị vợ phản bội, và làm tình làm tội bà ta. Còn tuổi già là một thời kỳ bị tước đoạt một cách phổ biến; nó làm nảy sinh những nỗi oán hờn mơ hồ có thể cụ thể hóa dưới dạng ghen tuông. Mặt khác, sự sút kém về bản năng giới tính, đối với nhiều cặp vợ chồng già, những lần nổi giận đơn phương hay song phương có thể dẫn tới những biểu hiện ghen tuông. Thỉnh thoảng báo đưa tin một ông già 70, vì ghen tuông, đánh hay giết bà vợ già, hay đánh nhau với kẻ tình địch. Có thể ông ta trả thù thái độ lạnh nhạt của vợ, hay sự bất lực của chính mình. Có những phụ nữ trên 70 bị ra tòa do đánh nhau vì một người tình già. Trong những nhà dưỡng lão có cả hai giới sống cạnh nhau, có những vụ cãi vã xô xát do ghen tuông gây nên. https://thuviensach.vn Bác sĩ Balier và L.B.Sébillotte, theo một cuộc điều tra trong quận XIII, ở Paris, nhận xét rằng các cặp vợ chồng gặp nhiều khó khăn hơn khi trở về già so với những người sống riêng lẻ vì quan hệ tình cảm của hai vợ chồng xấu đi và có ảnh hưởng lẫn nhau. Sức khỏe kém sút, cảnh cô đơn gắn liền với chế độ nghỉ hưu và với sự ra ở riêng của con cái dẫn họ tới chỗ hầu như chỉ sống vì nhau. Hơn bao giờ hết, người này đòi hỏi ở người kia sự bảo vệ và tình yêu thương; nhưng cũng hơn bao giờ hết, mỗi người khó có thể thỏa mãn yêu cầu ấy. Tình trạng không thỏa mãn này thường xuyên dẫn tới yêu cầu một sự có mặt thường trực về hình hài, sự ghen tuông và những sự dằn vặt. Cảnh chia ly đôi khi là một đòn chết người đối với những cá nhân tuyệt đối không thể không có nhau. Nhưng cuộc sống cạnh nhau mang nhiều khổ đau hơn là hạnh phúc. Trừ đối với những cặp vợ chồng vợ trẻ hơn chồng nhiều, người đàn ông lớn tuổi có ít lý do hơn để ghen vợ: họ vẫn có ham muốn tình dục trong lúc bà vợ không còn là một đối tượng để ham muốn nữa. Tôi sẽ miêu tả hai trường hợp ghen tuông của phụ nữ: trường hợp Juliette Drouet và Shpie Tolstoï. Suốt đời, Juliette đau khổ vì thái độ không chung thủy của Hugo; nhất là khi họ không còn quan hệ tình dục nữa. Bà cảm thấy thua cuộc, bị sỉ nhục, không có phương tiện tự vệ. Khi Hugo có quan hệ với Blanche năm 1873, Juliette, lúc ấy 69 tuổi, phản ứng với sự dữ dội người ta chưa từng thấy một ví dụ nào trong quá khứ. Bà mượn của bè bạn hai trăm phrăng và ngày 23 tháng chín, bỏ đi, không để lại địa chỉ. Ông hốt hoảng cho người đi tìm. Người ta tìm thấy bà ở Bruxelles. Bà chịu trở về. Ông ra đón bà ở ga và họ hòa thuận với nhau. Bốn ngày sau, bà viết gửi ông mấy chữ “nguệch ngoạc” quen thuộc: “Anh, anh yêu quý; từ tám ngày qua sống trong nỗi tuyệt vọng của những kẻ đau khổ trên trần gian, hôm nay là ngày đầu tiên cùng một lúc, mắt em, miệng em, trái tim em, tâm hồn em mở rộng để nhìn Thượng đế, để mỉm cười với anh, cầu xin anh, chúc phúc cho anh. Và thế là chấm dứt cơn ác mộng khủng khiếp ấy! Quả là anh yêu em, anh chỉ yêu một mình em...” Nhưng ngày 16 tháng mười năm 1873, bà lại viết: “Em https://thuviensach.vn không cưỡng lại nổi lâu dài sự xung đột luôn luôn nảy sinh giữa mối tình xưa tội nghiệp của em với những sự cám dỗ mới ngày nay đến với anh...” Chắc hẳn ông đã gặp lại Blanche sau khi hứa cắt đứt: Juliette không thể chịu nổi sự tương phản giữa vẻ trẻ trung của cô thợ giặt xinh đẹp và cảnh già nua của mình. Ngày 18 tháng mười một 1983, bà thổ lộ nỗi niềm thất vọng ấy: “Em không muốn cản trở những niềm hạnh ngộ của anh, nhưng không thể không cảm thấy mối tình xưa của mình thật là tội nghiệp giữa tất cả những con mụ lẳng lơ, đỏng đảnh kia... Em biết làm sao được... Từ nay, trái tim em đành im tiếng”. Ngày 11 tháng ba 1974: “Ai không có con tim của lứa tuổi mình thì phải chịu mọi nỗi bất hạnh của lứa tuổi ấy”. “Đề từ này giải thích và tha thứ trong sự sáo mòn mơ hồ của nó, sự rối loạn vô tình em mang tới cuộc đời anh trong lúc bản thân em đau khổ như một kẻ bất hạnh trên đời này...” Ngày 4 tháng tư 1874: “Đối với em, hiện tượng không thủy chung chỉ bắt đầu ở hành động mà thôi; em xem nó như đã được một mình dục vọng không thôi khẳng định nó rồi. Vì vậy, anh thân mến, anh cứ tự nhiên và cứ xem như em không còn nữa”. Sau đó, có lúc bà trở lại vui vẻ. 11 tháng tư 1874: “Mình cảm thấy một chút không khí trẻ trung, chắc hẳn vì 70 mùa xuân mình đã hưởng thụ và trân trọng”. Nhưng chẳng bao lâu sau, bà lại âu sầu trở lại. Bà không chỉ ghen tuông với những người tình trẻ của Hugo, mà cả với gia quyến ông. Ông thuê ở Clichy một căn hộ ba tầng; tầng một là phòng khách; tầng ba, ông ở với con dâu và các cháu nội. Juliette ở cùng tầng với ông; cô con dâu đưa bà xuống tầng dưới với cớ trẻ con cần có chỗ. “Trái tim tôi chất chứa những dự cảm buồn bã. Các tầng gác chia cắt chúng tôi này là một nhịp cầu bị gãy