🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Truyện cổ Tây Tạng
Ebooks
Nhóm Zalo
Thông tin ebook
Truyện cổ Tây Tạng
Tác giả: Eva Bednarova
Dịch giả: Lê Thành Lộc
Xuất bản: NXB Văn Hóa Thông Tin Thực hiện ebook: Hoàng Nghĩa Hạnh Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Bức tranh gấm
Ngày xưa, ở một vùng khô cằn gần chân núi, có một người đàn bà góa sống với ba đứa con trai. Đứa con lớn là một kẻ vô tích sự, đứa kế cũng chẳng hơn gì, chỉ có đứa con út là hiếu thảo và siêng năng, luôn luôn làm hết sức để giúp đỡ mẹ. Người mẹ dệt vải suốt ngày, đôi tay khéo léo của bà tạo ra những bông hoa tuyệt mỹ, chim chóc và đủ loại thú vật. Bà đem vải tới ngôi chợ làng bên, đổi lấy tiền đủ mua những thứ cần thiết nuôi sống bốn mẹ con. Đứa con út có thói quen vào rừng kiếm củi, nhưng hai đứa lớn nằm ưỡn sưởi nắng, chờ mẹ làm sẵn cho ăn.
Một hôm người mẹ bán được vải sớm hơn thường lệ nên bà đi quanh chợ tìm người bán gạo rẻ nhất. Bỗng bà thấy một tấm bảng treo ở một cửa tiệm. Bà lại gần để nhìn cho rõ. Đó là một bức tranh hình dung một ngọn núi giống ngọn núi ở sau làng, nhưng ở chân núi không phải là những mái tranh nghèo chen chúc. Thay vào đó có những ngôi nhà xinh xắn, sạch sẽ, nhưng đẹp nhất là một ngôi nhà lầu nằm giữa một vườn hoa có dòng suối long lanh với một chiếc hồ nhỏ mà người ta thấy cả những con cá đỏ quẫy đuôi. Gia cầm mổ thức ăn rải rác chỗ này chỗ kia, những con cừu trắng dễ thương ăn cỏ trên sườn đồi, và những cánh đồng ngô vàng óng trải dài mút mắt. Phía trên bức tranh điền dã, mặt trời sáng rực.
Người mẹ bị bức tranh đẹp chinh phục, cứ nhìn nó mãi. Không suy nghĩ, bà móc hết tiền bán được vải trong túi ra và mua bức tranh. Bà chỉ còn vài đồng tiền lẻ để mua một ít gạo đem về. Bà tự nhủ: “Chỉ một lần thôi, cũng không sao. Lần tới, mình sẽ mua thứ gì ngon lành nhất cho bọn trẻ”. Trong khi đi đường, chốc chốc bà lại dừng chân, tháo tấm tranh ra để ngắm nghía. Những ngôi nhà rực rỡ quá, con suối long lanh quá. Và bà đếm xem có bao nhiêu con gà, bao nhiêu con vịt, bà ngắm mê say vườn rau xanh tươi, bà tưởng như ngửi được mùi hương của những đóa hoa rực rỡ trong vườn. Trong đời mình chưa bao giờ bà cảm thấy sung sướng như khi ngắm bức tranh.
Tới nhà, người mẹ treo bức tranh lên cửa. Bà ngắm không chán mắt. Hai đứa con lớn càu nhàu, thấy tiêu phí tiền bạc để mua một hình ảnh là lố bịch, nhưng đứa con út nói:
- Con mong ước mẹ có một ngôi nhà như ngôi nhà trong bức tranh, với một khu vườn cũng đẹp như vậy. Nếu con là mẹ, con sẽ dệt một bức tranh gấm theo mẫu này. Khi mẹ dệt nên ngôi nhà, bông hoa, con suối, gà vịt, mẹ sẽ có cảm tưởng mẹ có tất cả những thứ đó thật.
Đứa con lớn vừa ngáp vừa nói:
Đừng có xúi giục mẹ. Nếu mẹ dệt để chơi, thì lấy tiền đâu để sống ? Đứa con kế có ý kiến:
- Hiển nhiên rồi. Nếu mẹ muốn sống sang trọng, mẹ phải đợi kiếp sau. Có lẽ kiếp sau sẽ sung sướng hơn kiếp này.
Nhưng ý của đứa con út làm người mẹ say mê. Bà nói để dỗ dành:
- Đừng sợ mẹ làm điều gì có hại cho các con. Mẹ sẽ dệt cho vui vào mỗi tối và sáng sớm. Mẹ đã nuôi nổi các con cho tới ngày nay, mẹ sẽ tiếp tục nuôi sống các con.
Thế là người mẹ mua những thứ sợi đẹp nhất và bắt đầu dệt suốt một năm ròng. Tối nào bà cũng đốt một ngọn đuốc; khói cay làm đôi mắt đỏ ửng của bà chảy nước mắt. Từng giọt, từng giọt, nước mắt bà rơi trên tấm gấm bà đang dệt, kết tinh lại, và bà ghép chúng vào bức tranh của mình. Bà dệt dòng suối nhỏ và chiếc hồ sóng nước long lanh bằng nước mắt.
Năm thứ hai, đôi mắt tội nghiệp của người mẹ buốt xót đến tóe máu, và những giọt lệ đỏ hồng bắt đầu rơi xuống tấm gấm. Bà cũng ghép chúng vào bức tranh. Những bông hoa đỏ và nắng vàng thành hình như vậy.
Năm thứ ba, bức tranh hoàn tất. Nó chứa đựng tất cả chi tiết có trên tranh mẫu. Một vùng xanh tươi ở chân một ngọn núi cao, những ngôi nhà lấp lánh ánh bạc, những đồng ngô vàng rực, và bên bờ suối, thay cho túp lều tranh nghèo nàn có một dinh thự nguy nga, cột sơn son, cửa thếp vàng, lợp ngói men xanh. Sau dinh thự, đàn cừu gặm cỏ trên sườn đồi xanh um, có cả trâu và bò sữa. Gà con lông vàng như tơ và vịt con đùa nghịch trên cỏ, chim bay vun vút trên không. Ở tiền cảnh, một vườn cây và hoa rực rỡ, giữa có một cái hồ nhỏ với bầy cá đỏ, từ đó một dòng suối bạc chảy qua các ruộng lúa. Sau làng, cánh đồng ngô vàng rực trải dài mút mắt. Và trên cao, mặt trời rực rỡ trong bầu trời xanh.
Bà mẹ giụi đôi mắt đỏ, nở một nụ cười mãn nguyện.
Các con tới mà xem, đẹp lắm!
Ba đứa con chạy tới, cùng kêu to thán phục.
- Nếu đem bán thì sẽ được bao nhiêu vàng? Đứa lớn hỏi.
- Với một thứ như vậy, người ta có thể được một số tiền lớn - đứa con kế nói thêm.
Nhưng đứa con út tuyên bố:
- Mẹ đã xây cho chúng ta một ngôi nhà nhung lụa. Chúng ta sẽ giữ gìn và sống trong đó bằng tư tưởng.
Mẹ đã dệt bức tranh này để thỏa ý, mẹ sẽ không bán cho ai cả - người mẹ nói. Nhưng trong nhà mờ tối trông không rõ trên đó có gì. Ta hãy mang nó ra ánh sáng.
Người mẹ treo bức tranh gấm ra ngoài, và màu sắc của nó đậm đà hơn. Chỉ trong ánh sáng ban ngày người ta mới thấy nó đẹp ra sao. Láng giềng chạy tới ngắm và ai cũng khen bà mẹ khiến bà cười sung sướng.
Bỗng bà cảm thấy một làn gió mát ve vuốt mặt mình, còn bức tranh thì rung động. Làn gió mạnh hơn lay bức tranh như người ta giũ thảm và cuối cùng rứt nó ra khỏi cửa. Trong phút chốc, bức tranh bay mất.
Người mẹ thét to và bất tỉnh. Láng giềng chạy tứ tán tìm bức tranh, ba đứa con trai chạy khắp vùng lân cận, nhưng không ai tìm thấy bức tranh.
Sau khi mất bức tranh, bà mẹ đi lang thang như người mất trí. Đứa con út cố hết sức an ủi bà, nấu canh gừng cho bà ăn, nhưng bà sa sút trông thấy.
Sau đó ít lâu, bà mẹ nói với đứa con lớn:
- Nếu con muốn mẹ sống sót, con hãy đi tìm bức tranh gấm đem về cho mẹ. Thiếu nó, mẹ như mất một phần đời.
Đứa con lớn mang giày và đi về hướng đông. Anh ta đi được một tháng thì tới một hẻm núi, nơi có một căn nhà đá. Trong nhà có một con ngựa đang vươn cổ tới một vạt cây dâu tây. “Tại sao con ngựa không ăn dâu? Anh ta tự hỏi. Tại sao nó cứ đứng đó mà vươn cổ và há mồm ra ?”. Khi tới gần hơn, anh ta nhận thấy con ngựa đó bằng đá. Anh con trai rất ngạc nhiên. Và khi anh còn há hốc mồm ngắm nghía con ngựa đá và căn nhà đá, một bà già tươi cười bước ra khỏi cửa.
Con tìm gì đây, con trai ? Bà ân cần hỏi.
- Tôi đi tìm một bức tranh gấm do mẹ tôi dệt được - anh trả lời. Trên bức tranh đó, bà đã tái tạo một phong cảnh với một ngôi nhà, một dòng suối, một khu một bầy gà, vịt, mặt trời và bông hoa. Để có bức tranh đó, chúng tôi phải chịu ăn đói trong ba năm tròn, và mẹ tôi vừa hoàn thành bức tranh thì gió mang đi mất, không biết đi đâu. Mẹ tôi bảo tôi đi tìm. Bà không biết nó ở đâu chớ?
Ta biết chớ - bà già gật đầu, nói. Chính các nàng tiên ở Quang Sơn, nghĩa là Núi Rực Rỡ, đã mượn bức tranh. Họ muốn lấy đó làm mẫu để dệt một bức gấm đẹp.
- Tôi rất vui lòng vì đã biết phải đi đâu để tìm lại nó - anh con trai thở phào nhẹ nhõm. Bà có thể chỉ đường cho tôi tới Quang Sơn không? Tôi sẽ đi thẳng tới đó, có thế tôi mới yên lòng.
Chỉ đường thì dễ, nhưng đi thì khó - bà già cười lặng lẽ. Và con chỉ có thể đi tới đó bằng cách cỡi con ngựa này.
Nhưng đây là ngựa đá mà - anh con trai nhận xét.
Cái đó không hề gì. Con ngựa này sẽ sống lại nếu con trồng răng của con vào hàm của nó, để nó ăn được mười trái dâu. Nếu con muốn, ta sẽ đập gãy răng con bằng một hòn đá.
Anh con trai lớn hoảng sợ nhìn bà già. Đầu gối anh bắt đầu run.
Mà chuyện đó cũng chưa quan trọng gì đâu - bà già nói tiếp, có vẻ không nhận thấy anh đang hoảng sợ. Khi cỡi con ngựa này, con phải vượt qua đám lửa của mộ hỏa sơn, rồi đi qua một băng hà, và chỉ bên kia biển con mới gặp Quang Sơn và các nàng tiên. Nhưng nếu dọc đường con thở dài một tiếng thì hoặc con sẽ bị lửa thiêu đốt ra tro bụi, hoặc những khối băng sẽ nghiền nát con, hoặc sóng biển sẽ nhận chìm con.
Anh con trai lùi nhanh một, hai bước mà nhìn lại con đường anh đã đi tới. Bà già mỉm cười:
- Nếu con không muốn thì đừng miễn cưỡng. Về phần ta, ta sẽ cho con một hộp tiền vàng để làm lộ phí.
- Bà sẽ cho tôi nhiều như vậy mà tôi không phải làm gì sao? Anh con trai sửng sốt nhưng đã thích mê.
- Ừ, như vậy đó, không phải làm gì cả - bà già lạ lùng trả lời. Hoặc, nếu con muốn, cứ coi như để cho con ăn thỏa thích.
Trong thâm tâm, con muốn trở về nhà - anh ta nói, lấy tiền rồi chạy biến trên con đường đã đưa anh tới.
Khi đi tới ngã ba, anh ta tự nhủ: “Để cho một người thôi thì những đồng vàng này khá đủ, nhưng cho bốn người thì quá ít. Ta nên đi tới thành phố hơn là về nhà. Ta sẽ sống như ông hoàng?”. Và anh ta theo con đường tới thành phố.
Khi thấy đã lâu mà đứa con lớn không về, một hôm người mẹ nói với đứa con kế:
Không biết anh con đi đâu? Có lẽ nó đã quên chúng ta. Con đi xem có tìm lại được bức gấm của mẹ không.
Anh con trai kế mang giày và lên đường. Anh đi một ngày, một tuần rồi một tháng, và tới căn nhà đá. Anh thấy con ngựa đá vươn cổ tới mấy trái dâu. Một bà già đi ra và hỏi anh:
- Con ơi, ngọn gió lành nào đưa con tới đây ?
Tôi tìm một bức tranh gấm mà mẹ tôi đã dệt. Gió đã thổi nó đi mất.
- Anh con đã đi qua đây - bà già thở dài - nhưng nó sợ cỡi con ngựa này vượt qua lửa và băng để tìm lại bức gấm.
Nhưng đây là con ngựa đá mà - anh con trai kế ngạc nhiên.
Nếu con để ta lấy đá đập gãy răng để lấy răng đó trồng lại cho con ngựa, và khi con ngựa ăn được mười trái dâu, nó sẽ sống lại và đưa con tới các nàng tiên Quang Sơn, và họ sẽ trả lại con bức tranh gấm.
- Để nhổ răng của tôi, chỉ còn thiếu việc đó nữa thôi! Anh con trai hoảng hốt. Tôi thích trở về nhà hơn.
- Trong trường họp đó ta sẽ cho con một hộp tiền vàng. Anh con cũng đã được chừng đó - bà già nói.
“Vì 1ý do đó mà anh ấy không về nhà - anh con kế nói thầm. Anh ấy đã làm đúng. Anh ấy đang hưởng thụ của cải ở một nơi nào đó”. Thế là anh ta lấy
hộp tiền vàng từ tay bà già, cám ơn bà và vội vã đi thật nhanh. Tới ngã ba, không một chút phân vân. Anh đi thẳng tới thành phố. “Bây giờ mình sẽ sống thỏa thích theo ý muốn - anh ta vui mừng. Tại sao phải chia sẻ với người khác”.
Khi một tháng nữa trôi qua, bà mẹ nói với đứa con út: Mẹ cảm thấy yếu như sên; nếu không tìm lại được bức tranh gấm, chắc mẹ không sống nổi. Không biết hai anh con rong chơi ở đâu ! Chắc chắn chúng không nghĩ tới chúng ta.
Con luôn luôn là người mẹ tin tưởng nhất. Con hãy đi tìm bức gấm cho mẹ.
Anh con trai mang giày vào và ra đi. Anh tới hẻm núi nơi con ngựa đá đứng trước căn nhà đá, vươn cổ tới mấy trái dâu. Bà già đứng ở ngưỡng cửa, có vẻ như đợi anh. Bà nói:
Đường đi tìm bức tranh gấm rất khó khăn. Hai anh của con thích lấy một hộp vàng của ta và tới thành thị hơn.
Tôi không sợ gì cả và tôi không cần vàng - anh con trai trả lời. Tiền vàng không làm mẹ tôi khỏe lại. Tôi phải làm gì để lấy lại bức gấm của mẹ tôi ?
Bà già nói với anh con trai về con đường đi qua lửa và băng.
Bà cũng nói rằng để con ngựa đá sống lại, anh phải hiến răng của mình cho nó. Không đợi bà giải thích hết, anh vớ một hòn đá, đập liền vào răng mình và lấy trồng vào hàm con ngựa. Con ngựa sống lại, ngốn mười trái dâu, anh con trai nhảy lên lưng nó và cả hai phi nhanh hơn gió.
Bà già nói với theo:
Đừng quên rằng con không được thở dài một tiếng, dầu lửa cháy sém và băng cắt da con, nếu không con sẽ chết!
Anh con trai thúc ngựa chạy càng lúc càng sâu vào vùng rừng núi, quên cả thở, cho tới một nơi lửa phun lên từ lòng đất. Anh thúc ngựa đi qua bức tường lửa. Những ngọn lửa đốt anh, làm anh ngạt thở, nhưng anh không than vãn một lời. Khi anh tưởng lửa sắp thiêu hủy anh, con ngựa nhảy mạnh và cả hai đã ở trên một đường mòn rợp bóng mát giữa núi đá. Anh lau mồ hôi trán, hít không khí mát đầy phổi, rồi thúc ngựa đi tiếp. Anh đi như vậy rất lâu, lâu lắm, rồi anh cảm thấy không khí lạnh giá. Anh nghe tiếng ầm ào trầm đục từ xa. Anh vẫn thúc ngựa đi nhanh như gió. Bỗng con đường có vách đá bao bọc mở rộng ra, con ngựa đứng khựng lại, anh rét run, nhìn xung quanh. Cả
hai đang ở giữa vùng ngập nước. Nhìn mút tầm mắt, anh chỉ thấy một băng hà mênh mông, với những băng sơn khổng lồ va chạm nhau ầm ĩ. Ở rất xa bên kia băng hà, anh lờ mờ thấy một ngọn núi cao xanh biếc tràn ngập ánh nắng. “Đó là Quang Sơn ? anh kêu to mừng rỡ. Ngựa ơi! nhanh lên! Chúng
ta gần tới rồi ?”. Con ngựa không ngần ngại phóng xuống sông băng. Thứ băng di động này va đập và làm anh rách thịt, những lượn sóng xô đẩy, sẵn sàng hất anh rơi khỏi lưng ngựa. Nhưng anh mím môi, không kêu than một tiếng. Khi anh thấy đã bị sông băng nuốt chửng thì con ngựa cũng tới bờ. Nắng ấm nhanh chóng sưởi khô quần áo, làm vết thương lành sẹo, và trước khi kịp hiểu, anh đã ở trên đỉnh núi. Trước mắt anh, một cung điện pha lê sáng rực, và người ta nghe tiếng cười, tiếng hát của những thiếu nữ từ vườn hoa vọng tới.
Anh đi qua cổng, vào sân và nhảy xuống ngựa. Anh thấy một đám thiếu nữ xinh đẹp đang dệt gấm. Bức tranh của mẹ anh dựng ở giữa. Thấy anh tới, các thiếu nữ bỏ khung dệt, chạy tới vây quanh anh và cười vui vẻ. Anh đặc biệt thích một cô nhỏ nhắn, mặc áo đỏ sẫm.
Lúc đó một phụ nữ rất đẹp đi tới. Bà mặc một chiếc áo lấp lánh như ánh mặt trời chiếu trên mặt nước. Trên mái tóc dài cài một chiếc lược vàng.
- Ta là chúa tiên - bà nói. Không bao giờ có ai tới đây. Tại sao ngươi mạo hiểm đi xa như vậy ?
- Tôi tới tìm bức tranh gấm của mẹ tôi - anh con trai nói. Gió đã mang nó tới chỗ tiên nương, mẹ tôi vì thế mà lâm bệnh.
- Chính chúng ta ra lệnh cho gió mang bức tranh của mẹ ngươi đi, chớ không phải ngẫu nhiên đâu. Chúng ta muốn dùng nó làm mẫu để cũng dệt được một bức tranh đẹp. Nếu ngươi để nó cho chúng ta một đêm nay nữa, ngày mai ngươi có thể đem đi. Trong thời gian này, ngươi là khách của chúng ta - bà tiên mỉm cười, nói.
Anh con trai như sống trong mơ. Các nàng tiên vây quanh cười nói, mời anh dùng tiên tửu và thực phẩm dành cho thần tiên. Kế đó họ lại cần mẫn làm việc. Họ dệt tới tối. Khi hoàng hôn xuống, họ treo một viên trân châu sáng trưng lên trần nhà và họ dệt tới nửa đêm. Anh thanh niên mệt mỏi sau bấy nhiêu cảm xúc nên ngủ quên lúc nào không hay. Trong lục đó, các nàng tiên lần lượt làm xong công việc và đi ngủ. Một mình nàng tiên trẻ nhất còn thức, cái nàng được anh con trai phải lòng tức khắc ấy. Nàng nhìn bức tranh của bà mẹ và của mình, rồi thở dài. Không nàng tiên nào dệt được bức gấm đẹp
như bức gấm của bà mẹ. Không có dòng suối nào long lanh như dòng suối của bà, vì nó được dệt bằng nước mắt; không có mặt trời nào cháy bỏng như mặt trời có lẫn máu của bà mẹ. Nàng tiên nhìn anh con trai ngủ say và bỗng nảy ra một ý. Nàng lấy một sợi tơ và thêu lên bức tranh của bà mẹ một nàng tiên bé nhỏ mặc áo đỏ sẫm đứng bên bờ hồ nhìn những con cá đỏ.
Nửa đêm anh con trai thức dậy. Gian phòng vắng ngắt. Ở giữa phòng chỉ có bức tranh của mẹ anh dệt nên. Anh ngắm nó một lúc rồi tự bảo: “Tại sao phải đợi tới sáng ? Mẹ ta đau càng ngày càng nặng? Anh cuốn bức gấm lại, đút vào áo, nhảy lên ngựa và lên đường trở về. Sóng biển xô những tảng băng to vào anh, núi lửa toan nuốt chửng anh, anh cũng không sờn lòng. Anh không thở dài một tiếng và anh trở về trước căn nhà đá nhỏ lúc nào không hay. Bà già tươi cười đứng trông anh trên ngưỡng cửa.
- Ta sung sướng thấy con trở về - bà nói. Con là đứa con trai lương thiện, hiếu thảo. Con đã có được cái con muốn. Còn ta, ta sẽ trả lại răng cho con.
Bà lấy răng từ miệng con ngựa, trồng lại cho anh. Con ngựa lập tức hóa đá. - Đây là giày da hươu - bà già lại nói. Mang giày này con sẽ về tới nhà ngay.
Anh con trai nồng nhiệt cảm ơn bà già và mang giày vào. Anh không hiểu bằng cách nào mà chỉ trong chớp mắt mình đã ở trước ngôi nhà của mẹ. Một bà láng giềng thấy anh, liền đi ra, cúi đầu, nói nhỏ:
- Anh đã về rồi, tốt quá. Không biết mẹ anh sẽ ra sao. Bà không ra khỏi nhà nữa. Mắt bà kém lắm. Tôi không biết... tôi không biết...
Anh nhảy bổ vào nhà, hét to:
Mẹ ơi, nhìn này, mẹ xem nhanh đi !
Anh lấy tấm gấm, mở ra. Cả căn nhà rực sáng.
Khi biết con mình đem bức tranh về, bà mẹ kêu to mừng rỡ. Và bà khỏi bệnh ngay. Bà nhảy xuống khỏi giường, ngạc nhiên thấy mình khỏe mạnh như cũ. Bà nhìn bức tranh, như thể bỗng nhiên cũng nhìn thấy rõ hơn nhiều. Rồi bà bảo:
- Con hãy đem tranh ra ngoài để ta nhìn cho rõ.
Anh mang tranh ra ngoài sáng. Màu sắc trở nên rực rỡ hơn. Bỗng một làn
gió thổi tới và bức tranh trải rộng ra, càng lúc càng rộng hơn, cho tới lúc nó bao phủ cả phong cảnh xung quanh. Và bà mẹ bước ra từ một lâu đài nguy nga, nhìn quanh, mắt đẫm lệ hạnh phúc. Những cánh đồng ngô vàng rực trải dài mút mắt, tới tận chân núi. Đàn cừu gặm cỏ, bầy gà con vàng óng như tơ tíu tít chạy khắp nơi với những con vịt con. Một dòng suối chảy qua một khu vườn đầy hoa nở. Bấy giờ mọi thứ trong thiên nhiên giống hệt bức tranh. Và những người láng giềng từ các ngôi nhà nhỏ sáng bạc đi ra, bỡ ngỡ trước phép mầu.
Anh con trai nắm tay mẹ, dắt tới vườn hoa. Họ đi chậm tới cái hồ, ngắm không chán mắt bao điều kỳ diệu. Bỗng anh con trai đứng sững kinh ngạc, tim đập mạnh. Nàng tiên nhỏ nhắn, mặc áo đỏ sẫm, đứng bên hồ mỉm cười nhìn anh.
Cô từ đâu tới? Anh hỏi.
Cô gái cười, giọng ngân nga như chuông bạc:
- Tôi thêu hình ảnh của mình lên bức tranh của mẹ anh, và anh đã mang tôi theo. Vì bức tranh đâu có sự sống, nên chỗ của tôi cũng ở đây.
Bà mẹ sung sướng nhìn nàng, nói:
- Bây giờ chúng ta có một ngôi nhà lớn, nhưng ta thiếu một đứa con gái.
