🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trở Về Nơi Hoang Dã
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Trở về nơi hoang dã
Năm: 2018
Độ dày: 384 trang
Cỡ giấy: 14x20.5 cm
Tác giả: Trang Nguyễn
Phát hành: Nhã Nam
https://thuviensach.vn
Chương I
Madagascar - Ước mơ từ ngày nhỏ
“Tôi không muốn phải bảo vệ thiên nhiên, tôi muốn tạo ra một thế giới mà thiên nhiên không cần phải bảo vệ.”
Khuyết danh
Và thế là tôi ngồi đó, cùng với nào ba lô, túi xách, võng, lều, nồi niêu, xong chảo và ti tỉ những vật dụng khác nữa, trong khi dân làng, từ đám trẻ nhỏ, đến phụ nữ, thanh niên, nam giới và người già lần lượt kéo đến, cùng với một đám gà qué thả rông của ai đó, tạo thành vòng tròn lớn, không ngại ngần nhìn tôi chằm chằm.
Khỉ thật, tại sao tôi lại tự làm khổ mình như thế này cơ chứ? Tôi có thể như đám bạn cùng lứa ở nhà, đi làm ở một nơi nào đó ổn định, có mức lương kha khá, thỉnh thoảng đi du lịch đây đó, chụp vài bức ảnh selfie, có một cậu bạn trai cao ráo, yêu thương mình hết mực, có lẽ là chuẩn bị tính đến chuyện lập gia đình, lấy chồng và sinh con. Tại sao tôi lại không nghe theo lời khuyên của bố mẹ, đi một con đường bằng phẳng và sống đơn giản hơn… Thay vào đó tôi bị tắc ở đây, một cái làng bé nhỏ ở nơi khỉ ho cò gáy mà tôi còn chả biết là ở đâu nữa, với một đám người hiếu kỳ lạ mặt đang kéo đến ngày một đông, với đám quần áo và ba lô bẩn thỉu dính đầy bùn đất, với những vết gai cào đầy trên tay và chân, với vết bầm tím do bị ngã trên đùi. Vừa tức, vừa bực, vừa tuyệt vọng và căng thẳng, nước mắt tôi bắt đầu ứa ra, chảy thành dòng trên khuôn mặt. Và ngay lập tức tôi hối hận vì đã khóc - đám người bắt đầu chỉ trỏ, cười ngạo nghễ nhìn tôi như thể họ đang xem xiếc thú!
Bốn tháng trước đó…
* * *
Tháng Tư năm 2012 là khoảng thời gian ban nhạc người Ireland - Westlife có những liveshow cuối cùng để chia tay khán giả ngay sau khi công bố về chuyện tan rã của nhóm. Vốn là một fan ruột của ban nhạc này từ năm 1998, dĩ nhiên tôi cũng đã tự mua cho mình một vé xem liveshow ở London vào đầu tháng năm. Thế nhưng, nếu muốn xem buổi diễn này thì tôi sẽ phải trì hoãn chuyến đi thực địa gần hai tuần. Một điều mà những nhà bảo tồn nghiêm túc sẽ không bao giờ làm! Thầy Giuseppe đã nhìn tôi một cách rất nghiêm khắc, khi tôi cầm cái vé xem ca nhạc một cách đau khổ, cố gắng trình bày với thầy rằng thì là mà, tôi đã phải canh chừng giờ bán vé như thế nào để mua được vé chỗ đẹp, đã phải tiết kiệm tiền ra sao, và trên tất cả - đây là buổi hòa nhạc cuối cùng của Westlife! Nhưng dĩ nhiên ông thầy người Ý vốn dĩ chỉ yêu chuộng cà phê thượng hạng, nhạc thính phòng và dành cả đời để nghiên cứu về vượn cáo của tôi không thể nào hiểu được vì sao tôi lại nhiệt tình với một ban nhạc “vớ vẩn” sắp tan rã đến như thế! Cuối cùng thì sau ngày hôm ấy, tôi đã suýt khóc khi phải nhượng lại cái vé này cho một fan khác ở tận Manchester. Mấy đứa bạn tôi đã cười phớ lớ và an ủi tôi rằng đó là “sự hy sinh cao cả cho khoa học”. Còn thầy Giuseppe thì nói đó là “sự lựa chọn đúng đắn” để “sử dụng thời gian cho việc có ích hơn”.
ề ầ ể
https://thuviensach.vn
Điều cần làm ngay sau đó là phải đi tiêm chủng để phòng bệnh. Đây là một trong những điều bắt buộc dành cho những sinh viên nghiên cứu tại Anh để đảm bảo về sức khỏe khi đi thực địa. Đến Madagascar thì không cần phải tiêm phòng bệnh vàng da, nhưng vẫn phải tiêm chủng chống uốn ván, viêm gan A, viêm gan B và phòng dại. Bên cạnh đó tôi cũng phải đến phòng y tế của trường để xin thuốc uống chống sốt rét. Loại thuốc này thật rắc rối, vì mỗi ngày tôi đều phải uống vào một giờ nhất định. Và vì tôi đi ba tháng nên phải uống đủ lượng thuốc của bốn tháng (uống 2 tuần trước khi đi và 2 tuần sau khi về). Vì là con gái, nên chúng tôi cũng được khuyên rằng nên uống thuốc tránh thai. Một là nếu uống liên tục không nghỉ, thì chúng tôi có thể làm tạm mất kỳ nguyệt san trong vòng hai hoặc ba tháng khi đang ở trong rừng, mặc dù vậy tôi cũng phải nhấn mạnh rằng đây là do bất khả kháng vì nó không có lợi cho sức khỏe. Khỏi phải nói có tháng bất tiện như thế nào trong điều kiện không có nhà vệ sinh và nước sạch. Hai nữa là nếu có chuyện không hay xảy ra trong rừng, thì ít ra chúng tôi cũng vẫn được “bảo vệ” bằng cách này.
Buổi tối trước khi lên đường, tôi ra vườn nhà nhìn lên bầu trời đầy sao. Mặc dù đã là cuối tháng Tư nhưng tiết trời ở Anh vẫn hơi se lạnh. Có lẽ vì thế mà bầu trời trong và sao sáng lấp lánh hơn bao giờ hết. Ngày còn nhỏ, mẹ tặng tôi một quyển sách rất dày, màu xanh lá cây có những hình vẽ rất đẹp về các loài thực vật trên thế giới. Có lẽ bây giờ mẹ tôi cũng quên cuốn sách ấy rồi, nhưng tôi vẫn còn nhớ mãi cảm giác mở cuốn sách bìa cứng ấy ra và đi lạc vào thế giới của những loài cây. Ngoài cây mít (đến giờ tôi vẫn không hiểu nổi tại sao tôi lại ấn tượng với cây mít đến thế), thì những cây baobab ở Madagascar là loài cây mà tôi ấn tượng nhất. Một loài cây với hình dạng thật kỳ lạ, giống như những chiếc rễ của chúng thay vì đâm sâu dưới mặt đất lại mọc ngược lên trời vậy!
https://thuviensach.vn
Nhiều người, ngay cả tôi khi ấy, lầm tưởng rằng cây baobab chỉ phân bố ở Madagascar. Nhưng thực ra không phải vậy. Trên thế giới có tất cả chín loài baobab, trong số đó có sáu loài đặc hữu chỉ có ở Madagascar, hai loài phân bố ở châu Phi đại lục và bán đảo Ả Rập. Cuối cùng là loài baobab phân bố ở Australia. Baobab là một loài cây tuyệt vời, có thể dự trữ đến khoảng 100.000 lít nước trong thân cây to lớn, giúp chúng sống sót và chống chọi với khí hậu khô cằn và khắc nghiệt. Đây là loài cây vô cùng hữu dụng cho người dân địa phương, chúng là nguồn cung cấp chất đốt, chất nhuộm màu và thậm chí cả thức ăn. Ví dụ những quả baobab to cỡ quả dừa, có vỏ rất mịn và nặng khoảng 1,5 kg có đến 12% là nước, và các loại dưỡng chất như canxi, sắt, vitamin C. Ở Zimbabwe, loại quả này được ăn sống, hoặc cắt nhỏ để trộn cùng với cháo mạch hoặc ép làm nước uống. Những người phụ nữ ở Malawi thậm chí đã thu hoạch quả baobab để bán cho khách du lịch và kiếm đủ để trang trải cuộc sống cùng tiền học phí cho con em họ.
Vào cái thời bé thơ ấy, mỗi lần muốn trốn ngủ trưa là tôi lại ôm lấy quyển sách, chống chế rằng “con đọc nốt trang này nữa thôi!”. Hình ảnh về cây baobab và đất nước Madagascar vì thế mà in đậm vào tâm trí. Có lẽ cũng như những đứa trẻ khao khát được khám phá thế giới hoang dã, tôi đã từng tưởng tượng mình ăn mặc như những nhà thám hiểm thường thấy trên ti vi, đầu đội mũ cứng, mặc quần áo ka ki trắng ngà và đôi giày chuyên dụng. Tôi tưởng tượng ra mình đang đứng trước cây baobab, sờ vào vỏ cây thô cứng, áp tay vào thân ắ ấ
https://thuviensach.vn
cây mát rượi và ngước mắt lên nhìn ánh mặt trời chói chang của vùng đất châu Phi. Đối với tôi lúc bấy giờ, đó chỉ là ước mơ, và tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình có thể thực hiện được ước mơ ấy.
Vậy mà chỉ còn khoảng 20 tiếng nữa là tôi sẽ thực sự đến vùng đất đó, thực sự thực hiện ước mơ thuở nhỏ. Hơn thế nữa, không chỉ là đến thăm vùng đất hoang dã Madagascar, tôi còn đến đó nghiên cứu về loài vượn cáo - lemur - loài linh trưởng độc đáo và đặc hữu chỉ sinh sống ở đảo quốc này. Cảm giác thật khó tả, vừa sung sướng, vừa hạnh phúc, nhưng lại vừa không tin rằng đây chính là sự thật! Một trong những ước mơ lớn nhất mà tôi có trong đời, không lẽ nào tôi đang thực hiện nó hay sao? Toét miệng cười khi nghĩ lại những đêm phải thức đến bốn hay năm giờ sáng trong thư viện của trường, những hôm lo lắng, căng thẳng đến mức bấn loạn khóc rầm rĩ, những hôm phải đạp xe vòng hết thư viện này đến thư viện kia để tìm tài liệu trong tiết trời lạnh cóng… Hình như những nỗ lực ấy cuối cùng cũng đã được đền bù.
Dự án nghiên cứu trong ba tháng ở Madagascar của tôi cuối cùng cũng đã xin được tài trợ của ba tổ chức lớn: Primate Society of Great Britain, Primate Conservation Inc và Wild Future.
Biết rằng tất cả chỉ là sự khởi đầu, biết rằng đặt chân đến Madagascar là vô vàn công việc và thử thách đang chờ đợi. Biết rằng mọi thứ vẫn còn rất khó khăn, nhưng mà Trang à, hãy cứ ngẩng cao đầu đi đã. Dù trời có sập cũng là chuyện của ngày mai kia mà? Lúc này đây, tôi muốn cảm ơn bố mẹ, cảm ơn bà chị gái lắm điều, và cảm ơn thầy Giuseppe tuyệt vời của tôi nữa. Thầy là người đã phải thốt lên “Tôi đến bị bệnh tim vì em mất” - vì đủ thứ chuyện đã xảy ra với tôi từ đầu tháng Ba đến giờ. Thầy là người đã nhẫn nại ngồi ở trường đến tận 8, 9 giờ tối để trả lời đủ các câu hỏi của tôi, để an ủi tôi đừng quá lo lắng. Ngay bây giờ, khi tôi đang trên đường ra sân bay Heathrow, nhìn ra ngoài cửa sổ xe buýt với cơn mưa tầm tã, nhưng trái tim lại đang nhảy tung vì vui sướng, thì tất cả mọi thứ đều thật tuyệt vời!
https://thuviensach.vn
Thủ đô Antananarivo
Madagascar được giới làm bảo tồn như chúng tôi quan tâm bởi đây chính là một trong những điểm nóng quan trọng nhất và cần được bảo vệ nhất trên trái đất, vì độ đa dạng sinh học cao nhưng lại phải chịu sự tàn phá nặng nề nhất. Đất nước này cũng chính là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới, với khoảng 80% dân số còn phụ thuộc chủ yếu vào nghề nông. Y học và giáo dục vẫn còn chưa phát triển, với chỉ khoảng 54% dân số ở thành thị có vòi nước máy đến tận nhà, và chỉ 4% người dân nông thôn có được sự “xa xỉ” này. Có đến khoảng 70% trẻ em ở Madagascar không được đến trường và đảo quốc này đã đánh mất 75% môi trường sống hoang dã do các hoạt động của con người trong những năm gần đây.
Tana là tên gọi tắt của thành phố Antananarivo, cũng là thủ đô của nước Cộng hòa Madagascar. Đây là thành phố lớn và đông dân cư nhất ở Madagascar, tọa lạc ở độ cao 1,280m trên mực nước biển. Thành phố này được thành lập vào khoảng từ năm 1610 đến năm 1625, khi vị vua người Merina - Andrianjaka đánh đuổi hoàn toàn bộ tộc của người Vazimba ra khỏi khu vực Analamanga. Vua Andrianjaka chính là người tuyên bố vùng đất này là thủ phủ của Madagascar. Từ “Antananarivo” trong ngôn ngữ bản địa có nghĩa là thành phố của một nghìn người. Theo truyền thuyết thì cái tên này được đặt để tưởng nhớ chiến thắng oanh liệt của vua Andrianjaka: ông đã tuyển 1.000 binh sĩ trong trận chiến với người Vazimba. Hiện nay, đa phần dân số của thủ đô Tana là người Merina, ngoài ra có khoảng 18 dân tộc khác cũng sinh sống ở thành phố này, cùng với những người nước ngoài đến đây nhập cư, như người Trung Quốc, Ấn Độ và châu Âu.
Mặc dù trong ba tháng tới, tôi sẽ sống và làm việc ở khu vực đông nam Madagascar, nhưng tuần đầu tiên sẽ phải dừng tạm tại Tana để hoàn thành những thủ tục cần thiết. Vào khoảng năm 2012, những người đến làm nghiên cứu khoa học, đặc biệt là về bảo tồn động vật hoang dã như chúng tôi thường phải thông qua một cơ quan bản địa để tìm trợ lý. Điều đặc biệt là theo luật nước này, những người nước ngoài đến làm nghiên cứu ở đây sẽ phải nhận một sinh viên thạc sĩ làm trợ lý. Sinh viên này sẽ giúp chúng tôi dịch thuật, trao đổi với người dân địa phương và trợ giúp trong việc thu nhập thông số nghiên cứu. Đổi lại, chúng tôi sẽ phải giúp những sinh viên này phát triển ý tưởng cho dự án của họ, trả phí nghiên cứu, đi lại, và thậm chí cả phí in ấn cho luận văn tốt nghiệp. Đặt chân đến sân bay ở thủ phủ Tana cũng là 10:30 tối, và tôi có cuộc hẹn vào lúc 9 giờ sáng ngày hôm sau với một chị sinh viên tên Murielle - người được công ty bản địa MICET chọn làm trợ lý cho tôi.
Bước chân ra khỏi máy bay là hơi nóng ập đến. Mặc dù đang là mùa đông nhưng tiết trời vẫn nóng và oi ả. Sân bay khá nhỏ và lượng khách đến lại đông, vậy nên tôi cũng phải chờ một lúc lâu mới xong thủ tục visa. Ở phía bên ngoài sân bay, Lott - một người đàn ông nhỏ bé và gầy guộc đang đứng chờ tôi. Ông ấy là nhân viên lái xe của MICET, đã được giao nhiệm vụ đưa đón và giúp tôi đi lại khi ở Tana. Lott không nói được tiếng Anh, trong khi tiếng
ố ắ ể ổ
https://thuviensach.vn
Pháp của tôi lại không được tốt lắm, nên chúng tôi chỉ có thể trao đổi với nhau những câu ngắn gọn chứ không nói chuyện được nhiều. Chỉ cần bước chân ra khỏi sân bay là tôi có thể cảm nhận ngay được sự nghèo đói trên đất nước này: những người ăn xin đứng chờ ở cửa sân bay, những bà mẹ gầy guộc địu con sau lưng, mong chờ nhận được chút tiền từ khách du lịch. Dù là thủ đô nhưng cả thành phố chìm trong màn đêm vì không có đèn đường, và tôi cũng thấy rất nhiều người dân lang thang, nằm ngủ ngay trên đường.
Nhà nghỉ nơi tôi ở khá sạch sẽ và thoáng mát. Phòng nghỉ đơn giản, nhưng thoải mái. Sau một chuyến đi dài, tôi lăn lên giường và mỉm cười, rồi tự nói với mình “Welcome to Madagascar, Trang”.
* * *
Mấy tiếng sau tôi bị đánh thức bởi tiếng trẻ em cười nói, tiếng xe cộ, tiếng người buôn bán và mặc cả sầm uất. Mở cửa sổ đón ánh nắng mặt trời chói chang, quang cảnh bên ngoài thật khiến tôi vô cùng hào hứng! Vì không có đèn đường, nên tối qua tôi không chiêm ngưỡng được toàn cảnh của thành phố này. Giờ tôi có thể thấy nơi mình đang ở trông như thế nào, núi đồi, nhà cửa, những con đường, những hẻm nhỏ chật người đi lại. Đám trẻ nghèo không có gì chơi, có đứa làm xe kéo đồ chơi bằng ống lon, chai nhựa, hay thậm chí từ quả bí. Có đứa làm diều từ những túi ni lông rách vứt rải rác trên hè phố. Có những chiếc diều mới, trong veo, bay trên nền trời xanh khiến tôi có cảm tưởng như đó là những con sứa to đùng, còn bầu trời là đại dương thăm thẳm. Cũng có những chiếc diều đã cũ, ngả màu đen sì, có những chiếc diều lại chắp vá từ nhiều túi ni lông màu sắc khác nhau. Bầu trời lúc ấy quả thật rất sinh động, như những đàn cá, những đám sứa trôi nổi tự do vậy.
Tầm 10 giờ sáng thì chị trợ lý của tôi đến. Chị sinh năm 1987, rất đậm người, khá thấp và có vẻ nhút nhát. Cũng giống như nhiều người Madagascar khác, chị Murielle không phải là người gốc Phi. Tổ tiên của chị có lẽ là những người Indonesia vượt đại dương cách đây cả nghìn năm, sinh sống và kết hôn với những người dân châu Phi vượt eo biển Mozambique từ Mozambique đến Madagascar và định cư tại đây. Với nước da được lai từ hai lục địa, chị Murielle trông rất rắn rỏi và khỏe mạnh. Tôi hào hứng hỏi chị Murielle về Madagascar, về những món ăn truyền thống, về công việc thường ngày… Đến gần trưa, chúng tôi quyết định đi vào khu trung tâm thành phố, và vào khu chợ lớn ở đây. Khu trung tâm ở đây rất đông, nhà cửa mọc san sát. Đa phần là những khu nhà hai, ba tầng sát rạt. Thành phố trên núi, vì vậy mà những con đường nhỏ nối tiếp nhau bằng những bậc thang, mọc ngoằn ngoèo và chĩa ra đủ mọi hướng. Người dân đi lại rất đông, những khu chợ ngoài trời, những quán ăn ven đường khiến tôi nhớ đến những khu “chợ giời” ở Việt Nam - hay theo tiếng địa phương là “tsena”, lúc nào cũng đông đúc, ồn ã, đầy sắc màu và sức sống.
Vì đã quá trưa và cũng khá đói, tôi sà vào một sạp tre bên đường bán những món rán. Sau bữa ăn trưa, chúng tôi đến văn phòng MICET để hỏi về thủ tục giấy tờ nghiên cứu và tôi hy vọng có thể đi Fort Dauphin trong vòng hai ngày tới. Nhưng hy vọng của tôi tắt ngấm trước nụ cười phớ lớ của anh nhân viên nơi đây: họ vẫn chưa chuẩn bị đầy đủ giấy tờ cần thiết cho tôi, mặc dù tôi đã ầ
https://thuviensach.vn
làm đầy đủ các thủ tục từ khi còn ở Anh. Họ thậm chí cũng chưa đặt vé máy bay, hay liên hệ với Sở Lâm nghiệp ở Fort Dauphin để cấp giấy phép cho tôi được làm việc trong rừng. Ba ngày sau đó tôi vẫn giậm chân ở Tana, càng lúc càng lo lắng và sốt ruột.
Phải đến một tuần sau khi đặt chân đến hòn đảo này, tôi mới nhận được thông tin về chuyến nghiên cứu của tôi. Nhân viên của MICET gọi điện cho tôi vào lúc 9 giờ sáng hối thúc tôi nhanh chóng dọn dẹp đồ đạc vì… chuyến bay của tôi sẽ khởi hành vào lúc 12 giờ trưa! Thế là tôi cuống cuồng nhét vội đồ đạc vào túi, trả phòng, nhảy lên taxi và phóng thẳng ra sân bay. Gần 15 phút sau thì chị Murielle đến, đi cùng cả gia đình và bạn trai. Quả thật là lúc đó tôi hơi hoảng - vì tôi phải chịu trách nhiệm chi trả toàn bộ tiền ăn, ở đi lại cho chị sinh viên này. Điều đó đồng nghĩa rằng tiền taxi đi đến sân bay của chị ấy thì tôi phải trả hết, và bởi vì cả gia đình chị ấy quyết định đến để tiễn chị ấy đi nên họ dùng hết… hai chiếc taxi. Phí dùng taxi ở đây tính theo đầu người, và tính trên từng km. Nó hoạt động gần như một dạng… xe bus cao cấp. Có nghĩa là bạn có thể vẫy một chiếc taxi đã có người ngồi, và trả tiền cho quãng đường mà bạn muốn đi. Khi nhận được hóa đơn thanh toán tiền taxi thì tôi không được hài lòng lắm… Mặc dù tôi đã được chu cấp kinh phí cho chuyến đi thực địa, nhưng nó không đủ để có thể chi trả cho cả những khoản phí “phụ trội” như thế này.
https://thuviensach.vn
Sainte Luce
Từ Tana đến Fort Dauphin cũng chỉ mất hơn một tiếng trên máy bay. Nhưng bạn cũng có thể thấy được cảnh trí thay đổi như thế nào. Thay vì đồi núi và nhà cửa mọc san sát, thay vì tiếng ồn và bụi bặm thì Fort Dauphin đẹp mê hồn với những cánh rừng và núi đồi thoai thoải bên bãi biển xanh mướt và cát trắng. Những cây cọ đặc hữu của Madagascar tự hào vươn ra đón gió với tán lá xòe thẳng lên trời, trông như ngón tay người vậy. Lúc đứng đợi lấy đồ, tôi hào hứng hỏi chị Murielle một số câu hỏi về khu rừng Sainte Luce. Có một người đứng trước quay lại nhìn chúng tôi một cách tò mò và bắt chuyện. Hóa ra anh ấy là người Ireland, hiện đang là kỹ sư đối tác với Rio Tinto - một công ty khai thác khoáng sản của Anh và Úc, hiện đang đặt trụ sở ở ngay trung tâm Fort Dauphin. Cũng thật trùng hợp, vì tôi sẽ phối hợp làm việc với đội nghiên cứu động-thực vật của Rio Tinto trong suốt ba tháng tới.
Ở Madagascar, Rio Tinto được biết đến dưới tên QMM (QIT Madagascar Mineral - công ty khai thác khoáng sản Madagascar). Bắt đầu từ năm 1986, công ty này tập trung khai thác khoáng sản, mà chủ yếu là titanium - một loại kim loại rất cứng, màu xám thẫm, được dùng để chế tạo hợp kim chống mòn và chống gỉ. Kim loại này được dùng rất phổ biến, trong y học giải phẫu, chế tạo laptop, di động và thậm chí cả máy bay chiến đấu. Vì những ảnh hưởng của việc khai thác khoáng sản đến hệ sinh thái và môi trường ở Madagascar, QMM quyết định thành lập một chương trình nghiên cứu và bảo tồn thực và động vật ở phía đông nam nước này. Mặc dù gây nhiều tranh cãi về vấn đề môi trường, nhưng QMM cũng nỗ lực thiết lập được hai khu bảo tồn ở nơi đây, dưới tên gọi Khu bảo tồn Mandena (rộng 230ha) và khu bảo tồn rừng Sante Luce (gồm 747ha đất rừng và đất ngập nước).
Trong suốt một tuần qua tôi chỉ có thể có những cuộc đối thoại ngắn với người dân bản địa do bất đồng ngôn ngữ. Giờ gặp được một người có thể hàn huyên liên tục cả nửa tiếng đồng hồ vui không kể xiết. Mặc dù cả tôi và anh Davis cùng làm việc với Rio Tinto, nhưng đây là một công ty rất lớn, anh ấy lại làm về máy móc, còn tôi thì làm việc cùng với đội nghiên cứu môi trường của họ, nên khả năng gặp lại nhau cũng khá thấp. Sau khi nhận lại đồ đạc từ băng chuyền, chúng tôi gật đầu chào, chúc nhau một chuyến đi may mắn. Rio Tinto cử người đến đón tôi tại sân bay và đưa thẳng về nhà nghỉ để cất đồ đạc và nhận phòng, còn Davis vì thường xuyên đến đây công tác, đã sắp xếp xe riêng để tự lái.
Tôi có 5 phút để rửa mặt mũi, chân tay rồi lại lên xe để đến văn phòng QMM bàn chuyện liên quan đến dự án, kế hoạch đi lại và liệu tôi cần những trợ giúp gì từ phía họ. Từ phía đằng xa đã thấy những dàn máy khoan, đãi cát, máy trộn và nhiều loại máy móc khác rất bự dùng trong ngành công nghiệp khai thác khoáng sản. Mặc dù vậy nhưng không khí vẫn rất sạch sẽ và khu vực này vẫn không bị ô nhiễm tiếng ồn. Công ty quản lý người ra vào rất cẩn thận, phải có lịch hẹn đặt trước mới được vào. Mỗi lần đến đều phải thông qua phòng bảo vệ kiêm tiếp tân, bạn sẽ được nhận một chiếc thẻ ghi rõ họ tên, số hộ chiếu và quốc tịch, sau rồi lại phải thở vào máy kiểm tra nồng độ cồn trong ế ồ ồ
https://thuviensach.vn
máu. Nếu phát hiện nồng độ cồn cao quá quy định thì bạn sẽ không được phép vào trong. Lúc đang ngó nghiêng đứng chờ lấy thẻ ra vào, thì có ai đó chọc nhẹ vào lưng tôi. Quay lại thì thấy anh Davis đang đứng cười rất tươi ở phía sau. Hóa ra anh ấy cũng đi thẳng từ sân bay đến đây giống tôi. Chúng tôi tươi cười trao đổi vài câu rồi ra khỏi phòng bảo vệ. Anh ấy rẽ phải, đi vào khu sửa chữa chế tạo máy móc, còn tôi đi thẳng đến phòng môi trường.
Người đón tiếp tôi là Laza, anh tầm 30 tuổi, gầy và cao - đặc biệt là so với chiều cao của những người dân nơi đây. Anh Laza có nụ cười rất tươi và khả năng tiếng Anh rất trôi chảy. Anh hỏi tôi chuyến đi thế nào, có mệt lắm không, và vì sao lại đến muộn tận một tuần so với lịch trình thế này. Thế là tôi được dịp trút mọi nỗi buồn bực với MICET trong suốt một tuần qua với anh. Anh Laza lắng nghe và cười tủm tỉm:
- Em phải tập làm quen với cách làm việc ở đây thôi.
Sau đó tôi được giới thiệu và chào mọi người trong văn phòng, đến thăm khu ươm cây và phòng lưu trữ hồ sơ của những khu vực mà Rio Tinto đang thực hiện trồng rừng. Họ hẹn tôi ngày hôm sau quay lại để làm kiểm tra sức khỏe, và gợi ý rằng hai trong số những mảng rừng mà tôi muốn đến thuộc quyền sở hữu của hai gia đình địa chủ Pháp - từ thời Pháp thuộc. Nếu muốn đến làm việc ở khu vực đó tôi phải đến gặp nói chuyện và xin phép hai gia đình này.
Vượn cáo đuôi vằn - Ring tailed lemur (Lemur catta).
Trở về nhà nghỉ, tôi gặp được chị Mandy. Chị Mandy đến từ Kansas, là người Mỹ hơn tôi 5 tuổi, cũng học cùng khóa thạc sĩ với tôi. Chị Mandy làm nghiên cứu về loài vượn cáo đuôi vằn (Ring tailed lemur - Lemur Catta) ở phía tây nam của bán đảo, nhưng chúng tôi hẹn gặp nhau ở đây vì cả hai đều làm việc ở những khu vực khai thác khoáng sản của Rio Tinto. Lúc mới gặp chị Mandy tôi suýt không nhận ra, vì trước đây mỗi lần ở trên lớp, chị ấy đều trang điểm khá đậm, kẻ mắt và son đỏ. Giờ, có lẽ để phù hợp với tính chất công việc, chị Mandy không dùng mỹ phẩm nữa. Tôi có thể thấy những nốt tàn nhang trên da mặt chị, trước đây đều bị che phủ bởi lớp kem nền. Nhìn thế nào
ể
https://thuviensach.vn
đi nữa, thì chị Mandy không trang điểm trông trẻ trung, đáng yêu và thân thiện hơn. Tôi cười khì khi nói vậy với chị, và chúng tôi ôm nhau rồi hét lên: - Madagascar, chúng tôi đến rồi!
Vì đến trước tôi vài ngày, chị Mandy đã kịp liên lạc với một chị thạc sĩ học trên chúng tôi ba khóa tên là Megan. Chị Megan hiện đang làm việc cho một tổ chức tình nguyện của Anh có tên gọi là Azafady đặt trụ sở tại Fort Dauphin, nhưng có chi nhánh nhỏ ở làng Sainte Luce. Họ là tổ chức từ thiện giúp đỡ những người dân nơi đây thoát khỏi đói nghèo bằng cách tạo kế sinh nhai, đồng thời nâng cao nhận thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường rừng và khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững. Chúng tôi hẹn ăn tối tại một nhà hàng gần nhà nghỉ, và thật may mắn vì khi trò chuyện, tôi đã thuyết phục được chị ấy đồng ý triển khai hoạt động vẽ tranh của tôi vào ngày Môi trường thế giới cho trẻ em tại làng Sainte Luce. Trong bữa tối, tôi cũng gặp một nhóm 4 em học sinh người Anh, khoảng 16, 17 tuổi. Các em ấy tranh thủ thời gian nghỉ hè để đến đây làm tình nguyện. Cả bốn còn khá rụt rè, tuy nhiên sau bữa tối, các em ấy cũng quen với chúng tôi hơn, và liên tục yêu cầu chúng tôi kể những chuyện xảy ra khi đi làm thực địa đặc biệt là những câu chuyện kinh khủng về giun sán của thầy Giuseppe, chuyện bị bọn vắt tấn công của tôi và chuyện chị Megan vất vả học tiếng Malagasy như thế nào.
Sáng sớm hôm sau, tôi và chị Mandy đi cùng nhau tìm đồ ăn sáng, trong khi trợ lý của tôi vẫn còn say giấc nồng. Fort Dauphin tuy là một thành phố, nhưng nó giống như một thị trấn nhỏ hơn. Từ chỗ chúng tôi ở đi bộ ra chợ chỉ khoảng 10 phút, nhưng ngoài đồ ăn có sẵn của khách sạn (khá là đắt), thì hầu như không có cửa hàng nào bán đồ ăn trên đường, trừ một nhà hàng Tàu được mở bởi những người Trung Quốc. Người dân Trung Quốc đến Madagascar khá đông, vì chính phủ họ có cam kết với chính phủ Madagascar làm đường và xây dựng những tòa nhà cao tầng ở đây với giá rẻ. Đổi lại, họ có toàn quyền lựa chọn nhân công, máy móc. Thêm vào đó, nhân công được phép đem vợ con và người nhà theo nếu muốn. Thế rồi, những con đường “cắt rừng” được mọc lên ngày một nhiều ở Madagascar, lượng lớn gỗ và các lâm sản khác cũng vì thế mà được chuyển lậu về Trung Quốc theo đường biển. Đây chính là một trong những vấn đề lớn nhất trong việc bảo tồn môi trường và thiên nhiên hoang dã ở châu Phi mà những người làm bảo tồn như chúng tôi gặp phải trong những năm gần đây.
Chúng tôi tìm được một cửa tiệm tạp hóa nhỏ, duy nhất trong thành phố có bán những thứ lặt vặt, như bánh quy, bánh mì, thậm chí còn có cả bơ đậu phộng và sô cô la. Tôi và chị Mandy liền mua mỗi đứa một chiếc bánh mì bơ, thêm một chiếc nữa cho chị Murielle. Trợ lý của chị Mandy chắc phải hai ngày nữa mới đến, nên chị ấy cũng chưa cần phải đau đầu với khoản chi tiêu sao cho hợp lý như tôi lúc này. Vừa đi bộ về vừa tán phét, chúng tôi đã đi hỏi khắp người dân quanh đây và họ nói rằng ở cả thành phố này, chỉ vài nơi có Internet. Trong số đó thì một là văn phòng ở QMM, hai là khách sạn của ông địa chủ người Pháp với giá dịch vụ cao ngất ngưởng. Lựa chọn duy nhất còn lại cho chúng tôi, đó là khách sạn Kaleta. Chúng tôi liền đi thẳng đến đó để hỏi giá phòng, vì cả hai đều rất cần Internet để liên lạc với thầy và báo cáo
ế ấ ế
https://thuviensach.vn
tiến độ công việc. Thật quá bất ngờ, khi giá phòng ở đây (nếu chúng tôi thuê một phòng gia đình cho cả bốn người) thì còn rẻ hơn phòng nơi tôi và chị Mandy đang ở. Chị Mandy từng đi dọc quanh khu này tìm chỗ ở an toàn và rẻ, nhưng hai điều đó thường không đi kèm với nhau ở nơi này. Chị ấy từng vào một nhà nghỉ của người dân bản địa, rốt cuộc ngay sáng hôm sau đã phải dọn đi vì bị rận cắn, lại thêm cánh cửa không khóa được và tiếng ồn ào trêu ghẹo của đám thanh niên trong phố. Rốt cuộc, chị ấy đành chuyển sang khách sạn mà chúng tôi đang ở bây giờ với giá khá cao.
Quyết định chuyển chỗ ở, tôi và chị Mandy cùng đi bộ về khách sạn. Lúc này, chị Murielle mới thức dậy. Tôi đưa chị ấy chiếc bánh mì cho bữa sáng, và báo với chị rằng chúng tôi đã tìm được một chỗ ở khác rẻ hơn và chúng tôi sẽ chuyển đi ngay trong sáng nay.
- Rẻ hơn à? Nhưng ở có tốt không? Hay lại những chỗ ẩm thấp, khó chịu lắm.
- Chỗ tốt chị Murielle à, chị biết kinh phí mà em có không thể đủ cho chúng ta ở nơi như thế này mà. Em cũng không biết khi nào mới được vào rừng, vậy nên chúng ta càng phải tiết kiệm càng tốt.
- Tiết kiệm à - tỏ vẻ không vui, chị Murielle vùng vằng - vậy nên tôi mới được cho cái bánh mì để ăn sáng hả?
