🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tư Duy Đa Chiều
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
a
https://thuviensach.vn
Mục lục
1. Lời tựa
2. Dẫn nhập
3. Sử dụng cuốn sách này
4. Cách thức vận hành của tâm trí
5. Sự khác biệt giữa tư duy đa chiều và tư duy chiều dọc 6. Thái độ đối với tư duy đa chiều
7. Bản chất cơ bản của tư duy đa chiều
8. Vai trò của tư duy đa chiều
9. Các kỹ thuật
10. Tạo ra những lựa chọn
11. Thách thức các giả định
12. Sự cải tiến
13. Trì hoãn đánh giá
14. Thiết kế
15. Những ý chính và những nhân tố cốt yếu 16. Sự phân tách
17. Phương pháp đảo ngược
18. Động não
19. Suy luận loại suy
20. Lựa chọn điểm thâm nhập và vùng chú ý 21. Kích thích ngẫu nhiên
22. Khái niệm/ phân chia/ phân cực
23. Từ mới PO
24. Bị chặn bởi sự thông thoáng
25. Mô tả/giải quyết vấn đề/ thiết kế
26. Tổng kết
https://thuviensach.vn
E
dward de Bono là người đầu tiên đưa ra khái niệm tư duy đa chiều (lateral thinking). Nhà văn, triết gia lừng danh này là tác giả hàng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu phương pháp tư duy sáng tạo và huấn luyện kỹ năng tư duy. Trong nhiều thập niên, từ khi Bono giới thiệu về phương pháp tư duy đa chiều, khái niệm này đã xác lập được vị thế trong hệ thống ngôn ngữ của chúng ta và được sử dụng trong các bài giảng vật lý, các buổi diễn hài trên truyền hình hay trong những buổi động não (brainstorming). Đóng góp chính của ông là quan điểm coi bộ não như một hệ thống tự tổ chức. Công trình của ông đã vượt qua nhiều thế hệ, lục địa và các hệ thống niềm tin, có mặt trên các kệ sách ở những vùng đất xa xôi tận châu Phi, có ảnh hưởng lớn trong phòng họp của những công ty hàng đầu như Apple hay British Airways.
Tiến sĩ de Bono đã viết hơn 60 cuốn sách được dịch ra 20 ngôn ngữ và có rất nhiều người đang giảng dạy các phương pháp của ông trên khắp thế giới. Ông từng ngồi ghế chủ tọa một hội nghị cao cấp đặc biệt gồm những người từng đoạt giải Nobel. Ông được mời giảng dạy trong các trường Oxford, London, Cambridge, Harvard, và được đánh giá là một trong 250 người có đóng góp quan trọng nhất cho nhân loại.
Những tác phẩm kinh điển bán chạy nhất của Tiến sĩ de Bono bao gồm: Six Thinking Hats (6 chiếc mũ tư duy), Lateral Thinking (Tư duy đa chiều), I am right, you are wrong (Tôi đúng, anh sai), How to be more interesting (tạm dịch: Làm sao để trở nên thú vị hơn), Teach yourself to think (tạm dịch: Dạy bản thân cách tư duy), Teach your child how to think (Dạy con trẻ cách tư duy), và Simplicity (tạm dịch: Sự đơn giản).
Mời các bạn ghé thăm: www.debono.com để biết thêm nhiều thông tin thú vị về Edward de Bono.
https://thuviensach.vn
Lời tựa
B
ạn có thể sử dụng cuốn sách này cả ở nhà và ở trường học. Tại trường, quá trình giảng dạy thường tập trung vào tư duy chiều dọc (vertical thinking) truyền thống. Loại tư duy này hiệu quả nhưng không hoàn chỉnh. Nó cần được bổ sung những phẩm chất giúp sản sinh giải pháp của tư duy sáng tạo. Quá trình này đã được thực hiện ở một vài trường, sự sáng tạo bắt đầu xuất hiện nhưng vẫn hết sức mơ hồ. Không có một quy trình kỹ lưỡng và thực tiễn nào để tạo ra tư duy sáng tạo. Cuốn sách này sẽ thảo luận về tư duy đa chiều, quá trình sử dụng nó để tạo ra sự sáng tạo và tái cấu trúc cách nhìn nhận sự vật. Tư duy đa chiều là kỹ năng có thể học, thực hành và sử dụng, tương tự như kỹ năng toán học vậy.
Cuốn sách này có thể hữu dụng với các giáo viên – những người đang tìm kiếm các phương pháp thực tế để giảng dạy kiểu tư duy đang ngày càng trở nên quan trọng này. Cuốn sách sẽ chỉ ra những cơ hội chính thống để thực hành tư duy đa chiều, đồng thời giải thích cách thức vận hành của các quá trình liên quan. Giáo viên có thể sử dụng cuốn sách này để rèn luyện bản thân hoặc tốt hơn là sử dụng làm nền tảng cho những bài tập trên lớp của mình.
Vì việc giới thiệu rộng rãi tư duy đa chiều trong trường học không thể diễn ra trong tương lai gần, nên các bậc phụ huynh không nên quá mong chờ vào điều đó. Phụ huynh có thể lựa chọn bổ sung những chỉ dẫn về tư duy đa chiều cho trẻ tại nhà, bên cạnh các bài học trên lớp.
Cần nhấn mạnh rằng hai lối tư duy này không đối lập nhau. Cả hai đều cần thiết. Tư duy chiều dọc cực kỳ hữu ích, tuy nhiên cũng cần bổ sung sự sáng tạo và hạn chế tính cứng nhắc của nó. Dù sớm hay muộn thì việc học tư duy đa chiều cũng sẽ diễn ra ở trường, nhưng cho đến lúc đó, việc học tại nhà là rất cần thiết.
https://thuviensach.vn
Bạn không nên đọc qua cuốn sách này một mạch mà nên đọc chậm rãi trong nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Vì lý do này, nhiều nguyên tắc được lặp lại xuyên suốt cuốn sách để củng cố chủ đề chính. Khi sử dụng cuốn sách này, bạn cần nhớ rằng việc thực hành còn quan trọng hơn rất nhiều so với việc chỉ hiểu bản chất của quá trình tư duy đa chiều.
https://thuviensach.vn
Dẫn nhập
T
ư duy đa chiều có liên quan chặt chẽ tới cách nhìn nhận, sự sáng tạo và tính hài hước. Bốn quá trình này đều có cùng một nền tảng. Nhưng trong khi chúng ta không thể thay đổi nhiều cách nhìn nhận, sự sáng tạo và tính hài hước thì tư duy đa chiều là một quá trình chủ động. Luôn tồn tại một cách thức sử dụng tâm trí để tư duy logic – nhưng đó là một cách khác với cách chúng ta thường làm.
Văn hóa có liên quan tới những ý tưởng đang dần ổn định. Giáo dục liên quan đến việc truyền đạt các ý tưởng đó. Cả hai đều liên quan đến việc cải thiện các ý tưởng bằng cách cập nhật chúng. Cách duy nhất để thay đổi các quan niệm là thông qua mâu thuẫn và mâu thuẫn vận hành theo hai cách. Cách thứ nhất, có một cuộc đụng độ trực diện giữa những ý tưởng đối lập. Trong hai ý tưởng, sẽ có một ý tưởng thực tế hơn ý tưởng còn lại và phải thay đổi. Cách thứ hai, tồn tại sự mâu thuẫn giữa thông tin mới và ý tưởng cũ, kết quả là ý tưởng cũ sẽ bị thay đổi. Đây là cách làm của khoa học, lĩnh vực luôn tìm cách tạo ra những thông tin mới để phá vỡ những ý tưởng cũ và kiến tạo những ý tưởng mới. Tuy nhiên, cách làm thứ hai không chỉ là phương pháp khoa học mà còn là cách mà con người thu nhận kiến thức.
Giáo dục dựa trên giả định an toàn rằng người học chỉ phải thu thập ngày càng nhiều thông tin, những thông tin này sẽ tự sắp xếp thành những ý tưởng hữu ích. Chúng ta đã phát triển các công cụ xử lý thông tin, ví dụ toán học để mở rộng thông tin, tư duy logic để tinh lọc thông tin.
Phương pháp thay đổi ý tưởng bằng mâu thuẫn phát huy hiệu quả khi thông tin có thể được đánh giá khách quan. Nhưng phương pháp này vô hiệu khi thông tin mới chỉ được đánh giá dựa trên các ý
https://thuviensach.vn
tưởng cũ. Thay vì bị thay đổi, ý tưởng cũ sẽ được củng cố và trở nên cứng nhắc hơn bao giờ hết.
Cách hiệu quả nhất để thay đổi ý tưởng cũ không đến từ bên ngoài – thông qua mâu thuẫn, mà đến từ bên trong – thông qua việc tái sắp xếp cách nhìn nhận những thông tin sẵn có. Cách nhìn là mấu chốt duy nhất để thay đổi các ý tưởng trong một tình huống tưởng tượng – khi thông tin không thể được đánh giá khách quan. Thậm chí khi thông tin có thể được đánh giá khách quan, hành động tái sắp xếp cách nhìn nhận thông tin cũng tạo nên một cú nhảy vọt. Điều giáo dục quan tâm không chỉ là việc thu thập thông tin mà còn là cách tốt nhất để sử dụng những thông tin đã thu thập.
Khi các ý tưởng làm chủ thông tin thay vì phụ thuộc vào chúng, sự tiến bộ diễn ra rất nhanh chóng. Tuy nhiên chúng ta vẫn chưa phát triển các công cụ hữu ích để xử lý vấn đề cách nhìn nhận. Chúng ta chỉ thu thập thông tin và hy vọng đến một bước nào đó cách nhìn sẽ thay đổi. Tư duy đa chiều chính là một công cụ giúp thay đổi cách nhìn nhận.
Cách nhìn nhận, sự sáng tạo và tính hài hước rất khó nắm bắt vì tâm trí làm việc cực kỳ hiệu quả. Tâm trí vận hành để tạo ra những mô hình từ môi trường bên ngoài. Một khi các mô hình đã hình thành, chúng ta có thể nhận ra chúng, phản ứng trước chúng và sử dụng chúng. Khi các mô hình được sử dụng, chúng trở nên vững chắc hơn bao giờ hết.
Hệ thống hóa các mô hình là một cách rất hiệu quả để xử lý thông tin. Sau khi được thiết lập, các mô hình này sẽ hình thành một hệ thống mã hóa. Lợi ích của hệ thống mã hóa là thay vì phải thu thập tất cả thông tin, một người chỉ cần thu thập đủ thông tin để nhận diện mô hình mã hóa, điều này tương tự như tìm một cuốn sách thuộc một chủ đề nhất định trong thư viện bằng mã số sách.
Tâm trí được ví như một chiếc máy tính chuyên xử lý thông tin. Tuy nhiên, nó không phải là một chiếc máy tính thông thường mà là một môi trường đặc biệt cho phép thông tin tự sắp xếp vào các mô hình.
https://thuviensach.vn
Hệ thống ký ức tự sắp xếp, tự tối đa hóa này rất giỏi trong việc tạo ra các mô hình – đó chính là sự hiệu quả của tâm trí.
Nhưng bên cạnh sự hữu ích tuyệt vời đó, hệ thống mô hình hóa vẫn có những hạn chế nhất định. Khi được hệ thống hóa, các mô hình dễ dàng kết hợp hay bổ sung cho nhau nhưng rất khó để tái cấu trúc vì chúng điều khiển sự chú ý. Cách nhìn nhận và tính hài hước đều cần quá trình tái cấu trúc mô hình. Sự sáng tạo cũng liên quan đến quá trình tái cấu trúc nhưng đặt trọng tâm lớn vào việc thoát ra khỏi những mô hình giới hạn. Tư duy đa chiều tập trung vào việc tái cấu trúc, thoát ly khỏi mô hình cũ và gợi mở các mô hình mới.
Tư duy đa chiều có mối liên hệ chặt chẽ với sự sáng tạo. Trong khi sáng tạo nhấn mạnh vào kết quả thì tư duy đa chiều lại mô tả một quá trình. Chúng ta thường cảm thấy sự bí ẩn khi nói về tài năng và sự vô hình khi nói về sáng tạo, thường là khi nhắc đến sự sáng tạo trong các lĩnh vực nghệ thuật như cảm thụ thẩm mỹ, đồng cảm và năng khiếu biểu đạt. Nhưng sự sáng tạo bên ngoài lĩnh vực này không phải như vậy. Sáng tạo ngày càng được xem là một thành tố quan trọng cho sự thay đổi và phát triển. Nó dần được đánh giá cao hơn cả kiến thức và kỹ thuật vì cả hai yếu tố này ngày càng dễ đạt được. Để có thể sử dụng sự sáng tạo, chúng ta phải loại bỏ suy nghĩ thần bí về nó và coi nó như một cách thức sử dụng tâm trí – một cách xử lý thông tin. Tư duy đa chiều sẽ thảo luận về chủ đề này.
Tư duy đa chiều liên quan đến việc phát triển những ý tưởng mới. Thật kỳ cục khi nghĩ rằng các ý tưởng mới liên quan đến các sáng chế kỹ thuật. Sáng chế kỹ thuật chỉ là một phần nhỏ. Ý tưởng mới là các thay đổi hay tiến bộ từ khoa học tới nghệ thuật, từ chính trị đến hạnh phúc con người.
Tư duy đa chiều cũng liên quan đến việc phá vỡ nhà tù của các ý tưởng cũ kỹ. Nó tạo ra sự thay đổi trong thái độ và cách tiếp cận, từ đó dẫn đến việc nhìn những sự vật quen thuộc theo một cách khác. Giải phóng khỏi các ý tưởng cũ và kích thích các ý tưởng mới là hai mặt song song của tư duy đa chiều.
https://thuviensach.vn
Tư duy đa chiều rất khác tư duy chiều dọc – kiểu tư duy truyền thống. Trong tư duy chiều dọc, chúng ta di chuyển từng bước và mỗi bước đều phải có cơ sở lý giải. Khác biệt giữa hai cách tư duy này rất rõ ràng. Ví dụ, trong tư duy đa chiều, chúng ta không chỉ đơn thuần sử dụng thông tin mà còn thu nhận những hiệu ứng từ việc sử dụng chúng. Trong tư duy đa chiều, chúng ta có thể phải sai ở một vài giai đoạn để đạt được một kết quả đúng; trong tư duy chiều dọc (logic hay toán học) điều này là bất khả thi. Trong tư duy đa chiều, chúng ta có thể chủ động tìm kiếm những thông tin không liên quan; còn trong tư duy chiều dọc, chúng ta chỉ tìm kiếm những gì có liên quan.
Tư duy đa chiều không thay thế cho tư duy chiều dọc. Cả hai đều cần thiết và bổ sung cho nhau. Tư duy đa chiều giúp nảy sinh ý tưởng, tư duy chiều dọc mang tính chọn lọc.
Với tư duy chiều dọc, chúng ta đi đến kết luận thông qua một chuỗi những bước đi có cơ sở. Vì tính hợp lý của những bước đó, chúng ta rất chắc chắn về tính chính xác của kết luận. Nhưng dù quy trình đó có chính xác đến đâu thì xuất phát điểm vẫn là lựa chọn cảm tính
các khái niệm căn bản – hành động lựa chọn này thường có khuynh hướng phân chia rõ rệt và phân cực cao độ. Sau đó, tư duy chiều dọc sẽ làm việc dựa trên những khái niệm được tạo ra từ đây. Tư duy đa chiều cần thiết để xử lý các lựa chọn cảm tính nằm ngoài tầm với của tư duy chiều dọc. Tư duy đa chiều cũng kiềm chế sự kiêu ngạo của các kết luận cứng nhắc, dù nó được hình thành một cách vững chắc thế nào chăng nữa.
Tư duy đa chiều nâng cao hiệu quả của tư duy chiều dọc. Tư duy chiều dọc phát triển những ý tưởng được tạo ra bởi tư duy đa chiều. Bạn không thể khoan nhiều lỗ ở nhiều vị trí khác nhau bằng cách khoan sâu hơn một cái lỗ. Tư duy chiều dọc được sử dụng để khoan một cái lỗ sâu hơn. Tư duy đa chiều được sử dụng để khoan một cái lỗ ở vị trí khác.
Thói quen chỉ đặt trọng tâm vào tư duy chiều dọc khiến cho việc giảng dạy tư duy đa chiều càng trở nên cần thiết. Chỉ sử dụng tư
https://thuviensach.vn
duy chiều dọc không những là chưa đầy đủ mà còn là mối nguy hiểm.
Cũng như tư duy logic, tư duy đa chiều là một cách thức sử dụng tâm trí. Nó là thói quen và thái độ của tâm trí. Có những kỹ thuật cụ thể có thể được sử dụng riêng cho từng loại tư duy. Cuốn sách này đặt trọng tâm nhất định vào một vài kỹ thuật không phải vì chúng là một phần quan trọng của tư duy đa chiều mà vì chúng có tính thực tế. Thiện chí và lý thuyết không đủ để phát triển kỹ năng tư duy đa chiều. Chúng ta cần một môi trường thực tế và cần những kỹ thuật hữu hình để thực hành. Từ việc hiểu và sử dụng thành thạo các kỹ thuật, tư duy đa chiều sẽ phát triển thành một thái độ của tâm trí. Chúng ta nên luyện tập cách sử dụng các kỹ thuật này.
Tư duy đa chiều không phải là hệ thống ma thuật mới. Không thiếu ví dụ về những người sử dụng tư duy đa chiều để đạt được thành quả. Có những người có khuynh hướng tư duy đa chiều một cách tự nhiên. Mục đích của cuốn sách này là cho bạn thấy rằng tư duy đa chiều là một phần rất căn bản của tư duy và ai cũng có thể phát triển kỹ năng này. Thay vì chỉ hy vọng có được cách nhìn nhận mới và sự sáng tạo, chúng ta có thể sử dụng tư duy đa chiều một cách chủ động và thực tế.
TÓM TẮT
Mục đích của tư duy là thu thập thông tin và sử dụng chúng tốt nhất có thể. Do đặc thù cơ chế vận hành của tâm trí trong việc tạo ra những mô hình khái niệm cố định, chúng ta không thể sử dụng những thông tin mới tốt nhất trừ khi sở hữu các phương tiện tái lập và cập nhật những mô hình cũ. Lối tư duy truyền thống dạy chúng ta cách tinh lọc các mô hình và xác lập giá trị của chúng. Nhưng chúng ta sẽ không thể tận dụng tối đa thông tin sẵn có nếu không biết cách tạo ra các mô hình mới và thoát khỏi sự kìm kẹp của những mô hình cũ. Tư duy chiều dọc liên quan đến việc cung cấp hay phát triển các mô hình khái niệm. Tư duy đa chiều thì liên quan đến việc tái cấu trúc những mô hình như vậy (cách nhìn nhận) và kích thích tạo ra những mô hình mới (sáng tạo). Tư duy đa chiều và tư duy chiều dọc bổ sung cho nhau. Cả hai kỹ năng tư duy này đều
https://thuviensach.vn
cần thiết nhưng hiện nay, giáo dục chỉ nhấn mạnh vào tư duy chiều dọc.
Sự cần thiết của tư duy đa chiều được phát triển từ những giới hạn trong cách vận hành của tâm trí với vai trò của một hệ thống ký ức tự tối đa hóa.
https://thuviensach.vn
Sử dụng cuốn sách này
C
uốn sách không nhằm giới thiệu một chủ đề mới hay giúp độc giả làm quen với một lĩnh vực nào đó. Cuốn sách này cần được độc giả sử dụng để thu lợi cho chính bản thân mình và giúp giáo viên đem lại lợi ích cho học viên.