Người ta tổ chức một đám cưới lớn. Ngoài láng giềng, người mẹ mời tất cả người ăn mày quanh vùng. Hai người anh nghe nói việc này. Họ đã tiêu xài hết tiền bạc từ lâu, và vì họ đã quen để người khác nuôi mình nên họ đi ăn xin. Khi tới trước căn nhà cũ và thấy sự đổi thay, họ xấu hổ vì quần áo rách rưới nên họ không muốn vào. Họ đi xa, biệt tích.
Người con út sống hạnh phúc với vợ và mẹ ở vùng đất trù phú, dưới ánh nắng tươi sáng đó rất lâu.
Lạt ma và người thợ mộc
Cách nay đã lâu, lâu đến nỗi người ta không nhớ nổi, ở một nước kia có một người thợ mộc và một vị lạt-ma.
Lạt-ma là người hung ác và tham lam. Một hôm ông ta bảo anh thợ mộc:
- Anh sẽ dựng cho tôi một ngôi nhà, và để thưởng công anh, tôi sẽ cầu nguyện thần thánh ban hạnh phúc cho anh.
- Tôi cóc cần ông cầu nguyện! Anh thợ mộc trả lời rất sỗ sàng. Phúc đức của tôi và hạnh vận của tôi là từ hai bàn tay và chiếc rìu này mang lại!
“Rồi mày sẽ biết tay ta ! Lạt-ma bảo thầm. Mày sẽ trả giá cho sự xấc láo này !”. Ông ta ngày đêm suy tính, tim cách trả thù. Rốt cuộc ông ta tìm ra một kế. Ông ta tâu với vua:
- Thưa hoàng thượng, xin cho phép tôi tâu trình là hôm qua tôi đã lên trời. Và tới gặp ai, hoàng thượng có biết không? Đó là đức tiên vương, thân phụ của hoàng thượng. Ngài rất khỏe mạnh, chỉ có một rỗi buồn, như lời ngài nói với tôi, là ngài muốn có người xây cho một lăng tẩm, nhưng, như hoàng thượng biết, ở trên trời không có nhiều thợ mộc. Vì vậy ngài yêu cầu hoàng thượng gởi ngay người thợ mộc riêng của mình, vì anh ta có vẻ là thợ giỏi.
- Được chớ - đức vua đồng ý ngay - nhưng làm sao đưa anh ta lên trời được ?
- Xin hoàng thượng đừng lo! Tu sĩ chúng tôi có kinh nghiệm về việc này.
- Lạt-ma trình bày kế hoạch với đức vua. Người ta sẽ dùng một căn lều gỗ, nhốt người thợ mộc vào đó, dựng một giàn hỏa to xung quanh rồi đốt lửa. Khi căn lều cháy, một làn khói trắng sẽ bốc lên trời. Người thợ mộc sẽ cỡi làn khói đó như cỡi ngựa để đi gặp thân phụ của đức vua.
Đức vua chấp thuận và cho anh thợ mộc biết chuyện đó.
- Khốn khổ thân tôi, tôi có thể làm gì được - anh thợ mộc về nhà than thở với vợ. Lạt-ma muốn giết tôi.
- Anh có thể làm gì ư? Nhưng đâu có khó lắm ! Vợ anh nói. Ngay đêm nay, chúng ta sẽ đào một đường hầm đi từ nhà mình tới căn lều mà họ đang dựng.
Ngày mai, anh sẽ theo đó chạy về nhà.
Hôm sau, người ta tới đưa anh thợ mộc đi; người ta nhốt anh vô lều, chất củi xung quanh thành giàn hỏa và nổi lửa. Khi một làn khói trắng bốc lên, lạt ma nới to:
- Nhìn kìa ! Anh ta đó, mọi người có thấy không ? Anh ta vội vã đi lên trời trên lưng con ngựa trắng !
Không ai thấy gì ngoài khói, nhưng mọi người làm như trông thấy anh thợ mộc cỡi con ngựa. Trong lúc đó anh này theo đường hầm trở về nhà và ẩn nấp sau bếp. Anh trốn kín trong bếp đúng một tháng, không thò mũi ra ngoài. Trong thời gian đó anh suy tính cách trả thù. Sau một tháng anh tìm được một cách. Anh đi thẳng tới hoàng cung. Ai cũng trợn mắt nhìn anh, lạt ma kinh ngạc hơn ai hết.
- Anh trở về đó à ? Đức vua sửng sốt hỏi.
- Đúng như hoàng thượng nhận thấy, tôi từ trên trời trở về đây - anh thợ mộc lễ phép khom mình trả lời. Thưa hoàng thượng, xây lăng thật cực nhọc ! ở trên trời, người ta làm việc theo kiểu cũ. Nhưng rốt cục tôi cũng xây xong cho tiên vương một lăng tẩm mà ngài rất hài lòng. Hiện giờ ngài chỉ có một yêu cầu với hoàng thượng: trong lăng mới, tự nhiên là ngài cần một vị lạt ma. Hoàng thượng cũng biết là lăng tẩm không thể thiếu lạt ma được; nhưng không phải là bất cứ lạt ma nào, trong một lăng tẩm trên trời đẹp như vậy, phải có một lạt ma cao giá; tiên vương mong muốn hoàng thượng nhường vị lạt ma riêng cho ngài, vì danh giá, đạo đức của ông được truyền tụng tới cả trên trời.
Dĩ nhiên ta có thể nhường lạt-ma của ta cho tiên vương - đức vua nói. Nhưng làm sao đưa ông ấy đi ?
Cũng như tôi vậy, thưa hoàng thượng, cũng như tôi ! Anh thợ mộc nói với vẻ ngây thơ. Đó là cách nhanh nhất !
Mặt lạt ma tái xanh như xác chết, nhưng ông ta không thể từ chối. Ông ta nghĩ: “Dầu sao nếu tên thợ mộc đã từ trên trời trở về, sao ta lại không về được?”. Ông ta ngoan ngoãn để người ta nhốt mình vào trong lều và nổi lửa.
Lửa bốc cao, một làn khói đen và nặng nề bay lên. Nó mang linh hồn đen tối của lão lạt ma độc ác lên không trung.
Họa sĩ Touo – Lan - Ka
Ở tận miền Nam Trung Quốc, nơi sinh sống của một dân tộc được gọi là người Thái, có một họa sĩ tên Touo-lan-ka. Ông sống trong một căn nhà rách che bằng phên tre, bên một dòng sông trong vắt ở bìa làng. Đó không phải là người tầm thường, và ta khó tìm được người giống như ông. Ông thật sự bị hội họa ám ảnh, và ông vẽ trên bất cứ thứ gì ông bắt gặp; dầu đó là giấy, lụa hay gỗ. Ít khi ông ra khỏi nhà, chỉ thỉnh thoảng mới tới đình làng một lần. Nhưng ta chớ tưởng ông tới cúng thần. Tính ông không phải thế. Ông chỉ ngồi yên trong một góc, quan sát tất cả những người tới đó, và ghi nhớ nét mặt họ. Rồi ông về nhà đóng kín của, lấy bút ra, bắt đầu vẽ, vẽ mãi. Bên ngoài nắng cháy hay trăng sáng ông cũng không biết. Mỗi ngày ông vẽ bảy gương mặt, và sau một tuần có bốn mươi chín gương mặt treo trên vách nhìn ông. Đúng lúc ông vẽ xong gương mặt thử bốn mươi chín - và đó là một đêm mưa to gió lớn, sấm chớp đầy trời, cây cối ngã rạp -thì có người gọi cửa.
Ai vậy nhỉ? Họa sĩ càu nhàu. Quỷ quái nào dẫn xác tới trong cơn dông mà cả cú vọ cũng nằm im này?
Ta là Tử Thần - tiếng nói sau cửa tuyên bố. Ta lo cho linh hồn người chết ở trần gian, và hôm nay Thượng Đế cho ta tới tìm ngươi.
“Thiên lôi đánh nó cho xong!”. Touo-lan-ka nghĩ thầm, lòng hơi thắt lại. Tuy nhiên, ông cũng lấy lại can đảm và đi ra mở cửa. Trên ngưỡng cửa hiện ra một hình thù toàn đen đen như đêm tối.
Mời vào, nhưng ngươi phải chờ một lúc - Touo-lan-ka nói. Tôi còn phải vẽ cho xong vài thứ.
Và làm như chẳng có chuyện gì cả, ông quay lưng về phía Tử Thần, cầm bút và lại vẽ.
Nhận thấy Touo-lan-ka chẳng chú ý gì tới mình và thản nhiên vẽ vời, Tử Thần nóng nảy giục:
- Nào, nào, nhanh lên, ngươi không thể bắt Thượng Đế đợi như thế được!
- Đừng giận - họa sĩ bình thản trả lời ít nhất tôi phải vẽ xong cô bé này. Tốt hơn hết ngươi nên về trước và nói với ông chủ là ông nên kiên nhẫn một chút.
Tử Thần tỏ mò muốn biết Touo-lan-ka vẽ gì nên tới gần để xem. Trái tim lạnh giá của Tử Thần thốt lên một cái. Trên bức tranh, một cô gái trẻ đẹp có vẻ đang mỉm cười. Chưa bao giờ ông ta thấy người đẹp như vậy. Ông ta rón rén ra khỏi căn nhà tranh và trở về trời.
- Người trở về một mình à ? Thượng Đế hỏi giọng nghiêm khắc.
- Xin Thượng Đế tha tội - Tử Thần xin lỗi - nhưng tôi không thể làm gì được; tôi phải để y vẽ xong một gương mặt.
Trong đời ta chưa từng thấy chuyện như vầy - Thượng Đế thét to vì không còn bình tĩnh nữa. Đi bắt y về cho ta nhanh lên! Đó là luật trời, và ta không cho một tên họa sĩ đáng ghét vi phạm đâu!
Vì thế Tử Thần lại phải trở xuống trần gian. Khi đi qua rừng tre, ông thấy ánh đèn leo lét chập chọn từ cửa sổ căn nhà tranh, ánh sáng duy nhất trong bóng tối dày đặc. Ông ta đột ngột mở cửa nhưng đứng sững lại. Trên bức tranh, gương mặt của cô gái thật trong sáng, thật dịu dàng, mỉm cười với ông ! Một gương mặt như vậy, ngay trên trời cũng khó tìm ra.
- Vội vã quá họa sĩ vẫn bận bịu với bức tranh, càu nhàu. Nhưng vì lần này Tử Thần không để ông xua đuổi nên Touo-lan-ka ngoan ngoãn thu xếp dụng cụ vẽ, vài bức phác họa, một cây nến thờ rồi đi theo Tử Thần.
Khi tới trước Thượng Đế, họa sĩ quỳ lạy vì đó là bổn phận của người trần tục. Tay trái ông cầm cây nến cháy, tay phải cầm dụng cụ vẽ.
Tốt lắm - Thượng Đế gật đầu độ lượng. Ta biết ngươi là họa sĩ danh tiếng ở cõi trần và ngươi không thể sống thiếu hội họa. Được, ngươi có thể tiếp tục ở cõi Trời !
Touo-lan-ka phủ phục cám ơn Thượng Đế. Tuy vậy, ông cũng để rơi vài giọt lệ. Cũng dễ hiểu ! Ông đã phải xa cách quê hương mà không cõi Trời nào có thể sánh được. Hơi buồn, ông thổi tắt nến, và Tử Thần đưa ông đi gặp Nam Tào.
Từ nay, chỗ của ngươi ở đây: bây giờ, cứ làm việc của ngươi đi !
Thế nên họa sĩ bên thần Nam Tào. Ông đặt bút, nghiên, lọ nước mài mực, thỏi mực Tàu xuống đất kế bên mình và bắt đầu vẽ Mỗi khi thần Nam Tào ban linh hồn cho một đứa bé sơ sinh, Touo-lan-ka tìm trong các bức tranh chân dung thích hợp nhất cho con người sắp sinh ra đó.
Tuy nhiên phải nói rằng Touo-lan-ka thường gian lận ! Ông không muốn rời xa những bức chân dung đẹp nhất của mình nên ông giữ chúng lại. Các bà mẹ Thái phí công cúng bái để ông cho con họ gương mặt đẹp nhất trần gian: những gương mặt đẹp nhất ông giữ lại cho mình, trên trời.
Cô gái có đóa hoa dẻ trắng
Ngày xưa, gần con sông lớn Tsangpo, trong một vùng nhiều dã thú, có một người thợ săn có một đứa con trai duy nhất tên Losange. Cậu thiếu niên này khéo léo và gan dạ nên cha cậu cho đi săn với ông từ khi cậu còn bé. Khi được hai mươi tuổi, cậu nhanh nhẹn và hăng hái như hổ, lanh lẹ như hươu; trong vùng không ai bắn cung giỏi bằng cậu. Vì cậu thanh mảnh như cây tre và mắt cậu to và đen tuyền, tất cả các cô gái quanh vùng đều để ý, nhưng Losange không chú ý tới cô nào.
Một hôm, khi đi dọc bờ sông, miệng nhai một cọng cỏ, nhìn lau sậy uốn lượn nhẹ nhàng theo làn gió, cậu bỗng thấy một con diệc trắng bay trên mặt nước. Cậu nhanh nhẹn dương cung và vút ! mũi tên bay ra. Con diệc kêu một tiếng dài, rơi giữa sông và dòng nước cuốn nó đi mất dạng trước khi cậu trai kịp phản ứng. Losange nhìn mãi dòng nước đã mang con chim đi, lòng bồi hồi kỳ lạ. Lúc đó một cô gái xuất hiện bên kia sông. Cô gắn trên mái tóc một đóa hoa dẻ trắng và tay xách một chiếc thùng bằng vỏ cây bu-lô. Cô nghiêng mình múc nước, mỉm cười với cậu trai và hát:
“Chàng có đôi mắt huyền
Hạnh phúc đang chờ chàng”?
Bên này sông, Losange nghe rất rõ lời ca của thiếu nữ. Cậu chỉnh dây cung và vút! mũi tên xuyên thủng thùng nước. Nước phun qua lỗ thủng và cô gái cố lấy ngón tay bịt lại nhưng vô ích. Cô giận cậu trai khiếm nhã và cô quát:
Anh không tìm được việc gì làm hay hơn sao ? Cha anh có con ngựa bảy móng! nếu anh biết cỡi ngựa, ít ra anh còn có thể khoe biết làm gì đó!
Rồi cô xách thùng trở về đường cũ. Losnge nhìn theo cho tới khi cô mất hút trong rặng núi xám ở đàng xa.
Chiều đó, khi về nhà, cậu nói với cha:
- Xin cha cho con mượn con ngựa bảy móng. Con muốn cỡi ngựa.
- Con định làm gì vậy ? Cha cậu lo ngại hỏi. Làm sao con biết cỡi ngựa ? Cha chưa bao giờ nói với con về con ngựa đó, và bây giờ con thình lình hỏi cha cho con cỡi ngựa !
Con nghe nói cha có con ngựa đó - cậu con càu nhàu. Mọi người sẽ chế nhạo con, sẽ nói con sợ nó. Nếu cha đã cỡi nó, con cũng có thể cỡi được. Có thật cha tưởng con không cỡi được không ?
- Ta biết, ta biết chớ - người cha lo lắng nói. Nhưng cỡi con ngựa đó là đùa với sinh mạng của mình. Đã nhiều năm nay ta không dám cỡi nó nữa.
Hai cha con cãi nhau rất lâu cho tới lúc người cha chấp thuận. Ông nhẫn nhục thở dài, nói:
Hãy nghe cho kỹ, con thấy rặng núi xa ở chân trời kia không ? Cứ đi theo hướng đó, và khi con đã qua ba đỉnh núi và ba thung lũng, con sẽ tới Núi Đá Vàng. Tít trên cạo, con sẽ thấy một cái thùng lớn đầy nước, và chắc con ngựa sẽ ở gần đó. Nhưng nếu cái thùng đã cạn nước, lúc đó con sẽ gặp con ngựa bên bờ đầm ở chân núi. Trên hết là phải cẩn thận !
- Cha cứ yên lòng, con sẽ mở mắt ra!
Cậu con hứa và lập tức lan đường. Cậu dễ dàng tìm ra Núi Đá Vàng, rồi cái thùng lớn trên cao, nhưng cái thùng cạn nước và con ngựa không có ở đó. Losange chậm rãi đi xuống cái hồ. Thình lình, đất rung chuyển và một con vật khổng lồ xuất hiện ở khúc quanh. “Con vật này không phải là ngựa mà là quái vật”, cậu trai nói thầm. Con ngựa giương hai con mắt to như bánh xe nhìn cậu; lông bờm của nó như những sợi dây to, dài chấm đất. Nó phi nhanh về phía cậu. Cậu chỉ kịp nép sát vào vách đá, và con ngựa vụt qua như một con gió lốc, bờm nó quét sạch sỏi đá trên con đường và vó nó nện mặt đường tóe lửa.
“Như thế này thì không sao cỡi lên lưng nó được – Losange tức mình nói thầm. Nhưng ta không sợ nó !”. Thế là cậu chạy theo con ngựa. Nhưng nó vung cái bờm dữ dội đến nỗi cậu không có cách nào tới gần nó. Cậu suy nghĩ một lúc rồi trèo lên một cây thông mọc bên đường và khi con vật chạy ngang cây thông, cậu buông mình cho rơi xuống lưng nó và bám chặt bờm nó. Con ngựa liền lồng lên man dại, vung bờm như một cây roi, giậm vó, nhưng cậu cứ bám chặt. Hoàng hôn đã xuống khi con ngựa bình tĩnh lại. Mình mẩy nó run rẩy, nhưng khi Losange vỗ nhẹ cổ nó, nó đi tới, ngoan ngoãn như con cừu.
Người và ngựa tới con sông lớn Tsangpo đúng lúc cô gái có đóa hoa dẻ trắng múc đầy thùng nước ở bờ bên kia. Losange giương cung, nheo mắt để nhắm kỹ và vút ! Một lần nữa mũi tên làm thủng chiếc thùng vỏ cây.
Cô gái ngẩng đầu lên và thấy cậu trai trên lưng con ngựa khổng lồ.
Cỡi ngựa không phải là chuyện tài giỏi gì đâu ! Cô hét qua dòng sông. Cách đây hai ngàn dặm có một con sông nữa, và cô gái đẹp Boumo ở đó: cô có thể là vị hôn thê của anh! Đã có nhiều người dạm hỏi cô, nhưng Boumo chờ anh! Nếu anh đi được tới đó, cô ta sẽ chọn anh. Nhưng anh có tới đó được không? Tôi ngờ lắm! Anh chỉ cỏ tài bắn thùng nước của các cô gái!
Nói xong cô quay lưng và bỏ đi rất nhanh. Trong phút chốc cô đã biến mất, như thể bị những rặng núi xanh nuốt chửng.
Losange đưa con ngựa về nhà, nhưng không có gì làm cậu vui được nữa. Cậu đột ngột bảo cha:
Con sẽ đi tìm Boumo. Hình như cô ta cách đây hai ngàn dặm, bên bờ sông, và cô ta sẽ lấy con làm chồng.
Con còn nghĩ chuyện điên rồ gì nữa vậy ? Cha cậu nắm chặt hai tay kêu thét. Trước con, nhiều người đã thử làm chuyện đó, và tất cả đã tiu nghỉu trở về. Không con đường nào đi được tới đó, và chỗ nào cũng đầy dẫy nguy nan khiến người ta dễ dàng bỏ ngang. Còn nguy hiểm hơn khuất phục ba con ngựa như vầy!
Chính vì vậy mà con muốn đi tới đó để không ai có thể chế nhạo - cậu trả lời.
Cậu ra khỏi nhà và chờ cho cha ngủ. Lúc đó cậu mới sửa soạn hành trang. Ngay khi trời rạng sáng ở phương Đông, cậu nhảy lên lưng con ngựa khổng lồ đang giậm vó sốt ruột, rồi thúc ngựa phi nhanh, để lại phía sau một đám mây bụi.
Khi cha cậu thức dậy, người và ngựa đã đi xa.
Thoạt tiên Losange đi tới con sông nơi thiếu nữ lạ đã múc nước và cùng con ngựa bơi qua. Tới bờ bên kia, cậu đi sâu qua các rặng núi xanh, theo dấu cô gái. Nhưng khi vào rừng, cậu cảm thấy đất dưới chân ngựa chuyển động. Cậu giụi mắt, ngơ ngác : đó không phải là những rặng núi, mà là lưng của một con rồng đất khổng lồ! Con rồng uốn éo và những vòng đai lớn cuộn lại rồi bung ra để cho thấy ba mươi tám cô gái đẹp đang nắm tay nhau.
Losange kinh ngạc, nhảy ra sau một tảng đá, nhưng các cô gái đã nhìn thấy cậu. Họ van lơn:
Người hào hiệp trên con ngựa khổng lồ, xin bảo vệ chúng tôi! Nếu chàng không giúp đỡ, không bao giờ chúng tôi trở về nhà được. Không có chàng, tất cả chúng tôi sẽ chết!
- Tôi làm cách nào cứu giúp các cô được? Losange hỏi. Không có khí giới nào thắng nổi con quái vật như vầy. Tôi sẽ thử bắn nó một mũi tên, nhưng chắc chắn sẽ không hạ được nó?
Các cô gái nín thở nhìn Losange giương cung, nhắm và buông tên. Vút! Mũi tên cắm vào đầu con rồng. Nó oằn oại dữ dội và một dòng máu đen phun ra từ vết thương mạnh đến nỗi bắn trúng ngực cậu trai. Losange thét to đau đớn, rơi xuống ngựa, bất tỉnh.
Các thiếu nữ khóc lóc, rên xiết, nhưng cô gái trẻ nhất dịu dàng trấn an họ: - Đi tìm nước để cứu tỉnh ân nhân của chúng ta, nhanh lên đi, các chị!
Còn chính cô thì cúi xuống đầu con rồng, rứt ra từ cái trán của con vật gớm ghiếc một viên trân châu sáng rực và đem đặt lên ngực cậu trai.
Losange thở một hơi dài và mở mắt. Ba mươi tám gương mặt thiếu nữ xinh tươi vây quanh cậu. Cô lớn tuổi nhất nói:
Chàng đã cứu chúng tôi, nên chúng tôi muốn đền đáp. Chàng hãy chơn một người trong chúng tôi để làm vợ chàng.
Tôi không thể chấp thuận - Losange đứng dậy nói. Tôi đã có ý trung nhân, một cô Boumo nào đó. Tôi đang đi tìm cô ấy đây.
Chàng nói về cô Boumo nào vậy? Vẫn cô chị cả hỏi. Chàng đã nhìn kỹ chúng tôi chưa? Chúng tôi là những thiếu nữ đẹp nhất vùng này, cũng vì vậy mà con rồng đã chơn chúng tôi. Chàng không vừa ý một người nào trong chúng tôi cả sao?
Losange không muốn làm buồn lòng họ nên nói:
- Thôi được, tôi sẽ chơn một cô - và cậu nhìn họ. Cô em út đứng sau tất cả và cúi đầu. Đó là cô gái đã rút viên ngọc trên đầu con rồng. Đột nhiên Losange cảm thấy nhớ lại một người nào đó.
- Tôi sẽ đem cô này theo - cậu quyết định.
- Đây là cô em út của chúng tôi và cũng là cô gái đẹp nhất
- Cô chị cả mỉm cười nói. Nào, các em, ta hãy sửa soạn một món quà đưa đường cho em nó.
Họ lấy đất sét tô lên viên trân châu, nặn thành hình một con ngựa, lấy lông bờm của con ngựa khổng lồ làm đuôi và bờm cho nó. Làn gió mát thổi nhẹ, con ngựa đồ choi vụt lớn nhanh như thổi, chẳng mấy chốc đã có tầm vóc bình thường và có cả sự sống. Đó là một con ngựa rất đẹp.
- Đây là một con ngựa thần - Các cô gái nói. Nó chạy không kém con ngựa khổng lồ của chàng.
Sau đó họ từ giã nhau, và Losange lại lên đường, có cô gái trẻ nhất đi theo.
Tuy nhiên, có một ý nghĩ lúc nào cũng làm bận trí cậu. Thỉnh thoảng cậu liếc nhìn cô bạn đồng hành, rồi thình lình cậu hỏi:
Này, cô có thường ra sông múc nước không? Tôi có nhìn thấy từ xa một cô gái ở bờ sông, hình như cô ta giống cô.
Cô gái lắng nghe, mắt ngời sáng.
- Nhưng cô ta có một đóa hoa dẻ trắng cài trên tóc – Losange đăm chiêu nói thêm.
Chàng thấy rõ là không phải tôi - cô gái cười nói. Nhưng tôi có vừa ý chàng không, hoặc tại sao chàng lại chọn tôi ?- Thôi, thôi - Losange cau mày nói. Cô biết là tôi chỉ nghĩ tới Boumo.
- Boumo, lúc nào cũng chỉ Boumo, tại sao vậy? Cô gái hỏi. Chàng còn chưa gặp cô ta nữa mà. Nói thật ra, ai biết cô ta ra sao?
- Tôi không biết cô ta ra sao, nhưng tôi sẽ tìm cô ấy - Losange quả quyết. Nhưng để khỏi làm buồn lòng cô bạn đồng hành, cậu nói nhanh. Đừng sợ gì cả, tôi cũng sẽ lo cho cô. Bây giờ, cô là em gái của tôi. Khi tôi lấy Boumo làm vợ, tôi cũng sẽ tìm cho cô một người chồng tử tế.