Tôi và chị Mandy nhìn nhau, bất ngờ vì thái độ của chị Murielle. Quả thật, trừ phi sẵn sàng chi 10 USD/ người/bữa để có đồ ăn kiểu tây như tối qua, thì những đồ ăn của người dân bản địa cũng chỉ có như thế này. Hôm trước chị Murielle đã cằn nhằn rằng chị ấy không thích ăn cơm, không thích ăn thịt heo, không thích ăn thịt gà, cũng không thích cá và đặc biệt ghét đậu. Vậy nên tôi đã mua bánh mì bơ cho chị ấy.
Một khoảng lặng khó chịu khi tôi cùng chị Mandy cố gắng thu dọn đồ đạc, còn chị Murielle giận dỗi ngồi ăn bánh mì ở phía hiên nhà. Vì cũng không có gì nhiều nên chúng tôi dọn đồ khá nhanh. Ngay khi bước ra khỏi phòng, chị Murielle đã hỏi ngay:
- Không gọi taxi à?
- Không cần - chị Mandy đáp gọn - đi bộ chưa đến 10 phút là tới rồi, cần gì taxi.Không nói một lời, chị Murielle quay lưng đi thẳng. Ba chúng tôi, mỗi đứa một cái ba lô to sau lưng và một ba lô nhỏ trước ngực, cắm cúi đi. Thỉnh thoảng những đám bụi khô bị đá tung lên khỏi mặt đường đất cằn cỗi, dưới cái nắng chói chang nơi đây.
Khuôn mặt chị Murielle lộ rõ vẻ vui sướng khi chị ấy phát hiện ra nơi chúng tôi sẽ ở là đâu. Có lẽ chị ấy tưởng chúng tôi sẽ đến nhà nghỉ nhỏ mà chị Mandy từng ở. Khách sạn Kaleta nếu ở một đất nước phát triển có lẽ sẽ không gây được ấn tượng này, nhưng ở một nơi như Fort Dauphin, nó là khách sạn rất lớn, và cũng là nơi được đánh giá là có Internet ổn định nhất khu vực. Để tiết kiệm, thay vì thuê hai phòng đôi, chúng tôi thuê phòng gia đình. Tôi và chị Mandy sẽ dùng chung một giường, hai chị trợ lý sẽ dùng hai giường đơn còn lại.
ế ể
https://thuviensach.vn
Ngay khi vừa đến khách sạn mới, chị Murielle đã hỏi liệu có thể đi chơi với bạn được không. Tôi nhìn đồng hồ, cũng mới có 10 giờ sáng. Quyết định sẽ đi xin dấu của bên Bộ Lâm nghiệp và xin giấy phép để đi rừng của gia đình địa chủ người Pháp, nên tôi bảo chị ấy chờ, làm xong việc thì hẵng đi. Chị Murielle bực mình, không nói gì nhưng ngồi khoanh tay trước ngực trên ghế, không buồn nói chuyện với tôi nữa. Cũng không có cách nào, hy vọng chị ấy chỉ bực bội trong sáng nay rồi mọi chuyện sẽ khác thôi, dù sao tôi đến đây để làm việc chứ không phải để hưởng thụ. Hơn nữa, ngoài việc phải trả phí ăn ở, đi lại cho Murielle thì tôi còn phải trả một khoản phí tính theo ngày, coi như “công tác phí” của chị ấy nữa.
Chúng tôi tìm đến khách sạn Fort Dauphin của gia đình D’holm. Khách sạn này nhỏ hơn Kaleta, nhưng lại được trang trí và xây dựng tinh xảo hơn rất nhiều. Tường được ốp những mảnh gốm và màu sắc sặc sỡ khiến ta nhớ đến kiến trúc xây dựng ở khu vực Địa Trung Hải. Nhân viên quầy tiếp tân nói tiếng Anh rất sõi, chị ấy vui vẻ bảo tôi ngồi chờ, rồi đi tìm cô con gái trưởng của dòng họ D’holm hiện đang quản lý khách sạn này. Một lúc sau, tôi thấy chị ấy quay lại, theo sau là một người phụ nữ đã vào tầm tuổi trung niên. Mái tóc vàng, dài màu bạch kim, nhưng nước da nâu rắn rỏi rám nắng và mặc một bộ váy rộng dài màu đỏ cam san hô, cô ấy thực sự là rất đẹp.
Sau khi trình bày về công việc định làm ở mảng rừng thuộc quyền quản lý của nhà cô ấy, tôi đưa cho cô dự thảo dự án nghiên cứu của tôi đã được dịch sang tiếng Pháp. Cô cầm lấy, trả lời tôi bằng tiếng Anh với giọng Pháp rất nặng:
- Hôm nãy toi bận nên khỗng trã lời ngãy đuộc. Ẽm cữ về đi, chiều mãi quai lãi.
Tôi cảm ơn cô, rồi đi với chị Murielle đến Cục Kiểm lâm, cũng cùng con đường với khách sạn này, chỉ đi dịch lên phía trên độ 20 phút đi bộ thôi. Trời nắng, nóng hanh hao vì đang là mùa đông. Chị Murielle lại khó chịu, cằn nhằn về việc chúng tôi nên gọi taxi.
- Chỉ 20 phút đi bộ thôi mà…
Tôi an ủi bâng quơ, tự hỏi mấy hôm nữa khi vào rừng, liệu chị ấy có đòi gọi taxi hay không… Khi sống ở Anh, tôi đã quen với việc đi bộ. Không cần biết ở hướng nào, nếu dưới 1 tiếng là tôi sẽ đi bộ thay vì sử dụng xe buýt công cộng. Mãi gần đây khi mua xe đạp tôi mới ít đi bộ hơn. Vậy nên 20 phút đi bộ đường thành phố quả thực không là gì, nhất là với những người thường xuyên đi thực địa như chúng tôi.
Cục Kiểm lâm nằm trên đỉnh con dốc, ì ạch một lúc chúng tôi cũng trèo lên đến nơi. Trông nó giống với trường học hơn là cơ quan làm việc, kiểu nhà cấp bốn với cửa sổ và cửa ra vào được sơn màu xanh lá cây. Toàn bộ phần trao đổi công việc tôi phải hoàn toàn phụ thuộc vào chị Murielle, vì họ không nói được tiếng Anh. Mất một lúc căng thẳng theo dõi cuộc nói chuyện của họ mà tôi không hiểu gì, chị Murielle mới nói rằng tôi chỉ cần đưa cho họ xem hóa đơn phí nghiên cứu mà tôi đã đóng ở Tana, và ngồi chờ họ đóng dấu là xong. Vậy nhưng chúng tôi chờ mãi, chờ mãi, hơn một tiếng vẫn chưa được đóng dấu. Đến khoảng 2 giờ chiều, vừa nóng, vừa sốt ruột, lại sắp đến giờ cho lịch ầ ấ
https://thuviensach.vn
hẹn khác, tôi nhờ chị Murielle vào hỏi thêm một lần nữa. Hóa ra con dấu thì vẫn ở đây, nhưng lại được cất trong két sắt. Người cầm chìa khóa cho két sắt lại… đang ở nhà, nên chúng tôi phải đợi nhân viên đó tới. Đợi thêm gần nửa tiếng nữa, thì có người đem chìa khóa đến. Thế là cuối cùng, tôi cũng đã có giấy tờ để vào rừng.
Hai rưỡi chiều, tôi theo đúng lịch hẹn, được QMM đưa đi kiểm tra sức khỏe, và làm một bài kiểm tra rất dài về an toàn lao động và những rủi ro có thể gặp phải khi đi thực địa. Phải mất gần 4 tiếng đồng hồ mọi thủ tục mới được hoàn tất. Chị Murielle là người bản địa nên không cần làm bài kiểm tra này, đã sung sướng cười rất tươi thả tôi đi một mình, nhưng cũng không quên hỏi lấy tiền ăn tối - vì chị ấy muốn đi ăn một mình thay vì ăn cùng tôi và chị Mandy. Lúc đứng chờ xe buýt của nhân viên để quay lại thành phố, dưới ánh sáng le lói còn sót lại của mặt trời, tôi cảm thấy như cuộc sống ở Oxford đã rời xa tôi từ lâu lắm rồi. Tối nay là tối thứ Tư, bình thường giờ này tôi sẽ chuẩn bị để đi tập kiếm đạo, rồi sau đó sẽ cố chạy vào thư viện để tranh thủ đọc thêm tài liệu đến tầm nửa đêm, rồi sẽ chậm rãi đạp xe về nhà trong tiết trời se lạnh… Cảm giác như đang sống ở một thế giới hoàn toàn khác vậy, tôi mỉm cười. Mình đã mong chờ được đến đây biết bao…
Ngày hôm sau trợ lý của chị Mandy cũng đến. Tina là một cô sinh viên thạc sĩ năm cuối, gầy và thấp. Mặc dù cũng đến từ Tana, nhưng Tina sống ở khu ven đô thay vì ở ngay trung tâm thành phố như chị Murielle. Dáng vẻ rụt rè, giọng nói thanh, nhỏ nhưng đôi mắt sáng và tò mò, Tina khiến tôi nghĩ đến những cô bé đang chuẩn bị được vào lớp một, vừa lo lắng, sợ hãi nhưng lại hào hứng để được khám phá thế giới xung quanh. Khác với chị Murielle được trang bị đến ba chiếc điện thoại di động, một chiếc laptop và một chiếc iPad, thì Tina chỉ dùng di động Nokia “cục gạch” để liên lạc với gia đình. Sau bữa ăn tối, Tina vào nhà tắm và thốt lên một tiếng ngạc nhiên:
- Ôi!!!! Đây là cái gì?
Tôi và chị Mandy cùng chạy vào.
- Cái gì cơ? - chị Mandy ngơ ngác.
- Cái đính ở trên tường kia kìa.
Vừa né, vừa chỉ vào cái “đính ở trên tường”, Tina lộ rõ vẻ tò mò trên mặt. Nhìn theo hướng tay Tina, chúng tôi phát hiện ra cái đó là máy sấy tóc. - Máy sấy tóc đấy Tina ạ - tôi trả lời.
- Em chưa dùng bao giờ à? - chị Mandy thốt lên, vẻ ngạc nhiên. - Umn… Có nghe nói đến, nhưng chưa dùng bao giờ… - Tina nói, vẻ ngượng nghịu. Thế là chúng tôi hướng dẫn cho Tina cách dùng. Nghe tiếng máy sấy chạy ro ro trong nhà tắm, chị Mandy cười:
- Con bé có vẻ ngây thơ quá nhỉ!
Chị Murielle lại đi chơi với bạn, đến tận hơn 11 giờ đêm mới về. Tôi và chị Mandy lúc này vẫn đang lên danh mục thức ăn cần phải mua để chuẩn bị cho chuyến đi vào rừng đầu tiên của cả hai đứa. Cũng thật may là chị Mandy ở đây, tôi cảm thấy an tâm hơn khi có người bàn chuyện tưởng như cực kỳ đơn giản,
ồ
https://thuviensach.vn
như chuyện mua và dự trữ đồ ăn khô cho cả tháng. Vừa nghe nhạc trên điện thoại di động, chị Murielle vừa hỏi tôi:
- Thế còn túi ngủ và lều cho tôi thì sao nhỉ? Tôi thấy em có mỗi một cái lều hả?
- Ơ… Thế chị không chuẩn bị gì à? Qua email em đã nói rất rõ rồi mà, em không thể mang thêm lều và túi ngủ từ Anh được! - tôi chột dạ trước câu hỏi của chị Murielle.
- Ồ, tôi chẳng mang gì cả! - vừa nói, chị Murielle vừa nhắn tin cho bạn trai. Chị Mandy ném cho chị Murielle một cái nhìn tăm tối, rồi nhìn tôi và nhún vai. Tôi quyết định ngày hôm sau việc đầu tiên phải làm sẽ là đến văn phòng QMM cùng Murielle để hỏi xin giúp đỡ của đội nghiên cứu động-thực vật của họ, vì trợ lý của tôi định đi rừng mà không chuẩn bị gì hết. Thêm vào đó, từ hôm đến đây vì bận lu bu công việc, tôi cũng chưa kịp bàn bạc với QMM về việc trả tiền công tác phí cho chị Murielle. Do làm nghiên cứu trong khu vực rừng được QMM quản lý, họ sẽ giúp sinh viên nước ngoài như chúng tôi lo phần “công tác phí” này của sinh viên bản địa, nên tôi cũng định sẽ bàn luôn về vấn đề này trước khi vào rừng.
Cuộc họp với QMM cuối cùng lại không diễn ra trôi chảy như cả tôi và chị Mandy cùng mong đợi. Chị Murielle vì đã tốt nghiệp khóa thạc sĩ, nên không còn được liệt vào dạng “sinh viên bản địa cần được giúp đỡ” nữa, vì vậy QMM từ chối hỗ trợ trả công tác phí cho chị ấy. Khoản công tác phí này, theo đòi hỏi của chị Murielle, là $10/ngày. Như vậy nghĩa là trong suốt ba tháng làm việc ở đây, tổng số tiền tôi phải trả cho chị ấy, chưa kể tiền đi lại, ăn ở sẽ vào khoảng $900, xấp xỉ 20% tổng số tiền dự án của tôi. Khoản tiền này là không thể, vì tôi còn phải trả tiền thuê người dẫn đường, thuê người nấu bếp, và tiền đi lại, ăn ở mỗi khi di chuyển đến nơi khác. Số tiền mà chị Murielle yêu cầu, thực chất cũng là quá lớn so với tiền lương nói chung của người dân Madagascar. Thực vậy, $300/tháng là khoản tiền lương mà một người dân bản địa có kinh nghiệm nhận được nếu làm ở vị trí quản lý cho một tổ chức phi chính phủ ở khu vực này! Cố gắng để giọng nói khỏi run, tôi trình bày vấn đề về kinh phí dự trù cho dự án, thêm vào đó trước khi tôi đến đây thì MICET đã cam kết rằng họ đã làm việc với QMM về việc kinh phí phụ trội của sinh viên người bản địa. Vừa nghe tôi trình bày, chị Murielle đã thét lên:
- Nói láo! Lúc ở Tana mày đã hứa sẽ trả tiền cho tao nên tao mới đồng ý đi với mày!
- Murielle, chị nói gì vậy! - tôi hoảng hốt - Lúc ở MICET em có nói với họ, và với cả chị, chúng ta sẽ bàn về công tác phí của chị khi đến gặp QMM, vì với số tiền chị yêu cầu em chỉ có thể trả chị trong ba tuần.
- Dối trá, nếu mày nói thế tao đã không đi với mày!!! - chị Murielle đứng dậy, và bắt đầu khóc.
- Tôi chưa từng nói thế, chị Murielle ạ - tôi đanh giọng lại - Nếu chị còn nhớ, thì chính chị nói rằng nếu chỉ trả được ba tuần thì chị sẽ đi với tôi trong ba tuần, vì toàn bộ chi phí đi lại ăn ở của chị tôi đều phải trả.
Chị Murielle bắt đầu vùi đầu vào tay và khóc ầm ĩ. Anh Laza hết quay sang nhìn tôi đang đỏ mặt tía tai, đến nhìn chị Murielle đang khóc lóc thảm thương. ồ
https://thuviensach.vn
Chú Jean- Baptise, trưởng phòng nghiên cứu và bảo tồn động-thực vật của QMM rốt cuộc phải nhờ anh Laza chị đưa Murielle ra ngoài vì tiếng khóc ầm ĩ khiến chúng tôi không thể bàn thêm công việc gì được. Sau một hồi bàn bạc, chú Jean quyết định cách duy nhất QMM có thể giúp tôi, đó là họ sẽ trả toàn bộ tiền ăn cho chúng tôi ở những khu rừng QMM đã và đang khai thác khoáng sản. Ở khu rừng cuối cùng trong dự án của tôi, họ không giúp tôi được. Nhưng như thế có nghĩa là tôi có thể dùng khoản kinh phí dư ra để trả tiền lương cho chị Murielle. Tính đi tính lại thì dù thế nào đi nữa, tôi vẫn không có đủ chi phí để trả lương cho chị Murielle trong cả ba tháng, vì tiền ăn ở trong rừng vốn rất rẻ nên khoản này không tốn là bao. Bước ra khỏi phòng họp với đôi vai chùng xuống vì lo lắng, tôi ra ngoài hiên ngồi. Vừa tức giận vì bị gọi là kẻ dối trá trước mặt đối tác làm việc cùng, vừa không biết mọi chuyện rồi sẽ đi về đâu, nước mắt tôi lại trào ra giận dữ. Một lúc lâu sau khi cơn giận đã trôi qua, tôi quả quyết gạt đi dòng nước mắt, nhắn tin cho chị Mandy, thông báo rằng tôi đã họp xong, và rằng chúng tôi nên cùng ăn trưa rồi ra chợ để mua lương thực cho chuyến đi vào ngày mai.
Tôi rất thích tsena ở đây, lúc nào cũng sặc sỡ và đầy sức sống. Những chiếc ô lớn và vải bạt đầy màu sắc được sử dụng để che nắng mưa khiến cho khu chợ trông giống như một cánh đồng nấm. Những dãy hoa quả, nào tím, đỏ, xanh, những bó rau đủ dạng và sắc màu được chất đống, hàng dãy rau diếp, rau cải, rau sống… được phun nước để giữ độ tươi, lấp lánh trong ánh nắng mặt trời. Một dãy mẹt chuyên bán gia vị đầy những màu đỏ, cam, vàng, nâu đượm mùi hương của quế, hồi, bột cà ri… chỉ chờ được trộn với dầu ăn để làm thỏa mãn khứu giác và vị giác của cả những thực khách khó tính nhất. Những dãy hàng chuyên bán đậu, với đủ loại đậu - đủ mọi hình dáng, màu sắc và kích thước: có những hạt đậu tròn xoe, có những hạt hình ô van, có những loại đậu to như sỏi, lại có những hạt nhỏ tí xi như đầu diêm. Bên cạnh đó là sạp bán rượu rum tự chế, vàng nâu sóng sánh trong những chai thủy tinh tái sử dụng, và cả những thanh đậu vani màu nâu bóng, căng phồng và thơm nức. Rồi là sạp trứng, từ những quả trứng vịt xanh biếc, đến đám trứng gà đủ màu, từ trắng vôi đến nâu nhạt. Ngay bên dưới chúng là những chú gà, vịt với chân bị buộc chặt với nhau, nằm lăn lóc bên dưới, thỉnh thoảng kêu thét lên sợ hãi dưới những bước chân vội vã, tất bật của khách chợ.
Quay đi khỏi đám vịt, chúng tôi nhìn thấy những chậu đầy cá, vảy ánh lên sắc trắng bạc như những đồng xu trong nắng. Bên cạnh chúng là những chú cá to hơn, có những chú đen sì như than, đặt nằm trên sạp tre thẳng tắp. Rồi một dãy cá chép bĩu môi hờn dỗi nằm sát cạnh nhau, với những cái vảy to đùng ánh bạc hay vàng, trông như thể chúng đang mặc áo giáp. Bên cạnh chúng là những sạp bán thịt, bày đầy những tảng thịt zebu lớn bám đầy ruồi. Một góc sạp bày đầy môi zebu còn tươi hay đã nấu chín, đục màu, run rẩy như trứng ếch. Phía bên trong sạp là một bà cụ già với lớp da nhăn nheo sậm màu như hạt hạnh nhân, quấn quanh người những lớp vải bẩn thỉu và cũ nát như giẻ lau, đang run rẩy xúc từng thìa súp gì đó trông rất kinh khủng lên miệng và nuốt chửng. Nhưng bên cạnh sạp của bà là những quầy bán đồ thêu tay, nào là khăn trải bàn, váy và hoa tươi đầy sức sống.
ế ầ ố
https://thuviensach.vn
Chúng tôi đến quầy bán gạo và các loại ngũ cốc. Theo tính toán chung khi đi thực địa, chúng tôi phải mua đủ 1 cân gạo cho 1 người trong 1 ngày, vì người dân bản địa theo thói quen ăn rất nhiều cơm. Chúng tôi mua thêm đậu đỏ, hành khô để có thể làm món đậu hầm ăn với cơm. Vì chuyến đi dài và trời thì rất nắng, chúng tôi không thể trữ được lương thực tươi như rau củ, vì vậy mà chỉ có thể mua một lượng nhỏ rau củ đủ dùng trong vài ngày thôi. Chất thực phẩm
lên đằng sau chiếc xe tải nhỏ mượn của QMM, tôi và chị Mandy đều cười toe toét. Thế là ngày mai, chúng tôi có thể vào rừng rồi!
* * *
Sáu giờ sáng hôm sau, chúng tôi đã chuẩn bị tinh tươm và chờ xe của QMM đến đón. Chị Mandy làm việc ở khu tây nam, nên sẽ đi cùng một nhóm công nhân đến đó theo xe buýt của nhân viên. Tôi đi cùng một anh nhân viên chuyển đồ trên xe 4x4, sau khi buộc lại toàn bộ đồ đạc, nồi niêu xong chảo, ba lô, gạo đỗ… chúng tôi lên đường. Từ Fort Dauphin đến Sainte Luce mất khoảng 5 tiếng đồng hồ, đường đất rất xấu, xóc đến mức tôi tưởng rằng lục phủ ngũ tạng của tôi đều bị văng ra hết cả rồi. Chúng tôi phải vượt qua sáu con suối cạn, mặc dù là suối cạn nhưng có những nơi nước dềnh lên đến tận gần cửa sổ xe và nước bắn tứ tung vào phía trong. Tuy nhiên may mắn là chúng tôi cũng vượt qua những đoạn đường ấy mà không bị ướt, và đồ đạc cũng không bị rơi rớt gì. Sau hơn 3 tiếng lái xe liên tục trèo đèo lội suối thì anh tài xế dừng xe để nghỉ ăn trưa tại một ngôi làng nhỏ.
Từ xa, tôi đã có thể thấy cảnh quan thay đổi hẳn trên con đường đất duy nhất dẫn vào làng. Thay vì những cánh đồng cỏ khô khốc trụi lá thì những ngôi nhà gỗ nhỏ với những hàng rào xộc xệch hiện lên trong tầm mắt. Chúng tôi đi qua một đàn zebu - những chú bò rất to lớn, chắc nịch với đám bướu to đùng ở lưng, như thể tạo hóa đã giúp chúng bắt chước những chú lạc đà ngoài sa mạc nóng bỏng. Đây là một cảnh tượng rất thường thấy ở Madagascar, zebu là biểu tượng của sự giàu có trong xã hội. Những người giàu có khi chết đi thì trong lễ tang của họ sẽ có rất nhiều zebu bị giết thịt để tế lễ, và thường sừng và sọ của zebu sẽ được sử dụng để trang trí trên bia mộ. Người càng giàu và có địa vị cao trong làng thì bia mộ của anh ta sẽ có càng nhiều sọ zebu. Không chỉ là vật cúng tế trong đám tang, zebu cũng được sử dụng trong những lễ cưới hỏi. Nhà trai sẽ đem zebu đến tặng nhà gái, nhà càng giàu và càng nhiều thế lực sẽ muốn thể hiện bằng số lượng zebu họ sẵn sàng đem ra để lấy lòng nhà gái. Vì vậy mà những người nghèo không có zebu sẽ gặp nhiều trở ngại trong việc cưới xin hơn những người giàu.
Đám trẻ nhỏ trong làng - cũng giống như trẻ em ở bất cứ ngôi làng nghèo khó nào khác - chỉ cần nghe thấy tiếng động cơ ô tô là vội vàng chạy ra khỏi cửa nhà, cười tít mắt và vẫy tay lia lịa, miệng liên tục hò hét “waza… waza”. Chúng tôi dừng xe ở một cửa hàng nhỏ ven đường. Điểm duy nhất khiến tôi nhận ra đó là cửa hàng ăn, là từ những chiếc bàn ghế nhựa bày biện một cách cẩu thả ở ngay trước cửa nhà. Ngôi nhà được làm bằng đất, lợp mái lá khô, cửa sổ là những ô vuông bé tí có lẽ được đục ra trước khi đất bùn kịp khô. Sau bữa ăn trưa tạm bợ, bụng tôi bắt đầu sôi và với kinh nghiệm đi đường sáng nay
ấ ề ế
https://thuviensach.vn
thì có lẽ sẽ an toàn hơn rất nhiều nếu tôi xin phép sử dụng nhà vệ sinh ngay lúc này, thay vì chờ cho đến khi tới Sainte Luce.
Sử dụng từ “nhà vệ sinh” để chỉ nơi này thì quả là quá xa xỉ… Chỉ có một khoảng rộng bằng hai bước chân được lát xi măng, và một cái hố ở trên nền đất. Tiếng nhóp nhép, lách nhách của nhiều vật nhớt nhát cử động ở phía dưới hố vang lên khiến tôi nhận ra rằng tôi đang chia sẻ “nhà vệ sinh” này với hàng trăm, có lẽ hàng triệu con dòi. Không chỉ thế, đây còn là “nhà” của những con gián lớn nhất mà tôi từng thấy, có lẽ chúng to và dài hơn cả ngón tay cái của tôi. Bị tiếng va đập cửa (là một tấm ván lớn được gia cố bằng lá khô), và ánh sáng chiếu vào, đám gián vội vã chui ra khỏi cái hố và chạy thẳng một mạch ra cửa “nhà vệ sinh”. Mùi nồng nặc của hố ga không được lấp sộc thẳng vào mũi, tôi mất một lúc lâu mới có đủ can đảm hít một hơi thật sâu ở phía ngoài rồi bước vào căn “nhà vệ sinh” này, giả vờ như không nghe thấy những tiếng nhóp nhép phía dưới hố, và vờ như không nhìn thấy bất cứ thứ gì khác trong này.
Nguyên cả chuyến đi, chị Murielle không nói chuyện với tôi và anh tài xế một lời. Chỉ đáp lại những câu hỏi một cách cụt ngủn, và tảng lờ như không nhìn thấy tôi, cũng không biết phải phá vỡ không gian ngột ngạt này bằng cách nào, sau khi đã thử bắt chuyện vài lần, tôi cũng chọn cách để mặc chị ấy và học tiếng bản địa từ anh tài xế. Tôi thậm chí còn học được một bài hát ca dao của trẻ con, với nội dung mà tôi nhớ là “hãy đi bộ, hãy đi bộ, đi bộ tốt cho sức khỏe”.
Tầm 3 giờ chiều chúng tôi cũng đến được làng Sainte Luce trong cơn mưa tầm tã. May mắn cho tôi, đó là mảng rừng Sainte Luce có khá nhiều người từng đến làm nghiên cứu. Thực ra, đây cũng là nơi thầy hướng dẫn Giuseppe của tôi đến làm nghiên cứu cho dự án tiến sĩ của thầy nhiều năm về trước. Vì vậy mà nó không quá hẻo lánh. Khu vực tôi ở được gọi là khu nghiên cứu, dù vậy tôi vẫn phải dựng lều chứ không có khu nhà dành cho những người đến đây. Chú Jean-Baptise đã cẩn thận cắt cử hai chị bếp - vốn dĩ làm việc và chuẩn bị cơm trưa cho nhân viên bản địa của QMM - là những người dân trong làng. Vì có tôi ở đây nên hai chị sẽ nấu dư ra hai suất cơm trưa cho tôi và chị Murielle. Họ cũng sẽ chú ý để phần bữa sáng và bữa tối cho tôi, tùy thuộc vào thời gian đi rừng của tôi.
Lúc mới đến, vì dính cơn mưa nên tôi hơi lạnh. Chị bếp thấy vậy liền đem cho tôi một cốc trà nóng. Tôi vội vàng cảm ơn rồi uống một hơi rõ to. Quái… rõ ràng là nước trà nâu đặc thế này mà sao nhạt như nước lã. Tôi tò mò hỏi: - Trà gì đây hả chị?
- Nước lọc chứ trà gì?
- Nhưng nó màu nâu đặc mà?
- Nước ở đây thế em ơi!
Hóa ra nước ở đây chứa nhiều chất hữu cơ, và không có máy lọc nước nên nước sử dụng cho sinh hoạt hằng ngày có màu nâu đậm như màu trà để lâu. Tôi gật gù uống hết cốc nước, rồi bắt tay vào dựng lều.
Mưa cũng đã thưa dần… Chiếc lều đỏ tươi của tôi nổi bật trong lớp lá xanh nâu đan chen lẫn lộn. Tôi mua chiếc lều mới này cùng với chị Mandy chỉ độ hơn hai tuần trước ở Oxford thôi, vậy nên lúc dựng lều cũng có hơi bỡ ngỡ. ế ề
https://thuviensach.vn
Chiếc lều nhỏ, được ghi chú thích là cho hai người dùng, nhưng thực ra bên trong nhỏ xíu, chỉ mình tôi và chiếc ba lô to bự cũng đã chật rồi. Tôi trải sẵn chiếc túi ngủ, và cuộn mấy chiếc áo lại làm gối, phủ một lớp chăn mỏng lên trên. Tổ chim cúc cu thế là đã chuẩn bị xong!
Lúc đang loay hoay tìm cách chui ra khỏi lều mà không để nước bắn vào trong, tôi bắt gặp một ánh mắt đang nhìn mình chăm chú. Một người đàn ông gầy gò, nhỏ thó với mái tóc dù đã cắt ngắn cũn nhưng vẫn xoăn tít sát da đầu. Khuôn mặt khắc khổ, nhưng ánh mắt rất sáng. Đó chính là Kadoffa! Kadoffa là một người dân làng, ông sinh ra và lớn lên ở đây đã hơn 50 năm. Trước đây, ông là ngư dân, rồi một thời gian từng vào rừng săn bắn. Sau đó ông có được việc làm với QMM, và khi thầy Giuseppe đến đây, ông trở thành người dẫn đường cho thầy. Suốt hai năm liền ông làm việc trực tiếp với thầy Giuseppe, rồi sau đó ông cũng giúp nhiều nhà nghiên cứu khác ở khu vực này đi điều tra số lượng quần thể và tập tính của các loài vượn cáo sinh sống nơi đây. Ông thuộc cánh rừng Sainte Luce như lòng bàn tay, và có thể nhận dạng những loài động-thực vật ở đây dễ như thể bạn ra chợ chọn rau răm hay rau muống vậy. Ở khu vực này, ông là người dẫn đường uy tín nhất.
Ông Kadoffa không nói gì nhiều, chỉ bắt tay tôi và gật đầu chào khi tôi tiến lại gần. Ông nhìn tôi rất kỹ, như thể đang tìm cách nhìn xuyên thấu con người tôi vậy. Không nói được tiếng Anh, nhưng ông nói tiếng Pháp rất trôi chảy. 5 giờ sáng mai, tôi cần phải dậy, và bắt đầu đi rừng.
* * *
Buổi sáng đầu tiên trong một khu rừng ở Madagascar quả thật là quá hào hứng với tôi. Hào hứng đến mức tối hôm trước mặc dù chui vào lều từ lúc 9 giờ tối nhưng tôi vẫn không thể nào ngủ nổi cho đến tận quá nửa đêm. Sáng sớm từ khoảng 4 giờ sáng cánh rừng rộn lên bởi tiếng chim hót chào ánh bình minh, tôi cũng vì quá háo hức mà không ngủ nổi, đành dậy sớm, chuẩn bị mọi thứ, xem lại giấy tờ và chui ra khỏi lều chờ ông Kadoffa và chị Murielle. Cả ngày hôm qua chị ấy đều không nói chuyện với tôi, nhưng tôi hy vọng rằng sáng nay là ngày làm việc đầu tiên, chị ấy sẽ có thái độ khác đi.
Đúng 5 giờ sáng, ông Kadoffa đủng đỉnh đến nơi, gật đầu cười khi tôi chào. Chị Murielle thức giấc hơi muộn một chút rồi chúng tôi bắt đầu đi vào rừng. Rừng ở Sainte Luce vốn dĩ không phải rừng già nhiệt đới, mà là rừng ven biển mọc trên đất cát. Cây cối ở đây thấp, nhỏ hơn và mọc dày hơn so với những cánh rừng già mà tôi từng đến. Tuy vậy, độ đa dạng sinh học của thực - và động vật nơi đây vẫn rất cao. Buổi sáng nay chúng tôi thực hiện 2 transects (để tìm hiểu về số lượng của loài sinh sống trong một cánh rừng thì có rất nhiều cách. Tuy nhiên, tôi và thầy Giuseppe chọn phương pháp đi theo tuyến đường thẳng, dựa trên bản đồ có sẵn mà tạo những đường thẳng song song nhau có độ dài 1 - 1.5km tùy thuộc vào diện tích mảnh rừng nhỏ mà chúng tôi có. Tôi sẽ ghi lại những thông tin cần thiết về loài mà tôi làm nghiên cứu khi bắt gặp trên những transects này). Cả buổi sáng hôm ấy chúng tôi không tìm thấy varika (tiếng bản địa cho vượn cáo má nâu Eulemur collaris) - loài nghiên cứu chính của tôi. Tuy vậy, chúng tôi bắt gặp một gia đình avahi - một loài vượn cáo khác nhỏ hơn, có màu xám nâu và có tiếng kêu rất lớn, đang ôm nhau
ế
https://thuviensach.vn
trên một cành cây và chỉ ngoái ra nhìn khi tôi khẽ kêu lên một tiếng kích động vì hào hứng.
Hai mẹ con avahi - Southern wolly lemur - avahi meridionals
Sau buổi làm việc vào ban sáng, ông Kadoffa quay trở về làng. Tôi và chị Murielle cũng đi cùng để ông giới thiệu tôi cho bác trưởng làng. Từ hôm qua đến giờ, dù trạm nghiên cứu chỉ cách làng khoảng 5 phút đi bộ, tôi vẫn chưa có dịp đến thăm. Ngôi làng nhỏ bé, những ngôi nhà dựng tạm bợ bằng gỗ hiện lên sau khi chúng tôi ra đến bìa rừng. Trường học được xây dựng bằng kinh phí từ quỹ khuyến học của QMM, có lẽ cũng chỉ có khoảng bốn lớp học ở ngôi trường này thôi. Ngôi làng nằm ở phía bên tay trái, nếu đi từ phía bìa rừng. Có ấ ể
https://thuviensach.vn
một hàng rào lớn ngăn từ phía đường đất chạy xung quanh làng, có lẽ là để tránh đám zebu làm đổ những ngôi nhà ọp ẹp. Phía bên trong hàng rào là những ngôi nhà được dựng lên một cách tùy hứng, cùng một phong cách. Mỗi ngôi nhà có một cầu thang nhỏ dựng bằng gỗ, chỉ khoảng hai, ba bậc là lên đến cửa nhà. Phía bên trong không có gì nhiều: hoàn toàn thiếu vắng cái gọi là hiện đại và tiện nghi. Chỉ những nhà chịu chơi nhất mới có một bóng đèn lờ mờ treo ở giữa nhà. Họ không có ti vi, thậm chí nhiều nhà không có cả một chiếc bóng đèn điện. Điện là thứ xa xỉ mới được đưa về làng cách đây vài năm, cũng là từ quỹ phát triển cho những người dân nghèo của QMM. Họ xây dựng một hệ thống pin năng lượng mặt trời ở gần khu nghiên cứu, điện được chạy thẳng từ đó về làng. Vì vậy mà ai cũng phải sử dụng một cách rất tiết kiệm. Ngay cả ở khu nghiên cứu, chúng tôi cũng chỉ có điện vào khoảng 2 tiếng 1 ngày, chỉ đủ để tôi có thể mở laptop và sao chép lại những thông tin thu thập được từ những chuyến đi thực địa trong quyển sổ nhỏ mà tôi lúc nào cũng mang theo.
