🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Truyện Thông Sử Trung Quốc
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Table of Contents
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Viễn cổ
1. Bàn cổ khai thiên lập địa
2. Nữ oa luyện đá vá trời
3. Thần nông dũng cảm nếm thử bách thảo
4. Hoàng Đế đánh suy vưu
5. Cộng Công Thị nổi giận húc đổ Bất Chu Sơn
6. Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn
7. Đại Vũ trị thuỷ
Hạ - Thương - Tây Chu
8. Cha mất, con kế thừa thiên hạ
9. Thiếu Khang phục quốc
10. Thương Thang diệt Hạ
11. Thái Giáp hối hận lỗi lầm
12. Bàn Canh dời Ân
13. Tể tướng nô lệ Truyền Duyệt
14. Tuẫn táng nô lệ
15. Trụ Vương đánh thắng Đông Di
16. Văn Vương tìm người tài gặp Khương Thượng 17. Chu Vũ Vương phạt Trụ
18. Quản Thái phản Chu
19. Chu Công xây dựng Đông Đô
20. Dùng kế dán thuyền làm cho Chiêu Vương chết đuối 21. Mục thiên tử tuần du
22. Bình dân bạo động đuổi Lệ Vương
23. Tuyên Vương chinh chiến nhiều năm liền
24. Đốt lửa đùa giỡn chư hầu
https://thuviensach.vn
Xuân thu
25. Mũi nỏ bắn Chu Thiên Vương
26. Tề Hoàn Công trọng dụng Quản Trọng
27. Tào Quệ luận chiến
28. Bá chủ đầu tiên
29. Ngựa quen đường cũ
30. Mối tình của Quản Bão
31. Môi hở răng lạnh
32. Tấm thân đáng giá 5 tấm da dê
33. Đội quân nhân nghĩa của Tống Tương Công
34. Trùng Nhĩ chạy nạn
35. Lùi tránh ba xá
36. Chúc Chi Vũ lui quân Tần
37. Người lái trâu cứu nước
38. Trận chiến giữa Tấn và Tần ở Hào Sơn
39. Tần Mục Công xưng bá Tây Nhung
40. Tiếng hót của Sở Trang Vương cất lên làm mọi người kinh sợ 41. Hội nghị dẹp yên chiến sự
42. Ngũ Tử chạy trốn tới nước Ngô
43. Tôn Vũ thao luyện nữ binh
44. Hạp Lư tiến đánh Ảnh Đô
45. Câu Tiễn đại bại ở núi Cối Kê
46. Nằm gai nếm mật
47. Tử Sản đúc đỉnh hình
48. Yến Tử làm tướng nước Tề
49. Điền Nhương Thư chấp pháp Như Sơn
50. Khổng Tử và Lão Tử
51. Thư hùng kiếm
Chiến quốc
52. Ba nhà phân chia nước Tấn
53. Ngụy Văn Hầu kén hiền tài
54. Tây Môn Báo cai trị Thành Nghiệp
https://thuviensach.vn
55. Trâu Kỵ khéo khuyên can vua Tề
56. Thương Ưởng thay đổi pháp chế
57. Tôn Bàng đấu trí
58. Mặc Tử Ngăn sở đánh Tống
59. Trương Nghi liên hoành
60. Nhà thơ yêu nước Khuất Nguyên
61. Hồ phục kỵ xạ
62. Thỏ khôn khoét đủ ba hang
63. Dùng ngân lượng vàng mua một đầu ngựa 64. Tô Tần thi hành kế phản gián
65. Trận trâu lửa
66. Tướng tương hòa
67. Xúc Long khuyên Triệu Thái Hậu
68. Mao Toại tự tiến cử
69. Trộm phù cứu Triệu
70. Đài trốn nợ
71. Đô Giang Yển
72. Tích trữ hàng quý
73. Vương Tiễn diệt Triệu
74. Kinh Kha ám sát Tần Vương
75. Thống nhất Trung Nguyên
76. Nền kinh tế Chiến quốc phát đạt
77. Biển Thước hành nghề y
78. Trăm nhà đua tiếng
https://thuviensach.vn
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Viễn cổ
1. Bàn cổ khai thiên lập địa
2. Nữ oa luyện đá vá trời
3. Thần nông dũng cảm nếm thử bách thảo 4. Hoàng Đế đánh suy vưu
5. Cộng Công Thị nổi giận húc đổ Bất Chu Sơn 6. Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn 7. Đại Vũ trị thuỷ
Hạ - Thương - Tây Chu
8. Cha mất, con kế thừa thiên hạ
9. Thiếu Khang phục quốc
10. Thương Thang diệt Hạ
11. Thái Giáp hối hận lỗi lầm
12. Bàn Canh dời Ân
13. Tể tướng nô lệ Truyền Duyệt
14. Tuẫn táng nô lệ
https://thuviensach.vn
15. Trụ Vương đánh thắng Đông Di
16. Văn Vương tìm người tài gặp Khương Thượng 17. Chu Vũ Vương phạt Trụ
18. Quản Thái phản Chu
19. Chu Công xây dựng Đông Đô
20. Dùng kế dán thuyền làm cho Chiêu Vương chết đuối 21. Mục thiên tử tuần du
22. Bình dân bạo động đuổi Lệ Vương
23. Tuyên Vương chinh chiến nhiều năm liền 24. Đốt lửa đùa giỡn chư hầu
Xuân thu
25. Mũi nỏ bắn Chu Thiên Vương
26. Tề Hoàn Công trọng dụng Quản Trọng
27. Tào Quệ luận chiến
28. Bá chủ đầu tiên
29. Ngựa quen đường cũ
30. Mối tình của Quản Bão
31. Môi hở răng lạnh
32. Tấm thân đáng giá 5 tấm da dê
https://thuviensach.vn
33. Đội quân nhân nghĩa của Tống Tương Công
34. Trùng Nhĩ chạy nạn
35. Lùi tránh ba xá
36. Chúc Chi Vũ lui quân Tần
37. Người lái trâu cứu nước
38. Trận chiến giữa Tấn và Tần ở Hào Sơn
39. Tần Mục Công xưng bá Tây Nhung
40. Tiếng hót của Sở Trang Vương cất lên làm mọi người kinh sợ 41. Hội nghị dẹp yên chiến sự
42. Ngũ Tử chạy trốn tới nước Ngô
43. Tôn Vũ thao luyện nữ binh
44. Hạp Lư tiến đánh Ảnh Đô
45. Câu Tiễn đại bại ở núi Cối Kê
46. Nằm gai nếm mật
47. Tử Sản đúc đỉnh hình
48. Yến Tử làm tướng nước Tề
49. Điền Nhương Thư chấp pháp Như Sơn
50. Khổng Tử và Lão Tử
51. Thư hùng kiếm
https://thuviensach.vn
Chiến quốc
52. Ba nhà phân chia nước Tấn
53. Ngụy Văn Hầu kén hiền tài
54. Tây Môn Báo cai trị Thành Nghiệp 55. Trâu Kỵ khéo khuyên can vua Tề 56. Thương Ưởng thay đổi pháp chế 57. Tôn Bàng đấu trí
58. Mặc Tử Ngăn sở đánh Tống
59. Trương Nghi liên hoành
60. Nhà thơ yêu nước Khuất Nguyên 61. Hồ phục kỵ xạ
62. Thỏ khôn khoét đủ ba hang
63. Dùng ngân lượng vàng mua một đầu ngựa 64. Tô Tần thi hành kế phản gián 65. Trận trâu lửa
66. Tướng tương hòa
67. Xúc Long khuyên Triệu Thái Hậu 68. Mao Toại tự tiến cử
69. Trộm phù cứu Triệu
https://thuviensach.vn
70. Đài trốn nợ
71. Đô Giang Yển
72. Tích trữ hàng quý
73. Vương Tiễn diệt Triệu
74. Kinh Kha ám sát Tần Vương 75. Thống nhất Trung Nguyên 76. Nền kinh tế Chiến quốc phát đạt 77. Biển Thước hành nghề y
78. Trăm nhà đua tiếng
https://thuviensach.vn
Lời nói đầu
Truyện thông sử Trung Quốc bao gồm 525 câu chuyện lịch sử Trung Quốc bắt đầu từ thời kỳ Viễn cổ tới năm 1949- thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, chia làm 18 giai đoạn dựa theo triều đại và thời đại; mỗi đoạn có lời từ giới thiệu khái quát tình hình xã hội thời đó.
Bộ sách này kể lại những câu chuyện lịch sử, đồng thời giảng giải những kiến thức lịch sử chuẩn xác về một sự kiện, một nhân vật cụ thể, có quan điểm, có miêu thuật và có bình phẩm.
Nguyên bản tiếng Trung Quốc có ba tập, quyển Thường gồm 169 chuyện, bắt đầu từ Viễn cổ tới Lưỡng Tấn; quyển Trung gồm 181 chuyện, bắt đầu từ Nam Bắc triều tới nhà Nguyên; quyển Hạ gồm 175 chuyện, bắt đầu từ thời nhà Minh đến năm 1949. Cuốn sách các bạn đang cầm trên tay có thể coi là tập một của quyển Thượng.
Nhà xuất bản Lao động
https://thuviensach.vn
Viễn cổ
Thời kỳ Viễn cổ mở đầu lịch sử Trung Quốc, đó chỉ là xã hội nguyên thuỷ kéo dài trước triều Hạ. Thời kỳ Viễn cổ dài dằng dặc này chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn đầu cách hiện tại ước từ một
trăm bảy mươi vạn năm trước tới một vạn tám nghìn năm trước. Giai đoạn sau từ một vạn tám nghìn năm trước tới hơn bốn nghìn năm trước.
Ở giai đoạn trước, con người vừa mới từ loài vượn cổ tiến hoá sang, họ dùng những công cụ giải tiện thô sơ như đồ đá, gậy gỗ v.v… để săn bắt thú vật hoặc hái lượm, ăn thịt dã thú và quả dại để đỡ đói, khoác da thú và lá cây để che thân chống giá lạnh. Giữa con người với con người không có sự liên hệ cố định. Có khi vì để săn bắt dã thú, rất nhiều người tập hợp lại dốc sức hợp tác; săn bắt được dã thú rồi họ lại quây quần cùng chia hưởng thành quả thắng lợi. Sau khi ăn no, những thứ còn thừa không ai muốn chiếm làm của riêng, rồi phân tán ai về chỗ ở của người nấy. Bầy người khi tụ, khi tán này được gọi là bầy người nguyên thuỷ. ở giai đoạn bầy người nguyên thuỷ, đời sống của con người không có bảo đảm, khi không săn bắt được dã thú, lúc chẳng hái lượm được quả dại, họ đành phải nhịn đói, cho nên tuổi thọ rất ngắn. ở giai đoạn đó sự tiến bộ của loài người tiến triển cực kỳ chậm chạp.
Ở giai đoạn sau, con người bắt đầu tổ hợp lại dựa theo quan hệ huyết thống mà hình thành xã hội thị tộc. Khởi đầu thị tộc tổ hợp lại dựa theo huyết thống của mẫu hệ, gọi là thị tộc mẫu hệ. Về sau dần dần diễn biến thành tổ hợp dựa theo huyết thống phụ hệ, được gọi là thị tộc phụ hệ. Trong giai đoạn xã hội thị tộc, con người bắt đầu sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi súc vật, những thứ có thể ăn được so với trước đã nhiều hơn, đời sống tương đối có bảo
https://thuviensach.vn
đảm, con người đã tiến nhanh hơn trước rất nhiều. Những đồ vật dư thừa được quy thành công hữu của thị tộc, khi nào mọi người có nhu cầu thì mới lấy ra phân phối. Con người vẫn chưa có khái niệm tư hữu tài sản, cũng chưa xuất hiện giai cấp và áp bức bóc lột.
Lịch sử thời kỳ Viễn cổ chủ yếu dựa vào truyền thuyết, thần thoại lưu truyền từ đời này sang đời khác. Các văn vật khai quật được của ngành khảo cổ trong gần một trăm năm lại đây, đặc biệt là công tác nghiên cứu của các nhà học giả đối với văn tự cổ trong mấy năm gần đây đã khẳng định rằng, nội dung của đa số truyền thuyết, thần thoại rất đáng tin cậy, còn lại đều là sự tưởng tượng của cổ nhân, thiếu hẳn tính chân thực lịch sử.
https://thuviensach.vn
1. Bàn cổ khai thiên lập địa
Nhân loại chúng ta sống giữa trời đất. Trời đất khởi nguồn phát sinh ra như thế nào? Bản thân con người từ đầu sinh ra? Ngày nay, những câu hỏi này đã có đáp án tương đối chính xác. Các nhà thiên văn học đã chứng minh, trái đất là do Tinh Vân ngưng kết mà thành. Các nhà khảo cổ học, các nhà sinh học cổ và nhà nhân loại học đã nói cho chúng ta biết, con người là do loài vượn cổ tiến hoá mà thành. Tới nay, những câu trả lời này đã trở thành điều thường thức phổ thông của mọi người. Thế nhưng thời cổ đại của mấy ngàn năm về trước, nếu có người nào nêu ra những câu hỏi này thì lời giải luôn luôn là từng câu, từng chuyện thần thoại.
Tại sao cổ nhân lại dùng thần thoại để giải thích lịch sử của thiên nhiên và nhân loại? Lúc đó, trình độ của sức sản xuất còn rất thấp, con người vẫn chưa nắm vững tri thức khoa học cận đại; đối với các hiện tượng của thiên nhiên và đời sống xã hội, họ chỉ có thể dựa vào sức tưởng tượng chủ quan, dùng thủ pháp nhân cách hoá thêu dệt ra rất nhiều câu chuyện thần thoại đầy thú vị để cắt nghĩa nguồn gốc của trời đất và vấn đề khởi thuỷ của con người v.v… Do vậy, lịch sử xã hội nguyên thuỷ của rất nhiều dân tộc đều được mở đầu từ câu chuyện thần thoại. Trung Quốc cũng không lệ ngoại, thời cổ đại cũng đã sản sinh ra rất nhiều thần thoại. Những câu chuyện thần thoại này thường luôn luôn biểu hiện qua những cách giải thích ngây thơ và ý tưởng tốt đẹp đối với hiện tượng thiên nhiên và đời sống xã hội của con người trong “thời đại non trẻ”.
Bắt đầu từ thiên thứ nhất “Bàn cổ khai thiên lập địa” trong sách này trở đi cho tới thiên thứ bảy “Đại Vũ trị thuỷ”, nội dung kể đều là thần thoại và truyền thuyết. Những tri thức lịch sử mà thần thoại và truyền thuyết trong thời kỳ Viễn cổ nêu ra, có một
https://thuviensach.vn
số có thể tin được, còn một số quả thật là hoang đường. Nói chung là cách chúng ta càng xa, mức độ tin cậy càng ít; cách chúng ta tương đối gần, thì có thể tiếp cận với chân thực ở mức tương đối. Thế nhưng có một số thần thoại và truyền thuyết rất có ý nghĩa, đã phản ánh một phần lịch sử xã hội nguyên thuỷ của nước ta, cho nên chúng ta sẽ kể từ những thần thoại và truyền thuyết này trở đi.
Truyền thuyết này kể rằng vào thời kỳ Viễn cổ vô cùng xa xôi, trời và đất vẫn còn chưa được hình thành, khắp nơi đều là một máng hỗn độn, không phân chia rõ ràng trên, dưới, trái, phải, cũng chẳng tường tận được Đông, Nam, Tây, Bắc, mà giống hệt như một quả trứng gà tròn trĩnh. ở trung tâm quả trứng có một khối lòng đỏ.Thứ vật tròn trĩnh này cũng có một trung tâm này đã sinh ra một vị thuỷ tổ của loài người gọi là Bàn Cổ Thị. Bàn Cổ Thị được thai nghén một vạn tám nghìn năm trong khối tròn trĩnh này, cuối cùng giống như con gà con chui ra khỏi vỏ trứng, ông đã phá vỡ vỏ chui ra, rồi dùng chiếc rìu lớn tự tạo mà khai thiên lập địa, mà tách đôi khối tròn trĩnh hỗn độn này.
Khối tròn trĩnh này trải qua sự khai phá của Bàn Cổ Thị liền phân thành hai phần: một phần nhẹ mà trong, một phần nặng mà đục. Phần nhẹ mà trong kia không ngừng bay mãi lên cao, một ngày có thể bay một trượng, lâu dần hình thành bầu trời xanh ở trên cao.
Phần nặng mà đục kia không ngừng hạ thấp, một ngày có thể hạ được một trượng, lâu dài mãi, rồi dần dần hình thành mặt đất rộng lớn. Bản thân Bàn Cổ Thị cũng một ngày lớn lên một trượng, rồi trở thành người hùng cao to khác thường. Kể từ khi Bàn Cổ Thị khai thiên lập địa cho tới lúc hình thành trời đất, thời gian đó phải tới một vạn tám nghìn năm.
Sau khi Bàn Cổ Thị khai thiên lập địa, trong thời kỳ trời đất vẫn chỉ có một con người cô đơn, lúc vui mừng, có khi buồn khổ, có lúc khóc lóc, có khi tức giận. Bởi vì trời đất do ông khai phá ra, cho nên
https://thuviensach.vn
trời đất cũng theo sự mừng giận, vui buồn của ông mà biến hoá muôn hình vạn trạng. Khi Bàn Cổ Thị vui mừng thì trời nắng trong, sáng sủa; lúc Bàn Cổ Thị giận dữ thì bầu trời âm u, mờ tối. Khi Bàn Cổ Thị khóc lóc thì nước mắt rỏ xuống từng giọt, chính là từng trận mưa lớn như trút nước xuống, cuối cùng nước mưa chảy dồn lại thành sông ngòi hồ biển. Khi Bàn Cổ Thị than thở, khí ở miệng phun ra thành những trận cuồng phong thổi trên mặt đất làm cho cát bay, đá chạy. Hễ Bàn Cổ Thị chớp mắt là xuất hiện những tia chớp. Lúc Bàn Cổ Thị ngủ, tiếng ngáy phát ra chính là tiếng sấm ầm ù.
Tuổi thọ của Bàn Cổ Thị rất dài, thế nhưng sau những năm tháng đằng đẳng sống trong trời đất mà ông tự khai phá, cuối cùng ông cũng đã chết, ông nằm trên trái đất với tư thế bằng phẳng, đầu hướng phía đông, chân ở phía tây. Đầu của ông nhô lên cao, chính là Đông Nhạc Thái Sơn khí thế hùng vĩ, thuộc biên giới tỉnh Sơn Đông ngày nay. Những ngón chân của đôi bàn chân ông hướng lên trời, chính là Tây Nhạc Hoa Sơn với những chớp núi dựng đứng ở trong biên giới tỉnh Thiểm Tây ngày nay. Bụng ông ưỡn lên cao chính là Tây Nhạc Tung Sơn, phong cảnh rất tú lệ, nay ở trong biên giới tỉnh Hà Nam. Cánh tay phải của ông ở phía bắc thân thể ông, chính là dãy Bắc Nhạc Hằng Sơn ngàn vạn khí tượng, cảnh vật muôn màu ở trong biên giới tỉnh Sơn Tây ngay nay. Đầu tóc và lông đỏ của ông biến thành cây cối và hoa cỏ trên mặt đất.
Câu chuyện Bàn Cổ Thị khai thiên lập địa có nội dung rất hoang đường, thế nhưng cũng có thể chứng minh một số đạo lý: tổ tiên của chúng ta từ xa xưa đã tin rằng sức mạnh của con người là vĩ đại. Bạn hãy nhìn xem, trời đất là do một người có tên gọi là Bàn Cổ Thị khai phá, chẳng phải đã nói rõ con người vĩ đại hơn trời đất đó sao? Bàn Cổ Thị khai thiên lập địa, dụng cụ mà ông dùng chính là chiếc rìu lớn tự tạo ra, chẳng phải là đã phản ánh một cách mông lung nhân tố tư tưởng lao động sáng tạo thế giới đó sao? Truyền thuyết các dân tộc
https://thuviensach.vn
Tây Phương nói rằng trời đất vạn vật là do Thượng đế toàn năng sáng tạo ra. Câu chuyện Bàn Cổ Thị khai thiên lập địa, so sánh với những truyền thuyết đó, mang ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều.
https://thuviensach.vn
2. Nữ oa luyện đá vá trời
Thần thoại Bàn Cổ Thị khai thiên lập địa chỉ nói về khởi nguồn của trời đất, đó chỉ có một người là Bàn Cổ Thị, về sau thế giới tại sao lại có thể sinh ra nhiều người đến như vậy? Một chuyện thần thoại khác đã giải đáp vấn đề này.
