🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tự Do Đầu Tiên Và Cuối Cùng - J.Krishnamurti
Ebooks
Nhóm Zalo
J. KRISHNAMURTI
Hoàng Huấn dịch
TỰ DO ĐẦU TIÊN & CUỐI CÙNG
FIRST NEWS
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Giám đốc – Tổng Biên tập ĐINH THỊ THANH THỦY
Biên tập: Hồ Công Hoài Dũng
Sửa bản in: Vịnh Nghi
Trình bày: Bích Trâm
Bìa: Phương Thảo
NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 62 Nguyễn Thị Minh Khai - Q. 1 - TP. HCM
ĐT: (028) 38225340 - 38296764 - 38247225
Fax: 84.28.38222726
Email: [email protected]
Website: www.nxbhcm.com.vn
Sách điện tử: www.sachweb.vn
NHÀ SÁCH TỔNG HỢP 1
62 Nguyễn Thị Minh Khai, Q. 1, TP. HCM
ĐT: (028) 38 256 804
NHÀ SÁCH TỔNG HỢP 2
86 - 88 Nguyễn Tất Thành, Q. 4, TP. HCM
ĐT: (028) 39 433 868
GIAN HÀNG M01 - ĐƯỜNG SÁCH TP. HCM
Đường Nguyễn Văn Bình, Q. 1, TP. HCM
Thực hiện liên kết:
CÔNG TY TNHH VĂN HÓA SÁNG TẠO TRÍ VIỆT (First News) Địa chỉ: 11H Nguyễn Thị Minh Khai, Q. 1, TP. HCM
In 4.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5 cm tại Công ty TNHH MTV In Báo Nhân dân TP. Hồ Chí Minh, (D20/532P, Ấp 4, Xã Phong Phú, Huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh). Xác nhận đăng ký xuất bản số 54- 2020/CXBIPH/02-424/THTPHCM ngày 6/01/2020 - QĐXB số 41/QĐ THTPHCM-2020 cấp ngày 05/02/2020. In xong và nộp lưu chiểu quý II/2020. ISBN: 978-604-58-3399-5.
LỜI TỰA
Con người là động vật lưỡng cư vì sống đồng thời ở hai thế giới – thế giới có sẵn và thế giới tự tạo; thế giới của vật chất, đời sống và ý thức, và thế giới của các biểu tượng. Trong tư duy của mình, chúng ta sử dụng nhiều hệ thống biểu tượng – ngôn ngữ học, toán học, hình ảnh, âm nhạc, nghi thức. Nếu không có những hệ thống biểu tượng như vậy, chúng ta hẳn đã không có nghệ thuật, khoa học, luật pháp, triết học, thậm chí không có cả những nguyên tắc cơ sở cho nền văn minh: Hay nói cách khác, chúng ta có thể vẫn chỉ là những con vật mà thôi.
Vậy thì các biểu tượng là không thể thiếu được. Song những biểu tượng cũng có thể là hiểm họa – như lịch sử của thời đại riêng chúng ta và mọi thời kỳ khác đều thể hiện rất rõ. Chẳng hạn, một mặt hãy xem xét lĩnh vực khoa học, mặt khác xem lĩnh vực chính trị và tôn giáo. Khi nghĩ đến và hành động phản ứng theo một tập hợp các biểu tượng, chúng ta tiến tới việc hiểu và điều khiển những sức mạnh cơ bản của tự nhiên ở mức độ nhỏ nào đó. Còn khi nghĩ đến và hành động phản ứng theo một tập hợp các biểu tượng khác, chúng ta sẽ sử dụng những sức mạnh này như là phương tiện để thảm sát hàng loạt và tự tử tập thể. Trong trường hợp thứ nhất, các biểu tượng có tính cách giải thích đã được chọn lựa tốt, phân tích cẩn thận và ngày càng thích ứng với những vấn đề nổi bật trong sự hiện hữu vật chất. Trong trường hợp thứ hai, ban đầu, các biểu tượng được lựa chọn không đúng đã không bao giờ được đưa ra để phân tích thấu đáo và không bao giờ được trình bày lại cho rõ ràng để hài hòa với các vấn đề nổi bật trong sự hiện hữu của con người. Và tồi tệ hơn nữa, những biểu tượng sai lầm này đã được khắp nơi tôn trọng một cách hoàn toàn tùy tiện, như thể chúng thì xác thực hơn theo cách bí ẩn nào đó so với những thực tế mà chúng đề cập đến. Trong bối cảnh tôn giáo và chính trị, hơi kém thỏa đáng, ngôn
từ không được coi là đại diện cho các sự việc và sự kiện. Ngược lại, những sự việc và sự kiện được coi là những minh họa cụ thể cho ngôn từ.
Cho tới nay, các biểu tượng chỉ được sử dụng một cách thực tế trong những lĩnh vực mà chúng ta cảm thấy không quá quan trọng. Tuy nhiên, trong mọi tình huống liên quan đến những xung động ngày càng sâu xa hơn, chúng ta cứ khăng khăng sử dụng các biểu tượng, không chỉ một cách phi hiện thực, mà còn sùng bái, thậm chí điên rồ. Và hậu quả là chúng ta có thể phạm phải, một cách nhẫn tâm và trong một khoảng thời gian dài, các hành động mà những kẻ vũ phu chỉ có thể mắc phải trong các khoảnh khắc ngắn và ở đỉnh điểm điên cuồng của cơn thịnh nộ, khao khát hoặc sợ hãi. Bởi vì con người sử dụng và tôn bái các biểu tượng, nên họ có thể trở thành những người hay lý tưởng hóa. Và là những người hay lý tưởng hóa, họ có thể biến thói tham lam thỉnh thoảng mới có ở thú vật thành chủ nghĩa đế quốc đồ sộ của một Rhodes hoặc một J. P. Morgan; biến thú vui bắt nạt thỉnh thoảng mới có ở loài thú thành Tòa án dị giáo Tây Ban Nha; biến sự gắn bó thỉnh thoảng mới có ở thú vật đối với lãnh thổ của chúng thành những sự cuồng loạn có tính toán của chủ nghĩa dân tộc. May thay, họ cũng có thể biến chuyển lòng tốt thỉnh thoảng mới có ở loài vật thành lòng nhân đức suốt đời của một Elizabeth Fry hay một Vincent de Paul; biến sự tận tụy thỉnh thoảng mới có của thú vật với bạn tình và con cái của chúng thành sự cộng tác hợp lý và kiên trì, mà cho tới nay đã chứng minh là đủ mạnh mẽ để cứu thế giới khỏi những hậu quả của kẻ kia, khỏi kiểu chủ nghĩa lý tưởng tai hại. Liệu nó có thể tiếp tục cứu rỗi thế gian không? Câu hỏi này không thể có đáp án. Với những kẻ lý tưởng hóa về chủ nghĩa dân tộc đang nắm giữ vũ khí hạt nhân, tất cả những gì chúng ta có thể nói là những xung đột nhằm ủng hộ những người lý tưởng hóa sự cộng tác và lòng nhân hậu đã sụt giảm dữ dội.
Trên thực tế, ngay cả cuốn sách dạy nấu ăn hay nhất cũng không thể thay thế cho một bữa ăn tệ nhất. Mọi chuyện có vẻ đã đủ rõ rồi. Tuy nhiên, qua các thời kỳ, những triết gia lỗi lạc nhất, các nhà thần
học uyên bác và sắc sảo nhất vẫn cứ mắc sai lầm trong việc đồng nhất hóa những diễn dịch hoặc giải thích thuần túy bằng lời nói của họ với sự thật, hoặc phạm sai lầm còn nghiêm trọng khi tưởng tượng rằng các biểu tượng thì có phần thật hơn là thứ mà chúng đại diện. Và việc sùng bái ngôn từ của họ không phải không bị phản bác. Thánh Paul nói: “Chỉ tinh thần mới ban sự sống, còn từ ngữ thì giết chết nó”. Còn Eckhart thì đặt câu hỏi: “Và tại sao, tại sao bạn cứ huyên thuyên về Thiên Chúa? Dù bạn có nói gì về Thiên Chúa thì cũng đều không đúng”. Còn ở phía bên kia địa cầu, tác giả của một trong những cuốn kinh Phật giáo Đại thừa khẳng định: “Đức Phật không bao giờ thuyết giảng về chân lý, bởi vì bạn phải nhận ra nó từ bên trong mình”. Những phát biểu như vậy đã được cảm nhận để rồi bị bác bỏ hoàn toàn, và những người đứng đắn chẳng bao giờ để ý đến chúng. Thế nhưng sự ngưỡng vọng ngôn từ và biểu tượng cao đến mức kỳ lạ vẫn cứ tiếp tục không cách nào kiềm chế được. Các tôn giáo đã thoái trào, nhưng thói quen công thức hóa các tín điều và áp đặt niềm tin trong giáo điều vẫn còn dai dẳng ngay cả ở những người vô thần.
Trong những năm gần đây, các nhà logic học và nhà ngữ nghĩa học đã tiến hành một phân tích rất kỹ càng về những biểu tượng mà con người dùng để suy nghĩ. Ngôn ngữ học đã trở thành một môn khoa
học, thậm chí người ta có thể nghiên cứu một môn học mà Benjamin Whorf quá cố đã đặt cho cái tên là siêu ngôn ngữ học. Điều đó thì tốt thôi, song vẫn chưa đủ. Logic học và ngữ nghĩa học, ngôn ngữ học và siêu ngôn ngữ học – đó thuần túy là các môn học sử dụng trí óc. Chúng phân tích những cách khác nhau, đúng và không đúng, có nghĩa và vô nghĩa, mà ngôn từ có thể liên quan tới những sự vật, quá trình và sự kiện. Nhưng chúng không đưa ra hướng dẫn gì đối với vấn đề mang tính nền tảng hơn nhiều là về mối quan hệ của con người trong tổng thể tâm sinh lý, ở một mặt, và với hai thế giới của họ, thế giới dữ kiện và thế giới biểu tượng, ở mặt kia.
Ở mọi nơi và mọi giai đoạn lịch sử, bản thân mỗi người cứ phải giải quyết vấn đề đó hết lần này sang lần khác. Ngay cả khi họ nói hoặc viết, những cá nhân này cũng không tạo nên những hệ thống – bởi
vì họ biết rằng mọi hệ thống đều là sự cám dỗ thường xuyên để khiến các biểu tượng trở nên quá nghiêm túc, để chú ý quá nhiều vào ngôn từ hơn là vào những thực tế mà chúng được coi là đại diện. Mục đích của họ là không bao giờ đưa ra những lời giải thích và phương thuốc trị bá bệnh có sẵn nào, mà mục đích là để kích thích người ta tự chẩn đoán và chữa trị những căn bệnh của chính mình, đưa họ đến đúng nơi vấn đề của con người và giải pháp cho nó tự thể hiện một cách trực tiếp để trải nghiệm.
Trong tuyển tập hình thành từ các bài viết và buổi nói chuyện được thu âm này của Krishnamurti, độc giả sẽ tìm thấy một tuyên bố rất hiện đại và rõ ràng về vấn đề nền tảng đó của con người, cùng với đó là lời mời giải quyết nó bằng giải pháp duy nhất khả dĩ – cho họ và bởi chính họ. Các giải pháp chung chung mà rất nhiều người liều lĩnh đặt niềm tin vào thì không bao giờ thích hợp. “Để hiểu nỗi đau khổ và hỗn loạn hiện hữu trong chính mình, và do đó trên thế giới này, chúng ta trước tiên phải tìm thấy sự rõ ràng trong bản thân, và sự rõ ràng chỉ xuất hiện thông qua tư duy đúng đắn. Sự rõ ràng này không thể được tổ chức, bởi vì nó không thể được trao đổi với người khác. Còn tư tưởng theo nhóm có tổ chức thì đơn thuần mang tính lặp lại. Và sự rõ ràng không phải là kết quả của việc khẳng định bằng lời nói, mà của việc tự nhận thức và tư duy đúng đắn. Tư duy đúng đắn không phải là kết quả của sự trau dồi trí năng đơn thuần, cũng không phải là sự tuân theo khuôn mẫu, dù khuôn mẫu đó có đáng tôn trọng và cao quý đến đâu đi nữa. Tư duy đúng phải đi kèm với sự tự biết mình. Khi không hiểu chính mình, bạn sẽ không có cơ sở để suy nghĩ chính xác. Khi không tự biết mình, điều bạn nghĩ là không đúng”.
Chủ đề nền tảng này được Krishnamurti phát triển qua từng đoạn văn. “Niềm hy vọng nằm ở con người, không phải ở xã hội, không phải trong các hệ thống, các hệ thống tôn giáo có tổ chức, mà ở bạn và ở tôi”. Trên thực tế, các tôn giáo có tổ chức, cùng với những người trung gian, kinh sách, giáo điều, các hệ thống cấp bậc và nghi lễ của họ cũng chỉ đưa ra giải pháp sai lầm cho vấn đề cơ bản. “Khi trích dẫn Bhagavad Gita, Kinh thánh , hoặc một cuốn sách thiêng
nào đó của Trung Hoa, thì chắc chắn bạn chỉ đơn thuần đang lặp lại, không phải vậy sao? Và điều mà bạn đang lặp lại đó không phải là sự thật. Đó là dối trá, bởi vì chân lý không thể lặp lại được”. Sự dối trá có thể được lan truyền, nói ra và lặp lại, nhưng sự thật thì không. Và khi bạn lặp lại sự thật, thì nó không còn là sự thật nữa, do đó, các kinh sách chẳng có gì quan trọng. Chính nhờ việc tự biết mình, chứ không phải nhờ tin vào những biểu tượng của người khác, người ta mới đến được với sự thật vĩnh cửu, mà trong đó, sự hiện hữu của họ có cơ sở vững chắc. Niềm tin vào sự hoàn hảo và giá trị tột bậc của bất cứ hệ thống biểu tượng có sẵn nào không dẫn tới sự tự do, mà dẫn về lịch sử, đưa tới những thảm họa còn trầm trọng hơn những thảm họa đã từng xảy ra. “Niềm tin chắc chắn sẽ gây phân cách. Nếu có niềm tin, hoặc khi tìm kiếm sự đảm bảo trong đức tin cụ thể của mình, bạn sẽ trở nên tách biệt với những ai mưu cầu sự an lành ở dạng niềm tin khác. Tất cả niềm tin có tổ chức đều dựa trên sự chia cách, mặc dù họ có thể thuyết giảng về tình huynh đệ đi nữa”. Người giải quyết được vấn đề ẩn trong mối quan hệ của họ với hai thế giới dữ kiện và biểu tượng là người không có niềm tin nào. Về những vấn đề của cuộc sống thực tế, người đó sẽ nuôi dưỡng một loạt các giả thuyết có thể chấp nhận, phục vụ cho những mục đích của anh ta, song không coi trọng hơn bất cứ dạng công cụ hoặc phương tiện nào khác. Còn về bạn bè của anh ta và về thực tại mà họ dựa vào, thì anh ta có những trải nghiệm trực tiếp về tình thương và sự thấu hiểu. Chính vì để bảo vệ mình khỏi những niềm tin mà Krishnamurti đã “không đọc bất cứ kinh sách nào, cả Bhagavad Gita và bộ Upanishad cũng không”. Có những người trong số chúng ta thậm chí không đọc các kinh sách, mà chỉ đọc báo chí và những cuốn truyện trinh thám ưa thích. Điều này có nghĩa rằng chúng ta tiếp cận sự khủng hoảng trong thời đại chúng ta không phải bằng tình thương và sự thấu hiểu, mà “bằng những công thức, bằng những hệ thống” – và những công thức, hệ thống ấy cũng tương đối nghèo nàn. Nhưng “người có thiện tâm không nên có những công thức”. Bởi vì các công thức tất yếu sẽ dẫn tới kiểu “tư duy mù quáng”. Thói nghiện công thức hầu như ở đâu cũng có. Chắc chắn là vậy, bởi vì “hệ thống giáo dục của chúng ta hiện dựa trên việc suy nghĩ về cái gì , chứ không phải suy nghĩ như thế nào ”.
Chúng ta được giáo dục để trở thành những thành viên có niềm tin và hoạt động trong một tổ chức nào đó – tín đồ Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Hindu giáo, Phật giáo, người theo học thuyết Freud. Hậu quả là “bạn phản ứng với những thách thức luôn luôn mới mẻ bằng một khuôn mẫu cũ kỹ. Và do đó, phản ứng của bạn không có giá trị, sự mới mẻ, tươi sáng tương xứng. Nếu phản ứng như một tín đồ Thiên Chúa giáo hay Hồi giáo, thì bạn đang phản ứng theo một tư duy trong khuôn khổ – chẳng phải sao? Vì vậy, phản ứng của bạn chẳng có ý nghĩa gì cả. Và không phải tín đồ Hindu giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo cũng đã tạo ra vấn đề này hay sao? Nếu tôn giáo mới là sự sùng bái chính thể, thì tôn giáo cũ là sự tôn sùng ý niệm”. Nếu phản ứng với một thách thức theo kiểu ước định cũ, thì phản ứng của bạn sẽ không thể cho phép bạn hiểu được thách thức mới đó. Do vậy, “nhằm đáp ứng với thách thức mới, điều mà một người phải làm là cởi bỏ chính mình triệt để, tự mình bỏ đi hoàn toàn hoàn cảnh và đối đầu với thách thức theo cách khác”. Hay nói khác đi, các biểu tượng không bao giờ nên được nâng lên tới mức độ của giáo điều, và bất cứ hệ thống nào cũng chỉ nên xem là một giải pháp tiện lợi tạm thời. Niềm tin vào các công thức và hành động tương xứng với những niềm tin này không thể đưa chúng ta tới một giải pháp cho vấn đề của mình. “Chỉ thông qua sự hiểu biết mang tính sáng tạo của chính chúng ta mới có thể có một thế giới sáng tạo, một thế giới hạnh phúc, một thế giới mà trong đó các ý niệm không tồn tại”. Một thế giới mà trong đó các ý niệm không tồn tại sẽ là một thế giới hạnh phúc, bởi vì đó sẽ là thế giới không bị những thế lực tạo ra ước định đầy quyền lực ép buộc con người phải thực hiện những hành động không thích hợp, một thế giới không có các giáo điều được coi là thiêng liêng mà dựa vào nó, những tội ác tồi tệ nhất được bào chữa, những thứ điên rồ nhất được hợp lý hóa một cách tinh vi.
Nền giáo dục dạy chúng ta không phải suy nghĩ như thế nào mà suy nghĩ cái gì là nền giáo dục kêu gọi một giai cấp thống trị của các giáo sĩ và những vị thầy. Nhưng “chính ý niệm dẫn dắt ai đó lại là phản xã hội và phản tinh thần”. Đối với người cầm quyền, sự lãnh đạo giúp thỏa mãn ham muốn quyền lực. Còn đối với người được
dẫn dắt, nó giúp thỏa mãn ham muốn được đảm bảo và an toàn. Vị thầy sẽ cung cấp một dạng thuốc kích thích. Nhưng, người ta có thể hỏi Krishnamurti: “ Ngài đang làm gì vậy? Chẳng phải ngài đang hành động với tư cách vị thầy của chúng tôi sao?”. Và Krishnamurti trả lời: “Chắc chắn tôi không hành động với tư cách vị thầy của các bạn, bởi vì trước tiên, tôi không cho bạn bất cứ sự thỏa mãn nào cả. Tôi không khuyên bạn nên làm gì vào mỗi lúc, hoặc mỗi ngày, mà tôi đơn giản là chỉ ra điều gì đó cho bạn mà thôi. Bạn có thể tiếp nhận hoặc bỏ ngoài tai, điều đó phụ thuộc vào bạn, chứ không phải tôi. Tôi không đòi hỏi một thứ gì từ bạn, không đòi bạn sùng bái, không đòi bạn nịnh bợ, không đòi bạn lăng mạ, cũng không đòi những vị thần thánh của bạn. Tôi nói: ‘Đây là sự thật. Hãy nhận lấy hoặc từ bỏ nó’. Và đa phần các bạn sẽ bỏ qua, bởi vì lý do hiển nhiên là bạn không tìm thấy sự thỏa mãn trong đó”.
Vậy thì chính xác Krishnamurti đưa ra điều gì? Thứ chúng ta có thể tiếp nhận nếu muốn, nhưng hầu hết sẽ thích bỏ qua hơn là gì? Như chúng ta thấy, đó không phải là một hệ thống đức tin, một danh mục
các giáo điều, một tập hợp những khái niệm và lý tưởng được thiết lập sẵn. Đó cũng không phải là sự lãnh đạo, không phải là sự điều đình, không phải là sự hướng dẫn về mặt tinh thần, thậm chí không
phải là ví dụ. Đó không phải là nghi thức, không phải nhà thờ, không phải quy tắc, không kích thích hoặc bất cứ dạng truyền cảm hứng lăng nhăng, nhảm nhí nào.
Vậy thì có lẽ đó là sự tự giác kỷ luật? Không, do thực tế tàn nhẫn, tự giác kỷ luật không phải là cách để giải quyết vấn đề của chúng ta. Để tìm thấy giải pháp, tâm trí phải tự cởi mở với thực tại, phải đương đầu việc bị quy định của thế giới ngoại tại và nội tại mà không có định kiến hay giới hạn. (Phụng sự Thượng Đế là sự tự do tuyệt đối. Ngược lại, sự tự do tuyệt đối là việc phụng sự Thượng Đế). Khi có kỷ luật, tâm trí của chúng ta không trải qua sự thay đổi triệt để nào. Đó vẫn là bản ngã cũ kỹ, nhưng “bị ràng buộc, bị kiềm chế” mà thôi.
Và sự tự giác kỷ luật có mặt trong danh sách những thứ mà Krishnamurti không đề nghị. Vậy thì liệu việc ông đề nghị có phải là cầu nguyện không? Một lần nữa, câu trả lời là không. “Cầu nguyện có thể mang lại câu trả lời mà bạn tìm kiếm. Song đáp án đó có thể đến từ tiềm thức của bạn, hoặc từ nguồn cung cấp chung, kho chứa của tất cả đòi hỏi của bạn. Câu trả lời đó không phải là tiếng nói tĩnh lặng của Thượng Đế”. Cân nhắc một chút, Krishnamurti tiếp tục: “Điều gì xảy ra khi bạn cầu nguyện. Bằng cách tụng niệm không ngừng những cụm từ nào đó, và bằng cách kiểm soát tư tưởng của bạn, tâm trí sẽ trở nên tĩnh lặng, phải vậy không? Ít nhất tầng ý thức của tâm* trở nên tĩnh lặng. Bạn quỳ gối giống như những tín đồ Thiên Chúa giáo, hoặc bạn ngồi như các tín đồ Hindu giáo, rồi bạn tụng niệm và tụng niệm, và thông qua sự lặp đi lặp lại đó, tâm trí trở nên tĩnh lặng. Trong sự an tĩnh này, có sự gợi đến điều gì đó. Và sự gợi đến điều gì đó mà bạn đã cầu nguyện có thể là từ tiềm thức, hoặc nó có thể là phản ứng từ các ký ức của bạn. Song chắc chắn nó không phải là tiếng nói của thực tại, bởi vì tiếng nói của thực tại phải đến với bạn. Nó không thể được thỉnh cầu, và bạn không thể cầu nguyện nó. Bạn không thể dụ dỗ nó chui vào cái lồng nhỏ bé của bạn bằng cách cầu nguyện theo kiểu puja hay hát nhạc bhajan và những thứ đại loại như vậy, bằng cách dâng hoa cho nó, bằng cách xoa dịu nó, bằng cách tự kiềm chế mình hoặc cạnh tranh với người khác. Một khi bạn học được mẹo để làm tâm tĩnh lặng, thông qua việc lặp lại các từ ngữ, và nhận được các sự gợi ý trong trạng thái tĩnh lặng đó, thì mối nguy hiểm là – trừ phi bạn hoàn toàn tỉnh giác nhận ra những gợi ý đó đến từ đâu – bạn sẽ bị mắc kẹt, và lúc đó, việc cầu nguyện trở thành hình thức thay thế cho việc tìm kiếm Sự Thật. Bạn nhận được điều mình mong muốn, nhưng đó không phải là sự thật. Nếu bạn muốn và nếu cầu xin, bạn sẽ nhận được, nhưng cuối cùng, bạn sẽ trả giá cho nó”.
Từ cầu nguyện, chúng ta chuyển qua yoga, và yoga, như chúng ta sẽ thấy, là một thứ nữa trong số những điều mà Krishnamurti không khuyến khích. Bởi vì yoga là sự tập trung tư tưởng và tập trung tư tưởng là sự ngăn chặn. “Bạn xây dựng một bức tường ngăn cách bằng việc tập trung vào một tư tưởng mà bạn chọn, rồi bạn cố gắng
tránh né tất cả các tư tưởng khác”. Cái thường được gọi là thiền định chỉ thuần túy là “bồi dưỡng, vun đắp cho sự kháng cự, cho sự tập trung riêng vào một ý niệm chúng ta chọn lựa”. Nhưng bạn lựa chọn gì? “Cái khiến bạn nói rằng đây là điều thiện, đúng, cao quý, còn những cái khác thì không phải? Hiển nhiên, sự chọn lựa dựa trên niềm vui, sự tưởng thưởng hay thành tựu. Hoặc thuần túy là một phản ứng của quá trình giáo dục hay truyền thống của một người. Tại sao bạn chọn như vậy? Tại sao không xem xét mọi tư tưởng? Khi bạn quan tâm tới nhiều, thì tại sao lại chọn một? Tại sao không xem xét mọi mối quan tâm? Thay vì tạo nên sự kháng cự, tại sao không đi vào từng mối quan tâm khi nó khởi lên, chứ không chỉ tập trung vào một ý niệm, một mối quan tâm? Suy cho cùng, bạn là tổng hợp của nhiều mối quan tâm, bạn có nhiều mặt nạ, một cách hữu ý và vô ý. Tại sao lại chọn một và tống khứ tất cả những thứ khác, trong cuộc đọ sức mà bạn dồn tất cả sức lực của mình vào, do đó tạo ra sự kháng cự, xung đột và xích mích. Ngược lại, nếu bạn xem xét mọi tư tưởng khi nó khởi lên – tất cả suy nghĩ, chứ không chỉ vài suy nghĩ – thì sẽ không có sự loại trừ. Tuy nhiên, xem xét mọi tư tưởng là việc rất khó khăn. Bởi vì khi bạn nhìn vào một tư tưởng, thì một tư tưởng khác sẽ lẻn vào. Nhưng nếu bạn nhận thức mà không tìm cách chi phối hoặc bào chữa, bạn sẽ thấy rằng khi chỉ đơn thuần nhìn vào tư tưởng đó, thì không có tư tưởng nào khác can thiệp vào. Chỉ khi nào bạn chỉ trích, so sánh, cố gò ép cho giống, thì các tư tưởng khác mới xâm nhập”.