Nhà của trưởng làng nằm ngay giữa làng, là ngôi nhà lớn nhất, cũng là ngôi nhà duy nhất trong làng có bán đồ lặt vặt, như bim bim, bút chì, giấy vở. Trưởng làng là một người đàn ông vào khoảng 50 tuổi, nhưng răng đã rụng gần hết và tóc đã điểm bạc. Ông giao tiếp bằng tiếng địa phương, mặc dù chẳng hiểu gì nhưng tôi cũng mỉm cười và gật đầu mỗi khi có sự thay đổi trong giọng nói của ông. Thỉnh thoảng tôi quay qua chị Murielle đang ngồi bên cạnh với vẻ chán ngán để nhắc chị ấy dịch cho tôi. Chị Murielle chỉ miễn cưỡng dịch khi tôi yêu cầu, và ngay cả không thể hiểu gì những điều ông trưởng làng nói, tôi cũng có thể lờ mờ đoán được chị không hề dịch hết nội dung mà ông trưởng làng nói cho tôi. Cuối cùng, sau khoảng 30 phút trò chuyện, ông trưởng làng cho phép chúng tôi quay về sau một cái bắt tay.
Cảm thấy rất không hài lòng sau chuyện vừa rồi, tôi tìm cách nói chuyện với chị Murielle sau bữa ăn trưa:
- Chị Murielle này, chúng ta cần nói chuyện. Cho dù có bất đồng như thế nào, nhưng khi làm việc, chị cần phải tách biệt giữa hiềm khích cá nhân và công việc. Chị không ưa em thì tùy chị, nhưng khi gặp mặt trưởng làng, hay bất cứ ai khác, chị cần phải dịch cho em. Chuyện đi rừng cũng vậy, chị không thể vừa đi vừa tìm cách nhắn tin cho bạn trai được!
- Kệ tôi, tôi đã phải từ bỏ thành phố, rời xa bạn trai tôi chỉ để đến đây. Vậy mà cô còn cằn nhằn à? Tôi đã nói tôi ghét ăn cơm, từ hôm qua đến giờ ăn ba bữa cơm, tôi ngán đến tận cổ rồi.
Nói rồi, chị Murielle nhấm nhẳng bỏ thẳng về lều, không để tôi nói gì thêm. Không có thói quen nghỉ trưa, tôi ngồi trong phòng ăn và sao chép lại những con số thu lượm được từ chuyến đi thực địa buổi sáng. Tất cả thông số cần được điền đầy đủ vào một file excel mà tôi và thầy Giuseppe đã chuẩn bị sẵn từ trước. Đây là việc cần thiết, vì thường giấy tờ sổ sách sẽ bị ướt, rách, phai màu hoặc bị mất khi phải di chuyển nhiều trong những chuyến đi nghiên cứu. Đối với người làm nghiên cứu thực địa như chúng tôi, số liệu nghiên cứu quý báu như là máu của chính mình vậy. Chỉ có ba tháng để có thể thu thập đủ số liệu cần thiết, tôi phải quý trọng từng giây từng phút, và không thể để mất những số liệu đã thu nhập được.
ố ề ể ấ ấ
https://thuviensach.vn
Vừa đưa thông số về những điểm GPS mà chúng tôi thấy có sự xuất hiện của Lemurs, tôi nghe thấy tiếng bánh xe ô tô lăn ở phía bên ngoài. Tiếng người cười nói vang lên thật sảng khoái.
Một phụ nữ trẻ với mái tóc hoe vàng bước ra khỏi xe, vẫn còn đang cười ngất vì những câu chuyện đùa của anh tài xế. Chị ấy có lẽ khoảng 26, 27 tuổi, đôi mắt xanh sáng và nước da rám nắng. Khoác chiếc ba lô nặng trịch lên vai một cách chắc chắn, chị ấy bước về phía tôi, nở một nụ cười tươi rói:
- Hello! Are you Trang? - Xin chào, em là Trang hả? Chị đã nghe JB kể về em. Ông ấy nói rằng chắc chắn sẽ gặp em ở đây. Chị là Melissa. - Vâng, chào chị Melissa. Chị cũng làm nghiên cứu ở đây ạ? Em chưa nghe JB nói gì cả.
- Không không, chị từng làm nghiên cứu ở đây, chỉ là lần này quay lại nên muốn ghé thăm một chút thôi, chắc chị ở đây độ một tuần - chị Melissa vừa nói, vừa nhìn quanh khu nhà ăn như thể đang hồi tưởng lại thời chị ấy còn làm việc ở đây - Trợ lý của em ổn không?
- Ờm… cũng ổn ạ - tôi đáp lại một cách khó khăn, tôi không muốn tiếp tục chủ đề này một tí nào.
- Chị nghe kể hết rồi - chị Melissa nháy mắt một cách tinh quái - Cố lên nhé. Nói đoạn, chị ấy quay ra bắt tay anh tài xế, rồi tìm chỗ để dựng lều. David - anh lái xe của QMM hỏi tôi liệu có muốn chuyển lời cho JB, hay cho thầy Giuseppe không. Chúng tôi đã quyết định vì không có sóng điện thoại hay Internet ở trong rừng, nên tôi và thầy Giuseppe sẽ liên lạc với nhau qua những anh tài xế. Tôi sẽ viết ra giấy những gì mình muốn nói với thầy Giuseppe, sau đó các anh tài xế sẽ đem thư về cho chú Jean-Baptise, mà chúng tôi thường gọi tắt là JB. Chú ấy sẽ viết vào email và gửi cho thầy, rồi khi nào thầy trả lời email thì JB sẽ in ra giấy cho tôi rồi nhờ tài xế xe tải trên đường ra khu xây dựng thì mang qua rừng cho tôi. Vội vã chạy vào phòng ăn và kể nhanh với thầy Giuseppe về việc tôi đang được làm việc với Kadoffa, và hơi ngần ngại, nhưng tôi cũng viết vài dòng vắn tắt về vấn đề đang gặp phải với chị Murielle. Sau khi đưa tờ thư dài gần nửa trang giấy cho anh David, tôi quay về với cái laptop và đưa nốt những dữ liệu còn lại vào máy.
Hai giờ chiều, ông Kadoffa quay lại và chúng tôi bắt đầu khảo sát môi trường sống của những chú vượn cáo tại đây. Tôi sẽ chọn một khoảng rừng ngẫu nhiên trên bản đồ, rồi đi đến đó và tạo một “ô vuông” - hay còn gọi là plot - khoảng 50m² để đo đạc, đếm và nhận diện các loại thực vật nằm trong “ô vuông” này. Công việc hoàn thành vào lúc 4 giờ chiều, chúng tôi quay về trại, nghỉ ngơi một tiếng đồng hồ, rồi chuẩn bị cho việc khảo sát số lượng vượn cáo vào buổi tối. Mọi việc tiếp diễn một cách đều đều như vậy được khoảng 5 ngày, khi tôi cảm thấy thoải mái với công việc hơn thì chị Murielle bắt đầu muốn về thành phố.
Chiều thứ sáu, sau khi trở về từ chuyến khảo sát thực vật, chị Murielle hỏi khi nào tôi sẽ về Fort Dauphin:
- Em định một tháng mới về một lần thôi, vì đường cũng xa, số liệu cần thu thập thì nhiều. Nếu đi lại thường xuyên thì sợ là không…
- Nhưng tao muốn về thành phố. Mỗi cuối tuần phải về một lần chứ? ể ố ế ầ
https://thuviensach.vn
g p p
- Không được… Em chỉ có ba tháng để thu thập số liệu thôi. Nếu tuần nào cũng nghỉ 2 ngày cuối tuần thì không thể hoàn thành công việc được. Với lại mỗi lần quay về thành phố cũng đắt đỏ…
- Không! Không! Tao tưởng cuối tuần nào cũng về thành phố nên tao mới đi với mày. Mày chỉ trả lương cho tao ít như vậy mà còn muốn tao làm việc liên tục à? - Murielle gào lên, nước mắt lại giàn giụa - Tao sẽ gọi điện cho David và nhắn anh ta quay lại đón tao về phố!
- Vậy thì chị sẽ tự chi trả bằng tiền lương em trả cho chị khi chị sống ở thành phố. Em không về, nên cũng sẽ không trả tiền ăn ở đi lại cho chị - tôi đáp cụt lủn - Số tiền lương chị nhận được từ em ngang bằng tiền lương của giám đốc người bản địa ở Azafady, chị đừng tỏ ra như em đang ngược đãi chị được không?
Chị Melissa vừa đi chụp ảnh rừng về, đứng khựng lại nhìn quanh một cách lo lắng khi thấy chị Murielle và tôi đang đứng mặt đối mặt và nước mắt chị Murielle lại chảy lưng tròng:
- Tối nay tao không đi khảo sát với mày.
Nói rồi chị Murielle chạy vào lều. Tối hôm đó, chị ấy không ra ngoài thật, chỉ có tôi và ông Kadoffa đi thực địa cùng nhau. Cũng thật may là ông Kadoffa không hỏi gì nhiều khi không thấy chị Murielle. Tôi và ông cùng đi với nhau trong tĩnh lặng, và không khí u ám buồn tủi tôi mang theo dần nhường chỗ cho sự hào hứng mà tôi nhận lại mỗi khi nhìn thấy các loài vượn cáo: vì bình thường chị Murielle sẽ cố gắng nhắn tin, gọi điện thoại, hay thậm chí vừa đi vừa hát trong rừng nên tần suất nhìn thấy vượn cáo của chúng tôi ít hơn tối nay!
Sáng sớm ngày hôm sau, chị Murielle cũng không dậy để đi khảo sát vào ban ngày. Tôi và ông Kadoffa chờ đến 5 giờ 10 cũng không thấy chị ấy đâu, nên chúng tôi đi cùng nhau trước. Mặc dù cơn nóng giận đã nguôi ngoai ít nhiều, tôi cũng không thể nào đáp ứng được yêu cầu của chị ấy. Mỗi một tối ở lại thành phố là thêm $70 tiền nhà nghỉ, rồi cộng thêm khoản tiền ăn, tiền đi lại…
dù tiết kiệm thế nào cũng phải hơn $100 cho cả hai người. Khoản kinh phí dự án mà tôi nhận được không thể nào kham nổi con số này, nếu tuần nào chúng tôi cũng về thành phố hai ngày. Không kể đến việc thời gian mà tôi có cũng không cho phép tôi nghỉ ngơi nhiều đến vậy.
Vừa quay trở về trạm cho bữa trưa, chị Murielle đã ngồi trên ghế vắt vẻo ăn trưa. Không nhìn vào mắt tôi, chị thông báo rằng chị sẽ bỏ về Fort Dauphin rồi bay về Antananarivo.
- Được thôi - tôi trả lời. Chị Melissa đang đứng lấy nước ở phía bếp quay lại nhìn tôi ngỡ ngàng - Nhưng em sẽ không trả tiền đổi vé máy bay cho chị. Và cũng sẽ không trả phí để chị quay lại Fort Dauphin, hay tiền ăn, hay tiền khách sạn.
- Mày là một con bò già! - chị Murielle gào lên.
- Cảm ơn, và chị cũng vậy. Tôi đã tin tưởng chị nên không làm hợp đồng với chị ngay ngày đầu tiên. Nếu tôi kỹ càng và ký hợp đồng với chị, thì chị sẽ phải trả lại số tiền mà tôi đã chi trả cho suốt chuyến đi này của chị. Nhưng thôi, coi như tôi đã không cẩn thận đi. Vậy, chị lên đường bình an. Và tôi hy vọng sẽ không phải gặp lại chị nữa.
ấ
https://thuviensach.vn
Tôi nhìn xoáy vào Murielle, vừa cảm thấy lo sợ vì bị bỏ lại đây một mình, một nơi mà tôi hầu như không thể giao tiếp được với người dân bản địa, lại vừa cảm thấy phần nào nhẹ nhõm. Chị Murielle không hề giúp đỡ tôi như những gì chị ấy đã hứa. Không phiên dịch cho tôi khi tôi cần giao tiếp với người dân trong làng, và chỉ làm điều đó một cách miễn cưỡng. Chị ấy cũng không thực tâm muốn đi thực địa, khi mà vừa đi, vừa bật nhạc, vừa hát, vừa tìm cách liên lạc với bạn trai. Chị ấy chỉ cho rằng đây là cơ hội để kiếm tiền từ những waza đến nghiên cứu mà thôi.
Sau bữa trưa, chị Murielle quay về lều và bắt đầu dọn dẹp đồ đạc. Khoảng nửa tiếng sau đó có một chiếc xe tải nhỏ xông thẳng vào khu nghiên cứu và bấm còi inh ỏi một cách rất vô phép. Một đám thanh niên trai trẻ nhảy ra khỏi xe, hút thuốc và nói chuyện ầm ĩ. Tôi và chị Melissa lúc đó còn tưởng có cướp đến trạm rồi, vì họ chẳng chào hỏi ai mà cứ thế xộc thẳng vào phía trong. Hóa ra, đó là bạn của chị Murielle đến đưa chị ấy về thành phố. Murielle vào xe, không nhìn ai, cũng không chào ai. Lại tuýt còi ầm ĩ, chiếc xe phóng đi để lại đống khói bụi đen mù bay thẳng vào gian nhà bếp.
Ông Kadoffa lắc đầu, tặc lưỡi rồi chăm chú nhìn tôi. Cũng không biết nên nói gì, tôi ra phía sau múc nước giếng vào chậu rồi cắm thẳng đầu vào đó “Phải bình tĩnh, phải thật bình tĩnh. Mọi việc rồi sẽ ổn thôi”. - Em có sao không? chị Melissa lo lắng hỏi.
- Có sao đấy chị Melissa à… Ở lại thì cũng không giúp được gì, nhưng chị ấy bỏ đi em thấy cũng hơi lo sợ…
- Hay em nghỉ giờ làm chiều nay đi, bên Azafady cũng có phiên dịch. Em thử chạy qua đó tìm người phiên dịch và giải thích cho ông Kadoffa xem? - Chị cũng không nghĩ em nên tìm cách giữ chị Murielle lại à? - Không, một người không muốn ở lại thì dù có ở lại cũng chỉ tạo ra rắc rối thôi. Chị nghĩ em và ông Kadoffa sẽ là một đội tốt! - vừa nói, chị Melissa vừa vỗ vỗ vào vai trấn an tôi.
Chiều hôm đó, tôi không đi khảo sát thực vật nữa, mà chạy sang khu lều trại của tổ chức Azafady. Cũng thật may, hôm nay họ có buổi tập huấn, dạy những người phụ nữ trong làng đan sậy thành những vật dụng trong nhà, và đồ trang sức để bán cho khách du lịch. Tôi giải thích sự tình với anh Forrest - một nhân viên người Anh, hiện đang quản lý chương trình ở làng Sainte Luce để tìm sự giúp đỡ. Anh ấy cũng nhiệt tình, vội chạy đi tìm người phiên dịch cho tôi.
Sau khi giải thích mọi chuyện, tôi viết ra tờ giấy những gì tôi muốn nói với ông Kadoffa, và nhờ anh Haja dịch hộ. Anh ấy đọc rất cẩn thận, thỉnh thoảng gạch chân một vài từ và nhờ tôi giải thích nghĩa của nó. Rồi lại nắn nót viết từng chữ bằng tiếng bản địa, rồi hỏi liệu tôi có cần anh ấy đi cùng để gặp ông Kadoffa không. Chúng tôi cùng vào làng, ông Kadofa không có ở nhà, nhưng thật may là làng Sainte Luce rất bé. Chúng tôi thấy ông đang hút thuốc và ngồi tán chuyện với ngư dân ở đó.
Anh Haja kể lại câu chuyện với ông Kadoffa, thỉnh thoảng dịch lại vài câu hỏi của ông dành cho tôi. Tôi cũng không muốn đi sâu vào bất hòa với chị Murielle từ lúc bắt đầu, nên chỉ muốn nói rằng chị ấy muốn quay về Fort Dauphin quá thường xuyên và vì không được đáp ứng nhu cầu này nên chị ấy ề Ô ấ
https://thuviensach.vn
đã bỏ về trước. Ông Kadoffa nhìn tôi một cách trấn an, vì có lẽ ông cũng nhận ra giọng tôi đang run, và hai tay thì cứ liên tục nắm chặt lại một cách căng thẳng. Tối nay, ông vẫn sẽ đi thực địa với tôi, và cả những ngày sau nữa!
Thở phào nhẹ nhõm, tôi cảm ơn ông và anh Haja rồi vừa chạy về trạm vừa nhảy chân sáo. Cảm giác như một hòn đá đè nặng trong người đã được gỡ đi rồi! Vừa đi đến đầu bìa rừng thì thấy ông Antso - vốn làm bảo vệ ở trạm nghiên cứu đang chạy lại từ đằng xa. Vừa thoáng thấy bóng tôi ông đã gọi hớt hải, tay vẫy khua loạn xị. Ông nói một tràng tiếng địa phương, thở hổn hển, rồi chạy tiếp, vừa chạy vừa ra dấu muốn tôi theo. Chẳng hiểu gì, nhưng tôi cũng bị cuốn theo sự hớt hải của ông mà cũng ba chân bốn cẳng chạy theo.
Một đám nho nhỏ những người dân làng đang đứng túm tụm ở phía bên kia cánh rừng, họ nhìn cái gì đó dưới mặt đất một cách rất chăm chú, lo lắng và sợ hãi. Vừa lại gần, họ chỉ cho tôi cái gì đó ở phía dưới đám cây bụi. “Cái gì đó” đang di chuyển, được ngụy trang vừa khít với đám lá nâu đang mục nát dưới nền đất rừng. “Cái gì đó” có những lớp vảy màu nâu, vàng và đen bóng loáng được xếp chồng lên nhau một cách hoàn hảo… Đó là một chú trăn đất đặc hữu của hòn đảo này, và chú đẹp tuyệt vời!
https://thuviensach.vn
Trăn đất Madagascar - Madagascar ground boa (Acrantophis mada gascariensis) Đây là một chú trăn còn đang tuổi trưởng thành, có lẽ chỉ dài khoảng 1.2m. Một chú trăn trưởng thành của loài này có thể dài hơn 3m. Người dân ở Madagascar cũng giống người dân ở nhiều nơi trên thế giới, họ rất sợ rắn. Loài rắn và trăn ở nơi đây cũng thường đi cùng với những câu chuyện kể thần thoại ma quái. Nhiều người tin rằng những chú rắn có đuôi nhọn thường rình người và zebu từ trên cây cao, chúng sẽ nhảy bổ xuống dưới và dùng đuôi nhọn của mình để chọc thẳng vào đầu người. Có người lại cho rằng chúng sẽ
ế ố
https://thuviensach.vn
đi theo con người vào ban ngày, chờ đến đêm xuống thì sẽ dùng cái lưỡi nhọn hoắt để chọc vào tai và ăn não của nạn nhân. Có nơi lại nghĩ rằng rắn và trăn là hiện thân của tổ tiên họ. Nếu tổ tiên cần gì đó, như thức ăn, chăn đắp, hoa quả… thì sẽ hiện thân về dưới hình dạng của trăn rắn và gửi lời nhắn về yêu cầu của họ. Người thân trong gia đình sẽ đem những món đồ đó đến mộ của tổ tiên để gửi họ những vật dụng mà họ cần.
Nói chung, ở Madagascar, sự xuất hiện của trăn rắn ở gần làng thường được người dân cho là điềm xấu và họ sẽ tìm cách để xua chúng đi khi có thể. Tôi đoán đám trẻ con trong làng đã nhìn thấy chú trăn này và thông báo cho người lớn ở gần đấy. Nhưng ai cũng sợ phải động vào “điềm xấu” này, nên họ đã cử ông Antso, vốn là bảo vệ ở trạm nghiên cứu để nhờ một waza đem “điềm xấu” đi.
Tôi ra dấu bảo mọi người yên lặng, vì những âm thanh và tiếng động mạnh sẽ làm chú trăn bị kích động và căng thẳng (điều này áp dụng với tất cả các loài động vật chứ không chỉ với loài trăn). Vừa hay, một người đàn ông trong làng chạy trở lại, cầm theo một cây gậy rất to. Có lẽ anh ta muốn đập chết chú trăn này rồi vứt ra xa khỏi làng, như tập tục ở nhiều nơi trên hòn đảo này để xua đuổi điềm xấu. Ông Antso suỵt anh ta và mọi người lại chăm chú, nín thở nhìn tôi.
Tôi từ từ tiến lại gần chú trăn, rồi luồn tay xuống phía dưới bụng chú, nâng nhẹ để chú tự nhiên cuốn đuôi của mình lên cánh tay tôi. Khác với tưởng tượng của nhiều người, lớp vảy bóng bẩy của trăn và rắn khiến họ cho rằng những loài này rất “nhớp nháp” và “dơ bẩn”. Nhưng hoàn toàn không phải thế. Tôi cảm nhận được lớp vảy mịn màng, phần cơ bắp chắc nịch đang từ từ cuốn chặt vào tay mình. Chú trăn này vẫn rất bình tĩnh, và không hề có dấu hiệu căng thẳng khi tôi nâng chú lên. Tôi dùng cả hai tay, tay phải đỡ lấy phần thân dưới với chiếc đuôi đang quấn lấy cánh tay, tay trái nâng đỡ phần trên, gần đầu để chú có thể thoải mái trườn trên tay mình. Tiếng hít hơi thật sâu vang lên từ phía sau, tôi cảm giác tất cả ánh mắt của mọi người đều đang dán chặt lên mình. Nhẹ nhàng bảo chú trăn hãy yên tâm, tôi sẽ đưa chú vào sâu hơn trong rừng để đảm bảo an toàn cho chú, tôi bước về phía trước. Lúc này, đám đông đã ngày một tăng thêm. Nhiều người sợ hãi, lấy tay bịt miệng nhìn theo chú trăn đang quấn trên cánh tay tôi. Chị Melissa vừa mới đến, cầm theo chiếc máy ảnh, ra dấu bảo tôi làm tốt lắm, rồi chỉ cho tôi về phía sau cánh rừng, nơi chị cho rằng sẽ là chỗ lý tưởng để chú trăn được nghỉ ngơi mà không quấy rầy người dân làng. Tôi đi theo chị, lúc này chỉ còn vài người đàn ông và thanh niên là dám đi theo chúng tôi. Đa phần mọi người vẫn đứng lại chỗ cũ. Tôi thấy đám trẻ con đang tìm cách thoát ra khỏi sự kìm kẹp của những bà mẹ vẫn còn đang sợ hãi. Rõ ràng đối với chúng, chú trăn là sự tò mò không thể cưỡng khỏi.
Chúng tôi đi khoảng 15 phút vào phía bên trong của mảng rừng, nơi ít người dân vào hơn. Chị Melissa chỉ cho tôi một khoảng trống với những bụi cây nhỏ rất giống với nơi chúng tôi nhìn thấy chú trăn này, và tôi cố gắng thật nhẹ nhàng đặt chú trăn xuống dưới một gốc cây nhỏ. Chú ta có vẻ vui mừng vì chuyến đi bất đắc dĩ đã kết thúc, trườn thẳng từ hai cánh tay tôi xuống bụi cây, và bỏ đi nơi khác.
ề ế ắ
https://thuviensach.vn
Chiều hôm sau, chị Melissa lại khoác lên vai chiếc ba lô nặng trịch, bắt tay tôi một cách thật chắc chắn, mỉm cười và lên xe đi về thành phố. Bây giờ, trạm nghiên cứu chỉ còn có tôi. Tuần làm việc còn lại trôi qua một cách chậm chạp. Tôi và ông Kadoffa vẫn tiếp tục làm việc với nhau, một ngày 3 lần đi khảo sát. Chúng tôi làm việc ăn ý hơn, nhiều khi chẳng cần phải giải thích nhiều, ông cũng hiểu tôi muốn nói gì. Ông thường ở lại ăn cơm tối cùng tôi sau mỗi buổi
đi khảo sát ban đêm rồi mới về để tôi không phải ăn một mình. Hai tuần đầu tiên ở trong rừng trôi qua như vậy đấy. Khi vừa thở phào vì đã hoàn thành việc thu thập số liệu của mảng rừng Sainte Luce đầu tiên, thì tôi nhận được điện thoại từ chú JB. Chú gọi tôi về Fort Dauphin để gặp trợ lý mới… họ đã tìm cho tôi một sinh viên bản địa khác. Vì tôi và ông Kadoffa đang làm việc rất tốt, tôi cảm thấy không cần phải nhận thêm trợ lý. Nhưng chú JB nói rằng đó là luật mà tôi phải tuân theo, trừ phi tôi không thể tìm được sinh viên nào để giúp đỡ, còn không thì tôi buộc phải nhận những người được giới thiệu. Tôi đành chào ông Kadoffa, vác theo đồ đạc và lên xe theo David về Fort Dauphin, hy vọng rằng khi đến nơi thì chú JB vẫn còn ở văn phòng. Lúc về đến nơi đã gần 7 giờ tối. Thành phố không một ánh đèn. Nhưng cũng thật may vì QMM đang chuẩn bị một buổi mít tính với chính quyền thành phố vào tuần sau, nên mọi người đang làm tăng ca. Họ dọn dẹp, và bày biện dãy hành lang của phòng họp như một cuộc triển lãm nhỏ về những hoạt động môi trường mà họ đang thực hiện. Thực ra thì ngày Môi trường thế giới cũng đang đến gần, nên những tổ chức làm việc liên quan đến môi trường và bảo tồn đều đang cố gắng có một hoạt động nào đó, vừa để có thể thông báo với chính quyền, vừa để thu hút quỹ đầu tư ở nước ngoài và nâng cao nhận thức của người dân bản địa.
Mệt mỏi vì phải dậy sớm từ 5 giờ sáng, rồi dọn dẹp và đi một chuyến đi dài, tôi cảm thấy người mình sắp lả đi rồi, và bụng thì đang réo rắt đòi ăn. Nhưng quả thật nhìn những mẫu vật được bày biện quanh đây khiến tôi cảm thấy rất hứng thú. Vừa ngỏng cổ nhìn theo một nhân viên bê theo mẫu vật của những loại rong tảo có thể tìm thấy quanh vùng biển ở đây, tôi thấy một bàn tay rắn chắc đặt trên vai mình. Đó là chú JB - có lẽ anh David đã thông báo cho chú ấy biết tôi đã về đến nơi an toàn.
Chúng tôi thảo luận một lúc về những chuyện đã xảy ra. Rồi tôi hào hứng cho chú ấy xem danh sách những loài tôi đã gặp trong rừng, và vì biết JB đặc biệt có hứng thú với lưỡng cư, tôi đã nấn ná ở danh mục lưỡng cư lâu hơn bình thường. Khoảng 7 giờ rưỡi thì trợ lý mới của tôi đến nơi. Một thanh niên gầy gò, nhỏ bé, có lẽ chỉ cao bằng tôi thôi. Tên cậu ấy là Raul, và cậu ấy có vẻ nhút nhát, chỉ lí nhí trả lời khi được hỏi. Chú JB nói rằng chú ấy đã gửi cho cậu ta xem bản nghiên cứu của tôi, mặc dù cậu ấy làm nghiên cứu về rùa, chứ chưa từng làm những công việc liên quan đến vượn cáo, nhưng cậu ấy có thể giúp đỡ tôi phần nào công việc. Rút kinh nghiệm từ lần trước, chúng tôi bàn bạc luôn về vấn đề lương lậu, những chi phí phụ trội mà tôi phải trả và những yêu cầu của Raul về ngày phép.
Mặc dù vẫn lo lắng do những khúc mắc với trợ lý trước, tôi vẫn cảm thấy hài lòng hơn nhiều với Raul. Cậu ấy có vẻ rất thật thà, không đòi hỏi gì nhiều,
ẵ
https://thuviensach.vn
và sẵn sàng đi rừng với tôi vào sáng thứ Hai tới.
Khoảng 8 giờ tối, chúng tôi chào từ biệt chú JB. Vì mọi người đều khuyến cáo rằng khách nước ngoài không nên đi lại một mình vào buổi tối, đặc biệt là sau vụ việc một đôi khách du lịch người Pháp đã bị giết và cướp hết đồ đạc cách đây không lâu nên tôi đứng chờ xe taxi vãng lai để về khách sạn, dù chỉ mất khoảng 30 phút đi bộ thôi. Nhưng tôi chờ mãi, chờ mãi ở khu chợ mà vẫn không có một chiếc taxi còn trống nào đi qua. Quyết định rằng càng chờ lâu một mình càng nguy hiểm, tôi tự đi bộ về khách sạn. Con đường nhỏ, tối om nhưng đầy người nghèo ngồi hoặc nằm ngay sát lòng đường, thỉnh thoảng lại nhá lên ánh sáng chói lòa của một chiếc xe ô tô hay xe tải nào đó đi ngược chiều. Vừa đi vừa vắt chéo ngón tay - dấu hiệu cầu may của người Anh - và hy vọng rằng mình sẽ không bị cướp giật trên đường, tôi dò dẫm tìm đường về khách sạn.
Phía khu vực khách sạn Kaleta, dù vẫn còn rất nghèo nếu so với những nước đang phát triển, nhưng quả thật ở khung cảnh nơi đây, nó giống như một lâu đài tráng lệ, với đèn điện sáng trưng, và một tiệm bánh Pháp nhỏ ở sảnh. Tôi đặt một phòng đơn cho hai tối, mệt mỏi lê bước về phòng, với bùn đất, và những mẩu cành cây khô gãy nhỏ vẫn còn đang mắc ở tóc và quần áo. Nhân viên ở đây có lẽ đã quá quen với những khách hàng “đặc biệt” mang về những dấu tích rừng rú là những người làm nghiên cứu trong những khu rừng quanh đây như tôi, họ nhiệt tình giúp tôi vác chiếc ba lô to nặng trịch, rồi gợi ý tôi có thể đặt đồ ăn tối tại phòng, thay vì phải xuống nhà ăn.
Cảm giác được tắm nước nóng, và được nằm trên giường đệm sau hai tuần nằm đất quả thực phải trải qua mới biết nó ý nghĩa như thế nào. Tôi gần như quên mất giường đệm có thể êm ái đến mức nào, và nhờ ánh đèn sáng choang trong nhà tắm, mà tôi mới nhận ra những vết gai cào cả cũ lẫn mới trên mặt. Thực sự thì tôi không mang theo gương khi đi thực địa, nên cảm giác lần đầu tiên nhìn vào khuôn mặt mình sau một thời gian cũng lạ lạ sao đó. Tối hôm ấy, tôi lăn vào giường ngay từ 9 giờ tối, và ngủ một mạch đến 9 giờ sáng hôm sau.
Vì đã hoàn thành khu vực S9 - tên mảng rừng mà tôi vừa khảo sát, nên tôi cần chuẩn bị cho mảng rừng tiếp theo. S17 là tên một mảng rừng hẹp nhất trong số những mảng rừng còn sót lại của Sainte Luce, nhưng đây cũng là mảng rừng dài nhất và đẹp nhất ở khu vực này. Nó nằm ngay sát với bờ biển, và đôi khi, nếu may mắn, bạn có thể thấy cá voi ở đây. Mảng rừng được chia thành hai nửa. Nửa phía bắc được quản lý bởi gia đình địa chủ từ thời Pháp thuộc D’holm mà tôi đã xin được giấy phép từ tuần đầu tiên ở đây. Mảng phía nam hiện đang được quản lý bởi một người đàn ông giàu có người Úc tên Andrew. Ông ấy đã sinh sống ở đây từ rất lâu rồi, và lập ra một tổ chức nhỏ, đưa khách du lịch đến tham quan khu vực. Tôi có hẹn ăn trưa với Sissi, quản lý người bản địa của tổ chức này để hỏi xem liệu tôi có thể ở tạm khu vực cắm trại của họ không. Vì nếu được, thì chúng tôi có thể dùng nhờ bếp và khu nhà ăn của họ. Chúng tôi hẹn gặp nhau ở một quán ăn Tàu gần chợ. Tôi đến từ khá sớm vì muốn được ngồi lười biếng ngắm nhìn những người dân bản địa bận rộn nơi đây.
ồ ắ
https://thuviensach.vn
Khi ngồi nhâm nhi một ly trà nóng trong quán ăn, tôi ung dung ngắm nhìn những người qua đường, và cả những thương lái đang tìm cách bán những mặt hàng tươi mới cho bà chủ nhà hàng. Lúc thì có người tiến vào với hai thúng cá tươi vừa mới bắt được ở biển, khi là những chú gà bị bó chặt chân và bị xách ngược từ chợ và một bọc trứng tươi, lúc lại là những tảng thịt zebu đỏ thẫm. Bà chủ nhà hàng là một người gốc Hoa, còn rất trẻ. Chị kiểm tra mặt hàng một cách cẩn thận, thỉnh thoảng chun mũi khi gặp phải đồ không vừa ý, vẩy tay từ chối món hàng từ khuôn mặt nhem nhuốc tràn đầy hy vọng của người bán, hoặc gọi nhân viên ra khuân hàng vào nhà bếp trong cái mừng khấp khởi của kẻ vừa bán được hàng.
Con đường phía bên ngoài tấp nập những người phụ nữ đang túm năm tụm ba bàn chuyện sôi nổi, những bà, những mẹ đang tranh thủ buổi sáng Chủ nhật để mua thật nhiều đồ tươi ngon, những chị chủ quầy sạp tất bật chạy ra chạy vào để lấy đồ cho khách. Một điểm chung trong số họ, là dù người phụ nữ giàu có, hay người phụ nữ lam lũ, đều quấn quanh người một miếng lamba thật bắt mắt. Lamba là từ địa phương dùng để chỉ mảnh vải to, sặc sỡ mà những người phụ nữ nơi đây sử dụng để quấn quanh người như một loại trang sức, tôn lên vẻ đẹp của cơ thể. Nhưng nó cũng có thể trở nên vô cùng hữu dụng: những người phụ nữ dùng nó để địu con ở đằng trước hoặc phía sau. Họ cũng có thể địu những vật dụng khác, như cơm trưa, tải gạo, hay thậm chí là gà, vịt. Có khi nó được quấn quanh người như một chiếc váy, hay áo chống nắng. Lúc trời trở lạnh, nó là vật dụng tuyệt vời để chống gió, và giữ ấm cơ thể khi ngủ trưa. Ở đây, những người phụ nữ sử dụng lamba đủ loại màu sắc, từ xanh, đỏ, cam hay nâu vàng. Họ cũng lựa chọn những mảnh vải đội đầu rất khéo, trùng màu với tấm lamba mà họ đang mặc.
Tôi thường bắt gặp những người phụ nữ buôn bán ở chợ, với tấm lamba quấn quanh theo đường cong cơ thể, di chuyển nhẹ nhàng như lướt đi trên nền đất đỏ, ngay cả khi họ đang đội trên đầu những thúng hàng rất nặng. Đôi lúc khi ngắm nhìn họ, tôi tự hỏi làm sao cần cổ nhỏ bé của họ có thể chịu được sức nặng đến như vậy: tôi thấy một người phụ nữ đội theo một thúng khoai. Thúng khoai này nặng đến nỗi để đặt được nó xuống, cô ấy phải được giúp đỡ bởi hai người nữa. Nhưng sau khi thúng khoai này đã được đặt xuống đất, cô lắc nhẹ đầu vẻ thoải mái, rồi thản nhiên hòa vào đám đông một cách uyển chuyển. Một người phụ nữ khác đội theo một cái thúng có hai con ngỗng, hai cần cổ dài đung đưa từ phía trên thúng một cách quái dị. Thỉnh thoảng chúng kêu một cách hoảng hốt khi người đi đường tiến lại quá gần.