giữa hai con tim chúng tôi... Tôi tuyệt vọng và phải kìm mình để khỏi phải khóc nức nở”. Chắc hẳn bà rất coi trọng sự kiện này vì biết Hugo vẫn tiếp tục không chung thủy với bà. Bà đau khổ về tình hình này như về hiện tượng thiếu https://thuviensach.vn tình yêu; nhưng bà cũng xấu hổ cho Hugo mà quả thực người ta biết là cuộc sống tình dục không phải bao giờ cũng rực rỡ. 21 tháng sáu 1874: Có thể nói những gì còn lại trong trái tim tội nghiệp của mình là cái đích cho tất cả những người đàn bà đi săn tội lỗi và cho những trò phiêu lưu nhục nhã; còn mình, mình tuyên bố thua mà không chiến đấu...” Sự tuẫn đạo của Sisyphe, người ngày nào cũng đưa mối tình của mình lên tận mây xanh và ngày nào cũng cảm thấy nó rơi xuống trái tim mình với toàn bộ sức nặng, sự tuẫn đạo ấy làm mình khiếp hãi, và nghìn lần mình thích cái chết ngay lập tức hơn là nỗi đau khổ kinh hoàng ấy. Hãy xót thương ta, hãy để ta đi...”. Giữa hai người xảy ra những cuộc cãi vã đau xót, và bà mong muốn một sự chia tay. 28 tháng bảy 1874: “Anh không hạnh phúc, và em cũng chẳng hạnh phúc hơn anh. Anh đau khổ vì vết thương cháy bỏng của vợ ngày một thêm sâu vì anh không có can đảm làm nó vĩnh viễn thành sẹo. Còn em, em đau khổ vì đã quá yêu anh”. 6 tháng bảy 1875: “Em cam đoan với anh là trong lúc xa anh, biết anh bình yên và hạnh phúc, em sẽ đau khổ ít hơn là cảm thấy sự có mặt của em là một trở lực thường xuyên đối với công việc, sự tự do, bầu không khí yên tĩnh và sự nghỉ ngơi êm đềm của anh trong cuộc sống... Đối với trái tim anh cũng như trái tim em, mọi cái sẽ tốt đẹp hơn là nếu cảm thấy em không cần thiết cho anh nữa...” 1877: “Chán nản, em nghi ngờ Thượng đế và nghi ngờ anh...” Tháng sáu 1878, sau khi tấn công Hugo, Juliette buộc ông phải cắt đứt với Blanche: người ta khủng bố cô ta bằng cách bảo Hugo sẽ chết trong vòng tay cô nếu cô không rời bỏ ông. Juliette gửi tiền cho cô gái tội nghiệp và cô đành lòng lấy chồng.[18] Nhưng có những người thay thế cô ta. Trong mùa hè năm ấy họ cùng chung sống ở Guernesey và Juliette viết cho Hugo ngày 20 tháng tám: https://thuviensach.vn “Bình minh của anh thật trong sáng, hoàng hôn của anh vì vậy phải được tôn kính và thiêng liêng. Em muốn với giá tất cả những gì của em trong cuộc sống, tránh cho anh một vài lỗi lầm không xứng đáng với tài năng lỗi lạc và tuổi tác của anh”. Hugo viết trả lời: “Anh cảm thấy rõ ràng tâm hồn anh thuộc về tâm hồn em”. Nhưng Juliette không chịu để cho ông tiếp tục nhận được những lá thư phụ nữ. Một lần, bà ta tìm thấy một cuốn sổ cũ trong đó có những tên phụ nữ: thế là cả một tấn thảm kịch. Lại một tấn thảm kịch khác khi bà biết ông dạo chơi trên đường phố thanh lâu: bà muốn đến sống ở Iéna, với người cháu họ. Họ làm lành với nhau và bà đến ở Paris trong cũng căn hộ với ông. Nhưng bà vẫn day dứt. Ngày 10 tháng mười một 1879, bà viết: “Em lo sợ nhớ lại những gì đã xảy tới đối với mình, và thấp thoáng thấy những gì sẽ xảy ra, em không còn nhìn cả phía trước lẫn phía sau, cả anh lẫn em; em sợ”. Và ngày 11 tháng mười một, bà trách ông về “những tội phạm thánh (sacrilège) và ý đồ tự sát nhiều lần”. Bà cho thái độ của ông chẳng những “không xứng đáng” mà còn nguy hiểm nữa. Ngày 8 tháng tám 1880, bà viết: “Anh rất yêu quý của em ơi, em dành cả cuộc đời để chắp nối lại được chăng hay chớ những mảnh thần tượng của mình, mà không sao che giấu nổi những chỗ nứt rạn”. Một hôm, nhận ra Blanche nấp rình trên đại lộ Victor Hugo, bà nổi giận đến điên cuồng. Thỉnh thoảng, bà âu sầu và chán nản tới mức không còn viết những trang nhật ký “nguyệch ngoạc” nữa. Bà sống cạnh Hugo cho tới lúc qua đời, nhưng không còn biết đến sự yên tĩnh nữa. Thỉnh thoảng − đặc biệt là trong vụ Blanche − bà là một bà già quá đáng; nhưng chúng ta hiểu nỗi thất vọng của bà... Bà từng hình dung họ sống bình yên bên nhau trong tuổi già, cả hai chán ngán những thú vui xác thịt. Nhưng không. Hoặc nữa ông có những mối quan hệ ông đưa cả con tim vào trong đó và bà đau khổ vì ông không hoàn toàn thuộc về mình; hoặc ông bằng lòng với những cuộc gặp gỡ có thể mua bán được mà bà cho https://thuviensach.vn là hèn hạ. Những giòng nước mắt, những tiếng kêu la của bà có thể được dung thứ vì một mối tình chân thành và trọn vẹn. Sự ghen tuông của Sophie Tolstoï thì mang một tính chất hoàn toàn khác. Bà vốn luôn luôn không muốn chung giường với chồng và từ lâu biến mối hờn giận này thành ghen tuông. Từ 1863, và đã ghi là ghen tuông ở bà là một thứ “bệnh bẩm sinh”. Bà nhắc đi nhắc lại trong Nhật ký: “Tôi bị lòng ghen tuông đốt cháy tâm can”. Bà đau khổ về vị trí “tương đối” của mình bên cạnh một người đàn ông có nhân cách nổi bật, đau khổ về cuộc