“Các ngươi đừng xét đoán ai để khỏi bị xét đoán”. Câu giáo huấn trong sách Phúc âm áp dụng cho cách cư xử của chúng ta với chính mình, cũng như đối với những người khác. Nơi nào có sự xét đoán, nơi đó có sự so sánh, phê bình và thiếu vắng sự cởi mở đầu óc. Không thể có tự do từ sự bạo ngược chuyên chế của các biểu tượng và hệ thống, phương pháp; không có sự đào thoát khỏi quá khứ và môi trường. Việc tự xem xét nội tâm với một mục đích được xác định trước, việc tự vấn trong khuôn khổ một quy tắc truyền thống hay một tập hợp các nguyên lý cơ bản được thần thánh hóa nào đó – những điều này không và không thể giúp ích cho chúng ta. Có một sự tự phát siêu việt của cuộc đời, một “Thực tại sáng tạo”,
như cách Krishnamurti gọi nó, cái thực tại tự bộc lộ chính nó từ nội tại chỉ khi tâm của người lãnh hội ở trạng thái “thụ động tỉnh giác”, “nhận thức không chọn lựa”. Sự xét đoán và so sánh làm chúng ta
dính líu một cách không thể dứt bỏ vào tính nhị nguyên**. Chỉ sự nhận thức không chọn lựa mới có thể dẫn tới tình trạng phi nhị nguyên, tới sự hòa hợp của những tình trạng đối lập trong sự hiểu biết hoàn toàn và tình thương tuyệt đối. Giống như thành ngữ Latinh “Ama et fac quod vis”, nếu thương yêu, bạn có thể làm điều mình muốn. Nhưng nếu bắt đầu bằng cách làm điều mình muốn, hoặc bằng cách làm điều mình không muốn trong khi phục tùng phương pháp truyền thống hoặc những quan niệm, lý tưởng và sự cấm đoán nào đó, thì bạn sẽ không bao giờ biết thương yêu. Quá trình giải thoát phải bắt đầu với nhận thức không chọn lựa đối với bất cứ thứ gì bạn thích và đối với các phản ứng của bạn về hệ thống biểu tượng đã bảo bạn rằng bạn phải, hoặc không phải, muốn nó. Thông qua nhận thức không chọn lựa này, khi nó thâm nhập vào những lớp kế tiếp của bản ngã và tiềm thức gắn liền của nó, thì tình thương và sự hiểu biết sẽ xuất hiện, nhưng với một trật tự khác hẳn so với những gì thông thường chúng ta đã quen thuộc. Sự nhận thức không chọn lựa này – ở mọi khoảnh khắc và trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời – là sự thiền định hữu hiệu duy nhất. Tất cả dạng khác của yoga đều dẫn tới tư duy mù quáng do bắt nguồn từ sự tự giác kỷ luật, hoặc một kiểu trạng thái mê mẩn tự cảm nào đó, một dạng nhập định sai lầm nào đó. Sự giải thoát thực sự là “một sự tự do nội tại của Thực tại sáng tạo”. Đây “không phải là một món quà; nó là để được khám phá và trải nghiệm. Nó không phải là một thành tựu được gom về cho bạn nhằm tôn vinh chính bạn. Nó là một trạng thái hiện hữu, giống như sự yên lặng, trong đó không có việc đang trở thành, mà trong đó có sự toàn vẹn. Sự sáng tạo này có thể không nhất thiết phải tìm cách diễn tả, nó không phải là một tài năng đòi hỏi được phóng chiếu ra bên ngoài. Bạn không cần là một nghệ sĩ vĩ đại hay có khán giả của mình. Nếu tìm kiếm những thứ này, thì bạn sẽ bỏ qua Thực tại bên trong. Nó không phải một món quà, cũng không là kết quả của tài năng. Nó là để được tìm thấy, và chính kho báu bất diệt này là nơi tư duy tự giải thoát mình khỏi tham, sân, si, là nơi
tư tưởng tự giải thoát chính nó khỏi sự trần tục và sự khao khát cá nhân để là gì đó. Nó phải được thể nghiệm thông qua tư duy đúng đắn và thiền định”. Sự tự nhận thức không chọn lựa sẽ mang chúng ta đến với Thực tại sáng tạo nằm bên dưới tất cả sự giả vờ mang tính hủy hoại của mình, đến với trí tuệ yên lặng luôn luôn hiện hữu nơi đó, bất chấp sự vô minh, bất chấp hiểu biết mà chỉ thuần túy là sự vô minh ở một dạng khác. Hiểu biết là việc của các biểu tượng và luôn quá thường xuyên là một trở ngại cho trí tuệ trong việc vạch trần bản ngã qua từng khoảnh khắc. Một trí óc vươn tới sự tĩnh lặng của trí tuệ “sẽ biết sự hiện hữu, sẽ biết yêu thương là gì. Yêu thương không mang tính cá nhân, cũng không mang tính phi cá nhân. Yêu thương là yêu thương, không thể định nghĩa hay mô tả bằng tâm trí, dù riêng biệt hay bao hàm. Yêu thương là tính bất diệt của riêng nó. Nó là cái thực tế, cái tối thượng, cái vô hạn”.
- Aldous Huxley
* Theo thuyết của nhà thần kinh học và phân tâm học Sigmund Freud thì tâm thức gồm ba tầng: ý thức, tiền ý thức và vô thức. – ND
** Đây là đặc điểm của học thuyết triết học mang tên thuyết Nhị nguyên hay Nhị nguyên luận. Thuyết này xem xét thực tại bao gồm hai yếu tố hay phương thức tối giản, chẳng hạn vật chất và ý thức (hay tinh thần). – ND
Chương 1
GIỚI THIỆU
Tương giao với người khác là điều vô cùng khó khăn, cho dù chúng ta rất hiểu nhau đi nữa. Tôi có thể sử dụng những ngôn từ mà có thể đối với bạn mang ý nghĩa khác với tôi. Sự hiểu biết xuất hiện khi chúng ta, bạn và tôi, gặp nhau ở cùng trình độ tại cùng thời điểm. Điều đó xảy ra chỉ khi có lòng thương mến thực sự giữa người với người, giữa chồng với vợ, giữa những người bạn thân thiết, thâm giao. Đó là sự tương giao đích thực. Sự hiểu biết tức thời xuất hiện khi chúng ta gặp nhau ở cùng trình độ tại cùng thời điểm.
Rất khó tương giao với người khác một cách dễ dàng, hữu hiệu và với hành động dứt khoát. Tôi đang sử dụng những ngôn từ đơn giản, không mang tính chuyên môn, bởi vì tôi không nghĩ rằng bất cứ sự diễn tả mang tính chuyên môn nào sẽ có thể giúp chúng ta giải quyết những vấn đề nan giải của mình. Vì vậy, tôi không dùng bất cứ thuật ngữ tâm lý học hoặc khoa học nào cả. Thật may mắn, tôi cũng chưa đọc bất cứ cuốn sách tâm lý học hoặc tôn giáo nào. Tôi thích truyền đạt ý nghĩa sâu sắc bằng những ngôn từ rất đơn giản mà chúng ta sử dụng trong cuộc sống hằng ngày. Song điều đó sẽ rất khó nếu bạn không biết cách lắng nghe.
Lắng nghe là một nghệ thuật. Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên từ bỏ hoặc gạt qua một bên tất cả thiên kiến, định kiến và các hoạt động hằng ngày. Khi bạn đang ở trong tâm trạng dễ tiếp thu thì mọi thứ có thể được hiểu một cách dễ dàng; bạn đang lắng nghe chỉ khi bạn thật sự chú ý đến điều gì đó. Nhưng rủi thay, đa số chúng ta lại lắng nghe thông qua một bức màn kháng cự. Chúng ta bị che mắt bởi những thiên kiến, dù là về tôn giáo hay tâm linh, tâm lý học hay khoa học, hoặc bởi những phiền não, mong muốn và sợ hãi hằng
ngày của mình. Và với một bức màn che được dệt nên từ những thứ này, chúng ta lắng nghe. Do đó, chúng ta thật ra chỉ đang lắng nghe những ồn ã của riêng mình, những tiếng động của riêng mình, chứ không phải những gì đang được nói. Thật vô cùng khó khăn khi gạt qua một bên quá trình rèn luyện của chúng ta, bỏ qua những thành kiến, thiên vị, kháng cự và vượt qua sự diễn tả bằng lời, để lắng nghe mà hiểu ngay lập tức. Đó sẽ là một trong những khó khăn của chúng ta.
Trong suốt quá trình tôi nói đây, nếu có bất cứ điều gì đối lập với cách suy nghĩ và niềm tin của bạn, hãy cứ lắng nghe, đừng phản bác. Bạn có thể đúng và tôi có thể sai, nhưng bằng cách lắng nghe và cùng nhau xem xét, chúng ta sẽ tìm ra đâu là sự thật. Không ai có thể trao cho bạn sự thật. Bạn phải khám phá ra nó. Và để khám phá được, bạn phải có thái độ nhận thức trực tiếp. Khi có sự kháng cự, đề phòng, bảo vệ, thì không có nhận thức trực tiếp. Hiểu biết xuất hiện thông qua việc nhận thức về hiện trạng. Hiểu chính xác hiện trạng, sự thật, thực tại, mà không diễn dịch nó, không chỉ trích hoặc bào chữa, thanh minh cho nó, thì chắc chắn là sự khởi đầu của trí tuệ. Chỉ khi nào bắt đầu diễn dịch, giải thích theo quy định trói buộc cuộc sống của mình, theo thiên kiến của mình, thì chúng ta mới bỏ lỡ sự thật. Suy cho cùng, nó giống như việc nghiên cứu. Muốn biết điều gì đó chính xác là gì, đòi hỏi phải nghiên cứu – bạn không thể diễn dịch nó tùy theo tâm trạng. Tương tự như vậy, nếu chúng ta có thể nhìn, quan sát, lắng nghe, nhận thức về cái đang là một cách chính xác, thì vấn đề sẽ được giải quyết. Và đó là việc chúng ta sẽ thực hiện trong tất cả các cuộc đối thoại này. Tôi sắp chỉ ra cho bạn cái đang là, và không diễn dịch nó theo sự võ đoán của tôi. Và bạn cũng không nên hiểu nó hoặc diễn dịch nó theo hoàn cảnh hay quá trình rèn luyện của mình.
Vậy thì không thể hiểu mọi thứ đúng như nó là hay sao? Chắc chắn rằng bắt đầu từ đó, có thể có sự hiểu biết. Chấp nhận, biết là có được cái đang là sẽ đặt dấu chấm hết cho sự vật lộn. Nếu tôi biết mình là kẻ dối trá và đó là sự thật mà tôi nhận ra, thì cuộc vật lộn đó chấm dứt. Chấp nhận, biết được mình là ai đã là khởi đầu của trí
tuệ, cội nguồn của hiểu biết, sẽ giải thoát bạn khỏi ràng buộc của thời gian. Phẩm chất của thời gian – không phải theo nghĩa niên đại, mà theo nghĩa phương tiện, theo nghĩa quá trình tâm lý, quá trình của tâm trí – là tính hủy hoại và gây ra sự bối rối, hỗn loạn.
Vì vậy, chúng ta chỉ có thể hiểu về cái đang là khi chúng ta công nhận nó mà không chỉ trích, không bào chữa, không đồng nhất hóa nó. Biết được mình đang ở tình trạng cụ thể nào, ở trạng thái cụ thể nào đã là một quá trình giải thoát rồi. Song một người không nhận thức được tình trạng của mình, về cuộc vật lộn bên trong của mình, mà cố gắng trở thành thứ gì đó khác với bản thân anh ta, thì điều này sẽ tạo nên thói quen. Vậy thì khi ấy, hãy ghi nhớ rằng chúng ta muốn xem xét cái đang là, để quan sát và nhận thức chính xác về thực tại, mà không gán cho nó bất cứ thành kiến nào, không gán cho nó một sự diễn dịch nào. Cần có một tâm trí sắc sảo phi thường, một trái tim uyển chuyển lạ thường để nhận thức và theo dõi cái đang là. Bởi vì cái đang là đó không ngừng thay đổi, không ngừng trải qua sự biến chuyển, nên nếu tâm trí bị trói buộc vào tín ngưỡng, vào kiến thức, thì nó sẽ ngừng đeo bám, nó sẽ ngừng theo đuổi sự biến chuyển nhanh chóng của cái đang là. Chắc chắn cái đang là sẽ không tĩnh tại – nó di chuyển không ngừng, như bạn sẽ nhận ra nếu quan sát nó cẩn thận. Để theo dõi nó, bạn cần một tâm trí rất nhanh nhạy và một trái tim mềm dẻo – điều này sẽ bị khước từ khi tâm trí tĩnh tại, gắn chặt vào tín ngưỡng, vào thiên kiến, vào sự đồng nhất hóa. Một tâm trí và trái tim khô khan không thể theo dõi một cách dễ dàng, nhanh chóng cái đang là.
Tôi nghĩ người ta nhận thức được, mà không cần quá nhiều thảo luận, quá nhiều sự diễn tả bằng lời, rằng hiện có sự hỗn loạn, lộn xộn và nỗi đau khổ riêng cũng như chung. Điều đó không chỉ xảy ra ở Ấn Độ, mà còn xảy ra khắp nơi trên thế giới. Tại Trung Quốc, Hoa Kỳ, Anh, Đức, trên khắp địa cầu, đều có sự hỗn loạn, khổ sở ngày càng tăng. Nó không chỉ xảy ra ở phạm vi quốc gia, nó không phải là trường hợp cá biệt ở đây, mà là trên khắp thế giới. Có nỗi khổ đau kịch liệt lạ thường, và nó không chỉ là nỗi đau của cá nhân mà còn là nỗi đau chung. Vậy, đó là thảm họa của thế gian nên việc giới hạn
nó chỉ trong một khu vực địa lý, một vùng được tô màu trên bản đồ là ngớ ngẩn; bởi vì lúc ấy, chúng ta sẽ không hiểu đầy đủ ý nghĩa của nỗi đau mang tính phổ quát cũng như riêng tư này. Khi nhận thức được tình trạng rối loạn ấy, phản ứng hiện nay của chúng ta là gì? Chúng ta hồi đáp ra sao?
Nỗi đau khổ xuất hiện ở cả lĩnh vực chính trị, xã hội, tôn giáo. Toàn bộ bản chất tâm lý của chúng ta đều trở nên rối loạn, và tất cả lãnh tụ chính trị cũng như tôn giáo khiến chúng ta thất vọng. Tất cả kinh sách đều mất đi ý nghĩa. Bạn có thể đọc Bhagavad Gita , Kinh thánh
hoặc luận án mới nhất về chính trị hay tâm lý học, và bạn sẽ thấy rằng chúng đã mất đi ý nghĩa, mất đi phẩm chất của sự thật. Chúng trở nên thuần túy chỉ là từ ngữ. Và bạn, người cứ lặp đi lặp lại những từ ngữ đó, bị bối rối và mơ hồ, và chỉ lặp lại ngôn từ thì chẳng truyền đạt được điều gì. Do đó, ngôn từ và sách vở đã mất đi giá trị của chúng. Tức là nếu bạn trích dẫn Kinh thánh , Marx, hoặc Bhagavad Gita – khi bạn là người trích dẫn mà chính bạn lại thấy mơ hồ, bối rối, thì sự lặp lại của bạn trở thành sự dối trá. Lý do là những gì được viết ra chỉ trở thành tài liệu tuyên truyền, mà tài liệu tuyên truyền thì không phải là sự thật. Vì vậy, khi lặp lại, bạn đã ngừng hiểu biết trạng thái hiện hữu của riêng mình. Bạn thuần túy đang giấu giếm sự bối rối của riêng bạn bằng những ngôn từ có sức tác động. Nhưng điều mà chúng ta đang cố gắng làm là hiểu sự rối loạn này và không che đậy nó bằng những lời trích dẫn. Thế thì, bạn phản ứng với nó ra sao? Bạn phản ứng thế nào đối với sự hỗn loạn lạ thường này, sự bối rối này, sự mơ hồ về cuộc sống này? Hãy nhận thức về nó như tôi đã thảo luận: Hãy theo dõi, không phải những lời lẽ của tôi, mà là tư tưởng hiện đang hoạt động trong bạn. Đa phần chúng ta đã quen với việc là khán giả đứng ngoài thay vì tham dự vào trò chơi đó. Chúng ta đọc sách, nhưng không bao giờ viết sách. Nó đã trở thành truyền thống của chúng ta, thói quen của quốc gia và thế giới chúng ta, chỉ là những khán giả đứng ngoài, theo dõi một trận bóng đá, quan sát các chính trị gia và diễn giả trình bày trước công chúng. Chúng ta thuần túy là những kẻ ngoài cuộc, chỉ đang theo dõi, nên chúng ta mất năng lực sáng tạo. Do đó, chúng ta muốn hấp thụ và cùng tham gia.
Tuy nhiên, nếu chỉ thuần túy quan sát, nếu thuần túy làm khán giả, thì bạn sẽ đánh mất toàn bộ ý nghĩa của cuộc trao đổi này, bởi vì đây không phải là bài diễn thuyết để bạn lắng nghe như một thói quen. Tôi sẽ không cung cấp cho bạn thông tin mà bạn có thể tra được trong bộ bách khoa toàn thư. Điều mà chúng ta đang cố gắng làm là theo dõi tư tưởng của nhau, theo đuổi xa hết mức có thể, sâu hết mức có thể những gợi ý, những phản ứng của cảm giác riêng mình. Vì vậy, xin hãy khám phá cho ra phản ứng của bạn thế nào với nguyên nhân này, với nỗi đau khổ này; không phải người khác nói gì, mà là bản thân bạn phản ứng như thế nào. Phản ứng của bạn sẽ là một sự thờ ơ lãnh đạm nếu bạn lợi dụng nỗi đau khổ, sự hỗn loạn, nếu bạn hưởng lợi từ sự rối loạn đó về mặt kinh tế, xã hội, chính trị hoặc tâm lý. Do đó, bạn sẽ không bận tâm liệu tình trạng hỗn loạn này có tiếp diễn hay không. Chắc chắn rằng thế giới càng xảy ra nhiều vấn đề, hỗn loạn càng nhiều hơn, thì người ta càng mưu cầu sự an toàn. Bạn không để ý điều đó hay sao? Khi có sự hỗn độn trên thế giới, về mặt tâm lý và trên mọi phương diện, thì bạn sẽ bao bọc bản thân trong một dạng bảo vệ nào đó: một khoản tiền gửi ngân hàng hoặc ý thức hệ, hay bạn chuyển sang cầu nguyện, đi đền chùa – thực sự là chạy trốn khỏi những gì đang diễn ra trên thế giới. Ngày càng có nhiều môn phái được thành lập, ngày càng có nhiều “chủ nghĩa” nổi lên trên toàn thế giới. Bởi vì càng có nhiều sự hỗn loạn, bạn càng muốn một nhà lãnh đạo, ai đó sẽ hướng dẫn bạn thoát khỏi tình trạng lộn xộn này, thế là bạn cầu viện những cuốn sách tôn giáo, hoặc nhờ tới một trong những vị đạo sư mới nhất. Hoặc bạn sẽ hành động và phản ứng theo một hệ thống có vẻ như sẽ giải quyết được vấn đề, một hệ thống không theo cánh tả thì theo cánh hữu. Và đó chính xác là điều đang xảy ra.
Lúc bạn nhận thức được về sự hỗn loạn, về chính xác hiện trạng, là bạn đang cố gắng thoát khỏi nó. Những môn phái nào cung cấp cho bạn một hệ thống để giải quyết nỗi đau khổ về kinh tế, xã hội hoặc tôn giáo, thì đó là những môn phái tồi tệ nhất. Bởi vì lúc ấy, hệ thống, phương pháp lại trở nên quan trọng chứ không phải con người – dù nó là hệ thống tôn giáo, hay hệ thống chính trị của cánh tả hay cánh hữu. Khi đó, hệ thống trở nên quan trọng, triết lý, ý
tưởng trở nên quan trọng, chứ không phải là con người. Và vì ý tưởng, vì ý thức hệ, bạn sẵn lòng hy sinh cả nhân loại, đó chính xác là điều đang xảy ra trên thế giới. Đây không thuần túy là sự diễn giải của tôi thôi đâu. Nếu quan sát, bạn sẽ thấy đó chính xác là điều đang xảy ra. Hệ thống đã trở nên quan trọng. Vì vậy, khi hệ thống trở nên quan trọng, thì con người, bạn và tôi, mất đi tầm quan trọng. Và những người kiểm soát hệ thống đó – dù là tôn giáo hay thế tục, dù cánh tả hay cánh hữu – cầm quyền, nắm được sức mạnh, thế nên họ hy sinh bạn, hy sinh một cá nhân. Đó chính xác là điều đang xảy ra.
Vậy giờ thì nguyên nhân của sự hỗn loạn và đau khổ này là gì? Sự đau khổ này, nỗi bất hạnh không chỉ trong thâm tâm mà còn ở bên ngoài này, nỗi sợ hãi và sự kỳ vọng ở chiến tranh này, cuộc thế chiến thứ ba sắp bùng nổ xảy ra như thế nào? Nguyên nhân của nó là gì? Chắc chắn nó cho thấy sự sụp đổ của tất cả giá trị đạo đức, tinh thần, và sự tuyên dương tất cả giá trị thuộc về cảm giác, giá trị của những thứ được làm bằng tay chân hay trí óc. Điều gì xảy ra khi chúng ta không có giá trị nào khác ngoại trừ giá trị của những thứ thuộc về cảm giác, giá trị của các sản phẩm từ trí óc, từ bàn tay hoặc máy móc? Chúng ta càng coi trọng giá trị thuộc về cảm giác của mọi thứ, thì sự hỗn loạn sẽ càng lớn, không phải vậy sao? Một lần nữa, đây không phải là lý thuyết tôi đưa ra. Bạn không phải trích dẫn những cuốn sách để tìm ra rằng các giá trị của bạn, tài sản của bạn, sự tồn tại về mặt kinh tế và xã hội của bạn đều dựa trên những thứ được làm bằng tay hoặc bằng trí óc. Vì vậy, chúng ta sống, hoạt động và để sự hiện hữu của mình đắm chìm trong các giá trị thuộc về cảm tính, mà điều đó có nghĩa là của cải, tài sản đó, những thứ của trí óc, các sản phẩm của bàn tay và của máy móc, trở nên quan trọng. Và khi vật chất trở nên quan trọng, thì tín ngưỡng trở nên cực kỳ quan trọng – và đó chính xác là điều đang xảy ra trên thế giới này, không phải vậy sao?
Do đó, việc ngày càng xem trọng những giá trị thuộc về cảm tính sẽ gây ra sự hỗn loạn. Và khi sống trong tình trạng hỗn loạn, chúng ta sẽ cố thoát khỏi nó thông qua nhiều hình thức, tôn giáo, kinh tế hay
xã hội, hoặc thông qua hoài bão, quyền lực, thông qua việc tìm kiếm sự thật. Nhưng sự thật ở ngay đây, bạn không phải tìm kiếm nó. Nếu tìm kiếm sự thật, bạn sẽ không bao giờ tìm thấy. Chân lý hay sự thật chỉ nằm ở cái đang là – và đó là vẻ đẹp của nó. Song ngay lúc nghĩ về nó, tìm kiếm nó, thì bạn đã bắt đầu vật lộn, và một người đang vật lộn thì không thể hiểu được. Đó là lý do tại sao chúng ta phải tĩnh lặng, quan sát, nhận thức một cách thụ động. Chúng ta thấy rằng cuộc sống của mình, hành động của mình luôn luôn nằm trong phạm vi của sự hủy hoại, của sự phiền não. Giống như một làn sóng, sự hỗn độn và rối loạn luôn luôn bất ngờ xảy đến với chúng ta. Tình trạng hỗn loạn của sự hiện hữu không bao giờ ngừng nghỉ.
Bất cứ việc gì chúng ta làm ở hiện tại dường như đều dẫn tới sự hỗn loạn, dẫn tới phiền não và sự bất hạnh. Hãy nhìn vào cuộc sống của chính bạn và bạn sẽ thấy rằng cuộc sống của mình luôn luôn ở ngay ranh giới của phiền não. Công việc, sinh hoạt xã hội, hoạt động chính trị của chúng ta, nhiều mối liên kết của các quốc gia là để nhằm chấm dứt chiến tranh, nhưng rồi tất cả điều đó chỉ làm sinh ra thêm chiến tranh. Sự tàn phá theo gót cuộc sống. Bất cứ điều gì chúng ta làm đều dẫn tới cái chết. Đó là điều đang thực sự diễn ra.