Gần 12 giờ trưa chị Sissi mới đến. Buổi gặp mặt diễn ra tốt đẹp. Tôi có thể ở lại khu nghiên cứu của họ, và chị Sissi sẽ đi cùng tôi vào sáng mai để giới thiệu tôi với những nhân viên bản địa khác đang sống ở đó. Họ cũng đang có một tình nguyện viên, vốn là nhiếp ảnh gia tự do người Mỹ đến giúp họ chụp ảnh các loài động vật ở khu rừng này. Cảm ơn chị Sissi, tôi quay trở về khách sạn, tự thưởng cho mình một que kem thơm ngọt, tôi tranh thủ sử dụng Internet để gửi email cho thầy Giuseppe, nói chuyện với bố mẹ và mua chút kẹo ngọt để mang theo vào sáng hôm sau.* * *
ấ ố
https://thuviensach.vn
S17… Đây thực sự là khoảng rừng đẹp nhất trong số những mảng rừng còn sót lại ở Sainte Luce. Thế nhưng con đường đến đó quả thật là gian nan. Thứ Hai. Mưa như trút nước. Mưa như thể trên trời có bao nhiêu nước thì đều đồng loạt đổ xuống cùng một lúc. Những cái hồ cạn mà chúng tôi vượt qua trước đây đều trở thành những cái hồ đầy nước, nước nhiều đến mức chui lênh láng cả vào trong xe. Khi đến gần khu vực Sainte Luce, đường quá ngập và bánh xe bị tắc dưới bùn, chúng tôi đành quyết định xuống xe và đi bộ. Anh David kịp thời gọi một vài người dân để vận chuyển đồ đạc của chúng tôi ra bờ sông, rồi theo đường thuyền mà đi vào S17. Tôi, Sissi và cậu trợ lý mới Raul sẽ phải đi bộ từ cánh đồng gần đó, xuôi theo đường bờ biển và tiến vào rừng.
Cơn mưa xối xả, bộ đồ chống nước của tôi không còn tác dụng nữa, khi mà nước từ trên cằm, trên mặt cứ chảy xuống như suối. Dòng nước lạnh ngắt chạy dọc theo cơ thể, toàn thân ướt nhẹp. Tôi ép chặt chiếc ba lô đã được bọc kỹ lưỡng trước ngực, chỉ sợ nước mưa sẽ làm hỏng dụng cụ. Chúng tôi cứ thế đi, cúi gập người trước cơn gió mạnh từ biển thổi vào. Lầm lũi đi trong làn mưa như vậy khoảng một tiếng thì chúng tôi đến được bìa rừng. Từ đây đến nơi cắm trại của chị Sissi còn 8 cây số nữa… Chiếc ba lô của tôi sau một tiếng đồng hồ trên vai giờ đã trở nên nặng trịch, cảm giác như hai dây quai như đang cứa vào da thịt. Hơn 5 tiếng đồng hồ mò mẫm trong rừng, với khoảng 10 cân đồ đạc dụng cụ trên vai, và cơn mưa vẫn tiếp tục xối xả phía trên, chúng tôi cũng đến được khu cắm trại, mừng đến rơi nước mắt.
Sau khi đặt chiếc ba lô xuống chỗ khô ráo nhất trong khu trại, tôi cẩn thận mở từng lớp bọc chống nước bên ngoài. Thở phào vì bên trong vẫn còn khô ráo, tôi sán lại gần cái bếp củi, với những ngọn lửa ấm áp đang mời chào. Mùa đông ở Madagascar vào ban ngày quả thật không lạnh, nhưng khi bị dầm mưa hàng tiếng đồng hồ, người tôi cứ run lên từng chập. Ba lô quần áo của chúng tôi vẫn chưa thấy đâu, dưới cơn mưa như thế này có lẽ việc di chuyển bằng thuyền còn khó khăn hơn gấp bội. Cũng may anh bếp ở đây thấy tôi run rẩy mà không có quần áo để thay thì đã cho tôi mượn một chiếc áo khô đang treo trong bếp. Buổi tối hôm ấy là bữa cơm hầm đậu ngon nhất mà tôi từng được ăn. Dường như sau mỗi thìa cơm là tôi lại cảm nhận được hơi ấm lan truyền dần trong cơ thể, ra đến từng ngón tay, ngón chân.
Đám người chúng tôi chờ đợi một cách sốt ruột trong màn mưa đen… Lều, ba lô quần áo của chúng tôi vẫn chưa thấy đâu. Đến tầm 9 giờ, vài ánh đèn sáng nhóa lên ở phía con sông sau những bụi cây, tiếng người hò hét, tiếng nước va đập vào mạn thuyền. Cuối cùng, mọi người cũng đến an toàn. Chúng tôi chạy lại, giúp mọi người khuân vác đồ đạc vào bên trong. Ông Kadoffa cũng ở trên chiếc thuyền này cùng mọi người, và chú JB đã cẩn thận cử thêm một chị bếp đến để giúp tôi ở khu rừng này. Chiếc ba lô đựng quần áo đồ đạc của tôi đầy bùn và ướt từ trong ra ngoài, như thể nó đã được đặt dưới lòng hồ mà kéo lê đi vậy. Trong cơn mưa xối xả, chúng tôi giúp nhau dựng lều rồi chúc nhau ngủ ngon một cách vội vã. Ngày đầu tiên vất vả hơn thường lệ ở S17 đã trôi qua như vậy đấy.
ẫ ế ổ ấ
https://thuviensach.vn
Ngày hôm sau, trời vẫn tiếp tục đổ mưa, không có dấu hiệu gì là sẽ dừng lại. Không thể đi rừng trong tình trạng như thế này, tôi lôi những báo cáo khoa học về loài vượn cáo đã từng được nghiên cứu trước đây ở cùng khu vực này để đọc. Đến chiều và tối, trời vẫn tiếp tục mưa.
* * *
Sáng sớm hôm sau, tôi thức dậy trong sự tĩnh lặng… và rồi có tiếng chim hót xa xa! Mưa ngừng hẳn rồi! Chúng tôi ăn sáng từ sớm, rồi với tâm trạng hoan hỉ, cả ba cùng nhau lên đường đi tìm vượn cáo. Buổi sáng sau cơn mưa tầm tã, trời nắng lên thật đẹp. Ánh nắng trong veo xuyên qua mảnh rừng thưa như một dải lụa vàng lấp lánh, lấp lánh. Mấy ngày qua các loài động vật cũng phải tìm chỗ trú mưa, giờ thì thi nhau ra phía ngoài để sưởi nắng, đón ánh mặt trời mọc. Chúng tôi gặp may và gặp hai nhóm varika và một gia đình avahi chỉ trong vài tiếng khảo sát. Nhưng tôi vẫn không khỏi lo lắng khi nhận ra Raul dường như không phân biệt được loài vượn cáo nào với loài vượn cáo nào, cậu ấy cũng đi rất chậm, và cứ thường xuyên chăm chú nhìn xuống đất…
Sau bữa ăn trưa, tôi đem tất cả đồ đạc bị ẩm thấp đi phơi, rồi mang theo quyển nhận dạng các loài vượn cáo ở đông nam Madagascar ra hỏi thử Raul xem kiến thức của cậu ấy thế nào.
- Raul này, chúng ta đi tìm loài động vật gì ấy nhỉ?
- Lemur - Raul đáp lại rụt rè bằng tiếng Anh.
- Thế… lemur sống ở đâu?
- Trong rừng.
- Đúng rồi, nhưng chỗ nào trong rừng? Trên cây à? Hay dưới đất? - Trên cây chứ? - Raul gãi tai.
- Phần nào của cây nhỉ? Dưới gốc hay trên tán, trên ngọn cây? - Trên ngọn cây nhỉ - cậu ấy trả lời, vẻ hoang mang lộ trên mặt, thỉnh thoảng lại nhìn ông Kadoffa như cầu cứu khi tôi liên tiếp đặt câu hỏi. - Ừ, đúng rồi. Thế sao cậu liên tục nhìn xuống đất khi đi khảo sát với tôi? Lemur sống ở tầng trên của tán cây, thì cậu phải nhìn trên tán cây, chứ sao lại nhìn xuống đất?
- [Im lặng]
- Được rồi, vậy mình đang đi tìm loài nào ý nhỉ?
- Varika (tiếng địa phương của loài vượn cáo má nâu).
- Ừ, còn những loài nào nữa nhỉ? Tôi nhớ là còn nữa cơ.
- [Im lặng]
- Cậu đã đọc bản tóm tắt dự án của tôi mà chú JB in cho cậu chưa? - Rồi.
- Thế trong khu này có bao nhiêu loài vượn cáo.
- [Im lặng]
- Cậu chưa đọc, đúng không? - tôi hỏi lại, bắt đầu thấy nóng gáy… - Chưa…
- Vậy tại sao lại nói dối tôi?
- [Im lặng]
ế ầ ể
https://thuviensach.vn
- Vậy cậu có biết đi thực địa vào ban đêm, chúng ta cầm đèn để làm gì không?
- Để thấy đường đi - Raul nói nhanh, như thể vui mừng vì đây là đáp án mà cậu ấy chắc chắn trả lời đúng.
- Ừ, đúng rồi, còn gì nữa - tôi hơi bật cười vì phản ứng của cậu ấy, nhưng vẫn quyết tâm tỏ ra thật nghiêm nghị.
- Để… - Raul lại gãi tai, lại nhìn sang ông Kadoffa cầu cứu. - Để chỉ đèn lên những tán cây, ánh đèn sẽ phản chiếu lại từ mắt của những loài động vật hoạt động về đêm, và chúng ta dựa vào đó để phân loại và đếm chúng. Nhớ chưa?
- Nhớ rồi - Raul tiu nghỉu.
- Tôi nói tổng kết lại này, khi đi thực địa thì phải đi theo tuyến đường mình đã định sẵn, không được đi lung tung. Phải đi cùng nhau, nếu muốn dừng lại thì phải báo, và cố gắng đi với vận tốc khoảng 1 cây số 1 giờ. Sáng nay cậu đi chậm quá, tôi và ông Kadoffa cứ phải dừng lại để chờ cậu vì không thấy cậu đâu. Như vậy ảnh hưởng đến công việc của chúng ta. Cậu cũng phải quan sát lên tán cây, không nhìn xuống đất. Đèn dùng để tìm ánh sáng phản chiếu lại từ mắt động vật hoạt động về đêm, nhớ nhé?
- Ừ.
- Được rồi, đây là tóm tắt dự án của tôi. Cậu đọc kỹ lại, xem có gì chưa hiểu thì hỏi. Còn cuốn sách này có dạy cách phân biệt các loài vượn cáo, cậu nhờ ông Kadoffa chỉ thêm cho. Phải xem kỹ, chiều tôi kiểm tra lại, chưa nhớ tôi phạt đấy - tôi dọa.
Ông Kadoffa ngồi nhìn tôi đứng chống nạnh, chỉ trỏ vào sách để hướng dẫn Raul cách phân loại vượn cáo và cười hinh hích.
Đến chiều, trước khi đi thực địa, tôi đặt lại những câu hỏi tương tự cho Raul. Cậu ấy chẳng nhớ thêm được điều gì, ngoài việc bên cạnh varika thì dự án của tôi còn bao gồm thêm ba loài khác nữa. Cậu ấy thậm chí cũng chưa nhớ được cách phân biệt các loài vượn cáo - vốn dĩ trông rất khác nhau này. Tôi gia hạn thêm cho cậu ấy thêm một ngày nữa. Thở hắt ra, tôi bắt gặp gương mặt đang cười tủm tỉm của ông Kadoffa.
Buổi tối đi khảo sát còn đau khổ hơn. Raul vẫn nhịp điệu đủng đỉnh đi bộ đằng sau, để mặc tôi và ông Kadoffa đi đằng trước. Cứ mỗi 15 phút, chúng tôi lại phải đứng lại chờ, dù đã dặn phải giữ theo nhịp độ của chúng tôi, cậu ấy gật đầu, rồi đâu lại vào đấy. Chuyện này cứ thế diễn ra hơn một tiếng đồng hồ, cả tôi và Kadoffa bắt đầu bực mình và sốt ruột, chúng tôi quyết định cứ làm
theo nhịp độ bình thường, rồi trở về lều mà không chờ Raul nữa. Sáng sớm hôm sau, ông Kadoffa kể với tôi rằng, mãi hơn một tiếng sau khi chúng tôi về mới thấy Raul quay lại lều, cậu ấy bảo tưởng chúng tôi đi lạc đằng sau nên tìm mãi mà chả thấy đâu…
Vừa buồn cười, vừa bực, tôi thốt lên “Ôi trời ơi!”
Lúc chuẩn bị đi thực địa vào sáng hôm ấy, anh Grog, anh nhiếp ảnh gia tự do kiêm tình nguyện viên người Mỹ ở đây xin được đi cùng chúng tôi. Anh ở đây đã hơn một tuần rồi, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy varika. Tôi ngạc nhiên hỏi
ằ
https://thuviensach.vn
anh thường đi vào giờ nào, thì anh trả lời rằng cứ khi nào ngủ dậy, ăn sáng xong thì anh mới đi. Tôi cười tủm tỉm, OK! Đi cùng cũng được, nhưng phải làm theo chỉ dẫn của chúng tôi và không được đi giữa chừng thì đòi về.
Khi đi thực địa, tôi hay sắp xếp để đi những transects ở xa chỗ dựng lều trại nhất trước tiên, để những ngày cuối cùng - thường là mỏi mệt, thì không phải đi xa. Hôm nay chúng tôi sẽ đi làm ở xa trên phía bắc. Ông Kadoffa bàn bạc với vài người dân làng khác để tìm đường đi dễ nhất vào khu vực mà tôi muốn tiến hành khảo sát. Cuối cùng, họ kết luận là chúng tôi nên đi đường ven biển, sau đó cắt ngang qua một cánh đồng cỏ dài, rồi trèo qua một ngọn đồi nhỏ là đường dễ đi nhất.
Đường ven bờ biển quả thật là rất đẹp. Bãi cát trắng muốt không một bóng người, nước biển xanh trong vắt và bầu trời thì không một gợn mây. Đã lâu lắm rồi tôi không ra biển - một lời thú thật hơi kỳ lạ từ một người đã sống trên đảo quốc bốn năm qua. Nhưng thời tiết ở xứ sở sương mù quả thật rất lạnh, dù có là mùa hè thì tôi cũng chẳng có hứng ra biển một chút nào, và có ra thì những bãi biển ở Anh cũng không phải là bãi biển đẹp nên thơ với nước biển ấm áp mời chào.
Đi khoảng 20 phút trên bãi biển thì ông Kadoffa rẽ vào một con đường nhỏ, chúng tôi cứ theo con đường mòn này mà đi về phía rừng. Đồng cỏ dại mọc rất cao, lá cỏ khô ráp cũng rất cứng và nhọn. Mặt trời lúc này đã lên cao và ánh nắng cũng gay gắt hơn. Nhưng vì vẫn còn là sáng sớm, nên chúng tôi có thể thấy hơi nước ẩm ướt bay ngược lên trời… Cảm giác mờ ảo, không thực, như đang lạc vào một thế giới thần tiên nào đó vậy. Đây là cảnh tượng mà tôi chưa bao giờ được chứng kiến trước đây…
Đi thêm một đoạn nữa thì chúng tôi bắt đầu phải leo dốc. Những cây cỏ dần được thay thế bởi cây bụi, cây gai. Những bụi gai này trở nên rậm rạp hơn khi chúng tôi tiến vào phía rừng. Nhiều lúc, ông Kadoffa phải dùng chiếc dao rựa lớn mà ông mang theo để chặt bớt khi bụi gai trở nên dày đặc đến nỗi không còn đường để đi. Có những đoạn, chúng tôi phải cúi khom lưng, bò trên đầu gối, thậm chí áp cả bụng xuống đất để trườn phía dưới những tán gai. Cứ mỗi chốc lại vang lên tiếng xuýt xoa vì bị gai cào, tiếng cằn nhằn vì quần áo bị móc rách, và cả tiếng chửi thề của anh Grog. Gần 20 phút loay hoay trong bụi gai, đến lúc tưởng như chúng tôi đã thoát ra ngoài và có thể đứng lên được rồi, thì mới phát hiện ra chúng tôi mới chỉ đi được gần nửa đường. Anh Grog gần như chịu hết nổi, tóc tai dính đầy lá và gai, mặt mũi, tay chân đều bị cào và trầy xước:
- F%A& this! Trang ơi, tôi về đây! Tôi không đi được nữa đâu! - anh rít lên the thé.
- Từ đầu anh đã bảo là sẽ không bỏ cuộc giữa chừng mà! tôi phản kháng - Cũng không có ai đưa anh quay lại được!
- Nhưng tôi cao to thế này, những chỗ chui rúc như vậy tôi thật không đi nổi. Em, Kadoffa và Raul nhỏ con nên còn đỡ, nhìn tôi đây này!!! - anh giơ hai cánh tay bị cào đỏ ửng, rồi tìm cách phủi những cành nhỏ vương trên tóc. Tôi quay lưng đi tiếp:
- Vậy anh phải tự tìm đường về rồi.
Ô ắ ế ồ
https://thuviensach.vn
Ông Kadoffa và Raul lo lắng hết nhìn tôi rồi lại nhìn anh Grog, dù không hiểu hết nội dung của cuộc hội thoại, ông cũng có thể thấy được anh Grog đang rất bực mình và muốn quay về. Thấy tôi có vẻ cương quyết không để ông Kadoffa hay Raul đưa về, anh Grog lầm bầm thêm một lúc rồi không nói gì nữa. Đường ở phía trên ngọn đồi dễ đi hơn, dù bụi gai vẫn còn rất rậm rạp. Thế rồi, cứ như thể đã phân chia ranh giới một cách rất rõ ràng vậy, chúng tôi được những bóng cây lớn mát rượi che chắn khỏi ánh nắng chói chang của mặt trời phía trên. Bụi gai ở phía sau giờ đã nhường chỗ cho những cây gỗ to lớn hơn, cảm giác như chúng đang nhìn theo tiếc nuối vì chúng tôi đã trốn thoát khỏi những cái gai sắc bén của chúng vậy.
- Tạ ơn Chúa - anh Grog kêu lên khẩn khoản, rồi ngồi phịch xuống đất và bắt đầu gỡ gai ra khỏi áo quần.
- Anh thấy đi thực địa khổ chưa? - tôi cười, nháy mắt trêu ghẹo. - Đúng đó, vậy nên người cao to như tôi có lẽ không hợp với việc này! - anh đáp trả.
* * *
https://thuviensach.vn
Vượn cáo má nâu - Brown collared lemur (Eulemur collaris)
Chúng tôi ngồi nghỉ và uống nước, rồi lại đi tiếp. Chỉ khoảng 5 phút từ chỗ dừng chân, tôi bỗng nghe thấy tiếng lá xào xạc một cách khác thường. Ngước nhìn lên thì thấy ở ngay trước mắt, khoảng 40 độ về phía bên tay trái, một đàn varika đang nhảy nhót chuyền cành. Kể từ khi bắt đầu chuyến đi thực địa từ hai tuần trước, gần như ngày nào cũng thấy chúng, nhưng lần nào cũng như lần nào, tôi cảm giác như trái tim mình đập nhanh đến mức khó thở. Varika là loài vượn cáo to khoảng cỡ của một chú mèo nhà, bộ lông màu nâu sậm với chiếc đuôi xù dài và đôi mắt linh hoạt màu hổ phách, nổi bật trên khuôn mặt màu tro đen. Chúng là loài linh trưởng đóng vai trò như người gieo hạt trong những cánh rừng ở Madagascar, vì đa phần thức ăn của chúng là các loại hoa quả, ắ ồ
https://thuviensach.vn
nên hạt cây theo phân của chúng phân tán khắp cánh rừng, và từ đó những chồi non được mọc lên. Thực vậy, nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ở những khu rừng không còn sự tồn tại của varika thì sự đa dạng của thực vật, đặc biệt là ở những loài cây ăn quả cũng thấp hơn nhiều so với trước đó.
Lúc này, khi tôi đang ghi lại những số liệu về nhóm varika đang tò mò ló đầu xuống từ những tán cây để quan sát chúng tôi, thì anh Grog đang sung sướng cười toe toét và tác nghiệp với chiếc máy ảnh của mình. Vừa trầm trồ, xuýt xoa đôi mắt màu hổ phách tuyệt đẹp, vừa liên tục tự nhận mình quá may mắn vì không bỏ về giữa chừng, anh Grog dường như đã quên hết những vết xước do bụi gai gây ra.
Như để đền đáp sự khó nhọc của buổi sáng này, ngày hôm đó chúng tôi gặp đến 4 nhóm varika khác nhau! Anh Grog hết sức ngạc nhiên trước sự may mắn này, và liên tục nói rằng chỉ trong ngày hôm nay, anh được gặp nhiều varika hơn cả tuần trước cộng lại. Bấy giờ, tôi mới tủm tỉm cười và nói cho anh biết rằng, mặc dù varika là một trong những loài linh trưởng hiếm hoi được xếp vào loài cathemerai (không có thời gian hoạt động mạnh rõ ràng trong ngày mà hoạt động rải rác cả ngày lẫn đêm) nhưng anh Grog chỉ bắt đầu đi rừng vào sau 9 giờ sáng, khi mà varika thường đã có một bữa sáng no nê, và vì mặt trời đã lên cao khiến nhiệt độ tăng, nên chúng sẽ hoạt động ít hơn thường lệ. Mặc dù bộ lông nâu sẫm của chúng có thể khiến bạn nghĩ rằng sẽ thật dễ dàng để có thể tìm kiếm chúng trên những tán cây cao, nhưng thực ra nếu chúng chỉ nằm nghỉ và ngủ trên những cành cây lớn, thì việc tìm kiếm chúng trong một cánh rừng quả thật không phải việc đơn giản.
* * *
Buổi chiều ngày hôm đó, khi tôi đang ngồi đọc sách trước cửa lều, thì thấy ông Kadoffa xách bọc quần áo lững thững đi về phía làng Sainte Luce ở mảnh rừng S9. Chột dạ, tôi chạy theo hỏi, thì ông thông báo là ông muốn về làng chơi, hai ngày nữa mới quay lại!
Nói đoạn, ông vẫy tay chào, rồi quay lưng đi thẳng, để mặc tôi đứng giữa đồng cỏ một mình, hoang mang tột độ. Từ khi đến Madagascar làm việc, tôi chưa bao giờ phải vào rừng mà không có ông Kadoffa cả!
Tầm 4 giờ chiều, có một người đàn ông khác đi về phía chúng tôi, tay cầm theo một xâu cá. Ông có vẻ lớn tuổi hơn ông Kadoffa, tóc đã mang màu muối tiêu, bàn chân nứt nẻ đi đất. Ở Madagascar, những người dân nông thôn vẫn chỉ đi chân đất, rất ít người có mang giày dép. Nó là một thứ xa xỉ, mà họ nếu có cũng chỉ đi vào những dịp đặc biệt, như đi nhà thờ vào sáng chủ nhật, hoặc khi có đám cưới hỏi. Ở khu vực này, gần như chỉ những người dân bản địa làm việc cho các tổ chức hay công ty nước ngoài mới có giày để đi. Ông Andy là một người dân trong làng, là bạn, và cũng là hàng xóm của ông Kadoffa. Trước đây ông là thợ săn vượn cáo, nên rất rành rõi đường đi nước bước của chúng trong những mảnh rừng này. Giờ, ông ở nhà sản xuất rượu rum để bán lên thành phố.
Được ông Kadoffa giới thiệu là người thạo việc và rành đường, tôi cũng an tâm phần nào. Tối hôm đó, cả ba chúng tôi lên đường đi khảo sát. Dù đã cẩn thận nhờ Raul dịch lại về phương pháp đi khảo sát, và thống nhất họ sẽ đi sát ố ẫ ầ
https://thuviensach.vn
với tôi, vậy mà cuối cùng, Raul vẫn như mọi lần, đi vô cùng chậm và tụt lại ở phía sau. Ông Andy có lẽ cho rằng tôi muốn tìm vượn cáo, vậy nên mỗi lần có tiếng động hoặc nhìn thấy gì đó, ông lại chạy biến đi chỗ khác, thỉnh thoảng quay lại tìm để kéo tôi đến xem những gì ông tìm được. Nếu đây chỉ là một chuyến đi du lịch bình thường, có lẽ tôi đã rất háo hức và sung sướng được đi khám phá khu rừng với ông, nhưng đây là một chuyến khảo sát nghiên cứu khoa học, và chúng tôi phải tuân thủ nghiêm ngặt theo phương pháp nghiên cứu đã được định liệu từ trước. Cứ mỗi 5 hoặc 10 phút tôi lại nhận ra mình đang đi một mình, và phải quay lại, lúc thì tìm Raul, lúc thì tìm ông Andy. Lặp đi lặp lại như vậy vài lần, tôi quyết định cách tốt nhất là đi một mình, vì không thể để chuyện này ảnh hưởng đến tiến độ cũng như kết quả công việc của tôi được.
Mấy hôm sau ông Kadoffa quay trở lại, tôi cảm thấy thật nhẹ nhõm, như đã trút bỏ được hết gánh nặng ấy vậy. Công việc lại quay về quỹ đạo thường ngày của nó, một ngày đi thực địa ba lần, thời tiết cũng có phần bớt đỏng đảnh hơn. Raul sau hơn một tuần cũng dần hiểu được cách thức làm việc của chúng tôi. Thực ra, ngoài chuyện liên tục ngủ quá giờ, ví dụ phải dậy từ 4 giờ sáng để chuẩn bị đi khảo sát lúc 5 giờ, thì cậu ấy sẽ ngủ đến tận lúc tôi gọi, và chuyện lúc nào cũng đủng đỉnh đi rất chậm ở phía sau thì cậu ấy là một trợ lý tốt. Luôn sẵn sàng giúp đỡ nếu tôi phải khuân vác, hay bê theo đồ nghiên cứu nặng nề, chứ không như chị trợ lý ban đầu.
* * *
Ngày 20 tháng Năm, tôi được sự trợ giúp của QMM và tổ chức Azafady, đã tổ chức một cuộc thi vẽ tranh cho trẻ em với chủ đề bảo vệ rừng và vượn cáo. Chúng tôi cần phải có mặt ở làng Sainte Luce, thuộc mảng rừng S9 để chuẩn bị cho cuộc thi, dự định là sẽ bắt đầu vào lúc 8 giờ sáng. Từ khu vực lều trại ở khu S17 đến làng sẽ mất khoảng một tiếng đi thuyền. Vì thế mà cuối tuần ấy, thay vì nghỉ ngơi ở khu S17, thì tôi, ông Kadoffa và Raul sẽ đi về khu S9, còn chị bếp sẽ vẫn ở lại trông lều trại và đồ đạc cho chúng tôi. Tối hôm trước khi đi, tôi đã dặn dò Raul - lúc đó đang ngồi đánh bài với ông Kadoffa, anh Grog và người phiên dịch của anh ấy, rằng sáng hôm sau chúng tôi phải chuẩn bị thuyền đi từ rất sớm, vậy nên mọi người phải ăn sáng từ 4 giờ để còn chuẩn bị lên đường. Raul cười toe toét, gật đầu bảo tôi cứ yên tâm đi ngủ, mọi chuyện cậu ấy sẽ lo. Được cái lúc nào dặn cái gì Raul cũng đều toe toét và đảm bảo như thế, tôi cũng tạm yên tâm mà đi ngủ sớm. Nghĩ bụng chuyện quan trọng như vậy cậu ấy sẽ không dám quên đâu.
Sáng sớm hôm sau, tôi dậy từ 3 rưỡi, thấy khu vực lều trại vắng tanh vắng teo. Thường nếu mọi người ăn sáng từ 4 giờ thì lúc này chị bếp đã phải chuẩn bị đồ ăn rồi chứ… Khu nhà bếp tối om, không một ánh lửa. Đi thẳng đến lều của Raul, tôi đứng chống nạnh, hét to:
- Raul!!! Dậy, dậy ngay đi!
- Gì đấy? Gì đấy? - tiếng hoảng hốt của Raul trả lời.
- Gì đấy cái gì? Hôm qua tôi dặn thế nào? - tôi rít lên.
- Dậy ăn sáng từ 4 giờ! - cậu ấy hét lại, như đang trả bài.
- Thế mấy giờ rồi??? - tôi gào lên.
- Không biết? Mấy giờ rồi???
ắ ồ
https://thuviensach.vn
- Dậy ngay lập tức, không là tôi cắt lương! - vừa tức vừa buồn cười, tôi dọa. Raul vùng dậy, chạy ra khỏi lều, vừa chạy vừa gào to gọi chị bếp và ông Kadoffa, trong khi một chân vẫn đang tròng vào quần dài, một chân nhảy lò cò ở ngoài lều.
Kết quả là buổi sáng hôm ấy, đến tận 8 rưỡi sáng chúng tôi mới vào đến làng Sainte Luce. Tôi cảm thấy xấu hổ, và có lỗi với đám trẻ ở đây. Có những đứa trẻ phải dậy từ 4, 5 giờ sáng, đi bộ từ Manafiafy đến làng Sainte Luce này để tham dự cuộc thi, ấy vậy mà chúng tôi lại đến muộn như thế này. Nhìn những đứa trẻ lam lũ, bé như cái kẹo lạc, đứng xếp hàng chờ từ sáng sớm, tôi không khỏi đau lòng.
Anh Forrest, ông trưởng làng và anh Haja cũng đến giúp tôi phát động cuộc thi. Chúng tôi bắt đầu bằng một cuộc nói chuyện về vượn cáo với lũ trẻ. Khán giả của tôi là 123 học sinh trường Sainte Luce, ngôi trường duy nhất ở cả vùng này. Lũ trẻ ngồi thành hàng, im lặng và tuân theo mọi mệnh lệnh của thầy cô giáo. Chỉ có một vài tiếng thì thào nho nhỏ, một vài tiếng ho, và tiếng chân xoa trên nền đất cằn. Những đứa trẻ nhìn theo tôi và anh Forrest bằng đôi mắt to, sẫm màu và như thể bị thôi miên. Đây là “phép thuật” của những người ngoại quốc, ở khu vực dân nghèo như thế này, người dân làng không được tiếp xúc nhiều với người nước ngoài, vì vậy mà dù là người lớn hay trẻ con, họ luôn có sự e dè, tò mò và ngượng ngùng.
Chúng tôi chiếu một bộ phim ngắn về các loài vượn cáo sinh sống ở Madagascar lên chiếc ti vi to uỳnh mượn được của văn phòng chính của QMM ở Fort Dauphin. Ngay khi nhạc hiệu vang lên, bọn trẻ ngồi im, nín thở và tập trung cao độ cho đoạn phim. Ngay cả các thầy cô giáo và một vài phụ huynh cũng chăm chú xem phim mà quên đi sự hiện diện của chúng tôi. Đôi mắt to tròn của lũ trẻ dường như còn mở to hơn vì ngạc nhiên, những tiếng cười rúc rích vang lên khi chúng xem cảnh những chú vượn cáo sifaka trắng muốt nhảy ngang trên nền đất đỏ ở khu bảo tồn Berenty, hay cảnh những chú varika còn non giành nhau ti mẹ. Khi đoạn phim này kết thúc, bọn trẻ phát ra tiếng thất vọng, và có vẻ như bọn chúng có thể xem đi xem lại cả ngày mà không chán. Nhưng Forrest có một kế hoạch khác cho chúng, anh đã bí mật quay lại phản ứng của bọn chúng khi xem đoạn phim, và anh đang loay hoay với chiếc ti vi để có thể kết nối nó với chiếc máy quay cầm tay. Có khoảng một vài giây tình trạng khác thường, thế rồi một ai đó nhận ra bạn của mình trên ti vi. Thế rồi tin tức này lan nhanh như lửa trên lá khô, tiếng cười nói, chỉ trỏ, bọn trẻ nhận ra bạn bè mình trên ti vi, rồi nhận ra cả chính bản thân chúng nữa. Đây có lẽ là đoạn video hay nhất và thú vị nhất mà chúng từng được xem, hay hơn cả video về những chú vượn cáo!
Thế rồi tôi đặt một vài câu hỏi với đám trẻ về những loài vượn cáo sinh sống trong khu vực này, liệu chúng có bao giờ nhìn thấy vượn cáo chưa, và vượn cáo không phải là loài động vật nguy hiểm, đáng sợ hay có hại. Mặc dù ở khu vực này, thỉnh thoảng varika có xuất hiện và ăn một vài loại hoa quả được trồng bởi người dân, nhưng đó là bởi vì chúng ta đang sinh sống trong khu rừng của chúng - những cánh rừng đang bị phá hủy để làm đất trồng trọt và sinh sống của con người. Và rằng chúng ta hoàn toàn có thể sống hòa bình với
ế ồ ổ ắ ầ
https://thuviensach.vn
chúng. Thế rồi bọn trẻ được chia theo nhóm tuổi, đi vào hai phòng và bắt đầu thi vẽ tranh trong khoảng 90 phút.
Chúng tôi treo giải là những quyển vở, bút và ba lô đi học cho chúng. Đây là những món đồ xa xỉ đối với những đứa trẻ nghèo, chân đi đất và có đồ chơi được làm từ củ quả như thế này. Chúng vừa vẽ, vừa thỉnh thoảng nhìn lên phần thưởng một cách thèm thuồng. Khoảng 11 giờ trưa, tất cả giao nộp bài thi vẽ. Chúng tôi cùng bọn trẻ đổ ra phía đầu làng, nơi mà giờ đã đông nghẹt người dân của làng khác, và cả những tình nguyện viên người nước ngoài của Azafady. Thế rồi, tiếng trống, tiếng chân người, và cả tiếng hát vang lên cao vút!
Anh Forrest dẫn đầu đám rước, với mái tóc dài tết lại theo kiểu châu Phi và nhuộm xanh lá cây - màu của rừng xanh. Anh vừa đi, vừa hát, vừa đánh trống, theo sau là một đám rước với bốn người khiêng kiệu - một bức tranh về thần rừng được vẽ bởi các tình nguyện viên và những người phụ nữ trong làng. Nhiều thanh niên và trẻ em trong làng đang nhảy những vũ điệu của người dân bản địa theo phía sau kiệu. Thế rồi tất cả chúng tôi đều nhập vào đoàn rước, người biết lời bài hát vừa hát vừa nhảy, người không nói được tiếng bản địa - như tôi và một vài người nước ngoài khác, thì vỗ tay và hào hứng đi theo đám rước đến giữa làng. Tại đây, mọi người ngồi thành vòng tròn và lắng nghe lời phát biểu của ông trưởng làng. Đây là ngày hội môi trường của làng Sainte Luce, chúng tôi làm sớm hơn so với ngày Môi trường thế giới. Ông trưởng làng phát biểu gì đó khoảng 15 phút, với giọng điệu rất hào hứng, thỉnh thoảng mọi người vỗ tay và cười ồ tán thưởng, nên tôi đoán bài phát biểu của ông đi kèm với nhiều câu chuyện đùa. Sau đó đại diện của tổ chức Azafady lên phát biểu vài câu, tổng kết lại những hoạt động của họ với dân làng Sainte Luce, và nói ngắn gọn về khóa tập huấn của họ vào buổi chiều nay nhằm hướng dẫn người dân cách sử dụng xà phòng, phân phát bàn chải và kem đánh răng và hướng dẫn xây dựng nhà vệ sinh đạt tiêu chuẩn. Người dân nghèo Sainte Luce từ trước đến giờ không có nhà vệ sinh riêng, họ tiểu và đại tiện ở trong rừng, hoặc thẳng xuống con sông nhỏ đổ ra biển nối giữa khu vực S9 và S17. Chính vì thế mà dịch bệnh ở đây rất dễ lây lan và phát triển giữa các làng ở gần nhau. Không chỉ mất vệ sinh và lây dịch bệnh giữa người với người, nó còn có khả năng lây bệnh cho cả những loài động vật hoang dã sinh sống trong rừng nữa.