Độ tuổi thích hợp
Những quá trình được mô tả trong cuốn sách là các quá trình căn bản. Chúng áp dụng được cho mọi lứa tuổi và cấp độ học tập khác nhau. Tôi sử dụng một vài ví dụ căn bản nhất cho các nhóm vấn đề phức tạp nhất, nhưng ngay cả những lập trình viên máy tính cấp cao cũng không cảm thấy mình đang lãng phí thời gian khi đọc chúng. Vấn đề càng phức tạp thì việc trừu tượng hóa nó thoát khỏi hình thái cụ thể sẽ càng cần thiết hơn. Trong khi nhóm nhỏ tuổi thích thú vì lợi ích trước mắt, thì nhóm lớn tuổi lại xem xét kỹ lưỡng đến những lợi ích xa hơn. Do đó bên cạnh những ví dụ đơn giản có thể áp dụng cho tất cả các nhóm tuổi thì các ví dụ phức tạp hơn chỉ nên dành cho những nhóm lớn tuổi.
Với nhóm nhỏ tuổi hơn, các ví dụ trực quan sẽ hiệu quả hơn ví dụ bằng ngôn từ, vì một đứa trẻ luôn cố gắng biểu đạt mọi thứ theo cách trực quan và hiểu những điều được diễn tả trực quan.
Tư duy đa chiều phù hợp với trẻ từ bảy tuổi đến sinh viên đại học. Giới hạn độ tuổi có vẻ rộng nhưng quá trình tiếp nhận tư duy đa chiều cũng căn bản như tư duy logic và vì thế, không thể giới hạn trong một độ tuổi cụ thể nào. Không chỉ vậy, tư duy đa chiều còn tham gia vào những khía cạnh khác nhau của mỗi chủ đề, thậm chí còn nhiều hơn so với toán học. Tư duy đa chiều thích hợp với người nghiên cứu về khoa học, kỹ thuật, lịch sử hay tiếng Anh. Đó là vì
https://thuviensach.vn
việc ứng dụng các nguyên tắc được giới thiệu trong cuốn sách này không đòi hỏi kiến thức nền tảng của một ngành cụ thể nào.
Ít nhất từ khi bảy tuổi, chúng ta nên cố gắng phát triển kỹ năng tư duy đa chiều như một thói quen của tâm trí. Ứng dụng thực tế của các ý tưởng trình bày trong cuốn sách này với từng độ tuổi nhất định phụ thuộc một phần vào kinh nghiệm của giáo viên trong việc soạn thảo hình thức truyền đạt. Hai lỗi thường gặp ở đây là:
Cho rằng hiển nhiên mọi người đều có khả năng tư duy đa chiều.
Cho rằng đây là một chủ đề đặc biệt và không hữu dụng hay thích hợp với tất cả mọi người.
Phần thực hành của cuốn sách này bao gồm cả kiến thức nền tảng dành cho giáo viên khi soạn bài vì thế sẽ phức tạp hơn với các đối tượng độc giả khác. Phần đầu của bài tập thực hành thích hợp cho học sinh bảy tuổi và những phần sau thích hợp cho mọi đối tượng. Điều này không có nghĩa là phần đầu chỉ phù hợp cho trẻ em hay những phần sau chỉ phù hợp với người lớn, chỉ có sự khác biệt trong cách truyền đạt kỹ năng tư duy đa chiều đến từng nhóm đối tượng độc giả.
Hình thức
Giống với tư duy logic, tư duy đa chiều là một thái độ tổng quát của tâm trí, tận dụng những kỹ thuật nhất định tùy theo hoàn cảnh. Thái độ này được dạy tốt nhất trong một môi trường chính thống sử dụng những bài tập và nội dung cụ thể. Cách làm này sẽ khuyến khích sự phát triển của thói quen tư duy đa chiều. Không có một môi trường chính thống, mọi người sẽ chỉ được khuyến khích và đánh giá cao tư duy đa chiều mỗi khi nó xuất hiện, như vậy, việc phát triển thói quen tư duy đa chiều sẽ không hiệu quả.
Dành ra một thời gian nhất định để hướng dẫn cách thức tư duy đa chiều hữu ích hơn nhiều so với việc chỉ giới thiệu sơ qua các nguyên tắc trong quá trình giảng dạy những chủ đề khác.
https://thuviensach.vn
Nếu tư duy đa chiều được kết hợp dạy chung với những môn học khác thì nên dành ra một khoảng thời gian ngắn nhưng riêng biệt trong quỹ thời gian chung để dạy về tư duy đa chiều.
Một giờ mỗi tuần là đủ để xây dựng thái độ tư duy đa chiều hoặc thái độ tư duy sáng tạo, lựa chọn cách gọi tùy ý thích của bạn.
Phần thực hành của cuốn sách được chia thành nhiều khía cạnh khác nhau. Độc giả không nên chỉ đọc một phần của từng bài học sau đó chuyển sang phần tiếp theo. Làm vậy sẽ không hiệu quả. Thay vào đó, bạn nên sử dụng lặp đi lặp lại cấu trúc cơ bản của mỗi phần cho tới khi đã thuần thục quá trình đó. Một người có thể phải dành ra nhiều buổi hoặc thậm chí nhiều tháng cho một phần cụ thể. Sử dụng một kỹ thuật tư duy trong những hoàn cảnh khác nhau sẽ giúp phát triển kỹ năng tư duy đó. Đây chính là cách sử dụng tư duy đa chiều. Chúng ta có thể phát triển thái độ tư duy đa chiều dễ dàng thông qua việc luyện tập thường xuyên các kỹ thuật.
Bản thân kỹ thuật không có gì đặc biệt, chính thái độ đằng sau đó mới quan trọng. Nhưng chỉ hô hào và mong muốn thì không đủ. Muốn phát triển kỹ năng, mỗi người phải tự tạo ra môi trường chính thống để thực hành và sử dụng các công cụ tư duy. Cách tốt nhất để có được kỹ năng tư duy đa chiều là có kỹ năng sử dụng bộ công cụ, vì chúng tạo ra hiệu quả như nhau.
Tư liệu
Nhiều ví dụ minh họa trong sách có thể bị xem như không quan trọng hay không tự nhiên. Đúng là như vậy. Những ví dụ này giúp bạn hiểu rõ một vài điểm nào đó trong quá trình tư duy. Các ví dụ không hướng đến việc dạy bạn bất cứ điều gì mà nhằm khuyến khích độc giả phát triển cách nhìn về hoạt động tự nhiên của tâm trí. Cũng như truyện ngụ ngôn và truyền thuyết, nội dung thực của chúng ít quan trọng hơn nhiều so với điều mà chúng muốn truyền tải, do đó, những nội dung nhỏ có thể minh họa cho một điểm quan trọng.
https://thuviensach.vn
Không may thay tâm trí không thể điều chỉnh phương pháp cho phù hợp khi xử lý những vấn đề quan trọng và những vấn đề ít quan trọng hơn.
Dù vấn đề quan trọng đến đâu thì hệ thống cũng hành động theo cùng một cách thức – bản chất tự nhiên. Với những vấn đề quan trọng, hoạt động của hệ thống có thể bị chi phối bởi cảm xúc, điều không xảy ra khi giải quyết những vấn đề ít quan trọng. Yếu tố này chỉ khiến việc giải quyết vấn đề càng kém hơn. Vì thế, các khuyết điểm của hệ thống khi xử lý những vấn đề kém quan trọng cũng sẽ xuất hiện khi xử lý những vấn đề quan trọng.
Điều quan trọng là phương pháp chứ không phải sản phẩm. Những ví dụ (được xem như) không tự nhiên hay không quan trọng lại minh họa phương pháp tư duy một cách rõ ràng và dễ hiểu. Phương pháp có thể được rút ra từ đây cũng tương tự như các quan hệ được diễn tả trong công thức đại số có thể tách biệt với những gì mà các ký hiệu toán học thực sự đại diện.
Nhiều ví dụ được thể hiện trực quan hoặc biểu thị bằng hình học. Tôi chủ ý làm vậy vì sử dụng ngôn từ có thể dẫn đến những hiểu lầm. Bởi bản thân từ ngữ là những khối thông tin trọn vẹn và cố định, quá trình lựa chọn ngôn từ đã bao gồm sự lựa chọn về góc nhìn, nghĩa là đã đi khá xa so với tình huống gốc. Khi thảo luận về quá trình tư duy, chúng ta cần phải bắt đầu từ tình huống chưa được xử lý, và cách gần nhất để có một tình huống như vậy là biểu thị trực quan. Những hình vẽ hình học là lựa chọn được yêu thích hơn vì chúng rất cụ thể và quá trình tìm ra giải pháp xử lý chúng sẽ đơn giản hơn. Ngay cả các mô tả bằng lời không bị ảnh hưởng nhiều bởi việc lựa chọn cách nhìn và ngôn ngữ vẫn có rất nhiều sắc thái ý nghĩa có thể khiến chúng ta hiểu sai. Tình huống trực quan không đưa ra bất kỳ ý nghĩa nào, nó tồn tại ở dạng đơn giản và giống nhau với tất cả mọi người, dù có thể được xử lý theo các cách khác nhau.
Khi đã hiểu các nguyên tắc phía sau những ví dụ minh họa, và thực hành đủ nhiều các phương pháp đề xuất thì chúng ta có thể giải quyết những tình huống thực tế hơn. Cách làm này giống hệt việc
https://thuviensach.vn
giải những bài toán đơn giản được soạn sẵn rồi sử dụng các phương pháp đó để giải các bài toán quan trọng hơn.
Số lượng tư liệu trong cuốn sách này rất hạn chế, chỉ là các ví dụ minh họa. Những người giảng dạy tư duy đa chiều, học viên hoặc phụ huynh cần bổ sung những tư liệu khác bên ngoài.
Những tư liệu trực quan
Bạn có thể thu thập và sử dụng những tư liệu sau:
1. Trong phần giải các bài tập sắp xếp hình bằng giấy cứng, chúng ta có thể xây dựng thêm các mô hình mới để minh họa cho cùng một nội dung. Thêm vào đó, giáo viên có thể yêu cầu học viên đưa ra những mô hình khác.
2. Những bức ảnh có thể tự chụp hoặc lấy từ tạp chí. Những tư liệu này đặc biệt hữu dụng trong phần thực hành các cách nhìn nhận và giải thích khác nhau về cùng một tình huống. Phần chú thích hình ảnh sẽ được loại bỏ. Để thuận tiện, giáo viên sẽ treo bức tranh lên một tấm bìa cứng. Nếu một cuốn tạp chí có nhiều hình ảnh hữu dụng thì có thể mua vài cuốn để sử dụng vào những lần sau.
3. Bản thân học viên có thể vẽ các bức tranh về cảnh vật hay con người. Những bức vẽ đó sẽ là tư liệu khách quan cho các học viên còn lại. Bức vẽ phác họa tả thực hay có phần trừu tượng đều không quan trọng, quan trọng là cách những người khác nhìn nhận nó.
4. Những phần yêu cầu thực hiện các kế hoạch như những bản vẽ, thường cung cấp rất nhiều tư liệu không chỉ cho nhóm học viên hiện tại mà còn để sử dụng sau này.
Tư liệu ngôn ngữ
Có thể bao gồm tư liệu viết, nói hoặc thu âm:
1. Tư liệu viết có thể lấy từ báo và tạp chí.
https://thuviensach.vn
2. Tư liệu viết có thể là bài viết của giáo viên về một chủ đề cụ thể nào đó với một quan điểm xác định (hay thậm chí là giả định).
3. Tư liệu viết có thể là một đoạn văn ngắn do học viên viết về một chủ đề cụ thể nào đó.
4. Tư liệu nói có thể lấy từ các chương trình trên đài phát thanh, bản thu âm hoặc các bài diễn thuyết.
5. Tư liệu nói có thể đến từ chính học viên khi yêu cầu họ nói về một chủ đề nhất định nào đó.
Tư liệu vấn đề
Lựa chọn những vấn đề khuyến khích tư duy thận trọng. Rất khó để tư duy về một vấn đề khi bị buộc phải làm vậy. Có nhiều loại vấn đề khác nhau:
1. Vấn đề chung của thế giới như thiếu lương thực. Đây rõ ràng là một vấn đề có đáp án mở.
2. Những vấn đề trước mắt như kiểm soát giao thông trong thành phố. Đây có thể là những vấn đề mà các học viên đã có trải nghiệm trực tiếp.
3. Những vấn đề gần gũi liên quan đến những trải nghiệm hằng ngày ở trường. Nếu giải quyết các vấn đề cá nhân thì tốt nhất nên xử lý như thể đang nói về một bên thứ ba.
4. Những vấn đề liên quan đến việc thiết kế và cải tiến. Đây là những yêu cầu cho một mục đích nhất định. Chúng thường áp dụng cho những sự vật cụ thể nhưng cũng có thể được áp dụng để tìm ra các ý tưởng (ví dụ bạn triển khai dịch vụ giữ trẻ ở siêu thị như thế nào?).
5. Vấn đề đáp án đóng. Các vấn đề này thường có một câu trả lời xác định. Có một cách giải quyết vấn đề và rất dễ để thấy nó phát huy hiệu quả. Những vấn đề này có thể mang tính đời thường (ví dụ
https://thuviensach.vn
làm sao để treo dây mắc quần áo) hoặc những vấn đề được soạn ra (ví dụ làm sao để khoét một lỗ trên tấm bưu thiếp lớn đủ để chui đầu qua đó). Các vấn đề có thể đến từ nhiều nguồn khác nhau:
– Nhìn lướt qua một tờ báo cũng có thể bắt gặp các vấn đề thế giới hay các vấn đề trước mắt nổi cộm (ví dụ biểu tình).
– Các vấn đề trong đời sống hằng ngày (ví dụ cải tiến hiệu suất dịch vụ xe lửa).
– Những vấn đề có thể đến từ gợi ý của học viên. Giáo viên có thể yêu cầu học viên đưa ra những vấn đề và lưu lại các gợi ý đó.
– Những vấn đề liên quan đến thiết kế có thể đến từ bất kỳ sự vật nào (xe hơi, bàn, ghế) và xem liệu có thể cải tiến chúng như thế nào. Những vấn đề phức tạp hơn có thể đến từ việc chọn ra những công việc thủ công và yêu cầu thiết kế một chiếc máy hay thiết bị để làm công việc đó dễ dàng hơn. Hay đơn giản là yêu cầu một cách đơn giản hơn để thực hiện công việc.
– Những vấn đề đóng hơi khó tìm lời giải. Một đáp án khó xác định khiến vấn đề trở nên thú vị nhưng trở thành hiển nhiên khi đáp án được tìm ra. Có vài vấn đề kinh điển mà bạn có thể đã biết hay được nghe kể. Tuy nhiên, một cuốn sách câu đố sẽ không cần thiết vì nhiều vấn đề liên quan đến những bài đố mẹo toán học thông thường chẳng dính dáng gì đến tư duy đa chiều. Một cách đơn giản để phát triển kỹ năng giải quyết những vấn đề đóng là chọn một công việc bình thường nào đó, sau đó đưa ra các điều kiện. Ví dụ vẽ một vòng tròn mà không dùng compa. Khi tự đặt ra các vấn đề theo cách này, người đưa ra ý tưởng sẽ tự giải quyết vấn đề trước khi đưa nó cho những người khác.
Các chủ đề
Đôi khi chúng ta chỉ muốn có một đề tài để suy nghĩ. Chúng không cần phải là những vấn đề thực, cũng không cần biểu đạt cho một quan điểm cụ thể nào. Cái chúng ta cần là một chủ đề để phát triển các ý tưởng (ví dụ như cái cốc, bảng đen, những cuốn sách, sự tiến
https://thuviensach.vn
bộ nhanh chóng, tự do, xây dựng). Loại đề tài này có thể đến từ nhiều cách.
1. Chỉ đơn giản bằng cách nhìn xung quanh, chúng ta có thể chọn ra một sự vật, sau đó mở rộng nó ra thành một chủ đề.
2. Bằng cách nhìn lướt qua một tờ báo và chọn ra một chủ đề cho từng tiêu đề.
3. Bằng cách yêu cầu học viên đưa ra chủ đề.
Những giai thoại và câu chuyện
Đây có lẽ là cách hiệu quả nhất để diễn đạt khái niệm tư duy đa chiều nhưng rất khó để sáng tác ra những câu chuyện kiểu này.
1. Từ các kho truyện dân gian và ngụ ngôn (ví dụ truyện ngụ ngôn Aesop, những câu chuyện về Mulla Nasruddin).
2. Bằng cách ghi lại các sự kiện từ những trải nghiệm của bản thân hay của người khác,...
Kho tư liệu
Việc soạn sẵn ra các tư liệu để sử dụng khi cần đến có vẻ thuận lợi hơn. Bạn có thể xây dựng kho tư liệu gồm các bài báo, bức hình, các vấn đề, câu chuyện, giai thoại, đề tài và ý tưởng do học viên đóng góp. Khi sử dụng những tư liệu này, chúng ta sẽ biết tư liệu nào đặc biệt hiệu quả và có thể dự đoán được phản ứng thích hợp trước các tư liệu. Các giai thoại, câu chuyện và vấn đề nên làm rõ tư duy đa chiều. Các chủ đề cần phải đủ trung lập, cụ thể để kích thích các ý tưởng xác định nhưng đủ rộng để cho ra những ý tưởng đa dạng, phong phú. Tranh ảnh có thể được diễn giải theo nhiều cách khác nhau: một người đàn ông cầm một hộp thịt bò muối là một tư liệu phù hợp, còn hình ảnh một lính cứu hỏa dập tắt đám cháy thì không; hình ảnh một người phụ nữ soi gương có vẻ tối nghĩa, hình ảnh một cảnh sát đang bắt một người đàn ông hay
https://thuviensach.vn
những người lính diễu hành trên đường cũng vậy. Chỉ cần bạn nghĩ ra ít nhất hai cách diễn giải là đủ.
Ngược lại, các tài liệu bằng ngôn ngữ thì càng cụ thể càng tốt. Một bài viết phải có góc nhìn xác định ngay cả khi góc nhìn đó cực đoan. Một đánh giá tổng quát sẽ không mấy hữu ích trừ khi chúng ta tìm kiếm một thông tin nền tảng nhằm xem xét một chủ đề.
Khi giải thích khái niệm tư duy đa chiều, cũng như giảng dạy những kỹ năng tư duy khác, bài giảng có thể trừu tượng nhưng cái khiến mọi thứ rõ ràng là việc thật sự tham gia. Việc tham gia vào quá trình tư duy có thể bắt đầu bằng những hình vẽ hình học trừu tượng và sau đó chuyển sang những tình huống thực tế hơn. Việc liên tục quay lại những bài tập hình học đơn giản sẽ rất hữu ích bởi bản chất của quá trình tư duy có thể trở nên rất mờ nhạt nếu chúng ta chỉ bám lấy những tình huống thực. Có một rủi ro lớn là trong khi đang nghiên cứu tình huống thật, chúng ta bắt đầu nghĩ đến việc thu thập thêm nhiều thông tin, trong khi toàn bộ ý tưởng của tư duy đa chiều là tái cấu trúc khái niệm.
Sự khác biệt của tư duy đa chiều
Tách riêng tư duy đa chiều để giảng dạy có vẻ gượng ép khi nó cũng là một phần của tư duy. Nhưng làm vậy là có lý do. Nhiều quá trình tư duy đa chiều rất mâu thuẫn với các quá trình tư duy khác. Nếu không phân biệt rõ ràng, có thể chúng ta sẽ cảm thấy tư duy đa chiều đánh giá thấp và nghi ngờ những thứ từng được dạy ở đâu đó. Bằng cách tách biệt tư duy đa chiều khỏi tư duy chiều dọc, chúng ta có thể tránh được rủi ro này và đánh giá đúng vai trò của cả hai loại tư duy. Tư duy đa chiều không tấn công tư duy chiều dọc mà là một phương pháp khiến tư duy chiều dọc hiệu quả hơn bằng cách bổ sung thêm sự sáng tạo.
