🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tự Truyện Benjamin Franklin Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn TỰ TRUYỆN BENJAMIN FRANKLIN Bản quyền tiếng Việt © 2009 Công ty Sách Alpha Dự án 1.000.000 ebook cho thiết bị di động Phát hành ebook: http://www.taisachhay.com Tạo ebook: Tô Hải Triều Ebook thực hiện dành cho những bạn chưa có điều kiện mua sách. Nếu bạn có khả năng hãy mua sách gốc để ủng hộ tác giả, người dịch và Nhà Xuất Bản https://thuviensach.vn PHẦN GIỚI THIỆU Benjamin Franklin sinh tại đường Milk, Boston vào ngày 6 tháng 1 năm 1706. Cha của ông, Josiah Franklin, là một người thợ làm nến từng có hai đời vợ và Benjamin là con trai út trong gia đình gồm 17 người con. Ông nghỉ học khi lên 10 tuổi và ở tuổi 12, ông theo học nghề in từ người anh, James, người sau này xuất bản tạp chí New England Courant. Benjamin từng đóng góp bài và có thời gian làm biên tập danh dự cho tạp chí này. Tuy nhiên, hai anh em nảy sinh bất đồng và Benjamin bỏ đi, chuyển đến New York, sau đó đến Philadelphia vào tháng 10 năm 1723. Ông nhanh chóng tìm được công việc ở một nhà in, nhưng sau đó vài tháng, ông bị Thống đốc Keith thuyết phục đến London. Tuy nhiên sau đó Benjamin nhận ra những lời hứa của Thống đốc chỉ là hão huyền. Benjamin quay lại với công việc nhân viên sắp chữ in cho đến khi được một thương gia tên Denman đề nghị một vị trí trong công việc kinh doanh của ông này và cả hai quay trở lại Philadelphia. Sau khi Denman mất, Benjamin quay về nghề trước đây của mình và không lâu sau mở một xưởng in riêng, nơi ông xuất bản tạp chí The Pennsylvania Gazette, tạp chí mà ông đóng góp nhiều bài viết như một công cụ để khuấy động những phong trào cải cách địa phương. Năm 1732, để nâng cao sự phong phú, ông bắt đầu xuất bản cuốn sách nổi tiếng Poor Richard’s Almanac (Niên lịch của Richard Nghèo Khổ) ghi chép lại những câu châm ngôn súc tích về cuộc sống mà ông sáng tác hay sưu tầm. Đây là cuốn sách đóng góp một nền tảng lớn vào danh tiếng của ông. Năm 1758, Benjamin ngừng viết cuốn Niên lịch và cho ra đời Father Abraham’s Sermon (Những Bài Giảng Của Cha Abraham), tác phẩm được xem là nổi tiếng nhất trong nền văn học thuộc địa Mỹ. Cùng lúc đó, Franklin cũng ngày càng quan tâm đến các vấn đề công vụ. Ông vạch ra kế hoạch xây dựng một học viện, sau này được tiếp nối và phát triển thành Đại học Pennsylvania và ông cũng sáng lập ra tổ chức “Hiệp hội Khoa học Mỹ” với mục đích giúp các nhà khoa học có cơ hội gặp gỡ, trao đổi và thảo luận những khám phá của mình. Bản thân ông cũng bắt đầu các thí nghiệm điện cùng một số nghiên cứu khoa học khác trong quãng thời gian hoạt động kinh doanh và chính trị cho đến cuối đời. Vào năm 1748, khi đã có cuộc sống vật chất khá sung túc, ông bán nhà in của mình để có thời gian dành cho việc học; vài năm sau, ông có một khám phá khiến tên tuổi của mình được biết đến trên toàn châu Âu. Trong lĩnh vực chính trị, ông chứng tỏ mình có khả năng trong cả vai trò điều hành lẫn tranh luận, nhưng lý lịch chính trị của ông đã dính nhiều vết nhơ khi dùng quyền lực để nâng đỡ những người họ hàng của mình. Thành tựu chính trị lớn nhất của ông chính là việc cải cách hệ thống bưu điện, nhưng tên tuổi của ông lại chủ yếu được nhắc đến với vai trò như một chính khách thông qua hoạt động ngoại giao giữa các thuộc địa với nước Anh và sau đó là nước Pháp. Năm 1757, ông được cử sang Anh để phản đối ảnh hưởng của gia tộc Penn trong Chính phủ thuộc địa và ông đã ở lại Anh 5 năm, cố gắng thuyết phục người dân và Chính phủ Anh chấp nhận các điều kiện đối với thuộc địa. Trong lần trở về Mỹ, sự kiện https://thuviensach.vn Paxton mà ông đóng vai trò danh dự sau đó đã làm ông mất ghế trong Quốc Hội. Tuy nhiên, năm 1764, ông lại được cử đến Anh với tư cách một đại diện của Chính phủ thuộc địa để kiến nghị khôi phục Chính phủ từ tay các địa chủ tư sản. Tại London, ông tích cực phản đối Đạo Luật Tem. Tuy nhiên, ông đã mất rất nhiều lòng tin và sự tín nhiệm vì đã bảo vệ quyền lợi cho văn phòng đại diện một công ty sản xuất tem của người bạn mình tại Mỹ. Ngay cả những nỗ lực mang lại hiệu quả cao của ông nhằm bãi bỏ đạo luật trên cũng không giúp ông khỏi bị ngờ vực. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục những nỗ lực bảo vệ quyền lợi các quốc gia thuộc địa khi rắc rối ngày càng tăng do khủng hoảng từ Phong trào Cách Mạng. Năm 1767, ông đến Pháp và được chào đón long trọng. Nhưng trước khi trở về quê hương vào năm 1775, ông mất chức Bộ Trưởng Bộ Bưu Điện vì dính líu đến việc tiết lộ cho bang Massachusetts lá thư nổi tiếng của Hutchinson và Oliver. Trên đường trở về Philadelphia, ông được chọn làm thành viên Quốc hội Lục Địa và vào năm 1777 ông được cử đến Pháp dưới vai trò đại sứ của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Ông ở lại Pháp tới năm 1785, như một nhân vật được cộng đồng Pháp yêu thích và với thành công trong những sứ mạng đại diện cho đất nước mình. Cuối cùng, ông trở về quê hương như một người hùng của nước Mỹ độc lập và nhận được vị trí cao chỉ sau Washington. Ông mất ngày 17 tháng 4 năm 1790. Năm chương đầu của cuốn Tự truyện của Benjamin Frankalin được viết ở Anh vào năm 1771, được tiếp tục vào năm 1784-1785 và bắt đầu viết tiếp vào năm 1788, ông giảm xuống chỉ còn những sự kiện diễn ra tới năm 1757. Sau hàng loạt chuyến phiêu lưu phi thường, bản thảo đầu tiên cũng như cuối cùng được John Bigelow in ra và giờ đây được tái bản để ghi nhận giá trị của cuốn sách như một bức tranh về một trong những nhân vật đáng kính nhất thời thuộc địa và là một trong những cuốn tự truyện xuất sắc nhất thế giới. ĐƯỢC HIỆU CHỈNH BỞI CHARLES W. ELLIOT (TIẾN SĨ LUẬT), CÔNG TY P.F. COLLIER & SON, NEW YORK (1909) https://thuviensach.vn Tự truyện Benjamin Franklin (1706 -1757) YFORD, tại Tòa giám mục thánh Asaph, năm 1771. CON TRAI YÊU QUÝ: ta luôn vui thích khi nghe những giai thoại về cha ông. Con có thể nhớ lại chuyện ta đã dò hỏi về những người họ hàng khác của mình trong thời gian con ở Anh cùng ta và chuyến đi mà ta đã trải qua cho mục đích đó. Ta cho rằng, con cũng muốn hiểu về những sự kiện xảy ra trong cuộc đời ta, vì có nhiều thứ ta chưa kể cho con biết và mong chờ tận hưởng một tuần lễ sống an nhàn sau khi đã rút lui khỏi những hoạt động chính trị, ta ngồi đây và viết lại chúng cho con. Đó là những lý do ta có bên cạnh những xui khiến khác. Vươn lên từ cái nghèo cùng sự tối tăm mà ta đã được sinh ra và nuôi dưỡng, đạt được sự giàu có và một ít danh tiếng trên thế giới, trải qua cuộc sống có nhiều may mắn mà ta đã tận dụng như một phương tiện để hoàn tất sự ban ơn của Chúa Trời, hậu thế có lẽ muốn biết về cuộc đời ta và con có thể tìm thấy những chi tiết phù hợp với hoàn cảnh của mình để noi gương. Cái may mắn của ta, khi suy ngẫm về nó, nhiều lần đã khiến ta phải nói rằng, nếu ta có được một chọn lựa, ta sẽ không chối từ việc lặp lại cuộc sống giống như vậy từ khởi đầu, ta chỉ yêu cầu có được quyền tác giả để sửa lại một vài lỗi sai trong ấn bản đầu tiên của cuốn sách cuộc đời. Nếu được như thế, ta có thể chỉnh lại một vài lỗi sai, thay đổi vài tai nạn và sự kiện xấu xa theo hướng tốt đẹp hơn cho những người khác. Nhưng dù cho ta không có được quyền tác giả đó, ta vẫn chấp nhận đề nghị sống lại cuộc đời mình. Vì sự tái diễn đó không thể xảy ra, điều tiếp theo và cũng là gần nhất với việc sống cuộc đời này một lần nữa dường như là chỉ có một: hồi tưởng về cuộc đời và làm cho sự hồi tưởng đó vững bền nhất có thể bằng cách viết lại chúng. Bởi vì, mọi người có quyền chọn đọc hay không đọc tự truyện này, ở đây ta cũng sẽ dung túng cho sự thiên vị rất đỗi tự nhiên của người già khi nói về chính bản thân cùng những hành động của họ trong quá khứ; và ta sẽ dung túng mà không cảm thấy chán ngắt với sự thực rằng những người khác, những người khi đã lớn tuổi cho rằng bản thân họ có nghĩa vụ phải răn dạy ta. Và cuối cùng (ta cũng phải thừa nhận điều này vì nếu ta chối bỏ thì cũng chẳng ai tin), có lẽ ta sẽ tự thoả mãn cái hư danh của mình rất nhiều ở đây. Thực ra, ta hiếm khi nghe hoặc thấy những dòng giới thiệu: “Không hề vì hư danh bản thân, tôi xin được nói,” rồi theo ngay sau đó là những thứ phù phiếm. Hầu hết mọi người đều ghét sự hư danh ở những người khác, nhưng khi suy nghĩ công bằng về nó năm mười phút, ta thấy rằng hư https://thuviensach.vn danh thường tốt cho những người sở hữu nó và cho cả những người nằm trong tầm ảnh hưởng từ người đó. Vì thế, trong nhiều trường hợp, không phải hoàn toàn vô lý khi một người cảm ơn Chúa vì hư danh của mình trong số những ban ơn khác của cuộc sống. Và giờ nói đến cảm tạ Chúa, bằng tất cả sự hèn mọn của mình, ta mong muốn tri ân những niềm hạnh phúc có được trong cuộc đời đã qua đến Đấng Tối Cao, Người đã dẫn dắt ta đến những con đường mà ta đã chọn đi và cho chúng thành công. Niềm tin vào điều này thúc giục ta hy vọng, dù đoán chừng rằng những điều tốt đẹp như thế sẽ không mãi đến với ta trong hạnh phúc vĩnh tiến hay giúp ta chống chọi với cái chết, điều mà ta sẽ phải trải qua như bao người khác đã từng: màu sắc, vận mệnh tương lai của ta chỉ Người mới thấu suốt được. Với quyền năng vô hạn, chính Người thậm chí có thể ban cho chúng ta sự phiền não. Những ghi chép mà chú của ta (người có cùng tính tò mò thích sưu tầm những giai thoại gia đình) từng đặt vào tay ta đã đem đến cho ta những hiểu biết cặn kẽ liên quan đến tổ tiên ta. Từ những ghi chép này, ta biết được gia đình ta đã sống ở làng Ecton thuộc vùng Northamptonshire trong 300 năm, và lâu hơn bao nhiêu nữa thì chính chú của ta cũng không biết. (Có lẽ từ hồi xa xưa, khi cái tên Franklin, mà trước đây để chỉ một thứ bậc trong xã hội, được biến thành họ khi mọi người đều tự chọn cho dòng tộc mình một cái họ riêng). Chúng ta có 30 mẫu đất cùng công việc kinh doanh lò rèn. Công việc này tiếp tục cho đến đời chú của ta, người con trai cả luôn được chọn truyền lại nghề đó. Một truyền thống mà cha và chú ta tiếp tục truyền cho con trai đầu của họ. Khi tìm những thông tin đăng ký tại Ecton, ta chỉ tìm thấy một cuốn sổ hộ tịch ghi các việc khai sinh, kết hôn và chôn cất của gia đình từ năm 1555, không có đăng ký nào được ghi chép vào thời điểm trước đó. Theo bản ghi chép tìm được, ta biết rằng ta là cháu trai út đời thứ năm của người con trai út. Ông nội của ta, Thomas, sinh vào năm 1598, sống tại Ecton cho đến khi ông quá già để tiếp tục làm việc và chuyển tới sống cùng con trai của ông là John, một thợ nhuộm ở Banbury, vùng Oxfordshire, người mà cha ta xin theo học việc. Ông đã mất và được chôn tại đó. Chúng ta tới thăm phần mộ của ông vào năm 1758. Người con trai cả của ông, Thomas, sống trong một ngôi nhà ở Ecton và truyền lại quyền thừa kế ngôi nhà cùng mảnh đất cho đứa con gái duy nhất của mình, người cùng với chồng là một ngư dân vùng Wellingborough đã bán lại tài sản đó cho ông Isted, người chủ sở hữu hiện tại trang viên đó. Ông nội ta có 4 người con trai: Thomas, John, Benjamin và Josiah. Ta sẽ kể cho con những câu chuyện mà ta biết được về họ bằng những lá thư và nếu ta không đãng trí quên mất việc này, con sẽ tìm thấy nhiều điều thông tin chi tiết khác. Ông Thomas được cha truyền nghề thợ rèn nhưng do bản tính thông minh và (như tất cả những người anh em của ta) được khuyến khích học tập với một thầy tu có tên tuổi trong làng. Ông Thomas đã tự mở cho mình công việc kinh doanh sao chép văn tự, trở thành một trong những người quan trọng nhất của hạt, nhân vật chủ chốt trong những hoạt động của https://thuviensach.vn cộng đồng hạt hay thị trấn Northampton và ngôi làng, nơi còn lưu giữ rất nhiều dấu ấn về ông. Thomas cũng được Huân Tước Halifax chú ý và giúp đỡ rất nhiều. Ông mất do tuổi già vào ngày 6 tháng 1 năm 1702, chỉ 4 năm trước khi ta ra đời. Ta nhớ rằng cuốn sổ ghi chép lại những thông tin về cuộc đời và tên tuổi của ông từ những người già ở Ecton mang đến cho chúng ta một cảm giác phi thường, tương tự như những gì con biết về cuộc đời ta. “Vì ông đã mất cùng ngày cha ra đời, cha có thể là sự chuyển kiếp của ông.” Con có thể nói vậy. Ông John được truyền nghề dệt, ta nghĩ là dệt vải len. Ông Benjamin được truyền nghề dệt tơ và theo học việc ở London. Ông là một người thông minh. Ta nhớ về ông rất rõ ràng vì khi ta còn là một đứa trẻ, ông đã đến thăm và sống cùng cha ta ở Boston trong vài năm. Ông sống rất thọ. Cháu nội của ông, Samuel Franklin, giờ đang sống ở Boston. Ông ấy để lại hai tập thơ khổ bốn do ông sáng tác, bao gồm những tác phẩm nhỏ viết cho bạn bè, người thân và phần ông gửi cho ta chỉ mới là bản nháp. Bản nháp đó được viết tốc ký theo cách ông đã dạy ta nhưng vì chưa bao giờ luyện tập nên ta đã quên mất rồi. Ta được đặt tên theo tên người họ hàng này vì giữa cha ta và ông có những tình cảm rất đặc biệt. Ông là một người rất mộ đạo, tham gia đầy đủ những buổi thuyết giảng của các thầy giỏi nhất, ghi tốc ký lại các bài giảng và lưu giữ lại nhiều bản. Ông cũng là một nhà chính trị, có lẽ là rất chính trị, trong hoàn cảnh của ông. Gần đây,ta có tìm được ở London một bộ sưu tập những cuốn sách chuyên đề mà ông từng viết liên quan đến những vấn đề công vụ từ năm 1641 đến năm 1717. Rất nhiều bộ bị thiếu khi xem lại số trang sách, nhưng vẫn còn đủ 8 bộ cho khổ hai và 24 bộ cho khổ bốn và khổ tám. Một nhà buôn sách cũ quen biết ta sau nhiều lần ta mua sách từ người này đã tìm thấy chúng và đem đến. Có vẻ như ông đã để lại những cuốn sách khi sang Mỹ cách đây 50 năm. Bên lề các cuốn sách vẫn còn đầy các ghi chú của ông. Gia tộc vô danh của ta được đánh dấu từ đầu thời kỳ Đổi Mới và tiếp tục là những Người Tin Lành trong thời kỳ trị vì của Nữ Hoàng Mary, gia đình ta đôi khi bị đặt dưới tình trạng nguy hiểm do quá nhiệt tâm đối đầu với giáo hội La Mã. Chúng ta có một cuốn Kinh Thánh bản tiếng Anh, và để che giấu cũng như bảo vệ cuốn sách đó, gia đình ta đã cột chặt cuốn sách đang mở bằng băng keo dưới gầm chiếc ghế đẩu thấp. Khi ông cố của ta đọc Kinh Thánh cho cả gia đình nghe, ông lật ngược chiếc ghế và giở những trang giấy dưới cuộn băng. Một đứa trẻ trong gia đình sẽ đứng canh cửa để báo động khi phát hiện tay thuộc lại nào đó, một dạng sĩ quan của toà án tôn giáo, đang tiến lại gần. Trong trường hợp đó, ông sẽ lật úp chiếc ghế xuống và cuốn kinh sẽ lại được giấu kín như cũ. Đây là giai thoại ta nghe được từ chú Benjamin của ta. Gia đình ta tiếp tục theo nhà thờ Anh giáo cho đến hết thời kỳ trị vì của Charles Đệ Nhị, khi một vài mục sư bị buộc tội tổ chức các cuộc họp tôn giáo bất hợp pháp ở Northamptonshire, Benjamin và Josiah gia nhập cùng những người này và tiếp https://thuviensach.vn tục theo Anh giáo trong suốt phần đời còn lại. Những người khác trong gia đình tiếp tục theo Nhà Thờ Tân Giáo. Josiah, cha ta, kết hôn khi còn rất trẻ,đã cùng vợ với 3 con chuyển đến New England vào khoảng năm 1682. Những cuộc họp tôn giáo bất hợp pháp đã bị pháp luật cấm và thường xuyên bị gây khó dễ. Điều đó khiến rất nhiều người quen của ông chuyển tới sinh sống ở vùng đất này. Cha ta đã bị họ thuyết phục và đã theo những người bạn này chuyển tới New England, nơi họ có thể tận hưởng niềm vui tôn giáo của mình trong tự do. Ông sinh thêm 4 người con nữa với người vợ đầu và sau đó là 10 người con với người vợ hai, tất cả là 17 người. Ta nhớ rằng ta từng thấy cảnh 13 người anh chị em ngồi chung một bàn với ông, tất cả đều đã trưởng thành và kết hôn. Ta là con trai út, gần nhỏ nhất trong nhà và được sinh ra ở Boston, New England. Mẹ ta là vợ hai, tên là Abiah Folger, con gái của Peter Folger, một trong những người định cư sớm nhất ở New England, những người vinh dự được Cotton Mather nhắc đến, nếu ta nhớ không lầm, như một “người Anh ngoan đạo, có học thức” trong cuốn sách về lịch sử nhà thờ của đất nước đó có tựa đề là Magnalia Christi Americana. Ta từng nghe nói ông thỉnh thoảng có viết những tác phẩm ngắn nhưng chỉ một tác phẩm được in mà ta đã thấy nhiều năm trước đây. Tác phẩm đó được viết vào năm 1675 dưới dạng những đoạn thơ về thời đại và con người, dành cho những độc giả quan tâm đến các vấn đề về Chính phủ lúc đó. Tác phẩm thiên về ý thức tự do và đại diện cho những tín đồ Baptist, tín đồ phái giáo hữu và những tín đồ của các dòng tin khác đang phải chịu sự đau khổ từ cuộc chiến với người da đỏ, cho những khổ đau mà đất nước đó phải gánh chịu vì bị Chúa Trời trừng phạt nặng nề do đã xúc phạm Người và thúc giục việc chấm dứt những đạo luật hà khắc đó. Với ta, toàn bộ tác phẩm đó được viết với sự thẳng thắn, đúng mực cùng sự tự do can trường. Ta quên hai dòng đầu và nhớ sáu câu kết thúc đoạn thơ, nội dung của nó nói lên sự phê bình xuất phát từ thiện chí của ông, và như thế, ông được biết đến như là tác giả của tác phẩm đó. “Là một kẻ phỉ báng (ông nói); Ta thật lòng ghét việc đó; Từ thị trấn Sherburne đến đây, nơi ta đang sinh sống Ta đặt tên mình ở đây; Không xúc phạm đến người bạn chân chính của ngươi, Ta là Peter Folgier.” Các anh của ta đều được gửi đi học nhiều nghề khác nhau. Ta được cho đi học ở trường trung học vào năm 8 tuổi vì cha ta muốn một trong những người con của ông cống hiến, https://thuviensach.vn phục vụ cho nhà thờ. Sự háo hức muốn được học đọc từ rất sớm của ta (chắc là rất sớm vì ta không thể nhớ rõ thời gian mình không biết đọc) cùng những góp ý của bạn bè ông rằng ta sẽ trở thành một học giả giỏi đã khuyến khích ông đi theo mục đích này. Chú Benjamin của ta cũng tán đồng quyết định đó và đề nghị tặng cho ta tất cả các bản tốc ký của những bài thuyết pháp mà ta cho rằng là để chuẩn bị phòng khi sau này ta muốn noi theo gương chú. Tuy nhiên, ta chỉ theo học ở trường trung học không đầy một năm, dù rằng trong thời gian theo học, ta đã vươn lên giỏi nhất lớp từ vị trí trung bình và được chuyển lên lớp trên để từ đó có thể chuyển sang học lớp 3 vào cuối năm đó. Nhưng trong thời điểm đó, vì cha ta đã thay đổi quyết định do nhận thấy các khoản chi phí dành cho việc học quá lớn khiến gia đình đông đúc của ông không thể được chu cấp tốt, và cũng một phần vì những người học ra trường có cuộc sống rất vất vả - đó là những lý do ta nghe ông nói với bạn bè. Ông cho ta nghỉ học ở trường trung học và gửi ta đến học ở trường chuyên dạy viết và Số học được điều hành bởi một cái tên nổi tiếng, George Browell, một người nhìn chung khá thành công trong nghề nghiệp của mình theo những cách thức rất ôn hoà và đầy tính khích lệ. Theo học ông, ta sớm có được kỹ năng viết khá tốt nhưng lại thất bại ở môn Số học và không thể tiến bộ. Lúc 10 tuổi, ta trở về nhà để phụ cha kinh doanh nến và nấu xà phòng. Công việc kinh doanh này không phải nghề ông được truyền lại nhưng ông đã đảm nhận khi chuyển đến New England do công việc nhuộm với nhu cầu ít ỏi không đủ nuôi sống gia đình. Theo đó, ta được giao nhiệm vụ cắt tim nến, đổ đầy những khuôn ngâm và khuôn nấu nến, canh cửa hàng cùng những việc vặt khác, v.v… Ta không thích nghề này mà thích đi biển nhưng cha ta phản đối sở thích này. Tuy nhiên, sống gần biển, ta nhanh chóng khám phá về nó, học để biết cách bơi giỏi từ rất sớm và cách điều khiển những chiếc thuyền. Khi đi thuyền hay xuồng với những cậu trai khác, ta thường được giao quyền chỉ huy, nhất là khi gặp phải những khó khăn. Trong những tình huống khác, ta cũng thường là thủ lĩnh của bọn con trai, nhưng cũng đôi khi dẫn chúng vào những rắc rối và ta sẽ cho con một ví dụ về việc này, dù rằng đây là một hành động sai nhưng nó cho thấy đó là xu hướng yêu thích các hoạt động công của ta trong tương lai. Có một đầm lầy nước mặn bao quanh một phần của chiếc hồ, nơi chúng ta hay đứng để câu cá tuế. Chúng ta giẫm lên nó quá nhiều khiến nó thực sự trở thành một đầm lầy. Ta đề nghị xây một cầu cảng để đứng và chỉ cho các “đồng chí” của mình chỗ một đống đá lớn người ta định sử dụng để xây nhà gần đầm lầy rất phù hợp với mục đích của chúng ta. Theo kế hoạch, vào buổi chiều khi những người thợ xây ra về, ta triệu tập những người bạn chơi lại và làm việc chăm chỉ như những con kiến, thỉnh thoảng 2 đến 3 người khiêng một tảng đá, chúng ta khiêng tất cả đi và xây cho mình một cầu cảng nhỏ. Sáng hôm sau, những người thợ xây rất ngạc nhiên khi phát hiện đống đá biến mất và sau đó tìm thấy chúng ở cầu cảng nhỏ của chúng ta. Mọi người bắt đầu tìm kiếm thủ phạm di dời đá. Chúng ta bị phát hiện và bị mắng vốn. Nhiều đứa trong bọn bị cha mẹ khiển trách và mặc dù ta đã cố giải thích về sự https://thuviensach.vn hữu ích của công trình đó, cha ta giải thích cho ta hiểu rằng không có gì hữu ích nếu không thật thà. Ta nghĩ con cần biết một vài điều về con người và tính cách của ông. Ông là một người có thân hình đẹp, dáng người trung bình nhưng cân đối và rất khoẻ mạnh. Ông rất thông minh, vẽ rất đẹp, có chút ít kỹ năng về âm nhạc và có giọng nói rất dễ nghe, vì thế nghe ông vừa chơi đàn vĩ cầm vừa hát những giai điệu thánh ca, việc ông thỉnh thoảng làm sau một ngày làm việc, là một điều cực kỳ dễ chịu. Ông cũng là người giỏi cơ khí và đôi lúc rất khéo léo trong việc sử dụng những công cụ của nghề khác, nhưng tài năng lớn nhất của ông nằm ở khả năng thấu hiểu sâu sắc và đưa ra những phán quyết vững chắc đối với những vấn đề quan trọng với cá nhân ông cũng như vấn đề công vụ. Trong giai đoạn tiếp theo của cuộc đời mình, thực tế, ông chưa bao giờ có cơ hội thể hiện tài năng đó trong một công việc chính thức nào do phải tập trung kinh doanh và chăm lo cho gia đình đông người của mình. Nhưng ta nhớ rất rõ rằng đã có nhiều lãnh đạo địa phương đến thăm ông để xin lời tư vấn về những vấn đề công vụ của thị trấn hay trong nhà thờ nơi ông sinh hoạt, và họ tỏ ra rất tôn trọng những phán quyết và lời khuyên của ông. Những người khác cũng đến xin ông cho lời khuyên về những vấn đề của họ khi có khó khăn và ông cũng thường xuyên đóng vai trò phân xử giữa hai bên khi có tranh cãi. Ông thường xuyên mời một vài người bạn tới nhà để thảo luận về những đề tài thông minh hay hữu ích để có thể phát triển tư duy của các con ông. Bằng cách này, ông hướng sự chú ý của chúng ta đến những điều tốt đẹp, chính nghĩa, khôn ngoan trong cách sống và thường ít khi hoặc không bao giờ nói đến những đề tài “cơm áo gạo tiền”, dù tốt hay xấu, đúng với thời điểm hay không, dễ hay khó nhìn nhận, được ưa thích hay kém ưa chuộng hơn những đề tài khác cùng loại, để từ đó ta được nuôi dưỡng trong môi trường hoàn toàn không hướng đến những vấn đề đó, không quan trọng và cũng không thèm chú ý đến chuyện ta sẽ ăn gì, nên tới giờ nếu được hỏi sau khi dùng bữa chỉ vài tiếng ta cũng không nhớ mình đã dùng món gì. Thói quen này rất có ích với ta khi đi đó đây, trong khi những người bạn của ta thường thỉnh thoảng không hài lòng vì muốn ăn những món ăn tinh tế hơn, phù hợp với sở thích và cách thức ăn uống cầu kỳ về mùi và khẩu vị của họ. Mẹ ta cũng trông rất tuyệt vời: bà cho cả 10 đứa con bú. Ta không rõ cha mẹ ta có bệnh tật gì không nhưng cha mất vào năm 89 tuổi và mẹ hưởng thọ 85 tuổi. Hai người được chôn chung ở Boston, nơi mà một vài năm sau đó ta đã đặt một bức cẩm thạch trên mộ họ với những dòng chữ: JOSIAH FRANKLIN Và https://thuviensach.vn Vợ ABIAH Được chôn cất ở đây. Cả hai đã yêu nhau đằm thắm trong mối quan hệ hôn nhân kéo dài 55 năm. Không có điền trang và công việc kinh doanh sinh lợi cao, Thông qua lao động và làm việc không ngừng nghỉ, Dưới sự phù hộ của Chúa Trời, Hai người đã duy trì một gia đình lớn Một cách ấm cúng, Và nuôi lớn 13 đứa con Và 7 đứa cháu Nên người. Từ minh chứng này, bạn ơi, Hãy dũng cảm và cần cù nghe theo tiếng gọi của người, Và hãy tin vào Đấng Tối Cao. Ông là một người ngoan đạo và khôn ngoan; Bà là một người kín đáo và tiết hạnh. Con trai út của hai người, Trong hồi ức tưởng nhớ cha mẹ đã mất, Đặt bức cẩm thạch này tại đây. J. F. sinh 1655, mất 1744, hưởng họ 89 tuổi A. F. sinh 1667, mất 1752, hưởng họ 85 tuổi Trong lúc nghêu ngao lạc đề, ta chợt nhận ra mình đã già. Ta từng viết rất có phương pháp. Nhưng một người không thể khoác chiếc áo trong nhà và ngoài xã hội như nhau được. Đây có lẽ chỉ là sự sơ xuất. https://thuviensach.vn Trở lại đề tài: ta tiếp tục theo cha làm việc 2 năm cho đến khi 12 tuổi và do anh trai ta John người được truyền nghề này đã rời khỏi cha, kết hôn và xây dựng cuộc sống ở Rhode Island, có vẻ như ta đã được định là người sẽ thay thế anh ấy và trở thành một thợ làm nến. Tuy nhiên, vì ta vẫn không thích nghề này nên cha ta sợ rằng nếu ông không tìm cho ta một ngành nghề yêu thích, ta sẽ bỏ nhà đi biển như con của ông Josiah đã làm, điều đã khiến ông rất phật lòng trước đó. Do đó, thỉnh thoảng ông dẫn ta ra ngoài đi dạo và gặp những người thợ gỗ, thợ nề, thợ làm đồng thau, v.v... khi họ đang làm việc. Ông theo dõi thái độ của ta và cố gắng hướng ta theo một trong những nghề đó. Ta đã cảm thấy rất vui thích khi quan sát những người thợ sử dụng các dụng cụ của họ và nó cũng rất hữu ích với ta vì thông qua học hỏi những kinh nghiệm đó, ta đã có thể làm một số công việc vặt trong nhà khi thợ sữa chữa không thể đến cũng như chế tạo những chiếc máy nhỏ cho các thí nghiệm của ta, khi ý tưởng tiến hành thí nghiệm vẫn còn mới và rõ ràng trong đầu. Cuối cùng, cha đã hướng ta theo nghề làm dao kéo. Con trai của chú Benjamin, Samuel, là người được truyền nghề này ở London và đang sinh sống ở Boston lúc đó, do vậy ta được gửi đến ở với anh ấy một thời gian. Tuy nhiên, đòi hỏi chi phí mà anh đề ra khiến cha không hài lòng và ông đón ta về. Từ khi còn nhỏ ta đã rất thích đọc sách và tất cả những khoản tiền nhỏ mà ta nhận được đều dùng để mua sách. Vì thích đọc cuốn Pilgrim’s Progress (Sự Tiến Bộ Của Những Người Hành Hương), bộ sưu tập đầu tiên của ta là những tác phẩm ngắn của John Bunyan. Sau đó, ta bán bộ sách này để mua R. Burton’s History Collections (Tuyển Tập Lịch Sử của R. Burton). Đó là những cuốn sách nhỏ của người bán hàng rong, mỗi bộ gồm khoảng 40 hay 50 quyển và rất rẻ. Thư viện nhỏ của cha ta chủ yếu bao gồm những tựa sách lý luận tôn giáo mà hầu như ta đều đã đọc qua và từ đó thường xuyên hối hận rằng vào cái thời mà mình thèm khát kiến thức đó, ta đã không bắt gặp những cuốn sách phù hợp hơn vì giờ đây rõ ràng là ta không thích hợp làm tu sĩ. Plutarch Lives (Cuộc Sống Của Plutarch) là cuốn sách ta đọc nhiều nhất và ta vẫn cho rằng khoảng thời gian dành cho cuốn sách đó là rất xứng đáng. Có một cuốn sách khác của De Foe, mang tựa đề Essay on Projects (Bài Luận Về Những Dự Án), và một cuốn nữa của Giáo Sư Mather có tựa Essay to do Good (Những Bài Luận Để Làm Điều Tốt). Những cuốn sách này đã làm thay đổi suy nghĩ của ta mà sau này và có ảnh hưởng đến những sự kiện quan trọng của cuộc đời ta sau này. Sự đam mê đọc sách trong thời gian dài của ta đã khiến cha ta quyết tâm hướng ta theo nghề in, dù rằng ông đã có một người con (James) theo nghề này. Năm 1717, anh trai James của ta trở về từ Anh mang theo một cái máy in và những mẫu chữ in để mở công việc kinh doanh riêng của mình ở Boston. Ta còn thích những thứ này hơn cả cha ta nhưng trong ta vẫn còn khao khát với biển cả. Để ngăn cản khao khát này, cha ta đã nhanh chóng gửi ta cho anh trai. Ban đầu ta không đồng ý nhưng sau đó cũng bị thuyết phục và ký vào bản khế ước khi ta chỉ mới 12 tuổi. Ta trở thành một kẻ học việc cho đến năm 21 tuổi và chỉ bắt đầu nhận lương như một người làm thuê vào năm cuối cùng. Trong khoảng thời gian ngắn đó ta https://thuviensach.vn đã nắm bắt được công việc kinh doanh và trở thành cánh tay đắc lực cho anh trai ta. Lúc bấy giờ, ta có cơ hội tiếp cận được nhiều cuốn sách hay hơn. Mối giao hảo với những thợ học việc trong cửa hàng sách giúp ta thỉnh thoảng mượn được những cuốn sách nhỏ và ta nhanh chóng trả lại chúng cẩn thận và sạch sẽ. Vì sợ rằng những cuốn sách mượn sẽ bị hỏi và đòi lại, ta thường ngồi trong phòng đọc sách hầu như cả đêm để những cuốn sách ta mượn lúc chiều sẽ được trả lại vào sáng sớm hôm sau. Và sau đó một thời gian, một doanh nhân xuất chúng tên Matthew Adams, người có bộ sưu tập sách khá phong phú và thường đến thăm nhà in, bắt đầu để ý đến ta, mời ta đến thư viện của ông và tử tế cho ta mượn những cuốn sách mà ta chọn. Lúc đó, ta bắt đầu yêu thích thơ và sáng tác một vài tác phẩm ngắn. Anh trai ta nghĩ rằng những sáng tác đó có thể bán được nên thỉnh thoảng đã khuyến khích ta sáng tác những khúc ballad. Một trong những tác phẩm của ta có tên là Bi Kịch Ngọn Hải Đăng bao gồm đoạn Thuyền Trưởng Worthilake chết chìm cùng hai con gái của ông. Tác phẩm còn lại là một bài hát của thuỷ thủ trong lúc đang bắt tên hải tặc Teach (hay Râu Đen). Đó là những tác phẩm khốn khổ theo phong cách ballad của kẻ lang thang và khi in xong, anh ta sai ta đi vòng quanh thị trấn rao bán. Tác phẩm đầu tiên bán rất chạy và nó trở thành một sự kiện thu hút nhiều chú ý. Thành công này nâng cao sự kiêu ngạo của ta nhưng cha ta đã khiến ta nản lòng khi cười nhạo những tác phẩm đó và nói với ta rằng những kẻ làm thơ chung quy cũng chỉ là lũ ăn mày. Vì thế, ta từ bỏ việc trở thành nhà thơ, mà chắc hẳn nếu có làm ta cũng sẽ trở thành một nhà thơ tồi. Nhưng việc viết lách văn xuôi đã tỏ ra rất hữu dụng trong cuộc đời ta sau này, đồng thời là phương tiện chính cho sự tiến thân của ta. Ta sẽ nói cho con biết làm cách nào trong hoàn cảnh như vậy ta đã có được khả năng viết khiêm tốn đó. Trong thị trấn cũng có một thằng bé rất ham đọc sách chơi thân với ta tên là John