Trong lúc mọi người ăn trưa và chuẩn bị cho cuộc thi nhảy vào buổi chiều, thì tôi cùng ông trưởng làng và các giáo viên bắt đầu chấm các bài thi vẽ. Chúng tôi chọn ra 12 bức tranh đoạt giải, và tôi tặng lại trường học tất cả màu sáp, chì, màu nước và giấy vẽ còn lại từ cuộc thi. Buổi lễ trao giải diễn ra lúc 2 rưỡi chiều, với tất cả dân làng, giáo viên, phụ huynh học sinh và các em tham gia thi vẽ. Điều đáng ngạc nhiên là cả 12 em đoạt giải đều là các bé trai, vì vậy mà tôi đành phải giữ lại hai chiếc ba lô màu hồng để tặng cho nhóm tuổi nhỏ nhất, hy vọng các em chưa biết xấu hổ như những anh lớn. Những em nhỏ chưa bao giờ được nhận quà lớn như vậy, mặt mũi đỏ tưng bừng, lí nhí cảm ơn tôi rồi đứng cúi mặt xuống đất. Khi lễ trao giải kết thúc, chúng chạy ù về khoe với các bậc phụ huynh phần thưởng, và cả tờ giấy khen được viết bằng cả hai thứ tiếng Malagasy và tiếng Anh.
ầ ế
https://thuviensach.vn
Vài năm sau đó, khi thầy Giuseppe đến thăm lại làng Sainte Luce, có nói với tôi rằng, tờ giấy khen tôi tặng đám trẻ năm nào vẫn đang được treo long trọng trong những ngôi nhà bé nhỏ của làng. Điều này khiến tôi cảm thấy vừa hạnh phúc, vừa tự hào.
* * *
Chúng tôi quay lại S17, và hoàn thành khảo sát phần phía bắc của mảnh rừng trong vài ngày sau đó. Mọi người dậy sớm, thu gom lại đồ đạc, rồi leo lên thuyền đi xuống mảnh rừng phía nam…
Hay ít ra đó là điều mà tôi tin tưởng, vì đã dặn dò Raul rất kỹ từ vài tuần trước.
Sau một tiếng chèo thuyền, cười đùa vui vẻ, chúng tôi dừng lại ở phía sau một ngôi làng rất lớn. Thế rồi, mọi người đều xuống thuyền. Đống đồ đạc cũng được dỡ xuống, để ngay giữa bãi đất trống. Lúc này, dân làng bắt đầu đổ ra xem ai là kẻ nước ngoài kỳ lạ đang xâm lấn ngôi làng của họ. Không hiểu tại sao lại dừng chân ở đây, tôi gọi Raul:
- Này, sao mình lại ở đây?
- Thì làm xong rồi còn gì nữa, về thôi! Đây là làng của chị bếp - Raul thản nhiên.
- Về bao giờ??? Còn phần phía nam của S17 nữa? Tôi dặn cậu mấy lần rồi còn gì??? - tôi hoảng hốt.
- Ơ thế à?
- %$^()&&*^ Raul! !! ! ! ! ! ! ! ! - tôi hét lên.
Ông Kadoffa gọi điện liên tục cho chú JB và anh Laza, nhưng cũng đinh ninh với tôi rằng kế hoạch này chưa được báo từ trước, nên chắc chắn là không thực hiện được đâu. Tôi nên an tâm mà ở lại làng đi, chị bếp cũng đã về nhà rồi, và ông cũng sẽ quay lại làng Sainte Luce thôi. Chỉ còn ít hơn hai tháng nữa là tôi phải hoàn thành việc thu thập số liệu, gần cả tuần trước mưa như trút nên chúng tôi không thể đi khảo sát nhiều, giờ lại phải nghỉ vài ngày hay sao? Tôi sẽ làm gì đây?
Và thế là tôi ngồi đó, cùng với nào ba lô, túi xách, võng, lều, nồi niêu, xong chảo và ti tỉ những vật dụng khác nữa, trong khi đó dân làng, từ đám trẻ nhỏ, đến phụ nữ, thanh niên, nam giới và người già lần lượt kéo đến, cùng với một đám gà qué thả rông của ai đó, tạo thành vòng tròn lớn, không ngại ngần nhìn tôi chằm chằm.
Khỉ thật, tại sao tôi lại tự làm khổ mình như thế này cơ chứ? Tôi có thể như đám bạn cùng lứa ở nhà, đi làm ở một nơi nào đó ổn định, có mức lương kha khá, thỉnh thoảng đi du lịch đây đó, chụp vài bức ảnh selfie, có một cậu bạn trai cao ráo, yêu thương mình hết mực, có lẽ là chuẩn bị tính đến chuyện lập gia đình, lấy chồng và sinh con. Tại sao tôi lại không nghe theo lời khuyên của bố mẹ, đi một con đường bằng phẳng và sống đơn giản hơn… Thay vào đó tôi bị tắc ở đây, một cái làng bé nhỏ ở nơi khỉ ho cò gáy mà tôi còn chả biết là ở đâu nữa, với một đám người hiếu kỳ lạ mặt đang kéo đến ngày một đông, với đám quần áo và ba lô bẩn thỉu dính đầy bùn đất, với những vết gai cào đầy trên tay và chân, vết bầm tím do bị ngã trên đùi. Vừa tức, vừa bực, vừa tuyệt
ẳ ắ ắ ầ
https://thuviensach.vn
vọng và căng thẳng, nước mắt tôi bắt đầu ứa ra, chảy thành dòng trên khuôn mặt. Và ngay lập tức tôi hối hận vì đã khóc - đám người bắt đầu chỉ trỏ, cười ngạo nghễ nhìn tôi như thể họ đang xem xiếc thú!
Thấy tôi khóc, Raul có vẻ hối lỗi. Cậu ấy không dám nói gì, cũng không dám nhìn tôi, chỉ luẩn quẩn xua đám gà đang tìm cách nhảy lên đống đồ đạc của chúng tôi, và nói gì đó để người dân làng khỏi nhìn tôi chằm chằm nữa. Nhưng càng lúc đám đông càng tăng chứ không hề giảm. Và đám gà vẫn tìm cách bươi, mổ đồ đạc của chúng tôi.
Sau hai tiếng liên tục trên điện thoại, anh Laza cũng tìm được một chiếc xe van nhỏ đi vận chuyển nguyên vật liệu gần đó. Trên đường quay trở về, chiếc xe sẽ tạt vào đón và đưa tôi đến khu vực phía nam của S17. Nhưng Raul sẽ không đi cùng chúng tôi, mà cậu sẽ về lại Fort Dauphin để chuẩn bị cho buổi bảo vệ luận văn tốt nghiệp vào tuần tới. Chúng tôi dỡ đồ đạc ở bìa rừng S17, chúc Raul may mắn với lễ tốt nghiệp. Tôi không quên nhắc cậu ấy phải tự tin lên, và cố gắng tập trung chú ý hơn cho công việc, chứ đừng quên trước quên sau.
* * *
Khu rừng này của S17 không có trạm nghiên cứu hay khu lều trại của bất cứ tổ chức phi chính phủ nào, vì thế mà chúng tôi sẽ phải tự lo lấy. Đầu tiên, chúng tôi chọn một khoảng đất trống, bằng phẳng và bắt đầu dựng lều. Tôi giúp ông Kadoffa dựng chiếc lều lớn của ông và chị bếp lên trước, vì chiếc lều này rất rộng, lại có một khoảng mái hiên chìa ra phía ngoài, nên chúng tôi có thể sử dụng đó làm nơi sinh hoạt chung. Chúng tôi làm việc trong yên lặng vì ai cũng mệt mỏi. Tôi cũng xấu hổ vì lúc trước đã khóc lóc bấn loạn nên không nói gì nhiều. Lúc dựng lều xong, tôi cảm ơn, và xin lỗi chị bếp cùng ông Kadoffa vì họ tưởng được nghỉ mà cuối cùng lại phải tiếp tục làm việc với tôi. Sau khi dựng xong lều, tôi xách hai cái xô ra con suối nhỏ gần đó, múc nước giúp chị bếp chuẩn bị bữa tối.
Suốt một tuần làm việc ở khu phía nam của S17, trời không mưa một lần nào. Nhưng khu vực này đã bị tàn phá rất nặng nề. Gần như ngày nào cũng có thợ săn từ những ngôi làng nhỏ gần đó đi ra đi vào rất đông, và đem theo cả chó săn nữa. Chúng tôi cũng thường xuyên nghe thấy tiếng cây cối bị chặt, nhiều khoảng rừng không trụi lá, và sự lấn chiếm của những cây lùm, cây bụi và cỏ dại thay vì cây gỗ lâu năm. Tại đây, chúng tôi cũng tìm thấy một quần thể cáo bay (flying fox), hay còn gọi là dơi quạ - những chú dơi cỡ lớn ăn hoa quả, sinh sống trên những tán cây cao lớn nhất của mảnh rừng này. Đó là lần đầu tiên tôi được chứng kiến một quần thể dơi lớn đến vậy, chúng bay vần vũ trên nền trời. Những người thợ săn vào mảnh rừng này đa phần là để săn dơi, họ cũng sẽ bắt cả vượn cáo nếu có thể.
Khu vực này thật sự rất tĩnh lặng và không có âm thanh của sự sống. Sự tĩnh lặng quá đáng này khiến tôi cảm giác như khu rừng đã chết vậy. Vốn dĩ những tuần qua, tôi đã quen với việc thức dậy bằng tiếng chim hót, tiếng những chú varika chí chóe giành giật những quả sung, hay tiếng kêu của gia đình avahi đánh dấu lãnh thổ. Khoảng thời gian làm việc ở đây quả thật rất buồn, đống sách mà tôi mang theo cũng đã đọc hết từ những ngày mưa trước. Dù vào buổi ề ẫ ế ế
https://thuviensach.vn
chiều, tôi vẫn dạy ông Kadoffa tiếng Anh và học tiếng Malagasy từ ông, nhưng tôi bắt đầu thèm những cuộc trò chuyện dài với bạn bè. Tôi tự hỏi chị Mandy như thế nào, công việc có thuận lợi hơn tôi không. Lần cuối cùng tôi liên lạc với chị cũng cách đây hơn 3 tuần khi tôi đang ở thành phố. Chị Mandy kể rằng chị ấy đã phát ói vì phải ăn món cơm buổi sáng ở đây, và vì ngày nào cũng phải ăn cơm với đậu hầm nên chị ấy rất thèm được về thành phố. Cũng khó mà trách chị Mandy được, món cơm sáng của người dân ở đây quả thật rất khó ăn. Cơm thừa được nấu từ bữa tối ngày hôm trước, cùng với cháy sẽ được ngâm xâm xấp nước trong nồi qua đêm cho bở bục. Rồi họ sẽ đun sôi lên vào sáng hôm sau để làm bữa sáng. Không mùi vị, hay bất cứ thứ gì ăn kèm. Cho đến tận bây giờ, sau hơn một tháng ở trong rừng, tôi vẫn không quen được với món này.
Vì thế mà, khi S17 thực sự được hoàn thành, tôi cảm thấy hạnh phúc không kể xiết. Ông Kadoffa và chị bếp cũng hân hoan không tả, gần ba tuần liên tục phải ở trong rừng với tôi mà không được về nhà, chị bếp cười rất tươi khi xe đỗ xịch trước cổng nhà chị, một ngôi nhà nhỏ, được xây bằng gỗ, cũng xộc xệch và tuềnh toàng như bất cứ ngôi nhà nào khác ở đây. Tôi vẫy vẫy tay chào chị, rồi xe lại tiếp tục lăn bánh về Fort Dauphin, sắp được gặp chị Mandy rồi!
* * *
Lúc tôi về đến khách sạn thì trời cũng đã tối. Chị Mandy đang ngồi chờ tôi trong sảnh khách sạn, cùng một người Mỹ nữa tên là Tim. Anh Tim hiện đang làm tiến sĩ ở Đức, trước đây anh cũng từng làm thạc sĩ với thầy Giuseppe ở trường, trước tôi hai khóa. Anh sẽ bắt đầu nghiên cứu về loài vượn cáo trúc (bamboo lemur) ở đây vào tuần sau. Vừa nhìn thấy tôi, chị Mandy đã hét lên và chạy ra ôm tôi. Từ hôm bắt đầu đi thực địa, chúng tôi chưa hề gặp lại nhau lần nào, mà chỉ thỉnh thoảng nhắn tin qua điện thoại khi có sóng thôi. Chỉ qua vài tuần nhưng chị Mandy đã gầy hơn trước, mắt cũng có quầng thâm như tôi, nhưng chúng tôi đều vô cùng hào hứng khi được gặp lại nhau, cứ kể hết chuyện này đến chuyện khác.
Hai ngày cuối tuần ở thành phố trôi qua thật nhanh. Tôi bị giằng xé giữa việc được lười biếng, ngủ thật nhiều trên giường đệm êm ấm, và việc tận dụng thời gian nhiều nhất có thể để hưởng thụ “nền văn minh nhân loại”, như xem phim, dùng Internet, chat chit với bạn bè. Chiều Chủ nhật, tôi lại cùng chị Mandy đi mua lương thực, chuẩn bị đem vào rừng. Chị Mandy cũng đang có một vài vấn đề với trợ lý của chị ấy. Vì Tina cũng đang phải thu thập số liệu khảo sát để tốt nghiệp, và cô bạn này lẽ ra phải tự lên kế hoạch và chọn phương pháp nghiên cứu riêng, nếu cần thì chị Mandy có thể hỗ trợ bằng cách cố vấn, hướng dẫn. Nhưng chúng tôi không có trách nhiệm và không được phép thu thập hộ số liệu, hoặc chia sẻ số liệu của chúng tôi cho các sinh viên người bản địa. Thế nhưng, Tina lại trở nên quá dựa dẫm vào chị Mandy, và gần như copy hoàn toàn nghiên cứu của chị ấy, vì vậy mà họ thường xảy ra những xung đột nhỏ.
Còn về phần tôi, sau hai đời trợ lý, tôi cũng hạ quyết tâm không muốn nhận thêm trợ lý người bản địa nữa. Raul sau lễ tốt nghiệp cũng lên thủ đô Tana để tìm việc nên không quay lại Sainte Luce với tôi. Cũng may là đại đa số những sinh viên người bản địa vào thời gian này đều đã đi thực địa hết rồi, những ai
ố ề
https://thuviensach.vn
tốt nghiệp - như chị Murielle và Raul đều đang lo tìm việc làm, nên MICET không thể tìm thêm ai cho tôi nữa.
Cũng như thường lệ, tôi và chị Mandy cảm giác như cả hai chưa kịp tận hưởng sự sung sướng của việc sử dụng quạt điện, vòi hoa sen, nhà vệ sinh sạch sẽ… thì đã đến lúc phải lên đường. Chúng tôi chào từ biệt nhau vào sáng thứ Hai, sau khi tạt qua cửa hàng tiện lợi duy nhất trong thành phố để mua đầy sô cô la. Ba mảng rừng còn sót lại của khu Sainte Luce mà tôi cần làm khảo sát là mảng rừng S6, S7 và S8. Cả ba đều là những mảng rừng nhỏ xíu, chỉ đi bộ khoảng 2 tiếng là có thể đi từ đầu bên này đến đầu bên kia. Chúng đều bị tàn phá nặng nề bởi những hoạt động của con người. Chúng tôi bắt đầu khảo sát S6 trước.
Đây là một mảng rừng nhỏ xíu, không có con sông nào chạy qua như S9 hay S17. Buổi tối đầu tiên, tôi và ông Kadoffa cũng tranh thủ dựng được lều trại, tìm được đá lớn để tạo chỗ nấu ăn đơn sơ cho chị bếp, rồi cả hai bắt đầu đi khảo sát trong rừng. Lúc chúng tôi về được đến lều thì cũng đã hơn 10 giờ tối. Tôi đang nằm chỏng gọng trong lều, tranh thủ mấy vạch pin cuối cùng của di động để nghe vài bài hát yêu thích, thì nghe tiếng gọi của ông Kadoffa phía ngoài:
- Điện thoại, có điện thoại này!
- Của cháu á? - tôi ngạc nhiên, đưa tay ra đón điện thoại.
- Salama… (xin chào, tiếng Malagasy) - có chuyện gì vậy ạ? - Trang hả - đầu dây bên kia vang lên tiếng của anh Laza - Đang có bạo loạn, sáng mai sẽ có xe đến đón lúc 6 giờ. Chuẩn bị để về thành phố ngay nhé. - Cái gì cơ? - tôi tưởng mình nghe nhầm - Anh đùa à? Em vừa mới vào rừng thôi mà. Mới làm được có 2 transects, về sao được?
- Mai đúng 6 giờ sáng, dậy dọn lều sớm nhé. Tôi nói với Kadoffa rồi. Bạo loạn bắt đầu từ hôm kia, nhưng nhóm vũ trang đang tiến gần xuống phía nam, chỉ cách chỗ em có 20 cây số thôi.
- Thế thì lo gì, chắc gì nó đã xuống chỗ bọn em. Để em làm nốt mảng này đã, độ 5 ngày là xong rồi, mảng này bé mà - tôi khẩn khoản mặc cả. - Có 2 người bị bắn rồi, bọn chúng đánh cướp zebu của người dân. Thế nhé - anh Laza đáp lại cụt lủn, rồi cúp máy.
Bạo loạn??? Đùa nhau à? Ở Madagascar á! Vào lúc này á? Không phải ông thầy người Ý yêu hòa bình, thích nhạc thính phòng và cà phê thượng hạng của tôi nói rằng Madagascar là đất nước hiền lành và an toàn nhất châu Phi hay sao? Không phải tối hôm qua tôi và chị Mandy còn ngồi trong khách sạn xem tin tức trên kênh BBC hay sao? Đâu có tí tin nào về bạo loạn đâu???
Sáng hôm sau, từ 5 giờ tôi đã thấy ông Kadoffa dọn dẹp lều trại, chị bếp đã nhanh chóng cất hết nồi niêu xong chảo và buộc lại với nhau thật cẩn thận bằng dây mây khô. Chúng tôi dọn dẹp trong yên lặng. Làm xong hết công việc mà vẫn không thấy xe đến đón, chị bếp gọi tôi qua để tết tóc cho tôi theo kiểu châu Phi. Những mẩu tóc tết lại, chạy dọc từ trán xuống đến gáy. Lúc tết xong, ông Kadoffa cười lớn, rồi tinh quái gọi tôi là “ugly girl”.
ề ể ấ ầ
https://thuviensach.vn
Lúc đưa mọi người về làng, tôi có thể thấy được sự nghiêm trọng của lần bạo loạn này. Người dân hầu hết đều cố gắng gia cố lại nhà cửa, buộc lại gia súc, gia cầm, hoặc tìm cách đưa chúng lánh nạn vào những khu rừng thưa gần đó. Lo lắng chúc ông Kadoffa và chị bếp an toàn, tôi được đưa về thành phố. Theo những gì tôi nghe được sau đó, thì QMM có chế độ đưa nhân viên đến nơi an toàn để lánh nạn, nhưng nhiều người từ chối mà quay về quê cùng đại gia đình của họ. Âu cũng là tình cảm gia đình gắn bó bền chặt khó mà rời xa, nhất là khi tình trạng bạo loạn nguy hiểm như thế này.
* * *
Trở về đến thành phố, tôi thấy cả chị Mandy và anh Tim đều đang ngồi chờ ở văn phòng chính của QMM. Ai cũng đăm chiêu, lo lắng và bức bách vì không biết tình hình này sẽ xảy ra bao lâu, liệu những người dân làng mà chúng tôi quen biết có được bình an không, khi nào chúng tôi mới lại có thể quay về rừng được. Tôi và chị Mandy bảo nhau viết email gửi thầy Giuseppe ngay trong ngày hôm đó để thông báo tình hình. Chúng tôi đều không biết phải làm gì khác, ít ra viết email cho thầy và đợi email của thầy cũng là một cách để chúng tôi có hy vọng.
Thầy Giuseppe trả lời ngay sáng ngày hôm đó. Thầy an ủi chúng tôi, và còn nói rằng hiện nay vẫn chưa có tin quốc tế nào về tình hình bạo loạn này, nên có lẽ đó chỉ là hành động tự phát nhỏ của một nhóm người nào đó. Thầy bảo chúng tôi đừng quá lo lắng, cứ tuân theo chỉ dẫn an toàn của QMM và chúng tôi sẽ “được quay trở lại rừng ngay thôi ấy mà”.
Cái “ngay thôi ấy mà” lại không xảy ra sớm như chúng tôi hy vọng. Một ngày, hai ngày, ba ngày, năm ngày… rồi một tuần trôi qua mà chúng tôi vẫn chôn chân ở thành phố. Lo lắng vì kinh phí chi tiêu phụ trội, vì tiến độ công việc chưa đâu vào đâu, vì không nghe được tin tức gì ở làng Sainte Luce và vì liên tục thấy những chiếc xe buýt công cộng của địa phương chở đầy người dân chạy đi tị nạn. Người ngồi cả lên trên nóc xe, cùng với nào dê, nào gà, xe đạp và đủ mọi vật dụng khác. Hình như ai cũng cố đi ra xa khỏi vùng này.
Gần hai tuần sau đó, chúng tôi đã phát chán vì phải ở thành phố mà “hưởng thụ cuộc sống văn minh”, hết xem tin tức trên ti vi, xem phim tình cảm sướt mướt của chị Mandy, nhập và xử lý số liệu mà chúng tôi đã thu thập được, thì sự hưởng thụ công nghệ này dần trở thành một gánh nặng. Mấy ngày gần đây có rất nhiều người dân đổ ra đường biểu tình, đòi chính quyền ra tay can thiệp để trả lại sự yên ổn cho cuộc sống ở phía đông nam này. Chúng tôi gần như chẳng dám đi đâu, chỉ ở trong khách sạn và nhìn ra bên ngoài cửa sổ, khi hàng trăm người đi diễu hành, biểu tình với cờ quạt và trống chiêng.
Có một buổi tối, vì đã phát chán với thực đơn trong khách sạn, chúng tôi cùng nhau ra một cửa hàng Pháp gần đó để có sự thay đổi món ăn. Khi cả bốn đứa đang lếch thếch đi cùng nhau về và ca thán về những kẻ vô lương tâm, vô công rồi nghề làm rối loạn xã hội, thì chúng tôi thấy khách sạn của mình đang bị bao vây bởi lính tráng và súng ống. Họ đứng đầy đường và gác ở cả cổng vào khách sạn nữa. Chị Mandy tóm chặt lấy cánh tay tôi, run run hỏi:
- Chả nhẽ bọn chúng dám tấn công khách sạn?
ằ ầ ấ ể
https://thuviensach.vn
Nhưng chúng tôi nghe được rằng lần này bọn chúng chỉ tấn công dân làng để cướp zebu, chứ không lấy tiền và đồ trang sức. Mấy ngày trước, chúng tôi còn nghe được rằng chúng tấn công một xe khách du lịch đang trên đường đến khu bảo tồn ở Berenty, chúng bắn chết người lái xe, sau đó tịch thu tất cả đồ trang sức, tiền bạc, điện thoại và máy ảnh của hành khách và đốt sạch những thứ đó.
Vậy thì chúng tấn công khách sạn làm gì?
Mấy đứa bám víu lấy vai nhau đi vào bên trong, anh Tim là đàn ông duy nhất trong nhóm nên hít một hơi sâu, tỏ vẻ dũng cảm, tiến về phía quầy lễ tân để hỏi han tình hình. Hóa ra không phải khách sạn bị tấn công bởi bọn phiến loạn. Lính tráng đứng bao vây khách sạn là để bảo vệ ông Andry Rajoelia - tổng thống đương nhiệm thời bấy giờ. Vì có quá nhiều chỉ trích và biểu tình từ phía người dân ở khắp nơi trên cả nước, ông Andry mới lần đầu tiên đến khu vực đông nam này của đất nước để trấn an lòng người.
* * *
Mấy ngày sau đó, lúc nào khách sạn cũng tràn ngập quân lính. Mấy đứa chúng tôi không biết làm gì, ngoài việc ngày ngày gửi email cập nhật tin tức cho thầy Giuseppe, và nhắn tin về với gia đình. Tôi quyết định không kể gì với bố mẹ mình về cuộc bạo loạn này, vì tôi biết bố mẹ tôi - cũng như hàng triệu ông bố bà mẹ Việt Nam khác - vốn dĩ chỉ nghe thấy chuyện đi châu Phi đã lo sợ rồi, chứ đừng nói là con cái mình đang mắc kẹt trong một cuộc bạo loạn. Chỉ vì chuyện của chị trợ lý lần trước mà bố mẹ tôi đã gọi điện sang đây liên tục, thậm chí còn gợi ý tôi bỏ dự án ở đây, không làm nữa mà trở về Việt Nam.
Nhiều khi - đối với một người trẻ, khao khát cuộc sống tự lập và có đam mê với công việc một cách mạnh mẽ như tôi - cảm thấy sự quan tâm, chăm sóc và bảo bọc quá mức của cha mẹ làm tôi sợ phải kể với họ về những khó khăn mà mình gặp phải. Vì chỉ cần kể, dù chỉ một chút thôi, dù chỉ là những chuyện bé cỏn con thôi, bố mẹ tôi sẽ rất lo lắng. Lo tôi không trụ được với công việc bộn bề, lo tôi không đưa ra được quyết định đúng đắn, lo tôi ốm, lo đủ mọi thứ, và bố mẹ, sẽ tìm mọi cách để giúp đỡ. Sẽ gọi điện đến hết người này người khác để có thể nhờ vả nếu có thể, hoặc sẽ giục tôi bỏ cuộc, giục tôi về Việt Nam để bố mẹ có thể giúp đỡ, để có thể nhờ người này người kia, để công việc của tôi - có thể trở nên nhẹ nhàng hơn, dễ dàng hơn .
Nhưng đó lại không phải là điều tôi muốn. Tôi hiểu bố mẹ yêu tôi, thương tôi và mong cho tôi mọi điều tốt đẹp nhất. Mong tôi có thể hạnh phúc mà không phải vất vả, có thể “ngồi mát ăn bát vàng”. Nhưng tôi vạn lần không mong muốn điều đó. Tôi luôn cho rằng, công việc mà tôi đã chọn, dù là thế nào đi nữa, đó là con đường của tôi, vất vả hay khó nhọc, tôi cần phải tự đương đầu với nó. Và chính vì những sự vất vả hay khó nhọc đó, mà tôi có thể học hỏi và trưởng thành hơn. Vì vậy mà những khi tôi muốn tâm sự với bố mẹ về những chuyện khó khăn đó, tôi thường kìm lòng lại. Bởi vì tôi không muốn họ lo lắng, vì tôi không muốn họ khuyên tôi bỏ cuộc, hay tìm cách giúp đỡ tôi. Tôi chỉ đơn giản muốn được lắng nghe, và được ủng hộ mà thôi.
Vì vậy mà trong khoảng thời gian đó, mỗi khi thấy chị Mandy gọi skype về với bố mẹ, và kể hết chuyện này đến chuyện kia, từ chuyện rắc rối với trợ lý, đến chuyện bạo loạn, chuyện người dân biểu tình ở ngay phía dưới khiến tôi ố ấ ấ ẩ
https://thuviensach.vn
không khỏi ghen tị. Bố mẹ chị ấy chỉ bảo chị ấy hãy cẩn thận, làm theo quy định an toàn chung, và đừng đi đâu một mình. Tôi nghĩ, âu đó cũng là một sự tin tưởng, lòng tin tưởng của bố mẹ vào sự trưởng thành của con cái.
Lúc tôi đang ngồi ngoài hành lang suy nghĩ vẩn vơ, thì anh Tim đi đâu về, mang theo mấy chai rượu rum to tướng. Mấy đứa chúng tôi đi bộ ra phía bờ biển, uống chút rượu chờ hoàng hôn xuống, ngắm nhìn vài người ngư dân đang cầm lao để bắt cá, và cả bẫy để bắt tôm hùm khi thủy triều lên. Thật khó mà tin nổi chúng tôi đã ở đây gần hai tháng rồi. Cũng thật khó mà tin nổi, trong ánh nắng ửng hồng và tiếng sóng vỗ rì rào này, đâu đó gần đây thôi, những cuộc bạo loạn lại đang nổ ra.
Cuối cùng, cứu tinh của chúng tôi cũng đã đến. Thầy Giuseppe đáp máy bay từ Anh đến Madagascar mấy hôm trước, giờ đang trên đường đến Fort Dauphin. Lúc này, tôi, chị Mandy và anh Tim đã quyết định xin phép QMM cho chúng tôi được dựng lều ở khu vực rừng trồng của họ ở Mandena, thay vì
ở khách sạn để có thể tiết kiệm chi phí. Cũng thật may là được họ chấp thuận. Lúc thầy Giuseppe đến, chúng tôi vẫn còn đang mải nài nỉ chú JB cho chúng tôi được quay lại rừng, vì từ đó đến nay đã hơn hai tuần phải ở thành phố rồi. Gặp được thầy Giuseppe quả thực mừng khôn xiết. Ông thầy đối với chúng tôi lúc đó xuất hiện như một vị thánh quyền năng nào đó có thể giúp chúng tôi vượt qua mọi cản trở! Thầy Giuseppe lúc nào cũng ăn mặc thật đơn giản, mái tóc hơi dài quăn tít, đôi mắt nâu hiền ơi là hiền và giọng nói đặc sệt của miền bắc nước Ý. Thầy hỏi han chúng tôi một lúc lâu, rồi vào phòng họp với chú JB và các nhân viên khác của QMM. Lũ chúng tôi không được vào trong phòng họp nên thấp thỏm ngồi bên ngoài, không biết liệu thầy có thể đưa ra được tí thỏa thuận nào không.
Cuối cùng, khoảng 5 giờ chiều, họ đưa ra được kết luận, rằng chị Mandy sẽ quay về phía tây nam Petriki, vì đám phiến loạn không có vẻ gì là sẽ đi về phía đó cả. Tôi và anh Tim, dù không thể quay về phía đông nam để làm việc, nhưng chúng tôi đều có một khu làm việc chung: đó là khu rừng già nhiệt đới Tsitongambarika mà tôi luôn mơ ước. Thế là, sau hơn hai tuần ăn không ngồi rồi, chúng tôi ngậm ngùi chào chai rượu rum cuối cùng và thẳng tiến đến khu rừng mưa lớn nhất còn sót lại ở phía Nam Madagascar!
https://thuviensach.vn
Tsitongambarika
Khởi đầu chuyến đi của chúng tôi quả thật rất hào hứng. Cả tháng trời qua tôi đều chỉ loanh quanh ở Fort Dauphin rồi làng Sainte Luce, chứ chưa hề đi được đến nơi khác. Đường đến Tsitongambarika cũng khác hoàn toàn với đường đến Sainte Luce. Chúng tôi đi cùng hướng với chị Mandy về phía tây nam, sau đó đi lên phía bắc thay vì đến gần vùng biển phía nam. Tuy vậy, cũng từ chuyến đi này mà chúng tôi có thể thấy được sự tàn phá nặng nề của con người lên thiên nhiên. Có những khu vực đất rừng đã bị phá hoàn toàn, và thay vào đó là những cánh đồng cọ dừa, dứa, hay lúa gạo xen kẽ với những ngôi làng rải rác. Những ngọn đồi xuất hiện hai bên đường trọc lóc, đất bạc màu, xói mòn, lở lói.
Thế rồi con đường đất biến mất, thay vào đó là những đoạn đường mới hơn, được làm từ nhựa đường, thẳng tắp, vừa mới được xây dựng bởi những nhân công người Trung Quốc. Không rõ là may hay không may, khi những nhân công người Trung Quốc đến đây giúp người dân Madagascar xây dựng đường sá, thì cũng dạy cho họ cách ăn thịt rắn và trăn, cưa xẻ gỗ quý để chuyển lậu về Trung Quốc - những thứ rất mới mẻ với người dân ở đây. Khi trăn, rắn bị săn lùng và dần biến mất khỏi hệ sinh thái, thì đó là lúc những loài động vật - vốn là con mồi của chúng, như chuột bọ sẽ phát triển mạnh hơn, dẫn đến sự thiệt hại của hoa màu. Nhưng không ai lại nghĩ xa đến như vậy cả, đó chính là lý do vì sao loài người lại sẵn sàng tự tay phá hoại Trái đất, phá hoại ngôi nhà của chính chúng ta như vậy.
Đây là một trong những chuyến đi với cảnh vật đáng buồn nhất mà tôi từng thấy ở Madagascar. Con đường uốn lượn qua rất nhiều đồi núi - vốn dĩ phải được bao phủ bởi rừng xanh - và những cánh rừng sẽ đóng vai trò giữ nước, giữ đất, giữ chất dinh dưỡng cho cây trồng xung quanh, nhưng những cánh đồi này chỉ trơ ra một màu đất bạc. Chẳng có gì ngoài một vài bụi cỏ dại, một vài bụi cây khô khốc đang cố mọc lên trên mảnh đất cằn cỗi. Ở một vài làng mạc mà chúng tôi đi qua, tôi có thể nhận ra những cây xoài, cây vải được trồng sát những hiên nhà gỗ nhỏ ọp ẹp… Đôi khi trên đỉnh một vài ngọn đồi cao có thể nhận thấy một vài mảng nhỏ xíu những cây gỗ cao đứng buồn hiu hắt - có lẽ là phần còn sót lại của cánh rừng đã bị đốn hạ. Chúng đứng đó, đu đưa trong gió, như thể là chút ít tóc còn sót lại trên chiếc đầu hói trọc lóc của một ai đó. Có những đoạn, đất thịt đỏ màu mỡ không có thực vật để bám trụ, chẳng còn cách nào khác đành theo những cơn mưa rửa trôi, cuốn thẳng xuống đồi, tạo ra những cơn lũ quét.
Một ví dụ điển hình cho tình trạng phá rừng ở Madagascar để lại hậu quả nghiêm trọng, đó là con hồ Lac Alaotra - một trong những hồ nước lớn nhất ở Madagascar - đã từng là nguồn nước cung cấp cho mọi hoạt động nông nghiệp - là nguồn sống của những cánh đồng lúa nơi đây. Một sự thật đáng ngạc nhiên đối với tôi khi đến hòn đảo này, đó là việc người dân Madagascar tiêu thụ nhiều gạo trên một đầu người hơn bất kỳ người dân nước nào khác trên trái đất. Hồ Lac Alaotra được bao quanh bởi những ngọn đồi thấp thoai thoải, từng được bao phủ bởi những cánh rừng. Tuy nhiên, sau nhiều năm, những cánh ấ ố ể ồ
https://thuviensach.vn
rừng làm nhiệm vụ giữ đất và lọc nước này bị đốn hạ để trở thành nơi trồng trọt. Khi rừng bị phá hủy, đất thịt màu mỡ chỉ tồn tại được vài năm sau đó, rồi bị rửa trôi bởi nước mưa. Khi không còn cây rừng, đất bị xói mòn và xối thẳng xuống hồ Lac Alaotra như dòng nham thạch đỏ, dần dần lắng bùn và khiến hồ nước bị thu hẹp lại. Giờ đây, khi hồ nước không còn là nơi cung cấp nước cho những cánh đồng lúa nữa, chính phủ Madagascar phải nhập khẩu lúa gạo và những sản phẩm nông nghiệp khác từ nước ngoài để phục vụ nhu cầu của người dân.