Trong lúc nói chuyện họ đã đi qua khu rừng và tới bên một cái thác cuồn cuộn. Một thân cây to nằm vắt ngang từ bên này tới bên kia thác như một chiếc cầu nhỏ. Phía trước mặt, người ta thấy một miệng hang u ám.
Losange khuyến khích con ngựa đi qua thác trên thân cây. Tới bờ bên kia, cậu muốn đi vào hang, nhưng con ngựa đứng sững lại trước miệng hang đen ngòm. Người ta nghe tiếng ngáy ran khủng khiếp từ đáy hang và một giọng sụt sùi vọng ra từ miệng hang.
Người tử tế, đừng vào hang!
Losange nhìn vào hang tối om, và thấy một cô gái nhỏ mảnh dẻ, tay và cổ bó chặt trong một cái gông.
Tôi tên Meto – cô gái nói tiếp. Cái hang này là chỗ trú ngụ của tám con quái vật kinh tởm mà tôi phải hầu hạ. Một hôm khi tôi bắt ốc ở bờ sông thì bị chúng bắt. Chúng dọa sẽ ăn thịt tôi nếu tôi không nấu nướng cho chúng. Thử tưởng tượng là chúng ăn thịt người! May mắn là lúc này chúng say và đang ngủ, nhưng nếu chàng làm chúng thức dậy, chúng sẽ ăn thịt cả ba chúng ta. Nếu chàng thấy đống xương ở đầu hang kia!
Nghe nói vậy Losange rất ngạc nhiên, và khi cậu thấy những hạt nước mắt to như ngọc trai của cô bé rơi xuống, cậu nổi giận:
- Đừng sợ, em bé, tôi không để chúng làm hại em nữa đâu. Tôi sẽ dẫn em theo tôi và đưa em về nhà. Nhưng bây giờ tôi phải đi qua cái hang này, vì đó là con đường để đi tới Bouma.
Cậu vừa nói xong thì nghe một tiếng động như tiếng ống bễ thợ rèn nhưng to kinh khủng: Đó là một trong tám con quái vật ngáp và chớp sáu con mắt bên đầu của nó khi nhận thấy ánh sáng.
- Chạy ra sau nhanh lên - Meto thì thào. Ở bên cạnh hang có chôn một chiếc rìu thần, có nó chàng mới chống cự nổi với bọn quái vật.
Sau một ngày gian khổ, Losange đã kiệt sức nên chỉ đủ sức ngồi trên lưng ngựa. Nhưng cậu thu hết sức lực nhảy xuống ngựa, chạy vòng qua các hang và moi đất lấy chiếc rìu thần.
Quái vật thứ nhất uể oải mở một mắt, liếm mép và nói:
- Chậc, chậc, ta ngửi thấy mùi thịt tươi !
- Hèm! Ta thấy hơi đói - quái vật thứ hai vừa nói theo vừa ngáy. - Ta cảm thấy có gì lạ trong không khí - con thứ ba thở rất sâu, còn ngái ngủ
nhưng cố gắng ngồi dậy.
- Đó là em gái tôi - Meto từ cửa hang nói vào. Hãy xem cái túi thêu nó đã đem tới cho tôi ?
Nhưng không con quái vật nào chú ý tới lời cô.
- Tối qua ta đã ăn, uống nhiều quá - con thứ tư rên rỉ, nó đã giẫm lên đuôi của nó lần thứ ba.
Con thứ năm cau có nói:
Tao đã nói với mày hoài là không được uống nhiều – nó vừa nói vừa cố gỡ tám cái chân của nó ra.
- Chậc, chậc ! Mày nói đúng, nhưng khi ta thích uống - mấy con kia cũng vừa nói vừa ngáp, lăn lộn, khạc nhổ.
Trong lúc đó Losange đã bới đất dưới gốc cây thông, lấy lên được chiếc rìu thần. Trước khi bọn quái vật hoàn toàn tỉnh ngủ, cậu đã vào tới giữa hang.
Chà, tự tiện bắt người ăn thịt, hả? Cậu quát. Ta sẽ băm vằm bọn bây vì tội này !
Bọn quái vật trợn mắt nhìn cậu, tự hỏi cậu đâu ra. Chúng kêu rống man dại, nhưng Losange không để chúng kịp tỉnh trí. Vừa đâm vừa chém chỉ trong phút chốc, cậu đã chặt đứt bảy quái vật thành hai đoạn.
Thế là xong ! Losange thở phào nhẹ nhõm.
Vui mừng quá sớm! Thình lình cậu cảm thấy một mùi hôi thối trên lưng. “Coi chừng !” cả hai cô gái cùng kêu to, và cô thứ nhất chạy nhanh tới đống lửa để lấy một cành củi đang cháy. Cậu trai thì cảm thấy móng vuốt siết chặt cổ hơng mình, và cậu ngạt thở. Cậu buông chiếc rìu thần. “Đó là con thứ tám - cậu thầm bảo – vừa rồi mình đã có cảm giác là không phải cả tám con cùng ở đó”.
Cô gái nhận thấy Losange không thể tự mình vùng ra khỏi chân con quái vật nên cô không lưỡng lự nện thật mạnh cây củi cháy đó lên lưng nó.
“Ái…!”, quái vật thét lên và buông mồi của nó ra. Cậu trai liền lợi dụng lúc đó nhảy bổ tới nhặt chiếc rìu và bổ đôi sọ kẻ thù trước khi nó kịp nhận biết.
Thế là chúng ta không ai nợ ai! Losange hài lòng tuyên bố. Tôi hy vọng rằng những khó khăn loại này không có nhiều trên đường đi. Cô đã thật sự giúp đỡ tôi đắc lực; cô em ạ. Bây giờ phải trả lại tự do cho cô gái nhỏ này.
Thế là cậu dùng rìu chặt vỡ cái gông của Meto. Cô gái nồng nhiệt cám ơn cậu, mắt rơm rớm lệ. Cô tặng cậu chiếc túi gấm nhỏ thêu thùa rất đẹp.
Trong túi có nhiều thứ cây thuốc, cô mỉm cười bí ẩn. Biết đâu một ngày kia chúng lại có ích cho anh!
Losange đeo túi vào thắt lưng, nói:
- Cám ơn cô. Nhưng bây giờ tính sao với cô đây? Cô làm sao trở về nhà? Cô gái đầu tiên nói:
- Nếu anh không phản đối, tôi có thể đưa cô ấy về với cha mẹ cô. Xem nào, tôi có thể mượn con ngựa to của anh, nó mang hai chúng tôi một cách dễ dàng. Trong lúc đó anh sẽ cỡi con ngựa thần của tôi. Anh cứ đi trước. Khi đã đưa cô bé về nhà, tôi sẽ nhanh chóng theo kịp anh.
Đồng ý - Losange nói. Tôi sẽ luôn luôn đi thẳng, và tôi sẽ chờ cô ở trên đồi đàng kia. Cô hãy quan sát dấu chân ngựa, và nhất là đừng chậm trễ !
Họ từ giã; Losange cỡi con ngựa thần, lên đường. Cậu cố ý đi chậm, và khi tới đỉnh đồi cậu xuống ngựa chờ cô gái. Cậu ngồi trên một hòn đá, ở lại đó rất lâu, chong mắt nhìn ra xa để thấy cô ta tới. Nhưng không có gì hiện ra ở chân trời. Trong lúc đỏ, mây che đầy trời, rồi thình lình một côn gió mạnh
nổi lên trong bầu trời âm u ngạt thở. Những hạt mưa to bắt đần rơi và gió lộng mạnh hơn nữa. Losange sửng sốt thấy con ngựa nhỏ lại nhỏ lại và biến mất hoàn toàn trong cơn gió. Chỉ có hạt ngọc tiếp tục sáng lấp lánh trên mặt đất.
Losange có thể làm gì được? Chỉ có thể chờ, ngồi dựa một gốc cây chờ cô gái. Trời đã quang đãng trở lại, mặt trời đuổi mây đi và chiếu những tia nắng nóng bỏng. Chẳng bao lâu đã đúng ngọ, trời nóng ngột ngạt, và vẫn không thấy tăm dạng cô gái.
“Cô này đủng đỉnh thật ! Losange càu nhàu. Mình sẽ đi bộ tiếp. Cô ta đi ngựa sẽ theo kịp mình”. Thế nên cậu đi xuống triền đồi bên kia, tới một dòng sông nhỏ, bước xuống nước để lội qua.
Ngay từ bước đầu tiên, cậu đã lún chân xuống bùn tới gối. Bước thứ hai, bùn lên tới ngang lưng ! Đồng thời không biết từ đâu ra, một đám mây muỗi đói bu đầy người cậu. Losange cố hết sức chống đỡ, nhưng cậu đuổi được một con, mười con muỗi khác đã thế chỗ. Muỗi bu lại càng lúc càng nhiều, càng lúc càng to.
“Lũ bẩn thỉu này đến nuốt sống mình mất !”. Losange bực tức nghĩ thầm. Bỗng cậu thấy một con muỗi to bằng nắm tay bay tới. Cậu né tránh, và trong khi cử động tay cậu chạm phải cái túi đựng cây thuốc. “Biết đâu mùi thuốc chẳng đuổi được muỗi ?” cậu nghĩ. Cậu lấy vài lá thuốc, vò nát trong lòng bàn tay rồi xoa khắp mình. Lũ muỗi vù vù bay ra xa lập tức. Losange thở dài nhẹ nhõm. Nhưng cậu vẫn bị lún trong bùn, không tới không lui được một bước.
“Cái cô bé này la cà ở đâu thế nhỉ ?”. Cậu gắt gỏng. Cuối cùng cậu cung nghe tiếng vó ngựa lộp bộp. Hình bóng cô gái cỡi ngựa in trên nền trời. Cô ta dừng lại, kêu lớn, giọng trách móc:
Hấp tấp như vậy để làm gì. Rồi bì bõm trong bùn ? Anh tắm mát chớ?
Tuyệt lắm ! Losange gầm gừ. Một con heo rừng được tắm như tôi chắc nó sẽ coi là đại phúc!
Không có gì vừa lòng anh hết - thiếu nữ che miệng cười chế nhạo. Vừa nói cô vừa đi xuống bờ sông. Cô nhìn quanh, ngạc nhiên:
- Sao anh đi bộ ? Anh đã làm gì con ngựa thần ?
- Gió mới thổi một chút nó đã bốc thành hơi. Chỉ còn lại cái này! Losange lầm bầm, đưa cho coi viên ngọc.
- Thật tình, một con ngựa thần không được bền bỉ lắm – cô gái nói. Nhưng anh nên giữ kỹ viên ngọc, nó có thể còn có ích cho anh.
Sau đó, cô gái cho Losange ngồi chung ngựa. Hai người qua sông không có gì trở ngại và tới một vùng hoang vắng đầm lầy chạy dài mút mặt. Ở chân trời hiện lên một ngọn đồi: Cậu trai chỉ cho cô bạn đồng hành:
Sau ngọn đồi đàng kia là thung lũng có dòng sông chảy qua - Boumo sống ở đó.
Cô Boumo của anh chẳng bao giờ có thể tỏ lòng biết ơn đầy đủ về những
chuyện anh đã chịu đựng để đi tìm cô - thiếu nữ dịu dàng nói. Nhưng ai biết được cô trông ra sao ? Anh chắc chắn là anh không thích quay lại với tôi chớ?
Khi tôi làm việc gì, tôi phải làm tới cùng - Losange nói.
Họ cỡi ngựa qua đầm lầy cả buổi sáng đó, mặt trời nóng chảy trên đầu và bùn nước tung tóe do con ngựa giẫm văng lên xung quanh. Cuối cùng họ lên tới đỉnh đồi khá cao, tìm được con đường để đi xuống tới bờ sông.
- Chúng ta tới rồi - cô gái nói và nhảy xuống ngựa. Tôi sẽ ở trong nhà người quen và đợi anh ở đây. Chúng ta sẽ gặp lại nhau khi anh giải quyết xong công việc.
Đồng ý - cậu trai nói và cảm thấy nhẹ nhõm. Tôi tự hỏi cha của Boumo sẽ tiếp tôi ra sao nếu tôi cùng cô tới nhà ông.
Cậu từ giã cô gái, dắt cương ngựa đi tìm nhà của cha Boumo. Dân quê cho cậu biết ông ta tên Norbou và tốt nhất nên cư xử đàng hoàng với ông ta. Họ chỉ nhà và cậu tới đó ngay.
Norbou lắng nghe, quan sát Losange rất lâu với nét mặt nghiêm khắc, rồi ông ta nói:
Anh không phải là người đầu tiên cầu hôn con tôi; đã có nhiều người và tất cả bọn họ đều hối tiếc đã tới đây. Anh hãy suy nghĩ kỹ trước khi cam kết!
Tôi đã vượt qua bao nhiêu khó khăn không phải để bây giờ quay trở về - Losange nói.
Thế thì chúng ta có thể bắt đầu ngay - người cha tuyên bố. Biết đâu anh chẳng thích hợp với con gái tôi?
- Vậy xin mời cô ấy ra đây - Losange nói. Tôi cũng muốn gặp mặt cô.
- Chuyện đó, chúng ta còn có thì giờ - ông già lầm bầm. Trước hết anh phải chứng tỏ là anh xứng đáng. Mời theo tôi!
Ông đưa cậu trai ra sân, nơi một con ngựa lông vàng thắng sẵn yên cương: Ông gắn lên yên một đồng tiền có xoi lỗ, và quất roi lên mông con ngựa. Ngựa phóng chạy, còn ông già thì cười khẩy:
Bây giờ hãy đuổi theo nó và bắn mũi tên trúng lỗ đồng tiền!
Ông ta vừa nói xong, Losange đã nhảy lên con ngựa khổng lồ và vút ! Mũi tên của cậu cắm giữa mục tiêu được chỉ định.
Khi con ngựa lông vàng quay lại, Norbou thấy mũi tên cắm đúng lỗ đồng tiền.
Có vẻ được đó ông ta nói mà mặt hằm hằm. Nhưng trời đã tối rồi. Phải gác mọi chuyện lại ngày mai. Anh sẽ ngủ ở nhà tôi. Phòng này là của anh.
Tới trước cửa, ông ta nhường chỗ cho cậu trai bước vào.
Losange qua cửa và binh! Đầu cậu va vào một cây xà thấp ngay phía trên cửa. Cậu choáng váng, nghĩ thầm : “Chắc chắn cha nàng cố ý đặt cây xà chỗ này” nhưng không nói gì.
- Coi kìa, anh không chú ý được sao? Ông già cười khẩy sau lưng cậu. Thiếu chút nữa anh đã tự giết mình tại nhà tôi ! Tốt lắm, bây giờ chúc ngủ ngon!
Ông già đóng cửa lại và Losange còn nghe ông cười khẩy nho nhỏ. Cậu thấy bóng tối dày đặc, cố mở to mắt ra nhưng cũng không thấy được gì. Lúc đó cậu nhớ tới viên ngọc. Cậu để viên ngọc trên lòng bàn tay và một ánh sáng trắng đục tỏa khắp gian phòng. Losange thấy cả một đạo quân muỗi và côn trùng có nọc độc dưới đất và trên tường. Chúng kêu vo vo và hăm hở xông vào tấn công cậu.
“Cái này mình đà biết rồi”, cậu thầm khinh thường. Cậu mở ngay chiếc túi nhỏ và vung một ít cây thuốc trong không khí, còn bao nhiêu thì xoa khắp thân mình. Rồi cậu bình tĩnh nằm xuống ngủ ngay.
Sáng sớm Norbou lại gần cửa, rón rén áp tai nghe bên trong động tĩnh ra sao và rất ngạc nhiên khi không nghe gì cả. Ông hé cửa để nhìn qua. Rồi ông bước vào.
Thế nào cậu nhỏ, ngủ ngon chớ? Ông hỏi một cách tinh quái. Nhưng ngay sau đó ông không cười được nữa. Khi cửa mở, ánh sáng lọt vào phòng, và ông thấy Losange nằm thoải mái trong khi muỗi và những côn trùng khác chết như một tấm thảm dày.
Losange thức dậy, ngồi trên giường, nói:
Cám ơn ông đã lo lắng cho tôi. Tôi chưa bao giờ ngủ ngon như thế. Tôi thấy rằng ông quan tâm săn sóc khách của mình nhiều lắm !
- Ờ anh cũng thấy... là vì...ông chủ nhà lúng túng. Tôi chỉ có thể làm đến thế thôi! Cái quan trọng là anh vẫn khỏe mạnh. Bây giờ công việc cuối cùng đang chờ anh. Đây là lúc xem anh có thật sự yêu mến con tôi không!
Ông ra khỏi phòng và cậu con trai nối bước. Hai người đi tới một chỗ xa khuất đã có đông người tụ họp. Losange bỗng đứng chôn chân một chỗ. Trong đám đông có một hàng rào hình tròn, ở giữa có một cái bục cao, xung quanh chất củi, một thiếu nữ đứng trên đó. Củi dang cháy đỏ, và mọi người hô lớn:
- Người anh hùng quả cảm, Boumo của anh, cô ta đó: anh đã vượt qua tất cả gian nan, bây giờ hãy bước qua vòng lửa này và cô ta là của anh!
Thoạt tiên cậu trai bất động, ngây dại nhìn Boumo. Cô gái đứng cúi đầu, trên mái tóc cài một đóa hoa dẻ trắng.
“Chính cô là cô gái múc nước ở bờ sông - Losange tự bảo khi sực tỉnh. Đúng là cô, với hoa dẻ trắng cài trên tóc”.
Cô gái ngẩng đầu lên và mỉm cười.
- Không phải! Cậu trai kêu to. Cô là cô em gái đã đi với tôi tới đây, cô gái mà tôi đã cứu khỏi móng vuốt con rồng. Hay là tôi nhầm? Cô giống cả hai người đó?
Cô gái gỡ đóa hoa, ném cho Losange. Tôi là Boumo, người mà anh tìm kiếm lâu nay - cô nói. Nhưng tôi cũng là cô gái múc nước ở bờ sông, và là người anh đã bảo vệ khỏi bị con rồng làm hại. Anh đã lẫn lộn vì đóa hoa dẻ trắng này, nó ngăn cản anh nhận ra tôi.
Losange bình tĩnh lại ngay. Cậu lấy chiếc búa thần, hất tung những cây củi đang cháy để mở đường, nhanh nhẹn ôm cô gái ra khỏi vòng lửa.
- Một người anh hùng thật sự ! Mọi người Hoan hô thán phục. Norbou thở dài nhẹ nhõm.
- Ta phải thú nhận là con gái ta khó lòng tìm được một người chồng khá hơn. Anh có thể lấy nó làm vợ. Boumo, con muốn lấy gì làm của hồi môn ? Con
muốn gì ta cho nấy.
- Thưa cha, con đã sửa soạn từ lâu - Boumo mỉm cười, đi tìm hai chiếc thùng bằng vỏ cây, mỗi thùng có một mũi tên cắm vào thành. Losange mỉm cười sung sướng, nhìn vào mắt Boumo, nghiêm trang nói:
- Tại sao để tôi chịu bao nhiêu khổ nhọc dọc đường, Boumo? Tại sao lúc ở nhà tôi, lúc tới làng cô, cô không nói cô là cô gái múc nước bên sông, là cô gái có con ngựa thần?
Boumo dịu dàng trả lời:
- Trước đây tôi thường nghe nói về anh, và tôi muốn biết rõ anh. - Bây giờ đã biết rồi, tôi có làm cô vừa lòng không ?
- Có - Boumo chớp mắt. Nhưng phải chăng vừa lòng là đủ. Tôi cần biết rõ người mà tôi phải làm vợ. Và anh vừa khôi ngô vừa hào hiệp, táo bạo nhưng cũng khôn ngoan, hăng hái mà kiên trì. Tôi chưa gặp ai như anh.
Losange sung sướng nói:
- Cô vừa đẹp vừa thông minh. Tôi tin rằng tôi đã tìm được hạnh phúc.
Con ngựa khổng lồ sau lưng họ hí dài, chân giậm đất cồm cộp. Losange mỉm cười, nói:
- Cô thấy không, nó cũng muốn trở về nhà. Nào, chúng ta đi thôi.
Cô gái từ giã cha và người làng. Losange để cô ngồi trên ngựa phía trước cậu; vó ngựa nện đất tóe lửa, và trước khi mọi người nhận ra, họ đã mất dạng chân trời. Đường về dễ dàng và họ tới bờ sông Tsangpo không gặp một trở ngại nào.
Người thợ săn nắm chặt hai tay vui mừng thấy con trở về bình an vô sự, đem theo một người vợ xinh đẹp. Họ sống lâu, bình yên và hạnh phúc, vì Boumo không chỉ đẹp mà rất khôn ngoan.
Biển tiền vàng
Hôm đó là ngày rằm tháng tám, khi trên mặt đất xảy ra những chuyện kỳ dị, những chuyện thường không thể có được. Trên không lơ lửng vầng trăng tròn vành vạnh, vàng tươi.
Người thợ săn Lan-fou cắp thúng đi lên núi cao để lượm phân heo rừng. Sau một hồi cực nhọc, anh tới đỉnh núi và nhìn về phía bên kia. Phía thung lũng mọi khi mờ tối, âm u, bây giờ làm anh giật mình, nín thở. Trước mặt anh, gần như cỏ thể với tới, cả thung lũng tràn ngập ánh trăng vàng. Lan-fou bấu vào tay mình. Thật đó là ánh trăng hoặc giả là một biển đầy tiền vàng - anh không thể thật sự tin nổi.
“Nhưng tiền đâu ra? Ai ném tiền đó như vậy ?”. Lan-fou nhìn quanh, tự hỏi. Lúc đó bỗng có vật gì cử động trên mặt biển vàng. Nhìn kỹ hơn, Lan-fou thấy một chiếc thuyền đi về phía mình và trên thuyền - Lan-fou giụi mắt - trên thuyền, đúng, không phải là mơ, trên thuyền đang tiến thẳng về phía anh có một phu nhân trẻ đẹp.
Ta là bà tiên mặt trăng - bà nói giọng ngọt ngào. Ta đã chờ anh. Anh tới vừa đúng lúc. Đêm nay, những kho báu vật của đất được mở ra, và người nào tới thung lũng này đều được nhận phần của mình. Nói xong, phu nhân cho Lan - fou ba đồng tiền vàng.
Lan-fou cám ơn và vui vẻ trở về. Nhưng vừa đi được vài bước, anh bỗng có ý nghĩ : “Một biển tiền đầy như thế ! Đáng lẽ mình có thể xin bà cho mình thêm chút đỉnh ?”. Thế là anh quay lại, tới chỗ bà tiên vẫn còn chèo chiếc thuyền vàng trên biển tiền.
Thưa phu nhân tôi nghèo lắm - Lan-fou nói. Xin phu nhân cho tôi ba đồng nữa.
Bà tiên mỉm cười, thò tay xuống biển và cho Lan-fou ba đồng tiền sáng rực.
Anh thợ săn vồn vã cám ơn và trở về nhà. Anh vừa đi dọc bờ biển rực ánh vàng vừa suy nghĩ : “Sáu đồng tiền là nghĩa lý gì, trong khi ở đây có cả ngàn, cả vạn. Mình không trở lại xin bà tiên nữa, mình sẽ hốt đầy thúng ngay ở đây. Rốt cục, mình có thể sống thảnh thơi không phải lo nghĩ tới ngày mai”.
Đi tới một tấm ván bắc qua một dòng suối làm cầu, anh chợt nghĩ: “Nhưng
một thúng tiền thì có nghĩa gì ? Nếu mình đem về nhà một đống lớn? Ừ ? Nhưng mình không được mất thì giờ với chiếc thúng này”. Nghĩ sao làm vậy: anh vất thúng xuống suối, chạy nhanh hết sức về nhà.
Anh lấy một cái gùi lớn, trở lên núi. “Nhưng chỉ một gùi thì làm gì? anh nghĩ. Bỏ lại chừng đó tiền thì tiếc quá. Bảo vợ mình đem theo một cái gùi nữa thì tốt hơn”.
Thức dậy mau lên! Anh gọi vợ mà hai mắt sáng rực. Lan-fou chạy lên núi như một thằng điên, để tới biển tiền vàng, vợ anh theo sau. Tới chiếc cầu bắc qua suối, anh tự bảo: “Hai gùi cũng chẳng bao nhiêu. Tốt hơn nên gọi cha vợ và mẹ vợ mình tiếp sức để lấy cả một xe”. Anh vội vã quay lại, vợ anh vẫn theo sau. Họ đi gọi cha mẹ vợ anh giúp một tay. Bốn người hộc tốc lên núi. Họ chạy gần đứt hơi, gần tới đỉnh núi, nhưng biển tiền vàng còn ở phía bên kia. Nhưng, chuyện gì vậy ? Trăng có vẻ mờ...trăng mờ, đỉnh núi nhuộm một màu hồng nhợt nhạt, rồi những tia sáng đỏ của mặt trời đang mọc lên tỏa rạng khắp nơi. Lan-fou đứng lặng, nhìn thung lung, sững sờ không nói được một lời. Biển tiền vàng đã biến mất.