Collins. Bọn ta thỉnh thoảng thích tranh luận và thích bác bỏ luận điểm của nhau và, nhân tiện mà nói, xu hướng thích tranh cãi đó dễ trở thành một thói quen xấu vì nó khiến mọi người trở nên cực kỳ khó chịu khi gặp phải những mâu thuẫn cần được giải quyết và vì thế, ngoài việc khiến cuộc đối thoại trở nên chua chát và mục nát, nó còn chất đầy thêm sự ghê tởm và thậm chí là sự thù hằn trong những trường hợp con có cơ hội xây dựng được tình bạn. Ta bắt gặp những ý này khi đọc những cuốn sách của cha ta về vấn đề tranh luận tôn giáo. Theo ta quan sát, những người có hiểu biết hiếm khi rơi vào tình trạng này trừ các luật sư, những kẻ học đại học và tất cả những kẻ được nuôi dưỡng ở Edinborough. Giữa ta và Collins không hiểu sao lại xuất hiện một câu hỏi về sự chính đáng trong việc giáo dục nữ giới và khả năng học tập của phái nữ. Cậu ấy thiên về xu hướng cho rằng điều đó không phù hợp và họ, theo lẽ tự nhiên, không đủ sức đi học. Ta chọn ý kiến đối lập, có lẽ một phần cũng vì lợi ích của việc tranh luận. Cậu ấy vốn có tài hùng biện hơn ta, ngôn từ phong phú, và đôi khi, theo ta nghĩ, khiến ta chán ngấy bởi sự lưu loát trong ngôn từ của https://thuviensach.vn mình hơn là sức mạnh của những luận cứ. Khi bọn ta rã nhóm mà chưa chốt được vấn đề và sẽ không gặp nhau trong một khoảng thời gian, ta ngồi viết những luận cứ của mình và gửi cho cậu ấy. Cậu ấy trả lời và ta hồi âm. Ba hay bốn lá thư một mặt đã được gửi qua lại cho đến khi cha ta phát hiện ra và đọc chúng. Không tham gia vào cuộc tranh luận của hai đứa trẻ nhưng cha bắt đầu giảng cho ta nghe về cách thức viết lách. Dù ghi nhận rằng ta giỏi hơn đối thủ của mình về mặt chính tả và chấm câu (kỹ năng mà ta có được từ nhà in), ông nói ta thiếu rất nhiều sự lịch lãm trong diễn đạt, tính hệ thống, sự rõ ràng và đưa ra nhiều ví dụ để chỉ cho ta thấy những lỗi đó. Ta thấy được sự công bằng trong nhận xét của ông nên từ đó chú ý nhiều hơn đến cách viết và kiên trì quyết tâm để tiến bộ. Vào khoảng thời gian này, ta tìm thấy một bộ sưu tập các tờ The Spectator kỳ lạ. Nó là bộ thứ ba. Ta chưa bao giờ thấy bộ nào như thế. Ta mua nó, đọc đi đọc lại và rất hài lòng. Ta nghĩ rằng cách viết văn trong đó thật tuyệt vời và ước ao, nếu có thể, mình sẽ bắt chước. Với suy nghĩ đó, ta lấy vài trang trong bộ nhật báo và viết những gợi ý ngắn về ý chính của từng câu, bỏ đó vài ngày, rồi bắt đầu cố gắng viết lại những trang giấy đó mà không nhìn sách bằng cách diễn đạt những gợi ý đó dưới dạng câu dài và đầy đủ như trong nguyên bản bằng những từ ngữ thích hợp nhất mà ta có thể nghĩ ra. Sau đó, ta so sánh bản The Spectator của mình với nguyên bản, phát hiện ra những lỗi sai và sửa chúng. Nhưng ta nhận ra mình cần có vốn từ vựng phong phú hơn nữa hay cần thêm sự hào hứng để nhớ lại và sử dụng chúng. Đó là thứ ta nghĩ mình sẽ có được nếu tiếp tục theo đuổi nghiệp làm thơ, vì làm thơ đòi hỏi phải sử dụng nhiều từ ngữ với độ dài khác nhau cho cùng một nội dung để phù hợp với nhịp điệu, hay nhiều âm thanh cho cùng một giai điệu, từ đó sẽ tạo ra cho ta nhu cầu tìm kiếm, ghi nhớ nhiều từ vựng khác nhau và khiến ta thành thạo cách dùng từ ngữ. Vì thế, ta lấy vài mẫu truyện ngắn và biến chúng thành những bài thơ, và sau một thời gian ta lại viết từ thơ thành văn sau khi đã quên câu từ của những mẫu truyện nguyên bản. Ta cũng thỉnh thoảng làm rối tung những ý tưởng của mình, và sau một vài tuần cố gắng xếp chúng lại theo đúng thứ tự trước khi bắt đầu viết lại câu văn hoàn chỉnh theo nguyên bản. Điều này dạy ta phương pháp sắp xếp suy nghĩ. Bằng cách so sánh bản viết của ta với nguyên bản, ta tìm ra nhiều lỗi sai và sửa chúng. Tuy nhiên, đôi khi ta cũng thích thú với suy nghĩ rằng, trong những phần đặc thù nào đó của nội dung nhỏ, ta đã đủ may mắn để cải thiện phương thức và ngôn ngữ trong tác phẩm và điều này khuyến khích ta suy nghĩ rằng mình có thể trở thành một nhà văn Anh ở mức chấp nhận được trong tương lai, điều mà ta rất mong muốn. Ta làm những bài tập này và đọc sách vào ban đêm khi làm xong công việc hay trước khi bắt đầu vào buổi sáng hoặc vào những Chủ Nhật khi ta tìm cách ở lại nhà in một mình, lẩn tránh tham dự những buổi lễ công chúng, thứ mà cha ta khi còn sống đòi hỏi ta phải tham gia dưới sự kèm cặp của ông. Và dù trên thực tế, ta cũng xem đó là một trách nhiệm phải làm nhưng có vẻ như ta không có thời gian để làm chuyện đó. https://thuviensach.vn Năm 16 tuổi, tình cờ bắt gặp một cuốn sách viết bởi một người tên Tryon giới thiệu về chế độ ăn kiêng bằng rau. Ta quyết định thử nó. Anh trai ta dù chưa kết hôn nhưng không ở nhà mà sinh sống và học việc tại một gia đình khác. Việc từ chối ăn thịt gây ra sự bất tiện và ta thường bị quở trách vì tính tình quái dị của mình. Ta làm cho mình thật quen với cách chuẩn bị một vài món ăn của Tryon như khoai tây luộc hay gạo, làm bánh pudding nhanh, và một vài món khác, sau đó đề nghị với anh trai rằng nếu anh ấy cho ta số tiền bằng phần nửa số tiền hàng tuần anh trả cho các nhân viên của mình, ta sẽ trở thành nhân viên của anh. Ngay lập tức, anh đồng ý và ta chẳng mấy chốc nhận ra rằng mình có thể tiết kiệm phần nửa số tiền anh trả. Đây là một nguồn quỹ thêm để mua sách. Nhưng ta còn có một cái lợi trong việc này. Khi anh trai ta và những người còn lại rời nhà in đi ăn, ta ở lại ăn nhanh bữa tiệc nhẹ của mình mà hầu như chỉ có chưa đầy một chiếc bánh bích quy hay một mẩu bánh mì, một nắm nho khô hay chiếc bánh nhân hoa quả từ người chuyên làm bánh và một cốc nước. Phần còn lại của thời gian, ta dành cho việc học mà ta đã tiến bộ rất nhanh. Do đó, ta có đầu óc minh mẫn hơn và sáng dạ hơn nhờ việc ăn uống chừng mực. Và dù đã từng xấu hổ vì sự ngu dốt của mình trong môn Số học và đã hai lần thi rớt môn này khi còn học ở trường, giờ đây ta có thể mang cuốn Số Học của Cocker ra và tự đọc qua cả cuốn một cách rất dễ dàng. Ta đọc những cuốn sách về Hàng Hải của Seller cũng như Sermy và trở nên quen thuộc với chút ít hình học trong những cuốn sách đó, nhưng ta chưa bao giờ nghiên cứu sâu hơn. Và trong khoảng thời gian này, ta cũng đọc cuốn Locke on Human Understanding (Hiểu Biết Về Con Người) của Locke và Art of Thinking (Nghệ Thuật Suy Nghĩ) của ngài Du Port Royal. Trong khi đang muốn nâng cao khả năng ngôn ngữ của mình, ta bắt gặp một cuốn sách ngữ pháp tiếng Anh (ta nghĩ là của Greenwood). Cuối cuốn sách có hai đoạn tóm tắt nghệ thuật hùng biện và logic, đoạn tóm tắt thứ hai kết thúc với một ví dụ về tranh luận theo phong cách Socrates và ta nhanh chóng mua ngay cuốn Memorable Things of Socrates (Những Điều đáng nhớ Về Socrates) của Xenophon, cuốn sách có rất nhiều ví dụ về phong cách đó. Ta đã thực sự say mê, theo dõi và quẳng đi cái cách tranh cãi cộc lốc và những lý lẽ quả quyết của mình, thay vào đó là chiếc áo của một người hoài nghi và thẩm tra khiêm nhường. Và sau đó, do đọc Shaftesbury và Collins, ta trở thành kẻ thực sự hoài nghi ở rất nhiều luận điểm trong học thuyết tôn giáo mà chúng ta đang tin tưởng. Ta nhận thấy phương pháp tiếp cận này an toàn nhất cho bản thân mình và rất có thể khiến cho những kẻ chống lại ta cảm thấy bối rối. Vì thế, ta rất phấn khởi với nó, liên tục tập luyện, và phát triển một cách khéo léo cũng như thông thạo nghệ thuật khiến mọi người phải nhượng bộ ta, ngay cả những người có kiến thức cao hơn thông qua việc vẽ ra những kết quả mà họ không thấy trước được, bẫy họ trong những khó khăn mà họ không thể gỡ ra, và giành được những chiến thắng mà không phải lúc nào bản thân ta hay mục đích của ta cũng xứng đáng https://thuviensach.vn có được. Ta tiếp tục theo đuổi phương pháp này trong một vài năm tiếp theo nhưng dần rời bỏ nó, chỉ giữ lại thói quen thể hiện mình với thái độ rất khiêm tốn nhún nhường. Khi gặp phải những sự việc có thể biến chuyển thành tranh luận, ta không bao giờ sử dụng những từ như chắc chắn, rõ ràng, hay những từ ngữ khác mang hơi hướng của sự quả quyết. Thay vào đó, ta nhìn nhận và nắm bắt vấn đề một cách chung chung. Có vẻ như với ta, hoặc do ta nghĩ sự việc nên là chung chung vì những lý do khác nhau hay ta tưởng tượng nó là như vậy, hoặc giả nó thực sự là vậy nếu ta không lầm. Ta tin rằng thói quen này trở nên cực kỳ có lợi cho ta trong những tình huống cần nhấn mạnh ý kiến của mình và thuyết phục người khác đồng ý những giải pháp mà ta đề xuất. Và vì mục đích chính cuối cùng của bất kỳ cuộc hội thoại nào là để thông tin hoặc nhận thông tin, để làm vui lòng hay thuyết phục, ta hy vọng những người thiện chí và hiểu biết sẽ không làm suy giảm quyền lực của những điều tốt đẹp bằng một thái độ kiêu căng, quyết đoán. Thái độ đó thường bị khinh bỉ, tạo ra kẻ thù và đánh bật những người tham gia cuộc hội thoại với mục đích cho-nhận thông tin hay giải trí. Nếu con muốn cho thông tin, một thái độ quyết đoán và giáo điều trong thể hiện ý kiến của mình thường tạo ra sự phản kháng và cản trở việc có được sự tập trung không thiên vị. Nếu con muốn có được thông tin và tiến bộ từ kiến thức của người khác, nhưng cùng lúc lại thể hiện quan điểm bất di bất dịch của mình, những người khiêm tốn, hiểu biết và không thích tranh cãi nhiều khả năng sẽ chẳng làm phiền con tiếp tục những giữ lấy cái sai của mình. Và với thái độ đó, con khó có thể hy vọng mình sẽ làm người nghe thấy dễ chịu hay thuyết phục mọi người đồng ý với mình. Giáo hoàng đã từng dạy rằng: “Con người cần phải được dạy dỗ như thể con không dạy dỗ họ, Và những điều không biết hãy nói như thể đó là những điều đã bị lãng quên;” Xa hơn nữa Giáo hoàng dặn rằng “Dù có chắc chắn, hãy nói như thể mình chưa chắc chắn.” Ta nghĩ rằng và có vẻ như ngài đã không đúng lắm khi gắn dòng dưới đây với vào một dòng khác. “Vì mong muốn sự khiêm tốn là mong muốn khôn ngoan.” Nếu con hỏi, vì sao không đúng? Ta phải lặp lại những dòng sau, “Những lời thiếu khiêm tốn sẽ xúc phạm người khác, Vì mong muốn sự khiêm tốn là mong muốn khôn ngoan.” https://thuviensach.vn Giờ không phải mong muốn khôn ngoan (cái một người không may cần nó) là một lời biện giải của mong muốn sự khiêm tốn sao? Và có phải những dòng đó viết ra như dưới đây thì đúng hơn? “Những lời thiếu khiêm tốn chỉ có tác dụng chứng minh rằng, Mong muốn sự khiêm tốn là mong muốn khôn ngoan.” Tuy nhiên, ta sẽ lắng nghe những nhận xét xuất sắc hơn. Vào năm 1720 hoặc 1721, anh trai ta bắt đầu in báo. Đó là tờ báo thứ hai ở Mỹ và nó có tên New England Courant. Tờ báo duy nhất trước đó là tờ Boston News-Letter. Ta nhớ rõ anh trai ta đã được nhiều bạn bè khuyên can không nên cho ra đời tờ báo đó vì nó sẽ không thành công khi một tờ báo có vẻ như đã là đủ cho nước Mỹ. Vào thời điểm này (năm 1771), đã có không dưới 520 tờ báo. Bất chấp can gián, chúng ta vẫn tiếp tục, sắp xếp các mẫu chữ và cho in những tờ báo. Ta được phân công nhiệm vụ giao báo cho khách hàng. Trong số bạn bè của anh trai ta, có những người rất tài giỏi với thú vui giải trí là viết những tác phẩm ngắn cho tờ báo, nhờ đó giúp nó có thêm tiếng tăm cũng như bán chạy hơn và những quý ông này thường xuyên đến thăm chúng ta. Lắng nghe những cuộc trò chuyện và những khoản tiền mà họ nhận khi bài viết được đăng, ta rất hứng thú muốn thử sức trong công việc này. Tuy nhiên, vì chỉ là một cậu bé và nghi ngờ khả năng anh trai ta sẽ không đăng những bài viết nếu biết tác giả là ta, ta đã che giấu tên tuổi của mình, viết dưới dạng tác giả ẩn danh và đặt một tác phẩm dưới cửa nhà in vào ban đêm. Sáng hôm sau, anh ấy tìm thấy bài thơ và nói chuyện với những người bạn tác giả của mình khi họ đến nhận tiền như thường lệ. Những người này đọc nó và nhận định về nó trong lúc ta lắng nghe. Ta đã vui mừng khôn tả khi tác phẩm được họ chấp thuận và họ cố đoán xem ai là tác giả, những cái tên được nhắc đến toàn là những người có học và tài ba. Giờ đây khi nhìn lại, ta cho rằng mình đã rất may mắn trước những nhà phê bình đó và rằng bọn họ có lẽ cũng không phải là những tác giả thực sự giỏi như họ tưởng. Tuy nhiên, được khích lệ bởi thành công đó, ta tiếp tục viết và chuyển những tác phẩm của mình theo cách đã làm đến tờ báo và chúng đều được chấp thuận. Ta tiếp tục giữ bí mật cho đến khi niềm hứng khởi nhỏ bé cho những tác phẩm đó dần tàn lụi. Và ta nhận ra, việc bắt đầu thu hút sự chú ý từ những người quen của anh trai ta theo cách làm anh không mấy hài lòng, có lẽ anh nghĩ nó sẽ khiến ta trở nên quá tự đắc. Và có lẽ đây là điểm khởi đầu của những mâu thuẫn giữa chúng ta. Dù là anh trai, anh vẫn xem mình là chủ và ta chỉ là kẻ học việc, và vì lẽ đó, anh đòi hỏi sự phục vụ của ta tương tự những người khác trong khi ta cho rằng anh đã hạ thấp vị trí của ta quá nhiều, vì với cương vị là em trai, ta hy vọng được nuông chiều hơn. Những tranh cãi của chúng ta thường được đem đến cho cha phân xử và https://thuviensach.vn ta nghĩ rằng chung quy là do ta đúng hoặc do ta giỏi cãi lý hơn nên phán quyết cuối cùng luôn nằm về phía ta. Nhưng vì anh trai ta là một người dễ cáu giận, trước đó thường xuyên đánh ta, điều mà ta nghĩ là rất không đúng. Nghĩ rằng thời gian học việc của mình thật buồn tẻ, ta tiếp tục ước ao một cơ hội nào đó rút ngắn quãng thời gian này lại, và điều này sau đó đã đến với ta theo cách đầy bất ngờ. (Ta cho rằng sự đối đãi cộc cằn và độc tài của anh ấy với ta có lẽ là nguyên nhân khiến ta ấn tượng với sự chuyên quyền trong suốt cuộc đời mình.) Một bài viết trên tờ báo của chúng ta về quan điểm chính trị nào đó, mà giờ ta đã quên mất rồi, đã xúc phạm đến Quốc Hội. Anh trai ta bị bắt giữ, khiển trách và tống giam một tháng theo lệnh của Chủ tịch Quốc Hội, có lẽ vì anh không thể khai tên tác giả. Ta cũng bị bắt và tra hỏi trước Quốc Hội. Ta không đáp ứng được những yêu cầu của họ, họ cũng tự hài lòng với bản thân thông qua việc khiển trách ta và sau đó tha cho ta về vì ta chỉ là một kẻ học việc, người có nhiệm vụ phải giữ bí mật cho chủ của mình. Trong lúc anh ta phải ngồi tù, hình phạt mà ta đã cảm thấy rất tức giận, bất chấp những mâu thuẫn cá nhân giữa hai anh em, ta đã quản lý tờ báo và bảo quản những dụng cụ in mà anh trai ta rất quý trọng, trong khi những người khác bắt đầu nhìn nhận ta theo hướng bất lợi, là một cậu trai trẻ tài năng có khuynh hướng phỉ báng và cuồng dâm. Anh trai ta được thả kèm với một mệnh lệnh của Hạ viện (một mệnh lệnh rất kỳ cục) rằng “James Franklin không được phép phát hành tờ New England Courant nữa.” Một cuộc hội ý được tổ chức tại nhà in giữa anh ta và những người bạn về đề tài anh ấy nên làm gì trong trường hợp này. Một vài người đề nghị nên lách luật bằng cách thay đổi tên tờ báo nhưng anh trai ta thấy cách đó sẽ tạo ra rất nhiều bất tiện. Cuối cùng, anh chọn một cách tốt hơn đó là phát hành tờ báo dưới cái tên BENJAMIN FRANKLIN. Và để tránh sự kiểm duyệt của Quốc Hội, rằng tờ báo vẫn được in dưới cái tên của kẻ học việc làm trong nhà in, giải pháp là bản khế ước cũ được trả lại cho ta với phần ký kết bị vô hiệu lực hoàn toàn ở mặt sau để đưa ra cho chính quyền xem trong trường hợp cần thiết. Nhưng để đảm bảo quyền lợi có được sự phục vụ của ta, ta phải ký vào những bản khế ước bí mật mới cho phần còn lại của thời gian học việc. Một kế hoạch rất nông cạn, tuy nhiên ngay lập tức nó được thực thi và tờ báo vẫn tiếp tục được in ra dưới tên ta trong vài tháng kế tiếp. Sau đó, một bất đồng mới nảy sinh giữa anh trai và ta, ta đã đòi tự do với suy nghĩ rằng anh ấy sẽ không mạo hiểm ký những bản khế ước mới. Ta đã không công bằng khi lợi dụng điều này và đây là một trong những sai lầm đầu đời của mình. Nhưng lúc đó, bất công không phải là cái ta bận tâm khi luôn sống dưới sự uất ức vì những trận đòn từ tính khí nóng nảy https://thuviensach.vn của anh, dù rằng anh không phải là một người xấu: có lẽ lúc đó, thái độ của ta quá hỗn láo và khiêu khích. Khi biết ta có ý định bỏ đi, anh ấy ngăn không cho ta cơ hội tìm được việc ở bất kỳ nhà in nào khác trong thị trấn bằng cách nói chuyện với những người chủ nhà in và do đó ta bị tất cả bọn họ từ chối nhận vào làm. Sau đó, ta nghĩ tới việc chuyển đến New York, nơi gần nhất có một nhà in và ta càng muốn rời khỏi Boston hơn khi biết rằng mình đã tạo ra một hình ảnh khá khó chịu trong mắt chính quyền địa phương. Từ vụ án của anh trai mình, có lẽ nếu ở lại ta sẽ sớm dính vào rắc rối và xa hơn nữa là những cuộc tranh luận mạnh mẽ về tôn giáo trước đó đã khiến những người tốt sợ hãi ta và coi ta như một kẻ vô thần hay vô đạo. Ta đã quyết định ra đi, nhưng giờ đây cha đang đứng về phía anh trai, do đó ta biết rằng nếu ta nói ra thì sẽ bị ngăn cản. Vì thế, anh bạn Collins của ta giúp đỡ ta một chút trong lần ra đi này. Cậu ấy thoả thuận với thuyền trưởng một chiếc thuyền buồm nhỏ ở New York cho chuyến đi của ta với câu chuyện rằng, ta, một người quen của cậu có con với một cô gái hư hỏng, do vậy ta không thể xuất hiện công khai mà phải lén lút bỏ đi vì bạn bè cô ta bắt ta phải cưới cô ấy. Ta bán một vài cuốn sách để có tiền, được đón lên tàu một cách bí mật, và thuận buồm xuôi gió làm sao, trong 3 ngày ta đã đặt chân tới New York, cách quê hương mình 300 dặm đường, một chàng trai chỉ mới 17 tuổi, không một sự tiến cử hay quen biết ai nơi này, chỉ với một ít tiền trong túi. Lòng yêu thích biển cả của ta lúc này đã lụi tàn hoặc có thể là do ta đã thoả mãn nó. Tuy nhiên, với tay nghề và sự tự tin rằng mình là một người thợ giỏi, ta hỏi xin việc ở một nhà in trong vùng của ông già William Bradford, người từng là thợ in đầu tiên ở Pennsylvania, nhưng rời khỏi nơi đó sau khi cãi nhau với George Keith. Ông ấy không nhận ta vì công việc quá ít và đã có đủ người, nhưng ông nói: “Trợ thủ đắc lực của con trai ta ở Philadelphia, Aquila Rose, vừa qua đời. Nếu cháu đến đó, ta nghĩ nó sẽ nhận cháu.” Philadelphia lại còn xa hơn cả trăm dặm, tuy nhiên ta vẫn khởi hành đến Amboy trên một chiếc thuyền cùng rương và đồ đạc. Trong lúc vượt qua vịnh, một cơn bão mạnh ập đến và xé tan những cánh buồm cũ nát thành từng mảnh khiến chúng ta không thể đến được Kill và phải di chuyển tới Long Island. Trên đường đi, một gã hành khách người Hà Lan say xỉn rơi ra khỏi tàu. Ta nắm được đầu của hắn trong khi hắn đang chìm, kéo lên thuyền và cứu hắn. Rơi xuống nước làm hắn tỉnh rượu đôi chút, hắn móc trong túi ra một cuốn sách yêu cầu ta phơi khô dùm hắn và sau đó hắn ngủ. Cuốn sách đó là một trong những cuốn mà ta yêu thích, Pilgrim’s Progress (Sự Thăng Tiến của Người Hành Hương) của Bunyan viết bằng tiếng Hà Lan, được in cẩn thận trên giấy tốt, khắc đồng, cũng những câu chữ đó song được thiết kế đẹp hơn tất cả những cuốn mà ta từng gặp. Từ đó ta biết rằng, cuốn sách đó được dịch ra hầu hết các ngôn ngữ ở Châu Âu và ta cho rằng nó có lẽ được đọc rộng rãi hơn bất kỳ cuốn sách nào khác ngoại trừ https://thuviensach.vn Kinh Thánh. Honest John là người đầu tiên, theo ta biết, trộn văn kể chuyện với hội thoại, một phong cách viết rất lôi cuốn người đọc. Khi đọc cuốn sách này, đôi khi trong những phần thú vị nhất người ta cảm thấy như mình đang có mặt và tham gia vào câu chuyện. De Foe trong cuốn Cruso, Moll Flanders, Religious Courtship (Sự Ve Vãn Tôn Giáo), Family Instructor (Người Thầy Gia Đình) cùng nhiều tác phẩm khác đã bắt chước phương pháp này một cách thành công và Richarson cũng làm tương tự với tác phẩm Pamela, v.v… Khi đến gần hòn đảo, chúng ta nhận ra không thể cập bến ở đây- nơi có những ngọn sóng lớn trên bãi biển đầy đá. Vì vậy, chúng ta thả neo và đi lang thang trên bờ biển. Một vài người đi xuống sát mặt nước gọi vọng lên, chúng ta cũng gọi họ, nhưng vì gió quá to và những ngọn sóng quá ồn nên chúng ta không thể nghe hay hiểu họ đang nói gì. Có những chiếc xuồng trên bờ biển, chúng ta ra dấu gọi họ đến đón chúng ta nhưng có lẽ họ không nhìn thấy hoặc là nghĩ chuyện đó không khả thi nên bỏ đi, và màn đêm buông xuống. Chúng ta không còn lựa chọn nào ngoài việc chờ cho gió dịu bớt. Và trong lúc chờ đợi, ta và người lái tàu quyết định đi ngủ nếu có thể. Lỗ thông chỗ mái tàu vẫn rất đông người với gã Hà Lan ướt sũng và bụi nước từ các con sóng văng tung toé trên đầu tàu khiến chúng ta cũng gần ướt như hắn. Chúng ta phải nằm trong tình trạng như vậy cả đêm và chỉ ngủ rất ít. Nhưng ngày hôm sau, gió đã dịu bớt và chúng ta cập bến Amboy trước khi màn đêm xuống sau 30 giờ trên biển không lương thực hay thức uống, chỉ có một chai rượu Rhum bẩn thỉu và nước biển mặn chát. Vào buổi chiều, dường như có triệu chứng sốt nên ta định đi ngủ, nhưng vì đọc ở đâu đó rằng uống nước lạnh nhiều có thể chữa được sốt, ta làm theo chỉ dẫn đó, đổ mồ hôi suốt đêm, cơn sốt qua đi, và vào buổi sáng, sau khi qua phà, ta tiếp tục đi bộ khi còn cách Burlington 50 dặm, nơi mọi người nói rằng có những chiếc thuyền sẽ chở ta đến được Philadelphia. Trời đổ mưa to cả ngày, ta ướt sũng toàn thân. Tới trưa, khi đã thấm mệt, ta dừng chân ở một quán trọ tồi tàn và nghỉ lại đó cả đêm, bắt đầu ao ước rằng mình đã không bỏ nhà ra đi. Từ những câu hỏi của người khác dành cho mình, ta cũng đau khổ nhận ra rằng ta đang mang hình của một kẻ hầu bỏ trốn và có nguy cơ bị bắt giữ. Tuy nhiên, ngày hôm sau ta vẫn tiếp tục đi và đến một nhà trọ của bác sĩ Brown vào lúc xế chiều, cách Burlington 8 hay 10 dặm gì đó. Ông Brown bắt đầu nói chuyện với ta khi ta đang nghỉ ngơi và tỏ ra rất thân thiện khi biết ta cũng từng đọc một ít sách. Hai chúng ta tiếp tục mối giao hảo này cho đến khi ông mất. Ta nghĩ ông là một bác sĩ từng ngao du đó đây vì không một thành phố nào ở Anh hay đất nước nào ở Châu Âu ông không thể miêu tả tỉ mỉ. Ông rất thông minh nhưng không tin vào tín ngưỡng, ông có sáng tác một vài tác phẩm và vài năm sau sáng tác những tác phẩm bôi bác, nhại theo những ngôn từ trong Kinh Thánh dưới dạng những bài vè như Cotton từng làm trong tác phẩm Virgil. Bằng cách này, ông bóp méo nhiều dữ kiện theo cách https://thuviensach.vn rất buồn cười và có thể sẽ làm tổn thương những người yếu bóng vía nếu được xuất bản, nhưng điều đó đã không xảy ra. Ta nghỉ lại nhà ông ấy đêm đó và hôm sau đến Burlington. Nhưng ta đau đớn nhận ra rằng những chuyến tàu thường xuyên đã rời bến trước khi ta đến và sẽ không có chuyến mới cho đến Thứ Ba, hôm đó là Thứ Bảy. Do vậy, ta đến tìm một người đàn bà lớn tuổi trong thành phố, người mà ta đã mua một cái bánh gừng để ăn khi trên tàu và xin bà lời khuyên. Bà mời ta ở lại nhà mình cho đến khi có chuyến tàu tiếp theo. Vì đã quá mệt với việc đi bộ, ta nhận lời mời đó. Biết rằng ta là một thợ in, bà đã muốn ta ở lại thành phố này tiếp tục công việc kinh doanh dù không biết gì về những điều kiện thiết yếu để bắt đầu. Bà rất hiếu khách khi nhiệt tình mời ta ăn tối với món má trâu và chỉ nhận một ly rượu để cảm ơn, ta đã tưởng rằng mình sẽ ở lại đó cho đến Thứ Ba. Tuy nhiên, khi đang đi dạo dọc bờ sông, ta bắt gặp một chiếc thuyền chở nhiều người chạy ngang qua và được biết rằng nó sẽ đi đến Philadelphia. Ta lên thuyền và vì trời không có gió, chúng ta phải chèo suốt chặng đường. Vào khoảng giữa đêm, vì vẫn chưa tới được thành phố, một vài người khẳng định rằng chúng ta đã đi quá mất rồi, trong khi những người còn lại không biết mình đang ở đâu. Vì thế, chúng ta hướng vào bờ, rẽ vào một nhánh sông và đậu gần dãy hàng rào cũ. Chúng ta dùng gỗ từ hàng rào để nhóm lửa vì trời tháng Mười rất lạnh và ở lại đó cả đêm cho đến khi trời sáng. Sau đó, một người trong đoàn chợt nhận ra đây là nhánh sông Cooper nằm phía trên Philadelphia một chút. Chúng ta thấy Philadelphia ngay sau khi ra khỏi nhánh sông và cập vào bến tàu trên đường Market khoảng 8 hay 9 giờ sáng ngày Chủ Nhật. Đặc biệt ta đã miêu tả rất kỹ về chuyến đi này và sẽ tiếp tục nói cụ thể về lần đầu tiên đặt chân vào thành phố để con có thể so sánh sự khác biệt giữa lần đến này với những lần sau. Lúc đó, ta mặc một bộ đồ thợ, bộ đẹp nhất đã cùng ta đi vòng quanh biển cả. Ta khá bẩn sau chuyến đi, túi ta nhét đầy áo sơ mi và bít tất, ta không quen ai cũng như không biết sẽ tìm nơi đâu để dung thân. Ta đã rất mệt mỏi sau chuyến đi, phải chèo thuyền, đói, muốn nghỉ ngơi và tất cả số tiền mà ta có là 1 đồng đô-la Hà Lan và 1 shilling. Ta trả những người cho ta đi nhờ thuyền đồng shilling, dù họ từ chối với lý do ta đã tham gia việc chèo thuyền, ta vẫn khăng khăng bắt họ phải nhận. Một người đôi khi rộng rãi hơn khi có ít tiền có lẽ vì sợ rằng người khác nghĩ mình không có tiền. Sau đó, ta đi dọc con phố nhìn xung quanh cho đến khi gặp một thằng bé gần ngôi nhà cuối chợ. Bánh mì đã nhiều lần thành bữa ăn chính của ta và ta hỏi thằng bé chỗ có thể mua bánh. Ta lập tức đi đến hiệu bánh ở đường Second theo lời chỉ dẫn của thằng bé và hỏi mua một cái bánh bích quy như cái ta hay mua ở Boston. Tuy nhiên, có vẻ như Philadelphia không có loại bánh này. Ta hỏi mua một miếng bánh mì giá 3 penny và lại nhận được câu trả lời rằng họ không bán loại bánh đó. Vì thế, dù không biết liệu tiền ở đây có khác gì so với Boston, giá bánh rẻ hơn hay tên gọi khác nhau, ta bảo ông chủ bán cho ta bất kỳ cái bánh https://thuviensach.vn nào với giá 3 penny. Theo yêu cầu, ông chủ đưa ta 3 ổ bánh phồng. Ta thực sự ngạc nhiên vì nó nhiều quá nhưng cũng nhận nó. Vì trong túi không còn chỗ, ta vừa đi vừa cặp mỗi tay một ổ bánh trong khi miệng ăn ổ bánh còn lại. Sau đó, ta ngao du từ đường Market đến tận đường Fourth và đi ngang qua cửa nhà ông Read, cha vợ tương lai của ta. Nàng đứng trước cửa nhà nhìn ta như thể nghĩ rằng hình hài của ta thật vụng về, buồn cười và thực sự đúng là vậy. Sau đó, ta đi ngược lại phố Chestnut và một phần của đường Walnut, tiếp tục ăn bánh, vòng ngược lại và thấy mình đang ở bến cảng trên đường Market gần chiếc thuyền ban nãy. Ta quyến định đi đến cảng để hóng gió sông. Vì đã no nê với ổ bánh đầu tiên, ta cho người phụ nữ với đứa con đi chung thuyền đang đứng chờ đi tiếp hai ổ bánh còn lại. Khi tỉnh táo khỏi cơn đói, ta lại đi lên phố, lúc đó có rất nhiều người ăn mặc đẹp đẽ cùng đi theo một hướng. Ta gia nhập nhóm người này và bị dẫn dắt tới một nhà họp lớn của các tín đồ phái giáo hữu gần chợ. Ta ngồi chung với họ. Sau khi nhìn xung quanh một lúc và không nghe ai nói gì, vì quá mệt do phải làm việc và không được nghỉ ngơi đêm trước đó, ta ngủ gật cho đến lúc một người tử tế đã đánh thức ta dậy khi buổi họp kết thúc. Đây là ngôi nhà đầu tiên ta ở hay ngủ tại Philadelphia. Lại đi về hướng con sông và quan sát khuôn mặt những người dân ở đó, ta gặp một cậu trai trẻ giáo phái hữu có vẻ mặt mà ta cảm thấy thích. Ta lại bắt chuyện và hỏi cậu ấy nơi một người lạ có thể tìm chỗ trú thân ở khu vực này. Lúc đó, chúng ta đang đứng gần một địa điểm có bảng hiệu Three Mariners. “Đây này,” cậu ấy nói, “là chỗ giải trí cho những người lạ nhưng không nổi tiếng lắm, nếu đi với tôi, tôi sẽ chỉ cho anh một chỗ tốt hơn.” Cậu ấy dẫn ta đến nhà nghỉ Crooked Billet ở đường Water. Ta dùng bữa tối ở đây và khi đang ăn, ta nhận được rất nhiều câu hỏi châm biếm về ngoại hình và độ tuổi của ta, những điều khiến mọi người nghĩ rằng ta là một kẻ đang trốn chạy. Sau khi ăn tối, cơn buồn ngủ ập đến, ta được dẫn tới một căn phòng và ta nằm xuống ngủ mà không thay đồ cho đến tận 6 giờ tối, được gọi dậy ăn tối và lại lên giường ngủ rất sâu cho đến tận sáng hôm sau. Sau đó, ta tắm rửa sạch sẽ và tìm đến nhà in của Andrew Bradford. Ta gặp lại ông William Bradford, người lúc trước đã gặp ở New York. Ông đến Philadelphia trước ta vì đi bằng ngựa. Ông giới thiệu ta với con trai ông và anh này đón tiếp ta rất lịch sự, mời ta dùng bữa sáng và mặc dù thông báo với ta rằng hiện tại không cần người phụ nữa vì mới tìm được người, anh vẫn giới thiệu cho ta một thợ in khác tên Keimer trong thành phố vừa mới khai trương nhà in và có thể sẽ nhận ta. Nếu không được nhận, ta vẫn được chào đón ở lại đó và anh sẽ giao cho ta một ít việc cho đến khi có nhu cầu lớn hơn. Ông William Bradford nói với ta rằng ông sẽ đi cùng ta đến chỗ nhà in mới. Khi gặp người chủ nhà in, ông Bradford nói: “Chào ông hàng xóm, tôi dẫn đến cho ông một cậu trai trẻ để giúp việc cho ông, có thể ông cần một người.” Ông chủ nhà in hỏi ta vài câu hỏi, đưa https://thuviensach.vn cho ta một que in để xem ta xử lý ra sao và nói rằng sẽ sớm nhận ta vào làm dù rằng lúc đó ông ấy cũng chưa có việc gì cho ta làm và xem ông già Bradford, người ông chưa bao giờ gặp trước đây, như một người có thiện chí tốt bụng trong thành phố. Hai người nói chuyện về những dự án và công việc hiện tại của Keimer. Quên rằng mình là cha của một chủ nhà in khác, khi nghe Keimer nói rằng ông này dự định sẽ nhanh chóng giành hết công việc kinh doanh in ấn trong vùng, ông Bradford tỏ ra nghi ngờ và đưa ra những câu hỏi rất khôn ngoan để Keimer giải thích những dự định, năng lực và cách thức thực hiện của ông này. Ta đứng đó nghe tất cả mọi chuyện và nhận ra rằng một người thì đầy kinh nghiệm và cáo già, còn người kia chỉ có tầm vóc của một kẻ học việc. Bradford để ta lại chỗ Keimer và Keimer đã rất ngạc nhiên khi ta hỏi ông già kia là ai. Nhà in của Keimer có một cái máy in cũ đã gần vỡ vụn và một bộ mẫu chữ tiếng Anh đã cũ sờn, cái mà sau đó ta dùng để in tác phẩm Khúc Bi Thương của Aquila Rose, người trước đó ta đã từng nhắc đến. Ông là một người trẻ tuổi có tài năng và tính cách tuyệt vời, được nhiều người trong vùng kính trọng, là thành viên của Quốc Hội và là một nhà thơ xuất sắc. Keimer cũng cho in những tập thơ nhưng rất hời hợt. Không thể bảo ông viết chúng