Một rủi ro khác xuất phát từ việc không tách riêng tư duy đa chiều là cảm giác mơ hồ rằng chúng ta đang được dạy tư duy đa chiều cùng với những môn học khác và do đó không cần làm gì đặc biệt cho nó. Trong thực tế, thái độ này là không đúng. Mọi người dễ cảm thấy họ cần sử dụng tư duy đa chiều nhưng bản chất của tư duy đa chiều
https://thuviensach.vn
quá khác so với tư duy chiều dọc, vì thế không thể dạy cả hai loại cùng một lúc. Chỉ giới thiệu sơ qua về tư duy đa chiều là không đủ. Cần phải phát triển kỹ năng để sử dụng tư duy đa chiều hiệu quả chứ không chỉ biết về sự tồn tại của nó.
Cách sắp xếp nội dung trong các chương mục của cuốn sách này: Mỗi chương đều được chia làm hai phần:
1. Nội dung căn bản, lý thuyết và đặc tính của quá trình được thảo luận trong phần đó.
2. Bài tập thực hành.
https://thuviensach.vn
Cách thức vận hành của tâm trí
S
ự cần thiết của tư duy đa chiều xuất phát từ cách thức vận hành của tâm trí. Dù tâm trí là hệ thống xử lý thông tin rất hiệu quả nhưng nó vẫn có một số hạn chế đặc trưng nhất định. Những hạn chế này không tách rời khỏi các lợi thế của hệ thống vì cả hai đều xuất phát trực tiếp từ bản chất của hệ thống. Sẽ không thể có được những lợi thế nếu không có những bất lợi. Tư duy đa chiều luôn nỗ lực bù đắp những bất lợi mà vẫn giữ lại các lợi thế.
Giao tiếp mã hóa
Giao tiếp là quá trình truyền tải thông tin. Nếu muốn ai đó làm việc gì, bạn có thể hướng dẫn cụ thể, chính xác những gì cần làm. Làm như vậy sẽ chuẩn xác nhưng sẽ mất thời gian. Sẽ dễ hơn nhiều nếu bạn chỉ đơn giản nói rằng: “Hãy thực hiện kế hoạch số 4.” Câu nói đó có thể thay thế nhiều trang hướng dẫn.
Trong quân đội, các mô hình hành vi phức tạp được mã hóa theo cách này để khi nhắc đến một mã số cụ thể là có thể gọi ra toàn bộ mô hình hành vi cần được thực hiện. Tương tự với máy vi tính: những chương trình được sử dụng nhiều nhất được lưu lại dưới một tiêu đề cụ thể và khi cần dùng, chúng ta chỉ cần tìm đúng tiêu đề đó. Khi vào thư viện mượn sách, bạn có thể mô tả chi tiết cuốn sách mình muốn bằng tên tác giả, tên sách, lời tựa, chủ đề, mô tả tổng quát,… nhưng thay vào đó, tất cả những gì bạn cần làm là cho biết mã số của cuốn sách đó.
Giao tiếp mã số chỉ có thể thực hiện nếu có những mô hình định sẵn. Những mô hình có thể rất phức tạp này được xây dựng từ trước và quy định sẵn dưới những mã tiêu đề. Thay vì truyền tải tất cả thông tin được yêu cầu thì bạn chỉ cần truyền tải mã tiêu đề. Mã tiêu đề đó vận hành như một từ ngữ kích hoạt để nhận diện và gọi
https://thuviensach.vn
ra mô hình mong muốn. Từ kích hoạt có thể là một mã tiêu đề thực ví dụ như tên phim hoặc một phần thông tin cũng có thể được dùng để truy xuất phần thông tin còn lại. Ví dụ, một người không nhớ tên phim có thể nói: “Bạn có nhớ bộ phim có Julie Andrews trong vai cô gái chăm sóc một đám trẻ ở Áo không?”, người kia sẽ giúp bạn nhớ ra tên của bộ phim đó một cách dễ dàng.
Bản thân ngôn ngữ chính là một hệ thống mã hóa dễ thấy nhất với từ ngữ là những kích hoạt tố. Hệ thống mã hóa có lợi thế rất lớn. Nó giúp chúng ta dễ dàng truyền tải rất nhiều thông tin một cách nhanh chóng mà không tốn nhiều công sức. Nó giúp chúng ta phản ứng đúng đắn trước một tình huống khi tình huống đó được nhận diện bằng hệ thống mã hóa mà không cần nghiền ngẫm những chi tiết của nó. Nó giúp chúng ta phản ứng đúng đắn trước một tình huống ngay cả khi tình huống đó chưa được phát triển đầy đủ, bằng cách xác định tình huống dựa vào những biểu hiện ban đầu.
Giao tiếp thường được cho là một quá trình hai chiều: một người gửi đi một thông điệp và một người khác cố gắng hiểu nó. Trật tự sắp xếp có chủ ý các lá cờ trên một chiếc thuyền là một hệ thống
mã hóa, ai từng biết đều hiểu được ý nghĩa của nó. Nhưng một người biết hệ thống mã hóa cũng có thể giải mã sai trong trường hợp lá cờ được sắp xếp ngẫu nhiên để trang trí cho một bữa tiệc hay trang trí ở cây xăng.
Giao tiếp có thể là một quá trình một chiều. Cách nhìn về môi trường là một ví dụ của giao tiếp một chiều. Mỗi người có thể nhặt ra những thông điệp từ môi trường dù chẳng ai chủ ý sắp đặt nó.
Nếu bạn đưa những dòng kẻ được sắp xếp ngẫu nhiên cho một nhóm người, họ sẽ nhanh chóng cố gắng tìm ra những mô hình đáng chú ý nhất. Họ tin rằng có các mô hình được sắp đặt một cách có chủ ý, không tồn tại những mô hình ngẫu nhiên hay đặc biệt. Những học viên được yêu cầu làm một hành động nhất định mỗi khi chuông reo vào những khoảng thời gian nhất định nhanh chóng tin rằng có một ý nghĩa nào đó trong tiếng chuông reo.
https://thuviensach.vn
Giao tiếp bằng mã hóa hay bằng những mô hình định sẵn đòi hỏi phải có một danh mục mô hình, tương tự việc bạn chỉ có thể sử dụng mã số danh mục sách trong thư viện nếu ai đó đã xây dựng danh mục sẵn. Như đã gợi ý ở trên, không phải lúc nào cũng cần mã số cho từng mô hình. Một phần nào đó của mô hình có thể đại diện cho cả mô hình đó. Nếu bạn nhận ra một người đàn ông khi nghe tên John Smith, đó là bạn đang sử dụng mã tiêu đề, nhưng nếu bạn nhận ra người đàn ông tại buổi tiệc khi nghe thấy giọng nói của ông ta thì bạn đang sử dụng một phần của mô hình. Phía dưới là hai mô hình quen thuộc, mỗi mô hình đều bị che mất một phần nhưng không khó để đoán ra toàn bộ mô hình từ những phần không bị che.
1
Tâm trí là một hệ thống xây dựng mô hình
Tâm trí là một hệ thống xây dựng mô hình. Hệ thống thông tin của tâm trí hoạt động để tạo ra những mô hình và nhận diện chúng. Hoạt động này dựa trên việc sắp xếp chức năng của các tế bào thần kinh trong não bộ.
Tính hiệu quả của tâm trí trong giao tiếp một chiều với môi trường xuất phát từ năng lực xây dựng các mô hình, lưu trữ và nhận diện chúng. Có thể tồn tại một số ít các mô hình được xây dựng trong tâm trí và chúng trở thành những hành vi bản năng nhưng những kiểu mô hình bản năng này không mấy quan trọng với con người khi so với những động vật bậc thấp hơn. Tâm trí có thể cũng chấp nhận những mô hình sẵn có mà nó nhận được. Nhưng năng lực quan trọng nhất của hệ thống là khả năng tạo ra mô hình riêng. Cách tâm trí xây dựng các mô hình sẽ được mô tả cụ thể ở những phần sau.
Một hệ thống có khả năng tạo ra những mô hình và nhận diện chúng sẽ có khả năng giao tiếp hiệu quả với môi trường. Mô hình đúng hay sai không quan trọng, miễn sao chúng được định hình rõ ràng. Vì những mô hình đều do tâm trí con người xây dựng nên, nên trách nhiệm của tâm trí là mắc sai lầm. Một khi các mô hình đã hình thành, cơ chế hữu dụng (nỗi sợ, cái đói, sự khát, nhu cầu tình
https://thuviensach.vn
dục,…) sẽ lựa chọn và giữ lại những mô hình có ích cho sự tồn tại. Nhưng đầu tiên các mô hình cần phải được hình thành. Cơ chế chọn lựa chỉ chọn lọc các mô hình chứ không tạo ra hay thay đổi chúng.
Hệ thống tự tổ chức
Chúng ta có thể hình dung ra hình ảnh một thư ký tích cực vận hành một hệ thống văn thư, một thủ thư tích cực lên danh mục sách, một máy vi tính tích cực sắp xếp thông tin. Tuy nhiên, tâm trí không tích cực sắp xếp thông tin. Thông tin tự phân loại và sắp xếp vào những mô hình. Tâm trí thụ động, nó chỉ xây dựng một môi trường để tạo cơ hội cho thông tin tự tổ chức. Môi trường đặc biệt này là một bề mặt ký ức với các đặc tính đặc biệt.
Một ký ức là một sự kiện đã xảy ra và chưa hoàn toàn bị xóa nhòa mà vẫn còn lại những dấu vết. Những dấu vết này có thể tồn tại một thời gian dài hoặc chỉ trong thời gian ngắn. Thông tin khi đi vào não bộ sẽ để lại dấu vết là sự biến đổi trong trạng thái của các tế bào thần kinh, cái hình thành nên bề mặt ký ức.
Khung cảnh sau đây cũng giống như một bề mặt ký ức. Những rãnh nước trên mặt đất là những dấu vết ký ức tích tụ sau những cơn mưa. Trận mưa hình thành những con lạch nhỏ, chúng kết hợp thành những con suối và sau đó thành những dòng sông. Một khi các rãnh nước đã hình thành, chúng sẽ trở nên vô cùng bền vững vì mưa sẽ tiếp tục chảy vào các rãnh này và khiến chúng ngày càng sâu hơn. Những cơn mưa thực hiện công việc điêu khắc nhưng chính phản ứng của bề mặt đã định hình cách thức điêu khắc của cơn mưa.
Với ví dụ trên, những đặc tính vật lý của bề mặt có ảnh hưởng rất lớn đến cách cơn mưa tác động lên bề mặt. Bản chất của bề mặt sẽ quyết định hình dạng của dòng sông. Sự nhấp nhô của đá sẽ quyết định hướng chảy của dòng sông.
Thay vì sử dụng ví dụ về cảnh quan thiên nhiên, hãy thử lấy ví dụ về một kiểu bề mặt phẳng như một đĩa thạch trái cây chẳng hạn.
https://thuviensach.vn
Nếu lấy nước nóng đổ lên bề mặt thạch, nước sẽ làm thạch trái cây tan ra một chút. Sau khi đổ hết nước đi, trên bề mặt đĩa thạch sẽ để lại một khoảng lõm. Nếu đổ một muỗng đầy nước khác vào gần chỗ lõm này, nước sẽ đổ dồn về đó và có khuynh hướng làm vết lõm
sâu hơn, đồng thời không để lại dấu vết riêng rõ ràng. Nếu liên tục đổ những muỗng nước nóng vào đĩa thạch (đổ nước vào ngay sau khi bề mặt nguội), bề mặt của đĩa thạch sẽ trở nên lồi lõm và đầy những dãy nhấp nhô. Bề mặt phẳng của đĩa thạch trái cây đóng vai một bề mặt ký ức cho những muỗng nước nóng tự sắp xếp chúng vào một mô hình. Những đường rãnh của bề mặt được tạo bởi nước nóng nhưng khi đã hình thành, chúng sẽ tự định hướng dòng chảy. Mô hình cuối cùng phụ thuộc vào vị trí đổ những muỗng nước và trình tự đổ nước. Điều này tương tự như bản chất tự nhiên của thông tin đầu vào và trật tự xuất hiện của thông tin. Thạch trái cây đã tạo ra môi trường cho quá trình tự sắp xếp thông tin vào những mô hình.
Quãng chú ý hạn chế
Đặc trưng căn bản của một hệ thống ký ức tự sắp xếp thụ động là quãng chú ý hạn chế. Đó là lý do tại sao mỗi lần chỉ có thể đổ duy nhất một muỗng nước lên bề mặt thạch trái cây. Quãng chú ý hạn chế chỉ cho phép một phần bề mặt ký ức có thể được kích hoạt vào
một thời điểm. Phần nào sẽ được kích hoạt phụ thuộc vào cái gì xuất hiện trên bề mặt ký ức vào lúc đó, trước đó và trạng thái của bề mặt.
Quãng chú ý hạn chế cực kỳ quan trọng vì nó có nghĩa rằng một vùng được kích hoạt sẽ là khu vực cố kết duy nhất và khu vực này sẽ xuất hiện ở phần dễ dàng được kích hoạt nhất trên bề mặt ký ức. (Trong mô hình thạch trái cây, đó là vùng lõm sâu nhất.) Vùng hay mô hình dễ kích hoạt nhất là vùng quen thuộc nhất, vùng thường xuyên được dùng nhất hay vùng có dấu vết sâu nhất trên bề mặt ký ức. Một mô hình quen thuộc thường xuyên được sử dụng sẽ càng trở nên quen thuộc hơn. Bằng cách này tâm trí xây dựng một kho các mô hình định sẵn, cái đóng vai trò nền tảng cho giao tiếp mã hóa.
https://thuviensach.vn
Với quãng chú ý hạn chế, bề mặt ký ức bị động tự tổ chức cũng trở nên tối đa hóa. Nghĩa là những quá trình chọn lọc, kết hợp, phân tách đều có khả năng xảy ra. Tất cả những quá trình này kết hợp lại sẽ trao cho tâm trí một năng lực tính toán đầy sức mạnh.
Trật tự xuất hiện của thông tin
Hãy xem cách sắp xếp các miếng ghép thành một khối ở phía dưới. Đưa cho một người hai miếng nhựa mỏng và yêu cầu người đó sắp thành một hình dạng có thể mô tả dễ dàng. Hai miếng nhựa đó thường được sắp thành hình vuông. Sau đó thêm vào một miếng khác với cùng yêu cầu như trước đây. Lúc này đơn giản chỉ là ghép thêm vào hình vuông để thành hình chữ nhật. Bây giờ thêm hai miếng nữa. Chúng được kết hợp tạo thành một miếng hình chữ nhật nằm ngang, sau đó ghép vào hình chữ nhật ban nãy để tạo thành một hình vuông mới.
2
Sau cùng lại thêm một miếng khác nhưng không thể ăn khớp với các miếng nhựa đang có nữa. Mặc dù tất cả các bước trên đều đúng nhưng tới bước này thì không thực hiện tiếp được vì miếng xếp mới không phù hợp với hình đang có. Có một cách sắp xếp khác sẽ được chỉ ra dưới đây.
3
Với cách sắp xếp mới này, chúng ta có thể xếp được tất cả các miếng ghép thành một hình dạng có thể gọi tên, kể cả miếng ghép cuối cùng. Nhưng cách này không được thử nhiều như phương pháp đầu vì hình vuông thường dễ hình dung hơn rất nhiều so với hình thoi.
Nếu bắt đầu với hình vuông, chúng ta sẽ phải quay ngược lại để sắp xếp các miếng nhựa thành một hình thoi trước khi có thể đi tiếp. Vì thế, ngay cả khi đã đúng tất cả các bước, chúng ta vẫn phải tái cấu trúc tình huống để có thể đi tiếp.
https://thuviensach.vn
Những miếng nhựa này minh họa cái diễn ra bên trong hệ thống tự tối đa hóa. Trong một hệ thống như vậy, thông tin sẵn có ở bất kỳ thời điểm nào luôn được sắp xếp theo cách tốt nhất (cách ổn định nhất về mặt sinh lý học). Khi có thêm thông tin mới, chúng sẽ được ráp vào mô hình thông tin hiện hữu như cách các miếng nhựa được xếp vào. Nhưng sắp xếp thông tin hợp lý ở nhiều giai đoạn không có nghĩa là có thể tiếp tục đi từ đó. Sẽ đến lúc một người không thể đi tiếp nếu không tái cấu trúc mô hình. Nghĩa là phải phá vỡ mô hình cũ đã rất hữu ích trước đó và sắp xếp các thông tin cũ theo cách mới.
Đòi hỏi tất cả các bước đều phải hợp lý, hệ thống tự tối đa hóa cho rằng trật tự xuất hiện của thông tin quyết định cách thức những thông tin này được sắp xếp. Vì lý do này, việc sắp xếp thông tin luôn ít hiệu quả hơn cái tốt nhất khả dĩ vì việc sắp xếp tốt nhất khả dĩ sẽ khá độc lập với trật tự xuất hiện của thông tin.
4
Trong tâm trí – hệ thống ký ức tích lũy, việc sắp xếp các thông tin như các khái niệm hay ý tưởng có xu hướng tận dụng không hết những thông tin sẵn có. Điều này được thể hiện trong biểu đồ trên: mức độ sử dụng thông tin thông thường nằm rất thấp so với mức tối đa trên lý thuyết. Chính nhờ việc tái cấu trúc cách nhìn, chúng ta có thể đạt được mức độ sử dụng thông tin tối đa.
Sự hài hước và cách nhìn
Như trong ví dụ về cách sắp xếp các mảnh ghép phía trên, sẽ luôn có một phương án lựa chọn cách sắp xếp thông tin khác. Nghĩa là luôn có khả năng chuyển sang một cách sắp xếp khác nhưng sự chuyển đổi này thường xảy ra đột ngột. Nếu sự chuyển đổi chỉ mang tính tạm thời, nó tạo ra sự hài hước. Nếu sự chuyển đổi trở nên bền vững, nó trở thành một cách nhìn. Điều thú vị là phản ứng trước một giải pháp thay đổi cách nhìn thường là một tràng cười, ngay cả khi bản thân giải pháp đó không có gì buồn cười.
https://thuviensach.vn
Một người đàn ông nhảy từ mái của một tòa nhà chọc trời, khi rơi đến tầng ba, mọi người nghe anh này thì thầm: “Tới giờ vẫn ổn.”
Ông Churchill ngồi ăn tối bên cạnh quý bà Astor. Bà Astor quay sang nói với ông rằng: “Ông Churchill, nếu tôi lấy ông, tôi sẽ bỏ độc vào ly cà phê của ông.” Ông Churchill đáp lại rằng: “Thưa quý bà, nếu tôi lấy bà, tôi sẽ uống ly cà phê đó.”
Một cảnh sát đi trên đường và kéo theo một đoạn dây thừng. Bạn có biết tại sao anh ấy kéo đoạn dây thừng không? Bạn đã bao giờ thử đẩy một đoạn dây thừng chưa?
Trong mỗi tình huống trên, cách sắp xếp thông tin hình thành một kỳ vọng. Sau đó kỳ vọng này bất ngờ bị phá vỡ bởi thông tin khác thêm vào nhưng đồng thời chúng ta cũng nhận ra rằng hướng phát triển bất ngờ là một cách sắp xếp thông tin khác.
Sự hài hước và cách nhìn là đặc điểm của kiểu hệ thống xử lý thông tin này. Cả hai quá trình đều khó được thực hiện một cách chủ tâm.