Liệu chúng ta có thể chấm dứt ngay nỗi đau khổ này và không phải lúc nào cũng bị nhấn chìm trong làn sóng của tình trạng hỗn loạn và đau khổ không? Đó là lý do vì sao những vị đạo sư vĩ đại, như Đức Phật hay Đức Chúa xuất hiện. Người ta chấp nhận niềm tin giúp họ,
có lẽ, thoát được khỏi sự hỗn loạn và đau khổ. Nhưng họ không bao giờ ngăn được đau khổ, họ không bao giờ dứt được hỗn loạn. Và tình trạng rối loạn cứ tiếp tục, đau khổ cứ tiếp diễn. Nếu nhìn vào tình trạng hỗn loạn về xã hội và kinh tế này, sự hỗn độn, nỗi đau khổ này, mà bạn rút lui vào cái gọi là đời sống tôn giáo và từ bỏ thế gian, thì bạn có thể cảm thấy mình đang nối gót những bậc thầy vĩ đại ấy. Nhưng thế giới vẫn cứ tiếp diễn với những hỗn độn, đau khổ và tàn phá, với sự đớn đau không dứt của kẻ giàu người nghèo. Vì vậy, vấn đề của bạn và của tôi là liệu chúng ta có thể thoát khỏi nỗi đau khổ này ngay lập tức được hay không. Nếu đang sống trên thế giới
này mà bạn lại chối bỏ nó thì làm sao bạn giúp được người khác thoát ra khỏi sự hỗn loạn – không phải trong tương lai, không phải vào ngày mai, mà là bây giờ. Chắc chắn đó mới là vấn đề của chúng ta. Cuộc chiến tranh sắp tới hẳn sẽ tàn phá nhiều hơn, gây kinh hoàng nhiều hơn nữa. Chắc chắn chúng ta không thể ngăn được nó, bởi vì các vấn đề đã quá mãnh liệt và quá bức bí. Song bạn và tôi có thể nhận thức được sự hỗn loạn và đau khổ này ngay lập tức, phải không? Chúng ta phải nhận thức được chúng rồi mới có thể ở vào vị trí để làm thức tỉnh người khác có cùng cách hiểu về sự thật đó. Nói cách khác, liệu bạn có thể tự do ngay lập tức không? Bởi vì đó là cách duy nhất thoát khỏi nỗi đau khổ này. Sự nhận thức chỉ có thể diễn ra trong hiện tại. Nhưng nếu bạn nói rằng: “Mai tôi sẽ làm việc đó”, thì làn sóng hỗn loạn sẽ chụp lên bạn, và rồi bạn sẽ luôn bị mắc kẹt trong tình trạng rối loạn.
Giờ đây, liệu có thể đạt đến trạng thái chính bạn nhận thức được sự thật ngay lập tức và nhờ đó mà chấm dứt sự hỗn loạn không? Tôi nói rằng có thể và đó là cách khả thi duy nhất. Tôi nói nó có thể thực hiện và phải được thực hiện, mà không dựa trên sự giả định hoặc niềm tin. Sản sinh ra cuộc cách mạng phi thường này, không phải cuộc cách mạng nhằm tống khứ những người tư bản và đưa một nhóm khác lên thay, mà là sản sinh ra một sự biến chuyển kỳ diệu – cuộc cách mạng đúng đắn duy nhất – là cả một vấn đề. Thông thường thì cái gọi là cách mạng chỉ đơn thuần là cánh hữu sẽ tiếp tục hay thay đổi, tùy theo các ý tưởng của cánh tả. Suy cho cùng, cánh tả chính là sự kế tục của cánh hữu ở một dạng thức được thay đổi. Nếu cánh hữu dựa trên các giá trị thuộc về cảm tính, thì cánh tả là sự kế tục của cùng những giá trị thuộc về cảm tính giống hệt như vậy, chỉ khác ở mức độ hoặc cách thể hiện mà thôi. Do đó, cuộc cách mạng đích thực chỉ có thể diễn ra khi bạn, với tư cách cá nhân, nhận thức được mối quan hệ của mình với người khác. Hẳn rồi, mối quan hệ của bạn với người khác, với vợ, con, sếp, láng giềng của bạn chính là xã hội. Tự bản thân xã hội không tồn tại. Xã hội là cái mà bạn và tôi, bằng các mối quan hệ của chúng ta, đã tạo ra. Nó là sự phóng chiếu ra bên ngoài tất cả các trạng thái nội tâm của chính chúng ta. Vì vậy, nếu bạn và tôi không hiểu chính mình, mà chỉ đơn
thuần biến chuyển bên ngoài, một sự phóng chiếu của nội tâm, thì dù sao cũng không có ý nghĩa gì cả. Tức là không thể có sự thay đổi hoặc điều chỉnh quan trọng nào trong xã hội nếu như tôi còn chưa hiểu chính mình trong mối quan hệ với bạn. Rối loạn trong mối quan hệ của mình, tôi tạo ra một xã hội là bản sao, sự thể hiện ra bên ngoài trạng thái nội tâm của tôi. Đây là một sự thật hiển nhiên mà chúng ta có thể thảo luận. Chúng ta có thể thảo luận xem liệu xã hội, sự thể hiện ra bên ngoài đã tạo ra tôi, hay chính tôi đã tạo ra xã hội.
Vậy chẳng phải sự thật hiển nhiên là tôi tỏ ra thế nào trong mối quan hệ của tôi với người khác mới tạo nên xã hội và rằng nếu không có sự biến chuyển chính mình một cách triệt để thì không thể có sự biến chuyển của chức năng cần thiết của xã hội hay sao? Khi nhìn vào một hệ thống để biến chuyển xã hội, chúng ta cứ tránh né câu hỏi đó – bởi vì một hệ thống không thể biến chuyển con người, mà con người mới luôn luôn biến chuyển hệ thống đó, và lịch sử đã chứng thực – cho tới khi tôi, trong mối quan hệ với bạn, hiểu rằng chính tôi mới là nguyên nhân của tình trạng hỗn độn, đau khổ, tàn phá, sợ hãi, tàn bạo này. Để hiểu chính mình không dính gì đến thời gian cả. Tôi có thể hiểu chính mình ngay lúc này. Nếu tôi nói: “Mai tôi sẽ hiểu chính mình”, thì tôi đang tạo ra tình trạng hỗn độn và đau khổ, hành động của tôi sẽ mang tính tiêu cực. Khi nói rằng tôi “sẽ” hiểu, tức là tôi đã tạo ra yếu tố thời gian và vì vậy, tôi bị mắc kẹt trong làn sóng của sự hỗn loạn và hủy hoại. Hiểu là ngay lúc này, không phải ngày mai. Ngày mai chỉ dành cho những trí óc lười biếng, uể oải, những trí óc chẳng có gì đáng quan tâm. Trên thực tế, khi quan tâm tới điều gì, bạn thực hiện nó ngay lập tức, khi hiểu được ngay, thì cũng biến chuyển ngay. Nếu bây giờ bạn không thay đổi, thì bạn sẽ không bao giờ thay đổi, bởi vì sự đổi thay mà mai mới diễn ra thì chỉ đơn thuần là sửa đổi chứ không phải chuyển biến. Sự chuyển biến chỉ có thể xảy ra ngay tức thời. Cách mạng là bây giờ chứ không phải ngày mai.
Và khi điều đó xảy ra, bạn hoàn toàn không có vấn đề gì nữa, bởi vì lúc đó, bản ngã không còn lo lắng về chính nó. Lúc ấy, bạn đã vượt qua làn sóng hủy diệt.
Chương 2
CHÚNG TA ĐANG TÌM KIẾM GÌ?
Đa số chúng ta đang tìm kiếm điều gì? Mỗi người trong chúng ta mong muốn thứ gì? Đặc biệt là trong thế giới xao động này, nơi mọi người đều đang cố gắng mưu cầu loại bình an, hạnh phúc nào đó, một nơi để ẩn náu, thì chắc chắn tìm ra thứ chúng ta đang cố kiếm tìm, đang cố khám phá là điều rất quan trọng, phải vậy không? Có lẽ đa phần chúng ta ai cũng đang mưu cầu một loại hạnh phúc, bình an nào đó. Trong một thế giới bị tình trạng rối loạn, chiến tranh, bất hòa, xung đột đè nặng, chúng ta mong muốn một nơi có thể cho ta chút bình an nào đó để trú ẩn. Tôi nghĩ đó là điều mà đa số chúng ta mong muốn. Vì vậy, chúng ta theo gót, dựa dẫm vào hết lãnh đạo này tới lãnh đạo khác, hết tổ chức tôn giáo này tới tổ chức tôn giáo khác, hết bậc thầy này tới bậc thầy khác.
Vậy thì, có phải chúng ta đang tìm kiếm hạnh phúc không, hay chúng ta đang đi tìm sự thỏa mãn từ thứ gì đó mà chúng ta hy vọng có được hạnh phúc nhờ nó? Thật ra có sự khác biệt giữa hạnh phúc và sự thỏa mãn. Bạn có thể tìm kiếm hạnh phúc không? Có lẽ bạn có thể tìm kiếm sự thỏa mãn, nhưng chắc chắn bạn không thể tìm kiếm hạnh phúc. Hạnh phúc mang tính phái sinh. Nó là sản phẩm phụ của một thứ khác. Vì vậy, trước khi đặt tâm trí và trái tim mình vào thứ gì đòi hỏi rất nhiều sốt sắng, chú tâm, tư duy và cẩn trọng, chúng ta phải tìm ra điều mà chúng ta đang kiếm tìm, phải vậy không, dù đó là hạnh phúc hay sự thỏa mãn. Tôi e rằng đa phần chúng ta đều mưu cầu sự thỏa mãn. Chúng ta muốn được hài lòng, chúng ta muốn tìm cảm giác đầy đủ, trọn vẹn ở cuối cuộc tìm kiếm của mình.
Suy cho cùng, nếu một người đang mưu cầu sự bình an, thì họ có thể tìm thấy nó rất dễ dàng. Họ có thể hiến dâng bản thân một cách mù quáng cho một mục tiêu, ý tưởng nào đó và nương náu trong đó. Song chắc chắn rằng điều này không giải quyết được vấn đề. Chỉ đơn thuần cô lập trong một quan niệm khép kín không phải là cách để thoát khỏi xung đột. Vì vậy, chúng ta phải tìm kiếm ở nội tâm cũng như ngoại giới điều mà mỗi người trong chúng ta mong muốn, phải vậy không? Nếu tường tận về vấn đề đó, thì chúng ta sẽ không phải đi tới bất cứ nơi nào, tìm bất kỳ vị thầy nào, hay viện đến bất cứ giáo hội, tổ chức nào. Do đó, khó khăn của chúng ta là tự mình thấu triệt về ý định của chúng ta, phải vậy không? Liệu chúng ta có thể thấu triệt được không? Và có phải sự rõ ràng, minh triết đó xuất hiện thông qua việc tìm kiếm, cố gắng tìm ra điều mà những người khác nói, từ một bậc thầy cao siêu cho tới một nhà thuyết giáo bình thường ở nhà thờ gần nhà bạn? Bạn có từng phải tham vấn ai đó để tìm ra chưa? Dù sao đó cũng là điều chúng ta vẫn đang làm, phải vậy không? Chúng ta đọc vô số sách, chúng ta tham dự nhiều buổi hội họp và thảo luận, chúng ta gia nhập nhiều tổ chức khác nhau – bằng cách đó cố gắng tìm ra phương thuốc cho sự xung đột, cho những đau khổ trong cuộc sống của mình. Hoặc nếu không làm tất cả những điều đó, thì chúng ta nghĩ rằng mình đã tìm được. Tức là chúng ta cho rằng một tổ chức, một vị thầy hay một cuốn sách cụ thể nào đó đã giúp chúng ta thỏa mãn. Chúng ta đã tìm thấy mọi thứ mình muốn tìm trong đó. Và chúng ta cứ kết tinh và tự nhốt mình trong đó.
Xuyên suốt tất cả sự hỗn loạn này, chẳng phải chúng ta đang tìm kiếm thứ gì đó vĩnh cửu, trường tồn hay sao, thứ gì đó mà chúng ta gọi là sự thật, Thượng Đế, chân lý, hoặc gì đó – tên gọi không quan trọng, vì chắc chắn ngôn từ không phải là vấn đề lớn. Vì vậy, đừng để mình bị mắc kẹt vào ngôn từ. Hãy để điều đó lại cho những diễn giả chuyên nghiệp. Có phải bạn tìm kiếm điều gì vĩnh cửu không? Với hầu hết chúng ta, đó là thứ chúng ta bám lấy, thứ sẽ cho chúng ta sự bảo đảm, hy vọng, nhiệt tình, chắc chắn lâu dài, bởi vì trong chính mình, chúng ta rất bấp bênh, phải vậy không? Chúng ta không hiểu chính mình. Tuy biết nhiều kiến thức, nhiều sách vở từ chương,
song chúng ta không biết chính mình, chúng ta không có trải nghiệm hay thể nghiệm trực tiếp.
Và điều mà chúng ta cho là vĩnh cửu là gì? Cái mà chúng ta tìm kiếm, cái sẽ, hoặc chúng ta hy vọng nó sẽ, cho chúng ta sự vĩnh cửu là gì? Chẳng phải chúng ta đang tìm kiếm hạnh phúc trường tồn, sự thỏa mãn lâu dài, sự chắc chắn lâu bền sao? Chúng ta muốn điều gì đó sẽ tồn tại mãi mãi để thỏa mãn cho mình. Nếu chúng ta tự tước bỏ khỏi bản thân tất cả lời nói và từ ngữ và thực sự nhìn vào nó, thì đây là điều chúng ta mong muốn. Chúng ta muốn niềm vui lâu bền, sự thỏa mãn trường tồn – mà chúng ta gọi là chân lý, Thượng Đế, hay bất cứ cái tên nào khác.
Đúng vậy, chúng ta muốn vui. Có lẽ khẳng định thẳng thừng như vậy thật thô lỗ, song nó thực sự là điều chúng ta muốn – kiến thức sẽ cho chúng ta niềm vui, kinh nghiệm sẽ cho chúng ta niềm vui, một sự thỏa mãn không bị tàn úa ngay ngày mai. Chúng ta đã trải nghiệm những sự thỏa mãn khác nhau và chúng đều phai tàn. Do đó, chúng ta giờ đây hy vọng tìm ra một sự thỏa mãn trường tồn trong thực tại, trong Thượng Đế. Chắc chắn đó là điều mà chúng ta đều đang tìm kiếm – dù là người thông minh hay kẻ khờ khạo, nhà lý luận hay con người thực tế đang đeo đuổi điều gì đó. Và liệu có sự thỏa mãn trường tồn không? Liệu có thứ gì tồn tại vĩnh cửu không?
Bây giờ, nếu bạn tìm kiếm sự thỏa mãn lâu dài, đặt cho nó cái tên Thượng Đế, chân lý, hay tên nào mà bạn muốn – bởi vì danh xưng không quan trọng – thì chắc chắn bạn phải hiểu thứ mà bạn đang tìm, phải vậy không? Khi nói “Tôi đang tìm kiếm hạnh phúc trường tồn” – Thượng Đế, chân lý, hay bất cứ tên gì bạn thích – chắc bạn cũng phải hiểu cái gì đang đi tìm, tức là hiểu người tìm kiếm chứ? Bởi vì có thể chẳng có gì là an toàn vĩnh viễn, hạnh phúc trường tồn. Chân lý có thể là điều gì đó hoàn toàn khác biệt. Và tôi nghĩ nó là tuyệt đối khác biệt với cái bạn có thể thấy, nhận thức, trình bày một cách rõ ràng, chính xác. Do đó, trước khi chúng ta tìm kiếm thứ gì đó vĩnh cửu, chẳng phải đương nhiên là rất cần hiểu người tìm kiếm
hay sao? Có phải người tìm kiếm khác với thứ mà họ đang kiếm tìm không? Khi bạn nói “Tôi đang tìm kiếm hạnh phúc”, thì có phải người tìm kiếm khác với đối tượng cho cuộc tìm kiếm của họ? Có phải người suy nghĩ thì khác với suy nghĩ? Chẳng phải chúng là một hiện tượng chung, thay vì là những quá trình riêng rẽ hay sao? Do đó, điều thiết yếu là phải hiểu người tìm kiếm, trước khi cố gắng khám phá điều mà họ đang kiếm tìm, phải vậy không?
Vì vậy, chúng ta phải đi vào trọng tâm khi tự vấn một cách thực sự nghiêm túc và sâu sắc rằng liệu ai đó có thể trao cho chúng ta bình an, hạnh phúc, thực tại, Thượng Đế, hoặc bất cứ thứ gì bạn thích hay không. Liệu cuộc tìm kiếm không ngừng này, niềm khao khát này có thể cho chúng ta cảm giác về thực tại phi thường, cho chúng ta bản thể sáng tạo vốn chỉ xuất hiện khi chúng ta thực sự hiểu chính mình hay không? Có phải tự biết mình xuất hiện thông qua việc tìm kiếm, thông qua việc theo gót ai đó, thông qua việc thuộc về một tổ chức đặc biệt hay thông qua việc đọc sách,… hay không? Suy cho cùng, vấn đề chủ yếu là khi tôi không hiểu chính mình thì tôi không có cơ sở để tư duy, vậy thì tất cả việc tìm kiếm của tôi sẽ hão huyền, vô nghĩa, phải vậy không? Tôi có thể trốn vào những ảo tưởng, tôi có thể chạy trốn khỏi sự ganh đua, sự xung đột và tranh chấp, tôi có thể sùng bái người khác, tôi có thể tìm kiếm sự cứu rỗi từ người khác. Nhưng chỉ cần tôi không hiểu chính mình, chỉ cần tôi không nhận thức được về toàn bộ quá trình của chính mình, thì tôi không có cơ sở để tư duy, để gây ảnh hưởng và để hành động.
Song chẳng mấy ai muốn hiểu chính mình. Chắc chắn rằng đó là nền tảng duy nhất để chúng ta có thể tạo dựng. Nhưng trước khi có thể tạo dựng, trước khi có thể biến chuyển, trước khi có thể chỉ trích hay phá hủy, chúng ta phải hiểu chính mình. Ra ngoài tìm kiếm, đổi hết giảng sư này đến bậc thầy khác, thực hành yoga, điều hòa hơi thở, hành lễ, theo gót các bậc đạo sư và đại loại như vậy, đó toàn là những việc vô ích, phải không? Nó chẳng có ý nghĩa gì, mặc dù chính những người mà chúng ta tôn sùng có thể nói rằng “Hãy tự hiểu mình” , bởi vì chúng ta thế nào, thì thế giới sẽ thế đó. Nếu chúng ta nhỏ nhen, bần tiện, ganh tỵ, rỗng tuếch, tham lam, thì đó là
điều chúng ta tạo ra quanh mình và đó là xã hội mà chúng ta đang sống.
Theo tôi, trước khi chúng ta bắt đầu hành trình tìm kiếm thực tại, tìm kiếm Thượng Đế, trước khi có thể hành động, trước khi có thể có bất cứ mối quan hệ nào với người khác, ở đây là xã hội, thì nhất thiết chúng ta phải bắt đầu hiểu chính mình trước tiên. Tôi cho rằng một người đứng đắn là người phải để hết tâm trí vào vấn đề này trước nhất, chứ không phải quan tâm việc làm thế nào để đạt một mục tiêu đặc biệt nào đó, bởi vì nếu bạn và tôi không hiểu chính mình, thì làm sao bằng hành động của mình, chúng ta có thể tạo ra sự biến chuyển trong xã hội, trong các mối tương giao hay trong bất cứ điều gì chúng ta làm? Và rõ ràng, hiểu mình không có nghĩa là đối nghịch, hay tách rời với các mối quan hệ. Đương nhiên, nó không có nghĩa là nhấn mạnh vào cá nhân, vào bản thân mình, để đối nghịch với đám đông, đối nghịch với người khác.
Vậy nếu không hiểu chính mình, không hiểu lối tư duy của riêng bạn và lý do tại sao bạn suy nghĩ như vậy, không biết bối cảnh của sự ảnh hưởng, tác động lên bạn và tại sao bạn có niềm tin nào đó về nghệ thuật và tôn giáo, về quốc gia của bạn, láng giềng của bạn và về chính mình, thì làm sao bạn có thể suy nghĩ một cách đúng đắn về bất cứ chuyện gì? Khi không hiểu về bối cảnh của bạn, không hiểu cốt lõi việc tư duy của bạn và nó đến từ đâu, thì chắc chắn sự tìm kiếm của bạn là hoàn toàn vô ích, và hành động của bạn cũng vô nghĩa, phải vậy không? Cho dù bạn là người Mỹ, người Hindu giáo, hay một tôn giáo nào đi nữa, thì cũng chẳng có ý nghĩa gì cả.
Trước khi chúng ta có thể tìm ra cứu cánh của cuộc đời và ý nghĩa của các cuộc chiến tranh, xung đột quốc gia, những tranh chấp, cả mớ hỗn độn đó, thì chúng ta phải bắt đầu với chính mình đã, phải vậy không? Nghe thì có vẻ đơn giản, nhưng trên thực tế, điều đó vô cùng khó khăn. Để theo dõi chính mình nhằm thấy được tư tưởng của bản thân hoạt động ra sao, người ta phải cực kỳ tỉnh giác, để khi bắt đầu ngày càng tỉnh giác đối với những phức tạp trong suy nghĩ, phản ứng và cảm nhận của riêng mình, họ bắt đầu nhận thức rõ
hơn, không chỉ về chính mình mà còn về những người có liên hệ với mình. Hiểu chính mình là hiểu bản thân mình trong hành động, đó là các mối quan hệ. Điều khó khăn là chúng ta quá thiếu kiên nhẫn. Chúng ta muốn thành công, chúng ta muốn đi tới đích, và vì vậy, chúng ta không có thời gian lẫn duyên cớ để cho mình cơ hội tìm hiểu, quan sát. Thay vào đó, chúng ta dấn thân vào những hoạt động khác nhau – để mưu sinh, để nuôi dưỡng con cái – hoặc đảm nhận các trách nhiệm nào đó trong nhiều tổ chức khác nhau. Chúng ta quá dấn thân vào những con đường khác tới mức khó có thời gian để tự suy ngẫm, quan sát và tìm hiểu. Vì vậy, thực ra trách nhiệm cho phản ứng của chúng ta tùy thuộc vào chính ta chứ không phải người khác. Việc đi tìm các bậc thầy có uy tín và hệ thống của họ trên khắp thế giới, tìm đọc cuốn sách mới nhất về vấn đề này, vấn đề kia,… với tôi là hoàn toàn rỗng tuếch, hoàn toàn vô ích, bởi vì bạn có thể đi lang bạt khắp địa cầu nhưng rồi bạn cũng phải trở lại với chính mình. Và vì đa phần chúng ta hoàn toàn không hiểu bản thân, nên thật vô cùng khó khăn để bắt đầu hiểu một cách rõ ràng quá trình suy nghĩ, cảm nhận và hành động của mình.
Bạn càng hiểu chính mình, thì càng sáng tỏ. Việc tự hiểu mình không có điểm dừng – bạn sẽ không đạt được một thành tựu nào, bạn sẽ không đi tới một kết luận nào cả. Đó là dòng sông bất tận. Khi tìm hiểu nó, ngày càng thâm nhập vào nó, người ta sẽ tìm thấy sự bình an. Chỉ khi tâm tĩnh lặng – thông qua sự tự biết mình chứ không phải khép mình vào một kiểu tự kỷ luật – chỉ lúc ấy, trong sự tĩnh lặng, trong sự thanh tịnh đó, thực tại có thể bắt đầu hiện hữu. Chỉ lúc ấy mới có thể có niềm an lạc, có hành động sáng tạo. Và với tôi, nếu không có sự hiểu biết này, không có sự trải nghiệm này, mà chỉ đơn thuần đọc sách, tham gia thảo luận, truyền đạo, thì quả thật rất ấu trĩ – chỉ là một hoạt động không có nhiều ý nghĩa. Ngược lại, nếu người ta có thể hiểu chính mình, và do đó tạo ra hạnh phúc sáng tạo, trải nghiệm điều gì đó ngoài phạm vi của tâm trí, thì hẳn sẽ có thể tạo nên biến chuyển trong mối quan hệ trực tiếp xung quanh ta và do đó, trên thế giới mà ta đang sống.
Chương 3
CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI
Vấn đề mà đa phần chúng ta đều phải đương đầu là liệu cá nhân chỉ đơn thuần là phương tiện của xã hội hay đó là cứu cánh của xã hội. Bạn và tôi đều là những cá nhân được xã hội và chính phủ sử
dụng, hướng dẫn, giáo dục, kiểm soát, định hướng theo một khuôn mẫu nào đó; hay xã hội, nhà nước tồn tại là vì cá nhân? Cá nhân là cứu cánh của xã hội, hay họ chỉ đơn thuần là con rối để được dạy bảo, khai thác, tàn sát như một phương tiện của chiến tranh? Đó là vấn đề mà đa số chúng ta gặp phải. Đó là vấn đề của thế giới. Tức là liệu cá nhân chỉ đơn thuần là phương tiện của xã hội, là một món đồ chơi do những ảnh hưởng đúc nặn ra; hay chính xã hội hiện hữu là vì cá nhân.
Bạn sẽ tìm hiểu điều này như thế nào? Đó là vấn đề nghiêm túc, phải vậy không? Nếu cá nhân thuần túy là phương tiện của xã hội, thì xã hội quan trọng hơn nhiều so với cá nhân chứ. Nếu đúng như thế, thì chúng ta phải từ bỏ cá tính và phụng sự cho xã hội. Toàn bộ hệ thống giáo dục của chúng ta phải được cách mạng hóa hoàn toàn và cá nhân biến thành phương tiện để được sử dụng rồi phá hủy, trừ khử, tống khứ. Song nếu xã hội tồn tại vì cá nhân, thì chức năng của xã hội không phải là khiến cá nhân đó phải tuân thủ bất cứ khuôn mẫu nào, mà là để cho họ cảm nhận, thấy thôi thúc về sự tự do. Vì vậy, chúng ta phải tìm ra điều nào là không đúng.
Bạn tìm hiểu vấn đề này ra sao? Đây là vấn đề sống còn, phải vậy không? Nó không bị phụ thuộc vào bất cứ ý thức hệ nào, dù của cánh tả hay cánh hữu. Nếu nó phụ thuộc vào một ý thức hệ, thì nó chỉ đơn thuần là vấn đề của quan niệm. Mà các ý niệm thì luôn luôn nuôi dưỡng sự thù hận, hỗn loạn và xung đột. Nếu lệ thuộc vào
những cuốn sách của cánh tả hoặc cánh hữu, hay những cuốn kinh, thì bạn sẽ phụ thuộc vào những quan niệm riêng thuần túy, dù đó là của Phật, của Chúa, hay bất cứ ai khác. Chúng là những ý niệm, không phải chân lý. Một sự kiện thì không bao giờ có thể bị chối bỏ. Nhưng còn quan niệm về sự kiện đó thì lại có thể phủ nhận. Nếu khám phá được đâu là sự thật của vấn đề, thì chúng ta sẽ có thể hành động một cách độc lập với quan niệm. Do đó, chẳng phải nhất thiết cần bỏ ngoài tai những gì người khác nói hay sao? Quan niệm của người ở tả phái hoặc những nhà lãnh đạo khác là kết quả từ địa vị của họ, vì vậy nếu việc khám phá của bạn phụ thuộc vào những gì tìm thấy trong sách vở, thì bạn chỉ đơn thuần đang bị ý kiến, quan niệm ràng buộc. Và đó không phải là vấn đề kiến thức.