xuống giấy vì phong cách của ông là sắp các bảng chữ in theo những gì ông nhớ. Vì vậy không có bản lưu nào ngoại trừ một cặp hộp chữ in và tác phẩm Khúc Bi Thương cần hầu như tất cả chữ cái. Không ai có thể giúp Keimer. Ta cố gắng sửa lại cái máy in để nó có thể hoạt động (cái máy đó chưa được sử dụng lần nào và Keimer cũng không hiểu gì về nó). Hứa rằng ta sẽ trở lại và in tác phẩm Khúc Bi Thương ngay khi ông ấy có được nó, ta quay trở về chỗ của Bradford và ông giao cho ta một số công việc nhỏ để làm, chỗ trú ngụ và thực phẩm. Vài ngày sau, Keimer nhắn ta đến in tác phẩm Khúc Bi Thương. Ông bảo ta bắt đầu làm việc vì khi ấy ông đã có một cặp hộp chữ in mới và cuốn sách mẫu để in. Cả hai chủ nhà in mà ta gặp đều không đủ khả năng làm công việc in ấn. Bradford chưa bao giờ được học nghề in và học hành rất ít, còn Keimer dù là một trí thức nhưng cũng chỉ biết xếp mẫu chữ in và không biết gì về sử dụng máy in cả. Trước đó, Keimer là một trong những người khai sáng các học thuyết của Pháp và những lời nói của ông có thể khuấy động rất nhiều người. Vào thời điểm này, ông không theo bất kỳ tôn giáo nào mà theo một loại tôn giáo tổng hợp. Keimer rất thiếu kiến thức về thế giới và sau đó ta còn biết ông viết rất nhiều điều sai trong các tác phẩm của mình. Keimer không thích ta ở chỗ Bradford khi làm việc cho ông. Ông có thuê một ngôi nhà nhưng không có đồ đạc gì bên trong, do vậy không thể cho ta ở nhưng ông gửi ta đến ở nhờ nhà của ông Read, người chủ cho Keimer thuê nhà mà ta đã nhắc đến trước đây. Lần này thì chiếc rương và đồ đạc của ta cũng được dọn tới và ta xuất hiện trước mắt nàng Read trong bộ dạng khá hơn nhiều so với hình ảnh vừa đi vừa ăn bánh lúc trước. https://thuviensach.vn Ta bắt đầu làm quen với những người trẻ tuổi thích đọc sách trong thành phố và chúng ta thường họp mặt vào những buổi chiều rảnh rỗi. Kiếm được tiền và tiết kiệm, ta sống rất thoải mái, cố gắng quên đi Boston thật nhiều mà mình có thể và muốn rằng không có ai ở Boston biết ta đang sống tại đây, ngoại trừ người bạn Collins bí mật mà ta thường viết thư và Collins luôn giữ kín điều này. Lâu sau đó, một sự kiện xảy ra đã khiến ta phải quay trở về Boston sớm hơn dự kiến. Ta có một người anh rể tên Robert Holmes, chủ một con tàu buôn qua lại giữa Boston và Delaware. Khi đang ở Newcastle, 40 dặm dưới Philadelphia, Holmes nghe nói về ta và anh viết cho ta một lá thư rất nghiêm túc để khuyên ta, kể về sự lo lắng của những người bạn trước sự ra đi đột ngột của ta, quả quyết rằng họ đều nghĩ tốt về ta và nói rằng nếu quay trở về mọi thứ sẽ được chiều theo ý ta. Ta viết một lá thư cảm ơn anh vì lời khuyên nhưng nói rõ lý do ta rời bỏ Boston theo cách để thuyết phục Holmes rằng ta không quá sai lầm như anh đã nghĩ. Ngài William Keith, Thống đốc Bang Philadelphia, lúc đó đang ở Newcastle. Holmes nhận được lá thư của ta đúng lúc đang ở cùng ông này, nói chuyện với Keith về ta và đưa ra lá thư. Thống đốc Keith đọc lá thư và có vẻ như ngạc nhiên khi biết số tuổi của ta. Ngài nói ta có vẻ là một chàng trai trẻ có tài năng hứa hẹn do đó nên được khuyến khích phát triển, những chủ nhà in tại Philadelphia đều là những người kém cỏi và nếu ta muốn xây dựng sự nghiệp của mình ở đó, ngài tin chắc ta sẽ thành công. Về phần mình, ngài sẽ mua dịch vụ của ta và làm tất cả mọi hỗ trợ khác trong khả năng. Sau này, Holmes mới nói với ta về điều đó chứ lúc đó ta không biết gì về nó cả. Một ngày nọ, khi đang làm việc với Keimer, chúng ta thấy Thống đốc và một quý ông khác (người này là đại tá French của Newcastle) ăn mặc chỉnh tề, băng qua con đường đến ngôi nhà nơi chúng ta làm việc và gõ cửa. Keimer lập tức chạy xuống nghĩ rằng đây là khách của mình nhưng Thống đốc lại yêu cầu gặp ta. Ông lên lầu, và với sự hạ mình lịch sự mà ta thấy không quen cho lắm, ông tấm tắc khen ta, muốn làm bạn với ta, trách ta vì sao không nói cho ông biết ta là ai ngay khi đến đây và mời ta đi cùng ông đến quán rượu nơi ông sẽ cùng đại tá French nhâm nhi loại rượu Madeira hảo hạng. Ta tỏ ra rất ngạc nhiên và Keimer bắt đầu cư xử như bị chọc tiết. Tuy nhiên, ta cũng đi cùng Thống đốc và đại tá French đến một quán rượu ở góc đường Third và khi đang nhâm nhi rượu Madeira, ngài đề nghị ta mở nhà in riêng của mình, bày trước mặt ta cơ hội thành công. Cả Thống đốc và đại tá French bảo đảm rằng ta sẽ nhận được sự ủng hộ và những ảnh hưởng của họ để giành được những hợp đồng in ấn từ chính phủ của cả hai vùng. Khi ta tỏ ý nghi ngờ khả năng cha ta sẽ ủng hộ chuyện này, ngài William nói rằng ông sẽ gửi cho cha ta một lá thư giải thích những cái lợi và ngài tin rằng sẽ thuyết phục được cha ta. Trong khi đó, dự định này vẫn được giữ kín và ta vẫn làm ở nhà in của Keimer như bình thường. Thống đốc vẫn thường gọi ta tới ăn tối và trò chuyện với ngài theo cách https://thuviensach.vn thân thiện, hoà nhã, thân quen nhất có thể tưởng tượng ra và ta đã nghĩ đó là một vinh dự lớn. Vào khoảng cuối tháng 4 năm 1724, một chiếc thuyền nhỏ khởi hành đến Boston. Ta xin nghỉ ở nhà in của Keimer với lý do về thăm bạn bè. Ngài Thống đốc đưa cho ta một lá thư nói rất nhiều điều tốt về ta với cha cũng như nhiệt liệt khuyến khích việc ta mở nhà in riêng ở Philadelphia và xem đó như cơ hội để ta có thể trở nên giàu có. Chiếc thuyền chở ta rơi vào vùng nước nông và thủng một lỗ. Chúng ta phải chống chọi ở biển một quãng thời gian, phải liên tục bơm nước ra khỏi thuyền và ta cũng tham gia công việc này. Tuy nhiên, cuối cùng chiếc thuyền cũng đến được Boston an toàn trong khoảng 2 tuần. Ta đã rời khỏi Boston 7 tháng, bạn bè ta không ai nghe tin tức gì về ta và anh Holmes chưa trở về cũng như chưa viết thư về chuyện của ta. Sự xuất hiện không báo trước của ta khiến cả gia đình rất bất ngờ, tuy nhiên mọi người đều mừng rỡ và chào đón ta trở về, trừ anh James. Ta đến thăm anh ở nhà in. Ta ăn mặc đẹp hơn thời còn làm cho anh với một bộ com lê mới nhã nhặn từ đầu tới chân, đeo một chiếc đồng hồ, và trong túi có gần 5 Bảng Anh bằng bạc. Anh ấy chào đón ta không mấy vui vẻ, chỉ nhìn qua loa sau đó lại quay sang làm việc của mình. Những người thợ trong nhà in rất muốn biết ta đã đi đâu, tới đất nước nào và nó ra sao. Ta khen Philadelphia rất nhiều, nói về cuộc sống hạnh phúc và cho biết ta sẽ chắc chắn quay trở về đó. Một người hỏi ở đó dùng loại tiền gì, ta móc ra một nắm tiền bạc và rải ra trước mặt họ. Có vẻ như đây là một sô diễn rất thú vị chưa từng thấy ở Boston vì ở đây mọi người chỉ dùng tiền giấy. Sau đó, ta cho họ xem cái đồng hồ của mình và sau cùng (trong lúc anh trai ta vẫn càu nhàu và xịu mặt xuống), ta cho họ một ít tiền để đi uống rượu và rời khỏi nhà in. Chuyến viếng thăm này của ta đã xúc phạm mạnh mẽ tới anh James, và sau đó đã có lúc mẹ ta nói về chuyện giảng hoà giữa hai người và mong muốn hai đứa con hoà hợp sống chung như anh em, nhưng James nói rằng ta đã sỉ nhục anh trước mặt toàn thể mọi người trong nhà in theo cái cách mà anh ấy không bao giờ quên được. Nhưng trong chuyện này anh ấy đã hiểu lầm. Khi nhận được thư của ngài Thống đốc, cha ta rất ngạc nhiên nhưng sau đó rất ít đề cập về việc này với ta trong vài ngày. Cho đến khi anh Holmes trở về, ông đưa anh ấy lá thư, hỏi rằng anh có biết Keith không và ông này là loại người nào cho rằng Keith chắc hẳn đã không thật thấu đáo khi suy nghĩ rằng một cậu bé có thể xây dựng một nhà in, công việc cần ít nhất là 3 năm kinh nghiệm. Holmes nói anh ủng hộ dự án này nhưng cha ta khăng khăng cho rằng thời điểm này là không thích hợp và cuối cùng dứt khoát từ chối. Sau đó, ông viết một lá thư lịch sự cho ngài William, cảm ơn ngài vì đã chăm sóc tử tế cho ta nhưng từ chối việc ủng hộ ta xây dựng nhà in vì theo suy nghĩ của ông ta quá trẻ để có thể quản lý một công việc kinh doanh quan trọng đến vậy và sự chuẩn bị là rất tốn kém. https://thuviensach.vn Người bạn thân của ta, Collins, lúc đó đang là nhân viên bưu điện rất thích những gì ta kể cậu nghe về đất nước mới đó và quyết định cũng đi đến Philadelphia. Và trong khi chờ đợi quyết định của cha ta, Collins khởi hành trước bằng đường bộ đến Rhode Island, nhờ ta mang theo dùm đến New York bộ sưu tập phần lớn là sách Toán học và khoa học tự nhiên mà cậu đã bỏ lại và sẽ chờ ta ở đó. Cha ta dù không chấp thuận đề nghị của ngài William nhưng vẫn rất hài lòng vì ta có được sự ủng hộ từ một người có quyền lực như thế ở Philadelphia, và vì ta đã rất cần cù, cẩn thận để có thể giúp bản thân mình thăng tiến nhanh trong một thời gian ngắn đến vậy. Do đó, ông không quan tâm đến chuyện giảng hoà giữa ta và anh trai nữa và đồng ý để ta quay trở lại Philadelphia kèm theo lời khuyên ta cần phải cư xử lễ phép với người dân ở đó, cố gắng có được sự quý trọng và tránh những đả kích, vu cáo, cái mà cha nghĩ ta có khuynh hướng hay vướng vào. Ông nói bằng cách làm việc chăm chỉ và sống cần kiệm, ta có thể kiếm đủ tiền vào năm 21 tuổi để mở công việc kinh doanh riêng và nếu lúc đó ta cần, ông sẽ giúp ta phần còn lại. Đây là tất cả những gì ta nhận được cộng với những món quà thể hiện tình yêu thương của ông và mẹ ta khi ta khởi hành đi New York một lần nữa, giờ đây là dưới sự ủng hộ và chúc phúc của cha mẹ. Chiếc tàu dừng ở cảng Newport, Rhode Island, nơi ta lên bờ để thăm anh trai, John, người đã kết hôn và định cư ở đây vài năm trước. Anh chào đón ta rất nồng nhiệt vì anh lúc nào cũng quý ta. Một người bạn của anh, tên là Vernon, có nợ anh một số tiền ở Pensilvania, khoảng 35 Bảng Anh và anh muốn ta giữ số tiền đó cho đến khi anh nghĩ ra cần lấy chúng để làm gì. Sau đó, anh đưa cho ta một yêu cầu trả tiền. Chuyện này đã làm ta dính vào rất nhiều vấn đề không mấy dễ chịu. Ở cảng Newport, chuyến tàu đón rất nhiều khách đi đến New York trong số đó có hai người phụ nữ trẻ đi chung với nhau và một người đàn bà tín đồ giáo phái hữu, ăn mặc chỉnh tề dường như đã kết hôn đi cùng những người phục vụ. Ta đã tỏ ra khá sẵn lòng giúp bà trong một số công việc nhỏ và có thể điều đó đã gây ấn tượng tốt trong bà. Vì vậy, khi thấy ta và hai người phụ nữ trẻ ngày càng thân thiết hơn, bà gọi ta ra nói chuyện riêng: “Cậu trai trẻ, ta rất lo cho cậu vì cậu không có bạn bè gì và dường như không có nhiều kinh nghiệm về thế giới hay những điều xấu mà tuổi trẻ thường gặp phải. Theo kinh nghiệm của ta, hai người phụ nữ đó rất xấu. Ta có thể thấy điều đó trong hành vi của họ và nếu cậu không cảnh giác, họ có thể đẩy cậu vào nguy hiểm. Họ là những người lạ, ta khuyên cậu, với sự quan tâm thân thiện dành cho cậu, rằng đừng giao du với họ.” Ban đầu ta không nghĩ họ xấu như bà ấy nói, bà liền nêu một số ví dụ mà bà quan sát thấy, nghe được và ta đã bị thuyết phục rằng bà đúng. Ta cảm ơn bà vì lời khuyên và hứa sẽ làm theo nó. Khi tàu cập bến New York, hai người phụ nữ cho ta biết chỗ họ ở và mời ta đến chơi nhưng ta đã từ chối. Có vẻ như đó là một quyết định đúng vì ngày hôm sau thuyền trưởng phát hiện mất https://thuviensach.vn một chiếc muỗng bạc và một vài thứ khác trong cabin của ông. Khi biết rằng có một cặp gái làng chơi trên tàu, ông yêu cầu khám xét phòng của hai người này, họ tìm lại các món đồ bị mất cắp và những tên trộm đã bị trừng phạt. Dù đã từng thoát khỏi một vụ chìm tàu trong hành trình của mình, ta nghĩ rằng lần thoát thân này còn quan trọng hơn nhiều. Ở New York, ta gặp Collins, người đã đến đó trước ta một lúc. Chúng ta chơi thân với nhau từ nhỏ và đã từng đọc chung nhiều cuốn sách nhưng cậu ấy có lợi thế hơn ta vì có nhiều thời gian để đọc và học hành, không những thế cậu ấy còn là một người có năng khiếu với Toán học, môn học mà cậu ấy giỏi hơn ta rất nhiều. Trong thời gian ở Boston, ta dùng phần lớn thời gian nhàn rỗi của mình để nói chuyện với cậu và cậu có vẻ vẫn là một người bạn cần cù, siêng năng. Collins nhận được nhiều sự kính trọng từ giới tăng lữ và những quý ông khác nhờ học thức của mình và có vẻ sẽ có một tương lai đầy hứa hẹn. Nhưng trong thời gian ta rời khỏi Boston, Collins bắt đầu có thói quen uống rượu mạnh và ta nhận thấy trong lời nói của cậu ấy cũng như lời kể của những người khác rằng cậu ấy say xỉn suốt ngày kể từ khi đến New York và cư xử rất kỳ cục. Cậu ấy cũng đánh bạc và thua rất nhiều tiền, vì vậy ta buộc phải trả lại ngôi nhà cậu thuê từ Philadelphia để thanh toán những khoản chi phí cho cậu ấy, điều cực kỳ bất tiện với ta. Thống đốc New York, Burnet (con trai của mục sư Burnet), nghe nói từ thuyền trưởng rằng một cậu trai trẻ, một trong những hành khách trên tàu, có rất nhiều sách vì vậy ngài mời ta đến gặp. Ta đến theo yêu cầu của ngài và lẽ ra ta sẽ dẫn Collins theo nhưng lúc đó cậu ấy tỏ ra không ổn định về tinh thần lắm. Ngài Thống đốc đón tiếp ta rất lịch sự, cho ta thăm thư viện khổng lồ của ngài và đã nói chuyện rất nhiều về sách và những tác giả. Đây là vị thống đốc thứ hai để ý đến ta, một cậu bé nghèo, và điều đó khiến ta rất vui. Chúng ta khởi hành đến Philadelphia. Trên đường đi, ta nhận được tiền từ Vernon và nếu thiếu khoản tiền này chúng ta đã không thể hoàn tất cuộc hành trình. Collins muốn làm việc ở phòng tài vụ nhưng khi mọi người ngửi thấy mùi rượu từ hơi thở hay hành động của cậu ấy, dù rằng cậu cũng có những sự tiến cử, không ai nhận Collins vào làm cả và cậu phải tiếp tục ở chung nhà với ta với chi phí do ta trang trải. Biết rằng ta có nhận được một số tiền từ Vernon, cậu tiếp tục mượn ta và hứa hẹn rằng sẽ trả ngay khi tìm được việc. Một thời gian sau, cậu ấy đã mượn nhiều đến nỗi ta thực sự khổ sở khi phải suy nghĩ đến cảnh mình sẽ làm gì nếu người ta đòi trả tiền lại. Cậu ấy tiếp tục uống rượu và chúng ta thỉnh thoảng cãi nhau về vấn đề này vì khi có hơi men trong người, Collins thường trở nên rất thiếu đoàn kết. Một lần, trên chiếc thuyền đi đến Delaware với những người trẻ tuổi khác, cậu ấy từ chối chèo khi đến lượt mình. “Mọi người sẽ chèo đưa tôi về nhà,” cậu nói. Và ta trả lời: “Chúng tôi sẽ không chèo chở cậu về nhà.” “Các cậu phải chèo hoặc không thì sẽ ở cả đêm trên biển, tùy mọi người thôi.” Collins https://thuviensach.vn nói. Những người đáp lại: “Để chúng tôi chèo cho, tại sao phải làm nghiêm trọng hóa chuyện này?” Nhưng ta rất bực tức với thái độ của Collins và tiếp tục từ chối để cậu làm vậy. Do đó, cậu ấy thề sẽ bắt ta phải chèo hoặc không thì quăng ta xuống biển và sau đó đi dọc theo mạn thuyền, bước lên chỗ ván ngồi chèo, hướng về phía ta và khi xuất hiện, cậu đánh ta. Ta ấn mạnh tay vào dưới chỗ cậu chống tay, đứng lên và đẩy mạnh lên trán khiến cậu ngã xuống sông. Ta biết cậu bơi giỏi nên không lo lắm, do đó trước khi tay cậu kịp bám lấy mạn thuyền, chúng ta cố đẩy chiếc thuyền ra xa khỏi tầm với của Collins. Khi cậu bơi lại, chúng ta lại chèo chiếc thuyền ra khỏi tầm với của cậu và hỏi rằng cậu có muốn tham gia chèo thuyền không. Collins đã gần như sắp chết với cái sự trái tính trái nết đó nhưng vẫn cứng đầu không đồng ý tham gia chèo thuyền. Tuy nhiên, khi thấy cậu bắt đầu mệt, chúng ta kéo cậu lên thuyền và chở về nhà trong trạng thái ướt sũng vào buổi chiều. Chúng ta không nói gì tử tế với nhau kể từ lần đó cho đến khi một thuyền trưởng Tây Ấn, đang muốn tìm gia sư cho con trai của một quý ông ở Barbadoes, vô tình gặp Collins và đồng ý dẫn cậu đi. Trước khi đi, cậu hứa với ta rằng sẽ dùng số tiền lương đầu tiên nhận được để trả món nợ cho ta, nhưng từ đó ta không còn nghe tin tức gì về Collins nữa. Động vào số tiền của Vernon là một trong những sai lầm đầu đời lớn nhất của ta và nó cho thấy cha ta đã đúng khi nghĩ rằng ta còn quá trẻ để có thể quản lý một công việc kinh doanh quan trọng. Nhưng ngài William vẫn cho rằng cha ta quá cẩn thận khi đọc lá thư trả lời của ông. Lúc nào cũng có những mâu thuẫn giữa người với người và sự khôn ngoan không phải lúc nào cũng tỷ lệ thuận với số năm kinh nghiệm cũng như không phải lúc nào người trẻ cũng là thiếu khôn ngoan. “Và vì ông ấy không xây dựng nhà in cho cậu, ta sẽ làm việc đó. Đưa cho ta danh sách những thứ cần thiết phải mua từ Anh, ta sẽ đem chúng về đây. Cậu sẽ trả lại cho ta khi có thể. Ta đang có một thợ in giỏi và ta chắc rằng cậu sẽ thành công,” ngài William nói. Lời nói của ngài chân thành đến nỗi ta không chút nghi ngờ. Ta phải giữ kế hoạch mở một nhà in mới như một bí mật ở Philadelphia và vẫn phải giữ kín chuyện này. Nếu mọi người biết, chắc hẳn một người bạn nào đó, người hiểu rõ ngài Thống đốc hơn, sẽ khuyên ta không nên dựa vào ông ấy vì sau đó ta biết rằng một trong những tính cách nổi tiếng của ông ấy là hứa những lời hứa rộng rãi nhưng không bao giờ giữ lời. Nhưng ngài không đòi hỏi gì ở ta cả, làm sao ta có thể nghĩ rằng đề nghị đó là không chân thành? Ta đã tin rằng ngài là một trong những người tuyệt vời nhất thế giới. Ta đưa lên ngài danh mục những thứ cần mua cho một nhà in nhỏ mà theo tính toán là vào khoảng 100 Bảng Anh. Ngài thích danh mục đó nhưng hỏi rằng liệu có cần phải sang Anh để chọn những mẫu chữ in và kiểm tra chất lượng hàng hóa hay không. “Nếu đi thì ở Anh, cậu cũng có thể làm quen và thiết lập quan hệ làm ăn với những người bán sách và văn phòng phẩm”, ngài William nói. Ta đồng ý rằng điều này sẽ rất có lợi. Ngài nói: “Vậy thì, cậu hãy chuẩn bị để lên chiếc Annis đi.”Annis là chiếc tàu thường niên và cũng là chiếc tàu duy nhất qua lại giữa London và Philadelphia. Tuy nhiên, cũng còn vài tháng nữa tàu Annis mới https://thuviensach.vn khởi hành, vì vậy ta tiếp tục làm việc ở chỗ Keimer, lo lắng về khoản tiền Collins đã mượn và mỗi ngày đều sợ rằng Vernon sẽ tìm đến đòi tiền ta, điều mà thực tế không xảy ra trong vài năm tiếp theo. Ta tin rằng trong chuyến hành trình đầu tiên từ Boston, khi không thể đi tiếp ở Block Island, chúng ta đã nghĩ tới chuyện bắt cá tuyết và được khá nhiều. Cho đến lúc đó, ta vẫn mang trong đầu tư tưởng không ăn thức ăn từ động vật. Theo học thuyết Tryon, việc đánh bắt cá được xem là một hành động sát sinh không mang tính tự vệ, vì không có con cá nào có thể gây ra mối hại đến nỗi phải giết chúng. Tất cả mọi lý lẽ đó đều tỏ ra rất có lý. Nhưng ta là người thích ăn cá từ lâu và khi ra khỏi lò trên chiếc chảo rán nóng, món cá có mùi thơm không thể cưỡng nỗi. Ta giữ bản thân mình cân bằng giữa sở thích và nguyên tắc được một lúc cho đến khi ta hồi tưởng lại khi mổ bụng cá ta thấy những con cá nhỏ bị moi ra từ dạ dày, lúc đó ta nghĩ: “Nếu lũ cá ăn những con cá khác, tại sao ta không ăn chúng.” Do đó, ta ăn món cá tuyết rất ngon lành và từ đó giữ thói quen ăn chung với những người khác và chỉ thỉnh thoảng mới ăn chay. Trở thành một người biết lý luận thật tiện lợi vì nó giúp một người tìm ra hoặc tạo ra một lý do chính đáng cho mọi thứ mà anh ta cần làm. Keimer và ta sống chung rất hòa hợp và hiểu nhau khá rõ vì ông không chút nghi ngờ việc ta sẽ ra mở nhà in riêng. Ông vẫn theo đuổi những sở thích cũ và thích tranh luận. Vì thế, chúng ta có rất nhiều cuộc tranh luận. Ta từng áp dụng phương pháp của Socrat với ông, và thường gài bẫy ông với những câu hỏi hiển nhiên cách rất xa so với những lý luận mà chúng ta có, dần dẫn dắt đến vấn đề và bằng cách đó làm ông rơi vào những tình huống rất khó khăn và đầy mâu thuẫn. Việc này đã khiến ông cực kỳ cảnh giác với ta và ít khi trả lời những câu hỏi thông thường nhất mà không hỏi: “Cậu có ý gì khi hỏi vậy?” Tuy nhiên, ta làm ông đánh giá về ta cao đến nỗi ông nghiêm túc mời ta tham gia vào dự án xây dựng một trường phái tín ngưỡng mới. Ông sẽ trình bày học thuyết và ta đóng vai trò phản bác tất cả luận điểm của những kẻ chống đối. Khi ông giải thích cho ta về học thuyết của mình, ta phản đối rất nhiều vấn đề trừ phi ta làm theo cách riêng một chút và giới thiệu một vài suy luận của ta. Keimer lúc nào cũng để râu vì đâu đó trong Kinh Do Thái viết rằng: “Con sẽ không làm hư bộ râu của mình.” Ông cũng theo truyền thống Ngày Thứ Bảy Sabbath và hai phong tục này là thiết yếu với Keimer. Ta không thích cả hai nhưng đồng ý sẽ chấp nhận chúng với điều kiện ông chịu theo học thuyết không ăn động vật của ta. Ông nói: “Ta không biết thể trạng của mình có chịu được việc đó không.” Ta bảo đảm với ông rằng nó có thể và rằng ông sẽ còn khoẻ hơn nếu theo chế độ ăn đó. Thông thường, Keimer rất háo ăn và ta từng tự hứa với bản thân rằng thử bỏ đói ông để xem điều đó thú vị thế nào. Ông đồng ý thử chế độ ăn chay nếu có ta hướng dẫn. Ta đồng ý và chúng ta đã thực hiện chế độ ăn đó trong vòng 3 tháng. Thức ăn được chuẩn bị và mang đến nhà bởi một người hàng xóm và chúng ta đưa https://thuviensach.vn cho bà này một danh sách 40 món ăn để chuẩn bị cho những lúc khác nhau. Danh sách không bao gồm cá, thịt, hay gà, khẩu phần này rất phù hợp với ta vào lúc đó vì nó rẻ tiền, chỉ tốn không quá 18 penny Anh mỗi tuần. Do theo chế độ ăn chay, từ đó ta giữ thói quen ăn rất nghiêm túc trong nhiều dịp lễ Lent và chuyện ăn chay hằng ngày cũng không cảm thấy bất tiện chút nào. Do vậy, ta thấy không cần nhiều lời khuyên mà chỉ cần những thay đổi từ từ để có thể tạo ra sự thích nghi. Ta theo chế độ ăn chay rất dễ dàng nhưng Keimer tội nghiệp phải đau đớn, mệt mỏi, chấp nhận nó. Cuối cùng, vì quá thèm thuồng nồi thịt Ai Cập nóng hổi, ông ta đã gọi một con heo quay. Ông mời ta và hai người phụ nữ bạn ông đến cùng ăn nhưng vì đến quá sớm và không thể cưỡng lại sự quyến rũ của món heo, Keimer đã ăn hết cả con trước khi chúng ta đến. Ta tán tỉnh nàng Read đôi chút trong dịp này. Ta rất tôn trọng và có tình cảm với nàng, và tin nàng cũng suy nghĩ tương tự. Nhưng vì ta chuẩn bị đi xa, và hai chúng ta còn quá trẻ, chỉ mới hơn 18 tuổi một chút, mẹ của nàng cho là cần ngăn cản hai chúng ta tiến quá xa, như là đám cưới chẳng hạn. Nếu cưới thì thời điểm thuận tiện hơn sẽ là khi ta trở về và bắt đầu xây dựng công việc làm ăn của riêng mình. Có lẽ bà cho rằng những kỳ vọng của ta không có nhiều cơ sở như ta tưởng. Những người ta quen thân nhất vào thời điểm này là Charles Osborne, Joseph Watson và James Ralph, tất cả họ đều là những người yêu sách. Hai người đầu tiên đều làm công việc sao chép văn kiện cho một luật sư nổi tiếng trong vùng tên Charles Brogden. Người còn lại làm việc cho một thương gia. Watson là một chàng trai trẻ ngoan đạo, khôn ngoan và có đạo đức. Những người còn lại khá lỏng lẻo trong nguyên tắc tôn giáo của mình, nhất là Ralph, người cũng như Collins, cậu bạn từng bị ta quấy rầy. Cả hai đều khiến ta dính vào những rắc rối. Osborne là người khôn ngoan, bộc trực và thẳng thắn, chân thành và quý mến bạn bè, thích phê bình văn chương. Ralph là người mưu trí, có thái độ nhã nhặn và có khả năng hùng biện cực tốt. Ta nghĩ chưa bao giờ ta gặp một ai nói giỏi như cậu. Cả hai đều là những người yêu thơ và bắt đầu tự viết những tác phẩm ngắn của riêng mình. Cả bốn chúng ta từng đi bộ thoải mái với nhau vào các ngày Chủ Nhật tới khu rừng gần Schuylkill, nơi chúng ta đọc cho nhau nghe những cuốn sách và bàn luận về chúng. Ralph thích theo đuổi việc học thơ và tin rằng mình sẽ trở nên xuất sắc trong lĩnh vực này cũng như kiếm được nhiều tiền từ nó vì những nhà thơ giỏi nhất khi khởi đầu viết cũng mắc nhiều lỗi như cậu mà thôi. Osborne can gián Ralph, khẳng định rằng cậu không phải nhân tài trong lĩnh vực này và khuyên cậu không nên nghĩ gì khác ngoài cái nghề mình đã được học. Đó là ngành thương mại, ngành nghề mà dù cậu không có hàng hóa gì, chỉ cần cần cù và đúng giờ, vẫn có thể kiếm ra tiền và sau một thời gian cậu có thể tự mua bán hàng hóa cho mình. Ta đồng ý rằng một người đôi lúc có thể dùng thơ để tiêu khiển hoặc xa lắm là để nâng cao khả năng ngôn ngữ của mình chứ không thể hơn thế được. https://thuviensach.vn Trong những dịp gặp nhau như thế này, chúng ta thỏa thuận rằng mỗi người đến sau sẽ trình bày một tác phẩm do mình tự viết để nâng cao khả năng phê bình, chỉ trích và hiệu chỉnh. Vì chúng ta chỉ quan tâm đến ngôn ngữ và cách thể hiện, chúng ta bỏ qua việc sáng tác bằng cách sử dụng lại phiên bản đoạn Thánh Ca số 18, tác phẩm mô tả nguồn gốc của một vị thánh. Khi thời gian họp mặt đã tới gần, Ralph đến gặp ta trước và cho biết cậu đã viết xong tác phẩm của mình. Ta nói với cậu vì quá bận và không hứng thú mấy nên ta chưa làm gì cả. Cậu cho ta xem tác phẩm của mình và ta tỏ ra vô cùng tán thưởng vì nó rất hay. “Giờ thì,” Ralph nói, “Osborne sẽ không bao giờ chấp nhận chút giá trị nào trong tác phẩm của tôi mà sẽ nghĩ ra 1.000 lời phê bình chỉ vì ghen tị. Cậu không ghen tị với tôi, vì thế tôi hy vọng cậu mang tác phẩm này và nói rằng đây là tác phẩm của cậu. Tôi sẽ giả vờ như mình không có thời gian để viết gì cả. Để xem lúc đó cậu ấy nói gì.” Ta đồng ý và viết lại tác phẩm đó như thể là do chính tay ta viết ra. Chúng ta họp lại. Tác phẩm của Watson được đọc và mặc dù có vài điểm xuất sắc nhưng nó vẫn còn rất nhiều lỗi. Sau đó, đến tác phẩm của Osbourne được đọc. Ralph nhận xét, nhắc đến vài lỗi nhưng khen những cái đẹp của tác phẩm này. Ralph không có tác phẩm nào để đọc. Ta hơi khựng lại, có vẻ như muốn xin lỗi vì mình chưa làm, không có thời gian hiệu chỉnh,v.v… nhưng không thể đưa ra lý do nào vì ta phải đọc tác phẩm của mình. Tác phẩm được đọc và đọc lại một lần nữa. Watson và Osborne quên việc tranh cãi về tác phẩm của mình và đều khen tác phẩm mà ta đọc. Ralph chỉ đưa ra vài lời phê bình và đề nghị một số chỉnh sửa, nhưng ta bảo vệ tác phẩm của mình. Osborne không đồng ý với Ralph và nói rằng Ralph phê bình cũng tệ như làm nhà thơ nên Ralph ngừng việc phê bình tác phẩm. Khi cả hai về chung đường, Osborne nói rằng cậu ấy vẫn thích tác phẩm mà cậu ấy nghĩ là do ta viết hơn và nói rằng cậu ấy không dám khen vì sợ ta sẽ tự mãn. “Nhưng ai có thể ngờ được Franklin có khả năng sáng tác như thế, những mô tả như thế, sinh động như thế, cảm xúc như thế! Cậu ấy thậm chí còn biến tác phẩm nguyên bản trở nên hay hơn. Khi nói chuyện bình thường, cậu ấy có vẻ không có vốn từ vựng phong phú, hay lung túng và ngớ ngẩn, và Chúa ơi! Nhìn cách cậu ấy viết kìa!” Osborne nói. Trong lần gặp sau, Ralph tiết lộ thỏa thuận giữa ta và cậu, Osborne có cười đôi chút khi biết chuyện. Sự việc đó khiến Ralph quyết tâm trở thành nhà thơ. Ta đã làm mọi điều có thể để khuyên can cậu nhưng cậu vẫn tiếp tục phác ra những vần thơ của mình cho đến khi bị nhà thơ Pope phê bình. Tuy nhiên, cậu lại trở thành một tác giả văn xuôi khá xuất sắc. Đó là rất lâu sau này. Nhưng vì không có cơ hội để nhắc đến hai người bạn kia một lần nữa, ta sẽ nhắc đến ở đây. Watson, người xuất chúng nhất trong nhóm, chết trong tay ta vài năm sau đó trong sự tiếc thương của mọi người. Osborne đến làm việc cho công ty Tây Ấn, nơi cậu ấy trở thành một luật sư nổi tiếng và kiếm được nhiều tiền nhưng chết trẻ. Cậu ấy và ta đã có một thỏa thuận đáng sợ với nhau rằng nếu ai chết trước sẽ trở về thăm người kia và chia sẻ https://thuviensach.vn những điều thấy được ở thế giới bên kia. Nhưng cậu ấy đã không bao giờ giữ lời hứa của mình. Ngài Thống đốc, có vẻ thích ta đến chơi, thường xuyên mời ta đến nhà và đề tài mở nhà in của riêng ta luôn được đề cập đến như một điều chắc chắn. Ta cầm theo thư giới thiệu đến một số người bạn của ngài bên cạnh một thư tín dụng để rút số tiền cần thiết cho việc mua máy in, mẫu chữ in, giấy, v.v… Có những lá thư này, ta có quyền đến thăm họ vào những thời điểm khác nhau, khi những người đó sẵn sàng nhưng vẫn phải thông báo trước thời gian. Chúng ta cứ tiếp tục như thế cho đến khi chuyến tàu Anis, trước đó đã bị hoãn rất nhiều lần, chuẩn bị khởi hành. Khi đó, lúc ta đến gặp Thống đốc để chào từ biệt và nhận những lá thư, thư ký của ngài, Giáo Sư Bard, xuất hiện và nói ngài Thống đốc rất bận không thể viết được nhưng ngài sẽ đến Newcastle, nơi ta sẽ nhận được những lá thư, trước khi tàu cập bến. Dù đã kết hôn và có một con, Ralph vẫn quyết tâm đi cùng ta trong chuyến hành trình này. Ban đầu, ta nghĩ rằng cậu ấy đi để tìm một đối tác mới cho công việc kinh doanh của mình nhưng sau đó ta phát hiện ra rằng vì bất đồng với vợ, cậu ấy ra đi bỏ lại vợ con bơ vơ và không bao giờ quay trở về nữa. Bỏ lại đằng sau bạn bè và những hứa hẹn với nàng Read, ta khởi hành từ Philadelphia trên chuyến tàu sau đó cập bến tại Newcastle. Ngài Thống đốc đã ở đó, nhưng khi ta đến tìm ngài, viên thư ký lại trả lời ta bằng một thông điệp lịch sự nhất có thể với nội dung là Thống đốc đang phải giải quyết những vấn đề cực kỳ quan trọng và không thể gặp ta nhưng ngài sẽ gửi cho ta những lá thư trên đường đi và rằng ngài chân thành chúc ta có một chuyến đi thuận buồm xuôi gió, nhanh chóng trở về, v.v… Ta trở lại tàu với tâm trạng hơi lung túng nhưng vẫn không nghi ngờ gì. Andrew Hamilton, một luật sư nổi tiếng của Philadelphia, cũng đi cùng con trai trên chuyến tàu này với Denham, một thương gia tín đồ phái giáo hữu, ngài Onion và Russel, chủ một nhà kim loại ở Maryland. Ngần ấy người đã chiếm đủ một cabin trên tàu. Vì thế, bị coi là những hành khách bình thường, Ralph và ta buộc phải ngủ chung một giường ở khoang hạng bét và không ai trên tàu biết chúng ta là ai cả. Nhưng ông Hamilton và con trai (tên James, trước đây là Thống đốc) trở về Philadelphia từ Newcastle vì Hamilton được mời làm luật sư bào chữa cho một con tàu bị bắt với một khoản phí hậu hĩnh. Trước khi khởi hành, vì đại tá French lên tàu và thể hiện thái độ tôn trọng với ta, chúng ta bắt đầu được để ý và được những quý ông kia mời lên trên cabin nơi có căn phòng mới. Theo cách đó, chúng ta bắt đầu