sống ẩn dật, khắc khổ của mình. Bà khinh ghét cảnh nông thôn, và những người nông dân. Những thời khắc hạnh phúc nhất của bà là lúc Tolstoï sáng tác Chiến tranh và Hòa bình và Anna Karénine: bà chép lại các bản thảo của ông và cảm thấy gắn bó với ông qua sự hợp tác này. Khi ông thôi không viết tiểu thuyết nữa, bà có cảm giác bị phản bội. Nhưng chủ yếu bà không chấp nhận thái độ của ông về chuyện tiền bạc. Từ 1881, những mối quan tâm về đạo lý và xã hội chiếm vị trí hàng đầu trong cuộc sống của Tolstoï. Ông muốn phân phối ruộng đất của mình cho nông dân và từ bỏ những khoản tiền thu nhập về hoạt động văn học. Để khỏi trực tiếp dính dáng tới công việc khai thác ruộng đất, ông giao việc quản lý cho Sonia. Năm 1883, ông thỏa thuận cho bà tự xuất bản lấy các tác phẩm của chồng sáng tác trước 1881 − năm “ra đời lần thứ hai” của Tolstoï − và bà lĩnh tiền bản quyền tác giả. Để bù vào, Tolstoï thành lập cùng với Tchertkov, người học trò yêu quý, nhà xuất bản Người Trung gian (Le Médiateur), xuất bản với giá rẻ những công trình có chất lượng. Những sự sắp xếp này không đủ đem lại cảnh bình yên trong gia đình. Bà trách ông hy sinh con cái cho nông dân; ông ghét lối sống quá vương giả và thượng lưu bà bắt ông phải sống. Ông viết cho bà: “Giữa chúng ta xảy ra một cuộc chiến đấu không khoan nhượng”. Từ ấy, ông giao các bản thảo cho Macha, người con gái đầu lòng. Sonia tức giận đến ngạt thở. Bà ghi lại: “Ông ấy giết tôi không thương tiếc, gạt tôi ra khỏi cuộc sống riêng của ông ấy, khiến tôi đau đớn khôn cùng”. Bà căm giận những người thân Tolstoï, đặc biệt là Tchertkov, người được ông ưu ái. Tác phẩm Bản xônat Kreutzer, trong đó Tolstoï lên https://thuviensach.vn án hôn nhân và thuyết giáo sự trong trắng, càng làm bà thêm hận thù. Những cuộc cãi vã ngày càng dữ dội. Muốn cho lương tâm yên ổn, Tolstoï trao hết toàn bộ của cải, cả động sản lẫn bất động sản cho vợ con. Nhưng ông quyết định những tác phẩm cuối cùng của ông sẽ thuộc quyền Nhà nước: điều khoản này làm Sonia tức giận tới mức bà chạy ra ga định lao xuống dưới một đoàn tàu[19]; nhưng lại thôi. Tháng giêng 1895, Tolstoï hoàn thành cuốn Chủ, tớ (Maitre et Serviteur). Thay vì trao sách cho nhà xuất bản Người Trung gian và Sonia để sưu tập tác phẩm toàn tập, ông hứa cho một tờ tạp chí do một phụ nữ lãnh đạo: Sonia nghi ngờ ông muốn bỏ bà vì “con mụ có nhiều mánh khóe” này. Lúc ấy, bà 50 tuổi. Bà nhảy bổ ra đường phố Matxcơva, tóc rối rung, chân đi giày vải không tất, để chết rét trong băng tuyết. Tolstoï chạy theo sau để đưa bà về nhà. Bà lại bỏ trốn một lần nữa; bà thuê xe ngựa ra ga Koursk để lao xuống dưới một đoàn xe lửa: con trai bà là Serge và Macha đưa được bà về nhà. Và Tolstoï nhượng bộ. Tuy nhiên, ông không nghĩ chuyện chia tay bà. Một hôm − lúc ông ở tuổi 67 − một người học trò cùng cắt cỏ cạnh ông, gợi ý ông ly hôn: giận điên người, Tolstoï giơ liềm đe dọa anh ta, rồi ngã vật xuống trong cơn nức nở. Khi Sonia 52 tuổi, mối diễm tình (idylle), thuần khiết, của bà với nhạc sĩ Taneiev làm chồng bà giận hết chỗ nói. Ngày 26 tháng bảy 1896, ông viết: “Suốt đêm tôi không ngủ, trái tim tôi nhức nhối. Tôi không kiềm chế nỗi niềm kiêu hãnh và lòng phẫn nộ”. Về vấn đề này, xảy ra giữa họ với nhau những cuộc cãi vã, đả kích, giải thích, trực diện có, bằng thư từ có, qua điện thoại có. Sonia ghi: “Thái độ ghen tuông bệnh hoạn của Léon Nicolaievitch khi nghe tin Taneiev tới, làm tôi rất đau đớn và kinh hoàng”. Quả là ông viết cho bà những lá thứ rất gay gắt: “Thật là xót xa và nhục nhã để một kẻ xa lạ hoàn toàn vô bổ và vô nghĩa hiện nay điều khiển cuộc sống chúng ta. Thật là khủng khiếp, khủng khiếp, ghê tởm và nhục nhã”. “Sự gần gũi giữa bà và Taneiev làm tôi ghê tởm... Nếu bà không thể chấm dứt tình trạng ấy, thì chúng ta hãy chia tay nhau”. Họ không chia tay. Ngày sinh nhật 70 tuổi, ông vẫn chung chăn gối với bà. https://thuviensach.vn Trong mấy năm, họ chung sống hầu như hòa bình. Nhưng năm 1908, sau mười năm lưu vong, khi Tcherkov trở về Nga, thì Sonia hoảng sợ: là kẻ độc đoán, bè phái, nhiều mưu mô, người học trò có một ảnh hưởng lớn đối với người thầy và có thể phương hại tới quyền lợi của gia đình; ông ta chiếm đoạt các bản viết tay của Tolstoï, muốn giành giật sự nghiệp của ông và một mình đại diện cho ông. Tuy không được phép cư trú trong phủ tổng trấn Tula, nơi có vùng ruộng đất của Tolstoï, nhưng ông ta tìm cách đến ở một căn nhà gỗ tương đối gần đấy để chủ nhân đi ngựa tới thăm. Sonia trách móc ông kịch liệt về những buổi thăm viếng ấy. Bà sợ ông nhượng hết bản quyền tác giả cho Tchertkov. Trong một cuộc cãi vã kịch liệt, bà đòi được thừa kế tất cả các tác phẩm của