🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Truyện Ngắn A. P. Chekhov - Anton Chekhov
Ebooks
Nhóm Zalo
Giới thiệu
Với tập hợp 27 truyện ngắn, mỗi truyện đều mang một vẻ đẹp riêng có khi là sự chế giễu hóm hĩnh, cũng có khi là những giây phút lắng lòng về tình yêu.
Hình ảnh lớp viên chức, thị dân, nông dân, địa chủ... thường ta hay gặp ngoài đường phố, trong các rạp hát, bệnh viện, trường học hoặc trên các trại ấp đều được ngòi bút nhà văn khắc hoạ hết sức đậm nét. Không phải qua các chi tiết bề ngoài, mà đậm nét ở tâm trạng các nhân vật muôn hình nghìn vẻ.
Bên cạnh hình ảnh cái chết của một viên chức thì chuyện “Anh béo anh gầy” thật gần gũi với bao người, tạo nên tiếng cười hài hước không sao ngăn nổi đối với bạn đọc xuyên suốt hai thế kỷ.
Không chỉ nỗ lực “nặn cho hết những giọt nô lệ trong bản thân mình”, mà nhà văn mang ước nguyện cháy bỏng là làm sao cho “con người Nga trong tương lai đều phải đẹp, từ diện mạo, áo quần đến tâm hồn, tư tưởng”.
Không bị ràng buộc vào các giáo điều cũ kỹ, truyện ngắn Chekhov chứa bao điều lạ lẫm lấy từ sinh hoạt hàng ngày, kể cả “nước mắt mà người đời không thấy”, nhằm nhắn nhủ “Hãy nhìn lại mình, hãy nhìn xem chúng ta đang sống tồi, sống tẻ như thế nào?”.
Mục lục
TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC
Cái chết của một viên chức
Anh béo và anh gầy
Phẫu thuật
Con Kỳ Nhông
Mặt nạ
Lảo quản Prisưbeép
Một chuyện đùa
Vanka
Chuyện đời vặt vãnh
Chai rượu sâm banh (Chuyện của một kẻ vô lại) Hai kẻ thù
Vêrơska
Vé trúng số
Điều bí ẩn
Mưa dầm
Một tấn kịch
Thủ đoạn
Những buổi học đắt tiền
Thảo nguyên (Chuyện một chuyến đi)
Hai người đẹp
Cơn bệnh thần kinh
Đánh cược
Nữ hầu tước
Những người đàn bà
Ở nơi đày ải Iônứts
Người trong bao
TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC
Tinh hoa văn học của nhân loại nào cũng cần được khám phá và tái khám phá. Mỗi tác phẩm lớn là một xứ sở kỳ diệu và mỗi lần ta tìm đến là thực hiện một cuộc phiêu lưu hoan lạc.
Dịch thuật, giới thiệu và biên khảo về những tác phẩm tinh hoa sẽ mở ra các lối cổng dẫn vào những cảnh tượng văn chương khác nhau, qua những không gian và thời gian vừa hiện thực vừa kỳ ảo.
Khát vọng hiểu biết và vui thú trong đời là bản tính của con người ở mọi nơi và mọi thời. Các tác phẩm văn chương thật sự vĩ đại đều mang lại hai điều đó: vui thú và hiểu biết. Nhưng hiểu biết là niềm vui hiếm khi tự đến một cách dễ dãi. Cần đón đợi và hồi đáp.
Mọi tác phẩm tinh hoa cần được đón đợi và hồi đáp trong niềm hân hoan có tên là “ĐỌC”.
ĐỌC. Cầm sách lên và đọc. Trong sách có bạn hiền, có người đẹp, có mọi thứ. Do vậy, chúng tôi chủ trương TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC, xem đó như cửa ngõ của hiểu biết và niềm vui.
CÓ NĂM CỬA:
• Kiệt Tác:
Mỗi kiệt tác sẽ được dịch trọn vẹn và giới thiệu cả tác giả lẫn tác phẩm trong phối cảnh văn hóa những đặc điểm thiết yếu.
• Tuyển:
Tuyển chọn những tác phẩm ngắn của một tác giả, một nền văn học hay một chủ đề mang tính điển mẫu (thuộc vòng đời hay vòng mùa).
• Kiến Thức:
Những kiến thức mà người đọc hiện đại cần có: trào lưu văn học, các nền văn học, thể loại… được trình bày gọn nhẹ, dễ tiếp nhận.
• Nghiên Cứu:
Các công trình chuyên sâu về một vấn đề văn học, một tác giả thiên tài, lý luận phê bình…
• Mới:
Về các hiện tượng văn học mới xuất hiện của nước ngoài đang gây chú ý hoặc đoạt các giải thưởng lớn… Mong ước chúng tôi là TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC sẽ tiến bước bền vững và được đón nhận thân tình.
Tủ sách được biên soạn và dịch thuật từ những nhà giáo, dịch giả và nhà nghiên cứu có uy tín và tâm huyết với văn chương.
NHẬT CHIÊU
Cái chết của một viên chức
VÀO MỘT BUỔI TỐI THÚ VỊ, Ivan Đơmitơríts Tsêrviakốp, một viên quản trị hành chính không kém phần thú vị hơn, đã ngồi ở hàng ghế bành thứ hai, giương ống nhòm lên sân khấu xem vở Chuông Kornêvinh[1].
Y vừa xem vừa cảm thấy trong lòng khoan khoái vô cùng. Bỗng dưng... Trong các truyện thường gặp chữ “bỗng dưng” này, các tác giả đã có lý: cuộc đời quả là đầy dẫy những chuyện bất ngờ. Bỗng dưng mặt y nhăn nhó, mắt hoa lên, hơi thở nghẹn lại... Y rời mắt khỏi chiếc ống nhòm, hơi cúi xuống và... hắt xì!!! Các bạn thấy đấy, y đã hắt hơi. Không ở đâu lại có lệ cấm người này người nọ hắt hơi cả. Người nhà quê hắt hơi, cảnh sát trưởng hắt hơi, và đôi khi cả các viên chức bậc ba[2]cũng hắt hơi. Ai mà chẳng hắt hơi. Tsêrviakốp không hề cảm thấy ngượng ngùng chút nào, y lấy khăn mùi xoa ra lau, và như một người lịch sự, y nhìn quanh xem thử cái hắt hơi của mình có trót làm phiền ai không? Liền đấy y cảm thấy bối rối. Y nhìn thấy một người đã có tuổi ngồi trên hàng ghế đầu ngay phía trước y đang lấy găng tay cẩn thận lau cổ và cái đầu hói của mình, mồm càu nhàu câu gì không rõ. Tsêrviakốp nhận ra vị có tuổi là tướng Brigialốp đương nhiệm tại tổng cục đường sắt.
“Mình làm bắn nước bọt vào ngài rồi! - Tsêrviakốp nghĩ. - Không phải thủ trưởng của mình, ở nơi khác, nhưng dù sao thì vẫn không hay ho gì. Phải tạ lỗi mới được”.
Tsêrviakốp đằng hắng, nghển cổ ra trước, thì thào vào tai vị tướng: - Thưa ngài, ngài thứ lỗi cho, tôi trót hắt hơi... tôi vô ý...
- Không hề gì, không hề gì...
- Ngài làm ơn làm phúc tha lỗi cho. Tôi... tôi... không muốn thế đâu ạ! - Thôi, anh làm ơn ngồi yên cho! Để tôi xem nốt!
Tsêrviakốp ngượng ngùng, bối rối cười ngây ngô và lại nhìn tiếp lên sân khấu. Xem thì vẫn xem nhưng không còn cảm thấy khoan khoái nữa, trong lòng đầy thắc thỏm lo âu. Đến giờ giải lao, y mon men đến chỗ Brigialốp, loanh quanh một lúc rồi đánh bạo lắp bắp nói:
- Tôi... tôi trót hắt hơi vào ngài... Xin ngài... thứ lỗi cho... Tôi không... không có ý... thế.
- Ôi dào, đủ rồi... Tôi đã quên rồi mà anh còn cứ nói mãi! - viên tướng nói, môi dưới trề ra, tỏ vẻ sốt ruột, khó chịu.
“Ngài nói ngài quên mà mắt ngài trông giận dữ thế, - Tsêrviakốp nghĩ, hồ nghi liếc nhìn viên tướng. - Ngài cũng không muốn nói nữa. Cần phải thanh minh với ngài rằng quả thật là mình không hề cố ý... rằng đó là quy luật của tự nhiên, không thì ngài lại nghĩ rằng mình muốn làm bắn nước bọt vào ngài. Bây giờ chưa nghĩ thế nhưng sau này có thể nghĩ!...”
Khi về nhà, Tsêrviakốp kể lại chuyện xảy ra cho vợ nghe. Nhưng y cảm thấy rằng vợ mình quá xem thường chuyện đó; bà ta chỉ hoảng sợ một chút thôi nhưng sau khi biết ngài là thủ trưởng ở “nơi khác” thì yên tâm trở lại.
- Nhưng mà thôi ông cứ đến gặp ngài mà xin lỗi đi, - bà ta nói. - Không thì ngài có thể nghĩ rằng ông không biết xử sự cho phải nhẽ ở nơi công cộng!
- Đúng là phải thế! Tôi đã xin lỗi rồi nhưng thái độ ngài có vẻ khác thường làm sao ấy... Ngài không nói một lời nào đứng đắn cả. Ừ mà cũng không có lúc nào để nói cho ra đầu ra đũa...
Ngày hôm sau, Tsêrviakốp mặc bộ lễ phục mới, húi đầu tử tế rồi đi đến chỗ Brigialốp để thanh minh... Bước vào phòng khách của tướng Brigialốp, y trông thấy nhiều người đang đợi xin gặp và cạnh họ là chính ngài Brigialốp
lúc này đã bắt đầu nghe các lời thỉnh cầu. Hỏi một vài người xong, vị tướng đưa mắt nhìn Tsêrviakốp.
- Dạ thưa ngài... hôm qua ở rạp “Arcađi”[3]ngài còn nhớ không ạ, - Tsêrviakốp bắt đầu bẩm báo, - tôi... tôi hắt hơi... trót bắn dãi rớt vào... Xin... xin ngài...
- Rõ thật vớ vẩn... Có trời biết là thế nào nữa? Anh muốn gì nào? - vị tướng quay sang hỏi người tiếp theo.
“Ngài không muốn nói chuyện với mình! - Tsêrviakốp tái mặt nghĩ. - Thế là ngài giận đấy... Không, không thể để thế được... Mình phải thanh minh với ngài...”
Khi viên tướng đã nói chuyện xong với người thỉnh cầu cuối cùng và đi vào làm việc ở nhà trong, Tsêrviakốp bèn bước theo và lắp bắp nói:
- Thưa ngài, nếu tôi có cả gan dám làm phiền ngài thì cũng chỉ vì, thưa ngài, tôi hối hận lắm ạ!... Tôi không cố ý đâu ạ, chắc ngài đã rõ đấy ạ!
Viên tướng cau mặt khoát tay:
- Này anh kia, có phải anh định giễu tôi không thì bảo! - viên tướng nói và đi vào trong phòng, đóng cửa lại.
“Mình giễu cợt gì mới được chứ? - Tsêrviakốp nghĩ. - Ở đây hoàn toàn không có chuyện gì đáng cười cợt cả! Ngài làm tướng mà ngài không hiểu! Nếu vậy thì mình sẽ không đến gặp ngài để xin lỗi nữa. Thôi mặc ngài! Mình sẽ viết cho ngài một bức thư, còn đến đấy gặp thì thôi! Ôi dào, thôi không đến nữa!”
Tsêrviakốp đã nghĩ ra thế khi trở về nhà. Thư gửi cho viên tướng y không viết. Y nghĩ hoài, nghĩ mãi cũng không biết phải viết thế nào. Hôm sau, y lại đi đến đấy thanh minh lần nữa.
- Hôm qua tôi có đến làm phiền ngài. - Y lắp bắp nói, khi viên tướng đưa mắt về phía y với ý hỏi, - dạ không phải là để cười cợt như ngài đã có lời phán đâu ạ. Xin ngài thứ lỗi vì khi hắt hơi đã làm bắn nước bọt ạ... chứ tôi không có ý giễu cợt gì đâu ạ. Tôi đâu dám cười cợt ạ? Nếu như tôi mà giễu cợt thì còn đâu là sự kính trọng với... các bậc bề trên nữa ạ...
- Cút ngay! - viên tướng quát to, người run lên, mặt tái xanh vì giận dữ. - Sao... kia ạ? - Tsêrviakôp khẽ hỏi lại, lặng người đi vì sợ hãi. - Xéo ngay! - viên tướng giậm chân quát.
Trong bụng Tsêrviakốp như có cái gì vừa bị đứt ra. Không nhìn thấy gì, không nghe thấy gì, y đi giật lùi ra cửa, bước ra ngoài phố và lê bước quay về... Đi về nhà như cái xác không hồn, y mặc nguyên bộ lễ phục, nằm xuống đivăng và... tắt thở.
Anh béo và anh gầy
TRÊN SÂN GA của tuyến đường sắt Nikôlai[4]có hai người bạn cũ gặp nhau: một người béo, một người gầy. Anh béo vừa ăn ở nhà ga xong, môi láng nhẫy bơ như quả đào chín. Người anh ta toát ra mùi rượu nho loại nặng, mùi nước hoa cam. Còn anh gầy thì mới xuống tàu, hai tay lỉnh kỉnh nào vali, nào hộp, nào túi. Người anh ta toát ra mùi thịt ướp, mùi bã cà phê. Sau lưng anh ta là một người đàn bà gầy gò, cằm dài - đó là vợ anh ta, và một cậu học sinh cao lêu nghêu mắt nhíu lại - đó là con trai anh ta.
- Porphiri đấy à? - anh béo kêu lên, khi vừa nhác thấy anh gầy. - Đúng là cậu ư? Ôi, ông bạn thân mến của tôi! Bao nhiêu đông qua hè lại chúng mình không gặp nhau rồi!
- Trời! - anh gầy sửng sốt. - Misa! Bạn từ thuở nhỏ của tôi! Cậu ở đâu ra thế?
Hai người bạn ôm nhau hôn đến ba lần, mắt rưng rưng chăm chăm nhìn nhau. Cả hai đều kinh ngạc một cách đầy thú vị.
- Cậu ạ, - anh gầy bắt đầu nói sau khi hôn xong. - Mình quả không ngờ! Đột ngột quá! Nào, cậu nhìn thẳng vào mình xem nào! Ô, trông cậu vẫn đẹp trai như xưa, vẫn lịch thiệp, sang trọng như xưa! Chà, hay thật! À, mà cậu bây giờ thế nào rồi? Giàu không? Lấy vợ chưa? Mình thì có vợ rồi, cậu thấy đấy... Đây, vợ mình đây, Luida, nguyên họ là Vanxenbắc, theo đạo Luyte[5]... Còn đây là con trai mình, Naphanain, học sinh lớp ba. Này con, bác đây là bạn hồi nhỏ của bố đấy! Cùng học phổ thông với nhau đây.
Naphanain ngập ngừng một lát rồi bỏ chiếc mũ mềm xuống. - Cùng học phổ thông với bố đấy con ạ! - anh gầy nói tiếp - À này, cậu còn
nhớ cậu bị chúng nó trêu chọc thế nào không? Chúng nó gọi cậu là Gêrôxtrát[6]vì cậu lấy thuốc lá châm cháy một cuốn sách mượn của thư viện, còn mình thì chúng nó gọi là Ephian[7]vì mình hay mách. Hô... hô... Dạo ấy bọn mình trẻ con thật! Đừng sợ con, Naphanain! Con lại gần bác chút nữa nào... Còn đây là vợ mình; nguyên họ là Vanxenbắc... theo đạo Luyte...
Naphanain suy nghĩ một lát rồi nép vào sau lưng bố.
- Này anh bạn, bây giờ sống ra sao? - anh béo hỏi, nhìn bạn mình với vẻ đầy hoan hỉ. - Làm ở đâu? Thành đạt rồi chứ?
- Ừ, mình cũng có đi làm, anh bạn ạ! Hai năm nay mình là viên chức bậc tám, cũng được mề đay “Xtanixláp”[8]. Lương lậu chẳng đáng là bao... nhưng mà thôi, thây kệ nó! Vợ mình dạy nhạc, mình thì làm thêm tẩu thuốc bằng gỗ. Tẩu đẹp lắm cậu ạ! Mình bán một rúp một cái đấy. Nếu ai mua cả chục hay nhiều hơn thì, cậu biết đấy, có bớt chút ít. Cũng cố sống qua loa thế nào xong thôi. Cậu biết không, trước mình làm ở cục, bây giờ thì mình được chuyển về đây, thăng lên bậc bảy cũng trong ngành đó thôi... Mình sẽ làm ở đây. Còn cậu sao rồi? Chắc là cỡ viên chức bậc năm rồi chứ? Phải không?
- Không đâu, anh bạn ạ, cao hơn thế nữa đấy, - anh béo nói. - Mình là viên chức bậc ba rồi... có hai mề đay của Nhà nước.
Anh gầy bỗng dưng tái mét mặt, ngây ra như phỗng đá, nhưng lát sau thì anh ta toét miệng cười mặt mày nhăn nhúm; dường như mắt anh ta sáng hẳn lên. Toàn thân anh ta rúm ró, so vai rụt cổ khúm núm... Cả mấy thứ vali, hộp, túi của anh ta như cũng co rúm lại, nhăn nhó... Chiếc cằm dài của bà vợ như dài thêm ra; thằng Naphanain thì rụt chân vào và gài hết cúc áo lại...
- Dạ, bẩm quan trên, tôi... tôi rất lấy làm hân hạnh ạ. Bạn... nghĩa là bạn... từ thuở nhỏ, thế rồi bỗng nhiên làm chức to thế. Hì hì hì.
- Thôi, cậu đừng nói thế đi! - anh béo cau mặt. - Sao cậu lại giở giọng thế? Mình với cậu là bạn từ thuở nhỏ - việc gì cậu lại giở giọng quan cách thế.
- Dạ bẩm quan... Quan lớn dạy gì kia ạ... - anh gầy cười hì hì, người càng rúm ró hơn. - Quan lớn chiếu cố cho thế này là đội ơn mưa móc cho kẻ bần dân đấy ạ... Dạ bẩm quan trên, thưa đây là con trai tôi Naphanain... và vợ là Luida, theo đạo Luyte đấy ạ...
Anh béo định quở trách điều gì thêm, nhưng gương mặt anh gầy toát ra vẻ kính cẩn, lâng lâng hoan hỉ đến mức anh béo cảm thấy buồn nôn. Anh béo ngoảnh mặt đi và đưa tay từ biệt anh gầy.
Anh gầy nắm ba ngón tay anh béo, cúi gập mình xuống chào và cười lên như một chú tẫu: “Hì hì hì”. Bà vợ mỉm cười. Naphanain kéo chân lại và buông thõng chiếc mũ xuống.
Cả ba người đều sững sờ một cách đầy thú vị.
Phẫu thuật
MỘT NHÀ THƯƠNG của hội đồng tự quản địa phương. Do bác sĩ đi cưới vợ vắng nên tiếp bệnh nhân là viên y sĩ Kuriatin, một người đàn ông to béo trạc chừng bốn mươi tuổi, mặc chiếc áo vét đũi nhàu nát và chiếc quần len cũng đã sờn rách, cũ kỹ. Gương mặt y lộ rõ vẻ thú vị lưu tâm đến chức phận của mình. Kẹp giữa ngón dài và ngón tay trỏ là một điếu xì gà mùi khét lẹt.
Viên trợ tế nhà thờ Vônmiglaxốp bước vào phòng khám bệnh; đó là một ông già cao lớn, vạm vỡ, mặc chiếc áo thầy tu rộng thùng thình màu nâu, mình đeo thắt lưng da to bản. Mắt bên phải bị lòa chỉ he hé mở, trên sống mũi có một mụn cơm trông từ xa giống như một con nhặng. Trong giây lát, ông già nhìn xung quanh tìm tượng thánh, không tìm được, ông bèn làm dấu trước cái chai đựng phênôn, rồi sau đó ông giở chiếc khăn tay màu đỏ, lấy một chiếc bánh thánh ra, rồi cúi mình đặt trước bàn viên y sĩ ngồi.
- À... à... à... chào ông già! - y sĩ vừa ngáp vừa nói. - Có chuyện gì vậy, ông già?
- Chào ông Xergây Kudmíts... Có việc phải nhờ vả ông đây... Xin lỗi ông, trong Kinh Thánh có câu nói thật đúng: “nước tôi uống hòa lẫn cùng nước mắt”. Hôm vừa rồi đang ngồi uống nước chè với bà lão nhà tôi thì không thể uống một giọt nước vì đau buốt, chỉ còn thiếu nước là nằm xuống chờ chết... Uống một ngụm là người cứ rũ ra! Mà có phải chỉ có răng đau thôi đâu, đau cả một bên đầu... Nhức quá, nhức quá! Đau dội bên tai, xin lỗi ông, cứ như là trong tai có đinh hay cái gì đó: nhói buốt quá thể, nhói buốt quá thể! Ô, lạy Chúa, kẻ có tội là tôi, đứa trái luật là tôi... Tội lỗi làm tâm hồn giá lạnh và đời tôi đã sống trong lười nhác... Ông Xergây Kudmíts, tôi phải chịu tội, phải chịu tội! Đức cha sau lúc làm lễ xong có trách mắng tôi: “Này, Ephim, sao lão cứ nói lúng búng giọng mũi như vậy. Lúc hát thì chẳng còn nghe ra làm sao nữa cả”. Ông cứ nghĩ thử xem, mồm không há ra được thì còn hát với hỏng thế nào được nữa, cả hàm sưng ù lên, xin lỗi, suốt đêm không ngủ được tí nào...
- Ờ... ờ... Ông ngồi xuống đi... Há mồm ra coi!
Ông già Vônmiglaxốp ngồi xuống và há miệng.
Kuriatin chau mày nhăn mặt nhìn vào miệng ông già, và giữa đám răng vàng khè vì chủ nhân của chúng vừa có tuổi lại vừa hút thuốc lá, viên y sĩ nhìn thấy một chiếc răng có lỗ sâu.
- Đức cha bảo tôi ngậm rượu ngâm củ cải ngựa nhưng cũng không ăn thua. Bà Glikêria Aniximốpna, cầu Chúa phù hộ cho bà ta, thì cho tôi đeo sợi dây lấy từ núi Aphôn[9]và bảo tôi súc miệng bằng sữa nóng, còn tôi, thú thực là tôi có đeo cái dây ấy, nhưng còn lấy sữa súc miệng thì tôi không theo: chả là đang tuần ăn chay mà, tôi sợ Chúa...