chuyến hành trình. Biết rằng đại tá French có mang lên tàu những gói đồ từ ngài Thống đốc, ta hỏi thuyền trưởng về những lá thư mà mình đang mong chờ. Ông nói rằng tất cả mọi thứ đều được bỏ chung vào một túi lớn và ông chưa thể tìm ra chúng, nhưng trước khi đến Anh ta sẽ có cơ https://thuviensach.vn hội lấy chúng ra. Ta hài lòng với câu trả lời và chuyến hành trình tiếp tục. Chúng ta có một “bạn đồng hành” dễ chịu và khá hòa hợp, đó là những hàng hóa mà Hamilton chất đầy trong khoang. Trong chuyến đi này, ông Denham kết bạn với ta và tình bạn này kéo dài đến cuối cuộc đời ông. Mặt khác, chuyến đi không hề dễ chịu vì thời tiết rất xấu. Khi đến eo biển Anh, thuyền trưởng giữ lời hứa cho ta cơ hội kiểm tra cái túi để tìm những lá thư của ngài Thống đốc. Ta không tìm thấy lá thư nào có tên ta. Ta lấy ra 6 hay 7 lá thư viết tay nghĩ rằng đó là những lá thư ta được hứa cho, đặc biệt là lá thư gửi trực tiếp đến Basket, nhà in của đức vua và một lá thư nữa gửi đến một người bán văn phòng phẩm. Chúng ta đến London vào ngày 24 tháng 12 năm 1724. Ta đến gặp người bán văn phòng phẩm và đưa cho ông này lá thư từ Thống đốc Keith. “Tôi không biết ai tên vậy cả,” ông này nói nhưng vẫn mở thư ra xem. “Ồ, đây là thư của Riddlesden. Gần đây tôi biết hắn là một thằng nhóc láo xược và không muốn giao du gì với hắn cũng như nhận thư từ hắn nữa.” Vì vậy, người chủ bán văn phòng phẩm trả lại ta lá thư và quay sang tiếp những khách hàng khác. Ta rất ngạc nhiên khi biết rằng đây không phải là những lá thư của Thống đốc và sau khi suy nghĩ và đánh giá lại các sự kiện, ta bắt đầu nghi ngờ. Ta tìm đến người bạn Denham của mình và kể cho ông này nghe toàn bộ câu chuyện. Denham kể ta nghe về tính cách của Keith, ông nói với ta rằng khó có khả năng ngài Thống đốc viết cho ta bất kỳ lá thư nào, rằng sẽ không ai dựa dẫm vào ông ta nếu hiểu rõ ông ta là người thế nào, và Denham bật cười khi nghe nói rằng Thống đốc đã viết cho ta một tín dụng thư vì Keith không có chút tín dụng nào cả. Khi ta tỏ ra lo lắng không biết phải làm gì, ông khuyên ta nên tìm việc làm đúng nghề của mình. Denhem nói: “Làm việc cùng những thợ in ở đây, cậu sẽ phát triển bản thân mình, và khi trở về Mỹ, cậu sẽ có lợi thế rất lớn.” Cũng như người bán văn phòng, cả hai chúng ta nhận ra rằng viên luật sư Riddlesden là một kẻ rất bất lương. Hắn đã tiêu tán phân nửa tài sản của cha nàng Read bằng cách thuyết phục ông ký giao kèo với hắn. Lá thư có vẻ như là một kế hoạch bí mật để hại Hamilton (người được cho là sẽ đi cùng chúng ta) và Keith có liên quan cùng Riddlesden trong âm mưu này. Là một người bạn của Hamilton, Denham nghĩ rằng Hamilton cần phải biết âm mưu này. Vì vậy, khi Hamilton đến Anh một thời gian ngắn sau đó, một phần vì căm ghét Keith và Riddlesden, một phần vì ý tốt với Hamilton, ta đã chờ gặp ông ấy và đưa ông xem lá thư. Ông cảm ơn ta chân thành vì thông tin này rất quan trọng với ông. Kể từ đó, ta với ông thành bạn và mối quan hệ này rất có lợi cho ta trong nhiều tình huống sau đó. Nhưng phải nghĩ thế nào về việc một ngài Thống đốc chơi khăm và đánh lừa một cậu bé ngây thơ một cách bỉ ổi như thế? Đó là thói quen của ông ta. Ông ta thích làm hài lòng tất cả mọi người, tạo ra những kỳ vọng và không cho ai bất kỳ thứ gì cả. Dù ngài là một người thông minh, khôn ngoan, một người khá giỏi văn chương, và một thống đốc tốt với mọi người, thậm chí đôi khi không thèm tuân theo những chỉ thị của giới địa chủ tư sản, những https://thuviensach.vn cử tri của ông. Rất nhiều đạo luật tốt do ngài soạn thảo và thông qua dưới thời kỳ đương nhiệm. Ta và Ralph là hai người bạn đồng hành không thể tách rời. Chúng ta ở tại nhà trọ Little Britain với giá 3 siling và 6 cent một tuần – cái giá cao nhất chúng ta có thể trả vào lúc đó. Cậu ấy tìm thấy một vài người bà con nhưng họ quá nghèo để có thể giúp chúng ta. Lúc bấy giờ, cậu ấy mới nói cho ta biết ý định ở lại London và không bao giờ quay về Philadelphia của mình. Cậu không mang theo tiền và tất cả số tiền của cậu đã được dùng trong chuyến đi. Ta có 15 đồng pistol, vì vậy cậu thỉnh thoảng mượn tiền ta để chi tiêu trong khi đang tìm việc. Đầu tiên, Ralph xin việc ở một rạp hát vì tin rằng mình đủ điều kiện để làm diễn viên. Tuy nhiên, Wilkes, người nhận đơn đã thẳng thắn khuyên cậu không nên tìm việc trong ngành này vì cậu sẽ không bao giờ thành công. Sau đó, cậu nộp đơn cho Roberts, một chủ nhà in ở Paternorster Row để viết những bài báo hàng tuần như của tờ The Spectator kèm theo những điều kiện nhất định nhưng Roberts không đồng ý. Sau đó, Ralph lại xin làm nhân viên sao chép vặt ở chỗ những người bán văn phòng phẩm và các luật sư nhưng không có vị trí nào còn trống. Còn ta, ngay lập tức, được nhận vào làm ở nhà in của Palmer, một nhà in nổi tiếng ở Bartholomew Close và tiếp tục công việc ở đó gần một năm. Ta làm việc khá chăm chỉ nhưng tiêu một phần khá lớn tiền cùng Ralph xem các vở kịch cũng như tham gia những thú vui giải trí khác. Hai chúng ta sử dụng hết số pistol mà ta có và giờ đây chỉ còn sống bằng đồng lương. Cậu có vẻ đã quên vợ con và ta cũng dần quên đi những hẹn ước với nàng Read, người mà ta không viết nhiều hơn một lá thư và lá thư đó là để thông báo với nàng ta sẽ không sớm trở về. Đây là một trong những sai lầm lớn nữa của cuộc đời ta, ta rất mong có thể sửa sai nếu được sống cuộc đời này một lần nữa. Thực tế, do chi tiêu quá đà, ta lúc nào cũng không có đủ tiền để về nhà. Tại nhà in Palmer, ta đã được giao việc sắp chữ in cho ấn bản hai của tác phẩm Religion of Nature (Bản chất của tôn giáo) do Wollaston sáng tác. Một vài lý luận trong cuốn sách này không thực sự vững chắc theo ý kiến của ta, do đó ta viết một tác phẩm trừu tượng ngắn để nhận xét về nó. Tác phẩm đó có tên “Bài luận về Tự Do và Những Vật Chất Thiết Yếu, Niềm Vui và Sự Đau Khổ.” Ta ghi tặng người bạn của mình, Ralph và cho in với số lượng ít. Việc này đã khiến Palmer nhìn nhận ta như một người trẻ tuổi có tài năng, dù ông nghiêm túc phê bình những nguyên tắc trong tác phẩm của ta mà theo ông là chưa thật hay. Việc in cuốn chuyên đề này lại là một sai lầm kế tiếp của ta. Khi trọ tại Little Britain, ta quen một chủ hiệu sách ở kế bên, tên Wilcox. Ông này có một bộ sưu tập sách cũ khổng lồ. Lúc đó chưa có thư viện nhưng chúng ta đồng ý theo một số điền kiện nhất định mà ta không con nhớ rõ, ta được phép mượn đọc và trả lại bất kỳ cuốn sách nào của ông. Ta xem việc này rất hữu ích với mình nên tận dụng nó nhiều nhất có thể. https://thuviensach.vn Cuốn chuyên đề của ta bằng cách nào đó đã rơi vào tay một bác sĩ phẫu thuật tên Lyons, tác giả của tác phẩm Sự Đúng Đắn Trong Nhận Xét Của Con Người, và do đó hai chúng ta quen nhau. Ông rất để ý đến ta, thường gọi ta đến để nói chuyện về các đề tài đó, dẫn ta đến Horns, một quán rượu cũ ở đường Lane khu Cheapside và giới thiệu ta với bác sĩ Mandeville, tác giả của Fable of the Bees (Ngụ Ngôn Những Con Ong). Ông này có một câu lạc bộ, nơi ông là tâm điểm và là hội viên khôi hài thú vị nhất. Sau đó, Lyons cũng giới thiệu ta với bác sĩ Pemberton ở quán Batson’s Coffee, người hứa hẹn với ta rằng lúc nào đó sẽ dẫn ta đến gặp ngài Isaac Newton. Ta rất hy vọng vào lời hứa đó nhưng nó không bao giờ thành hiện thực. Ta sưu tầm một số đồ độc đáo. Một trong những món đáng giá nhất là chiếc ví làm bằng amiăng đã khử lửa. Ngài Hans Sloane nghe nói về nó, đến gặp ta, mời ta đến nhà ngài ở Bloomsbury Square, nơi ngài cho ta xem tất cả những món đồ độc đáo khác và thuyết phục ta bán lại cho ngài chiếc ví đó với một món tiền khá hậu hĩnh. Ở chỗ ta sống có một người thợ phụ nữ trẻ làm nghề thợ may đồ nữ mà theo ta biết thì cô này có một cửa hàng ở Cloisters. Cô này được truyền nghề may rất cầu kỳ đó, là một người hiểu chuyện, tràn đầy sức sống và nói năng rất dễ nghe. Ralph thường đọc cho cô nghe những vở kịch vào các buổi chiều. Hai người trở nên thân thiết hơn và khi cô dọn đi nơi khác, Ralph cũng dọn theo cô. Hai người sống cùng nhau một khoảng thời gian. Nhưng Ralph vẫn chưa có việc làm và thu nhập của cô không đủ để nuôi sống cả hai người lẫn đứa con của cô. Do đó, Ralph quyết định chuyển đến dạy ở một ngôi trường làng, nơi cậu nghĩ mình đủ sức đảm nhận vì cậu rất giỏi viết lách, toán học và xử lý sổ sách. Tuy nhiên, công việc này có vẻ không tương xứng với Ralph, và vì tự tin rằng mình có thể có những công việc tốt hơn nhưng lại không muốn ai biết mình đã từng làm những công việc thấp kém như vậy, Ralph đổi tên và cho ta vinh dự được cậu sử dụng tên của ta. Ta nhận được một lá thư từ cậu nói rằng cậu đã ổn định công việc ở một ngôi làng nhỏ (ta nghĩ là ở Berkshire nơi cậu dạy đọc viết cho 10 đến 12 học trò với giá 6 penny 1 tuần), nhờ ta chăm sóc cho cô T-- và muốn ta khi viết thư cho cậu, hãy gửi đến ông Franklin, Hiệu trưởng trường học nơi đó. Ralph thường xuyên viết gửi cho ta rất nhiều bản nháp mẫu của thiên sử ca mà cậu đang sáng tác và nhờ ta cho ý kiến cũng như hiệu chỉnh. Ta cũng thỉnh thoảng gửi lại theo yêu cầu của cậu nhưng cố gắng làm cậu chán nản công việc viết lách. Lúc đó, một trong những tập thơ trào phúng của Young vừa được xuất bản. Ta chép và gửi cho cậu một phần lớn trong tác phẩm trong đó nói rằng, mãnh liệt theo đuổi niềm đam mê thi ca không mang lại hy vọng thăng tiến nào cả. Tất cả nỗ lực đều không có tác dụng, Ralph vẫn gửi kèm thơ cho ta trong tất cả các món bưu phẩm. Trong lúc đó, cô T--, vì mất người bạn và việc làm, https://thuviensach.vn thường xuyên rầu rĩ, gọi ta và mượn ta bất kỳ số tiền nào có dư để giúp gia đình cô. Ta bắt đầu thích ở bên cạnh nàng Read và, lúc đó vì không chịu ràng buộc tôn giáo nào cũng như nghĩ rằng ta quan trọng với nàng, ta cố gắng tán tỉnh nàng Read (một sai lầm nữa). Cô T-- cự tuyệt trong sự giận dữ có thể hiểu được và nói với Ralph về hành vi của ta. Việc này tạo ra một vết nứt trong tình bạn giữa ta và Ralph và khi trở lại London, cậu nói với ta rằng cậu không chịu ơn nghĩa gì của ta nữa. Vì vậy, ta không hy vọng cậu ấy sẽ trả lại cho ta bất kỳ khoản tiền nào cậu đã mượn hay ta đã trả trước cho cậu. Tuy nhiên, việc này không phải hoàn toàn là một mất mát vì thực ra cậu cũng không có khả năng trả tiền cho ta và ta thấy mình thoát khỏi một gánh nặng bên cạnh việc đánh mất tình bạn này. Giờ đây, ta bắt đầu nghĩ đến việc để dành một ít tiền. Hy vọng có một công việc tốt hơn, ta rời khỏi nhà in của Palmer để đến làm tại nhà in của Watts, một nhà in lớn hơn gần Quảng trường Lincoln’s Inn Fields. Ta làm việc ở đây cho đến khi rời khỏi London. Khi mới nhận việc, ta xin vào làm ở phòng vận hành máy in, vì nghĩ rằng bản thân mình cần làm một công việc mang tính tổng thể cao như khi còn ở Mỹ, nơi in ấn thường bao gồm cả việc xếp mẫu chữ in. Ta chỉ uống nước trong khi những người khác, gần quá nửa là những kẻ nghiện bia. Mỗi khi khiêng lên hay xuống cầu thang, ta thường mỗi tay cầm một bộ bảng chữ in lớn trong khi những người khác chỉ khiêng được một bảng in chữ bằng hai tay. Những người này rất tò mò xem tại sao gã người Mỹ-Chỉ-Uống-Nước, cái tên họ gọi ta, lại khỏe hơn họ, những kẻ uống bia! Trong nhà in, lúc nào cũng có một cậu bé bán bia phục vụ cho những người thợ. Người làm in ấn chung với ta mỗi ngày uống 1 pint bia trước bữa sáng, 1 pint trong bữa sáng với bánh mì và bơ, 1 pint vào khoảng 6 giờ chiều và 1 pint sau khi làm xong công việc. Ta xem đó là một thói quen xấu nhưng đồng nghiệp của ta lại cho rằng việc uống loại bia mạnh sẽ giúp cậu ấy làm việc khỏe hơn. Ta cố gắng thuyết phục cậu ấy rằng, nếu sức mạnh do uống bia đến từ những hạt hay bột lúa mạch thì một ổ bánh giá 1 xu còn nhiều bột hơn thế và do đó nếu cậu ăn ổ bánh đó với 1 pint nước, nó sẽ cho cậu nhiều sức mạnh hơn so với 1/4 gallon bia. Tuy nhiên, cậu ấy vẫn uống và trả 4 hay 5 shilling trong khoản lương của mình mỗi tối Thứ Bảy cho thứ nước uống có cồn đặc quện đó, một khoản chi tiêu mà ta không phải bỏ ra. Và như thế, những người thợ tội nghiệp này luôn thiếu tiền. Sau vài tuần, Watts muốn ta làm việc trong phòng sắp mẫu chữ vì thế ta không làm việc chung với cậu thợ in đó nữa. Những người thợ sắp chữ bắt ta phải khao một chầu uống 5 siling để “chào sân” theo lệ dành cho người mới đến. Đó là một đòi hỏi quá đáng vì trước kia ta đã chỉ phải trả ít hơn. Ông chủ cũng nghĩ vậy, do đó ông cấm ta trả chầu khao đó. Ta ngoan cố trong 2 hay 3 tuần nên bị xem là kẻ “ngoại đạo” và chỉ cần ta ra ngoài một chút là có rất nhiều trò chơi xấu hướng đến ta bằng cách làm rối bảng chữ của ta, tráo vị trí những nguyên bản in, hay đập bể bộ chữ in của ta, v.v… Tất cả những sự việc này đều được quy là https://thuviensach.vn do hồn ma trong nhà in làm, hồn ma mà theo bọn họ là sẽ ám những ai không được thừa nhận theo quy củ, ngay cả khi kẻ đó được sự bảo vệ của ông chủ. Ta buộc phải tuân theo và trả số tiền khao vì nghĩ tới viễn cảnh điên rồ khi phải tiếp tục làm việc chung với những người này mà không thực hiện điều khoản bệnh hoạn đó. Giờ đây, ta đã bắt đầu nhập bọn với họ và nhanh chóng có được sự ảnh hưởng lớn trong nhóm. Ta đề xuất một số lý do cần thay đổi luật “nhà nguyện” và bảo vệ thành công trước mọi phản bác. Noi gương ta, rất nhiều người trong bọn họ không dùng bữa sáng trộn bia với bánh mì và phô mai nữa, thay vào đó họ thấy mình có thể mua từ nhà hàng xóm một bát cháo loãng lớn rắc tiêu, trộn với bánh mì vụn và một ít bơ, với giá chỉ bằng 1 pint bia nghĩa là 3 penny rưỡi. Bữa sáng này vừa dễ ăn vừa rẻ hơn và giúp cho đầu óc họ tỉnh táo. Những người tiếp tục uống bia suốt ngày thường uống ghi sổ, quá hạn mức nợ và từng mượn tiền ta để uống bia. Ánh sáng, theo cách nói của họ, đã tắt ngúm. Ta quan sát chiếc bàn tính tiền vào tối Thứ Bảy và nhớ lại những khoản tiền ta đã trả cho họ, đôi khi lên đến gần 30 shilling một tuần. Việc đó cùng với việc tự đánh giá mình là một tay chơi khăm như một người châm biếm ngôn từ hài hước đã giúp ta rất nhiều trong xã hội sau này. Việc đi làm đều đặn (ta chưa bao giờ đi dự ngày lễ Thánh vào Thứ Hai) khiến ông chủ để ý đến ta, và sự nhanh nhạy trong việc sắp bảng chữ in cho ta cơ hội nhận công việc điều phối có lương cao hơn. Do đó, ta tiếp tục làm việc một cách rất thích thú. Chỗ ở của ta tại Little Britain quá xa nơi làm việc, do vậy ta tìm một chỗ khác ở đường Duke, đối diện nhà in Romish. Nó là một căn phòng có thang đôi ở đằng sau, trong một nhà kho kiểu Ý. Một goá phụ sống cùng con gái sở hữu ngôi nhà này, một người hầu gái và một người thợ làm trong kho, nhưng ông sống ở nơi khác. Sau khi dò hỏi về tính cách của ta ở căn hộ mà ta thuê trước đó, bà đồng ý cho ta vào ở với giá 3 siling 6 dim một tuần, rẻ hơn vì bà muốn có sự an toàn từ một người đàn ông ở trong nhà. Bà là một goá phụ đứng tuổi, ban đầu theo đạo Tin Lành và là con gái một mục sư nhưng đã cải đạo sang Thiên Chúa Giáo theo chồng, người mà bà rất kính trọng trong ký ức của mình. Bà từng sống giữa những người lỗi lạc và biết hàng nghìn giai thoại về những người này xa xưa từ thời Charles Đệ Nhị. Chân bà bị tật vì bệnh Gout vì thế bà hiếm khi ra khỏi phòng nên đôi khi bà muốn có khách đến chơi. Bà rất hài hước với ta nên ta sẵn sàng ngồi chơi cùng bà cả buổi chiều nếu bà muốn. Bữa tối của mỗi người chúng ta chỉ có nửa con cá đặt trên một mẫu bánh mì phết bơ nhỏ và dùng chung 1 pint bia. Ta luôn giữ giờ giấc tốt và không gây rắc rối gì đến gia đình bà. Điều đó khiến bà không có ý định để ta tìm chỗ khác. Vì thế, khi ta nói về một chỗ ở theo ta biết là gần chỗ làm hơn với giá 2 siling một tuần và ta muốn dọn sang đó để để dành tiền làm những việc khác, bà bảo ta đừng suy nghĩ đến chuyện đó vì bà sẽ giảm giá thuê cho ta xuống 2 siling một tuần. Ta tiếp tục ở lại chỗ bà với giá thuê 1 siling 6 penny cho đến khi rời khỏi London. https://thuviensach.vn Trên gác xép căn hộ của bà có một bà cô già 70 tuổi sống ẩn dật. Theo lời bà chủ nhà, người đàn bà này theo đạo Thiên Chúa Giáo La Mã, đã ra nước ngoài từ rất nhỏ và sống trong tu viện với ý định trở thành một bà sơ. Nhưng đất nước đó không chấp nhận bà, bà trở về Anh nơi không có tu viện. Bà đã thề sẽ sống cuộc sống của một nữ tu hay gần giống với cuộc sống đó nhất. Do đó, bà tặng tất cả tài sản của mình cho mục đích từ thiện và chỉ giữ lại 12 Bảng một năm để chi tiêu, nhưng vẫn dùng phần lớn khoản tiền này làm từ thiện. Bà chỉ sống bằng cháo loãng và không sử dụng lửa, ngoại trừ để nấu cháo. Bà đã sống nhiều năm trên gác xép đó vì được những người chủ nhà theo đạo Thiên Chúa của ngôi nhà bên dưới cho phép bà ở không lấy tiền, họ xem việc cho bà ở đây là một điều phúc. Một thầy tu mỗi ngày vẫn đến gặp bà để xưng tội. “Tôi đã hỏi bà ấy,” bà chủ nhà của ta nói, “làm thế nào bà, bằng cách sống như vậy, có thể làm công việc của một người nghe xưng tội?” “Ồ,” bà nói, “không thể nào từ chối những suy nghĩ tuyệt vọng.” Ta được dịp đến gặp bà một lần. Bà là người vui vẻ, lịch sự và trò chuyện rất thoải mái. Căn phòng của bà sạch sẽ nhưng không có đồ đạc gì ngoài một chiếc bình cổ dài, một cây thánh giá, một cuốn sách, một chiếc ghế đẩu bà đưa cho ta ngồi, và một bức tranh treo trên lò sưởi với bức hình thánh Veronica đang giơ chiếc khăn tay có hình ảnh huyền diệu vẽ khuôn mặt Chúa đang chảy máu, bà giải thích cho ta về bức tranh đó rất nghiêm túc. Bà trông xanh xao nhưng không bao giờ bệnh tật, và ta cho đây là một ví dụ nữa về việc thu nhập ảnh hưởng ít đến cách sống và sức khỏe thế nào. Tại nhà in của Watts, ta quen một thanh niên tài năng tên Wygate, người có gia cảnh rất khá giả và được giáo dục tốt hơn tất cả những người thợ in khác. Cậu được coi như là một nhà nghiên cứu Latin xuất sắc, nói được tiếng Pháp và thích đọc sách. Ta dạy cậu ấy và một người bạn của cậu học bơi, và chỉ hai lần khi ra sông chơi, họ đã nhanh chóng trở thành những tay bơi giỏi. Họ giới thiệu với ta một vài quý ông từ vùng quê đang chuẩn bị đến Chelsea bằng đường thuỷ để xem những vật lạ ở quán Don Saltero và College. Trong chuyến đi về, theo yêu cầu của những người đi cùng, những người đã bị Wygate cấy cho sự tò mò, ta cởi đồ, nhảy xuống sông và bơi từ Chelsea đến cầu Blackfyar, vừa bơi vừa biểu diễn nhiều động tác trên mặt nước cũng như dưới nước làm ngạc nhiên và hài lòng những ánh mắt tò mò. Từ nhỏ ta đã rất thích thú với môn thể thao này, đã học và luyện tập tất cả những động tác và tư thế của Thevenot, sáng tạo ra những kiểu riêng của mình nhằm mục đích thể hiện những tư thế đẹp dễ dàng và hữu dụng. Nhân dịp này, ta biểu diễn tất cả những sở học của mình cho các bạn xem và hãnh diện vì sự ngưỡng mộ của họ. Và Wygate vì muốn trở thành một người điêu luyện trong môn bơi nên càng ngày càng thân thiết với ta trong mọi việc từ học bơi cho tới làm chung. Lâu sau đó, cậu đề nghị ta cùng du lịch vòng quanh Châu Âu và hỗ trợ cho chuyến đi này bằng cách làm việc trong các nhà in ở những nơi chúng ta đến. Ta từng rất thích ý tưởng này nhưng người bạn thân Denham của ta, người mà khi ta rảnh rỗi https://thuviensach.vn thường dành cả giờ để trò chuyện, khuyên ta chỉ nên nghĩ đến việc trở lại Pennsilvania, chuyến đi mà ông chuẩn bị khởi hành. Ta nhớ rõ một trong những tính cách của Denham. Ông từng kinh doanh ở Bristol nhưng thất bại, mắc nợ nhiều người, phải dàn xếp chuyện nợ nần và đi sang Mỹ. Ở Mỹ, nhờ kinh doanh chăm chỉ, ông kiếm được khá nhiều tiền trong vài năm. Trở về Anh trên cùng chuyến tàu với ta, ông đã mở tiệc chiêu đãi những chủ nợ cũ của mình. Trong buổi tiệc cảm ơn vì đã có những thỏa thuận dễ chịu cho ông lúc trước, dù những người này không đòi hỏi gì ngoài một bữa chiêu đãi, mỗi người trong nhóm đều tìm thấy dưới chiếc đĩa của mình một ủy nhiệm chi có lãi suất ngân hàng chưa qua sử dụng. Denham nói với ta rằng, ông sẽ trở về Philadelphia và mang theo rất nhiều hàng hóa để mở một cửa hàng ở đó. Ông đề nghị ta đảm nhận vị trí nhân viên kế toán giúp ông, công việc mà ông sẽ hướng dẫn ta, sao chép văn thư, và trông coi cửa hàng. Ông cũng hứa rằng một khi ta đã quen với nghề buôn bán, ông sẽ thăng chức cho ta bằng cách cho ta trông coi tàu hàng chở bột và bánh mì, v.v… đến Tây Ấn, cho ta hoa hồng nếu làm ăn có lãi và nếu ta quản lý tốt thì ta sẽ kiếm được rất nhiều tiền. Ta rất thích đề nghị này vì đã chán cuộc sống ở London, nhớ về những tháng ngày hạnh phúc ở Pennsylvania và muốn quay trở lại nơi đó. Do đó, ta đồng ý ngay lập tức mức lương 50 Bảng tiền Pennsylvania một năm, ít hơn lương hiện tại nhưng có tương lai hứa hẹn hơn. Ta nghỉ việc tại xưởng in mà theo ta nghĩ là mãi mãi không bao giờ trở lại làm công việc đó nữa và hàng ngày làm công việc mới: theo Denham cùng những thương gia khác thu mua hàng hóa, theo dõi việc đóng gói, làm những việc vặt, gọi người tới vận chuyển hàng hóa, v.v… Và khi tất cả hàng hóa đều được chất lên tàu, ta có vài ngày nghỉ ngơi. Vào một trong những ngày nghỉ này, ta rất ngạc nhiên khi nhận được lời mời gặp mặt từ một người nổi tiếng mà ta chỉ mới nghe tên, ngài William Wyndham và ta đến gặp ngài. Bằng cách nào đó, ngài đã nghe câu chuyện ta bơi từ Chelsea đến cầu Blackfyar, chuyện ta dạy Wygate và những thanh niên khác học bơi chỉ trong vài giờ. Ngài có hai con trai chuẩn bị đi xa và sẵn sàng trả công ta hậu hĩnh để dạy bơi cho họ. Họ vẫn chưa đến London và ta chưa biết mình sẽ ở đó bao lâu, do đó ta không thể nhận đề nghị này nhưng từ sự việc này, ta bắt đầu nghĩ đến chuyện mở một trường dạy bơi và kiếm nhiều tiền từ nó. Ý nghĩ này mạnh mẽ đến nỗi nếu ta nhận được lời đề nghị từ ngài William sớm hơn, có lẽ ta sẽ không quyết định trở về Mỹ sớm như vậy. Nhiều năm sau, ta có nhiều chuyện quan trọng hơn phải làm với một trong những con trai của ngài William Wyndham, người trở thành Bá Tước vùng Egremont, và ta sẽ kể về ông này khi có điều kiện. Như vậy, ta đã ở London khoảng 18 tháng. Hầu hết khoảng thời gian này ta làm việc rất chăm chỉ và dành rất ít thời gian cho bản thân, ngoại trừ việc xem kịch và đọc sách. Người https://thuviensach.vn bạn Ralph của ta đã khiến ta lâm vào cảnh nghèo túng khi nợ ta khoảng 27 Bảng, số tiền mà gần như chắc chắn rằng ta sẽ không nhận lại, một khoản tiền lớn trong khoản dành dụm nhỏ bé của ta. Dù sao đi nữa thì ta cũng quý cậu ấy vì những tính tốt của cậu. Ta không cách nào kiếm được nhiều tiền nhưng trong thời gian ở London ta đã quen một vài người xuất chúng, những người mà nói chuyện với họ rất có ích và ta cũng đọc nhiều sách. Chúng ta xuất phát từ cảng Gravesend vào ngày 23 tháng 7 năm 1726. Về những sự kiện xảy ra trong chuyến đi, ta nghĩ con hãy đọc cuốn nhật ký hành trình của ta, nơi con có thể tìm thấy tất cả những thông tin liên quan được mô tả tỉ mỉ. Có lẽ, phần quan trọng nhất trong cuốn nhật ký là kế hoạch ta lập ra khi trên tàu để điều tiết những hành vi của mình trong tương lai. Kế hoạch này càng xuất chúng hơn vì nó được lập ra khi ta còn rất trẻ và được tuân theo cho đến khi về già. Chiếc thuyền cập bến Philadelphia vào ngày 11 tháng 10, nơi ta không thấy có nhiều thay đổi. Keith không còn là thống đốc và bị thay thế bởi Thiếu Tá Gordon. Ta gặp Keith đi bộ trên đường như một công dân bình thường. Ông có vẻ hơi xấu hổ khi gặp ta và đi lướt qua không nói lời nào. Lẽ ra ta cũng phải xấu hổ như thế khi gặp lại nàng Read. Tuyệt vọng sau khi nhận được lá thư của ta, nàng đã kết hôn với một người thợ gốm tên Rogers theo lời khuyên của bạn bè trong thời gian ta vắng mặt. Tuy nhiên, nàng không bao giờ hạnh phúc với người này, sớm ly thân, từ chối ở chung hay mang họ của người này và bị xem là một người vợ hư hỏng. Dù là một người thợ giỏi và thu hút được bạn bè của nàng bằng tài năng đó, nhưng chồng cũ của nàng là một kẻ không ra gì. Hắn mang nợ, chạy sang Tây Ấn vào năm 1727 hay 1728 và chết ở đó. Keimer có một nhà in mới với đầy những dụng cụ văn phòng, nhiều những mẫu chữ in mới, nhiều thợ phụ hơn dù không có ai thật sự giỏi cả, và có vẻ như đang kinh doanh khá tốt. Denham mở một cửa hiệu ở đường Water bán những hàng hóa của mình. Ta làm việc rất chăm chỉ, học cách lưu giữ sổ sách, và trong thời gian ngắn đã trở thành một người bán hàng lão luyện. Chúng ta ăn ở chung và Denham chỉ bảo ta như một người cha vì ông quý mến ta một cách chân thành. Ta cũng tôn trọng, quý mến ông và chúng ta có lẽ sẽ tiếp tục sống vui vẻ như thế. Nhưng đến đầu tháng 2 năm 1726-1927, khi ta vừa bước sang tuổi 21, cả hai chúng ta đều mắc bệnh. Ta bị viêm màng phổi gần như sắp chết. Ta phải chịu đựng rất nhiều sự hành hạ của căn bệnh, thay đổi suy nghĩ và sau khi hồi phục ta đã khá thất vọng và hối tiếc đến nỗi ta nghĩ ta sẽ cần phải làm lại những việc mình đã không hài lòng lúc này hay lúc khác. Ta đã quên Denham mắc phải bệnh gì nhưng nó đeo đẳng ông một thời gian dài trước khi ông qua đời. Ông di chúc bằng miệng cho ta một khoản tài sản nhỏ để thể hiện sự yêu quý ta và ông một lần nữa bỏ rơi ta với thế giới rộng lớn này. Cửa hàng của ông thuộc về người thực hiện di chúc và ta không làm việc ở đó nữa. https://thuviensach.vn Anh rể ta, Holmes, đang ở Philadelphia, khuyên ta trở về nghề in và Keimer gợi ý ta về làm quản lý nhà in của ông với mức lương hàng năm hậu hĩnh để ông có thời gian chăm lo cho cửa hàng văn phòng phẩm của mình. Ta nghe nhiều điều tiếng xấu về Keimer từ vợ và những người bạn của bà nên không muốn dính líu gì với ông nữa. Ta cố tìm công việc buôn bán nhưng không thành công và một lần nữa lại làm việc với Keimer. Trong nhà in của Keimer, ta gặp những người sau: Hugh Meredith, một người Pennsylvania gốc xứ Wales, tầm 30 tuổi, xuất thân nghề nông, thật thà, hiểu chuyện, có khả năng quan sát tốt, có đọc sách nhưng ham uống rượu. Stephen Potts, một thanh niên quê trưởng thành cũng xuất thân nghề nông, có phần hơi lập dị nhưng hóm hỉnh và thông minh. Keimer trả cho những người này mức lương cực thấp, chỉ 1 shilling cho 3 tháng làm việc và họ sẽ được tăng lương nếu làm tốt. Hy vọng vào những mức lương cao hơn mà ông này vẽ ra đã lôi kéo họ tới đây làm việc. Meredith làm việc tại phòng in, Potts làm việc ở phòng đóng sách, công việc mà Keimer đồng ý sẽ hướng dẫn họ làm dù rằng ông chẳng biết việc nào trong hai việc đó cả. John, một người Ailen hoang dã, không nghề ngỗng gì được Keimer mua 4 năm phục vụ từ thuyền trưởng của một chiếc tàu. John cũng được làm thợ in. George Webb, một học sinh của trường Oxford, cũng được Keimer mua 4 năm với dự định để cậu này thành người sắp mẫu chữ in. Và David Harry, một cậu bé nông thôn được nhận vào học việc. Ta sớm nhận ra rằng ý định thuê ta với mức lương cao hơn Keimer từng trả là để những người thợ thô, rẻ tiền này học tập từ ta và sau khi ta đã chỉ dạy họ xong, họ sẽ làm việc cho Keimer và ông sẽ không cần ta nữa. Tuy nhiên, ta tiếp tục công việc một cách vui vẻ, sắp đặt nhà in trước đó từng rất lộn xộn đâu vào đấy và đào tạo những người thợ dần biết việc để họ làm tốt hơn. Có một điều lạ là một học sinh từ Oxford được thuê làm người hầu. Cậu này có lẽ chưa tới 18 tuổi và kể ta nghe câu chuyện đời cậu. Cậu sinh ra ở Gloucester, học trường trung học ở đó, từng được xem là một trong những học sinh xuất sắc trong vai diễn của mình khi tham gia đóng kịch. Cậu tham gia câu lạc bộ Witty và đã sáng tác một vài tác phẩm văn xuôi cũng như thơ in trên báo Gloucester. Sau đó, cậu được gửi đến Oxford học nhưng không hài lòng với cuộc sống ở đó và muốn bỏ mọi thứ để đến London trở thành một diễn viên. Lâu sau đó, khi nhận được khoản tiền tiêu theo quý 15 guinea, thay vì trả nợ, cậu rời khỏi đó, giấu chiếc áo học sinh của mình trong một bụi kim tước và đi đến London. Ở London, không bạn bè giúp đỡ, cậu gặp phải những người xấu, nhanh chóng tiêu hết số tiền mình có, nghèo túng, phải cầm quần áo và thiếu ăn. Khi đang đi trên đường trong cảnh thiếu đói và không biết phải làm gì, cậu nhận được một đề nghị sang Mỹ phục vụ đổi lại cậu sẽ được cho ăn và giúp đỡ. Cậu đi thẳng đến phòng nhân sự, ký vào giao kèo, lên tàu và sang Mỹ, không viết lá thư nào cho bạn bè về những việc đã xảy ra với mình. Cậu là người rất sôi động, hóm hỉnh, có https://thuviensach.vn bản chất tốt và là một người đồng hành vui vẻ nhưng lười nhác, vô tâm, và không thực sự cẩn thận đến nơi đến chốn. John, người Ailen, bỏ trốn không lâu sau đó. Ta tiếp tục làm chung với những người còn lại rất vui vẻ vì tất cả họ tỏ ra kính trọng ta hơn khi biết rằng Keimer không có khả năng chỉ bảo họ gì cả, và họ hằng ngày đều học được những cái mới từ ta. Chúng ta không bao giờ làm việc vào Thứ Bảy, đó là ngày lễ Sabbath của Keimer, do đó ta có 2 ngày để đọc sách. Ta quen với nhiều người giỏi hơn nữa trong thành phố. Keimer đối xử với ta rất lịch sự và có vẻ quan tâm và không có gì làm ta cảm thấy khó chịu ngoài khoản nợ Vernon, số tiền mà ta chưa thể trả được vì cho đến lúc này ta vẫn còn nghèo. Tuy nhiên, ông ấy tử tế không đòi món tiền đó. Nhà in của chúng ta thường xuyên cần những bộ chữ và không có một nhà sản xuất mẫu in chữ nào ở Mỹ. Ta đã từng thấy mẫu chữ in được sản xuất tại nhà in James ở London nhưng không chú ý lắm đến cách làm. Tuy nhiên, ta cố làm những khuôn đúc mẫu chữ, tận dụng những mẫu ký tự mà chúng ta có, đúc các khuôn bằng đồng và như thế tạm bù đắp được sự thiếu thốn khuôn in chữ. Ta cũng thỉnh thoảng khắc một vài thứ khác, làm mực in, canh nhà kho và mọi thứ. Nói ngắn gọn, ta làm mọi việc. Tuy nhiên, dù đóng vai trò hữu ích, ta cũng nhận thấy vai trò của mình càng