Truyền thuyết kể rằng, sau khi Bàn Cổ Thị qua đời, trời đất vẫn vắng vẻ, trống trải, tịnh không một bóng người. Không biết đã trải qua biết bao nhiêu năm, mới lại xuất hiện một vị thuỷ tổ của loài người tên gọi là Nữ Oa Thị. Nữ Oa là một người đàn bà đơn độc giữa trời đất, cảm thấy quá cô thân liền tạo ra nhiều người để cùng chung sống.
Một hôm, Nữ Oa Thị dùng nước hoà trộn một đống bùn vàng, dùng bùn vàng nặn thành người đất. Một lúc bà nặn một người đàn ông, lúc sau bà lại nặn người đàn bà. Nói ra kể cũng kỳ lạ, Nữ Oa Thị nặn xong một người, thổi một hơi vào người đó, rồi đặt xuống đất, người đất này liền biến thành người sống, biết chạy nhảy, biết
nói cười. Nặn một người, sống một người, nặn hai người, sống hai người. Bà nặn bao nhiêu người thì sống bấy nhiêu người. Những người đó biến thành đoàn thành tộc vậy xung quanh Nữ Oa Thị, nhảy mua hò hét nhiệt tình gọi Nữ Oa Thị là Mẹ.
Nữ Oa Thị cứ nặn mãi, nặn mãi, nặn liên tục không ngừng, nặn cho tới khi cảm thấy thực sự quá mệt mỏi, bà mới tạm ngơI tay. Thế nhưng số bùn vàng hoà trộn vẫn còn thừa rất nhiều. Nữ Oa Thị có vẻ không vui, bà tiện tay nhặt từ dưới đất lên một sợi dây thừng to, nhằm trúng đống đất vàng đá hoà trộn mà vung mạnh. Nào ngờ, bà vừa vung sợi dây thừng, lại hệt như lúc dùng tay nặn, đám bùn vàng bắn tung toé, tất thảy đều biến thành đám người sống, lớn, nhỏ khác nhau. Những con người được Nữ Oa Thị tạo ra này cứ lớn
https://thuviensach.vn
dần lên, cùng lao động, cùng chung sống, sinh sôi ra con cháu đời sau. Những đứa bé chơi đùa nhảy nhót, về sau cũng phương trưởng, cũng làm cha, làm mẹ, cứ thế sự sinh tồn kéo dài hết đời này qua đời khác.
Thế nhưng sự việc lại diễn ra theo chiều hướng xấu. Giữa lúc con người đang không ngừng sinh sôi nảy nở thì trời đất bỗng nhiên dở chứng. Thời cổ đại, con người cho rằng trời tròn, đất vuông. Trời sở dĩ có thể bao trùm lên mặt đất được là bởi vì bốn góc của đất có
bốn cây cột chống giữ. Ngày tháng trôi qua, gió thổi, nắng mưa giãi dầu, bốn cây cột chống trời này đều mục nát cả, trời đất bị đung đưa, chao đảo, hình như sắp sập xuống. Trên mặt đất đã xuất hiện rất nhiều vết nứt, trong những vết nứt đó không ngừng bốc ra lửa nóng và nước thối. Trên trời xanh thì xuất hiện rất nhiều lỗ dột, nước mưa, băng tuyết và thiên thạch không ngừng rơi xuống qua những lỗ dột này.
Tai nạn đột ngột giáng xuống con người ở thế gian. Trên mặt đất có chỗ lửa bốc cao ngùn ngụt, có nơi trở thành biển rộng mênh mông, hung cầm, mãnh thú thừa cơ giết hại con người. Những con chim hung dữ từ trên trời bổ nhào xuống, dùng mỏ sắc nhọn cắp
đi những bà già và trẻ con yếu đuối không chạy kịp. Cảnh ngộ của con người quả thực là cực kỳ bi đát và muôn vàn nguy hiểm.
Chính trong lúc con người không tìm ra được cách nào để tiếp tục cuộc sống yên ổn thì Nữ Oa Thị, thuỷ tổ của con người, đã ra tay cứu vớt con cháu của bà. Bà đốt cháy từng đống củi lau để luyện thành những tảng đá năm màu đỏ, vàng, xanh, trắng, đen, rồi dùng những tảng đá này để tu bổ, vá lấp những chỗ thủng dột trên trời xanh. Bà lại bắt từ biển cả những con rùa cực lớn, chặt lấy bốn chân của chúng thay thế bốn cột trời đã bị mục gẫy. Nước mưa từ trên trời đổ xuống lênh láng, đây là tai hoạ do Rồng đen tạo ra. Nữ Oa Thị liền giết chết Rồng đen. Nước hôI thối từ dưới đất phun
https://thuviensach.vn
lên quá nhiều, Nữ Oa Thị liền dùng đất trộn củi lau bịt chặt chỗ nứt có dòng nước phun. Với sự cố gắng của Nữ Oa Thị, cuối cùng bầu trời xanh đã được hàn vá xong, bốn cây cột chống trời cũng đã được trọng tu, các loài mãnh thú uy hiếp sự sinh tồn của loài người đều bị tiêu diệt. Trên mặt đất cây cối và hoa cỏ lại bắt đầu đâm chồi, nẩy lộc, loài người lại có thể được sống bình yên. Nữ Oa Thị vĩ đại chẳng những đã tạo ra con người, hơn thế còn cứu vớt được loài người thoát khỏi thảm cảnh huỷ diệt của thiên nhiên.
Thần thoại Nữ Oa Thị tạo ra con người và vá trới tuy là rất hoang đường nhưng cũng đã phản ánh được hiện trạng cuộc sống của xã hội loài người trong thời thượng cổ. Ngày nay, qua rất nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học ta được biết trong lịch sử nhân loại đích thực đã có một thời kỳ Công xã thị tộc mẫu hệ. Trong Công xã thị tộc mẫu hệ một lão Tổ mẫu đảm nhận chức thủ lĩnh của Công xã thị tộc, phụ nữ có vai trò quan trọng trong sản xuất và đời sống. Các công việc thu hái thức ăn, nung chế đồ gốm, nuôi trẻ,dưỡng già…cơ bản là do phụ nữ đảm nhiệm. Đàn ông chủ yếu là ra ngoài săn thú, cuộc sống lang thang không ổn định. Lúc đó còn chưa xuất hiện gia đình và quan hệ hôn nhân một vợ một chồng như ngày nay, con cái chỉ biết nhận mẹ chứ không được nhận cha. Câu chuyện thần thoại đã nói Nữ Oa Thị là tổ tiên và người bảo hộ của loài người chẳng phải đã phản ảnh Công xã thị tộc Mẫu hệ đó sao?
https://thuviensach.vn
3. Thần nông dũng cảm nếm thử bách thảo Trong thời kỳ Viễn cổ, con người không có nhà cửa; truyền thuyết kể rằng con người ngủ đêm ngoài trời ở trên cách đồng, không có thứ gì che, chẳng có vật gì đắp, thường xuyên bị dã thú giết hại. Về sau, có một người tài ba nghĩ ra phương pháp làm ổ trên cây, giúp con người tránh được ác thú. Con Người này được mọi người tiến cử làm lãnh tụ, gọi là Hữu Sào Thị(1).
Ở thời Viễn cổ, thức ăn của con người là hoa quả trên dây leo hoang dại và hến, sò ở ngoài sông. Những thức ăn sống lạnh này vừa cứng lại vừa tanh, không dễ dàng tiêu hoá, con người đã mắc phải những bệnh tật,rất nhiều người chết yểu. Truyền thuyết kể rằng về sau có một người tài cán đã nghĩ ra cách xiên cây lấy lửa, dùng lửa nướng chín quả dại và sò hến để ăn, có lợi cho tiêu hoá. Có lửa rồi, đời sống con người đã có sự biến đổi cực kỳ to lớn. Người được mọi người suy tôn làm lãnh tụ này gọi là Toại Nhân Thị(2).
Hữu Sào Thị và Toại Nhân Thị đã có những cống hiến rất to lớn cho loài người, thế nhưng họ chỉ giải quyết được một mặt nào đó của đờisống, nên vẫn chưa được coi là nhân vật tài cán nhất trong số tổ tiên của chúng ta. Truyền thuyết kể rằng, nhân vật tài cán nhất được người đời sau tôn sùng là “Tam Hoàng”, đó là Phục Hi Thị, Thần Nông Thị và Nữ Oa Thị vừa kể ở trên.
Phục Hi Thị dạy dân đan lưới, bắt cá và săn thú. Lại dạy dân đem thịt của cá tôm, dã thú săn được bỏ vào trong đồ gốm nấu chín để ăn, nhốt dã thú sống lại để nuôi dưỡng. Phục Hi Thị còn sáng chế ra bái quái. Đó là một loại văn tự đồ án của thời nguyên thuỷ, dùng tám loại phụ hiệu.
--------(càn) --------(khôn) --------(chấn) --------(cấn)
https://thuviensach.vn
--------(li) --------(khảm) --------(đoài) --------(tốn)
Cứ hai quái phối hợp với nhau phối thành 64 loại đồ án dùng để bốc, bói và ghi lại sự việc. Kỳ thực bái quái này là do người đời sau chế tạo ra, nhưng truyền thuyết đã quy công lao cho Phục Hi Thị cả.
Thần Nông Thị đã dũng cảm nếm thử bách thảo, dạy dân làm nghề nông, ông là một vị lãnh tụ có cống hiến vĩ đại nhất ở thời Viễn cổ được nói trong thuyền thuyết.
Truyền thuyết kể rằng, vào thời đại Thần Nông Thị số nhân khẩu tương đối nhiều. Con người nếu chỉ dựa vào săn bắt thú thì không đủ sống. Trời mới sáng tinh mơ thợ săn đã mang theo cung nỏ và gậy gộc đi bắt thú, tìm dã thú trên những cánh đồng cỏ mênh mông và trong những khu rừng rậm rạp. Họ phải chạy suốt ngày mà vẫn chẳng thu nạp được gì, chịu đói bụng, lê đôi chân mệt mỏi trở về. Thỉnh thoảng săn được một con lợn rừng, toàn bộ hơn một trăm nhân khẩu trong thị tộc xúm quanh lại phân phối, mỗi người chỉ được chia một phần thịt nhỏ, không đủ ấm bụng.Trẻ con đói quá, kêu khóc oa oa, phụ nữ và ngườigià càng thêm tâm phiền ý loạn. Những tay săn thú vì bản thân không nuôi nổi thị tộc, đầu cứ cúi gục, mặt mày ủ rũ, ngồi thẫn thờ trên đất. Họ sống trong tình trạng cực kỳ buồn khổ.
Chính trong tình huống đó,Thần NôngThị vĩ đại xuất hiện Thần NôngThị đã phát hiện những hạt dưa và hại quả do con người vứt xuống đất năm sau có thể mọc mầm, bén rễ, lớn lên thành công dưa và cây quả mới. Ông còn phát hiện ra sự sinh trưởng của thực vật có quan hệ với thời tiết. Khi thời tiết ấm áp, cây cối nảy cành, sinh lá, khai hoa kết quả;khi thời tiết giá lạnh, cây cối khô héo. Ông quyết định lợi dụng sự thay đổi của thời tiết, nghĩ cách dùng sức người chăm bón cây cối, nhờ vậy mà đã có những thu
https://thuviensach.vn
hoạch hạt cây, trái quả một cách khả quan, đã có thêm thức ăn dự trữ, bổ sung bên cạnh săn bắt.
Thoạt đầu, Thần Nông Thị chưa hiểu được loại quả, hạt hoặc rễ, cành lá của cây nào có thể ăn được, loại nào ăn ngon, loại nào không nên ăn hoặc ăn không ngon. Để mọi người được ăn no, không bị đói, để cho mọi người được sinh tồn, Thần Nông Thị quyết định dùng chính miệng của mình để thử mùi vị của các loại thực vật hoang dại.
Ông đã thu thập các loại quả, hạt, rễ, lá, cành, ghé miệng thử từng loại. Mùi vị của thứ nào ngọt, đặc biệt ngon, ông đánh dấu lại. Mùi vị của thứ nào vừa đắng vừa chát, khó có thể nuốt được, ông cũng đánh dấu lại. Có một số thứ mùi vị không đến nỗi kém, nhưng sau khi nếm thử thì thấy nếu không váng đầu đau óc, cũng đau bụng nhức tim, thậm chí còn thượng thổ, hạ tả, miệng nôn, trôn tháo. Thì ra những thứ này có chứa chất độc, ông cũng đánh dấu tỉ mỉ kỹ càng.
Truyền thuyết kể rằng trong quá trình Thần Thị Nông nếm thử bách thảo, lúc nhiều nhất trong một ngày đã từng gặp phảI bảy mươi loại thực vật có chất độc, trong đó mấy lần suýt mất mạng. Thế nhưng cuối cùng Thần Nông Thị vĩ đại đã khắc phục được muôn vàn khó khăn, đã chiến thắng được mọi loại nguy hiểm, tìm ra được một khối lượng lớn thức ăn cho loài người. Ông đã tìm được những thực vật có thể làm ra lương thực, những loài cây có thể làm rau ăn, đã tìm được những trái cây ngon, còn tìm được cả những cây có thể chữa bệnh được. Khi đã nhanạ biết được những loại cây này, con người bèn vạch ra kế hoạch trồng trọt, và như vậy vấn đề thức ăn đã được giải quyết thêm một bước, vấn đề thuốc chữa bệnh cũng đã bước đầu được khắc phục. Những người săn thú, bắt cá đã gặp vận may, từ đó trở đi sự nghiệp trồng trọt được mở ra, đời sống của con người đã có bảo đảm.
https://thuviensach.vn
Thần Nông Thị vẫn chưa thoả mãn, ông phát hiện thấy sự sinh trưởng của thực vật chẳng những có quan hệ đến thời tiết mà còn có quan hệ tới đất đai. Có một số thực vật thích sinh trưởng ở vùng đất vàng, một số thực vật thức sinh trưởng nơi đất đen; một số thực vật ưa đất khô ráo, có một số thực vật hợp với đất ẩm. Tất cả các hiện tượng quan sát được ông đều ghi nhớ, rồi chỉ đạo mọi người theo đuổi việc trồng trọt sao cho ngày một tốt hơn.
Thần Nông Thị lại phát hiện, việc trồng trọt cũng giống như vịêc săn bắt, đòi hỏi phải có một loại công cụ chuyên dùng. Tức thì ông mò mẫm nhiều lần rồi chế tạo ra các công cụ như cày, bừa, liềm, hái… dùng để trồng trọt và gặt hái. Tới đây, nền sản xuất nông nghiệp nguyên thuỷ được kể là một hệ thống phương pháp tương đối hoàn chỉnh.
Con người đã bắt đầu sản xuất nông nghiệp, chẳng những đời sống có đảm bảo; sản phẩm dư thừa, mà quan hệ mua bán cũng đã xuất hiện, chợ búa, mậu dịch sơ khai ra đời. Mọi người đem những thức vật dư thừa của thị tộc đem ra chợ trao đổi với thị tộc khác lấy những thứ mà mình không có. Biện pháp là “họp chợ giữa ban ngày”,
tới đúng giữa trưa, mặt trời ở giữa không trung, tất cả mọi người đều ra họp chợ, tiến hành trao đổi.
Truyền thuyết về Hữu Sào Thị và Toại Nhân Thị, Phục Hi Thị, Thần Nông Thị, đương nhiên cũng là thần thoại, thế nhưng nó lại phản ánh tiến trình sản xuất và phát triển của đời sống con người trong thời Viễn cổ. Chúng ta biết rằng việc con người giảI quyết
được các vấn đề chỗ ở, thức ăn v.v… chính là kết quả của cuộc đấu tranh với thiên nhiên và từng bước tích luỹ kinh nghiệm, trong đó bao hàm cả sự thăm dò, phấn đấu, thất bại và thành công, hết đời này qua đời khác. Trong quá trình như vậy, con người từ chỗ hiểu biết
rất ít, đến chỗ hiểu được tương đối nhiều, đời sống từ chỗ rất không hoàn thiện, tiến đến tương đối hoàn thiện, cuối cùng mới
https://thuviensach.vn
đạt tới đích ấm no, thoải mái. Người cổ đại có một loại Sử quan anh hùng, lấy sự sáng tạo của quần chúng quy công cho một số người tài năng lý tưởng. Chúng ta có thể xem Hữu Sào Thị, Toạ Nhân Thị,
Phục Hi Thị, Thần Nông Thị v.v... là những nhân vật mang tính chất tương đối tượng trưng, và quả thật họ đã tượng trưng cho quần chúng nỗ lực giải quyết vấn đề đời sống trong xã hội thị tộc.
https://thuviensach.vn
4. Hoàng Đế đánh suy vưu
“Tam Hoàng” – Phục Hi Thị, Thần Thị Nông, Nữ Oa Thị -đã phản ánh thời đại của Công xã thị tộc. Nữ Oa Thị là đàn bà, là thủ lĩnh của Công xã thị tộc Mộu hệ, đáng lẽ xuất hiện tương đối sớm. Phục Hi Thị, Thần Nông Thị là đàn ông, là thủ lĩnh của Công xã thị tộc Phụ hệ, phải xuất hiện tương đối muộn. Tại sao đặt Nữ Oa Thị ở sau? Chính vì những truyền thuyết này đã qua sự chỉnh lý của người đời sau nên thứ tự đã bị đảo lộn. Lại nữa, việc truyền thuyết nói, Nữ Oa Thị tạo ra con người làm sao có thể giảng giải thông suốt được? Truyền thuyết, thần thoại vốn không phải là lịch sử hoàn toàn đáng tin cậy, nên khó tránh khỏi có những mâu thẫu tự thân.
Công xã thị tộc không ngừng mở rộng hoặc sáp nhập, dần dần hình thành bộ lạc, vài bộ lạc cũng có thể gọi là Bộ tộc. Hoàng đế chính là một vị lãnh tụ của Liên minh Bộ lạc nổi tiếng ở lưu vực sông Hoàng Hà thời cổ đại Trung Quốc.
Nên phân biệt rõ hai từ “Hoàng đế”, một là Hoàng đế là tên người và một Hoàng đế là tên gọi nhà vua, kể từ Tần Thuỷ Hoàng. Bắt đầu từ Tần Thuỷ Hoàng trở đi, người thống trị cao nhất của các triều đại Trung Quốc đều gọi là Hoàng đế. Về “Hoàng đế”
kể trong chuyện này là một con người cụ thể. Các nhà lịch sử cổ đại gọi lãnh tụ của Liên minh Bộ lạc này là lãnh tụ tài cán nhất trong lịch sử Trung Quốc, là tổ tiên của dân tộc Trung Hoa (chủ yếu là dân tộc Hán).
Truyền thuyết kể rằng Hoàng đế họ Công Tôn, cũng có người nói ông mang họ Cơ, tene gọi là Hiên Viên. Ông vừa sinh ra đã rất thông minh, tuổi còn rất nhỏ đã hiểu được nhiều đạo lý. Khi lớn lên, ông nhiệt tâm làm việc vì quần chúng, được tiến cử làm thủ lĩnh bộ tộc.
https://thuviensach.vn
Sau khi làm thủ lĩnh bộ tộc Hoàng Đế đã lãnh đạo mọi người thay đổi cuộc sống săn bắt lang thang, dạy mọi người làm nhà dựng cửa để ở, thuần dưỡng gia súc, trồng trọt ngũ cốc, định cư ở lưu vực Hoàng Hà. Để tiện cho việc giao thông ở hai bờ Hoàng Hà, Hoàng Đế đã tạo ra thuyền và xe. Để đánh nhau với các bộ lạc khác, mọi người đã dùng ngọc vỡ, mài thành các loại binh khí. Ngọc, kỳ thực là một loại đá rắn.