- Ông chỉ mê tín thôi... (Ngừng một lát.) Phải nhổ nó đi, ông Ephim Mikhêíts ạ!.
- Ông Xergây Kudmíts, ông hiểu biết hơn tôi. Ông được học hành thì ông mới biết lúc nào thì phải nhổ, lúc nào thì phải nhỏ thuốc, hay dùng cách nào khác mà chữa... Chúa đã sắp đặt các ông làm điều từ thiện, cầu Chúa phù hộ cho các ông, bọn chúng tôi thì phải đêm nguyện ngày cầu cho các ông như cầu cha cầu mẹ... đến khi nhắm mắt mới thôi...
- Xì, chuyện vặt, nói làm gì, - viên y sĩ vừa khiêm tốn nói vừa bước lại tủ lục tìm dụng cụ. - Phẫu thuật là chuyện vặt thôi, có gì đâu... Chẳng qua chỉ cần quen thôi, tay thì cứng cáp một tí... Dễ như trở bàn tay... Hôm vừa rồi đây, ông điền chủ Alếchxanđrơ Ivanứts Eghipétxki có đến nhà thương đây... Cũng bị đau răng như ông... Ông ấy là bậc thức giả cái gì cũng muốn biết, cái gì cũng hỏi ngành ngọn rõ ràng. Ông ấy bắt tay tôi, kêu tôi bằng đủ họ đủ tên nhé... Sống ở Pêtérburg[10]bảy năm, làm quen với đủ các vị giáo sư... Tôi với ông ấy ngồi nói chuyện với nhau mãi... Lạy Chúa, ông nhổ giùm tôi cái răng ấy với, ông Xergây Kudmíts! Việc gì mà không nhổ? Nhổ được chứ. Nhưng mà phải hiểu biết rành rọt bằng không thì cứ gọi là bó
tay... Răng cũng có nhiều loại răng chứ. Có cái phải dùng kìm, có cái phải nạy lên, có cái phải dùng lắc lê... Mỗi người mỗi khác.
Viên y sĩ cầm cái nạy lên, nhìn một lúc ra vẻ suy nghĩ đắn đo, sau đó y lại để xuống cầm lấy cái kìm.
- Nào, bây giờ ông há miệng ra cho to vào... - viên y sĩ tay cầm kìm vừa nói vừa bước lại gần ông già. - Tôi sẽ... sẽ ngay bây giờ cho ông... Dễ thôi mà, có quái gì đâu... Chỉ cần vạch cái lợi ra... Kéo ngược lên một cái... thế là xong... (y vạch lợi ra) thế là xong...
- Các ông là người ban phúc, ban ơn... Bọn ngu đần chúng tôi thì có biết mô tê gì... Chúa đã ban học thức cho các ông mà lại...
- Thôi đừng lý sự nữa, mồm ông há ra rồi cơ mà!... Cái răng này nhổ dễ thôi mà, có khi chỉ còn toàn chân răng... Cái này thì có quái gì đâu... (Y đặt chiếc kìm vào.) Ấy chết, sao lại run lên bần bật thế... Ngồi yên chứ... Chỉ nháy mắt là xong thôi... (Y bắt đầu kéo ra.) Điều cần nhất là kìm phải cặp cho sâu (kéo tiếp)... thì mũ răng mới khỏi bị vỡ...
- Ôi cha ơi... Mẹ ơi... ơ ơ ơ...
- Đừng... đừng... Đừng túm tay tôi! Bỏ tay ra! (Lại kéo.)
- Xong ngay thôi... Đấy... Có phải chuyện bỡn đâu mà...
- Ôi cha mẹ ơi... cha mẹ ơi... (Kêu thét lên.) Ôi, lạy thánh thần! Ối ối ối... Nhổ thì nhổ đi! Sao lại kéo dăm ba năm thế-ế!
- Đúng là chuyện... chuyện phẫu thuật... Chứ phải chơi đâu... Làm ngay thế nào được... Đấy... đấy...
Ông già Vônmiglaxốp co đầu gối lên chạm khuỷu tay, mấy ngón tay huơ huơ, mắt trố ra, thở hổn hển... Mồ hôi lấm tấm trên gương mặt đỏ lựng, nước mắt ứa ra. Viên y sĩ Kuriatin cũng thở hổn hển, chân giậm thình thịch bên cạnh lão trợ tế và kéo... Nửa phút đau đớn kinh khủng trôi qua - và
chiếc kìm tuột ra khỏi răng. Lão trợ tế chồm lên và thọc ngón tay vào mồm. Lão sờ thấy cái răng vẫn ở chỗ cũ.
- Thế mà cũng kéo - ông già nói bằng giọng dở khóc dở cười giễu cợt. - Đến lúc ông chầu trời rồi tôi cũng cầu cho ông bị người ta lôi răng ra như vậy! Xin vái dài, cám ơn ông lắm lắm! Không biết nhổ thì đừng mó tay vào có hơn không! Tôi cứ đau điếng cả người, không còn thấy trời đất gì nữa...
- Nhưng mà tại sao ông lại cứ níu lấy tay tôi? - viên y sĩ cáu kỉnh nói. - Tôi thì kéo, còn ông thì cứ đẩy đẩy tay tôi mà lảm nhảm nói những gì ở đâu... Đồ ngu ngốc!
- Ông ngu thì có!
- Đồ ngu, ông tưởng nhổ cái răng mà dễ như bỡn đấy phỏng? Có giỏi thì cứ thử làm xem! Đây có phải là chuyện leo lên gác chuông mà giật mà kéo dây chuông đâu! (Viên y sĩ làm điệu bộ bắt chước.) Cứ luôn mồm: “Không biết nhổ, không biết nhổ!” Này, ông già ông lại đòi dạy khôn tôi đấy phỏng? Xì, ông mà dạy... Đấy tôi đã nhổ cho ngài Alếchxanđrơ Ivanứts Eghipétxki đấy, thế mà ngài có nói, có kêu la gì đâu... Người ta còn sang trọng hơn ông, mà có nắm tay gì đâu... Thôi, ngồi xuống, đi! Ngồi xuống, tôi đã bảo mà!
- Tôi đau quá... Cho tôi thở một lúc đã... Chà! (Ông già ngồi xuống.) Đừng có kéo lên, mà phải nhổ đấy. Đừng kéo mà nhổ thôi ông, nghe chưa nào... Cứ nhổ phăng đi!
- Chỉ được cái múa rìu qua mắt thợ! Lạy Chúa tôi, bọn dân đen này vô học quá mất thôi! Cứ ở gần mãi, cái bọn này... khéo đến hóa đần mất! Nào, há miệng ra... (Viên y sĩ đặt chiếc kìm vào.) Này, ông bạn già ơi, phẫu thuật không phải là chuyện bỡn đâu... Có đâu như chuyện lên bục mà đọc kinh đâu... (Y bắt đầu kéo.) Đừng run lên thế... Hóa ra cái răng này già quá rồi, chân nó ăn sâu lắm... (Lại kéo.) Ngồi yên, ngồi yên chứ... Thế, thế... Đừng động đậy... Chết, chết sao thế... (Nghe tiếng rắc một cái.) Tôi đã biết mà!
Ông già Vônmiglaxốp ngồi lặng đi một phút dường như không còn hay biết
gì nữa. Ông kinh ngạc sững sờ... Đôi mắt ông ngây dại nhìn vào khoảng không, mồ hôi vã ra trên gương mặt tái mét.
- Lẽ ra phải dùng cái nạy... - viên y sĩ lẩm bẩm nói. - Thật là một trường hợp quái dị!
Hoàn hồn trở lại, viên trợ tế thọc ngón tay vào miệng và sờ thấy ở chỗ chiếc răng đau hai mảnh răng vỡ trồi lên.
- Đồ quỷ ở đâu ấy... - ông già làu bàu nói. - Để các người ở đây thì chúng tôi chết cả nút, làm tình làm tội quá thế!
- Cứ chửi nữa đi... - viên y sĩ vừa lẩm bẩm nói vừa cất kìm vào tủ. - Đồ ngu ngốc... Chắc là hồi học chủng viện người ta đánh ông ít quá chắc... Ngài Alếchxanđrơ Ivanứts Eghipétxki, ở Pêtérburg đến bảy năm... Chữ nghĩa bề bề... một cái áo của ông ấy có dễ đến trăm rúp... thế mà ông ấy có chửi rủa gì đâu... Còn ông thì là cái thá gì? Không sao cả đâu, ông cũng chẳng nghèo đâu mà sợ!
Viên trợ tế vơ vội chiếc bánh thánh đặt trên bàn, tay ôm lấy má, rồi chuồn thẳng về nhà...
Con Kỳ Nhông[11]
CẢNH SÁT VIÊN ÔTSUMELỐP mình vận bành tô mới, tay cầm một cái gói, đang đi qua bãi chợ. Bước theo sau y là một người lính cẩm, tóc hung hung đỏ tay xách một giỏ đầy phúc bồn tử mới tịch thu được. Chung quanh yên ắng... Bãi chợ vắng tanh không một bóng người... Cánh cửa những hiệu tạp hóa, những quán rượu mở toang như những miệng thú đói buồn tẻ nhìn ra đường, đến cả ăn mày quanh đấy cũng không có một ai.
- Mày dám cắn hả, đồ khốn! - bất ngờ Ôtsumelốp nghe thấy. - Các cậu ơi, đừng để nó sống nhé! Bây giờ người ta không cho phép để chó cắn người đâu! Bắt lấy! A... a...!
Có tiếng chó kêu rống lên ăng ẳng. Ôtsumelốp nhìn sang một bên và thấy: từ kho củi của tay lái buôn Pitsugin có một con chó chạy khập khiễng bằng ba chân, vừa chạy vừa quay đầu lại nhìn. Đuổi theo sau nó là một người mặc áo sơ mi hoa mới hồ và một chiếc gilê mở cúc. Người ấy chạy theo con chó, cố vươn ra phía trước, anh ta ngã soài xuống đất và túm lấy hai cẳng sau của con vật. Lại nghe thấy tiếng chó ăng ẳng và tiếng kêu: “Đừng để nó sống!” Từ phía sau các cửa hiệu ló ra những bộ mặt ngái ngủ, và chỉ một lúc sau bên kho củi đã thấy tụ tập cả một đám đông tựa hồ như là chui từ dưới đất lên.
- Thưa ngài, hình như có chuyện mất trật tự ạ!... - người lính cẩm nói.
Ôtsumelốp nghiêng nửa vòng, quay sang bên trái và bước tới chỗ đám đông. Ông ta nhìn thấy anh chàng mặc áo gilê mở cúc ban nãy đang đứng ngay sát bên cổng nhà kho, cánh tay phải giơ lên chìa cho mọi người xem ngón tay rớm máu. Bộ mặt ngà ngà say của anh ta như muốn nói: “Thế đấy đồ chó má, tao vặt cổ mày đi đấy!”, và cả ngón tay kia cũng ra vẻ đắc thắng. Ôtsumelốp nhận ra anh ta là anh thợ kim hoàn Khơriukin. Chính giữa đám đông là thủ phạm gây ra chuyện huyên náo vừa rồi - một con chó
săn nhỏ mõm dài, trên lưng có một khoảng bông vàng, đang ngồi trên mặt đất, toàn thân run rẩy, hai chân trước xoạc ra hai bên. Đôi mắt ươn ướt của nó lộ rõ vẻ rầu rĩ và kinh hãi.
- Có chuyện gì vậy hả? - Ôtsumelốp hỏi, gạt mọi người, đi thẳng vào giữa đám đông - Sao thế hả? Sao lại giơ ngón tay lên thế kia?... Ai vừa kêu ầm lên vậy hả?
- Thưa ngài, tôi đang đi, chẳng động chạm gì đến ai... - Khơriukin bắt đầu nói, đưa lòng bàn tay lên che miệng húng hắng ho. - Tôi đang đến mua củi của ông Mitơri Mitơríts đây, thì bất thình lình con vật đểu cáng này tự nhiên chồm lên cắn vào ngón tay... Xin ngài miễn thứ cho, tôi là một người làm ăn... Tôi phải làm một việc rất tỉ mẩn. Tôi đòi người ta phải bồi thường cho tôi, vì cái ngón tay này có dễ phải đến một tuần tôi mới cử động được... Thưa ngài, pháp luật không thấy ghi rằng gặp những con chó như thế này thì đành phải chịu lép ạ... Ví thử con chó nào cũng nhè người mà cắn thì đừng sống trên đời này nữa còn hơn...
- Hừm!... Được rồi... - Ôtsumelốp nghiêm giọng nói, ho mấy tiếng và cau đôi mày. - Được rồi... Con chó này của ai? Ta không để yên chuyện này đâu. Ta sẽ cho các người biết cứ thả rông chó như thế là thế nào! Đã đến lúc phải lưu tâm đến các vị không muốn chấp hành các điều lệ quy tắc! Phải phạt cái thằng vô lại rồi nó mới biết rằng thả rông chó và các súc vật khác đối với ta nghĩa là thế nào! Ta sẽ cho nó biết tay ta! Này, Enđưrin, - Ôtsumelốp quay lại nói với người lính cẩm, - hãy điều tra xem, con chó này của ai, rồi lập ngay biên bản! Con chó này phải đập chết thôi. Đập chết ngay! Chắc là nó bị dại rồi... Này, nghe ta hỏi, con chó này là của ai?
- Hình như của tướng Giưgalốp! - Có ai trong đám đông nói.
- Của tướng Giưgalốp à? Hừm!... Enđưrin, cởi hộ ta cái bành tô với... Chà, thật là khủng khiếp, nóng chi là nóng! Hình như trời sắp mưa rồi sao ấy... Này, có một điều ta không hiểu: tại sao nó lại có thể cắn nhà ngươi được? - Ôtsumelốp nói với Khơriukin. - Nó mà lại chồm đến được ngón tay của người à? Nó thì bé, còn nhà ngươi thì cao to thế kia cơ mà! Chắc là ngón
tay ngươi lại xước phải cái đinh nào rồi sau đấy ngươi mới chợt nghĩ ra là phải bịa chuyện mà kiếm chác. Ta còn lạ gì... đồ các người!
- Thưa ngài, anh ta lấy thuốc lá gí vào mõm con chó để làm trò cười, còn nó thì chẳng ngu dại gì, nó tớp ngay lấy ngón anh ta... Thưa ngài, anh ta đần lắm ạ!
- Chỉ nói láo, đồ chột mắt! Mày không nhìn thấy sao mày lại còn bịa chuyện? Ngài đây là người mẫn tiệp, thế nào ngài cũng phân biệt đứa nào nói láo, còn ai nói thật như nói thật cho Chúa trời nghe... Nếu tôi mà nói sai thì cứ xin để quan tòa phán xử. Dạ, bây giờ pháp luật đã có nói... tất cả đều bình đẳng... Chính tôi cũng có người anh em làm sen đầm đấy ạ... ngài có muốn biết không ạ...
- Đừng lý sự nữa!
- Không, con chó này không phải của ngài thiếu tướng đâu... - người lính cẩm nhận xét đầy thâm ý. - Ngài thiếu tướng chẳng có loại chó này đâu. Chó của ngài phải chắc là chó săn nòi thôi...
- Người biết chắc điều ấy à?
- Thưa ngài, chắc thế ạ...
- Chính ta cũng đã biết thế. Chó của ngài thiếu tướng là loại chó quý, chó nòi chứ đâu như con này - có trời mà biết là loại chó gì! Lông không xù, trông mã chả ra làm sao... Nhìn vào chỉ tổ bẩn mắt thôi... Ngài thiếu tướng mà lại nuôi loại chó này hả?! Trí khôn của các người để đâu cả rồi? Nếu cái thứ chó này có ở Pêtérburg hay Maxcơva, thì các người có biết sẽ ra thế nào không? Ở đấy người ta sẽ chả phải giở luật giở liếc gì hết và chỉ một loáng sau thôi là hết ngáp! Này Khơriukin, người bị nạn thế rồi thì đừng có mà làm ngơ nghe chưa! Phải cho chủ nó biết tay! Thôi...
- Mà cũng có thể là chó của ngài thiếu tướng... - người lính cẩm nói ý nghĩ ra miệng. - Ở mõm nó có đề chữ gì đâu... Mới đây tôi có trông thấy trong sân ngài thiếu tướng một con chó giống như con này.
- Đúng rồi, của ngài thiếu tướng đấy! - có giọng ai nói trong đám đông.
- Hừm!... Này Enđưrin, mặc hộ ta cái áo bành tô một tí... Trời chuyển gió rồi đây... Ren rét là... Người dắt con chó đến chỗ ngài thiếu tướng và hỏi ở đấy xem. Bẩm rằng ta đã tìm được và xin gửi lại ngài... Người cũng nói rằng về sau đừng thả nó ra ngoài phố nữa... Có thể là nó thuộc loài chó quý đấy, biết đâu chả có một đứa nào đấy ngu như lợn lại gí thuốc lá vào mũi nó, thì làm xấu cả con chó đi. Chó là một giống vật ưa nhẹ tay... Còn thằng ba hoa kia, bỏ tay xuống đi! Hay hớm gì mà cứ trưng cái ngón tay ngu xuẩn kia lên mãi thế! Chính nhà ngươi có lỗi chứ còn ai!...
- Kìa, anh bếp của ngài thiếu tướng đang đi đến kia kìa, ta hỏi thử anh ta xem... Ê, Pơrôkhor! Lại đây, lại đây, anh bạn thân mến! Anh thử nhìn con chó xem coi... Có phải của trên nhà ngài không?
- Làm gì có chuyện đó? Cả đời tôi chưa thấy ông chủ tôi nuôi con chó nào như thế cả!
- Thôi, chẳng việc gì phải hỏi lâu la nữa, - Ôtsumelốp nói. - Nó đúng chó chạy rông rồi! Không phải bàn cãi gì nữa... Ta đã nói là chó chạy rông thì có nghĩa nó là chó chạy rông... Đem mà đập chết đi, thế thôi.
- Con chó này không phải của ông chủ tôi, - Pơrôkhor nói tiếp. - Nó là của em ông chủ tôi vừa mới đến đây hôm nọ. Ông chủ tôi không thích giống chó săn. Ông em ngài mới thích...
- Em ngài thiếu tướng vừa mới đến thật đấy ư? Ông Vlađimir Ivanứts phải không? - Ôtsumelốp hỏi, y cười hớn hở, nở nang cả mặt mày. - Đúng thế hả? Thế mà tôi cũng chẳng hay biết gì cả! Ông ấy về đây chơi à?
- Vâng, về chơi...
- Đúng thế hả! Chắc ngài lại nhớ người anh em mình rồi... Thế mà tôi chả biết tý gì! Thế, thế con chó này của ông ấy đấy à? Tôi thật là mừng... Này, anh đưa nó về đi... Con chó con trông cũng khá đấy... Nó khôn ranh gớm...
Nó vừa ngoạm tay thằng cha kia một cái đấy!... Hà hà hà... mà này chú cún, việc gì chú phải run lên thế nữa? Chặc, chặc, chắc chú mình đang nổi cơn thịnh nộ đây... Chà, kiếm đâu ra con cún kháu khỉnh quá ta...
Pơrôkhor gọi con chó và cùng đi với nó ra khỏi kho củi... Cả đám người cười rộ lên nhạo Khơriukin.
- Liệu hồn đấy, người còn biết tay ta! - Ôtsumelốp nói đe y, khép vạt áo bành tô lại, rồi tiếp tục đi qua bãi chợ.
Mặt nạ
NGƯỜI TA TỔ CHỨC TẠI Câu lạc bộ X. một buổi dạ hội khiêu vũ trá hình với mục đích từ thiện, hay nói như các tiểu thư ở địa phương - một buổi vũ hội thịnh trang.
Đã 12 giờ đêm. Mấy vị trí thức không tham gia nhảy, không đeo mặt nạ - cả thảy gồm năm người - tụ lại ngồi quanh một chiếc bàn lớn trong phòng đọc sách, chúi mặt chúi mũi vào mấy tờ báo mà đọc, mà ngủ gà ngủ gật, và theo cách nói của tay phóng viên biệt phái của nhiều tờ báo thủ đô tại đây một nhân vật đầy khuynh hướng tự do - thì họ đang “tư duy”.
Từ phía căn phòng lớn vọng ra tiếng nhạc của điệu nhảy quadrille[12] “Viuska”. Ngoài cửa chốc chốc lại có tiếng chân những người hầu chạy huỳnh huỵch, cốc đĩa va vào nhau lanh canh. Còn ngay ở trong phòng đọc thì bao trùm một không khí yên lặng.
- Ở đây có lẽ thoải mái hơn! - một giọng trầm trầm khàn khàn vọng ra hình như từ phía lò. - Chui vào đây thôi! Vào đây thôi, các bạn ơi!
Cánh cửa mở ra, và bước vào phòng đọc là một gã đàn ông thấp lùn, to ngang vạm vỡ, vận bộ xà ích, đội chiếc mũ gài lông công, đeo mặt nạ. Tiếp theo sau y là hai bà đeo mặt nạ và một tên hầu tay bưng chiếc khay. Trên khay là một bầu rượu mùi, dáng thấp, hai ba chai vang đỏ và mấy cái cốc.
- Vào đây! Ở đây mát hơn, - gã đàn ông nói. - Đặt khay lên bàn đi... Nào, các cô nàng, mời các cô ngồi xuống! Mời các cô xem trò đùa nhé! Còn mấy vị kia, xin ngồi lùi ra cho... Không còn cách nào khác đâu!
Gã đàn ông loạng choạng bước tới, lấy tay gạt mấy tờ tạp chí từ trên bàn xuống đất.
- Mang lại đây! Còn mấy vị đọc báo kia, lùi ra cho, thì giờ đâu mà đọc báo với luận bàn chính trị... Tung hê đi thôi!
- Tôi yêu cầu ông phải hành động lịch thiệp, - một vị trí thức lên tiếng nhìn chiếc mặt nạ qua đôi mục kỉnh. - Đây là phòng đọc chứ không phải phòng điểm tâm... Đây không phải là chỗ uống rượu.
- Tại sao lại không phải? Bàn cập kênh chăng hay là trần sắp sụt? Kỳ thật! Nhưng thôi... chả thừa hơi mà lý sự! Quăng mẹ mấy tờ báo đi... Đọc thế đủ rồi, các ông khá thông minh rồi đấy, đọc nữa chỉ tổ hại mắt thôi và cái chính nhất là tôi không thích, có thế thôi.
Tên hầu đặt khay xuống bàn, vắt chiếc khăn qua khuỷu tay, rồi bước ra phía cửa. Hai cô lập tức mở rượu vang đỏ ra uống.