Vậy ta khám phá sự thật của điều này bằng cách nào đây? Chúng ta sẽ hành động dựa trên chính điều ấy. Để đi tìm sự thật của điều ấy, phải thoát khỏi tất cả sự tuyên truyền, tức là bạn phải có khả năng nhìn vào vấn đề một cách độc lập, không chịu ảnh hưởng của quan niệm. Toàn bộ nhiệm vụ của giáo dục là để thức tỉnh cá nhân. Để thấy sự thật, bạn sẽ phải rất sáng tỏ, mà điều này có nghĩa là bạn không thể lệ thuộc vào lãnh đạo. Khi chọn lựa một nhà lãnh đạo, bạn làm như vậy là do sự bối rối của mình, và vì vậy nhà lãnh đạo của bạn cũng bị bối rối. Và đó là điều đang xảy ra trên thế giới. Do đó, bạn không thể trông chờ nhà lãnh đạo của bạn sẽ hướng dẫn hay giúp đỡ.
Một cái tâm muốn hiểu một vấn đề thì không chỉ phải hiểu vấn đề đó trọn vẹn, đầy đủ, mà còn phải có thể theo dõi nó một cách nhanh chóng, bởi vì vấn đề thì không bao giờ đứng yên. Vấn đề luôn luôn mới mẻ, cho dù đó là về nạn đói, tâm lý, hay bất cứ vấn đề nào khác. Bất cứ cuộc khủng hoảng nào cũng luôn luôn mới mẻ. Do đó, để hiểu nó, tâm trí phải luôn luôn tươi mới, sáng tỏ, nhanh nhạy khi theo đuổi nó. Tôi nghĩ đa phần chúng ta đều nhận ra tính cấp bách của cuộc cách mạng nội tâm, mà chỉ nó mới có thể mang lại sự biến chuyển triệt để cho thế giới ngoại tại, cho xã hội. Đây là vấn đề mà chính tôi và tất cả những ai có ý định một cách nghiêm túc đều đang bận tâm. Vấn đề của chúng ta là làm sao để mang lại một sự biến
chuyển cơ bản, triệt để trong xã hội. Và sự chuyển biến ngoại giới này không thể diễn ra mà không có cuộc cách mạng nội tại. Bởi vì xã hội luôn luôn đứng yên, nên bất cứ hành động, bất cứ sự cải cách nào được thực hiện mà không có cuộc cách mạng nội tâm thì cũng trở nên bất động giống như vậy. Vì vậy, chẳng có hy vọng gì nếu không có cuộc cách mạng nội tâm không ngừng này, bởi vì không có nó, thì hành động bên ngoài chỉ là lặp lại theo thói quen mà thôi. Hành động tương giao giữa bạn và người khác, giữa bạn và tôi, chính là xã hội. Và khi xã hội đó trở nên bất động, nó sẽ không có sinh khí, chừng nào còn chưa có cuộc cách mạng nội tâm không ngừng này, chưa có một sự biến chuyển tâm lý sáng tạo. Và chính vì không có cuộc cách mạng nội tại này mà xã hội luôn luôn bất động, bị kết tụ, và do đó, không ngừng bị phá vỡ.
Mối tương giao giữa bản thân bạn và nỗi đau khổ, rối loạn bên trong và xung quanh bạn là gì? Chắc chắn tình trạng hỗn loạn này, nỗi đau khổ này không tự nhiên mà hiện hữu. Chính bạn và tôi đã tạo ra nó, chứ không phải do một người theo chủ nghĩa Tư bản, Cộng sản, hay một xã hội Phát xít nào cả. Chỉ bạn và tôi đã tạo ra nó trong mối quan hệ tương hỗ của chúng ta. Trên thực tế, nội tâm bên trong của bạn sẽ phóng chiếu ra bên ngoài, ra thế giới. Bạn là gì, bạn nghĩ gì, bạn cảm thấy thế nào, và bạn làm gì trong sự tồn tại mỗi ngày đều được phóng chiếu ra bên ngoài, và chính điều đó tạo thành thế giới. Nếu nội tâm chúng ta đau khổ, bối rối, hỗn loạn, thì khi phóng chiếu, điều đó trở thành thế giới, trở thành xã hội, bởi vì mối tương giao giữa bản thân bạn và bản thân tôi, giữa bản thân tôi với người khác chính là xã hội – mà xã hội là sản phẩm cho mối quan hệ của chúng ta. Nếu mối quan hệ của chúng ta rối loạn, ích kỷ, hẹp hòi, hạn chế, mang nặng chủ nghĩa dân tộc, thì chúng ta cũng phóng chiếu điều đó và đẩy sự hỗn loạn ra thế giới.
Bạn là thế nào, thì thế giới là thế đó. Vì vậy, vấn đề của bạn là vấn đề của thế giới. Đây chắc hẳn là một sự thật đơn giản và căn bản, phải vậy không? Trong mối quan hệ với một hay nhiều người, chúng ta dường như luôn phần nào bỏ qua điểm này. Thông qua một hệ thống hoặc một cuộc cách mạng, chúng ta muốn mang lại sự thay
đổi trong tư tưởng hoặc giá trị dựa trên một hệ thống, mà quên rằng chính là bạn và tôi mới là những người tạo thành xã hội, là những người gây ra sự hỗn loạn hoặc tạo nên trật tự bằng chính lối sống của mình. Vì vậy, chúng ta phải bắt đầu từ những điều gần gũi, tức là chúng ta phải quan tâm tới chính mình trong sự tồn tại mỗi ngày, trong những suy nghĩ, cảm nhận và hành động mỗi ngày, thể hiện trong cách chúng ta mưu sinh và trong mối tương giao của chúng ta với các ý tưởng hoặc niềm tin. Đây là hoạt động thường nhật của chúng ta, phải vậy không? Chúng ta bận tâm tới sinh kế, công ăn việc làm, kiếm tiền; chúng ta bận tâm tới các mối quan hệ với gia đình hoặc láng giềng; và chúng ta bận tâm tới những ý tưởng và niềm tin. Giờ đây, nếu xem xét mối bận tâm của mình, thì bạn sẽ thấy nói chung nó dựa trên sự ganh tỵ, mà đó không chỉ là một phương tiện để mưu sinh. Xã hội được hình thành tới mức là một quá trình của sự xung đột không ngớt, một sự biến đổi không ngừng. Nó dựa trên lòng tham, lòng ganh tỵ, ganh tỵ với những người có địa vị cao hơn mình. Chẳng hạn, thư ký thì muốn trở thành giám đốc, và điều đó cho thấy rằng người đó không chỉ bận tâm về việc mưu sinh kiếm sống, mà còn muốn đạt được địa vị và danh tiếng. Thái độ này tự nhiên sẽ gây ra tác động xấu trong xã hội, trong các mối quan hệ, nhưng nếu bạn và tôi chỉ bận tâm với sinh kế, thì chúng ta nên tìm ra cách mưu sinh đúng, tức là kiếm tiền mà không dựa trên sự đố kỵ. Thói đố kỵ là một trong những yếu tố gây hại nhiều nhất trong tương giao bởi vì nó cho thấy sự khao khát quyền lực, địa vị, và cuối cùng thì nó dẫn tới chính trị. Chính trị và sự đố kỵ có mối quan hệ gần gũi với nhau. Viên thư ký, khi tìm cách leo lên địa vị giám đốc, đã trở thành một nhân tố trong việc tạo ra quyền lực-chính trị và điều đó sản sinh ra sự xung đột. Và vì vậy, chính người thư ký đó phải chịu trách nhiệm trực tiếp cho tình trạng xung đột.
Vậy các mối quan hệ của chúng ta được dựa trên điều gì? Mối tương giao giữa bạn và tôi, giữa bạn và người khác – tức là xã hội – thì dựa trên điều gì? Chắc chắn không phải là tình thương, mặc dù chúng ta nói nhiều về điều đó. Nó không dựa trên tình thương, bởi vì nếu có tình thương thì sẽ có trật tự, sẽ có bình an, hạnh phúc giữa
bạn và tôi. Nhưng trong mối quan hệ giữa bạn và tôi, có nhiều cái ác khoác lấy cái vỏ kính trọng. Nếu chúng ta đều bình đẳng trong tư tưởng, trong cảm nhận, thì sẽ không có sự kính trọng, sẽ không có ác tâm, bởi vì chúng ta là hai cá nhân gặp gỡ nhau, chứ không phải là thầy và trò, không phải là chồng ức hiếp vợ, cũng không phải là vợ lấn át chồng. Khi có ác tâm, thì sẽ có mong muốn thống trị, điều này gợi lên sự ganh tỵ, sân hận, mê đắm. Trong mối quan hệ của chúng ta, tất cả những cảm xúc đó gây nên sự xung đột không ngừng mà chúng ta đang vùng vẫy để thoát ra, và điều này lại tạo ra thêm tình trạng hỗn loạn, thêm nỗi đau khổ, bất hạnh.
Bây giờ, nhắc tới những ý niệm vốn dĩ là một phần của cuộc sống hằng ngày, những niềm tin và công thức của chúng ta, chẳng phải chúng xuyên tạc tâm trí chúng ta hay sao? Và ngu muội là gì? Ngu
muội là gán các giá trị sai lầm cho những thứ do khối óc hoặc đôi tay tạo ra. Đa phần những tư tưởng của chúng ta phát sinh từ bản năng tự vệ, phải vậy không? Chẳng phải các ý niệm của chúng ta, phải, rất nhiều trong số chúng, bị gán cho ý nghĩa sai lầm, mà bản thân nó không hề có hay sao? Do đó, khi chúng ta tin tưởng vào bất cứ hình thái nào, dù là tôn giáo, kinh tế hay xã hội, khi chúng ta tin tưởng vào Thượng Đế, vào những ý niệm, vào một hệ thống xã hội làm cho người với người xa nhau, vào chủ nghĩa dân tộc,… thì chắc chắn rằng chúng ta đang gán cho niềm tin một ý nghĩa sai lầm. Và điều đó cho thấy sự ngu muội, bởi vì niềm tin gây chia rẽ chứ không gắn kết con người với nhau. Vì vậy, chúng ta thấy rằng bằng cách sống của mình, chúng ta có thể tạo ra trật tự hay hỗn độn, bình an hay xung đột, hạnh phúc hay đau khổ.
Do đó, vấn đề của chúng ta là liệu có thể có một xã hội bất động cùng lúc với một cá nhân có cuộc cách mạng nội tâm không ngừng đang diễn ra không, chẳng phải sao? Tức là cuộc cách mạng trong xã hội phải bắt đầu với sự biến chuyển nội tại về mặt tâm lý của cá nhân. Đa phần chúng ta muốn thấy một sự biến chuyển triệt để về cấu trúc xã hội. Đó chính là toàn bộ cuộc chiến đang diễn ra trên thế giới – tiến hành một cuộc cách mạng xã hội bằng chủ nghĩa Cộng sản hoặc bất cứ phương tiện nào khác. Và giờ đây, nếu có một cuộc
cách mạng xã hội, tức là một hành động liên quan tới cấu trúc bên ngoài của con người, thì dù có triệt để đi nữa, cuộc cách mạng xã hội đó có thể về bản chất vẫn là bất động, nếu không có cuộc cách mạng nội tại của cá nhân, không có sự biến chuyển về mặt tâm lý.
Do đó, để tạo ra một xã hội không lặp lại lối mòn, cũng không bất động, không phân rã, một xã hội luôn luôn sinh động, thì điều bắt buộc phải có chính là một cuộc cách mạng trong cấu trúc tâm lý của cá nhân, bởi vì nếu không có cuộc cách mạng tâm lý bên trong, thì sự biến chuyển thuần túy ở bên ngoài cũng chẳng có ý nghĩa gì cả. Đó là do xã hội thì luôn luôn bị kết tụ, bất động, và vì vậy luôn luôn phân rã. Dù có ban hành luật pháp nhiều bao nhiêu và khôn ngoan bao nhiêu đi nữa, thì xã hội vẫn luôn trong quá trình suy tàn, bởi vì cuộc cách mạng phải diễn ra ở bên trong, chứ không chỉ ở bên ngoài.
Tôi nghĩ quan trọng là cần hiểu được điều này và không bỏ qua nó. Một hành động ngoại tại khi đã hoàn tất, thì sẽ là hết, là bất động. Nếu mối quan hệ giữa những cá nhân, tức là xã hội, không phải là kết quả của cuộc cách mạng nội tại, thì cấu trúc xã hội – vốn đang bất động – sẽ hấp thu cá nhân đó, và vì vậy, khiến họ cũng trở nên bất động, lặp lại theo lối mòn giống như vậy. Khi nhận ra điều này, nhận ra ý nghĩa phi thường của sự việc này, thì có thể không còn gì phải thắc mắc về chuyện đồng ý hay bất đồng nữa. Đó là một thực tế: Xã hội thì luôn luôn đang kết tụ và hấp thu cá nhân và cuộc cách mạng sáng tạo không ngừng đó chỉ có thể diễn ra bên trong cá nhân, không phải trong xã hội, không phải ở ngoại giới. Tức là cuộc cách mạng sáng tạo chỉ có thể diễn ra trong mối tương giao giữa các cá nhân, nghĩa là xã hội. Chúng ta thấy cấu trúc của xã hội hiện nay ở Ấn Độ, Âu châu, Mỹ châu, ở mọi nơi trên thế giới, đang phân rã nhanh chóng đến thế nào. Và ta cũng có thể thấy được điều đó trong cuộc sống của chính chúng ta. Chúng ta có thể quan sát điều đó khi xuống phố. Chúng ta không cần những sử gia vĩ đại nói cho biết sự thật rằng xã hội chúng ta đang suy thoái. Do đó, phải có các kiến trúc sư mới, những nhà xây dựng mới nhằm kiến tạo một xã hội mới. Cấu trúc đó phải được xây dựng dựa trên một nền tảng mới, trên những sự kiện và giá trị mới được khám phá. Song những kiến
trúc sư như vậy vẫn chưa xuất hiện. Không có nhà xây dựng nào quan sát để nhận ra sự thật rằng cấu trúc xã hội đó đang sụp đổ và tự biến mình thành những kiến trúc sư. Đó là vấn đề của chúng ta. Chúng ta thấy xã hội đang suy thoái, đang phân rã. Và chính chúng ta, bạn và tôi, phải trở thành những kiến trúc sư. Bạn và tôi phải tái khám phá những giá trị và kiến tạo một nền tảng căn cơ hơn, trường tồn hơn. Bởi vì nếu khâm phục hoặc tôn trọng các kiến trúc sư chuyên nghiệp, những nhà xây dựng về chính trị và tôn giáo, chúng ta sẽ lại rơi vào vị trí y hệt như trước đây.
Bởi vì bạn và tôi không sáng tạo, nên chúng ta đã đẩy xã hội tới tình trạng hỗn độn này. Vì vậy, bạn và tôi phải sáng tạo, bởi vì đây là một vấn đề cấp bách. Bạn và tôi phải nhận thức được những nguyên nhân cho sự sụp đổ của xã hội và kiến tạo một cấu trúc mới không dựa trên sự bắt chước thuần túy, mà dựa trên sự hiểu biết sáng tạo của chúng ta. Vậy chẳng phải điều này ngụ ý tư duy phủ nhận sao? Tư duy phủ nhận là dạng thức hiểu biết cao nhất. Tức là để hiểu tư duy sáng tạo là gì, chúng ta phải tiếp cận vấn đề một cách tiêu cực, bởi vì cách tiếp cận tích cực đối với vấn đề – rằng bạn và tôi phải trở nên sáng tạo để kiến tạo một cấu trúc xã hội mới – sẽ là sự mô phỏng, bắt chước. Để hiểu điều gì đang sụp đổ, chúng ta phải khảo sát nó, xem xét nó một cách tiêu cực – không phải với một hệ thống tích cực, một công thức tích cực, một kết luận tích cực.
Tại sao xã hội lại suy thoái, sụp đổ, như nó rõ ràng đang diễn ra? Một trong những lý do cơ bản là chính cá nhân, tức là bạn, đã ngừng sáng tạo. Tôi sẽ giải thích rõ hơn. Bạn và tôi đã bắt chước, chúng ta đang sao chép ở cả bên ngoài và bên trong. Về mặt ngoại giới, khi học hỏi một kỹ thuật mới, khi giao tiếp với nhau ở mức độ lời nói, đương nhiên phải có sự bắt chước, sao chép. Tôi sao chép từ ngữ. Để trở thành một kỹ sư, trước tiên tôi phải học kỹ thuật, rồi sử dụng kỹ thuật đó để xây dựng một cây cầu. Như vậy, phải có một mức độ mô phỏng, sao chép nào đó về mặt kỹ thuật bên ngoài, song một khi đã bắt chước về mặt tâm lý ở bên trong, thì chắc chắn chúng ta sẽ ngừng sáng tạo. Nền giáo dục, cấu trúc xã hội và cái được gọi là đời sống tâm linh của chúng ta đều dựa trên sự mô
phỏng. Tức là tôi vừa vặn ăn khớp vào một công thức xã hội hoặc tôn giáo cụ thể nào đó. Và như vậy, tôi ngừng trở thành một cá nhân đích thực. Về mặt tâm lý, tôi trở thành một cái máy thuần túy lặp lại những phản ứng có điều kiện nhất định, cho dù tôi là tín đồ của Hindu giáo, Thiên Chúa giáo hay Phật giáo, dù tôi là người Đức hay người Anh. Phản ứng của chúng ta được quy định theo khuôn mẫu của xã hội, dù là phương Đông hay phương Tây, dù trong tôn giáo hay ngoài thế tục. Vì vậy, một trong những nguyên nhân căn cơ khiến xã hội phân rã là sự mô phỏng, sao chép, và một trong các yếu tố gây phân rã là nhà lãnh đạo có bản tính bắt chước.
Để hiểu được bản chất của một xã hội đang phân rã, chẳng phải rất cần tìm hiểu xem bạn và tôi, các cá nhân, có thể sáng tạo được hay không sao? Chúng ta có thể thấy rằng khi có sự bắt chước, thì phải
có sự phân rã. Khi đã có quyền lực tác động, thì phải có sự sao chép. Và do toàn bộ tính chất tâm lý, tinh thần của chúng ta đều dựa trên sự tác động của uy quyền, nên để sáng tạo, phải thoát khỏi uy quyền đó. Bạn không chú ý rằng trong những khoảnh khắc sáng tạo, những khoảnh khắc thật hạnh phúc với sự hứng thú đầy sinh động đó, thì không có cảm giác lặp lại, không có cảm giác của sự sao chép sao? Những khoảnh khắc như vậy lúc nào cũng mới mẻ, tươi tắn, đầy sáng tạo và hạnh phúc. Vì vậy, chúng ta thấy rằng một trong những nguyên nhân căn cơ cho sự phân rã của xã hội là sao chép, tức là sự sùng bái uy quyền.
Chương 4
TỰ BIẾT MÌNH
Những vấn đề của thế giới quá to lớn, quá phức tạp tới mức không thể hiểu và giải quyết nổi, người ta phải tiếp cận chúng theo cách thật đơn giản và trực tiếp. Và sự đơn giản, trực tiếp đó không phụ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài, cũng không lệ thuộc vào những thành kiến và tâm trạng đặc biệt nào đó. Như tôi đang chỉ ra, không thể tìm thấy giải pháp thông qua những hội nghị, kế hoạch, hoặc thông qua việc thay thế nhà lãnh đạo cũ bằng nhà lãnh đạo mới,… Giải pháp hiển nhiên nằm ở chính người gây ra vấn đề đó, ở chính người gây ra mối nguy hại, sự hận thù, sự hiểu lầm to lớn giữa người với người đó. Và người gây ra mối nguy hại, người gây ra những vấn đề này chính là các cá nhân, chính bạn và tôi, chứ không phải thế giới như chúng ta thường nghĩ. Thế giới là sự tương giao của bạn với người khác. Thế giới không phải là thứ gì đó tách biệt khỏi bạn và tôi. Thế giới, xã hội là mối tương giao mà chúng ta thiết lập hoặc tìm cách thiết lập với nhau.
Vì vậy, bạn và tôi mới chính là vấn đề, chứ không phải thế giới, bởi vì thế giới là sự phóng chiếu của bản thân chúng ta, để hiểu thế giới, chúng ta phải hiểu chính mình. Thế giới không tách biệt khỏi chúng ta, chúng ta là thế giới và những vấn đề của chúng ta là vấn đề của thế giới. Không thể để chuyện này lặp lại quá thường xuyên, bởi vì đầu óc chúng ta chậm chạp tới mức chúng ta nghĩ rằng các vấn đề của thế giới không phải là chuyện của mình, chúng phải do Liên Hợp Quốc giải quyết, hoặc bằng cách thay thế nhà lãnh đạo cũ bằng nhà lãnh đạo mới. Chỉ có đầu óc u tối, đần độn mới nghĩ như vậy, bởi vì chúng ta chịu trách nhiệm cho nỗi đau khổ và sự hỗn loạn khủng khiếp này trên thế giới, cho chiến tranh cứ luôn lơ lửng trên đầu. Để biến chuyển thế giới, chúng ta phải bắt đầu với chính mình.
Và điều quan trọng khi khởi đầu với chính mình là mục đích. Mục đích đó phải là hiểu chính mình chứ không phải đẩy nó cho những người khác để biến chuyển chính họ, hoặc để tạo ra sự cải cách, thay đổi thông qua cuộc cách mạng của cánh tả hay của cánh hữu. Điều quan trọng cần hiểu là đây là trách nhiệm của chúng ta, của bạn và của tôi. Bởi vì dù thế giới mà chúng ta đang sống có nhỏ thế nào đi nữa, nhưng nếu chúng ta có thể biến chuyển chính mình, tạo ra một quan niệm hoàn toàn khác biệt trong cuộc sống hằng ngày, thì có lẽ chúng ta sẽ tạo ảnh hưởng lên phần lớn thế giới đó, ảnh hưởng đến mối quan hệ mở rộng với những người khác.
Như tôi đã trình bày, chúng ta đang cố gắng tìm ra quá trình hiểu biết chính mình, mà điều đó không phải là một quá trình cô lập. Đó không phải là sự thoái lui khỏi thế giới, bởi vì bạn không thể sống cô lập. Hễ tồn tại là có liên hệ và không có cái gì gọi là cuộc sống cô lập cả. Chính vì không có sự tương quan đúng đắn mà nó gây ra xung đột, đau khổ và tranh chấp. Dù thế giới của chúng ta có thể nhỏ bao nhiêu, nhưng nếu chúng ta có thể biến chuyển mối quan hệ của mình trong thế giới nhỏ hẹp đó, thì nó sẽ giống như một làn sóng lúc nào cũng trào dâng ra ngoài. Tôi nghĩ quan trọng là phải thấy được điểm đó, phải hiểu rằng thế giới là mối tương giao của chúng ta, dù nhỏ hẹp bao nhiêu đi nữa. Và nếu chúng ta có thể mang lại sự biến chuyển ở đó, không phải là sự chuyển biến cạn cợt ở bên ngoài, mà là một sự chuyển biến triệt để, thì chúng ta sẽ bắt đầu chủ động biến chuyển thế giới. Cuộc cách mạng đích thực không tuân theo bất cứ một khuôn mẫu đặc biệt nào, dù của cánh tả hay cánh hữu, mà nó là cuộc cách mạng của những giá trị, từ các giá trị cảm tính cho tới các giá trị phi cảm tính hoặc được tạo ra từ ảnh hưởng của môi trường xung quanh. Để tìm thấy những giá trị đúng đắn sẽ tạo ra một cuộc cách mạng triệt để, một sự biến chuyển hay phục hưng này thì nhất thiết ta phải hiểu chính mình. Tự biết mình là khởi đầu của trí tuệ, và do đó là khởi đầu của sự biến chuyển hoặc sự phục hưng. Để hiểu chính mình, chúng ta phải có ý muốn tìm hiểu – và khó khăn nằm ở chỗ đó. Mặc dù đa phần chúng ta hiện đang bất mãn, nhưng chúng ta lại mong muốn mang lại sự thay đổi bất ngờ và sự không hài lòng thì chỉ dẫn tới đạt được một
kết quả nào đó. Khi bất mãn, chúng ta tìm kiếm một công việc khác hoặc thuần túy là chịu thua trước hoàn cảnh. Sự bất mãn, thay vì thiêu đốt chúng ta, khiến chúng ta thắc mắc về cuộc đời, toàn bộ quá trình hiện hữu, thì lại bị chuyển hướng, và do đó, chúng ta trở nên tầm thường, mất động lực, mất cảm xúc để khám phá toàn bộ ý nghĩa của sự hiện hữu. Vì vậy, quan trọng là phải khám phá những điều này vì chính bản thân chúng ta, bởi vì không ai khác có thể trao cho chúng ta việc tự biết mình, và cũng không thể tìm thấy nó trong bất cứ cuốn sách nào. Chúng ta phải khám phá, và để khám phá thì phải có ý muốn, có sự truy vấn, tìm hiểu. Chừng nào mà ý muốn khám phá, tìm hiểu sâu xa đó còn yếu ớt hoặc chưa có, thì chừng đó quyết tâm đơn thuần hay mong muốn tình cờ là tìm ra bản thân vẫn chẳng có ý nghĩa gì cả.