Những bất lợi của hệ thống
Những lợi thế của hệ thống thông tin mô hình định sẵn đã được đề cập. Về cơ bản, những lợi thế của nó là giúp nhận diện và phản ứng nhanh chóng. Vì có thể nhận ra cái đang tìm kiếm, chúng ta có thể khám phá môi trường xung quanh một cách hiệu quả. Tuy nhiên hệ thống này cũng có những bất lợi. Có thể liệt kê vài bất lợi như sau:
1. Những mô hình sẽ ngày càng bền vững một cách cứng nhắc vì chúng kiểm soát sự chú ý.
2. Rất khó thay đổi các mô hình sau khi chúng đã được xác lập.
3. Thông tin đã được sử dụng như một phần của mô hình này sẽ rất khó được sử dụng vào một mô hình hoàn toàn khác biệt khác.
4. Có một xu hướng “tiến về trung tâm” nghĩa là bất cứ thứ gì tương đồng với mô hình tiêu chuẩn sẽ được nhìn nhận là mô hình tiêu
https://thuviensach.vn
chuẩn.
5. Những mô hình được tạo ra từ hoạt động phân tách ít nhiều mang tính chủ quan. Những mô hình tiếp diễn có thể được phân tách thành những đơn vị riêng biệt và tự phát triển thêm. Một khi những đơn vị này hình hành, nó sẽ tự phát triển. Quá trình phân tách có thể tiếp tục diễn ra rất lâu sau khi nó không còn hữu dụng hoặc quá trình này có thể xâm phạm những vùng nó không mang lại sự hữu ích.
Trong hình phía dưới bên trái, nếu theo thói quen chia hình vuông như ở hình A, sẽ khó sử dụng cách chia ở hình B.
5
6. Hệ thống có tính liên tục cao. Một đổi hướng nhỏ có thể tạo ra khác biệt lớn về sau.
7. Sự xuất hiện liên tục các thông tin có ảnh hưởng rất lớn tới cách sắp xếp. Một vài cách sắp xếp thông tin chưa chắc đã khả dĩ nhất để có thể sử dụng.
8. Hệ thống này có khuynh hướng chuyển đổi đột ngột từ mô hình này sang mô hình khác thay vì thay đổi một cách uyển chuyển. Nó giống như mực nước trong hai bình ở hai vị trí khác nhau như hình
vẽ bên phải phía trên. Sự thay đổi đột ngột diễn ra khi một người chuyển từ một mô hình ổn định này sang một mô hình khác.
9. Ngay cả khi lựa chọn một trong hai mô hình có tính đối kháng, rất có thể một mô hình tốt sẽ được chọn và cái còn lại bị bỏ qua hoàn toàn.
10. Có một khuynh hướng được gọi là phân cực. Nghĩa là chuyển động đến điểm cực thay vì dao động quanh điểm cân bằng.
11. Những mô hình xác lập ngày càng lớn hơn. Nghĩa là các mô hình đơn sẽ liên kết với nhau tạo thành một chuỗi ngày càng dài.
https://thuviensach.vn
Chuỗi này có tính thống trị đến nỗi nó hình thành nên một mô hình. Không có yếu tố nào trong hệ thống phá vỡ chuỗi mô hình này.
12. Tâm trí là một hệ thống xây dựng và sử dụng các mô hình thông thường.
Mục tiêu của tư duy đa chiều là khắc phục các hạn chế này thông qua tái cấu trúc, để thoát khỏi những mô hình thông thường, để kết hợp thông tin theo những cách mới nhằm tạo ra ý tưởng mới. Để làm được việc đó, tư duy đa chiều tận dụng các đặc điểm của hệ thống này. Ví dụ, sử dụng kích thích ngẫu nhiên chỉ hiệu quả trong hệ thống tự tối đa hóa. Đồng thời quá trình phá vỡ và kích thích chỉ có thể được sử dụng nếu thông tin khi đó được kết hợp lại với nhau để tạo một mô hình mới.
Tổng kết
Tâm trí xử lý thông tin theo một cách rất đặc biệt. Cách này rất hiệu quả và có nhiều lợi ích thực tiễn nhưng vẫn có những hạn chế. Cụ thể, tâm trí rất giỏi trong việc xây dựng những mô hình khái niệm nhưng không giỏi tái cấu trúc để cập nhật chúng. Chính vì những hạn chế này nên chúng ta mới cần tư duy đa chiều.
https://thuviensach.vn
Sự khác biệt giữa tư duy đa chiều và tư duy chiều dọc
V
ì hầu hết mọi người đều tin rằng tư duy chiều dọc truyền thống là lối suy nghĩ hiệu quả duy nhất, nên việc chỉ ra sự khác biệt của bản chất tư duy đa chiều so với tư duy chiều dọc là cần thiết. Một vài điểm khác biệt dễ nhận thấy nhất được trình bày dưới đây. Vì chúng ta đã quá quen với việc sử dụng tư duy chiều dọc nên một vài điểm khác nhau dưới đây có thể khiến chúng ta cảm thấy bị động chạm. Trong một số trường hợp, dường như sự mâu thuẫn chẳng nhằm giải quyết vấn đề gì. Tuy nhiên, trong bối cảnh hành vi hệ thống ký ức tự tối đa hóa, tư duy đa chiều không chỉ hợp lý mà còn rất cần thiết.
Tư duy chiều dọc chọn lọc, tư duy đa chiều phát triển.
Tư duy chiều dọc chú trọng sự đúng đắn. Tư duy đa chiều chú trọng sự đa dạng. Tư duy chiều dọc lựa chọn một con đường bằng cách loại bỏ những con đường khác. Tư duy đa chiều thì không lựa chọn mà tìm cách mở ra những con đường khác nhau. Với tư duy chiều dọc, chúng ta có thể tìm ra cách thức tiếp cận hứa hẹn nhất để giải quyết vấn đề và cách nhìn tình huống tốt nhất. Với tư duy đa chiều, chúng ta phát triển nhiều cách tiếp cận nhất có thể. Với tư duy chiều dọc, ta tìm kiếm nhiều cách tiếp cận khác nhau cho đến khi tìm ra một cách tiếp cận hứa hẹn. Với tư duy đa chiều, ta tiếp tục phát triển nhiều cách tiếp cận nhất có thể thậm chí ngay sau khi đã tìm ra một cách tiếp cận hứa hẹn. Với tư duy chiều dọc, chúng ta cố gắng chọn ra cách tiếp cận tốt nhất, còn với tư duy đa chiều, ta tạo ra nhiều lựa chọn nhất có thể mà chẳng có mục đích gì.
6
https://thuviensach.vn
Tư duy chiều dọc sẽ chỉ di chuyển khi có một hướng đi còn tư duy đa chiều thì di chuyển để tạo ra hướng đi.
Với tư duy chiều dọc, chúng ta di chuyển theo hướng đi xác định rõ phương pháp giải quyết vấn đề. Ta sử dụng một vài cách tiếp cận hay kỹ thuật xác định nào đó. Với tư duy đa chiều, chúng ta di chuyển không có định hướng gì.
Ta không cần phải đi đến cái gì đó mà sẽ di chuyển ra khỏi cái gì đó. Sự hoạt động hay thay đổi mới quan trọng. Với tư duy đa chiều, ta không di chuyển theo một hướng đi mà tạo ra những hướng đi. Với tư duy chiều dọc, ta phải thiết kế một thí nghiệm để chứng minh một vài hiệu ứng. Với tư duy đa chiều, ta thiết kế một thí nghiệm để tạo ra cơ hội thay đổi suy nghĩ của bản thân. Tư duy chiều dọc luôn là di chuyển một cách có ích theo một hướng nào đó. Với tư duy đa chiều, ta sẽ thử theo nhiều hướng mà không có mục đích hay định hướng nào. Ta thử xung quanh các thí nghiệm, mô hình, chú thích và ý tưởng.
Sự di chuyển và thay đổi của tư duy đa chiều không phải là kết quả mà kết quả chính là cách nó dẫn đến hành động tái lập mô hình. Một khi có sự hoạt động và thay đổi thì các đặc điểm tối đa hóa của tâm trí sẽ tìm kiếm những kết quả hữu ích từ đó. Tư duy chiều dọc nói rằng: “Tôi biết tôi đang tìm kiếm cái gì.” Tư duy đa chiều thì nói: “Tôi cũng tìm kiếm nhưng tôi không xác định rõ nó là gì cho tới khi tìm thấy.”
Tư duy chiều dọc mang tính phân tích, tư duy đa chiều mang tính khơi gợi.
Hãy xem xét ba thái độ khác nhau của một sinh viên trước kết luận: “Ulysses là một kẻ đạo đức giả.”
1. “Bạn sai, Ulysses không phải là kẻ đạo đức giả.”
2. “Thật là thú vị, vì sao bạn có kết luận như vậy?”
3. “Vậy thì sao? Bạn sẽ làm gì với kết luận đó?”
https://thuviensach.vn
Để có thể sử dụng các phẩm chất khơi gợi của tư duy đa chiều, chúng ta phải có khả năng làm tăng hiệu quả của những phẩm chất có tính chọn lọc của tư duy chiều dọc.
Tư duy chiều dọc tuần tự, tư duy đa chiều có thể nhảy bước.
Với tư duy chiều dọc, chúng ta di chuyển từng bước một, bước sau phát triển từ bước trước và đó là một dạng liên kết bền vững. Khi đã đi đến kết luận, tính đúng đắn của kết luận được chứng minh bởi tính đúng đắn của từng bước đi.
Với tư duy đa chiều, các bước không tuần tự. Chúng ta có thể nhảy tới một điểm mới và lấp đầy khoảng trống sau. Trong biểu đồ bên dưới, bạn có thể thấy, đối với tư duy chiều dọc, ta sẽ lần lượt qua các bước từ A đến B, đến C rồi D. Trong khi với tư duy đa chiều, ta có thể đến điểm D từ điểm G sau đó quay lại điểm A.
7
Khi đi đến ngay kết luận thì tất nhiên tính đúng đắn của nó không phụ thuộc vào tính đúng đắn của quá trình dẫn đến kết luận đó. Tuy nhiên, kết quả thu được vẫn có thể đúng mà không cần phụ thuộc vào tiến trình đạt được chúng. Ví dụ như với phép thử sai, một lần thử thành công sẽ vẫn thành công dù chẳng có lý do chính đáng nào để thử giải pháp đó. Điều này cũng tương tự như khi một người đã đi đến một điểm, người đó có thể xây dựng một con đường đúng đắn và hợp lý nhất để trở về điểm xuất phát. Một khi con đường đó được xây xong thì việc nó dẫn đến kết luận gì cũng không còn quan trọng nhưng có thể nó đã được xây dựng từ một kết luận sai. Đôi khi cần phải đứng ở đỉnh núi để tìm ra con đường tốt nhất leo lên đó.
Tư duy chiều dọc đòi hỏi ta phải đúng ở từng bước, tư duy đa chiều không cần như vậy.
Bản chất cốt lõi của tư duy chiều dọc là phải đúng ở từng bước tư duy. Tư duy logic và toán học sẽ không hoạt động nếu không có cơ sở căn bản này. Trong tư duy đa chiều, ta không cần phải đúng ở tất
https://thuviensach.vn
cả các bước để rút ra một kết luận đúng. Nó giống như xây cầu. Các nhịp của cây cầu không nhất thiết phải có tính chịu lực nhưng khi nhịp nối cuối cùng được lắp vào thì cả cây cầu có thể tự chịu lực được.
7.tif
Với tư duy chiều dọc, một người sử dụng thái độ tiêu cực để ngăn cản vài con đường nhất định. Với tư duy đa chiều, không tồn tại thái độ tiêu cực.
Đôi khi, một người cần phải sai để cuối cùng đúng. Hiện tượng này có thể xảy ra khi một người bị xem là sai theo khung tham chiếu hiện tại và sau đó được coi là đúng khi khung tham chiếu đó thay đổi. Thậm chí ngay cả khi khung tham chiếu không thay đổi thì việc bước ra khỏi vùng sai lầm này để đến một vị trí có thể nhìn thấy con đường đúng đắn vẫn là điều cần thiết. Tình huống này được minh họa bằng hình dưới đây. Con đường cuối cùng không đi qua vùng sai lầm nhưng, bằng cách đi qua vùng này, một người có thể dễ dàng tìm ra con đường đúng.
8
Với tư duy chiều dọc, chúng ta tập trung và loại bỏ những gì không xác đáng, với tư duy đa chiều, chúng ta luôn chào đón những cơ hội ngẫu nhiên.
Tư duy chiều dọc lựa chọn bằng cách loại bỏ. Một người sẽ hành động trong một khung tham chiếu và bỏ đi tất cả những gì không xác đáng. Với tư duy đa chiều, chúng ta nhận ra rằng một mô hình không thể được tái cấu trúc từ bên trong mà chỉ là kết quả của những ảnh hưởng bên ngoài. Vì vậy, người đó sẽ đón nhận các ảnh hưởng từ bên ngoài để khơi gợi các ý tưởng mới. Các ảnh hưởng đó càng thiếu xác đáng thì cơ hội có mô hình mới thay thế mô hình đã xác lập càng cao. Chỉ tìm kiếm những gì xác đáng nghĩa là đang nuôi dưỡng mô hình hiện tại.
https://thuviensach.vn
Với tư duy chiều dọc, các phân mục, phân loại và nhãn dán là cố định, còn tư duy đa chiều thì không phải vậy.
Với tư duy chiều dọc, các phân mục, phân loại và nhãn dán chỉ hữu ích nếu chúng nhất quán, vì tư duy chiều dọc phụ thuộc vào việc nhận diện thứ gì đó như là một thành viên của nhóm hay loại bỏ nó ra khỏi nhóm. Nếu thứ gì đó mang một nhãn dán hay được xếp vào một nhóm thì nó nên nằm im ở đó. Với tư duy đa chiều, các nhãn dán có thể thay đổi vì một sự vật có thể được nhìn nhận theo nhiều cách khác trong những khoảng thời gian khác nhau. Những phân loại và phân mục không phải là các hộc tủ cố định để hỗ trợ việc nhận diện mà là những biển chỉ đường hỗ trợ việc di chuyển. Với tư duy đa chiều, các nhãn dán không cố định mãi mãi mà được sử dụng cho sự tiện lợi nhất thời.
9
Tư duy chiều dọc phụ thuộc rất lớn vào sự cứng nhắc của các định nghĩa, tương tự như toán học phụ thuộc vào ý nghĩa không thể thay đổi của một ký hiệu đã được ấn định ý nghĩa. Tương tự như việc thay đổi ý nghĩa đột ngột là cơ sở của sự hài hước, tính linh hoạt của ý nghĩa hữu ích cho việc kích thích tư duy đa chiều.
Tư duy chiều dọc đi theo những con đường khả dĩ nhất, tư duy đa chiều khám phá những con đường ít khả dĩ nhất.
Tư duy đa chiều có thể rất ngang ngược. Với tư duy đa chiều, một người cố gắng tìm kiếm các cách tiếp cận ít rõ ràng nhất. Chính thái độ sẵn lòng khám phá những con đường ít khả dĩ nhất là điều quan trọng vì thường sẽ chẳng có lý do gì để tìm kiếm những con đường như vậy. Khi mới bước vào con đường đó, sẽ chẳng có chỉ báo nào cho thấy có gì đó giá trị đáng để khám phá nhưng nó vẫn có thể dẫn đến những kết quả hữu ích. Với tư duy chiều dọc, một người bước trên con đường rộng mở nhất hướng về cái đích đúng.
Tư duy chiều dọc là một quá trình xác định, tư duy đa chiều là một quá trình mang tính xác suất.
https://thuviensach.vn
Với tư duy chiều dọc, chúng ta kỳ vọng tìm ra đáp án. Nếu sử dụng một kỹ thuật giải toán, chắc chắn sẽ tìm được đáp án. Còn tư duy đa chiều có thể không có đáp án xác định nào. Tư duy đa chiều gia tăng cơ hội tái cấu trúc các mô hình để tìm ra một giải pháp sáng suốt nhưng cũng có thể không đạt được kết quả gì. Tư duy chiều dọc hứa hẹn ít nhất một giải pháp. Tư duy đa chiều gia tăng khả năng có một giải pháp tối ưu nhưng không hứa chắc điều gì.
Nếu có vài quả bóng đen trong rổ mà chỉ có một quả bóng trắng, cơ hội lấy được quả bóng trắng sẽ thấp. Nếu bạn bỏ thêm bóng trắng vào thì cơ hội lấy được bóng trắng sẽ tăng lên nhưng bạn không bao giờ dám chắc rằng mình lấy được quả bóng trắng. Tư duy đa chiều gia tăng cơ hội tái cấu trúc cách nhìn và một người càng giỏi tư duy đa chiều thì cơ hội tìm được giải pháp tối ưu càng cao. Tư duy đa chiều là một quy trình mang tính xác định để bỏ thêm nhiều quả bóng trắng vào rổ nhưng kết quả đạt được vẫn mang tính xác suất. Tuy nhiên, phần thưởng đến từ một ý tưởng mới hay một quá trình tái cấu trúc cách nhìn từ một ý tưởng cũ đủ lớn để bạn thấy việc thử tư duy đa chiều rất xứng đáng trong khi bạn chẳng mất mát gì. Trong khi tư duy chiều dọc chẳng giúp nảy sinh ý tưởng gì, chúng ta nên thử sử dụng tư duy đa chiều, dù rằng cơ hội thành công thấp.
Tổng kết
Sự khác biệt giữa tư duy đa chiều và tư duy chiều dọc rất rõ ràng và các quá trình thực hiện hai loại tư duy này cũng rất khác nhau. Vấn đề không phải là quá trình nào hiệu quả hơn mà là nhận ra những khác biệt để sử dụng hiệu quả cả hai phương pháp vì cả hai đều quan trọng.
Tư duy chiều dọc sử dụng thông tin để tìm ra giải pháp.
Tư duy đa chiều sử dụng thông tin không phải để tìm ra giải pháp mà để khơi gợi và tái lập các mô hình.
https://thuviensach.vn
Thái độ đối với tư duy đa chiều
V
ì tư duy đa chiều rất khác tư duy chiều dọc nên nhiều người cảm thấy không thoải mái. Họ thích xem tư duy đa chiều như một phần của tư duy chiều dọc hoặc xem nó không tồn tại. Một vài thái độ thường thấy về tư duy đa chiều như sau:
Mặc dù chúng ta đánh giá cao hiệu quả của giải pháp thay đổi cách nhìn và giá trị của các ý tưởng mới nhưng vẫn không có một cách thức cụ thể nào để tạo ra tư duy đa chiều. Chúng ta chỉ có thể chờ đợi và nhận ra sau khi nó đã xảy ra.
Thái độ tiêu cực này không cân nhắc đến cơ chế ưu việt của tâm trí và cũng không quan tâm đến những thông tin bị giam cầm trong các mô hình thông thường. Cách nhìn được hình thành bởi những thay
đổi trong chuỗi mô hình tạo ra bởi các hành động kích thích, và tư duy đa chiều mang đến kích thích đó. Những thông tin bị giam cầm trong các mô hình cũ thông thường có thể kết hợp lại theo một cách mới, khi mô hình bị phá vỡ. Tư duy đa chiều giải phóng thông tin bằng cách thách thức những mô hình thông thường. Xem cách nhìn và sự đổi mới là yếu tố may rủi sẽ không lý giải được vì sao nhiều người có khả năng liên tục cho ra các ý tưởng mới hơn so với những người khác. Trong bất cứ trường hợp nào, một người đều có thể thực hiện các bước để khuyến khích một quá trình ngẫu nhiên nào đó. Hiệu quả của tư duy đa chiều trong việc tạo ra những ý tưởng mới có thể được chứng minh bằng thí nghiệm.
Mỗi khi tư duy đa chiều tìm ra một giải pháp, sẽ luôn có một con đường logic dẫn đến giải pháp đó. Do đó, cái được cho là tư duy đa chiều không gì hơn chỉ là hiệu quả hóa tư duy logic.