- Sao lại có những vị thông minh đến mức khoái mấy tờ báo kia hơn là những thứ rượu này nhỉ, - gã đàn ông đeo lông công vừa tự rót rượu cho mình vừa khơi mào. - Theo ý kiến của tôi thì, thưa các vị đáng kính, các vị thích báo chí hơn chỉ là vì các vị đếch có đồng mốc nào để uống rượu. Tôi nói thế có đúng không? Hà hà!... Vẫn đọc à! Này báo người ta viết gì đấy! Cái nhà ông đeo kính kia! Ông đang đọc truyện gì vậy! Hà hà! Đã bảo quẳng đi mà! Các vị ngồi đây rồi bị hố đấy! Tốt hơn hết là uống rượu thôi!
Gã đàn ông đeo lông công nhỏm dậy và giật lấy tờ báo từ tay vị trí thức đeo kính. Vị này mặt tái xanh, rồi lại đỏ bừng kinh ngạc nhìn mấy ông bạn trí thức của mình, mấy ông kia cũng nhìn lại vị đó.
- Ông mất hết cả tư cách rồi đấy, thưa tôn ông! - Vị đeo kính nổi nóng nói. - Ông đã biến phòng đọc thành quán rượu, ông đã cho phép mình làm những chuyện quá quắt, giật báo ra khỏi tay người khác! Tôi không cho phép làm thế! Ông không biết rằng ông đang gây sự với ai đây à, thưa tôn ông! Tôi là giám đốc nhà băng Giextiakốp!...
- Ta nhổ toẹt vào cái điều rằng nhà ngươi là Giextiakốp! Còn tờ báo của nhà ngươi thì sẽ được vinh dự thế này này...
Gã đàn ông cầm tờ báo lên và xé vụn nó ra.
- Các ngài xem thế này là cái gì vậy? - Giextiakốp sửng sốt lắp bắp nói. - Thế này thì lạ quá... Thế này... thế này thì quả là không thể tưởng tượng nổi...
- Ông phát khùng lên rồi, - gã đàn ông cười lên hô hố. - Hừ, làm tôi sợ hãi đến nỗi run như cầy sấy! Thế đấy thưa các quý vị! Thôi dẹp chuyện đùa bỡn lại cái đã. Ta không hào hứng nói chuyện với các vị đâu... Chả là ta muốn ở lại đây một mình với mấy cô nàng này và rất muốn đem lại ngay cho mình cảm giác khoái lạc, cho nên ta yêu cầu quý vị đừng có tranh cãi và ra ngay khỏi đây cho... Xin mời! Ngài Bêlêbukhin, ngài cút xéo ngay cho! Sao cái mặt mo của ngài lại nhăn nhó thế kia? Ta đã nói là ra, vậy thì phải ra ngay thôi chứ! Ta bảo sao thì phải tắp lự làm vậy, không thì liệu hồn đấy ta tóm cổ đi!...
- Thế này nghĩa là thế nào? - viên thủ quỹ cơ quan bảo trợ tài sản Bêlêbukhin nhún vai hỏi, mặt đỏ bừng lên. - Tôi chịu không thể hiểu được... Một tên vô lại chạy tọt vào đây... và thế rồi bỗng xảy ra cơ sự này!
- Này, này, nhà ngươi nói “vô lại” là chữ gì vậy? - gã đàn ông đeo lông công nổi giận hét lên giơ nắm tay đấm mạnh xuống mặt bàn đến nỗi cốc tách đặt trên khay nhảy hết cả lên. - Nhà ngươi nói với ai thế? Ngươi tưởng rằng, nếu ta đây đeo mặt nạ rồi thì người ta có thể nói gì với ta cũng được phải không? Đồ rắn rết! Cút ngay, ta đã nói rồi cơ mà! Ngài giám đốc nhà băng kia nữa, khôn hồn thì cuốn xéo ngay cho! Cút hết, cút hết, sao cho không còn một con giòi bọ nào ở lại đây nữa cả! Cút hết ngay!
- Được rồi, bây giờ tất cả sẽ biết! - Giextiakốp nói, ông ta giận dữ đến nỗi vã cả mồ hôi ra mắt kính. - Tôi sẽ cho ông biết tay! Ê, gọi hộ tay chủ trò khiêu vũ đến đây với!
Một phút sau viên chủ trò thấp bé tóc hung bước vào, ve áo đeo một dải tua xanh, thở hổn hển vì nhảy quá nhiều.
- Yêu cầu ông ra cho! - viên chủ trò nói. - Đây không phải là chỗ uống rượu! Xin mời ông xuống phòng điểm tâm!
- Mày ở đâu chui ra thế? - gã đàn ông đeo mặt nạ hỏi. - Ta có cho đòi mày đâu?
- Xin đừng xưng hô mày tao như thế cho và xin mời ra khỏi đây!
- Ồ, ông bạn thân mến, này ta hẹn cho ông bạn một phút đấy... Bởi vì rằng ông là chủ trò, là nhân vật chính ở đây, nên mời ông hãy dắt tay mấy nhà nghệ sĩ này ra hộ cho. Các cô nàng của ta không được thoải mái lắm khi trong phòng này còn có người lạ mặt... Các cô nàng xấu hổ mà, còn ta thì ta đã bỏ tiền ra và muốn được nhìn các nàng ở dạng tự nhiên.
- Có lẽ tên cục súc này không hiểu rằng nó không phải ở trong chuồng bò, chuồng lợn? - Giextiakốp kêu lên. - Cho gọi Epxtơrát Xpiriđônứts đến đây!
- Epxtơrát Xpiriđônứts! - tiếng mọi người gọi lan đi khắp câu lạc bộ. - Epxtơrát Xpiriđônứts đâu rồi?
Liền đó lão già Epxtơrát Xpiriđônứts mặc y phục cảnh binh hiện ra ngay.
- Yêu cầu ông ra khỏi đây! - lão già nói rít lên, mắt nhìn trừng trừng, bộ ria mép nhuộm màu đen rung rung lên.
- Hừ, nhà ngươi định dọa ta à! - gã đàn ông nói, cười khoái trá. - Hừ, định dọa ta chắc! Gớm nhỉ, lại còn có thứ ngoáo ộp này nữa! Ria thì như ria mèo, mắt thì giương lồi ra thế kia kìa... Hè hè hè!
- Không lý sự gì nữa hết! - lão già lấy hết hơi sức hét to, toàn thân run lẩy bẩy. - Ra khỏi đây ngay! Ta sẽ ra lệnh lôi ông ra khỏi đây!
Một cảnh huyên náo không thể tưởng tượng được diễn ra trong phòng đọc báo. Lão cảnh binh mặt đỏ gay như tôm rảo giậm chân, la hét om sòm. Giextiakốp la hét. Bêlêbukhin la hét. Tất cả các vị trí thức đều la hét, nhưng
giọng nói của tất cả bọn họ đều bị át đi trong cái giọng ồm ồm trầm trầm của gã đàn ông đeo mặt nạ. Vì tình cảnh hỗn loạn chung nên đám nhảy phải ngừng lại, và mọi người đổ dồn về phía phòng đọc.
Để ra oai, lão cảnh binh Epxtơrát Xpiriđônứts cho gọi tất cả những cảnh sát đang có mặt ở câu lạc bộ đến, rồi ngồi xuống lập biên bản.
- Viết đi, viết đi, - cái mặt nạ nói, gõ gõ ngón tay xuống bên ngòi bút của lão cảnh binh. - Khốn khổ cái thân tôi, bây giờ thì tôi bị phạt thế nào? Trăm sự đổ lên cái đầu khốn khổ của tôi! Vì cớ gì mà các ông hãm hại tôi, một kẻ đáng thương? Ha ha! Thế nào? Biên bản xong chưa? Tất cả ký hết rồi chứ? Bây giờ thì mời các ngài nhìn này! Một... hai... ba!!
Gã đàn ông đứng dậy, vươn thẳng người lên và giật tấm mặt nạ xuống, để lộ hẳn bộ mặt say mèm của mình ra mà nhìn tất cả mọi người. Thú vị thưởng thức tác động của việc mình vừa làm, gã ngồi phịch xuống chiếc ghế bành và thích chí cười. Ấn tượng mà gã vừa gây ra quả là phi thường thật. Các vị trí thức ngẩn người nhìn nhau, mặt tái mét, vài vị còn giơ tay gãi gáy. Lão cảnh binh kêu ớ lên một tiếng như người vừa vô ý làm một chuyện dại dột ghê gớm.
Tất cả đều nhận ra kẻ phá bĩnh vừa rồi là ông Piatigorốp, nhà triệu phú bản địa, chủ nhà máy, được quý trọng, người đã từng nổi tiếng bởi những vụ gây ồn ào, bởi lòng từ thiện và, như tờ báo địa phương đã nhiều lần nói tới, bởi lòng thiết tha đối với sự mở mang dân trí.
- Thế nào, có đi ra hay là không? - Piatigorốp nói sau một phút im lặng.
Các vị trí thức không hé răng nói nửa lời lặng lẽ rón rén đi kiễng chân ra khỏi phòng đọc, và Piatigorốp đóng ập cửa lại sau lưng bọn họ.
- Chính mi đã biết đó là ông Piatigorốp rồi cơ mà! - một lát sau lão cảnh binh Epxtơrát Xpiriđônứts rít lên khe khẽ, tay nắm lấy vai tên hầu bàn đã mang rượu vào phòng đọc mà day. - Tại sao mi lại câm họng thế?
- Thưa, ngài không cho phép nói ạ.
- Không cho phép nói... Mi lại còn chờ ta tống giam mi một tháng nhà pha rồi mới hiểu thế nào là “không cho phép nói”. Cút ngay! Còn các ngài thì làm gì, - lão già quay về phía mấy vị trí thức. - Làm ầm ĩ cả lên! Không thể bỏ ra khỏi phòng đọc dăm mười phút được à! Đấy, bây giờ thì tha hồ mà gặp chuyện rắc rối! Ối dà dà, các ngài ơi là các ngài ơi... Thật không ưng bụng tôi chút nào cả!
Các nhà trí thức di tản vào trong câu lạc bộ, buồn thiu ngơ ngác như những người có tội, họ nói thì thầm với nhau và cùng linh cảm thấy rõ rệt một điềm gì chẳng lành sắp đến... Các bà vợ và con gái họ sau khi biết rằng Piatigorốp bị “xúc phạm” đang cáu giận thì cũng ỉu xìu theo và lục tục kéo nhau ra về. Không còn thấy ai nhảy nữa.
Hai giờ khuya Piatigorốp đi ra khỏi phòng đọc chân nam đá chân chiêu. Bước vào gian phòng lớn, gã ngồi xuống bên cạnh ban nhạc rồi thiêm thiếp đi trong tiếng đàn, sau đó gã buồn bã ngoẹo đầu sang một bên và ngáy khò khò.
- Thôi đừng chơi đàn nữa! - mấy vị chủ trò khoát tay ra hiệu cho mấy ông nhạc công. - Suỵt... ông Piatigorốp đang ngủ đấy...
- Ông có ra lệnh cho chúng tôi đưa ông về nhà không ạ, thưa ông Piatigorốp? - Bêlêbukhin hỏi nhỏ.
Piatigorốp nháy nháy môi hệt như đang muốn xua con ruồi nào đậu trên má.
- Ông có ra lệnh cho chúng tôi đưa ông về nhà không ạ, - Bêlêbukhin nhắc lại, - hay là gọi xe ngựa đến đây ạ?
- Gì? Ai? Mi à... mi cần gì?
- Dạ đưa ông về nhà ạ... Đến giờ nghỉ rồi đấy ạ...
- Về... về nhà, ta muốn thế... Đưa... ta về!
Bêlêbukhin sung sướng nở nang cả mặt mày và bắt đầu đỡ Piatigorốp dậy. Mấy nhà trí thức kia, miệng nhoẻn cười thích thú cùng xô cả lại tiếp tay nâng vị công dân thân hào truyền kế lên rồi nhẹ nhàng đưa ra xe ngựa.
- Thật là muốn làm cho cả một lũ người bị hố thì chỉ có một nhà nghệ sĩ, một bậc tài năng mới làm nổi, - Giextiakốp hí hửng nói, đỡ nhà triệu phú ngồi lên xe. - Ông Piatigorốp ạ, quả thực là tôi hết sức kinh ngạc! Đến giờ tôi vẫn còn cười nôn cả ruột... Ha ha... Thế mà lúc ấy bọn tôi lại nổi nóng hết cả lên, lại còn định kiện cáo nữa chứ! Ha ha! Ông có thấy thế không? Ngay trong các rạp kịch người ta cũng không được cười nhiều thế... Thật là một sự hài hước vô biên! Suốt đời tôi sẽ còn nhớ mãi cái đêm bất khả vong này!
Đưa Piatigorôp lên xe rồi, các vị trí thức đều thấy vui vẻ và bình tâm trở lại.
- Ông ấy đưa tay cho mình bắt lúc từ biệt nhé, - Giextiakốp nói, giọng hể hả. - Thế nghĩa là chuyện êm rồi đấy, ông không giận đâu...
- Cầu trời chứng giám cho lời ông! - lão cảnh binh thở dài. - Một tên vô lại, một thằng đê tiện, nhưng mà lại là một nhà từ thiện!... Thật không thể hiểu được!
Lảo quản Prisưbeép
- ÔNG QUẢN PRISƯBEÉP! Ông bị truy tố về tội ngày mồng ba tháng Chín này đã dùng lời nói và hành động mà làm nhục ông trương tuần Giưghin, ông chánh tổng Aliapốp, bá hộ Ephimốp, hai nhân chứng Ivanốp và Gavơrilốp cùng với người nông dân khác nữa, ba người đầu tiên trong số đó bị ông thóa mạ trong lúc họ đang thi hành công vụ. Ông có nhận rằng mình có tội không?
Prisưbeép, lão quản mặt mày trông độc địa kệch cỡm, úp thẳng hai tay vào hai nẹp quần và trả lời bằng một giọng khàn khàn, ẹ ẹ nơi cổ, dằn từng tiếng một hệt như đang chỉ huy:
- Kính bẩm ngài chánh án! Vậy là căn cứ theo mọi điều khoản của luật pháp thì phải nghiên cứu mọi trạng huống cả từ hai phía. Không phải tôi có tội mà là hết thảy những người kia. Tất cả mọi chuyện xảy ra là do một cái xác chết. Ngày mồng ba vừa rồi tôi cùng với bà Anphixa nhà tôi đang đi rất thong dong, đường hoàng, thì nhìn thấy bên bờ sông có một đám đông dân chúng gồm đủ hạng người khác nhau tụ tập lại. Điều luật nào cho phép dân chúng được tụ tập, tôi hỏi thế. Để làm cái gì? Có phải luật pháp đã nói rằng dân chúng được phép đi thành bầy thành đàn à? Tôi quát: giải tán! Rồi tôi bắt đầu xua cho họ ai về nhà nấy, ra lệnh cho ông bá hộ tống cổ...
- Khoan đã, nhưng mà ông có phải là trương tuần, là lý trưởng đâu, xua đuổi dân chúng là phận sự của ông à?
- Không phải, không phải của nó! - tiếng mọi người nhao nhao lên khắp phòng. - Bẩm quan án, không sống được với nó đâu. Chúng tôi đã phải chịu khổ chịu sở với nó mười lăm năm nay rồi! Từ khi nó giải ngũ về thì thà cứ bỏ làng bỏ xóm mà đi còn hơn. Nó làm tình làm tội tất cả mọi người rồi!
- Đúng thế, bẩm quan án, - viên lý trưởng được đòi đến làm nhân chứng nói. - Cả làng cả xóm đều kêu ca ạ. Không thể nào sống yên ổn với nó
được! Dân làng chúng tôi đi rước hình Chúa, hoặc có đám cưới xin hay giả dụ như có dịp gì khác, ở đâu nó cũng gào cũng thét, chỗ nào cũng đòi chỉnh đốn lại trật tự. Véo tai trẻ con, dòm dỏ rình mò cánh đàn bà con gái xem có chuyện gì không, cứ như bố chồng người ta không bằng... Gần đây nó đảo qua mọi nhà ra lệnh cấm không được hát, tối đến không được thắp đèn. Nó bảo chẳng có luật pháp nào cho phép hát hỏng cả.
- Khoan đã, lát nữa ông sẽ còn dịp trình bày, - quan chánh án nói, - bây giờ thì để cho Prisưbeép nói tiếp. Tiếp tục đi, Prisưbeép!
- Xin vâng, - lão quản cất giọng rè rè. - Thưa ngài chánh án, ngài đã hạ cố phán rằng xua đuổi dân chúng không phải phận sự của tôi... Được rồi... Nhưng mà nếu có những chuyện phá rối trị an thì sao? Chẳng lẽ lại cứ để cho dân chúng họ làm loạn thế à? Trong luật pháp có chỗ nào viết rằng dân chúng được quyền muốn làm gì thì làm đâu? Tôi không thể để yên được. Nếu tôi không xua đuổi, không bắt phạt họ thì ai sẽ làm việc ấy? Không một ai biết các thứ luật lệ hiện hành, cả làng này chỉ có một mình tôi, thưa ngài chánh án, tôi có thể nói, chỉ một mình tôi biết phải đối xử với bọn thường dân này như thế nào, thưa ngài, tôi có thể hiểu rõ mọi điều. Tôi không phải là đứa nông phu quê kệch, tôi là một viên quản, trước đây đã từng là thủ kho nhà binh, đã đóng ở Vácsava, ở bộ tham mưu, tiếp đấy, xin ngài biết cho, sau khi giải ngũ, tôi đã làm ở đội chữa cháy, sau đó vì ốm yếu tôi thôi không làm chữa cháy nữa và hai năm liền làm nghề gác cổng cho một trường nam tiểu học... Mọi luật lệ tôi đều được biết. Còn bọn nông phu là hạng người tầm thường ngờ nghệch, không hiểu biết gì cả và phải nghe lời tôi như thế chính là có lợi cho bọn họ. Cứ lấy tỉ dụ như là cái trường hợp vừa rồi... Tôi xua đám dân làng đi vì ở bãi cát trên bờ sông có xác người chết đuối. Tôi hỏi, căn cứ vào đâu mà kẻ chết kia lại nằm ở đấy? Chẳng lẽ như vậy là hợp lệ sao? Viên trương tuần kia sao lại chỉ đứng nhìn? Tôi hỏi, này anh trương tuần, tại sao anh lại không tâu bẩm việc này với thượng cấp? Có thể là người chết đuối này tự dìm mình, mà cũng có thể dính dáng đến chuyện đi tù Xibiri chứ chẳng chơi. Có thể đó là một vụ giết người thuộc hình sự... Thế mà viên trương tuần Giưghin cứ tỉnh khô như không mà hút thuốc. Anh ta nói: “Sao ông lại cứ làm như người chuyên ra mệnh lệnh thế kia? Ở đâu chui lên cái thứ người ra lệnh ấy? Không có ông ra lệnh có dễ chúng tôi lại không biết làm gì sao?” Tôi nói, vậy là anh ngu, anh
không biết gì cả, nếu anh cứ đứng đực mặt ra thế kia. Anh ta nói: “Ngay từ hôm qua tôi đã bẩm báo lên ngài xã tuần”. Tôi hỏi, việc gì lại phải báo cho xã tuần? Căn cứ theo điều khoản nào của bộ luật? Chẳng lẽ trong những trường hợp có người chết đuối, người thắt cổ và những trường hợp tương tự, chẳng lẽ trong những trường hợp như vậy ngài xã tuần lại có thể giải quyết được sao? Tôi nói đây là một vụ hình sự, đây là việc của bên dân sự... Tôi nói, gặp trường hợp ấy thì phải cấp báo cho ngài dự thẩm và các vị quan tòa. Tôi nói, việc trước hết, đầu tiên nhất anh phải làm là lập biên bản và gửi cho ngài chánh án. Thế mà viên trương tuần lại cứ vừa nghe vừa cười hoài! Bọn nông phu kia cũng vậy. Tất cả đều cười, thưa ngài chánh án. Tôi có thể xin thề mà khai như vậy. Đây, ông này, ông nọ nữa và cả Giưghin nữa đều cười. Tôi nói, làm gì mà nhe hết cả răng ra thế kia? Thế rồi chính viên trương tuần thì nói rằng: “Những chuyện này cũng chẳng dính dáng gì đến ông chánh án”. Nghe câu nói đó, tôi đã sôi tiết lên. Này trương tuần, có phải ngươi nói thế không? - Lão quản hướng tới trương tuần Giưghin.
- Tôi có nói.
- Mọi người đều nghe thấy nhà ngươi nói với mọi người dân thường vậy. “Những chuyện này cũng chẳng dính dáng gì đến ông chánh án”. Mọi người đều nghe thấy nhà ngươi nói thế... Thưa ngài chánh án, nghe câu nói đó tôi đã lộn cả tiết, tôi còn phát hoảng lên nữa. Tôi bảo anh ta, thử nói lại, nói lại câu nhà ngươi vừa nói đi! Anh ta lại nhắc lại những lời ấy... Tôi liền bước đến gần anh ta. Tôi bảo, làm sao mà nhà ngươi lại dám nói tới ngài chánh án bằng những lời lẽ như vậy hả? Ngươi là trương tuần thế mà ngươi lại chống lại chính quyền à? Hả? Tôi bảo, nhà ngươi có biết rằng quan chánh án, nếu ngài muốn, ngài có thể gô cổ nhà ngươi giải lên Sở hiến binh của tỉnh vì lý do nhà ngươi đã có hành vi khả nghi như vậy không? Tôi nói, nhà ngươi có biết căn cứ vào những câu đầy tính chất chính trị như vậy ngài chánh án có thể đày nhà ngươi đi những đâu không? Còn ông chánh tổng thì nói: “Ngài chánh án không thể can thiệp đến những việc ngoài quyền hạn của mình được. Ngài chỉ có thể giải quyết được những việc lặt vặt thôi”. Đấy, ông ta nói như thế đấy, mọi người đều nghe được... Tôi bảo, sao ông lại dám thóa mạ chính quyền như vậy hả? Tôi bảo, này đừng có mà giở trò cợt nhả với tôi, bằng không chuyện sẽ chẳng hay hớm gì đâu, người anh em ạ. Hồi còn đóng ở Vácsava hay còn làm gác cổng ở trường nam tiểu học
hễ mỗi lần tôi nghe thấy có câu nói nào không thuận tai là tôi dòm ngay ra ngoài phố xem có ông cảnh binh nào không; tôi nói: “Mời ông lại đây, lại đây, ông cảnh binh”, và bẩm báo hết với ông ấy. Thế còn ở xóm làng này thì biết nói với ai?... Tôi nổi cáu lên, tôi phát bực là dân chúng bây giờ quên hết cả phép tắc, chẳng còn biết sợ luật pháp gì nữa, thế rồi tôi vung tay lên và... tất nhiên là không có gì là mạnh quá, mà đúng là nhè nhẹ tay thôi để cho ông ta chừa cái thói dám nói những lời hỗn xược như vậy với quan trên... Viên trương tuần nhảy vào bênh chánh tổng. Vậy là tôi nện cả trương tuần... Và cứ thế... Tôi nổi nóng lên, thưa ngài, mà không đánh chúng nó không đừng được. Không cho đứa ngu xuẩn nó ăn đòn thì thật là có tội với lương tâm. Phải thế thôi, nếu có chuyện... nếu có sự phá rối trị an...