Truyền thuyết kể rằng Hoàng Đế còn sai Sử quan của ông là Thương Hiệt chế tạo ra văn tự, thay thế phương pháp ghi chép sự việc một cách vụng về bằng buộc nút thừng trong thời kỳ Viễn cổ, mà bắt đầu dùng văn tự.
Do Thương Hiệt tạo ra chữ, mọi người cũng đã hiểu được chữ số, đã phát minh ra toán thuật để tính số. Hoàng Đế còn sai thần tử là Đại Náo sáng tạo ra Giáp Tý, chính là dùng Thập thiên can: Giáp, ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý phối hợp với Thập nhị địa chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọc, Mùi, Thân, Tuất, Hợi, để ghi chép năm, tháng, ngày, giờ. Thập thiên can luân lưu sáu vòng, Thập nhị địa chi luân lưu năm vòng, vừa tròn 60 năm, điều này được gọi là một “Giáp tý”, hoặc “Hoa giáp”.
Truyền thuyết kể lại rằng, lúc đó con người đã hiểu âm nhạc, đã phát minh ra nhạc cụ như chuông, trống v.v…Hoàng Đế ra lệnh cho một nhạc sư tên gọi là Linh Luân dùng một ống trúc dài ba tấc chín phân làm thành âm luật có thể phát sinh ra 12 âm, dùng để hiệu chỉnh các loại âm thanh của nhạc cụ, làm cho các loại nhạc khí hài hoà tiết tấu.
Trong thời Hoàng Đế, con người đã biết dùng y dược để chữa trị các loại bệnh tật. Có một quyển sách lí luận cơ sở Đông y học gọi là Hoàng Đế Nội Kinh, kỳ thực là trước tác của thời kỳ Chiến Quốc,
https://thuviensach.vn
Tần, Hán. Nhưng có truyền thuyết lại kể rằng tác giả là một vị thày thuốc tên gọi là Kỳ Bá, thời Hoàng Đế.
Theo truyền thuyết, người vợ của Hoàng Đế tên gọi là Luy Tổ, cũng là một người rất thông minh, mẫn cán. Thấy con người mùa đông khoác da thú, mùa hạ xuyên lá cây vây quanh eo sườn, không có quần áo mặc, bà liền nghĩ ra nghề nuôi tằm kéo tơ, lấy tơ dệt thành luạ, lại còn cho nhuộm thành các loại màu sắc, dùng để may quần áo. Người đời sau đã suy tôn Luy Tổ là “Tiên tằm nương nương” để ghi ơn phát kiến quan trọng này.
Qua nhiều truyền thuyết có thể thấy rõ, ở thời kỳ Hoàng Đế đã bắt đầu có cuộc sống văn minh, đã bước vào thời kỳ đỉnh thịnh của thời đại đồ đá mới. Có thể vì lẽ đó mà Hoàng Đế luôn được coi là đại biểu kiệt xuất của dân tộc Trung Hoa vĩ đại, là tổ tiên chung của mọi người Trung Quốc. Người Trung Quốc đều bằng lòng coi mình là con cháu của Hoàng Đế.
Khi bộ tộc của Hoàng Đế bắt đầu cuộc sống văn minh, trên dải đất Trung Quốc vẫn còn rất nhiều bộ tộc khác nữa. ở Tây Bắc lưu vực Hoàng Hà có một bộ tộc do Viêm Đế họ Khương làm thủ lĩnh. Bộ tộc Viêm Đế thấy vùng trung du Hoàng Hà đất đai tốt đẹp, liền dần di chuyển về hướng Đông Nam. Tới trung du Hoàng Hà, họ đã xung đột với bộ tộc bản địa Cửu Lê từng cư trú ở đó từ lâu. Hậu quả là bộ tộc Viêm Đế bị đánh bại. Viêm Đế đành phải dẫn bộ tộc chạy trốn tới địa bàn mà bộ tộc của Hoàng Đế đang cư trú, thế là lại phát sinh xung đột với bộ tộc Hoàng Đế và trận tử chiến ở Bản Tuyền đã xảy ra.
Bản Tuyền ở vùng Đông Nam huyện Trác Lộc, tỉnh Hà Bắc ngày nay, địa thế rất hiểm yếu. Bộc tộc Hoàng Đế chiếm lĩnh các địa hình có lợi nhất, có tới ba lần giao chiến kịch liệt với quy mô lớn, cuối cùng Hoàng Đế đánh bại được Viêm Đế. Đứng trước Hoàng
https://thuviensach.vn
Đế, Viêm Đế ngoan ngoãn chịu thua, đồng ý đem hai bộ tộc sáp nhập lại, tôn Hoàng Đế làm thủ lĩnh, bản thân Viêm Đế đảm nhiệm chức phó thủ lĩnh. Bộ tộc Hoàng Viêm hoặc bộ tộc Viêm Hoàng này chính là mô hình đầu tiên sớm nhất của dân tộc Trung Hoa. Về sau, người Trung Quốc vẫn tự xưng mình là duệ trụ của Viêm Hoàng. Duệ trụ có nghĩa là con cháu đời xa xưa.
Sau khi hai dân tộc Viêm Hoàng sáp nhập lại, Viêm Đế yêu cầu Hoàng Đế giúp ông rửa sạch mối xỉ nhục bị bộ tộc Cửu Lê đánh bại. Vừa hay lúc đó bộ tộc Cửu Lê cũng đang di chuyển về phía Đông Nam, uy hiếp sự an toàn của bộ tộc Viêm Hoàng. Thủ lĩnh bộ tộc Cửu Lê là Suy Vưu đã từng đánh bại Viêm Đế, do đó càng vênh vang tự đắc, xem thường bộ tộc Hoàng Viêm.
Theo truyền thuyết thì Suy Vưu cũng là một nhân vật đáng gờm. Suy Vưu có 81 người anh em, người nào cũng đều đầu người thân thú, đầu đồng, trán sắt, có tám cánh tay, chín ngón chân, trên mặt có các loại hoa văn màu sắc, có thể ăn được cát và đá. Lẽ dĩ nhiên đó chỉ là sự miêu tả ngoa ngôn trong sách cổ. Căn cứ vào sự miêu tả hoang đường này, chúng ta có thể suy đoán, đại đế Suy Vưu là một thủ lĩnh của một bộ tộc dã man; bộ tộc Cửu Lê của Suy Vưu so với bộ tộc Hoàng Viêm thì lạc hậu hơn nhiều.
Để rửa thù, cũng là uy hiếp sự chống đối của bộ tộc Cửu Lê, Hoàng Đế và Viêm Đế đã làm rất nhiều công tác chuẩn bị. Chẳng hạn, hướng dẫn người trong bộ tộc mài chế rất nhiều dao đá, rìu đá, rèn tập được một đội quân tinh nhuệ. Mấy phân đội của đội quân này đã lấy tên các mãnh thú Hổ, Báo, Gấu, Bỡo v.v… đặt tên cho mình. Thủ lĩnh của đội Hổ thân khoác da hổ, thủ lĩnh của đội Báo thana choàng da báo, mượn oai phong của mãnh thú để khuyếch trương thanh thế, hù doạ kẻ thù. Các ngài còn chế định ra phương án tác chiến tỉ mỉ.
https://thuviensach.vn
Cuộc đại chiến giữa bộ tộc Hoàng Viêm với bộ tộc Cửu Lê cuối cùng đã nổ ra ở vùng Trác Lộc. Hai bên tác chiến, một phía do Suy Vưu và 81 người anh em của hắn đánh ở đầu trận, một phía đội quân Hổ, Báo, Gấu, Beo do Hoàng Đế và Viêm Đế chỉ huy làm tiên phong. Căn cứ vào sự miêu tả trên sách cổ thì trận đánh nhau này diễn ra rất kịch liệt, cả hai bên đều mời quỷ thần đến trợ chiến.
Cuộc đại chiến vừa bắt đầu, Hoàng Đế đã ra lệnh cho ứng Long đảm nhận chức Đại tướng, chặt đứt Giang Hà, chuẩn bị thuỷ tai làm cho Suy Vưu chết chìm. Suy Vưu không can tâm tỏ ra yếu đuối, đã sớm mời Phong Bá Vũ Sư tới thổi gió lớn, đổ mưa to. Hoàng Đế thấy Suy Vưu có thể gô gió, gọi mưa, liền nhanh chóng mời nữ thần Hạn Bạt dùng ánh nắng gay gắt và gió bão hanh khô đuổi bay hết gió to, mưa lớn.
Hiệp thứ nhất, Suy Vưu bị thua, liền thi hành một tuyệt chiêu, gây ra sương mù lớn. Sương mù lớn nh làn khói đặc bao phủ kín suốt ba ngày đêm, làm cho người của bộ tộc họ Viêm Hoàng thò tay ra không nhìn thấy năm ngón tay, tất cả đều lạc mất phương hướng, chẳng những không nhìn rõ kẻ thù ở trước mặt, mà ngay tới người của mình đều thất tán lẫn nhau. Hoàng Đế vội sai đại tướng Phong Hởu dựa theo nguyên lý chỉ huy phương hướng của sao Bắc Đẩu chế tạo ra xe chỉ Nam dùng nhận biết phương hướng. Họ dựa vào xe chỉ Nam, nhận biết được đại bản doạnh của Suy Vưu, phát động một cuộc tiến công mãnh liệt. Lúc này Suy Vưu đang đắc ý nhìn làn sương mù dày đặc và cho rằng bộ tộc Hoàng Viêm sẽ bị lạc phương hướng, không nhúc nhích được, thắng lợi đã ở trong tầm tay. Suy Vưu hoàn toàn không thể tưởng tượng nổi quân của Hoàng Đế đã dựa vào sự chỉ dẫn của xe chỉ Nam, lúc này đã xông tới trước mặt đại bản doanh của mình rồi. Suy Vưu trở tay không kịp, cuối cùng đã bị đánh tan và bị bắt làm tù binh.
https://thuviensach.vn
Hoàng Đế bắt được Suy Vưu, sai ứng Long áp giải tới hang Hung Lê, lệnh cho chặt đứt đầu. Hoàng Đế và Viêm Đế còn đem toàn bộ tộc Cửu Lê của Suy Vưu sáp nhập vào bộ tộc Hoàng Viêm. Một số quân của bộ tộc Cửu Lê không chịu đầu hàng, vội vã chạy trốn tới vùng ven biển và hải đảo ở phương Nam. Họ chính là tổ tiên của bộ tộc Lê sau này. Cửu Lê hoặc bộ tộc Lê kỳ thực cũng chỉ là các dân tộc anh em cùng lớn lên trên dải đất Trung Hoa rộng lớn.
Trong truyền thuyết, cuộc đại chiến ở Trác Lộc, được mưu tả rất hoang đường, thế nhưng nó cũng hé ra được một số đầu mối giúp vào việc nghiên cứu sự phát triển của lịch sử nước nhà trong thời Viễn cổ; không những thế, nó còn cho biết, trong thời Viễn cổ, giữa
các bộ tộc hoặc liên minh bộ tộc đã có sự xung đột rất lợi hại, hơn thế đã phát sinh ra những cuộc chiến tranh. Những truyền thuyết đó còn phản ánh rõ cội nguồn sâu xa của các dân tộc Trung Hoa và cội nguồn ấy dần dần được hình thành và phát triển trong cuộc đấu tranh giữa con người với thiên nhiên và trong cuộc đấu tranh giữa bộ tộc với bộ tộc.
https://thuviensach.vn
5. Cộng Công Thị nổi giận húc đổ Bất Chu Sơn Hoàng Đế, sau đó là Chuyên Húc, Đế Khốc, Nghiêu, Thuấn nắm lãnh tụ liên minh bộ lạc này, được các nhà lịch sử học cổ đại tôn xưng là “Ngũ Đế”.
Căn cứ vào truyền thuyết, Chuyên Húc là cháu của Hoàng Đế, bởi vậy ông bắt đầu dựng nước ở Cao Dương (Vùng Đông Nam thành phố Bảo Định, tỉnh Hà Bắc ngày nay) cho nên có tên gọi là Cao Dương Thị. Chuyên Húc là người thông minh, am hiểu nhiều sự kiện, có mưu trí, khéo lợi dụng mê tín quỷ thần để quản chế các thành viên của bộ tộc vốn có uy tín rất cao trong quần chúng. Chuyên Húc từng thị sát qua nhiều địa phương, ở niềm Bắc đã đi qua vùng Hà Bắc hiện nay, ở miền Nam thì đI qua phía Nam Ngũ Lĩnh, ở miền Tây đã đi qua Cam Túc hiện nay, ở miền Đông đi qua một số hòn đảo vùng Đông Hải. Trong các sách sử thời cổ đại viết rằng: Chuyên Húc đi tới đâu, chẳng những được đông đảo quần chúng nhiệt liệt hoan nghênh, thậm chí ngay cả động vật cũng vẫy đuôi, cây cối cũng rung động cành lá biểu thị sự đồng tình đối với ông.
Thế nhưng Chuyên Húc lại làm những việc không được mọi người yêu thích. Truyền thuyết kể rằng ông đã đặt ra một điều pháp quy định khi đi trên đường phụ nữ gặp đàn ông cần phải nhường tránh sang một bên, nếu không, sẽ bị kéo tới ngã tư đường đánh cho một trận nên thân. Điều pháp này tuy chỉ là truyền thuyết, thế nhưng đã nói rõ ở thời kỳ Chuyên Húc đó, địa vị của người phụ nữ đã thấp hơn đàn ông, con người đã từ xã hội thị tộc mẫu hệ quá độ tới xã hội thị tộc phụ hệ, ở trong xã hội nam giới được hưởng uy quyền lớn.
https://thuviensach.vn
Cùng với Chuyên Húc còn có một người tên là Cộng Cộng Thị, bản lĩnh cũng rất cao cường.
Theo truyền thuyết Cộng Công Thị họ Khương, là con cháu đời sau của Viêm Đế. Cộng Công Thị thông minh, có sức khoẻ, am hiểu nhiều công việc sản xuất. Ông rất vui lòng làm những công việc vì lợi ích chung. Lúc đó, loài người chủ yếu theo đuổi sản xuất nông nghiệp, sau Thần Nông, Cộng Công Thị là người đã có nhiều cống hiến trong việc phát triển nông nghiệp.
Cộng Cộng Thị có một con trai, tên gọi là Hởu Thổ, cũng rất hiểu biết về nghề nông. Để phát triển sản xuất nông nghiệp, hai cha con đã khảo sát tình hình đất đai chín châu thời cổ đại- chín châu đó là Ký, Duyện, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Dự, Lương, Ung. Đông đảo quần chúng của chín châu này rất hoan nghênh Cộng Công Thị và Hậu Thổ. Dân chúng tôn xưng Hậu Thổ là Xã Thần, cũng chính là thần Thổ Địa, tôn xưng Cộng Công là Thuỷ Sư, cũng chính là thần quản lý Thuỷ lợi.
Cộng Công và Hậu Thổ khảo sát xong tình hình đất đai của chín châu thì cho rằng họ có địa phương thế đất quá cao, không thể dùng nước tưới tắm được, có nơi thế đất lại quá thấp, dễ bị ngập lụt, bất lợi cho sản xuất nông nghiệp. Do vậy. Cộng Công đã đặt ra kế hoạch: san bằng đất cao, lấp vùng đất trũng. Ông cho rằng đào đất ở vùng cao lấp xuống vùng đất trũng thì có thể phát triển trồng trọt được trên một dải đất rộng lớn, và đương nhiên là có thể phát triển được sản xuất nông nghiệp.
Thế nhưng Chuyên Húc không đồng ý để Cộng Công Thị làm như vậy. Ông cho rằng bản thân mình có quyền uy, chí cao vô thượng, toàn thể bộ tộc đều phải tuyệt đối tuân theo sự chỉ huy của một mình ông, không cho phép Cộng Công Thị đề xuất ý kiến. Ông lấy lý do là Trời không thuận để ngăn cản Cộng Công san bằng
https://thuviensach.vn
đất đai. Vì tranh đoạt quyền lãnh đạo bộ tộc, giữa Chuyên Húc và Cộng Công đã có những cuộc đụng chạm rất gay gắt.
Về lực lượng, Cộng Công Thị mạnh hơn nhiều so với Chuyên Húc, về mưu trí thì Cộng Công Thị lại không sánh kịp Chuyên Húc. Chuyên Húc liều lĩnh tuyên truyền mê tín quỷ thần, hù doạ quần chúng, bắt quần chúng không được giúp đỡ Cộng Công Thị. Lúc đó, sức sản xuất xã hội rất thấp, con người còn rất mê tín, rất nhiều người đã mắc lừa Chuyên Húc, lo sợ để Cộng Công Thị san bằng đất đai, sẽ làm cho quỷ thần giận dữ, sẽ dần tới tai nạn, nên đều đứng cả về phía Chuyên Húc.
Thế nhưng, Cộng Công Thị đã có đầy đủ niềm tin kiên cường. Ông nhận định rằng chủ trương san bằng đất đai của mình là chính xác, cho nên quyết không chịu thua. Dù cho quần chúng đã bị Chuyên Húc lừa bịp, không hiểu rõ ông, không giúp đỡ ông, ông vẫn quyết định hy sinh tính mạng để thực hiện lý tưởng của mình, đột nhiên Ông đập mạnh đầu vào Bất Chu Sơn cao ngất tầng mây, lởm chởm những đá, (Bất Chu Sơn tức là Côn Lôn Sơn hiện tại), đúng vào đỉnh chóp núi Bất Chu, để san bằng vùng đất Trũng ở quanh núi.
Bất Chu Sơn bị Cộng Công Thị bất ngờ lao mạnh, lập tức bị gẫy gập ngang lưng, đất đá đổ xuống rào rào. Trong giây khắc cả bầu trời đột nhiên chao đảo lắc lư, toàn bộ mặt đất bị rung rinh rất mạnh. Vốn là núi Bất Chu này là cây cột chống giữa trời và đất. Cột chống trời bị gẫy, sợi dây thừng buộc chặt trời và đất bị đứt, trái đất nghiêng đổ về phía Tây Bắc, mặt trời mặt trăng và các ngôi sao mỗi ngày đều mọc lên từ phương Đông, rồilặn về phương Tây. Bởi mặt đất đổ về hướng Đông Nam, nước của sông lớn nhỏ đều cuộn cuộn chảy ra biển cả theo hướng Đông. Đầu Cộng Công Thị tưởng muốn vỡ ra, mắt nổ đom đóm, thế nhưng ông đã húc đổ được Bất Chu Sơn, tạo thành một vùng bình nguyên rộng lớn, rất có lợi cho
https://thuviensach.vn
việc sản xuất nông nghiệp ở phương Bắc Trung Quốc. Trong cuộc đấu tranh với Chuyên Húc, Cộng Công Thị đã trở thành một vị anh hùng giành thắng lợi khiến cho muôn dân phục.
Truyện Cộng Công Thị tranh giành quyền lãnh đạo với Chuyên Húc, giận dữ đụng tới Bất Chu Sơn đã lưu truyền trên hai nghìn năm nay. Truyền thuyết này đã chứng tỏ tổ tiên người Trung Quốc muốn giải đáp rất nhiều vấn đề: tại sao mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao đều mọc ở phương Đông lặn về phương Tây, tại sao Đại giang Đại Hà đều từ phía Tây chảy về phía Đông, tại sao khu vực Hoa Bắc lại có đồng bằng rộng lớn v.v.. Bởi chưng họ chưa có đủ tri thức khoa học để giải đáp vấn đề này, mà chỉ dùng sức tưởng tượng phong phú thêu dệt ra truyền thuyết, thần thoại giống như kiểu Cộng Công Thị húc đổ Bất Chu Sơn đầy thú vị kia.
https://thuviensach.vn
6. Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn
Chuyên Húc ở ngôi được 78 năm, khi 91 tuổi thì qua đời; Đế Khốc kế tiếp địa vị của Chuyên Húc. Đế Khốc tên là Tuấn, bởi lúc đầu đặt cơ sở ở Tân (gần huyện Hợp Dương, tỉnh Thiểm Tây ngày nay), cho nên còn có tên gọi là Cao Tân Thị. Từ năm 15 tuổi Đế Khốc đã phó tá Chuyên Húc, năm lên ngôi đã 30 tuổi. Đế Khốc là con người chí công vô tư, biết xét rõ thiện ác. Khi tại vị ông biết tự nghiêm khắc với mình, nên người trong thiên hạ đều rất tín phục. Đế Khốc ở ngôi 70 năm, tới năm 105 tuổi mới qua đời, con trai ông là Chí tiếp ngôi. Bởi Chí hoang dâm vô độ, không biết tu sửa thiện chính, chín năm sau bị phế truất, Nghiêu được tiến cử làm lãnh tụ của liên minh bộ lạc.