Rất khó để phân biệt liệu một giải pháp cụ thể được sinh ra từ quá trình tư duy đa chiều hay tư duy chiều dọc. Bởi vì tư duy đa chiều là
https://thuviensach.vn
mô tả của một quá trình chứ không phải của kết quả, và vì một giải pháp có thể đạt được bằng tư duy chiều dọc không có nghĩa là nó không đạt được từ tư duy đa chiều.
Nếu một giải pháp được chấp nhận nghĩa là phải có cơ sở logic hợp lý để chấp nhận nó. Hoàn toàn có thể mô tả một con đường logic sau khi giải pháp đã được giải thích rõ ràng. Nhưng có thể tìm ra giải pháp bằng con đường nhận thức sau này là chuyện khác. Chúng ta có thể minh họa cho tình huống này rất dễ dàng bằng cách đưa ra vài vấn đề rất khó nhằn và khi giải quyết rồi thì giải pháp rất hiển nhiên. Trong những trường hợp như vậy, không thể cho rằng nguyên nhân khiến vấn đề trở nên khó nhằn là do thiếu cơ sở logic căn bản cần thiết.
Đặc trưng của các giải pháp tối ưu và các ý tưởng mới là chúng sẽ hiển nhiên sau khi được tìm ra. Hiện tượng này chứng tỏ tư duy logic thiếu sót đến mức nào, bởi nếu không, các giải pháp đơn giản đã xuất hiện sớm hơn. Chúng ta không thể chứng minh được một hướng tư duy logic nào không nên chọn đến khi chúng ta chọn nó. Tuy nhiên, trong thực tế, ngay cả khi đã lựa chọn một hướng tư duy logic, chúng ta cũng không thể chắc chắn rằng có thể tìm ra giải pháp nhờ hướng đi này.
Vì tất cả tư duy hiệu quả đều là tư duy logic nên tư duy đa chiều chỉ là một phần của tư duy logic.
Lập luận phản đối này chỉ là ngụy biện trên phương diện ý nghĩa của ngôn từ. Tư duy đa chiều được xem là khác với tư duy logic hay là một phần của tư duy logic không quan trọng, miễn sao mọi người hiểu được bản chất của nó. Nếu nói tư duy hiệu quả là tư duy logic thì tư duy đa chiều chắc chắn phải nằm trong đó. Nếu tư duy logic là một chuỗi những bước đi đúng thì tư duy đa chiều rõ ràng là một loại tư duy khác.
Nếu cân nhắc đến cách thức xử lý thông tin của tâm trí thì lập luận phản đối này còn tệ hơn một ngụy biện ngữ nghĩa học. Vì ở góc độ hành vi, trở nên phi logic là một việc làm rất logic, trở nên thiếu hợp lý là điều rất hợp lý. Nếu không phải vậy thì tôi sẽ viết một cuốn
https://thuviensach.vn
sách về nó. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, chúng ta sử dụng logic để đạt được “hiệu quả” chứ không phải tư duy logic là toàn bộ quá trình hoạt động như chúng ta biết.
Trong thực tế, đặt tư duy đa chiều dưới tư duy logic chỉ xóa mờ sự khác biệt giữa chúng và khiến nó mất đi tính thích hợp và cần thiết.
Tư duy đa chiều giống tư duy quy nạp.
Quan điểm này dựa trên sự khác biệt giữa tư duy diễn dịch và tư duy quy nạp. Giả định ở đây là các loại tư duy nào khác với tư duy diễn dịch đều giống nhau. Tư duy đa chiều và tư duy quy nạp có một số điểm giống nhau vì cả hai đều hoạt động bên ngoài khuôn khổ thông thường. Tuy vậy, tư duy đa chiều vẫn có thể hoạt động trong khuôn khổ để tái lập mô hình bằng các quá trình như đảo ngược, biến dạng, chất vấn, lật ngược,… Tư duy quy nạp nhất thiết phải hợp lý, chúng ta phải cố hết sức để nó đúng như trong tư duy diễn dịch. Tuy nhiên, tư duy đa chiều có thể tự ý khơi gợi ra một mô hình mới. Cả tư duy diễn dịch và quy nạp đều liên quan đến việc hình thành các khái niệm. Tư duy đa chiều liên quan nhiều hơn đến việc cho phép tâm trí tái cấu trúc các mô hình.
Tư duy đa chiều không phải là một cách suy nghĩ có chủ đích mà là một năng khiếu sáng tạo mà không phải ai cũng có.
Sẽ có những người giỏi tư duy đa chiều hơn, cũng như sẽ có những người giỏi toán hơn, nhưng điều đó không có nghĩa là không thể học và sử dụng phương pháp tư duy này. Có thể thấy tư duy đa chiều giúp chúng ta có nhiều ý tưởng hơn và theo định nghĩa, đó là năng khiếu không thể giảng dạy. Thực ra, tư duy đa chiều không huyền bí, nó chỉ là cách xử lý thông tin.
Tư duy đa chiều và tư duy chiều dọc là sự bổ sung cho nhau.
Một vài người không thích tư duy đa chiều vì họ cho rằng nó đe dọa giá trị của tư duy chiều dọc. Suy nghĩ này không đúng chút nào. Hai quá trình này hỗ trợ chứ không đối đầu. Tư duy đa chiều giúp tạo ra các ý tưởng và cách tiếp cận còn tư duy chiều dọc phát triển chúng.
https://thuviensach.vn
Tư duy đa chiều làm tăng hiệu quả của tư duy chiều dọc bằng cách mang lại nhiều sự lựa chọn hơn. Tư duy chiều dọc tăng hiệu quả của tư duy đa chiều bằng cách sử dụng hiệu quả những ý tưởng được tạo ra.
Phần lớn thời gian chúng ta sử dụng tư duy chiều dọc nhưng khi cần, tư duy chiều dọc sẽ không thể thay thế vai trò của tư duy đa chiều. Khăng khăng sử dụng tư duy chiều dọc, trong khi cần phải sử dụng tư duy đa chiều sẽ rất có hại. Chúng ta cần có cả hai kỹ năng này.
Tư duy đa chiều giống như số lùi của một chiếc xe hơi. Chúng ta rất ít khi lái lùi nhưng vẫn cần phải có số lùi và biết cách sử dụng nó khi cần lùi ra khỏi một hẻm cụt chẳng hạn.
https://thuviensach.vn
Bản chất cơ bản của tư duy đa chiều
T
rong Chương 2, bản chất của tư duy đa chiều đã được chỉ ra qua sự đối chiếu với tư duy chiều dọc. Trong chương này, bản chất căn bản của tư duy đa chiều sẽ được thể hiện ngay trong bản thân nó.
Tư duy đa chiều liên quan tới việc thay đổi những mô hình.
Mô hình được định nghĩa là cách sắp xếp thông tin trên bề mặt ký ức. Mỗi mô hình là một chuỗi lặp lại của một hoạt động thần kinh. Trong thực tế, mô hình cũng có thể là một chuỗi các khái niệm, ý tưởng, suy nghĩ, hình ảnh lặp đi lặp lại. Mô hình cũng có thể là một chuỗi lặp lại theo thời gian của những khái niệm hay ý tưởng. Mô hình cũng có thể là sự kết hợp của nhiều mô hình, hợp thành cách tiếp cận một vấn đề, một quan điểm, một cách nhìn sự vật. Không có giới hạn về kích thước của mô hình. Điều kiện duy nhất là mô hình phải có tính lặp lại, có thể nhận diện và hữu dụng.
Tư duy đa chiều liên quan đến việc thay đổi các mô hình. Thay vì chấp nhận và phát triển các mô hình như tư duy chiều dọc, tư duy đa chiều tái cấu trúc chúng bằng cách kết hợp thông tin theo một cách khác. Vì trong hệ thống tự tối đa hóa, trật tự xuất hiện của thông tin có ảnh hưởng rất lớn đến cách nó được sắp xếp nên chúng ta cần tái cấu trúc mô hình để sử dụng tốt nhất những thông tin trong mô hình đó.
Trong một hệ thống ký ức tự tối đa hóa, bạn không thể có cách sắp xếp thông tin tốt nhất.
Việc tái sắp xếp thông tin vào một mô hình khác chính là tái cấu trúc cách nhìn. Mục đích của tái sắp xếp là để tìm ra mô hình hiệu quả hơn.
https://thuviensach.vn
Một cách nhìn nhận sự vật cụ thể có thể được phát triển dần dần. Một ý tưởng từng rất hữu ích có thể không còn hữu ích trong thời điểm hiện tại, tuy nhiên ý tưởng hiện tại lại được phát triển trực tiếp từ ý tưởng cũ kỹ, lỗi thời. Mô hình được hình thành và phát triển theo một cách đặc biệt, từ việc kết hợp hai mô hình nhưng nếu bổ sung đầy đủ thông tin thì mô hình đã rất khác. Mô hình có thể bền vững vì nó hữu dụng và đầy đủ nhưng tái cấu trúc có thể tạo ra mô hình tốt hơn nhiều.
Trong hình vẽ bên dưới, hai miếng ghép kết hợp lại với nhau để tạo thành một mô hình. Mô hình này kết hợp với mô hình khác giống nó một cách đơn giản. Nếu không bổ sung thêm những mảnh ghép mới, mô hình có thể bất ngờ bị tái cấu trúc để hình thành một mô hình tốt hơn. Nếu tất cả bốn miếng ghép xuất hiện cùng lúc, mô hình cuối cùng chính là hình mà một người sẽ nghĩ ra, nhưng nếu các miếng ghép xuất hiện tuần tự, mô hình còn tiếp tục được phát triển.
10
Tư duy đa chiều vừa là thái độ và vừa là cách thức sử dụng thông tin.
Thái độ của tư duy đa chiều là coi tất cả những cách nhìn sự vật là hữu ích nhưng không độc nhất hay toàn diện. Nghĩa là chấp nhận sự hữu ích của một mô hình, nhưng thay vì xem đó là một mô hình quen thuộc, ta chỉ coi nó như một cách sắp xếp các sự vật. Thái độ tư duy đa chiều thách thức giả định rằng một mô hình thuận lợi là mô hình khả dĩ duy nhất ở thời điểm hiện tại. Thái độ tư duy đa chiều làm dịu đi sự ngạo mạn của tính cứng nhắc và giáo điều. Đầu tiên, thái độ tư duy đa chiều sẽ từ chối chấp nhận những mô hình cứng nhắc, sau đó cố gắng sắp xếp mọi thứ theo một cách khác. Với tư duy đa chiều, một người luôn cố gắng tạo ra nhiều lựa chọn và tái cấu trúc các mô hình. Vấn đề không phải là tuyên bố mô hình hiện tại sai hay không đầy đủ. Tư duy đa chiều không đánh giá. Chúng ta có thể hài lòng với mô hình hiện tại nhưng vẫn muốn tạo ra những mô hình thay thế khác. Dưới góc nhìn của tư duy đa
https://thuviensach.vn
chiều, cái sai duy nhất của mô hình là sự cứng nhắc ngạo mạn mà nó đang nắm giữ.
Bên cạnh thái độ, tư duy đa chiều còn là một cách sử dụng thông tin cụ thể để tái cấu trúc mô hình. Có những kỹ thuật cụ thể có thể được chủ động sử dụng và sẽ được thảo luận sau. Về cơ bản, những kỹ thuật này có các nguyên tắc tổng quát nhất định. Trong tư duy đa chiều, thông tin được sử dụng không phải để làm lợi cho chính nó mà để tạo ra những hiệu ứng. Cách sử dụng thông tin này đòi hỏi người dùng phải nhìn về phía trước chứ không nhìn lại phía sau: nghĩa là không quan tâm đến lý do dẫn dắt và lý giải cho cách sử dụng thông tin mà quan tâm đến các hiệu ứng có thể đến từ cách dùng này. Trong tư duy chiều dọc, chúng ta sắp xếp thông tin vào một cấu trúc, cầu nối hay con đường. Thông tin trở thành một phần của dòng phát triển. Trong tư duy đa chiều, thông tin được sử dụng để thay thế cấu trúc đó nhưng không trở thành một phần của nó.
Chúng ta sử dụng kim ghim để cố định hai miếng giấy lại với nhau hoặc châm vào ai đó khiến họ giật nảy mình. Tư duy đa chiều không ổn định mà khiêu khích. Nó phải như vậy để có thể tái lập mô hình. Bởi không thể tái lập mô hình bằng cách đi theo dòng phát triển của mô hình đó nên tư duy đa chiều có thể trái tính một cách đầy chủ ý. Vì cùng một lý do, tư duy đa chiều có thể sử dụng những thông tin không xác đáng hay trì hoãn quá trình đánh giá và cho phép một ý tưởng phát triển thay vì chặn đứng nó bằng cách tuyên bố nó đã sai.
Tư duy đa chiều liên quan trực tiếp đến cách xử lý thông tin của tâm trí.
Nhu cầu cần đến tư duy đa chiều xuất phát từ những hạn chế của hệ thống ký ức tự tối đa hóa. Hệ thống này vận hành để tạo ra những mô hình và sau đó nuôi dưỡng chúng. Hệ thống không có một cơ chế đầy đủ để thay đổi các mô hình và cập nhật chúng. Tư duy đa chiều sẽ cố gắng tạo ra sự tái cấu trúc hay chức năng thay đổi cách nhìn.
https://thuviensach.vn
Nhu cầu phải có tư duy đa chiều không chỉ xuất phát từ quá trình xử lý thông tin của tâm trí nhưng hiệu quả của tư duy đa chiều cũng phụ thuộc vào hành vi này. Tư duy đa chiều sử dụng thông tin một cách đầy khiêu khích. Nó phá vỡ các mô hình cũ để giải phóng thông tin. Tư duy đa chiều kích thích sự hình thành mô hình mới bằng cách kết hợp các thông tin gần nhau mà ít ai nghĩ đến. Tất cả những nỗ lực này chỉ nhằm tạo ra một hiệu ứng hữu ích trong cơ chế tái kết hợp thông tin vào một mô hình mới của hệ thống ký ức tự tối đa hóa. Nếu không có hành vi này, tư duy đa chiều sẽ bị gián đoạn và không mang lại hiệu quả.
https://thuviensach.vn
Vai trò của tư duy đa chiều
K
hi một người đã có thái độ tư duy đa chiều, người đó tự động sử dụng tư duy đa chiều một cách thường xuyên.
Xuyên suốt cuốn sách này, tư duy đa chiều được tách riêng khỏi tư duy chiều dọc để tránh gây nhầm lẫn, đồng thời, chúng ta có được kỹ năng tư duy đa chiều mà không làm ảnh hưởng đến kỹ năng tư
duy chiều dọc. Khi đã thành thạo tư duy đa chiều, chúng ta không cần phải tách biệt hai loại tư duy này nữa. Ta không cần phải ý thức liệu đang sử dụng tư duy đa chiều hay tư duy chiều dọc. Hai loại tư duy được pha trộn với nhau để lúc này sử dụng tư duy chiều dọc còn lúc khác sử dụng tư duy đa chiều. Tuy nhiên, có những những trường hợp nhất định cần phải chủ động sử dụng tư duy đa chiều.
Những ý tưởng mới
Phần lớn thời gian, chúng ta không nhận thức được nhu cầu cần phải có những ý tưởng mới, dù ta rất cảm kích khi xuất hiện của các ý tưởng mới. Chúng ta không cố gắng tạo ra những ý tưởng mới vì cho rằng ý tưởng mới không thể được tạo ra. Ý tưởng mới luôn hữu ích nhưng chỉ đôi lúc chúng ta mới nhận ra nhu cầu phải có ý tưởng mới. Có những công việc đòi hỏi luôn phải có những ý tưởng mới như nghiên cứu, kiến trúc sư, kỹ sư, quảng cáo,…
Quá trình chủ động tạo ra những ý tưởng mới luôn gặp khó khăn. Tư duy chiều dọc không giúp ích được nhiều, nếu không thì những ý tưởng mới sẽ dễ dàng đến. Thực tế, chúng ta có thể lập trình một máy tính để sinh ra những ý tưởng mới; có thể chờ đợi cơ hội may rủi, cảm hứng hay cầu khẩn để mong có năng khiếu sáng tạo. Tư duy đa chiều tạo ra các ý tưởng sáng tạo một cách chủ động hơn.
Rất nhiều người cho rằng những ý tưởng mới là những sáng chế mới dưới dạng sáng chế kỹ thuật. Đó là hình thức hiển nhiên nhất
https://thuviensach.vn
của một ý tưởng mới nhưng ý tưởng mới còn bao gồm những cách làm mới, những cách nhìn mới, những cách sắp xếp mới, những cách thể hiện mới, những ý tưởng mới về các ý tưởng. Từ quảng cáo đến kỹ thuật, từ nghệ thuật đến toán học, từ việc bếp núc đến thể thao, tất cả đều cần ý tưởng mới. Nhu cầu này không chỉ chung chung mà cần làm cụ thể. Mỗi người đều có thể tạo ra những ý tưởng mới.
Giải quyết vấn đề
Ngay cả khi chúng ta không có động lực để tạo ra những ý tưởng mới thì những vấn đề nảy sinh sẽ luôn đòi hỏi chúng ta phải có ý tưởng. Chúng ta không có nhiều lựa chọn ngoài việc cố gắng giải
quyết chúng. Vấn đề không chỉ xuất hiện theo một cách chính thống, cũng không giống như giải bài toán trên giấy bằng bút chì. Một vấn đề đơn thuần là sự khác biệt giữa cái chúng ta có và cái chúng ta muốn. Vấn đề cũng có thể là tránh né thứ gì đó, lấy thứ gì đó, loại bỏ thứ gì đó, hoặc biết một người muốn gì.
Có ba loại vấn đề:
Loại thứ nhất là để tìm ra giải pháp cho vấn đề, phải có thêm thông tin hoặc kỹ thuật xử lý thông tin.
Loại thứ hai không cần thông tin mới nhưng cần tái sắp xếp những thông tin có sẵn: tái cơ cấu cách nhìn.
Loại thứ ba là vấn đề khi không có vấn đề. Chúng ta bị ngăn cản bởi sự đầy đủ của sắp xếp hiện tại nên không tìm kiếm một sắp xếp tốt hơn. Chẳng có lý do gì phải tập trung nguồn lực để tìm kiếm một sắp xếp tốt hơn khi không nhận ra rằng còn có một sắp xếp tốt hơn. Vấn đề là làm thế nào để nhận ra rằng đang tồn tại một vấn đề, rằng cần cải tiến cái gì đó, và làm sao để xác định được rằng những điều vừa nhận thức này là một vấn đề.
Loại vấn đề thứ nhất có thể giải quyết được bằng tư duy chiều dọc. Loại vấn đề thứ hai và thứ ba cần tư duy đa chiều.
https://thuviensach.vn
Xử lý sự lựa chọn khả năng lĩnh hội
Tư duy logic và toán học đều là những kỹ thuật xử lý thông tin. Chúng chỉ có thể sử dụng được vào cuối bước đầu tiên – bước mà thông tin được đóng gói bằng sự lựa chọn khả năng lĩnh hội để xử lý ở bước thứ hai. Sự lựa chọn khả năng lĩnh hội sẽ xác định nội dung thông tin của từng gói. Sự lựa chọn khả năng lĩnh hội là hành vi mô hình hóa tự nhiên của tâm trí. Thay vì chấp nhận các gói được đóng sẵn và tiếp tục xử lý logic hay toán học, chúng ta muốn tự mình xử lý các gói. Để làm việc này, ta phải sử dụng tư duy đa chiều.