Do đó, sự biến chuyển thế giới có thể thực hiện được bằng cách chuyển biến chính mình, bởi vì bản ngã là sản phẩm và là một phần của toàn bộ quá trình hiện hữu của con người. Để biến chuyển bản thân, nhất thiết phải tự biết mình. Vì nếu không biết mình thì không có cơ sở để tư duy đúng, và khi không biết chính mình thì không thể có sự chuyển biến. Người ta phải hiểu chính mình như hiện trạng, chứ không phải như ước muốn sẽ trở thành gì, vì điều đó thuần túy là lý tưởng nên nó giả tạo và phi thực tế. Chỉ cần hiểu điều có thể biến chuyển, chứ không phải điều bạn muốn trở thành. Để hiểu trọn vẹn bản thân đòi hỏi sự tỉnh giác phi thường của tâm trí, bởi vì hiện trạng thì cứ chuyển biến, thay đổi không ngừng, nên để theo dõi nó một cách nhanh chóng, tâm trí phải không bị trói buộc vào bất cứ một giáo điều hay niềm tin và khuôn mẫu hành động đặc thù nào. Nếu muốn theo đuổi bất cứ thứ gì, thì việc bạn bị trói buộc sẽ không tốt chút nào. Để hiểu chính mình, phải có nhận thức, sự tỉnh giác của tâm trí, mà khi đó, bạn thoát khỏi bất cứ niềm tin nào, thoát khỏi tất cả sự lý tưởng hóa, bởi vì những niềm tin và lý tưởng khiến bạn chỉ còn một màu, làm cản trở nhận thức đúng đắn. Nếu muốn biết mình là gì, thì bạn không thể tưởng tượng hoặc tin vào điều gì không đúng về mình. Nếu tôi tham lam, đố kỵ, hung bạo, thì chỉ ôm trong lòng lý tưởng về sự bất bạo động, không tham lam thôi cũng sẽ chẳng có giá trị gì cả. Song để biết rằng mình tham lam hoặc
hung bạo, biết và hiểu điều đó, thì cần có một sự nhận thức phi thường, không phải vậy sao? Nó đòi hỏi tính trung thực và sự rõ ràng trong tư tưởng, và ngược lại, việc theo đuổi một lý tưởng xa rời hiện thực là trốn tránh. Nó ngăn cản bạn khám phá và trực tiếp thay đổi hiện trạng của mình.
Khi đã hiểu mình là gì – dù bạn xấu xí hay đẹp đẽ, độc ác hay tinh quái – thì việc hiểu chính mình mà không bị méo mó, xuyên tạc là khởi đầu của đức hạnh. Đức hạnh là điều thiết yếu, bởi vì nó mang lại tự do. Chỉ khi có đức hạnh, bạn mới có thể khám phá, bạn mới có thể sống – mà không phải trong quá trình trau dồi đạo đức, vì điều này thuần túy tạo ra sự kính trọng, chứ không phải hiểu biết và tự do. Đó là sự khác biệt giữa việc có đạo đức và đang trở nên có đạo đức. Đạo đức xuất hiện thông qua việc hiểu được hiện trạng, trong khi đang trở nên có đạo đức chính là sự trì hoãn, che đậy của điều mà bạn muốn trở thành. Do đó, đang trở nên có đức hạnh nghĩa là bạn đang tránh hành động trực tiếp lên hiện trạng. Quá trình tránh né thực tế thông qua việc tu dưỡng lý tưởng này lại được coi là có đạo đức. Song nếu nhìn thật gần và thẳng vào nó, thì bạn sẽ thấy rằng nó chẳng là gì cả. Nó chỉ là sự trì hoãn đối mặt với hiện trạng. Đức hạnh không phải là trở thành cái không phải là mình, mà đức hạnh là hiểu được hiện thực, và nhờ đó, giải thoát khỏi hiện thực. Đức hạnh là điều cần thiết trong một xã hội đang phân rã nhanh chóng. Để tạo ra thế giới mới, kiến tạo một cấu trúc mới khác với cấu trúc cũ, thì phải tự do khám phá. Và để tự do thì phải có đức hạnh, bởi vì không có đức hạnh thì không có tự do. Một kẻ đồi bại đang cố gắng trở nên người đạo đức thì liệu có bao giờ hiểu về đức hạnh không? Kẻ vô đạo đức thì không bao giờ tự do, và do đó, hắn ta không bao giờ có thể tìm ra thực tại là gì. Chỉ có thể tìm thấy thực tại thông qua việc hiểu biết hiện trạng. Và để hiểu hiện trạng là gì, thì phải có tự do, giải thoát khỏi nỗi sợ hãi về hiện trạng.
Để thấu triệt quá trình đó, phải có ý định hiểu được hiện trạng, theo dõi từng tư tưởng, cảm nhận và hành động. Mà hiểu được hiện trạng là một việc vô cùng khó khăn, bởi vì hiện trạng thì không bao giờ đứng yên, không bao giờ bất động, mà nó luôn luôn chuyển
động. Hiện trạng đó là cái bạn đang là, chứ không phải điều bạn muốn trở thành. Nó không phải là lý tưởng, bởi vì lý tưởng là thứ hư cấu, còn nó mới là điều bạn thực sự đang làm, đang suy nghĩ và cảm nhận trong từng khoảnh khắc. Hiện trạng là thực tế, và hiểu thực tại đòi hỏi sự nhận thức, một cái tâm cực kỳ tỉnh giác và nhanh nhạy. Nhưng nếu bắt đầu chỉ trích hiện trạng, nếu bắt đầu đổ lỗi hoặc chống lại nó, thì chúng ta sẽ không hiểu những động thái của nó. Nếu muốn hiểu được ai đó, thì tôi không thể chỉ trích họ, thay vào đó tôi phải quan sát, tìm hiểu họ. Tôi phải thương yêu chính đối tượng mà mình đang tìm hiểu đó. Nếu muốn hiểu được một đứa trẻ, thì bạn phải yêu thương và không chê trách nó. Bạn phải cùng chơi, quan sát những hành động, khí chất và cách cư xử của nó. Còn nếu chỉ phê bình, chống đối hoặc đổ lỗi cho nó, thì bạn không thể thấu hiểu đứa trẻ đó. Tương tự như vậy, để hiểu hiện trạng, người ta phải quan sát tư tưởng, cảm nhận và hành động của mình trong từng khoảnh khắc. Tức là thực tế. Bất cứ hành động nào khác, bất cứ lý tưởng hoặc sự vận động ý thức hệ nào khác đều không phải là hiện thực. Nó thuần túy chỉ là một ước nguyện, một khao khát tưởng tượng được trở thành thứ gì đó khác với hiện trạng.
Để hiểu hiện trạng, cần phải có một trạng thái tinh thần không có sự đồng nhất hóa hoặc thái độ chỉ trích, điều đó nghĩa là tâm thật tỉnh giác và còn thụ động. Chúng ta ở trong trạng thái đó khi thực sự mong muốn hiểu được điều gì. Khi quan tâm đến mức độ này thì trạng thái tinh thần đó bắt đầu hiện hữu. Khi một người quan tâm tìm hiểu hiện trạng, trạng thái tinh thần thật sự, thì người ta không cần phải ép buộc, trừng phạt hay điều khiển nó. Ngược lại, có sự tỉnh giác, cảnh giác thụ động. Trạng thái nhận thức này xuất hiện khi có sự quan tâm, ý định tìm hiểu.
Muốn hiểu được cơ bản về chính mình thì không thể trông chờ vào kiến thức hay sự tích lũy kinh nghiệm, vì điều đó chỉ đơn thuần là sự trau dồi cho ký ức. Hiểu chính mình phải diễn ra trong từng khoảnh khắc, nếu chúng ta chỉ đơn thuần tích lũy kiến thức về bản ngã, thì chính kiến thức đó ngăn cản việc hiểu biết thêm nữa, bởi vì kiến thức và kinh nghiệm được tích lũy trở thành trung tâm để tư tưởng
tập trung và hiện hữu. Thế giới không khác với chúng ta và những hoạt động của chúng ta, bởi vì ta là thế nào thì những vấn đề ta tạo ra cho thế giới là thế ấy. Khó khăn đối với đa số chúng ta là không hiểu chính mình một cách trực tiếp, nhưng lại tìm kiếm một hệ thống, một phương pháp, một phương tiện hoạt động để giải quyết nhiều vấn đề của nhân loại.
Vậy, phải chăng có một phương tiện, một hệ thống để hiểu chính mình? Bất cứ người thông minh nào, bất cứ triết gia nào đều có thể phát minh một hệ thống, một phương pháp, nhưng chắc chắn rằng việc tuân thủ một hệ thống sẽ thuần túy sản sinh ra một kết quả do hệ thống đó tạo ra, không phải vậy sao? Nếu đi theo một phương pháp đặc thù nào đó để hiểu chính mình, thì tôi sẽ có một kết quả mà hệ thống đó cần phải có. Tuy nhiên, kết quả đó sẽ hiển nhiên không phải là hiểu được chính tôi. Đó là vì khi tuân theo một hệ thống, một phương pháp, một phương tiện nhằm hiểu chính mình, tôi đã định hướng việc suy nghĩ, những hoạt động của tôi theo một khuôn mẫu. Nhưng tuân theo một khuôn mẫu không phải là hiểu được chính mình.
Do đó, không có phương pháp nào để tự biết mình. Việc tìm kiếm một phương pháp lúc nào cũng ám chỉ mong muốn đạt được kết quả nào đó – và đó là điều tất cả chúng ta đều muốn. Chúng ta tuân theo uy quyền – nếu không phải uy quyền của một người, thì là của một hệ thống, một ý thức hệ – bởi vì chúng ta muốn một kết quả sẽ cho ta sự thỏa mãn, cho ta sự an toàn. Chúng ta thực sự không muốn hiểu chính mình, những thôi thúc và phản ứng của chúng ta, toàn bộ quá trình tư duy của chúng ta, hữu thức cũng như vô thức. Chúng ta thích theo đuổi một hệ thống bảo đảm kết quả cho mình. Nhưng việc theo đuổi một hệ thống lúc nào cũng là kết quả cho việc chúng ta khao khát có được an toàn, có được sự chắc chắn, và kết quả đó hiển nhiên không phải là sự thấu triệt về chính mình. Khi tuân theo một phương pháp, chúng ta phải chịu những ảnh hưởng của uy quyền – bậc thầy, vị guru, đức cứu tinh, bậc đạo sư – đó là những người sẽ bảo đảm cho chúng ta có được điều mình khao khát. Và chắc chắn rằng đó không phải là cách để tự biết mình.
Uy quyền ngăn cản việc tự hiểu mình, chẳng phải vậy sao? Dưới sự che chở của một uy quyền, một sự chỉ dẫn, bạn tạm thời có thể có cảm giác an toàn, hạnh phúc, song đó không phải là hiểu được toàn bộ quá trình của chính mình. Về bản chất, uy quyền ngăn cản việc nhận thức trọn vẹn về chính mình, và do đó, cuối cùng nó hủy hoại tự do. Chỉ khi tự do thì mới có thể có sáng tạo. Và chỉ có thể có sáng tạo thông qua việc tự biết mình. Đa phần chúng ta đều không sáng tạo. Chúng ta là những cỗ máy lặp lại, đơn thuần là cái máy hát cứ phát đi phát lại những bài hát kinh nghiệm nào đó, những kết luận và ký ức nào đó, của mình hay người khác. Sự lặp lại như vậy không phải là sáng tạo – nhưng đó là điều chúng ta muốn. Bởi vì muốn an toàn trong nội tâm, chúng ta phải không ngừng tìm kiếm các phương pháp và phương tiện cho sự an toàn này, và bằng cách đó, chúng ta tạo ra uy quyền, tạo nên sự sùng bái người khác, vốn là thứ hủy hoại sự hiểu biết. Chỉ khi có sự tĩnh lặng tự sinh ra trong tâm hồn thì mới có thể có trạng thái sáng tạo.
Chắc chắn khó khăn mà hầu hết chúng ta đều gặp phải là bị mất cảm giác sáng tạo. Sáng tạo không có nghĩa là chúng ta phải vẽ tranh hoặc sáng tác thơ và trở nên nổi tiếng. Đó không phải là sáng tạo, mà thuần túy là khả năng diễn tả ý tưởng, công chúng có thể tán thưởng hoặc coi thường. Không nên lẫn lộn giữa khả năng và sự sáng tạo. Khả năng không phải là sự sáng tạo. Sáng tạo là một trạng thái hiện hữu hoàn toàn khác, không phải vậy sao? Đó là trạng thái mà trong đó không có bản ngã, trong đó tâm trí không còn là sự tập trung của những kinh nghiệm, tham vọng, theo đuổi và mong muốn của chúng ta. Sáng tạo không là trạng thái liên tục, vì nó mới mẻ qua từng khoảnh khắc, nó là sự chuyển động mà trong đó không có cái “tôi”, cái “của tôi”, trong đó tư tưởng không tập trung vào bất cứ trải nghiệm, tham vọng, thành tựu, mục đích và động cơ cụ thể nào. Chỉ khi bản ngã không còn thì mới có sự sáng tạo – chỉ trong trạng thái hiện hữu đó mới có thực tại, chủ thể sáng tạo của vạn vật. Nhưng trạng thái đó không thể hình dung hay tưởng tượng ra, nó không thể được công thức hóa hay sao chép, nó không thể đạt được thông qua bất cứ hệ thống, bất cứ triết lý hay bất cứ sự trừng
phạt nào. Ngược lại, nó chỉ bắt đầu hiện hữu thông qua sự thấu triệt toàn bộ quá trình về bản thân.
Việc hiểu chính mình không phải là một kết quả, một cực điểm, nó là việc nhìn rõ chính mình trong từng khoảnh khắc qua tấm gương của các mối quan hệ – quan hệ với tài sản, với sự vật, với con người và
với những ý niệm. Nhưng chúng ta thấy rằng thật khó để tỉnh giác, để nhận thức, nên chúng ta thích làm tâm trí mình trở nên trì độn bằng cách theo đuổi một phương pháp, bằng cách chấp nhận những uy quyền, sự mê tín và những học thuyết làm chúng ta hài lòng. Vì vậy, tâm trí của chúng ta trở nên mệt mỏi, kiệt sức và mất đi độ nhạy cảm. Một tâm trí như vậy không thể ở trong trạng thái sáng tạo được. Trạng thái sáng tạo chỉ xuất hiện khi bản ngã – tức là quá trình công nhận và tích lũy – chấm dứt. Bởi vì suy cho cùng, ý thức về cái “tôi” là tâm điểm của sự công nhận, và sự công nhận chỉ đơn thuần là quá trình tích lũy kinh nghiệm. Nhưng chúng ta đều lo sợ mình không là gì cả, bởi vì tất cả chúng ta đều muốn trở thành gì đó. Chẳng hạn, người nhỏ bé thì muốn trở thành người to lớn, kẻ thất đức thì muốn trở thành người đạo đức, kẻ yếu đuối và vô danh thì khao khát sức mạnh, địa vị và uy quyền. Đây là hoạt động không ngừng của tâm trí. Một cái tâm như vậy thì không thể tĩnh lặng, và do đó, nó không bao giờ hiểu được trạng thái sáng tạo.
Để biến chuyển thế giới quanh ta cùng với nỗi đau khổ, chiến tranh, nạn thất nghiệp, nạn đói, sự phân chia giai cấp và tình trạng hỗn loạn hoàn toàn của nó, thì phải có sự chuyển biến trong chính chúng ta. Cuộc cách mạng phải bắt đầu với chính mình, chứ không phải theo bất cứ niềm tin hay ý thức hệ nào cả, bởi vì cuộc cách mạng mà dựa trên một quan niệm, hoặc tuân thủ một khuôn mẫu đặc thù nào đó thì hiển nhiên không hề là một cuộc cách mạng hay sự cải cách gì cả. Để mang lại cuộc cách mạng căn cơ trong chính mình, người ta phải hiểu toàn bộ quá trình tư tưởng và cảm nhận của họ trong mối quan hệ. Đó là giải pháp duy nhất cho tất cả các vấn đề của chúng ta – mà không cần có thêm kỷ luật, niềm tin, ý thức hệ và bậc thầy nào nữa. Nếu có thể hiểu chính mình đúng như hiện trạng trong từng khoảnh khắc chứ không phải quá trình tích lũy kiến thức,
thì chúng ta sẽ thấy sự tĩnh lặng xuất hiện như thế nào, nó không là sản phẩm của tâm trí, một sự tĩnh lặng không phải do tưởng tượng và trau dồi mà có. Và chỉ trong trạng thái tĩnh lặng đó mới có thể có sự sáng tạo.
Chương 5
HÀNH ĐỘNG VÀ Ý NIỆM
Tôi muốn thảo luận vấn đề về hành động. Ban đầu, vấn đề này có thể tương đối khó hiểu và phức tạp. Nhưng tôi hy vọng sau khi suy nghĩ kỹ càng về nó, chúng ta sẽ có thể thấy được vấn đề một cách rõ ràng, bởi vì toàn bộ sự hiện hữu, toàn bộ cuộc đời của chúng ta là một quá trình hành động.
Đa phần chúng ta sống trong một chuỗi những hành động có vẻ như không liên quan và rời rạc, nên dẫn tới sự phân rã, thất bại. Đó là vấn đề có liên quan tới mỗi người trong chúng ta, bởi vì chúng ta sống bằng cách hành động, không có hành động thì không có cuộc sống, không có trải nghiệm, không có tư duy. Tư tưởng là hành động. Và đơn thuần theo đuổi hành động ở một cấp độ ý thức cụ thể nào đó, tức là lớp bên ngoài của ý thức, đơn thuần bị mắc kẹt trong hành động bên ngoài đó mà không hiểu được toàn bộ bản thân quá trình hành động, thì không thể tránh khỏi dẫn tới sự thất vọng, nỗi đau khổ.
Cuộc đời chúng ta là một chuỗi hành động hay là một quá trình hành động với những cấp độ ý thức khác nhau. Ý thức là sự trải nghiệm, gọi tên và ghi nhận. Hay nói cách khác, ý thức là thách thức và phản ứng – trước tiên là trải nghiệm, sau đó gọi tên hoặc định danh, rồi ghi nhận, tức là ký ức. Quá trình này là hành động, không phải vậy sao? Ý thức là hành động. Và không có thách thức, phản ứng, không có trải nghiệm, gọi tên hoặc định danh, không có ghi nhận – tức là ký ức – thì không có hành động.
Vậy, chính hành động tạo nên người hành động. Tức là người hành động bắt đầu hiện hữu khi hành động có một kết quả, có một mục
đích rõ ràng. Nếu hành động không có kết quả thì không có người hành động. Nhưng nếu có mục đích hoặc kết quả rõ ràng, thì hành động tạo nên người hành động. Do đó, người hành động, hành động, mục đích hoặc kết quả là một quá trình nhất quán, một quá trình duy nhất, bắt đầu hiện hữu khi hành động có mục đích rõ ràng. Hành động hướng tới một kết quả chính là ý chí. Và ngược lại thì không có ý chí, phải vậy không? Mong muốn đạt được mục đích tạo ra ý chí, tức là người hành động: Tôi muốn thành công, tôi muốn viết sách, tôi muốn giàu có, tôi muốn vẽ tranh.
Chúng ta quen thuộc với ba trạng thái này: người hành động, hành động và mục đích. Đó là cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Và tôi chỉ đang giải thích về hiện trạng. Nhưng chúng ta sẽ chỉ bắt đầu hiểu cách để biến chuyển hiện trạng khi nào xem xét nó một cách rõ ràng, thấu đáo để không có ảo tưởng hoặc thiên kiến, không có thành kiến về nó. Bây giờ, ba trạng thái tạo nên trải nghiệm này – người hành động, hành động và mục đích – chắc chắn là một quá trình trở thành, phải vậy không? Nếu không có người hành động, và nếu không có hành động hướng tới mục đích, thì không có sự trở thành. Nhưng cuộc đời như chúng ta biết, tức là cuộc sống thường nhật của chúng ta, là một quá trình trở thành. Tôi nghèo nên tôi hành động với mục đích rõ ràng là trở nên giàu có. Tôi xấu nên tôi muốn trở nên đẹp đẽ. Do đó, cuộc đời của tôi là một quá trình trở thành thứ gì đó. Ý chí tồn tại là ý chí để trở thành, ở những cấp độ ý thức khác nhau, trong các trạng thái khác nhau, mà trong đó có sự thách thức, phản ứng, gọi tên và ghi nhận. Vậy sự trở thành này là xung đột, là nỗi đau khổ, chẳng phải sao? Đó là sự tranh đấu không ngừng: Tôi là thế này, nên tôi muốn trở thành thế kia.
Vậy thì lúc này vấn đề là: Liệu có hay không hành động mà không có sự trở thành này? Có hay không hành động mà không có nỗi đau khổ này, không có đấu tranh không ngừng này? Nếu không có mục đích, thì không có người hành động bởi vì hành động với một mục đích rõ ràng tạo nên người hành động. Nhưng liệu có thể có hành động mà không có mục đích rõ ràng, và do đó, không có người hành động – tức là không mong muốn một kết quả nào không? Hành
động như vậy không phải là sự trở thành, và vì vậy, không có sự tranh chấp. Có một trạng thái hành động, một trạng thái trải nghiệm, mà không có người trải nghiệm và sự trải nghiệm. Điều này nghe có vẻ triết lý nhưng nó thực sự rất đơn giản.
Trong khoảnh khắc trải nghiệm, bạn không nhận ra bản thân mình là người trải nghiệm tách khỏi sự trải nghiệm. Bạn ở trong trạng thái đang trải nghiệm. Lấy một ví dụ đơn giản: Bạn đang tức giận. Trong khoảnh khắc sân hận đó, không có người trải nghiệm, cũng không có sự trải nghiệm. Chỉ có duy nhất việc đang trải nghiệm. Nhưng khoảnh khắc bạn hết giận, chỉ giây lát sau việc đang trải nghiệm đó, thì có người trải nghiệm và sự trải nghiệm, người hành động và hành động với mục đích rõ ràng – đó là tống khứ hoặc kiềm chế cơn giận. Chúng ta thường xuyên ở trong trạng thái này, trong trạng thái đang trải nghiệm. Nhưng chúng ta luôn luôn thoát ra khỏi nó và đặt tên cho nó, định danh và ghi nhận nó, và vì vậy, tiếp tục để trở thành cái gì đó.
Nếu chúng ta có thể hiểu hành động theo ý nghĩa cơ bản của từ này, thì sự hiểu biết căn cơ này cũng sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động bề ngoài của chúng ta. Nhưng trước tiên, chúng ta phải hiểu bản chất nền tảng của hành động. Vậy, có phải hành động là do một ý niệm tạo ra không? Có phải trước tiên bạn có một ý niệm rồi hành động theo đó không? Hay hành động xuất hiện trước, rồi sau đó, do hành động gây ra xung đột, bạn xây dựng quanh nó một ý niệm? Hành động tạo nên người hành động hay người hành động có trước hành động?
Điều rất quan trọng là cần phải tìm ra cái nào xuất phát trước. Nếu ý niệm đi trước, thì hành động thuần túy là tuân theo ý niệm, và do đó, nó không còn là hành động, mà chỉ là sự bắt chước, sự ép buộc theo một ý niệm. Và việc nhận ra điều này là vô cùng quan trọng. Bởi vì khi xã hội chúng ta chủ yếu được xây dựng trên cấp độ tri thức hoặc ngôn từ, thì với tất cả chúng ta ý niệm đi trước và hành động theo sau. Lúc đó, hành động là đầy tớ của một ý niệm, và việc xây dựng ý niệm đơn thuần hiển nhiên sẽ gây phương hại cho hành
động. Các ý niệm lại sinh ra thêm các ý niệm khác, và khi chỉ đơn thuần có sự ra đời của các ý niệm, thì có tình trạng đối kháng. Và xã hội trở nên nặng nề với quá trình hình thành ý niệm bằng trí óc. Cấu trúc xã hội của chúng ta là dựa trên tri thức. Chúng ta đang trau dồi trí năng với cái giá là phải coi nhẹ mọi yếu tố khác của cuộc sống, và do đó, chúng ta bị ngột ngạt với những ý niệm.
Phải chăng ý niệm bao giờ cũng tạo ra hành động, hay ý niệm thuần túy làm khuôn đúc cho tư tưởng, và do đó hạn chế hành động? Khi hành động bị thúc ép bởi ý niệm, thì hành động có thể không bao giờ giải thoát con người. Chúng ta rất cần phải hiểu điều này. Nếu một ý niệm định hình nên hành động, thì hành động có thể không bao giờ mang lại giải pháp cho những đau khổ, phiền não của chúng ta, bởi vì trước khi nó có thể được thể hiện trong hành động, chúng ta đầu tiên phải khám phá ý niệm bắt đầu hiện hữu như thế nào. Việc khảo sát về sự hình thành tư tưởng, về việc xây dựng ý niệm – dù của những người theo chủ nghĩa Xã hội, chủ nghĩa Tư bản, chủ nghĩa Cộng sản, hay của các tôn giáo khác nhau – là cực kỳ quan trọng, đặc biệt là khi xã hội của chúng ta đang ở bên bờ vực thẳm, chực chờ trước nguy cơ một thảm họa, một sự phân ly nữa. Và những ai thực sự nghiêm túc với ý định tìm ra giải pháp của nhân loại cho nhiều vấn đề của chúng ta thì trước tiên phải thấu triệt quá trình hình thành ý niệm này.
Chúng ta muốn nói gì qua một ý niệm? Một ý niệm bắt đầu hiện hữu ra sao? Liệu ý niệm và hành động có thể kết hợp cùng nhau hay không? Giả sử tôi có một ý niệm và tôi mong muốn thực hiện nó. Vậy là tôi tìm kiếm một phương pháp để tiến hành ý tưởng đó, và chúng ta suy xét, mất thời gian và công sức trong việc tranh cãi về cách thực hiện ý tưởng. Vì vậy, việc tìm hiểu các ý niệm bắt đầu hiện hữu như thế nào thực sự vô cùng quan trọng. Và sau khi khám phá ra sự thật của điều đó, chúng ta có thể thảo luận về vấn đề hành động. Nếu không thảo luận những ý niệm, mà thuần túy tìm hiểu cách hành động thì chẳng có ý nghĩa gì cả.