Tiền đâu ? Vợ anh quát hỏi.
Tiền của mày đâu ! Cha mẹ vợ anh thét.
Nó đã biến mất - Lan-fou thì thào.
Biển tiền đã biến mất thật rồi, không bao giờ trở lại nữa. Anh kể lại cho họ nghe anh đã nhận của bà tiên ba đồng tiền vàng rồi ba đồng nữa ra sao, anh đã hốt đầy một thúng và vất xuống suối như thế nào.
Lòng đầy hy vọng, họ hấp tấp trở lại cây cầu nhỏ. Nước cuồn cuộn chảy dưới suối, nhưng chỉ có đá cuội, không thấy vết tích chiếc thúng đâu.
Tiếc cái thúng quá – Lan – fou nói. Bây giờ tôi phải đan một chiếc khác
Mây trắng tìm chồng
Biển Jou bao la dậy sóng. Ít khi gió để cho biển lặng. Nhưng dầu gió quật mạnh thế nào, đào sâu những lượn sóng tới đâu, cho tới lúc này chưa bao giờ người ta thấy được đáy biển.
Người ta kể rằng, cách nay đã lâu lắm, bên bờ biển Jou có một vương quốc được một vị vua hùng mạnh cai trị. Vua ban lệnh cho mười vị thượng thư, mỗi vị thượng thư điều khiển mười vị tướng quân, mỗi vị tướng quân có dưới quyền hàng ngàn binh sĩ và toàn thể dân chúng xứ đó răm rắp tuân lệnh của quân lính.
Vì vậy ở xứ này không ai dám làm hay nói gì khác ngoài những điều người trên bảo họ. Ngay cả con gái của vua cũng không thể làm việc mình muốn. Vì nàng đã tới tuổi mà các cô gái bắt đầu nghĩ tới hôn nhân, vì nàng rất đẹp,
rất khôn ngoan và hiền hậu, có nhiều thanh niên từ khắp nơi tới cầu hôn. Trong hai năm trời, đức vua xua đuổi hết người này tới người khác và, trong thời gian đó, công chúa sống trong một cung điện nhỏ sơn son khảm vàng ở cuối vườn ngự uyển. Nàng dịu dàng khảy cây nguyệt cầm, mơ màng nhìn một ngọn núi cao, đỉnh phủ đầy mây trắng xa xa. Người ta gọi ngọn núi đó là Vân Sơn.
Ở trên đỉnh núi đó có người đàn ông duy nhất không sợ đức vua hùng mạnh. Binh lính của vua tránh mặt anh, và ngay cả các cố vấn của đức vua cũng thận trọng không chọc giận anh. Người ta thầm thì thán phục khi nói tới anh, nói rằng đã thấy anh cỡi một con ngựa trắng, từ đó người ta tặng anh biệt danh là “Bạch Thủ lãnh”.
Một hôm, đức vua nói với công chúa:
- Ta vừa đuổi một tên rắp ranh từ nước láng giềng. Thái độ của nó quá khúm núm. Hẳn là nó biết rằng nó kém ta về cả danh vọng lẫn thế lực. Ta khinh một thằng rể sợ ta.
Và nếu anh ta không sợ cha thì sao ? Công chúa dịu dàng hỏi.
Có lẽ ta sẽ ghét một thằng rể không sợ ta - vua nói. Cho tới lúc này, chưa ai sống sót nổi khi ta nổi giận.
Công chúa đăm chiêu trở về tư thất, lấy nguyệt cầm ra khảy.
“Hỡi người ở Vân Sơn, xin tới đem ta đi . Tiếng nguyệt cầm thánh thót. Mắt người là mây trắng xinh tươi trong bầu trời mùa hạ, mắt người là mây đen hoang dại của cuồng phong. Vó ngựa của người ngân vang trên đường mây trắng, tuấn mã của người hí vang man dại khi trời u ám. Quân binh chạy trốn, tướng quân run sợ trước mặt người. Hãy tới mau, người ta mơ mộng, tới đem đứa con gái tội nghiệp này đi !”.
Bỗng có giọng vui nhộn từ trên cao vọng xuống:
Đàn của cô nói gì vậy, công chúa ?
Công chúa ngạc nhiên, ngẩng đầu lên và thấy một con chim ác là nhỏ nhắn. Người đã nghe rõ rồi - nàng đỏ mặt, trả lời,
Tôi sẽ đi cho anh ta biết ! Con chim cười rộ.
Đừng, đừng nói vời anh ta! Công chúa năn nỉ, nhưng con chim đã tung cánh bay mất.
Khi nó bay chập choạng phía trên Vân Sơn, con chim ác là lượn ba vòng trên đầu Bạch Thủ lãnh.
- Có chuyện gì vậy, ác là ? Anh hỏi.
Lên ngựa mau và đi tìm công chúa - nó thở hổn hển. Nàng đang chờ anh ! Ngươi nói công chúa nào vậy ? Anh ngạc nhiên.
Dĩ nhiên đó là công chúa của chúng ta - con chim vừa giải thích vừa vuốt lại bộ lông. Nàng công chúa của vương quốc lớn bên bờ biển Jou. Nàng là cô công chúa xinh dẹp nhất và khả ái nhất mà tôi từng gặp.
Bạch suy nghĩ một lúc rồi hỏi lòng vẫn còn ngờ:
Và nàng sẽ lấy ta làm chồng ư ?
- Hiển nhiên là tôi không bịa đặt chuyện này - con chim phật ý. Tuy nhiên có một tiếng nhưng. Cha nàng là một chúa tể hùng mạnh và bạo tàn, ai cũng sợ ông.
- Ta không sợ chuyện đó đâu, Bạch kết thúc, nhảy lên lưng con ngựa trắng
và, trước khi con ác là vuốt lại chiếc lông cuối cùng, anh đã mất dạng ở chân trời.
Đúng lúc đó công chúa sửa soạn trở lại hoàng cung. Nàng thở dài, đặt cây đàn xuống và ra khỏi tư thất. Lúc đó một làn gió mạnh thổi tới, làn gió đó có hình dạng của một kỵ sĩ dũng mãnh trên mây. Tim của cô gái dường thư ngừng đập. Một con ngựa trắng từ trên trời đáp xuống. Bạch xuống ngựa, chầm chậm tới trước công chúa. Cả anh cùng cảm thấy tim mình thắt lại vì xúc động trước một thiếu nữ xinh đẹp, mảnh dẻ như vậy.
- Công chúa, nàng bằng lòng lấy tôi làm chồng không? Anh nghiêm trang hỏi.
Công chúa nhìn anh dịu dàng, và Bạch mỉm cười đáp lại. Nàng tới gần anh. Anh nói:
Nàng sẽ không hối hận chớ ? Nàng sẽ không nhớ quê hương chớ?
Công chúa không nói gì, chỉ gật đầu. Anh bồng nàng, nhảy lên ngựa và trong khoảnh khắc người ta không còn nghe, thấy họ nữa.
Khi biết công chúa biến khỏi hoàng cung, mọi người náo động! Đức vua phái các do thám tài giỏi nhất đi khắp nơi, nhưng hình như con gái ông đã bị đất nuốt chửng. Quân lính tuần tra khắp nước suốt ngày đêm, cho tới khi một mật báo viên về báo tin rằng đôi khi dân chúng sống ở chân núi Vân Sơn nghe tiếng hát dịu dàng của công chúa từ những đám mây trắng vọng xuống.
trắng vọng xuống.
Tâu Hoàng thượng, chắc chắn là Bạch Thủ lãnh đã cả gan bắc cóc công chúa! Mật báo viên vừa nói vừa thở hổn hển.
Các cận thần cả sợ. Đức vua giận như điên. Tuy nhiên, ông sợ phải quyết đấu với một chiến binh dũng mãnh như Bạch. Ông cảm thấy bị sỉ nhục nên suốt ngày đêm ông không nghĩ tới chuyện gì khác hơn là tìm cách tiêu diệt
Bạch. Ông suy nghĩ nát óc, và tất cả cố vấn, tướng quân, tới các mật báo viên cũng nát óc suy nghĩ như ông. Cuối cùng, một hôm, một thượng thư nảy ra một ý. Ông ta cúi mọp, tâu với vua:
- Tâu hoàng thượng, khi chuyện đó không thể khác được thì phải dùng mưu. Chắc chắn hoàng thượng anh minh sẽ coi trọng ý kiến đó.
Ngươi khuyên gì thì nói mau đi - đức vua nóng nảy trả lời.
Thế là viên cổ vấn trình bày kế hoạch. Ngay hôm đó, các sứ giả danh giả được phái tới Vân Sơn. Sau mấy ngày đường, sứ giả tới đỉnh núi, và Bạch ra gặp họ. Thấy tầm vóc hùng tráng và quả quyết của anh, những sứ giả can đảm nhất cũng rùng mình ớn lạnh. Họ cung kính khom mình, và người lớn tuổi nhất lên tiếng:
- Thưa ngài, chúng tôi mang tới một tin vui. Đức vương chủ kính yêu của chúng ta đã nghe nói nhiều về lòng quả cảm của ngài, và người muốn gặp ngài. Người mời ngài, với tư cách là tế tử của người, tới hoàng cung thăm người.
- Thế nào, người không giận ta sao ? Bạch hỏi.
- Thoạt tiên người có bực mình, nhưng bây giờ người đã hết giận rồi - Một sứ giả khác nói thêm. Người âu sầu vì nhớ thương con gái.
- Người rất muốn gặp nàng - người thứ ba bồi thêm.
- Chuyện này không thể được - Bạch nói dứt khoát. Nhưng các sứ giả không để bị đuổi về mà không được việc gì.
- Đức vua buồn phiền lắm - viên chính sứ cúi đầu nói. Người đã già đi. - Hoàng hậu đau buồn mà sinh bệnh - người thứ hai nói thêm ngay. - Hoàng hậu có thể qua đời vì ưu sầu - người thứ ba than thở.
Tất cả chuyện này làm Bạch không vui. Anh quay qua công chúa và thấy nàng khóc.
- Nàng muốn đi thăm cha mẹ chớ? Anh nghiêng mình hỏi nàng. Công chúa gật đầu, thế là bạch quay lại các sứ giả, nói với họ:
Được chúng ta sẽ đi theo các ngươi.
Mọi thứ ở hoàng cung đã sẵn sàng cho một cuộc tiếp đón long trọng. Đích thân đức vua đi đón hai vị khách mời. Công chúa ôm hôn mẹ, trong khi đức vua yêu cầu Bạch theo ông vào phòng yến tiệc. Mọi người uống nhiều để mừng Bạch đẹp duyên với công chúa. Bạch rất sung sướng vì sự tiếp đãi nồng hậu đó, và uống cạn cốc này tới cốc khác, nên cuối cùng rượu đã thắng
và anh gục xuống ngủ mê man. Đó là thời khắc mà đức vua mong đợi. Ông ra hiệu, và hai pháp sư xuất hiện. Trong nháy mắt họ trói chặt Bạch bằng xích sắt.
Công chúa lớn tiếng kêu khóc, nhưng theo một hiệu lệnh ngự uyển, khóa cửa nhốt nàng lại.
Thế rồi các pháp sư ném Bạch đã bị xiềng xích xuống biển Jou. Họ đọc một câu thần chú để biển không bao giờ khô cạn và Bạch không bao giờ thoát ra được.
Nàng công chúa đáng thương khóc hết nước mắt ở trong tù và không ai tỏ vẻ quan tâm tới nàng. Nhưng khi hoàng cung trở lại yên tĩnh và mọi người đã ngủ say, người nữ tì cũ của công chúa tìm được chìa khóa tư thất và thả nàng ra.
Công chúa trốn nhanh đi! Người ta đã trói Bạch và ném chàng xuống biển Jou. Biết đâu họ cũng âm mưu làm hại công chúa. Tôi sẽ mở cánh cửa bí mật cuối vườn. Hãy chạy trốn thật xa, để đức vua không tìm ra!
Nhưng khi biết Bạch gặp nạn, trước hết công chúa chạy tới biển Jou. Nàng vươn tay tới những lượn sóng âm u, hết sức gọi Bạch, nhưng không ai trả lời nàng. Nàng khóc than, cầu khẩn thần thánh và trời xanh thả người chồng yêu quý lại cho nàng, nhưng đêm tối lặng thinh và ánh trăng vô tình tiếp tục chiếu trên mặt nước.
Khi những ngón tay hồng của bình minh xuất hiện phương Đông, công chúa quỳ trên bờ biển. Áo nàng ướt sũng nước mắt. Đột nhiên, một chiếc cánh lướt nhẹ trên tóc nàng, và tiếng nói quen thuộc vang lên trong buổi mai trong sáng. Đó là con ác là:
- Khóc lóc không ích gì, công chúa ạ! Tốt hơn nên đi hỏi người ta xem làm cách nào đem được Bạch ra khỏi cái biển cay đắng này.
- Mày nói đúng, ác là tốt bụng - Công chúa tỏ lòng biết ơn con chim. Đột nhiên nàng cảm thấy đầy hy vọng và quyết tâm. Nàng lên đường, không chần chừ nữa. Nàng đi khắp nơi, nhiều ngày, nhiều tuần, trồi lên những ngọn núi xa lạ, lang thang trong những đầm lầy hoang vu, lạc đường trong rừng sâu, bơ vơ đói khát, quần áo tả tơi. Ở đâu nàng cũng hỏi những người nàng gặp, xem họ có biết cách nào cứu chồng nàng bị các pháp sư ném xuống biển không. Người ta than vãn hoàn cảnh của nàng, nhỏ một giọt nước mắt với nàng, cho nàng ăn ở, nhưng không ai có thể giúp nàng cứu Bạch.
Cô công chúa tội nghiệp không chịu nổi nữa; cơ thể rã rời, lòng tan nát, không gặp được người nào có thể cho nàng một lời khuyên hữu ích. Một hôm nàng thấy một ông già ngồi trên một cột đá dưới một gốc cây. Nàng lễ phép cúi đầu chào ông, đặt cho ông câu hỏi muôn thuở, câu hỏi mà nàng đã đặt ra hàng ngàn lần cho hàng ngàn người.
Ông già chăm chú nhìn nàng, và khi ông thấy ánh mắt khắc khoải trên gương mặt xinh xắn của nàng, ông động lòng thương hại.
Con nói chàng đang ở dưới đáy biển Jou phải không ?
Cách duy nhất để tới đó là tát cạn biển.
Công chúa bật khóc nức nở.
Nào, nào, nước mắt không giải quyết được gì đâu – ông già có lòng lẩm bẩm. Khóc và tự hại mình và không giúp gì được người con yêu. Để xem, ta có một ý nghĩ. Về hướng đông chỗ chúng ta đây, đằng kia, đâu đó trong núi, có vị Thần Gió. Ít ra, người ta kể như vậy. Vị thần đó có thể cho con mượn gió. Ta nghe nói rằng ông đựng gió trong bảy chiếc chai. Nếu ông ta cho con mượn thì hay lắm ! Con có thể đem chúng tới biển, mở tất cả chai ra một lượt, và thế là đủ !
Nhưng thưa ông, tất cả gió đó có thể làm gì được biển? Công chúa thở dài.
Có thể làm gì ư ? Rồi con sẽ thấy ! Gió sẽ lay động biển, làm biển nổi sóng, sẽ mang hàng ngàn giọt nước mắt đi – nói vắn tắt, gió sẽ làm biển khô cạn. Sẽ chỉ còn cát – ông già hăng hái nói. Phải chăng con có thể hình dung tất cả gió trên mặt đất có thể làm gì, nếu chúng cùng thổi, cùng một nơi, cùng một lượt?
Công chúa sung sướng đến nỗi đột nhiên nàng cảm thấy mạnh mẽ bằng mười cô công chúa yếu đuối như nàng. Nàng nồng nhiệt cám ơn ông già và đi thẳng tới dãy núi ở phía đông.
Nàng phải đi lâu lắm mới tới các hòn núi đó, và còn phải lâu hơn nữa mới tới đỉnh núi, nơi Thần Gió cư ngụ, sau khi qua gió quất mạnh, gầm, rít bên tai, ngăn nàng tiến bước. Cuối cùng, gom hết sức lực, công chúa leo lên đỉnh núi. Một ông già râu dài bạc trắng ngồi tựa một tảng đá, gần bên ông để bảy chiếc chai bịt kín miệng.
Con tìm gì ở đây ? Và làm sao con tới đây được ? Thần Gió cau mày,
nghiêm khắc hỏi.
Công chúa ngồi lên một tảng đá và kể lại hoạn nạn của mình. Nàng đã mệt mỏi lắm, và tất cả chuyện này đã gây cho nàng biết bao đau khổ nên giọng nàng càng lúc càng yếu, yếu mãi cho tới lúc nàng không nói gì được nữa. Nàng ngồi đó, nhắm mắt để cho những hạt lệ rơi lã tã xuống hai tay.
Thần gió không nói gì, nhốt làn gió cuối cùng còn chạy trên cánh đồng vào chai. Cảnh vật trở lên yên lặng, hoàng hôn chầm chậm xuống. Công chúa vẫn khóc khi Thần Gió lên tiếng, nhưng lần này giọng ông dễ mến lạ thường:
Vậy ra con muốn ta cho mượn bảy chai gió. Con có biết chúng đựng tất cả gió trên thế gian này không ? Ta có thể cho loài người mượn một vật như vậy không?
Công chúa không khóc nữa nhưng không hé răng. Nàng cũng không dám nhìn Thần Gió nữa.
Ta không biết người nào dám hy sinh như con không - Thần Gió nói tiếp, giọng trầm trọng - và con không đáng chịu nhiều đau khổ như vậy. Ta sẽ cho con mượn các chai gió, nhưng sau đó con phải đem trả cho ta. Con phải nhớ rằng con không được mở chai trước khi tới bờ biển Jou, và phải mở tất cả các chai cùng một lúc để gió đủ sức đi tới đáy biển.
Công chúa vui mừng quá. Không còn biết phải làm gì trước. Thần Gió giúp nàng gói ghém các chai gió trong chiếc khăn choàng mà nàng thắt bốn góc lại. Công chúa hết sức cám ơn ông rồi nhanh chóng quay lại đường cũ. Đêm đã xuống, nhưng nàng không muốn nghỉ ngơi chút nào. Nàng vấp váp trong đêm tối, đi rất chậm, nhưng khi bầu trời phía đông ửng hồng, nàng đã bỏ dãy núi lại sau lưng và tiến thẳng tới biển Jou. Nhưng đường vẫn còn dài ! Nàng tưởng chừng như con đường không ngắn lại chút nào. Nàng đi như vậy nhiều ngày, đi ngày đi đêm, không lúc nào nghỉ, và cuối cùng tới một vùng quen thuộc. Chỉ còn một quãng đường rất ngắn là tới biển Jou, nhưng bỗng nhiên nàng không còn chút sức lực. Nàng cảm thấy không thể đi thêm một bước. Nàng phải nghỉ ngơi, dầu chỉ một khoảnh khắc. Lúc đó nàng thấy một tảng đá lớn trơn nhẵn ở cách vệ đường một chút. Một tảng đá có vẻ như chờ nàng. Công chúa tự nhủ phải nằm xuống đó một lúc rồi sẽ lên đường lại ngay. Nàng cẩn thận đặt cái bọc chứa các chai gió ở dưới chân, nằm lên tảng đá, và ngủ mê man ngay.
Trong thời gian đó đức vua đã cho tìm con gái khắp nước, nhưng không ai
phát hiện được hành trình của nàng. Các nhân viên do thám của đức vua bèn chiếm cứ tất cả những con đường đi tới biển Jou, trong khi những người khác lùng sục các vùng lân cận. Sự tình cờ bất hạnh đã đưa hai tên do thám tới tảng đá mà công chúa đang nằm ngủ. Không gây một tiếng động, họ xem xét cái bọc của công chúa. Họ tò mò mở nút một chai và phì ! !! gió lay động cây cối dữ dội. Hai tên do thám cả sợ, nhưng quyết định bí mật mở hết các chai ra. Trước hết họ đậy lại nút chai mà họ vừa xả hết gió và để lại chỗ cũ. Kế đó họ mở chai thứ hai. Dòng gió gào thét, làm nghiêng ngả cả khu đồi lân cận. Họ nhanh nhẹn mở chai thứ ba và một con lốc thật sự tuốt sạch cành lá của cây cối. Điều lạ lùng là nó không mang cả họ theo !
Lúc đó công chúa cựa mình, hai tên do thám hoảng sợ nên bỏ chạy. Công chúa mở mắt ra và nhận thấy mình đã ngủ quên. Nàng nhanh nhẹn ngồi dậy, vớ cái bọc và chạy hết sức nhanh ra biển.
Trên mặt biển mênh mông, những con sóng nhỏ lăn tăn lười biếng. Tới bờ, công chúa dừng lại. Mắt nàng long lanh như kim cương. Nàng tự thì thầm với mình : “Kiên nhẫn một chút nữa, ngươi sắp gặp lại chàng !”. Nàng lấy
các chai gió ra, sắp một hàng bên mép nước và mở chai thứ nhất rồi chai thứ nhì. Biển bắt đầu rung động, gầm thét, và những lượn sóng cao như núi nổi lên. Công chúa vội mở chai thứ ba và thứ tư. Một cột nước phun khổng lồ dâng lên giữa biển, càng lúc càng dâng cao. Cột nước này dường như muốn đưa tất cả nước biển lên trời. Công chúa vội mở hết ba chai còn lại. Nhưng từ các chai này không có chút gió nào có thể tấn công biển Jou. Không còn gì trong chai cả.
Công chúa đứng sững vì tuyệt vọng. Nàng nhìn các chai không và nàng biết rằng, từ giờ trở đi, không bao giờ nàng có thể giải thoát cho chồng. Nàng lặng yên gục xuống bờ biển, nhìn biển từ từ lắng sóng. Nàng như hóa đá, cảm thấy mình đang chết. Và tới bình minh ngày thứ ba, mặt trời mọc lên trên biển Jou, công chúa nằm sóng soài trên bờ, không còn sự sống, chỉ có đôi mắt vẫn nhìn về chỗ nước sâu, nơi người yêu của nàng yên nghỉ ngàn thu.
Từ đó, nhiều năm đã trôi qua, nhưng người ta vẫn nói về chuyện này. Và nếu ở chân trời xuất hiện một đám mây trắng, người ta sẽ nói: “Đó là mây trắng đang đi tìm chồng. Chắc chắn trời sẽ nổi gió”.
Ngọc hoàng trừng phạt thói tham lam
Một sa di Phật giáo đang cầu nguyện trong chùa. Trong Ngôi chùa bằng gỗ này có bốn bức tượng thiên nữ và một tượng thành hoàng. Thình lình, sa di nghe tiếng chân đi tới. Ông ngẩng đầu lên và thấy một bóng người. Người đó đi gần bên nhưng không thấy sa di, ông ta lại gần tượng thành hoàng, vừa khom mình rất thấp vừa thì thầm:
Thưa thần thành hoàng, xin cho tôi thành công vụ ngày mai. Tôi muốn cuỗm túi tiền vàng của người hàng xóm. Nếu ngài giúp tôi, tôi hứa sẽ thưởng ngài. Tôi sẽ đem cho ngài món ngài rất thích, một con vịt quay và nửa con heo quay.
Tiếng thì thầm chấm dứt và sa di thấy bóng người lặng lẽ và rón rén ra khỏi chùa.
Tối hôm sau, khi sa di đốt hương trong chùa, một người đàn ông lạ vào chùa. Ông ta ôm nửa con heo quay và cầm một con vịt quay. Ông ta đặt hai món lễ vật trước tượng thành hoàng, vái rồi đi ra.
Sa di tới gần tượng, thấy tượng thành hoàng hiện lên một nụ cười thỏa mãn.
“Thì ra ngươi cũng thế -sai tự nhủ - ngươi làm ra vẻ trong sạch, nhưng ngươi để người ta đem vịt quay, heo quay tới cho mình. Một món bổng lộc như vậy, suốt đời ta chưa bao giờ thấy!”.
Sau một lúc suy nghĩ, sa di bình tĩnh lại, trở về phòng riêng, lấy một tờ giấy, một cây bút lông, nắn nót viết một lá đơn khiếu nại thành hoàng.
Rồi ông mang đơn trình vị tăng trưởng. Tăng trưởng kêu:
Ối dào! Chỉ là chuyện hình thức ấy mà! Ta không muốn can thiệp đâu. Sao, khiếu nại một vị thần, trong khi chúng ta chung đụng hàng ngày với ông! Tốt hơn hết vẫn là dàn xếp ổn thỏa. Rồi vị tăng trưởng xé lá đơn, đốt bỏ các mảnh vụn.
Giấy cháy với ngọn lửa sáng. Những mảnh giấy vụn nhăn nhúm đã cháy thành than bay lên, lên cao mãi cho tới trời ngay dưới chân Ngọc hoàng.