Nghiêu họ Y Kỳ, tên là Phóng Huân, hiệu Đào Đường Thị, gọi tắt là Đường Nghiêu. Trong sách cổ nói Nghiêu rất giỏi trị thiên hạ. Nghiên hạ lệnh cho Hi và Hoà quản lý Thiên Địa, sai Hi Trọng, Hi Thúc, Hoà Trọng, Hoà Thúc lần lượt nắm giữ bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Ông còn đặt ra lịch pháp, quy định một năm có 366 ngày, chia thành 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, khiến cho nghề nông, nghề chăn nuôi, nghề đánh bắt cá và săn thú đều có thể căn cứ vào mùa tiết mà sắp xếp việc sản xuất.
Bắt đầu từ năm 16 tuổi Nghiêu đã cai trị thiên hạ, ở ngôI 70 năm. Đến năm 86 tuổi, sức đã yếu, ông muốn tìm một người thay thế. Ông phát công báo đi khắp nơi, kêu gọi tiến cử người có tài năng. Không lâu, mọi người tiến cử Ngu Thuấn, mội chàng trai tài giỏi, có thể kế thừa được.
Truyền thuyết nói rằng Ngu Thuấn họ Diêu, tên là Trùng Hoa, người Ký Châu (một vùng trong tỉnh Hà Bắc ngày nay). Cha của Ngu Thuấn bị mù, mẹ mất sớm. Người cha mù lại lấy vợ lẽ, đó
https://thuviensach.vn
chính là mẹ kế của Ngu Thuấn. Mẹ kế sinh được một người con trai đặt tên là Tượng. Tượng là một tên ma cà bông, hay ăn, biếng làm, lại vô cùng ngạo mạn, thường xuyên nũng nịu trước mặt cha mẹ, nói xấu người anh cùng cha khác mẹ là Ngu Thuấn. Người cha mù rất cưng chiều đứa con nhỏ là Tượng ấy, không thích đứa con lớn do vợ trước sinh ra là Ngu Thuấn. Hai vợ chồng già và Tượng thường ngồi lại bàn mật mưu, tìm cơ hội giết hại Ngu Thuấn, để một mình Tượng được thừa kế toàn bộ tài sản của cha mẹ. Ngu Thuấn không hề để ý. Ngu Thuấn rất hiếu thuận với người cha mù của mình, đối xử với mẹ kế và người em khác mẹ cũng rất tốt.
Đường Nghiêu nghe xong lời giới thiệu của mọi người, liền quyết định trước hết phải thử thách Ngu Thuấn, xem thử Ngu Thuấn có đầy đủ tư cách xứng đáng làm người thừa kế của mình không. Nghiêu đã đem hai người con gái của mình là Nga Hoàng và Nữ Anh gả cho Ngu Thuấn, rồi sai Ngu Thuấn tới các nơi để hoà nhập cùng với quần chúng.
Sau khi kết hôn Ngu Thuấn đem hai người vợ cùng đi trồng cấy, vẫn giữ hiếu thuận với cha mẹ và quan tâm đến em như xưa. Danh tiếng của Ngu Thuấn ngày càng lẫy lừng, mọi người đều nói Thuấn là một con ngoan, chồng tốt, anh hiền.
Ngu Thuấn tới chân núi Lịch cày cấy trồng trọt. Những người nông dân ở đó vì tranh giành đất đai mà gây chuyện xích mích dằng dai, không sao chấm dứt được. Có Ngu Thuấn bên cạnh, họ đã biết nhường nhịn lẫn nhau, giúp đỡ nhau, công việc sản xuất trở nên rất tốt. Ngu Thuấn tới vùng đất Lôi Trạch bắt cá, vốn dĩ ngư dân ở đây thường xuyên vì tranh chấp nhà cửa mà đánh nhau đến nỗi vỡ đầu chảy máu. Ngu Thuấn vừa đến, các ngư dân liền nhường nhà cửa cho nhau, hoà thuận như những người trong một gia đình. Ngu Thuấn tới bờ sông đốt lò nung gốm. Những người làm gốm ở đây từ trước vốn làm ăn cẩu thả, chất lượng đồ gốm rất
https://thuviensach.vn
kém, nay đã chịu khó làm việc, những đồ gốm chế tạo ra rất tinh xảo, đẹp đẽ. Mỗi khi Ngu Thuấn tới địa phường nào thì người nơi đó đều bám theo, chỉ một năm trời, ở đó đã hình thành thôn làng, hai năm hình thành phố xá, ba năm hình thành thành thị.
Đường Nghiêu chứng kiến thành tích tốt như vậy của Ngu Thuấn, lại được quần chúng ủng hộ nhiệt thành, lẽ dĩ nhiên cảm thấy rất vui mừng, bèn ban thưởng cho Ngu Thuấn một bộ quần áo mới và một cây đàn, còn xây dựng cho Ngu Thuấn một kho chứa lương thực, tặng Thuấn cả một đàn trâu và cừu.
Người cha mù và em trai Tượng của Ngu Thuấn nghe nói Thuấn được nhiều thứ như vậy, lại sinh lòng dạ xấu xa. Người cha mù sai Thuấn trèo lên đỉnh kho thóc lợp lại mái, đoạn ở dưới phóng lửa đốt muốn thiêu chết Thuấn đi. May mà âm mưu này đã sớm bị Nga Hoangà và Nữ Anh phát hiện, các nàng dặn dò Thuấn đem theo hai chiếc nón lên làm việc ở đỉnh kho. Thuấn nhìn thấy ở dưới bốc lửa, vội vã mỗi tay cầm một chiếc nón, giống hệt như trải rộng đôi cánh nhảy xuống đất, thoát khỏi nguy hiểm. Người cha mù và Tượng thấy kế đó không thành lại thi hành kế khác. Sau mấy ngày, người cha mù sai Thuấn đi đào giếng và khi đón chắc giếng đã đào rất sâu rồi, liền đổ đất, đổ đá xuống, muốn chôn sống Thuấn. Họ không biết rằng ở dưới đáy giếng, Thuấn đã làm thêm một ổ ngách để nghỉ. Giếng bị lấp rồi, Thuấn lại đào một cửa ra theo lối ổ ngách, trèo lên thoát ra ngoài. Tên ma cà bông Tượng cho rằng nhất định Thuấn đã chết ở dưới đáy giếng liền chạy vào phòng của Ngu Thuấn, ngồi ở trên giường của Ngu Thuấn gảy đàn kêu tích tịch tình tang. Bỗng Tượng ngẩng đầu lên nhìn thấy Thuấn trở về, thì bàng hoàng thất kinh, vội giả bộ thương xót, nói:
- Anh ơi! Em đang nhớ anh đây. Anh đào giếng thế nào mà mãi chẳng thấy về, làm cho em nhớ muốn chết!
https://thuviensach.vn
Thuấn không hề oán trách em, trái lại đã nói:
- Em tốt quá, em quan tâm tới anh như vậy, thật đúng là người em ruột thịt cùng cha sinh ra.
Đường Nghiêu nghe nói Ngu Thuấn độ lượng khoan hồng như vậy, nên càng yên tâm đối với Thuấn, liền đem đại quyền cai trị thiên hạ giao cho Thuấn, còn mình thì đem theo một đoàn người tới các nơi thị sát. Ngu Thuấn nắm đại quần cai trị thiên hạ được hai mươi năm, mọi việc đều sắp xếp đàng hoàng nền nếp khiến người trong thiên hạ đều vô cùng bái phục. Lúc này, Đường Nghiêu đã hơn một trăm tuổi rồi, sau khi Nghiêu đi thị sát trở về, liền đem toàn bộ chức quyền lãnh tụ của liên minh bộ lạc nhường lại hết cho Ngu Thuấn, bản thân thì lùi về phía sau dưỡng già. Điều này được lịch sử gọi là “Nghiêu Thuấn thiện nhượng”- Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn.
Ngu Thuấn đảm nhiệm chức lãnh tụ được tám năm thì Nghiêu qua đời.Thuấn càng cần cù phấn đấu làm việc, cai trị thiên hạ càng tốt hơn so với thời Nghiêu.
Vào những năm cuối đời, Thuấn cũng đi thị sát các nơi. Lần cuối cùng ông đi tuần tra khu vực Thương Ngô (vùng Đông Bắc khu tự trị tộc Choang, tỉnh Quảng Tây và vùng phía Nam tỉnh Hồ Nam ngày nay) thì mắc bệnh qua đời. Hai người vợ của ông là Nga
Hoàng và Nữ Anh vô cùng thương nhớ ông, thường tựa vào cây trúc trước cửa khóc lóc bi ai, nước mắt của các bà giỏ trên cây trúc, ngưng đọng kết thành những chấm hoa văn loang lổ rất đẹp. Loại cây trúc có hoa văn vàng này về sau được nhân dân gọi là Tương phi trúc, kỳ thực chính là Ban trúc.
Câu chuyện Nghiêu nhượng ngôi cho Thuấn, đã được lưu truyền suốt mấy nghìn năm. Thời đó không để lại bất kỳ ghi chép văn tự
https://thuviensach.vn
nào, cho nên chỉ là truyền thuyết. Câu chuyện này nói rõ tổ tiên Trung Hoa ta lúc đó còn ở hậu kỳ xã hội nguyên thuỷ, không có giai cấp, lãnh tụ của liên minh bộ lạc do tuyển chọn mà ra, lãnh tụ không có các chức vụ và quyền lực đặc quyền của riêng. Thế nhưng lúc đó cũng đã bắt đầu xuất hiện một bộ phận tư hữu tài sản. Chuyện nông dân ở Lịch Sơn tranh giành đất đai, ngư dân ở Lôi Trạch tranh giành nhà cửa, Nghiêu đem bò, cừu, tài sản thưởng cho Thuấn, người cha mù và Tượng muốn chiếm đoạt tài sản của Ngu Thuấn v.v… đều minh chứng rõ xã hội nguyên thuỷ đã dần dần quá độ sang xã hội nô lệ, chế độ tư hữu đang từng bước hình thành.
https://thuviensach.vn
7. Đại Vũ trị thuỷ
Truyền thuyết kể rằng khi Nghiêu đang ở ngôi, trên đất đai Trung Quốc đã phát sinh thảm họa lũ lụt cực kỳ to lớn. Nước lụt xô đổ nhà cửa, làm nghập hết hoa màu, làm thiệt rất nhiều sinh mạng. Để giải trừ nỗi khổ sở cho dân chúng, Nghiêu kêu gọi tiến cử người có tài năng để đi trị nạn hồng thuỷ. Mọi người tiến cử ông Cổn đi làm việc này. Cổn trị thuỷ suốt chín năm trời, sử dụng phương pháp đắp đê ngăn nước, cứ ngăn đi ngăn lại mãi, bên này ngăn được thì đê bên kia lại bị phá vỡ. Kết quả là mệt dân, tốn của, chẳng đem lại kết quả gì. Nghiêu lại sai Thuấn đi kiểm tra công việc của Cổn. Thuấn nhìn thấy Cổn bố tay vô sách trước nạn đại hồng thuỷ, làm lỡ việ lớn, liền xử tử Cổn, rồi lại hạ lệnh cho em trai của Cổn là Vũ tiếp tục trị nạn hồng thuỷ.
Vũ họ Tự, sống cách hiện tại khoẩng trên bốn nghìn năm, là một người vô cùng tài ba. Vũ là ông vua đầu tiên của triều nhà Hạ, do lập được công lao to lớn trong việc trị thuỷ nên lịch sử gọi ông là Hạ Vũ hoặc Đại Vũ. Hạ Vũ là người thông minh cần lao, với mọi người hoà nhã thân thiết, rất giữ chữ tín, nhất cử nhất động đều nêu gương tốt cho dân chúng noi theo.
Sau khi Hạ Vũ tiếp nhận nhiệm vụ trị thuỷ, ông đã quyết định trước hết phải tiến hành khảo sát thực địa. Ông dẫn đầu ích Hậu Tắc và số đông trợ thủ, đi khắp các khu vực bị thuỷ tai trong khắp chín châu của đất nước lúc đó, trèo đèo lội suối, đo đạc thế đất cao thấp, lần lượt xác định các cột gỗ làm tiêu chí, sau đó căn cứ vào những tư liệu đã điều tra được lập ra kế hoạch trị thủy. Hạ Vũ và những người giúp việc đem theo các dụng cụ thô sơ như rìu đá, xẻng đá, liềm bằng xương v.v... tới các khu vực bị thuỷ tai nghiêm trọng nhất, từ đó bắt đầu công việc trị thuỷ.
https://thuviensach.vn
Để tiêu trừ tai hại của hồng thuỷ, Hạ Vũ và những người giúp việc vất vả long đong lật đật ở bên ngoài suốt 13 nâm trời. Họ phải ăn những thức ăn thô tạp, mặc quần áo cũ, vá chằng vá chịt, ban đêm thường xuyên ngủ ngoài đồng rải lá khô thay giường, làm chăn. Mùa hè, những người trị thuỷ lao động dưới trời mưa to, mùa đông đội gió lạnh làm lụng, đổ máu, đổ mồ hôi, có cả sự hi sinh rất lớn. Có người ngã trên đỉnh núi, xác được chôn ngay trên đỉnh núi. Có người chết đuối bên sông cũng được thuỷ táng ngay trên sông. Sau khi tiến hành nghi thức giản đơn để tỏ lòng thương tiếc, những người còn sống lập tức lao vào công việc lao động khẩn trương.
Hạ Vũ là thủ lĩnh của các công trình trị thuỷ, ông đã nêu tấm gương rất tốt cho nhân dân. Trên tay ông mọc đầy chai cứng, chân ông chằng chịt các vết sẹo, mặt khụng kịp rửa, trâm cài tóc rơi cũng chẳng kịp nhặt lên, thường xuyên làm việc vất vả, mặt bẩn, đầu rối. Do ngâm mình ở trong nước quanh năm suốt tháng, ngón chân ông đã rụng hết, lông mọc trên dóng chân cũng sạch trơn. Những người dưới quyền ông thấy ông như vậy ai nấy đều cảm động rơi nước mắt.
Trong vòng 13 nâm trị thuỷ, Hạ Vũ đã từng có ba lần đI qua trước cửa nhà mình mà không kịp vào thăm, dù là chốc lát. Lần thứ nhất đi qua cửa nhà ông nghe tiếng khóc oa oa của đứa con trai, vợ ông do lao động khổ sở cũng đam rên rỉ. Những người giúp việc đều khuyên ông vào nhà thăm vợ con, ông sợ làm lỡ dở công việc, nên đã lắc đầu. Khi đI qua cửa nhà mình lần thứ hai, đứa con trai nằm trong lòng mẹ đã biết cất tiếng gọi cha, gắng sức giơ bàn tay nhỏ bé vẫy gọi ông. Hạ Vũ tràn đầy tình cẩm vẫy tay chào vợ con, biểu thị rằng ông đã nhìn thấy họ, song ông vẫn không bước vào nhà. Lần thứ ba khi đi qua trước cửa nhà mình, đứa con trai đã hơn mười tuổi, chạy ra gọi cha, cố sức kéo tay ông vào trong nhà. Hạ Vũ thương yêu
https://thuviensach.vn
trìu mến sờ lên đầu con, dặn con nói với mẹ rằng: “Công việc trị thuỷ rất bận, không có thời gian rỗi để vào nhà”. Rồi vội vã ra đi.
Công việc trị thuỷ không những vô cùng gian nan vất vả, mà cũng rất nguy hiểm. Có một lần, Hạ Vũ dẫn một số lớn người giúp việc tới bên bờ một dòng sông thuộc tỉnh Sơn Đông ngày nay, vừa định đo đạc độ sâu của nước, đột nhiên một cơn lũ thường nguồn cao tới mấy trượng ào ào đổ xuống, trong nháy mắt đã cuốn trôi đi mất mấy chục người. Những người giúp việc Hạ Vũ vô cùng kinh sợ, họ tranh nhau lên chỗ cao, để tránh tổn thất. Thời cổ những người giúp việc thủ lĩnh gọi là các đồ đệ, dòng sông này là nơi các đồ đệ luôn bị nỗi kinh hãi đe doạ, nên về sau nhân dân đã đặt tên con sông này là Đồ Hãi.
Trái ngược lại với cách làm của Cổn, trong công việc trị thuỷ, Hạ Vũ đã sử dụng một loạt các phương pháp chính xác: đào núi khơi ngòi, khai thông dòng chảy dẫn nước lụt đổ vào Đại Giang Hà, sau đó đổ ra biển cả. Lúc đó, ở giữa Hạ Tân Sơn Tây và Hàn Thành Thiểm Tây ngày nay là một dải núi cao, vừa hay chặn đứng được dòng chảy của Hoàng Hà. Nước sông hung hãn tới đây không tìm được lối thoát nên lòng sông ứ tràn ra bốn phía, đất đai rộng lớn ở hai bên bờ sông luôn ngập chìm trong biển nước mênh mông. Hạ Vũ cho rằng nơi đây chính là điểm mấu chốt của việc trị thuỷ, liền quyết định đào một cửa mở, tìm cho Hoàng Hà một dòng chảy. Trải qua lao động vô cùng gian nan vất vả, núi cũng đã đục thông, nước Hoàng Hà gầm thét điên cuồng có đường thông chảy, liền qua cửa mở, nhanh chóng chảy xuống hạ lưu. Để kỷ niệm công lao Hạ Vũ người đời sau đã gọi ngọn núi này là Long Môn Sơn, gọi cửa mở này là Vũ Môn Khẩu.
Hạ Vũ không chỉ cần cù nước lụt mà còn chỉ đạo nhân lợi dụng đất và nước như thế nào để phát triển sản xuất nông nghiệp. Ông đã sai ông ích đem thóc giống phát cho dân chúng, dạy dân chúng
https://thuviensach.vn
trồng cấy lúa nước ở vùng đất trũng. Lại sai Hậu Tắc đem một số hạt giống cây trồng phát cho dân chúng ở vùng có thuỷ tai dạy họ trồng cấy, thu hoạch lương thực và trái cây, tránh được nạn đói. Hạ Vũ còn sai người thông thương giữa nơi có và nơI không để điều hoà sản vật giữa các nơi. Tai nạn hồng thuỷ uy hiếp sự an toàn tính mệnh tài sản của nhân dân đã bị tiêu trừ, sản xuất nông nghiệp cũng được phát triển triển mẽ.
Về chuyện Hạ Vũ trị thuỷ mà chúng ta biết được ngày nay là do người đời sau kể lại, không có văn tự ghi chép, do vậy chỉ có thể nói là một loại truyền thuyết. Truyền thuyết Hạ Vũ trị thuỷ bảo cho chúng ta biết: thuỷ tai là tai hoạ thiên nhiên rất nghiêm trọng trong lịch sử. ở thời đại Viễn cổ, sức sản xuất còn thấp, để chiến thắng thuỷ tai, con người đã từng có những hi sinh cực kỳ to lớn. Mọi người mong muốn có một vị lãnh tụ quan tâm đến những nỗi đau khổ của quần chúng, lại rất có tài năng như Hạ Vũ để lãnh đạo nhân dân đấu tranh với thủy tai. Truyền thuyết này cũng nói cho chúng ta biết rằng: ở thời đại Viễn cổ, con n gười đã có thể nhận thức được đặc tính của nước, hiểu biết được quy luật hồng thuỷ tràn ngập, hơn nữa còn biết dùng những công cụ nguyên thuỷ để chiến thắng nạn lụt, biến thuỷ tai thành thuỷ lợi, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
https://thuviensach.vn
Hạ - Thương - Tây Chu
Ba triều đại Hạ, Thương, Chu là thời kỳ xây dựng, phát triển rồi dần dần suy tàn của xã hội nô lệ Trung Quốc. Xã hội nô lệ là xã hội tiến bộ hơn xã hội nguyên thuỷ, lại là xã hội đầu tiên hình thành giai cấp, có người bóc lột người, có người áp bức người. Nó được xuất hiện dần dần hình thành theo chế độ tư hữu tài sản ở cuối xã hội thị tộc phụ hệ. Triều Hạ ở vào khoảng năm 2200 đến năm 1700 trước Công nguyên. Triều Thương ở vào khoẩng năm 1700 đến năm 1100 trước Công nguyên. Triều Chu phân ra Tây Chu và Đông Chu. Tây Chu từ năm 1100 đến năm 771 trước Công nguyên.