ngày càng kém quan trọng khi những người thợ khác tiến bộ về tay nghề và khi Keimer trả cho ta khoản lương quý thứ hai, ông cảm thấy khoản tiền này quá nặng và đề nghị ta giảm bớt nó xuống. Ông càng ngày càng bớt lịch sự, tỏ ra mình là chủ, thường xuyên bắt lỗi, xảo trá và dường như có lẽ đã sẵn sàng để “chia tay” ta. Tuy nhiên, ta vẫn tiếp tục công việc một cách kiên nhẫn với suy nghĩ rằng nguyên nhân của việc này một phần là do ông đang trong tình trạng túng tiền. Sau đó, một chuyện cỏn con đã làm đổ vỡ mối quan hệ của chúng ta. Có một tiếng ồn lớn vang lên gần toà án, ta ló đầu ra ngoài cửa sổ xem chuyện gì đang diễn ra. Keimer đang đứng trên đường, nhìn lên và thấy ta, giận dữ lớn tiếng bảo ta quay trở lại làm việc kèm theo vài lời quở trách. Điều khiến ta tức giận hơn là tất cả mọi người xung quanh, những người đang theo dõi sự kiện đó, đều chứng kiến ta bị đối xử thế nào. Keimer ngay lập tức chạy lên nhà in, tiếp tục cuộc cãi vã, hai bên đều lớn tiếng với nhau, ông đưa ra một cảnh báo về quý mà chúng ta đã thoả thuận trong hợp đồng, và bày tỏ hy vọng rằng ông không phải dùng nó quá lâu. Ta nói với ông rằng điều đó không cần thiết vì ta sẽ nghỉ việc ngay. Ta lấy chiếc mũ của mình, đi ra khỏi cửa, yêu cầu Meredith, người bảo quản những tài sản còn để lại của ta và giúp ta mang nó đến nơi ở. Meredith đến vào buổi chiều tối và chúng ta nói về chuyện của ta. Cậu kính trọng ta rất nhiều và tỏ ra không muốn ở lại nhà in khi ta đã ra đi. Cậu can ngăn ý nghĩ trở về quê nhà mà ta bắt đầu có trong đầu. Cậu nhắc nhở ta rằng tất cả tài sản của Keimer đều do vay nợ https://thuviensach.vn mà có, những chủ nợ của ông này bắt đầu tỏ ra khó chịu, ông này chỉ có thể giữ cửa hàng của mình một cách lay lắt mà không có lợi nhuận để có tiền và thường không kiểm tra sổ sách kỹ lưỡng. Do đó, Keimer chắc chắn sẽ thất bại và từ đó sẽ tạo cơ hội cho ta kiếm lợi nhuận. Ta phủ nhận mong muốn kiếm tiền của mình. Sau đó, cậu nói rằng cha của cậu đánh giá ta rất cao và từ những cuộc trò chuyện giữa hai cha con, chắc chắn ông này sẽ cho tiền chúng ta tự kinh doanh riêng nếu ta đồng ý hợp tác với cậu. “Hợp đồng của tôi với Keimer sẽ hoàn tất vào mùa xuân,” Meredith nói. “Đến lúc đó, chúng ta có thể có mẫu chữ in và máy in từ London. Tôi tự biết bản thân mình không phải thợ giỏi. Nếu cậu thích, có thể kết hợp kỹ năng trong công việc của cậu cùng với tiền bạc của tôi, chúng ta chia đều lợi nhuận có được”. Đó là một đề nghị hợp lý và ta đồng ý. Cha của Meredith lúc đó đang trong thành phố và chấp thuận chuyện này và ông càng đồng ý hơn khi thấy ta có ảnh hưởng lớn thế nào đến con trai ông, đã khiến cậu giảm bớt tật nghiện rượu và ông hy vọng ta sẽ giúp cậu bỏ hoàn toàn thói quen xấu đó khi chúng ta trở nên thân thiết. Ta đưa ra danh mục những thứ cần mua cho cha Meredith và ông mang nó đến gặp một thương gia. Các trang thiết bị được đặt mua, việc này được giữ kín cho đến khi đồ đạc được chuyển tới và trong thời gian đó, ta đã cố gắng đi tìm công việc ở nhà in khác. Tuy nhiên, ta không thể tìm ra vị trí trống nào và chấp nhận thất nghiệp vài ngày khi Keimer, trong nỗ lực có được hợp đồng in tiền giấy cho New Jersey, công việc rất cần những khung cắt và những mẫu chữ in mà chỉ có ta mới có thể cung cấp, và sợ rằng Bradford sẽ giành mất hợp đồng này bằng cách thuê ta, đã gửi đến ta một thông điệp rất lịch sự rằng bạn bè lâu năm không nên chia rẽ chỉ vì vài lời nói xuất phát từ sự nóng giận nhất thời và mong muốn ta trở lại làm việc. Meredith khuyên ta nên quay về vì việc này cho cậu nhiều cơ hội học hỏi từ những chỉ bảo hằng ngày của ta hơn, do vậy ta quay trở lại với Keimer và nhà in làm việc còn trôi chảy hơn trước. Chúng ta nhận được hợp đồng từ New Jersey và ta chế ra một máy in bảng đồng cho công việc này, chiếc máy lần đầu tiên xuất hiện ở đất nước này. Ta khắc rất nhiều những hoa văn và những dấu hiệu đặc thù trên tờ tiền. Chúng ta cùng đi đến Burlington, nơi ta làm tất cả mọi việc một cách hoàn chỉnh và Keimer nhận được một khoản tiền lớn cho hợp đồng này đủ để giúp ông tồn tại lâu hơn. Ở Burlington, ta quen một số nhân vật chủ chốt của vùng này. Nhiều người trong họ đã được Quốc Hội bổ nhiệm thành lập một uỷ ban xử lý việc in ấn để bảo đảm rằng không có nhiều tiền được in ra hơn so với luật định. Vì vậy, họ thay phiên nhau làm việc với chúng ta và theo thường lệ, một người đến kiểm tra cùng với một hoặc hai người bạn. Đầu óc ta khá hơn Keimer rất nhiều nhờ đọc sách, do đó ta nghĩ những cuộc trò chuyện của ta có vẻ có chiều sâu hơn. Họ mời ta về nhà, giới thiệu ta với bạn bè, và đối xử với ta rất lịch sự trong khi Keimer hơi bị bỏ bê dù là ông chủ. Sự thật, Keimer là một người lập dị, thiếu hiểu biết về https://thuviensach.vn cuộc sống, thích đối đáp lại những ý kiến của người khác một cách cộc cằn, nhếch nhách đến bẩn thỉu, hăng hái trong một vài quan điểm tôn giáo và có một chút đểu giả. Chúng ta tiếp tục ở đó trong 3 tháng và đến lúc đó, những người bạn của ta bao gồm: thẩm phán Allen, Samuel Bustill thư ký của Burlington, Isaac Pearson, Joseph Cooper và rất nhiều người trong gia đình Smith, những thành viên trong Quốc Hội và Isaac Decow, một tổng kiểm sát viên. Isaac Decow là một ông già khôn ngoan, sắc sảo. Ông nói với ta rằng ông bắt đầu việc quay đất sét khi còn trẻ cho một người thợ làm gạch, học viết khá trễ, đi xách thước đo dây cho các kiểm sát viên, những người đã dạy ông cách kiểm tra và giờ đây bằng nghề này ông đã có một gia sản kha khá, và ông nói: “Tôi có thể thấy rằng cậu sẽ sớm khiến người đàn ông này phá sản và trở nên giàu có ở Philadelphia.” Lúc đó ông còn chưa biết chút gì về ý định mở nhà in của ta ở Philadelphia hay bất kỳ nơi nào khác. Những người bạn này sau đó giúp ta rất nhiều như ta khi giúp lại họ. Tất cả đều quý trọng ta suốt đời. Trước khi nói về sự xuất hiện công khai của mình trong kinh doanh, có lẽ ta cần phải cho con biết cách suy nghĩ xuất phát từ những nguyên tắc mà con sẽ thấy chúng ảnh hưởng nhiều thế nào đến những sự kiện trong cuộc đời ta. Cha mẹ đã cho ta những hiểu biết về tôn giáo rất sớm và từ thuở ấu thơ đã dạy dỗ ta luôn sùng thờ đạo theo cách không chính thống. Sau khi lần lượt nghi ngờ rất nhiều điểm vì tính mâu thuẫn của nó trong những cuốn sách khác nhau mà ta đã đọc, ta bắt đầu nghi ngờ Khải Huyền khi mới gần 15 tuổi. Một vài cuốn sách phản bác lại học thuyết thần thánh đã rơi vào tay ta, tất cả những cuốn sách đó đều thể hiện nội dung trong các bài giảng của Boyle. Có vẻ như những cuốn sách này ảnh hưởng ta theo cách ngược lại những gì chúng hướng đến, vì những lý lẽ của các nhà thần luận được trích dẫn cho mục đích phản bác đối với ta còn có lý hơn cả lời phản bác. Nói ngắn gọn, ta trở thành một nhà thần luận toàn diện từ rất sớm. Những luận cứ của ta thuyết phục những người khác, đặc biệt là Collins và Ralph, nhưng sau đó cả hai người đều gây cho ta những thiệt hại mà không hề có chút ăn năn nào và sau những hành động của Keith với ta (một nhà thần luận khác), hành vi của ta với Vernon và nàng Read, những sự việc nhiều lần khiến ta gặp rắc rối, ta bắt đầu nghi ngờ tính hữu ích của học thuyết này dù nó có thể đúng. Cuốn chuyên đề xuất bản ở London của ta trên đó có ghi những dòng sau của Dryden: “Bất kể nó là cái gì, nó đúng. Dù người khờ khạo Chỉ thấy một phần của sự việc, móc xích gần nhất: Ánh mắt của hắn không nhìn thấy sợi dây cân bằng Đang treo tất cả lơ lửng phía trên.” https://thuviensach.vn Và theo lời Chúa, theo sự thông thái vĩnh cửu, lòng tốt và sức mạnh của ngài, kết luận rằng không có điều gì có thể chắc chắn sai trong thế giới này, và rằng xấu xa và đạo đức chỉ là những sự phân biệt rỗng tuếch, không có thứ gì như vậy tồn tại, khi nghĩ tới ta nhận thấy đó là những triết lý rất khôn ngoan. Và ta nghi ngờ rằng không biết trong lý lẽ của ta có sai lầm nào đó ta không nhận ra có thể khiến tất cả những phần còn lại sai theo vì đó là điều rất hay gặp trong lý luận trừu tượng. Ta bắt đầu tin rằng sự chân thành và tính chính trực giữa người với người là điều quan trọng nhất trong cuộc sống hạnh phúc, và ta đã viết ra những nguyên tắc này trong cuốn nhật ký của mình để theo đuổi nó cho đến khi nào ta còn trên đời. Vì như thế, cuốn sách Khải Huyền thực ra không có ý nghĩa gì với ta. Nhưng ta thích cái ý tưởng những hành vi nhất định có thể không xấu chỉ vì bị cấm, hay tốt chỉ vì được khuyến khích bởi cuốn sách đó. Tuy nhiên, nhiều khả năng những hành vi này bị cấm vì bản chất nó không tốt cho con người khi xem xét tất cả mọi khía cạnh của vấn đề. Và học thuyết này, với bàn tay của Chúa Trời, của những thiên thần hộ mệnh nào đó, hay bởi những tình huống vô tình thuận lợi, hoặc có thể với tất cả những yếu tố trên, đã bảo vệ ta qua những giai đoạn nguy hiểm của tuổi trẻ. Khi gặp phải những tình huống nguy hiểm ở những vùng đất xa lạ, khi thiếu đi sự trông coi và chỉ bảo của người cha, ta không hề mảy may có chủ ý hành động trái đạo đức hay ác ý, điều đó có lẽ xuất phát từ mong muốn tôn giáo của ta. Ta nói có chủ ý vì những ví dụ ta đã nêu ra có điều gì đó tất yếu, từ sự non trẻ thiếu kinh nghiệm của ta và sự bất lương của những kẻ khác. Do đó, ta có tính cách nhẫn nhịn khi bắt đầu bước vào cuộc đời. Ta rất quý đức tính này và luôn quyết tâm giữ nó. Chúng ta trở về Philadelphia không lâu sau khi những mẫu chữ in mới được chuyển tới London. Ta dàn xếp với Keimer và nghỉ việc trong sự đồng ý của ông trước khi ông nghe nói về việc đó. Chúng ta tìm và thuê một ngôi nhà gần chợ. Để giảm bớt chi phí thuê, lúc đó là 24 Bảng một năm, dù rằng ta biết trước đó nó được cho thuê với giá 70 Bảng, chúng ta cho Thomas Glazier, một thợ làm kính và gia đình của ông này đến ở chung và họ chi trả một phần lớn khoản tiền thuê nhà. Chúng ta chỉ vừa mở những mẫu chữ in và lắp ráp chiếc máy in xong thì một người quen của ta, tên George House, dẫn đến một chàng trai nhà quê, người trước đó hỏi tìm một nhà in House gặp trên phố. Vì tất cả tiền bạc chúng ta đã chi cho những đồ đạc thiết yếu nên cậu trai chỉ đòi 5 shilling một này trở thành món hời đầu tiên đến rất đúng lúc khiến ta cảm thấy vui hơn bất kỳ những thành tựu nào mà mình đã đạt được trước đó. Và sự biết ơn của ta với House đã khiến ta thường sẵn sàng hơn trong việc chỉ bảo những người trẻ tuổi mới bắt đầu công việc khác. Đất nước nào cũng có những kẻ chuyên rêu rao những điềm gở về sự suy tàn. Người đàn ông đó xuất hiện ở Philadelphia, một người đứng tuổi có tiếng tăm, có ngoại hình thông thái và trịnh trọng trong cách nói chuyện. Tên ông là Samuel Mickle. Ta không biết ông này https://thuviensach.vn nhưng một ngày ông đứng trước cửa hàng của ta và hỏi rằng có phải ta là cậu trai trẻ vừa mới mở nhà in không. Khi nhận được câu trả lời xác nhận, ông nói ông cảm thấy tiếc cho ta, những công sức và tiền bạc ta bỏ ra sẽ bị mất trắng vì Philadelphia là một nơi đang tàn lụi, tất cả mọi người đều đang trên đà phá sản hay chuẩn bị phá sản, những thứ bề ngoài trông có vẻ trái ngược như là những tòa nhà mới, những người mới đến thuê theo ông hiểu chỉ là lừa bịp vì thực tế những thứ đó cũng nằm trong những yếu tố sẽ hủy hoại chúng ta. Ông kể tỉ mỉ những sự bất hạnh đang tồn tại và những cái sẽ sớm xuất hiện và để lại ta đứng đó với tâm trạng sầu muộn. Nếu ta biết ông sớm hơn, có lẽ ta đã không mở nhà in. Tuy nhiên, Mickle vẫn tiếp tục sống ở nơi tàn lụi này, tiếp tục diễn thuyết bằng giọng điệu đó, từ chối mua nhà trong nhiều năm bởi vì theo ông, tất cả sẽ sớm bị phá huỷ. Cuối cùng, ta thích thú nhìn Mickle trả khoản tiền gấp 5 lần so với khoản tiền lẽ ra ông phải trả lúc bắt đầu đi rêu rao điềm gở. Lẽ ra, ta nên nhắc đến lúc trước rằng, trong mùa thu năm trước, ta tập hợp các bằng hữu tốt nhất của mình thành một câu lạc bộ cùng tiến bộ, thường xuyên họp mặt vào chiều Thứ Sáu, lấy tên là Junto. Quy định mà ta đặt ra đó là yêu cầu tất cả các thành viên khi tới lượt phải nêu ra một hay hai câu hỏi tham luận về bất kỳ điểm nào trong đề tài Đạo Đức, Chính Trị, hay Khoa Học Tự Nhiên để những người khác thảo luận và cứ 3 tháng một lần, mỗi thành viên phải sáng tác và đọc một bài luận về bất kỳ đề tài nào người đó thích. Để tránh sự nhiệt tình quá độ, những ý kiến quả quyết hay mâu thuẫn trực tiếp đôi khi xuất hiện sau đó, các buổi tranh luận của chúng ta đều được điều phối bởi một chủ nhiệm và được diễn ra trên tinh thần theo đuổi sự thật, không ham tranh cãi hay mong muốn giành chiến thắng. Những quy định này được thực thi dựa trên những khoản tiền phạt nhỏ. Thành viên đầu tiên là Joseph Breintnal, một nhân viên sao chép chứng từ làm việc cho những người chuyên sao chép văn kiện, một người tốt, thân thiện, tuổi trung niên, yêu thơ cuồng nhiệt, đọc tất cả những bài thơ mà ông bắt gặp và viết một vài tác phẩm kha khá, biết nhiều những thứ lạ kỳ nho nhỏ và nói chuyện khôn ngoan. Thomas Goldfrey, một nhà Toán học tự học theo cách riêng rất hay của mình và sau đó là người phát minh ra thứ mà bây giờ được gọi là Thước Đo Hadley. Nhưng ngoài Toán ra, Goldfrey không biết gì nhiều và là một người bạn không dễ chịu cho lắm. Như tất cả những nhà Toán học mà ta từng gặp, ông đòi hỏi sự chính xác tổng thể của mọi thứ được đề cập và luôn bác bỏ cũng như phân biệt những thứ nhỏ nhặt đến mức làm nhiễu buổi thảo luận. Ông sớm rời khỏi nhóm chúng ta. Nicholas Scull, một kiểm sát viên sau đó thành tổng kiểm sát viên, người yêu sách và đôi khi làm thơ. https://thuviensach.vn William Parsons, được truyền nghề đóng giày, nhưng yêu thích đọc sách, có được một khối lượng kiến thức khá lớn về Toán. Ban đầu, Parsons theo đuổi Toán học với mục đích nghiên cứu Chiêm tinh học, việc mà sau này ông cười khi nhắc đến nó. Ông cũng trở thành một tổng kiểm sát viên. William Maugridge, một thợ làm đồ gỗ, một thợ cơ khí xuất sắc và là một người hiểu biết và đáng tin cậy. Hugh Meredith, Stephen Potts và George Webb ta đã nhắc đến lúc trước. Robert Grace, một quý ông khá giả, rộng rãi, sôi nổi và hóm hỉnh, yêu thích chơi chữ và quý mến bạn bè. Và William Coleman, một nhân viên kinh doanh, xấp xỉ tuổi ta, một con người điềm đạm, đáng mến, có trái tim nhân hậu và có đạo đức chuẩn mực nhất trong số tất cả những người ta từng gặp. Sau đó, cậu trở thành một thương gia nổi tiếng và là một trong những thẩm phán của vùng. Tình bạn của chúng ta tiếp tục cho đến khi cậu qua đời khoảng 40 năm sau đó. Câu lạc bộ tiếp tục được duy trì cho đến thời điểm đó như một ngôi trường tốt nhất trong vùng, chuyên giảng dạy khoa học, đạo đức và chính trị. Những câu hỏi được nêu ra một tuần trước buổi thảo luận khiến chúng ta chăm chú tìm hiểu nhiều đề tài mà chúng ta có thể sẽ bàn luận, và ở đây, chúng ta có được thói quen thảo luận tốt hơn, mọi thứ đều được xem xét dưới các quy định được tạo ra để ngăn cản chúng ta không tranh cãi lẫn nhau. Câu lạc bộ tiếp tục được duy trì rất lâu sau đó và ta sẽ có những dịp nói nhiều hơn về nó sau này. Nhưng kể về nó ở đây là để đề cập đến một cái lợi mà ta có từ Junto, mọi người trong chúng ta đều cố gắng giúp đỡ nhau trong công việc kinh doanh. Đặc biệt Breintnal giúp chúng ta có được hợp đồng in 40 bộ sách lịch sử từ những tín đồ cơ hữu trong khi phần còn lại Keimer được nhận. Theo bản hợp đồng này, chúng ta phải làm việc cật lực vì giá tiền rất thấp. Đó là một cuốn sách khổ hai, kích thước Anh, cỡ chữ hệ pica với những chú giải viết bằng cỡ chữ primer. Ta soạn bảng chữ cho một quyển mỗi ngày, và Meredith đảm trách việc in ra. Thường thì chúng ta thức đến 11 giờ và đôi khi trễ hơn trước khi ta hoàn tất công việc xếp chữ cho ngày mai vì một số công việc nhỏ khác do vài người bạn gửi đến làm chúng ta chậm lại. Nhưng ta vẫn quyết phải hoàn thành một cuốn sách một ngày. Một đêm, khi đã làm xong khuôn in, ta nghĩ đã xong việc, một trong những khuôn in vô tình bị vỡ ra và hai trang giấy chỉ còn lại chẳng còn bao nhiêu, ta ngay lập tức dỡ khuôn in ra và sắp tất cả vào lại trước khi đi ngủ. Công việc kinh doanh của chúng ta bắt đầu có tiếng tăm khi được nhiều người hàng xóm biết đến. Đặc biệt là, như ta nghe nói, mọi người ở câu lạc bộ hàng đêm của các thương gia bàn tán nhau về một nhà in mới, nhận xét chung là chắc chắn sẽ thất bại vì đã có hai nhà in trong vùng, Keimer và Bradford, nhưng Giáo Sư Baird (người mà sau này sẽ https://thuviensach.vn gặp lại ở quê hương của ông, thị trấn St. Andrew ở Scotland) lại đưa ra ý kiến trái ngược: “Nhà in của Franklin là một nhà in tốt nhất tôi từng thấy,” ông nói, “Tôi thấy cậu ta vẫn làm việc khi tôi về nhà từ câu lạc bộ và làm việc khi những người khác chưa thức giấc.” Nhận xét này ảnh hưởng mạnh mẽ đến những người còn lại và không lâu sau đó, chúng ta nhận được những đề nghị cung cấp văn phòng phẩm từ một trong những hội viên của câu lạc bộ. Tuy vậy, chúng ta vẫn chưa quyết định mở cửa hàng kinh doanh. Ta nhắc đến sự cần cù trong công việc của mình một cách tỉ mỉ và hào phóng hơn, dù rằng có vẻ như ta đang tự khen, nhưng những con cháu hậu thế nếu đọc có thể hiểu sự hữu ích của đức tính này khi thấy những tác dụng tốt của nó. George Webb đã tìm được một người bạn gái sẵn sàng cho cậu vay bất kỳ số tiền nào cần thiết để hủy giao kèo với Keimer và giờ đến xin việc ở chỗ chúng ta. Lúc đó, chúng ta không thể thuê cậu nhưng lại ngu ngốc tiết lộ rằng chúng ta đang chuẩn bị cho ra đời một tờ báo và có thể sẽ có việc làm cho Webb. Hy vọng chúng ta thành công, như ta nói với Webb, dựa trên nền tảng rằng tờ báo duy nhất được in ra bởi Bradford rất dở, quản lý kém, không có tính giải trí nhưng vẫn mang lại lợi nhuận cho ông. Do đó, ta tin rằng một tờ báo hay sẽ khó thất bại. Ta dặn Webb không được tiết lộ bí mật này nhưng cậu ta vẫn nói với Keimer, người ngay lập tức thông báo việc chuẩn bị phát hành một tờ báo trước ta và Webb được Keimer nhận vào làm. Ta rất tức giận về điều này và để đối đầu với Keimer vì đã không thể xuất bản tờ báo của mình, ta viết nhiều tác phẩm giải trí cho tờ báo của Bradford dưới bút danh “người bận rộn”, bút danh mà Breitnal tiếp quản và duy trì vài tháng sau đó. Bằng cách đó, sự chú ý của công chúng đều tập trung vào tờ báo của Bradford và thông báo xuất bản của Keimer, thứ chúng ta chế giễu và cười nhạo, không được ai quan tâm. Tuy nhiên, Keimer vẫn xuất bản tờ báo và duy trì nó 3 quý tiếp theo với lượng đăng ký cao nhất chỉ có 9 người. Ông bán lại cho ta với cái giá bèo bọt. Do đã chuẩn bị sẵn để bắt đầu tờ báo của mình, ta nhận nó và chỉ trong vài năm nó đã mang lại rất nhiều lợi nhuận. Ta nhận ra ta buộc phải tự xử lý mọi việc dù rằng vẫn cộng tác với Meredith. Lý do có lẽ là vì thực tế tất cả việc quản lý kinh doanh đều do ta đảm trách. Meredith không phải thợ sắp chữ giỏi, là một người thợ in tồi và hiếm khi tỉnh rượu. Bạn bè ta kêu ca về sự hợp tác giữa ta và cậu ấy nhưng ta muốn tận dụng nó theo cách tốt nhất. Tờ báo đầu tiên của chúng ta có thiết kế khá khác biệt so với bất kỳ tờ báo nào trong vùng, hình thức đẹp hơn và in đẹp hơn. Nhưng chính những bài viết nhận xét sinh động của ta về đề tài cuộc tranh luận diễn ra giữa Thống đốc Burnet và Quốc Hội Massachusetts đã gây được sự chú ý đến hầu hết mọi người giúp cho tờ báo và người quản lý nó được bàn tán đến rất nhiều. Kết quả là chỉ trong vài tuần, những người bàn tán về tờ báo trở thành các khách hàng mua báo. https://thuviensach.vn Hành động của những người này khiến nhiều người khác cũng bắt chước theo và số lượng người đặt mua liên tục tăng. Đây là lợi ích đầu tiên của việc biết viết lách. Một lợi ích khác là khi những người có ảnh hưởng thấy tờ báo này được đọc bởi những người có học liền nghĩ rằng việc giúp đỡ và khuyến khích ta viết bài là điều nên làm. Bradford vẫn cho xuất bản những thông tin bầu cử, luật và các vấn đề công khác. Ông cho in bài diễn văn của Nghị Viện với Thống đốc một cách tồi tàn và ngớ ngẩn trong khi chúng ta cho in nó một cách trang trọng nghiêm chỉnh rồi gửi một bản đến tất cả các thành viên. Họ đều nhận ra sự khác biệt: nó giúp tăng sức mạnh của bạn bè ta trong Nghị Viện và ta trở thành nhà cung cấp dịch vụ in ấn cho họ trong năm tiếp theo. Trong số các bạn bè ở Nghị Viện, ta không thể quên được Hamilton, người mà ta có nhắc đến trước đây. Ông đã trở về từ Anh và có một ghế trong Nghị Viện. Ông ủng hộ ta rất mạnh mẽ trong chuyện này cũng như nhiều chuyện khác sau đó cho đến khi qua đời. Lúc này, Vernon nhắc đến món nợ mà ta nợ ông nhưng không thúc ta phải trả. Ta viết cho ông một lá thư thể hiện sự biết ơn chân thành vì đã kiên nhẫn cho phép ta kéo dài thời gian trả nợ, hứa rằng ngay khi có khả năng ta sẽ trả ông số tiền cả gốc lẫn lãi và nói rằng mình cảm ơn ông rất nhiều. Việc làm đó là để sửa sai phần nào lỗi lầm trước kia. Nhưng giờ một khó khăn nữa mà ta không hề mong đợi lại xuất hiện. Cha của Meredith, người trả tiền để xây dựng nhà in theo ý của ta trước kia, chỉ đủ khả năng chi 100 Bảng. 100 Bảng còn lại là khoản cho vay của một thương gia, người bắt đầu mất kiên nhẫn và đâm đơn kiện tất cả chúng ta. Chúng ta trả tiền bảo lãnh nhưng hiểu rằng nếu không trả tiền đúng hạn, vụ án sẽ sớm được phán quyết và thi hành. Hậu quả là viễn cảnh đầy hy vọng của chúng ta sẽ bị huỷ hoại vì máy in và những mẫu chữ sẽ bị đem ra bán để trả nợ, có thể chỉ với nửa giá. Trong hoàn cảnh khó khăn này, hai người bạn đích thực, những người mà ta chưa bao giờ quên và sẽ không bao giờ quên lòng tốt của họ nếu ta còn khả năng nhớ điều gì đó, lần lượt đến gặp ta vì cả hai không biết nhau, và dù ta không yêu cầu gì, mỗi người đều đề nghị cho ta mượn tất cả khoản tiền cần thiết để ta có thể mua lại toàn bộ nhà in nếu có thể. Nhưng họ không muốn ta tiếp tục hợp tác với Meredith, người mà theo họ thường bắt gặp say xỉn ở ngoài đường và chơi những trò chơi tầm thường trong quán rượu, những hành vi hạ thấp uy tín của chúng ta. Hai người bạn này là William Coleman và Robert Grace. Ta nói với họ rằng, ta không thể đề nghị ngừng hợp tác trong khi nhà Meredith vẫn hoàn thành phần việc của mình trong thoả thuận hợp tác hai bên vì ta nghĩ mình có nghĩa vụ sâu nặng với họ sau những gì họ đã làm và sẽ làm cho ta nếu có thể. Tuy nhiên, nếu nhà Meredith không hoàn thành phần nhiệm vụ của mình, sự hợp tác phải chấm dứt, lúc ta sẽ cân nhắc việc chấp nhận sự giúp đỡ của các bạn ta. https://thuviensach.vn Do đó, vấn đề lắng xuống một thời gian cho đến khi ta nói với Meredith: “Có lẽ cha cậu không hài lòng về phần việc của cậu trong thỏa thuận hợp tác giữa hai chúng ta và không muốn chi cho tôi và cậu số tiền mà ông ấy chỉ muốn dành cho cậu mà thôi. Nếu vậy, hãy nói với tôi, tôi sẽ trả lại toàn bộ công việc kinh doanh cho cậu và bắt đầu công việc mới của mình.” “Không,” Meredith nói, “cha tôi thực sự đã rất thất vọng và thực sự không có đủ khả năng, tôi không muốn làm ông ấy buồn phiền nhiều hơn nữa. Tôi biết tôi không hợp với nghề này. Tôi được học nghề nông và tôi thật điên khùng khi đến thành phố để xin học một nghề hoàn toàn mới ở cái tuổi 30. Rất nhiều đồng hương xứ Wales của tôi định cư tại North Carolina, nơi đất đai rất rẻ. Tôi định đi theo họ và quay trở lại nghiệp cũ của mình. Cậu có thể tìm bạn bè để giúp đỡ cậu. Nếu cậu gánh món nợ của công ty, trả cho cha tôi 100 Bảng ông đã bỏ ra, trả một ít nợ cá nhân cho tôi, đưa cho tôi 30 Bảng và một cái yên ngựa mới, tôi sẽ rút khỏi công ty và để lại toàn bộ công việc kinh doanh cho cậu.” Ta đồng ý với đề nghị này. Nó được viết ra giấy, ký tên và đóng dấu ngay lập tức. Ta đáp ứng những gì Meredith đòi hỏi, cậu ta nhanh chóng chuyển đến North Carolina và trong năm kế tiếp gửi cho ta hai lá thư dài kể về những điều kiện thuận lợi ở vùng này như thời tiết, đất đai, nghề nông, v.v… Cậu tỏ ra rất hiểu biết những vấn đề này. Ta cho in những lá thư của Meredith và công chúng rất thích thú với những thông tin này. Ngay sau khi Meredith ra đi, ta đến tìm hai người bạn, và vì không muốn làm mất lòng ai, ta nhận phân nửa những gì mỗi người đề nghị. Ta nhận đầy đủ số tiền của một người và phân nửa của người còn lại. Ta trả hết số nợ, tiếp tục kinh doanh dưới tên của mình và thông báo rằng sự hợp tác đã chấm dứt. Ta nhớ đó là vào năm 1729. Vào khoảng thời gian này, người dân thường phàn nàn về tình trạng thiếu tiền giấy. Chỉ còn 15 nghìn Bảng lưu hành trong vùng và số tiền này sẽ sớm bị dùng hết. Những người giàu phản đối việc in thêm tiền giấy vì sợ rằng việc làm đó sẽ khiến tiền mất giá, điều từng xảy ra ở New England, và gây ảnh hưởng xấu đến các chủ nợ. Chúng ta đã thảo luận về đề tài này ở câu lạc bộ Junto, ta đứng về phía ý kiến ủng hộ việc in thêm tiền bởi trước đó, vào năm 1723, khoản tiền nhỏ đầu tiên được đưa ra lưu hành đã mang lại nhiều lợi ích như tăng cường thương mại, tăng việc làm và số cư dân trong vùng, ta đã bắt gặp rất nhiều ngôi nhà cũ có người và nhiều ngôi nhà mới được xây dựng. Trong khi đó, ta nhớ rất rõ, khi ta lần đầu tiên đi bộ trên những con đường ở Philadelphia khi đang ăn ổ bánh mì, ta thấy hầu hết những ngôi nhà ở đường Walnut nằm giữa đường Second và đường Front có dán bảng “Cho thuê” và tương tự như vậy ở đường Chestnut, điều đó khiến ta nghĩ rằng những cư dân của thành phố đang lần lượt bỏ đi. https://thuviensach.vn Cuộc tranh luận khiến ta hiểu về đề tài này rõ đến nỗi ta viết và cho in ẩn danh một cuốn chuyên đề có tựa là The Nature and Necessity of a Paper Currency (Bản chất và sự cần thiết của tiền giấy). Mặc dù được hầu hết người dân đón nhận nhưng những người giàu không thích cuốn sách vì nó gia tăng và làm mạnh hơn lời kêu gọi in thêm tiền. Và vì trong số những người này không ai có khả năng viết phản biện, sự phản kháng của họ yếu đi và vấn đề được đa số thông qua ở Nghị Viện. Những người bạn của ta trong Nghị Viện, những người đánh giá cao chất lượng công việc của ta, cho rằng giao cho ta hợp đồng in tiền là phù hợp. Đó là một hợp đồng có lợi nhuận cao và nó giúp ta rất nhiều. Đây lại là một cái lợi nữa của việc biết viết. Sự hữu ích của số tiền mới in này được chứng minh theo thời gian và thực tế rõ ràng đến nỗi không ai tranh cãi nhiều về nó sau này nữa. Do đó, số tiền in ra nhanh chóng tăng lên 55 nghìn Bảng và 80 nghìn Bảng vào năm 1739. Kể từ đó, lượng tiền tiếp tục tăng lên trên 350 nghìn Bảng trong giai đoạn chiến tranh. Thương mại, xây dựng và dân số đều tăng. Giờ đây ta biết rằng, có giới hạn về số lượng mà nếu vượt ra qua sẽ có tác dụng xấu. Không lâu sau đó, ta nhận được hợp đồng in tiền vùng Newcastle từ tay người bạn Hamilton, một hợp đồng béo bở, theo suy nghĩ của ta. Những thứ nhỏ nhặt dường như cũng có giá trị to lớn trong những tình huống nhỏ và những hợp đồng này mang lại cho ta lợi ích to lớn vì nó mang tính khích lệ rất cao. Hamilton cũng giành cho ta hợp đồng in các bộ luật và phiếu bầu mà ta tiếp tục làm cho đến khi còn theo đuổi công việc kinh doanh này. Giờ đây, ta mở thêm một cửa hàng văn phòng phẩm nhỏ. Ta có tất cả loại giấy trắng, loại chuẩn nhất chúng ta từng có từ sự giúp đỡ của người bạn Breintnal. Ta cũng có giấy da, những cuốn sách của người bán hàng rong v.v… Một người tên Whitemash, một thợ sắp bảng in chữ mà ta quen biết ở London giờ đây đến làm việc cho ta và cậu ấy làm việc rất kiên trì và chăm chỉ. Và ta cũng nhận con trai của Aquila Rose vào học việc. Ta dần trả hết những món nợ đang gánh của nhà in. Để bảo đảm uy tín và danh tiếng của mình dưới vai trò một thương gia, ta không chỉ để bảo đảm rằng thực tế mình làm việc chăm chỉ và cần kiệm mà còn tránh có những hình ảnh trái ngược. Ta ăn mặc giản dị và không bao giờ xuất hiện ở những địa điểm tiêu khiển vớ vẩn. Ta không bao giờ ra ngoài săn bắn hay câu cá. Sách là thứ duy nhất khiến ta xao nhãng khỏi công việc nhưng hiếm khi đủ để tạo ra một hình ảnh xấu. Và để thể hiện rằng mình luôn chăm chỉ, ta thỉnh thoảng đẩy về nhà đống giấy ta mua được ở những cửa tiệm dọc đường phố bằng chiếc xe cút kít. Vì là một cậu thanh niên trẻ tuổi chăm chỉ, giàu có và trả tiền mua hàng đúng hạn, những thương gia nhập văn phòng phẩm thường đến khuyến dụ làm mối hàng với ta, những người khác cung cấp sách cho ta và ta tiếp tục công việc rất thuận buồm xuôi gió. Trong lúc đó, uy tín và công https://thuviensach.vn việc kinh doanh của Keimer xuống dốc mỗi ngày và cuối cùng ông buộc phải bán nhà in để trả nợ. Ông chuyển đến Barbadoes sống ở đó nhiều năm trong tình cảnh rất nghèo khổ. David Harry, người học việc của Keimer mà ta đã hướng dẫn trong thời gian còn làm việc với ông, tự ra mở nhà in riêng ở Philadelphia bằng cách mua lại một số nguyên vật liệu từ Keimer. Đầu tiên, ta sợ Harry sẽ là một đối thủ cạnh tranh đáng gờm vì những người bạn của cậu ấy có khả năng và có quen biết rất rộng. Vì thế, ta đề nghị cậu hợp tác cùng ta, may mắn thay Harry đã từ chối ta một cách rất khinh biệt. Cậu là một người rất tự hào về bản thân, ăn mặc như một quý ông, sống xa hoa, tham gia rất nhiều trò tiêu khiển và giải trí khắp nơi, mắc nợ và xao nhãng công việc kinh doanh. Do đó, tất cả khách hàng đều rời bỏ cậu và cậu không có gì để làm, Harry gói ghém nhà in mang bên mình theo Keimer đến Barbadoes. Ở đó, người học việc trước kia thuê ông chủ cũ của mình làm thợ, hai người thường xuyên cãi nhau, Harry tiếp tục làm việc kém cỏi và không lâu sau buộc phải bán những dụng cụ in ấn của mình và trở về làm việc ở Pensilvania. Người mua lại những dụng cụ in đó thuê Keimer làm việc, nhưng vài năm