chồng, dù có trước hay sau 1881. Bà cũng phản đối cuộc du lịch của ông tới Stockhom, nơi họp Hội nghị hòa bình thế giới. Ông nhượng bộ ở điểm thứ hai, nhưng không nhượng bộ ở điểm thứ nhất. Tháng sáu 1910, Tolstoï tới ở nhà Tchertkov mấy hôm mà lệnh cấm cư trú sắp được bãi bỏ, khiến Sonia hoảng hốt. Bà gửi một bức điện, đòi chồng trở về sớm đi một ngày: ông từ chối. Trong bộ áo ngủ, tóc tai rũ rượi, nức nở, bà viết Nhật ký: “Mình bị cái gì? Chứng cuồng loạn, cơn thần kinh, đau thắt ngực, bắt đầu điên? Mình không biết nữa...” Sau khi Tolstoï trở về, trong mấy ngày liền, bà vừa khóc tức tưởi vừa trách móc chồng yêu thương Tchertkov. Một buổi sáng, người ta tìm thấy bà nằm dài phía sau một cái tủ, ngậm ở miệng một lọ thuốc phiện và được người ta giựt ra. Tolstoï phải thú nhận với bà là đã trao cho Tchertkov những trang nhật ký hai năm gần đây nhất: bà nhảy bổ vào công viên trong cơn mưa và khi về, không chịu cởi bỏ quần áo ướt: “Như thế để tôi cảm lạnh và chết đi cho rảnh”. Mấy hôm sau, Tolstoï, bà con gái Sacha và Tchertkov đóng chặt cửa một căn buồng để trò chuyện. Đi chân đất để khỏi có tiếng động, bà nấp sau cánh cửa ban công. Bà kêu toáng lên: “Lại một mưu toan chống lại ta!” Quả vậy. Họ thảo luận về một bản di chúc với ý định dành quyền thừa kế của gia đình cho nông dân và tài sản công cộng. Bà gay gắt đòi Tchertkov trả lại những trang Nhật ký. Ngày hôm sau bà không thể chịu đựng được khi thấy Tolstoï và https://thuviensach.vn Tchertkov ngồi cạnh nhau trên đi văng. Ngày 5 tháng bảy 1910, bà ghi: “Mình phát điên vì giận dữ và ghen tuông”. Ban đêm, bà hình dung những mối quan hệ “trái tự nhiên” giữa ông chồng già và người học trò. Trong đêm 10 rạng 11 tháng bảy, sau một cuộc cãi vã, bà thét lên: “Tôi sẽ giết Tchertkov” và nhảy bổ vào công viên. Sau đó, bà viết tiếp: Mình vào vườn và hai tiếng liền, nằm trên nền đất ấm, trên người chỉ bận một chiếc áo dài mỏng. Mình rét run lên, nhưng chỉ mong chết thôi. Và giờ đây cũng chỉ muốn chết thôi. Thế là đã báo động... Ba giờ sáng, cả ông ấy, cả mình, không ai ngủ. Cả hai người không nói với nhau nửa lời...” 15 tháng bảy (bà yêu cầu Tolstoï giao biên lai những trang nhật ký sẽ ký gửi ở ngân hàng), bà viết: “Ông ấy nổi giận một cách khủng khiếp và bảo mình: “Không, bất cứ giá nào cũng không!” Và bỏ đi ngay. Mình lại bị một cơn thần kinh, mình muốn nuốt thuốc phiện, và cả lần này nữa, mình cũng thiếu can đảm và đã lừa gạt L.N. Một cách đê tiện, trong lúc nói là mình đã uống; còn ông ấy, ngay lập tức biết trò lừa gạt của mình rồi khóc nức nở...”. Mấy ngày sau, bà viết: “Mình muốn giết Tchertkov, muốn làm nổ tung cái cơ thể nặng nề của hắn để giải phóng tâm hồn của Léon Nicolaievitch khỏi ảnh hưởng độc hại của hắn”. Ngày hôm sau, bà quyết định bỏ nhà ra đi. “Bị con gái phản đối, bị chồng ruồng bỏ, mình bỏ nhà ra đi vì vị trí của mình đã bị Tchertkov chiếm đoạt, và mình sẽ không trở về nữa, trừ phi hắn ra đi”. Bà viết một thông báo cho báo chí và ra đi Tula bằng xe ngựa, trong xắc bỏ một khẩu súng ngắn và một lọ thuốc phiện. Con trai bà, bắt gặp bà ở ga, đưa bà về. Tolstoï viết thư dặn Tchertkov tạm thời ngừng tới thăm viếng ông, nhưng những người bạn chung vẫn chuyển thư. Sonia bảo chồng: “Giữa ông và Tchertkov có thư từ tình ái bí mật”. Càng thêm tuổi, bà càng ít kiểm soát được nỗi ám ảnh của mình. Bà mất hết mọi ý thức phê phán và đinh ninh có những mối quan hệ “tội lỗi” giữa Tchertkov và Tolstoï. Bà đưa cho chồng xem một đoạn trong Nhật ký thời trẻ trong đó ông viết: “Mình chưa bao giờ say mê một phụ nữ. Nhưng thường có lúc đâm say mê một người đàn ông”. Giận dữ không thể chịu nổi, ông chạy vào buồng ngủ, https://thuviensach.vn khóa chặt cửa lại. Bà nhiều lần tố cáo với hàng xóm láng giềng thói luyến ái cùng giới của ông. Biết hai người đàn ông thỉnh thoảng gặp nhau trong một khu rừng, bà bí mật theo dõi và nhờ trẻ em trong làng bám sát. Bà lục lọi giấy tờ của Tolstoï, tìm kiếm bằng chứng về thói luyến ái cùng giới của ông. Một hôm bà nghĩ tới chuyện hòa giải với Tchertkov. “Nhưng khi nghĩ thấy lại mặt hắn và tìm thấy trên gương mặt L.N. Niềm vui mừng gặp lại hắn, tâm hồn mình lại đau khổ; mình muốn khóc và một sự phản kháng dâng lên trong người. Tinh thần cái ác nằm trong con người Tchertkov”. Ngày 18 tháng tám, Tchertkov được phép vĩnh viễn cư trú trong vùng Tula. “Thế là mình bị kết án tử hình, mình sẽ giết Tchertkov. Mình sẽ làm cho hắn bị tù. Hoặc hắn, hoặc mình”. Bà tìm kiếm trong toàn bộ sáng tác phẩm của ông chồng những dấu hiệu của hiện tượng luyến ái cùng giới của ông. Nhưng ngày 22 tháng tám, bà ghi: “Sinh nhật mình. Mình 66 tuổi và vẫn một năng lượng, một tính xúc cảm sôi