Cũng thật khó để đổ tội cho người dân nơi đây. Khi một người dân nghèo nhìn thấy cánh rừng, anh ta sẽ không thấy hệ sinh thái hay những dịch vụ miễn phí mà cánh rừng đang chu cấp hằng ngày cho con người. Anh ta sẽ chỉ thấy đó là một mảnh đất có thể sử dụng làm đất trồng trọt, cho anh ta nông sản trong vài năm, gỗ kiếm được từ rừng sẽ là chất đốt, chất sưởi cho gia đình anh ta. Tổ tiên anh ta từng chặt cây, đốt nương làm rẫy. Cha ông anh ta cũng làm vậy. Thế thì sao anh ta lại không thể? Nhưng anh ta có lẽ không biết rằng, dân số vào thời điểm anh ta đang sống nhiều gấp 5 lần ở thời điểm của cha ông anh ta, và cách sử dụng tài nguyên như anh ta đang làm sẽ khiến con cháu anh ta chết đói. Kể cả với hàng trăm ngàn tỉ đô la Mỹ, đồng bảng Anh, đồng yên Nhật… được hỗ trợ từ nước ngoài, sẽ phải mất hàng trăm, thậm chí hàng ngàn năm để có thể tái tạo lại cánh rừng và chức năng của rừng mà anh ta đã phá hủy.
Tsitongambarika là khu rừng mà tôi mong ước được đến từ lâu, chính vì một loài động vật kỳ lạ mà rất ít người biết đến - loài động vật mà trong mơ tôi cũng muốn được gặp, loài aye-aye. Madagascar là một hòn đảo tràn đầy phép màu, ma thuật và những điều cấm kỵ, hay fady - như cách gọi của người dân đảo. Những địa phương khác nhau lại có những fady khác nhau, và cũng không ngạc nhiên khi người dân trên đảo coi một loài động vật kỳ lạ - kết quả của phép màu tiến hóa như loài aye-aye là loài động vật ma quái và nhuốm màu ma thuật. Aye-aye là loài linh trưởng hoạt động về đêm có kích thước lớn nhất. Chúng có đôi tai dơi và một bộ lông xù màu đen tuyền, đôi mắt sáng tròn, trong veo màu hổ phách, và đặc biệt là ngón tay thứ tư cực kỳ dài. Chúng sử dụng ngón tay rất dài và khỏe này để gõ vào thân cây, và nhờ âm thanh vọng lại để phát hiện ra con mồi - là những loài sâu bọ đang sống trong thân cây. Một khi đã tìm được con mồi, nó sẽ sử dụng bộ răng khỏe mạnh để phá vỡ lớp vỏ cây, và dùng ngón tay đặc biệt dài để kéo con mồi ra khỏi lỗ. Có thể ví von rằng, aye-aye chính là những chú chim gõ kiến mang thân xác của loài linh trưởng.
https://thuviensach.vn
Aye-aye (daubentonia madagascaríensis)
Chính vì vẻ ngoài kỳ lạ này mà ở một số vùng, nếu được tìm thấy ở gần làng, aye-aye bị cho là mang đến điềm chết chóc, và vì thế nó phải bị giết bỏ. Nếu một chú aye- aye nhỏ bị phát hiện, thì một đứa trẻ trong làng sẽ chết. Nếu là một chú aye-aye trưởng thành, có sắc lông đen sáng màu, thì một người trưởng thành với sắc da sáng sẽ gặp nguy hiểm, và nếu là aye-aye có sắc lông đen
ẫ ẫ ề ế Ở ế
https://thuviensach.vn
sẫm màu, thì người có da sẫm màu sẽ gặp điềm chết chóc. Ở vùng khác, nếu một người dân làng tìm thấy và giết aye-aye gần nhà anh ta, thì anh ta sẽ loại bỏ được những điềm xui xẻo bằng cách chôn xác chú aye-aye xấu số này vào vườn sau của nhà hàng xóm. Và nếu người hàng xóm phát hiện ra, thì anh ta sẽ phải đào xác chú aye-aye này lên và chôn vào vườn nhà bên cạnh. Thế là xác của aye-aye sẽ lần lượt chôn từ vườn nhà này sang vườn nhà khác. Cho đến khi không còn nhà nào trong làng nữa, thì họ sẽ vứt xác nó ra đường cái để cảnh báo người đi đường. Tục này cũng gần giống như tục gửi những bức thư mang điềm xấu từ nhà này sang nhà khác, nếu không thì điềm xấu sẽ xảy ra với bạn. Có nơi, nếu aye-aye bị giết thì chân nó sẽ bị quấn vào lá dứa và bị treo lên cổng làng, cho đến khi xác thối rữa thì sẽ bị ném cho chó ăn để xua đi điềm xấu.
Cùng với sự phát triển và bùng nổ dân số, người dân Madagascar tiếp tục tập tục canh tác du canh du cư, đốt nương làm rẫy, phá hủy môi trường rừng - là nguồn sống của hòn đảo. Và loài aye-aye cùng nhiều loài động vật khác thì bị đẩy gần đến bờ vực tuyệt chủng nhanh hơn bao giờ hết. Đã từng có thời các nhà khoa học cho rằng loài aye- aye đã bị tuyệt chủng hoàn toàn, nhưng rồi một cá thể đã được tìm thấy ở một mảng rừng bị phá hủy. Loài aye-aye vẫn còn sống, nhưng sự sống mong manh của chúng cũng giống như những cánh rừng còn sót lại của Madagascar, sắp bị ngọn lửa hung tàn nuốt gọn.
* * *
Để đến được cánh rừng Tsitongambarika, chúng tôi còn phải đi đò qua năm con sông. Sau hàng tiếng đồng hồ ngồi trên ô tô, được đi đò quả là một cách giải lao dễ chịu, dù đi đò chậm hơn đi xe nhiều. Những chiếc đò được làm từ sắt cũ kỹ, có lẽ là sắt cũ từ hàng chục năm trước. Chúng được giữ lại cùng nhau bằng một miếng ván ở phía trên, và vận hành bằng hai người đàn ông khỏe mạnh, cởi trần, nước da đen bóng. Một người cầm một thân tre dài, chống và đẩy chiếc đò ra khỏi bờ sông, người còn lại bám vào những sợi dây thừng to, chắc nịch đã được buộc vào hai thân cây to ở cả hai bên bờ, với chiếc ròng rọc ở giữa, vừa kéo, vừa hướng chiếc đò về phía bờ bên kia. Nếu chẳng may chiếc đò ở phía bên kia của bờ sông khi bạn vừa tới nơi, thì bạn sẽ phải kéo chiếc chuông to đùng được buộc sẵn trên đầu một ngọn cây (nếu may mắn), hoặc sẽ phải hò hét đến ù cả tai để người lái đò - thường là đang ngồi kể chuyện phiếm với những anh chăn bò, hoặc những cô, những bà đang ra sông giặt giũ - chậm rãi kéo chiếc đò đến đón bạn. Một khi đã lên trên đò, thì lại có cảm giác rất yên bình. Con đò hoàn toàn vận hành bằng lực kéo của anh lái đò, vì vậy mà không có những tiếng máy động cơ ầm ĩ hay mùi hăng nồng của xăng dầu. Nó cũng lướt rất êm ái trên mặt nước sáng lóa, phản chiếu ánh mặt trời chói chang ở phía trên. Đôi khi, chúng tôi có thể thấy những chú chim bói cá bay qua vội vã, hay cả cò, vạc… đang kiếm tìm cá, lươn cho bữa tối.
Càng về sau, con đường càng trở nên khó đi hơn. Đường xóc, dốc, đầy bụi, có những chỗ thì lún bùn… đến mức anh David phải lái xe với tốc độ của một con sên để có thể tránh những hòn đá to tổ chảng, hay những ổ gà sâu hoắm dưới đường. Cuối cùng, vào khoảng hai giờ chiều, chúng tôi đến được một ngôi làng bé nhỏ, gối mình lên những dãy núi của khu vực Tsitongambarika II.
ầ ồ
https://thuviensach.vn
Anh David và thầy Giuseppe lập tức tìm người khuân vác đồ đạc. Tôi, anh Tim cùng với anh lái đò vận chuyển đồ đạc đến bãi đất trống cao ráo, sạch sẽ gần đó. Khu vực ở Tsitongamabarika này còn hẻo lánh hơn nhiều so với làng Sainte Luce: ở đây không có trường học, không có chợ giời, cũng chẳng có nhà thờ như khu Sainte Luce hay Fort Dauphin, dù người dân Madagascar rất mộ đạo.
Tầm nửa tiếng sau, thầy Giuseppe và anh David quay về cùng với khoảng tám người đàn ông khỏe mạnh trong làng. Một người phụ nữ trẻ nhưng da tóc trắng muốt đang đứng líu ríu ở sau cùng. Chị ấy bị bạch tạng. Dưới ánh nắng chói chang của vùng đất châu Phi này, da chị ấy bị thiêu đốt và những đốm tàn nhang đen phủ đầy bả vai và hai cánh tay. Đôi mắt quá nhạy cảm với ánh nắng mặt trời nên không thể mở to mà nhìn xung quanh. Ở những nước châu Phi như thế này, những đứa trẻ bạch tạng ngay từ khi sinh ra đã bị coi là điềm xấu, bị nguyền rủa bởi thầy phù thủy, và thường bị giết ngay còn khi là trẻ sơ sinh. Cũng có những vùng, người bạch tạng lại được coi là điềm may mắn, họ là “người được chọn” để tham gia những nghi thức cầu khấn cho ngôi làng được giàu có hơn. Thầy Giuseppe sau đó thì thầm với tôi rằng, có lẽ nơi này cho rằng người bạch tạng sẽ đem lại điềm may cho họ: chỉ trong vòng nửa tiếng ở trong ngôi làng bé tẹo này mà thầy đã gặp đến ba người bạch tạng. Họ cử chị bếp này đi với chúng tôi, vì mong muốn chị sẽ đem lại điềm may cho làng, và những người nước ngoài sẽ đến nhiều hơn nữa.
Sau khi phân công đồ đạc để khuân vác cho từng người trong nhóm, chúng tôi bắt đầu tiến vào rừng. Cứ nghĩ rằng đi bộ vào rừng sẽ chỉ mất khoảng 2 tiếng đồng hồ thôi, nhưng thực ra từ đó để đến được chỗ có thể dựng lều cắm trại và làm khảo sát, thì chúng tôi phải đi sâu hơn nữa. Dưới ánh nắng chói chang như đổ lửa, với hơn mười cân đồ và 4 lít nước xách ở trên tay, vừa trèo lên núi, xuống núi, vượt đến hơn mười con suối lớn nhỏ, đoàn người chúng tôi nối tiếp nhau, đi thành hàng dài… Hình ảnh cả đoàn người chúng tôi, người đi trước, người đi sau trong ánh chiều tà khiến tôi nhớ đến những thước phim tài liệu về những đoàn nghiên cứu mà tôi thường xem trên ti vi hồi nhỏ. Ước mơ của tôi… tôi đang được sống với nó đây sao!
Sự hứng khởi và những suy tư lãng mạn về ước mơ ngày xưa bé cũng dần thế chỗ cho sự mệt mỏi sau hơn 4 tiếng đi bộ. Từ lúc nắng vẫn còn trên cao cho đến khi trời đã tắt nắng hoàn toàn, chúng tôi cứ thế đi, đi mãi mà vẫn chưa đến chỗ dừng chân, lội qua cả chục con suối lớn nhỏ. Cứ tháo giày ra rồi đi giày lại đến lần thứ sáu thì tôi chẳng còn muốn tháo giày ra để lội suối nữa.
Khoảng 7 rưỡi tối, khi trời đã mịt mờ, chúng tôi mới đến được nơi đủ gần để có thể dựng lều trại. Ai cũng đói và mệt rã rời, nhưng chúng tôi phải tận dụng chút ánh sáng ít ỏi còn sót lại để phát cỏ bụi rậm, dựng lều, lấy nước và củi khô. Mỗi người một tay, nên chỉ khoảng 8 rưỡi tối là chúng tôi đã làm xong việc. Vào buổi tối, chị bếp không bị ánh mặt trời làm chói mắt, nên hoạt động nhanh nhẹn hơn nhiều. Lúc chúng tôi dựng xong lều thì đã thấy chị một mình khơi lửa, đun nấu đồ ăn trên bếp rồi.
Buổi tối ở trên núi lạnh kinh khủng, và cũng ẩm thấp hơn nhiều so với khu vực ven biển Sainte Luce. Chúng tôi ngồi co ro bên đống lửa được nhóm lên
ể ấ ể ấ
https://thuviensach.vn
để đun nước ấm, và có thể nhìn thấy hơi thở của mình bay lên như sương như khói. Đến tầm 9 rưỡi tối, mắt tôi bắt đầu díp lại, cơ bắp khắp người đau ê ẩm. Tôi, anh Tim và thầy Giuseppe còn phải bàn bạc xem sáng ngày mai sẽ bắt đầu như thế nào, liệu chúng tôi có nên chia thành hai nhóm hay đi cùng nhau để thành lập các transects. Vừa lắng nghe, tôi vừa xoay chuyển mấy chiếc áo quần được treo trên mấy cành khô đặt gần bếp lửa để hun khói đuổi muỗi. Khoảng 10 giờ hơn, tôi bắt đầu gật gù, nhưng vẫn ráng gắng gượng vì thầy và anh Tim vẫn chưa đi ngủ. Đến lúc tôi ngủ gật và làm rơi một chiếc áo phông thẳng vào đám lửa thì thầy nhất quyết đã đến lúc tất cả chúng tôi đi ngủ rồi.
* * *
Thầy Giuseppe chỉ ở cùng với chúng tôi ba hôm thôi, rồi thầy sẽ quay về thành phố và trở về Anh. Vì vậy mà thầy cố gắng giúp chúng tôi nhiều nhất có thể, như là chọn transects và sửa đổi một số phương pháp nghiên cứu cho phù hợp hơn với địa thế nơi này. Thầy bị nghiện cà phê, sáng nào cũng phải uống một cốc thật bự rồi mới đi làm được. Cũng vì thế mới có chuyện dở khóc dở cười, ấy là anh Tim mua cà phê xay, kiểu cà phê phin ấy, mà lại quên mất túi lọc. Thầy Giuseppe thì dù có phải nhai bã cà phê đi chăng nữa thì vẫn sẽ uống. Thế là những buổi sáng ấy tôi luôn có dịp để trêu thầy về ca cà phê nổi bã lờ nhờ trông rất kinh khủng của thầy. Có một vấn đề nữa về thầy Giuseppe, ấy là thầy tốt bụng, quá mức tốt bụng. Kể từ khi người dân làng nơi đây biết chúng tôi dựng lều trại nghiên cứu ở khu vực này, thì gần như ngày nào họ cũng “vô tình” đi qua, cùng với nào cá, gà, gạo, cam, chuối… và vô thiên lủng những thứ khác. Chỉ cần thoáng thấy thầy Giuseppe, họ sẽ dừng chân ở trước cửa lều, và tán chuyện, thường sẽ bắt đầu bằng việc họ nhìn thấy varika ở đâu, khi nào, và những ai trong làng đặt bẫy chúng để thu hút sự chú ý của thầy. Thế rồi khi câu chuyện của họ kết thúc, nghiễm nhiên thầy Giuseppe sẽ mua hết những thứ thực phẩm mà họ mang lại. Có lần, tôi và anh Tim quay về lều vào lúc tối muộn sau chuyến đi khảo sát, và phát hiện ra cả lều ăn của chúng tôi tràn ngập chuối!!! Có đến 160 quả chuối chín, và tận 90 quả cam đang nằm lắt lẻo trên chiếc chiếu cói.
Cơm và đậu đỏ hầm là món ăn trường kỳ của chúng tôi khi đi làm ở Madagascar. Một phần vì đây là món ăn phổ biến của người dân bản địa, một phần vì nguyên liệu đơn giản, dễ lưu trữ. Chúng tôi mua cả mì Spagetti và xốt cà chua để thỉnh thoảng đổi món, nhưng người dân ở đây lại luộc cả mì và cơm, trộn cùng với nhau, nên rốt cuộc kế hoạch “đổi món” của chúng tôi thất bại thảm hại. Tôi và anh Tim sợ phải ăn mì luộc cơm nên chúng tôi đã nghĩ đến chuyện tìm mì và đem giấu đi để chị bếp không cho ra những sáng tạo kinh khủng như thế nữa. Anh Tim cũng chán phải ăn cơm trường kỳ đến độ đã mang theo cả một chai ớt xanh cay kinh khủng khiếp mua ở chợ giời. Loại ớt này cay đến nỗi chỉ cần một giọt nhỏ thôi, trộn lên với cơm, là đã đủ làm cho mắt bạn cay sè và lưỡi thì bỏng rát. Tôi thì hình thành thói quen đi đâu cũng mang theo một chai lạc rang muối để ăn kèm. Dù là cơm trộn với mì luộc, hay cơm nát bở bục do bị ngâm nước qua đêm ăn vào buổi sáng, thì lạc rang muối cũng khiến chúng trở nên dễ nuốt hơn. Ấy là chưa kể chị bếp vào ban ngày không thể nhìn rõ thứ gì vì ánh nắng chói chang của mặt trời, vậy nên bữa cơm trưa
ố ề
https://thuviensach.vn
thường là ác mộng đối với chúng tôi, khi mà cơm bị cho quá nhiều nước và đậu thì hầm với quá nhiều muối.
Địa hình ở Tsitongambarika rất khác với những mảng rừng nhỏ ở Sainte Luce. Nơi này toàn là núi cao, nên công việc cũng mệt mỏi hơn rất nhiều. Từ chỗ chúng tôi dựng lều đến transect gần nhất, chúng tôi phải đi men theo hai triền núi mới đến nơi. Rừng ở đây rất rộng và rậm rạp, vì thế mà cũng rất khó để có thể tìm thấy động vật. Cây cối ở khu vực rừng mưa nhiệt đới cũng cao hơn nhiều so với rừng ven biển, và đường thì cũng rất gập ghềnh. Trong khoảng hai tuần ở đây, chúng tôi cũng phải đối mặt với những cơn mưa triền miên và dai dẳng. Tôi nhớ nhất một hôm, trận mưa kéo dài đến bốn ngày. Sốt ruột vì cơn mưa, tôi và ông Henry - người dẫn đường cho tôi ở đây đã quyết tâm đi làm khảo sát thực vật, vì dù có cố cũng không tìm được varika trong cơn mưa tầm tã này. Chúng sẽ trú mưa trong hốc cây nào đó, khiến cho việc phát hiện ra chúng trong những tán cây cao là điều không thể. Dưới cơn mưa, chúng tôi cố gắng tạo plot và phân loại thực vật. Thế rồi tôi cảm thấy nhồn nhột phía trên cổ mình, cảm giác như có cái gì đó nho nhỏ, lành lạnh đang bò lên trên. Với tay ra sau, tôi phát hiện ra cổ mình đang được bao phủ bởi vắt. Không phải một, mà là dăm bảy con. Nổi cả da gà, tôi nhảy choi choi ra con đường mòn trong rừng, để rồi phát hiện ra không chỉ cổ, mà giày, và ngay cả trán mình cũng có vắt. Chúng nhiều đến nỗi cứ nhung nhúc ở trong những chiếc vòng sắt để luồn dây giày của tôi, trên vai, trên trán… và cả trên mông nữa!!! Ông Henry cũng bị bao phủ bởi vắt, vì ông không đi giày mà chỉ đi chân đất. Nhìn đôi bàn chân ông đầy những vắt bám chặt ở các kẽ ngón chân, thi sức hút máu, tôi rùng mình. Đi rừng vào những ngày mưa thật đáng sợ.
Mặc dù vậy, tiến độ công việc của tôi ở Tsitongambarika khá tốt, tốt hơn nhiều so với anh Tim. Tần suất được gặp varika của tôi cao hơn nhiều so với số lần anh ấy nhìn thấy vượn cáo trúc. Tôi còn nhớ, có một lần sau buổi đi khảo sát vào ban ngày, tôi đang giặt giũ bên bờ suối, thì thấy anh Tim tức giận đang quay trở về. Chúng tôi ở đây đã hơn một tuần, vậy mà anh ấy vẫn chưa tìm mấy dù chỉ một cá thể vượn cáo trúc. Vấn đề của loài này, có lẽ vì chúng quá hiền lành, sống ở tầng thấp của những tán cây, và thức ăn của chúng là tre nứa. Vì vậy mà chúng thường xuyên hoạt động ở ven bìa rừng, nên dễ bị bắt, bị bẫy bởi những người thợ săn sinh sống trong làng gần đó. Căng thẳng và bức bối, anh Tim rít lên:
- Tôi tức phát điên lên mất! Đã một tuần rồi! Một tuần rồi! Tôi cảm thấy như cứt, trông như cục cứt, và bốc mùi như cứt!!!
Tình trạng săn bắt và phá rừng ở khu rừng mưa nhiệt đới duy nhất còn sót lại ở phía nam này cũng vô cùng tệ hại. Có những khu vực mà đất rừng đã bị phá hủy và đốt cháy hoàn toàn, từng thân cây cao, trơ trọi, đen thui vì bị đốt cắm thẳng lên nền trời xanh như những ngón tay bị cháy vậy. Bẫy được người dân bản địa tạo ra để bắt vượn cáo cũng rất nhiều, có những đoạn cứ cách 5-10m là tôi lại tìm thấy bẫy, cả mới lẫn cũ. Khu vực mà tôi đang làm việc, dù là khu rừng già và có độ đa dạng sinh học rất cao và mức tàn phá nặng nề, nhưng vẫn chưa được chính phủ đưa vào bảo vệ. Tôi và anh Tim còn tìm được một khu, có lẽ đã được dựng lên thành khu căn cứ của những tên khai thác gỗ quý trộm.
ẩ ỗ ẫ ằ ỗ
https://thuviensach.vn
Từng mẩu gỗ tím sẫm, đậm màu bị chặt, nằm rải rác, xen kẽ với những tảng gỗ lớn, đỏ au như máu. Với hệ thống sông ngòi dày đặc ở khu vực này, những tên xẻ trộm gỗ chỉ việc vận chuyển chúng xuống sông, rồi để dòng nước làm nhiệm vụ đưa gỗ ra khỏi rừng một cách dễ dàng.
Mấy tuần trong rừng Tsitongambarika trôi qua cũng thật nhanh chóng. Mặc dù mệt mỏi vì liên tục phải trèo đèo, lội suối, nhưng những ngày ở đây đối với tôi trôi qua dễ chịu hơn nhiều so với những lúc thui thủi một mình tại S17 vì ở đây tôi có anh Tim bầu bạn, dù rằng đến tận hôm đi về anh cũng chỉ đúng một lần thoáng thấy hai chú vượn cáo trúc nho nhỏ. Đêm cuối cùng ở Tsitongambarika, tất cả đội ngũ khuân vác gồm sáu người đã tụ tập lên khu lều trại của chúng tôi từ sớm. Anh gác lều đã được giao nhiệm vụ đi bộ về làng và tìm người đến khuân vác cho chúng tôi để chuẩn bị cho sáng hôm sau tháo dỡ, dọn dẹp lều trại và đi về. Người dân ở khu này có một thói quen rất lạ vào mùa đông, có lẽ là do không có đủ chăn đắp ấm, nên họ tranh thủ ngủ vào ban ngày thay vì ban đêm lạnh giá. Thế là cả buổi tối hôm ấy, cả tôi và anh Tim đều không thể chợp mắt nổi, do mọi người ngồi tám chuyện rôm rả suốt cả đêm.Trên đường trở về Fort Dauphin, chúng tôi bắt gặp một người đàn ông đang tìm cách bán một chú avahi nhỏ trên vệ đường. Anh Tim nhảy xuống xe, cùng với anh David, cố gắng dò hỏi người này đã bắt chú vượn cáo này ở đâu. Chúng tôi cũng giải thích cho anh ta rằng theo luật pháp ở Madagascar, việc bắt, bán, giết và ăn thịt vượn cáo là hành động phạm pháp - điều mà anh ta không biết và có vẻ rất ngạc nhiên khi được nghe. Đây chính là một trong những ví dụ điển hình về cái gọi là “pháp luật trên giấy tờ”. Chuyện này xảy ra ở rất nhiều nước chứ không riêng gì Madagascar, khi mà sự bảo vệ của một loài động- thực vật nào đó chỉ hiện hữu trên giấy tờ, chứ không được thực thi hay phổ biến cho người dân. Chính vì thế mà thậm chí nhiều khi người dân sinh sống ở nước sở tại còn không biết về sự tồn tại của những điều luật này, và luật cũng không được thi hành bởi những người thực thi pháp luật. Vì thế mà, trong những hoàn cảnh như thế này, luật pháp trở nên vô dụng.
* * *
Tôi quay trở lại Fort Dauphin đúng 1 đêm, rồi lại vội vàng quay về với Sainte Luce. Tối hôm ấy, chị Mandy được nghe đủ câu chuyện của tôi và anh Tim ở Tsitongambarika, từ việc chúng tôi phải đi bộ lâu ra sao, đến việc chị bếp bạch tạng nên không nhìn rõ và cứ buổi trưa là chúng tôi được ăn cơm
dưới dạng bánh đúc với muối sạn, rồi chuyện chúng tôi đã cứu được một chú avahi nhỏ và đưa chú về lại nhà. Cũng đã gần đến tháng Tám rồi, tôi và chị Mandy bắt đầu thấy lo sợ về hai chữ “luận văn” đang lởn vởn ngay trên đầu… Cả hai đứa chúng tôi đều chưa thu thập đủ dữ liệu.
Quay trở lại với những mảnh rừng nhỏ xíu còn sót lại của làng Sainte Luce quả thật rất đau lòng. Gần như cứ vài chục mét chúng tôi lại gặp phải một khoảng rừng trống toàn cỏ, do đã bị người dân chặt phá mà thành. Tôi nhớ lúc ở nhà, thỉnh thoảng có người hỏi, này, đi rừng ban đêm tĩnh mịch chắc sợ lắm nhỉ. Thực ra rừng đêm không hề tĩnh lặng chút nào, trái lại rất nhộn nhịp với âm thanh của những loài hoạt động về đêm. Đó là âm thanh của sự sống. Nếu
ắ ế
https://thuviensach.vn
một khu rừng im ắng tĩnh lặng, đó là rừng chết… và những mảnh rừng nhỏ xíu còn sót lại của Sainte Luce này là những mảnh rừng chết như thế. Có một buổi chiều, sau khi đi làm khảo sát thực vật, tôi đang ngồi thừ người ngắm mặt trời lặn trên một con dốc nhỏ thì bỗng nghe tiếng chân vội vã chạy lại của ông Kadoffa. Ông thở không ra hơi, tôi chỉ nghe được từ “làng Sainte Luce”, “sốt rét”, “ông Andy”, rồi ông kéo tôi chạy theo. Chúng tôi đi về hướng làng Sainte Luce, vừa đi vừa chạy, mất hơn một tiếng mới đến nơi. Lúc này trong làng đang rất ầm ĩ, vợ ông Andy đang khóc vật vã, lay lắc một cậu thanh niên da trắng, tóc vàng. Tôi nhận ra đó là một trong những tình nguyện viên của Azafady mà tôi đã từng ăn tối cùng với chị Megan trong tuần đầu tiên đến đây. Tìm mãi mới thấy anh Haja, lúc này đang đi từ phía con sông về với một rổ cá chết. Hóa ra cậu thanh niên đó, Adam, đã nói với ông Andy rằng bởi chính vì QMM đến đây khai thác mỏ, phá rừng, khiến cho cánh rừng Sainte Luce vốn là một khu rừng liền nhau giờ biến thành những mảnh nhỏ rời rạc, và công ty này chỉ giả vờ tốt với người dân thôi, thực ra họ đang tìm cách đuổi người dân làng đi. Chính vì vậy mà ông Andy, dù con trai út của mình đang bị sốt rét, vẫn nhất quyết không cho nhân viên QMM đưa đứa nhỏ đi chạy chữa. Thằng bé đã bắt đầu lên cơn từ tối hôm trước, và ai cũng biết rằng, để chữa trị bệnh sốt rét thì cần phải chạy đua với thời gian.
Anh Forrest vừa mới trở về từ Fort Dauphin, sau khi nghe chuyện thì mặt trắng bệch vì tức giận, liền chạy ra lôi cậu thanh niên mới 17,18 tuổi kia ra đầu làng. Anh đẩy cậu thanh niên, lúc bấy giờ người đã nhũn ra vì sợ hãi vào thân cây, rồi gào lên:
- Cậu đã thấy điều tốt mà cậu đã làm chưa? Thằng bé sắp chết rồi và bố nó vẫn không cho nó đi chữa trị, cậu làm tốt quá hả!!!
- Đi xin lỗi bố nó và dân làng ngay lập tức, nói gì cũng được, bảo rằng cậu bịa chuyện đi, rằng cậu thừa hơi rỗi việc nên nghĩ ra những thứ đó, và đưa thằng bé ra xe cứu thương ngay cho tôi, đi đi!
Anh Forrest vừa đẩy, vừa đá, vừa lôi Adam quay trở về nhà ông Andy. Lúc này, cậu ấy đã bắt đầu khóc. Quỳ sụp xuống trước cửa nhà ông Andy và những người dân làng, Adam run lẩy bẩy và khóc dữ dội. Cậu ấy nói không thành lời, và anh Haja dịch cho cậu. Cậu nói rằng cậu không biết lời nói của mình lại gây ra ảnh hưởng đến như vậy, những gì cậu nói chỉ là lời đồn mà cậu nghe được từ những tình nguyện viên trước đây, và rằng điều đó không có thật, rằng cậu cầu xin ông Andy, dù thế nào đi nữa cũng hãy để thằng bé được đi chữa bệnh.
Ông Andy có tất cả 12 người con. Nhưng 8 người trong số đó đều đã ra đi. Một người bị chết đuối, một người chết vì cảm lạnh, và 6 người chết vì bệnh sốt rét. Ở ngôi làng hẻo lánh gần sông hồ như thế này, bệnh sốt rét hoành hành triền miên. Kể từ khi tôi đến đây, gần như tháng nào trong ngôi làng cũng có người chết vì bệnh sốt rét. Đây là căn bệnh do muỗi mang ký sinh trùng gây sốt rét gây ra, mặc dù nếu được điều trị đúng cách thì có thể hồi phục hoàn toàn, nhưng bệnh nặng có thể diễn biến xấu rất nhanh và gây ra cái chết chỉ trong vài ngày. Ông Andy vẫn đang không nói gì, nhìn chăm chăm xuống sàn nhà, mặc cho người vợ đang vật vã kêu khóc thảm thiết và đứa con đang lên cơn run lẩy bẩy trong nhà. Lúc nãy, anh Haja có kể rằng nhân viên y tế của QMM đến đây ể ề
https://thuviensach.vn
để đưa đứa trẻ về bệnh viện ở Fort Dauphin, nhưng ông đã xông ra và đánh họ với khúc tre để bên nhà, vì vậy mà không ai dám vào nữa.
Adam vẫn đang khóc tức tưởi ở ngoài sân, còn anh Forrest lúc này đã chuyển sang màu xanh tái. Hình như thằng bé lại lên cơn co giật, dưới ánh sáng lờ mờ của buổi chiều tà, chúng tôi vẫn có thể nhìn thấy người nó đang co lên từng chập. Ông Andy chạy lại chiếc giường tre mà đứa con khốn khổ đang nằm, ôm chặt lấy nó và khóc. Tôi thì thầm với anh Forrest, đến nước này, cách tốt nhất là xông vào, nếu ông ấy lại phản kháng thì ôm đứa trẻ và chạy đi với mẹ nó thôi. Anh gật đầu nhưng không nói gì. Tôi quay sang, nhờ anh Haja và ông Kadoffa giúp đỡ, chuyện đến nước này cũng không thể để lâu được nữa, dù có hiểu sai hay lỗi lầm như thế nào cũng có thể giải quyết sau. Anh Forrest đi vào nhà, đặt tay lên vai ông Andy, thì thào với ông rằng điều quan trọng nhất lúc này là đưa được thằng bé đến bệnh viện bằng tiếng Malagasy. Ông không nói gì, ngã vật ra phản khóc sướt mướt. Anh Haja và ông Kadoffa cũng chạy vào theo, đề phòng trường hợp ông Andy vẫn tức giận mà đuổi đánh anh Forrest. Cũng thật may, dường như tình trạng đứa trẻ xấu đi trông thấy đã khiến ông không còn suy nghĩ được gì nữa. Ông để anh Forrest bế nó chạy về phía xe cứu thương đang nằm ở đầu làng. Mẹ đứa trẻ vội vã cầm theo một bọc quần áo rồi chạy đi.
Mọi người trong làng cũng dần dãn ra. Tôi nhờ anh Haja ở lại cùng ông Kadoffa chăm sóc cho ông Andy, còn tôi thì kéo cậu Adam đứng lên: - Đi với tôi đi. Cậu ngồi đây khóc cũng không giúp được gì. Đi thôi! Chúng tôi đi dọc con sông, đến gần một mỏm đất trống thì ngồi xuống trên một thân cây gỗ mục. Tôi không nói gì, cứ để cho Adam khóc và yên tĩnh thêm một lúc nữa…
- Này, giờ thì tôi biết vì sao lần trước khi về làng Sainte Luce cậu lại quay ngoắt đi khi thấy tôi. Vì tôi làm việc cùng với QMM hả? - tôi hỏi. Adam không nói gì, chỉ lặng lẽ nhìn chăm chăm ra con nước đang trôi lững lờ.- Tôi không biết cậu nghe được từ ai, và nghe được những gì. Tôi không bảo vệ cho QMM đâu, cậu không ưa QMM cũng phải thôi. Một khi phá rừng để khai thác khoáng sản, thì dù thế nào cũng đem lại hậu quả xấu cho môi trường. Tôi không trách cậu. Nhưng rừng Sainte Luce bị chia thành nhiều mảng nhỏ không phải là lỗi của QMM. Nó đã bị chia cắt thế này từ lâu rồi… Tôi kể với Adam về việc ban đầu, khi thầy Giuseppe nói với tôi rằng tôi sẽ làm việc cùng với một công ty khai thác khoáng sản, tôi cũng đã phản đối hết mình, và cũng đã từng ghét cay ghét đắng nó. Nhưng thầy Giuseppe đã nói với tôi rằng, dù chúng tôi có làm việc với họ hay không, thì một công ty khai thác khoáng sản vẫn sẽ khai thác khoáng sản. Nếu những người có tâm huyết với ngành bảo tồn, dựa vào khoa học mà làm việc với họ, thuyết phục họ, thì ảnh hưởng xấu do họ gây ra với môi trường có thể được giảm thiểu đi ít nhiều, và rằng những chú vượn cáo sinh sống trong những mảnh rừng này vẫn cần được bảo vệ. Và thực ra, họ không phải chỉ toàn người xấu muốn đào và phá rừng để lấy tiền. Khu rừng Sainte Luce cách đây hàng trăm năm, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, đất đai khô cằn và hạn hán kéo dài đã bị cháy, và dần dần trở ồ ấ ố
https://thuviensach.vn
thành những mảng rừng nhỏ tách biệt. Rồi sự xuất hiện và tăng dân số cực nhanh của con người lại càng gây nhiều sức ép lên các mảng rừng hơn. Dân số con người tăng, nghĩa là đất sử dụng cho nông nghiệp tăng, làng mạc cũng lấn dần vào đất rừng, vượn cáo cũng từng bị săn bắt nhiều để làm thức ăn cho người dân, và cây gỗ bị chặt hạ. Cũng một phần nhờ có QMM và đội nghiên cứu làm việc trong nhóm bảo tồn động-thực vật do họ lập ra, mà chúng tôi giờ đây mới có khu bảo tồn Mandena và Sainte Luce, mới có những dự án trồng rừng, mới có kế sinh nhai khác cho người dân: thay vì việc vào rừng đốn cây và bắt vượn cáo, những người như ông Kadoffa hay anh Haja mới có thể bỏ công việc thợ săn mà dẫn đường cho những người làm nghiên cứu chúng tôi. Rồi trường học cho bọn trẻ, rồi cả bệnh viện miễn phí cho người dân làng Sainte Luce nữa chứ…
QMM cùng không hề có ý định phá làng Sainte Luce, hay bất kỳ mảng rừng nào của Sainte Luce như Adam đã nói.