Giờ đây, làm thế nào bạn có được một ý niệm – một ý niệm thật đơn giản, không cần phải mang tính triết lý, tôn giáo hay kinh tế gì cả? Hiển nhiên đó chính là quá trình tư duy, không phải sao? Ý niệm là kết quả của quá trình tư duy. Nếu không có quá trình tư duy, thì có thể không có ý niệm. Vì vậy, tôi phải hiểu chính quá trình tư duy trước khi có thể hiểu sản phẩm của nó, tức là ý niệm. Chúng ta muốn nói gì khi nói đến tư duy đây? Khi nào thì bạn tư duy? Rõ ràng tư duy là kết quả của một phản ứng về thần kinh hoặc tâm lý, không phải vậy sao? Đó là phản ứng tức thời của các giác quan đối với một cảm giác, hoặc nó là phản ứng tâm lý, phản ứng của ký ức được tích lũy. Có phản ứng tức thời của những dây thần kinh trước cảm giác, và có phản ứng tâm lý của ký ức được tích lũy, sự ảnh hưởng của nòi giống, của phe phái, của người có uy tín, gia đình, truyền thống,… – tất cả những điều đó bạn gọi là tư duy. Vì vậy, quá trình tư duy chẳng phải là phản ứng của ký ức hay sao? Bạn sẽ không có tư duy nếu không có ký ức. Và phản ứng của ký ức đối với một trải nghiệm nào đó sẽ biến quá trình tư duy thành hành động. Chẳng hạn, tôi có những ký ức được tích lũy về chủ nghĩa dân tộc và tự gọi mình là tín đồ Hindu giáo. Nguồn dự trữ các ký ức đó gồm những hành động hồi đáp, hàm ý, truyền thống, phong tục trong quá khứ, phản ứng trước thách thức của một tín đồ Hồi giáo, Phật giáo, hay Thiên Chúa giáo. Và phản ứng của ký ức đối với thách thức đó không thể tránh khỏi tạo nên quá trình tư duy. Hãy theo dõi quá trình tư duy đang hoạt động trong chính mình và bạn có thể kiểm tra một cách trực tiếp sự thật của vấn đề này. Chẳng hạn, bạn bị ai đó sỉ nhục, và sự việc đó vẫn lưu lại trong ký ức của bạn. Nó trở thành một phần bối cảnh của bạn. Và khi bạn gặp người đó, tức là thách thức xuất hiện, thì phản ứng của bạn chính là ký ức của việc sỉ nhục đó. Vì vậy, phản ứng của ký ức, tức là quá trình tư duy, tạo nên một ý niệm. Vì vậy, ý niệm đó luôn luôn bị quy định – và đây là điều quan trọng cần hiểu rõ. Hay nói chính xác hơn, ý niệm là kết quả của quá trình tư duy, và quá trình tư duy là phản ứng của ký ức, mà ký ức thì luôn luôn bị quy định. Ký ức bao giờ cũng thuộc về quá khứ, và ký ức đó được tái hiện trong hiện tại khi gặp thách thức. Về bản chất, ký ức tự nó không có đời sống. Nó tái hiện trong hiện tại khi chạm
trán với thách thức. Và tất cả ký ức, dù tiềm tàng hay đang hoạt động, đều bị quy định, không phải vậy sao?
Do đó, phải có một cách tiếp cận hoàn toàn khác. Bạn phải khám phá chính mình về mặt nội tâm, liệu bạn có đang khởi lên một ý niệm hay không, và liệu có thể có hành động mà không có sự hình thành ý niệm được hay không. Hãy cùng đi tìm hành động không dựa trên một ý niệm nhé.
Khi nào bạn hành động mà không có sự hình thành ý niệm? Khi nào có hành động mà không phải là kết quả của sự trải nghiệm? Như chúng ta đã nói, một hành động dựa trên trải nghiệm thì có giới hạn, và do đó, là một trở ngại. Hành động không là kết quả của một ý niệm là hành động tự phát khi quá trình tư duy – dựa trên trải nghiệm – không điều khiển hành động. Điều đó có nghĩa rằng có hành động độc lập với sự trải nghiệm khi tâm trí không điều khiển hành động. Đó là trạng thái duy nhất có sự hiểu biết: Khi tâm trí (dựa trên trải nghiệm) không hướng dẫn hành động, khi tư duy (dựa trên trải nghiệm) không định hướng hành động. Vậy thì hành động là gì, khi không có quá trình tư duy? Liệu có thể có hành động mà không cần quá trình tư duy không? Chẳng hạn tôi muốn xây dựng một cây cầu, căn nhà. Tôi biết kỹ thuật xây dựng và công nghệ đó cho tôi biết cách xây dựng nó. Chúng ta gọi đó là hành động. Và có hành động khi làm thơ, vẽ tranh, đảm trách các công việc của chính phủ, các phản ứng về môi trường, xã hội. Tất cả đều dựa trên một ý niệm hoặc trải nghiệm trước đó để định hướng hành động. Nhưng liệu có hành động khi không có sự hình thành ý niệm hay không?
Chắc chắn rằng có hành động như vậy khi ý niệm dừng lại. Và ý niệm đó chỉ dừng khi có tình thương. Tình thương không phải là ký ức. Tình thương không phải là sự trải nghiệm. Tình thương không phải là nghĩ về người mình quý mến, bởi vì khi đó, nó chỉ đơn thuần là tư duy mà thôi. Bạn không thể nghĩ về tình thương. Bạn chỉ có thể nghĩ về người mình quý mến hoặc hết lòng tận tụy vì họ – chẳng hạn vị thầy của bạn, hình ảnh của bạn, vợ hay chồng của bạn.
Nhưng tư duy đó, biểu tượng đó không phải là thực tế, tức là tình thương. Do đó, tình thương không phải là một trải nghiệm.
Khi có tình thương thì có hành động, không phải vậy sao? Và có phải hành động đó là không giải thoát? Nó không phải là kết quả của tâm trạng, và không có khoảng cách giữa tình thương và hành động, giống như có sự cách biệt giữa ý niệm và hành động. Ý niệm luôn luôn cũ kỹ, phủ bóng lên hiện tại và chúng ta cứ luôn cố gắng xây dựng một nhịp cầu giữa hành động và ý niệm. Khi có tình thương – không phải tâm trạng, không phải sự hình thành ý niệm, không phải ký ức, không phải kết quả của trải nghiệm, của kỷ luật được thực thi – thì chính tình thương đó là hành động. Và đó là thứ duy nhất tự do. Miễn là có tâm trạng, miễn là có sự định hướng hành động bằng một ý niệm, tức là trải nghiệm, thì không thể có sự giải thoát. Và chỉ cần quá trình đó tiếp tục, thì tất cả hành động đều bị giới hạn. Khi thấy được sự thật của điều này, thì phẩm chất của tình thương – không phải tâm trạng, thứ mà bạn có thể nghĩ tới – bắt đầu hiện hữu.
Người ta phải nhận thức về toàn bộ quá trình này, về việc ý niệm bắt đầu hiện hữu ra sao, hành động phát sinh từ ý niệm như thế nào, làm cách nào ý niệm điều khiển được hành động, và nhờ đó, nó kiềm chế hành động, phụ thuộc vào cảm giác. Ý niệm dù là của ai , cánh tả hay phe cực hữu, cũng không quan trọng. Chỉ cần còn bám chắc vào ý niệm, thì chúng ta còn ở trong trạng thái không thể có trải nghiệm gì cả. Lúc đó, chúng ta đơn thuần đang sống trong khoảng thời gian của quá khứ, vốn tạo thêm cảm giác, hoặc của tương lai, vốn là một dạng cảm giác khác. Chỉ khi tâm trí thoát khỏi ý niệm thì mới có thể có trạng thái đang trải nghiệm.
Ý niệm không phải là sự thật. Sự thật là cái phải được trải nghiệm một cách trực tiếp trong từng khoảnh khắc. Nó không phải kiểu trải nghiệm mà bạn muốn – bất cứ thứ gì bạn thích lúc đó chỉ đơn thuần là cảm giác. Chỉ khi một người có thể vượt qua một mớ những ý niệm – tức là cái “tôi”, là tâm trí, là sự tiếp nối liên tục hoặc một phần – chỉ khi một người có thể vượt qua điều đó, khi tư tưởng tĩnh lặng
tuyệt đối, thì lúc đó mới có trạng thái đang trải nghiệm. Khi ấy, người ta sẽ biết được sự thật là gì.
Chương 6
NIỀM TIN
Niềm tin và kiến thức đều có mối tương giao rất gần với lòng khao khát. Và có lẽ, nếu hiểu hai vấn đề này, chúng ta có thể hiểu lòng khao khát diễn ra như thế nào và hiểu được những phức tạp của nó.
Đối với tôi, một trong những thứ đa phần chúng ta dễ chấp nhận và coi là đúng mà không hề thắc mắc chính là niềm tin. Tôi không hề công kích niềm tin. Điều mà chúng ta đang cố gắng thực hiện là tìm hiểu tại sao ta lại chấp nhận nó. Và nếu có thể hiểu những động cơ, nguyên nhân của sự chấp nhận đó, thì có lẽ chúng ta không chỉ hiểu được lý do tại sao mình làm như vậy, mà còn được giải thoát khỏi nó. Người ta có thể thấy những niềm tin chính trị và tôn giáo tín ngưỡng, các niềm tin về quốc gia, dân tộc và nhiều loại niềm tin khác gây chia rẽ con người, kích động xung đột, hỗn loạn và tình trạng đối kháng – điều này là một sự thật hiển nhiên. Tuy nhiên, chúng ta chưa sẵn lòng từ bỏ chúng. Chúng ta có Hindu giáo, Thiên Chúa giáo, Phật giáo – vô số niềm tin vào các giáo phái và quốc gia, dân tộc, vô số ý thức hệ chính trị – tất cả đều tranh giành với nhau, cố gắng thay đổi đối phương. Hiển nhiên rằng người ta có thể thấy rằng niềm tin, tín ngưỡng đang gây chia rẽ con người, gây ra thái độ bất dung thứ. Vậy thì có thể nào sống mà không có niềm tin, tín ngưỡng không? Người ta có thể tìm ra cách sống đó chỉ khi họ có thể nghiên cứu chính mình trong mối tương giao với một niềm tin. Liệu có thể sống trong thế giới này mà không có niềm tin – giữ vững niềm tin, không thay niềm tin này bằng niềm tin khác – hoàn toàn thoát khỏi tất cả niềm tin, để người ta nhìn cuộc sống bằng một cách khác trong từng khoảnh khắc? Suy cho cùng, điều này là sự thật: Có khả năng nhìn mọi thứ bằng cách khác trong từng khoảnh khắc, mà
không chịu ảnh hưởng của quá khứ để không có tác động tích lũy gây ra trở ngại giữa chính mình và điều hiện hữu.
Nếu cân nhắc, xem xét kỹ, thì bạn sẽ thấy rằng một trong những lý do của việc mong muốn chấp nhận niềm tin là nỗi sợ hãi. Và nếu chúng ta không có niềm tin, thì chuyện gì sẽ xảy ra cho chúng ta? Không phải là chúng ta rất sợ chuyện có thể xảy ra hay sao? Nếu chúng ta không có khuôn mẫu hành động nào, dựa trên niềm tin hay tín ngưỡng – vào Thượng Đế, hoặc vào một chủ nghĩa nào đó, hoặc vào một dạng thức tôn giáo, một giáo điều nào đó – thì không phải chúng ta sẽ hoàn toàn lạc lối sao? Và chẳng phải việc chấp nhận niềm tin này là sự che đậy nỗi khiếp sợ – lo sợ mình thực ra chẳng là gì cả, chỉ là trống rỗng? Suy cho cùng, một cái tách chỉ hữu dụng khi nó trống không *. Và một cái tâm đầy ắp những niềm tin, tín ngưỡng, giáo điều, những lời xác quyết, trích dẫn thì thực sự là tâm không sáng tạo. Nó thuần túy là tâm lặp lại. Thoát khỏi sự sợ hãi đó – nỗi sợ trống rỗng, nỗi sợ cô đơn, nỗi sợ đình trệ, không tới nơi tới chốn, không thành công, không thành tựu, không là gì cả, không trở thành gì đó – chắc chắn là một trong những lý do khiến chúng ta rất hăm hở và thèm khát chấp nhận niềm tin hay tín ngưỡng, không phải vậy sao? Và khi có niềm tin rồi, chúng ta sẽ hiểu được chính mình chăng? Hoàn toàn ngược lại. Một niềm tin hay tín ngưỡng về tôn giáo hoặc chính trị rõ ràng sẽ cản trở việc hiểu chính mình. Nó như một tấm màn che trước mắt chúng ta khi ta nhìn vào chính mình. Và liệu chúng ta có thể nhìn vào chính mình mà không có niềm tin, tín ngưỡng không? Nếu từ bỏ những niềm tin đó, nhiều niềm tin mà người ta đã có, thì còn lại gì để nhìn vào? Nếu chúng ta không có những niềm tin để tâm trí lấy làm căn cứ đồng nhất hóa với chính nó, thì tâm trí không bị đồng nhất sẽ có khả năng nhìn vào nó đúng như hiện trạng – và đó chắc chắn là khởi đầu để hiểu được chính mình.
Đây thực sự là vấn đề rất thú vị, vấn đề về niềm tin và kiến thức. Nó đóng một vai trò thật khác biệt trong cuộc sống chúng ta! Chúng ta có biết bao nhiêu niềm tin hay tín ngưỡng! Chắc chắn rằng một người càng trí thức, càng có văn hóa, càng “tâm linh”, nếu tôi có thể
sử dụng từ đó, thì họ càng ít có khả năng hiểu biết. Những người man rợ đó có vô số điều mê tín, ngay cả trên thế giới hiện đại này. Và người càng suy nghĩ chín chắn, thận trọng, càng tỉnh thức, càng cảnh giác, thì có lẽ càng ít tin tưởng. Đó là vì niềm tin trói buộc, tín ngưỡng gây tách biệt. Và chúng ta thấy điều đó hiện diện ở khắp nơi trên thế giới, ở thế giới kinh tế và thế giới chính trị, và cả ở cái gọi là thế giới tâm linh nữa. Bạn tin rằng có Thượng Đế, và có lẽ tôi tin rằng không có Thượng Đế. Hoặc bạn tin cậy vào sự quản lý trọn vẹn của chính phủ ở mọi việc và mọi cá nhân, còn tôi thì tin tưởng vào tổ chức tư nhân và những thứ đại loại như vậy. Bạn tin rằng chỉ có một Đấng Cứu Thế và thông qua Ngài, bạn có thể đạt được mục đích của mình, còn tôi thì không tin như vậy. Do đó, bạn với niềm của bạn và tôi với niềm tin của tôi, cả hai đều đang tự mình quả quyết. Tuy nhiên, cả hai chúng ta đều nói về tình thương, về hòa bình, về sự đoàn kết của nhân loại, về cuộc đời hợp nhất – điều này thì tuyệt đối vô nghĩa, bởi vì thực sự chính niềm tin là một quá trình cô lập. Bạn là người Bà la môn, còn tôi thì không phải là người Bà la môn. Bạn là tín đồ Thiên Chúa giáo, còn tôi là người Hồi giáo,… Bạn nói về tình huynh đệ và tôi cũng bàn về tình huynh đệ, tình thương và hòa bình như vậy. Song trên thực tế, chúng ta tách biệt với nhau, chúng ta đang tự chia rẽ chính mình. Một người muốn hòa bình và muốn kiến tạo một thế giới mới, một thế giới hạnh phúc, thì chắc chắn không thể tự cách ly mình bằng bất cứ dạng thức niềm tin nào. Điều đó có rõ ràng không? Nghe thì có vẻ chỉ là lời nói suông, nhưng nếu bạn thấy được ý nghĩa, giá trị, và sự thật trong nó, thì nó sẽ bắt đầu có tác dụng.
Chúng ta thấy rằng nơi nào có khao khát, thì nơi đó phải có quá trình cô lập thông qua niềm tin, bởi vì rõ ràng bạn tin tưởng là để có sự bảo đảm về mặt kinh tế, tâm linh và cả bên trong con người nữa. Tôi không bàn về những ai theo tín ngưỡng vì lý do kinh tế, bởi vì họ sống nhờ vào công việc của mình, và do đó, họ trở thành tín đồ của Thiên Chúa giáo, Hindu giáo – hoặc bất cứ tôn giáo nào khác – miễn là có một công việc cho họ kiếm sống. Chúng ta cũng không thảo luận về những ai bám víu vào niềm tin vì lợi ích vật chất. Có lẽ đó cũng là trường hợp tương tự với đa số chúng ta. Vì lợi ích, chúng ta
sẽ tin vào những điều nào đó. Gạt qua một bên các lý do kinh tế, chúng ta phải thâm nhập vào vấn đề này sâu hơn. Lấy ví dụ những người tin tưởng mãnh liệt vào điều gì đó: kinh tế, xã hội hoặc tâm linh. Quá trình đằng sau nó là tâm lý khao khát được an toàn, không phải vậy sao? Và rồi có khao khát được tiếp tục. Ở đây, chúng ta không thảo luận liệu có hay không sự tiếp tục. Chúng ta chỉ thảo luận về sự thúc đẩy, thôi thúc không ngừng phải tin tưởng. Liệu có phải một người có tinh thần hòa bình, một người sẽ thực sự hiểu toàn bộ quá trình hiện hữu của con người, thì không thể bị một niềm tin nào đó ràng buộc không? Họ xem sự khao khát bên trong mình như là phương tiện để bảo đảm. Xin đừng đứng trên phương diện khác mà cho rằng tôi đang thuyết giảng về phi tôn giáo nhé. Đó không hề là quan điểm của tôi. Quan điểm của tôi là chừng nào chúng ta còn chưa hiểu về quá trình hoạt động của lòng khao khát dưới dạng thức niềm tin, thì phải có tranh luận, phải có sự xung đột, phải có phiền não, và con người sẽ chống đối lẫn nhau – đây là điều chúng ta vẫn chứng kiến mỗi ngày. Vì vậy, nếu tôi hiểu và nhận thức được rằng quá trình này có dạng của niềm tin – một cách biểu lộ của sự khao khát bình an nội tâm – thì vấn đề của tôi không phải là tôi nên tin điều này hay điều kia, mà là tôi nên giải thoát chính mình khỏi ham muốn đó để có được bình an. Liệu có thể giải thoát tâm trí khỏi dục vọng để được bình an không? Đó mới là vấn đề – chứ không phải tin cái gì và tin bao nhiêu. Đây chỉ đơn thuần là những cách thể hiện sự khao khát nội tâm để có được bình an về tâm lý, để được bảo đảm về điều gì đó, khi mà mọi thứ trên thế giới này đều rất vô định.
Liệu có thể nào giải thoát một tâm trí, một ý thức, hay một nhân cách khỏi dục vọng để được bình an không? Chúng ta muốn an toàn và do đó cần sự trợ giúp của tài sản, của bất động sản và gia đình mình. Ta muốn được bình an về mặt nội tại, cũng như về mặt tâm linh, bằng cách dựng lên những bức tường niềm tin, dấu hiệu cho thấy sự khao khát được bảo đảm. Với tư cách là một cá nhân, liệu bạn có thể thoát khỏi sự thôi thúc, sự khao khát được an toàn – tự thể hiện bằng mong muốn tin tưởng vào thứ gì đó – hay không? Nếu không thoát khỏi tất cả những thứ này, chúng ta sẽ là nguồn gây
xung đột. Chúng ta không tạo nên hòa bình. Chúng ta không có tình thương trong tim. Niềm tin chỉ gây hủy hoại. Và điều này hiển hiện trong cuộc sống thường nhật của chúng ta. Liệu tôi có thể tự thấy mình trong khi bị mắc kẹt vào quá trình khao khát này, thể hiện bằng việc bám víu vào một niềm tin nào đó, hay không? Liệu tâm trí có thể tự giải thoát khỏi niềm tin, không phải tìm một giải pháp thay thế mà là hoàn toàn thoát khỏi nó, hay không? Với câu hỏi này, bạn không thể trả lời suông là “có” hoặc “không”. Bạn chỉ có thể trả lời một cách dứt khoát nếu muốn được giải thoát khỏi niềm tin. Lúc đó, bạn không thể tránh khỏi đi đến chỗ tìm kiếm phương tiện giải thoát chính mình khỏi sự thôi thúc có được sự bảo đảm. Hiển nhiên chẳng có sự bình an nội tâm nào, như bạn muốn tin, tiếp diễn cả. Bạn muốn tin rằng có một Thượng Đế đang chăm lo chu đáo những việc nhỏ nhặt, tầm thường của bạn, báo cho bạn biết bạn nên gặp ai, nên làm gì và nên làm như thế nào. Đây là kiểu suy nghĩ ấu trĩ và non nớt. Bạn nghĩ rằng Cha Lành Vĩ Đại đang dõi theo mỗi người chúng ta. Đó chỉ là sự phóng chiếu ước muốn của chính bạn mà thôi. Đương nhiên nó không đúng. Chân lý phải là điều gì đó hoàn toàn khác biệt.
Và vấn đề kế tiếp của chúng ta là về kiến thức. Có phải cần có kiến thức để hiểu được sự thật không? Khi nói “Tôi biết”, thì tôi ngụ ý rằng mình có kiến thức. Liệu một tâm trí như vậy có thể nghiên cứu và tìm ra thực tại là gì không? Ngoài ra, chúng ta biết được gì về nó mà tỏ vẻ hãnh diện? Thực sự thì chúng ta biết được gì về nó? Chúng ta biết thông tin. Chúng ta có đầy thông tin và trải nghiệm nhờ quá trình giáo dục của mình, ký ức và khả năng của mình. Khi nói “Tôi biết”, thì bạn muốn nói điều gì? Đó là sự công nhận rằng bạn biết về một sự kiện, thông tin nào đó, hoặc một trải nghiệm mà bạn có. Không ngừng tích lũy thông tin, thu thập những dạng kiến thức khác nhau, tất cả việc đó tạo nên lời xác quyết “Tôi biết”, và rồi bạn bắt đầu diễn dịch những gì đã đọc, tùy theo bối cảnh của mình, tùy theo sự mong muốn và kinh nghiệm của mình. Trong kiến thức của bạn, có một quá trình tương tự với quá trình khao khát đang hoạt động. Và thay vì niềm tin, ta có kiến thức. “Tôi biết, tôi có kinh nghiệm. Điều đó không thể phủ nhận. Kinh nghiệm của tôi là vậy, tôi
hoàn toàn dựa trên kinh nghiệm của mình”. Đây là những dấu hiệu của kiến thức. Nhưng khi thâm nhập vào nó, phân tích nó, nhìn vào nó một cách khôn ngoan và cẩn thận hơn, thì bạn sẽ thấy rằng chính câu xác quyết “Tôi biết” là một bức tường nữa phân cách bạn và tôi. Đằng sau bức tường đó, bạn trú ẩn, tìm kiếm sự an toàn, thoải mái. Do đó, khi càng bị chất chồng, đè nặng bởi kiến thức, thì tâm trí càng ít có khả năng hiểu biết.
Tôi không biết liệu bạn có từng nghĩ về vấn đề thu thập kiến thức hay chưa – liệu kiến thức sau cùng có giúp chúng ta thương yêu, giải thoát khỏi những đặc tính gây xung đột trong chính bản thân chúng ta và với những người quanh chúng ta được hay không; liệu
kiến thức có bao giờ giải thoát cái tâm tham vọng được hay không? Suy cho cùng, do tham vọng là một trong những tác nhân hủy hoại mối quan hệ, khiến con người chống lại con người, nên nếu chúng ta cùng nhau chung sống hòa bình, thì chắc chắn tham vọng sẽ phải chấm dứt hoàn toàn – không chỉ tham vọng về chính trị, kinh tế, xã hội, mà còn cả tham vọng tinh vi và nguy hiểm hơn, tham vọng về tâm linh – muốn trở thành gì đó. Tâm trí đã từng được giải thoát khỏi quá trình tích lũy kiến thức, khỏi khao khát hiểu biết này hay chưa?
Sẽ rất thú vị nếu bạn quan sát xem trong cuộc sống chúng ta, hai yếu tố này – kiến thức và niềm tin – đóng một vai trò mạnh mẽ phi thường đến thế nào. Hãy nhìn xem chúng ta tôn sùng những người có kiến thức bao la, uyên bác ra sao! Bạn có thể nào hiểu được ý nghĩa của việc này không? Nếu muốn tìm thấy điều gì mới mẻ, trải nghiệm thứ gì đó không phải do trí tưởng tượng của bạn phóng chiếu ra, thì tâm của bạn phải tự do, không phải vậy sao? Nó phải có khả năng nhìn thấy điều mới mẻ. Nhưng thật không may, mỗi khi thấy được thứ gì mới, bạn lại đưa vào đó tất cả thông tin đã biết, cùng tất cả kiến thức, tất cả ký ức trước đây của mình. Và hiển nhiên bạn trở nên mất khả năng thấy, mất khả năng tiếp thu bất cứ thứ gì mới mẻ, thứ gì không cũ kỹ. Vui lòng đừng diễn dịch điều này thành chi tiết ngay lập tức nhé. Nếu không biết cách làm sao để trở về nhà, tôi sẽ lạc đường. Nếu không biết làm sao để vận hành một cỗ máy, tôi sẽ trở nên vô dụng. Tuy nhiên, đó là vấn đề hoàn toàn
khác. Ở đây chúng ta không bàn về nó. Chúng ta đang thảo luận về những kiến thức được sử dụng làm phương tiện để dẫn đến sự an toàn, khao khát tâm lý bên trong để trở thành điều gì đó. Bạn có được gì nhờ kiến thức? Uy quyền của kiến thức, trọng lượng của kiến thức, cảm giác quan trọng và phẩm giá, cảm giác về sinh khí và những thứ linh tinh khác? Một người nói “Tôi biết”, “Có…” hay “Không có…” thì chắc chắn đã ngừng suy nghĩ, ngừng theo dõi toàn bộ tiến trình của khao khát này.