Vậy ra còn ai đó viết cho ta ư? Ngọc hoàng tò mò tự hỏi. Người thu nhặt tất cả những mẩu giấy vụn đã cháy đen, sắp xếp lại thành lá đơn.
Nhưng nét mặt nhân từ của người bỗng sa sầm trong phút chốc. Càng đọc, nét mặt người càng u ám. Ông tự bảo:
Những kẻ thay mặt ta ở trần gian thành tín thật! Không bao giờ có thể giám sát họ đầy đủ. Thử nghĩ coi, một con vịt quay và nửa con heo quay! Có lẽ ta cũng vui bòng thưởng thức.
Dầu sao đi nữa, đó cũng không phải là trọng tội, nhưng ta không thể tha thứ. Phải có trật tự, phải có kỷ luật. Ta không thể chịu nổi tình trạng hỗn loạn cũng như thỏi trộm cắp đó. Chỉ bấy nhiêu đó cũng đủ cho người ta chế nhạo trời.
Thế nên Ngọc hoàng gởi xuống trần gian một thứ bệnh ngoại ban rất lạ. Đồng thời người cũng làm cho người ta biết rằng bệnh này có thể chữa lành bằng cách bôi lên chỗ đau một chút đất của bức tượng thần thành hoàng. Chính vì thế cửa chùa không lúc nào khép đóng vì người ta tới lui nườm nượp.
Người bệnh nối tiếp nhau lấy một chút đất của tượng thần. Họ cúi lạy rất sâu và nhanh nhẹn làm đủ cách, cào, nạo, bẻ một chút đất, đem về làm thuốc cao. Chẳng bao lâu, vị thần thành hoàng chỉ còn là kỷ niệm.
Dân chúng thì tán tụng Ngọc hoàng vì người biết cách chữa lành rất khéo một con bệnh ghê tởm.
Hảo tâm
Ngày xưa, cách nay rất lâu, khi người ta còn sống rời rạc ở khắp nơi và nhà cửa cách nhau hàng ngàn dặm, có một vật sáng chói lạ thường xuất hiện trên bầu trời. Khi vật đó tới gần mặt đất, ngươi ta nhận ra một sao chổi sáng rực. Trong khi sao chổi di qua gần quả đất đang ngủ say trong đêm tối, những tàn lửa nóng sáng nhỏ như sợi tóc rơi xuống từ cái đuôi lửa của nó. Chúng rơi xuống đâu thì ở đó cây cỏ cháy thành than, đất cát tiêu tan, cả vùng bùng lên một đám cháy dữ dội, nhà cửa biến thành tro. Cải xứ cháy đen đó biến ra một hoang mạc khô cằn. Người dân bất hạnh và vạn vật khổ sở vì hạn hán, đói khát.
Trong vùng đó có một thanh niên lúc nào cũng giúp đỡ mọi người và nghĩ tới người khác hơn lo cho mình. Vì vậy người ta luôn luôn gọi chàng là Hảo Tâm. Chàng có lòng thương người, mắt chàng toát ra tính nhã nhặn vui vẻ. Chàng sung sướng khi thấy đồng loại vui mừng, cùng khóc khi người khác có chuyện buồn phiền.
“Làm sao cho dân chúng thoát khỏi nạn hạn hán kinh khủng này ?”, Hảo Tâm tự hỏi và từ đó ý nghĩ giúp dân không rời chàng nữa. Thế nhưng phải làm thế nào thì chàng đành chịu. Một hôm chàng quyết định đi vấn kế một ông cụ khôn ngoan ở làng bên cạnh.
Sau khi nghe chàng bày tỏ nỗi lo buồn, ông cụ nghiêm trang gục gục đầu và trả lời:
Đúng vậy đó, cháu ạ. Ngày trước, ông cố của ta cho ta biết sự bí mật của lò lửa vĩnh cửu cháy giũa lòng vũ trụ sâu thẳm.
Thỉnh thoảng, từ lò lứa vĩnh cửu đó tách ra một ngọn lửa đầy tóc, nó có những tia lửa rơi xuống đất và đốt cháy cả một vùng. Chỉ người nào vớt được viên ngọc bích giấu dưới đáy một cái hồ sâu ẩn kín trong núi Ngọc, chỉ người đó mới giúp được mọi người. Nhưng núi Ngọc cách đây xa lắm, đường đi tới đó nguy hiểm và nhiều trở ngại. Hơn nữa, lấy được viên ngọc bích rất khó. Có một con nhện đen khổng lồ canh giữ viên ngọc, nó giăng một tấm mạng trên mặt hồ và bắt giữ tất cả những gì tới gần đó.
Hảo Tâm chăm chủ lắng nghe. Ông cụ ngưng một lúc rồi nói tiếp:
Người nào muốn đi tới đáy hồ trước hết phải đi qua cánh đồng hoa độc để chiếm chiếc ngòi vàng của con ong vò vẽ chúa; chỉ với khí giới đó mới giết
được con nhện đen. Đó là công việc khó khăn, cực kỳ gian khổ, và những người táo bạo thử làm đều đã bỏ mạng.
Tôi muốn thử. Ra sao thì ra! Hảo Tâm nói. Anh cám ơn ông già và lên đường. Chàng lang thang rất lâu trong một vùng hoang vắng, cuối cùng tới một khu rừng. Con đường có vẻ không bao giờ chấm dứt, như thể khu rừng muốn nuốt chửng kẻ xâm nhập. Trong khi chàng cứ tiến bước trong khu rừng không mấy niềm nở này, một tiếng rên rỉ bỗng phá tan sự im lặng. Hảo Tâm quay lại và thấy một con chim cắt đang cắp một con quạ non để mang nó ra khỏi tổ.
Để yên con chim nhỏ! Hảo Tâm kêu to và lượm một hòn sỏi ném con chim cắt, Con chim săn mồi bỏ con quạ non và bay mất.
Quạ, quạ! Cám ơn Hảo Tâm! Anh đã cứu mạng con tôi - con quạ cha nói trên đầu chàng. Nếu khi nào cần tôi giúp, anh chỉ cần nhớ tới tôi.
“Làm sao một con quạ lại có thể giúp đỡ mình”, Hảo Tâm nghĩ thầm nhưng không nói gì và đi tiếp. Chàng đì rất lâu và cuối cùng rừng cây bắt đầu thưa thớt. Khi tới bìa rừng, chàng thấy mình đang ở dưới chân một hòn núi lớn mà đỉnh núi cụt như một mặt bàn. Chỉ có một con đường mòn ngoằn ngoèo, mất hút trong đầm lầy gai gốc đi lên đỉnh núi. Hảo Tâm theo con đường đó đi lên đỉnh, không bận tâm tới chân tay bị đá nhọn và cành lá sắc bén cắt nát. Mất ba ngày, ba đêm chàng mới lên tới đỉnh núi. Đó là một cao nguyên rộng lớn phủ đầy hoa độc. Giữa cánh đồng sừng sững một thân cây già rỗng ruột, trên cây cao nhất lủng lẳng một tổ ong vò vẽ.
“Làm sao lên tới tổ ong ?”, Hảo Tâm thất vọng hỏi. Chàng quan sát những con ong, cả một đám mây vo vẽ xung quanh tổ và khắp cánh đồng hoa. “Ồ! Quạ, quạ! Nếu mày có thể tới giúp ta!”, chàng thì thầm. Chàng vừa nói xong thì bầu trời tối sầm lại và hàng ngàn con quạ bay vòng trên cánh đồng hoa. . .
- Quạ, quạ! Tôi và cả gia đình tới giúp anh đây. Trong khi con quạ có con nhỏ được anh cứu nói thế, những con quạ đen khác từ mọi hướng vẫn đổ tới. Mỗi con ngậm một cọng cỏ khô, bay tới đặt quanh thân cây rỗng ruột.
Quạ, quạ ! đánh lửa đi, Hảo Tâm ! Con quạ đen nói.
Hảo Tâm lấy hai hòn đá lửa đập vào nhau rất lâu tới khi một tia lửa bật ra và làm cháy cỏ khô. Đó là một thứ lửa âm ỉ, phát ra một cột khói rất mạnh bao trùm quanh cây. Bầy ong vò vẽ thoát đi mọi hướng và trong phút chốc không còn bóng dáng một con. Hảo Tâm có thể tới gần cây và trèo lên tới tổ ong.
Nhưng trước khi chàng bắt được ong chúa, nó hung hăng bay thoát.
Quạ, quạ ! Đừng lo, tôi sẽ bắt nó lại ? Vẫn con quạ đen nói. Con quạ đuổi theo con ong chúa, bắt được nó, ngậm trong mỏ đem về cho Hảo Tâm. Chàng rút cái ngòi vàng của con ong, cẩn thận bọc trong chiếc khăn tay. Chàng chân thành cám ơn con quạ, và hai người bạn chia tay.
Chúc anh thành công ! Con quạ nói rồi bay theo bầy. Thế rồi Hảo Tâm đi thẳng tới núi Ngọc. Trong cuộc hành trình gian khổ của chàng, mặt trăng nhiều lần biến mất và xuất hiện lại trên trời.
Hơn chín lần chàng trai trẻ suýt chết đuối khi bơi qua những con sông hung hãn, hơn chín lần chàng phải vượt qua những vực sâu chóng mặt, nhưng cuối cùng chàng đã tới chân núi Ngọc. Ở đây trời lạnh như băng, như thể mặt trời không đủ sức sưởi ấm hòn núi quá lớn. Càng lên cao, trời càng lạnh và tối. Cuối cùng là bóng tối hoàn toàn, và hồ núi Ngọc nằm trong bóng tối đó.
Trên mặt hồ im lặng như mọi thứ đều chết, và chỉ trên cao, phía trên các vách đá, người ta mới đoán biết là có một mảnh bầu trời không với tới.
“Chắc chắn ở đó có đường tới đáy hồ”, Hảo Tâm bảo thầm và nghiêng mình nhìn mặt nước dò xét, lòng nặng trĩu lo âu.
Từ đáy hồ, những con mắt lờ đờ của con nhện đen to tướng đã theo dõi chàng, nó chậm chạp chuẩn bị những cái chân dài để phóng tới tấn công. Hảo Tâm nhanh nhẹn tháo nút khăn tay, nhưng trước khi chàng kịp chuẩn bị chiếc ngòi vàng của ong chúa; con nhện đã đảo mắt, ra khỏi nước và nhảy xổ vào nạn nhân của nó.
Cuộc chiến đấu không cân sức bắt đầu. Con nhện đen quấn tơ quanh mình Hảo Tâm. Nhưng đúng lúc nó chuẩn bị hạ sát nạn nhân, chính nó bị chiếc ngòi vàng đâm trúng, và vi thế nó phải thả con mồi của mình ra. Nó oằn oại một lúc nữa rồi ngã ra chết cứng và chìm lỉm dưới hồ. Trong khi chìm xuống đáy hồ, nó để cuộn tơ tháo ra. Khi Hảo Tâm gỡ đuốc những sợi tơ trói buộc mình ra, chàng thấy sợi tơ nhện đó, nắm lấy và dùng nó để xuống đáy hồ. Càng xuống sâu nước càng lạnh. Chàng có cảm tưởng là sẽ không bao giờ tới đáy hồ, chàng đã bảo thầm là phải trên mặt nước nhưng đúng lúc đó chân chàng chạm đáy hồ. Những tia sáng trong bóng tối khiến chàng chú ý. Đó là viên ngọc bích. Hảo Tâm bèn cào lớp cát lạnh như băng để lấy viên ngọc, nhưng nó lạnh quá, không thể nắm trong tay đã tê cóng. Thế là sợ viên ngọc rơi mất, chàng liền ngậm vào miệng và trồi mặt nước ngay.
Lên khỏi nước chàng buông mình ngã trên bờ hồ vì đã kiệt sức. Chàng ngủ lâu lắm. Khi tỉnh giấc, chàng muốn rửa mặt cho mát và nghiêng mình xuống hồ. Nhưng khi thấy bóng mình trong nước hồ phẳng lặng như gương, chàng lặng người sửng sốt vì thấy mình thay đổi quà nhiều. Đó không phải là Hảo Tâm mà là một thủy thần khổng lồ mà từ miệng có những dòng suối phun ra.
Thế là chàng vội vã trở về làng. Với bước chân của người khổng lồ, chàng nhảy qua vực sâu, leo qua núi, và chàng đi tới đầu thác nước chảy ra ở đó. Trong vết chân chàng, cỏ xanh bắt đầu mọc, và những cánh đồng khô cháy lại cho mùa màng tươi tốt.
Khi về tới làng, chàng đã kiệt sức đến nỗi gục xuống đất, và từ tấm thân khổng lồ một dòng nước chảy ra, chẳng bao lâu đã đầy một hồ lớn. Dân chúng khắp nơi chạy tới xem cảnh tượng này. Chừng đó nước, quả là phép màu ! Rồi họ lại bắt đầu cày bừa, đào kênh dẫn nước tươi cho cả vùng.
Từ đó xứ này không sợ tia lửa sao chổi nữa.
Xem
Người nghèo và người giàu
Ngày xưa có hai người hàng xóm, một người nghèo và một người giàu. Người giàu rất mộ đạo. Thế nhưng một hôm vì đã tụng kinh suốt ba ngày, nghiền ngẫm tất cả nghi thức và quy tắc, ông ta đâm ra chán ngán chuyện cầu nguyện, tụng niệm. Ông ta tự bảo sẽ tiêu khiển một chút. Thế nên ông ta sửa soạn một bữa tiệc lớn, mời hết người trong vùng. “Nhưng mình sẽ không mời anh chàng hàng xóm khốn khổ - ông ta tính toán. Một người loại đó không thể ngồi chung với những người khá giả”.
Tối đến, ông ta cho đốt một đống lửa lớn để nướng thịt, cho lăn những thùng rượu, để khách ăn, uống, vui đùa thỏa thích.
Vợ của người nhà giàu dắt một con bê mới sinh trong ngày tới gần lửa cho nó sưởi ấm. Nhưng vì con bê muốn ở gần mẹ nó nên nó kêu la tuyệt vọng. Anh hàng xóm nghèo nghe tiếng kêu, tưởng rằng người láng giềng giàu mời mình, và anh ta tới, ngồi gần đống lửa. Người giàu lo săn sóc khách, nói với mỗi người một câu khả ái, bỗng nhìn thấy anh nhà nghèo nên ông ta cau mày:
- Anh làm gì ở đây ? Ông ta sách mé. Một người quê mùa như anh đâu có việc gì trong một cuộc tiếp đãi như vầy !
- Hình như ông đã gọi tôi ! Anh nhà nghèo trả lời.
- Anh có điên mới tưởng vậy ? Ông nhà giàu nổi nóng. Đi khỏi đây và đừng tới làm rộn khách của tôi nữa.
Sau đó anh nhà nghèo than với vợ:
Cuộc đời những người nghèo chúng ta không có gì vui ! Phải chi em thấy bộ mặt ông ta khi ông ta nhìn anh. Như thể chúng ta không thể tiệc tùng và vui chơi một chút !
- Đừng bứt rứt nữa! Vợ anh nói. Chúng ta cũng sẽ tự ban cho mình một cuộc vui nho nhỏ.
Thế là họ lấy một thùng rượu nhỏ, làm thịt con heo gầy và cùng con cái đi lên núi. Họ dựng một cái lều cũ rách, đốt một đống lửa lớn trên một khoảng đất trống. Khi lửa bốc cao, người nhà nghèo cầu nguyện:
Trời có thấy sự bất công trên đời này không ? Có lẽ nào trời không nhìn thấy người giàu có tấm lòng sắt đá, và người nghèo chúng tôi chịu quá nhiều đau khổ? Hỡi Đức Phật cao cả trên núi! Hỡi đấng tối linh, làm sao người ta có thể lãnh đạm nhìn cảnh đau buồn như vậy? Phải chăng phải chăng tôi không cúng dâng đầy đủ? Công bằng có hay không ? Nhưng tôi xin nói, nếu người không làm gì cho tôi, tôi sẽ không cúng nữa!
Nói xong, anh ta cùng vợ con ăn con heo quay gầy còm. Họ ăn uống thỏa thích và dìm nỗi đắng cay trong những ngụm rượu lớn. Rồi họ nắm tay nhau nhảy quanh đống lửa cho tới khuya. Nửa đêm người vợ vào ngủ trong chiếc lều cũ với các con. Anh nhà nghèo thì ngồi bên đống lửa sắp tàn. Những tư tưởng đen tối lại tấn công anh.
Và chỉ có thế - anh tự bảo. Hôm nay chúng ta đã có một lần vui, nhưng thế là hết. Ngày mai chúng ta không có gì bỏ vào nồi nữa!”.
Anh nằm dài dưới đất, nhìn đăm đăm bầu trời đầy sao. Anh không tài nào ngủ được; anh lăn qua lộn lại mãi cũng không ngủ được. Nằm mở mắt thau láu như thế mãi cũng chán, anh ngồi dậy, lấy chiếc khăn trắng, một ngọn đèn và hương rồi đi tới ngôi chùa gần nhất.
Anh vào, vái trước tượng phật thật sâu, cầm khăn trắng trên tay, đốt đèn, hương rồi khấn vái:
Cầu xin phật công bằng với con chút xíu. Phật muốn người nghèo chúng con phải làm sao khi đói không có ăn mà phải làm việc quần quật?
Trong khi khấn vái, anh dò xét nét mặt khó đoán của đức Phật qua ánh đèn nhợt nhạt của mình. Trong đầu anh, ý nghĩ đen tối về những ngày đói kém sắp tới cứ trở đi trở lại. Sau cùng, vì đã qua một ngày mệt nhọc, anh ngồi bệt xuống đất trước tượng Phật rồi ngủ quên lúc nào không biết.
Khi anh thức dậy, đèn đã tắt từ lâu, nhưng một vạch sáng mỏng manh xuyên qua ngôi chùa tăm tối. Anh giụi mắt. Ánh sáng phát ra từ bệ tượng. Hết sức tò mò, anh ngồi đậy, lại gần tượng. Anh thấy có một lỗ hổng ở đế tượng. Anh cúi xuống để nhìn vào. Anh ngạc nhiên biết mấy khi thấy lỗ hổng đó đưa tới một cái hang rộng ! Một đống lửa cháy sáng ở giữa, gần đó có hai người tí hon ngồi xổm - một người đàn ông và một người đàn bà - và mỗi người nắm trong tay một khúc xương lớn dính đầy thịt. Anh nhà nghèo lạnh buốt cả xương sống. Cảnh tượng hai người tí hon gậm xương ngon lành khiến anh sợ quá nên anh lùi lại một bước, làm một miếng gỗ lót sàn kêu
đánh rắc.
Mình này, hình như có người - người đàn ông lầm bầm.
- Ông nói cái gì ? Người đàn bà nói. Trông chừng khúc xương của ông thì hơn, ấy là bọn chuột chạy nhảy trong chùa đó.
Được một lúc, người đàn bà đứng dậy, lấy ở trên tường một chiếc đũa vàng và vươn vai để với tới trần hang có treo lủng lẳng ba chiếc túi da. Bà ta vừa nói vừa đập đầu đũa vào chiếc túi thứ nhất:
Chảy ra, dầu, chảy ra ! Bà ta vừa bảo xong thì một dòng thơm ngát từ túi chảy ra.
Người đàn bà vừa chạm đũa vào chiếc túi thứ hai vừa nói:
Vãi ra, tsam-pa, vãi ra ! Bà ta vừa nói xong thì hàng đống tsampa vàng óng từ túi vãi ra.
Kế đó người đàn bà chạm đũa vào chiếc túi thứ ba và nói:
Nhảy ra, đùi heo, nhảy ra ! Lập tức những khúc vàng rực nhảy ra khỏi túi.
Hai người tí hon ăn ngon lành, họ nhai rau ráu, thở hổn hển, nhồi nhét đầy bụng đến lồi cả mắt ra và, để kết thúc, họ giùi lỗ một thùng rượu và uống cho đã khát và còn thêm chút nữa. Rồi họ lăn quay ra đất, ngủ mê man.
“Chừng đó thứ ngon lành chỉ để cho hai người tí hon!”, anh nhà nghèo thở dài rồi nói thêm: “Còn những kẻ bất hạnh như chúng ta thì thường đi ngủ với cái bụng trống rỗng. Thật quá bất công !”.
Thế nên anh lẻn qua cửa hang, nhón chân lại gần bức tường những chiếc đũa vàng và khéo léo lấy nó xuống. Rồi anh nhấc ba chiếc túi da treo ở trần hang, và nhẹ nhàng, không một tiếng động, theo đường cũ trở lại chùa, Khi ra khỏi cửa chùa, anh chạy vắt giò lên cổ.
Về tới lều, anh thấy vợ con anh vẫn còn ngủ. Anh đánh thức họ : “Dậy! Dậy mau! Tôi mang về một kho báu !”. Và anh kể lại câu chuyện. Vợ anh nhìn anh, không tin, nghĩ rằng chồng chị mất trí. Chỉ khi nhờ chiếc đũa vàng, anh đem những thứ ngon lành trong ba chiếc túi ra thì chị mới tin.
Sung sướng quá! Hết lo buồn! Và vì anh nhà nghèo có lòng tốt và rộng rãi,
anh tổ chức một bữa tiệc lớn mà anh mời tất cả những người quanh vùng. Tin đó tới tai người hàng xóm giàu có.
“Xì ! Ông ta nhăn mũi. Ta rất muốn thấy bữa tiệc của nó. Chắc là nó sẽ cho khách ăn gạo mốc. Tuy nói thế nhưng ông ta cũng rất tò mò nên, dầu không được mời, ông ta cũng trà trộn vào đám thực khách. Ông ta không thể tin vào mắt mình nữa. Chỉ thấy chỗ nào cũng có những thùng rượu ngon, những đùi heo vàng ngậy và không khí thơm lừng.
“Tên khố rách áo ôm quỷ quái này lấy ở đâu ra những thứ đó? Ông ta tức mình bảo thầm. Chắc chỉ có thể ăn cắp đâu đó thôi”. Ông ta đi tìm anh nhà nghèo và không úp mở hỏi anh tìm được tất cả những cái ngon lành đó ở đâu. Dễ hiểu là anh nhà nghèo không muốn cho ông ta biết ngay sự bí mật của mình; anh ngập ngừng, quanh co, nhưng ông nhà giàu cật vấn ráo riết nên cuối cùng anh kể ra hết.
“Nếu tên cầu bơ cầu bấc này đạt được tất cả những cái đó chỉ nhờ mấy cây hương - ông nhà giàu tự bảo - thì có gì mà đức Phật không cho mình, đổi lấy một món cúng dường hậu hĩ ?”.
Ngay lúc đó ông ta không muốn ăn nữa, quay về nhà ở kế bên ngay. Ông ta tức thì ra lệnh cho vợ:
- Cho làm thịt con heo béo nhất, chúng ta sẽ cúng thần.
Rồi ông nhà giàu dẫn vợ con đi lên núi, đem theo một chiếc lều thêu thùa rất đẹp. Tới khoảng đất bằng phẳng, họ dựng lều, đốt một đống lửa lớn, nướng những miếng thịt heo chín béo ngậy ngon lành, uống rượu và nhảy múa. Nửa đêm, người vợ vào lều ngủ với mấy đứa con, ông nhà giàu ở lại một mình trong đêm tối.
Ông ta lấy một cây đèn, châm đầy dầu hoa hồng tốt nhất, một bình rượu hảo hạng, một miếng thịt quay ngon lành - miếng béo nhất - một chiếc khăn trắng, một bó hương, và đi thẳng tới chùa.
Tới nơi, ông quỳ mọp trước tượng Phật, đốt đèn và hương, đặt khăn trắng trên tay vươn thẳng của tượng Phật, để bình rượu và miếng thịt quay dưới đất. Và ông ta khấn:
Đức Phật cao cả, người biết rằng lúc nào tôi cung nghĩ tới người, rằng tôi nhịn miếng ăn ngon nhất để cúng cho người. Tuy nhiên, tôi muốn thấy người có biết thế nào là công bằng không. Người có nhớ anh chàng nhà nghèo đã
tới đây không lâu và được người cho rất nhiều chỉ nhờ một cây hương khốn khổ chứ ?
Ông ta còn khấn vái nhiều nữa rồi, vì buồng ngủ, ông ta ngồi xuống đất và chẳng bao lâu đã ngủ say.
Khi ông ta thức dậy, đèn đã tắt. Ngôi chùa tối tăm chỉ được soi sáng bằng một vạch ánh sáng phát ra từ đế tượng Phật. Ông nhà giàu tới gần lỗ hổng và nhìn vào. Tim ông ta đập mạnh vì vui mừng. Ông ta thấy cái hang, ngọn lửa ở giữa, và hai người tí hon ngồi xổm gần bên - một người đàn ông và một người đàn bà - đang thưởng thức món thịt ngọt ngào.
Ông nhà giàu thiếu kiên nhẫn có một cử động, và tấm ván lót sàn kêu kèn kẹt.
Mình có nghe không ? Có người lạ ! Người đàn ông kêu thất thanh, giận dữ.