Triều Hạ đã xác lập chế độ truyền ngôi vua theo kiểu thế tập cha truyền con nối, bộ máy nhà nước có quân đội, hình pháp, nhà tù v.v... đã có nền nông nghiệp lợi dụng ngòi lạch để tưới tiêu, đã có lịch pháp có quan hệ rất mật thiết với sản xuất nông nghiệp, đã có
thể đúc được những công cụ bằng đồng đen như đỉnh, tước1, dao, dùi, đục v.v...Có khả năng đã có văn tự, thế nhưng cho đến nay vẫn chưa phát hiện những ghi chép văn tự thành thiên. Việc sử dụng nô lệ còn rất phổ biến ở Triều Hạ.
Bộ máy nhà nước theo chế độ nô lệ triều Thương so với triều Hạ được tăng cường mạnh mẽ hơn, việc sử dụng nô lệ tương đối phổ biến hơn, nông nghiệp phát đạt hơn triều Hạ, đã có thể sản xuất được nhiều loại cây lương thực, đã biết dùng lương thực ủ rượu, các loại rau dưa và cây dâu cũng đã được trồng rộng rãi. Thủ công nghiệp phát đạt, nhấn là nghề đúc đồng đen, thứ nữa là nghề làm gốm và dệt vải. Triều Thương đã có văn tự tương đối hoàn hảo, biết khắc chữ trên mai rùa và xương thú, gọi là Giáp Cốt văn. Trong Giáp Cốt văn có ghi chép không ít các tư liệu về chính trị,
https://thuviensach.vn
kinh tế, văn hoá, quân sự v.v... bên cạnh đó là những tư liệu về các cuộc khởi nghĩa của nô lệ.
Tây Chu đã có một hệ thống chính trị của chế độ nô lệ, đó chính là Thiên tử - Chư hầu- Đại phu. Thiên tử là người thống trị tối cao, đất đai và nhân dân toàn quốc đều là vật sở hữu của thiên tử. Thiên tử dùng biện pháp phong hầu dựng nước giao cho chư hầu và đại phu của họ thống trị. Nền nông nghiệp của Tây Chu càng phát đạt hơn triều Thơng, khi đã biết dùng phân bón để tăng thêm sản lượng lương thực. Nghề thủ công vẫn lấy nghề đúc đồng đen, làm gốm và dệt vải làm chính. Văn tự được khắc nhiều trên đồng đen được gọi là Kim văn hoặc Chung đỉnh văn. Ghi chép trong Kim văn có những tư liệu về lịch sử và chế độ Lễ Nhạc, đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc. Người đời sau căn cứ vào các loại ghi chép này chỉnh lý thành mấy bộ điển tịch lịch sử nổi tiếng.
https://thuviensach.vn
8. Cha mất, con kế thừa thiên hạ
Hạ Vũ hoàn thành nhiệm vụ trị thuỷ, được chỉ định thừa kế Ngu Thuấn. Sau 17 năm, Thuấn qua đời, Hạ Vũ chính thức làm lãnh tụ của liên minh bộ lạc. Đây chính là sự mở đầu của triều Hạ. Triều Hạ là triều đại đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, Hạ Vũ là vị vua đầu tiên của triều Hạ.
Biên cương của triều Hạ đã vượt qua phạm vi của lưu vực Hoàng Hà. ở phía Nam thế lực của triều Hạ đạt thắng tới lưu vực Trường Giang, đã đánh bại tộc Miêu bản địa, bắt sống được rất nhiều người Miêu bổ sung làm nô lệ. Người tộc Miêu bị bức phảI dời tới một vùng thuộc Quý Châu phía Tây Nam. ở phía Đông Nam, thế lực của triều Hạ đạt thẳng tới vùng Triết Giang. Truyền thuyết kể rằng Hạ Vũ đã từng triệu tập đại đội thủ lĩnh các bộ tộc ở Cối Kê (thành phố Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang ngày nay), Phòng Phong Thị đến chậm, Hạ Vũ liền giết chết Phòng Phong Thị.
Còn có một truyền thuyết nói rằng: để kỷ niệm việc đại sự trị hồng thuỷ này, Hạ Vũ đã dùng quặng đồng sản xuất ở chín châu lúc đó, đúc chín chiếc đỉnh, đại biểu cho chín châu. Chín chiếc đỉnh này về sau trở thành tượng trưng cho chính quyền quốc gia. Nếu truyền thuyết có độ tin cậy, thì khi triều Hạ được lập ra người ta đã sản xuất được đồ dùng rồi, thế nhưng hiện nay vẫn chưa khai quật được văn vật chứng thực.
Hạ Vũ đến những năm cuối đời, cũng giống như Nghiêu và Thuấn, muốn tìm người hiền tài thừa kế của mình. Đầu tiên mọi người tiến cử Cao Dao. Cao Dao mất sớm, lại tiến cứ con trai của Cao Sao là Bá ích thừa kế ngôi vua, thế nhưng con trai của Hạ Vũ là Hạ Khởi không làm vậy. Hạ Khởi tuyên bố rằng thiên hạ là do Hạ Vũ, người cha của ông vất vả, khổ sở mới giành được, nay đã trở
https://thuviensach.vn
thành tài sản riêng của gia đình họ. Cha chết rồi, tài sản riêng đó cần phải được truyền lại cho con trai, cho nêne ngôi vua cần phải do Hạ Khởi kế thừa. Hạ Khởi dùng vũ lực đuổi Bá ích tới Kỳ Sơn ở phía Nsam, sau đó cử hành yến tiệc đại quy mô ở Quân Đài (huyện Vũ, tỉnh Hà Nam ngày nay), công khai tuyên bố mình làm vua thứ hai của triều Hạ. Từ đó trở đi, chế độ tuyển chọn người hiền tài làm vua thiên hạ, biến thành chế độ thiên hạ là của riêng gia đình, cha chết con kế ngôi hoặc anh chết em kế ngôi.
Chế độ thiên hạ là của chung đã bịphá bỏ, lẽ dĩ nhiên sẽ bị một số người phản đối. Có một thủ lĩnh bộ lạc tên gọi là Hữu Hồ Thị chỉ trích Hạ Khởi không nên cướp đoạt ngôi vua của Bá ích, yêu cầu Hạ Khởi lập tức trả lại ngôi vua cho Bá ích. Hạ Khởi liền khởi binh đánh Hữu Hồ Thị ở vùng Cam Trạch. Trận thứ nhất, quân lính của Hạ Khởi bị Hữu Hồ Thị đánh thua tơi bời, hầu như đã bị sụp đổ toàn diện. Các thần tử của Hạ Khởi kiến nghị với Hạ Khởi hãy mau mau bổ sung quân lính, chỉnh đốn lại quân dụng, chuẩn bị cuộc chiến đấu thứ hai. Thế nhưng Hạ Khởi biết được có rất nhiều người không tán thành giải pháp cha chết, con kế thừa, không chịu ủng hộ mình, lúc này cho dù có đánh trận nữa, thắng lợi vẫn chưa thể cầm chắc, nếu muốn giành thắng lợi, trước tiên phải lôi kéo được lòng dân, để cho dân chúng biết được Hạ Khởi là hiền tài, việc kế thừa ngôi vua là điều rất hợp lý.
Tức thì Hạ Khởi để ra yêu cầu tự mình nghiêm khắc với mình để giành lấy sự tín nhiệm rộng rãi của nhân dân. Cơm chỉ ăn một bát với rau dưa bình thường, ngủ chỉ trải một chiếc đệm cũ thô ráp. Ngoài việc tế thần và tế tổ tiên ra, Hạ Khởi không cho phép diễn tấu âm nhạc để làm trò vui. Hạ Khởi yêu quý trẻ em, tôn kính người già. Ai có tài năng, Hạ Khởi trọng dụng. Ai giỏi võ nghệ, liền được mời ra cầm quân đi đánh trận.
https://thuviensach.vn
Cách Hạ Khởi mua chuộc lòng dân như vậy, quả thực đã có hiệu quả, mới một năm, thanh danh của ông nổi như cồn. Mọi người từng nói rằng: “Hạ Khởi thật không thẹn là người con ngoan của Hạ Vũ. Hãy xem, ông ta tự nghiêm khắc với mình thế kia, đối xử với người nhiệt tình biết bao, thật là có lẽ phép. Xem ra, thiên hạ cần phải để một người như ông cai trị. Sau này, nếu có ai còn tranh giành ngôi vua với ông thì chúng ta phải dốc toàn lực ra bảo vệ ông!” Cứ như vậy, một truyền mười, mười truyền trăm, mọi người đều không hẹn, ai cũng cho rằng Hạ Khởi là người kế thừa đương nhiên của Hạ Vũ. Đối với chế độ thiên hạ là của riêng gia đình cha chết con nối ngôi, không ai còn cảm thấy bất hợp lý nữa.
Hạ Khởi biết lòng dân đã ngả hẳn về phía mình, lại một lần nữa phát động cuộc chiến tranh với Hữu Hồ Thị. Lần này, dân chúng giúp đỡ Hạ Khởi đánh cho quân của Hữu Hồ tan nát. Bản thân Hữu Hồ cũng bị bắt làm tù binh, rồi bị dẫn tới khu đồng cỏ làm nô lệ chăn bò, chăn cừu. Cuối cùng, ngôi vua của Hạ Khởi đã vững vàng, chắc chắn, chế độ thiên hạ là của riêng gia đình cha truyền con nối đã chính thức được thiết lập.
Truyền thuyết Hạ Khởi thực hành chế độ thiên hạ là của riêng gia đình đã nói rõ chế độ Công xã thị tộc vào cuối thời kỳ xã hội nguyên thuỷ ở Trung Quốc đã bị phá hoại triệt để, chế độ tài sản tư hữu đã chính thức được xác lập, giai cấp bắt đầu xuất hiện, xã hội nô lệ bắt đầu hình thành, mô hình nhà nước cũng xuất hiện. Từ biểu hiện mà xét, từ chế độ Cộng sản nguyên thuỷ không có áp bức bóc lột quá độ tới xã hội nô lệ có áp bức bóc lột,giống như một chế độ xấu xa đã thay thế một chế độ tốt đẹp. Kỳ thực là ở xã hội nguyên thuỷ sản xuất rất thấp kém, đời sống của con người cực kỳ gian khổ. Sau khi bước vào xã hội nô lệ, nông nghiệp và thủ công nghiệp đã có sự phân công, sức sản xuất xã hội đã được nâng cao rất nhiều, sản xuất phát triển rất mạnh, đó là điều kiện cho sự
https://thuviensach.vn
phồn vinh của văn hoá. Cho nên nói, từ xã hội nguyên thuỷ bước vào xã hội nô lệ là sự tiến bộ của một lần phân hoạch thời đại trong lịch sử nhân loại. ăngghen, người thày của cách mạng đã nói:: “Không có chế độ nô lệ cổ đại thì không có chủ nghĩa xã hội hiện đại”.
https://thuviensach.vn
9. Thiếu Khang phục quốc
Hạ Khởi đã phế bỏ chế độ nhường ngôi, tạo ra chế độ thế tập cha truyền con nối. Ông không lường khi ông về già, mấy người con trai của ông đều muốn kế thừa ngôi vua, do đó, trong gia đình ông đã xảy ra sự tranh đoạt ghê gớm. Hạ Khởi thấy người con nhỏ nhất là Vũ Quan gây lộn rất hăng, liền đày tới bờ phía Tây Hoàng Hà ( Vùng Thiểm Tây ngày nay). Vũ Quan làm phản ở bờ phía Tây Hoàng Hà. Hạ Khởi sai tướng là Bành Bá Thọ xuất quân tiêu diệt, dẹp yên được biến loạn.
Hạ Khởi lên làm vua, tác phong giản dị chất phác năm xưa bị biến chất dần, sống xahoa hủ bại. Hạ Khởi suốt ngày ở trong cung vua uống rượu, thưởng thức ca vũ, hoặc giả dẫn một đoàn người ra ngoài săn bắn. Cuộc sống hủ bại đã khiến cho Hạ Khởi rút ngắn tuổi thọ và đã chết sớm. Người con cả của ông là Thái Khang kế thừa ngôi vua. Thái Khang từ nhỏ đã theo đòi cha uống rượu, học săn bắn, đời sống còn hủ bại hơn cả Hạ Khởi. Thái Khang lên làm vua bỏ mặc việc quốc gia đại sự, dẫn gia nhân hoặc thân tín tới bờ sông Lạc Thuỷ săn bắn, mỗi chuyến đi như vậy kéo dài vài ba tháng, mải vui quên trở về.
Lúc đó, tộc Đông Di ở phía Đông đã lớn mạnh. Thủ lĩnh của tộc Đông Di tên gọi là Hậu Nghệ, là một tay nỏ cừ khôI bắn trăm phát trăm trúng. Hậu Nghệ nhìn thấy Thái Khang ra ngoài săn bắn lâu dài, bỏ mặc quốc gia đại sự, khiến dân chúng, liền thừa cơ cướp lấy thủ đô An ấp của triều Hạ (trong biên cảnh huyện An ấp, tỉnh Sơn Tây ngày nay), không cho Thái Khang trở về, lập em trai Thái Khang là Trọng Khang làm vua bù nhìn, do chính Hậu Nghệ nắm giữ đại quyền quốc gia.
https://thuviensach.vn
Thế nhưng bản thân Hậu Nghệ cũng thích đi săn bắn lâu dài, cũng ham hố hưởng lạc, không thích quản lí việc đại sự quốc gia. Dưới trướng Hậu Nghệ có bốn người rấ hiền tài, lại cương trực thẳng thắn, Hậu Nghệ không tín nhiệm, lại tin dùng Hàn Trạc, một kẻ quen nói nịnh bợ, thêu dệt thị phi. Hàn Trạc tìm một số người chuyên dẫn Hậu Nghệ đi săn bắn, còn mình thì ở trong nhà nghĩ mưu tính kế. Hắn đã dùng ơn huệ nhỏ nhoi mua chuộc những người hầu của Hậu Nghệ, xúi giục chúng hại Hậu Nghệ. Một hôm. Hậu Nghệ đi săn bắn trở về, Hàn Trạch và đám gia nô của Hậu Nghệ chuốc rượu cho Nghệ say mềm, rồi giết Hậu Nghệ. Hàn Trạc chiếm đoạt người vợ cùng toàn bộ gia sản của Hậu Nghệ, nắm giữ đại quyền. Hàn Trạc có hai người con trai, một người gọi là Kiêu, sau khi lớn lên phong cho đất Quá (trong biên giới tỉnh Sơn Đông ngày nay), cho nên lại có tên là Quá Kiêu. Một người tên là Ê, sau khi lớn lên phong cho đất Qua (trong biên giới tỉnh Hà Nam ngày nay), cho nên lại có tên là Qua Ê.
Lại nói đến Trọng Khang, người được Hậu Nghệ lập làm vua bù nhìn, do không được tự do hành động, trong lòng rất không vui, nên đã chết yểu. Con trai của ông là Hậu Tương kế thừa ngôi vua. Hậu Tương không bằng lòng làm vua bù nhìn, liền bỏ trốn nương tựa vào những người cùng họ là Châm Quán và Châm Tầm. Hàn Trạc lo sợ Hậu Tương có thế lực lớn mạnh sẽ trở về phục hưng triều Hạ, liền sai con trai lớn là Quá Kiêu dẫn binh tiến đánh Châm Quán và Châm Tầm, giết chết Hậu Tương. Người vợ của Hậu Tương là Hậu Mân lúc này đang mang thai, bà trốn khỏi sự lùng bắt của Quá Kiêu, từ trong lỗ tường lẻn trốn chui ra nương nhờ một người bên họ mẹ là Hữu Nhưng Thị. Hữu Nhưng Thị họ Nhiệm, ở một bộ lạc rất nhỏ, đất đai ở vùng Tể Ninh tỉnh Sơn Đông ngày nay. Họ thu nhận Hậu Mân, người đã cửu tử nhất sinh, trốn về nhà mẹ, để được yên ổn sinh con, đặt tên là Thiếu Khang. Theo sự sắp xếp của dòng họ, Thiếu Khanglà chắt của Hạ Vũ, là cháu của Hạ Khởi.
https://thuviensach.vn
Thiếu Khang từ nhỏ đã rất thông minh, có nhiều tâm kế. Hậu Mân cảm thấy người con trai này rất có hy vọng, khi cậu bé vừa mới hiểu được sự đời, bà liền kể chuyện ông nội là Thái Khang vì ham chơi mà để mất nước, Trọng Khang làm vua bù nhìn phẫn uất mà chết, cùng với việc người cha Hậu Tương của cậu bé bị giết hại v.v… nghĩa là bà đã đem toàn bộ thảm cảnh đó kể lại cho cậu bé nghe. Bà con dặn Thiếu Khang sau này lớn lên nhất định phải báo thù cho ông nội và cha, giành lại đại quyền đã bị mất.
Từ nhỏ, Thiếu Khang đã được hấp thụ tư tưởng phải rửa nhụ này, quả nhiên ông đã tu chí phấn đấu quật cường, chuẩn bị phục hưng triều Hạ. Trước hết Thiếu Khang đảm nhiệm chức quan quản lý nghề chăn nuôi ở chỗ ông ngoại Hữu Nhưng Thị, hễ có cơ hội là Thiếu Khang học tập bản lĩnh dẫn quân đI đánh trận. Hơn thế, Thiếu Khang đã từng giây từng phút giữ vững tinh thần cảnh giác đối với Quá Kiêu, kẻ đã sát hại cha mình. Quả nhiên, Quá Kiêu đã dò la được chỗ của Thiếu Khang, liền sai một đại tướng tên là Tiêu tới bộ lạc Hữu Nhưng Thị để lùng bắt Thiếu Khang. Nhờ có sự chuẩn bị từ trước Thiếu Khang vội vàng chạy trốn tới chỗ Hữu Ngu Thị là con cháu đời sau của Ngu Thuấn, thoát khỏi sự lùng bắt của Tiêu. Thủ lĩnh Hữu Ngu Thị là Ngu Tư thấy Thiếu Khang rất có triển vọng bèn cho Thiếu Khang ở lại bộ lạc đảm nhiệm chức quan quản lý việc nấu ăn, học tập bản lĩnh quản lý của cải. Như vậy, Thiếu Khang trở thành một người văn võ song toàn.Biết Thiếu Khang là người đáng tin cậy Ngu Tư đã gả con gái của mình cho Thiếu Khang và giao vùng đất Luân rộng mười dặm,, có ruộng vườn tươi tốt cùng năm trăm binh sĩ cho Thiếu Khang quản lý. Thế là Thiếu Khang đã có căn cứ địa và lực lượng vũ trang để khôi phục triều Hạ.
Tại đất Luân, Thiếu Khang quan tâm tới nỗi thống khổ của dân chúng, nêu cao công đức Cao tổ Hạ Vũ của mình, tranh thủ mọi người ủng hộ ý đồ phục hưng cố quốc của ông. Ông triệu tập các quan lại
https://thuviensach.vn
cũ của triều Hạ đã bị Hậu Nghệ và Hàn Trạc làm cho vợ con ly tán, nhà cửa bị đốt phá, phải lưu lạc ở bên ngoài, khuyên họ cùng với mình đánh về quê cũ. Trước hết, ông cử một đại tướng tên gọi là Nữ Ngải đi do thám hư thực của Quá Kiêu, lại sai con trai là Lý Trữ đi tiêu diệt Qua Ê, làm suy yếu lực lượng của Quá Kiêu, Nữ NgảI và Lý Trữ đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Về tình hình chỗ ở của Quá Kiêu, Thiếu Khang nắm rõ như thuộc lòng bàn tay, lại do vì đã tiêu diệt được Qua Ê, khiến Quá Kiêu rơi vào thế cô lập, không có viện trợ.