Tái đánh giá định kỳ
Đánh giá lại định kỳ là xem xét lại các sự vật, sự việc được xem là dĩ nhiên mà không có gì đáng nghi ngờ, và tất cả các giả thuyết dẫn đến chúng. Chúng ta tiến hành đánh giá lại không phải vì xuất phát từ một nhu cầu nào đó mà đơn giản chỉ vì sự vật, sự việc nào đó đã tồn tại và chưa được đánh giá trong một khoảng thời gian dài. Đó là một nỗ lực thận trọng và khá phi lý khi cố gắng xem xét lại một vấn đề theo một cách mới.
Tránh sự phân chia và phân cực rõ ràng
Có lẽ lợi ích thiết thực nhất của tư duy đa chiều là khi không được sử dụng một cách chủ ý nhưng chúng lại hành động như một thái độ. Thái độ tư duy đa chiều sẽ ngăn ngừa được những vấn đề tạo ra do việc phân chia và phân cực rõ ràng khi tâm trí tìm hiểu về vấn đề gì đó. Khi chấp nhận tính hữu dụng của những mô hình do tâm trí tạo ra thì chúng ta sử dụng tư duy đa chiều để tránh tính kiêu ngạo và cứng nhắc của nó.
https://thuviensach.vn
Các kỹ thuật
C
ác chương trước thảo luận về bản chất và cách sử dụng, đặc tính và thời điểm cần sử dụng tư duy đa chiều. Tất cả những thảo luận đó giúp bạn có ý niệm rõ ràng về tư duy đa chiều. Chúng ta có thể
đã hiểu rõ và chấp nhận những gì đã đọc về tư duy đa chiều nhưng sẽ nhanh chóng quên nó và chỉ còn lưu giữ chút ấn tượng mờ nhạt. Điều này cũng không có gì đáng ngạc nhiên vì những khái niệm này là những sự vật không có thực. Kể cả khi đã hiểu rõ bản chất của tư
duy đa chiều, chúng ta vẫn rất khó để truyền tải hiểu biết này mà không sử dụng thứ gì đó rõ ràng, cụ thể hơn.
Gật đầu ghi nhận mục đích của tư duy đa chiều là chưa đủ, chúng ta phải phát triển kỹ năng thực hành loại tư duy này. Những kỹ năng này chỉ có thể được phát triển nếu thực hành đủ nhiều. Việc thực hành không nhất thiết phải chờ đến khi được sắp xếp quy củ nhưng thường cần phải vậy. Các kỹ thuật được chỉ ra ở những trang tiếp theo hướng đến việc tạo ra những cơ hội chính thức để thực hành tư duy đa chiều. Một số kỹ thuật mang đặc trưng của tư duy đa chiều hơn những kỹ thuật còn lại. Một số kỹ thuật có vẻ giống với những thao tác mà chúng ta luôn làm – hay ít nhất là chúng ta nghĩ rằng mình luôn làm.
Dưới những kỹ thuật này là các nguyên tắc căn bản để sử dụng thông tin một cách đa chiều. Chúng ta không cần quá để tâm đến chúng hay coi chúng là điều hiển nhiên.
Mục đích của những kỹ thuật chính thống là cung cấp cơ hội để thực hành tư duy đa chiều, từ đó dần hình thành thói quen tư duy đa chiều. Những kỹ thuật không được xem là những tình huống chính thống yêu cầu chúng ta phải áp dụng chính xác. Tuy nhiên, các kỹ thuật có thể được sử dụng theo cách này và cho đến khi đã
https://thuviensach.vn
thành thạo tư duy đa chiều mà không cần những kỹ thuật chính thống, bạn có thể sử dụng chúng.
Mỗi kỹ thuật chính thống được chia làm hai phần. Phần đầu thảo luận về bản chất và mục tiêu của kỹ thuật. Phần thứ hai là bài tập thực hành kỹ thuật đó trong lớp học hoặc trong bối cảnh khác. Những tư liệu này chỉ mang tính gợi ý để giáo viên có thể soạn giáo án. Thu thập thêm tư liệu và xử lý các buổi thực hành được thảo luận trong phần đặc biệt ở đầu cuốn sách.
https://thuviensach.vn
Tạo ra những lựa chọn
N
guyên tắc căn bản nhất của tư duy đa chiều là bất kỳ cách nhìn sự việc nào cũng chỉ là một trong số những cách nhìn khả dĩ. Tư duy đa chiều liên quan đến việc khám phá ra những cách khác để tái cấu trúc và tái sắp xếp những thông tin có sẵn. Chính từ “đa chiều” cũng có nghĩa là chuyển động theo nhiều hướng để tạo ra các mô hình khác nhau thay vì chỉ đi thẳng về phía trước. Ý nghĩa này được minh họa bằng hình bên dưới.
11
Việc tìm kiếm những cách nhìn thay thế là điều hết sức tự nhiên. Nhiều người cảm thấy đó là việc chúng ta luôn luôn làm. Ở một mức độ nào đó đúng là vậy, nhưng quá trình tìm kiếm đa chiều các lựa chọn thay thế đi xa hơn cách tìm kiếm tự nhiên.
Khi tìm kiếm tự nhiên, chúng ta tìm ra cách tiếp cận tốt nhất; khi tìm kiếm trong tư duy đa chiều, chúng ta cố gắng tạo ra nhiều lựa chọn nhất có thể. Chúng ta không tìm kiếm cách tiếp cận tốt nhất, chỉ kỳ vọng có càng nhiều cách tiếp cận khác biệt càng tốt.
Khi tìm kiếm tự nhiên, ta dừng lại khi đã có một cách tiếp cận hứa hẹn; trong tìm kiếm tư duy đa chiều, ta ghi nhận một cách tiếp cận hứa hẹn và có thể quay lại nó sau đó nhưng vẫn tiếp tục tìm kiếm những lựa chọn khác.
Khi tìm kiếm tự nhiên, chúng ta chỉ xem xét những lựa chọn hợp lý; khi tìm kiếm đa chiều, những lựa chọn không nhất thiết phải hợp lý.
Tìm kiếm tự nhiên thường mang tính mục đích, còn tìm kiếm tư duy đa chiều mang tính chủ ý.
https://thuviensach.vn
Khác biệt lớn nhất nằm ở mục tiêu của quá trình tìm kiếm những lựa chọn thay thế. Khuynh hướng tự nhiên tìm kiếm các lựa chọn để tìm ra lựa chọn tốt nhất. Tuy nhiên, trong tư duy đa chiều, mục tiêu là nới lỏng những mô hình cứng nhắc và khiêu khích những mô hình mới. Rất nhiều điều có thể xảy đến với kiểu tìm kiếm lựa chọn này.
Chúng ta có thể tạo ra nhiều lựa chọn sau đó quay lại với cái ban đầu hiển nhiên nhất.
12
Một lựa chọn có thể hữu ích ngay từ xuất phát điểm.
Một lựa chọn có thể thực sự giải quyết các vấn đề mà không cần phải đi xa hơn.
Một lựa chọn có thể thỏa mãn mục đích tái sắp xếp các sự vật để vấn đề được giải quyết một cách gián tiếp.
Trong một vài trường hợp, việc tìm kiếm nhiều sự lựa chọn thay thế rất mất thời gian nhưng nó giúp chúng ta có thói quen tìm kiếm các lựa chọn thay vì chỉ mù quáng chấp nhận những cách tiếp cận dễ thấy nhất.
Việc tìm kiếm những lựa chọn không ngăn cản chúng ta sử dụng cách tiếp cận hiển nhiên nhất. Việc tìm kiếm chỉ trì hoãn việc sử dụng cách tiếp cận đó. Việc tìm kiếm chỉ bổ sung thêm những lựa chọn vào danh sách các cách tiếp cận có khả năng đúng cao nhất chứ không lấy đi gì từ nó. Việc tìm kiếm này làm gia tăng giá trị cho cách tiếp cận có khả năng đúng cao nhất. Thay vì chỉ có một cách tiếp cận duy nhất, cách tiếp cận này được chọn vì rõ ràng nó là cách tốt nhất trong rất nhiều trường hợp khác.
Hạn mức
Để thay đổi tìm kiếm lựa chọn từ một mục đích sang một thói quen, chúng ta có thể thiết lập một hạn mức. Một hạn mức là một con số cố định những cách thức nhìn nhận một tình huống. Lợi thế của việc
https://thuviensach.vn
có một hạn mức hoạch định trước là một người sẽ tiếp tục tạo ra các lựa chọn để đáp ứng số lượng quy định. Và điều này có nghĩa là cho dù tìm thấy được một lựa chọn hứa hẹn trong quá trình tìm kiếm thì chúng ta vẫn tiếp tục tìm thêm những lựa chọn khác thay vì chấp nhận nó. Một lợi thế khác là cách làm này giúp ta cố gắng tìm kiếm hay nghĩ ra nhiều lựa chọn hơn thay vì chờ đợi các lựa chọn tự nhiên. Ta sẽ cố gắng đáp ứng đủ số lượng lựa chọn, thậm chí cả những lựa chọn có vẻ gượng ép hay buồn cười. Con số hạn mức thích hợp có thể là ba, bốn hay năm.
Không có một hạn mức giới hạn về số lượng lựa chọn nhưng chắc chắn rằng chúng ta có thể đưa ra một con số tối thiểu.
Thực hành
Các hình vẽ hình học
Lợi thế của các hình vẽ trực quan là sự rõ ràng. Một học viên có thể nhìn vào tư liệu và nhào nặn nó mà không làm thay đổi tư liệu. Tình huống ngược lại xảy ra với tư liệu ngôn ngữ khi ngữ điệu, trọng âm, các sắc thái cá nhân đều mang lại những ý nghĩa khác nhau cho
những người tiếp nhận khác nhau.
13
Lợi thế của các hình vẽ hình học ở chỗ chúng là các mô hình tiêu chuẩn được mô tả bằng những ngôn từ đơn giản. Nghĩa là một người có thể nắm bắt được chúng thông qua mô tả mà không gặp phải chút khó khăn nào.
Giáo viên bắt đầu bằng những hình vẽ hình học để minh họa cách hình thành các lựa chọn. Khi ý tưởng đã rõ ràng, người này có thể chuyển sang những tình huống thiết thực hơn.
Trong thực tế, giáo viên sẽ xử lý tình huống như sau:
1. Hình ảnh được vẽ lên bảng cho cả lớp xem hoặc giáo viên phát một mảnh giấy có hình ảnh này cho từng học viên.
https://thuviensach.vn
2. Học viên được yêu cầu tư duy theo những cách thức khác nhau để mô tả hình ảnh.
3. Giáo viên sau đó có thể thu các mô tả, hoặc không thu, tùy thuộc vào quy mô lớp và thời gian cho phép.
4a. (Không thu mô tả)
Giáo viên sẽ yêu cầu một học viên xung phong mô tả hình vẽ. Nếu không ai xung phong giáo viên sẽ chỉ định. Sau mô tả đầu tiên, giáo viên sẽ tiếp tục yêu cầu những phiên bản mô tả khác. Các mô tả khả dĩ đều được liệt kê.
4b. (Thu mô tả)
Giáo viên sẽ lấy một hoặc hai mô tả ngẫu nhiên mà không cần phải xem qua và đọc lớn mô tả này. Tiếp theo, giáo viên yêu cầu lớp đưa ra những mô tả khác hay giáo viên sẽ xem qua các mô tả được nộp và chọn ra những phiên bản mô tả khác.
Nếu có đủ thời gian giữa các buổi thực hành, giáo viên có thể xem lướt qua tất cả mô tả, sau đó vẽ ra một thống kê bằng biểu đồ (như hình bên dưới). Biểu đồ này sẽ được sử dụng trong buổi thực hành tiếp theo.
14
5. Giáo viên có nhiệm vụ khuyến khích và chấp nhận những phiên bản mô tả khác nhau mà không đánh giá chúng. Nếu có một phiên bản mô tả cụ thể quá kỳ quặc, giáo viên không được chỉ trích mà yêu cầu tác giả lý giải đầy đủ. Nếu sau đó cả lớp không bị thuyết phục để chấp nhận phiên bản kỳ quặc này thì tốt nhất nên liệt kê nó cuối cùng, không nên từ chối mô tả đó.
6. Nếu các học viên gặp khó khăn trong việc tạo ra những ý tưởng khác nhau, giáo viên có thể cho một số ý tưởng gợi ý đã chuẩn bị từ trước.
https://thuviensach.vn
1. Bạn mô tả hình bên dưới như thế nào?
Các giải pháp
Hai vòng tròn được nối bằng một đường thẳng.
Một đường thẳng có vòng tròn ở mỗi đầu.
Hai vòng tròn có hai cái đuôi và hai cái đuôi nối với nhau thành một đường thẳng.
Hai máng thoát nước được đặt chồng lên nhau.
15
Nhận xét
Bạn có thể nghĩ rằng hai lựa chọn: hai vòng tròn được nối bằng một đường thẳng và một đường thẳng có vòng tròn ở mỗi đầu là giống nhau nhưng không phải như vậy. Vì trong trường hợp đầu, sự chú ý bắt đầu bằng vòng tròn, còn trường hợp sau bắt đầu ở đường thẳng. Từ góc nhìn về những gì diễn ra trong tâm trí, trật tự chú ý là cái quan trọng nhất, vì vậy trật tự chú ý khác nhau sẽ tạo ra sự khác biệt.
Một vài mô tả có thể tĩnh, đó là những mô tả có thể được lý giải bằng hình ảnh như đã trình bày. Một vài mô tả khác có thể động, nghĩa là nó có thể dễ dàng trình bày bằng những biểu đồ bổ sung. Tình huống này xảy ra khi biểu đồ sẵn có được xem như phương án cuối cùng để sắp xếp các hình vẽ.
2. Bạn mô tả hình vẽ bên dưới như thế nào?
Các giải pháp
Một hình chữ L.
Một dụng cụ căn góc của thợ mộc.
https://thuviensach.vn
Một giá treo được lật ngược.
Một nửa của khung hình.
Hai hình chữ nhật xếp vuông góc.
Một hình vuông lớn bị che mất một góc vuông nhỏ.
Nhận xét
Sẽ phát sinh một số khó khăn khi so sánh hình vẽ được mô tả với một vật thể thực tế như “dụng cụ căn góc của thợ mộc”. Khó khăn ở chỗ mô tả này sẽ dẫn đến vô số những mô tả khác, ví dụ một mô tả khác có thể diễn tả hình vẽ này giống một tòa nhà được nhìn từ trên không. Điểm quan trọng cần nhớ là chúng ta đang phải đưa ra một mô tả khác cho hình vẽ được trình chiếu. Chúng ta cần mô tả sao cho người đọc, người nghe có thể vẽ được ra hình đó. Vì thế, mô tả hình vẽ giống như tòa nhà nhìn từ không trung không giúp ích được gì, trừ khi các tòa nhà được quy định xây theo hình chữ L. Không cần phải mô tả cực kỳ chính xác, ví dụ mô tả “hai hình chữ nhật xếp vuông góc” chỉ thực sự chứa đựng những dấu hiệu mang tính định hướng, nhưng chúng ta cũng không cần phải mô phạm hóa các mô tả vì cách làm này sẽ khiến trọng tâm bị đặt sai chỗ.
Một số mô tả có thể chỉ báo một quá trình cụ thể. Ví dụ như “hai hình chữ nhật xếp vuông góc” hoặc “một hình vuông lớn bị che mất một góc vuông nhỏ”, chúng ta sẽ liên tưởng đến một vài hình ảnh, sau đó loại bỏ hoặc thay đổi một phần của nó. Rõ ràng đây là một cách mô tả hiệu quả. Những cách mô tả cơ bản có thể tóm lại như sau:
Xây dựng nên từ những đơn vị nhỏ.
So sánh với một hình khác.
Điều chỉnh một hình khác bằng cách thêm hay bỏ bớt.
https://thuviensach.vn
Như ở trên, giáo viên có thể phải vẽ ra những biểu đồ bổ sung để biểu đạt ý nghĩa. Nếu giáo viên không hiểu được mô tả của học viên, thì học viên cần phải giải thích lại.
3. Bạn mô tả hình bên dưới như thế nào?
16
Các giải pháp
Hai hình vuông chồng lên nhau.
Ba hình vuông.
Hai hình chữ L ghép lại tạo ra khoảng trống ở giữa hình vuông. Một hình chữ nhật được cắt thành hai phần và bị đẩy ra xa nhau. Nhận xét
Mô tả “hai hình vuông chồng lên nhau” có vẻ là mô tả dễ thấy hơn các mô tả khác. Nó cho thấy sự lấn át của các mô hình hiển nhiên. Một lần nữa, chúng ta lại có cảm giác rằng hai mô tả: “hai hình vuông chồng lên nhau” và “ba hình vuông” có vẻ giống nhau vì mô tả trước bao hàm mô tả sau. Đây là xu hướng suy nghĩ mà chúng ta nên loại bỏ, vì một thay đổi nhỏ trong cách nhìn sự vật cũng có thể dẫn đến một khác biệt lớn. Chúng ta cần phản kháng lại sự cám dỗ của suy nghĩ cho rằng mô tả này giống với một mô tả khác, hai mô tả chỉ là những cách nói khác nhau.
Có những mô tả cố gắng chi tiết nhất có thể để bao quát mọi khả năng một cách toàn diện: “hai hình vuông chồng lên nhau ở một góc sao cho phần chồng lên là một hình vuông có diện tích khoảng một phần tư của hai hình vuông ban đầu”. Những mô tả toàn diện kiểu này thường bao quát toàn bộ biểu đồ và do đó hàm chứa tất cả những loại mô tả khác. Tuy nhiên, những mô tả khác vẫn phải được chấp nhận. Theo logic, một mô tả có vẻ dư thừa vì nó bị bao hàm
https://thuviensach.vn
bởi một mô tả khác nhưng mô tả này có thể sử dụng với các mô hình mới. Ví dụ, ý tưởng ba hình vuông rất hữu ích thậm chí dù nó được bao hàm trong mô tả hai hình vuông chồng lên nhau.
4. Các hình gối nhau được tạo ra như thế nào?
Các giải pháp
Một hình vuông nhỏ được bao xung quanh bởi các hình vuông lớn. Một hình vuông lớn với nhiều hình vuông nhỏ ở các góc.
Một cột gồm nhiều hình vuông lớn được đẩy sang các bên tạo thành một hình bậc thang.
Một đơn vị cơ bản được hình thành từ một hình vuông lớn và một hình vuông nhỏ.
Nối dài các cạnh của một hình vuông nhỏ và thêm vào các hình vuông nhỏ khác trên mỗi cạnh được nối dài.
Mỗi đoạn thẳng được chia làm ba đoạn, các đường vuông góc được vẽ từ đầu mỗi đoạn.
Các hình vuông nhỏ được sắp xếp theo một thứ tự nhất định tạo thành mạng lưới, sau đó, các đường kẻ được xóa đi, các khoảng trống được lấp đầy bằng những hình vuông lớn.
53.tif
Các hình vuông lớn được đặt cạnh nhau sao cho các đoạn tiếp giáp ở mỗi cạnh bằng nửa độ dài của cạnh.
Hai hình vuông gối lên nhau thành hàng sao cho hình vuông này gối lên góc vuông của hình vuông còn lại.
17
Nhận xét
https://thuviensach.vn
Có rất nhiều đáp án khác với các đáp án được liệt kê ở trên. Mô tả phải diễn tả rõ ràng cấu trúc của mô hình và dễ thực hiện. Quan trọng là tính đa dạng trong cách xem xét mô hình: theo cách chỉ có hình vuông lớn, theo cách chỉ có hình vuông nhỏ, theo cách cả hình vuông lớn và nhỏ, theo đoạn thẳng, theo khoảng trống, theo mạng lưới.