- Được rồi! Nhưng mà chuyện phá rối trị an đã có người lo. Đã có trương tuần, lý trưởng, bá hộ...
- Trương tuần không dòm dỏ gì đến chuyện đó cả, mà anh ta cũng không hiểu được điều tôi hiểu đâu...
- Nhưng mà ông quản, ông hiểu cho, đấy không phải là chuyện của ông!
- Sao? Sao lại không phải là chuyện của tôi? Kỳ cục thật... Mọi người làm loạn, rồi thế là không phải chuyện của tôi! Thế ra tôi phải khích lệ chúng à? Đấy bọn họ vừa kêu ca với ngài rằng tôi cấm không cho họ hát... Nhưng mà trong các bài hát ấy thì có gì hay hớm đâu kia chứ! Đáng lẽ là phải kiếm một việc gì mà làm thì bọn họ lại hát... Lại còn tối tối họ bắt đầu ngồi quanh đèn nữa chứ. Đáng lẽ phải đi ngủ thì bọn họ lại còn ngồi tán gẫu, cười đùa với nhau. Tôi có ghi lại hết!
- Ông ghi lại cái gì kia?
- Ghi tên những ai nhà có giong đèn.
Prisưbeép rút trong túi ra một mảnh giấy dính mỡ, đeo kính lên và đọc:
- Nhà của những người nông dân sau đây có thắp đèn: Ivan Prokhorốp, Xápva Mikiphorốp, Pêtơrơ Pêtơrốp. Vợ lính Suxtơrôva, một mụ góa ăn
nằm bừa bãi trái phép với Xemiôn Kixlốp. Igơnát Xverơsốc làm nghề tà thuật, còn vợ hắn ta là Mavra là một mụ phù thủy, đêm đêm chuyên đi vắt trộm sữa bò nhà khác.
- Đủ rồi! - ngài chánh án phán và bắt đầu hỏi các nhân chứng.
Lão quản Prisưbeép nâng kính lên trán và kinh ngạc nhìn quan chánh án, người mà rõ ràng đã không đứng về phía lão ta. Đôi mắt lồi của lão long lên sòng sọc, mũi chuyển sang màu đỏ lự. Lão nhìn quan chánh án, nhìn các nhân chứng và không thể nào hiểu được vì sao quan lại có vẻ xúc động thế và vì sao từ khắp mọi góc trong phòng đều nghe thấy khi thì tiếng xì xào, khi thì tiếng cười húng hắng trong miệng. Lão cũng không hiểu nổi bản án nữa: một tháng phạt giam!
- Vì tội gì?! - lão dang hai tay ra tỏ rằng không hiểu được. - Căn cứ vào điều luật nào?
Đối với lão rõ ràng là thế giới đã đổi khác, là không thể nào sống trên đời này được nữa. Những ý nghĩ buồn bã, đen tối ám ảnh lão ta. Nhưng khi bước ra khỏi phòng xử án, nhìn thấy đám nông phu tụ tập nói với nhau cái gì đấy, thì lão ta, theo một thói quen không thể nào tẩy rửa được, bèn duỗi thẳng tay theo đường nẹp quần và quát to bằng cái giọng rè rè giận dữ:
- Ê, dân chúng, giải tán ngay! Không được xúm đông thế này! Ai về nhà nấy!
Một chuyện đùa
MỘT BUỔI TRƯA MÙA ĐÔNG trong sáng... Trời giá lạnh, rét cóng. Nađia khoác tay tôi. Những hạt bụi tuyết nhỏ trắng xóa bám lên mấy món tóc xoắn vòng rủ hai bên thái dương nàng, lên hàng lông tơ mịn phía bên trên môi. Nàng và tôi đứng trên một ngọn đồi cao. Từ chỗ chúng tôi đứng, sườn đồi đổ dài thoai thoải xuống lấp loáng dưới ánh nắng, như một tấm gương. Bên cạnh chúng tôi là một chiếc xe trượt tuyết nhỏ bọc một lớp dạ màu đỏ tươi.
- Chúng ta cùng trượt xuống dưới đi, Nađia! - tôi van nài nàng. - Một lần thôi! Tôi cam đoan với cô là chúng ta sẽ chẳng hề gì đâu.
Nhưng Nađia sợ. Cả khoảng không gian từ đôi giày cao su nhỏ nhắn của nàng đến chân quả đồi phủ băng này đối với nàng thật ghê sợ, tưởng như là một vực sâu vô tận. Đứng đây, nàng chỉ mới đưa mắt nhìn xuống dưới, hay tôi chỉ mới gợi ý bảo nàng ngồi vào xe trượt tuyết là nàng đã sợ hết hồn, không thở được nữa, huống hồ nếu nàng liều mạng lao xuống cái vực sâu kia thì không biết rồi ra sao? Nàng sẽ chết mất, sẽ phát điên mất.
- Ta trượt đi cô! - Tôi cố nài. - Việc gì mà sợ! Cô phải biết sợ thế là nhát gan, xoàng lắm cô ạ!
Cuối cùng, Nađia cũng ưng thuận, nhưng qua nét mặt nàng, tôi biết rằng nàng liều mạng mà nghe lời tôi. Tôi đỡ nàng ngồi vào xe trượt; nàng run rẩy, gương mặt nàng tái nhợt. Tôi vòng tay qua giữ lấy Nađia và cùng nhau lao xuống.
Chiếc xe lao đi vun vút như một viên đạn. Làn không khí bị xé ra quật vào mặt, gào rít bên tai dữ tợn đâm vào da buốt nhói, gió như muốn giật phăng đầu ra khỏi vai. Gió ép mạnh, đến nghẹt thở. Tưởng chừng như có một con quỷ nào đang giơ tay nắm lấy chúng tôi và vừa rú lên vừa kéo xuống địa
ngục. Mọi vật chung quanh nhập lại thành một vệt dài vun vút lao về phía sau... Chỉ một giây lát nữa thôi có lẽ chúng tôi sẽ chết!
- Nađia, anh yêu em! - tôi thì thào nói.
Chiếc xe trượt dần dần chạy chậm lại, tiếng gió gào và tiếng càng trượt xe rít lúc này đã không còn đáng ghê sợ, ngực đã thấy dễ thở, và thế là chúng tôi đã xuống đến chân đồi. Nađia sợ tưởng chết đi được, gương mặt tái nhợt, nàng thở không ra hơi... Tôi đỡ nàng đứng dậy.
- Các vàng tôi cũng không trượt lần nữa đâu! - nàng nói và đưa cặp mắt mở to đầy sợ hãi, nhìn tôi. - Các vàng tôi cũng chịu! Chỉ thiếu chút nữa là tôi chết!
Một lát sau, nàng dần dần hết sợ và đã bắt đầu nhìn vào mắt tôi với vẻ dò xét: có phải tôi đã nói bốn tiếng ấy, hay chỉ là trong tiếng gió gào rít nàng nghe thấy như vậy? Còn tôi, tôi đứng bên cạnh nàng, lấy thuốc lá ra hút và chăm chú nhìn chiếc găng tay của mình.
Nàng khoác tay tôi và chúng tôi cùng nhau dạo chơi hồi lâu bên đồi tuyết. Hình như điều bí ẩn làm nàng thấy trong lòng băn khoăn. Có phải anh nói ra những lời đó không? Có những lời đó hay không? Có hay không? Đó là một câu hỏi của lòng tự trọng, của danh dự, của cuộc đời và niềm hạnh phúc - một câu hỏi rất hệ trọng, hệ trọng nhất trên đời này. Nađia đăm đăm nhìn tôi bằng cặp mắt buồn rầu nôn nóng bồn chồn. Nàng chậm rãi do dự trả lời những câu hỏi của tôi như chờ mong tôi sẽ tự nói ra cái điều bí ẩn ấy. Ôi, khuôn mặt nàng lúc ấy đáng yêu biết bao, ý nhị biết bao! Tôi thấy rõ nàng đang tự day dứt với mình, nàng cần nói một điều gì, cần hỏi một điều gì, nhưng nàng không tìm được lời, nàng cảm thấy rụt rè kinh sợ, một niềm vui nào đang ngăn trở nàng nói...
- Này anh... - Nàng nói, mắt không nhìn tôi.
- Cái gì vậy? - tôi hỏi.
- Chúng ta cùng nhau... lao dốc lần nữa đi.
Chúng tôi lần theo những bậc thang trở lên đồi. Tôi lại đỡ Nađia lên xe, mặt nàng tái nhợt, và toàn thân run run. Chúng tôi lại lao xe về phía vực thẳm khủng khiếp và, gió lại gào, tiếng xe lại rít lên. Và cũng đúng vào lúc chiếc xe lao nhanh nhất, tiếng gió gào rít ghê gớm nhất, tôi lại nói:
- Nađia, anh yêu em!
Khi chiếc xe dừng lại, Nađia vội đưa mắt nhìn quanh quả đồi mà chúng tôi vừa trượt xuống, rồi nhìn đăm đăm vào mặt tôi, lắng nghe giọng nói thờ ơ lãnh đạm của tôi và toàn thân nàng, cả từ cái mũ, cái bao tay và dáng người nàng nữa, đều toát lên một cái gì đấy hồ nghi khó hiểu. Trên gương mặt nàng như hiện lên các câu hỏi:
“Điều gì đã xảy ra? Ai nói những lời ấy? Anh ấy hay là chỉ do ta nghe được?”
Điều bí ẩn ấy làm nàng không yên lòng chút nào, nàng không chịu được nữa. Cô bé đáng thương ấy không trả lời nổi những câu hỏi, nét mặt rầu rĩ như muốn khóc.
- Chúng ta về nhà thôi nhé? - tôi hỏi.
- Không, không... tôi thích... trượt xe thế này, - nàng nói, mặt ửng đỏ lên. - Hay là chúng ta cùng nhau trượt lần nữa đi?
Nađia nói rằng nàng “thích” cái trò trượt này, thế mà khi ngồi lên xe, nàng vẫn run, gương mặt nàng vẫn tái nhợt, hơi thở vẫn ngắt quãng vì sợ hãi như những lần trước.
Lần thứ ba chúng tôi trượt xuống. Tôi thấy nàng đăm đăm nhìn lên mặt tôi, theo dõi đôi môi tôi. Nhưng tôi lấy chiếc khăn tay che miệng đi rồi khẽ đằng hắng lên mấy tiếng, và khi xe lao xuống lưng chừng đồi, tôi còn kịp nói:
- Nađia, anh yêu em!
Điều bí ẩn vẫn là điều bí ẩn! Nađia im lặng, nàng đang nghĩ ngợi điều gì... Tôi tiễn nàng từ sân trượt về nhà. Nàng cố đi chậm lại, chờ xem tôi có nói với nàng những lời ấy không. Tôi cảm thấy tâm hồn nàng đang đau khổ, nàng đang cố dằn lòng để khỏi phải thốt lên:
- Không, gió không thể nói được những lời ấy! Mà tôi cũng không muốn tin rằng gió đã nói những lời ấy!
Sáng hôm sau, tôi nhận được một mảnh giấy của nàng: “Nếu hôm nay anh có đi trượt tuyết, đến rủ tôi cùng đi nhé! Nađia”. Từ hôm đó, ngày nào tôi và Nađia cũng lên đồi và mỗi lần lao xe từ trên đồi xuống, tôi lại thì thào nhắc lại những lời đó:
- Nađia, anh yêu em!
Chẳng bao lâu sau, Nađia quen nghe những lời ấy như quen uống rượu, hay dùng moócphin. Nàng không thể sống thiếu những lời đó nữa. Thực ra, lao xe từ trên đồi xuống vẫn đáng sợ như xưa, nhưng giờ đây chính cái nguy hiểm, cái kinh sợ đó lại đem đến một cái gì đặc biệt đắm say cho những lời yêu đương ấy, những lời vẫn là điều bí ẩn và dằn vặt lòng người như trước... Kẻ bị nghi ngờ vẫn là gió và tôi... Ai, gió hay là tôi, đã thổ lộ với nàng những lời yêu đương ấy, nàng không biết được; nhưng hình như nàng không để ý đến điều đó nữa bởi vì tục ngữ nói uống rượu từ bình nào, có gì đáng bận tâm đâu, chỉ cốt sao say được thôi.
Có lần vào một buổi trưa, tôi đến sân trượt một mình; đi lẫn trong đám đông, tôi bỗng nhìn thấy Nađia đang đi về phía đồi và đưa mắt tìm tôi... Rồi nàng chậm chạp bước theo bậc thang trở lên đỉnh đồi... Trượt xe một mình thật đáng ghê sợ biết bao, ôi, thật đáng ghê sợ! Mặt nàng tái nhợt, trắng như tuyết, toàn thân run rẩy, nàng bước đi hệt như đến nơi chịu án tử hình, nhưng nàng vẫn xăm xăm đi, đầu không ngoái lại. Chắc là cuối cùng nàng quyết định thử xem: nàng có còn nghe thấy những lời ngọt ngào say đắm ấy nữa không, khi không có tôi bên cạnh? Tôi nhìn thấy nàng tái nhợt, miệng há ra vì sợ hãi; ngồi lên xe, nhắm mắt lại và, sau khi vĩnh biệt trái đất, bắt đầu lao xuống chân đồi... Tiếng càng trượt xe rít lên... Nađia có nghe thấy
những lời đó nữa không, tôi không biết... Tôi chỉ thấy nàng bước ra khỏi xe một cách mệt nhọc, gần như kiệt sức. Qua nét mặt nàng có thể thấy rằng chính nàng cũng không biết nàng có nghe được những lời đó hay không. Nỗi sợ hãi khi xe lao xuống đồi đã làm nàng không còn khả năng nghe được, phân biệt được các âm thanh, không còn khả năng hiểu nữa...
Thế rồi những ngày xuân tháng Ba đã tới... Mặt trời như trở nên dịu dàng hơn. Quả đồi tuyết của chúng tôi bắt đầu sẫm lại, dần dần mất cái vẻ óng ánh của nó, và cuối cùng thì tan đi. Chúng tôi thôi không trượt xe nữa. Nađia đáng thương cũng không còn nơi nào để nghe những lời đó nữa, và cũng không có ai nói những lời ấy nữa, bởi vì gió thì không còn thổi nữa, mà tôi thì sửa soạn đi Pêtérburg - đi rất lâu, có lẽ là suốt đời.
Có lần khoảng hai ngày trước khi đi Pêtérburg vào một buổi chiều tà, tôi ngồi trong khu vườn nhỏ. Một hàng rào cao có đinh nhọn ngăn cách khu vườn ấy với sân nhà Nađia... Trời hãy còn lạnh, tuyết hãy còn đọng lại dưới đám phân, cây cối vẫn trơ trụi, nhưng hương vị mùa xuân đã đến, từng đàn quạ bay về tổ, trú đêm kêu lên quàng quạc. Tôi đến bên hàng rào và ghé nhìn qua khe hở. Tôi thấy Nađia bước ra thềm và đưa mắt nhìn lên trời buồn bã... Làn gió xuân nhẹ thổi qua khuôn mặt nhợt nhạt rầu rĩ của nàng... Làn gió xuân gợi lại cho nàng cái tiếng gió rít trên đồi tuyết, khi nàng nghe thấy bốn tiếng ấy, và gương mặt nàng trở nên buồn bã lạ thường, nước mắt lặng lẽ chảy trên má... Nàng đáng thương đưa hai tay mình về phía trước như muốn cầu xin làn gió đem đến cho nàng những lời yêu đương đó một lần nữa. Và tôi, chờ khi có làn gió đến, thì thào nói:
- Nađia, anh yêu em!
Trời, điều gì đã xảy ra với nàng lúc ấy! Nađia khẽ kêu lên và khuôn mặt nàng bỗng chan hòa một nụ cười rạng rỡ. Nađia đưa hai tay lên đón lấy gió, trông nàng lúc ấy thật là mừng rỡ, đẹp xinh và hạnh phúc.
Còn tôi, tôi trở vào nhà và đi thu xếp đồ đạc...
Chuyện ấy đã qua lâu rồi. Bây giờ Nađia đã có chồng, gia đình nàng gả chồng cho nàng hay nàng tự nguyện lấy? - điều ấy cũng chẳng có gì đáng
bận tâm. Chồng nàng là thư ký hội đồng giám hộ trẻ con quý tộc. Nađia đã có ba con. Nhưng chút kỷ niệm cùng nhau trượt băng và gió lúc ấy đem đến cho nàng bốn tiếng: “Nađia, anh yêu em!” thì nàng không quên được; đối với nàng, điều ấy đã trở thành kỷ niệm hạnh phúc nhất, xúc động nhất, đẹp đẽ nhất trong đời nàng...
Còn tôi, bây giờ tôi đã đứng tuổi, tôi không hiểu nổi vì lẽ gì tôi đã nói những lời đó, làm sao tôi đã đùa như thế...
Vanka
VANKA GIUKỐP là một cậu bé chín tuổi, trước đây ba tháng đã được gửi đến nhà ông thợ giày Aliakhin để học việc, vào đêm lễ Giáng Sinh cậu không nằm ngủ. Đợi đến lúc ông bà chủ nhà và mấy người thợ phụ đi lễ nhà thờ sáng sớm, cậu bé lấy từ trong chiếc tủ của ông chủ một lọ mực nhỏ, cây bút với chiếc ngòi đã gỉ, để một tờ giấy nhàu nát ra trước mặt rồi bắt đầu viết. Trước khi đặt bút viết chữ đầu tiên, mấy lần cậu sợ sệt đưa mắt nhìn cửa ra vào và cửa sổ, liếc nhìn bức ảnh thánh tối sẫm treo giữa hai dãy giá gỗ xếp đầy những bộ khuôn đóng giày, rồi thở dài đứt đoạn. Cậu đặt tờ giấy lên chiếc ghế bằng và quỳ xuống bên ghế.
“Ông Konxtantin Makarứts thân yêu! - cậu viết. - Cháu viết thư cho ông đây. Cháu chúc mừng ông nhân dịp lễ Giáng Sinh và chúc ông được Thượng Đế ban cho nhiều may mắn. Cháu chẳng còn bố, còn mẹ, cháu chỉ còn có một mình ông thôi”.
Vanka đưa mắt nhìn ra cửa sổ tối sẫm thấp thoáng phản chiếu bóng cây nến của cậu, và xúc động tưởng tượng ra người ông của mình hiện đang làm người gác cổng ban đêm cho nhà chủ Giưvarép. Ông cụ nhỏ nhắn, gầy gò, nhưng khôn ngoan, nhanh nhẹn khác thường, tuổi chừng sáu mươi lăm, vẻ mặt lúc nào cũng như đang cười và đôi mắt thì ngà ngà say. Ban ngày cụ ngủ trong bếp của đám người hầu hạ hay tán chuyện tầm phào với mấy bà đầu bếp, đến đêm thì cụ khoác tấm áo lông cừu thô rộng đi vòng quanh trang trại và gõ cái mõ của mình. Cúi đầu đi theo sau cụ là con chó già Kastanka và con chó Viun - gọi như thế vì con Viun có bộ lông màu đen và thân mình dài ngoẵng như một chú chồn. Con Viun lúc nào cũng tỏ ra hết sức hiền lành và kính nể mọi người, với người thân hay người lạ nó cũng đều nhìn bằng đôi mắt quấn quít xun xoe, nhưng nó vẫn không được ai tin cậy. Đằng sau cái vẻ hiền lành, lễ phép ấy là một sự tinh ranh tráo trở. Không một con chó nào biết thạo hơn nó cách lẻn đến đằng sau và đớp nhanh vào chân, ăn vụng thức ăn để trong hầm chứa hay bắt trộm gà của dân làng. Người ta đã nhiều lần đánh què hai chân sau, vài lần treo nó lên,
tuần nào cũng đá cho nó một trận nhừ tử, nhưng lần nào nó cũng sống lại. Bây giờ chắc ông đang đứng ở cổng, nheo mắt nhìn những khung cửa sổ sáng đỏ của ngôi nhà thờ làng, rồi vừa đập đập đôi ủng dạ vào nhau vừa tán gẫu với đám đầy tớ. Cái mõ ông đeo bên thắt lưng. Ông vỗ vỗ tay, người co ro lại vì lạnh, rồi vừa cười hì hì theo lối cười của người già vừa véo bà hầu phòng, bà đầu bếp.
- Này, ngửi tí thuốc hút chứ? - ông cụ vừa nói vừa đưa hộp thuốc của mình cho hai bà đó.
Hai bà ngồi ngửi rồi hắt hơi. Ông cụ thích chí không thể tả được, khoái trá cười vang và kêu lên:
- Thuốc này tốt lắm đấy!
Họ cho cả chó ngửi thuốc lá nữa. Con Kastanka hắt hơi, ngoay ngoảy đầu rồi giận dỗi bỏ sang một bên. Con Viun vì nể không hắt hơi mà chỉ ngoáy ngoáy đuôi. Thời tiết thì thật là đẹp. Không khí thật êm dịu, trong lành và tươi mát. Màn đêm sẫm sẫm tối, nhưng vẫn nhìn rõ cả xóm làng với những mái nhà màu trắng và làn khói nhè nhẹ bay lên, những hàng cây phủ một lớp tuyết trắng và những đống tuyết. Khắp bầu trời chi chít những vì sao vui nhấp nháy, và dòng sông Ngân hiện ra lồ lộ như trước ngày lễ có ai đã rửa sạch và trải lên đấy tuyết trắng...
Vanka thở dài, chấm bút vào lọ mực rồi viết tiếp:
“Ngày hôm qua cháu bị đánh một trận đau lắm ông ạ. Ông chủ nắm tóc cháu lôi ra ngoài sân rồi lấy dây da đánh cháu tới tấp vì tội cháu đưa nôi cho con ông chủ ngủ mà cháu trót ngủ quên đi mất. Tuần vừa rồi bà chủ sai cháu mổ con cá mòi, cháu lại bắt đầu làm từ đuôi, thế là bà ta cầm cả con cá mòi mà quật vào mặt cháu. Mấy người thợ học việc toàn trêu cười cháu, bảo cháu ra ngoài quán mua rượu vốtka lại còn bắt cháu lấy trộm dưa chuột của ông bà chủ, thế là ông chủ vớ được cái gì liền quật cháu tới tấp. Ăn thì chẳng có gì. Buổi sáng ông bà chủ cho cháu một miếng bánh mì, buổi trưa cho bát cháo, đến tối lại một mẩu bánh, còn có bao nhiêu canh bắp cải hay nước chè thì ông bà chủ ngốn hết, ông ạ. Ông bà chủ bắt cháu ngủ ngoài
hành lang, khi con người ta khóc thì cháu chẳng được ngủ tí nào mà cứ phải đưa nôi suốt. Ông thân yêu, ông làm ơn làm phúc mang cháu về nhà ông, về làng, cháu chẳng chịu được nữa... Cháu van lạy ông, cháu cầu Thượng Đế suốt ngày đêm, để ông đến mang cháu đi khỏi nơi này, không, cháu có thể chết mất...”
Mồm Vanka méo xệch, cậu đưa nắm tay đen bẩn lên dụi mắt rồi sụt sịt khóc.
“Cháu sẽ tán nhỏ thuốc lá cho ông, - cậu viết tiếp, - có trời chứng giám, nếu có gì thì ông cứ đánh cháu cật lực, còn nếu ông nghĩ là không có việc gì cho cháu làm thì cháu sẽ cố xin đánh giày cho ông quản gia hay là đi chăn bò thế chỗ thằng Phếtka. Ông thân yêu, cháu chẳng biết làm thế nào nữa, chỉ còn nước là chết nữa thôi. Cháu đã định chạy trốn về làng, nhưng mà không có giày, cháu sợ trời rét quá. Còn khi nào cháu lớn lên rồi, cháu sẽ trả ơn ông mà nuôi ông, cháu không cho đứa nào làm nhục ông, khi ông chết, cháu sẽ cầu nguyện cho linh hồn ông được yên nghỉ như cháu đã cầu cho mẹ Pêlagâya.
Còn Maxcơva là thành phố to lắm, ông ạ. Mọi nhà đều là của các ông chủ và ngựa cũng rất nhiều, còn cừu thì không có và chó thì không dữ đâu. Trẻ con ở đây không đi chơi thăm các nhà để ngâm thơ đạo Kytô vào ngày lễ Giáng Sinh và không ai cho đứng lên bục cao trong nhà thờ mà hét đâu, có lần cháu thấy ở hiệu tạp hóa trên cửa sổ có treo bán lưỡi câu có liền cả dây, cá gì cũng câu được, tốt lắm, ông ạ, lại còn có một cái lưỡi câu được cá nheo nặng một pút[13] ấy. Cháu còn thấy có hiệu bán những khẩu súng giống như các ông chủ vẫn đeo ấy, đến hàng trăm rúp một khẩu ấy, ông ạ... Ở các hiệu bán thịt thì đầy thịt gà rừng này, gà lôi này, thịt thỏ này, nhưng bắn được ở đâu thì mấy người bán chẳng nói.
Ông thân yêu, bao giờ ông chủ cho dựng cây thông treo những gói quà nhỏ thì ông lấy cho cháu một hạt dẻ màu vàng nhé, ông giấu vào cái rương màu xanh ấy. Ông cứ xin tiểu thư Onga Igơnatiépna ấy, ông bảo là xin cho cháu”.
Vanka run rẩy thở dài và lại nhìn chăm chăm ra cửa sổ. Cậu nhớ lại lần nào vào rừng lấy cây thông cho nhà chủ, ông đều đi và dắt cháu đi theo. Lúc ấy thật là vui vẻ! Mấy lần trước khi đẵn cây thông, ông hút một tẩu thuốc, ngửi ngửi thuốc hít rất lâu, và trêu cười cậu bé Vanka đang bị rét cóng... Những cây thông non phủ một lớp tuyết mỏng đứng yên và chờ xem cây nào bị chặt. Không biết từ đâu ra, một con thỏ chạy vụt qua mấy đống tuyết... Thế nào ông cũng kêu lên:
- Bắt lấy, bắt lấy... bắt lấy! Chà, đồ quỷ cộc đuôi!
Chặt được cây thông rồi ông đem về nhà chủ, và ở đây người ta bắt đầu trang điểm cho nó... Tiểu thư Onga Igơnatiépna mà Vanka rất mến, là người bận rộn nhiều nhất. Hồi mẹ Pêlagâya của Vanka còn sống, làm hầu phòng cho nhà chủ, Onga Igơnatiépna đã cho Vanka ăn kẹo và vì không có việc gì làm nên đã dạy cho cậu ta biết đọc, biết viết, đếm đến 100, thậm chí còn dạy nhảy điệu quadrille nữa. Sau khi mẹ Pêlagâya chết đi, người ta cho cậu bé mồ côi Vanka vào làm ở nhà bếp của những người hầu cùng chỗ ông, rồi từ đấy lại gửi lên Maxcơva ở với ông thợ giày Aliakhin...
“Ông thân yêu, ông lên đây đi, - Vanka viết tiếp - cháu xin ông làm ơn làm phúc đem cháu đi khỏi đây. Ông thương lấy cháu mồ côi mồ cút khổ sở, không người ta cứ đánh cháu mà cháu thèm được ăn no lắm, cháu buồn lắm, không nói được gì, cứ khóc thôi. Hôm vừa rồi, ông chủ lại lấy cái khuôn khâu giày đập vào đầu cháu, cháu ngã xuống mãi lâu sau mới tỉnh. Đời cháu khổ quá, khổ hơn cả chó, ông ạ... Cho cháu gửi lời thăm Alêna, bác Iegor chột mắt và bác đánh xe, còn cái phong cầm của cháu ông đừng đưa cho ai nhé. Cháu của ông mãi mãi, Vanka Giukôp, ông thân yêu, ông lên đây đón cháu nhé”.
Vanka gấp lá thư làm tư rồi bỏ vào cái phong bì mua một kôpếch ngày hôm trước... Nghĩ ngợi một lúc rồi cậu lại chấm mực và viết địa chỉ:
Gửi ông ở nhà quê.
Sau đó cậu gãi gãi đầu nghĩ rồi viết thêm: “Ông Konxtantin Makarứts”. Lấy
làm thích thú vì không bị ai ngăn trở viết thư, cậu chụp mũ lên đầu và không kịp khoác lên mình chiếc bành tô, cứ mặc mỗi chiếc áo sơ mi mà chạy ra ngoài phố...
Hôm trước khi cậu hỏi, mấy người ngồi bán thịt đã nói với cậu là thư từ thì bỏ vào những hộp thư, rồi từ đấy người ta lấy ra đem đi khắp nước trên những cỗ xe tam mã có chuông rung do mấy gã đánh xe say rượu điều khiển. Vanka chạy đến chỗ treo hộp thư gần nhất rồi bỏ bức thư quý báu qua khe...
Mơ theo những hi vọng ngọt ngào, một giờ sau cậu đã ngủ thiếp đi... Cậu nằm mê thấy cái bếp lò. Ông ngồi trên bệ bếp, đôi chân trần buông thõng, và đọc thư cho mấy bà đầu bếp nghe... Con Viun đi quẩn quanh bên cạnh và ve vẩy đuôi...
Chuyện đời vặt vãnh
NIKÔLAI ILÍTS BÊLIAÉP, một chủ nhà cho thuê ở Pêtérburg, thường dự các buổi đua ngựa, tuổi còn trẻ, mới chừng độ ba mươi hai, người béo khỏe, hồng hào, có lần, lúc gần tối, ghé vào thăm bà Onga Ivanốpna Irơnina, người mà Bêliaép đã từng chung sống, hay theo cách nói của anh, đã cùng kéo dài một mối tình buồn tẻ. Thật ra những trang đầu của mối tình đó, đầy thú vị và sôi nổi, đã qua đi từ lâu; và bây giờ những trang cuối cứ kéo dài, kéo dài mãi, không còn có một chút mới mẻ, hứng thú nào.
Không gặp Onga Ivanốpna ở nhà, nhân vật của tôi bèn ngã lưng xuống chiếc đivăng nhỏ đặt trong phòng khách và đợi.
- Chào bác ạ, bác Nikôlai Ilíts - anh bỗng nghe thấy một giọng trẻ con. - Mẹ cháu về bây giờ đấy. Mẹ cháu với Xônia đi đến nhà bà thợ may.
Cũng trong phòng khách đó, nằm trên một đivăng khác là Aliôsa, một cậu bé chừng tám tuổi, sạch sẽ, khỏe mạnh, cân đối, mặc chiếc áo nhung, đi bít tất dài đen, trông như trong tranh vẽ. Cậu nằm trên chiếc gối láng, lúc giơ ngược chân này, lúc giơ ngược chân kia, chắc là đang bắt chước diễn viên nhào lộn vừa được thấy ít lâu trong rạp xiếc. Khi đôi chân trắng đẹp của cậu đã mỏi, cậu bèn dùng đến cả tay hay là lại giả làm ngựa phi rất hăng, rồi chống hai tay, cố chổng ngược hai chân lên. Cậu ta làm tất cả những chuyện đó với vẻ mặt rất nghiêm trang, thở phì phò một cách khổ sở, hệt như chính cậu cũng không thấy sung sướng gì khi trời đã phú cho cậu một thân thể hiếu động đến thế.
- À, chào anh bạn nhỏ của tôi! - Bêliaép nói. - Cháu đấy ư? Thế mà bác không nhìn thấy. Mẹ có khỏe không?
Aliôsa lấy tay phải nắm bàn chân trái, trong một tư thế mất tự nhiên nhất rồi quay ngoắt lại, chồm người lên, ló đầu ra trên chiếc chụp đèn to bọc nỉ mà nhìn Bêliaép.
- Biết nói với bác thế nào nhỉ? - cậu bé nói và nhún vai. - Vì thực ra thì mẹ cháu chưa bao giờ khỏe mạnh cả. Mẹ cháu là phụ nữ, mà phụ nữ thì lúc nào cũng ốm đau, bác Nikôlai Ilíts ạ.
Bêliaép không biết làm gì, quay ra nhìn Aliôsa chăm chú. Trước đây, suốt cả thời gian đi lại với Onga Ivanốpna, không một lần nào anh chú ý đến thằng bé, hoàn toàn không nhận ra rằng có nó tồn tại: thằng bé lúc nào cũng thấy kè kè bên cạnh, nhưng mà nó ở đấy để làm gì kia chứ, nó đóng vai trò gì - không hiểu sao Bêliaép cũng chẳng buồn nghĩ đến chuyện đó nữa.
Trong bóng chiều chập choạng, gương mặt Aliôsa với cái trán trắng xanh và đôi mắt đen không chớp bất ngờ gợi cho Bêliaép nhớ đến Onga Ivanốpna thuở hai người mới yêu nhau. Anh bỗng cảm thấy muốn âu yếm đứa bé.
- Cháu lại đây, cháu! - anh nói. - Cho bác nhìn cháu gần một chút nào. Cậu bé nhảy khỏi đivăng và chạy đến bên Bêliaép.
- Thế nào? - Nikôlai Ilíts nói, tay đặt lên vai gầy gầy của cậu bé. - Ở nhà với mẹ thích chứ?
- Biết nói với bác thế nào nhỉ? Dạo trước cháu thấy thích hơn. - Sao thế?
- Rất đơn giản thôi bác ạ! Dạo trước cháu với Xônia chỉ phải học nhạc với tập đọc thôi, còn bây giờ, cháu phải học cả thơ bằng tiếng Pháp nữa. À, bác mới cắt tóc.
- Ừ, mới cắt.
- Đấy, cháu thấy ngay mà. Râu bác ngắn đi đấy. Bác cho cháu sờ một tí nhé... Có đau không?
- Có đau đâu.
- Tại sao khi kéo một sợi râu thì đau mà khi kéo một lô sợi thì chẳng đau tí nào? Ha ha! À bác biết không, bác không để râu quai nón là dại đấy. Ở chỗ này phải cạo, còn hai bên thái dương... bác cứ để tóc lại...
Cậu bé nép vào người và sờ mớ sợi dây đồng hồ của Bêliaép.
- Khi nào cháu được vào trường học, - cậu bé nói, - mẹ cháu sẽ mua cho cháu đồng hồ. Cháu sẽ bảo mẹ cháu mua cái dây giống thế này... Ô, cái Médaillon[14]của bác đẹp quá! Cha cháu cũng có cái médaillon giống như thế, chỉ khác là của bác thì gạch gạch, của cha cháu thì để chữ... Ở chính giữa có để ảnh mẹ cháu. Bây giờ, bây giờ cha cháu có cái dây khác rồi, không móc vào nhau mà là một dải liền...
- Sao cháu biết? Cháu vẫn gặp cha cháu đấy ư?
- Cháu ấy à?... Không! Cháu...
Aliôsa đỏ bừng mặt lộ rõ vẻ hết sức lúng túng, bị bắt quả tang nói dối, cậu bé càng tỏ vẻ chăm chú cào cào móng tay vào chiếc médaillon hơn. Bêliaép nhìn chằm chằm vào mặt cậu bé và hỏi:
- Cháu gặp cha cháu đấy à?
- Kh... Không ạ!
- Không đúng, cháu cứ thành thực nói đi... Trông mặt cháu, bác cũng biết cháu nói dối. Nếu cháu nói lỡ mồm thì chẳng việc gì phải lúng túng thế. Cháu nói đi, có gặp không? Nào, cháu cứ coi bác như bạn thân của cháu!
Aliôsa do dự.
- Nhưng bác không nói lại với mẹ cháu chứ? - cậu bé hỏi. - Chứ còn sao nữa!
- Bác nói thật nhé?
- Nói thật.
- Thật thế nhé!
- Chà, thật là một cậu bé khó tính! Cháu coi bác là ai mà lạ thế! Aliôsa quay lại nhìn quanh, mắt mở to và thì thào nói:
- Nhưng mà bác đừng nói lại với mẹ cháu nhé... Cũng không được nói với ai khác nữa vì đây là chuyện bí mật. Nhỡ mà mẹ cháu biết thì cả cháu, cả Xônia, cả bà Pêlagâya sẽ bị... Nghe cháu kể nhé. Cháu và Xônia cứ đến thứ ba và thứ sáu thì được gặp cha cháu. Trước bữa ăn trưa, bà Pêlagâya dẫn chúng cháu đi dạo chơi, rồi bà dẫn chúng cháu vào hiệu bánh kẹo Apphen, cha cháu đã chờ sẵn ở đấy rồi... Cha cháu bao giờ cũng ngồi ở một buồng riêng bé bé, bác biết không, ở đấy có cái bàn đá phẳng lì, có cái gạt tàn giống con ngỗng không có lưng...
- Cháu với cha cháu làm gì ở đấy?
- Không làm gì cả! Đầu tiên thì chào nhau, sau đó tất cả ngồi quanh cái bàn rồi cha cháu cho cháu uống cà phê, ăn bánh rán. Bác biết không, Xônia nó toàn ăn bánh rán nhân thịt! Cháu thích nhân bắp cải với nhân trứng. Chúng cháu ăn thỏa thích no nê, đến bữa trưa sợ mẹ biết, chúng cháu phải cố ăn cho thật nhiều.
- Thế ở đấy các cháu nói những chuyện gì?
- Nói với cha cháu. Đủ các thứ chuyện. Cha cháu ôm hôn chúng cháu, kể đủ các thứ chuyện buồn cười. Bác biết không, cha cháu nói rằng, khi nào chúng cháu lớn lên rồi, cha cháu sẽ đem chúng cháu về ở chung. Xônia thì không thích, còn cháu thì đồng ý. Tất nhiên là không có mẹ thì buồn thật đấy, nhưng cháu sẽ viết thư cho mẹ cháu cơ mà! Lạ thật bác nhỉ? Đến ngày lễ tết thì cháu có thể còn về thăm mẹ cháu nữa ấy chứ, có phải thế không
bác? Cha cháu còn nói sẽ mua cho cháu một con ngựa. Cha cháu tốt nhất trần gian đấy! Cháu không biết tại sao mẹ cháu không bảo cha cháu về ở với mẹ cháu, rồi lại còn cấm chúng cháu gặp cha cháu nữa. Cha cháu rất yêu mẹ cháu cơ mà. Lần nào cha cháu cũng hỏi mẹ có khỏe không, mẹ đang làm gì. Khi nào mẹ cháu bị ốm thì cha cháu cứ túm lấy tóc mình thế này này... rồi cứ chạy đi, chạy lại. Lần nào cũng dặn chúng cháu phải nghe lời mẹ, phải yêu kính mẹ. Bác ạ, có phải mẹ cháu với chúng cháu đều khổ cả phải không?
- Hừm... Vì sao thế?
- Đấy là cha cháu nói. Cha cháu bảo chúng cháu là những đứa trẻ bất hạnh. Nghe cha cháu nói cứ thấy là lạ thế nào ấy bác ạ. Cha cháu bảo cháu cũng khổ, mẹ cháu cũng khổ. Cha cháu bảo cháu hãy cầu nguyện cả cho cháu, cả cho mẹ cháu.
Aliôsa lặng nhìn con chim nhồi, vẻ nghĩ ngợi.
- Thế, - Bêliaép làu bàu nói. - À ra cha con nhà ngươi là thế. Bày ra trò hội nghị trong hiệu bánh kẹo. Mẹ cháu có biết chuyện này không?
- Kh...ông... Mẹ cháu làm thế nào mà biết được? Bà Pêlagâya thì không đời nào nói rồi. À ngày hôm qua cha cháu còn cho cháu ăn lê nữa cơ. Ngọt ngọt là, như bánh bích quy ấy! Cháu ăn hai quả.
- Hừm... Này, còn... cháu nghe này, cha cháu có nói gì về bác không? - Về bác ấy à? Biết nói thế nào nhỉ?
Aliôsa tò mò nhìn lên khuôn mặt Bêliaép và nhún vai.
- Cha cháu cũng chẳng nói gì đáng kể cả.
- Đại loại nói thế nào?
- Thế bác không giận chứ?
- Chứ còn sao nữa! Chẳng lẽ cha cháu lại chửi rủa bác à?
- Cha cháu không chửi, nhưng, bác biết không nhỉ... Cha cháu giận bác đấy. Cha cháu nói là vì bác mà mẹ cháu phải khổ, nói là... bác đã làm hại đời mẹ cháu. Cha cháu là một người là lạ thế nào ấy bác ạ! Cháu giải thích cho cha cháu rằng bác rất tốt, chẳng bao giờ quát mắng mẹ cháu, nhưng cha cháu chỉ lắc đầu thôi.
- Thế thế, cha cháu nói rằng bác đã làm hại đời mẹ cháu phải không? - Vâng. Bác đừng giận, bác Nikôlai Ilíts ạ!
Bêliaép ngồi dậy, đứng một lúc, rồi đi đi lại lại trong phòng khách.
- Chuyện này vừa lạ lùng vừa... buồn cười! - anh lầm bầm nói, nhún nhún vai, mỉm cười giễu cợt. - Cha cháu có lỗi tất mà lại đổ cho ta là làm hại đời mẹ cháu, phải thế không? Thử xem lại cha cháu là một kẻ vô tội như thế nào! Thế đúng là ông ấy nói với cháu là bác đã làm hại đời mẹ cháu à?
- Vâng, nhưng... bác đã nói rằng bác sẽ không cáu giận cơ mà!
- Bác không giận mà... mà cũng chẳng phải chuyện của cháu! Không, chuyện này... chuyện này kể cũng buồn cười thật! Ta như con gà rơi vào nồi canh bắp cải và thế rồi chính ta là kẻ có lỗi!
Có tiếng chuông rung. Cậu bé đứng phắt dậy và chạy ra ngoài. Một lát sau, một người phụ nữ với một đứa bé gái đi vào, đó là Onga Ivanốpna, mẹ của Aliôsa. Theo sau nàng là cậu bé Aliôsa, vừa nhảy cỡn lên, tay vung cao, vừa hát toáng lên. Bêliaép khẽ gật đầu và tiếp tục đi đi lại lại.
- Tất nhiên là thế rồi, còn buộc tội ai ngoài tôi nữa? - Bêliaép làu bàu nói, giọng cáu kỉnh. - Anh ta nói đúng đấy! Anh ta là một anh chồng chạm lòng tự ái!
- Anh nói chuyện gì vậy? - Onga Ivanốpna hỏi.
- Chuyện gì à?... Đây này, thử nghe xem anh chồng chung thủy của cô đã nói những gì! Hóa ra rằng tôi là một thằng đê tiện, độc ác, tôi đã làm hại đời cô và lũ trẻ. Tất cả mẹ con cô đều bất hạnh, chỉ có mỗi mình tôi là hạnh phúc ghê gớm! Hạnh phúc ghê gớm, ghê gớm!
- Em chẳng hiểu anh nói gì cả! Làm sao thế?
- Đây, cô hãy nghe ông nhỏ này ông ấy kể cho mà nghe! - Bêliaép nói và chỉ vào mặt Aliôsa.
Gương mặt Aliôsa đỏ bừng lên, bỗng chuyển sang tái mét, rồi méo xệch vì sợ hãi.
- Bác Nikôlai Ilíts! - cậu bé nói to, giọng lào thào qua kẽ răng. - Suỵt! Onga Ivanốpna kinh ngạc nhìn Aliôsa, nhìn Bêliaép rồi lại nhìn Aliôsa.
- Cứ thử hỏi xem! - Bêliaép nói tiếp. - Mụ Pêlagâya của cô, một mụ đàn bà ngu độn, đã dẫn chúng nó đi vào hiệu bánh kẹo và sắp đặt cho chúng nó gặp bố chúng. Nhưng chuyện không phải ở chỗ là bố chúng đang đau khổ, mà ở chỗ tôi là một con quỷ độc ác, một thằng đê tiện đã hủy hoại đời cả hai vợ chồng cô...
- Bác Nikôlai Ilíts! - Aliôsa rên lên. - Bác đã thề rồi cơ mà!
- Ê, thôi đi! - Bêliaép phẩy phẩy tay. - Chuyện này hệ trọng hơn mọi lời thề thốt. Sự lừa dối, đạo đức giả làm tôi tức tối!
- Em không hiểu gì cả! - Onga Ivanôpna nói nhanh, nàng rơm rớm nước mắt - Aliôsa, - nàng quay sang nói với cậu bé, - con gặp bố đấy à?
Aliôsa không nghe thấy mẹ hỏi và sợ hãi nhìn lên Bêliaép. - Không thể có được! - người mẹ nói. - Để em đi hỏi mụ Pêlagâya xem sao.
Onga Ivanốpna đi ra khỏi phòng.
- Bác, bác đã thề với cháu rồi cơ mà! - Aliôsa nói, toàn thân run lên.