Lúc nào ông cũng có chuyện để cãi vã, nếu có người nào, đó chỉ có thể là con chuột nhắt! Người đàn bà bình thản trả lời và tiếp tục ăn.
- Hừ, một con chuột nhắt – Người đàn ông càng giận hơn . Mới đây thôi, con chuột của bà đã hẳn hoi cuỗm mất kho báu của chúng ta. Nhưng tôi cảnh cáo: tối nay, bà không được uống rượu, và bà sẽ thức canh nghiêm chỉnh!
Nói xong ngươi đàn ông kéo một thùng rượu lại gần, nâng lên và uống ừng ực. Chỉ một lúc sau, đầu ông ta gục xuống ngực và ông ta ngủ ngon lành. Người đàn bà lẩm bẩm. Bà ta tóm lấy thùng rượu, lật ngược trên miệng và bắt đầu uống, cung uống. Cũng uống khi trong thùng chưa hết rượu. Rồi bà ta lăn ra đất và cũng ngủ.
Đó là lúc ông nhà giàu chờ đợi. Ông lẻn qua lỗ hổng, nhẹ nhàng tới gần cây đũa vàng, thận trọng tháo nó ra khỏi tường, rồi lấy cả ba chiếc túi da treo ở trần hang.
“Nhưng mình phải lấy nhiều hơn anh chàng nghèo nàn kia một thứ gì đó – Ông ta vừa tự nhủ, vừa nhìn quanh để xem có thể lấy thêm cái gì. Bỗng ông ta chú ý đến một vật sáng lấp lánh trong góc hang. Ông ta hấp tấp chạy tới, nhưng khi làm vậy ông ta quên người tí hon nằm dưới đất, choán cả lối đi. Ông ta vấp phải chân người tí hon và – ôi ghê gớm quá! – Người tí hon cựa mình, hai mắt xanh biếc tinh quái nhìn chằm chằm khủng khiếp.
- Thế là ta bắt được mày rồi, tên trộm kho báu! Người tí hon vừa nói, vừa
siết chặt bàn tay như một gọng kềm bằng sắt.
Chuyện đó kéo dài không bao lâu - và trong cái hang, bên ngọn lửa hồng, hai người tí hon, một người đàn ông và một người đàn bà - lại ngồi xổm gặm xương.
- Món thịt nướng ngon lắm ! Người đàn ông nhìn nhận.
- Ít khi tôi được ăn món ngon hơn – người đàn bà nói thêm.
Trong lúc đó, ở nhà ông nhà giàu, người ta tìm ông không ra. Ông đã đi đâu ? Không ai nói được.
Cỏ Nến
Qua khỏi dãy núi thứ bảy, con sông thứ bảy và hồ nước thứ bảy, từ đó những khu rừng sâu tăm tối trải dài mút mắt, giữa một khoảng rừng thưa, có một người thợ săn sống với đứa con gái trong một túp lều tranh. Người ta gọi cô là Cỏ Nến và cô mềm mại, uyển chuyển như một cành liễu. Mẹ cô đã chết từ lâu nên chỉ có hai cha con sống với nhau. Người cha nuôi dạy đứa con duy nhất như một đứa con trai nên Cỏ Nến cỡi ngựa chạy nhanh như gió, theo cha đi săn, và không con thú nào, dầu trốn trong bụi rậm, có thể tránh khỏi mũi tên của cô. Cô sử dụng cây cung khéo léo đến nỗi xạ thủ giỏi nhất là Tần Bì cũng phải cam phục. Tình yêu sâu đậm đối với một cô gái như vậy đã lần hồi sinh ra trong lòng Tần Bì.
Một hôm, Cỏ Nến và cha cô không sao tìm ra một con mồi. Có thể nói rằng toàn bộ khu rừng đã bị phù phép: nó câm lặng, hoang vu, không có sự sống, thú vật và chim chóc biến mất hết, không có cả một con ong vo ve. Sự im lặng đe dọa bao trùm. Không ai biết chuyện gì đã xảy ra. Chỉ một mình Tần Bì ngờ rằng một thế lực tinh ma nào đó đã khống chế khu rừng. Mà đúng vậy. Địa ngục vương hung ác đã tới chiếm cứ khu rừng. Trên đỉnh núi cao nhất, nơi không có cả dấu chân thú vật, Địa ngục vương đã dựng lên một cung điện đen toàn bằng vòng sắt, bao bọc xưng quanh bằng lưới gai dày đặc, một con chuột cũng khó qua lọt. Y đã tập trung tất cả thú rừng vào một bãi nhốt thú săn sau cung điện, cắm chông nhọn xung quanh. Y lập một đội cận vệ gồm những con dơi và cú mèo cẩn trọng nhất. Suốt ngày đêm, những con chim ảm đạm này bay ngang dọc khắp bầu trời canh phòng, không để một con chim nào trốn thoát. Khu rừng trở nên buồn thảm. Không nơi nào có tiếng chim hót, tổ chim trống vắng, trên những đường mòn tróc đầy thú vật qua lại hay đi uống nước, bây giờ chỉ có dương xỉ và cỏ dại mọc.
Nhưng Địa ngục vương chưa cho là đủ. Lòng dạ đen tối sắt đá của y thèm muốn Cỏ Nến. Y đã sai một đám thủ hạ quỷ quái đi bắt cô gái, đem về cung điện của y. Nhưng bọn hung ác đã trở về tay không, và chúng kể cho chủ nghe chuyện đã xảy ra.
Ngay từ lúc Địa ngục vương tới rừng và lập cung điện trên ngọn núi cao nhất, Tần Bì không lúc nào chợp mắt. Anh ngờ vực Địa ngục vương và lo sợ cho sự an toàn của Cỏ Nến mà anh đã thầm yêu. Anh trông chừng nàng, theo từng bước chân của nàng. Đêm đó, khi thủ hạ của ma vương xuất hiện trên đường tới túp lều tranh, Tần Bì đã sừng sững trước mặt chúng như từ đêm tối hiện ra và đuổi chúng rơi vào gai gốc, hầm hố, vực sâu, đẩy lùi chúng tới tận hàng rào sắt dưới chân núi.
Địa ngục vương giận lắm trước thất bại này. Y liền nghĩ ra một kế hoạch đen tối khác. Vào một đêm dông gió, trong khi bão tố hoành nành, mây đen che khuất ánh trăng và dìm khu rừng vào bóng tối dày đặc, y chọn tên thủ hạ hắc ám nhất, đặt vào móng vuốt đen đủi của nó một cái bình kỳ dị, tung nó ra khỏi cung điện với nhiệm vụ phải mang Cỏ Nến về bằng mọi giá.
Lần này mưu đồ quỷ quái thành công. Tần Bì ngủ quên một lúc vì quá mệt mỏi sau nhiều đêm canh chừng. Thủ hạ của Địa ngục vương lợi dụng thời cơ, lặng lẽ như một chiếc bóng, đi qua sát bên Tần Bì đang ngủ mê mệt, tới trước cửa lều. Nó dùng hai mắt sáng rực nhả than hồng trong đêm tối đốt cháy gỗ cánh cửa thành một cái khe và qua khe đó đưa vào nhà chất đựng trong cái bình. Một làn khói đục lan vào trong, làm cho Cỏ Nến và cha cô ngủ mê man ngay trên ghế ngồi. Thế là con quái vật quật vào nhà, cắp Cỏ Nến trong móng vuốt của nó bay về cung điện sắt.
Khi Cỏ Nến tỉnh lại và mở mắt ra, gương mặt kinh tởm của một bóng ma đen ngòm gớm ghiếc cúi xuống nhìn cô.
- Ta là Địa ngục vương và ta ngự trị khu rừng núi nầy, ta là chúa tể của tất cả chim muông, thú vật. Bây giờ ngươi là của ta và ngươi sẽ ở bên ta vĩnh viễn, trong cung điện rèn bằng sắt này - con quỷ nói giọng the thé. Không bao giờ có người giải thoát ngươi được và không bao giờ ngươi ra khỏi nơi đây. Nói xong, con quỷ cười kháy như quỷ, nhưng mạnh đến nỗi cánh cửa sắt kêu kèn kẹt.
Cỏ Nến sợ cứng người, và khi nghĩ tới cha và Tần Bì, cô khóc nức nở.
- Đừng khóc, cháu bé - một con chim líu lo ở phía trên. Nếu có người vì yêu cháu mà tới đây giải thoát được cháu, ma vương sẽ mất hết pháp thuật; người đó sẽ trở thành chúa tể của núi rừng và cả muông thú.
Nghe con chim hót như thế, Cỏ Nến thấy lòng hy vọng là Tần Bì sẽ giải cứu cô, nhưng khi nhìn nhưng bức tường sắt của pháo đài bất khả xâm phạm, cô còn lo sợ nhiều hơn nữa.
Khi Tần Bì tỉnh giấc trước rạng đông và thấy cửa lều mở rộng, anh giật mình. Lo sợ vì có dự cảm ghê gớm, anh đứng bật dậy và đâm bổ vào lều. Than ôi, anh đã đoán đúng! Anh chỉ thấy người cha ngủ mê mệt bên bàn. Không có dấu vết nào của Cỏ Nến cả.
Tần Bì và cha cô tuyệt vọng, kêu gọi cô gái và tìm kiếm khắp nơi nhưng vô ích. Chỉ có tiếng vọng trong núi trả lời họ. Cây cối đứng im phăng phắc,
cành cây buồn rầu gãy gục, chót lá ứa lệ Cả thiên nhiên khóc.
- Tôi biết ai đã bắt Cỏ Nến - Tần Bì nói. Đó là Địa ngục vương hung ác, con quỷ xấu xa đang chiếm cứ khu rừng của chúng ta. Nhưng đừng sợ, tôi sẽ vào được cưng điện sắt của nó và sẽ giải thoát Cỏ Nến.
Nói xong, anh từ giã người cha đang khóc sướt mướt và quả quyết lên đường. Trong khi đi và suy nghĩ phải làm gì để giải cứu Cỏ Nến, anh nghe tiếng thì thầm trên đầu:
- Chờ một chút, đừng vội vã thế!
Tần Bì dìm lại, nhìn lên và thấy một cây bạch dương đang nghiêng mình xuống và lá của nó nói nhỏ vừa đủ nghe:
Tần Bì dũng cảm, tôi biết anh có tấm lòng thanh cao và anh yêu Cỏ Nến. Ở đây, ngay dưới gốc của tôi, nàng thường hay ngồi, và nàng nói cho tôi biết tình yêu của nàng đối với anh. Tôi muốn giúp nàng. Bây giờ hãy chủ ý những gì tôi sắp nói với anh. Anh hãy hái chiếc lá nhỏ nhất ở đầu cành cao nhất của tôi và giữ gìn cho kỹ. Anh sẽ cần tới nó. Nói xong, cây bạch dương nghiêng xuống thấp hơn nữa, để cành cao nhất vừa tầm tay Tần Bì. Anh cẩn thận hái chiếc lá nhỏ nhất và giấu trong áo.
Anh đi tiếp và một lúc sau anh bỗng nghe một tiếng nói nhỏ: Chờ một chút, đừng vội vã thế!
Tần Bì dừng lại, cúi xuống đất để xem tiếng nói yếu ớt đó ở đâu ra. Anh thấy một thảm dây trường xuân rậm rạp. Tiếng nói từ đó tới:
- Tần Bì dũng cảm, tôi biết anh cỏ tấm lòng thanh cao và anh yêu Cỏ Nến. Khi nàng cỡi ngựa qua đây, người yêu của anh luôn luôn cẩn thận tránh tấm thảm chúng tôi để nó khỏi nhàu nát dưới vó ngựa. Tôi muốn giúp nàng. Anh hãy bứt cái chồi dài nhất và mạnh nhất của tôi đang bò lan dưới đất và giữ gìn cho kỹ. Anh sẽ cần tới nó.
Tần Bì cẩn thận cắt cái chồi dài nhất và mạnh nhất của dây trường xuân, cuốn lại kỹ lưỡng và giấu trong áo. Trong lúc đó, một làn sương mù dày trắng rơi xuống quanh anh. Anh cảm thấy được bao bọc, được nâng lên trên một đám mây và mang đi trong không trung. Việc đó kéo dài không lâu. Chỉ trong một lúc, anh nhận thấy cùng đám mây hạ xuống và lại ở trên mặt đất. Đám sương trắng lập tức tan đi và Tần Bì thấy mình ngay trước hàng rào sắt,
dày đặc đến nỗi một con chuột cũng khó lọt vào.
Tần Bì bất lực quan sát pháo đài bất khả xâm phạm mà Địa ngục vương đã ngạo nghễ dựng trên đỉnh núi, xung quanh có rất nhiều dơi bay vòng thành một đám mây đen. Đúng lúc đó anh cảm thấy có cái gì ngọ ngậy ở ngực. Anh luồn tay vào áo và chạm phải chiếc lá bạch dương. Anh lập tức biến thành một con bọ vừng. Chiếc lá bạch dương nhẹ nhàng xoắn lại, bao bọc anh và bốc lên cao khi gió thổi tới, bay lên, bay tới đỉnh núi có cung điện sắt được đám binh lính của ma vương canh giữ. Chiếc lá vạch ba vòng rồi đáp xuống đất. Qua những bức tường sắt rèn, người ta nghe tiếng than khóc của Cỏ Nến. Lòng Tần Bì bấn loạn. Anh bới óc một cách vô vọng để tìm cách giải cứu cô thì bỗng thấy một tên cận vệ đi vào cung điện.
Bay đi, lá bạch dương thân mến - Tần Bì thì thầm – bay đi và chúng ta sẽ giải cứu Cỏ Nến !
Chiếc lá bay lên, vẽ vài vòng trong không khí, hạ xuống và đáp trên áo của một tên cận vệ đen, giấu mình trong các nếp gấp rộng. Cánh cửa sắt nâng lên nhanh và hạ xuống cũng nhanh sau lưng mấy tên cận vệ. Tần Bì đã lọt vào pháo đài sắt!
Giữa một gian phòng mênh mông toàn bằng sắt rèn, Địa ngục vương ngồi trên một chiếc ngai sắt đen.
- Tâu bệ hạ Địa ngục vương, tiệc cưới đã sẵn sàng – tên quan hầu thứ nhất tuyên bố.
- Mặc áo mau lên ! Địa ngục vương ra lệnh cho Cỏ Nến bằng giọng rít kèn kẹt, lanh lảnh, tay chỉ một chiếc áo dài mắt lưới sắt đính đầy những viên ngọc đen như than.
- Tần Bì, Tần Bì của em ! Cứu em với ! Cô gái hoạn nạn tái xanh như tàu lá, kêu cứu một cách tuyệt vọng.
Chiếc lá bạch dương mang Tần Bì bay ra khỏi nếp gấp áo của tên cận vệ, vẽ một vòng trong không khí và đáp dưới chân Cỏ Nến. Đúng lúc đó, con bọ vừng lại biến thành Tần Bì. Kêu một tiếng vui mùng, Cỏ Nến ngả vào tay anh. Địa ngục vương đứng sững, không nói được một tiếng trong khi mắt tóe
lửa. Tần Bì mạnh dạn nhìn thẳng vào mặt y. Lúc đó anh cảm thấy có cái gì đó ngọ ngậy dưới áo. Anh thò tay vào và gặp chồi trường xuân. Anh vừa nắm chặt nó thì cái chồi biến thành một sợi dây rắn chắc và nó bắt đầu bò về phía Địa ngục vương như một con rắn. Y chỉ có thể đứng nhìn, mắt trợn
trừng, lạnh cứng người vì sửng sốt. Sợi dây bỗng dựng thẳng lên, cuốn quanh mình Địa ngục vương. Trước khi y hoàn hồn, sợi đây đã trói chặt y. Những vòng dây càng lúc càng chặt khiến y không thể cựa quậy. Thế rồi hai đầu dây tung lên không một lần nữa, tóm cả những con quỷ khác và trói gô chúng chung với chủ.
Địa ngục vương vùng vẫy để thoát ra nhưng vô ích. Y cầu cứu cũng vô ích vì tất cả thủ hạ quỷ quái của y cũng đang kêu khóc thê thảm.
- Ngươi và lũ thủ hạ yêu ma sẽ bị trói chặt vĩnh viễn trong cung điện sắt của ngươi - Tần Bì tuyên bố.
Lúc đó có một tiếng động trong không khí và người ta thấy một đám mây đưa một con ngựa trắng tới. Tần Bì đỡ Cỏ Nến lên ngồi phía trước. Anh thì thầm vài lời với con ngựa thần và nó bay lên, đưa họ về nhà an toàn.
Khó tả nổi sự vui mừng của người cha khi họ đoàn tụ. Ngay hôm sau, đám cưới của Tần Bì và Cỏ Nến cử hành được nhiều người khách từ xa tới dự. Đó là một ngày tốt đẹp và vui!
Và trong rừng, mọi thứ trở lại cuộc sống trước kia, bình yên và hạnh phúc cho tất cả mọi người.
Cherab khôn ngoan
Ngày xưa, ở một xử nọ có một người tên Cherab. Đó là một cậu trai có tài xoay xở: chuyện gì cậu ta mó tay vào cũng thành công tốt đẹp, và cậu ta biết cách thoát khỏi mọi tình huống khó khăn.
Một hôm, đức vua đi qua quê hương của cậu, và ông thấy nhiều người chen chúc trước một căn nhà nhỏ.
- Tới xem họ làm gì ở đó - ông ra lệnh cho một thị thần. Một lúc sau người nầy trở về nói:
Người ta nói rằng đó là người khôn ngoan nhất nước. Anh ta ở trong căn nhà đó và tên là Cherab. Và những người kia đang chờ được gặp anh ta để được chỉ bảo về một chuyện nào đó.
Cái gì? Người khôn ngoan nhất à ? Đức vua bảo thầm, hết sức bực bội. Nhưng người khôn ngoan nhất, chính là ta!
Ngay khi về tới hoàng cung, vua gọi tể tướng tới bảo:
Theo ý khanh, ai là người khôn ngoan nhất nước?
- Hiển nhiên là hoàng thượng? Tể tướng cúi đầu cung kính. Ai cũng biết rõ rằng lúc nào người trị vì cũng là người khôn ngoan nhất.
- Chuyện đó khanh biết, nhưng không phải ai cũng biết - đức vua bỉu môi. Ở làng có một gã Cherab nào đó, một tên trẻ tuổi mà ai cũng nói là tuyệt diệu. Ta muốn so tài với y, để cho dân chúng biết dứt khoát một lần rằng trong hoàn cảnh nào ta cũng đúng. Gọi tên đó tới cho ta ngay!
Vì vậy Cherab tới hoàng cung. Anh chào đức vua rất lễ phép. Vua bảo:
Ngươi nghe đây? Ta đã nghe nói về ngươi. Ta rất muốn biết ngươi có thể làm gì. Ta cho ngươi vinh hạnh được so tài với ta!
Cherab ngạc nhiên, chỉ biết cúi đầu, yên lặng. Đức vua nói tiếp.
- Hãy nhìn viên ngọc quý này - và đức vua chỉ viên ngọc bích mà ông cài trên ngực. Ngươi không tìm được viên ngọc nào bằng nó bất cứ nước nào.
Nếu ngươi lấy được nó từ người ta, ta sẽ tặng nó cho ngươi. Nhưng ta sẽ để ý để ngươi không làm được thế. Người ta sẽ thấy rõ, trong hai chúng ta, ai là người khéo léo hơn.
Cherab suy nghĩ một lúc rồi trả lời:
Xin tuân lệnh, nhưng tôi không biết khi nào tôi sẽ thử sức. Có thể là ngày mai, nhưng cũng có thể trễ hơn. Có thể là ban ngày, có thể là ban đêm.
Cứ thử sức lúc nào ngươi muốn – Đức vua kết thúc với một tiếng cười khinh thị.
Cherab cười thầm, cúi chào rất sâu và rút lui.
Đức vua hạ lệnh ngay:
- Lính đánh trống! Ông gọi lớn.
- Lính đánh trống ư? Tể tướng ngạc nhiên.
- Dĩ nhiên là lính đánh trống! Một thượng thư nói ngay. Hoàng thượng đã nói rõ ràng mà. Xem nào, lính đánh trống đâu?
Đức vua hạ cố mỉm cười và giải thích với các thượng thư:
- Các khanh không nên nghi ngờ lý do ta muốn có lính đánh trống, vì sự sáng suốt đế vương là ở chỗ đó. Lính đánh trống sẽ đứng trước phòng ta với nhạc cụ của mình, cầm sẵn dùi trống trên tay. Nếu lúc nào thấy Cherab xuất hiện, lập tức đánh trống và tất cả chúng ta đều biết. Đó là ý hay, các khanh không thấy sao ?
- Một ý kiến đế vương thật sự! Các mưu sĩ của vua lầm bầm một cách cung kính. Vua còn giải thích thêm.
- Trong nhà bếp, một cận vệ sẽ canh chừng lửa; một người nữa lo cung cấp dồi dào củi thông. Nếu có gì nhúc nhích, họ sẽ lập tức đốt lửa cháy to lên, và lửa cháy sáng để người ta thấy rõ cả một con ruồi. Các khanh hiểu rằng, trong những điều kiện như vậy, kẻ trộm không thể trốn ở đâu được chớ ?
- Hiển nhiên - Các mưu sĩ có ý kiến.
- Bốn kỵ binh sẽ túc trực ở cửa hoàng cung, mỗi người có một con ngựa
đóng sẵn yên cương cột ở một cây cọc. Nếu Cherab vẫn lấy được viên ngọc mặc dầu chúng ta đã phòng bị kỹ lưỡng như vậy, y cũng không chạy thoát khi kỵ binh truy nã! Đức vua kết luận với giọng đắc thắng.
Chắc chắn y không thoát được ! Các mưu sĩ cười nói xun xoe.
Lệnh vua được thi hành tức khắc. Sau đó cả hoàng cung phập phồng chờ xem Cherab sẽ xuất hiện ở chỗ nào, vào lúc nào. Nhưng không có gì xảy ra cả. Tối đó, khi đức vua lên giường để ngủ, ông lo âu nhìn viên ngọc bích, tháo nó ra khỏi món trang sức và bỏ vào miệng. Thế là ông thấy an tâm, nằm xuống ngủ. Nhưng suốt đêm không có chuyện gì cả.
Hôm sau vẫn là một ngày êm ả. Ngày qua, đêm đi, vẫn không thấy Cherab. Các công bộc bắt đầu lơ là, và sau hai đêm không ngủ, ai cũng buồn ngủ muốn chết. Ngày thứ ba trôi qua như hai ngày trước, rồi đêm đến. Trước cửa cung, bốn kỵ binh lạnh co rút người lại, thỉnh thoảng ngủ gà ngủ gật, hoặc chán nản nhìn trời vớ vẩn.
- Thức canh như vầy hoài, khổ quá! Một bà già đi ngang qua đó, nói giọng thương hại. Bà mang một túi rượu trên lưng.
- Chúng tôi vui sướng phục vụ đức vua! Người lính thứ nhất vừa thổi vào hai tay cho đỡ lạnh vừa tuyên bố một cách mỉa mai.
- Vâng, đúng vậy đó! Người thứ hai nói thêm vừa ngáp sái quai hàm.
- Đồng ý, đồng ý, nhưng lạnh như thế này! Bà già than. Phải chi các cậu có thể uống một chút rượu!
- Cứ nói thế! Phải chi chúng tôi có rượu! Các anh lính càu nhàu. Nhưng trong túi bà có cái gì thế, không phải rượu chớ?
- Dĩ nhiên đó là rượu, các anh bạn trẻ, nếu không phải vậy thì tôi đã không làm các cậu thèm rỏ giãi - bà già cười nói. Đối với tôi bán cho ai cũng thế thôi.
Bà đặt cái túi da xuống, và các anh lính bắt đầu uống. Họ uống ngon lành, ấm người lên, nhưng một lúc sau gục xuống ngủ hết. Bà già cầm cương bốn con ngựa, đem buộc một chỗ xa hơn. Rồi bà đi tìm bốn con trâu ở trong chuồng, đem tới chỗ bốn con ngựa lúc nãy. Kế đó bà đi qua cửa và tiến thẳng tới nhà bếp. Một thị nữ ngủ gà ngủ gật bên bếp lửa và một công bộc khác ngủ gần đống củi khô.
Bà già nhón gót tới bên người nữ tì và nhét một nùi rơm vào búi tóc của chị. Rồi bà dừng lại bên anh công bộc và thận trọng trút vào tay áo anh một nắm sạn. Bà cố nén tiếng cười trong khi rón rén đi lên gác và suýt đạp nhằm anh lính đánh trống. “Xem nào, chúa thương tinh ranh thật - bà bảo thầm. Nhưng không phải cứ làm vậy mà tóm nổi ta đâu. Anh lính đánh trống ngủ li bì bên cái trống. Vấn đề là phải lừa anh ta”.