sau ông này qua đời. Giờ tại Philadelphia không còn ai cạnh tranh với ta ngoại trừ ông già Bradford giàu có và dễ tính, đôi khi cho vài tay phụ việc làm một số ấn phẩm nhưng không bận tâm lắm về kinh doanh. Tuy nhiên, vì ông ta quản lý bưu điện nên người ta tưởng ông có nhiều cơ hội để nhận tin tức mới hơn và do vậy tờ báo của ông được cho là nơi quảng cáo tốt hơn, bán được nhiều quảng cáo hơn, có lợi nhuận cao hơn và đây là một bất lợi đối với ta. Dù cho cũng thực sự gửi và nhận báo qua bưu điện nhưng ta gửi bằng cách hối lộ những người giao thư để giao hàng bí mật cho ta nên công chúng không biết chuyện đó. Bradford đủ khả năng để cấm việc đó tiếp diễn, điều khiến ta có phần tức giận. Ta đã nghĩ về ông xấu đến mức khi chính bản thân rơi vào hoàn cảnh tương tự sau đó, ta đã cố gắng không lặp lại hành động của Bradford. Ta vẫn tiếp tục ở chung nhà với Godfrey cùng vợ con ông và dành một phần của cửa hàng cho công việc kinh doanh kính của Godfrey. Dù làm việc ít nhưng ông rất chăm chú nghiên cứu Toán học. Bà Godfrey dự định sắp xếp cho ta một cuộc gặp với con gái một người bà con để mai mối cho chúng ta cho đến khi ta nghiêm túc tự theo đuổi cô này và bản thân cô gái này rất đáng để theo đuổi. Những người xung quanh khuyến khích ta tiếp tục bằng cách liên tục mời ta đến ăn tối và để hai chúng ta lại bên nhau cho đến một thời gian sau khi thời điểm mở lời đã đến. Bà Godfrey sắp xếp buổi ra mắt nho nhỏ cho chúng ta. Ta nói với bà rằng ta hy vọng có được số tiền hồi môn theo con gái của họ bằng khoản tiền ta còn nợ khi mua nhà in, số tiền vào khoảng dưới 100 Bảng. Bà nói rằng gia đình bà không có nhiều tiền để dành tới vậy. Ta bảo họ có thể cầm ngôi nhà của mình ở văn phòng cho vay. Sau vài ngày, câu trả lời cho chuyện này là họ không đồng ý cuộc hôn nhân, vì sau khi hỏi Bradford, họ được cho biết rằng nhà in không có lợi nhuận, những mẫu chữ in sẽ sớm hư hỏng và sẽ cần https://thuviensach.vn mua nhiều cái mới hơn và rằng Keimer và D. Harry đã thay nhau thất bại thì ta cũng sớm nối gót họ mà thôi. Và do vậy, ta bị cấm tới nhà của cô gái và cô này cũng bị cấm cửa. Dù đây có là sự thay đổi ý định thực sự hay chỉ là mưu mẹo cho rằng hai chúng ta đã có tình cảm quá sâu đậm không thể rút lại được và như thế chúng ta có thể sẽ lén kết hôn, điều đó sẽ khiến họ có quyền tự do chọn lựa chuyện cho hay giữ bất cứ gì họ muốn, ta không biết, nhưng ta nghi ngờ giả thuyết thứ hai hơn, điều đó khiến ta tức giận và không muốn tiếp tục. Sau đó bà Godfrey chuyển cho ta những đề nghị thoả thuận thiện chí hơn từ những người này và muốn ta quay trở lại thương lương nhưng ta tuyên bố dứt khoát không muốn dính dáng đến gia đình đó nữa. Tuyên bố đó làm gia đình Godfrey tức giận, chúng ta cãi nhau và họ dọn ra ngoài để lại cho ta toàn bộ ngôi nhà và ta quyết định không nhận ai vào ở chung nữa. Nhưng sự việc này đã hướng ta suy nghĩ đến việc kết hôn. Ta quan sát xung quanh và hỏi thăm bạn bè ở những nơi khác nhưng sớm nhận ra ngành kinh doanh in ấn bị xem là nghề nghèo, ta không được mong chờ tiền hồi môn từ vợ trừ phi khoản tiền đó là từ người mà ta không thích. Trong lúc đó, sự đam mê khó kiểm soát được của tuổi trẻ thúc giục ta thường xuyên qua lại với những phụ nữ thấp kém, việc đó khiến ta mất tiền và tạo ra nhiều sự bất tiện bên cạnh những rủi ro liên miên về sức khoẻ, thứ mà ta sợ nhất dù rằng ta may mắn thoát khỏi tình trạng đó. Một mối quan hệ thư từ qua lại thân thiện như những người hàng xóm và bạn cũ vẫn được duy trì giữa ta và gia đình nàng Read, những người đều quý mến ta kể từ lần đầu tiên ta trọ trong nhà của họ. Ta thường được mời tới tư vấn và thỉnh thoảng giúp đỡ một vài vấn đề cho họ. Ta tiếc cho số phận không may của nàng Read, người luôn chán nản, ít khi vui cười và tránh gặp gỡ bạn bè. Ta đổ lỗi sự không vững vàng và kiên trì của mình trong thời gian ở London là nguyên nhân chính dẫn đến sự bất hạnh của nàng, dù rằng mẹ nàng đủ rộng lượng để cho rằng lỗi thuộc về bà nhiều hơn vì bà đã ngăn cản chúng ta kết hôn khi ta đi London và thuyết phục con gái bà chấp nhận cuộc hôn nhân kia trong thời gian ta vắng mặt. Tình cảm giữa hai chúng ta bắt đầu nảy nở trở lại nhưng gặp phải sự phản đối kịch liệt chuyện chúng ta tiến tới kết hôn. Thực tế cuộc hôn nhân này được xem là không khả thi. Một người vợ trước của chồng nàng được cho là đang sống ở London nhưng điều này không dễ chứng minh vì khoảng cách quá xa và mặc dù rằng có thông tin chồng nàng đã chết song không chắc chắn. Ngay cả nếu chuyện đó là sự thật, hắn đã để lại rất nhiều khoản nợ mà người thay thế sẽ phải gánh thay. Tuy nhiên, chúng ta đã đánh bạo vượt qua những khó khăn này và ta cưới nàng làm vợ vào ngày 1 tháng 9 năm 1730. Không có những phiền phức như chúng ta đã lo sợ, nàng chứng tỏ mình là một người bạn đời tuyệt vời, chung thuỷ và giúp ta rất nhiều trong việc trông coi cửa hàng. Chúng ta cùng nhau xây dựng cuộc sống phát đạt và luôn cố gắng khiến người kia hạnh phúc. Ta đã sửa được sai lầm to lớn trước kia trong khả năng của mình. https://thuviensach.vn Vào khoảng thời gian này, việc họp mặt câu lạc bộ của chúng ta thường không tổ chức ở quán rượu mà trong căn phòng nhỏ của Grace dành riêng cho họp câu lạc bộ. Ta là người đề xuất ý kiến đó vì những cuốn sách của chúng ta thường được dùng trong những bài nghiên cứu liên quan đến các đề tài bàn luận, và sẽ thuận tiện hơn nếu có tất cả sách ở nơi họp mặt để có thể dùng tham khảo vào dịp thảo luận. Và bằng cách gom sách của tất cả lại thành một thư viện chung, từng thành viên đều có lợi khi được dùng sách của những thành viên khác giống như một thành viên sở hữu tất cả sách vậy. Mọi người đều thích và đồng ý với ý kiến đó, chúng ta chất đầy sổ sách mà chúng ta có thể ở một góc của căn phòng. Số lượng sách không nhiều như chúng ta tưởng và dù những cuốn sách đó rất hữu ích nhưng bắt đầu xuất hiện những sự phiền phức trong việc bảo quản sách sao cho đúng. Sau khoảng một năm, kho sách đó được chia ra và mỗi người lại đem sách của mình về nhà. Và giờ ta bắt đầu nghiên cứu một dự án công về một thư viện đăng ký thành viên. Ta soạn ra những đề xuất, nhờ một người sao chép văn khế tên Brockden viết lại theo đúng mẫu và nhờ sự giúp đỡ của bạn bè ta trong Junto, có được 50 người đăng ký với giá khởi điểm 40 shilling và phí 10 shilling một năm, trong vòng 50 năm, kỳ hạn mà nhóm thành viên đồng ý tham gia. Sau đó chúng ta soạn thảo một bản điều lệ, số người đăng ký tăng lên 100, đây là mẹ đẻ của tất cả thư viện đăng ký ở Bắc Mỹ mà giờ đây con số đã lớn hơn rất nhiều lần. Nó cực kỳ thành công và tiếp tục gia tăng về số lượng. Những thư viện này giúp tăng cơ hội thảo luận của người Mỹ, biến những thương gia và nông dân bình thường trở nên thông minh ngang giới quý tộc nhất từ các quốc gia khác và có lẽ đã phần nào đóng góp vào quan điểm của các nước thuộc địa trong vấn đề bảo vệ quyền lợi của họ. Bản ghi nhớ. Vì là văn bản được viết ra với mục tiêu được ghi rõ từ ban đầu, do đó có thể chứa đựng rất nhiều những giai thoại gia đình không quan trọng với những người khác. Điều ta sẽ đề cập tiếp theo được viết nhiều năm sau theo lời khuyên từ những bức thư này và được viết cho công chúng đọc. Cuộc cách mạng đã tạo ra một sự gián đoạn. Thư từ Albel James với những ghi chú về cuộc đời ta. (nhận được ở Paris) “GỬI NGƯỜI BẠN THÂN ĐÁNG KÍNH CỦA TA: Ta luôn mong muốn viết cho anh nhưng không thể vì sợ rằng lá thư sẽ rơi vào tay bọn Anh, chưa kể những tay thợ in hay những kẻ nhiều chuyện sẽ công bố một phần nội dung của lá thư khiến anh phải chịu đựng đau khổ và ta bị khiển trách. Khi ta, trong nỗi vui sướng khôn cùng, nhận được (23 trang) những dòng do anh viết, chứa đựng những thông tin về thân thế và cuộc đời anh cho đến con trai anh kết thúc vào năm https://thuviensach.vn 1730, với những ghi chú tương tự như các bản viết của anh. Ta kèm theo một bản sao chép của những trang giấy đó với hy vọng rằng nó sẽ là nguồn tư liệu để anh tiếp tục viết sau này, đoạn đầu và đoạn sau sẽ có thể được nối với nhau. Và nếu nó chưa được viết tiếp thì ta hy vọng anh sẽ không trì hoãn nó. Cuộc sống thật khó đoán như lời các nhà thuyết giáo và thế giới sẽ nói được gì nếu Benjamin Franklin tử tế, nhân đức và rộng lượng rời khỏi bạn bè của anh, thế giới sẽ thiếu đi một tác phẩm đầy thú vị và hữu ích, một tác phẩm không chỉ hữu ích và thú vị cho vài người mà là cho hàng triệu người? Những tác phẩm có tầm ảnh hưởng như vậy nếu được giới trẻ tiếp thu thì rất tuyệt, và ta không thấy rõ ràng hơn ở nơi đâu khác sự hiện diện của những ảnh hưởng này ngoài cuốn nhật ký của người bạn chúng ta. Nó như vô tình dẫn dắt thế hệ trẻ đến với quyết tâm trở thành một nhà báo xuất chúng và tài ba. Tác phẩm của anh, thí dụ nếu được xuất bản (và ta nghĩ không thể thất bại được), sẽ dẫn dắt thế hệ trẻ đạt được sự chăm chỉ và điềm đạm như anh đã có khi còn rất trẻ. Đó thật là một sự chúc phúc lớn lao cho thế hệ trẻ! Ta không biết ai còn đang sống hay nhiều người khác cộng lại có có khả truyền bá một tinh thần tuyệt vời về sự chăm chỉ và sớm quan tâm đến công việc, sự cần kiệm cũng như sự điềm đạm cho thế hệ trẻ Mỹ nhiều như anh. Ta cũng không nghĩ rằng tác phẩm của anh sẽ có những giá trị khác và tác dụng khác với thế giới nào khác ngoài thế giới ta đã đề cập. Nhưng cái chính yếu là sự quan trọng mà ta biết không gì có thể sánh bằng.” Lá thư được đề cập ở trên và những chi tiết liên quan đến nó được đưa cho một người bạn xem, ta nhận được lá thư tiếp theo của cậu ấy: Thư từ Benjamin Vaughan. “PARIS, 13 tháng 2 năm 1783. “KÍNH GỬI NGÀI: Khi đọc qua những trang ghi chép các sự kiện lớn trong cuộc đời của ngài, được người bạn tín đồ cơ hữu của ngài tìm lại, tôi đã nói với ngài tôi sẽ gửi ngài một lá thư giải thích lý do vì sao tôi nghĩ nó sẽ hữu ích nếu được hoàn thành và xuất bản như người bạn ngài mong muốn. Đã có rất nhiều lo lắng trở ngại trong quá khứ khiến tôi không thể viết lá thư này sớm hơn và tôi không biết liệu nó có đáng để tôi hy vọng không. Tuy nhiên, nhân thời gian rảnh rỗi, tôi sẽ ít ra cũng khiến bản thân mình cảm thấy thỏa mãn và có định hướng bằng cách viết lá thư này. Nhưng do một số từ tôi thường dùng có thể sẽ xúc phạm đến một người như ngài, tôi sẽ chỉ kể cho ngài nghe cách tôi nói với bấy kỳ những người khác, những người cũng giỏi và vĩ đại như ngài nhưng ít khiêm tốn hơn. Thưa ngài, tôi sẽ nói với người đó rằng tôi bị cuốn hút bởi câu chuyện cuộc đời của người đó từ những động lực sau: câu chuyện cuộc đời ngài thật phi thường và nếu ngài không kể nó thì chắc chắn sẽ có người khác làm điều đó, và nếu làm như vậy, nó có thể tạo ra nhiều tai hại hơn so với khi ngài tự mình viết. Hơn thế nữa, nó còn cho thấy một bức tranh của những sự kiện nội bộ trong đất nước ngài và điều này rất hữu ích để có thể mời gọi thêm nhiều người định cư đàng hoàng và có đạo đức. Và cân nhắc sự hào hứng tìm đọc những thông tin đó cùng danh tiếng của ngài, tôi không biết liệu có cách thức nào hiệu quả hơn để quảng cáo ngoài quyển tự truyện của ngài. Tất cả những sự kiện xảy ra với ngài cũng liên quan đến những chi tiết về tập quán sống và hình ảnh của những con người đang trỗi dậy, vì lẽ đó tôi không nghĩ rằng những tác phẩm về Caesar và https://thuviensach.vn Tacitus có thể thú vị hơn một nhận định thực tế về bản chất con người và xã hội. Tuy nhiên, thưa ngài, tôi nghĩ đây chỉ là những lý do nhỏ nhặt so với cơ hội hình thành một thế hệ những con người tài năng trong tương lai và nằm trong mối tương quan với tác phẩm Art of Virtue (Nghệ Thuật Của Đức Hạnh) của ngài (cuốn sách mà ngài đã thiết kế để cho xuất bản), cuốn sách với mục đích cải thiện bản tính của từng cá nhân và để mang lại cho tất cả sự hạnh phúc cả bên trong lẫn bên ngoài. Hai tác phẩm tôi đề cập tới, thưa ngài, đặc biệt cung cấp một quy tắc và ví dụ đáng kính về việc tự học. Trường học và những môi trường giáo dục khác liên tục giảng dạy dựa trên những quy tắc sai lầm và cho thấy nó là một hệ thống vụng về với đích đến sai lầm. Nhưng bộ máy nguyên tắc của ngài đơn giản và quan điểm rất thực tế. Và khi những bậc phụ huynh và những người trẻ tuổi không có được những cách thức đúng đắn để đánh giá và chuẩn bị cho một hướng đi hợp lý trong cuộc đời, quan điểm của ngài cho rằng khả năng khám phá của mỗi người là điều vô tận là một quan điểm vô giá. Ảnh hưởng muộn màng đến một người không chỉ đơn thuần là một ảnh hưởng muộn màng mà còn là một ảnh hưởng kém sức mạnh. Giai đoạn tuổi trẻ chính là giai đoạn chúng ta nuôi dưỡng nhưng thói quen và định kiến quan trọng. Chính trong giai đoạn tuổi trẻ chúng ta chọn quan điểm của mình về nghề nghiệp, những thú vui và người bạn đời. Do đó, giai đoạn tuổi trẻ là ngả rẽ. Ở giai đoạn tuổi trẻ, thậm chí sự giáo dục dành cho thế hệ tiếp theo cũng được hình thành. Ở giai đoạn tuổi trẻ, nhân cách cá nhân và ngoài đời được quyết định. Và vì khái niệm cuộc đời được phát triển từ tuổi trẻ đến tuổi già, cuộc sống nên khởi đầu tốt từ tuổi trẻ, đặc biệt là trước khi chúng ta chọn ra quan điểm của mình về cách nhìn nhận những khách thể quan trọng trong cuộc sống. Nhưng cuốn Tự truyện của ngài không chỉ đơn thuần là sự tự giáo dục mà còn là sự giáo dục của một người thông thái. Người thông thái nhất sẽ nhận được những ánh hào quang và đạt được những tiếng bộ bằng cách quan sát tỉ mỉ một người thông thái khác. Và tại sao những người yếu kém hơn lại thiếu những sự giúp đỡ này khi họ đang khập khiễng trong bóng tối và hầu như không nhận được một sự chỉ dẫn nào trong hoàn cảnh đó từ thời xa xưa? Do đó, thưa ngài, hãy chỉ cho họ, cả những đứa con và cha mẹ chúng, cần phải làm gì. Hãy biến tất cả người thông thái thành người như ngài và biến tất cả người khác thành thông thái. Khi chúng ta nhận ra những chính khách và chiến binh đang tàn nhẫn thế nào với nhân loại và những con người nổi tiếng có thể đối xử lố bịch thế nào với những người quen của mình, sẽ là rất có ích để theo dõi những ví dụ ủng hộ thái độ hòa bình, và tìm hiểu xem liệu sẽ thích hợp đến mức nào nếu ta trở nên vĩ đại nhưng vẫn khiêm tốn, bị ganh tị nhưng vẫn tỏ ra vui vẻ. Những sự kiện cá nhân vụn vặt mà ngài sẽ phải đề cập đến cũng có những tác dụng to lớn vì trên tất cả, chúng tôi đều muốn học hỏi những quy luật về sự khôn ngoan trong những điều bình thường và xem cách ngài hành động trong các tình huống này sẽ rất thú vị. Đó cũng là một quy tắc quan trọng về cuộc đời và giải thích cho người đọc rất nhiều thứ mà lẽ ra tất cả mọi người phải giải thích cho họ để cho họ một cơ hội trở nên thông thái bằng cách chứng kiến trước mọi chuyện. Cách gần nhất để có những kinh nghiệm cá nhân cho bản thân là có một người khác kể cho chúng ta nghe những sự việc của họ một cách thú vị và ngài đã làm được điều đó bằng ngòi bút của mình. Những sự việc và cách xử lý cuộc đời mang màu sắc đơn giản hay quan trọng sẽ đủ để thu hút sự chú ý của chúng ta. Và tôi tin rằng ngài đã làm được điều này với sự độc đáo như thể ngài đã từng làm với những cuộc thảo luận về chính trị và khoa học của mình. Có thí nghiệm và hệ thống nào quan trọng hơn những thí nghiệm và hệ https://thuviensach.vn thống về cuộc đời con người (bao gồm cả sự quan trọng của bản thân thí nghiệm lẫn những lỗi phát hiện ra trong đó)? Vài người đạo đức một cách mù quáng, một số người khác lại vụ lợi một cách tuyệt vời còn những kẻ khác thì khôn ngoan trong những mục tiêu xấu. Nhưng ngài, thưa ngài, tôi tin chắc rằng dưới ngòi bút của ngài cũng trong hoàn cảnh đó chỉ có những điều thông thái, thực tế và tốt đẹp. Câu chuyện về cuộc đời ngài (tôi tự cho rằng hình ảnh ngài Franklin tôi đang vẽ ra không chỉ bao gồm nhân cách mà còn có cả lịch sử cá nhân) sẽ cho thấy rằng ngài không xấu hổ về dòng dõi. Ngài đã chứng minh rằng dòng dõi ít cần thiết thế nào với hạnh phúc, đạo đức và sự vĩ đại. Vì trên đời này, không có kết thúc nào có thể xảy ra mà không trải qua một quá trình, do đó chúng tôi sẽ biết rằng thậm chí chính ngài đã vạch ra một kế hoạch để ngài có thể trở nên vĩ đại. Nhưng cùng lúc chúng tôi cũng thấy rằng dù sự kiện có vẻ khoa trương, song phương pháp thì đơn giản một cách thông thái. Nó dựa trên bản chất, đạo đức, suy nghĩ và thói quen. Một thứ nữa được đề cập sẽ là chuẩn mực cho mọi con người muốn chờ đợi thời điểm thích hợp để xuất hiện trên vũ đài thế giới. Những xúc cảm của luôn gắn chặt với khoảnh khắc và chúng ta có xu hướng quên rằng khoảnh khắc sẽ tiếp nối khoảnh khắc, và cuối cùng con người nên điều chỉnh hành vi của mình để có thể phù hợp với cả cuộc đời. Sự thông thái đó đã được ngài áp dụng vào cuộc sống của mình, và những khoảnh khắc đã qua của cuộc đời ngài được thắp sáng bằng sự thỏa mãn và tận hưởng thay vì bị hành hạ bởi sự nóng vội ngu xuẩn cùng những tiếc nuối. Sự thoả mãn và tận hưởng đó thường dễ dàng với người theo đuổi đạo đức bản thân bằng các ví dụ của những con người thực sự vĩ đại, những người thường kiên nhẫn. Người bạn tín đồ cơ hữu của ngài, thưa ngài (ở đoạn này tôi giả sử độc giả của lá thư này là ngài Franklin), ca tụng sự thanh đạm, tính cần cù và chừng mực của ngài, điều mà ông ấy cho rằng nên là hình mẫu cho tất cả thế hệ trẻ. Nhưng kỳ lạ thay, ông ấy chắc hẳn đã quên đi sự khiêm tốn và tính không vụ lợi của ngài, thứ mà nếu không có nó ngài có thể sẽ không có được thành công hay không được như bây giờ. Đây là bài học sâu sắc cho thấy mặt trái của vinh quang và tầm quan trọng của việc điều khiển suy nghĩ. Nếu người bạn này biết được căn nguyên tên tuổi của ngài nhiều như tôi, chắc hẳn ông ấy sẽ nói rằng những tác phẩm và phương pháp của ngài sẽ bảo đảm cho cuốn Tự truyện của ngài và tác phẩm Nghệ Thuật Của Đức Hạnh giành được sự chú ý, đổi lại, hai cuốn sách đó cũng sẽ thu hút được sự chú ý cho những tác phẩm và phương pháp kia. Đây có thể coi là một ưu thế kèm theo với người có nhiều danh tiếng như ngài, và điều này kết hợp tất cả những gì liên quan để tạo thành một tổng thể hoàn chỉnh; và việc xuất bản cuốn tự truyện của ngài sẽ hữu ích hơn khi nhiều người có lẽ tỏ ra lúng túng với cách thức trau dồi trí tuệ và thanh danh của họ hơn là dành thời gian hay mong muốn thực hiện nó. Nhưng có một nhận xét cuối cùng, thưa ngài, tôi mạo muội nêu ra để giúp cuốn Tự truyện của ngài thể hiện giá trị cuộc đời ngài. Văn phong này dường như không còn thịnh hành, nhưng vẫn hữu ích, và những trang viết của ngài theo phong cách này có thể đặc biệt có ích vì nó sẽ giúp người đọc so sánh với cuộc sống của những kẻ mưu mô và thủ đoạn, những nhà tu hành tự hành hạ mình một cách vô lý hoặc những kẻ kiêu ngạo coi thường mọi thứ. Nếu Tự truyện của ngài tạo cảm hứng cho những tác phẩm khác cùng thể loại ra đời, và thuyết phục nhiều người sống đúng theo tinh thần miêu tả trong các tác phẩm đó, thì điều này sẽ còn đáng giá hơn tất thảy các tác phẩm của Plutarch cộng lại. Nhưng do không thể tìm được một tính cách hội tụ tất cả các điểm đặc trưng ở một con người duy nhất trên thế gian mà không thể không ca https://thuviensach.vn tụng người ấy, tôi xin dừng thư ở đây, Giáo Sư Franklin đáng kính, cùng với lời thỉnh cầu cá nhân gửi tới ngài. Tôi khẩn cầu một cách tha thiết rằng, thưa ngài, ngài sẽ hé lộ cho thế giới biết đến phẩm chất chân thật vĩ đại của ngài vì những kẻ đáng khinh ẩn mình trong cái mác lịch thiệp đang muốn che đậy hoặc vu khống ngài. Xét về tuổi tác, sự thận trọng và cách tư duy đặc biệt của ngài, hiếm có ai, ngoại trừ ngài, có thể nắm rõ và đầy đủ về các sự việc trong cuộc đời ngài hoặc những ý định hiện diện trong tâm trí ngài. Bên cạnh tất cả những lý do này, cuộc cách mạng rộng khắp hiện nay tất yếu sẽ hướng sự chú ý của tất cả đến người đã khai sáng ra nó, và trong thời đại mà nhiều nguyên tắc đạo đức bị ngụy tạo, sẽ là rất quan trọng để chỉ ra điều gì đã thật sự tạo ra ảnh hưởng. Và vì tính cách của ngài sẽ là đề tài chính được đem ra nghiên cứu kĩ lưỡng, điều này (ngay cả khi xem xét những ảnh hưởng của nó đến đất nước rộng lớn đang trỗi dậy của ngài, cũng như đến Anh và Châu Âu) đáng được tôn trọng và trở nên bất diệt. Xét về phương diện góp phần vào hạnh phúc của nhân loại, tôi đã luôn ủng hộ việc cần thiết phải chứng minh rằng con người không phải, ngay cả ở hiện tại, là một loại động vật xấu xa và đáng ghê tởm; và còn nhiều thứ nữa để chứng minh rằng việc quản lý tốt có thể giúp sửa đổi con người một cách đáng kể. Và cũng vì lý do đó, tôi khắc khoải chờ đợi quan điểm rằng con người dù khác nhau ai cũng có những đức tính tốt được chứng minh. Vì vào thời điểm này, tất cả mọi người sẽ hình thành quan niệm từ bỏ, người tốt sẽ ngừng cố gắng vì tuyệt vọng, và có lẽ sẽ có suy nghĩ tranh giành phần của mình trong sống hỗn độn này, hoặc ít nhất biến sự từ bỏ đó thành nguyên tắc sống dễ dãi cho bản thân. Do đó, thưa ngài, hãy tiến hành xuất bản tác phẩm này: chứng tỏ mình là người đức hạnh, vì sự thật là thế; chừng mực như bản chất của ngài, và hơn hết hãy chứng tỏ bản thân ngài là một người từ khi sinh ra đã yêu chuộng công lý, tự do và sự hòa thuận một cách tự nhiên và nhất quán hệt những hành động chúng tôi đã chứng kiến trong mười bảy năm qua của cuộc đời ngài. Hãy để người Anh không chỉ tôn trọng mà phải yêu quý ngài. Khi họ nghĩ tốt về những cá nhân ở đất nước ngài, họ sẽ có xu hướng nghĩ tốt về đất nước ngài. Và khi đồng bào của ngài cảm nhận được sự tôn trọng từ người dân Anh, họ sẽ có thiện cảm hơn với nước Anh. Hãy hướng tầm nhìn của ngài xa hơn, không chỉ dừng lại ở những nước nói tiếng Anh, sau khi đã xác lập rất nhiều quan điểm về tự nhiên và chính trị, hãy nghĩ đến việc hoàn thiện toàn thể nhân loại. Vì chưa đọc bất kì phần nào của cuộc đời mà tôi và ngài đang luận bàn, tôi chỉ biết nhân vật đó đã sống cuộc đời như thế, do đó lá thư này có phần khá liều lĩnh. Tuy nhiên, tôi chắc rằng, cuộc đời và chuyên luận tôi đang nhắc tới đây (dựa trên Nghệ thuật Của Đức Hạnh) hiển nhiên sẽ đáp ứng được mong đợi quan trọng nhất của tôi, và còn đáp ứng được nhiều hơn thế nữa nếu ngài xem xét đến cách thức giúp tác phẩm phù hợp với vài quan điểm nêu phía trên. Nếu như tác phẩm không được nhóm độc giả ngưỡng mộ đón nhận như ngài hy vọng thì chí ít ngài đã có những tác phẩm có tác dụng tốt cho tâm trí con người; và bất kì ai mang đến cảm giác thú vị đến cho con người đã thêm vào ánh sáng trong cuộc đời vốn đã nhiều đen tối bởi những lo âu và tổn thương do khổ đau. Do đó, tôi hy vọng ngài sẽ lắng nghe lời nguyện cầu gửi đến ngài trong bức thư này, và tôi nguyện cầu với tấm lòng chân thành nhất, thưa ngài, v.v… “Ký tên, BENJ. VAUGHAN.” Tiếp tục về câu chuyện cuộc đời ta, bắt đầu ở khu Passy, gàn Paris, na m 1784. https://thuviensach.vn Cũ ng khá la u kẻ từ khi ta nha ̣ n đượ c nhữ ng bứ c thư tre n, đén giờ vãn chưa có thờ i gian đẻ đáp lạ i ye u càu củ a họ . Mọ i vie ̣c lẽ ra thua ̣ n lợ i hơn nhièu néu ta ở nhà cù ng vớ i mớ giáy tờ củ a mình, những thứ sẽ giú p ích nhièu cho ta trong việc hồi tưởng lại và xác định các mốc thời gian. Nhưng do chưa xác định đượ c ngày vè và có rát ít thờ i gian rảnh rõ i, ne n ta sẽ nõ lự c nhớ và ghi chép lạ i nhữ ng gì có thẻ. Và néu ta cò n só ng đén ngày vè, nhữ ng trang viét này sẽ có thẻ đượ c chỉnh sửa và cải thie ̣n. Không giữ bản sao nào về nhữ ng gì đã viét ở đa y, ta kho ng rõ lie ̣u mình đã từng viết về cách ta thành la ̣ p thư vie ̣n co ng Philadelphia hay chưa, từ sự khở i đàu khie m tốn, thư viện giờ đã trở nên phát triển rất đáng kể, ma ̣ c dù ta nhớ mình đã viết đén gàn thờ i điẻm bắt đầu thành lập thư viện (na m 1730). Ta sẽ bát đàu kẻ lạ i sự kiện này ở đa y và sẽ đượ c gạch bỏ néu sau này nhớ ra đã nhác đén nó trong nhữ ng trang viét trướ c đây. Vào thờ i gian ta ỏ n định cuo ̣ c só ng tại Pennsylvania, kho ng có mo ̣ t tie ̣m bán sách nào thực sự tốt, từ vù ng thuo ̣ c địa cho đén khu vực phía Nam Boston. Ở New York và Philadelphia, nhữ ng nhà in thự c chát chỉ là nhữ ng tie ̣m bán va n phòng phẩm, bán giáy, nie n lịch, nhữ ng ta ̣ p thơ ballad và mo ̣ t vài sách quyển giáo khoa trung học tho ng thườ ng, v.v... Nhữ ng ai ye u thích đọ c sách buo ̣ c phải đa ̣t mua từ Anh và mõ i thành vie n củ a Junto đều có vài cuó n như vậy. Khi đó , chú ng ta đã từ bỏ địa điểm quán bia, nơi ban đầu chúng ta gặp nhau và thue mo ̣ t ca n phò ng làm trụ sở cho ca u lạ c bo ̣ . Ta đè nghị tát cả ne n đem sách đén trụ sở kho ng chỉ đẻ tra cứ u trong các cuo ̣ c thảo lua ̣ n mà cò n vì lợ i ích chung khi mõ i ngườ i có thẻ mượ n vè nhà đọ c. Đièu này đượ c thự c hie ̣n, và chú ng ta cảm thấy thỏa mãn trong một khoảng thời gian. Nha ̣ n tháy ích lợ i củ a bo ̣ sưu ta ̣ p sách ít ỏ i này, ta đè nghị mở ro ̣ ng tuye n truyền ích lợ i củ a sách đén mọ i ngườ i, bàng vie ̣c bát đàu mo ̣ t thư vie ̣n co ng co ̣ ng có thu phí thành vie n. Ta phác thảo mo ̣ t ké hoạch và nhữ ng no ̣ i quy càn thiét, và nhờ người sao chép văn khế Charles Brockden soạ n thành đièu khoản trong bản thỏ a thua ̣ n đẻ ký két. Ho ̣ i vie n sẽ phải trả mo ̣ t khoản phí đàu tie n đẻ mua sách, và mo ̣ t khoản phí thườ ng nie n đẻ na ng só lượ ng đàu sách. Lú c báy giờ ở Philadelphia rát ít ngườ i đọ c sách, và phàn lớ n chú ng ta đèu nghèo do đó dù đã nõ lự c, ta vãn kho ng tìm đượ c hơn na m mươi thành vie n, chủ yếu là các thương nha n trẻ chịu trả phí ban đầu 40 siling mõ i ngườ i và 10 shilling phí thườ ng nie n. Chú ng ta đã bát đàu bàng só tièn quỹ nhỏ nhoi này. Sách đượ c nha ̣ p vè, thư vie ̣n mở cử a mo ̣ t ngày trong tuàn đẻ ho ̣ i vie n mượ n sách theo thỏ a thua ̣ n họ sẽ phải trả gáp đo i giá trị cuốn sách néu kho ng hoàn trả đú ng hạ n. Thư vie ̣n nhanh chó ng chứ ng tỏ lợ i ích củ a mình và mo hình này đượ c nha n ra ở các thị trán và cả nhữ ng vù ng khác. Só lượ ng thư viện ta ng le n nhờ các khoản tiền hién ta ̣ng và vie ̣c đọ c sách trở ne n thịnh hành. Và ngườ i da n lú c áy, do kho ng có nhièu thứ tie u khiẻn để có thể làm họ phân tâm khỏi vie ̣c họ c, trở ne n quen vớ i sách hơn. https://thuviensach.vn Chỉ trong vài na m, theo nhận xét khách quan, kién thứ c và sự hiẻu biét củ a ngườ i da n trong vù ng đượ c na ng cao so vớ i ngườ i da n cù ng đẳng cấp ở nhữ ng nướ c khác. Khi chuản bị ký két bản thỏ a thua ̣ n ràng buo ̣ c chú ng ta cù ng nhữ ng ngườ i ké thừ a trong suó t na m mươi na m, o ng Brockden, người sao chép văn khế nó i rằng: “Các ngài cò n trẻ nhưng chác chán kho ng ai trong só các ngài có thẻ só ng đén ngày mà bản thỏ a thua ̣ n hét hie ̣u lự c.” Thự c ra, mo ̣ t vài người trong chú ng ta cò n só ng đén lú c đó nhưng bản va n kie ̣n này đã mất hiệu lực vài năm sau bởi một bản điều lệ thành lập công ty có giá trị vĩnh viễn. Vấp phải sự phản đó i và miễn cưỡng mời mọi người đa ng ký thành vie n khién ta cảm tháy thật sai làm khi xuất hiện với tư cách ngườ i khởi xướng cho bát kì dự án hữu ích nào, vì hình ảnh này chỉ có thể đẩy danh tiếng của người đó lên thêm chút ít so với những người xung quanh, nhát là lú c người đó càn họ hõ trợ đẻ hoàn thành dự án. Do đó , sau này ta tránh nhác đén bản tha n mình, thay vào đó , ta nó i ràng đa y là ké hoạ ch củ a mo ̣ t nhó m bạ n ye u càu ta giú p đỡ trong vie ̣c tìm và đè nghị nhữ ng người ye u thích đọ c sách đa ng ký. Bàng cách này, co ng vie ̣c tro i chảy hơn rát nhièu và sau đó ta đã áp dụ ng cho nhữ ng trườ ng hợ p khác và khá thành co ng, do đó ta thực lò ng nghĩ đa y là cách ne n làm. Vie ̣c hy sinh mo ̣ t ít lò ng tự cao sẽ đượ c đèn đáp xứ ng đáng vè sau. Néu chưa ai nhận danh tiếng, thì ngườ i nào tự cao tự đại hơn bạ n thường có xu hướng nha ̣ n nó , và sau đó thậm chí sự ganh tị sẽ mang lại cho bạn công lý bằng cách mang nhữ ng chiéc lo ng thành tích đó đa ̣ t đú ng chõ củ a ngườ i tha ̣ t sự sở hữ u nó . Thư vie ̣n này đem lạ i cho ta phương tie ̣n đẻ mở mang trí tue ̣ bàng vie ̣c mõ i ngày ta dành ra từ mo ̣ t đén hai giờ tự họ c và việc này giú p ta phàn nào bù đáp được sự thiếu thốn giáo dục mà cha ta đã từng muốn ta nhận được. Đọ c sách là thú tie u khiẻn duy nhát ta cho phép bản tha n mình. Ta kho ng phí thờ i gian la cà quán rượ u, chơi bờ i, hoa ̣ c đù a giỡ n dưới bát kì hình thứ c nào và ta vãn càn cù làm vie ̣c kho ng biét me ̣t mỏ i vì điều đó cần thiết. Ta mắc nợ khi mở nhà in, ta có một gia đình với lũ trẻ cần phải được giáo dục và ta phải cạnh tranh với hai nhà in khác trong vùng đã mở trước ta. Nhưng hoàn cảnh của ta mõ i ngày mo ̣ t khá m khá hơn. Vớ i bản tính tiét kie ̣m, và mo ̣ t trong nhữ ng lờ i cha dạ y ta từ lú c bé, đượ c la ̣ p đi la ̣ p lạ i là ca u tụ c ngữ củ a Solomon: "Con có thấy một người cần mẫn trong công việc của mình hay không? Hắn ta sẽ đứng trước mặt các vị vua, chứ không phải những kẻ tầm thường", ta coi đứ c tính càn cù như mo ̣ t phương tie ̣ n đẻ đạt đượ c sự giàu có và danh tiếng. Đièu này đã khích le ̣ ta rát nhièu, ma ̣ c dù ta chưa bao giờ nghĩ mình sẽ đứ ng trướ c ma ̣ t các vị vua theo nghĩa đen, nhưng vì đièu này đã xảy ra, ta đã có dịp đứng trước na m vị vua, và trong đó đã vinh dự đượ c ngò i xuống a n tó i vớ i một trong năm người đó , vua Đan Mạ ch. Có mo ̣ t ca u tụ c ngữ Anh ràng: “Muó n biét ai sẽ a n ne n làm ra, hãy nhìn vào vợ anh ta.” May mán thay, ta có đượ c mo ̣ t ngườ i vợ cũ ng càn cù và thanh đạ m he ̣t như ta. Vợ ta đã đỡ https://thuviensach.vn đàn ta rát nhièu trong vie ̣c làm a n, sáp xép và đó ng các ta ̣p giáy in, tro ng nom cử a hie ̣u, thu mua giẻ lanh rách đẻ làm giáy, v.v… Chú ng ta kho ng thue những người phục vụ nếu không cần thiết, cái bàn của chú ng ta đơn giản cũ ng như kho ng màu mè và đò đạ c trong nhà cũ ng là loạ i rẻ tièn nhát. Ví dụ như bữ a sáng củ a ta, suó t mo ̣ t thờ i gian dài chỉ gò m bánh mì và sữ a (kho ng có trà), và ta a n bàng chiéc bát bàng đát nung giá 2 penny cù ng vớ i chiéc thìa bàng thiéc. Nhưng điều gì khiến ta nhận ra gia đình ta bắt đầu xa xỉ và đờ i só ng đã thay đỏ i, bát cháp các nguye n tác mà ta đã đưa ra? Đó là mo ̣ t buổi sáng khi ta xuó ng a n sáng và phát hie ̣n ra chiéc bát đá t nung cù ng chiéc thìa thiéc đượ c thay thé bàng mo ̣ t chiéc bát sứ và thìa bạ c. Vợ ta đã a m thàm mua nhữ ng thứ này cho ta và đã tie u tó n mo ̣ t khoản kho ng nhỏ : 3 đò ng và 32 siling. Vợ ta đã kho ng vie ̣n cớ hay xin lõ i gì, thay vào đó nàng chỉ nghĩ ràng chò ng củ a nàng xứ ng đáng đượ c có mo ̣ t cái thìa bạ c và bát sứ như bát kì ngườ i hàng xó m nào. Đó là sự hie ̣n die ̣n đàu tie n củ a dĩa và đò sứ trong nhà ta, và mo ̣ t vài na m sau, khi gia đình khám khá hơn, só lượ ng đồ dù ng này cũ ng dàn ta ng le n có giá đén khoảng vài tra m Bảng. Ta từng đượ c nuo i dạ y đẻ trở thành mo ̣ t tín đò củ a Giáo Hội Trưởng Lão. Ma ̣ c dù mo ̣ t vài tín đièu củ a to n giáo này như giao ướ c đờ i đờ i củ a Chú a, sự phán xét le n thie n đườ ng hoa ̣ c đày xuó ng địa ngụ c, v.v…, theo ta là khó hiẻu và mo ̣ t só khác thì đáng hò nghi, ta đã sớ m váng ma ̣ t khỏ i nhữ ng buỏ i ho ̣ i họ p co ̣ ng đò ng củ a giáo phái. Chủ Nha ̣ t là ngày ta dành cho vie ̣c họ c, ma ̣ c dù va ̣ y, ta kho ng bao giờ kho ng tin hoàn toàn vào nhữ ng nguye n tác to n giáo. Ví dụ , ta chưa bao giờ hoài nghi vè sự tò n tại củ a Thượ ng đé, ràng Ngài đã tạ o ra thé giớ i và đièu khiẻn nó bằng quyền lực tối thượng củ a Ngài; và vie ̣c phụ c vụ Ngài xứ ng đáng nhát là làm đièu tó t cho ngườ i khác; linh hò n củ a chú ng ta là bát die ̣t, mọ i to ̣ i ác sẽ bị trừ ng phạ t, đứ c hạ nh sẽ đượ c tưở ng thưở ng lú c này hoa ̣ c vè sau. Đa y là nhữ ng đièu mà ta coi là có t lõ i và có thẻ tìm tháy ở bá t kì to n giáo nào hie ̣n die ̣n tre n đát nướ c này. Ta to n trọ ng tát cả các nguye n tác đó ở những mứ c đo ̣ khác nhau, vì việc pha tro ̣ n nhữ ng tín đièu này với những tín điều khác cơ bản sẽ chia rẽ chú ng ta và khién chú ng ta trở ne n kho ng tha n thie ̣n vớ i nhau dù rằng họ có ý định truyền cảm hứ ng, quảng bá hoa ̣ c củ ng có đạo đức hay không. Chính suy nghĩ có phần đồng thuận với quan điẻm cái xấu nhất vẫn có thể có tác dụng tốt đã khién ta tránh né tát cả nhữ ng bài thuyét giảng có xu hướ ng ảnh hưở ng kho ng tó t đén quan điẻm vè to n giáo củ a một người. Và nhát là khi da n só trong vù ng đang ta ng le n, theo đó nhu càu vè thánh đườ ng mớ i cũ ng ta ng đượ c đáp ứ ng bở i sự đó ng gó p tự nguye ̣n, thì quan điẻm củ a ta đó i vớ i mụ c đích tre n là cho dù thuo ̣ c giáo phái nào thì cũ ng kho ng bao giờ ne n từ chó i nhu càu này. Ma ̣ c dù hiém khi tham dự các buỏ i lẽ co ng co ̣ ng, ta vãn ghi nhớ sự đú ng đán và tính thiét thự c khi các buỏ i lẽ này đượ c tỏ chứ c đú ng cách. Mõ i na m, ta vãn đèu đa ̣ n đó ng gó p để hõ trợ mụ c sư duy nhất của Giáo Hội Trưởng Lão hoa ̣ c cho nhữ ng buỏ i họp tôn giáo ở https://thuviensach.vn Philadelphia. Thi thoảng, ngài thườ ng ghé tha m ta vớ i tư cách mo ̣ t ngườ i bạn, và thườ ng đo ̣ ng vie n ta tham gia những buổi cứu tế cù ng ngài, và ta đã bị ngài thuyét phụ c đồng ý tham dự na m tuàn mo ̣ t làn. Néu ngài theo suy nghĩ của ta, một nhà thuyét giáo tài na ng, thì có lẽ ta đã tiép tụ c dù rằng ta rát thích dành Chủ Nha ̣ t cho vie ̣c họ c. Nhưng nhữ ng bài thuyét giảng củ a ngài phàn lớ n là nhữ ng tranh cãi mang tính khie u khích hoa ̣ c giảng giải vè họ c thuyét rie ng củ a giáo phái. Tát cả nhữ ng bài giảng đó , theo ta, rát chán, tẻ nhạt, kho ng có tính mở mang, vì kho ng truyèn tải bát kì mo ̣ t nguye n tác đạ o đứ c nào đẻ ghi nhớ . Mụ c đích củ a nhữ ng bài giảng này có vẻ như là hướ ng ngườ i nghe trở thành mo ̣ t tín đò củ a Giáo Hội Trưởng Lão hơn là trở thành co ng da n tó t. Cuó i bài giảng, ngài trích dãn mo ̣ t đoạ n trong chương thứ 4 củ a Kinh Thánh Ta n Ướ c – mo ̣ t só lờ i khuye n củ a người Philip: “Cuối cùng, thưa anh em, hễ điều gì chân thật, điều gì đáng trọng, điều gì công bình, điều gì thanh sạch, điều gì đáng yêu chuộng, điều gì đáng biểu dương; nói chung là điều gì đức hạnh, đáng khen ngợi thì anh em phải nghĩ đến.” Và ta đã nghĩ, trong mo ̣ t bài giảng như thé, chú ng ta kho ng thẻ kho ng nắm bắt được mo ̣ t quan điểm đạo đức. Nhưng ngài chỉ hạ n ché trong 5 điẻm duy nhát, theo như to ng đò , đó là: 1. Tua n thủ theo ngày lễ Sabbath. 2. Sie ng na ng đọ c Kinh Thánh. 3. Đi lẽ đày đủ . 4. Tham dự lẽ ban phướ c. 5. To n trọ ng các vị Giáo sĩ Cơ đó c. Những đièu này dù có vẻ toàn là đièu tó t kho ng phải đièu ta mong chờ từ bài giảng, do đó ta thát vọ ng, chán nản và kho ng muó n tham dự các buỏ i họ p ma ̣ t cũ ng như nghe các bài giảng củ a ngài. Mo ̣ t vài na m sau, ta có soạ n ra mo ̣ t cuốn nghi thức tế lễ hay mo ̣ t dạng kinh càu nguye ̣n, dành rie ng cho ta (đó là vào na m 1728), tự a là Articles of Belief and Acts of Religion (Nhữ ng bài viét vè Nièm tin và Hành Vi trong To n giáo). Sau đó , ta chỉ sử dụ ng cuốn nghi thức này và tho i kho ng tham dự các buỏ i lẽ nữ a. Hành đo ̣ ng này xem ra có phàn đáng trách, nhưng ta kho ng quan ta m và cũ ng kho ng có bào chữ a cho hành đo ̣ ng củ a mình. Ta ne u ra ở đa y là để kẻ lạ i mo ̣ t sự vie ̣c chứ kho ng phải nó i mo ̣ t lờ i xin lõ i. Cũ ng khoảng thờ i gian này, ta áp ủ mo ̣ t ké hoạ ch táo bạ o và đày cam go đẻ tién đén sự hoàn thie ̣n vè phảm hạ nh. Ta mong ướ c mình có thẻ só ng mà kho ng phạ m vào lõ i đạ o đứ c nào, bát kì lú c nào. Ta muó n ché ngự tát cả nhữ ng lõ i làm mà xu hướ ng tự nhie n, thó i quen hay những hành vi cộng đồng khiến ta có thẻ mác phải. Vì ta biét, hoa ̣ c ta cho là mình đã biét, đièu gì đú ng và đièu gì sai, ta kho ng thẻ hiẻu đượ c tạ i sao ta lạ i có thẻ kho ng làm một điều gì đó và tránh làm những điều khác. Rò i ta sớ m nha ̣ n ra ràng mình đã bát đàu mo ̣ t co ng vie ̣c khó kha n hơn nhữ ng gì ta có thẻ lườ ng trướ c rát nhièu. Khi ta ̣ p trung đẻ tránh mác mo ̣ t sai làm, ta lại vo tình mác phải nhữ ng lõ i khác do thó i quen. Nhữ ng lõ i mác phải do thó i quen thườ ng quá dai dảng đẻ có thẻ suy nghĩ. Ta két lua ̣ n ràng, cuó i cù ng, sự tự nha ̣ n thứ c to ̣ i lõ i chỉ là mó i quan ta m củ a chú ng ta đẻ có đạ o đứ c tó t mo ̣ t cách trọ n vẹn nhưng vãn kho ng đủ đẻ nga n chú ng ta kho ng phạ m sai làm nữ a. Nhữ ng thó i quen ngang ngượ c phải bị https://thuviensach.vn loạ i bỏ , và nhữ ng thó i quen tó t phải đượ c luye ̣n ta ̣ p và hình thành trướ c khi chú ng ta có thẻ phụ thuo ̣ c vào mo ̣ t tư cách đạ o đứ c vữ ng vàng, kie n định và đú ng đán. Vớ i mụ c đích này, ta nghĩ ra mo ̣ t phương pháp như dướ i đa y. Trong nhièu bảng lie ̣t ke đứ c hạ nh mà ta đọ c đượ c, ta nha ̣ n tháy thườ ng só lượ ng các đứ c tính có thẻ che nh le ̣ch, bở i các tác giả khác nhau có thẻ mở ro ̣ ng hay thu hẹp các khái nie ̣m trong cù ng mo ̣ t đứ c tính. Đứ c tính Chừ ng mự c chảng hạ n, theo mo ̣ t vài tác giả thì chỉ giớ i hạ n trong vie ̣c a n uó ng, mo ̣ t só khác thì mở ro ̣ ng ra vớ i ý nghĩa phải tiét ché khoái lạ c, lò ng tham muó n, sự tho i thú c hoa ̣ c nièm say me thẻ chát lãn tinh thàn, và cả tính hám lợ i và tham vọ ng. Ta đè ra cho bản tha n ta, vớ i mụ c đích rõ ràng, là ne n pha n bie ̣t rạ ch rò i, thu hẹp các khái nie ̣m và ne n the m só lượ ng các đứ c tính hơn là giớ i hạn só lượ ng trong khi khái nie ̣m về mõ i đứ c tính lạ i quá ro ̣ ng. Ta đưa ra tát cả là mườ i ba đứ c tính mà hie ̣n tạ i ta cảm tháy càn thiét và mong muó n có đượ c, kèm theo mõ i đứ c tính là mo ̣ t lờ i huán thị ngán, diẽn đạ t đày đủ nghĩa cho từ ng đứ c tính. Mười ba đức tính, kèm theo lời huấn thị bao gồm: https://thuviensach.vn Dù ý định củ a ta là đạ t đượ c thó i quen tó t dự a tre n tát cả các đứ c tính kẻ tre n, ta cho rằng kho ng ne n xao nhãng bản tha n bàng vie ̣c có đạ t đượ c tát cả cù ng một lú c mà thay vào đó chỉ rèn luye ̣n từ ng đứ c tính rie ng bie ̣t. Sau khi đã rèn luye ̣n thành co ng mo ̣ t đứ c tính, ta sẽ rèn luye ̣n đứ c tính tiép theo cho đén hét cả mườ i ba đức tính. Vì khi rèn luye ̣n thành co ng vài đứ c tính, nó sẽ giú p cho vie ̣c đạ t đượ c mo ̣ t vài đứ c tính khác dẽ dàng hơn, do đó ta đã sáp xép chú ng theo thứ tự như tre n. Chừ ng mự c xép đàu tie n vì đứ c tính này sẽ giú p ta có đượ c sự bình tĩnh và tỉnh táo càn thiét đẻ duy trì việc đè phò ng và tự bảo ve ̣ trướ c nhữ ng ta ̣ t xáu dai dảng và trướ c ảnh hưở ng củ a cám dõ lie n tụ c củ a các ta ̣ t xấu này. Nếu đièu này càn đượ c duy trì và thiét la ̣ p, Ye n la ̣ ng sẽ dẽ dàng đạ t đượ c hơn. Vì mong muó n lĩnh ho ̣ i kién thứ c cù ng lú c vớ i vie ̣c rèn luye ̣n thành co ng các đứ c tính và xét tháy kién thứ c chỉ có thẻ đượ c lĩnh ho ̣ i trong các cuo ̣ c trò chuye ̣n bàng vie ̣c dù ng tai láng nghe hơn là dù ng mie ̣ng đẻ nó i, ta mong muó n bỏ thó i quen nó i chuye ̣n tàm phào, chơi chữ , và nó i đù a, đièu này chỉ thích hợ p cho vie ̣c két bạ n vớ i nhữ ng kẻ tàm thườ ng. Do đó , ta xép Ye n la ̣ ng ở vị trí thứ hai. Tiép theo là Tra ̣ t tự , đứ c tính này sẽ giú p ta có nhièu thờ i gian đẻ ta ̣ p trung vào dự án và họ c ta ̣ p hơn. Kie n định, mo ̣ t khi đã trở thành thó i quen, sẽ giú p ta mạ nh mẽ và nõ lự c hơn đẻ đạt đượ c tát cả đứ c tính be n dướ i. Tiét kie ̣m và Sie ng na ng sẽ giú p ta trả hét các mó n nợ cò n lạ i và đem đến sự sung tú c và đo ̣ c la ̣ p, đièu này sẽ hõ trợ cho vie ̣c rèn luye ̣n Thành tha ̣ t và Co ng bàng trở ne n dẽ dàng hơn. Vớ i quan nie ̣m việc đánh giá mõ i ngày là càn thiét, quan niệm mà Pythagoras đã từng khuyên trong cuốn Golden Verses (Nhữ ng vàn thơ vàng), ta đã nghĩ ra mo ̣ t phương pháp đẻ tién hành vie ̣c đánh giá này. Ta làm mo ̣ t cuốn sỏ nhỏ , trong đó mõ i đứ c tính đượ c dành rie ng mo ̣ t trang. Ta kẻ bàng mự c đỏ mo ̣ t bảng có bảy co ̣ t ở mõ i trang, tượ ng trưng cho mõ i ngày trong tuàn, và đánh dáu mõ i co ̣ t bàng chữ cái đàu tie n củ a ngày trong tuàn. Và kẻ mườ i ba hàng ngang cũ ng bàng mự c đỏ , đánh dáu đàu mõ i dò ng bàng chữ cái đàu tie n củ a mõ i đứ c tính. Mõ i ngày, ta sẽ xem xét và đánh dáu hoa thị cho mõ i lõ i ta mác phải ở co ̣ t đứ c tính và ngày tương ứ ng. Ta quyét ta m dành mo ̣ t tuàn đẻ rèn luye ̣n cho mõ i đứ c tính theo thứ tự trong danh sách. Do đó , trong tuàn đàu tie n, ta có gáng kho ng phạ m phải mo ̣ t lõ i nhỏ nào đén đứ c tính Chừ ng mự c, và tạm chưa quan ta m đén cá c đứ c tính be n dướ i. Ta chỉ xem xét và đánh dáu vào sỏ các lõ i vào mõ i buỏ i tó i. Néu tuàn đàu tie n ta có thẻ giữ cho dò ng đàu tie n Chừng mực, kho ng bị đánh dáu, thì ta tin ràng nhữ ng thó i quen phù hợ p vớ i đứ c tính áy đã đượ c cải thie ̣n đáng kẻ, và nhữ ng thó i quen xáu ngượ c lạ i vớ i đứ c tính tre n sẽ dàn bị loạ i bỏ . Do đó , ta mạ nh dạn ta ̣ p trung rèn luye ̣n đứ c tính này và đứ c tính tiép theo, trong tuàn tiép sau đó , cả hai dò ng này đèu kho ng bị đánh dáu. Cứ tiép tụ c như va ̣ y, ta đã hoàn thành mo ̣ t đợ t đàu tie n trong mườ i ba tuàn, và ta sẽ làm bó n đợ t như va ̣ y trong mo ̣ t na m. Gió ng như kẻ phải nhỏ cỏ trong vườ n, kho ng có gáng nhỏ cho bà ng hét cỏ dạ i trong mo ̣ t làn, vie ̣c này át là quá sứ c, nhưng chỉ có hoàn thành mõ i làn ở mo ̣ t khoảnh đát trong vườ n, và sau khi đã nhỏ xong https://thuviensach.vn ở khoảnh đát đàu tie n, sẽ tiép tụ c ở mảnh thứ hai. Vì va ̣ y, ta ne n, và hy vọ ng ràng, cảm tháy vui mừ ng và khích le ̣ khi quan sát tháy tién bo ̣ mõ i ngày củ a ta tre n trang giáy: đó là xó a dàn đi nhữ ng dáu sai phạ m, cho đén cuó i cù ng, sau rát nhièu nõ lự c và thờ i gian, ta sẽ hạnh phú c khi nhìn cuốn sỏ kho ng có dáu hoa thị nào, khi tự đánh giá cha ̣ t chẽ mõ i ngày sau mườ i ba tuàn. HÌNH DẠNG CÁC TRANG SỔ KHÔNG ĂN ĐẾN CHÁN Cuốn sổ nhỏ bé này của ta sử dụng những dòng trích từ vở kịch Cato của Addison làm đề tựa: “Nơi đây ta sẽ chứng kiến. Nếu có một quyền năng của đấng bề trên (Và bằng hết những tiếng gọi của tự nhiên rền vang Trong tất cả các tạo hóa của người), Kẻ ấy phải ham mê đức hạnh; Và điều hắn ham mê cũng phải hạnh phúc.” Và một đoạn khác của Cicero, “Hỡi triết lý, kim chỉ nam cuộc đời! Hỡi kẻ kiếm tìm đức hạnh, kẻ xua đuổi xấu xa! Chỉ cần một ngày sống tốt và theo đúng những giảng huấn của người, vẫn còn hơn miên mãi trong sai lầm.” Và một câu nữa trong Châm ngôn của Vua Solomon dạy về trí khôn ngoan hay đức hạnh: “Tay hữu là sự trường thọ, còn trong tay tả, có sự giàu có và vinh hiển. Các nẻo nó vốn là nẻo khoái lạc, Và tất cả các lối đều bình an” iii. 16, 17 Và khi đã xem Thượng đế là suối nguồn của sự khôn ngoan, ta cho rằng ấy là cần thiết và đúng đắn phải van nài sự trợ giúp của ngài đẻ đạt được nó; theo đó ta đã viết nên câu kinh cầu khiêm tốn sau đây, đã được the m vào bảng tự đánh giá của ta để hằng ngày cầu nguyện: https://thuviensach.vn “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu! Lạy Chúa Cha hào phóng quảng đại! Lạy Đấng soi đường từ bi! Hãy tăng thêm sự khôn ngoan đã khám phá niềm ham thích chân thực nhất trong con. Hãy làm tăng quyết tâm của con để thực hiện điều mà khôn ngoan sai khiến. Hãy chấp thuận những giúp đỡ của con đến với các con chiên khác của Người như sự trả ơn duy nhất của con đối với ân sủng liên tiếp Người đã dành cho con.” Ta cũng đôi lúc sử dụng một câu kinh ngắn khác trong Các bài thơ của Thomson, như là: “Hỡi Chúa Cha của áng sáng và cuộc sống, Đấng tối cao của Phước ban! Hãy dạy cho con điều hay, bảo cho con về chính Người! Hãy cứu con khỏi sự khờ khạo, phù du, và độc ác, Khỏi những ham mê thấp hèn; và hãy cho linh hồn con đầy tràn Kiến thức, sự bằng an và đức hạnh viên nguyên; Phước lành thánh thiêng, hiện hữu, vĩnh hằng!” Lờ i huán thị củ a Tra ̣ t tự đò i hỏ i mõ i co ng vie ̣c củ a ta phải đượ c sáp xé p thờ i gian, do đó ta dành mo ̣ t trang trong cuốn sỏ nhỏ đẻ viét ra thờ i khó a biẻu 24 giờ củ a mo ̣ t ngày thườ ng nha ̣ t như sau: Buỏ i sáng. Ca u hỏ i: Ho m nay ta sẽ làm gì? Từ 5 – 7h: Thứ c da ̣ y, làm ve ̣ sinh và cầu nguyện câu “Đức Chúa Trời Toàn Na ng”. Le n ké hoạ ch cho co ng vie ̣c trong ngày và thự c hie ̣n nhữ ng ý định đè ra cho ngày, tiép tụ c vie ̣c họ c và a n sáng. Từ 8 – 11h: Làm vie ̣c. Buỏ i trưa. Từ 12 – 1h: Đọ c, xem qua sỏ sách và a n trưa. Từ 2 – 5h: Làm vie ̣c. Buỏ i tó i. Ca u hỏ i: Ho m nay ta đã làm đượ c nhữ ng gì? Từ 6 – 9h: Sáp xép mọ i thứ vào vị trí. A n tó i. Nghe nhạ c hoa ̣ c giải trí, hoa ̣ c trò chuye ̣n. Xem xét và đánh giá vie ̣c rèn luye ̣n đứ c tính trong ngày. Từ 11 – 4h: Ngủ . https://thuviensach.vn Ta bá t đàu thự c hie ̣n thờ i khó a biẻu tre n đẻ tự đánh giá, thỉnh thoảng tạ m ngừ ng và tiép tụ c thự c hie ̣n. Ta đã rát sử ng só t trướ c só lượ ng quá nhièu lõ i mà ta mác phải, nhưng tạ m hài lò ng khi tháy só lượ ng này giảm dàn. Đẻ tránh phièn toái trong vie ̣c cứ phải xó a các dáu sai phạ m đã đánh vào sỏ sau mo ̣ t thờ i gian đẻ chừ a chõ cho đợ t rèn luye ̣n khác, ta đã chuyẻn bảng đứ c tính cù ng nhữ ng lờ i huán thị sang nhữ ng tờ giáy màu ngà trong mo ̣ t cuốn sỏ ghi nhớ . Tre n nhữ ng trang giáy màu ngà này, ta lạ i kẻ bảng bàng mự c đỏ ít phai, và tre n nhữ ng o đó , ta đánh dáu lõ i củ a mình bàng bú t chì, nhữ ng dáu bú t chì này sẽ dẽ chù i bàng mo ̣ t miéng bọ t biẻn ướ t. Sau mo ̣ t thờ i gian, ta chỉ càn rèn luye ̣n mõ i na m mo ̣ t đợ t, và sau đó mo ̣ t đợ t trong vài na m, cho đén cuó i cù ng ta có thẻ bỏ hản. Dù ba ̣ n ro ̣ n vớ i nhữ ng chuyén co ng tác nướ c ngoài và vo só vie ̣c cản trở , ta vãn mang theo quyẻn sỏ nhỏ này be n mình. Ké hoạ ch thự c hie ̣n nguye n tắc Tra ̣ t tự ga y cho ta nhièu khó kha n nhát. Và ta nha ̣ n ra ràng, ma ̣ c dù hoàn toàn có thể sáp xép thờ i gian làm vie ̣c củ a mo ̣ t ngườ i, ví dụ là thờ i gian củ a mo ̣ t thợ in, nhưng vie ̣c bát mo ̣ t o ng chủ hay phải đi đa y đó ga ̣ p gỡ mọi người theo thời khóa biểu của khách hàng và phải tua n thủ nghie m nga ̣t là kho ng khả thi. Tra ̣ t tự , trong nghĩa sáp xép mọ i thứ , giáy tờ nga n náp, thì ta cảm tháy rát khó có thẻ thự c hie ̣n đượ c. Ta đã kho ng sớ m quen vớ i đièu này, và vớ i vie ̣c sở hữ u mo ̣ t trí nhớ tó t, ta đã kho ng nha ̣ n ra tàm quan trọ ng củ a vie ̣c phải có phương pháp đẻ đạ t đượ c đứ c tính này. Do đó , đứ c tính này khién ta khỏ sở vo cù ng trong lú c rèn luye ̣n và nhữ ng lõ i ta mác phải lie n tục khién ta hét sứ c bự c mình. Ta đã kho ng cải thie ̣n tình hình đượ c máy và vie ̣c thườ ng xuye n lặp lại các lõ i này khién ta gàn như buo ng xuo i và cháp nha ̣ n sự thiéu só t này trong đứ c tính củ a mình. Vie ̣c này làm ta nhớ đén chuye ̣n vè mo ̣ t ngườ i khi mua mo ̣ t chiếc rìu từ ngườ i thợ rèn, hàng xó m củ a ta. O ng này ye u càu toàn bo ̣ bè ma ̣ t củ a chiếc rìu phải sáng như phàn lưỡ i. Ngườ i thợ rèn đò ng ý mài cái rìu theo ye u càu củ a o ng ta vớ i đièu kie ̣n o ng phải giú p quay bánh ra ng tre n máy mài. Ngườ i này phải quay bánh ra ng trong khi ngườ i thợ rèn án phàn ma ̣ t rìu mạ nh xuó ng phién đá mài, đièu này khién vie ̣c quay bánh ra ng trở ne n khó kha n và me ̣t mỏ i. Ngườ i đàn o ng mua rìu chó c chó c lạ i đén xem ngườ i thợ rèn làm đén đa u, và cuó i cù ng, ngườ i mua rìu đành cháp nha ̣ n vớ i cái rìu củ a mình và từ bỏ ý định mài sáng bè ma ̣ t lưỡ i rìu ban đàu. “Kho ng,” ngườ i thợ rèn le n tiéng, “quay đi, quay nữ a đi, dàn dàn nhát định chú ng ta sẽ mài đượ c bè ma ̣ t lưỡ i rìu sáng, ba y giờ thì chỉ ló m đó m tho i”. “Ừ ,” ngườ i mua rìu trả lờ i, “nhưng to i nghĩ to i thích mo ̣ t lưỡ i rìu ló m đó m hơn.” Và ta tin ràng đa y là trườ ng hợ p xảy ra vớ i rát nhièu ngườ i đã từ ng ao ướ c có đượ c những cách thứ c mà ta đã áp dụ ng, và khi ga ̣ p phải khó kha n trong vie ̣c đạt đượ c nhữ ng thó i quen tó t, loạ i bỏ nhữ ng thó i xáu trong đứ c hạ nh, đã từ bỏ việc rèn luyện và tuye n bó ràng “mo ̣ t chiéc rìu ló m đó m là tó t nhát.” Vớ i mo ̣ t vài nguye n nha n ngụ y biện đo i khi gợ i cho ta suy nghĩ ràng vie ̣c khát khe đò i hỏ i ở bản tha n mình báy la u có thẻ là mo ̣ t dạng thích khoe mẽ đứ c hạ nh. Đièu này néu đượ c loan ra ngoài, hản sẽ khién ta trở ne n rát ló bịch, ràng mo ̣ t nha n cách hoàn https://thuviensach.vn hả o sẽ bị soi mó i bở i sự ganh tỵ và ganh ghét; trong khi mo ̣ t kẻ ro ̣ ng lượ ng thì ne n cho phép bản tha n có và i sai phạm, đẻ khién bạ n bè có thẻ ủ ng ho ̣ và cháp nha ̣ n hán. Sự tha ̣ t là ta tháy bản tha n mình vo phương cứ u chữ a trong vie ̣c rèn luye ̣n Tra ̣ t tự . Và ba y giờ khi đã cao tuỏ i, trí nhớ suy giảm nhièu, ta lạ i tháy rõ tàm quan trọ ng đẻ đạt đượ c đứ c tính này. Nhưng tre n hét, ma ̣ c dù ta kho ng bao giờ đạ t đén sự hoàn hảo mà ta mong muó n và thát bạ i trong vie ̣c đạt đượ c đứ c tính này, nhờ vào nõ lự c hét mình, ta đã trở ne n tó t hơn và hạ nh phú c hơn so vớ i việc ta kho ng có gáng thự c hie ̣n đièu này. Gió ng như trườ ng hợ p củ a nhữ ng ngườ i ta ̣ p trung vào vie ̣c rèn chữ viét cho gió ng vớ i những mẫu chữ điêu khắc, ma ̣ c dù họ kho ng bao giờ đạ t đượ c sự hoàn hảo vó n có của mẫu chữ kia, nhưng chữ viét củ a họ đã đượ c cải thie ̣n nhờ vào nõ lự c hét mình và tạ m cháp nha ̣ n vớ i nét chữ đẹp và dẽ đọ c. Nhữ ng thé he ̣ sau củ a ta ne n nhớ ràng vớ i mẹo này, cù ng vớ i sự phù ho ̣ củ a Chú a, cha o ng chú ng đã đạ t đượ c hạ nh phú c thườ ng trự c trong cuo ̣ c só ng đén ta ̣ n na m 79 tuổi, năm viết cuốn sách này. Đièu bát hạ nh có đến hay không phụ thuộc vào quyền phán quyết của Chú a Trờ i nhưng néu đièu này có xảy đén, vie ̣c suy ngãm lạ i nhữ ng phú t gia y hạ nh phú c đã qua sẽ cho ta sự nhãn nhịn đẻ chịu đự ng bát hạnh. Sứ c khỏ e dẻo dai mà cha o ng có đượ c là nhờ vào sự Chừ ng mự c, và nhữ ng gì cò n lạ i là mo ̣ t thẻ trạng tó t. Sự thoải mái và giàu có có đượ c là nhờ vào Tiét kie ̣m và Sie ng na ng. Vớ i tát cả kién thứ c đó đã giú p cha o ng chú ng trở thành mo ̣ t co ng da n hữ u dụ ng và đạ t đượ c danh tiéng ở mứ c đo ̣ nào đó trong giớ i nhữ ng ngườ i có họ c thứ c. Thành tha ̣ t và Co ng bàng đã giú p ta được đất nước này tin tưởng và vinh danh. Nhờ vào sự ảnh hưở ng củ a tát cả các đứ c tính đó , ngay trong hoàn cảnh khó kha n, cha o ng chú ng vãn có thẻ đạ t đượ c tát cả sự bình tĩnh và vui vẻ trong các cuo ̣ c trò chuye ̣n, đièu mà nhữ ng người đối thoại và ngay cả những người ngườ i trẻ tuỏ i đều thấy dễ chịu. Do đó , ta hy vọ ng các thé he ̣ sau có thẻ noi theo nhữ ng bài học đó và thu nhận đượ c ích lợi từ nó. Có thẻ nó i, ma ̣ c dù ké hoạ ch rèn luye ̣n củ a ta lie n quan đén to n giáo, ké hoạ ch này kho ng có dáu hie ̣u gì củ a nguye n lý đa ̣ c trưng cho bát kì giáo phái nào. Ta đã có tình tránh vie ̣c này vì phương pháp này thự c sự hữ u dụ ng và nỏ i tro ̣ i. Chính vì kho ng lie n quan đén bát kì to n giáo này, phương pháp này sẽ hữ u dụ ng vớ i tín đò củ a mọ i giáo phái trong tương lai hoa ̣ c cho ngườ i nào xuát bản nó . Phương pháp củ a ta kho ng thành kién hoa ̣ c chó ng lạ i tín đò củ a bát kì giáo phái nào. Ta chủ ý ghi mo ̣ t lờ i chú dãn ngán ở mõ i đứ c tính đẻ chỉ ra ưu điẻm khi sở hữ u đứ c tính áy và nhữ ng tỏ n hạ i đi kèm vớ i nhữ ng thó i xáu đi ngượ c lạ i đứ c tính này. Và ta ne n đa ̣ t te n cho cuốn sách củ a ta là Nghệ thuật Đức hạnh, bở i vì nó đưa ra cách thứ c và bie ̣n pháp đẻ đạ t đượ c đứ c hạ nh. Rõ ràng đièu này giú p cuốn sách nỏ i ba ̣ t hơn so vớ i vie ̣c chỉ ho hào só ng tó t, mà kho ng hướ ng dãn hoa ̣ c chỉ rõ cách thự c hie ̣n, như lò ng nha n ha ̣ u suo ng qua lờ i nó i củ a to ng đò ràng, nhữ ng ai kho ng hướ ng dãn nhữ ng kẻ nghèo khỏ đó i https://thuviensach.vn khát và kho ng có cái ma ̣ c bàng cách nào hoa ̣ c nơi nào có thẻ có đượ c thứ c a n hoa ̣c cái ma ̣ c, chỉ là cỏ vũ cho vie ̣c họ đượ c cho a n và cho ma ̣ c. – James ii, 15, 16. Nhưng đièu đó đã xả y ra ne n ý định viét và xuát bản lờ i chú thích này kho ng đượ c hoàn thành. Thự c va ̣ y, thỉnh thoảng ta có viét ra vài lờ i gợ i ý nho nhỏ vè quan điẻm và la ̣ p lua ̣ n củ a mình, v.v… đẻ có thẻ sử dụ ng phương pháp này tó t hơn. Mo ̣ t vài ghi chép ta vãn cò n giữ đây. Nhưng điều càn thiét phải ta ̣ p trung vào co ng vie ̣c làm a n lú c ban đàu và vie ̣c co ng đã làm ta phải trì hoãn thự c hie ̣n ké hoạ ch này. Bở i vì, trong suy nghĩ củ a ta, đa y là mo ̣ t dự án lớ n và tó n nhièu co ng sứ c, đò i hỏ i phải sự toàn ta m, toàn ý đẻ thự c hie ̣n. Và nhữ ng co ng vie ̣c bát ngờ lie n tiép đã khién ta xao nhãng, và cho đén nay vãn chưa thẻ hoàn thành ké hoạ ch. Trong cuốn sách này, ta đã có ý giải thích và thự c thi họ c thuyét ràng nhữ ng hành đo ̣ ng xáu xa kho ng ga y ra tổn thương bởi chú ng đã bị cám, nhưng bị cám vì chú ng có khả năng gây tổn thương khi xem xét bản chát củ a con ngườ i. Ràng nó đú ng với tất cả những người quan tâm đến đứ c hạ nh, muốn trở nên hạnh phúc, thậm chí là trong thế giớ i này. Và ta ne n, trong trườ ng hợ p này, (trong thé giớ i này luo n tò n tại mo ̣ t só thương gia, quý to ̣ c, quó c gia và hoàng tử giàu có , họ là nhữ ng ngườ i phải càn đén nhữ ng phụ tá trung thực đẻ giú p họ quản lý co ng vie ̣c, và con só này thì thườ ng rát ít) nõ lự c thuyét phụ c nhữ ng ngườ i trẻ tuỏ i ràng kho ng bát kì phảm chát nào có khả na ng đem lạ i sự thịnh vượ ng cho nghèo khó bàng sự lie m khiét và chính trự c. Danh sách ban đàu củ a ta chỉ gò m 12 đứ c tính, nhưng mo ̣ t ngườ i bạ n thuo ̣ c phái giáo hữ u đã lưu ý ta ràng nhìn chung ta đã quá tự cao vè bản tha n mình, ràng sự kie u ca ng củ a ta đã xuát hie ̣n thườ ng xuye n trong các cuo ̣ c trò chuye ̣n, ràng ta đã kho ng bàng lò ng vớ i vie ̣c ở be n phe đú ng khi bàn lua ̣ n vè bát cứ lua ̣ n điẻm nào, mà đã đo ̣ c đoán và khá xác xượ c. O ng đã thuyét phụ c ta bàng cách ne u vài ví dụ vè nhữ ng sự vie ̣c đã xả y ra. Do đó , ta đã quyét ta m và nõ lự c đẻ sử a chữ a bản tha n, và néu ta có thẻ sử a chữ a, thó i xáu này hoa ̣ c tính cách dại do ̣ t, và ta đã đưa the m đứ c tính Khie m nhườ ng vào danh sách mở rộng khái niệm này ra. Ta kho ng dám nó i là mình đã thành co ng trong vie ̣c đạt đượ c cha n giá trị của đứ c tính này nhưng có vẻ như ta đã thành co ng phàn nào. Ta tự đa ̣ t ra mo ̣ t quy tác là kièm ché mọ i hành đo ̣ ng phản bác sõ sàng củ a mình vè quan điẻm củ a ngườ i khác và mọi quan điẻm có tính quyết đoán của ta. Ta cũ ng kho ng cho phép mình, ma ̣ c dù lua ̣ t trướ c đa y củ a Junto cho phép, sử dụ ng từ ngữ hoa ̣ c cách diẽn đạt nào chứa đựng mo ̣ t quan điẻm cứ ng nhác, như là chác chán, hiẻn nhie n, v.v… thay và o đó , ta bát đàu làm quen vớ i vie ̣c tưở ng tượ ng, suy nghĩ ràng có mo ̣ t vie ̣c như thé, hoa ̣ c mọ i vie ̣c có vẻ là như thé hie ̣n tạ i. Khi có ai đó khảng định mo ̣ t đièu mà ta nghĩ sai làm, ta kho ng cho phép bản tha n quyèn đượ c phả n bác họ mo ̣ t cách cộc lốc hoa ̣ c chỉ ra ngay la ̣ p tứ c điẻm vo lý trong lờ i nó i củ a họ . Ta bát đàu trả lờ i ràng tho ng qua mo ̣ t só trườ ng hợ p hoa ̣ c hoàn cảnh mà ta quan sát đượ c thì ý kién củ a ngườ i đó có thẻ https://thuviensach.vn đú ng, nhưng trong mo ̣ t só trườ ng hợ p khác đó i vớ i ta lạ i có khác bie ̣t, v.v… Và ta sớ m nha ̣ n ra lợ i thé củ a cách hành xử này, ràng vớ i cách này nhữ ng cuo ̣ c thảo lua ̣ n trở ne n thú vị hơn. Đưa ra quan điẻm củ a mình theo cách này giú p ngườ i nghe dẽ tiép nha ̣ n hơn và giảm đượ c ma u thuãn. Đò ng thờ i, ta cũ ng bớ t cảm tháy xáu hỏ khi nha ̣ n ra la ̣ p lua ̣ n củ a mình chưa đú ng, và dẽ dàng thuyét phụ c ngườ i nghe từ bỏ sai làm và đò ng ý vớ i quan điẻm củ a ta khi ta biét quan điẻm đó đú ng. Cách thứ c này, ban đàu càn phải khát khe vớ i bản tha n đẻ tránh nhữ ng thó i quen có hữ u, dàn trở ne n dẽ dàng cũ ng như trở thành thó i quen vớ i ta đến nỗi đã 50 na m qua, chưa ai nghe ta nó i đièu gì giáo đièu và ép buo ̣ c họ phải theo quan điẻm củ a ta. Nhờ vào thó i quen này (sau tính chính trự c), mà tiéng nó i củ a ta trở ne n có trọ ng lượ ng hơn vớ i nhữ ng thành vie n khác khi đè xuát thẻ ché mớ i, hoa ̣ c sử a đỏ i nhữ ng thẻ ché cũ , và có tác đo ̣ ng lớ n đén Ho ̣ i đò ng co ng da n khi ta trở thành thành vie n. Bở i vì ta kho ng phải là ngườ i biét cách diẽn thuyét, cũ ng chưa bao giờ có khả na ng hù ng bie ̣n, lú c nào cũ ng lú ng tú ng trong vie ̣c chọ n từ và kho ng biét cách diẽn đạ t chính xác, tuy nhie n nhìn chung thì ta cũ ng bày tỏ đượ c quan điẻm củ a mình. Tre n thự c té, có lẽ, kho ng có mo ̣ t cảm xú c tự nhie n nào củ a bản tha n lạ i khó đánh bạ i như nièm kie u hãnh. Che đa ̣y, va ̣ t lo ̣ n, đàn áp, là m nhụ c nó hét mứ c có thẻ, thì nièm kie u hãnh vãn kho ng mát đi, và thỉnh thoảng lạ i chườ ng ra trướ c mát ta. Và mọ i ngườ i có thẻ tháy ràng, có lẽ trong cuo ̣ c đờ i ta, cho dù ta nha ̣ n tháy mình hoàn toàn ché ngự đượ c nièm kie u hãnh, có lẽ ta ne n cho phép bản tha n tự hào vè tính Khie m nhườ ng củ a mình. [Viét đượ c chừ ng này ở Passy, 1741.] [Chuẩn bị viét tiếp tạ i nhà mình, tháng 8, 1788, nhưng kho ng có đượ c sự hõ trợ như mong đợ i từ nhữ ng ghi chép trướ c đa y củ a ta, phàn lớ n đã bị mát trong chién tranh. Tuy nhie n, ta lạ i tìm đượ c nhữ ng mảu ghi chép như dướ i đa y.] Ta đã đè ca ̣p đén vie ̣c áp ủ mo ̣ t ké hoạ ch lớ n và đò i hỏ i nhièu thờ i gian, và có vẻ như đú ng là mo ̣ t phàn ghi chép nàm ở đa y nó i vè dự án và mụ c đích củ a dự án này. Dự án này chợ t nảy ra trong đàu ta và đượ c ghi chép lạ i bàng nhữ ng mảu giáy như là: Các ghi chép lại từ những gì ta đọc được trong Thư viện, ngày 19 tháng 5 năm 1731. “Những sự kiện hệ trọng diễn ra trên thế giới, các cuộc chiến, cách mạng, v.v… được tiếp diễn và bị các đảng phái chi phối. “Quan điểm của các đảng phái này là lợi ích chung hiện tại của chúng, hay cái mà chúng xem là lợi ích. https://thuviensach.vn “Quan điểm khác nhau của các đảng phái khác nhau gây khiến sự hoang mang. “Khi một đảng phái tiến hành một thiết kế chung, mỗi thành viên đều có lợi ích riêng của cá nhân trong đầu. “Ngay khi một đảng phái đã đạt được điểm chung, mỗi thành viên đều sẽ quan tâm đến lợi ích riêng; điều này khi trái với các lợi ích khác sẽ chia rẻ đảng phái thành những bộ phận nhỏ, và càng gây ra nhiều hoang mang hơn. “Chỉ có rất ít kẻ trong sự kiện chung hành xử từ sự quan tâm duy nhất đến sự tốt đẹp của quốc gia mình, bất kể là họ đang giả đò như thế nào; và cho dù sự đóng tuồng của bọn họ mang đến sự tốt đẹp cho quốc gia của mình, nhưng con người từ ban đầu vẫn xem rằng lợi ích của bản thân và dân tộc là thống nhất, chứ không hề hành xử dựa trên nguyên tắc của từ tâm. “Còn có ít hơn nữa những kẻ, trong sự kiện chung, hành xử với mong muốn tốt đẹp cho nhân loại; “Hiện tại với ta dường như có một dịp rất thuận thảo để thành lập một Đảng Đức hạnh thống nhất, bằng cách quy tập những con người thiện tâm và tử tế đến từ tất cả mọi quốc gia trở thành một thể thường xuyên, được quản trị bởi những quy tắc khôn ngoan và tốt đẹp, mà những con người khôn ngoan và tốt đẹp sẽ đồng lòng tuân theo, hơn là những kẻ thường dân tuân theo luật pháp chung. “Lúc này, ta cho rằng bất kể ai mong muốn điều này một cách tử tế, và xứng đáng, kẻ ấy không thể nào thất thố khi phụng sự Thượng Đế và sẽ thành