Bêliaép phẩy phẩy tay về phía thằng bé và tiếp tục đi đi lại lại. Nỗi giận dữ choán hết cả tâm trí anh ta và, như xưa nay vẫn vậy, anh lại không để ý gì đến cậu bé. Là một người lớn, nghiêm nghị, anh thấy chẳng hơi đâu mà ngó ngàng đến lũ trẻ con. Còn Aliôsa thì ngồi thụp xuống một góc và kinh hãi kể lại cho Xônia nghe chuyện mình vừa bị lừa như thế nào. Aliôsa run run, vừa kể vừa thút thít khóc, đó là lần đầu tiên trong đời cậu chạm trán với sự lừa dối thô bạo đến thế; trước kia cậu chưa biết rằng trên thế gian này, ngoài những trái lê ngọt ngào, những chiếc bánh rán và đồng hồ đắt tiền, còn có bao nhiêu điều khác nữa không có tên gọi trong ngôn ngữ trẻ con.
Chai rượu sâm banh (Chuyện của một kẻ vô lại)
VÀO CÁI NĂM mà tôi bắt đầu câu chuyện, tôi làm trưởng ga xép ở một trong những tuyến đường sắt Tây Nam của nước Nga. Muốn biết tôi ở cái ga xép ấy vui hay buồn, các bạn có thể căn cứ vào điều là quanh đấy hai mươi vécxta[15]không có lấy một ngôi nhà, một người đàn bà, một quán rượu nào cho ra hồn, thế mà dạo ấy tôi còn trai trẻ, khỏe mạnh, cường tráng, nông nổi và chẳng nghĩ sâu nhìn xa gì. Món giải trí duy nhất, chỉ là nhìn qua khung cửa sổ những con tàu với lại cái thứ rượu vốtka đáng nguyền rủa mà bọn dân buôn Do Thái thường pha lẫn ít thuốc mê. Có lúc thấy loáng thoáng một khuôn mặt phụ nữ qua khung cửa sổ, thì tôi đứng lặng như pho tượng nín thở mà nhìn theo cho đến khi con tàu chỉ còn là một chấm đen mờ; hay có lúc mặc sức uống cái thứ vốtka tồi tệ kia, uống đến khi mụ đầu và không còn biết ngày tháng dài dằng dặc đang vun vút đi qua. Đối với tôi, một người vốn sinh trưởng ở miền Bắc thì thảo nguyên có tác động như một thứ nghĩa địa heo hút của bọn Tácta. Về mùa hè, với vẻ yên tĩnh nghiêm trang - tiếng côn trùng đơn điệu rên rỉ, ánh trăng trong tỏa xuống khắp nơi không sao tránh được - thảo nguyên gợi cho tôi một nỗi buồn khắc khoải, còn mùa đông thì cái màu trắng tinh khiết của nó, chân trời xa lạnh lẽo, những đêm dài và tiếng chó sói rú đã làm lòng tôi nặng trĩu như một cơn ác mộng.
Ở ga xép này có mấy người: tôi và vợ tôi, một anh điện tín viên nặng tai, bị bệnh tràng nhạc và ba người gác ga. Phó trưởng ga của tôi là một anh chàng bị lao phổi đi chữa bệnh ngoài tỉnh lỵ hàng tháng trời, giao lại công việc cho tôi cùng với quyền được hưởng lương của mình. Tôi không có con cái, khách khứa thì không có cách gì lôi kéo họ đến được chỗ tôi, phần tôi thì có thể đến thăm các bạn đồng nghiệp cùng tuyến đường nhiều lắm là mỗi tháng một lần. Nói gọn lại là một cuộc sống buồn tẻ vô cùng.
Tôi còn nhớ lần tôi cùng vợ tôi sửa soạn ăn mừng năm mới. Vợ chồng tôi ngồi bên bàn, uể oải nhai đi nhai lại và lắng nghe tiếng “tạch tạch tè” đơn
điệu phát ra từ chiếc máy của anh điện tín viên nặng tai. Tôi đã uống gần năm chén rượu vốtka pha lẫn thuốc mê, tựa cái đầu nặng trịch lên bàn tay nắm chặt, tôi nghĩ đến sự buồn tẻ không cách gì thoát khỏi được đang bám riết đời tôi, còn vợ tôi thì ngồi bên cạnh, mắt chăm chăm nhìn vào mắt tôi. Cô ta nhìn tôi với cái nhìn của một người đàn bà mà trên đời này ngoài anh chồng điển trai ra không còn gì khác nữa. Cô ta yêu tôi say đắm, như tên nô lệ của tôi, và không phải chỉ yêu vẻ đẹp trai hay tâm hồn, mà yêu cả những lỗi lầm, sự giận dữ, nỗi buồn tẻ và thậm chí cả sự tàn nhẫn của tôi, khi trong cơn say rượu, không biết trút cái giận vào ai, tôi đã làm tình làm tội cô ta bằng những lời quở trách gàn dở.
Mặc dầu sự buồn tẻ mòn mỏi gặm nhấm tôi, vợ chồng tôi cũng sửa soạn đón năm mới đàng hoàng ra trò và nóng lòng chờ đợi đêm giao thừa. Số là chúng tôi có để dành được hai chai rượu sâm banh, rượu sâm banh chính cống, thật rượu sâm banh Pháp; của báu này tôi kiếm được nhờ đã thắng viên trưởng đoàn đường sắt trong lần đánh cược hồi mùa thu, vào dịp lễ rửa tội cho đứa con mới sinh. Có lần trong giờ học toán, khi mà bầu không khí lạnh ngắt đi vì buồn tẻ, một con bướm bỗng bay từ ngoài sân vào lớp; bọn con trai quay đầu lia lịa, đưa mắt tò mò nhìn theo hệt như không phải trước mặt là con bướm mà là một cái gì mới mẻ, lạ lùng; cũng đúng như vậy, chai rượu sâm banh bình thường tình cờ lạc đến cái ga xép buồn tẻ này đã làm chúng tôi vui mừng phấp phỏng. Chúng tôi lặng lẽ ngồi yên, hết nhìn đồng hồ lại nhìn lên chai rượu.
Khi kim đồng hồ chỉ kém năm phút đầy mười hai giờ, tôi bắt đầu từ từ mở nút chai. Tôi không biết có phải tại tôi đã ngà ngà say vì rượu vốtka, hay chính vì là vỏ chai quá trơn, nhưng tôi chỉ còn nhớ rằng khi cái nút chai nổ bắn lên trần nhà, thì chai rượu tuột ra khỏi tay tôi và rơi xuống nền nhà. Rượu chảy ra ngoài không đến một cốc, vì tôi kịp nắm lấy chai và lấy ngón tay bịt miệng chai đang sùi bọt lại.
- Nào, chúc mừng năm mới, chúc mừng hạnh phúc mới - tôi vừa nói, vừa rót rượu ra hai cái cốc. - Nào, ta uống thôi!
Vợ tôi cầm cốc rượu và nhìn chằm chằm vào tôi bằng đôi mắt sợ hãi. Mặt cô ta tái đi và lộ rõ vẻ kinh hoàng.
- Anh đánh rơi chai rượu đấy à? - cô ta hỏi.
- Ừ, đánh rơi. Nhưng mà thế thì đã sao cơ chứ?
- Không hay đâu, - cô ta vừa nói vừa đặt chiếc cốc xuống, nét mặt càng tái đi hơn. - Đó là điềm không hay đâu. Có nghĩa là năm nay chúng mình sẽ gặp phải chuyện chẳng lành.
- Ồ, mình dớ dẩn quá! - tôi thở dài nói. - Một người phụ nữ khôn ngoan, thế mà ăn nói u mê như một mụ vú em già. Uống đi!
- Thì cứ cho là em ăn nói u mê đi, nhưng mà... thế nào cũng có chuyện chẳng lành xảy ra! Rồi anh xem!
Cô ta thậm chí cũng không chạm môi vào cốc rượu nữa, cô ngồi vào một góc đăm chiêu nghĩ ngợi. Tôi nói mấy câu cũ rích về chuyện mê tín, uống hết nửa chai rượu, đi đi lại lại trong phòng rồi bước ra ngoài.
Ngoài sân, đêm mùa đông lạnh lẽo, yên ắng, lộ hết vẻ hiu quạnh của mình. Vành trăng và hai đám mây trắng xốp bên cạnh cùng nằm yên như dính vào nhau chính giữa bầu trời trên ga xép, và hình như cũng đang chờ đợi một điều gì. Ánh trăng trong suốt dìu dịu tỏa xuống sẽ sàng trải ra trên mặt đất trắng muốt như sợ động mạnh làm mặt đất xấu hổ, trăng chiếu sáng những đống tuyết, nền đường sắt... Chung quanh vắng lặng.
Tôi đi dọc nền đường sắt.
“Thật là một mụ đàn bà đần độn! - tôi vừa nghĩ vừa nhìn lên bầu trời lốm đốm những vì sao sáng. - Ngay cả nếu cứ cho rằng điềm này điềm nọ là có thật đi chăng nữa thì liệu còn điều gì không may có thể xảy ra với bọn ta được? Những điều bất hạnh mà bọn ta đã chịu đựng và đang hiển hiện ra trước mắt nặng nề đến mức khó mà có thể tưởng tượng ra điều gì tồi tệ hơn. Còn có thể làm thêm điều gì ác độc đối với một con cá đã bị đánh vẩy mổ ruột, bị rán lên, rưới nước xốt vào và đặt lên bàn ăn?”
Một cây dương cao phủ tuyết hiện ra trong màn đêm thẫm xanh như một người khổng lồ mặc áo liệm màu trắng toát. Nó đăm đăm nhìn tôi, vẻ khắc khổ, rầu rĩ, hệt như nó cũng hiểu nỗi cô đơn của mình như tôi. Tôi đứng nhìn cây dương rất lâu.
“Tuổi trẻ của mình đã tiêu ma đi, không đáng một đồng trinh, như một mẩu thuốc lá hút dở không thể được hút nữa, - tôi miên man nghĩ tiếp. - Bố mẹ mình chết từ khi mình còn bé, mình đã bị đuổi ra khỏi trường. Mình sinh trưởng trong một gia đình quý tộc, thế mà chẳng được dạy dỗ, học hành gì sất, kiến thức của mình cũng không hơn gì một tay thợ tra dầu vào máy. Mình chẳng có chỗ ở nào, chẳng có người thân, chẳng có bè bạn, chẳng có nghề nghiệp nào đáng say mê. Mình không biết làm một việc gì và vào cái tuổi cường tráng nhất, mình chỉ đáng để cho người ta lấy mình lấp liếm vào chỗ khuyết một anh trưởng ga xép. Ngoài những điều rủi ro, bất hạnh ra, mình không gặp cái gì khác trong cuộc sống. Vậy thì còn có điều chẳng lành nào xảy đến được nữa?”.
Từ phía xa hiện ra những ánh lửa màu đỏ. Một đoàn tàu đang chạy ngược về phía tôi. Thảo nguyên nằm yên như lắng nghe tiếng động đoàn tàu. Những ý nghĩ của tôi chua chát đến mức tôi tưởng rằng ý nghĩ của tôi phát ra thành tiếng, rằng dây điện thoại kêu và tiếng động đoàn tàu đang truyền những ý nghĩ của tôi.
“Còn có thể có điều gì chẳng lành xảy ra nữa? Mất vợ chăng? - tôi tự hỏi. - Cả điều này cũng chẳng đáng sợ. Thành thật mà nói không cần giấu giếm gì là mình không yêu vợ. Mình lấy cô ta khi còn ít tuổi. Bây giờ mình còn đang trẻ trung, tráng kiện, thì cô ta đã gầy gò, già đi, đần độn đi, đầu óc chứa đầy những điều mê tín nhảm nhí. Có gì tốt đẹp trong tình yêu quá say mê của cô ta, trong cái ngực lép kẹp và cái nhìn uể oải của cô ta? Mình còn chịu đựng được cô ta, nhưng không yêu. Vậy thì cái gì có thể xảy ra? Tuổi trẻ của mình đang rơi rụng đi hoàn toàn vô tích sự. Phụ nữ chỉ thoáng hiện trước mặt mình qua khung cửa sổ toa tàu, như những vì sao đổi ngôi. Chưa từng biết đến tình yêu, ngày trước cũng như hôm nay. Sự dũng cảm, lòng can đảm, tốt bụng của mình đang héo mòn đi... Tất cả đều héo mòn, thối
rữa như mùn rác, và những gì gọi là gia tài giàu có của mình ở đây, trên thảo nguyên này, không đáng giá một đồng xu”.
Đoàn tàu ầm ầm chạy qua trước mặt tôi, những cửa sổ đỏ ánh đèn dửng dưng chiếu lên người tôi. Tôi nhìn thấy đoàn tàu dừng lại bên cột đèn xanh trên sân ga, đỗ lại chừng một phút rồi lại tiếp tục chạy. Tôi lững thững đi chừng hai vécxta rồi quay về. Những ý nghĩ buồn bã vẫn bám riết lấy tôi. Dù tôi cảm thấy cay đắng đến thế nào, tôi vẫn nhớ rằng lúc ấy hình như tôi đã cố làm cho những ý nghĩ của tôi thêm phần buồn bã, ảm đạm hơn. Các bạn có biết không, những người thiển cận, đầy lòng ích kỷ thường hay gặp những phút mà cái cảm giác đau khổ lại đem tới cho họ ít nhiều thích thú, và thậm chí họ còn làm điệu với chính điều đau khổ của mình. Trong suy nghĩ của tôi cũng có nhiều phần đúng, nhưng kể cũng không ít sự quái gở tự phụ, có cái gì trẻ con, đầy vẻ thách thức trong câu hỏi của tôi: “Vậy thì có thể có điều gì chẳng lành xảy ra nữa?”
“Ừ mà cái gì có thể xảy ra nữa? - tôi tự hỏi trên đường về. - Có lẽ mình đã nếm đủ mọi điều. Mình đã ốm đau, đã mất tiền, hàng ngày đã từng bị cấp trên khiển trách, đã chịu đói, sói dữ đã chạy vào trong sân ga xép. Còn gì nữa? Người ta đã lăng mạ, sỉ nhục mình... và trong đời mình, mình cũng đã nhiều lần xúc phạm đến người khác. Có lẽ chỉ có phạm tội là mình chưa bao giờ mắc phải; nhưng hình như mình cũng không đủ khả năng để phạm tội, tuy rằng mình cũng chả sợ gì tòa án”.
Hai đám mây nhỏ đã rời khỏi mặt trăng và đứng tránh ra xa như đang thì thầm với nhau điều gì mà mặt trăng không nên biết. Một làn gió nhẹ chạy qua thảo nguyên, đưa lại tiếng ầm ì mơ hồ của đoàn tàu đã chạy qua.
Vợ tôi đón tôi trên ngưỡng cửa ngôi nhà. Đôi mắt cô ta sáng lên mừng rỡ, cả gương mặt cô lộ rõ vẻ sung sướng.
- Nhà ta có chuyện mới! - cô ta thì thầm. - Anh về phòng mình nhanh nhanh lên, mặc áo veston mới vào: nhà ta có bà khách đến thăm đấy!
- Bà khách nào?
- Cô Natalia Pêtơrốpna vừa mới đến trên chuyến tàu vừa rồi. - Natalia Pêtơrốpna nào?
- Vợ ông chú em, Xêmiôn Phêđorứts. Anh không biết cô ấy đâu. Cô rất đẹp và tốt bụng...
Chắc là tôi có cau mày lại nên vợ tôi mới nghiêm sắc mặt lại và thì thầm nói nhanh:
- Cô ấy đến đây quả thật cũng là điều lạ lùng, nhưng anh đừng cáu giận và hãy độ lượng nhìn bà cô. Vì cô ấy cũng khổ. Chú Xêmiôn Phêđorứts quả thực là một người độc đoán, dữ tợn, khó lòng mà sống chung được với ông ấy. Cô ấy nói là sẽ chỉ ở nhà chúng ta ba ngày thôi, cho đến khi nhận được thư của người em.
Vợ tôi còn thì thầm nói lảm nhảm khá lâu về cái ông chú độc đoán, về sự mềm yếu của con người nói chung và của các bà vợ trẻ nói riêng, về nghĩa vụ của chúng tôi phải đối xử tử tế với tất cả mọi người ngay cả với những kẻ lầm lỗi v.v... Chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì hết, tôi đi mặc chiếc áo veston mới rồi ra gặp mặt “bà cô”.
Một người đàn bà nhỏ nhắn, đôi mắt đen to, đang ngồi bên cạnh bàn. Chiếc bàn của tôi, những bức tường màu xám, cái đivăng thô kệch... tất cả hình như đều trẻ trung ra, mừng rỡ hẳn lên với sự có mặt của người phụ nữ mới mẻ, trẻ trung, xinh xẻo đầy vẻ tội lỗi này, từ người phụ nữ này toát ra một vẻ gì đầy bí ẩn. Tôi nói người đàn bà này đầy vẻ tội lỗi là vì tôi nhận thấy điều đó qua nụ cười, qua mùi hương, qua cách nhìn, cách chớp chớp hàng mi, qua giọng nói chuyện của cô với vợ tôi - một người phụ nữ đứng đắn... Cô không cần phải kể lại với tôi rằng cô đã bỏ chồng mà đi, rằng chồng cô vừa già vừa độc ác, rằng cô ta rất tốt bụng và vui tính. Tất cả những điều này tôi hiểu từ phút đầu, ừ mà liệu ở khắp Âu châu này còn có người đàn ông nào không nhận ra ngay từ cái thoáng nhìn đầu tiên một người phụ nữ tính tình sôi nổi?
- Thế mà tôi không biết rằng tôi có một người cháu to lớn như thế này! - bà cô vừa nói với tôi, vừa mỉm cười chìa tay ra cho tôi bắt.
- Tôi cũng không biết là tôi có một bà cô xinh đẹp thế này! - tôi nói.
Bữa ăn tối lại bắt đầu. Chiếc nút chai lại bắn lên khỏi chai rượu thứ hai, và bà cô của tôi uống một hơi hết nửa cốc rượu, và khi vợ tôi đi ra ngoài một lát thì bà cô đã không còn giữ ý tứ gì nữa mà uống hết cả một cốc rượu. Tôi ngà ngà say vì rượu và vì có người đàn bà ấy bên cạnh. Các bạn còn nhớ bản tình ca này không?
Đôi mắt đen tuyền, đôi mắt đắm say,
Đôi mắt cháy bỏng, tuyệt vời,
Ta yêu đôi mắt em làm sao,
Ta sợ đôi mắt em làm sao!
Tôi không nhớ chuyện gì xảy ra sau đó. Ai muốn biết tình yêu bắt đầu thế nào thì mặc họ tìm tiểu thuyết, truyện dài mà đọc, còn tôi thì chẳng nói nhiều lời, cứ quanh đi quẩn lại mấy câu trong bản tình ca ngu ngốc kia:
Ta biết, ta đã gặp đôi mắt em
Vào giờ phút chẳng lành...
Tất cả đều đảo lộn, tan thành mây khói. Tôi còn nhớ cơn lốc kinh khủng dữ dội cuốn tôi đi như một chiếc lông chim. Nó cuốn tôi rất lâu và xóa sạch khỏi mặt đất cả vợ tôi, cả bà cô và cả sức lực của tôi. Từ một ga xép nơi thảo nguyên, các bạn thấy đấy, nó đã quăng tôi đến cái phố tối tăm này.
Bây giờ thì các bạn hãy nói đi: còn có thể có điều gì chẳng lành xảy đến với tôi được nữa?
Hai kẻ thù
VÀO LÚC MƯỜI GIỜ, một buổi tối tháng Chín không trăng không sao, Anđrây sáu tuổi, đứa con trai duy nhất của bác sĩ hội đồng tự quản địa phương tên là Kirilốp đã bị chết vì bệnh bạch hầu. Khi bà vợ ông bác sĩ đang quỳ bên giường con mới chết, và lả đi vì đau khổ, tuyệt vọng, thì có tiếng chuông rung mạnh ở ngoài hành lang.
Do đứa trẻ bị bệnh bạch hầu mà từ sớm mấy người làm công trong nhà đều được bảo đi khỏi nhà. Không mặc áo veston, mặc mỗi chiếc áo gilê mở cúc, chưa kịp lau mặt còn đẫm nước, không kịp lau đôi tay bóng lộn vì phênôn, Kirilốp tự mình ra mở cửa. Ngoài hành lang rất tối, chỉ có thể nhận thấy người lạ mới bước vào tầm vóc trung bình, quàng một chiếc khăn màu trắng, gương mặt to bè nhợt nhạt, nhợt nhạt đến mức tưởng rằng hành lang sáng lên được một chút nhờ có gương mặt đó xuất hiện...
- Bác sĩ có nhà không? - người mới vào hỏi nhanh.
- Tôi có nhà đây, - Kirilốp trả lời. - Ông cần gì vậy?
- Ồ, ông đấy ư? Thật may quá! - người mới vào mừng rỡ rồi tìm trong bóng tối chập choạng bàn tay của bác sĩ, và nắm chặt trong đôi tay của mình. - Thật may quá... may quá! Tôi với ông có quen nhau đấy... Tôi là Abôghin... đã có lần hân hạnh được gặp ông dạo hè ở nhà Gơnutsép. Tôi rất mừng là thấy ông ở nhà... Vì Chúa xin ông chớ từ chối mà hãy theo tôi. Vợ tôi bị ốm nặng... Tôi có mang theo xe...
Qua cử chỉ và giọng nói của người mới vào có thể thấy rõ là ông ta đang ở trong trạng thái tâm thần bị kích động mãnh liệt. Hệt như đang sợ hãi vì cháy nhà hay chó dại cắn mà ông ta khó nhọc thở gấp, giọng nói nhanh run run, có cái gì thật thà, con trẻ, nhút nhát lộ ra qua lời nói của ông ta. Giống như tất cả những người đang ở trong trạng thái sợ hãi và kinh ngạc, ông ta
nói những lời ngắn ngủi, rời rạc và chêm vào nhiều câu thừa, chẳng ăn nhập gì vào câu chuyện.
- Tôi sợ không gặp được ông, - người mới và nói tiếp - Trên đường đi đến nhà ông, tôi đau khổ vô cùng... Ông mặc áo vào đi và cùng lên xe với tôi, làm ơn làm phúc... Chuyện xảy ra như thế này. Có ông Páptsinxki Alếchxanđrơ Xêmiônôvíts đến chơi chỗ tôi, người này ông biết đấy... Chúng tôi ngồi nói chuyện... sau đó uống nước chè, thế rồi bất thình lình vợ tôi thét lên một tiếng, tay tự túm lấy ngực mình chỗ con tim và ngã người xuống thành ghế. Chúng tôi đỡ nàng ra giường, và... tôi lấy rượu chứa amôniác xoa vào thái dương, vẩy nước lên mặt... nàng vẫn nằm yên như chết... Tôi sợ rằng nàng bị bệnh giãn mạch máu. Ông đi với tôi nhé... Bố vợ tôi cũng đã chết vì bệnh giãn mạch máu đó...