18
Hoạt động
Các ví dụ trên đây đã cho thấy những mô tả khác nhau cho cùng một mô hình. Chúng ta có thể thay đổi từ những cách nhìn nhận khác nhau đến cách thực hiện khác nhau. Càng khó khăn hơn vì trong mô tả, chúng ta chỉ chọn lựa duy nhất cái hiện có, trong khi chúng ta cần những cái chưa sẵn có mới có thể làm được điều gì
đó.
5. Bạn sẽ chia hình vuông thành bốn phần bằng nhau như thế nào?
(Đối với ví dụ này, giáo viên nên để mỗi học viên tự vẽ vào giấy tất cả những cách có thể nghĩ ra, thay vì chỉ nhìn lên bảng và thêm vào một cách làm mới. Cuối cùng giáo viên có thể thu giấy lại để phân tích hoặc không thu giấy và để các học viên đối chiếu các cách làm với nhau.)
Các giải pháp
Cắt theo chiều dọc.
Chia thành bốn hình vuông nhỏ.
Chia theo những đường chéo.
Chia thành mười sáu hình vuông nhỏ, sau đó xếp chúng thành hình chữ vạn hoặc hình chữ L như hình diễn tả ở trang sau.
Các hình dạng khác như diễn tả ở trang sau.
https://thuviensach.vn
Nhận xét
Nhiều học viên ban đầu lựa chọn cách phân chia theo chiều dọc, đường chéo hoặc bốn hình vuông nhỏ. Sau đó là ý tưởng chia hình vuông thành mười sáu miếng đều nhau và xếp chúng với nhau theo nhiều cách. Nguyên tắc tiếp theo là bất kỳ đường thẳng nào xuất phát từ một điểm trên cạnh của hình vuông đến một điểm tương ứng ở cạnh đối diện, đi qua trọng tâm và tạo ra hai phần có cùng hình dạng thì đường thẳng đó chia hình vuông làm hai. Lặp lại đường cắt này với hai cạnh còn lại sẽ được hình vuông chia thành bốn phần. Hiển nhiên sẽ có vô số hình dạng được tạo ra từ cách cắt này. Học viên sẽ có nhiều biến thể khác nhau dựa trên nguyên tắc này mà không nhận ra nguyên lý của nó. Thay vì liệt kê mỗi đáp án, giáo viên nên kết hợp chúng lại trong cùng một nguyên lý. Một biến thể của nguyên lý này là chia đôi hình vuông thành hai phần và sau đó chia đôi mỗi phần một lần nữa. Bất kỳ lần chia đôi nào cũng phải đi qua tâm của phần đó và tạo ra hình dạng tương đồng. Nó sẽ cho ra những hình mới hoàn toàn.
19
Vì đây không phải là bài tập hình học hoặc thiết kế nên không đặt ra mục đích khám phá tất cả các cách phân chia. Học viên sẽ cố gắng tìm thêm những cách khác ngay cả khi các thành viên khác đã quả quyết là không còn cách nào. Vì thế giáo viên nên chờ cho đến khi học viên không còn cách phân chia nào nữa, sau đó giới thiệu các cách phân chia trên. (Tất nhiên học viên vẫn có thể tự tìm ra tất cả các cách trên.)
6. Làm thế nào để phân chia một miếng bìa hình vuông thành một hình chữ L có diện tích tương đương mà không dùng nhiều hơn hai đường cắt.
(Trong thực tế, có thể sử dụng các miếng bìa hình vuông hoặc vẽ hình.)
Các giải pháp
https://thuviensach.vn
Cắt thành hai hình chữ nhật.
Cắt rời một hình vuông nhỏ.
Cắt chéo.
20
Nhận xét
Yêu cầu “không được dùng nhiều hơn hai đường cắt” là yếu tố ràng buộc. Yếu tố ràng buộc này không phải là giới hạn mà ngược lại, nó khuyến khích ta tìm ra những giải pháp khó thay vì hài lòng với các giải pháp đơn giản.
Chúng ta thường quen sử dụng đường thẳng, đường ngang và các góc bên phải, mà ít khi sử dụng đường chéo. Do đó, cách tốt nhất là cắt hình vuông theo một đường chéo, sau đó lựa vị trí để tạo thành hình như yêu cầu. Trong thực tế, chúng ta thường bắt đầu sử dụng những cách thức mang tính khiêu khích hơn là đơn giản.
Các hình không thuộc hình học
Từ các phương pháp hình học được sử dụng để minh họa cho việc tìm kiếm những giải pháp một cách thận trọng (và khả năng của những giải pháp đó), chúng ta có thể tiếp tục với những tình huống phức tạp hơn. Đối với những tình huống phức tạp, nó không đơn giản chỉ là chọn ra các mô hình tiêu chuẩn làm giải pháp, mà là kết hợp chúng lại để tạo ra một mô hình.
7. Một bình sữa dung tích một lít chứa nửa lít nước. Bạn diễn tả nó như thế nào?
Các giải pháp
Một nửa bình nước.
Một bình sữa với nửa bình là nước.
https://thuviensach.vn
Một nửa lít nước trong một bình sữa dung tích một lít. Nhận xét
Bản thân bình sữa là một ví dụ rất đơn giản. Nhưng nó chỉ ra hai cách nhìn khác nhau với cùng một sự vật. Nó cho thấy rằng khi lựa chọn cách này chúng ta thường bỏ qua các cách lựa chọn khác. Điều thú vị là khi cái bình chứa một nửa sữa thì nó thường được diễn tả là vơi một nửa, nhưng khi bình đó chứa một nửa nước thì lại được diễn tả là đầy một nửa. Có thể vì đối với sữa, chúng ta cảm thấy nó bị vơi đi từ một bình sữa đầy, còn đối với nước, chúng ta cảm thấy nó được đổ vào một cái bình rỗng. Quá khứ của một sự việc có tác động mạnh lên cách con người nhìn nhận nó.
Những bức tranh
Báo và tạp chí là nguồn dễ tìm tranh ảnh nhất. Cái khó là làm sao để sử dụng chúng cho một nhóm nhiều thành viên. Giáo viên có thể photo từ báo cho mỗi học viên và giữ chúng đến khi chúng lỗi thời. Nếu có thể giáo viên hãy tự mình vẽ bức tranh lên bảng, nhưng cách này thì ít thích hợp hơn. Những loại tài liệu cần sử dụng đã được đề cập trong phần “Cách sử dụng cuốn sách này”.
Những bức hình có thể được sử dụng theo hai cách: – Diễn tả điều bạn nghĩ rằng đang xảy ra trong bức hình. – Diễn tả ba điều khác nhau theo bạn có thể xảy ra trong bức hình.
Trong cách 1, giáo viên sử dụng một hình ảnh mơ hồ và yêu cầu từng học viên diễn tả về hình ảnh đó. Cuối cùng giáo viên tập hợp các diễn tả lại. Sự khác biệt trong các diễn tả sẽ cho thấy các cách xem xét khác nhau với bức hình. Giáo viên cần thận trọng để không đánh giá diễn tả nào tốt nhất hoặc tại sao diễn tả khác không hợp lý; đồng thời không tiết lộ ý nghĩa thật sự của bức hình là gì.
Trong cách thứ 2, giáo viên yêu cầu học viên đưa ra số lượng nhất định các diễn tả khác nhau. Nếu học viên có khuynh hướng bị mắc
https://thuviensach.vn
kẹt trong những cách diễn tả quen thuộc và không muốn tìm thêm những diễn tả khác, có thể cho phép họ liệt kê những diễn tả gần tương đương nhau. Thêm vào đó, giáo viên có thể có một vài gợi ý xa gần về bức hình để gợi ý cho điều cần tìm kiếm.
Ví dụ 1
Một bức ảnh về một nhóm người đang lội qua dòng nước. Họ không mặc trang phục chèo thuyền. Cảnh nền sau lưng họ là bãi biển.
Các diễn tả
Một nhóm người bị mắc kẹt bởi thủy triều.
– Nhóm người đang băng qua dòng sông khi thủy triều lên.
– Nhóm người đang lội đến một hòn đảo hay một mũi đất nhô ra biển.
– Lội qua dòng nước lụt.
– Nhóm người đang lội đến một chiếc thuyền không thể cập vào bờ. – Nhóm người đang đi vào bờ từ một chiếc thuyền bị chìm. Nhận xét
Thực tế đây là bức ảnh về một nhóm người đang diễu hành phản đối tại một tiểu bang nghèo nằm bên bờ biển. Ai có thể đoán ra đúng đáp án không quan trọng, vì đây không phải là một bài tập suy luận diễn dịch. Quan trọng là có nhiều cách diễn tả khác nhau về bức ảnh. Ngoài ghi nhận những ý kiến khác nhau này, học viên còn cần có khả năng tạo ra các ý tưởng khác nhau (dù sau đó lại loại bỏ chúng).
Ví dụ 2
Một bức tranh về cậu bé đang ngồi trên chiếc ghế dài trong công viên.
https://thuviensach.vn
Các diễn tả
Bức tranh về cậu bé thụ động hoặc lười biếng.
Một khoảng trống trên chiếc ghế công viên.
Cậu bé đã giữ khô một phần của chiếc ghế dài trong công viên. Nhận xét
Việc diễn tả bức tranh này hơi khác so với các ví dụ khác. Nó không nhằm đến cái đang diễn ra (ví dụ như một cậu bé đang ngồi đợi bạn, một cậu bé mệt mỏi đang nghỉ ngơi, một cậu bé đang trốn học, một cậu bé đang ngắm ánh nắng). Thay vì diễn tả trực tiếp cái đang có trong bức hình, chúng ta lại cố gắng nhìn bức hình theo một cách khác. Nó có thể đi quá xa như “Cậu bé đã giữ khô một phần của chiếc ghế dài trong công viên”, thực chất là không có giới hạn nào. Có nhiều mức độ khi diễn tả một bức tranh: điều đang thể hiện, điều sẽ xảy ra kế tiếp, điều đã và đang xảy ra. Khi yêu cầu học viên diễn tả, ban đầu giáo viên có thể không giới hạn, sau đó, cần có quy định về giới hạn diễn tả để học viên sáng tạo các mô tả.
Những bức tranh được thay đổi
Vấn đề với những bài tập mô tả tranh ảnh là các cách diễn giải quen thuộc thường lấn át hoàn toàn những phương án khác. Không chỉ khó để tìm ra một cách nhìn nhận khác, ngay cả việc chấp nhận một cách nhìn khác cũng trở nên miễn cưỡng. Để tránh gặp phải khó khăn này, giáo viên có thể thay đổi bức tranh một chút bằng cách che một vài phần của bức tranh. Ngay lập tức bức tranh sẽ trở nên khó nhận diện, khi đó, học viên có thể sáng tạo ra những cách nhìn nhận khác nhau mà không bị lấn át bởi cách diễn giải thông thường. Học viên sẽ có thêm động lực để cố gắng đoán ra câu trả lời đúng trước khi toàn bộ bức tranh được mở ra.
Ví dụ
https://thuviensach.vn
Che đi một nửa bức tranh. Phần còn lại là một người đàn ông đang giữ thăng bằng trên gờ của bờ tường chạy dọc theo tòa nhà.
Các diễn tả
– Một người đàn ông đang chuẩn bị tự tử
– Đang giải cứu một con mèo mắc kẹt trên gờ tường – Thoát khỏi tòa nhà đang cháy
– Người đóng thế
– Một người đàn ông đang cố gắng vào phòng khi cửa bị khóa trái. Nhận xét
Phần bức tranh bị che sẽ cho một vài học viên xem, đó là các biển quảng cáo mà người đàn ông treo lên. Cách dùng các hình ảnh ẩn đi một nửa giúp tạo ra những lựa chọn thay thế, đặc biệt nhưng cuối cùng học viên đó phải có khả năng tái cấu trúc các hình ảnh có vẻ hiển nhiên, điều khiến việc tìm ra các lựa chọn trở nên khó khăn. Một lợi ích khác của việc sử dụng một phần của bức tranh là giúp cho việc diễn giải bức tranh vượt ra ngoài cái chúng ta đang nhìn thấy. Nó khiến ta phải xem xét không chỉ tình huống thực tại mà cả những yếu tố bên ngoài.
Tài liệu viết − những mẩu truyện
Giáo viên có thể sử dụng những mẩu truyện trên báo chí hoặc sách reentaij bất cứ thời điểm nào trong quá trình giảng dạy. Không bó hẹp ở truyện mà là bất cứ tài liệu viết nào.
Các mẩu truyện có thể được sử dụng theo những cách sau: Đưa ra những quan điểm khác nhau về các nhân vật trong truyện.
Thay đổi từ một mô tả được yêu thích sang không yêu thích, không phải bằng cách thay đổi nội dung mà thay đổi cách nhấn nhá và
https://thuviensach.vn
nhìn nhận nó theo một cách khác.
Rút ra một ý nghĩa khác từ thông tin được cung cấp thay vì điều tác giả đưa ra.
Ví dụ 1
Câu chuyện trên báo về một con đại bàng vừa sổng chuồng ở sở thú và rất khó bắt lại nó. Nó đậu trên một cành cao và ngăn cản mọi nỗ lực của người canh giữ đưa nó về chuồng.
Các lựa chọn
Quan điểm của người canh giữ: con chim có thể đã bị lạc hoặc bị bắt nếu nó không được bắt về sớm. Không thể leo lên những cây mà con chim vừa đậu, điều đó thật điên rồ. Ai đó cần phải chịu trách nhiệm cho việc làm con chim sổng chuồng.
Quan điểm của giới báo chí: con chim ở ngoài càng lâu càng tốt. Có ai có thể đến gần để chụp hình con chim không? Chúng ta cần tìm kiếm những ý kiến khác nhau của mọi người về cách bắt con chim về.
Quan điểm của con đại bàng: tự hỏi tất cả những ồn ào này là gì? Cảm giác lạ lẫm khi không ở trong chuồng. Cảm thấy đói. Không biết phải bay đi đâu.
Quan điểm của những người bên ngoài: hy vọng con đại bàng sẽ trốn thoát và được tự do. Theo dõi những nỗ lực để bắt con chim về. Con đại bàng khi sống bên ngoài tự do theo cách của nó sẽ tốt hơn nhiều so với sống trong chuồng. Chắc hẳn sẽ có người thông
minh tìm ra được cách bắt lại con chim trong khi những người khác không thể.
Nhận xét
Khi câu chuyện càng có nhiều nhân vật liên quan thì càng dễ dàng tạo ra những quan điểm khác nhau trong câu chuyện đó. Mỗi học
https://thuviensach.vn
viên có thể cố gắng thử tạo ra nhiều quan điểm khác nhau. Bài tập không nhằm đoán xem người khác nghĩ gì nhưng để chúng ta thấy rằng có thể cấu trúc một tình huống theo nhiều cách khác nhau như thế nào.
Ví dụ 2
Câu chuyện diễn tả cuộc sống thiếu tiện nghi trong một cộng đồng nguyên thủy nơi người ta không biết đọc, biết viết và chỉ làm việc cực nhọc trên đồng để mưu sinh.
Các lựa chọn
Cuộc sống tiện nghi hay không thuộc về thói quen sống của con người. Nếu một người đã quen với những thứ đơn giản và có thể chấp nhận những thứ đơn giản thì sẽ tốt hơn là kỳ vọng những thứ phức tạp và thất vọng khi không có được nó.
Có thể biết đọc và biết viết sẽ chỉ làm một người thấy thất vọng khi nhận biết được những điều tồi tệ đang xảy ra ở phần còn lại của thế giới. Có thể biết đọc biết viết sẽ chỉ làm ta càng thất vọng hơn.
Mọi người đều phải chăm chỉ làm việc, dù việc này hay việc khác. Có thể những người làm việc chăm chỉ trên đồng ruộng sẽ nhận được nhiều đền đáp – họ được tận mắt chứng kiến cây trồng lớn lên và hưởng thụ thành quả họ trồng được.
Nhận xét
Những quan điểm thay thế không nhất thiết phải là quan điểm của chính người tạo ra nó và cũng có thể trùng khớp với ý kiến của tác giả. Mục tiêu là để thể hiện rằng chúng ta có thể có những cách nhìn khác nhau về cùng một sự việc như thế nào. Không phải cố gắng chứng minh quan điểm này tốt hơn quan điểm khác nhưng không tránh khỏi các câu hỏi tranh luận bởi việc chấp thuận những ý kiến không đồng tình không hề dễ dàng. Lợi ích của việc chấp thuận các quan điểm trái chiều là ta có nhiều cơ hội để tái cấu trúc chúng.
https://thuviensach.vn
Ví dụ 3
Một câu chuyện nói về bộ tóc dài và quần áo nhiều màu sắc của những chàng thanh niên như là một ví dụ chứng minh rằng thanh niên đang dần mất đi sự nam tính và trở nên nữ tính hóa. Họ dần không phân biệt được là nam hay nữ.
Các lựa chọn
Để tóc dài là một sự can đảm, nó chứng tỏ người đó có dũng khí khi không tuân theo những nguyên tắc truyền thống.
Từ xa xưa cho đến thời kỳ cận đại, người đàn ông vẫn để tóc dài như trong thời Elizabeth, và họ xem đó là biểu hiện rất nam tính. Còn quần áo nhiều màu sắc thì chỉ đơn giản là màu sắc sặc sỡ. Những người này thể hiện sự nam tính theo cách riêng của họ.
Tại sao con gái và con trai không thể trông giống nhau?
Nếu không phân biệt được nam nữ thì ít nhất nữ giới cũng có được quyền bình đẳng.
Nhận xét
Trong cách tái cấu trúc này, không có sự tham gia của những thông tin mới. Mục đích không phải là trình bày một khía cạnh khác của tình huống mà chỉ khẳng định rằng tài liệu được kết hợp với nhau để cho ra quan điểm này thì cũng có thể kết hợp với nhau theo một cách hoàn toàn khác.
Các vấn đề
Các vấn đề có thể được tạo ra từ sự bất tiện của cuộc sống hằng ngày hoặc gặp trên báo chí. Báo chí đề cập khá nhiều đến những khó khăn, sự bất an, lời phàn nàn và các vấn đề sai trái. Mặc dù những điều này không khơi nguồn cho các vấn đề, nhưng chúng ta có thể dễ dàng diễn tả lại nó theo một cách khác. Chỉ cần một vấn đề chung là đủ, không cần phải là một vấn đề chính thức. Bất cứ
https://thuviensach.vn
tình huống nào mà ta có thể cải thiện được thì đều có thể trở thành vấn đề.
Sử dụng vấn đề như một tài liệu để tạo ra những lựa chọn có thể được thực hiện bằng hai cách:
1. Tạo ra những cách đặt vấn đề khác nhau.
2. Tạo ra những cách tiếp cận khác nhau với vấn đề.
Cần nhấn mạnh rằng chúng ta không cố gắng tìm cách giải quyết vấn đề mà tìm các cách khác nhau để nhìn nhận vấn đề. Bạn có thể đi xa hơn là tìm ra các giải pháp giải quyết vấn đề nhưng điều đó không cần thiết.
Ví dụ
Vấn đề trẻ con bị tách khỏi bố mẹ trong đám đông.
1. Trình bày lại vấn đề
Các lựa chọn
– Tránh việc trẻ con tách khỏi bố mẹ trong đám đông. – Tránh việc trẻ con bị thất lạc.
– Tìm và trả trẻ bị lạc cho bố mẹ.
– Giúp bố mẹ không cần phải mang trẻ theo khi tham gia vào đám đông (nơi giữ trẻ ở những cuộc triễn lãm,…).