Như tôi thấy, lúc đó, vấn đề của chúng ta là chúng ta bị ràng buộc, bị trì kéo bởi niềm tin, bởi kiến thức. Và liệu một tâm trí có thể thoát khỏi ngày hôm qua và khỏi những niềm tin có được qua tiến trình của ngày hôm qua? Bạn có hiểu vấn đề này không? Liệu tôi, với tư cách một cá nhân, và bạn, cũng với tư cách một cá nhân, có thể sống trong xã hội này nhưng thoát khỏi những niềm tin đã giáo dục chúng ta từ nhỏ? Liệu tâm trí có thể thoát khỏi tất cả những kiến thức đó, tất cả uy quyền đó được không? Chúng ta đọc nhiều kinh điển, nhiều sách tôn giáo khác nhau. Những cuốn sách đó mô tả rất cẩn thận phải làm gì, không được làm gì, làm sao đạt được mục tiêu, mục tiêu là gì và Thượng Đế là gì. Tất cả các bạn đều thuộc lòng điều đó và theo đuổi nó. Đó là kiến thức của bạn, đó là những gì bạn thu thập được, đó là những gì bạn đã học được. Bạn theo đuổi lộ trình đó. Rõ ràng điều bạn theo đuổi và tìm kiếm, bạn sẽ tìm thấy. Song nó có phải là thực tại không? Chẳng phải nó là sự phóng chiếu từ kiến thức của riêng bạn hay sao? Nó không phải là thực tại. Có thể nào nhận ra điều đó ngay bây giờ – không phải ngày mai, mà là lúc này – và nói “Tôi thấy được sự thật của nó”, rồi để yên như vậy, để tâm trí của bạn không bị hủy hoại bởi tiến trình tưởng tượng, phóng chiếu ra bên ngoài?
Liệu tâm trí có thể thoát khỏi niềm tin hay không? Bạn chỉ có thể thoát khỏi nó khi hiểu được bản chất nội tại của những nguyên nhân khiến bạn cố chấp, bám víu vào nó – không chỉ các động cơ có ý thức mà cả các động cơ vô thức – và khiến bạn tin tưởng. Suy cho cùng, chúng ta không chỉ là thực thể nông cạn, hoạt động trên cấp độ ý thức. Có thể tìm ra các hoạt động hữu thức và vô thức sâu sắc
hơn nếu chúng ta cho vô thức một cơ hội, bởi vì nó phản ứng nhanh hơn nhiều so với ý thức. Trong khi ý thức đang thinh lặng suy nghĩ, lắng nghe và theo dõi, thì vô thức hoạt động tích cực, tỉnh giác và dễ lĩnh hội hơn nhiều. Do đó, nó có thể có câu trả lời. Liệu tâm trí có thể bị khuất phục, đe dọa, bắt buộc, thúc ép phải tin tưởng không, và liệu cái tâm như vậy có thể tự do suy nghĩ không? Nó có thể nào nhìn sự việc theo cách khác và loại trừ quá trình cô lập bạn với người khác không? Xin đừng nói rằng niềm tin kéo người ta lại với nhau. Không hề. Điều đó quá rõ ràng rồi. Không có tổ chức tôn giáo nào từng làm được điều đó cả. Hãy nhìn vào chính đất nước của mình đi. Các bạn đều là những người có tín ngưỡng, nhưng có phải tất cả các bạn đều đồng tâm, nhất trí không? Có phải tất cả các bạn đều đoàn kết không? Chính các bạn cũng biết là không phải mà. Trên thực tế, các bạn bị chia ra thành rất nhiều đảng phái, giai cấp nhỏ nhặt. Bạn biết rằng có vô số sự phân hóa. Quá trình đó xảy ra y hệt trên khắp thế giới – dù ở Đông phương hay Tây phương – người Thiên Chúa giáo đang giết hại người Thiên Chúa giáo, giết nhau vì những thứ nhỏ nhen, tầm thường, chia bè kết phái,… gây ra toàn bộ nỗi kinh hoàng của chiến tranh. Do đó, niềm tin không đoàn kết con người. Điều đó thì quá rõ ràng rồi. Nếu điều đó đã rõ ràng và đúng đắn, và nếu bạn thấy được, thì nó phải được chấp nhận. Song điều khó là đa phần chúng ta lại không thấy được chuyện đó, bởi vì chúng ta không thể đối mặt với sự bất an trong thâm tâm, với cảm giác cô đơn từ nội tâm. Chúng ta muốn có thứ gì đó để dựa dẫm, dù đó là nhà nước, là đẳng cấp, hay chủ nghĩa dân tộc, dù đó là bậc đạo sư hay đấng cứu thế, hoặc bất cứ thứ gì khác đi nữa. Và khi chúng ta thấy được sai lầm trong tất cả điều này, thì tâm trí lúc đó có khả năng – có thể chỉ nhất thời trong giây phút – nhìn thấy sự thật của nó. Dù có vượt quá mức đi nữa, thì nó cũng sẽ quay trở về. Song chỉ nhìn thấy trong thoáng chốc là quá đủ. Có thể thấy nó trong một khắc là đủ rồi. Bởi vì lúc đó bạn sẽ thấy một điều phi thường diễn ra. Vô thức đang hoạt động, dù ý thức có thể bác bỏ. Đây không phải là giây phút tiến bộ. Nhưng giây phút đó là thời khắc duy nhất, và nó sẽ có kết quả của riêng nó, ngay cả khi ý thức đang vật lộn chống lại nó.
Vì vậy, câu hỏi của chúng ta là: Liệu tâm trí có thể thoát khỏi kiến thức và niềm tin không? Chẳng phải tâm trí được hình thành từ kiến thức và niềm tin sao? Không phải cấu trúc của tâm trí là niềm tin và kiến thức à? Niềm tin và kiến thức là những quá trình thừa nhận, là trung tâm của tâm trí. Quá trình này khép kín, quá trình này vừa hữu thức vừa vô thức. Liệu tâm trí có thể thoát khỏi cấu trúc của riêng nó không? Và tâm trí có thể ngừng tồn tại không? Đó là vấn đề. Như chúng ta biết, tâm trí có niềm tin đằng sau nó, có khao khát, thôi thúc được an toàn, có kiến thức và sự tích lũy sức mạnh. Với tất cả quyền lực và tính ưu việt của tâm trí như vậy, nếu người ta vẫn không thể nghĩ cho chính mình, thì không thể có hòa bình trên thế giới. Bạn có thể nói về hòa bình, bạn có thể tổ chức các chính đảng, bạn có thể la hét trên các mái nhà. Song bạn không thể có bình an, bởi vì tâm trí mới chính là nền tảng tạo nên mâu thuẫn, và điều đó gây ra cô lập và tách biệt. Một người có tinh thần hòa bình, một người nghiêm chỉnh thì không thể tự cô lập mình rồi lại nói về tình huynh đệ và hòa bình. Đó chỉ là một trò chơi về chính trị hoặc tôn giáo, một cảm giác về thành tựu và tham vọng. Một người thực sự nghiêm chỉnh và muốn khám phá về điều này thì cần đương đầu với vấn đề kiến thức và niềm tin. Họ phải ủng hộ nó, phải khám phá toàn bộ quá trình khao khát đang hoạt động, khao khát được an toàn, khao khát được chắc chắn.
Một tâm trí muốn đạt tới trạng thái mà điều mới mẻ có thể diễn ra – dù đó là chân lý, dù đó là Thượng Đế, hoặc bất cứ thứ gì bạn muốn – cũng chắc chắn phải ngừng thu thập, gặt hái. Nó phải gạt qua một
bên tất cả kiến thức có được. Và không nghi ngờ gì nữa, một cái tâm chất chồng nặng trĩu kiến thức thì không thể thấu hiểu thực tại, vì thực tại vốn dĩ mênh mông, vô hạn.
* Chúng tôi có sự phân biệt trong việc dùng từ ngữ giữa “trống rỗng” và “trống không”. “Trống rỗng” được sử dụng ở ngữ cảnh tiêu cực, còn “trống không” là không chứa gì cả và được dùng trong ngữ cảnh hữu ích, tích cực. “Trống không” có thể xem như tương đồng với tính Không của Phật giáo. – ND
Chương 7
NỖ LỰC
Với đa số chúng ta, toàn bộ cuộc sống đều dựa trên nỗ lực, tức là một loại ý chí nào đó. Chúng ta không thể tạo nên một hành động mà không có ý chí, không có nỗ lực; cuộc sống của chúng ta dựa
trên điều đó. Đời sống xã hội, kinh tế và cái gọi là đời sống tâm linh là một chuỗi các nỗ lực và luôn luôn kết thúc với một kết quả nào đó. Do đó, chúng ta nghĩ nỗ lực là cần thiết, thiết yếu.
Tại sao chúng ta cần nỗ lực? Nói một cách đơn giản, không phải là để đạt được một kết quả, trở nên điều gì đó, vươn tới một mục tiêu hay sao? Còn nếu không nỗ lực, chúng ta nghĩ mình sẽ bị đình trệ. Chúng ta có một ý niệm về mục tiêu và vì nó, chúng ta đang cố gắng
không ngừng. Sự cố gắng này trở thành một phần của cuộc đời chúng ta. Nếu muốn thay đổi chính mình, nếu muốn mang lại sự biến đổi triệt để, hoàn toàn trong bản thân, thì chúng ta phải nỗ lực dữ dội để diệt trừ các thói quen cũ, chống lại những tác động của môi trường theo thói thường,… Vì vậy, chúng ta quen với một chuỗi nỗ lực tìm thấy hoặc đạt tới điều gì đó, nhằm tồn tại được.
Không phải tất cả nỗ lực như vậy đều là hoạt động của bản ngã hay sao? Không phải nỗ lực là hoạt động vị kỷ ư? Nếu chúng ta thực hiện một nỗ lực xuất phát từ trung tâm của bản ngã, thì không thể tránh khỏi sản sinh thêm xung đột, thêm tình trạng hỗn loạn, thêm đau khổ. Nhưng rồi chúng ta cứ tiếp tục thực hiện hết nỗ lực này tới nỗ lực khác. Rất ít người trong chúng ta nhận ra rằng hoạt động vị kỷ của nỗ lực không giải quyết được bất cứ vấn đề nào của chúng ta. Ngược lại, nó chỉ làm tăng thêm sự rối loạn, nỗi đau khổ và phiền não của chúng ta mà thôi. Chúng ta biết rõ điều này mà, nhưng
chúng ta cứ tiếp tục hy vọng sẽ phần nào phá vỡ được hoạt động vị kỷ của nỗ lực ấy, tức là hành động của ý chí.
Tôi cho rằng chúng ta sẽ hiểu được ý nghĩa của cuộc đời nếu hiểu được nỗ lực có nghĩa là gì. Có phải hạnh phúc có được là nhờ nỗ lực không? Bạn đã từng cố gắng để đạt được hạnh phúc chưa? Điều đó là bất khả thi, không phải sao? Bạn vẫy vùng, vật lộn để có hạnh phúc, nhưng rồi vẫn không có hạnh phúc, đúng không? Niềm vui không thể có được bằng cách đàn áp, bằng cách kiểm soát hay buông thả bản thân. Bạn có thể buông thả bản thân nhưng rồi cuối cùng sẽ gặp cay đắng. Bạn có thể đàn áp hoặc điều khiển, nhưng luôn luôn tiềm ẩn nguy cơ xung đột. Do đó, hạnh phúc không thể có được bằng nỗ lực, cũng như niềm vui không thể có được bằng cách điều khiển và đàn áp. Thế nhưng cả cuộc đời chúng ta vẫn là một chuỗi những đàn áp, kiểm soát, một chuỗi những sự buông thả đầy hối tiếc. Ở đâu người ta cũng không ngừng tìm cách vượt qua, không ngừng vật lộn với những si mê, lòng tham và sự ngu muội. Vậy thì có phải việc chúng ta không cố gắng, tranh đấu, nỗ lực với hy vọng tìm thấy được hạnh phúc, thấy được điều gì đó sẽ cho chúng ta cảm giác bình an, cảm giác yêu thương không? Nhưng có phải tình thương hay sự hiểu biết có được là nhờ tranh đấu? Tôi cho rằng điều vô cùng quan trọng là phải hiểu được tranh đấu, vật lộn hay nỗ lực có ý nghĩa gì.
Chẳng phải nỗ lực nghĩa là đấu tranh để thay đổi cái đang là thành cái khác, hoặc thành cái nên là/nên trở thành hay sao? Tức là chúng ta không ngừng tranh đấu để tránh đương đầu với cái đang là, hoặc chúng ta đang cố gắng thoát khỏi nó, hoặc biến chuyển, sửa đổi nó. Một người thực sự hài lòng là người hiểu được cái đang là, gán đúng ý nghĩa cho cái đang là. Đó mới là hài lòng chân chính. Nó không liên quan đến việc sở hữu ít hay nhiều, mà liên quan đến việc hiểu được toàn bộ ý nghĩa của cái đang là. Và điều đó chỉ có thể xuất hiện khi bạn công nhận cái đang là, khi bạn nhận thức được nó, chứ không phải khi bạn đang cố gắng cải đổi hoặc thay đổi nó.
Vì vậy, chúng ta thấy rằng nỗ lực là đấu tranh hoặc vật lộn để biến chuyển cái đang là thành cái mà bạn muốn nó trở thành. Tôi chỉ nói đến tranh đấu về mặt tâm lý, chứ không phải tranh đấu về mặt vật lý, như công nghệ hoặc sự khám phá, biến chuyển nào đó thuần túy về kỹ thuật. Tôi chỉ đang bàn đến việc tranh đấu về mặt tâm lý, và cuộc tranh đấu này luôn luôn vượt qua phương diện kỹ thuật. Với sự quan tâm lớn lao như vậy, bạn có thể xây dựng một xã hội tuyệt diệu, áp dụng kiến thức vô hạn mà khoa học đã trao cho chúng ta. Nhưng chừng nào còn chưa thấu hiểu sự tranh đấu và vật lộn về tâm lý đó, chưa vượt qua được các chiều hướng và ngụ ý tâm lý đó, thì cấu trúc xã hội, dù được xây dựng tuyệt diệu đến đâu đi nữa, cũng nhất định sẽ bị sụp đổ, như đã từng xảy ra nhiều lần.
Trên thực tế, nỗ lực là xao lãng cái đang là. Khoảnh khắc tôi chấp nhận cái đang là thì sẽ không có tranh đấu nữa. Bất cứ dạng thức tranh đấu hay vật lộn nào cũng đều là dấu hiệu của sự xao lãng. Và xao lãng – tức nỗ lực – vẫn phải hiện hữu chừng nào về mặt tâm lý, ta còn mong ước biến cái đang là thành cái khác.
Trước tiên, chúng ta phải thoải mái để thấy rằng niềm vui và hạnh phúc không phải đến từ sự nỗ lực. Có đúng phải nỗ lực mới có sáng tạo, hay chỉ có sáng tạo khi nào ngừng nỗ lực? Bạn viết, vẽ hoặc ca hát lúc nào? Bạn sáng tạo lúc nào? Chắc chắn là khi không có nỗ lực gì cả, khi bạn hoàn toàn cởi mở, khi bạn giao tiếp trọn vẹn, hòa nhập đầy đủ ở mọi mức độ. Khi đó sẽ có niềm vui và khi đó, bạn bắt đầu hát hoặc làm thơ, vẽ tranh, hay tạo hình thứ gì đó. Khoảnh khắc sáng tạo không ra đời trong khi bạn đang vật lộn.
Có lẽ khi hiểu vấn đề sáng tạo, chúng ta sẽ có thể hiểu nỗ lực có ý nghĩa gì. Có phải sáng tạo là kết quả của nỗ lực, và chúng ta có nhận biết trong những khoảnh khắc sáng tạo không? Hay sáng tạo là cảm giác của sự quên mình triệt để, cảm giác khi không có sự rối loạn, khi người ta hoàn toàn không nhận ra sự vận động của tư tưởng, khi có duy nhất một sự hiện hữu trọn vẹn, đầy đủ và phong phú? Có phải trạng thái đó là kết quả của sự nhọc lòng, vật vã, của xung đột và nỗ lực không? Không biết bạn đã từng chú ý rằng khi ta
làm điều gì đó một cách dễ dàng, nhanh chóng, thì không có nỗ lực, hoàn toàn không cần đấu tranh vật vã gì cả chưa? Nhưng khi cuộc sống của ta hầu như là một chuỗi bất tận những cuộc chiến đấu, xung đột và tranh chấp, thì chúng ta không thể hình dung ra một cuộc sống, một trạng thái hiện hữu mà trong đó sự xung đột hoàn toàn dừng lại.
Để hiểu trạng thái hiện hữu không có xung đột, trạng thái tồn tại sáng tạo, thì chắc chắn người ta phải tìm hiểu toàn bộ vấn đề nỗ lực. Khi nói đến nỗ lực, chúng ta muốn nói đến sự cố gắng để hoàn thiện bản thân, để trở thành cái gì đó, không phải vậy sao? Tôi là thế này, nên tôi muốn trở thành thế kia. Tôi không là thế kia, nên tôi phải trở thành thế kia. Và khi trở thành “thế kia”, thì có sự xung đột, chiến đấu, vật lộn, mâu thuẫn. Trong sự vật lộn này, tất nhiên chúng ta phải bận tâm tới sự hoàn thiện bằng cách đạt được một mục đích. Chúng ta tìm kiếm sự tự hoàn thiện bản thân trong một đối tượng, một người, một ý niệm, điều đó đòi hỏi phải không ngừng chiến đấu, vật lộn, nỗ lực để trở thành, để hoàn thiện. Vì vậy, chúng ta cho rằng nỗ lực này là điều không thể tránh. Tôi tự hỏi liệu có phải sự tranh đấu để trở thành cái gì đó là bắt buộc không? Tại sao lại có sự tranh đấu này? Nơi nào có mong muốn để hoàn thiện, dù ở bất cứ mức độ nào và bất cứ trình độ nào, thì cũng phải có sự tranh đấu. Và thành công là động lực, động cơ đằng sau nỗ lực. Bên trong bất kỳ một sếp lớn, một bà nội trợ, hay một người nghèo khổ nào thì sự đấu tranh để trở thành, để hoàn thiện này cũng vẫn đang tiếp diễn.
Như vậy thì tại sao lại có khao khát hoàn thiện bản thân? Hiển nhiên khao khát hoàn thiện, trở thành cái gì đó chỉ nảy sinh khi người ta nhận thức rằng mình chẳng là gì cả. Bởi vì tôi chẳng là gì, bởi vì tôi thiếu thốn, trống rỗng, nội tâm nghèo nàn, nên tôi phải vật lộn để trở thành cái gì đó. Dù ở bên ngoài hay bên trong, tôi cũng phải đấu tranh để hoàn thiện chính mình qua một người nào đó, qua một thứ nào đó, qua một ý tưởng nào đó. Và lấp đầy khoảng trống đó là toàn bộ quá trình hiện hữu của chúng ta. Khi nhận thức rằng mình trống rỗng, nội tâm nghèo nàn, thì chúng ta càng đấu tranh để thu thập những thứ bên ngoài, hoặc để trau dồi sự phong phú ở nội tâm. Nỗ
lực chỉ có khi chúng ta cố gắng thoát khỏi sự trống rỗng nội tâm bằng hành động, bằng suy ngẫm, bằng của cải có được, bằng thành tựu, bằng quyền lực, vân vân và vân vân. Đó là cách sống thường nhật của chúng ta. Do biết mình thiếu thốn, nội tâm nghèo nàn, nên tôi đấu tranh để thoát khỏi nó hoặc lấp đầy nó. Sự trốn chạy, tránh né, hoặc cố gắng che đậy tình trạng trống rỗng này đòi hỏi phải tranh đấu, vật lộn, nỗ lực.
Vậy thì nếu một người không nỗ lực trốn thoát, thì điều gì sẽ xảy ra? Họ sống với nỗi cô đơn, trống rỗng đó. Và khi chấp nhận sự trống rỗng, người ta sẽ nhận thấy trạng thái sáng tạo xuất hiện, mà chẳng cần phải tranh chấp, nỗ lực gì cả. Nỗ lực chỉ hiện hữu khi nào chúng ta đang cố gắng tránh nỗi cô đơn, tình trạng trống rỗng ở nội tâm. Nhưng khi nhìn vào nó, quan sát nó, khi chấp nhận cái đang là mà không tránh né, chúng ta sẽ thấy một trạng thái hiện hữu xuất hiện, và trong đó, tất cả tranh chấp, xung đột đều dừng lại. Trạng thái hiện hữu đó chính là sự sáng tạo và nó không phải là kết quả của sự xung đột. Nhưng khi hiểu được cái đang là – tức sự trống rỗng, thiếu thốn của nội tâm – khi người ta sống với sự thiếu thốn đó và hiểu biết trọn vẹn nó, thì thực tại sáng tạo, trí tuệ sáng tạo sẽ xuất hiện. Và chỉ riêng điều đó mới mang lại hạnh phúc.
Do đó, hành động như chúng ta biết thật ra chỉ là phản ứng, nó là sự trở thành không ngừng, tức là khước từ, tránh né cái đang là. Nhưng khi nhận thức được sự trống rỗng mà không chọn lựa, không chỉ trích hoặc bào chữa, thì trong sự hiểu biết về cái đang là đó có hành động, và hành động ấy là hiện hữu sáng tạo. Bạn sẽ hiểu điều này nếu tự nhận thức về mình trong hành động. Hãy quan sát bản thân khi bạn đang hành động, không chỉ ở bên ngoài, mà còn nhìn vào sự vận động của tư duy và cảm nhận của bạn. Khi nhận thức về sự vận động này, bạn sẽ thấy rằng quá trình tư duy – cũng là quá trình cảm nhận và hành động – dựa trên ý niệm về sự trở thành. Ý niệm này khởi lên chỉ khi có cảm giác bất an, và cảm giác bất an đó xuất hiện khi người ta nhận thức được tình trạng nội tâm trống rỗng. Nếu nhận thức được quá trình tư duy và cảm nhận đó, bạn sẽ thấy rằng có một trận chiến liên tục đang diễn ra, một nỗ lực để thay đổi,
để sửa đổi, để biến đổi hiện trạng. Đây là nỗ lực để trở thành, và sự trở thành rõ ràng là tránh né cái đang là. Nhờ tự biết mình, nhờ nhận thức không ngừng, bạn sẽ nhận thấy rằng đấu tranh, chiến đấu, xung đột để trở thành sẽ dẫn tới đau khổ, phiền não và sự vô minh. Chỉ khi nhận thức được tình trạng thiếu thốn của nội tâm và sống chung với nó mà không trốn tránh, chấp nhận nó hoàn toàn, thì bạn mới khám phá được sự tĩnh lặng phi thường, sự tĩnh lặng không phải do kết hợp, cấu thành, mà là sự tĩnh lặng chỉ có khi hiểu được cái đang là. Và chỉ trong trạng thái tĩnh lặng đó mới xuất hiện sự hiện hữu sáng tạo.
Chương 8
MÂU THUẪN
Chúng ta thấy mâu thuẫn trong chính mình và xung quanh mình. Bởi vì đang mâu thuẫn, nên bên trong chúng ta không có bình an, và do đó, bên ngoài cũng không có bình an. Trong chúng ta có tình trạng phủ nhận và khẳng định không ngừng – chúng ta muốn trở thành gì và chúng ta đang là gì. Tình trạng mâu thuẫn gây ra xung đột và sự xung đột này không mang lại bình an – đó là sự thật quá đơn giản và hiển nhiên. Không nên diễn giải sự mâu thuẫn nội tại ấy thành trạng thái nhị nguyên về triết lý, bởi vì làm vậy là sự trốn chạy quá dễ dàng. Tức là bằng cách nói rằng mâu thuẫn là một trạng thái nhị nguyên, chúng ta nghĩ mình đã giải quyết được nó – điều này hiển nhiên chỉ là một thỏa thuận ngầm, một sự góp phần đào thoát khỏi thực tại mà thôi.
Vậy thì đối với chúng ta, xung đột, mâu thuẫn có nghĩa là gì? Tại sao lại có xung đột trong tôi? Tức là sự vật lộn không ngừng nhằm trở thành gì đó cách xa hiện trạng của tôi. Tôi là thế này, nên tôi muốn trở thành thế kia. Sự mâu thuẫn nội tại này là một sự việc, chứ không phải trạng thái nhị nguyên siêu hình. Và siêu hình học chẳng có ý nghĩa gì trong việc thấu triệt hiện trạng. Chẳng hạn, chúng ta có thể thảo luận về thuyết nhị nguyên, nó là gì, liệu nó có tồn tại không, vân vân. Song liệu có ích gì nếu chúng ta không biết bên trong ta đang có sự mâu thuẫn, những mong muốn đối chọi nhau, các mối quan tâm tương phản nhau, những sự mưu cầu nghịch đảo nhau? Tôi muốn trở thành một người tốt nhưng tôi không thể. Cần hiểu rõ sự mâu thuẫn, đối lập bên trong chúng ta bởi vì nó gây ra xung đột. Và trong tình trạng xung đột, tranh đấu, mỗi người chúng ta chẳng thể nào sáng tạo được. Hãy để chúng ta thấu triệt hiện trạng của mình. Có mâu thuẫn, thì phải có tranh đấu. Và tranh
đấu là hủy hoại, phí phạm. Trong trạng thái đó, chúng ta chẳng thể sản sinh thứ gì khác ngoại trừ sự đối kháng, tranh chấp và nhiều cay đắng, phiền não hơn. Nếu có thể hiểu trọn vẹn điều này và nhờ đó thoát khỏi tình trạng mâu thuẫn, thì chúng ta sẽ có được sự bình an nội tâm, giúp chúng ta hiểu nhau. Vấn đề là ở chỗ này. Nếu thấy rằng xung đột là hủy hoại, phí phạm, thì tại sao trong mỗi chúng ta vẫn tồn tại mâu thuẫn? Để hiểu được điều đó, chúng ta phải đi xa thêm chút nữa. Tại sao lại có cảm giác về những khao khát đối lập nhau? Tôi không biết liệu chúng ta có nhận thức được điều đó trong bản thân mình hay không – tức là sự mâu thuẫn, cảm giác muốn và không muốn, nhớ điều gì đó nhưng cố gắng quên nó để có thể tìm ra một điều mới mẻ. Hãy quan sát điều đó thôi nhé. Nó rất đơn giản và rất bình thường. Không có gì là khác thường đâu. Sự thật là có mâu thuẫn. Vậy thì tại sao sự mâu thuẫn này lại xuất hiện?