Kirilốp lắng nghe và im lặng, dường như ông không hiểu tiếng Nga nữa.
Khi Abôghin một lần nữa nhắc đến tên Páptsinxki, nhắc đến bố vợ, và lại lần tìm trong bóng tối nhờ nhờ bàn tay của Kirilốp thì bác sĩ hơi ngửng đầu lắc lắc và nói giọng uể oải kéo dài từng chữ:
- Xin lỗi ông, tôi không thể đi được... Cách đây năm phút con trai tôi... vừa bị chết...
- Lại thế ư? - Abôghin thì thào nói, bước lùi về đằng sau. - Trời ơi, tôi đã gặp phải giờ phút chẳng lành! Thật là một ngày bất hạnh vô cùng... vô cùng! Một sự trùng hợp vậy ư... hệt như là có sự xếp đặt!
Abôghin cầm lấy núm vặn nơi cửa, đầu cúi xuống suy nghĩ. Trông cũng biết rằng ông ta do dự, không biết xử sự ra làm sao: hoặc là bỏ đi hay là tiếp tục yêu cầu bác sĩ.
- Ông nghe tôi nhé, - Abôghin nắm lấy ống tay áo bác sĩ hăm hở nói, - tôi rất biết hoàn cảnh của ông. Có trời chứng giám, tôi rất xấu hổ là đã định chinh phục sự chú ý của ông và những phút như thế này, nhưng mà tôi còn biết làm gì cơ chứ? Ông cứ tự nghĩ mà xem, tôi đã tìm đến ai? Vì rằng
ngoài ông ra ở đây không còn bác sĩ nào khác nữa. Làm ơn làm phúc xin ông đi cho! Không phải tôi cầu xin cho tôi... tôi có ốm đau đâu!
Im lặng chợt đến. Kirilốp quay lưng lại phía Abôghin, đứng lặng một lúc rồi chậm rãi bước từ hành lang vào phòng. Nhìn vào dáng đi loạng choạng như người mất hồn, nhìn vào vẻ chăm chú của ông khi sửa lại chiếc chụp đèn bọc da đặt trên cái đèn không cháy trong gian phòng, và liếc nhìn vào cuốn sách dầy nằm trên bàn, có thể biết rằng trong những phút này ông chẳng có một dự định, một ý muốn nào hết, ông không nghĩ ngợi điều gì cả và chắc là đã không còn nhớ rằng có một người lạ đang đứng chờ ông ngoài hành lang. Bóng tối và sự im lặng trong căn phòng càng làm tăng thêm lên vẻ đờ đẫn của ông. Đi từ gian ngoài vào phòng làm việc của mình, ông nhấc chân phải cao hơn bình thường, hai tay sờ soạng tìm khung cửa buồng, và vào lúc đó, từ cả thân hình ông toát ra một cái gì hồ nghi khó hiểu, hệt như ông đi nhầm vào nhà người khác hoặc như lần đầu tiên trong đời ông uống rượu say và bây giờ ông ngập ngừng để cho cơ thể mình chịu đựng cái cảm giác mới mẻ đó. Một vệt sáng dài in trên một bên tường buồng làm việc, qua mấy chiếc tủ đựng sách, cùng với mùi phênôn, mùi ete nồng nồng, nằng nặng, vệt sáng ấy đổ sang từ cánh cửa buồng làm việc he hé mở thông với buồng ngủ... Bác sĩ ngồi xuống chiếc ghế bành đặt bên bàn; ông lim dim nhìn lên những cuốn sách của mình in vệt sáng, sau đó ông đứng dậy và bước sang phòng ngủ.
Ở đấy, trong phòng ngủ, bao trùm một bầu không khí chết lặng. Tất cả từng vật nhỏ một, đều gợi nhớ sâu sắc đến cơn bão vừa qua, đến một sự mệt mỏi rã rời, và bây giờ tất cả đều yên nghỉ. Cây nến đặt trên chiếc ghế đẩu chen lẫn vào giữa những hộp, chai lọ ngổn ngang và chiếc đèn lớn để trên chiếc tủ soi sáng cả căn buồng. Trên giường, ngay bên cửa sổ là đứa trẻ nằm yên, mắt mở to, vẻ mặt như kinh ngạc điều gì. Đứa trẻ không động đậy gì nữa, những tưởng như đôi mắt mở to của nó mỗi lúc một mờ sẫm đi và chìm sâu vào hộp sọ. Người mẹ quỳ bên giường, đầu gục xuống đệm chăn, hai tay đặt lên mình con. Giống như đứa trẻ, bà cũng không nhúc nhích, nhưng trên đường cong của tấm lưng và đôi tay toát ra bao nhiêu sức sống! Toàn thân bà ngả áp vào chiếc giường như ghì riết lấy, dường như bà sợ làm hỏng mất tư thế thuận tiện mà cuối cùng bà đã tìm được cho thân thể mệt rã rời của mình. Chăn đệm, khăn lau, chậu rửa, những vũng nước loang trên nền nhà,
bút lông nhỏ, thìa con vứt lung tung, một chai to đựng nước vôi và cả không khí nặng nề, ngột ngạt nữa - tất cả đều như lặng đi và chìm sâu vào yên tĩnh.
Bác sĩ đứng lại bên cạnh vợ, hai tay cho vào túi quần, đầu cúi xuống lệch sang một bên và chăm chú nhìn đứa con trai. Vẻ mặt ông không biểu lộ một điều gì, chỉ qua những hạt nước nhỏ xíu còn lấp loáng đọng lại trên râu mới biết rằng lúc nãy ông vừa khóc.
Sự sợ hãi khủng khiếp mà người ta vẫn nghĩ đến khi nói tới cái chết, hoàn toàn không thấy trong căn buồng ngủ này. Từ trong vẻ bất động tuyệt đối, trong dáng quỳ phủ phục của người mẹ, khuôn mặt lãnh đạm của người bác sĩ toát ra một cái gì làm trái tim thắt lại xúc động, đó chính là cái vẻ đẹp thanh mảnh, rất khó thấy trong nỗi đau khổ của con người, một vẻ đẹp mà còn lâu người ta mới học được cách hiểu, cách mô tả, một vẻ đẹp mà có lẽ chỉ có âm nhạc mới truyền đạt được. Vẻ đẹp ấy ẩn trong cả sự im lặng ủ dột; Kirilôp và vợ ông đều không nói, không khóc, dường như ngoài gánh nặng mất mát, hai người còn ý thức được tất cả tính trữ tình của hoàn cảnh họ bây giờ: vào một lúc nào đấy ngày xưa tuổi trẻ của họ đã trôi qua và bây giờ, cùng với đứa trẻ này, cái quyền được có con của họ đã vĩnh viễn biến mất. Bác sĩ bốn mươi tư tuổi, đầu đã bạc và trông như một ông già; người vợ xanh xao ốm yếu của ông đã ba mươi lăm tuổi. Anđrây không chỉ là đứa con duy nhất mà còn là đứa con cuối cùng.
Ngược lại với vợ, bác sĩ thuộc loại người lúc gặp phải nỗi đau khổ về tinh thần lại cảm thấy cần phải đi lại. Đứng bên cạnh vợ chừng năm phút, ông lại nhấc cao chân phải lên và, từ buồng ngủ, ông bước sang một buồng nhỏ đặt chiếc đivăng to rộng choán hết nửa buồng, từ đây ông đi xuống bếp. Đi loanh quanh gần lò đun và giường ngủ của mụ bếp, ông hơi cúi xuống rồi qua lối cửa nhỏ hẹp bước ra ngoài hành lang.
Ở đây ông lại nhìn thấy cái khăn quàng trắng và khuôn mặt trắng nhợt.
- Có thế chứ! - Abôghin thở dài nói, tay cầm lấy núm vặn cửa. - Ông đi với tôi đi, tôi van ông!
Bác sĩ rùng mình, nhìn lên người lạ và sực nhớ lại...
- Này, tôi đã nói với ông rồi mà, tôi không thể đi được! - ông nói, giọng nói vẻ hoạt bát hơn. - Lạ lùng thật!
- Thưa bác sĩ, tôi không là kẻ ngu si, tôi rất hiểu hoàn cảnh của ông... tôi cảm thông nỗi đau khổ của ông! - Abôghin nói giọng van lơn, tay đặt lên chiếc khăn quàng cổ. - Nhưng mà tôi đâu có xin cho bản thân tôi... Vợ tôi đang hấp hối! Nếu ông nghe được tiếng thét ấy, nhìn thấy mặt cô ta, thì ông đã hiểu được vì sao tôi lại yêu cầu ông dai dẳng như thế này! Trời ơi, thế mà tôi cứ tưởng là ông đi thay áo! Thưa bác sĩ, một phút bây giờ là quý vô cùng! Ông đi với tôi đi, tôi van ông!
- Tôi không thể đi được! - Kirilốp nói rời rạc từng chữ rồi bước vào phòng. Abôghin đi theo sau và nắm lấy tay áo ông.
- Ông vừa có tang, tôi hiểu lắm, nhưng mà tôi đâu có mời ông đi chữa răng, đi khám nghiệm y tế, mà là đi cứu sinh mạng một con người! - Abôghin tiếp tục nói, giọng cầu khẩn như kẻ ăn xin. - Sinh mạng này cao hơn tất cả mọi nỗi đau khổ riêng! Tôi mong ông bày tỏ nghị lực dũng cảm! Vì lòng nhân đạo!
- Lòng nhân đạo là một cây gậy hai đầu, - Kirilốp nói giọng cáu kỉnh, - cũng vẫn vì lòng nhân đạo ấy mà tôi yêu cầu ông đừng bắt tôi đi đâu. Và quả thật là lạ lùng, tôi không còn sức đứng vững, mà ông thì lại đem lòng nhân đạo ra dọa tôi! Bây giờ tôi không làm được việc gì hết... không vì bất cứ lý do gì mà tôi đi đâu, còn vợ tôi nữa, tôi bỏ ở nhà cho ai trông nom? Không, không thể được...
Kirilốp khoa khoa cánh tay lên và từ từ bước lùi lại.
- Đừng... đừng yêu cầu tôi nữa! - ông sợ hãi nói tiếp. - Tha lỗi cho tôi... Theo tập thứ mười ba của bộ luật thì tôi phải đi, và ông có quyền nắm lấy
cổ áo tôi mà lôi đi... Được rồi, ông cứ lôi tôi đi... nhưng tôi không làm được gì đâu... Thậm chí tôi không còn sức để nói được nữa... Xin lỗi ông...
- Thưa bác sĩ, bác sĩ nói với tôi những lời như vậy phỏng có ích gì! - Abôghin nói và lại níu lấy ống tay áo bác sĩ. - Đừng nghĩ gì đến cái tập thứ mười ba ấy! Tôi không có một chút quyền nào cưỡng bức ý muốn của ông được. Ông muốn thì ông đi, ông không muốn thì đó là quyền của ông, nhưng tôi không muốn kêu gọi lý trí của ông, tôi muốn kêu gọi tình cảm của ông. Một người phụ nữ trẻ đang hấp hối! Vừa nãy ông nói rằng con trai ông bị chết, vậy thì còn ai khác ngoài ông hiểu được nỗi kinh hoàng của tôi bây giờ?
Giọng nói của Abôghin run run vì xúc động, cái giọng run run ấy còn nhiều sức thuyết phục hơn cả lời nói. Abôghin rất chân thành, nhưng điều đáng để ý là bất cứ câu nào ông nói ra cũng đều có vẻ khô khan, thiếu tự nhiên, văn hoa không phải lúc, và hình như lại còn xúc phạm đến cả không khí trong căn nhà bác sĩ, đến người phụ nữ đang hấp hối ở một nơi xa. Bản thân ông cũng cảm thấy điều đó, và vì sợ hiểu lầm, ông cố hết sức nói một giọng dịu dàng, mềm mại, hi vọng rằng nếu không thuyết phục được bằng lời nói thì ít ra cũng bằng sự chân thành trong giọng nói. Nói rộng ra thì lời nói dù hoa mỹ và đầy ý nghĩa đến đâu cũng chỉ tác động đến những người dửng dưng ngoài cuộc; mà không bao giờ tác động đến được những người có hạnh phúc hoặc không có hạnh phúc, vì vậy mà biểu hiện cao nhất của niềm hạnh phúc hay nỗi đau thường là sự im lặng; những đôi trai gái yêu nhau hiểu nhau nhiều hơn khi im lặng, và điếu văn thống thiết, lâm ly đọc bên một người chết chỉ làm xúc động những người không thân thích, còn đối với bà quả phụ và những đứa con của người chết thì lời điếu ấy thật lạnh lùng và vô nghĩa.
Kirilốp đứng yên và im lặng. Khi Abôghin nói thêm mấy câu về sứ mệnh cao cả của người thầy thuốc, về đức hi sinh, v.v. thì bác sĩ hỏi một câu, giọng cau có:
- Đi có xa không?
- Đâu khoảng gần mười ba, mười bốn vécxta. Cỗ ngựa kéo xe của tôi rất
tuyệt, bác sĩ ạ! Xin cam đoan với ông rằng tôi sẽ chở ông đến đấy và quay về đây trong vòng một tiếng. Chỉ một tiếng thôi!
Câu nói cuối cùng tác động đến bác sĩ mạnh hơn là những lời triết lý về lòng nhân đạo, về sứ mệnh của người thầy thuốc. Ông nghĩ một lúc rồi vừa thở dài vừa nói:
- Được rồi, ta đi thôi!
Ông nhanh nhẹn quay đi, bước những bước chắc chắn về phía buồng làm việc của mình và một lát sau ông quay lại trong bộ áo veston dài. Abôghin mừng rỡ, tất bật đi bên cạnh Kirilốp, đôi giày khẽ chạm vào nhau; ông ta giúp bác sĩ mặc áo bành tô rồi cùng bác sĩ bước ra khỏi nhà.
Ngoài sân cũng tối, nhưng còn đỡ tối hơn trong hành lang. Trong bóng tối chập choạng đã hiện ra rõ dáng người bác sĩ cao cao, gù gù, bộ râu nhỏ dài với cái mũi khoằm khoằm. Abôghin thì ngoài bộ mặt trắng bệch bây giờ còn có thể thấy cái đầu to và chiếc mũ sinh viên bé nhỏ chỉ vừa đủ che phần đỉnh đầu. Chiếc khăn quàng cổ chỉ lộ ra trăng trắng phía trước ngực, còn phía sau thì bị mái tóc để dài che khuất.
- Ông hãy tin rằng, tôi có đủ khả năng để đánh giá được đức hy sinh cao thượng của ông, - Abôghin vừa đỡ bác sĩ lên xe vừa lẩm bẩm. - Xe chúng ta sẽ lao đi vun vút. Này, Luka thân mến, cố đánh xe cho càng nhanh càng tốt! Cho đi thôi!
Người xà ích cho xe đi nhanh. Thoạt tiên xe đi qua những ngôi nhà xấu xí xây bên sân bệnh viện, màn đêm bao phủ khắp nơi, duy chỉ có ở phía sân trong, từ khung cửa sổ nhà ai có ánh đèn sáng lọt qua chiếc vườn có rào bao quanh, còn ba khung cửa sổ ở tầng trên dãy nhà bệnh viện thì trông còn ngột ngạt hơn cả trời đêm. Sau đó chiếc xe đi vào khoảng tối dày đặc; ở đấy thoang thoảng thấy mùi nấm ẩm ướt và tiếng lá cây xào xạc; những con quạ bị tiếng động bánh xe đánh thức dậy, nhốn nháo trong tán lá và kêu lên những tiếng kêu đầy âu lo, buồn thảm, dường như chúng biết rằng con trai bác sĩ vừa mới chết còn vợ Abôghin thì ốm nặng. Rồi tiếp đến những bóng cây mọc cách xa nhau thấp thoáng, những bụi cây loang loáng một mặt hồ
phẳng lì trên đó còn in những hình bóng gì đen sẫm đang yên ngủ, và chiếc xe chạy qua một vùng đất rộng bằng phẳng. Tiếng quạ kêu nghe đã nhỏ đi, vọng lại rất xa từ phía xa và ít lúc sau thì mất hẳn.
Hầu như suốt dọc đường đi Kirilốp và Abôghin đều im lặng. Chỉ có một lần Abôghin thở dài và làu bàu nói:
- Thật là một trạng thái tinh thần đau khổ! Chưa bao giờ ta thấy yêu những người thân như khi ta cảm thấy có thể sắp phải mất họ.
Khi xe đi chầm chậm qua sông, Kirilôp bỗng giật mình, hệt như tiếng oàm oạp nước sông làm ông sợ hãi, rồi quay người sang phía Abôghin.
- Này, ông nghe đây, ông cho tôi quay về đi, - Kirilốp nói, giọng rầu rĩ. - Tôi sẽ đến nhà ông sau. Tôi còn phải bảo người y tá đến trông nom giùm vợ tôi. Vợ tôi đang ở nhà một mình!
Abôghin im lặng. Chiếc xe khẽ lắc lư, bánh lăn lách cách trên đường đá, qua một bờ cát rồi tiếp tục chạy. Kirilốp ngồi không yên, mắt nhìn quanh, lòng buồn rười rượi. Từ phía sau, qua ánh sáng yếu ớt của những vì sao, trông rõ con đường mờ mờ hiện ra và những hàng cây liễu rủ mọc gần bờ sông biến vào bóng đêm. Phía bên phải, một dải đất chạy dài cũng bằng phẳng và mênh mông không bờ bến như bầu trời; mãi phía xa trên vùng đất ấy đó đây lập lòe những đốm lửa vàng quạch, có lẽ là trên những đầm lầy. Phía bên trái song song với con đường là một cái đồi thấp nằm dài, mọc lô nhô những bụi cây nhỏ, phía trên ngọn đồi một vành trăng lưỡi liềm đỏ lựng bất động in trên nền trời, một màn sương mỏng và những đám mây nhỏ bao quanh, dường như những đám mây ấy đang chăm chú nhìn vành trăng từ mọi phía và canh cho vành trăng khỏi bỏ trốn.
Phong cảnh chung quanh như thấm đượm một cái gì ốm yếu, tuyệt vọng; mặt đất, như một người phụ nữ sa đọa ngồi một mình trong căn phòng tối tăm và cố không nghĩ về quá khứ, đang trăn trở với những hồi ức về mùa xuân, mùa hè và đang uể oải chờ mùa đông sắp đến. Dù đưa mắt nhìn về phía nào, đâu đâu thiên nhiên cũng hiện ra như một vực thẳm tối đen, lạnh
lẽo và sâu không đáy, mà từ đó, cả Kirilốp, Abôghin, cả vành trăng lưỡi liềm đỏ lựng kia đều không thoát ra được...
Xe càng gần đến đích bao nhiêu, Abôghin càng trở nên nôn nóng hơn bấy nhiêu. Ông trở người luôn luôn, nhổm lên nhìn ra phía trước qua vai người xà ích. Và khi cuối cùng chiếc xe đã dừng bên ngoài hiên nhà trang trí khá đẹp bằng những tấm vải gai sòng sọc, khi ông ta nhìn lên những khung cửa sổ sáng ánh đèn trên tầng hai, có thể nghe rõ nhịp thở gấp run run của ông.
- Nếu có chuyện gì xảy ra, thì... tôi không sao chịu nổi, - ông vừa nói, vừa bước vào hành lang cùng với bác sĩ, hai tay xoa xoa vì xúc động. - Nhưng mà không nghe thấy tiếng ồn ào, có nghĩa là mọi sự đều tốt lành, - ông nói thêm, tai lắng nghe cố tìm một âm thanh nào trong cảnh tịch mịch chung quanh.
Ngoài hành lang không nghe thấy một giọng nói, một bước chân nào, và cả ngôi nhà như đang ngủ yên mặc dù để đèn rất sáng. Đến lúc này thì bác sĩ và Abôghin, từ lúc gặp nhau đến giờ toàn ở trong bóng tối, mới có thể nhìn kỹ hình dạng của nhau. Bác sĩ dáng người cao cao, gù gù, ăn mặc luộm thuộm, nét mặt không đẹp. Có cái gì thô thô, dữ tợn, khắc khổ lộ rõ ở đôi môi dày như môi người da đen, ở cái mũi khoằm và cái nhìn uể oải, lãnh đạm. Mái tóc không chải của ông, thái dương hóp vào, bộ râu nhỏ dài bạc sớm không che hết chiếc cằm, màu da xám mai mái và những cử chỉ vụng về, thiếu cân nhắc - tất cả cái vẻ khắc khổ, khó tính ấy gợi người ta nghĩ rằng trước kia ông đã trải qua những ngày thiếu thốn, cơ cực, bị cuộc sống và người đời hành hạ vất vả. Nhìn tất cả vẻ người khô khan của ông, không thể tin được rằng ông lại lấy được vợ và biết than khóc khi đứa trẻ qua đời. Abôghin thì lại gây một ấn tượng khác. Đó là một người đàn ông đẫy đà bệ vệ, có tóc vàng, cái đầu rất to, đường nét trên mặt không thanh nhỏ, nhưng trông vẫn hài hòa, cân đối, ông ta mặc bộ quần áo may theo mốt mới nhất. Trong dáng vẻ bề ngoài - chiếc áo veston cài cúc chỉnh tề, khuôn mặt, mái tóc dài - có cái gì quý phái, cao thượng; khi bước đi, đầu ông ta giữ thẳng, ngực hơi ưỡn ra đàng trước, ông ta nói bằng giọng nam trung ấm áp, và trông cách ông cởi chiếc khăn quàng cổ hay sửa lại mái tóc cũng thấy một vẻ gì rất thanh, gần như chỉ có ở những người phụ nữ. Thậm chí gương mặt nhợt nhạt và vẻ sợ hãi như trẻ con khi ông ta vừa cởi áo ngoài, vừa nhìn lên
cầu thang, vẫn không làm tổn hại đến diện mạo đường hoàng, không làm mất đi vẻ no đủ, cường tráng, lịch thiệp đến mức tự phụ toát ra từ dáng người, bộ điệu của ông.
- Không có ai cả và cũng không nghe thấy tiếng động nào, ông ta nói, bước lên cầu thang.
- Không thấy cảnh vội vã, ồn ào. May quá!
Abôghin dẫn bác sĩ qua hành lang vào căn phòng lớn, nơi đặt chiếc đàn dương cầm mờ mờ hiện trong bóng tối và trên trần treo một chùm đèn phủ vải trắng; từ đây hai người bước sang một gian phòng khách nhỏ rất đẹp, ấm cúng, chìm trong một thứ ánh sáng mờ mờ hồng hồng rất dịu.