Thế rồi bà già lạ lùng nhẹ nhàng rứt chiếc dùi trống khỏi tay anh lính, thế vào đó một con dao. Rồi bà vào phòng ngủ của đức vua. Vua đang ngáy trên giường. Cái bóng mặc quần áo đàn bà chăm chú quan sát vua đang ngủ, rồi bà ta trút bỏ cái lốt phụ nữ, và Cherab hiện hình.
- Tâu hoàng thượng, người thấy rõ, tôi đây mà - anh nói.
Nhưng ngài giấu viên ngọc ở đâu?
Cherab có một thoáng lo ngại khi không thấy viên ngọc trên ngực đức vua. “Vậy ông ta giấu đâu ?”. Cherab nhìn khắp nơi, nhưng vô ích. Không có gì cả, không chỗ nào có gì cả. Anh lại nhìn kỹ đức vua. Sộp... srộp... phì... phò... đức vua ngáy vô tư lự. Tuy nhiên Cherab nhận thấy một má của ngài hình như to hơn má kia. Phì... phò... những âm thanh buồn cười thoát ra từ cái miệng đế vương. “Đây rồi, ta đã tìm ra”. Cherab tự bảo. Nhưng làm sao lấy viện ngọc ra?”. Tuy nhiên, anh không có thì giờ suy nghĩ nhiều. Đúng lúc đó đức vua gây ra một tiếng động kỳ cục hơn nhiều, và trong một loạt tiếng hắt hơi, ông khạc viên ngọc ra. Ông thở một hơi dài nhẹ nhõm, trở mình qua bên kia, và lại chìm vào giấc ngủ say sưa, yên ổn.
Cherab lấy một cây kéo trong túi ra, cắt nhẹ nhàng một mấu râu. Rồi anh tròng lên đầu của người đang ngủ một cái mũ làm bằng bong bóng trâu phơi khô, lượm nhanh viên ngọc và chạy ra khỏi phòng. Đi ngang qua người lính đánh trống, anh vừa đập mạnh mặt trống vừa kêu to: “Cherab đây rồi ! Cherab đây rồi!” và chạy vắt giò lên cổ.
Trong nhà bếp, người nữ tì bên bếp lửa giật mình tỉnh giấc. “Cherab ! Cherab ! Cấp cứu !”, chị vừa la vừa bỏ rơm vào lò cho lửa cháy lại. Nhưng khi chị cúi xuống, nùi rơm trên đầu chị bật lửa và chị nữ tì tội nghiệp vừa kêu những tiếng xé lòng vừa chạy tới hồ nước để dập tắt đám cháy. Người giữ phận sự bên đống củi khô nhảy nhỏm khi nghe những tiếng kêu la và định ném củi vào lửa trong khi vẫn còn ngái ngủ. Nhưng những hạt sạn trong tay áo anh rơi và lò, làm than văng tứ tán và lửa tắt.
Tiếng ồn ào làm đức vua giật mình tỉnh giấc. “Cherab!” ông lầm bầm khi
vẫn còn ngái ngủ. Ông mở mát nhưng không thấy gì hết. Ông đưa tay vuốt mặt và cảm nhận cái bao bằng bong bóng trâu. Ông kinh hoàng, tự hỏi: “Cái gì mọc trên đầu ta vậy ?”.
Trong con xúc động cùng cực, ông nghe tiếng la hét, tiếng người chạy. Bỗng một tia chớp lóe lên trong đầu ông : “Cherab!” ông kêu to nhưng cái mũ trùm đầu bóp nghẹt tiếng kêu.
Cửa phòng ông thình lình mở ra và các mưu sĩ hớt hãi tràn vào. Họ thấy đức vua nhảy dựng với một cái mũ kỳ cục chụp trên đầu, và họ nghe một giọng ngạt mũi khìn khịt lặp đi lặp lại : “Cherab! Cherab!”. Các mưu sĩ trao đổi một cái nhìn hiểu biết.
Chuyện gì vậy? Mưu sĩ thứ hai hỏi nhỏ mưu sĩ thứ nhất, vừa liếc xéo cái mũ kỳ cục.
- Thêm một ý tưởng thần tình mới mẻ của hoàng thượng! Mưu sĩ thứ nhất tuyên bố một cách tự tin.
Trong lúc đó đức vua đã tháo được cái mũ ra.
Kẻ cắp! Mau bắt nó! Cherab đã tới! Ông hét to đến nỗi tường thành cũng phải rung rinh.
Mọi người đồng loạt phóng ra ngoài. Nhưng Cherab đâu rồi? Anh ta đã đi xa! Trước khi sự náo động đánh thức bốn người lính, anh đã ra khỏi cửa, nhảy lên một con ngựa và dắt dây cương mấy con kia. Anh phi nhanh trong đêm tối, đi khỏi nơi đó.
Khi được sự ồn ào đó đánh thức, bốn anh lính vẫn còn lảo đảo tự hỏi họ làm gì ở đó, nhưng khi lần hồi tỉnh trí, họ chợt hiểu: lên ngựa cho nhanh ! Nhưng những con vật mà họ nhảy lên lưng không phải là ngựa! Họ uổng công chửi
rủa mấy con vật, kích thích chúng, thúc giày đánh: chẳng làm gì được cả. Cuối cùng, con vật đầu tiên đi tới một bước. “Nó tiến lên rồi” anh kỵ binh hô to đắc thắng. Ba con trâu kia làm theo cử động đó và, cứ đủng đa đủng đỉnh, bốn con “ngựa” kỳ quặc đi về chuồng với vẻ quả quyết đến nỗi người ta thấy rõ rằng không gì có thể thuyết phục chúng bỏ chuồng đi ra đường lớn. “Không làm gì được”, mấy anh lính nói với nhau và trở lại hoàng cung.
Hôm sau, Cherab yết kiến đức vua. Anh có tình cho người ta thấy túm râu và viên ngọc trên tay. Anh vừa trình viên ngọc cho đức vua vừa nói :
- Thế thì tôi đã thành công, đúng hay sai? Tôi mạn phép trình hoàng thượng một túm râu của người làm bằng chứng là tôi đã đích thân tới tận giường ngủ của người. Và tôi mang nạp người viên ngọc, xin người vui lòng ban thưởng như đã hứa.
Đức vua nghiến răng, giận như điên. Ông lấy viên ngọc, ném mạnh xuống đất:
- Ngọc ngà dơ bẩn! Ta không muốn thấy nó nữa! Ta sẽ giẫm lên nó! Còn ngươi, thằng khốn, khôn hồn thì cút đi! Sự hỗn xược của ngươi đã xúc phạm ta nhiều lắm!
Cherab không dám đòi hỏi gì hơn nữa. Anh vội vàng ra khỏi hoàng cung và về nhà.
Trong lúc đó đức vua ra lệnh đập nát viên ngọc vì ông bực mình đã làm mất nó. Nhưng khi viên ngọc đã bị hủy hoại, ông còn giận hơn vì đã mất nó. Thời gian cứ trôi, đức vua chỉ nghĩ tới sự xấu hổ của mình và sự mất mát một vật quý như thế. Ông tự giày vò đến nỗi bị suy nhược thần kinh và cuối cùng đã chết vì bực tức và phiền muộn.
Vì ông thường nhắc đi nhắc lại rằng người cai trị lúc nào cũng đúng, người ta kết luận rằng người luôn luôn đúng nhất định phải là người cai trị. Và người ta tôn Cherab làm vua.
Đó là lần đầu tiên có người làm vua vì anh ta là người khôn ngoan nhất chớ không phải anh ta được coi là khôn ngoan nhất vì anh ta là vua.
Hai vị thần
Ở trên núi cao, nơi tiếng người không vọng tới, có một ngôi miếu gỗ đã gần mục nát nhưng trong miếu có một vị thần linh thiêng. Đó là một vị sơn thần kiêu ngạo. Đối với vị “đồng nghiệp” của mình dưới đồng bằng là một vị thần hoàng, ông cư xử vô cùng vênh váo. Sơn thần muốn nổi bật hơn và nhân đó chọc giận thành hoàng. Một hôm, nhân ngày vía của ông, dân chúng quanh vùng đem lễ vật tới cúng bái, món nào cũng ngon. Thế là sơn thần quyết định mời “người bạn” tới để khoe những thứ mình đã nhận được. “Khi ông ta thấy dân chúng sùng bái ta ra sao, ta đoán chắc ông ta sẽ tái mặt vì ghen tị ?”.
Từ xa vị thần kia đã cảm thấy mùi thơm của bánh kẹo và khói hương. Ông vào miếu và thấy đối thủ nằm ưỡn giữa những thứ ngon lành đó. Ông ta làm ra vẻ chán chường. Thành hoàng khó chào hỏi được vì nước bọt ứa đầy miệng.
- Tôi không biết bọn họ ra sao nữa - sơn thần nói, làm như không nghe bụng của khách sôi òng ọc. Lúc nào họ cũng thình lình tới cùng một lúc rồi cầu khẩn, Thần này, Thần nọ, Thiên thần xin giúp đỡ. Xin giải ách giải nạn cho tôi; xin cho mùa lúa của tôi tốt hơn; xin trù yểm con bò cái của người láng giềng - lần nào cũng như vậy. Chắc chắn là khi cầu xin việc gì họ cũng đem cúng tôi một món, nhưng nói thật với ngài - sơn thần nói tiếp, giọng chán chường - Tôi đã chán ngấy tất cả những thứ bánh tẩm mật ong, tôi đã mệt mỏi với thứ khói hương bắt đầu làm tôi lộn ruột.
Và ông ta làm bộ ho hắng. Ông ta vừa dứt lời thì tiếng vó ngựa vang lên trước miếu. Quả nhiên một con ngựa vừa dừng chân trước cửa. Một thanh niên nông dân cỡi trên lưng nó. Thanh niên ngồi trên yên, vươn cổ nhìn vào trong.
- Ủa, người ta không xuống ngựa và cung kính vái lạy sơn thần, như bổn phận của người trần tục sao? Thần thành hoàng thẳng tay châm chích người bạn kiêu ngạo. Ở địa vị của ngài, tôi sẽ dạy cho tên vô đạo biết thế nào là tôn kính!
Sơn thần phật ý; và để đối thủ khỏi coi thường, ông ta niệm một câu thần chú. Lập tức trời kéo mây đen, những tia chớp xé tan màn đen u ám và sấm sét rung động cả núi.
“Thời tiết xấu quá!”. Anh thanh niên nói và nhảy xuống ngựa và vào miếu
để đụt mưa. Nhưng cột ngựa ở đâu bây giờ? Anh ta nhìn quanh và bắt gặp bức tượng sơn thần bằng đất sét.
“Cái mình cần đây rồi”, anh ta tự bảo và quàng cương ngựa vào cổ bức tượng.
“Táo tợn quá” Sơn thần nổi giận quát to. Chờ xem, ta sẽ dạy cho mày biết lễ phép!”. Ông ta đọc ngay một câu thần chú khác. Thế là mọi vật bị dìm vào bóng tối hoàn toàn, cách một bước không nhìn thấy gì, gió gầm rú, trời mưa như thác đổ trong khi đất dưới chân rung chuyển như ngày tận thế. Thình lình một tiếng sấm khủng khiếp làm con ngựa kinh hoàng khiến nó lồng lên làm đổ cả bức tượng sơn thần. Bức tượng ngã xuống đất, vỡ tàn thành muôn ngàn mảnh.
Chao ôi! Ghê gớm quá! Thần thành hoàng kêu thét lên khi thấy kết cục của đối thủ kiêu ngạo. Bây giờ miễn là mình không gặp một tai họa khác!”. Và ông ba chân bổn cẳng chạy xa cái nơi nguy hại đó.
Sao Mai và Sơn Ca
Núi mây rất cao và không có con đường nào lên núi. Trước ngọn núi, hai tảng đá nằm im lìm, và dưới chân mỗi táng đá rỉ ra một dòng nước mỏng manh trong như pha lê. Hai dòng nước chảy quanh co qua vùng đó như hai dải bạc để hợp lại thành một dòng suối trong một cánh đồng. Dòng suối chảy xa hơn, qua làng mạc, và tiếng reo của nó vang như tiếng lục lạc. Khúc nhạc êm đềm vừa là một khúc hoan ca vừa diễn tả nỗi niềm đau đớn. Những người cố cựu vẫn còn kể một câu chuyện lạ lùng về hai tảng đá này.
Ngày xưa nơi này có một thiếu nữ xinh đẹp và một thanh niên khôi ngô. Thiếu nữ tên Sao Mai. Cô có gương mặt khả ái, vui tươi như sương mai, tiếng nói của cô dịu dàng ve vuốt như lông tơ của chim non. Khi trời đầy mây đen, tiếng hát của cô nhắc mặt trời trở lại; khi đêm tối đỗ xuống mặt đất, giọng của cô kêu gọi trăng, sao. Ai nghe cô hát cũng quên hết phiền muộn, lo âu.
Người ta gọi cậu trai là Sơn Ca. Đó là một thanh niên có tấm lòng trong sáng như pha lê, và trên gương mặt thanh cao, đôi mắt ngời sáng như hai viên ngọc. Ngay khi cậu đưa ống tiêu lên môi, chim ngừng hót và mọi người như bị hớp hồn. Sao Mai và Sơn Ca yêu nhau và không thể sống thiếu nhau, chuyện không thể khác được. Ở đâu người ta nghe tiếng sáo của Sơn Ca, ở đó lập tức cất lên tiếng hát dịu dàng của Sao Mai.
Trong một mùa hè, cả vùng này bị hạn hán dữ dội. Cây vàng lá rồi khô héo, đất trên đồng cứng như đá, và dưới giếng chỉ còn vài giọt nước.
“Chúng ta sẽ làm gì ? Người ta hỏi nhau. Hạn hán như vầy, chúng ta không sống sót nổi”.
Lúc đó, lần đầu tiên âm thanh pha lê của ống sáo và tiếng hát dịu dàng của thiếu nữ im bặt. Một hôm, Sao Mai và Sơn ca đi lên núi để hái thuốc như họ thường làm vậy. Dưới chân họ, những mảnh đất nhỏ bé cằn cỗi úa vàng, đất nứt nẻ cần nước. cảnh đồng quê bi đát đó làm lòng Sao Mai và Sơn Ca thắt lại.
- Sao Mai, hay là chúng ta thử đào một cai giếng? Sơn Ca nói.
Sao Mai gật đầu đông ý và cả hai bắt tay vào việc. Họ đào và đào mãi - họ đã đào được một lỗ lớn thì bỗng một con ếch vàng cổ đeo một dải lụa xanh từ cái lỗ nhảy ra.
Đây là giang sơn của ta, đừng tới đào ở đây ! Nó tuyên bố.
Nếu các ngươi nghe lời ta, ta sẽ chỉ cho cách tìm được nước. Ở đàng kia, dưới chân Núi Mây, có một tảng đá lớn, có một cây gai mọc bám vào các khe nứt của nó. Nếu các ngươi dùng chồi rễ của cây gai leo lên tới đỉnh, các ngươi sẽ gặp một ông già mặc áo len thô, râu tóc rồi bù. Ông đang chờ các ngươi giúp ông tết tóc thành hai bím. Khi các ngươi làm xong, ông sẽ hỏi các ngươi muốn được thưởng gì. Nói với ông rằng các ngươi không muốn gì khác hơn nước. Nếu ông không giúp các người, ta không biết ai có thể giúp được !
Con ếch vàng vừa đọc xong bài diễn văn ngắn thì nó biến mất trong cái lỗ, như đất đã nuốt chửng nó.
Sao Mai và Sơn Ca chạy nhanh như gió tới Núi Mây.
Nhưng họ thất vọng khi tới chân núi. Hòn núi sừng sững, uy nghi, im lặng, không có đường lên. Trước mắt Sao Mai và Sơn Ca chỉ có vách đá dựng đứng và nhẵn thín, không có một mấu nhỏ nào để dặt chân vào. Họ đi dưới chân vách đá, hy vọng may ra tìm được một con đường. Bỗng họ thấy một tảng đá lớn, trong các khe nứt của nó có một cây gai leo lên rất cao, cao mút tầm mắt, lên tới cả đỉnh Núi Mây.
- Chúng ta không bao giờ lên tới đó - Sao Mai thở dài khi thấy chồi rễ đầy gai nhọn như kim.
Đừng sợ- Sơn Ca nói. Em sẽ đeo vào thắt lưng anh. Anh sẽ leo. Em hãy bám chặt!
Sao Mai ôm thắt lưng Sơn Ca, và cậu trai leo theo các rễ gai tới đỉnh Núi Mây. Gai đâm sâu vào tay cậu, nhưng Sơn Ca không để ý tới sự đau đớn của thân thể.
Cậu leo lâu lắm, nhưng cuối cùng, dầu kiệt sức, Sơn Ca cùng cô bạn đồng hành tới được đỉnh núi. Họ thấy ngay một ông cụ tóc bạc đi tới gặp họ. Bộ râu bạc như bông của ông dài quá thắt lưng, và tóc ông rối bù dài tới chân, chấm đất.
- Các con tới thật tốt quá - ông già nói. Ta vẫn chờ có người nào đó giúp ta tết tóc thành hai bím.
- Thưa ông, chúng cháu sẵn lòng giúp ông - Sơn Ca nói. Hai người trẻ tuổi
bắt tay vào việc ngay. Phải tết tóc rất lâu, tay họ tê cứng, nhưng rốt cuộc bây giờ ông già có hai bím tóc đẹp óng ánh như bạc thay cho mớ tóc rối bù tận chân.
- Các con muốn được gì ? Ông già hài lòng hỏi. Dầu các con muốn gì, ta cũng hoàn thành ước nguyện cho các con.
- Thưa ông, chúng cháu chỉ ao ước một điều - Sơn Ca nói. Xin ông cho chúng cháu có nước. Hạn hán khắc nghiệt làm làng xóm kiệt quệ, lúa khô, cỏ úa, người dân chết khát.
- Ừ, các con có thể có nước - ông già nói. Ta sẽ giúp các con, nhưng ta không biết... ta không biết các con có đủ can đảm không.
- Xin ông cho biết chúng cháu phải làm gì, chúng cháu không sợ gì cả Sơn Ca và Sao Mai trả lời chung một tiếng.
- Ông già đưa tay lên tai trái và lấy ra một viên ngọc đen lấp lánh.
- Hãy lấy viên ngọc này và trở lại thung lũng - ông già giải thích. Ở chỗ mà các con sẽ chọn để cho nước phun lên, một trong hai con phải nuốt viên ngọc. Ngay khi làm việc đó, người nuốt ngọc sẽ biến thành một tảng đá, dưới chân tảng đá sẽ phun lên một mạch nước không bao giờ cạn và sẽ cứu được đồng bào của các con. Bây giờ thì vĩnh biệt, nhưng nếu ngày nào đó các con còn cần tới ta, các con chỉ cần đập nhẹ ba lần lên vách đá Núi Mây
Sao Mai và Sơn Ca nhìn nhau buồn rầu vì họ phải xa nhau. Nhưng nghĩ tới nỗi khổ của dân chúng làm họ thêm can đảm. Cả hai lẳng lặng vươn tay ra lấy viên ngọc, nhưng Sơn Ca nhanh hơn. Cậu lấy được viên ngọc trước và
giấu trong áo. - Bây giờ các con đi đi - ông già nói. Ông đưa cho mỗi người một bím tóc; Sao Mai và Sơn Ca mỗi người nắm một đầu bím tóc và cả hai lập tức bay vút trên không về chân vách đá. Thế giới quay cuồng xung quanh họ, gió rít bên tai họ, nhưng trước khi họ kịp sợ, họ đã cảm thấy mặt đất vững chắc ở dưới chân, sát chân Núi Mây. Họ chưa hết ngạc nhiên thì hai bím tóc đã trở lên không và mất hút trên cao.
Sơn Ca thò tay vào áo, lấy viên ngọc đen ra. Mắt đẫm lệ, cả hai nhìn nhau rất lâu.
Đưa cho em - Sao Mai dịu dàng nói.
Không, Sơn ca trả lời. Hai người liền giành giật viên ngọc, nhưng tới phút
chót Sơn Ca vẫn giữ được. Cậu đưa ngay vào miệng và Sao Mai bất lực thấy người bạn thân thiết biến thành một khối đá câm lặng. Và kỳ diệu thay, ở chân tảng đá một làn nước mỏng manh, trong mát bắt đầu rỉ ra.
Sơn Ca.., Sơn Ca, không có anh em sẽ ra sao ? Sao Mai ôm chặt tảng đá khóc than. Cô có khóc mấy đi nữa, tảng đá lạnh lẽo cũng không trả lời cô được. Cô ngồi lên, hai tay ôm đầu, chỉ nghĩ tới một điều: làm cách nào để cũng thành một tảng đá. Bỗng cô nghĩ ra một ý. Cô đứng bật dậy, chạy nhanh tới vách đá, đập nhẹ ba lần. Cô nghe một tiếng động quanh mình, từ trên cao vọng xuống: hai bím tóc vừa rơi xuống bên cô. Cô nắm lấy và dùng chúng để leo lên, leo tới bề mặt bằng phẳng của vách đá.
- Tại sao con trở lại? Ông già hỏi giọng hiền từ.
- Thưa ông, xin ông hãy nhìn vùng đất khô khan đáng thương này, một mạch nước không đủ tưới nó. Cháu xin ông cho cháu một viên ngọc nữa, để cháu cũng biến thành một tảng đá có một mạch nước phun ra không bao giờ cạn.
Ông già ngần ngừ một lúc rồi xúc động trả lời:
- Ta sẽ chấp nhận lời yêu cầu của con và cho con viên ngọc này. Nói xong, ông đưa tay lên tai phải và lấy ra một viên ngọc trắng sáng trưng và ông đưa cho cô gái.
Sao Mai cám ơn, nắm một bím tóc, cảm thấy gió rít quanh mình và lại thấy mình ở chân vách đá, sát bên tảng đá trước đây là Sơn Ca.
- Không bao giờ em rời xa anh, chúng ta sẽ bên nhau mãi mãi - Sao Mai nói rồi đưa viên ngọc vào miệng. Cô hóa đá lập tức. Ở chỗ vừa rồi chỉ có một, bây giờ có hai tảng đá sát bên nhau, hơi dựa vào nhau, câm lặng cùng ngắm phong cảnh trải ra dưới chân. Dưới mỗi tảng đá phun ra một mạch nước mỏng manh trong suốt, một mạch reo cùng một giọng như Sao Mai, mạch kia ngân nga như tiếng sáo mê hồn của Sơn Ca.
Và chỗ nào hai làn nước chảy tới, cỏ lại bắt đầu xanh, lúa lại mọc, đất đai tìm lại được sự sống.
Mồ côi và con gái Long vương
Ngày xưa có một thanh niên không có người thân thuộc trên đời. Vì anh lớn lên giữa những người xa lạ nên người ta không biết tên anh là gì. Do đó người ta chỉ gọi anh là Mồ Côi. Sống cô đơn trên đời thật buồn, và khi người ta lại nghèo nữa thì càng buồn gấp bội.
Vì vậy cuộc đời của Mồ Côi rất buồn, và để kiếm ăn ngày nào anh cũng ra sông đánh cá và đem bán ở chợ làng bên.
Một hôm, khi đánh cá như thường lệ, anh quăng lưới từ sáng tới chiều mà không bắt được con cá nào. Có thể nói rằng con sông đã bị phù phép. Trời đã bắt đầu tối, nhưng vì Mồ Côi không muốn về tay không nên anh tung lưới lần chót. Khi kéo lưới lên, anh thấy một con cá ngũ sắc nhỏ xíu đang quẫy lộn.
- Làm gì mày đây ? Mày cũng nhỏ nhoi yếu đuối như tao! Mồ Côi nói và thả con cá ngũ sắc trở xuống nước.
Anh lại tưng cưới nữa, và khi kéo lên, vẫn là con cá ngũ sắc nhỏ xíu một mình trong lưới.
- Bé con tội nghiệp, ở chợ không ai mua mày đâu ! Mồ Côi lại thả nó xuống nước.
Anh quyết định thử thới vận lần cuối cùng, và khi kéo lưới lên, lại vẫn là con cá ngũ sắc nhỏ xíu quẫy lộn trong lưới!
- Được lắm, có lẽ số mạng muốn rằng mày tới ở với tao - Mồ Côi nói và đem con cá ngũ sắc nhỏ xíu về và thả nó trong một chậu nước.
Từ ngày đem con cá ngũ sắc về nhà, Mồ Côi không cảm thấy quả cô đơn nữa. Khi nhìn con cá tung tăng vui vẻ trong nước mát, anh thấy lòng nhẹ nhõm hơn. Nhưng cũng từ ngày đó, trong nhà anh xảy ra nhiều chuyện lạ. Khi anh đi đánh cá về, mọi thứ trong nhà đều gọn gàng sạch sẽ và trên bàn có một mâm cơm nóng hổi, ngon lành. Mồ Côi bới óc tìm hiểu ai săn sóc anh như vậy, vì anh đâu có ai thân thiết trên đời. Anh muốn làm sáng tỏ việc này. Hôm sau, anh làm bộ đi ra sông như thường lệ, nhưng anh rón rén quay lại, nhìn vào nhà qua một khe hở. Điều anh nhìn thấy làm anh bàng hoàng. Từ trong chậu, con cá nhảy mạnh đến nỗi nước văng tung tóe, và từ những giọt nước nhỏ xíu, anh thấy một thiếu nữ rất đẹp xuất hiện. Nàng xoắn tay áo
và bắt tay vào việc ngay. Bàn tay nhanh nhẹn của nàng chỉ nhẹ nhàng cử động mà cứ như ngàn bàn tay cùng làm việc - Chổi chạy trên mặt đất, giường gối sắp xếp lại gọn gàng, chén bát được rửa sạch và sắp lại ngăn nắp, và trước khi có thì giờ đếm tới năm, cơm đã dọn lên bàn.