Khi mọi việc đã được chuẩn bị chu đáo, Thiếu Khang bèn khởi binh từ đất Luân, kể rõ tội trạng của bọn Hậu Nghệ, Hàn Trạc, Quá Kiêu… rồi đánh thẳng tới An ấp, đô thành cũ của triều Hạ. Lúc này Hàn Trạc đã chết, Quá Kiêu dù có ngoan cố chống đối mà vẫn đành chịu để cho đại thế trôi qua, cuối cùng đã bị Thiếu Khang tiêu diệt. Thiên hạ cuối cùng lại trở về trong tay của con cháu Hạ Vũ. Sự kiện lịch sử gọi là “Thiếu Khkang phục quốc” hoặc “Thiếu Khang trung hưng”. Căn cứ vào suy đoán, từ khi Thái Khang mất nước đến Thiếu Khang giành lại nước thời gian ước khoảng sáu, bảy chục năm. Trước hai, ba chục năm của sáu, bảy chục năm này do Hậu Nghệ nắm quyền, còn chưa đoạt mất ngôi vua. Bốn năm chục năm về sau, Hàn Trạc nắm quyền, đã tước đoạt ngôi vua của triều Hạ.
Đối với câu chuyện “Thiếu Khang phục quốc” trong Tả truyện đã có ghi chép cụ thể, thế nhưng thời gian đã xa hơn 1500 năm, nên một số nhà sử học không tin tưởng vào tính chân thực của sự kiện này. Mặc dù vậy, câu chuyện lịch sử này cũng đã phản ánh cuộc đấu tranh giành đoạt quyền lợi của các quý tộc giữa Di và Hạ. Tộc Hạ là tổ tông xa xưa của dân tộc Hán ngày nay, tộc Di chính là các dân tộc thiểu số. Hậu Nghệ và Hàn Trạc của tộc Di đã chiếm đoạt chính quyền của tộc Hạ, cuối cùng đã bị tộc Hạ đánh bại. Điều này chứng
https://thuviensach.vn
tỏ ở thời kỳ Viễn cổ, tộc Hạ và tộc Di đã từng thông qua chiến tranh mà từng bước thực hiện sự hoà hợp dân tộc.
https://thuviensach.vn
10. Thương Thang diệt Hạ
Sau khi Thiếu Khang trung hưng, triều Hạ chỉ có con trai Thiếu Khang là Lý Trữ ở ngôi tương đối cường thịnh. Lý Trữ rất có tài ba, ông đã phát minh ra áp giáp mặc để ra đánh trận. Loại áo giáp này được làm bằng da thú, dao đá chặt không đứt, mũi tên xuyên không thấu, kể cả một số ít vũ khí chế bằng đồng sản xuất ở thời đó cũng không làm gì nổi. Có thể đó là pháp bảo hộ thân để đi đánh trận. Lý Trữ dựa vào loại bảo pháp, cộng thêm với những thủ đoạn có sức mạnh khác, tiếp tục đương đầu với các bộ lạc Đông Di, cuối cùng đã hàng phục được Đông Di, mở rộng thêm một bước biên cương của triều Hạ.
Các đời sau Lý Trữ càng ngày càng tỏ ra kém cỏi, thối nát nhất là Hạ Kiệt, cháu đời thứ 14 của Hạ Vũ. Cơ nghiệp tổ tiên Hạ Vũ xa xưa gian khổ vất vả sáng tạo ra, đã bị chính tay Hạ Kiệt chôn vùi.
Hạ Kiệt là một kẻ ăn tàn, phá hại nổi tiếng. Kiệt kế thừa ngôi vua, chê cung thất mà mình ở quá thô thiển, giản đơn, liền hạ lệnh xây dựng một toà Khuynh Cung. Khuynh Cung chiếm mười dặm đất, cao mười trượng, trung tâm của cung thất xây dựng một toà Dao đài, thanh xây toàn ngọc trắng. Toà Khuynh cung này xây dựng trong bảy năm mới hoàn thành, đã động dụng sức lao động của hàng ngàn vạn nô lệ, đã tiêu phí một khối lượng lớn vật lực và tài lực, thật là mệt người tốn của làm cho nhân dân trăm bề khổ sở.
Hạ Kiệt rất coi trọng việc ăn uống, chỉ thích ăn thịt thú quý hiếm dưới biển, thường ăn những thức ăn sản xuất ở Tây Bắc, thịt cá voi bắt được từ biển Đông, những vật liệu điều vị cần phải là gừng sống sản xuất ở phương Nam, muối biển sản xuất ở phương Bắc. Để cung cấp thức ăn cho một mình Hạ Kiệt, đòi hỏi phải có hàng trăm, hàng ngàn người trồng rau, bắt cá, vận chuyển, đun
https://thuviensach.vn
nấu. Hạ Kiệt lại là một con quỷ rượu, Kiệt đặc biệt thích uống rượu. Hạ Kiệt uống rượu còn có một tính khí quái đản, cần phải uống rượu trong suốt, rượu hơi vẩn đục một chút là giết chết đầu bếp, rất nhiều người đầu bếp đã vì vậy mà chôn vùi tính mạng. Sau khi Hạ Kiệt đã uống say, còn bắt người làm bò làm ngựa cho hắn cưỡi, ai không chịu để cho hắn cưỡi thì phải chịu đựng những trận đòn đau hoặc bị lôi đi chặt đầu. Đối với Hạ Kiệt mà nói, giết một con người quả thật còn tuỳ tiện hơn là giết một con gà.
Hạ Kiệt thích những kẻ a dua nịnh hót, chán ghét những người nói thẳng khuyên Kiệt làm theo quy tắc. Hạ Kiệt nghe những lời xúi dục của Vu Tân, khác nào lửa đổ thêm dầu, càng ngày càng hư hỏng. Có một người tốt tên gọi là Quang Long Phùng, biết rõ Hạ Kiệt làm điều xằng bậy, thường xuyên khuyên Hạ Kiệt sửa đổi lỗi lầm. Hạ Kiệt chẳng những không nghe, cuối cùng còn giết chết Quang Long Phùng. Do vậy những người tốt đều không dám thân gần Hạ Kiệt, còn kẻ xấu thì thành đàn thành lũ vậy xung quanh Hạ Kiệt. Nền chính trị của triều Hạ ngày càng hủ bại.
Giữa lúc thế lực của Hạ Kiệt ngày càng suy yếu thì lực lượng của nước Thương ở hạ du sông Hoàng Hà đã lớn mạnh lên. Nước Thương là một thuộc quốc của triều Hạ, truyền thuyết kể rằng tổ tiên là con trai của Đế Khốc, tên gọi là nước Khiết. Khiết đã từng giúp
đỡ Hạ Vũ trị thuỷ, đã lập được công lao. Hạ Vũ thưởng cho Khiết, phong đất cho Khiết ở Thương. Tử Khiết đã xây dựng lên một quốc gia nhỏ bé ở đất phong, đặt tên là Thương. Khi Hạ Kiệt làm xằng bậy, đúng là lúc người cháu đời thứ bốn của Tử Khiết là Thang đang nắm quyền nước Thương. Thương Thang thấy Hạ Kiệt đang vấp phải sự phản đối của rất nhiều dân chúng, cảm thấy có thể tranh thủ được lòng dân, liền bắt ngay Thương Thang, nhốt trong ngục Hạ Đài. Chỉ suýt nữa Thương Thang đã bị mất mạng, may
https://thuviensach.vn
mà ông giỏi ứng phó, lừa gạt được Hạ Kiệt u mê, ngu muội. Sau một thời gian Hạ Kiệt liền thả cho Thương Thang về.
Thương Thang về tới nước Thương, một mặt kể tội ngu muội tàn bạo của Hạ Kiệt, khuyên can các bộ tộc bị triều Hạ khống chế, chống lại triều Hạ, quy thuận nước Thương. Tộc Cát Bá không nghe lời khuyên bảo của Thương Thang. Thương Thang liền xuất quân tiêu diệt tộc Cát Bá,lấy việc đó, giết một, răn trăm. Thương Thang rời thủ đô tới Bột (trong biên giới tỉnh Hà Nam ngày nay) tưng cường lung lạc dân chúng, muốn chứng tỏ mình là một vị vua anh minh, cốt để cho dân chúng nghe theo sự chỉ huy của Thang.
Có một lần Thương Thang ra ngoại thành chơi, nhìn thấy một người đang giăng lưới ở bốn mặt để bắt chim, miệng không ngớt lẩm bẩm: “Những con chim từ trên trời bay xuống, từ dưới đất bay lên, từ bốn phương tám hướng bay tới, hãy rơi cả vào lưới của ta đi!” Thương thang thấy vậy, nói với người bắt chim rằng:
- Ông làm như vậy thì quá tàn nhẫn, hãy nhanh chóng rút bỏ ba mặt lưới đi, chỉ để lại một mặt là đủ.
- Người bắt chim nói:
- Một mặt lưới thì làm sao bắt được chim?
Thương Thang nói:
- Ông giăng một mặt lưới, hét lên với chim rằng: “Chim ơi, chim muốn bay sang bên trái thì bay về bên trái, muốn bay sang bên phải thì bay về bên phải, thực sự chim không muốn sống nữa thì hay chui vào lưới của ta!” Như vậy chứng tỏ tâm ý ông lương thiện.
Lời Thương Thang nói với người bắt chim nhanh chóng được lưu truyền, mọi người đều nói Thương Thang là con người rất tốt,
https://thuviensach.vn
đối với loài cầm thú cũng tỏ lòng nhân từ, ta nên chân thành ủng hộ ông. Câu chuyện giăng một mặt lưới bắt chim về sau đã hình thành một câu thành ngữ gọi là “giăng lưới một mặt”. “Lưới giăng ba mặt” đã thành “lưới giăng một mặt”, về ý nghĩa thì đã có sự biến đổi, dùng để ví dụ cần phải lưu lại một lói ra cải tà, quy chính cho những người hư hỏng.
Sau khi Thương Thang làm xong công tác chuẩn bị, liền ra tuyên ngôn, phát động tấn công triều Hạ. Trong bản tuyên ngôn đó, Thương Thang nói: “Mọi người hãy cùng ta đánh Hạ Kiệt đi! Điều này đâu phải là cá nhân ta thích làm loạn, bắt mọi người phải bỏ bễ việc nhà bận rộn; quả thật con người Hạ Kiệt này đã quá u mê, thiên hạ đã bị hắn dày xéo tan nát. Quần chúng nhân dân từ lâu đã chỉ thẳng vào xương sống lưng hắn mà nguyền rủa hắn, mong cho hắn sớm chết. Những việc xấu xa mà hắn làm trời đất khó bao dung. Hiện nay ta lãnh ý chỉ của ông trời phải tiêu diệt hắn, mọi người nên giúp đỡ ta. Nếu các người lập được công, ta nhất định sẽ trọng thưởng. Nếu không nỗ lực chiến đấu, ta nhất định sẽ trách phạt nặng đó!”
Hạ Kiệt nghe nói Thương Thang dẫn quân tiến đánh, lienè nói với bọn thuộc hạ:
- Nay đã tới nông nỗi này ta rất hối hận sao lúc đó không giết quách thằng cha Thương Thang trong nhà tù Hạ Đài đi!
Hắn nhanh chóng hạ lệnh điều động quân đội của ba nước nhỏ là nước Côn Ngô, nước Vi, nước Cố phụ thuộc triều Hạ tới bảo vệ triều Hạ. Thương Thang đã sớm liệu biết được mưu mô này, trước hết, ông sai quân đến tiêu diệt nước Vi và nước Cố, rồi đánh bại nước Côn Ngô, đại quân đánh thẳng tới Minh Điều, thành thị quan trọng của nước Hạ. Hạ Kiệt đích thân dẫn quân tới Minh Điều nghênh chiến, thế nhưng binh lính đều không nghe theo, có tên
https://thuviensach.vn
bỏ chạy trốn, có kẻ ra đầu hàng. Hạ Kiệt nhìn thấy đại thế đã hết, không dám lại trở về thủ đô Lạc Dương nữa, liền dẫn một số ít binh tàn tướng bại nhờ cậy vào nước Côn Ngô. Thương Thang thừa thắng truy kích, chỉ một trận đã tiêu diệt được Côn Ngô. Hạ Kiệt lại dẫn vợ con hắn là Muội Hỉ chạy trốn khỏi trùng vây, ngồi lên một con thuyền nhỏ bơi qua sông tới Nam Sào (huyện Sào, tỉnh An Huy ngày nay). Vì không biết lao động, cuối cùng cả hai vợ chồng đã chết đói ở trong núi Nam Sào.
Thương Thang đánh đuổi được Hạ Kiệt, phá huỷ hết thái miếu mà triều Hạ vẫn cúng thờ tổ tiên, phóng hoả đốt hết đồ cúng tế, rồi tiếp tục thanh trừ những thế lực tàn dư của triều Hạ, bắt rất nhiều dân chúng của triều Hạ đi làm nô lệ. Như vậy là nhà Hạ bắt đầu xây dựng từ thế kỷ 21 trước Công nguyên, trải qua hơn 400 năm, tới đây đã bị diệt vong. Đại để là vào đầu thế kỷ 17 trước Công nguyên. cách hiện tại khoảng ba nghìn năm về trước. Thương Thang đã chính thức xây dựng nên triều Thương, một quốc gia thứ hai theo chế độ chiếm hữu nô lệ trong lịch sử Trung Quốc.
https://thuviensach.vn
11. Thái Giáp hối hận lỗi lầm
Thương Thang tiêu diệt triều Hạ, dựng lên triều Thương, Hữu tướng Y Doãn là trợ thủ đắc lực cho ông. Y Doãn tên gọi là Chí, vốn trước kia là một nô lệ ở trong nhà Hữu Tân Thị, nhạc phụ của Thương Thang. Khi Hữu Tân Thị cho con gái đi lấy chồng đã bắt Y Doãn đi theo làm nô lệ hầu hạ, làm của hồi môn cho nhà Thương Thang.
Y Doãn vừa tới nhà Thương Thang, Thương Thang không phát hiện ra Y Doãn là một nhân tài, đã sai Y Doãn làm công việc ở trong nhà bếp. Để cho Thương Thang được biết bản thân mình là một người tài năng, Y Doãn bèn tìm một cơ hội gần gũi Thương Thang. Có khi Y Doãn làm món ăn rất vừa miệng, có lúc lại cố ý nấu quá nhạt hoặc quá mặn, cốt làm sao cho Thương Thang phải gọi Y Doãn tới để hỏi han. Quả nhiên, một hôm Thương Thang đã gọi Y Doãn tới. Y Doãn liền lợi dụng cơ hội này lấy việc nấu ăn làm ví dụ, Y Doãn nói:
- Nấu ăn không thể quá mặn, cũng không thể quá nhạt được, nếu biết đem những thứ gia vị gia giảm đúng chỗ đúng mức thì ăn mới cảm thấy ngon miệng. Cai trị một quốc gia cũng giống như làm món ăn, thao tác không thể quá vội vã, cũng không thể quá chậm chạp rời rạc, chỉ có vừa vặn tốt đẹp, mới có thể làm nên sự nghiệp được!
Những ví dụ này của Y Doãn quả nhiên đã đánh động tâm can của Thương Thang. Thương Thang chợt nhận ra người nô lệ trong nhà bếp của mình là một nhân tài, Thương Thang liền xoá bỏ thân phận nô lệ của Y Doãn, bổ làm Hữu tướng cho mình. Y Doãn giúp đỡ Thương Thang hoạch trù đại kế tiến công triều Hạ, cuối cùng chỉ một trận đánh đã tiêu diệt triều Hạ, xây dựng lên triều Thương.
https://thuviensach.vn
Thời kỳ đầu xây dựng triều Thương, Y Doãn lại giúp đỡ Thương Thang đặt ra các chế độ điển chương, quy định các quan lại nhất định phải chịu khó làm việc, cần phải tạo ra những thành tích nổi bật, nếu không sẽ bị trách phạt nghiêm khắc, thậm chí có thể phạt xuống làm nô lệ. Do vậy, các quan lại triều Thương đều không dám làm càn, chính trị tương đối ổn định, kinh tế cũng khá phồn vinh. Sau khi Thương Thang chết, Y Doãn tiếp tục phò tá đời vua thứ hai, đời vua thứ ba của triều Thương, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, quản lý tốt đất nước. Những ghi chép trong sách sử cổ đại có câu chuyện Y Doãn giúp đỡ người cháu của Thương Thang là Thái Giáp hối cải lỗi lầm.
Thương Thang xây dựng triều Thương trải qua 13 năm thì mất. Phép kế thừa của triều Thương là anh chết, em nối ngôi, không có em trai thì mới truyền cho con trai. Thương Thang không có em trai, sau khi Thương chết cần phải truyền ngôi cho con trưởng là Thái Đinh. Thế nhưng Thái Đinh còn chết sớm hơn cha, cho nên em trai của Thái Đinh là Ngoại Bích kế vị. Lại trôi qua bốn năm Trọng Nhân cũng qua đời. Lúc này do khai quốc nguyên lão Y Doãn làm chủ, gọi con trai của Thái Đinh là TháI Giáp lên ngôi vua. Thái Giáp là cháu của Thương Thang.
Thái Giáp kế thừa ngôi vua, Y Doãn viết liền ba bài văn cho Thái Giáp đọc, dạy dỗ Thái Giáp phải học tập như thế nào để làm một ông vua tốt. Có một bài văn đề mục là “Tứ mệnh”1, chuyên giảng lý lẽ rõ ràng làm thế nào để phân biệt phải trái, đối với những việc như thế nào thì nên làm, nhưng việc như thế nào thì nên không. Còn có một bài văn đầu đề là “Tồ hậu”2, giảng giải các chế độ luật pháp khi Thương Thang còn sống, gió dục Thái Giáp nhất định phải dựa theo quy củ của tổ tiên đã định ra mà làm việc, không thể làm bừa, làm loạn được.
https://thuviensach.vn
Thái Giáp đọc xong những bài này, hai năm đầu còn dựa vào đó để làm, không dám chống lại những quy củ của tổ tông để lại. Bước sang năm thứ ba, Thái Giáp đã quên hết tất cả, cho rằng bản thân mình là chủ của một nước, tất thảy đều do mình nói là xong, không thể để cho viên tể tướng Y Doãn vốn xuất thân từ một tên nô lệ kia quản thúc. Thái Giáp làm việc hoàn toàn theo ý chủ quan, đã phá hoại toàn bộ các chế độ luật pháp do tổ tông để lại. Thái Giáp dùng thủ đoạn bạo ngược để đối phó với dân chúng, đè nén dân chúng đến ngạt thở.
Thái Giáp đã biến chất, lẽ dĩ nhiên Y Doãn không dễ dàng bỏ qua, trước hết Y Doãn lại một lẫn nữa khuyên can, cảnh tỉnh Thái Giáp cần phải kiểm điểm nhiều hơn đối với những hành vi của mình. Về sau, biết Thái Giáp quả thực không chịu nghe lời, Y Doãn bèn đuổi Thái Giáp xuống đài, đày tới Đồng Cung nơi đặt phần mộ của Thương Thang (huyện Yến Sư, tỉnh Hà Nam ngày nay). Trong thời gian Thái Giáp bị đày đi, Y Doãn không lập vua mới, ông tự tạm thời quản lý việc đại sự quốc gia.