nổi như xưa và theo lời người ta, một vẻ trẻ trung như xưa”. Trong lúc ở một mình ở Iaxnaia Pôliana, bà vào văn phòng của chồng, tháo gỡ các bức ảnh của Tchertkov và Sacha ra, và treo ảnh mình thay thế vào. Khi trở về, Tolstoï đưa lại vào văn phòng những bức ảnh bị cất bỏ. Ngày 26 tháng chín, Sonia viết: “Việc L.N. Treo lại chỗ cũ (chân dung của T.) khiến mình lại thất vọng một cách khủng khiếp... Mình tháo nó xuống, xé vụn ra từng mảnh và vứt vào hố xí. Dĩ nhiên, L.N. Giận dữ... Mình lại thất vọng, lòng ghen tuông đối với T. Trở lại hết sức dữ dội và một lần nữa, mình khóc tới kiệt sức và đau đầu. Mình nghĩ tới chuyện tự sát”. Bà bắn hai phát súng ngắn nhưng Tolstoï không nghe thấy. Tìm thấy một cuốn sổ tay trong đó Tolstoï viết nhật ký “Cho riêng một mình mình”, bà hiểu là người ta đã soạn thảo một bản di chúc gạt bà ra khỏi quyền thừa kế. Bà viết cho chồng một bức thư dữ dội. Bà tìm cách làm ông xiêu lòng trong lúc khóc lóc và hôn tay ông mong ông thay đổi ý định, nhưng vô ích. Ngày 16 tháng mười, đinh ninh ông đi ngựa là để đến gặp Tchertkov, bà đến nấp trong một cái hố gần nhà ông ta và chĩa ống nhòm vào nhà. Tolstoï không tới. Bà trở về Iaxnaia Poliana và một người đầy tớ https://thuviensach.vn thấy bà run lập cập trên một chiếc ghế băng ngoài vườn. Một lần nữa bà năn nỉ Tolstoï không đi gặp lão Tchertkov “đáng ghét” nữa. Phẫn nộ, ông quyết định bỏ ra đi và để lại một bức thư không ghi địa chỉ. Bà ghi Nhật ký: 28 tháng mười: “L.N. Bất ngờ bỏ trốn. Ôi kinh hoàng! Thư cho biết ông ấy vĩnh viễn từ bỏ cuộc sống bình yên của người già, để không ai đi tìm kiếm. Chỉ mới đọc hết một đoạn, mình thất vọng chạy tới nhảy xuống cái hồ bên cạnh...” Buổi sáng Tolstoï ra đi bằng xe ngựa cùng với bác sĩ Makovitsky, sau khi viết mấy dòng cho vợ. Họ đáp xe lửa và dừng lại ở tu viện Ôptina. Ông định thuê một căn nhà gỗ gần một tu viện khác, ở Samoseđinô. Sacha, bà con gái, có địa chỉ của ông, đến tìm và kể lại những cơn cuồng loạn của Sonia, khuyên ông đi trốn xa hơn. Họ lại lên xe lửa, cùng với Sacha và cuối cùng, Tolstoï hấp hối ở nhà viên trưởng ga ở Axtapôvô. Được các nhà báo đưa tin, Sonia lảng vảng xung quanh ngôi nhà nhưng không được phép vào. Bà sống thêm chín năm sau khi ông mất. Chỉ ít lúc trước khi bà qua đời, năm 1919, bà mới hòa giải được với Sacha. Thế là chúng ta đâu có chứng kiến cặp vợ chồng lý tưởng Robert Burnes từng mơ ước. Thậm chí đối với những cặp từng sống hạnh phúc và đoàn kết, tuổi già cũng thường là một yếu tố làm mất thăng bằng. Còn đối với những cặp bị dằn vặt bởi những mối xung đột mà họ cố gắng vượt qua được chăng hay chớ, thì tuổi tác làm trầm trọng thêm những sự đối kháng. Cuộc chạy trốn của Juliette, thái độ gay gắt của bà đối với Blanche, chỉ có một không hai trên đời. Thái độ bạo liệt của Sonia, sự cuồng loạn của bà lên tới điểm đỉnh trong những năm cuối cùng của đời sống vợ chồng. Tình trạng “leo thang” này có thể giải thích được một phần ở chỗ sự tước đoạt người già cảm nhận gây nên những thái độ đòi hỏi và gây gổ. Cũng có thể do tương lai không còn bao lâu nên hiện tại, họ có nhiều đòi hỏi: tình yêu, lòng tin cậy, tất cả những sự thỏa mãn họ đòi hỏi, họ muốn được hưởng ngay hay không bao giờ nữa. Trạng thái sốt ruột này khiến họ không dung thứ bất cứ điều gì làm họ trái ý. Chúng ta chỉ có thể hoàn toàn hiểu nổi lòng https://thuviensach.vn ghen tuông của người già nếu xem xét một cách trọn vẹn kinh nghiệm họ đã trải qua trong đời. https://thuviensach.vn CHƯƠNG SÁU THỜI GIAN, HOẠT ĐỘNG, LỊCH SỬ Đối với hiện thực con người, tồn tại, tức là tự xác định thời gian: trong hiện tại, chúng ta nhằm tới tương lai qua những dự định vượt qua quá khứ của mình trong đó hoạt động của chúng ta trở nên cứng nhắc, vô vọng. Tuổi tác làm biến đổi quan hệ của chúng ta đối với thời gian; trải qua năm tháng, tương lai của chúng ta rút ngắn lại trong lúc quá khứ của mình trở nên nặng nề. Có thể xác định người già là một con người có một cuộc đời lâu dài phía sau mình, và một niềm hy vọng sống còn rất hữu hạn. Hệ quả của những sự đổi thay này tác động lẫn nhau để sản sinh ra một tình thế, tình thế ấy có thể biến chuyển tùy theo lịch sử trước kia của cá nhân, nhưng từ đó, có thể rút ra được những hằng số. Và trước hết, thế nào là có cuộc đời phía sau mình? Sartre giải thích điều ấy trong Tồn tại và Hư vô: người ta không sở hữu quá khứ của mình như sở hữu một vật cầm trong tay và có thể nhìn ngắm ở tất cả mọi mặt. Quá khứ của tôi là cái tự-nó (en-soi) mà tôi là cái đó nhưng đã bị vượt qua; muốn có cái đó, tôi phải duy trì nó với cuộc sống bằng một dự định; nếu dự định này là tìm cách biết được quá khứ ấy, thì tôi phải hiện