Nhận xét
Một vài cách đặt vấn đề thay thế đã gợi ý đến các đáp án. Những cách đặt vấn đề càng tổng quát thì sẽ càng ít khả năng cho ra đáp án gợi ý. Nếu vấn đề đặt ra ban đầu tổng quát thì không dễ gì đặt lại vấn đề đó theo một cách khác mà vẫn ở mức độ khái quát như vậy. Nếu đây là tình huống thì một người thường luôn đi vào chi tiết để
https://thuviensach.vn
tạo ra những lựa chọn thay thế. Ví dụ “vấn đề trẻ con bị thất lạc trong đám đông” có thể được diễn tả lại thành “vấn đề bất cẩn của bố mẹ trong đám đông” hay “vấn đề của trẻ em trong đám đông” nhưng cũng có thể tiếp cận ở mức độ cụ thể hơn như “vấn đề trả lại những đứa trẻ bị lạc cho bố mẹ chúng”.
2. Những cách tiếp cận khác
Các lựa chọn
Gắn chặt những đứa trẻ với bố mẹ chúng
Có cách nhận diện tốt hơn cho trẻ con (dán địa chỉ trên đồ dùng)
Khiến cho bố mẹ thấy không cần thiết phải mang trẻ tới đám đông (nơi giữ trẻ…)
Đặt một điểm hẹn gặp cho trẻ em và cha mẹ nếu lỡ có thất lạc nhau.
Hiển thị danh sách các trẻ bị thất lạc.
Nhận xét
Trong trường hợp này những cách tiếp cận có vẻ giống với giải pháp thực tế. Tuy nhiên, trong những trường hợp khác, cách tiếp cận chỉ xác định cách để xử lý vấn đề. Ví dụ với vấn đề trẻ bị thất lạc thì có thể là “thu thập số liệu xem có bao nhiêu người đem trẻ đến đám đông vì họ muốn trẻ con ở đó hoặc vì không có ai trông trẻ”.
Loại vấn đề
Giáo viên cần lựa chọn loại vấn đề phụ thuộc vào độ tuổi của học viên. Các vấn đề được liệt kê bên dưới được chia thành hai nhóm: dành cho nhóm nhỏ tuổi và dành cho nhóm lớn tuổi.
Dành cho nhóm nhỏ tuổi:
https://thuviensach.vn
– Giặt giũ nhanh chóng và dễ dàng hơn.
– Đến trường đúng giờ.
– Làm cây kem lớn hơn.
– Lấy quả bóng mắc kẹt trên cành cây.
– Làm sao để quản lý khách đổi chỗ trên xe buýt.
– Những chiếc ô tốt hơn.
Dành cho nhóm lớn tuổi:
– Tắc đường.
– Chỗ trong sân bay.
– Đủ tiền mua nhà giá rẻ.
– Vấn đề lương thực thế giới.
– Những người chơi môn bóng gậy (cricket) sẽ làm gì vào mùa đông?
– Thiết kế một cái lều tốt hơn.
Tổng kết
Chương này đề cập đến việc cố ý tạo ra những lựa chọn thay thế. Việc tạo ra nhiều lựa chọn có lợi ích riêng của nó, và không phải để tìm ra giải pháp tốt nhất nhìn nhận sự việc. Giải pháp tốt nhất có thể đến một cách hiển nhiên trong quá trình tìm ra nhiều lựa chọn thay thế, nhưng nó không nhằm mục đích cố gắng tìm ra giải pháp tốt nhất. Nếu chỉ chú tâm tìm ra cách tốt nhất thì ta sẽ dừng lại ngay khi đã tìm ra được cách có vẻ là tốt nhất. Tuy nhiên, thay vì dừng lại, ta nên tiếp tục tìm kiếm thêm những lựa chọn khác để cảm nhận được lợi ích của việc tạo ra nhiều lựa chọn thay thế. Mục đích của quá trình tạo ra nhiều lựa chọn thay thế là để nới rộng những góc nhìn
https://thuviensach.vn
cứng nhắc đối với mọi việc, để thấy rằng luôn có nhiều cách nhìn nhận khác nhau nếu chúng ta cố gắng tìm kiếm chúng và có được thói quen tái cấu trúc những mô hình.
Việc sử dụng phương pháp đặt hạn mức có vẻ tốt hơn là chỉ xác định chung chung khi cố gắng tìm ra những cách khác nhau để nhìn nhận sự việc. Vì những ý định chung chung chỉ đạt hiệu quả đối với những sự việc dễ nhưng không hiệu quả với những vấn đề khó. Một khi đã đặt ra hạn mức, chúng ta sẽ cố gắng để đạt được số lượng hạn mức đó.
https://thuviensach.vn
Thách thức các giả định
C
hương trước đã đề cập đến việc tạo ra những cách lựa chọn thông qua việc kết hợp nhiều yếu tố với nhau. Đó là vấn đề tìm ra những cách khác nhau trong việc kết hợp A, B, C và D để tạo thành những mô hình mới. Chương này đề cập đến A, B, C, D và lợi ích của chính nó. Mỗi yếu tố tự bản thân nó đã là một mô hình mẫu được chấp nhận.
Mô hình là cách nhìn nhận hoặc diễn tả rập khuôn về sự vật, sự việc. Nhưng mô hình không chỉ diễn tả cách sắp xếp các ý tưởng mà còn nói đến bản thân ý tưởng đó. Thông thường những ý tưởng căn bản được xem là đúng đắn, sau đó khi sắp xếp lại, chúng lại tạo nên những mô hình khác nhau. Nhưng bản thân các ý tưởng căn bản đã là những mô hình và cần được cấu trúc lại. Mục đích của tư duy đa chiều là thách thức bất kỳ giả thiết nào để cấu trúc lại mô hình. Sự đồng thuận chung về một giả định không đảm bảo rằng giả định đó đúng. Đó chỉ là những giả định được sử dụng từ ngày này sang ngày khác mà không đánh giá lại tính đúng đắn.
Bên dưới là ba hình và yêu cầu sắp xếp chúng thành một khối thống nhất mà bạn có thể miêu tả dễ dàng. Khá khó khăn để tìm ra được cách sắp xếp. Thay vì cố gắng xếp những hình đã cho lại với nhau, ta có thể xem xét lại từng hình, và sau đó nhận thấy có thể chia hình vuông làm đôi. Khi đó, ta sẽ dễ dàng sắp xếp tất cả các hình đó lại thành một hình đơn giản. Suy luận loại suy này cho thấy rằng đôi khi không thể giải quyết vấn đề bằng cách cố gắng sắp xếp những cái đang có theo cách này hoặc cách khác, nhưng thay vào đó, ta nên kiểm tra lại chính những cái sẵn có.
21
https://thuviensach.vn
Nếu bài toán trên thật sự là một vấn đề thực tế và đáp án như đã trình bày thì ngay lập tức sẽ có ý kiến cho rằng đây là một sự lừa đảo. Sự phản đối đó xuất phát từ giả định rằng những hình hiện tại không thể thay đổi. Điều đó cho thấy một người luôn sử dụng những giả định giới hạn hay rào cản nào đó.
Khi giải quyết vấn đề, ta thường giả định một vài giới hạn nhất định. Những giới hạn này giúp ta giải quyết vấn đề dễ dàng hơn bằng cách thu hẹp phạm vi giải quyết vấn đề. Nếu một ai đó đưa cho bạn một địa chỉ ở London, bạn sẽ khó tìm ra được địa chỉ đó. Nhưng nếu người đó nói với bạn rằng nó ở phía bắc của sông Thames thì việc đó sẽ dễ dàng hơn. Nếu người đó nói rằng nó chỉ trong khu vực đi bộ của giao lộ Piccadilly Circus thì việc tìm kiếm còn dễ hơn nữa. Vì thế khi giải quyết vấn đề, chúng ta cũng thường tự mình đặt ra những giới hạn để khám phá vấn đề đó. Nếu bất kỳ ai giải quyết vấn đề bên ngoài giới hạn đặt ra thì lập tức bị cho là đang lừa đảo. Những giới hạn đó thường do ta tự đặt ra. Hơn nữa, nền tảng của các giới hạn đó cũng không hề vững chắc, nó hiện hữu để đem lại sự thuận tiện. Nếu những giới hạn hay ranh giới này sai thì ta có thể không giải quyết được vấn đề, giống như bạn cứ tìm địa chỉ ở phía bắc của sông Thames trong khi nó nằm ở phía nam.
Vì không thể kiểm tra lại hết mọi thứ, nên ta thường phải nghiễm nhiên chấp nhận mọi thứ trong mọi hoàn cảnh, không chỉ là khi gặp vấn đề. Trong một buổi sáng muộn ngày thứ Bảy, tôi đang đi mua sắm thì gặp một người bán hoa đang ôm một bó cẩm chướng lớn. Anh ta bán với giá 10 xu – có vẻ là một giá hời. Tôi đoán rằng anh ấy muốn bán hết số hoa còn lại vì trời đã gần trưa. Tôi trả tiền, rồi anh ta lấy ra một bó hoa nhỏ khoảng bốn bông từ bó hoa lớn đó và đưa cho tôi. Đó chỉ là một bó hoa nhỏ được buộc bởi một đoạn dây. Tôi đã tham lam khi giả định rằng bó hoa 10 xu mà người bán hàng nói tới là toàn bộ số hoa trên tay anh ta.
Một ngôi nhà vừa được hoàn thành. Vào ngày mừng tân gia, một người phát hiện rằng mọi thứ đều có vẻ thấp hơn bình thường một chút. Trần thấp, cửa chính thấp, khung cửa sổ thấp. Không ai hiểu chuyện gì đã xảy ra. Cuối cùng một người đã phát hiện ra rằng ai đó
https://thuviensach.vn
đã làm hỏng cái thước đo mà người thợ xây sử dụng bằng cách cắt ngắn đi một đoạn ở đầu. Vì thế khi sử dụng thước đo, người thợ xây đã giả định rằng nó đúng và dùng nó để làm hệ quy chiếu.
Rượu lê sản xuất ở Thụy Sỹ có nguyên một trái lê trong bình rượu. Làm sao cho được trái lê vào trong đó? Nhiều người đoán rằng cổ bình được đóng lại sau khi đã đặt trái lê vào trong. Cũng có người cho rằng sau khi bỏ trái lê vào thì nhà sản xuất mới đóng đáy bình. Chúng ta thường giả định rằng người ta đặt nguyên một trái lê lớn như vậy vào trong bình ngay từ đầu nhưng thực tế, họ đã đặt một
cành lê đang ra trái nhỏ vào trong chai qua cổ bình, và trái lê tiếp tục lớn lên trong đó tới khi trưởng thành. Nếu biết được điều này thì chắc hẳn chúng ta không thắc mắc gì về việc làm sao để đưa trái lê vào trong bình.
Khi thách thức những giả định, chúng ta thách thức tính cần thiết của giới hạn hay những ranh giới và thách thức sự chính xác của từng khái niệm. Tư duy đa chiều không đặt câu hỏi để tấn công các giả định hay đưa ra những lựa chọn tốt hơn. Nó chỉ đơn giản là tái cấu trúc các mô hình. Và chỉ ra rằng giả định là những mô hình thường trốn tránh quá trình tái cấu trúc.
Thực hành
1. Những vấn đề minh họa
Vấn đề 1
Một nhân viên trồng cây xanh được giao cho một bảng hướng dẫn cách trồng bốn cây sao cho khoảng cách giữa các cây phải bằng nhau. Bạn sẽ sắp xếp những cây này như thế nào?
Quy trình thông thường là cố gắng sắp xếp bốn chấm trên một tờ giấy sao khoảng cách mỗi chấm đến các chấm còn lại đều bằng nhau. Việc này là không thể. Vấn đề có vẻ như rơi vào bế tắc.
Sự bất khả thi đến từ giả định rằng bốn cái cây được trồng trên cùng một mặt phẳng. Nếu người trồng cây thách thức giả định này,
https://thuviensach.vn
người đó sẽ nhận ra rằng hoàn toàn có thể trồng cây theo cách đã yêu cầu. Một cây được trồng ở đỉnh đồi và ba cây còn lại trồng ở các sườn đồi. Theo cách này, các cây sẽ có khoảng cách đều nhau (trong thực tế đó là các góc của tứ diện). Một người khác cũng có thể giải quyết vấn đề bằng cách đặt một cây ở đáy của một cái hố và những cây khác trên miệng hố.
Vấn đề 2
Đây là một vấn đề không mới nhưng nó khiến cho những dấu chấm trở nên thú vị. Có chín dấu chấm được sắp xếp như ở trang sau. Hãy nối chín điểm trên bằng bốn đường thẳng liên tiếp nhau với một nét vẽ liên tục.
Thoạt đầu chúng ta có cảm giác vấn đề dễ giải quyết. Nhưng sau nhiều lần thử, chúng ta nhận thấy rằng luôn cần nhiều hơn bốn đường thẳng. Có vẻ khó lòng giải quyết được vấn đề này.
Chúng ta thường đặt giả định là các đường thẳng nối các điểm không được vượt ra ngoài phạm vi của các điểm này. Nếu loại bỏ giả định và vượt qua giới hạn đó thì việc giải quyết vấn đề sẽ dễ dàng.
22
Vấn đề 3
Một người đàn ông làm việc trong một tòa nhà cao tầng. Mỗi buổi sáng ông ta đều đi thang máy từ tầng trệt lên tầng mười, sau đó ra khỏi thang máy và đi bộ lên tầng mười lăm. Tới tối khi về, ông ta lại đón thang máy từ tầng mười lăm đi xuống tầng trệt. Vì sao người đàn ông đó lại hành động như vậy?
Có rất nhiều giải thích như sau:
1. Người đàn ông muốn tập thể dục.
https://thuviensach.vn
2. Người đàn ông muốn nói chuyện với ai đó trên đường đi từ tầng mười đến tầng mười lăm.
3. Người đàn ông muốn ngắm cảnh khi anh ta đi bộ lên.
4. Người đàn ông muốn ai đó nghĩ rằng anh ta làm việc ở tầng mười. (Chắc hẳn nơi đó danh giá hơn.)
Trong thực tế anh ta làm vậy vì không có sự lựa chọn nào khác. Anh ta là một người lùn và không thể với cao hơn nút tầng 10 trong thang máy.
Chúng ta thường giả định rằng người đàn ông này là một người hoàn toàn bình thường và hành vi của anh ta không bình thường.
Chúng ta cũng có thể thu thập thêm những vấn đề khác tương tự về hành vi kỳ lạ, và tìm hiểu nguyên nhân thật sự phía sau hành vi đó. Mục tiêu của những câu đố loại này là nhằm chỉ ra rằng việc chấp nhận những giả định có thể dẫn đến những khó khăn hoặc bế tắc khi giải quyết vấn đề.
2. Những vấn đề hình hộp
Vấn đề
Lấy bốn đồ vật hình khối (có thể là hộp diêm, hộp ngũ cốc, sách, hoặc hộp bột giặt). Yêu cầu: Sắp xếp các hình hộp sao cho các hộp này tiếp xúc nhau. Hai hộp được gọi là tiếp xúc khi bất kỳ phần nào trên bề mặt chúng tiếp xúc nhau – không tính tiếp xúc ở cạnh và góc.
Những cách sắp xếp được nêu ra như sau:
1. Sắp xếp các hộp sao cho mỗi hộp tiếp chạm vào hai hộp khác.
2. Sắp xếp các hộp sao cho một hộp chạm một hộp khác, một hộp chạm hai hộp khác, và hộp còn lại chạm ba hộp kia.
3. Sắp xếp các hộp sao cho mỗi hộp tiếp xúc với ba hộp còn lại.
https://thuviensach.vn
4. Sắp xếp các hộp sao cho mỗi hộp tiếp xúc với một hộp khác. Các giải pháp
1. Có nhiều cách để làm việc này. Một số cách được trình bày ở trang 133. Đây là cách sắp xếp vòng tròn, khi đó mỗi hộp sẽ tiếp xúc với hai hộp khác bên cạnh – một đằng trước và một đằng sau.
2. Có một vài khó khăn khi giải quyết vấn đề này vì chúng ta giả định rằng các khối hộp phải được sắp xếp theo chuỗi như yêu cầu. Ví dụ hộp này tiếp xúc với một hộp khác, một hộp tiếp xúc hai hộp khác, một hộp tiếp xúc ba hộp khác. Tuy nhiên, nếu bắt đầu bằng cách làm một hộp tiếp xúc với ba hộp khác thì sau đó ta thay đổi dần để có được cách sắp xếp như được trình bày.
3. Một vài người cảm thấy khó khăn vì họ giả định rằng tất cả các khối hộp phải được đặt trên cùng một mặt phẳng. Ngay khi không mắc phải giả định đó và xếp các khối chồng lên nhau thì ta có được giải pháp thỏa mãn yêu cầu đặt ra.
4. Nhiều người cảm thấy khó khăn khi giải quyết vấn đề này. Chúng ta thường sắp xếp các khối hộp theo một đường thẳng. Cách này không đúng vì hộp cuối cùng chỉ tiếp xúc với một hộp khác, trong khi hộp ở giữa tiếp xúc tới hai hộp khác. Nhiều người nghĩ rằng không giải quyết được vấn đề này nhưng thực ra cách sắp xếp đúng rất đơn giản.
Nhận xét
Để giải quyết vấn đề chúng ta thường thử nhiều cách sắp xếp các khối hộp khác nhau. Nhưng điều đó không có lợi ích gì nếu ta không nghĩ đến việc cho hộp này tiếp xúc với hộp khác. Vì thế để thuận tiện, chúng ta giả định rằng các khối hộp tiếp xúc với nhau theo một cách nào đó (nghĩa là chỉ có một cách sắp xếp duy nhất). Giả định đó là giới hạn do người đó tự đặt ra, chính giả thiết này làm vấn đề trở nên khó giải quyết trong khi nó rất đơn giản.
Kỹ thuật “Tại sao?”
https://thuviensach.vn
Đây là một trò chơi giúp chúng ta thực hành thách thức giả định. Chúng ta sử dụng kỹ thuật này một cách chủ ý. Kỹ thuật hỏi “Tại sao?” này rất giống với thói quen thường xuyên hỏi tại sao của trẻ nhỏ. Cái khác là chúng ta hỏi tại sao khi không biết câu trả lời, nhưng với kỹ thuật “Tại sao?”, ta đã biết câu trả lời. Phản ứng thông thường trước câu hỏi này là giải thích điều gì đó không quen thuộc theo cách khiến chúng trở nên quen thuộc để lý giải được chấp nhận. Trong kỹ thuật tại sao, các thuật ngữ quen thuộc này cũng bị đặt nghi vấn, không bỏ qua bất cứ điều gì.
Quá trình thực hiện tương đối khó. Theo khuynh hướng tự nhiên, chúng ta thường không đủ khả năng giải thích hoặc đi lòng vòng và lặp lại lời giải thích đã sử dụng trước đó. Một khuynh hướng rất tự nhiên nữa là trả lời “bởi vì” nếu gặp câu hỏi về một điều rất hiển nhiên. Bài tập này nhằm mục đích giúp ta tránh được cảm giác quá hiển nhiên với bất cứ vấn đề gì.
Giáo viên đưa ra những câu khẳng định và học viên hỏi “Tại sao?”. Giáo viên đưa ra một lời giải thích, sau đó học viên lại tiếp tục hỏi “Tại sao?”. Nếu quá trình chỉ lặp đi lặp lại tự động câu hỏi “Tại sao?” thì không cần đến bên thứ hai để đặt câu hỏi, vì học viên thường có thói quen không đặt giả định gì. Trong thực tế, câu hỏi “Tại sao?” không bao giờ lặp lại tự động mà thường liên quan đến một vài khía cạnh nào đó của lời giải thích trước đó. Câu hỏi “Tại sao?” có thể giúp điều chỉnh sự tập trung.
Các ví dụ
Tại sao những cái bảng màu đen?
Bởi vì nếu không như vậy con người sẽ không gọi nó là bảng đen. Tại sao phải gọi nó như vậy?
Nó không có lý do.
Tại sao?
https://thuviensach.vn