công. B.F.” Khi tình huống cho phép ta có sự rảnh rỗi cần thiết, để nghĩ ngợi điều này trong tâm trí, để sau này chúng sẽ được thực hiện, ta hết lần này đến lần khác đã viết ra những trang giấy các ý nghĩ này như chúng đã hiện ra trong đầu mình. Hầu hết các ý nghĩ chúng đều mất di, thế nhưng ta vẫn có một nội dung là đại ý của tín điều ta mong mỏi hằng chứa đựng, như ta đã nghĩ, những điều cần thiết của mọi tôn giáo mà chúng ta đã biết, và tự do khỏi tất cả mọi thứ đã có thể khiến các nhà thuyết giảng của mọi tôn giáo thất kinh. Chúng được diễn bày bằng những từ sau đây: “Chỉ có một Thượng đế, người đã khai sinh ra tất cả. “Người cai trị thế gian bằng ý chí của Người. “Người phải được thờ phụng bằng sự sùng kính, bằng khẩn cầu và tạ ơn. https://thuviensach.vn “Nhưng phụng sự đáng chấp nhận nhất với Người là làm điều thiện cho kẻ khác. “Rằng linh hồn là bất tử. “Và Thượng đế chắc chắn sẽ ban thưởng cho đức hạnh và trừng trị cái xấu không phải bây giờ thì về sau.” Và ý tưở ng củ a ta lú c báy giờ là Ho ̣ i ne n bát đàu và truyèn bá đén nhữ ng ngườ i trẻ và đơn lẻ trướ c, mõ i ngườ i đượ c két nạ p kho ng chỉ bày tỏ sự tán thành củ a mình vớ i tín đièu vè đứ c hạ nh mà cò n ne n tự rèn luye ̣n và thự c hành các đứ c hạ nh vớ i cách thứ c ne u tre n trong vò ng mườ i ba tuàn. Và ho ̣ i vie n ne n giữ kín sự tò n tạ i củ a Ho ̣ i, cho đén khi Ho ̣ i đủ mạ nh đẻ nga n vie ̣c két nạ p nhữ ng ngườ i kho ng phù hợ p. Thay vào đó , mõ i thành vie n sẽ tìm và lự a chọ n trong só ngườ i quen biét đẻ đè cử nhữ ng ngườ i trẻ tuỏ i cha n tha ̣ t và có thie ̣n chí. Mo ̣ t cách tha ̣ n trọ ng, ké hoạ ch này sẽ dàn đượ c truyèn đạ t đén họ , và các thành vie n ne n quan ta m và đưa ra lờ i khuye n, hõ trợ và giú p đỡ nhau đẻ thú c đảy sự quan ta m, co ng vie ̣c và tién bo ̣ trong cuo ̣ c só ng củ a các thành vie n khác. Đa ̣ c bie ̣t hơn, Ho ̣ i củ a chú ng ta có thẻ đượ c đa ̣ t te n là Ho ̣ i củ a nhữ ng ngườ i Tự do và Ung dung: tự do, như bản chát, nhờ vào sự rèn luye ̣n và thó i quen đứ c hạ nh, thoát khỏ i sự chi phó i củ a các thó i xáu, và đa ̣ c bie ̣t nhờ vào sự rèn luye ̣n tiét kie ̣m và sie ng na ng thoát khỏ i cảnh nợ nàn – thườ ng hay đảy con ngườ i vào cảnh giam càm, và trở thành no le ̣ củ a chủ nợ . Đa y là tát cả nhữ ng gì ta nhớ đượ c vè ké hoạ ch này, ngoạ i trừ vie ̣c ta đã bàn mo ̣ t phàn ké hoạ ch vớ i hai chàng trai trẻ, ngườ i đã đó n nha ̣n ké hoạ ch này mo ̣ t cách nò ng nhie ̣t. Nhưng vớ i hoàn cảnh ba ̣ n ro ̣ n sau này củ a ta, và sự càn thiét phải theo sát co ng vie ̣c kinh doanh, là lý do khién ta trì hoãn vie ̣c theo đuỏ i ké hoạ ch này vào lú c đó . Kho ng chỉ có thé, nhữ ng co ng vie ̣c đa dạ ng củ a ta, cả co ng và tư, đã khién ta tiép tụ c lơ là và bỏ que n nó cho đén khi ta kho ng cò n đủ sứ c và sự nhanh nhẹn cho mo ̣ t ké hoạ ch táo báo như va ̣ y nữ a. Ma ̣ c dàu va ̣ y, ta vãn nghĩ đa y là mo ̣ t ké hoạ ch khả thi, và có thẻ hữ u dụ ng bàng cách rèn luye ̣n mo ̣ t só lượ ng lớ n co ng da n tó t. Ta đã kho ng bị nản chí bở i quy mo lớ n củ a ké hoạ ch, mà luo n nghĩ ràng mo ̣ t ngườ i vớ i khả na ng bình thườ ng có thẻ tạo ra nhièu thay đỏ i, và hoàn thành nhièu vie ̣c cho nha n loạ i, chỉ càn ban đàu anh ta có mo ̣ t ké hoạ ch tó t, và bỏ qua tát cả các thú tie u khiẻn hoa ̣ c nhữ ng co ng vie ̣c có thẻ làm bản tha n xao nhãng, và bién vie ̣c thự c hie ̣n ké hoạ ch đó trở thành sự họ c và co ng vie ̣c duy nhát củ a anh ta. Năm 1732, làn đàu tie n ta xuát bản cuốn Niên Lịch, dướ i bú t danh Richard Saunders, và vãn duy trì vie ̣c xuát bản trong vò ng 25 na m sau, có tự a đè là Niên Lịch Của Richard Nghèo Khó. Ta có gáng đẻ cuốn sách vừ a có ích, vừ a thú vị. Và cuốn sách bán chạ y đén nõ i đem lạ i cho ta mo ̣ t khoản lợ i nhua ̣ n lớ n, gàn 10.000 mõ i na m. Nhờ quan sát tháy cuốn sách này đượ c hàu hét mọ i ngườ i đọ c, và hiém có ai trong vù ng la n ca ̣ n mà kho ng đọ c nó , ta đã xem nó như mo ̣ t phương tie ̣n thích hợ p đẻ truyèn đạ t kién thứ c cho ngườ i da n, hiém khi nào https://thuviensach.vn mua nhữ ng sách khác. Do đó , ta đã đẻ nhữ ng nhữ ng ca u tụ c ngữ chen vào chõ tró ng hiém hoi có đượ c giữ a nhữ ng ngày đa ̣ c bie ̣t trong nie n giám, chủ yéu đẻ khác sa u tính tiét kie ̣m và sie ng na ng, như cách thứ c đẻ mang lạ i sự giàu có , và bàng cách áy đứ c hạ nh đượ c bảo đảm. Sẽ rát khó kha n cho mo ̣ t ngườ i thiéu thó n đẻ só ng cha n tha ̣ t, như mo ̣ t trong nhữ ng ca u tụ c ngữ đượ c sử dụ ng ở đa y, cũ ng như khó mà có thẻ dự ng đứ ng đượ c mo ̣ t chiéc bao tải rõ ng. Nhữ ng ca u tụ c ngữ này, chứ a đự ng sự tho ng thái tích lũ y từ bao đờ i và nhièu nướ c, ta sưu tàm và bỏ vào phà n mở đàu củ a cuốn Niên Lịch na m 1757, dướ i dạ ng mo ̣ t lờ i ke u gọ i củ a mo ̣ t nhà tho ng thái khuye n bảo nhữ ng ngườ i dự buỏ i đáu giá. Vie ̣c thu tha ̣ p nhữ ng lờ i khuye n này theo trọ ng ta m đã tạ o ne n án tượ ng tó t. Và phàn này, đượ c mọ i ngườ i tiép nha ̣ n, đượ c sao lạ i ở tá t cả các báo củ a khu thuo ̣ c địa, đượ c tái bản ở Anh vớ i khỏ giáy lớ n hơn đẻ có thẻ treo trong nhà và có 2 bản dịch sang tiéng Pháp. Giớ i ta ng lữ và quý to ̣ c cũ ng mua mo ̣ t só lượ ng lớ n lờ i khuye n này đẻ pha n phát miẽn phí cho nhữ ng giáo da n và ngườ i thue đát nghèo. Bang Pennsylvania kho ng khuyén khích nhữ ng khoản chi tie u vo ích vào các va ̣ t dụ ng kho ng càn thiét từ nướ c ngoài, vài ngườ i cho ràng đièu này gó p phàn tác đo ̣ ng đén vie ̣c gia ta ng tièn bạ c đáng kẻ vài na m sau khi sách đượ c xuát bản. Ta cũ ng xem tờ báo củ a mình như là phương tie ̣n đẻ truyèn đạ t kién thứ c, vớ i quan nie ̣m đó , ta thườ ng xuye n in lạ i nhữ ng đoạ n trích từ tờ The Spectator và mo ̣ t só tác giả khác chuye n viét vè đạ o đứ c. Đo i khi cũ ng đa ng mo ̣ t só bài viét củ a chính ta, nhữ ng bài đã đượ c viét cho các thành vie n củ a Ho ̣ i Junto đọ c. Mo ̣ t trong só này là đoạ n đó i thoạ i củ a Socrate, đẻ chứ ng minh ràng, mo ̣ t ngườ i xáu xa, bát kẻ nhie ̣m vụ và na ng lự c, sẽ kho ng thẻ đượ c coi là mo ̣ t ngườ i tho ng minh. Và mo ̣ t bài va n vè sự hạ n ché bản tha n, chỉ ra ràng đứ c hạ nh kho ng đượ c bảo đảm mo ̣ t khi chú ng đượ c rèn luye ̣n đẻ trở thành thó i quen, và thoát khỏ i nhữ ng thó i xáu. Nhữ ng đièu này có thẻ đượ c tìm tháy ở các só báo đàu na m 1735. Trong khi đièu hành tờ báo củ a mình, ta đã cản tha ̣ n loạ i bỏ tát cả nhữ ng gì lie n quan đén vie ̣c phỉ báng hoa ̣ c lạm dụng cho mục đích cá nhân, những mà nhiều năm sau có thể sẽ trở thành nõ i nhụ c cho đát nướ c. Mõ i khi có ngườ i nài nỉ ta đa ng nhữ ng bài dạng này, và thườ ng thì các tác giả hay bie ̣n ho ̣ đó quyèn tự do báo chí, và ràng báo chí cũ ng như xe ngự a chạ y theo tuyén, ai trả tièn mua vé thì đượ c phép le n xe, ta đáp lạ i ràng ta sẽ in nhữ ng bài đó , néu họ muó n, nhưng rie ng bie ̣t, và họ có thẻ ye u càu in bao nhie u bản tù y thích và pha n phát. Nhưng ta sẽ kho ng truyèn bá nhữ ng bà i viét loại này, vì ta đã nha ̣n trọ ng trách mang lạ i nhữ ng tho ng tin hữ u ích hoa ̣ c thú vị cho ngườ i đọ c, ta kho ng thẻ đẻ các cuo ̣ c đáu khảu cá nha n tràn nga ̣ p các trang báo, hơn nữ a đa y cũ ng kho ng phải là đièu ngườ i đọ c quan ta m. Hie ̣n tạ i, nhièu chủ nhà in kho ng hè đán đo trong vie ̣c thỏ a mãn nhữ ng nhu cầu cá nha n ích kỉ này bàng cách cho đa ng nhữ ng lờ i buo ̣ c to ̣ i kho ng ca n cứ củ a họ vè nhữ ng nha n cách tó t đẹp, và làm ta ng the m sự thù hàn khi nha ̣ n in bài củ a cả hai phe đó i nghịch trong cuo ̣ c tranh cháp. Hơn nữ a, vie ̣c cho in các bài chỉ trích tho lõ vè chính quyèn củ a các bang la n ca ̣ n hay https://thuviensach.vn cách hành xử củ a nhữ ng bang đò ng minh kho ng phải là hành đo ̣ ng kho n ngoan, đièu này có thẻ dãn đén nhữ ng ha ̣ u quả kho ng thẻ lườ ng trướ c. Tát cả đièu ta ne u ra tre n đa y như lờ i nhác nhở các thợ in mớ i vào nghè ràng họ kho ng ne n làm o ué tờ báo lãn nghè nghie ̣p củ a mình bàng nhữ ng hành đo ̣ ng đáng hỏ thẹn đó , thay vào đó ne n mo ̣ t mự c từ chó i tiép tay cho các hành đo ̣ ng như vậy giống như ta đã làm, và các bạ n sẽ tháy cách cư xử có đạ o đứ c đó , nhìn chung, chảng ga y tỏ n hạ i gì đén quyèn lợ i củ a chú ng ta cả. Na m 1733 ta cử mo ̣ t anh thợ đén Charleston, phía Bác Carolina, nơi đang có nhu cầu in ấn. Ta cấp cho cậu một máy in và những mẫu chữ, theo như giao kèo hợ p tác, ràng ta sẽ nha ̣ n 1/3 lợ i nhua ̣ n thu đượ c và đò ng thờ i chịu 1/3 chi phí củ a nhà in. Cậu này là ngườ i chịu họ c hỏ i và trung thự c, tuy nhie n lại chảng biét gì vè tính toán tièn nong. Ma ̣ c dù đo i khi anh ta ye u càu ta gử i tièn, ta chưa bao giờ nha ̣n đượ c bản ke khai hay báo cáo vè tình hình hợ p tác từ cậu. Khi cậu mát đi, vợ cậu, người sinh ra lớ n le n ở Hà Lan nơi theo ta biét tính toán là mo ̣ t phàn kho ng thẻ thiéu trong giáo dụ c cho nữ giớ i, tiép nha ̣n co ng vie ̣c làm a n củ a chò ng. Co gó a phụ này kho ng chỉ gử i ta bản báo cáo rõ ràng vè các giao dịch trong quá khứ , mà tiép tụ c gử i báo cáo tình hình hie ̣n tại lãn vè sau mo ̣ t cách đèu đa ̣ n và rõ ràng cho mỗi quý sau đó . Co này đã quản lý vie ̣c làm a n thành co ng đén nõ i kho ng chỉ trang trải đượ c chi phí nuo i gia đình, mà sau khi hét giao kèo cò n đủ tièn mua lạ i nhà in này từ ta và đẻ lạ i cho con trai quản lý. Ta nhắc đến sự kiện này với mục đích khuyến khích giáo dục phụ nữ vì việc giáo dục này sẽ hữu ích cho họ cũng như con cái của họ trong trường hợp góa bụa hơn so với dạy nhạc hay khiêu vũ. Nó giúp phụ nữ ít phải dựa dẫm hơn vào những người thợ thủ công phái nam và giúp họ tiếp tục, có lẽ là buôn bán với những đối tác trước đó của chồng, cho đến khi người con trai đủ lớn để gánh vác công việc vì lợi ích và sự thịnh vượng của gia đình. Vào khoảng năm 1734 có một người nhà thuyết giáo thuộc Giáo Hội Trưởng Lão người Ireland tên Hempill. Do ông này thường có những bài giảng tuyệt vời bằng một chất giọng tốt cũng như ứng khẩu cực hay nên ông đã thu hút được một số lượng lớn những giáo phái khác nhau đến nghe vì ngưỡng mộ ông. Bên cạnh nhiều người khác, ta trở thành một trong những thính giả trung thành. Ta thích những bài giảng của ông vì chúng không mang tính giáo điều mà nhấn mạnh những nguyên tắc đạo đức hay cái được gọi là làm sống thiện theo ngôn từ của tôn giáo. Tuy nhiên, giáo đoàn của chúng ta những người tự cho mình là Giáo Hội Trưởng Lão chính thống không đồng tình với học thuyết của ông này cùng với những giáo tu sĩ lớn tuổi khác buộc ông tội thiếu chính thống trong hội nghị tôn giáo để bắt ông ngừng việc giảng đạo. Ta trở thành người ủng hộ nhiệt tình của ông, cố hết sức trong khả năng của mình tập họp một nhóm người đứng về phía ông và chúng ta đấu tranh bảo vệ ông với hy vọng giành chiến thắng trong một thời gian. Có rất nhiều phân tích về lợi và hại trong cuộc chiến này. Khi thấy ông dù là một nhà thuyết giáo tài năng nhưng lại viết rất dở, ta https://thuviensach.vn giúp ông viết hai hay ba cuốn chuyên đề và một bài báo trên Gazette vào tháng 4 năm 1735. Những cuốn sách đó cũng như những cuốn chuyên đề tranh luận khác được mọi người đón đọc rất háo hức vào lúc đó nhưng nhanh chóng bị lãng quên và ta tự hỏi giờ có còn bản sao nào của nó tồn tại không. Trong thời gian đấu tranh, một sự kiện xui xẻo đã làm ông tổn thương trầm trọng. Một trong những kẻ địch của chúng ta khi nghe đến việc ông giảng bài được rất nhiều người ngưỡng mộ cho rằng ông đã đọc ở đâu đó được bài giảng này hay một phần của nó từ trước. Khi truy tìm, ông này phát hiện một phần trích dẫn trên tờ British Reviews trong bài giảng của Giáo Sư Foster. Phát hiện này khiến nhiều người trong nhóm ủng hộ ông cảm thấy ghê tởm và do đó rời bỏ ông và nó cũng khiến chúng ta thất bại nhanh hơn trong Quốc Hội tôn giáo. Ta vẫn sát cánh cùng ông vì ta thà chấp nhận chuyện ông trình bày những bài giảng hay do người khác soạn còn hơn thuyết giảng những nội dung dở do chính tay mình làm ra dù rằng những nhà thuyết giáo thông thường của chúng ta thường làm theo cách thứ hai. Sau đó, ông thú nhận với ta rằng không có bài nào ông giảng là tác phẩm của ông cả. Trí nhớ của ông tốt đến nỗi có thể cho phép ông nhớ và lặp lại chỉ sau một lần đọc. Sau thất bại đó, ông bỏ chúng ta ra đi để tìm vận may ở nơi khác và ta rời khỏi giáo đoàn không bao giờ tham gia nữa dù ta vẫn tiếp tục đăng ký để ủng hộ cho những mục sự của giáo đoàn nhiều năm sau đó. Ta bắt đầu học ngoại ngữ vào năm 1733, ta nhanh chóng thành thạo tiếng Pháp và có thể đọc sách một cách rất dễ dàng. Sau đó, ta học tiếng Ý. Một người quen của ta cũng học tiếng Ý thường thách ta chơi cờ với ông. Nhận thấy việc này mất quá nhiều thời gian mà ta dành để học, ta từ chối tiếp tục chơi ngoại trừ với điều kiện người chiến thắng trong cuộc chơi có quyền đặt ra một nhiệm vụ hoặc học thuộc ngữ pháp hoặc dịch thuật,…v.v. và người thua phải thực hiện nhiệm vụ này một cách nghiêm túc trước buổi gặp tiếp theo của chúng ta. Vì chúng ta đánh cờ ngang ngửa nhau nên chúng ta cùng nhau tiến bộ trong tiếng Ý. Sau đó với một chút siêng năng, ta cũng học và đọc sách tiếng Tây Ban Nha. Ta đã từng nhắc chuyện ta chỉ học có 1 năm ở một trường ngôn ngữ Latin khi còn rất nhỏ và sau đó ta hoàn toàn bỏ việc học ngôn ngữ. Nhưng sau khi làm quen với tiếng Pháp, Ý và Tây Ban Nha, khi đọc quyển Kinh Cựu Ước viết bằng tiếng Latin, ta rất ngạc nhiên vì mình hiểu được nhiều hơn mình tưởng. Điều đó thúc đẩy ta theo học ngôn ngữ này một lần nữa và học rất thành công vì những ngôn ngữ ta đã học giúp việc học tiếng Latin trơn tru hơn. Từ thực tế này, ta cho rằng có một sự thiếu nhất quán trong cách thức dạy ngôn ngữ thông thường. Chúng ta được chỉ bảo rằng nên học tiếng Latin trước và sau khi biết ngôn ngữ này thì học những ngôn ngữ còn lại xuất phát từ tiếng Latin sẽ dễ hơn nhưng chúng ta lại không bắt đầu học tiếng Hy Lạp để học tiếng Latin. Đúng là nếu bạn có thể leo lên đầu https://thuviensach.vn cầu thang mà không cần dùng những bậc thang, bạn sẽ dễ dàng dùng những bậc thang hơn khi đi xuống. Nhưng chắc chắn rằng nếu bắt đầu với bậc thang thấp nhất, bạn sẽ thấy dễ dàng hơn để leo lên đầu cầu thang. Do đó, ta muốn đề xuất phương pháp sau đây cho những người chịu trách nhiệm giáo dục giới. Vì rất nhiều người trẻ tuổi bắt đầu học tiếng Latin đã bỏ học sau vài năm mà không có tiến bộ lớn nào và những thứ họ học được trở nên vô dụng do đó thời gian bị lãng phí, liệu có tốt hơn nếu bắt đầu với tiếng Pháp sau đó sang tiếng Ý…v.v. Những người học theo cách này sau một thời gian bỏ học ngôn ngữ dù chưa nắm được tiếng Latin cũng có được một hai thứ tiếng hiện tại được sử dụng và có ích cho cuộc sống của họ. Sau 10 năm rời khỏi Boston và có cuộc sống ngày càng thoải mái hơn, ta thực hiện một hành trình về thăm người thân của mình mà trước đây ta không đủ tiền để làm việc đó. Khi trở về, cập bến Newport, ta thăm anh trai và nghỉ tại nhà nhà in của anh. Những mẫu thuẫn trước đây của chúng ta đã được xoá bỏ và cuộc gặp mặt rất thân mật và trìu mến. Sức khoẻ của anh đang rất yếu và yêu cầu ta khi anh qua đời, điều mà anh sợ sẽ không còn xa, ta hãy đón đứa con 10 tuổi của anh về và giúp cháu thừa hưởng công việc kinh doanh in ấn của anh. Ta thực hiện theo lời anh sau đó, gửi cháu ta đi học vài năm sau đó đón về làm việc. Mẹ của cháu chăm sóc việc kinh doanh cho đến khi cháu trưởng thành và ta chỉ dạy cháu cách sắp xếp những mẫu chữ in mới vì những mẫu chữ in của của anh trai ta đã cũ sờn. Điều này đã sửa được sai lầm mà của ta trước đây khi rời bỏ anh quá sớm. Năm 1736, ta mất một trong những đứa con của mình, một đứa bé trai 4 tuổi rất ngoan, vì bệnh đậu mùa như nhiều đứa bé khác. Ta đã hối hận rất lâu và vẫn còn hối hận cho đến ngày nay rằng mình đã không tiêm ngừa cho con. Ta nhắc đến sự việc này vì lợi ích của các bậc cha mẹ những người không tiêm ngừa cho con vì họ sẽ không bao giờ tha thứ cho bản thân mình nếu đứa trẻ qua đời vì căn bệnh đó. Cái gương của ta cho thấy rằng chắc chắn họ sẽ phải hối hận do đó nên chọn phương pháp an toàn. Câu lạc bộ Junto của chúng ta rất hữu ích và khiến những thành viên thoả mãn tới nỗi nhiều người muốn giới thiệu bạn bè của mình tham gia và việc này khiến số thành viên đông hơn con số hợp lý mà chúng ta đặt ra ban đầu là 12 người. Ban đầu chúng ta đã đặt ra quy định giữ kín sự tồn tại của câu lạc bộ và nó được tuân thủ khá tốt. Mục đích của việc này là tránh việc phải nhận những người không phù hợp vì có một số người chúng ta có thể sẽ thấy rất khó từ chối. Ta là một trong những người phản đối việc giới hạn số thành viên thay vào đó đề xuất rằng mỗi thành viên trong hội sẽ thành lập một câu lạc bộ phụ với những quy định tương tự về những câu hỏi tham luận…v.v và không để những thành viên của các câu lạc bộ này biết về sự tồn tại của Junto. Cái lợi thứ nhất ở đây là sự tiến bộ của rất nhiều cư dân trẻ bằng cách sử dụng hệ thống của chúng ta. Thứ hai là nắm bắt được ý kiến của người dân vì thành viên của Junto sẽ đề xuất đề tài tham luận nào được bàn và báo cáo https://thuviensach.vn với Junto những trao đổi ở các câu lạc bộ khác. Cuối cùng, đẩy mạnh mối quan hệ kinh doanh riêng của các thành viên qua mạng lưới giới thiệu rộng rãi, nâng cao tính ảnh hưởng trong các vấn đề công vụ và sức mạnh làm điều tốt bằng cách truyền bá những ý kiến của Junto thông qua các câu lạc bộ khác. Đề xuất này được chấp nhận và mỗi thành viên thành lập một câu lạc bộ của mình nhưng không phải tất cả đều thành công. Chỉ có năm hay sáu câu lạc bộ thành lập và được gọi với những cái tên khác nhau như Vine, Union, Band…v.v. Những câu lạc bộ này rất hữu ích với chính các thành viên thành lập ra nó và mang lại cho chúng ta rất nhiều sự thích thú, thông tin và chỉ dẫn bên cạnh việc sử dụng để gây ảnh hưởng đến công chúng trong những trường hợp đặc biệt mà ta sẽ kể ra một vài thí dụ đến lúc. Lần đầu tiên ta được thăng chức năm 1736 khi được chọn làm thư ký của Quốc Hội. Không ai phản đối việc ta được chọn vào năm đó. Nhưng vào năm tiếp theo (vị trí đó cũng như vị trí của thành viên Quốc Hội được bầu chọn hằng năm), một thành viên mới đã trình bày một bài nói rất dài phản đối việc chọn ta để ủng hộ một ứng viên khác. Tuy nhiên, ta vẫn được chọn và điều này khiến ta hài lòng vì ngoài việc hưởng lương thư ký vị trí này còn cho ta cơ hội tốt hơn để giữ mối quan hệ với các thành viên để có được những hợp đồng in phiếu bầu, sách luật, tiền giấy và những hợp đồng công mang tính chất thời vụ khác mà nói chung là có lãi rất nhiều. Do đó, ta không thích sự phản đối của vị thành viên mới kia, một người giàu và có học thức mà bằng tài năng của mình sẽ tạo ảnh hưởng lớn trong Nghị Viện việc mà sau đó đã xảy ra. Tuy nhiên, ta không hướng đến việc giành được sử ủng hộ bằng cách tỏ ra kính trọng đến quỵ luỵ với ông này mà sau đó sử dụng một cách khác. Nghe nói rằng trong thư viện của ông có một cuốn sách lạ và rất quý hiếm, ta viết cho ông này một lá thư nhỏ thể hiện mong muốn được đọc cuốn sách đó và yêu cầu ông cho phép ta được mượn đọc nó một vài ngày. Ngay lập tức, Ông gửi nó cho ta và ta trả lại cuốn sách sau một tuần với một lá thư khác bày tỏ sự cảm ơn của mình. Trong lần gặp nhau ở Nghị Viện sau đó, ông nói chuyện với ta (việc ông chưa từng làm trước đây) và theo cách rất lịch sự. Và từ đó ông luôn thể hiện mình sẵn sàng ủng hộ ta trong mọi tình huống do đó chúng ta trở thành bạn thân và tình bạn của chúng ta kéo dài đến khi ông qua đời. Đây là ví dụ về chân lý trong một châm ngôn mà ta biết nói rằng, “Người đã từng làm điều tốt cho bạn một lần sẽ sẵn sàng làm một điều tốt nữa cho bạn hơn người bạn mà bạn gia ơn.” Và nó cho thấy việc xoá bỏ so với đối đầu, đáp trả và tiếp tục sự thù địch có lợi nhiều như thế nào. Vào năm 1737, Đại Tá Spotwood, cựu Thống đốc Virginia và sau đó là Bộ trưởng Bộ bưu điện, do không hài lòng với biểu hiện của viên trợ lý của mình ở Philadelphia trong việc tính toán và thanh toán sổ sách đã cách chức người này và đề nghị ta công việc đó. Ta sẵn lòng https://thuviensach.vn chấp nhận làm và thấy rằng công việc này rất có lợi vì dù rằng lương không cao, nó giúp ta có những mối quan hệ để cải thiện tờ báo của mình, tăng số lượng người đọc cũng như số lượng đăng quảng cáo. Do đó, nó mang lại cho ta một nguồn doanh thu đáng kể. Tờ báo đổi thủ của ta theo đó suy tàn dần và ta đã thoả lòng dù không cần phải trả thù việc Bradford từ chối giao báo của ta bằng ngựa. Từ chuyện ông bị tổn thất nặng nề do thiếu quan tâm đến hoạt động kế toán đúng hạn, ta muốn nhắc đến nó như một bài học cho những người trẻ tuổi được thuê để quản lý công việc kinh doanh của người khác rằng phải luôn thanh toán và chi các khoản trả đúng hạn và minh bạch. Hoàn thành tốt công việc này sẽ là lời giới thiệu tốt nhất khi tìm kiếm công việc hay phát triển kinh doanh. Ta bắt đầu hướng suy nghĩ của mình sang những vấn đề công vụ nhưng ban đầu chỉ là những vấn đề nhỏ nhặt. Việc canh gác thành phố là một trong những điều đầu tiên ta muốn điều chỉnh. Nó được thay phiên phụ trách bởi những nhân viên an ninh của từng khu vực. Những nhân viên an ninh yêu cầu một số chủ nhà tham gia gác vào ban đêm. Những người không tham gia để được miễn phải trả 6 siling một năm số tiền được cho là dành để thuê người khác thế nhưng thực tế nó nhiều hơn khoản tiền cần thiết cho mục đích đó và khiến công việc giữ an ninh trở thành một công cụ kiếm lợi. Và nhân viên an ninh sau khi uống say trông như một kẻ đầu đường xó chợ đi tuần khiến những chủ nhà đáng kính quyết định không tham gia cùng người này. Việc đi tuần vòng quanh cũng thường bị bỏ bê và hầu hết các đêm những người này đều say xỉn. Do đó, ta viết một tham luận được đọc tại Junto nói về những sự thiếu thường xuyên này nhưng nhấn mạnh đặc biệt vào sự thiếu công bằng của khoản tiền 6 siling của những nhân viên an ninh trong tương quan của những người phải trả khoản tiền này vì một goá phụ nghèo mà tất cả tài sản không quá 50 Bảng cũng phải đóng khoản tiền tương đương với một thương nhân giàu có người sở hữu số hàng hoá trị giá lên đến hàng ngàn Bảng trong cửa hàng. Sau khi xem xét tổng quát, ta đề xuất thuê những người thích hợp làm nhiệm vụ này liên tục để canh gác hiệu quả hơn và một cách thức công bằng hơn để hỗ trợ thu phí là áp thuế theo giá trị tài sản. Ý tưởng này được Junto chấp thuận và truyền tải tới những câu lạc bộ khác những câu lạc bộ mà thực chất vấn đề được nêu ra đầu tiên tại đó. Và dù rằng kế hoạch không được đưa vào thực thi ngay lập tức nhưng thông qua việc chuẩn bị tư tưởng cho người dân, nó lót đường cho những đạo luật được thông qua vài năm sau đó khi những thành viên của các câu lạc bộ có tầm ảnh hưởng lớn hơn. Vào khoảng thời gian này ra viết một bài tham luận (ban đầu được đọc trong Junto nhưng sau đó được xuất bản) về việc những tai nạn nhỏ và sự bất cẩn khiến nhiều ngôi nhà bị cháy kèm theo lời cảnh báo và cách thức phòng tránh. Nó được đánh giá là một tác phẩm hữu ích khơi nguồn cho một dự án triển khai không lâu sau đó về việc thành lập một đại đội cứu hỏa và giúp đỡ lẫn nhau trong việc di chuyển và bảo vệ hàng hoá ra khỏi nơi nguy hiểm. https://thuviensach.vn Dự án nhanh chóng có được sự cuốn hút với con số hội viên lên tới 30 người. Biên bản thoả thuận của chúng ta quy định tất cả thành viên phải luôn giữ một số lượng xô bằng da với những cái túi và rổ chắc chắn (để đóng gói và vận chuyển hàng hoá) để mang theo đến tất cả những đám cháy. Chúng ta cũng đồng ý gặp nhau mỗi tháng một lần và dành ra một buổi chiều trao đổi và thảo luận về những ý tưởng liên quan đến các đám cháy vì nó có thể hữu ích cho công việc của chúng ta. Sự hữu dụng của đại đội này nhanh chóng được thể hiện và có rất nhiều người khác mong muốn được tham gia hơn cả con số hợp lý cho một đại đội. Những người này được khuyên nên thành lập một đại đội khác, và họ đã làm theo. Cứ như thế các đại đội thay nhau ra đời cho đến khi nó nhiều đến nỗi các đại đội bao gồm tất cả công dân có tài sản trong vùng. Và giờ, vào thời điểm ta đang viết, dù rằng đã hơn 50 năm kể từ ngày thành lập, đại đội đầu tiên do ta khai sáng với tên gọi là Đại Đội Liên Minh Chữa Cháy vẫn còn tồn tại và phát triển dù rằng tất cả những thành viên khác đã rút lui ngoại trừ ta và một thành viên khác lớn hơn ta một tuổi. Những khoản phạt nhỏ được áp dụng cho các thành viên vắng mặt trong những buổi họp tháng được dùng để mua máy chữa cháy, thang, cây cào lửa và những dụng cụ hữu ích khác cho các đại đội. Đến nỗi câu hỏi ở đây là liệu có thành phố nào trên thế giới được chuẩn bị tốt hơn về những cách thức dập tắt các đám cháy. Thực tế, từ khi những đại đội này được thành lập, thành phố chưa bao giờ bị mất nhiều hơn một hay hai ngôi nhà do hoả hoạn trong một đám cháy và ngọn lửa thường được dập tắt trước khi ngôi nhà phát hoả bị ngọn lửa nuốt chửng phân nửa. Vào năm 1739, có một nhà thuyết giảng lưu động người Ireland xuất hiện. Đó là Đức Ngài Whitefield. Ban đầu ông được phép thuyết giảng trong các nhà thờ của chúng ta. Tuy nhiên, những tu sĩ do không thích ông nhanh chóng từ chối không cho ông giảng trong nhà thờ và ông này buộc phải giảng ở các cánh đồng. Đám đông quần chúng từ các tín ngưỡng và giáo phái khác tụ họp nghe những bài giảng của ông rất đông và nó gây cho ta rất nhiều tò mò muốn tìm hiểu khi là một trong những người chứng kiến khả năng ảnh hưởng lớn lao trong nghệ thuật hùng biện của ông đối với người nghe và rất ngưỡng mộ cũng như kính trọng ông bất chấp việc ông thường lăng mạ các thính giả của mình khi nói chắc rằng bản chất của họ là nửa ma quỷ nửa thú vật. Thật tuyệt vời khi nhận ra những thay đổi ở các cư dân. Từ chỗ không quan tâm và thờ ơ với tôn giáo, có vẻ như cả thế giới đang phát triển theo hướng tín ngưỡng đến độ không ai có thể đi dọc thành phố vào buổi chiều mà không nghe những bài thánh ca được hát vang trong các gia đình ở những con đường khác nhau. Và nhận thấy sự bất tiện của việc tụ họp ngoài trời do yếu tố thời tiết, việc có một ngôi nhà để họp mặt không lâu sau được đề xuất và những người được bổ nhiệm để nhận số tiền quyên góp chưa thật đủ nhanh chóng mua đất dựng lên một ngôi nhà dài khoảng 100 feet và rộng 70 feet, bằng diện tích của Westminster Hall. Và công việc này được thực hiện hăng https://thuviensach.vn say tới nỗi nó được hoàn thành trước cả thời gian mong đợi. Cả ngôi nhà và miếng đất đều thuộc quyền sở hữu của những người được uỷ thác chỉ được dùng cho những nhà thuyết giảng hay các thành viên giáo phái muốn trình bày gì đó với người dân Philadelphia. Thiết kế của ngôi nhà không theo bất kỳ tín ngưỡng nào mà theo phong cách chung của các cư dân. Do đó, ngay cả khi các giáo sĩ hồi giáo đến từ thành phố Constantinople có gửi một nhà truyền giáo đến giảng về Đạo Hồi cũng sẽ tìm thấy một bục giảng thích hợp cho mình. Whitefield rời khỏi chúng ta đi đến tận Georgia để thuyết giảng. Vùng Georgia vừa mới được khai phá gần đây nhưng thay vì được định cư bởi những nông dân chăm chỉ chịu khó quen lao động, những người duy nhất phù hợp với vùng đất này, thì lại là những gia đình sở hữu các cửa hàng bị phá sản hay những con nợ khác, những kẻ lười biếng và rỗi nghề vừa mới ra tù được gửi đến sống ở những khu rừng do không đủ điều kiện sống ở các vùng đất đã khai hoang và không đủ khả năng chịu được sự gian khổ của việc định cư ở vùng đất mới, do vậy nên số người chết rất đông để lại rất nhiều đứa trẻ bơ vơ không nơi nương tựa. Tình cảnh đáng thương đó đã thúc đẩy trái tim nhân hậu của Whitefield nảy ra ý tưởng xây dựng một Trại Trẻ Mồ Côi ở đó nơi bọn trẻ được nuôi nấng và giáo dục. Quay trở về hướng Bắc, ông thuyết giảng về dự án từ thiện này và quyên góp được rất nhiều tiền vì khả năng hùng biện của ông có ảnh hưởng mạnh mẽ đến cảm xúc và suy nghĩ của người nghe mà trong đó ta là một ví dụ. Ta không phải không đồng ý với dự án đó nhưng Georgia rất thiếu thốn về nhân lực và nguyên vật liệu và nếu gửi từ Philadelphia sang thì chi phí sẽ rất cao, ta cho rằng tốt hơn hết nên xây dựng nó ở đây và mang lũ trẻ tới Philadelphia. Ta khuyên ông làm theo cách này nhưng ông kiên quyết làm theo kế hoạch ban đầu của mình từ chối lời khuyên của ta và do đó ta từ chối đóng góp. Không lâu sau đó ta tham dự một trong những buổi giảng của ông mà theo ta thấy mục đích cuối cùng của ông là để quyên góp, ta thầm nhủ ông sẽ không nhận được gì từ ta dù lúc đó trong túi ta đang có một nắm tiền đồng, 3 hay 4 đồng đô la bạc và 5 đồng pistol vàng. Nhưng khi ông diễn thuyết, ta bắt đầu xiêu lòng và đóng góp số tiền đồng của mình. Và một luận điểm trong bài diễn thuyết của ông khiến ta xấu hổ đến nỗi ta quyết định đóng góp thêm một đồng đô la bạc. Và cuối cùng, ông kết thúc đáng khâm phục khi ta dốc cả túi tiền của mình các đồng vàng và tất cả bỏ vào chiếc đĩa quyên góp. Tại buổi thuyết giảng này, cũng có một thành viên trong câu lạc bộ của chúng ta người ủng hộ ý kiến của ta trong vấn đề xây Trại Trẻ Mồ Côi ở Georgia và vì nghi ngờ rằng sẽ có quyên góp nên đã cẩn thận quyết định bỏ hết tiền ở nhà. Tuy nhiên, trước khi kết thúc bài giảng, ông này cảm thấy rất muốn quyên góp và đã hỏi mượn người hàng xóm đứng gần một ít tiền cho mục đích đó. Không may thay ông hỏi mượn đúng người duy nhất trong số thính giả đủ độ rắn để không bị ảnh hưởng bởi bài thuyết giảng của Whitefield. Câu trả lời của người này là, https://thuviensach.vn