đại hóa (présentifier) nó bằng hồi tưởng. Trong hồi ức có một thưa ma thuật mà ở mọi lứa tuổi người ta đều nhạy cảm với nó. Quá khứ đã từng được trải qua theo phương thức cái cho-nó (pour-soi), thế nhưng nó đã trở thành cái tự nó; hình như qua quá khứ ấy, chúng ta đạt tới sự tổng hợp không thể có được giữa cái tự-nó và cái cho-nó mà cuộc sống luôn luôn vươn tới một cách vô vọng[20]. Nhưng gợi lại quá khứ một cách thú vị, thường là những người cao tuổi. Aristote nhận xét: “Họ sống bằng ký ức nhiều hơn bằng hy vọng”. Trong tập Hồi ký riêng và tập Hồi ký riêng Mới, Mauriac thường https://thuviensach.vn luyến tiếc nhớ lại chú bé mà ông vốn là chú bé ấy thuở trước, và đối với ông, vũ trụ của chú bé hiện thực hơn thế giới ngày nay. Trong, một tập lôcnốt gần đây, ông viết: “Dù không quay trở lại thuở ấu thơ, người già vẫn quay lại những điều bí ẩn thuở ấy, và sung sướng thầm thì hai tiếng mẹ ơi!” Lòng ưa thích đặc biệt những ngày thuở xưa ấy là một nét người ta gặp ở phần lớn người già, và thông thường, chính qua đấy, tuổi tác của họ thể hiện rõ rệt hơn hết. Giải thích thế nào lòng ưa thích này? Và trong chừng mực nào người già có thể “tìm thấy lại thời gian đã mất?”. Sartre nhận xét: “Chính tương lai quyết định quá khứ có sống động hay không”. Người có dự kiến tiến lên thoát ra khỏi quá khứ của mình; họ xác định cái tôi cũ của mình là cái tôi mà họ không còn là cái tôi ấy nữa và không quan tâm tới nó. Trái lại, dự kiến của một số người “cho-mình” (pour-soi) bao hàm sự khước từ thời gian và một tinh thần đoàn kết chặt chẽ với quá khứ. Phần lớn người già nằm trong trường hợp này; họ khước từ thời gian vì không muốn suy sút; họ xác định cái tôi ngày trước là cái tôi hiện tại của mình: họ khẳng định tinh thần đoàn kết với tuổi thanh xuân của họ. Dù họ có vượt qua cơn khủng hoảng đồng nhất hóa (crise d’identification) và chấp nhận một hình ảnh mới về chính bản thân mình − người bà nội chất phác, ông già hưu trí, nhà văn già − mỗi người vẫn đinh ninh mình vẫn nguyên vẹn như xưa: trong lúc gợi lại ký ức, họ biện minh cho niềm tin này. Chống lại những sự suy sụt của sự già lão, họ viện cớ một bản chất bất di bất dịch, và họ tự nhắc đi nhắc lại với mình một cách không biết mệt mỏi cái con người mà họ vốn là con người ấy và vẫn tồn tại trong con người họ. Thỉnh thoảng, họ thích tự nhận ra mình trong anh chàng nhân vật nịnh bợ mình hơn bao giờ hết: họ mãi mãi là người cựu chiến binh, người phụ nữ được ưu ái, người mẹ tuyệt diệu. Hoặc họ tái hiện vẻ tươi mát của buổi thiếu thời. Cũng như Mauriac, họ thích quay lại thời kỳ thế giới mang gương mặt thật đối với họ, thời kỳ hình thành con người họ ngày hôm nay: thời kỳ trẻ thơ. Suốt đời họ − lúc tuổi 30 tuổi 50 − họ vẫn tiếp tục là đứa trẻ trong lúc lại không phải là nó. Lúc họ gặp lại đứa trẻ ấy và lẫn làm một với nó, thì tuổi họ là 30, 50 cũng như 80: họ thoát ra khỏi tuổi tác. https://thuviensach.vn Nhưng họ có thể tìm thấy lại cái gì? Trong chừng mực nào ký ức cho phép chúng ta thu hồi lại các thời kỳ khác nhau trong cuộc sống của mình? Giáo sư Delay[21] phân biệt một cách chính xác ba hình thái của cuộc sống ấy. Hình thái thứ nhất là ký ức cảm giác vận động (mémoire sensori − motrice), trong đó, sự nhận biết mang tính chất hành động chứ không phải tính chất tư duy; nó bao gồm một tập hợp những hiện tượng lắp ráp (montage), tự động (automatisme) tuân theo những quy luật của thói quen, và thông thường nó vẫn được giữ nguyên vẹn trong tuổi già. Hình thái thứ hai − là ký ức tự kỷ (mémoire autistique), bị chi phối bởi quy luật của tính năng động vô thức (dynanisme inconscient), quy luật này hiện thực hóa quá khứ qua những giấc mơ và những cơn mê sảng theo một phương thức ngộ biện (paralogique) và tình cảm. Chủ thể không có ý thức hồi tưởng, và trong hiện tại sống lại với những cảm giác của quá khứ. (Tôi có thể nói thêm là tới một chừng mực nhất định, người ta có thể sử dụng ký ức ấy để đạt tới một sự nhận biết đặt ra vấn đề quá khứ với tư cách quá khứ: đó là điều phân tâm học muốn thể nghiệm). Hình thái thứ ba là ký ức xã hội, một thao tác về tinh thần tái hiện và định vị những sự kiện quá khứ bằng cách sử dụng các phạm trù logic từ những dữ kiện sinh lý học những hình ảnh và một tri thức nhất định. Chỉ có hình thái sau cùng này cho phép chúng ta, trong một chừng mực nhất định, tự kể lại với mình lịch sử của mình. Muốn làm công việc này có kết quả, phải có nhiều điều kiện. Trước hết, lịch sử ấy phải được xác định. Chúng ta biết rằng ký ức đòi hỏi sự lãng quên; nếu ghi nhận hết tất thảy, thì chúng ta không sử dụng được gì hết. Nhiều sự kiện không được những sự kiện khác ghi lại hay bị chúng