Đôi khi, không phải sự việc nào trong cuộc sống cũng trắng đen rõ ràng. Những công việc làm bảo tồn thì lại càng khó khăn hơn, khi bạn phải làm sao cân bằng được cuộc sống ổn định cho người dân địa phương, và lại vừa bảo vệ được những cánh rừng mỏng manh không có sức kháng cự trước sự phát triển ồ ạt của con người. Bạn không thể yêu cầu tất cả người dân phải di dời ra khỏi khu vực bảo tồn, lại càng không thể để mặc họ vì kế sinh nhai xoay vần và chật vật với bệnh tật mà không giúp đỡ. Giúp họ ổn định cuộc sống, giúp họ sống hòa hợp với thiên nhiên và cùng bảo tồn môi trường sống hoang dã mới là mục đích của chúng tôi. Nếu tôi được chọn, nếu tôi được ước, thì tôi vẫn sẽ ước rằng những công ty khai thác khoáng sản sẽ không tồn tại trên đời. Nhưng sự thật vẫn là sự thật, chúng ta vẫn đang tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên hằng ngày, hằng giờ. Laptop, di động, ti vi, tủ lạnh… những thứ hiện đại mà chúng ta đang dùng trong nhà đều có titanium. Vậy thì, dù có phải “bắt tay với quỷ dữ” - như nhiều người ở đây vẫn lên án thầy Giuseppe, thì thầy vẫn sẽ làm, vì thầy có một niềm tin mãnh liệt rằng thầy, và những cộng sự làm khoa học khác, có thể làm giảm đến mức tối đa tác động xấu của việc khai thác mỏ lên những cánh rừng nơi đây. Dĩ nhiên, điều này chỉ có thể làm được, nếu cả hai phía đều có trách nhiệm, có uy tín và giữ lời.
* * *
Thời gian thực sự trôi qua rất nhanh… Ngày cuối cùng của tôi ở Sainte Luce rốt cuộc rồi cũng đến. Tôi theo ông Kadoffa đi bộ về làng và chào mọi người. Bọn trẻ con lúc này đã quen và nhớ tên tôi, ngay từ đầu làng đã nghe thấy tiếng chúng hò hét “Trang! Trang! Trang” loạn xạ, chứ không chỉ hét “waza” như trước nữa. Bọn chúng vây quanh, đòi chụp ảnh, đòi quay video như lần trước anh Forrest đã quay cho chúng trong ngày hội môi trường. Đứa con trai út của ông Andy cũng đang dần bình phục. Giờ nó đang ở nhờ nhà người bà con trên Fort Dauphin để tiện việc thăm khám. Hai hôm nữa nó sẽ về làng.
Ông Kadoffa ngày hôm ấy cũng trở nên tĩnh lặng hơn ngày thường. Ba tháng rồi, trừ những ngày làm việc ở Tsitongambarika thì dù sáng, trưa, chiều, tối, lúc nào cũng có bóng dáng nhỏ bé, gầy gò của ông tấp tểnh đi cùng tôi. Nhờ có ông mà mọi việc cần làm của tôi đều được diễn ra suôn sẻ, nhờ có ông mà tôi
ề
https://thuviensach.vn
không bị lạc trong rừng, nhờ có ông mà dù trời mưa, lều của tôi cũng không bị ướt.
Chị bếp cũng dạy cho tôi cách nấu món đậu đỏ hầm kiểu Madagascar, rồi lại còn dạy tôi cách tết tóc kiểu châu Phi nữa, dù đôi tay vụng về không mấy nữ tính của tôi vẫn chưa thể làm được thành thạo. Tôi đem tặng ông Kadoffa chiếc áo khoác 2 lớp chống mưa chống tuyết mà tôi đem theo, và cả đôi giày thực địa chống nước nữa. Tôi tặng chị bếp mấy chiếc áo ấm, áo nỉ mà tôi dùng lúc ở Tsitongambarika. Dù chúng không phải đồ mới, nhưng chị và ông Kadoffa đều cảm ơn và nhận lấy một cách háo hức. Thế rồi, mắt cay sè, tôi chỉ kịp ôm ông Kadoffa và chị bếp một cái thật chặt, rồi vội vã bước lên xe.
Tôi và chị Mandy đều không ngờ thời gian lại trôi qua nhanh chóng đến như vậy. Về thành phố nghĩa là mọi việc sẽ ổn thôi. Viết luận văn và tốt nghiệp, thế là xong. Chẳng còn gì phải lo sợ nữa.
Nhưng mà cuối cùng, chúng tôi đã nhầm.
Bạo loạn tiến đến thủ đô Antananarivo, quân phiến loạn đánh chiếm và chặn khu đường chính dẫn đến sân bay với ý định gây sức ép cho chính phủ. Vì thế mà tất cả các chuyến bay đến và đi tại sân bay quốc tế Antananarivo đều bị hủy bỏ cho đến khi an toàn được thiết lập. Điều này có nghĩa là cả tôi và chị Mandy đều bị tắc ở đây.
Nghe được thông tin này từ ti vi trên kênh BBC, chị Mandy và tôi trợn tròn mắt hốt hoảng nhìn nhau. Sau khi gọi điện thoại để nghe tin trực tiếp từ hãng hàng không, và sau cuộc điện thoại với gia đình ở Mỹ, chị Mandy đập tay xuống bàn, nước mắt ngắn dài, gào lên:
- Chị không muốn ở đây, chị không muốn bị tắc ở hòn đảo chết tiệt này! Chị muốn về Anh.
Lúc ấy, dù rất lo sợ, nhưng thấy phản ứng của chị Mandy, chả hiểu sao tôi lại có thể mỉm cười, rồi ôm lấy chị ấy, nói giọng đùa giỡn:
- Chị không thấy vì những chuyện thế này mà chuyến đi của em với chị rất đặc biệt à? Khi nào về bọn mình có thể kể lại với bọn bạn, và cả bọn học sinh khóa sau, là đừng ai tin lời thầy Giuseppe! Ba tháng ở đây có đến hai lần vướng phải chuyện bạo loạn, an toàn khỉ gì đâu! Rồi thầy ấy sẽ chả có sinh viên nào hết!
Chị ấy khóc thêm một tẹo nữa, vừa khóc vừa cười, rồi lau nước mắt: - Thật may hai đứa mình ở cùng một nơi, chứ không cũng chả biết làm sao. Cuối cùng, hai đứa bọn tôi quyết định đi bộ loanh quanh gần khách sạn, đi
xem đồ ở chợ cóc, rồi đi ăn ở những cửa hàng thân thuộc mà chúng tôi đều biết rõ. Lúc nào chúng tôi cũng ở thái độ cảnh giác, và xem tin tức đều đặn của cuộc bạo loạn. Cuối cùng, ti vi cũng thông báo tên cầm đầu cuộc bạo loạn đã bị bắn chết, sân bay mở cửa trở lại, những chuyến đi bị hoãn trong hai ngày trước giờ sẽ được bay tiếp. Chúng tôi không cần mua hay đổi vé máy bay mới, chỉ cần đem vé cũ đến sân bay là được.
Và thế là, chúng tôi đã rời Madagascar một cách đặc biệt như vậy đấy. Hòn đảo đỏng đảnh này, biết bao giờ mới được quay lại. Ba tháng ở Madagascar, có buồn vui, có tủi hờn, có tức giận, có hạnh phúc, có tiếng cười, có nước
ắ ấ ề ế
https://thuviensach.vn
mắt… tất cả đều như những mảng màu giờ đã xếp lại hoàn chỉnh, tạo thành một bức tranh ký ức, đẹp đẽ và lấp lánh.
Khi một ước mơ từ thuở nhỏ được hoàn thành, có lẽ bạn cũng sẽ giống như tôi, cảm thấy tiếc nuối, và hơi chông chênh… Hoàn thành được ước mơ ấy rồi, làm gì bây giờ nhỉ?
Vậy thì, bạn sẽ phải mơ ước thêm một ước mơ thật lớn nữa, và lại can đảm, cố gắng hết sức để đi về phía nó thôi!
Funfact
Từ vượn cáo trong tiếng Anh là “lemur” - theo tiếng La tinh có nghĩa là “linh hồn của ban đêm”. Trên thực tế thì mỗi loài vượn cáo đều có những thời gian biểu hoạt động riêng, có loài chuyên hoạt động về ban ngày, có loài lại chuyên hoạt động về ban đêm, và có loài không có thời điểm hoạt động chính - ví dụ như loài vượn cáo má nâu mà tôi theo dõi vậy.
Vượn cáo là loài chỉ sinh sống ở đảo Madagascar, phía đông nam của châu Phi. Hiện nay có 101 loài và phân loài vượn cáo đã được các nhà khoa học phát hiện và miêu tả, tuy nhiên đến 90% số vượn cáo đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng. Mối đe dọa lớn nhất của những chú vượn cáo này, đó là môi trường sống bị phá hủy, bị săn bắn làm thức ăn, bị bẫy và bán làm thú cảnh hoặc bị giết bởi người dân địa phương khi đến ăn hoa màu của họ.
Madagascar là một trong bốn hòn đảo lớn nhất trên thế giới. Chỉ có 3 hòn đảo lớn hơn hòn đảo thuộc châu Phi này, đó là Borneo, Greenland và New Zealand.
https://thuviensach.vn
Chương II
Việt Nam
“Hãy nhìn sâu vào thiên nhiên, nó sẽ khiến bạn thấu hiểu mọi thứ rõ ràng hơn.” Albert Einstein
Kể từ khi bắt đầu đi theo con đường bảo tồn, tôi thường nhận được một câu hỏi từ cả người Việt Nam lẫn người nước ngoài, một tò mò rất tự nhiên: vì sao là người Việt mà lại cứ đi nghiên cứu ở những nơi xa xôi tận Phi châu, thậm chí cả Campuchia, hay Sabah, chứ không về Việt Nam. Tôi thường cười và đùa lại mọi người, chẳng phải các anh chuyên gia người Anh, người Mỹ, người Úc cũng sang Việt Nam làm việc đó sao, là người Việt thì cũng có thể thành chuyên gia và đi làm ở khắp nơi trên thế giới vậy!
Thực ra, cũng giống như rất nhiều người trẻ có đam mê và hoài bão to lớn khác, tôi muốn được tham gia vào những dự án ý nghĩa, và nhất là, thông qua dự án của mình để đến được những vùng đất mà tôi hằng mơ ước từ thuở nhỏ. Đối với tôi, đi xa, đi nhiều, đến những vùng đất nghèo, sống và nghiên cứu trong những khu rừng già không phải là sự “hành xác”, hay “thiếu thốn”, “khổ sở”, mà đó là một phần của công việc mà tôi yêu mến, là một phần mà nếu chẳng may vì lý do gì đó bị loại bỏ ra khỏi cuộc sống của tôi, tôi sẽ cảm thấy hụt hẫng và thiếu vắng. Cũng nhờ những ngày tháng làm nghiên cứu ở những khu vực nghèo khó này, mà tính cách và lối sống của tôi mới hình thành và để tôi là tôi của ngay hôm nay. Tôi nhận ra rằng, những thứ hào nhoáng mà chúng ta đang theo đuổi trong cuộc sống tất bật, quay cuồng của thành phố thực ra chẳng hề quan trọng đến thế.
Để tôi giải thích thêm một chút cho những bạn còn lạ lẫm với ngành bảo tồn động vật hoang dã nhé. Ngành của chúng tôi, nghe thì có vẻ đơn giản, nhưng cũng rất rộng và bao gồm nhiều hướng đi khác nhau. Khi nhắc đến “bảo tồn động vật hoang dã”, đa phần mọi người sẽ nghĩ ngay đến việc phải đi rừng, và các bậc phụ huynh chỉ cần nghĩ đến đây thôi là đã không muốn cho con em mình theo ngành này rồi. Thực ra thì ngành bảo tồn cực kỳ đa dạng, và mọi người có thể tham gia bằng rất nhiều cách khác nhau. Ở Việt Nam chẳng hạn, vốn dĩ chịu sức ép nặng nề từ việc người dân vẫn còn tham gia buôn bán và sử dụng các sản phẩm từ động vật hoang dã trái phép, nên công việc làm giáo dục bảo tồn để nâng cao nhận thức của người dân ở thành phố, cùng với những dự án và hoạt động dành cho trẻ em và cộng đồng ở khu vực nông thôn rất phát triển. Những bạn không có khả năng đi nghiên cứu trong rừng sâu để theo dõi tập tính hay sinh cảnh của những loài động vật hoang dã đều có thể chọn hướng đi này. Thậm chí, bạn còn không nhất thiết phải học ngành sinh học hay bảo tồn. Thay vào đó, những kỹ năng và kinh nghiệm về thiết kế, truyền thông, giáo dục của mỗi người… lại vô cùng hữu ích.
Cũng liên quan đến mảng buôn bán và sử dụng sản phẩm từ động vật hoang dã trái phép, ngành bảo tồn làm việc rất chặt chẽ theo luật pháp của nước sở tại. Từ việc những loài động-thực vật hoang dã nào được bảo vệ ở nước nào, luật bảo vệ và xử phạt ra sao, đến việc làm thế nào để điều tra ra những đường
https://thuviensach.vn
dây buôn bán và tiêu thụ động vật hoang dã trái phép, và người dân hiện đang sử dụng sản phẩm từ động vật hoang dã cho mục đích gì… Đây đều là những thông tin vô cùng quan trọng để đưa đến một dự án bảo tồn thành công. Chính vì vậy mà, thay vì lặn lội trong rừng sâu, những người làm nghiên cứu về đường dây buôn bán động-thực vật hoang dã trái phép sẽ làm việc chủ yếu ở những khu vực đông dân cư, với cảnh sát và cơ quan chức năng của nước sở tại, và phải được trang bị những kiến thức sâu rộng về luật pháp. Đôi khi họ còn phải làm việc trong các phòng thí nghiệm để xét nghiệm DNA và phân loại những sản phẩm từ động vật hoang đã bị buôn bán trái phép. Đối với tôi, đây là một hướng đi vô cùng quan trọng, vì dù những người làm nghiên cứu thực địa như tôi có cố gắng thế nào để tạo ra những dự án bảo tồn loài hay sinh cảnh rừng, có hiểu được tập tính hay môi trường sống của các loài, mà tình trạng buôn bán và tiêu thụ động vật hoang dã vẫn diễn ra cũng vẫn không thể bảo vệ, bảo tồn được chúng.
Thế rồi, nếu đột phá thành công những đường dây buôn bán động vật hoang dã trái phép, chúng ta sẽ cần một nơi an toàn để nuôi dưỡng, chăm sóc và phục hồi chúng. Vì thế lại rất cần đến những bác sĩ thú y mát tay, lành nghề và am hiểu tường tận có thể chăm sóc và nuôi dưỡng chúng một cách thật chu đáo. Những loài động vật hoang dã khác nhau lại có những yêu cầu khác nhau về chế độ và thực đơn ăn uống, yêu cầu ngủ nghỉ và môi trường sống khác nhau. Chính vì vậy, để xây dựng được một trung tâm cứu trợ đặc biệt với những khu vực dành riêng cho các loài động vật hoang dã khác nhau cũng cần đến sự chuẩn bị kỹ lưỡng và am hiểu chuyên sâu về những nhu cầu thiết yếu của chúng.
Cuối cùng là hướng nghiên cứu khoa học và đi thực địa mà tôi chọn, đa phần các bạn sẽ dành thời gian nghiên cứu về tập tính, số lượng, hoặc sinh cảnh của một hoặc vài loài động vật hoang dã. Công việc đôi khi còn yêu cầu cả làm việc trong phòng thí nghiệm (ví dụ như xét nghiệm DNA từ mẫu phân, mẫu lông của loài vật). Tuy nhiên để theo hướng này thì cần có sức khỏe tốt, sẵn sàng di chuyển, đi lại nhiều, vì đa phần thời gian là theo dõi động vật hoang dã trong môi trường tự nhiên của chúng. Ngoài ra thì còn rất nhiều hướng đi khác nữa, như là làm chuyên về xét nghiệm DNA để phân loại các mẫu vật, quản lý sinh cảnh môi trường rừng, bảo tồn biển và các loài sinh vật biển, phát triển bền vững cộng đồng sống ven khu bảo tồn…
Năm 2012, khi vẫn còn phân vân không biết có nên làm lên tiến sĩ không, tôi nhận được lời giới thiệu của cô giáo ở trường cho một dự án về loài báo gấm (Neofelis nebulosa) với đơn vị nghiên cứu và bảo tồn động vật hoang dã WildCRU, trực thuộc trường Đại học Oxford. Người sẽ cùng tôi lên ý tưởng và làm việc trong dự án là thầy David MacDonald, một nhà bảo tồn chuyên nghiên cứu về những loài thuộc họ mèo lớn rất nổi tiếng ở Anh quốc. Thầy là một người bận rộn và có yêu cầu rất cao đối với cộng sự. Sau một vài lần trao đổi, chúng tôi quyết định sẽ tiến hành làm khảo sát ở khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Linh, thuộc tỉnh Kon Tum. Nếu có thể tìm thấy báo gấm, tôi sẽ viết đề cương dự án và phát triển nó thành luận văn tiến sĩ, thầy David sẽ trở thành thầy hướng dẫn của tôi. Nhưng nếu không thể chụp được ảnh của bất kỳ cá thể
ấ ề
https://thuviensach.vn
báo gấm hay loài nào thuộc họ mèo lớn, thì tôi sẽ phải tìm một đề tài khác, một thầy hướng dẫn khác. Mặc dù biết trước rằng với tình trạng rừng ở Việt Nam như hiện nay, việc chụp được ảnh của bất kỳ loài mèo lớn nào quả thực chẳng khác gì mò kim đáy bể, nhưng tôi cũng bị cuốn hút bởi thử thách này, nên đã nhận lời thầy David.
Báo gấm - Cloded Leopard (Neofelis nebulosa)
Đây là lần đầu tiên tôi quay lại Việt Nam sau bốn năm học tập và làm nghiên cứu ở nước ngoài. Việt Nam quả thực thay đổi và phát triển rất nhanh. Hà Nội nhỏ bé của tôi chỉ trong bốn năm cũng đã khác trước rất nhiều. Nếu ở những đất nước đã phát triển, bạn sẽ không nhận thấy sự khác biệt rõ rệt trong khu quy hoạch đô thị như thế. Ngay cả trên đường trở về từ sân bay thôi, tôi đã thấy những dãy nhà cao tầng, những khu đô thị lớn bắt đầu được xây dựng, và nền trời thì đã mang sắc màu xám xịt do ô nhiễm khói bụi, cũng giống như bất kỳ đất nước đang phát triển nào khác. Tôi nhớ ngày xưa lúc học cấp III có đọc được bài thơ của ai đó ví von “Hà Nội bé nhỏ như bàn tay con gái”. Tiếc rằng câu thơ ấy không còn đúng nữa rồi.
Đây là một dự án lớn mà tôi lên kế hoạch và xin kinh phí hỗ trợ từ một quỹ bảo tồn ở Anh cùng với thầy David. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn cần có sự hỗ trợ ổ ồ ố ầ
https://thuviensach.vn
của một tổ chức bảo tồn ở Việt Nam. Cũng giống như lần đi Madagascar vậy, tổ chức này sẽ đóng vai trò giúp đỡ, hỗ trợ khi tôi làm việc ở địa phương. Thông qua mối quan hệ công việc mà tôi đã có từ những ngày làm tình nguyện viên và thực tập, Fauna and Flora International (FFI) - tổ chức quốc tế về bảo tồn động-thực vật hoang dã thỏa thuận sẽ giúp đỡ tôi trong quá trình đi lại, sắp xếp công việc với các đơn vị kiểm lâm ở địa phương và đưa ra những hỗ trợ khác khi cần thiết.
Lần về Việt Nam này, tôi được làm việc chính cùng với anh Ben Rawson, lúc bấy giờ là giám đốc của tổ chức FFI chương trình ở Hà Nội. Đây là một sự tình cờ, vì tôi quen anh Ben từ hồi tôi mới 17 tuổi. Lúc đó, tổ chức bảo tồn quốc tế Conservation International mà anh làm việc phối hợp với các tổ chức bảo tồn khác ở Việt Nam mở một khóa học về bảo tồn linh trưởng. Tôi khi ấy do học sớm một năm nên vừa tốt nghiệp cấp III, liền khấp khởi đăng ký xin đi học dù biết khả năng mình được nhận là rất thấp, do khóa học này được thiết kế cho những anh chị sinh viên đại học năm cuối, và cả các anh, các chú kiểm lâm trên cả nước nữa. Lúc gửi đơn, cũng vì lo lắng và không muốn để lỡ mất cơ hội này mà tôi đã viết một email rất dài cho anh Ben, giải thích tôi mong muốn được tham gia khóa học này thế nào, tôi yêu mến ngành bảo tồn ra sao, và vì cố gắng để được làm bảo tồn mà ngay từ lớp 11 tôi đã đi tình nguyện cho các tổ chức bảo tồn ở Hà Nội. Vài ngày sau đó, tôi nhận được cú điện thoại của anh Ben, anh hỏi tôi rất nhiều, như để “kiểm tra” xem tôi có thực sự đam mê với ngành không, rồi anh nói rằng dù tôi là người trẻ nhất đăng ký khóa học, nhưng lại có nhiều kinh nghiệm làm tình nguyện cho những dự án bảo tồn hơn cả một số sinh viên đại học. Thế nghĩa là… tôi được nhận!
Trong trí nhớ của tôi, đó là khóa học tuyệt vời nhất. Chúng tôi, bao gồm những anh, những chú từ các vườn quốc gia khắp nơi trên cả nước, rồi một vài anh chị sinh viên năm cuối của các trường đại học cùng tụ họp tại Hà Nội để học lý thuyết, sau đó thì được đưa vào vườn quốc gia Cúc Phương để tham gia thực hành. Anh Ben Rawson cũng chính vì thế đã trở thành người thầy đầu tiên dạy tôi về môn học bảo tồn động vật hoang dã. Nhiều năm sau đó, khi đã là cộng sự, anh ấy nói với tôi rằng mỗi khi nhắc về tôi, anh vẫn nhớ hình ảnh một chiếc mũ tai bèo lấp ló đi trong cánh rừng của buổi khảo sát ban đêm ngày ấy.
Gặp lại anh Ben sau nhiều năm, cảm giác thật khó tả. Hồi tôi mới gặp, anh ấy cũng chỉ mới bắt đầu làm việc ở Việt Nam được vài năm, vậy mà giờ anh đã sống và làm việc ở Hà Nội gần chục năm rồi. Ngày ấy tôi cũng chỉ là một đứa trẻ vừa tốt nghiệp cấp III, cũng chưa hiểu biết gì về công việc này lắm, mọi thứ còn thật mới lạ. Chúng tôi cười toe toét, hỏi han nhau về những ngày tôi đi làm khảo sát ở Madagascar. Anh Ben cười phì và gọi tôi là “kẻ phản bội” vì không nghe lời anh về làm việc ở Việt Nam mà lại chạy đi tận châu Phi. Thế rồi chúng tôi đi vào công việc chính… Chà, thật không ngờ được, có ngày tôi lại cùng ngồi đây, như một người cộng sự, bàn bạc và lên kế hoạch về dự án sắp tới với anh.
Lên kế hoạch xong xuôi cho chuyến đi vào Kon Tum vài ngày tới, tôi xuống phòng nghiên cứu linh trưởng, định bụng chào mọi người vì vài năm trước đây tôi cũng đã từng làm tình nguyện ở văn phòng này. Tôi ló đầu vào nhưng không
ấ ề
https://thuviensach.vn
thấy ai quen, có lẽ những chuyên gia tôi làm việc cùng trước đây đều đã chuyển đi nơi khác, hoặc đang đi thực địa hết rồi. Chỉ có một anh thanh niên trẻ, tóc dài và quăn được buộc thành một túm ở đằng sau gáy đang cắm cúi làm việc. Thấy có người lấp ló ở cửa, anh ngẩng lên nhìn. Tôi cười, xòe tay ra vẫy vẫy “xin chào”, rồi cứ thế đi thẳng về, cũng chẳng hỏi han gì thêm.
* * *
Việt Nam nằm trong “top” 20 quốc gia trên Trái đất có độ đa dạng sinh học cao nhất. Có đến khoảng 10% các loài thực và động vật sinh sống trên đất nước của chúng ta là những loài đặc hữu, có nghĩa là những loài này chỉ có thể tìm thấy ở Việt Nam chứ không ở nơi nào khác. Thế nhưng, thiên nhiên hoang dã của chúng ta cũng đã bị phá hủy rất nhiều trong những cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Thế rồi công cuộc xây dựng lại đất nước sau chiến tranh, tự do hóa thương mại và nhu cầu sử dụng sản phẩm từ động-thực vật hoang dã đang ngày càng tăng cao trong những năm gần đây đã dẫn đến sự suy giảm về mật độ bao phủ của rừng, đẩy nhiều loài động-thực vật hoang dã đến bờ vực tuyệt chủng.
Vào thời điểm tôi đang viết cuốn sách này, dân số của cả nước đang vào khoảng hơn 95 triệu người, với 35% số dân đang sống ở đô thị và các thành phố lớn. Với mức phát triển mạnh của nền kinh tế và sự gia tăng dân số nhanh, nhu cầu của con người đang tạo ra sức ép rất lớn cho những khu rừng ít ỏi còn sót lại. Nhu cầu sử dụng cà phê, hạt tiêu, cao su, hay thậm chí cả lúa gạo… dẫn đến tình trạng phá rừng và chuyển hóa đất rừng thành đất nông nghiệp ở khắp nơi trên cả nước. Tỉnh Kon Tum, nơi mà tôi sẽ đến làm việc từ lâu đã được cộng đồng bảo tồn quốc tế công nhận là khu vực “điểm nóng” vì có độ đa dạng sinh học cao nhưng lại chịu sự tàn phá nặng nề với 75% diện tích rừng bị phá hủy. Tỉnh này cũng được coi là ở “vị trí đắc địa” vì nó nằm giáp ranh với Khu bảo tồn thiên nhiên Dong Amphan của Lào và Vườn Quốc gia Virachey của Campuchia. Khu bảo tồn Ngọc Linh nằm giữa hai tỉnh Kon Tum và Quảng Nam được biết đến là ngôi nhà của nhiều loài động-thực vật hoang dã, bao gồm cả loài báo lửa (Pardofelis tentminckii), mèo gấm (Pardofelis marmorata) và thậm chí cả báo gấm (Neofelis nebulosa). Tuy vậy, liệu những loài động vật đó có còn sinh sống ở khu vực này nữa hay không, khi mà nhu cầu sử dụng các sản phẩm từ động-thực vật hoang dã dẫn đến tình trạng phá rừng, săn bắn và đặt bẫy khắp nơi như hiện nay?
Sau chuyến bay ngắn từ Hà Nội, tôi được đưa về văn phòng nhỏ của FFI nằm ngay ở thị xã Kon Tum. Vào thời điểm này, đa phần nhân viên đều đang đi thực địa hết, chỉ có ba người còn “sót” lại ở văn phòng: Anh Liêm quản lý chương trình ở Kon Tum, chị Chi quản lý kinh phí các dự án và chị Tiên là điều phối viên đa dạng sinh học. Theo sắp xếp từ trước, chị Tiên sẽ đi cùng tôi đến khu bảo tồn Ngọc Linh. Nhân chuyến đi này, tôi sẽ tập huấn cho chị về cách đặt, tháo dỡ bẫy máy ảnh và cách thu thập dữ liệu. Chúng tôi sẽ tạm tá túc ở trạm kiểm lâm. Khu vực này có nhiều người dân ở nên hằng sáng vẫn có người chở thực phẩm bằng xe máy lên bán cho người dân. Vì thế mà chúng tôi không cần phải mua quá nhiều lương thực, chỉ cần chuẩn bị thêm một vài loại đồ ăn đóng hộp trong trường hợp phải ngủ lại trong rừng và để ăn trưa thôi.
https://thuviensach.vn
Sáng sớm ngày hôm sau, chúng tôi cùng nhau tay mang tay xách ba lô tư trang, 40 cặp bẫy máy ảnh và pin lên khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Linh. Cảnh vật xung quanh quãng đường đi cũng không có ấn tượng gì nhiều lắm ngoài con đường rải nhựa bằng phẳng và những thửa ruộng dải đều ở cả hai bên đường. Cũng phải gần sát vào khu bảo tồn, những dãy núi và màu xanh thẫm của rừng cây mới bắt đầu xuất hiện. Mất khoảng 4 tiếng đi xe từ thị xã thì chúng tôi mới đến khu vực của ban quản lý, và cũng phải thêm gần một tiếng xe ì ạch leo trên đường đèo, đường đất thì mới vào được đến trạm kiểm lâm của khu vực này.
Trạm kiểm lâm nhỏ xíu, tuềnh toàng, có một gian phòng nghỉ với chiếc giường vừa đủ cho hai người nằm. Phòng khách chẳng có gì ngoài một bộ bàn ghế gỗ cọc cạch, nhà bếp tối tăm và ẩm mốc. Một phòng tắm nhỏ ở gần bể nước phía bên ngoài, được che chắn bởi chiếc cửa được sơn màu xanh lá cây đã hỏng bản lề từ lâu, và một nhà vệ sinh được xây liền kề ngay bên cạnh. Hôm ấy có ba người đang ở lại trông trạm, một trong ba người là anh Sáng, một người dân tộc Giẻ Triêng, nói tiếng Kinh bằng giọng lơ lớ. Vì khu vực này nằm trên núi cao, nên dù mới chỉ vào khoảng 3 giờ chiều, mây mù đã bắt đầu vần vũ phía trên đỉnh núi, chuẩn bị cho cơn mưa chiều sẵn sàng ập xuống bất cứ lúc nào. Tôi và chị Tiên tranh thủ lúc trời chưa mưa mượn tạm chiếc xe máy của trạm để đi vòng quanh tham quan bản làng.
Phía bên ngoài làng bản là những ngọn đồi núi trơ trọi, khô khốc do người dân đã chặt phá cây cối để làm củi đốt, vật liệu xây nhà và mở đất sinh sống. Bản làng ở đây đa phần nằm nép mình dưới thung lũng, với những ngôi nhà nhỏ được xây tạm bợ bằng gỗ và lợp mái lá. Những ngôi nhà như thế này chẳng thể chống chọi được với những cơn gió mạnh và những cơn mưa dai dẳng của vùng núi. Nhiều người dân lấy báo, hoặc bìa để dán che đi những khe hở giữa những vách gỗ để chống gió lùa. Con sông Đak Mek chia nhánh thành nhiều con suối lớn nhỏ với dòng chảy xiết đục ngầu nước phù sa đi qua nhiều làng xã trong khu Ngọc Linh. Vào mùa mưa bão, cơn mưa như trút xối thẳng từ trên trời xuống những ngọn núi trơ trọi. Không còn cây cối giữ nước, những dòng nước cuốn theo đất đã bị xói mòn, tạo thành những cơn lũ quét gây nguy hiểm cho tính mạng con người.
Hôm đó sau bữa cơm tối, chẳng có việc gì làm nên chúng tôi lấy bẫy máy ảnh ra lắp pin, cài đặt cho đúng chương trình rồi tắt đèn đi ngủ sớm. Chỉ có hai chị em gái trong trạm kiểm lâm vắng tanh vắng ngắt, đã vậy nhà vệ sinh lại còn xa phòng ngủ, nên chúng tôi cũng hơi sợ hãi. Dù vậy một ngày đường mỏi mệt khiến cả hai ngủ rất ngon giấc. Bên ngoài gió vẫn đang giật từng hồi.
Anh Việt, anh Ba và chú Lâm lúc đầu được giao nhiệm vụ giúp chúng tôi đi đặt bẫy máy ảnh. Nhưng anh Việt rốt cuộc lại phải đi ôn thi công chức nên chỉ ở lại cùng chúng tôi hai hôm đầu để đi xem xét địa hình và ước tính số lượng ngày làm việc. Sáng sớm ở khu vực này rất nên thơ, khi mặt trời còn chưa rực rỡ, chúng tôi có thể nhìn thấy ánh nắng vàng nhẹ vắt xuyên qua làn sương mù, tạo cảm giác bồng bềnh, mờ ảo. Bản làng cũng rộn rã hơn, với khói bếp lơ lửng trên những ngôi nhà lợp mái lá đơn sơ. Sáng nào vào khoảng 8 giờ cũng có một chú lái xe máy thồ hàng từ thị xã gần đó, chở theo nào đậu phụ, rau củ, gạo, thịt… để bán cho người dân. Từ khi chúng tôi chuyển đến trạm kiểm lâm,
ấ ỗ
https://thuviensach.vn
chú ấy luôn ưu tiên đỗ xe ngay phía bên ngoài trạm đợi chúng tôi ra tíu tít mua rau, mua đậu.
Tuần đầu tiên chúng tôi dựa vào bản đồ địa hình của khu vực để sắp xếp thời gian đặt bẫy máy ảnh ở những khu gần với trạm kiểm lâm trước, cứ sáng đi tối về. Cũng mất một thời gian giải thích và tập huấn dài, mọi người trong đội mới hoàn toàn tự tin về việc lắp bẫy máy ảnh. Chúng tôi sẽ lắp một hệ thống bẫy máy ảnh theo cặp dưới hệ thống ô vuông - grid. Có thể giải thích giản lược thế này: ví dụ với một khu vực rộng khoảng 200ha, bạn chia ra thành nhiều “ô vuông” nhỏ khác nhau, và độ lớn của mỗi ô vuông này tùy thuộc vào tập tính sinh sống của loài mà bạn làm nghiên cứu. Rõ ràng là cần có 4 điểm để tạo thành 1 ô vuông, và mỗi điểm này sẽ tương ứng với một con số định vị cụ thể với vĩ độ và kinh độ rõ ràng. Tại mỗi địa điểm định vị được chọn trước này, chúng tôi sẽ đặt một cặp bẫy máy ảnh đối diện nhau để chụp lại tất cả những loài động vật nào đi qua nó. Lý do chúng tôi cần đặt bẫy máy ảnh theo cặp, vì ở những loài động vật có đốm như loài báo gấm, chúng tôi sẽ phải dựa vào đặc điểm xuất hiện của các đốm trên cơ thể chúng để nhận dạng từng cá thể. Vì thế mà từng có lúc tôi dở khóc dở cười ôm đến hơn 60.000 tấm ảnh chụp từ khu vực Borneo để lọc, phân loại từng loài, rồi phân loại theo từng cá thể. Nhớ đến thời đó quả thật là gian nan, cảm giác như dù có dành bao nhiêu thời gian đi nữa cũng không thể nào làm hết được.