Mồ Côi không chờ lâu hơn nữa. Anh xông vào và quỳ xuống trước mặt người đẹp, van lơn:
- Xin nàng ở lại với tôi? Đừng để tôi cô đơn nữa! Xin nàng làm vợ tôi! - Được? Nếu anh muốn, em sẽ ở lại với anh
- Nàng trả lời và đưa tay cho anh.
Mồ Côi sung sướng không nói được một lời. Nhưng đẩy một người đẹp như vậy vào cảnh bần cùng làm anh vô cùng phiền muộn.
- Đừng lo chuyện đó, anh dựng một chuồng heo đi - vợ anh bảo.
- Chuồng heo để làm gì ? Như tôi biết, chúng ta đâu có con heo nào? Mồ Côi nhận xét.
- Đừng hỏi mà cứ làm theo lời tôi - vợ anh cố nói.
Mồ Côi làm theo lời, và khi chuồng heo dựng xong, vợ anh bảo: Bây giờ anh xây một chuồng bò đi.
- Chuồng bò à? Mồ Côi ngạc nhiên. Nhưng chúng ta đâu có bò! - Đừng hỏi mà cứ làm theo lời em - vợ anh nhắc lại.
Mồ Côi nghe theo và xây chuồng bò. Khi làm xong chuyện này, vợ anh lại bảo:
- Bây giờ anh chỉ còn phải cất một chuồng gà.
Lần này Mồ Côi không nói gì và lẳng lặng cất chuồng gà.
Khi anh làm xong, vợ anh buộc ra cửa và vỗ tay ba tiếng. Khi nàng vỗ tay lần thứ ba, người ta nghe heo kêu ủn ỉn, bò rống và gà cục cục trong chuồng của chúng.
Từ đó Mồ Côi sống hạnh phúc và sung túc với vợ anh. Nhưng chuyện tốt đẹp không bao giờ lâu bền. Điều đó tỏ ra rất đúng với Mồ Côi và vợ anh. Ở trong làng có một trại chủ khá giả mà trước đây Mồ Côi đã hỏi con gái út của ông làm vợ. Nhưng anh đã táo bạo không đúng chỗ. Chẳng những ông ta vừa đuổi anh ra cửa vừa chế nhạo anh, mà ông ta còn xua chó dữ cắn anh. Và bây giờ, khi thấy Mồ Côi khá giả, ông trại chủ tới tìm anh và nói không úp mở:
Tôi ngạc nhiên là một gã con trai như anh mà lấy cá làm vợ! Cả làng tự hỏi anh mắc chứng gì vậy. Tại sao anh không lấy một đứa con gái đứng đắn ? Con gái út của tôi có thích hợp với anh không?
“Nhưng ông trại chủ nói đúng, mình đã không nghĩ tới chuyện này - Mồ Côi tự bảo. Dĩ nhiên là một người đàn ông không lấy cá làm vợ”. Và anh đi tìm người vợ cá. Mặt anh sa sầm.
- Cỏ chuyện gì vậy ? Nàng hỏi. Sao anh nhìn em như vậy? Cá ở với cá chớ không sống chung với người - Mồ Côi trả lời cục cằn. Lấy đồ đạc của nàng đi và trở về chỗ cũ.
- Than ôi, anh đừng nói vậy ! Vợ anh thở dài, lùi lại mấy bước.
Mọi người chế nhạo tôi lấy một con cá chớ không phải có một người vợ, và thân mình nàng bọc toàn vảy chớ không mặc len hoặc bông. Nàng ở đâu thì về đó! Mồ Côi quả quyết ngắt ngang.
Đừng nói nữa ! Đừng nói nữa vợ anh vừa van xin vừa khóc nức nở. Và nàng ra khỏi nhà, chạy về phía bờ sông.
- Chạy đi, ở đâu thì về đó ! Mồ Côi cười khảy. Nhưng anh còn nghe nàng nói với lại, giọng đầy cay đắng:
Anh sẽ hối tiếc, nhưng sẽ quá muộn !
Người ta nghe một tiếng “bõm ?” và vợ anh mất dạng trong dòng nước.
Mồ Côi quay lại để vào nhà, nhưng anh sửng sốt dừng lại ngay: heo, bò, gà kéo thành đàn đi thẳng tới bờ sông.
- Ơ kìa, chúng bây đi đâu vậy ? Anh cố bắt chúng lại, ít ra cũng một con gà, nhưng không được.
- Chúng bay cũng vậy, ở đâu thì về đó ! Tiếng nói từ dòng sông bảo, và
trước khi Mồ Côi tỉnh trí lại, tất cả heo, bò, gà đã nhảy xuống sông và biến mất dạng.
“Chậc ! ta không cần chúng bây ! Mồ Côi nhún vai. Ông trại chủ sẽ gả con gái út cho ta, ta sẽ không chật vật lắm đâu!
Khi Mồ Côi gặp trại chủ để cầu hôn, ông ta hỏi:
- Được, ta băng lòng gả con gái út cho anh, nhưng trước hết hãy cho ta biết: anh có bao nhiêu heo, bò, gà vịt ?
Anh buộc lòng phải thú nhận sự thật.
Anh tưởng tượng là ta sẽ cho con gái út của ta, đứa con ta yêu quý nhất, sống cảnh khốn cùng đó, khi anh không có lấy một con gà trong chuồng sao? Mày có quá nhiều ảo tưởng đấy, bé con ạ ! Ông trại chủ bực tức la hét, đuổi kẻ hỗn láo ra khỏi nhà.
Mồ Côi trở về nhà. Đột nhiên anh buồn bã cô đơn quá ! Anh cảm thấy bâng khuâng không chịu nổi. Anh ra khỏi nhà, đi tới bờ sông. Anh ngồi trên một tảng đá, hai tay ôm đầu, và anh khóc. Một con chó đi qua và dừng lại bên anh.
Tại sao anh khóc ? Con chó hỏi.
Làm sao không khóc được ? Vợ tôi đã bỏ đi, bây giờ tôi nhớ tiếc lắm - Mồ Côi giải thích - Con chó trả lời:
Đáng lẽ anh không nên đuổi vợ anh - và con chó bỏ đi.
Một con chim sẻ ngô bay qua và đậu trên vai anh. Nó líu lo: Tại sao anh khóc vậy ?
Làm sao không khóc được ? Vợ tôi đã bỏ đi, bây giờ tôi thương tiếc nàng cay đắng - Mồ Côi trả lời trong tiếng khóc.
- Anh không nên đuổi nàng đi - con chim tuyên bố rồi bay đi. Một con ếch nhảy tới bên anh:
Tại sao anh khóc? Nó hỏi giọng thương hại.
- Vợ tôi bỏ đi, để tôi cô đơn quá, tôi thương tiếc nàng cay đắng – anh nói.
- Anh đã đuổi nàng và bây giờ anh hối hận ! Con ếch nói. Thế nhưng tôi sẽ giúp anh. Anh hãy đem cho tôi hai cân bột.
- Anh muốn bao nhiêu bột tôi cũng sẵn sàng đem tới -Mồ Côi sung sướng nói. Anh chạy nhanh về nhà và đem bột tới như con ếch yêu cầu.
Một chốc nữa anh sẽ thấy người vợ yêu dấu của anh – con ếch nói. Nhưng chú ý nghe lời tôi: chủ yếu là không được cười, nếu không tất cả sẽ hỏng hết!
Rồi con ếch bắt đầu ăn bột. Ăn hết bột, nó khát nước quá nên củi xuống sông và bắt đầu uống. Nó uống, uống và uống mãi đến nỗi nước sông hạ xuống nhiều lắm. Mồ Côi rất ngạc nhiên thấy lòng sông cạn rất nhanh. Khi con ếch hút ngụm nước cuối cùng, Mồ Côi thấy vợ anh ở đáy sông. Nàng đang kéo sợi chăm chỉ đến nỗi guồng tơ quay điên cuồng phát ra gió bốc cả váy nàng lên.
“Nàng không ngồi không được lấy một lúc”, Mồ Côi nghĩ. Anh thấy việc đó buồn cười quá nên cười lộn ruột. Thấy vậy con ếch không kiềm chế được và cũng bật cười. Ôi, ghê gớm quá. Nó ói ra tất cả nước đã uống. Nước cuồn cuộn, lênh láng và, trước khi đủ thì giờ đếm tới năm, dòng sông lại đầy như cũ.
Tôi đã nói với anh rồi là không được cười mà! Con ếch trách anh. Tại sao anh không nhảy xuống ôm vợ anh về nhà?
Ếch đừng giận, và hãy cố uống cạn sông một lần nữa. Tôi van anh ! Mồ Côi năn nỉ.
Con ếch đồng ý và Mồ Côi lại đem bột tới cho nó. Ngay khi ăn hết bột, ếch khát nước đến nỗi nó uống một hơi cạn hết nước sông, vẫn đang cặm cụi quay tơ.
Lần này Mồ Côi không chần chừ một phút, anh chạy tới ôm vợ năn nỉ: Về với anh. Không bao giờ anh bỏ em nữa. Chúng ta sẽ ở bên nhau mãi mãi.
- Trước hết phải hỏi xem ta có bằng lòng cho đứa con gái duy nhất của ta theo anh không ! Một tiếng nói uy nghiêm phía sau Mồ Côi tuyên bố. Anh lặng người khi quay mặt lại. Long vương đứng sừng sững trước mặt anh. Chỉ lúc đó anh mới biết rằng vợ anh là con gái của Long vương cai quản thủy
giới. Nàng là công chúa!
- Ta sẽ ấn định cho anh mấy việc. Nếu anh hoàn thành hợp ý ta và nếu anh thắng được ta, ta sẽ gả con ta cho anh. Nhưng nếu anh thất bại thì liệu hồn! Long vương nói giọng dọa nạt. Ông suy nghĩ một lúc xem phải làm gì với anh thanh niên, rồi cuối cùng tuyên bố:
- Anh thấy khu rừng kia chớ ? Ngày đầu, anh sẽ đốn hạ và nhổ hết gốc cây. Ngày thứ hai, anh phải nhặt hết rễ, dọn sạch gỗ và cày đất. Ngày thứ ba, anh phải gieo mạ cả cánh đồng. Nếu anh không làm được, anh sẽ khổ thân đấy!
Mồ Côi buồn rầu:
- Không bao giờ tôi làm nổi công việc như vậy...
- Đừng than thở, chẳng đáng gì đâu - vợ anh nói. Anh hãy đốn hai cây mỗi bên và khắc biểu hiệu của em lên gốc của chúng.
Trong khi làm việc, đừng nghĩ tới người nào khác ngoài em!
Hôm sau, Mồ Côi tới rừng rất sớm, và đốn hạ một cây ở phía đầu tiên. Đó là công việc cực nhọc, khó khăn. Thân gỗ cứng như đá, làm bật ra tia lửa từ lưỡi búa. Mồ Côi không nghĩ tới việc gì ngoài vợ mình. Tới đúng ngọ, anh hạ được hai cây và khắc biểu hiệu của vợ anh lên gốc. Ở phía kia, công việc còn nặng nhọc hơn. Tới chiều, khi anh hạ hai cây nữa và khắc biểu hiệu của vợ anh lên gốc thì bỗng nhiên cả khu rừng kêu răng rắc, cây ngã xuống và tất cả gốc cây tự bật lên.
Mồ Côi vừa kịp bình tĩnh lại thì Long vương đã đứng trước mặt. Chính ông cũng ngạc nhiên. Ông xem xét tất cả những cây bị hạ, không nói gì, và cuối cùng chỉ nói khẽ qua kẽ răng:
Ngày mai anh phải dọn dẹp hết số cây cối này và cày đất.
Hết sức lo lắng, Mồ Côi đi hỏi ý kiến của công chúa Rồng.
- Không khó lắm đâu - nàng cười nói. Ngày mai anh đem theo cây gậy lớn này để bẫy một thân cây mỗi phía. Rồi dùng cái mai này vẽ biểu hiệu của em vào đất giữa rừng. Trong khi làm việc, đừng nghĩ tới người nào khác ngoài em!
Hôm sau, vừa rạng đông, Mồ Côi đã tới rừng. Anh dùng cây gậy lớn lăn một
thân cây ra khỏi rừng. Nhưng công việc này rất nặng nhọc. Thân cây nặng như chì. Mặt trời đã lên cao khi Mồ Côi mồ hôi nhễ nhại lăn ra khỏi rừng thân cây thứ hai phía kia, và cây này còn nặng hơn cây trước nhiều. Trong
lúc nỗ lực, Mồ Côi chỉ nghĩ tới vợ anh, nàng công chúa con Rồng. Rồi anh lấy cái mai vẽ biểu hiệu của công chúa dưới đất giữa rừng trong khi thề nguyền trung thành mãi mãi.
Biểu hiệu của công chúa vừa được khắc vào đất thì điều kỳ diệu diễn ra: tất cả thân cây tự lăn ra khởi rừng xếp thành một đống, tất cả gốc thành một đống khác. Và đất tự nó được cày bừa ! Mồ Côi nhìn cánh đồng xinh xắn, trong lòng thán phục và cám ơn sự giúp đỡ của vợ mình.
Lúc đó Long vương đã tới. Ông trợn mắt dữ tợn và nói gay gắt:
- Phải nhìn nhận là anh khéo léo, nhưng đừng quên rằng ngày mai anh phải gieo hai nắm lúa trên cánh đồng này và hãy liệu hồn nếu tới chiều mai có hạt lúa nào không nẩy mầm và chín.
Mồ Côi buồn rầu đi gặp vợ.
Làm sao tôi có thể gieo một cánh đồng rộng đến thế chỉ với hai nắm lúa? Và còn phải làm cho tất cả hạt lúa nẩy mầm và chín trước khi trời tối? Anh than thở.
Đừng than van và gục đầu xuống nữa ! Công chúa Rồng nói. Chuyện dễ thôi. Gieo một nắm lúa ở một phía và vẽ biểu hiệu của tôi trong khi gieo, cũng làm như vậy ở phía kia với nắm lúa thứ hai. Trong khi làm việc, đừng nghĩ tới người nào khác ngoài em!
Sáng sớm hôm sau, Mồ Côi ra đồng. Lúc anh định gieo hạt, một luồng gió mạnh bốc lên, làm cho hạt lúa bay tứ tán, rồi tới mưa cuốn chúng đi. Thế là Mồ Côi quỳ gối trồng từng hạt thành biểu hiệu của công chúa Rồng mỗi phía của cánh đồng. Trong khi làm việc, anh không nghĩ tới người nào khác ngoài vợ mình. Khi trời sắp tối và khi anh trồng hạt lúa cuối cùng xuống đất thì, kỳ diệu thay! Gió tắt, mưa tạnh, những hạt lúa tự chuyển động, trồng khắp cánh đồng thành từng hàng ngay ngắn, và bắt đầu nẩy mầm, mọc, trổ bông và chín trước đôi mắt kinh ngạc và thán phục của anh.
Long vương tới đúng lúc lúa chín. Thấy công việc mà anh đã làm được, ông không nói được một lời vì ông ngạc nhiên quá. Mồ Côi cúi đầu và hỏi xin con gái ông làm vợ.
Khoan đã ! Khoan đã ! Long vương còn làm khó. Anh chỉ là một người trần tục, anh không thể chinh phục con gái ta dễ dàng như vậy đâu! Ông suy nghĩ để tìm một cách thử thách khác, và ông nói:
Gieo trồng một đồng lúa thì có giỏi giang gì đâu ! Nhưng từ giờ tới sáng mai anh phải gặt tất cả số lúa này và vô bao cẩn thận. Nếu mất một hạt thì anh liệu hồn!
Mồ Côi khóc khi tới báo tin cho vợ:
Một công việc như vậy, không ai làm nổi, ngay cả thần thánh!
Đừng khóc! Công việc phức tạp thật, nhưng nếu anh quyết tâm và không nghĩ tới người nào khác ngoài em, anh có thể làm được! Công chúa nói và cho anh bốn cái bao rỗng. Đặc ở mỗi góc ruộng một cái bao, rồi cắt bông lúa để sắp thành biểu hiệu của em trên mỗi bao!
Mồ Côi lấy bao đi ra đồng. Anh vừa lấy bông lúa sắp xếp thành biểu hiệu của công chúa Rồng trên bao thứ nhất thì mây bao phủ cả bầu trời, che hết ánh trăng. Trời bỗng nhiên tối đến nỗi anh không nhìn thấy gì trước mình
một bước. Anh phải mò mẫm hoàn thành công việc nhưng trong óc anh chỉ có một ý nghĩ duy nhất, đó là công chúa Rồng, vợ anh.
Khi anh xếp xong biểu hiệu của công chúa trên bao thứ tư, một điều kỳ lạ, phi thường đã diễn ra: các đám mây rút đi, và trong ánh hồng rạng đông, Mồ Côi thấy lúa được gặt và tự làm đầy bao. Nhưng, than ơi ! thiếu hai hạt lúa.
Hai hạt lúa đó nằm trong bầu diều của hai con trĩ vàng đậu trên một cành cây đàng kia. Long vương nói, cười ha hả. Nhưng nếu anh muốn, ta sẽ cho anh mượn cây cung và một mũi tên: hãy bắn hạ chúng!
“Làm sao mình có thể bắn hai con trĩ chỉ với một mũi tên ?” Mồ Côi tự bảo. Anh tự hỏi công chúa Rồng sẽ khuyên anh làm gì. Tiếng của vợ anh thi thầm bên tai anh:
Lấy mũi tên chẻ ra làm hai!
Mồ Côi làm theo như vậy. Anh nhắm kỹ và lần lướt bắn hạ hai con chim. Và quả nhiên anh tìm lại được hai hạt lúa, mỗi hạt trong một bầu diều.
- Anh vừa lòng ta đó - Vua Rồng nói - và ta nghe rằng anh xứng đáng được nhận vào gia đình chúng ta. Tuy nhiên ta phải bắt anh làm xong một việc
nữa, và đó là việc cuối cùng. Anh phải tới giang sơn của loài khỉ. Nếu anh đem về được cái trống của bọn khỉ, ta hứa danh dự là anh sẽ được con gái ta làm vợ. Nhưng nếu anh thất bại thì liệu hồn !
Than ôi, tôi phải làm gì ? Đem chiếc trống của bọn khỉ về cho cha nàng, phải đi tìm giang sơn của loài khỉ ! Mồ Côi khổ sở kể với công chúa.
Dĩ nhiên chuyện này không phải dễ - công chúa suy nghĩ lâu lắm rồi nói:
Anh cứ tới giang sơn loài khỉ. Ngay khi anh tới đó, bọn khỉ sẽ hỏi anh tên gì. Đừng nói gì hết cho tới khi chúng hỏi có phải tên anh là “Khỉ” không. Lúc đó anh hãy ra hiệu là phải.
Đây là một cái chén có một lỗ nhỏ dưới đáy. Anh đừng dùng đồ đựng nào khác để uống rượu ! Bây giờ anh cứ đi đi và luôn luôn nghĩ tới em thôi !
Mồ Côi đi tới xứ khỉ. Ngay khi anh vừa tới, bọn khỉ đã kéo hàng đàn vây quanh anh.
Tên anh là “Người” phải không ? Bọn khỉ hỏi, nhưng Mồ Côi lắc đầu, ra hiệu là không phải.
- Có lẽ tên anh và “Cá” ?, bọn khỉ hỏi, và Mồ Côi cũng ra hiệu là không phải.
- Thế thì tên anh có phải là “Khỉ” không ? Con khỉ nhỏ nhất kêu the thé. Nghe câu hỏi đó, Mồ Côi ra hiệu là phải.
Bọn khỉ nhảy nhót vui mừng, đánh trống và chuẩn bị một bữa tiệc đãi khách. Chúng lăn tới vài thùng rượu, thường rót đầy chén của anh nhưng bản thân chúng thì uống ngay từ thùng rượu. Chén của Mồ Côi luôn luôn cạn. Chén chảy cạn do cái lỗ dưới đáy và bọn khỉ khó giữ cho chén đầy. Được một lúc bọn khỉ bắt đầu lảo đảo, chân chúng khuỵu xuống, chúng ngã chồng lên nhau. Chúng say, nằm la liệt, không còn chút sức lực.
Mồ Côi chờ cho con khỉ cuối cùng ngủ say rồi rón rén lại gần cái bệ để chiếc trống. Anh lấy chiếc trống và chạy trốn ngay.
Anh chạy, chạy hụt hơi, đem trống đặt dưới chân Long vương. Vua Rồng cười, nói :
Bây giờ thử xem ai đánh trống khỏe nhất !
Rồi Long vương lấy dùi trống, đánh mạnh đến nỗi đất rung chuyển. - Thôi, cha ơi, thôi ! Mồ Côi nói. Cha làm chúng con vỡ tai. Cha cho phép con thử chớ ?
Long vương đưa dùi trống cho anh và Mồ Côi bắt đầu đánh mạnh đến nỗi núi rung chuyển, nước sôi ùng ục và cả thế giới rùng mình.
- Thôi, đủ rồi ? Long vương điếc tai gào to. Anh làm ta điếc mất ! Và ông nói thêm, khi thấy anh còn muốn đánh nữa :
Để đó! Cứ đem con gái ta đi nếu anh muốn và bây giờ để ta yên! Nhưng ta cảnh cáo, phải tử tế với nó! Nói xong Long vương nhảy xuống nước nhanh đến nỗi một cuộn nước xoáy thành hình ở chỗ ông vừa mất dạng.
Mồ Côi nắm tay công chúa Rồng. Họ sung sướng mỉm cười. Từ đó họ sống hòa thuận trong tình yêu thắm thiết. Và vì chuyện đó xảy ra cách nay đã lâu lắm nên chắc chắn là từ đó họ có đủ thì giờ nuôi dạy nhiều con, cả người và rồng.
Xà Cừ
Ngày xưa, trong gia đình kia có ba chị em, ba thiếu nữ mà người ta gọi là Kim, Ngân và Xà Cừ. Cả ba chị em đều rất đẹp và không một thanh niên nào trong vùng không mong ước lấy được một trong ba người làm vợ. Nhưng Kim và Ngân có tham vọng lớn và chỉ nghĩ tới một vị hôn phu giàu có và danh giá, trong khi Xà Cừ chỉ mong ước rằng người chồng tương lại có lòng nhân từ và lương thiện.
Một buổi sáng, Kim lấy chiếc thùng vàng đi múc nước. Cô mở cửa và kinh hãi nhảy lùi lại. Một người ăn mày rách rưới nằm ngay của, mặt mày nhem nhuốc trông không ra hình thù gì.
- Ngươi làm gì đó, đồ vô đạo ? Tiểu thư Kim quát. Tránh đường cho ta ?
- Xin tiểu thư giúp tôi một chút - Người ăn mày trả lời giọng khìn khịt. Với xương cốt già nua của tôi, đứng dậy khó khăn lắm.
- Tự giúp mình đi, không ai yêu cầu ngươi nằm ở đó! Cô nàng ba hoa khờ khạo vênh váo tuyên bố. Cha ta muốn có nước pha rượu, mẹ ta cần nước pha trà, còn ta muốn cớ nước gội đầu. Hoặc ta bước qua người lão, hoặc ta giẫm lên mình lão, nhưng ta không đụng tới lão đâu. Và ta luôn luôn làm việc ta muốn ?
Cô làm như đã nói. Cô bước qua người ăn mày, nhưng khi làm thế, cô giẫm lên bàn tay ông ta. Người ăn mày ngước nhìn. Đôi mắt ủ rũ của ông lóe sáng, nhìn cô gái với vẻ nghiêm khắc.
Khi tiểu thư Kim trở lại nhà, người ăn mày đã đi mất. Sáng hôm sau, tiểu thư Ngân xách chiếc thùng bạc ra khỏi nhà, đi lấy nước. Cũng người ăn mày đó nằm gục trước cửa. Cô gái lùi lại.
- Đồ rách rưới hôi hám, ngươi làm gì trước nhà ta vậy ?
Tránh đường cho ta!
Không thể nhanh được, cháu ơi người ăn mày trả lời giọng ân hận. Xương cốt của tôi đau đớn lắm. Xin tiểu thư vui lòng giúp tôi đứng dậy.
Lão không điên chớ? Cô gái vừa hỏi vừa lui lại với vẻ kinh tởm. Đưa tay đỡ lão à, không có đâu ? Tránh ra, ta bảo cho lão biết, nếu không ta sẽ đạp lên