xóa nhòa. Nếu tôi lấy chính bản thân mình làm ví dụ − và ở đây tôi có thể làm việc ấy, vì những gì có giá trị đối với tôi thì tất yếu có giá trị đối với những người cao tuổi hơn − thì, khi nói chuyện với chị gái tôi hay với Sartre, tôi thường tìm thấy trong quá khứ của mình những thiếu sót nặng nề. Sartre kể lại với tôi, chẳng hạn, cái buổi tối chúng tôi nghe tin Liên Xô tham chiến: ở nhiều nơi, chúng tôi nghe cất lên những tiếng hát Quốc tế ca. Những giờ phút ấy có giá trị đối với tôi, nhưng chẳng để lại gì hết cho tôi. https://thuviensach.vn Mặt khác, những chu kỳ thần kinh cho phép hồi phục các hình ảnh, phải được giữ nguyên vẹn. Một số bệnh − trong đó có hiện tượng sa sút vì già lão, chứng vữa xơ động mạch não (athérosclérose cérébrale) − phá hủy một số lớn chu kỳ ấy. Thậm chí một người còn khỏe mạnh cũng có thể bị những thương tổn khá nghiêm trọng. Berenson phàn nàn về tình trạng ấy: “Ở tuổi 75, có những hiện tượng kỳ lạ xảy tới đối với tôi; nhiều sự việc ngày hôm qua tưởng như còn nằm trong tài sản trí tuệ của tôi, nay đã biến mất, trước khi nhận ra!... Có những mảnh ký ức lớn bị tiêu tan trong quên lãng. Vì sao vậy? Và như thế nào?” Những hình ảnh trong tầm tay chúng ta không hề có nhiều đối tượng. Hình ảnh, chính là việc nhắm một đối tượng vắng mặt thông qua một vật tương tự (analogon) hữu cơ và mang tính xúc cảm. Theo lối nói của Sartre, trong hình ảnh, có “một thứ nghèo nàn chủ yếu” (“pauvreté essentielle”). Alain nhận xét rằng người ta không thể, theo hình ảnh điện Panthéon, tìm cách đếm số cột của cung điện này. Hình ảnh không nhất thiết phải tuân theo nguyên lý đồng nhất; nó cung cấp đối tượng trong tính khái quát của nó; nó xuất hiện trong một thời gian và một không gian phi − hiện thực. Vì vậy, nó không thể phục hồi lại cho chúng ta cái thế giới hiện thực mà nó phát sinh từ đó, và chính vì vậy, rất nhiều hình ảnh xuất hiện mà chúng ta không thể xác định vị trí của chúng. Trong khi viết Hồi ký, tôi thường thấy lại rõ rệt những ảnh mà, do thiếu các tọa độ (coordonnées), tôi không thể đưa vào và đành không kể lại. Mauriac viết: “Ký ức trong tuổi già là những con kiến mà cái tổ kiến đã bị phá hủy. Ánh mắt không thể dõi theo một con nào một cách lâu dài”. Còn Herman Broch[22]thì cho rằng: “Ký ức xuất hiện, được củng cố và rất nhiều lần tan biến hoàn toàn. Chúng sợ sệt biết chừng nào!... Ôi! Cuộc đời dựa trên không biết bao nhiêu vực thẳm; phải đặt ở khoảng cách xa xôi biết chừng nào để nhớ lại kỷ niệm không hề còn là kỷ niệm nữa!” Bằng luận lý, đối chiếu, chúng ta có thể đưa một số hình ảnh vào những cấu trúc có hệ thống và có ghi ngày tháng. Nhưng chúng ta chỉ đạt tới những giả thuyết không phải bao giờ cũng có thể kiểm nghiệm. Henri https://thuviensach.vn Poincaré nói: “Chúng ta đoán định tương lai”. Có những giả thuyết chính xác. Sau ba chục năm xa cách, tôi vẫn thấy vịnh Porto, ở Corse, có màu sắc, hình vẽ giống như trong ký ức mình: sự ngạc nhiên tôi cảm nhận, chứng tỏ tôi quen tiếp nhận những sự cải chính nghiệt ngã của hiện thực. Quả là tôi đã thấy rõ biết bao nhầm lẫn! Và dĩ nhiên, chúng chỉ là một bộ phận nhỏ của những nhầm lẫn tôi đã phạm phải. Thông thường, đối với chúng ta, những hình ảnh được tái hiện và định vị một cách lôgich, vẫn nằm ở bên ngoài, chẳng khác nào những hình ảnh về một sự kiện thuộc về lịch sử thế giới. Berenson nói một cách chính xác: Chúng ta chỉ nắm bắt được một chiều biến dạng của quá khứ, và chỉ có ít khoảnh khắc của quá khứ ấy có quan hệ với chúng ta bằng một sự tiếp xúc cốt tử”. Thông thường, những hình ảnh ấy mang tính chất những bản sao chụp: chúng ta gợi lại chúng trong lúc không biến đổi chúng, không làm chúng phong phú lên, bởi lẽ chỉ có thể tìm thấy ở chúng những gì chúng ta đã đưa vào trong đó. Tôi thường kết hợp vào trong một kỷ niệm duy nhất những dữ kiện thuộc về những thời kỳ khác nhau: trải qua toàn bộ tuổi thơ của tôi, gương mặt của Louise, của thân phụ tôi, của ông tôi vẫn bất di bất dịch. Thậm chí, khi tôi nhớ lại một cảnh tượng đặc biệt, nó cũng được tái hiện từ những dạng thức (schème) khái quát. Lúc lên mười hai, Zaza ngồi trong phòng học cảm ơn tôi về một chiếc túi được tôi tặng: nó có dáng dấp một thiếu nữ đôi mươi. Những hình ảnh cố định này tồn tại vĩnh hằng trong một thế giới chuyển động, tới mức chúng mang một dáng vẻ ngoại lai đến kỳ lạ, mặc dù tính chất cố định của chúng. Tình hình này ắt hẳn không xảy ra trong một thế giới không biến đổi. Giả sử bận bộ quần áo truyền thống giống như mẹ tôi, thì khi gặp lại bà, ắt hẳn tôi nghĩ là mình gặp lại một thiếu phụ ngày nay. Nhưng mốt đã thay đổi: trong tấm áo dài huyền đen, bà thuộc về một thời kỳ đã qua