- Mời bác sĩ ngồi đây một lát, - Abôghin nói, - còn tôi... chốc nữa tôi ra. Tôi đi xem qua, báo trước cho người nhà biết.
Kirilốp ngồi lại một mình. Căn phòng khách sang trọng, ánh mờ dễ chịu và bản thân sự xuất hiện mang tính chất phiêu lưu ký của ông trong ngôi nhà xa lạ, không quen thuộc này hình như không gây xúc động nào đối với ông. Ông ngồi trong chiếc ghế bành và ngắm nhìn bàn tay mình bỏng rộp vì phênôn. Ông chỉ đưa mắt nhìn thoáng qua chiếc chao đèn màu đỏ, chiếc hộp đàn viôlôngsen, và liếc nhìn về phía có tiếng đồng hồ kêu tích tắc, ông thấy hình nộm một con sói, trông cũng đường bệ và no nê như chính Abôghin.
Chung quanh yên lặng... Ở một nơi nào bên căn phòng gần đây có tiếng ai kêu to “ạ!”, tiếng cửa kính chắc là cửa tủ mở lạch cạch, và sau đó tất cả lại chìm vào im lặng. Chờ chừng năm phút, Kirilốp thôi không ngắm tay mình nữa và ngẩng đầu nhìn về phía cửa nơi Abôghin đã qua đấy đi ra.
Trên ngưỡng cửa ấy Abôghin xuất hiện, nhưng không còn giống như lúc đi khỏi đây. Vẻ tinh tế lịch thiệp, vẻ no đủ hoàn toàn biến mất, khuôn mặt, đôi tay, dáng đứng của ông đều bị dị dạng méo mó đi vì lộ rõ một cảm giác ghê tởm không hẳn là kinh hãi, không hẳn là một nỗi đau đớn. Cái mũi, đôi môi,
bộ ria mép, mọi đường nét ông ta đều động đậy và hình như đều cố bứt ra khỏi mặt, còn cặp mắt thì dường như đang cười vì đau đớn...
Abôghin nặng nề bước những bước dài vào giữa phòng khách, cúi mình xuống, miệng rên rỉ, hai tay nắm lại rung rung.
- Nó lừa rồi! - ông ta kêu lên, nhấn giọng vào chữ lừa. - Lừa rồi! Bỏ đi rồi! Lên cơn đau, bảo tôi đi mời bác sĩ chỉ cốt để ở nhà bỏ trốn với cái thằng hề Páptsinxki! Trời ơi!
Abôghin khó nhọc bước đến bên bác sĩ, chìa ra trước mặt bác sĩ hai nắm tay trắng mịn và run run tay tiếp tục kêu to:
- Bỏ đi rồi!! Lừa rồi! Mà lừa đảo thế làm gì mới được chứ?! Trời ơi là trời! Bày ra cái trò ú tim lừa lọc, bẩn thỉu này, cái trò chơi quỷ quái, ác độc này làm gì? Tôi đã làm gì cô ta? Bỏ đi rồi!
Nước mắt trào ra trên khóe mắt ông ta. Một chân để nguyên, ông quay ngoắt sang phía khác rồi đi đi lại lại trong phòng khách. Lúc này, với bộ áo veston ngắn, với chiếc quần mốt hẹp ống hằn rõ đôi chân gầy không cân xứng với phần mình, với cái đầu to và túm tóc, Abôghin trông giống như một con sư tử. Trên gương mặt lãnh đạm của bác sĩ thoáng hiện nét tò mò. Ông đứng dậy và nhìn lên Abôghin.
- Xin lỗi, người bệnh ở đâu? - Ông nói.
- Người bệnh! Người bệnh! - Abôghin kêu lên, vừa cười vừa khóc, hai nắm tay vẫn run run. - Nó không phải là bệnh nhân mà là kẻ đáng nguyền rủa! Ty tiện! Đểu giả đến mức yêu tinh cũng không thể nghĩ ra hơn! Bảo tôi đi để dễ bề bỏ trốn với cái thằng xẩm, thằng hề đần độn ấy. Ô trời ơi, lẽ ra nó chết đi còn hơn! Tôi không thể chịu nổi nữa! Không thể chịu nổi nữa!
Kirilốp vươn thẳng mình đứng lên. Đôi mắt ông chớp chớp, nước mắt giàn giụa, hàm ông đưa ngang, bộ râu nhỏ cũng đưa ngang theo.
- Xin lỗi, thế này là thế nào? - Ông vừa nói, vừa đưa mắt tò mò nhìn quanh.
- Con tôi mới chết, vợ đang buồn nẫu ruột, cả nhà không còn ai... bản thân tôi đứng cũng không vững nữa, đã ba đêm rồi tôi không ngủ... và rồi thế nào? Người ta ép tôi phải sắm vai trong một vở hài kịch tầm thường, sắm vai một đồ vật giả trên sân khấu! Tôi không... không hiểu gì nữa!
Abôghin xòe một nắm tay ra, vứt xuống nền nhà một mảnh giấy nhàu nát rồi dẫm chân lên như dẫm một con bọ muốn đạp chết.
- Tôi không thấy... tôi không hiểu ra! - Abôghin nói rít qua kẽ răng, một nắm tay giơ lên, run run sát mặt mình, với dáng điệu như có ai động phải chỗ đau nhất. - Tôi không để ý rằng ngày nào thằng ấy cũng đến, không để ý rằng hôm nay nó lại đi xe ngựa có mui đến! Sao lại đi xe có mui! Thế mà tôi không nhận ra, thật là gà mờ!
- Tôi không... không hiểu! - bác sĩ làu bàu nói. - Nhưng mà thế này là thế nào! Bởi vì đây là một sự nhạo báng nhân cách, một sự giễu cợt đối với nỗi đau khổ của con người! Đó là một cái gì không thể tưởng tượng nổi... lần đầu tiên tôi thấy trong đời!
Với cảm giác kinh ngạc âm ỉ của một người bắt đầu hiểu rằng mình đã bị xúc phạm, bác sĩ nhún vai, dang hai tay ra và, không biết nói gì làm gì, bác sĩ kiệt sức ngồi phịch xuống chiếc ghế bành.
- Ừ thì không yêu nữa, đi yêu người khác thì đó là quyền của cô, nhưng mà việc gì phải lừa đảo thế này, phải bày ra cái trò bội bạc đê tiện thế này? - Abôghin nói giọng như khác. - Để làm gì? Vì tội gì? Tôi đã làm tội gì? Bác sĩ nghe tôi đây, - Abôghin vừa nói, vừa bước lại gần Kirilôp. - Vô tình ông đã làm người chứng kiến nỗi bất hạnh của tôi, và tôi cũng sẽ không giấu sự thật. Thề với ông rằng tôi yêu người đàn bà này đến mức sùng bái, như một kẻ nô lệ của nàng! Vì nàng mà tôi đã hi sinh tất cả: tôi đã xích mích với bà con ruột thịt, tôi bỏ cả công việc, cả âm nhạc, tôi tha thứ cho nàng những điều mà ngay đối với mẹ đẻ, hay chị em ruột tôi cũng không đủ sức tha thứ... Chưa một lần nào tôi nhìn nàng hằn học... không một lần nào làm nàng phải ngờ vực! Vậy thì vì lẽ gì mà phải lừa dối thế này? Tôi không yêu cầu nàng phải yêu mình, nhưng lừa dối vì mục đích gì? Không yêu nữa thì
cứ nói thẳng thắn, trung thực, hơn nữa cô đã biết quan điểm của tôi về chuyện này rồi cơ mà...
Nước mắt giàn giụa, toàn thân run rẩy, Abôghin trút hết nỗi lòng mình với bác sĩ. Ông ta sôi nổi nói, hai tay ấp bên trái tim, không một chút do dự kể lại hết những chuyện kín trong gia đình và hình như còn có vẻ vui mừng rằng cuối cùng những điều bí mật ấy đã thoát ra khỏi lồng ngực của ông. Nếu ông cứ dốc bầu tâm sự như thế hết giờ này sang giờ khác thì chắc là ông sẽ cảm thấy lòng mình dịu đau. Có lẽ nếu bác sĩ nghe Abôghin nói, nếu bác sĩ sẽ đem tình bạn bè mà cảm thông với ông và, có lẽ như vẫn thường xảy ra, có thể là ông ta sẽ nhẫn nhục chịu đựng nỗi đau khổ của mình mà không làm những điều xuẩn ngốc vô bổ... Nhưng mà chuyện đã xảy ra theo hướng khác. Trong khi Abôghin nói, người bác sĩ bị xúc phạm thay đổi rõ rệt. Vẻ lãnh đạm, kinh ngạc trên nét mặt dần dần nhường chỗ cho một cảm giác hờn tủi cay đắng, uất ức, giận dữ. Nét mặt bác sĩ trở nên khó đăm đăm, cau có, khắc nghiệt hơn. Khi Abôghin đem đến cho bác sĩ xem tấm ảnh người phụ nữ trẻ với khuôn mặt đẹp, nhưng khô khan, nhạt nhẽo như một nữ tu sĩ và hỏi bác sĩ rằng liệu có thể nhìn khuôn mặt như thế này mà lại nghĩ rằng nó có khả năng thể hiện tính lừa đảo hay không, thì bác sĩ bỗng chồm dậy, mặt sáng quắc và nói dằn từng tiếng một cách lỗ mãng:
- Ông nói tất cả những điều này với tôi làm gì? Tôi không muốn nghe! Không muốn nghe - bác sĩ hét lên và đấm mạnh tay xuống bàn. - Tôi không cần đến những chuyện kín tầm thường của ông, đem mà quẳng cho quỷ đi! Ông đừng cả gan nói những chuyện nhảm nhí đó với tôi! Hay là ông nghĩ rằng tôi bị xúc phạm còn ít quá chăng? Ông coi tôi là một kẻ hầu hạ mà người ta có thể lăng mạ đến cùng cực? Phải thế không?
Abôghin bước lùi lại và kinh ngạc nhìn Kirilốp chằm chằm.
- Vì lẽ gì mà ông lại đưa tôi đến đây? - bác sĩ nói tiếp, bộ râu rung rung. - Nếu ông đã rửng mỡ mà lấy vợ, rồi lại rửng mỡ mà kén chọn chê bai, rồi dựng ra những màn kịch u buồn sướt mướt thì chuyện này dính dáng gì đến tôi? Tôi có liên quan gì đến những mối tình của ông? Ông hãy để cho tôi yên! Hãy tập làm những trò ấy trong cái giới giàu sang quyền quý của ông, hãy làm bộ làm tịch bằng những lý tưởng nhân đạo, hãy chơi đi (bác sĩ liếc
mắt nhìn chiếc hộp đựng đàn viôlôngsen) - hãy chơi đàn côngtơrơbáx và chơi kèn tơrômbon đi, và phát phì ra như gà trống thiến nhưng hãy đừng cả gan xúc phạm đến nhân cách con người! Ông không biết tôn trọng nhân cách thì xin ông hãy tha cho nó tránh khỏi sự quan tâm của ông.
- Xin lỗi, nhưng mà tất cả những điều này nghĩa là thế nào? - Abôghin hỏi mặt đỏ bừng.
- Có nghĩa rằng ông đã đem con người ra để chơi một trò chơi hèn hạ, đê tiện như vậy! Tôi là một bác sĩ, chắc ông coi các bác sĩ và nói chung là những người làm công, những người không tỏa mùi nước hoa và mùi gái điếm, là những kẻ hầu hạ, những kẻ vô giáo dục, thì ông cứ việc coi là thế đi, nhưng không một ai cho ông cái quyền biến con người đang đau khổ thành một đồ vật trên sân khấu!
- Sao ông lại dám nói với tôi như vậy? - Abôghin hỏi nhỏ, bộ mặt ông lại biến sắc đi và lần này thì trắng bạch vì tức giận.
- Không đâu, làm sao mà ông biết tôi đang có tang mà lại còn đưa tôi đến đây để nghe những chuyện nhảm nhí? - bác sĩ rít lên và lại đấm tay xuống bàn. - Ai cho ông quyền giễu cợt nỗi đau khổ của người khác?
- Ông mất trí rồi! - Abôghin hét lên. - Thật là không rộng lượng chút nào! Bản thân tôi cũng vô cùng bất hạnh và... và...
- Bất hạnh, - bác sĩ khinh bỉ cười khẩy. - Xin ông đừng động đến chữ ấy, nó không dính dáng đến ông gì sốt. Những kẻ không vay đâu được tiền cũng tự cho mình là bất hạnh, con gà trống thiến có thừa mỡ cũng bất hạnh. Thật là những kẻ thảm hại, nhỏ nhoi!
- Thưa ngài, ngài thiếu lịch sự rồi! - Abôghin cao giọng rít lên. - Vì những câu nói như thế... người ta đánh cho nên thân đấy! Ông hiểu chưa?
Abôghin vội vã thọc tay vào túi bên, lấy ví tiền ra, rút hai tờ giấy bạc rồi ném ra giữa bàn.
- Đấy tiền công trả cho chuyến đi của ông đấy! - Ông nói, đôi cánh mũi phập phồng. - Tôi đã thanh toán xong với ông.
- Ông không thể đưa tiền ra mà thí cho tôi! - bác sĩ thét lên, giơ tay gạt phắt mấy tờ giấy bạc xuống nền nhà. - Người ta không thể dùng tiền mà trả giá cho sự lăng mạ được.
Abôghin và bác sĩ đứng đối mặt và trong cơn tức giận họ tiếp tục tuôn ra những lời xỉ vả không đáng có. Có lẽ chưa bao giờ trong đời, ngay cả những lúc mất trí, họ cũng chưa từng nói nhiều lời vô lý ác độc và xuẩn ngốc đến như vậy. Cả hai người đều lộ rất rõ sự ích kỷ của những người bất hạnh. Những kẻ đang chịu đau khổ thường ích kỷ, ác độc, thiếu tỉnh táo, nghiệt ngã và ít khả năng hiểu nhau hơn cả những người đần độn. Nỗi đau khổ đã không làm xích gần họ lại mà ngăn cách họ ra, ngay cả ở trong những trường hợp tưởng rằng phải gắn liền với nhau vì đau khổ thì họ đã làm những chuyện không công bằng, khắc nghiệt nhiều hơn so với người tương đối bình yên.
- Thôi được rồi, đưa tôi về nhà cho! - bác sĩ vừa nói to, vừa thở hổn hển.
Abôghin rung mạnh chuông. Không thấy ai đi ra, ông lại rung chuông lần nữa và cáu kỉnh ném chuông xuống nền nhà; chuông đập vào tấm thảm và vang ra ai oán hệt như một tiếng rên rỉ trước giờ tận số. Một người hầu xuất hiện.
- Các người trốn đi đâu hả, quỷ tha ma bắt cả rồi sao?! - ông chủ đâm bổ về phía người hầu, hai bàn tay nắm chặt. - Vừa nãy mày đi đâu? Đi mà bảo thằng xà ích đưa đến cho ngài này một chiếc xe bốn bánh, và phần ta thì sửa soạn một chiếc xe có mui nghe chưa! Đứng lại đã! - Abôghin hét lên khi người hầu đã quay lưng đi. - Ngày mai lũ phản bội phải cút đi hết rõ chưa! Cút đi ráo! Ta sẽ mướn bọn mới! Đồ hèn hạ!
Trong khi chờ xe, cả Abôghin và Kirilốp đều im lặng. Vẻ lịch thiệp sang trọng, vẻ no đủ đã trở lại trên gương mặt, dáng điệu của Abôghin. Ông ta đi đi lại lại trong phòng khách, đầu hơi lắc lắc chắc là đang theo đuổi một ý
nghĩ gì. Cơn tức giận vẫn chưa lắng xuống, nhưng ông ta cố làm ra vẻ không thấy kẻ thù của mình... Còn bác sĩ thì đứng yên, một tay nắm mép bàn và nhìn lên Abôghin với một cảm giác khinh bỉ sâu xa, có phần hơi trắng trợn, không đẹp mặt, một kiểu nhìn chỉ có ở những người đang đau khổ, không nơi nương tựa khi trông thấy trước mắt mình hiện thân của sự no nê, sang trọng.
Không lâu sau, khi đã ngồi vào xe ngựa, và đã chuyển bánh, bác sĩ vẫn còn ngoái nhìn theo với vẻ đầy khinh miệt. Ngoài trời tối đen, tối hơn nhiều so với một giờ trước. Vành trăng lưỡi liềm đỏ lựng đã lặn khuất sau đồi, và những đám mây canh giữ mặt trăng ban nãy đang kéo thành những vệt đen bên những vì sao. Chiếc xe có mui lập lòe ánh lửa màu đỏ lách cách lăn nhanh trên đường rồi vượt lên trên xe chở bác sĩ. Đó là Abôghin lên đường đi kiện cáo, làm những trò ngu xuẩn...
Suốt dọc đường, bác sĩ không nghĩ đến vợ, đến Anđrây, mà nghĩ đến Abôghin và những kẻ sống trong ngôi nhà mà ông vừa đi khỏi. Ý nghĩ của ông vừa không công bằng, vừa tàn nhẫn quá mức. Ông kết tội cả Abôghin, cả vợ ông ta và Páptsinxki, và tất cả những người sống trong ánh đèn sáng mờ mờ hồng hồng, thơm mùi nước hoa; suốt dọc đường bác sĩ căm ghét họ và khinh bỉ đến mức trái tim thắt lại đau đớn. Và trong đầu óc ông, đã hình thành một định kiến không gì thay đổi về những con người ấy.
Thời gian sẽ qua đi, nỗi khổ của Kirilốp cũng qua đi, nhưng cái định kiến không công bằng, không tương xứng với trái tim con người, sẽ không biến đi và mãi mãi còn lại trong tâm trí người bác sĩ cho đến khi yên nằm dưới mộ.
Vêrơska
IVAN ALẾCHXÂYÊVÍTS ÔGƠNÉP còn nhớ chiều tối hôm đó, một ngày tháng Tám, anh đẩy mạnh cánh cửa kính và bước ra ngoài hiên. Anh khoác một chiếc áo choàng mỏng rộng, đội chiếc mũ rơm rộng vành, chiếc mũ mà giờ đây đang nằm lăn lóc trong đám bụi dưới gậm giường cùng với đôi ủng cao cổ. Một tay anh ôm bọc sách vở lớn, còn tay kia cầm một chiếc gậy to, nhiều mấu.
Đứng đằng sau cửa soi đèn cho anh đi là ông chủ nhà Kudnétxốp, một ông già đầu hói, có bộ râu trắng dài và mặc một chiếc áo veston vải trắng muốt như tuyết. Ông già cười đôn hậu và gật gật đầu.
- Tạm biệt cụ nhé! - Ôgơnép nói to với ông già.
Ông già Kudnétxốp đặt chiếc đèn lên cái bàn nhỏ rồi đi ra ngoài hiên. Hai cái bóng dài và hẹp chạy qua mấy bậc thềm tới gần những bồn hoa, chao qua chao lại rồi tựa đầu lên những thân cây già.
- Tạm biệt và một lần nữa xin cảm ơn cụ! - Ivan Alếchxâyêvíts nói. - Cảm ơn cụ đã đối xử với cháu rất niềm nở, dịu dàng và đầy tình thương... Không bao giờ, mãi mãi không bao giờ cháu quên được lòng mến khách của cụ. Cụ là người rất tốt, con gái cụ cũng là người rất tốt, cả gia đình cụ đều là những người hảo tâm, vui tính, hào hiệp... Toàn là những người tốt tuyệt diệu, không còn biết nói thế nào nữa!
Do tình cảm quá dạt dào và do ảnh hưởng của cốc rượu mới uống, Ôgơnép nói giọng trầm bổng như một cậu học trò chủng viện, và anh xúc động đến mức không phải chỉ biểu lộ những tình cảm của mình bằng lời nói, mà còn bằng những cái nhấp nháy mắt, nhún nhún vai. Ông già Kudnétxốp cũng vừa uống rượu xong và cũng đang xúc động mạnh, đã ôm choàng lấy chàng trai trẻ và hôn anh.
- Cháu đã thân quen với gia đình cụ quá rồi! - Ôgơnép nói tiếp. - Hầu như ngày nào cháu cũng mò đến đây, ngủ tại đây có dễ đến chục lần, rượu thì uống nhiều đến mức bây giờ chỉ nhớ lại không thôi cũng đã rợn cả người. Nhưng mà cái chính mà cháu phải cảm ơn cụ, vì sự cộng tác và giúp đỡ của cụ. Không có cụ thì có lẽ phải đến tháng Mười may ra cháu mới làm xong công việc thống kê của cháu. Cho nên thế nào cháu cũng viết trong lời tựa cuốn sách nay mai của cháu rằng: tôi thấy có nghĩa vụ phải bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với vị chủ tịch hội đồng tự quản huyện N. là Kudnétxốp, người đã sốt sắng cộng tác với tôi. Ngành thống kê có một tương lai rất rực rỡ! Xin trân trọng chào cô Vêrơska, xin nhờ nói lại với các vị bác sĩ, với cả hai viên dự thẩm và anh thư ký của cụ rằng không bao giờ cháu quên được sự giúp đỡ của họ! Còn bây giờ thì ta ôm nhau và hôn nhau lần cuối cùng.
Người đã mệt nhừ, Ôgơnép một lần nữa ôm hôn ông già rồi bước xuống mấy bậc thềm. Xuống đến bậc thềm cuối cùng, anh quay lại và hỏi:
- Liệu chúng ta còn gặp lại nhau nữa không hở cụ?
- Trời mà biết được! - ông già trả lời. - Chắc là chẳng bao giờ nữa!
- Vâng, đúng thế đấy! Cụ thì có lẽ nhử vàng cụ cũng chẳng lên Pêtérburg, còn cháu thì cũng chắc gì còn có dịp về tới huyện này nữa. Thôi, xin tạm biệt cụ!
- Này có lẽ anh để cái đống sách đó lại thì hơn! - ông già Kudnétxốp gọi với theo anh. - Việc gì mà anh phải mang theo cái của nặng như vậy? Cứ để lại ngày mai tôi sẽ cho người mang lên cho anh.
Nhưng Ôgơnép không còn nghe thấy gì nữa, anh nhanh nhẹn rời xa ngôi nhà. Anh đang chếnh choáng hơi men, có cái gì vừa vui vui, vừa ấm áp, vừa buồn buồn... Anh bước đi và nghĩ rằng sao trong cuộc đời lại hay được gặp những người tốt thế và thật đáng tiếc là những cuộc gặp gỡ ấy chẳng để lại gì hơn ngoài những kỷ niệm. Có khi anh thấy thấp thoáng phía chân trời những cánh sếu, một ngọn gió nhẹ thoảng đưa đến tiếng kêu rầu rầu và rộn rã của chúng, rồi chỉ một phút sau, dù anh có căng mắt ra mà nhìn về