Thái Giáp bị đày đến Đồng Cung. Tại đây, chỉ có một thứ mà sớm tối Thái Giáp nhìn thấy là phần mộ của Thương Thang, ông nội mình. Thương Thang tuy là vị vua khai quốc của triều Thương, nhưng phần mộ lại rất sơ sài giản dị, trên mộ chỉ xây một cung thất thấp nhỏ, dùng để cúng tế một năm một lần. Ông lão canh mộ nghe nói Thái Giáp vì không tuân thủ các chế độ của tổ tông nên mới bị đày xuống phần mộ này, mỗi ngày đều kể lại những câu chuyện lập nghiệp của Thương Thang ngày xưa cùng với các quy củ mà Thương Thang đặt ra, giáo dục Thái Giáp nên lấy ông nội mình làm tấm gương soi, không nên làm một kẻ ăn tàn phá hại. Thái Giáp đã dùng ông nội làm tấm gương đối chiếu tỉ mỉ với những hành vi cử chỉ của mình, càng ngày càng cảm thấy quả thực bản thân mình đã làm không đúng, liền quyết tâm sửa chữa sai lầm. Trước tiên
https://thuviensach.vn
Thái Giáp làm tốt những việc trong phạm vi nhỏ ở Đồng Cung như quan tâm tới những người già cô quả, tận dụng hết khả năng của mình để giúp đỡ họ, những việc cần phải làm, Thái Giáp lập tức làm ngay, những việc không nên làm, chẳng những mình không làm, nhìn thấy người khác làm cũng lập tức chặn lại.
Ba năm trôi qua những hành vi cử chỉ của Đồng Cung của Thái Giáp đã sớm có người báo cho Y Doãn biết. Y Doãn cảm thấy vị vua trẻ tuổi này quả thực là đã biết hối cải lỗi lầm biến thành con người mới. Tức thì Y Doãn đích thân dẫn các đại thần đến đón Thái Giáp trở về thủ đô Hào Thành, trịnh trọng trao cả chính quyền cho Thái Giáp. Thái Giáp tiếp nhận được bài học sâu sắc, nặng nề của quá khứ, đã làm việc thận trọng, gắng tuân thủ những chương trình mà tổ tông để lại, cuối cùng đã cai trị, đưa thiên hạ vào nền nếp tốt đẹp, khiến cho triều Thương, một quốc gia theo chế độ nô lệ này đã ngày càng phồn vinh mạnh mẽ.
https://thuviensach.vn
12. Bàn Canh dời Ân
Triều Thương từ khi xây dựng tới lúc diệt vong, kéo dài khoảng 500 năm. Hơn 270 năm định đô ở đất Ân (thành phố An Dương, tỉnh Hà Nam ngày nay), cho nên triều Thương còn gọi là triều Ân, có khi cũng gọi là ân Thương hoặc Thương Ân.
Triều Thương định đô ở đất Ân bắt đầu từ Bàn Canh. Bàn Canh là cháu đời thứ chín của Thương Thang, là vị vua thứ 19 của triều Thương. Việc triều Thương từng có nhiều lần dời đô, Bàn Canh đinh đô ở ấn, không di chuyển nữa, đã phản ánh tính chất quan trọng của nghề nông lúc này đã vượt qua nghề chăn nuôi, con người cần phải được định cư lại.
Bàn Canh quyết định dời tới Ân, đó là một cuộc đấu tranh có tính lịch sử. Vốn là từ sau Thái Giáp, các vị vua và các quý tộc, chủ nô lệ của các triều đại nhà Thương đã trở nên thối nát và mục ruỗng.Họ mê tín quỷ thần, đặc biệt là thích uống rượu. Đó là những con ký sinh trùng, xa rời lao động, mọi việc đều trút cả lên đầu nô lệ. Giữa nô lệ và chủ nô lệ, mâu thuẫn giai cấp vô cùng gay gắt, các nô lệ bỏ trốn hàng loạt. Trong các quý tộc thuộc hàng vương thất, cuộc đấu tranh giành giật ngôi vua ngày càng kịch liệt, có người nói nên theo lệ anh chết truyền cho em, có kẻ nói phải theo luật cha chết truyền cho con. Giữa chú cháu, anh em thường phát sinh những cuộc đấu tranh kẻ sống người chết, làm cho đất nước đại loạn.
Mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn trong nội bộ chủ nô lệ đã làm suy yếu triều Thương, sản xuất đình đốn, một số nước nhỏ và các dân tộc thiểu số không chịu nghe theo chế độ lễ tiết của triều Thương nữa, cộng thêm những tai hoạ thiên nhiên như nạn lụt, nạn
https://thuviensach.vn
hạn hán v.v… đã khiến cho triều Thương, quốc gia theo chế độ nô lệ này quả thực không thể tiếp tục duy trì được nữa.
Chính vào lúc này, vị vua thứ 18 của triều Thương là Dương Giáp qua đời, em trai của Dương Giáp là Bàn Canh lên làm vua. Bàn Canh là người có nhiều tâm kế, giỏi quan sát tình thế, thấy đất nước không thể tiếp tục duy trì theo kiểu cũ được nữa, cần phải tìm ra một biện pháp hữu hiệu nhất để hoà hoãn mâu thuẫn, đặng cứu vãn sự suy vong của triều Thương. Biện pháp của ông là dời đô tới đất Ân, khai khẩn đất hoang, định cư lâu dài.
Thứ nhất, đất đai của đất Ân khá phì nhiều, thiên tai tương đổi ít và nhẹ, xây dựng đô thành ở đây sẽ có lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp. Thứ hai, sau khi dời đô, tất thảy đều được làm lại từ đầu, các quý tộc chủ nô không thể được hưởng thụ quá mức, như vậy thì mâu thuẫn giai cấp có thể tạm được hoà hoãn. Thứ ba việc dời đô có thể tránh được các thế lực làm phản nguy hiểm, đô thành tương đối an toàn, nền thống trị có thể ổn định hơn một chút.
Thế nhưng việc quyết định rời đô đã vấp phải phản ứng của rất nhiều người, chủ yếu là các quý tộc chủ nô; họ sợ rằng địa phương mới sẽ không có điều kiện để hưởng lạc như cũ. Bàn Canh là một người rất kiên quyết, không vì bị phản đối mà thay đổi chủ ý. Ông triệu tập các quý tộc chủ nô lại, phát biểu hai bài huấn cáo. Bài huấn cáo thứ nhất là khuyên nhủ, bảo cho mọi người biết rõ lợi ích của việc dời Ân. Ông nói:
- Ta phải noi gương các bậc tiên vương quan tâm tới dân các người, bảo hộ các người, dắt các người tìm đến nơi an toàn, sung sướng. Nếu các người không đồng tâm với ta, linh hồn của tiên vương ở trên trời sẽ trừng phạt các người, sẽ giáng xuống cho các người những điều chẳng lành.
https://thuviensach.vn
Bài huấn cáo thứ hai có tính uy hiếp, khẩu khí cứng nhắc, cảnh cáo mọi người phải nhất tề phục tùng mệnh lệnh dời đô, nếu không sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc. Bàn Canh dùng thủ đoạn vừa mềm vừa rắn, cuối cùng đã dời được thủ đô tới Ân. Thế nhưng cuộc đấu tranh vẫn chưa kết thúc. Dân chúng không quen với nơi ở mới, cãi lộn nhau đòi về nhà cũ. Các quý tộc chủnô liền thừa cơ gây rối, khuấy động mọi người đòi hồi hương. Bàn Canh lại phát biểu một bài huấn cáo nữa, ngữ khí rắn chắc mạnh mẽ, cấm chỉ những sự phản đối của quý tộc chủ nô. Sau mấy năm trôi qua, cụ diện mới được ổn định. Các chủ nô lệ ở đây đa bị bức phải lao động suốt ngày suốt đêm, xây dựng đất Ân trở thành thành một đô thị rất phồn vinh. Từ đó đô thành của triều Thương được cố định ở Ân Thành, chính trị tương đối ổn định, kinh tế và văn hoá của xã hội cũng có sự phát triển rộng. Vào thời đó, kỹ thuật luyện chế đồng đã được nâng cao, phạm vi chế tác đồ đồng đen cũng được mở rộng. ở vùng phụ cận Ân Thành đã có một phường chế tạo đồ đồng đen có tới hàng ngàn nô lệ lao động. Các nô lệ sử dụng ba loại kim thuộc là đồng, thiếc và chì làm nguyên liệu, nung chảy đúc ra hàng ngàn hàng vạn thứ võ khí như búa rìu, giáo mác, dao, đầu mũi tên v.v…, các đồ ăn uống như đỉnh, cốc ba chân, hồ, mâm, thau v.v… ; các công cụ như cuốc, đục, dùi đạt tới trình độ công nghệ cao siêu, tạo nên nền văn hoá đồ đồng đen nổi tiếng thế giới. Có một chiếc đỉnh vuông Tư Mẫu Mậu Đại rất nổi tiếng, cao gần 133 centimet, dài 110 centimet, rộng 78 centimet, nặng 876 kilôgam mới được các nhà khảo cổ học khai quật từ trong di chỉ cũ đổ nát thời Ân, đã được bảo quản chu đáo trong nhà bảo tàng lịch sử Trung Quốc. Đây là một dụng cụ đồng đen lớn nhất được khai quật trên thế giới từ trước đến nay. Qua những đồ đồng đen từ đời Thương cũng có thể thấy rõ, nền văn hoá cổ đại sáng lạn của Trung Quốc là do quần chúng lao động, trong đó nô lệ chính chủ thể sáng tạo.
https://thuviensach.vn
Trong các di chỉ thời Ân còn có hàng loạt mai rùa và xương bả vai trâu, có khắc rất nhiều văn tự khác với văn tự hiện nay; đó là loại văn tự cổ nhất mà Trung Quốc phát hiện, gọi là giáp cốt văn, tổng cộng có hơn ba ngàn chữ đơn, đa số đã được các nhà khảo cổ học giải mã. Quý tộc vương thất triều Ân vốn rất mê tín, làm việc gì cũng thu lượm mai rùa và xương để bốc bói. Nhưng chữ khắc trên mai rùa và xương trâu phần lớn đều là do nguyên nhân và kết quả của bốc bói, chẳng biết sau này có ứng nghiệm hay không. Những lời bốc bói đã đưa lại nhiều thông tin về các việc đại sự của triều Ân, cung cấp những tư liệu xác tín cho chúng ta nghiên cứu lịch sử Ân Thượng.
Bàn Canh dời Ân lại một độ nữa hưng triều Thương, khiến cho Ân Thương, quốc gia nô lệ này toả hào quang chói lọi trong lịch sử phát triển văn hoá Trung Quốc và trở thành một cường quốc văn minh trên thế giới thời đó.
https://thuviensach.vn
13. Tể tướng nô lệ Truyền Duyệt
Triều Thương có hai tể tướng nô lệ, một là Y Doãn phò tá Thương Thang diệt Hạ đã kể ở trên, một người là Truyền Duyệt thời Vũ Đinh, sẽ được nhắc trong chuyện này.
Vũ Đinh là cháu của Bàn Canh, là con của Tiểu ất, em lớn là Tiểu Tân, em nhỏ là Tiểu ất. Theo quy củ của triều Thương, người kế thừa Bàn Canh phải là Tiểu Tân, trừ phi Tiểu Tân chết sớm mới đến lượt Tiểu ất không hề có tham vọng quá cao được làm vua, càng không thể nghĩ tới con trai mình là Vũ Đinh có thể được kế thừa ngôi vua. Tiểu ất không để cho Vũ Đinh được ăn sung mặc sướng, mà từ nhỏ đã cho bà cùng với tầng lớp bình dân.
Vũ Đinh vui vẻ hoà mình cùng làm lụng với con em bình dân. Mùa hè, Vũ Đình cày ruộng ngoài đồng với nông dân dưới nắng trời gay gắt, mùa đông, Vũ Đinh gội gió tuyết cùng lên núi đốn củi với các tiểu phu. Vũ Đinh đã học được bản lĩnh lao động sản xuất, có thói quen sống giản dị chất phác, đồng thời cũng có nhiều đồng cảm với nỗi khổ của nô lệ. Đáng kể hơn là Vũ Đinh đã ngang nhiên kết bạn với một nô lệ tên gọi là Truyền Duyệt.
Truyền Duyệt rất thông minh, tuy là một nô lệ, thế nhưng Truyền Duyệt tỏ ra là người có học vấn, rất quan tâm tới đại sự trong thiên hạ. Truyền thấy: Vũ Đinh tuy là cháu vua Ân, nhưng không có bộ dạng của quý tộc chủ nô, có thể cùng chơi bời lam làm với người bình dân, thậm chí còn kết bạn với một người nô lệ như mình, vì vậy mà rất yêu quý Vũ Đinh. Vũ Đinh đã học được rất nhiều kiến thức từ Truyền Duyệt. Vũ Đinh cũng rất quý mến Truyền Duyệt, muốn giúp đỡ Truyền Duyệt giải thoát thân phận nô lệ, để Truyền Duyệt làm một người tự do, có cơ làm nên nghiệp lớn.
https://thuviensach.vn
Sự việc diễn ra rất suôn sẻ; sau khi Bàn Canh qua đời, người em lớn của Bàn Canh là Tiểu Tân kế thừa ngôi vua. Qua ba năm, Tiểu Tân mất, đến lượt người cha của Vũ Đinh là Tiểu ất nối ngôi. Tiểu ất ở ngôi được 10 năm, sau khi ông mất, ngôi vua liền truyền lại cho Vũ Đinh. Vũ Đinh một lòng một dạ muốn phục hưng triều Thương, làm một vị vua nổi tiếng giống như Thang Thương. Đối với những sự việc chính trị, Vũ Đinh tạm thời không phát biểu ý kiến, tất cả đều giao cho các quan đại thần xử lý, còn bản thân thì lặng lẽ từ bên cạnh quan sát, suy nghĩ biện pháp cai trị đất nước sao cho tốt.
Đã trôi qua ba năm, cuối cùng cũng đã sáng tỏ được một đạo lý: Sở dĩ Thương Thang có thể tiêu diệt được triều Hạ, lập được triều Thương là vì Thương Thang đã tìm được một người giúp việc tốt là Y Doãn. Muốn phục hưng triều Thương, làm một vị vua nổi tiếng giống như Thương Thang, nếu không tìm được một người giúp việc như Y Doãn thì quyết không thể được.
Ai là người có thể giúp việc tốt cho Vũ Đinh đây? Vũ Đinh nghĩ tới người bạn thân là Truyền Duyệt năm xưa. Thế nhưng Truyền Duyệt là nô lệ, nền thống trị của triều Thương đã trải qua mấy trăm năm, vẫn duy trì giới hạn giữa nô lệ và chủ nô lệ rất rõ ràng, nếu vô cớ giải phóng thân phận cho Truyền Duyệt, để Truyền Duyệt phò tá nhà vua cai trị đất nước, thì các quý tộc, chủ nô không gây chuyện động trời sao được?
Phải làm thế nào cho thoả đáng đây? Vũ Đinh suy đi tính lại, chợt nghĩ ra một chủ ý hay. Vũ Đinh biết các quý tộc chủ nô đều mê tín quỷ thần, chỉ cần giả thác ý chỉ của quỷ thần, thì nhất định các quý tộc chủ nô sẽ không dám phản đối nữa. Một buổi tối, đang lúc nửa đêm, Vũ Đinh cố ý cười thật to. Những người hầu dưới trướng thấy Vũ Đinh cười trong mộng liền tỉnh dậy, vội vàng hỏi bệ hạ mộng thấy gì? Vũ Đình vừa cười vừa nói:
https://thuviensach.vn
- Triều Ân chúng ta có hy vọng rồi! Ta mộng thấy tiên vương Thương Thang tiến cử cho ta một người hiền tài, tên gọi là Truyền Duyệt, nói rằng người đó có thể phò tá cho ta cai trị tốt đất nước. Các người hãy mau mau giúp ta rước con người Truyền Duyệt này về đây!
Những người dưới trướng nghe nói là người đại hiền tài do tiên vương Thương Thang tiến cử, lẽ dĩ nhiên đều cả tin, chẳng chút nghi ngờ. Thế nhưng con người Truyền Duyệt ở trong mộng này, cuối cùng là người như thế nào thì không ai rõ tung tích cả, biết tìm ở đâu đây? Họ đành phải triệu tập trăm quan văn võ tới trước Vũ Đinh, hỏi người nào là đại hiện tài Truyền Duyệt mà bệ hạ vừa mộng thấy? Vũ Đinh có ý liếc một lượt những người đứng ở trước mặt, cuối cùng lắc đầu nói, không có người nào mà ta đã nhìn thấy ở trong mộng cả. Những người dưới trướng đành phải căn cứ vào tên họ và tướng mạo cụ thể con người mà Vũ Đinh nói ra, cử một số người đi tìm trong đám dân chúng.
Chính lúc này, Truyền Duyệt vì mắc tội xúc phạm chủ nô, đang bị buộc chặt bằng dây thừng, do giám công canh giữ làm khổ công chình tường ở địa phương Truyền Nham (phía Bắc huyện Bình Lục, tỉnh Sơn Tây ngày nay). Chính tường là một phương pháp dùng đất để đắp tường, hơi giống cách đầm đất khô hiện nay. Những người đi tìm Truyền Duyệt nghe nói có một nô lệ đang làm khổ công chình tường tên gọi Truyền Duyệt, bèn chạy đến tìm, thì thấy thân hình tướng mạo cũng gần giống như người mà Vũ Đinh đã nói, họ chắc mẩm đây là người trong mộng của Vũ Đinh. Chẳng cần biết có phải là nô lệ hay không, họ vội vã đuổi viên giám công đi, mời Truyền Duyệt lên xe, tiền hô hậu ủng lao thẳng tới Ân Thành, dẫn vào trong cung vua.
Vũ Đinh thoạt nhìn: quả đúng là người bạn thân Truyền Duyệt năm xưa của mình đã tới, liền gật đầu lia lịa, nói:
https://thuviensach.vn
- Đúng là ông ấy rồi, đúng là ông ấy rồi, ông ấy chính là người đại hiền tài mà tiên vương đã tiến cử cho trẫm ở trong mộng đó!
Tức thì Vũ Đinh vội vã bảo Truyền Duyệt cởi bỏ bộ quần áo tù, cho Truyền Duyệt tắm rửa, mặc quần áo hoàng cung, rồi tuyên bố xoá bỏ thân phận nô lệ cho Truyền Duyệt trước mặt mọi người, cho phép ông ta phò tá mình cai trị quốc gia. Các quý tộc chủ nô tuỳ
không phục, nhưng khi nghĩ ông ta là đại hiền tài mà tiên vương tiến cử cho Vũ Đinh ở trong mộng thì cũng không dám phản đối nữa, hơn thế, họ còn đổ xô tới chúc mừng, biểu thị thái độ hài lòng cùng cai trị đất nước của Truyền Duyệt.
Truyền Duyệt vốn không phải họ Truyền, chỉ có tên độc âm là Duyệt. Trong xã hội nô lệ, người nô lệ nói chung chỉ có tên mà không có họ. Bởi vì ông được tìm thấy ở đất Truyền Nham, cho nên đã lấy chữ Truyền trong địa danh để gắn họ Truyền vào tên Duyệt.
Truyền Duyệt quả nhiên có tài năng cai trị đất nước, chỉ trong ba năm, ông đã phò tá vua Vũ Đình cai trị triều Ân một cách trật tự kỷ cương, sản xuất phát triển, nhân khẩu tăng thêm, trộm cắp đều biến hết, chiến tranh với nước ngoài hễ đánh là thắng. Triều Ân lại một lần nữa được phục hưng. Vũ Đinh vô cùng cảm tạ. Truyền Duyệt, ban thưởng cho Truyền Duyệt rất nhiều của cải, rồi để cho Truyền Duyệt về hưu dưỡng lão, dạy dỗ một số thanh niên quý tộc học tập bản lĩnh quản lý chính trị trong cung vua.