Sự mâu thuẫn có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Chẳng phải nó ám chỉ một tình trạng tạm thời đang đối chọi với một tình trạng tạm thời khác sao? Tôi nghĩ mình có một khao khát trường cửu. Tôi đặt trong tâm trí mình một khao khát trường cửu, và rồi một khao khát khác xuất hiện, mâu thuẫn với nó. Sự mâu thuẫn này gây ra xung đột, tức là hoang phí. Hay nói chính xác hơn, luôn có một khao khát khước từ một khao khát khác, một sự mưu cầu bỏ qua một sự mưu cầu khác. Vậy thì liệu còn có cái gọi là khao khát trường cửu nữa không? Chắc chắn rằng tất cả những khao khát đều mang tính tạm thời – không phải về mặt siêu hình, mà thực sự là như vậy. Tôi muốn một công việc. Tức là tôi tìm kiếm một công việc nào đó như một phương tiện để có được hạnh phúc. Tuy nhiên, khi nhận việc rồi, tôi lại thấy không hài lòng. Ban đầu tôi muốn trở thành quản lý, nhưng sau đó muốn thành chủ nhân, vân vân và vân vân. Điều đó không chỉ diễn ra trong cuộc sống thế tục, mà cả trong cái gọi là thế giới tâm linh – giảng sư muốn thành hiệu trưởng, linh mục muốn thành giám mục, đệ tử muốn thành sư phụ.
Sự trở thành không ngừng, tức là đi từ hết trạng thái này tới trạng thái khác như vậy sẽ gây ra mâu thuẫn, không phải vậy sao? Do đó, tại sao không nhìn cuộc đời không phải như một khao khát trường
cửu, mà như một chuỗi những khao khát thoáng qua luôn luôn đối lập lẫn nhau? Có như vậy thì tâm trí mới không cần phải sống trong trạng thái mâu thuẫn. Nếu tôi không coi cuộc đời là một khao khát trường cửu, mà là một chuỗi các khao khát nhất thời biến đổi không ngừng, thì lúc đó mới không còn mâu thuẫn nữa.
Mâu thuẫn chỉ phát sinh khi tâm trí có một điểm khao khát cố định. Tức là khi tâm trí không coi mọi khao khát là nhất thời, biến chuyển không ngừng, mà lại nắm chặt lấy một khao khát và biến nó thành trường cửu – chỉ lúc đó, khi các khao khát khác phát sinh, thì mới có mâu thuẫn. Nhưng tất cả khao khát đều biến chuyển không ngừng, không có khao khát nào là cố định. Không có điểm cố định nào trong khao khát, nhưng tâm trí lại thiết lập một điểm cố định bởi vì nó coi mọi thứ là phương tiện để tới nơi, để thu thập. Và chừng nào người ta còn đang hướng tới một điểm nào đó thì phải có mâu thuẫn, xung đột. Bạn muốn tới nơi, bạn muốn thành công, bạn muốn tìm thấy một Thượng Đế tối hậu hoặc một chân lý nào đó giúp bạn vĩnh viễn thỏa mãn. Vì vậy, bạn không tìm kiếm chân lý, bạn cũng không tìm kiếm Thượng Đế, bạn đang tìm kiếm sự hài lòng trường tồn, và bạn che phủ sự hài lòng đó bằng một ý niệm, một từ ngữ nghe đầy vẻ tôn kính, chẳng hạn Thượng Đế hay chân lý. Nhưng thực ra chúng ta đều đang tìm kiếm sự hài lòng, và chúng ta đặt sự hài lòng đó, sự thỏa mãn đó lên một điểm tối thượng – gọi là Thượng Đế – và điểm thấp nhất là say xỉn. Nhưng chừng nào tâm trí còn đang tìm kiếm sự hài lòng, thì chẳng có gì khác biệt giữa Thượng Đế và say xỉn. Về mặt xã hội, say xỉn có thể là xấu, nhưng khao khát thỏa mãn, khao khát sở đắc của nội tâm chẳng phải còn có hại hơn sao? Nếu thực sự muốn tìm thấy chân lý, thì bạn phải vô cùng trung thực, không chỉ ở cấp độ lời nói, mà phải trung thực trên mọi phương diện. Bạn phải minh bạch một cách phi thường, mà bạn không thể minh bạch nếu không sẵn lòng đối diện với những sự kiện.
Vậy thì điều gì đã gây ra mâu thuẫn trong mỗi chúng ta? Chắc chắn đó là sự khao khát muốn trở thành điều gì đó, không phải vậy sao? Tất cả chúng ta đều muốn trở thành điều gì đó: trở nên thành công trên thế giới này và đạt được một thành tựu nào đó trong thâm tâm.
Chừng nào chúng ta còn suy nghĩ liên quan tới thời gian, liên quan tới thành tựu, liên quan tới địa vị, thì còn phải có mâu thuẫn. Suy cho cùng, tâm trí là sản phẩm của thời gian. Và tư duy thì dựa trên ngày hôm qua, dựa trên quá khứ. Do đó, chừng nào tư duy đang hoạt động trong phạm trù thời gian, suy nghĩ còn liên quan tới tương lai, tới việc trở thành, sở đắc, đạt tới thành tựu, thì vẫn phải có mâu thuẫn, bởi vì lúc đó chúng ta không có khả năng đương đầu một cách đúng đắn với cái đang là. Chỉ khi nhận ra, khi thấu hiểu, khi nhận thức mà không chọn lựa về cái đang là, thì mới có khả năng thoát khỏi yếu tố gây phân hóa, tức là sự mâu thuẫn.
Do đó, chẳng phải việc tìm hiểu toàn bộ quá trình tư duy của chúng ta là rất cần thiết hay sao? Vì chính trong quá trình đó, chúng ta tìm thấy mâu thuẫn. Bản thân tư duy đã trở thành một mâu thuẫn bởi vì chúng ta không hiểu được toàn bộ quá trình của chính mình. Và ta
chỉ có thể hiểu được khi nhận thức trọn vẹn về tư duy của chúng ta, không phải như một người quan sát đang tác động lên tư duy của mình, mà phải nhận thức một cách trọn vẹn và không chọn lựa, đây là điều vô cùng khó khăn. Nhưng chỉ lúc đó, mâu thuẫn vốn dĩ rất tai hại và đau đớn mới biến mất.
Chừng nào chúng ta còn đang cố gắng đạt được một kết quả về mặt tâm lý, chừng nào chúng ta còn muốn bình an ở nội tâm, thì chừng đó chúng ta còn phải chịu mâu thuẫn trong cuộc sống của mình. Tôi không nghĩ rằng đa số chúng ta đều nhận ra tình trạng mâu thuẫn này, hoặc nếu có nhận ra đi nữa, thì chúng ta không thấy được ý nghĩa thực sự của nó. Ngược lại, mâu thuẫn lại thôi thúc chúng ta sống. Và chính yếu tố va chạm, xích mích đó cho chúng ta cảm giác rằng mình đang sống. Sự nỗ lực, sự vẫy vùng của mâu thuẫn giúp chúng ta cảm nhận được sinh khí. Đó là lý do tại sao chúng ta yêu chiến tranh, tại sao chúng ta thích những cuộc chiến vô vọng. Chừng nào còn có mong muốn đạt được một kết quả, tức là khao khát được bảo đảm về mặt tâm lý, thì còn phải có mâu thuẫn. Và nơi nào có mâu thuẫn, thì không thể có tâm trí tĩnh lặng. Cần phải có sự tĩnh lặng trong tâm trí để hiểu được toàn bộ ý nghĩa của cuộc đời. Và tư duy thì không bao giờ tĩnh lặng được. Là sản phẩm của thời
gian, tư duy không bao giờ tìm được điều gì có tính vô tận, không bao giờ biết được điều gì vượt ra ngoài thời gian. Chính bản chất tư duy của chúng ta là một mâu thuẫn, bởi vì chúng ta luôn luôn suy nghĩ liên quan tới quá khứ hoặc tương lai. Do đó, chúng ta không bao giờ hiểu biết trọn vẹn, nhận thức đầy đủ về hiện tại.
Nhận thức trọn vẹn về hiện tại là một nhiệm vụ gian nan khác thường bởi vì tâm trí không có khả năng đương đầu trực tiếp với một sự việc mà không có sự lừa dối. Tư duy là sản phẩm của quá khứ và do đó, nó chỉ có thể suy nghĩ liên quan tới quá khứ hoặc tương lai, nó không thể nhận thức trọn vẹn về một sự việc trong hiện tại. Chừng nào tư duy – sản phẩm của quá khứ – còn cố gắng trừ khử sự mâu thuẫn và tất cả những vấn đề do nó tạo ra, thì nó vẫn chỉ đang theo đuổi một kết quả, cố gắng đạt được mục đích. Và tư duy như vậy chỉ tạo nên nhiều mâu thuẫn hơn, và do đó, gây ra thêm xung đột, đau khổ và sự rối loạn trong chúng ta và xung quanh ta.
Để thoát khỏi mâu thuẫn, người ta phải nhận thức được hiện tại mà không chọn lựa. Làm thế nào có sự chọn lựa khi bạn chạm trán với một sự việc? Chắc chắn bạn chẳng thể nào hiểu được sự việc đó chừng nào tư tưởng còn cố gắng tác động lên sự việc để khiến chúng trở thành, thay đổi, biến đổi. Do đó, tự biết mình là khởi đầu của hiểu biết. Khi không tự biết mình, mâu thuẫn và xung đột sẽ tiếp diễn. Không cần đến một chuyên gia hay một uy quyền nào để hiểu được toàn bộ quá trình, tổng thể bản thân mình. Việc mưu cầu uy quyền sẽ chỉ nuôi dưỡng sợ hãi mà thôi. Không một chuyên gia, không một nhà chuyên môn nào có thể chỉ cho chúng ta biết làm sao để hiểu quá trình của bản ngã. Người ta phải tự mình tìm hiểu nó. Tuy bạn và tôi có thể tương trợ cho nhau bằng cách thảo luận về nó, nhưng không ai có thể hé lộ điều đó cho chúng ta. Không chuyên gia nào, không bậc thầy nào có thể khám phá nó cho chúng ta. Chúng ta chỉ có thể nhận thức về nó trong mối quan hệ của chúng ta – trong mối tương giao với những sự vật, với tài sản, với con người và với các ý niệm. Trong mối quan hệ đó, chúng ta sẽ khám phá rằng mâu thuẫn phát sinh khi hành động đang tự làm cho nó giống với
một ý niệm. Ý niệm chỉ thuần túy là sự kết tinh của tư tưởng với tư cách một biểu tượng, và nỗ lực để sống theo biểu tượng đó sẽ chỉ mang đến mâu thuẫn mà thôi.
Do đó, chỉ cần vẫn còn có một khuôn mẫu tư duy, thì mâu thuẫn sẽ tiếp diễn. Và muốn chấm dứt khuôn mẫu, cũng là để chấm dứt mâu thuẫn, thì phải tự biết mình. Việc hiểu được bản thân không phải là
một quá trình dành riêng cho thiểu số. Ta có thể hiểu được bản thân qua lời nói hằng ngày, qua cách chúng ta suy nghĩ và cảm nhận, qua cách chúng ta nhìn vào người khác. Nếu ý thức được từng tư duy, từng cảm giác trong mỗi giây mỗi phút, chúng ta sẽ thấy rằng có thể hiểu những phương thức của bản ngã trong các mối tương giao. Chỉ lúc đó trạng thái tĩnh lặng của tâm trí mới khả dĩ. Và chỉ trong trạng thái tĩnh lặng đó, thực tại tối thượng mới có thể hiện hữu.
Chương 9
BẢN NGÃ LÀ GÌ?
Chúng ta có biết mình muốn nói gì khi nói về bản ngã không? Khi nói về bản ngã, tôi muốn nói đến ý tưởng, ký ức, kết luận, kinh nghiệm, nhiều dạng khác nhau của những ý định có thể và không thể gọi tên, nỗ lực có ý thức để hiện hữu hoặc không hiện hữu, ký ức được tích lũy của vô thức, của chủng tộc, phe phái, cá nhân, và toàn bộ những điều đó được phóng chiếu ra bên ngoài bằng hành động, hoặc phóng chiếu trong tinh thần ở dạng đức hạnh. Sự nỗ lực tranh đấu đằng sau tất cả điều này chính là bản ngã. Trong đó cũng bao gồm sự cạnh tranh, khao khát được hiện hữu. Toàn bộ quá trình vừa nói chính là bản ngã. Và khi chúng ta đương đầu với bản ngã, chúng ta thực sự biết rằng nó là một thứ xấu xa. Tôi đang dùng từ “xấu xa” một cách cố ý, bởi vì bản ngã luôn gây chia rẽ: Bản ngã tự đóng khung khép kín; các hoạt động của nó, dù có cao quý đi nữa, cũng mang tính tách biệt và cô lập. Chúng ta đều biết điều này. Và chúng ta cũng biết những khoảnh khắc phi thường khi bản ngã không hiện diện. Khi đó, không có cảm giác nỗ lực, gắng sức và trạng thái này chỉ xuất hiện khi có tình thương.
Đối với tôi, việc hiểu được kinh nghiệm củng cố bản ngã ra sao thực sự rất quan trọng. Nếu có thái độ nghiêm túc, chúng ta nên tìm hiểu vấn đề này. Vậy, chúng ta muốn nói gì khi nói đến kinh nghiệm? Trên thực tế, chúng ta lúc nào cũng trải qua kinh nghiệm, đó là những ấn tượng. Chúng ta diễn dịch các ấn tượng đó, rồi phản ứng hoặc hành động theo chúng. Chúng ta đầy tính toán, khôn khéo, vân vân. Có sự tác động tương hỗ không ngừng giữa những gì chúng ta nhìn thấy một cách khách quan và phản ứng của chúng ta đối với chúng, cùng với tác động tương hỗ giữa ý thức và những ký ức của vô thức.
Theo các ký ức của tôi, tôi phản ứng với bất cứ điều gì tôi nhìn thấy, bất cứ điều gì tôi cảm nhận được. Trong quá trình phản ứng với điều tôi thấy, điều tôi cảm nhận, điều tôi biết, điều tôi tin, chẳng phải kinh nghiệm đang diễn ra đó sao? Phản ứng – tức là sự hồi đáp với điều đã thấy – chính là kinh nghiệm. Khi tôi thấy bạn, tôi phản ứng. Việc gọi tên được phản ứng đó chính là kinh nghiệm. Nếu tôi không gọi tên được phản ứng đó, thì nó không phải là một kinh nghiệm. Hãy quan sát các phản ứng của riêng bạn và những gì đang xảy ra quanh bạn. Sẽ không có kinh nghiệm nếu không có một quá trình định danh diễn ra đồng thời. Nếu tôi không nhận ra bạn, thì làm sao tôi có kinh nghiệm về việc gặp bạn chứ? Điều này thật đơn giản và đúng đắn. Nếu tôi không phản ứng theo ký ức của mình, theo những điều kiện, thành kiến của mình, thì làm sao tôi có thể biết rằng tôi đã có một kinh nghiệm? Chẳng phải sự thật là vậy sao?
Vậy thì những khao khát đa dạng đã phóng chiếu ra bên ngoài. Tôi khao khát được bảo vệ, có được bình an trong tâm hồn. Hoặc tôi khao khát có được một bậc đạo sư, một bậc thầy, một Thượng Đế để nương tựa. Và tôi trải nghiệm điều mà tôi đã phóng chiếu đó. Tức là tôi đã phóng chiếu một khao khát có một hình thức mà tôi đã định danh. Và tôi phản ứng theo hình thức đã có tên đó. Đó là sự phóng chiếu ra bên ngoài của tôi. Đó là sự định danh của tôi. Lòng khao khát đã cho tôi thể nghiệm đó giờ đây khiến tôi nói: “Tôi có kinh nghiệm”, “Tôi đã diện kiến bậc đạo sư”, hoặc “Tôi chưa diện kiến bậc đạo sư”. Bạn hiểu được toàn bộ quá trình gọi tên một kinh nghiệm. Và cái mà bạn gọi là kinh nghiệm chính là khao khát, chẳng phải vậy sao?
Khi tôi khao khát sự tĩnh lặng trong tâm trí, thì điều gì diễn ra? Chuyện gì xảy đến? Tôi thấy có một tâm trí tĩnh lặng, một tâm trí thanh tịnh thật quan trọng vì nhiều lý do khác nhau. Bởi vì kinh Upanishad đã nói như vậy, các kinh điển tôn giáo đã nói như vậy, các thánh đã nói điều đó, và chính tôi đôi khi cũng cảm thấy tĩnh lặng thì tốt biết bao, do tâm của tôi đã quá lao xao suốt cả ngày rồi. Thỉnh thoảng tôi cảm nhận rằng thật tốt biết bao, vui biết bao khi có tâm trí bình an, tâm trí thanh tịnh. Lòng khao khát đó là trải nghiệm
sự tĩnh lặng. Tôi muốn có một tâm trí tĩnh lặng, vì vậy, tôi tự hỏi “Làm sao đạt được điều đó?”. Tôi biết được những cuốn sách nói về thiền định và những dạng thức rèn luyện khác nhau. Vì vậy, thông qua rèn luyện, tôi mong cầu trải nghiệm sự tĩnh lặng. Thế là bản ngã, tức là “tôi”, đã tự củng cố, cố định mình trong kinh nghiệm về tĩnh lặng.
Tôi muốn hiểu chân lý là gì: Đó là ao ước của tôi, khao khát của tôi; rồi tiếp theo là sự phóng chiếu ra ngoài của tôi về điều mà tôi coi là chân lý đó, bởi vì tôi đã đọc nhiều về nó, tôi đã nghe nhiều người nói về nó, các kinh điển tôn giáo đã mô tả về nó. Tôi muốn tất cả điều đó. Và chuyện gì xảy ra? Chính lòng mong muốn đó, chính niềm khao khát đó được phóng chiếu ra, và tôi trải nghiệm bởi vì tôi nhận ra trạng thái phóng chiếu đó. Nếu không nhận ra trạng thái đó thì tôi sẽ không gọi nó là chân lý. Tôi nhận ra nó và tôi thể nghiệm nó. Kinh nghiệm đó tạo sức mạnh cho bản ngã, cho cái “tôi”, không phải vậy sao? Vì vậy, bản ngã bị bao vây khép kín trong kinh nghiệm. Lúc đó, bạn sẽ nói rằng “Tôi biết”, “Vị đạo sư xuất hiện”, “Có Thượng Đế”, hoặc “Không có Thượng Đế”. Bạn sẽ nói rằng một hệ thống chính trị nào đó là đúng và tất cả những hệ thống khác thì không.
Vậy là kinh nghiệm luôn luôn làm tăng sức mạnh cho cái “tôi”. Bạn càng bị vây kín trong kinh nghiệm, thì bản ngã càng được củng cố. Và hậu quả là bạn, tính cách của bạn, kiến thức và niềm tin của bạn trở nên cứng nhắc ở một mức độ nào đó, bạn phô trương cho người khác thấy điều đó bởi vì bạn biết rằng họ không thông minh như bạn, và vì bạn có năng khiếu viết lách hoặc ăn nói nên bạn khôn ranh hơn họ. Bởi vì bản ngã vẫn đang hoạt động, nên những niềm tin, bậc đạo sư của bạn, các giai cấp, hệ thống kinh tế của bạn đều là quá trình cô lập, cách ly, và do đó, chúng gây tranh chấp, bất đồng. Nếu thực sự nghiêm túc hoặc tha thiết với điều này, thì bạn phải hóa giải hoàn toàn tâm điểm này mà không tìm cách biện minh gì cả. Đó là lý do tại sao chúng ta phải hiểu quá trình kinh nghiệm.
Liệu tâm trí cùng bản ngã có thể không phóng chiếu ra ngoài, không khao khát, không trải nghiệm? Chúng ta thấy rằng tất cả kinh
nghiệm của bản ngã đều là một sự phủ định, hủy hoại. Vậy mà chúng ta lại gọi chúng là hành động tích cực, không phải vậy sao? Và đó là điều mà chúng ta gọi là lối sống tích cực. Đối với bạn, xóa bỏ toàn bộ quá trình này mới là tiêu cực. Trong chuyện này bạn có đúng không? Liệu chúng ta, tức là bạn và tôi với tư cách những cá nhân, có thể đi tới gốc rễ của quá trình của bản ngã và thấu triệt nó không? Vậy thì cái gì gây tan rã bản ngã? Chẳng phải các nhóm tôn giáo cũng như những nhóm khác đã tạo cơ hội cho sự đồng nhất hóa sao? Họ kêu gọi: “Hãy đồng nhất hóa ngươi với một thực thể lớn hơn, khi đó bản ngã sẽ biến mất”. Nhưng chắc chắn đồng nhất hóa vẫn là quá trình của bản ngã thôi. Còn thực thể lớn hơn thì đơn giản chỉ là sự phóng chiếu ra bên ngoài của cái “tôi”, mà tôi thể nghiệm, và do đó, nó càng tăng sức mạnh cho cái “tôi”.
Tất cả các dạng thức khác nhau của kỷ luật, niềm tin và kiến thức chắc chắn sẽ chỉ củng cố thêm cho bản ngã. Chúng ta có thể tìm thấy một yếu tố nào đủ khả năng tiêu diệt bản ngã không? Hay đây chỉ là một câu hỏi sai lầm? Điều chúng ta muốn rất cơ bản thôi mà. Chúng ta muốn tìm ra cách nào đó để tiêu diệt cái “tôi”, chẳng phải vậy sao? Chúng ta nghĩ có nhiều phương tiện khác nhau, đó là sự đồng nhất hóa, niềm tin, tín ngưỡng,… Nhưng tất cả chúng đều ở mức độ ngang nhau. Không có phương tiện nào cao hơn phương tiện nào, bởi vì tất cả đều có sức mạnh ngang bằng trong việc củng cố bản ngã, cái “tôi”. Thế thì liệu tôi có thể thấy cái “tôi” ở bất cứ nơi nào nó tác động, và thấy được các thế lực và năng lượng phá hoại của nó không? Dù gọi là gì đi nữa thì nó vẫn là một thế lực chia cách, nó là sức mạnh phá hoại, nên tôi muốn tìm cách tiêu diệt nó. Bạn lẽ ra nên tự hỏi điều này: “Tôi thấy cái ‘tôi’ lúc nào cũng hoạt động và luôn luôn gây ra lo âu, sợ hãi, thất vọng, tuyệt vọng, đau khổ, không chỉ cho chính tôi, mà còn cho những người xung quanh. Liệu có thể tiêu diệt bản ngã đó, không phải một phần, mà là toàn bộ không?”. Chúng ta có thể đi tới gốc rễ của nó và phá hủy nó luôn không? Chẳng phải đó là cách duy nhất thật sự hiệu nghiệm hay sao? Tôi không muốn thông minh một cách phiến diện, mà muốn thông minh một cách toàn diện hợp nhất. Đa phần chúng ta thông minh theo từng tầng từng lớp, bạn có thể thông minh ở khía cạnh
này, còn tôi ở khía cạnh khác. Một số người khôn ngoan trong công việc kinh doanh, một số khác lại thông minh trong công việc văn phòng, vân vân. Người ta khôn ngoan theo những cách khác nhau, nhưng lại không khôn ngoan toàn diện. Thông minh toàn diện hợp nhất nghĩa là không có bản ngã nữa . Liệu có thể không?
Có thể nào làm cho bản ngã vắng mặt hoàn toàn ngay bây giờ không? Bạn biết là điều đó có thể. Vậy những thành phần, yêu cầu cần thiết là gì? Yếu tố nào tạo nên điều đó? Liệu tôi có tìm được yếu tố đó không? Và khi đặt câu hỏi: “Liệu tôi có tìm được yếu tố đó không?”, thì chắc chắn tôi tin rằng điều đó là khả dĩ. Thế là tôi đã tạo ra một kinh nghiệm củng cố bản ngã, không phải vậy sao? Hiểu biết về bản ngã đòi hỏi rất nhiều khôn khéo, rất nhiều thận trọng, tỉnh giác, phải liên tục trông chừng để nó không trôi đi. Là người rất nghiêm túc, tôi muốn tiêu diệt bản ngã. Khi nói điều đó, tôi biết là có thể tiêu diệt bản ngã. Khi tôi nói: “Tôi muốn tiêu diệt điều này”, thì trong câu nói đó đã hàm chứa sự đang trải nghiệm của bản ngã, và vì vậy, bản ngã vẫn được củng cố. Vậy thì làm sao có thể khiến cho bản ngã không thể nghiệm? Người ta có thể thấy rằng trạng thái sáng tạo chẳng có chút kinh nghiệm nào của bản ngã. Sáng tạo là khi bản ngã không hiện hữu, bởi vì sáng tạo không thuộc về trí tuệ, không thuộc về tâm trí, không phải do tự phóng chiếu ra bên ngoài, mà nó là thứ gì đó vượt thoát mọi trải nghiệm. Vì vậy, liệu tâm trí có thể hoàn toàn tĩnh lặng, ở trong trạng thái không nhận thức, hoặc không trải nghiệm, ở trong một trạng thái mà sáng tạo có thể diễn ra – nghĩa là khi bản ngã không còn hiện diện nữa, khi bản ngã biến mất không? Đây mới chính là vấn đề, chẳng phải vậy sao? Bất cứ động thái nào của tâm trí, dù tích cực hay tiêu cực, cũng là một trải nghiệm và nó thực sự củng cố cho cái “tôi”. Liệu tâm trí có thể không nhận ra chăng? Rằng điều đó chỉ có thể xảy ra khi tĩnh lặng hoàn toàn, nhưng không phải trạng thái tĩnh lặng vốn là một kinh nghiệm của bản ngã, và do đó sẽ củng cố bản ngã.
Phải chăng có một thực thể tách biệt khỏi bản ngã, nhìn vào bản ngã và tiêu diệt bản ngã? Phải chăng có một thực thể tâm linh thế chỗ bản ngã và phá hủy nó, gạt nó qua một bên? Chúng ta nghĩ là