đi. Trở lại thời kỳ tuổi 20, tôi cảm thấy bỡ ngỡ như thể mình bị đưa tới nơi tận cùng thế giới. Tôi nhìn một tấm hình Trocađêrô cổ kính mà tôi từng yêu mến vẻ ngoài xấu xí: có quả là tôi tự mắt nhìn thấy nó không? Lại một bức ảnh khác Vườn hoa Élysées năm 1929; tôi đội một https://thuviensach.vn chiếc mũ xòe, gặp những người đội catket hay mũ phớt: tôi không cảm thấy là bối cảnh ấy chưa bao giờ có liên quan tới cuộc đời mình. Năm tháng càng qua đi, thì thời điểm hiện tại càng hình như bao giờ cũng tự nhiên đối với mình; chúng ta có cảm giác mơ hồ là quá khứ vẫn không có gì thay đổi vì chúng ta thấy nó tự nhiên: thực ra, những hình ảnh chúng ta tìm thấy lại đều có ngày tháng. Bằng cả cách ấy nữa, chúng ta cũng không nắm bắt được cuộc sống của mình: nó vốn là cái mới mẻ, cái tươi mát; nhưng bản thân cái tươi mát ấy đã mai một. Emmanuel Berl cảm nhận tình hình ấy khi ông viết trong Sylvia: “Quá khứ của tôi thoát khỏi tôi. Tôi lôi phía này, tôi kéo phía kia, và trong bàn tay tôi, chỉ còn lại một mảnh vải tả tơi. Tất cả trở nên bóng ma hay sự dối trá”. “Bản thân tôi khó nhận ra mình trong những bản sao chụp do ký ức đề xuất cho mình. Giữa nhân vật tới Touquet trong chiếc xe hơi màu xanh kia, và bản thân tôi, có cái gì giống nhau? Nếu tất cả những con rối ấy, những ảo ảnh ấy tạo thành lịch sử của tôi, thì lịch sử ấy không phải là tôi”. Một bà bạn bảo tôi: “Những người rất già làm tôi xúc động vì cái quá khứ dài lâu phía sau họ”. Nhưng rất tiếc là họ không có quá khứ ấy. Quá khứ sau lưng tôi không phải là một phong cảnh tĩnh lặng trong đó tôi tha hồ thong dong theo sở thích mình, và dần dà nó bộc lộ ra cho tôi thấy những chốn quanh co, khúc khuỷu. Tôi càng tiến bước, thì nó càng tan biến. Phần lớn những vết tích còn sót lại đều nhạt phai, lạnh giá, méo mó, và tôi không nắm được ý nghĩa của chúng. Có những vết tích thỉnh thoảng làm tôi mê hoặc bởi vẻ đẹp âu sầu của chúng. Chúng không đủ để san lấp cái khoảng không trống rỗng Chateaubriand từng gọi là “sa mạc của quá khứ”. Có nhiều điều chúng ta không thể gợi lên nhưng vẫn có thể nhận biết được. Tuy vậy, không phải bao giờ sự nhận biết này cũng tái hiện cho chúng ta sức ấm của quá khứ. Quá khứ khiến chúng ta xúc động vì nó là quá khứ. Nhưng cũng chính vì thế mà nó thường làm chúng ta thất vọng: chúng ta từng trải qua nó như một hiện tại giàu tương lai mà nó hướng tới https://thuviensach.vn tương lai ấy; và nó chỉ còn để lại một bộ xương. Chính vì vậy mà những cuộc hành hương trở nên vô bổ biết chừng nào. Thông thường chúng ta không thể tìm thấy lại dấu vết bước chân mình. Không gian chịu trách nhiệm về những sự phản bội của thời gian: các nơi chốn đổi thay. Nhưng bản thân chúng, trong lúc bề ngoài vẫn bất động, không hề bất động đối với tôi. Tôi có thể cất bước dạo chơi trên một số đường phố ở Uzerche ở Marseille, ở Rouen. Tôi sẽ nhận ra những viên đá ở đấy, nhưng sẽ không tìm thấy lại dự định, nguyện vọng, những nỗi sợ hãi của mình: tôi sẽ không tự tìm thấy lại bản thân mình. Và nếu trong những cảnh trí ấy, tôi có gợi lại một cảnh tượng thuở trước, thì nó bị dính chặt vào cảnh trí ấy tựa một cánh bướm bị đính vào một cái hộp; các nhân vật không còn đi đâu nữa hết. Các mối quan hệ của chúng sẽ bất động. Và tôi, tôi không đợi chờ gì nữa hết. Chẳng những tương lai của quá khứ ấy không còn là một tương lai nữa, mà thông thường trong lúc trở thành hiện thực, nó còn phủ nhận những sự chờ mong của chúng ta. Đã hơn một lần tôi trải qua những buổi đầu một tình bạn tưởng chừng không bao giờ chấm dứt; một số người giữ lời hứa; một số khác quay sang thái độ thờ ơ hoặc thậm chí thù ghét. Giải thích thế nào một sự thông cảm lẫn nhau khi nó bị một mối bất hòa phủ nhận? Nó có giá trị không trong một thời cơ nhất định, nhưng được sắp đặt sẵn để không tồn tại về sau? Liệu nó có dựa trên một ảo ảnh không? Liệu nó có thể kéo dài mãi mãi và có bị tan vỡ vì sự hiểu lầm không? Không thể có câu giải đáp nào dứt khoát hết: ý nghĩa của một sự kiện trong quá khứ bao giờ cũng có thể hủy bỏ. Chẳng những không nắm được tính vật chất của các sự kiện, mà chúng ta còn ngập ngừng về giá trị phải thừa nhận đối với chúng, và sự phán xét của chúng ta bao giờ cũng bị treo lơ lửng. Cái chết của người mà chúng ta có quan hệ gắn bó, là một sự đoạn tuyệt đột ngột với quá khứ của mình, và một người già là người có nhiều người chết phía sau mình. Chateaubriand từng viết: “Cuộc đời quá dài của tôi tựa những con đường La Mã hai bên đường là những lăng mộ”. Cái chết của một người thân, một người bạn chẳng những tước đoạt của chúng ta một sự hiện diện, mà còn cả một bộ phận của cuộc sống chúng ta đã gửi https://thuviensach.vn