Hai người nô lệ Y Doãn và Truyền Duyệt trước sau đã gánh vác trách nhiệm nặng nề cai trị đất nước của chủ nô, nếu đứng ở thời điểm hiện nay mà nhìn thì thấy hết sức kỳ cục. Thực ra, trong xã hội nô lệ, đại bộ phận chủ nô đều là những nhân vật tai to, mặt lớn, còn nô lệ thì dù phải trực tiếp lao động sản xuất, nhưng trong đó cũng có không ít tài năng xuất chúng, tri thức uyên bác, thực sự có
https://thuviensach.vn
thể cai trị được đất nước. Để duy trì sự thống trị giai cấp của họ, các chủ nô lệ đành phải khai thác nhân tài trong đám nô lệ, lớp người luôn bị chủ nô áp bức và bóc lột một cách hết sức tàn khốc. Câu chuyện “Tuẫn táng nô lệ” ở sau phác hoạ một bức hoạ lịch sử tràn trề máu và nước mắt của các nô lệ thời đó.
https://thuviensach.vn
14. Tuẫn táng nô lệ
Triều Thương là một triều đại rất phát đạt của chế độ nô lệ Trung Quốc. Những người nô lệ chịu sự áp bức và bóc lột tàn khốc của chủ nô. Lương thực mà chủ nô ăn là do nô lệ khổ sở làm ra, quần áo mà chủ nô mặc là do nô lệ ngày đêm dệt vải may cho, phòng ốc cung điện chủnô ở là do nô lệ đổ máu, trào mồ hôi xây dựng lên, xe thuyền chủ nô ngồi là do nô lệ vất vả chế tạo ra. Nô lệ cũng giống như súc vật, công cụ, nhà cửa v.v… tất cả đều là tài sản riêng của chủ nô. Hàng ngàn hàng vạn nô lệ đã dùng máu và mồ hôi của mình để nuôi sống một số chủ nô cực kỳ ít ỏi.
Vậy thì những nô lệ mà chủ nô chiếm hữu tà đâu mà ra? Nguồn gốc chủ yếu, một là từ những bộ lạc, chủng tộc bị chinh phục, hai là từ đám tù binh trong chiến tranh. Một chủ nô lớn có thể có tới hàng ngàn hàng vạn nô lệ, chủ nô tương đối nhỏ cũng thường có tới mấy chục hoặc mấy trăm nô lệ. Để phân biệt với nô lệ của người khác, các chủ nô thường đánh dấu trên trán các nô lệ của mình. Nếu nô lệ
quá nhiều thì có thể đem biếu người khác, những nô lệ thừa thì dùng dây thừng buộc thành từng xâu đem ra chợ bán. Giá nô lệ rất rẻ, trên một đồ đồng đen có tên gọi là “Hốt đỉnh” còn để lại ở cuối thời kỳ Tây Chu muộn hơn triều Thương mấy trăm năm đã ghi chép giá bán nô lệ thời đó, cho biết, năm nô lệ chỉ đổi được một con ngựa và một bó tơ. Triều Thương còn sớm hơn mấy trăm năm so với thời Tây Chu, giá bán nô lệ còn rẻ hơn nhiều. Đối với chủ nô triều Thương, việc để chết một con ngựa là chuyện rất đáng tiếc, còn như để chết mấy người nô lệ một lúc thì có đáng kể gì!
ở triều Thương sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp được tiến hành chủ yếu dựa vào nô lệ. Chủ nô xua từng bầy nô lệ đi khai hoang trồng trọt, nghe tiếng gà gáy là ra đồng, trời tối mịt mới
https://thuviensach.vn
được nghỉ.Buổi tối, nô lệ bị nhốt trong những căn nhà nhỏ thấp, chật chội, một số còn bị còng tay khoá chân, đề phòng chạy trốn. Lúc nông nhàn, trong vụ đông, nô lệ đàn ông phải xây dựng nhà cửa, đốt lò nung gốm, nấu luyện đồng đen cho chủ nô. Nô lệ đàn bà phải chạy xe đay sớm tối dệt vải cho chủ nô. Có những nô lệ phải làm việc suốt ngày đêm, cho nên trong sách cổ có ghi chép, một nô lệ siêng năng, một tháng có thể làm công việc của một tháng rưỡi. Khi chủ nô còn sống, được bóc lột đã quen, hưởng thụ đã nhàm, chúng mơ tưởng sau khi chết, linh hồn vẫn có thể được sống cuộc sống bóc lột, do vậy, khi chết chúng đã dùng nô lệ để tuẫn táng.
Tuẫn táng còn gọi là bồi táng, tức là đem người sống và người chết cùng mai táng. Chủ nô chết, lúc chôn cất, những nô lệ đang sống khoẻ mạnh kia cũng phải cùng chôn vào trong một phần mộ. Nếu nô lệ phản kháng thì giết chết rồi đem chôn cùng, hoặc dùng dây thừng trói chặt vứt xuống huyệt cùng chủ nô. Một chủ nô không chỉ dùng một người nô lệ để tuẫn táng, mà căn cứ vào địa vị cao thấp có thể tuẫn táng mấy người, mấy chục người, thậm chí mấy trăm người một lúc.
Xin hãy xem tình hình trong mộ táng của triều Thương đã khai quật được từ trong di chỉ thời Ân trước đây.
Di chỉ thời Ân ở thành phố An Dương tỉnh Hà Nam ngày nay, chính là Ân Thành, được xây dựng khi Bàn Canh dời đô tới. Sau khi triều Thương diệt vong, năm tháng xa xưa đã trôi về dĩ vãng, vương đô này dần dần thành hoang vu đổ nát, người đời sau gọi là di chỉ thời Ân. Gần năm mươi năm trở lại đây, những nhà khảo cổ học đã khai quật được hàng ngàn hàng vạn những văn vật lịch sử của triều Thương tại di chỉ thời Ân, ngoài ra là những di chỉ vương cung và di chỉ mộ táng của triều Thương. Những văn vật lịch sử và những di chỉ vương cung mộ táng này cho chúng ta biết tình hình sản xuất và
https://thuviensach.vn
đời sống xã hội nô lệ triều Thương, lại cũng thông báo cho chúng ta biết tình cảm bi thảm của tục tuẫn táng nô lệ.
Hầu gia trang hiện tại là một thôn nhỏ, ở triều Thương là khu mộ táng của các quý tộc chủ nô. Những mộ táng Ân Thương khai quật được ở đó chia làm hai khu Đông, Tây. Khu Tây có sáu ngôi mộ lớn, khu Đông có ba ngôi mộ lớn. Theo giám định khảo cổ học thì những mộ táng này đều là lăng mộ của các vua Thương. Khu Đông có hai ngôi mộ hình chữ nhật, một ngôi hình chữ á. Những ngôi mộ ở khu Tây đều có hình chữ á cả. ở chính giữa ngôi mộ hình chữ á là nơi đặt quan quách của chủ nhân ngôi mộ. Quan là cái hòm bằng gỗ hoặc bằng đá lớn hơn, bao bọc bên ngoài quan. ở bốn xung quanh hình chữ á là bốn lối đi trước mộ Đông Nam Tây Bắc, mỗi lối dài từ 20 đến 30 mét, rộng từ 5 đến 6 mét. Lối đi trước mộ chính giữa này là một cái dốc thoai thoải, quan quách được khiêng từ đây vào trong, còn ba lối đi trước mộ kia đều lầ bậc thang, từng cấp từng cấp một. Độ sâu của ngôi mộ ước khoảng 12 mét, ở chính giữa có một hố vuông nhỏ, gọi là hố eo lưng. Trước khi an táng, đầu tiên là giết chết nô lệ và một con chó tuẫn táng ở hố eo lưng, sau đó đậy ván gỗ lên, trên ván gỗ đặt một quan quách. Trong tám góc hình chữ á ở bốn xung quanh quan quách, mỗi góc có một góc vuông nhỏ, mỗi hố chôn sống một nô lệ tuẫn táng. Trên đỉnh quan quách bắc một cây gỗ lớn dùng để bảo vệ quan quách. ở đây cũng có rất nhiều nô lệ tuẫn táng, hơn thế còn được xếp hàng hết sức tề chỉnh, đại để đó như một đội quân danh dự. ở nơi chính giữa lối đi trước mộ gần trung tâm mộ có hơn hai chục nô lệ tuẫn táng, mỗi hàng mười người, tổng cộng hơn 200 người, đầu và thân đều không ở một nơi, chứng tỏ rằng nô lệ bị giết rồi mới đem chôn. Khi khai quật, phát hiện bùn đất ở phía dưới xương sọ hiện ra sắc xanh tím, hẳn là bị máu tươi ô nhiễm. Đủ thấy khi nô lệ bị chôn xuống đất máu tươi đã chảy tràn lênh láng. ở xung quanh ngôi mộ lớn, còn có hơn hai chục mộ nhỏ tuẫn táng, trong mỗi ngôi mộ đều chôn từ năm đến mười.
https://thuviensach.vn
Tính tổng cộng lại tổng số nô lệ tuẫn táng ở ngôi mộ này có tới trên dưới 400 người. Một số chủ nô chết đã có tới hơn 400 nô lệ khoẻ mạnh bị tuẫn táng theo. Đó là một chế độ vô cùng tàn khốc.
Tình hình không chỉ có như vậy. Về sau, gặp ngày lễ tết, giỗ chạp, con cháu của chủ nô còn phải giết nô lệ và bò cừu, chó, lợn làm vật hiến tế. Bởi vì nô lệ còn rẻ hơn bò, cừu, chó, lợn, khi hành lễ, số bò, cừu, chó, lợn bị giết nhiều lắm chỉ vài con, còn nô lệ thì có thể bị giết mấy chục hoặc hàng trăm người. Căn cứ vào ghi chép của giáp cốt văn, lần nhiều nhất đã có tới 2656 nô lệ bị sát hại!.
Chế độ chôn người sống theo người chết này, còn tồn tại mãi tới đầu thời kỳ xã hội phong kiến. Vào khoảng tháng 5, tháng 6 năm 1978, tại Lôi Cổ Đôn, huyện Tuỳ, tỉnh Hồ Bắc, các nhân viên công tác khảo cổ đã khai quật một di chỉ ngôi mộ trước thời Chiến Quốc cách hiện tại khoảng trên 1400 năm, đã phát hiện 21 bộ xương sọ nữ thanh thiếu niên bị tuẫn táng. Bọn chủ nô lệ đã bức hại nô lệ tàn khốc đến như vậy, tất nhiên đã gặp phải sức phản kháng kịch liệt. Những người nô lệ đã nhiều lần bạo động chống lại chế độ đẫm máu này. Trong giáp cốt văn khai quật được ở di chỉ thời Ân, không chỉ một lần chi chép những sự việc vua Thương đích thân truy kích, trấn áp nô lệ. Sự phản kháng của những người nô lệ đã làm chấn động nền thống trị của chủ nô. Trong bộ sách lịch sử cổ đại tên gọi “Thương thư” đã chép lại câu chuyện như sau: “Có một lần từng đoàn từng đội nô lệ xông vào đánh phá đám lễ lớn của vua Thương đang cúng tế trời đất và tổ tiên. Họ đã đuổi được chủ nô và ăn hết cả những tế phẩm như rượu và bò, dê, lợn v.v..., sau đó, đàng hoàng bỏ trốn cả lũ”.
https://thuviensach.vn
15. Trụ Vương đánh thắng Đông Di
Vua cuối cùng của triều Thương tên gọi là Đế Tân, còn có tên là Trụ, lịch sử gọi ông ta là Ân Trụ Vương. Thiên hạ của triều Thương chính là bị chôn vùi ở trong tay ông ta. Trong các sách lịch sử không những không nói một câu tốt đẹp nào về Ân Trụ Vương mà trái lại, đều gọi ông ta là bạo quân. Kỳ thực trong lịch sử, Ân Trụ Vương có công lao. Ông ta từng tiến công đánh thắng Đông Di mở rộng đất đai biên cương tới vùng Đông Nam Trung Quốc, khiến cho lưu vực Trường Giang được khai thác phát triển. Trước hết hãy kể về câu chuyện về mặt này, còn chuyện ông ta chôn vùi triều Thương thì lưu lại sẽ kể ở đằng sau.
Ân Trụ Vương là vua thứ 29 của Triều Thương- con trai nhỏ của ất Đế. Truyền thuyết kể rằng Ân Trụ Vương có thân hình cao lớn, rất đẹp trai, là người rất thông minh, đối với sự việc phức tạp ông có thể phán đoán rất nhanh. Ông có sức khoẻ kinh người, có thể tay không đánh nhau với mãnh thú, kéo thẳng mó thép, có thể đem dây thép uốn cong thành thừng. Một hôm, chiếc cột nóc của cung vua bị mục nát, thợ mộc muốn dựng một cái dàn để dỡ nó nhà, sau đó sẽ thay cột mới. Trụ Vương nói:
- Các người chớ có làm cho phiền phức, đem cột ra đây, trẫm sẽ dùng tay đỡ mái, các người sẽ thay cột được chứ gì.
Những chuyện này lẽ dĩ nhiên chỉ là sự miêu tả khoa trương ở trong sách cổ.
Dưới đây chuyện Ân Trụ Vương đánh thắng Đông Di mở rộng vùng Đông Nam.
https://thuviensach.vn
Khu vực Trung Nguyên của Trung Quốc tức là lưu vực Hoàng Hà, do tộc Hoa Hạ khai phát, dải đất Đông Nam chính là ngôi nhà cũ của Đông Di. Chữ “Đông” trong từ Đông Di là chỉ dải đất mà họ cư trú ở phía Đông, còn chữ “Di” là do chữ “Đại và chữ Cung hợp thành. Chữ Đại giống như hình người, ý nghĩa là nói người Đông Di luôn luôn đeo dây cung, sống cuộc sống săn bắn lang thang. Đông Di không phải là một bộ tộc thống nhất, mà là tiếng gọi chung của rất nhiều bộ lạc nhỏ, lạc hậu hơn nhiều so với bộ tộc Hoa Hạ, ở thời kỳ cuối triều Thương, có bộ lạc còn ở vào giai đoạn xã hội nguyên thuỷ, có bộ lạc cũng vừa bước vào xã hội nô lệ.
Triều Thương là một nước lớn, theo chế độ nô lệ mà đặc điểm của quốc gia theo chế độ nô lệ là không ngừng cướp đoạt nhân khẩu bổ sung làm nô lệ. Những bộ lạc nhỏ Đông Di đó, từ trước vẫn là nguồn bổ sung nô lệ cho triều Thương. Nhưng xã hội Đông Di cũng không ngừng phát triển. Kết quả của sự tiếp xúc giữa triều Thương và họ đã khiến cho sự phát triển của xã hội Đông Di càng nhanh. Do vậy, sự đối kháng của Đông Di đối với Triều Thương cũng ngày càng gay gắt hơn. Có lúc, quý tộc, chủ nô của Đông Di cũng tấn công triều Thương, bắt dân triều Thương làm nô lệ
Sự cường thịnh và phản kháng của Đông Di đã uy hiếp nền thống trị của triều Thương. Cha của Ân Trụ Vương là Đế ất đã phát động cuộc tấn công đại quy mô đối với Đông Di, song vẫn chưa thu được thắng lợi.
Khi Trụ vương kế thừa ngôi vua, đã tổ chức một đội quân lớn, tạo đúc hàng loạt vũ khí mới, đích thân xuất chinh tấn công đại quy mô vào Đông Di. Các bộ lạc Đông Di đã liên hợp nhau cùng chống lại. Trên chiến trường, Trụ vương xông xáo chém giết, một mình có thể địch được rất nhiều, người Đông Di hoảng sợ, hễ cứ nhìn thấy cờ của Trụ vương liền cắm đầu chạy thục mạng.
https://thuviensach.vn
Kỹ thuật sản xuất tiên tiến của triều Thương đã đem lại ưu thế rất lớn cho quân Thương. Trụ vương sai nô lệ đúc hàng loạt mũi tên bằng đồng đen vừa tinh xảo, vừa sắc nhọn, có thể bắn được rất xa, lực sát thương lớn. Thứ mà người Đông Di dùng vẫn là mũi tên đá hoặc xương thú mài nhọn, lẽ dĩ nhiên không địch nỗi mũi tên đồng đen. Khi hai quân Thương Di đối trận, Trụ vương hạ lệnh cho quân Thương ra sức bắn tên, sát thương hàng loạt quân tiên phong của Đông Di. Quân đội Đông Di ở đằng sau thấy rõ quân tiên phong bị bắn ngã hàng loạt, sợ xanh mắt, còn chưa kịp định thần đã bị Trụ vương sớm đưa quân xông tới bao vây. Quân Đông Di bị bắt làm tù binh nhiều không kể xiết.
Trụ vương chỉ huy quân Thương đánh thắng tới hạ du Trường Giang, đại đa số các bộ lạc Đông Di phải đầu hàng. Căn cứ vào ghi chép trong sách cổ, Ân Trụ Vương đã bắt sống hàng triệu quân Đông Di. Con số này đương nhiên là khoa trương, bởi vì toàn bộ nhân khẩu của Trung Quốc lú đó cũng chưa tới một ức người (mười vạn), nếu nói Trụ Vương đã bắt sống được hàng ngàn hàng vặn người Đông Di, đó là điều hoàn có khả năng.
Trụ Vương đánh thắng Đông Di đã khai thác, mở rộng giao thông ở vùng Trung Nguyên và Đông Nam, khiến cho các dân tộc hai khu vực qua lại càng mật thiết hơn. Từ đấy, nền văn hoá Trung Nguyên dần dần được truyền bá tới khu vực Đông Nam. Nhân dân ở nơ đó đã hấp thụ được nền văn hoá tiên tiến của đẩy sản xuất phát triển với tốc độ nhanh chưa từng thấy. Vì vậy, có thể nói, nếu khu vực Đông Nam và hạ du Trường Giang được khai thác và phát triển vào loại sớm nhất ở Trung Quốc thì phải ghi nhận công lao của Ân Trụ Vương.
https://thuviensach.vn
16. Văn Vương tìm người tài gặp Khương Thượng Vào những năm cuối triều Thương ở lưu vực sông Vị Thuỷ đã nổi lên một quốc gia hùng mạnh có tên là Chu. Tổ tiên của Chu họ Cơ, có một lịch sử rất lâu đời. Theo truyền thuyết, tổ tiên xa xưa của họ là Hậu Tắc ở thời Nghiêu giữ chức nông sư và kế nhiệm hết đời này sang đời khác quản lý các công việc về mặt nông nghiệp. Những năm tháng cuối triều Hạ, chính phủ hủ bại, nông nghiệp suy thoái, tổ tiên nhà Chu liền dời về phía Tây, tới một vùng đất ở phía Đông Cam Túc và phía Tây Thiểm Tây ngày nay, tự tổ chức thành bộ lạc. Cuối triều Thương, tộc Chu bị tộc Nhung và tộc Địch ở phía Tây Bắc xâm phạm, quấy nhiễu; thủ lĩnh của tộc Chu là Cổ Công Đản Phụ dắt dần đoàn người trong tộc từ phái Bắc Kỳ Sơn dời tới Chu Nguyên Thượng ở phía Nam Kỳ Sơn cư trú; hơn thế, họ còn xây dựng thành quách, cung thất ở đó, rồi khai khẩn đất hoang, lập ra các chức quan lại. Đại để là tộc Chu dần dần hình thành một quốc gia theo chế độ nô lệ. Khi con trai của Cổ Công Đản Phụ là Lý Lịch tại vị, thế lực của Chu đã lớn mạnh hẳn lên. Vua triều Chu là Văn Đinh linh cảm thấy bị Chu uy hiếp đã giết hại Lý Lịch.
Sau khi Lý Lịch chết, con trai ông ta là Cơ Xương kế ngôi, đó chính là Chu Văn Vương nổi tiếng. Vốn gốc gác là nông sư, Chu Văn Vương cũng rất coi trọng nông nghiệp. Với người đời ông khoan dung nhân hậu, với bậc già cả thì tỏ ra tôn kính, với trẻ nhỏ rất mực yêu thương, vì vậy ông rất được dân chúng ủng hộ. Chu Văn Vương đặc biệt kính trọng những người có bản lĩnh và đã mời họ tới giúp cai trị quốc gia. Nhiều hiền tài trong thiên hạ đã tìm về với ông, do vậy, dưới trướng ông có rất nhiều văn thần võ tướng.
Ân Trụ Vương thấy rõ thanh thế của Chu ngày càng mạnh nên vô cùng lo sợ, bèn kiếm cớ cho gọi Chu Văn Vương tới rồi tống
https://thuviensach.vn