Sau khi mọi người đều tự tin với việc lắp bẫy máy ảnh, chúng tôi chia ra làm hai đội, chị Tiên đi cùng anh Ba, tôi đi cùng chú Lâm. Cứ sáng đúng 7 giờ chúng tôi gặp mặt nhau, rồi cùng vào rừng, sau đó mới tách ra thành hai nhóm đi hai hướng khác nhau. Chiều đội nào về trước sẽ lo tắm giặt và chuẩn bị cơm nước trước. Đội về sau sẽ dọp dẹp, rửa bát. Anh Ba và chú Lâm ăn tối với
chúng tôi nhưng sau đó vào làng ngủ, vì trạm kiểm lâm chỉ có một phòng ngủ thôi. Vì thế mà mới xảy ra một chuyện khinh suất…
Làng bản ở đây khá nhỏ, nên chỉ nhìn qua thôi cũng đủ biết tôi và chị Tiên là người ở nơi khác tới. Cả hai đều còn trẻ, nên mỗi lần có việc phải chạy vào bản mua cái này cái kia là lại bắt gặp ánh nhìn chằm chằm của mọi người. Và điều đó cũng thường đi kèm với những lời trêu ghẹo, đôi khi là tục tĩu từ đám trai làng. Vì thế mà chúng tôi không bao giờ đi một mình, và một khi trời tối thì dù thế nào chúng tôi cũng không ra khỏi trạm. Một hôm sau khi đã ăn xong bữa chiều, anh Ba và chú Lâm về bản, còn lại tôi và chị Tiên lạch cạch rửa bát. Tối hôm ấy trời mưa lâm thâm, mà hiềm một nỗi giắc nối điện dành cho trạm bị lỏng, nhiều khi chỉ cần có gió to thôi là cái dây này lại rời ra, và trạm chìm vào bóng tối. Cách khắc phục chúng tôi đã được anh Sáng - người mà lúc nào cũng ngà ngà say chỉ cho cách chữa, ấy là phải cầm cái que tre gác ở góc bếp, sau đó ra cột điện trước trạm và chọc vào giắc cắm điện cho chắc lại. Từ chiều hôm đó chúng tôi đã đi đi lại lại để chọc đến 4 lần rồi, cứ được một lúc điện lại mất. Lúc ấy đã là khoảng 8 giờ nên trời tối mò, và dù trời vẫn đang mưa, chúng tôi có thể nghe tiếng hú hét náo động của đám trai làng ở phía bên ngoài. Không hiểu có chuyện gì, nhưng họ tập trung khá đông, cũng phải gần chục người, đi xe máy và bật đèn pha sáng trưng, rọi thẳng vào trạm nghỉ của chúng tôi và cười hô hố. Mất điện tối om, chúng tôi đành dùng đèn pin rửa mặt
ồ
https://thuviensach.vn
mũi chân tay rồi vào phòng ngủ và khóa chặt cửa lại vì bên ngoài đang càng lúc càng ầm ĩ. Tôi vừa chui vào trong màn thì bỗng nhiên có tiếng người hú, rồi:
“Choang!!!”
“Choang!!!”
“Choang!!!”
Đám thanh niên bên ngoài nhặt gạch, chọi thẳng vào trạm kiểm lâm. Cửa ở đây đều là cửa gỗ với phần trên được lắp kính, nên vỡ tan hoang. Tiếng cười và tiếng hò hét càng vang lên tợn hơn bao giờ hết.
- Làm gì bây giờ hả Trang? - chị Tiên kéo tay tôi - Thế này nguy hiểm quá. - Chị gọi thử cho anh Ba xem? Có các anh các chú kiểm lâm về chắc chúng nó không dám phá đâu - tôi trả lời, chỉ dám khe khẽ nhòm ra ngoài xem đám thanh niên có lẽ là đang say quắc cần câu này có dám manh động mà xông vào trạm không.
Chị Tiên bấm máy, một lần, hai lần, rồi ba lần đều không có người trả lời, gọi cả sang máy của chú Lâm cũng không ai thưa. Mới có gần 9 giờ tối nên chắc chắn là mọi người chưa ngủ, chắc lại ra quán bia đánh bài rồi! - A! Để chị gọi anh Sáng!!! - chị Tiên khẽ reo lên.
- Ôi đừng! ! ! Anh Sáng say từ sáng đến tối, gọi ông ấy đến bây giờ còn nguy hiểm hơn. Đừng gọi. Bọn nó chắc không dám phá gì nữa đâu - tôi rối rít. Bên ngoài có tiếng rú ga, một vài chiếc xe máy đã phóng đi nơi khác, nhưng có vẻ như vẫn còn người ở lại trò chuyện và cười đùa rôm rả.
- Anh Sáng ạ? Anh sang trạm bây giờ được không? Có bọn thanh niên chọi đá vào trạm, vỡ cả kính anh à, kính vỡ rồi - chị Tiên khẩn khoản. Lúc anh Sáng sang đến nơi thì đám thanh niên đã rồ ga đi hết, nhưng chúng tôi vẫn ngồi im trong phòng khóa trái cửa, không dám ra ngoài. Y như tiên liệu, anh Sáng chân nọ đá chân kia, mặt mũi đỏ ửng, nồng nặc mùi rượu, giọng nói lè nhè đập cửa bên ngoài. Chị Tiên ra mở cửa, kể lại sự tình nhưng tôi không rõ anh Sáng nghe được bao nhiêu, vì dù chị Tiên đã bảo giắc bị lỏng nên trạm tạm thời không có điện nhưng anh ấy vẫn ấn thật lực vào công tắc đèn điện. Sau cùng, anh lè nhè đi ra ngoài:
- Lại lỏng giắc hả, để anh chọc lại ổ điện cho tụi bây…
- Thôi anh cứ về đi ạ, không sao đâu ạ - tôi hoảng hốt.
- Bây đừng coi thường anh! - anh Sáng khoát tay, không thèm quay lại. - Trời ơi là trời! - tôi vừa rít lên the thé, vừa đi theo sau - Ông ấy say thế mà ra chọc giữa trời mưa rồi bị điện giật rơi xuống mương thì biết làm thế nào hả chị Tiên?
Phàm là người say thì có bao giờ biết sợ. Anh Sáng vẫn lảo đảo đi không vững vào bếp rồi quả quyết cầm theo cái gậy tre dài ra cột điện phía bên ngoài trạm. Thế là cả hai đứa chúng tôi đành cầm đèn pin rồi đi theo sau anh Sáng phòng hờ nhỡ có chuyện gì xảy ra. Đúng là bây giờ đám thanh niên đã bỏ đi hết, trên lòng đường còn vài vết lốp xe đen kịt hằn lên do chúng phóng nhanh và phanh lại đột ngột. Anh Sáng hăm hở chọc vào hộp điện, vừa chọc vừa lẩm bẩm cái gì đó. Ánh đèn lóa lên rồi lại tắt, thêm vài lần thử nữa thì có vẻ chúng
ố ầ ấ ể ề ế
https://thuviensach.vn
tôi đã có điện lại cho tối nay. Tôi cầm lấy cái gậy đem để về nhà bếp, anh Sáng lúc này lại đứng trước cửa phòng lè nhè, mắt lờ đờ vằn đỏ do say. - Em cảm ơn anh nhiều, anh về ngủ đi ạ, bọn em đi ngủ đây - chị Tiên lo lắng đứng nép ở phía trong.
- Không, anh không sao, để anh ở đây trông cho mấy đứa.
- Không, không cần đâu, anh về đi ạ - chị Tiên hốt hoảng.
Phải mất đến một lúc anh ấy mới về cho, cứ liên tục đòi vào phòng của chúng tôi và lè nhè gì đó tôi nghe không ra. Những mẩu kính vỡ nằm lăn lóc dưới đất, bị anh ấy giẫm lên nát vụn, rồi theo đế giày rắc khắp hành lang phía bên ngoài.
Sáng hôm sau chúng tôi dậy sớm, dọn dẹp lại đống kính vỡ, rồi chuẩn bị bữa trưa để mang theo vào rừng. Anh Ba và chú Lâm đến nơi thấy cửa nẻo tan hoang, vội chạy vào xem chúng tôi có bị làm sao không. Sau khi thuật lại sự việc, chúng tôi tạm thời lấy giấy báo và giấy lịch dán lại phần cửa bị vỡ. Rồi chúng tôi lại chia thành hai đội, cùng nhau vào rừng. Vì bắt đầu bằng những điểm ở gần, nên càng về sau chúng tôi càng phải đi xa hơn. Với địa hình đồi núi, và đặc biệt là nhiều khu vực trơ đá vôi, việc đi lại mất nhiều thời gian hơn chúng tôi tưởng. Nếu là nơi bằng phẳng, việc đi vài cây số để đặt một cặp bẫy máy ảnh là không khó, có khi một ngày có thể đặt được bốn cặp. Nhưng ở đây, chúng tôi chỉ đặt được nhiều nhất là ba cặp bẫy máy ảnh một ngày. Có hôm đi từ sáng đến chiều tối cũng chỉ để đặt một cặp rồi lại phải đi về do trời tối. Vì thế mà ngày hôm sau, cả hai đội chúng tôi xin ngủ nhờ ở một ngôi nhà của hai ông bà cụ người dân tộc Giẻ Triêng để tiện cho việc đi lại. Nếu khởi đầu từ đây thì chúng tôi có thể rút ngắn được gần 4 cây số đi bộ mỗi ngày.
Buổi tối ở căn nhà tuềnh toàng, tôi và chị Tiên được ưu tiên nằm trên chiếc phản làm bằng ván gỗ. Hai ông bà cụ ở gian trong ngôi nhà được chia cách với gian ngoài bằng cái chạn và tủ bếp ọp ẹp. Gian ngoài vừa là nhà bếp, vừa là phòng khách. Ở chính giữa gian phòng nền đất là nơi nấu bếp rất đơn giản, một chiếc ấm đun nước đen bóng được đặt ngay trên ba viên đá lớn với củi lửa đang cháy rừng rực ở phía dưới. Ánh lửa ấm áp tỏa ra khắp gian phòng. Tuy vậy cũng phải nói thêm rằng việc đun nấu bếp trong ngôi nhà gỗ như thế này cũng khá nguy hiểm, trước nhất là có thể dẫn đến cháy nhà, nhất là khi cả căn nhà làm bằng gỗ và tre nứa. Hai nữa là đun củi khô trong nhà kín có thể dẫn đến ngộ độc khí CO₂.
Sau bữa cơm tối no nê, anh Ba và chú Lâm mắc võng lên cột nhà nằm ngủ. Vì còn sớm nên chị Tiên bắt đầu thủ thỉ kể chuyện ma cho tôi nghe. Tôi không tin vào chuyện ma quỷ tâm linh lắm, cũng có thể là do đi học ở nước ngoài từ lâu và tiếp cận với những lý giải khoa học từ khá sớm, nhưng những lúc mọi người kể chuyện ma thì tôi lại rất thích nghe. Vì dù có tin hay không tin thì khi nghe những câu chuyện đó cũng khá là thú vị, và mang lại cảm giác rờn rợn sau gáy, nhất là khi đang ở giữa rừng tối om tối mù, gió thì rít rú phía bên ngoài ngôi nhà gỗ ọp ẹp.
Chị Tiên càng kể lại càng có hứng. Kể hết chuyện này đến chuyện khác, từ chuyện của một bà cụ ở làng nọ đi đêm về một mình qua gốc cây đa, đến chuyện một đội nghiên cứu đi vào rừng và gặp cả đàn ma khỉ. Tôi nghe chăm ấ ể ề
https://thuviensach.vn
chú, thỉnh thoảng hỏi thêm mấy câu vì theo như chị Tiên kể thì có nhiều loại ma khác nhau. Đến câu chuyện thứ hai thì anh Ba bắt đầu cắm tai nghe và bắt đầu ư ử hát theo nhạc để át đi giọng kể của chị Tiên. Đến câu chuyện thứ tư thì anh gắt:
- Đi ngủ đi, chỉ kể chuyện vớ vẩn.
Chúng tôi cười rúc rích, chắc tại anh ấy sợ ma. Mà đúng thế thật, sáng sớm hôm sau lúc đang chuẩn bị đồ đạc để đi tiếp thì chúng tôi thấy anh Ba lúi húi nhét tỏi vào túi áo và cả vào ba lô nữa để trừ ma. Tôi và chị Tiên húc khuỷu tay vào nhau bấm bụng cười.
Vì địa hình đồi núi khó đi, hôm ấy tôi và chú Lâm đi bộ từ 7 rưỡi sáng, đến tận 12 giờ trưa mới đặt được một cặp bẫy máy ảnh. Ăn trưa, nghỉ ngơi xong cũng gần 1 giờ chiều, chúng tôi không muốn về ngay mà cố gắng đi thêm một chút nữa, một chút nữa thôi để đến điểm thứ hai. Không cam tâm đi cả ngày trời mà chỉ đặt được một cặp, chúng tôi tự nhủ nếu đi men theo dông núi(1)thì sẽ nhanh hơn, và muộn nhất là khoảng 5 rưỡi chúng tôi sẽ ra được khỏi rừng.
Nhưng sự thực thì lại không được thuận lợi như vậy. Càng vào trong càng khó đi, có khu vực cây gỗ biến mất, chỉ đặc là tre nứa mọc dày đến mức chúng tôi phải quay trở ra và đi đường vòng. Thế là loanh quanh mãi hơn bốn giờ chiều mới đến được địa điểm đặt bẫy thứ hai. Đến khi chúng tôi gấp rút quay trở ra thì đã muộn: bóng tối bắt đầu ập xuống rất nhanh. Ở trong rừng, tán cây cao và dày trên đầu đã che khuất chút ánh sáng yếu ớt còn sót lại của một ngày tàn. Cũng may là lúc nào đi rừng tôi cũng mang theo hai cây đèn pin để phòng bị. Chúng tôi cố gắng đi, đi mãi, đi mãi, đến tận 7 giờ tối vẫn chưa ra được đến bìa rừng. Thật xui xẻo, một trong hai cây đèn còn bị hết pin, và đèn lại dùng loại pin nhỏ nên pin trong GPS của tôi không dùng cho cây đèn này được. Thế là sau một hồi mò mẫm trong bóng đêm, tôi và chú Lâm đành tìm một hốc đá lớn để ngủ lại.
Ban đêm ở rừng thực sự rất buốt lạnh do sương xuống nhiều. Chú Lâm chặt vài cành cọ khô để trải xuống nền đất rừng làm chiếu lót, còn tôi gom thêm được một đám lá cọ khô, có vẻ sạch sẽ khác để đắp lên người. Sau nhiều năm đi rừng ở cả châu Á lẫn châu Phi thì đây là lần đầu tiên tôi hiểu thế nào là “màn trời chiếu đất”.
Càng về đêm trời càng lạnh. Tôi nằm co ro trong đống lá khô, mũ vẫn chụp lên đầu để giữ ấm. Ngọn lửa le lói từ đám củi khô cũng không đủ đem lại hơi ấm trong đêm sương giá, lại thêm việc cả ngày trèo đèo lội suối mệt mỏi mà không có bữa tối khiến tôi cứ run lên từng chập. Nhưng cũng vì mệt mỏi mà tôi cũng thiếp đi được một lúc. Khoảng 5 giờ sáng, mở mắt dậy thấy người đã phủ đẫm sương. Ánh sáng xanh xám nhè nhẹ có thể nhìn thấy qua từng kẽ lá phía trên. Tôi và chú Lâm bèn dậy, dọn dẹp nhanh rồi đi ra khỏi rừng. Từ chỗ chúng tôi trú đêm đến bìa rừng mất khoảng 40 phút, lúc ra được đến bên ngoài thì mặt trời đã bắt đầu lên, ánh nắng vàng nhè nhẹ trải đều xuống cánh đồng lúa thơm mùi sữa của những người dân bản nơi đây.
Về đến túp lều của hai ông bà già thì thấy chị Tiên đã nấu một nồi cơm to bự cho mọi người để đem đi ăn. Sáng nay chị ấy sẽ về lại trạm kiểm lâm, rồi bắt
ề ố ế ấ
https://thuviensach.vn
xe về thành phố Kon Tum. Mặc dù theo lịch anh Ben xếp cho tôi thì chị ấy sẽ làm việc cùng với tôi cho đến hết dự án, nhưng anh Liêm lại yêu cầu chị ấy về từ mấy hôm trước. Bất ngờ trước quyết định của anh Liêm, vì để cài đặt bẫy máy ảnh thành thạo, rồi cách tháo gỡ máy ảnh sau này thì chỉ một buổi “cưỡi ngựa xem hoa” là không đủ, tôi liền liên lạc với anh Ben, rồi sau cùng với nhiều cuộc điện thoại, chị Tiên được phép ở lại với tôi thêm vài ngày nữa trong tuần làm việc đầu tiên.
Không thấy tôi về tối hôm trước và không liên lạc được với chúng tôi, rõ ràng là chị ấy đang rất lo. Vì thế mà nhác thấy bóng tôi chị đã tíu tít ra đón, rồi chuẩn bị đồ ăn cho tôi khi tôi tranh thủ ra suối tắm rửa. Cả một ngày liền ở trong rừng lại còn ngủ dưới nền đất rừng nên người tôi đầy lá khô và bùn bẩn, tắm gội sạch sẽ và mặc quần áo sạch khô thật không còn gì sung sướng hơn. Lạ là lúc gội đầu tôi thấy nước gội có màu hồng nhàn nhạt.
Xong xuôi, khi vào trong bếp ăn thấy mọi người đang nói chuyện rôm rả. Tôi ăn được vài ba thìa thì thấy có con vắt to đùng, chắc vừa hút máu ai đó đang bò lồm cồm dưới đất. Chị Tiên “Á” lên một tiếng rồi nhảy xa ra khỏi nó một cách kinh tởm. Anh Ba khều con vắt rồi thẳng tay vứt nó vào đống lửa đang cháy. Không hiểu con vắt đốt ai rồi mà béo tròn béo trục, nhưng khi mọi người kiểm tra tay chân thì không ai bị đốt cả. Nhà hai ông bà già lại không có trâu bò, nên không thể là do nó hút no máu trâu bò rồi chui vào đây được.
Thế rồi tôi có cảm giác nong nóng nhồn nhột ở gáy. Giơ tay lên sờ thì thấy mình vừa chạm vào vật gì âm ấm dinh dính. Nhìn lại thì thấy tay tôi đầy máu, đỏ lòm:
- Trời ơi Trang ơi, cổ em chảy đầy máu kìa!!!
Hóa ra con vắt béo núc ấy rơi từ trên đầu tôi ra chứ chẳng đâu xa! Tối qua có lẽ nó đã bò lên đầu lúc tôi đang ngủ ở dưới đất, rồi cứ thế hút máu thật lực. Sáng nay khi quay về bản thì tôi vô tình mang nó theo, và nước hồng hồng khi tôi gội đầu là do máu chảy ra hòa vào với nước suối tạo ra màu như vậy. Nhưng vì vắt cắn không đau, nên tôi chẳng hề biết.
Chỗ bị vắt cắn ở ngay trên đầu, nên chẳng thể nào gắn bông hay lau khô chỗ cắn được. Tôi đành lót tí giấy lên phía cổ để máu không chảy xuống làm bẩn áo quần. Ai từng bị vắt cắn đều biết, do khi cắn chúng tiết chất anticoagulant vào vết cắn để máu chậm đông ở miệng vết thương, thuận tiện cho việc hút máu, vậy nên ngay cả khi đã nhả ra rồi thì máu vẫn sẽ tiếp tục chảy đến một lúc lâu sau đó mới ngừng. Sau khi mọi người ăn uống xong xuôi, chị Tiên lên đường về Kon Tum. Chị bảo tôi nên nghỉ một ngày rồi hẵng làm tiếp, nhưng thực ra ở trong rừng, có nghỉ thì cũng chẳng có việc gì làm. Vậy nên tôi quyết định cứ tiếp tục công việc vì làm xong sớm công việc lúc nào thì mọi người có thể về nhà và nghỉ ngơi thực sự ngày ấy. Rất may là anh Ba và chú Lâm cũng không phản đối, vậy nên sau khi dọn dẹp đồ đạc và chào ông bà già, chúng tôi lại lên đường, với cái cổ áo của tôi lúc này đã loang lổ màu máu.
Lần này chúng tôi sẽ đi theo kiểu cuốn chiếu, tức là mang theo tất cả đồ ăn, túi ngủ, võng lều, đi đến đâu thì nghỉ lại ở đấy. Đối với công việc đặt bẫy máy ảnh phải liên tục di chuyển và địa hình đồi núi như thế này thì đây là cách duy nhất để có thể đặt được bẫy ở những khu vực ở sâu trong rừng. Càng đi sâu ấ ề ẫ ẫ ấ ấ
https://thuviensach.vn
vào phía bên trong, tôi càng thấy có nhiều bẫy thú, cả cũ lẫn mới. Tôi lấy dấu định vị của từng bẫy, và hỏi rằng ở đây kiểm lâm không tháo dỡ bẫy thú hay sao, vì đây là khu vực được bảo vệ và nghiêm cấm các hành vi săn bắn, chặt cây.
- Ôi giời, dân người ta đặt bẫy một tí ấy mà, có sao đâu. Phá bẫy của người ta phải tội! - chú Lâm trả lời.
- Này, cô đừng có phá bẫy đấy nhé, ở đây là không được làm thế - anh Ba nhìn theo tôi.
- Này thì rắn này! - chú Lâm bỗng kêu lên, đoạn lấy con dao phay chú đang cầm ở tay, vốn dĩ dùng để phạt những cây bụi để mở đường khi cần thiết, chém thẳng vào một chú rắn đang vội vã trườn đi ở bụi cây bên cạnh.
- Đừng… - tôi lúc ấy đang chăm chú nhìn cấu tạo của cái bẫy thú ở gần đấy, thấy tiếng chú ấy kêu thì chạy lại. Nhưng đã muộn rồi, con rắn lục bị chặt làm đôi, vẫn đang quằn quại trong vũng máu.
- Tại sao chú làm thế? Từ hôm trước khi bắt đầu đi rừng cháu đã thống nhất với mọi người, khi thấy thú vật trong rừng thì tránh ra, không được đập, không được giết. Mình đi làm nghiên cứu trong rừng mà cứ thấy con gì là đập chết thì rừng còn con gì nữa hả chú??? - tôi kêu lên.
- Con này không đập chết đi thì để nó cắn cho à? - chú Lâm cáu kỉnh. - Chú nhìn thấy nó đang ở trên bụi cây, rõ ràng mình không có ý định đi về phía ấy, chú không cần phải giết nó - tôi phản pháo - Đây là khu vực được bảo vệ cho động vật hoang dã, không được đặt bẫy thú, giết động vật hay chặt cây cối cơ mà.
- Thôi mày im đi - chú Lâm vừa nói vừa bỏ đi.
Cái xác con rắn bị bỏ lại phía sau, vẫn còn đang rỉ máu xuống đám cỏ phía bên dưới.
Từ sau lần đó, tôi lúc nào cũng cố gắng đi ở phía trước và quan sát kỹ để tránh không có trường hợp nào như vậy xảy ra nữa. Từ trước đến nay khi đi rừng, dù là ở đâu đi nữa, đám làm nghiên cứu chúng tôi luôn tuân thủ một nguyên tắc bất di bất dịch, đó là làm giảm thiểu tối đa tác động của con người lên những khu sinh cảnh hoang dã. Nếu là rác hữu cơ có thể phân hủy được, chúng tôi sẽ đào hố sâu, chôn chặt xuống đất để động vật hoang đã không đào bới lên và cũng không làm ảnh hưởng đến cánh rừng. Rác không phân hủy được cần gom lại và mang về thành phố để xử lý. Nếu đi rừng gặp động vật, dù là rắn hay rùa, chúng tôi để chúng được yên và không động đến chúng. Nhiều người có ấn tượng xấu với động vật hoang dã, cho rằng chúng là loài “khát máu”, sẵn sàng tấn công và giết người. Thực ra không phải như thế. Những trường hợp rắn cắn con người đều là trường hợp tự vệ, ví dụ như chúng ta, dù vô tình hay cố ý giẫm phải chúng thì chúng sẽ phản ứng lại. Khi chúng tôi thấy rắn, nếu không phải trên đoạn đường mình cần phải đi, thì chúng tôi sẽ để mặc chúng. Nếu chúng ở đoạn đường mà chúng tôi cần phải qua, thì thường chúng tôi sẽ chờ cho chúng bò qua và quan sát ở khoảng cách an toàn. Hoặc có trường hợp hồi tôi ở Borneo chúng tôi chờ mãi mà chú rắn cứ lừ đừ ở giữa đường, nên anh bạn tôi lấy hai cành cây dài, rồi di chuyển chú sang hẳn bên vệ đường, vừa là giữ an toàn cho chúng tôi, vừa không làm hại đến chú.
ấ ề ề ể
https://thuviensach.vn
Một vấn đề khác nữa khi đi rừng ở Việt Nam, đó là nhiều người, dù là kiểm lâm hay người dân bản địa được thuê để dẫn đường, và thậm chí là cả những người Việt tham gia công tác bảo tồn có thói quen buổi tối sẽ đi săn ếch nhái để ăn, dù bữa tối đã được chuẩn bị, nấu nướng đầy đủ. Việc đi săn ếch nhái để ăn là do thói quen chứ không phải do thiếu thốn lương thực. Có những trường hợp khi tôi đi rừng cùng họ, dù đã thống nhất từ trước, nhưng như trường hợp ở đây, đa phần mọi người đều ừ hữ cho qua chuyện rồi bỏ ngoài tai.
Khác với những loài thú lớn như tê giác, voi, hổ, báo thì những loài động vật nhỏ hơn thuộc bộ bò sát hay lưỡng cư thường bị người ta bỏ quên và cho rằng chúng sống “đầy rẫy” ở trong rừng và chẳng việc gì phải bảo vệ. Nhưng cũng như bất kỳ loài thú lớn nào khác, các loài lưỡng cư hay bò sát cũng có sự đa dạng loài riêng. Chỉ ở Việt Nam đã có đến khoảng 409 loài lưỡng cư và bò sát, nhiều trong số chúng đang bị đe dọa tuyệt chủng do nạn phá rừng, ô nhiễm, biến đổi khí hậu và săn bắt. Điều tôi muốn nêu lên ở đây, đó là nếu không kể đến việc bị người dân bản địa săn bắt làm thực phẩm, mà cứ mỗi lần có đội nghiên cứu vào rừng là chúng lại bị bắt để làm “món ăn nhẹ ban đêm”, và đáng buồn là khi điều này được cho là nghiễm nhiên, thì số phận giống loài chúng sẽ ra sao? Có nhiều loài mới khi được khoa học phát hiện thì đã ở tình trạng nguy cấp hay cực kỳ nguy cấp vì nạn săn bắn bừa bãi, và có lẽ là vì cả những người tham gia công tác bảo tồn cho rằng việc săn bắt lưỡng cư chẳng có gì đáng kể. Có những lần, khi chúng tôi bắt đầu dựng trại thì tiếng ếch nhái vang lên náo động cả một góc rừng, nhưng chỉ cần qua vài đêm là âm thanh này thưa dần, thưa dần rồi tắt hẳn. Đó là kết quả của những lần đi thực địa mà nhiều người dễ dãi cho rằng “ăn một tí” cũng chẳng sao. Một trong những ví dụ điển hình của việc săn bắn một loài động vật đến bờ vực tuyệt chủng trước khi các nhà khoa học phát hiện ra chúng là trường hợp của loài sao la - một loài thú thuộc bộ móng guốc được phát hiện vào năm 1992, khi các nhà khoa học vô tình phát hiện ra cái sọ kỳ lạ với cặp sừng nhọn song song nhau. Là một người làm nghiên cứu bảo tồn, tôi luôn cho rằng chúng tôi cần phải làm giảm thiểu đến mức tối đa tác động xấu của những lần đi nghiên cứu lên môi trường thiên nhiên hoang dã.
Buổi chiều tối của ngày cuối cùng trong đợt đặt bẫy máy ảnh đầu tiên, chúng tôi đi sâu tít vào trong rừng và trèo lên đỉnh những dãy núi cao ngất. Phong cảnh từ trên nhìn xuống quả thật đẹp vô cùng, khu vực này rừng vẫn chưa bị tác động nhiều của con người, cây cao xanh mướt oai phong vươn những tán dài ra hứng gió và nắng. Thế rồi từ phía xa xa, tôi thấy những tán cây này đang dao động một cách kỳ lạ. Nhìn kỹ lại thì hóa ra trên tán cây to lớn ấy là cả một đại gia đình chà vá chân xám - một trong những loài linh trưởng đặc hữu và đang bị đe dọa tuyệt chủng ở Việt Nam. Đây là lần đầu tiên tôi được chiêm ngưỡng chà vá chân xám ngoài tự nhiên. Khác với vẻ ngoài có vẻ hơi lù đù, chúng di chuyển rất nhanh nhẹn. Đàn chà vá này có khoảng 10-11 cá thể trưởng thành và khoảng 2 con non nữa mà tôi có thể nhìn thấy từ xa bằng ống nhòm. Loài chà vá là một loài linh trưởng hiền lành, với chiếc đuôi rất dài và có kích thước bằng một đứa trẻ. Chúng là loài chủ yếu ăn lá cây, nhưng cũng ăn cả hoa quả và các loại hạt. Vì thức ăn của chúng chứa rất ít chất dinh dưỡng và chứa
ề ấ ấ ề ể ể
https://thuviensach.vn
nhiều chất xơ, dạ dày của chúng có rất nhiều ngăn để giúp cơ thể tiêu hóa một cách chậm rãi và hấp thụ tối đa những chất dinh dưỡng có được từ thức ăn. Chính vì thế mà chúng có cái bụng khá bự. Có ba phân loài chà vá trên thế giới, phân bố ở Việt Nam, Lào và Campuchia. Trong đó thì loài chà vá chân xám là loài đặc hữu chỉ phân bố duy nhất ở miền Trung Việt Nam. Cả ba phân loài đều đang bị đe dọa tuyệt chủng cao do môi trường sống bị phá hủy, bị săn bắn để làm thức ăn, hoặc lấy xương nấu thành cao và còn bị buôn bán làm thú nuôi. Điều đáng nói ở đây là loài chà vá khi bị săn đuổi thường trở nên bất động trên các tán cây thay vì tìm cách chạy trốn, vì thế mà thợ săn trong một lần săn bắn có thể giết được cả đàn.
Lúc cặp bẫy máy ảnh cuối cùng được đặt hoàn chỉnh, chúng tôi đã có thể thở phào nhẹ nhõm. Sáng sớm ngày mai chúng tôi sẽ ra khỏi rừng, và tôi sẽ lên xe về Kon Tum, rồi bắt chuyến bay vào ngày hôm sau để quay trở ra Hà Nội. Tôi còn hơn 40 chiếc bẫy máy ảnh nữa từ Hà Nội để đem vào Ngọc Linh, và vì chị Tiên không thể đi cùng tôi trong đợt đặt bẫy máy ảnh thứ hai nên tôi định sẽ tìm một tình nguyện viên để tập huấn về công việc đặt bẫy máy ảnh, rồi chia ra làm hai đội cho nhanh. Tiến trình công việc của chúng tôi vì địa hình phức tạp ở đây mà đã bị chậm so với ước tính ban đầu.
Buổi tôi cuối cùng trời mưa như trút. Mặc dù đã bắt đầu đi từ khoảng 2 giờ chiều, nhưng vì đường xa và khó đi nên chúng tôi mãi vẫn chưa ra được đến bìa rừng. Chú Lâm đã phát chán với việc ngày nào cũng dựng lều dựng trại, lại còn bị dính mưa, nên có hơi cáu kỉnh và lại vừa đi vừa cầm dao phạt vào những bụi cây hai bên đường. Lúc tìm được chỗ dựng trại thì trời đã mịt mù, mưa ướt nên việc nhóm lửa thật là khó khăn, lửa đâu chưa thấy chỉ đặc khói là khói. Sau bữa tối vội vàng ai cũng mệt và tôi chỉ mong sáng hôm sau đến thật nhanh để có thể ra khỏi rừng, tắm rửa và thay quần áo. Mấy hôm rồi người tôi đầy vết cào xước, đặc biệt là ở cả hai bàn tay vì đường dốc nên nhiều khi phải bám vào bụi cây bên đường, hoặc mỏm đá vôi sắc lẻm. Quần áo do liên tục bị dính mưa nên lúc nào cũng ẩm mốc và bẩn thỉu. Chúng tôi chìm vào giấc ngủ mệt mỏi trong tiếng mưa rơi rả rích. Đến khoảng 3 giờ sáng tôi bị đánh thức vì có cái gì đó rất lạnh chạm vào lưng nhồn nhột. Giật mình nhảy ra khỏi võng thì mới phát hiện vì cơn mưa dai dẳng mà nước theo thân cây thấm vào dây buộc võng, rồi cứ thế mà đưa dòng chảy của nước mưa thẳng vào giữa võng của tôi. Vừa ướt vừa lạnh, lại hết sạch quần áo khô để thay, tôi đành xuống khơi thêm một đám lửa nhỏ rồi gà gật hong khô chiếc áo duy nhất còn sót lại chưa bị ướt nhẹp bởi nước mưa để sáng hôm sau mặc.
Ngày hôm sau bắt đầu từ việc dọn dẹp lều trại lúc 6 giờ sáng. Dù ở đây anh Ba và chú Lâm rất hâm mộ những người nghiên cứu nước ngoài vì lần nào đi thực địa họ cũng đều cố gắng dọn dẹp sạch sẽ khu lều trại và đem rác thải nhựa hay lon, hộp về thành phố, nhưng cả chú và anh đều nhất quyết không giúp tôi mang theo rác vô cơ, là những túi nhựa, hộp lon đựng thức ăn vì cho rằng “mình là người Việt, cần gì phải thế”. Thế là tôi lại lụi cụi cời những ống lon và túi nhựa chú và anh vo viên lại vứt ở gần bờ suối để rửa qua, rồi cho vào một cái túi khô ráo khác, đặt trong ba lô rồi mang về. Thấy tôi kiên quyết, chú Lâm và anh Ba cũng chỉ tặc lưỡi, rồi để mặc tôi làm.
ầ ổ ồ ắ ố
https://thuviensach.vn
Lầm lũi đi nguyên cả một buổi sáng, rồi lại đi theo đường tắt trèo xuống núi và lội qua con suối cạn, vậy mà lúc ra được đến bìa rừng thì cũng đã giữa trưa. Tôi vào nhờ nhà một người dân bán tạp hóa ở bản để tắm rửa qua loa, rồi nhờ anh Ba chở xe máy ra khu quản lý của Khu Bảo tồn, rồi từ đó đi xe ô tô về thành phố. Cảm giác được tắm nước nóng, nằm trên giường đệm, tận hưởng cảm giác ấm áp, sạch sẽ, khô ráo và thơm tho quả thật là điều vô cùng tuyệt vời! Nếu như đang ở thành phố và được ngủ trong chăn êm đệm ấm hằng ngày, người ta dễ dàng quên đi và coi nó như một điều tất yếu, hiển nhiên có được. Nhưng khi đã thử cảm giác sống trong thiếu thốn, người ta sẽ tôn trọng những gì mình đang có hơn nhiều. Và qua những lần đi rừng như thế, bài học này chắc chắn tôi sẽ chẳng bao giờ quên.
Về Hà Nội được một hôm thì có tin tốt lành tới. Khoảng cuối năm trước tôi có nộp đơn đăng ký học tại trường Đại học Cambridge. Nói thật lúc nộp đơn tôi cũng run, vì ai chẳng biết đây là một trong những trường đại học tốt nhất thế giới, đầu vào cũng rất cao. Hồi tôi nộp đơn đăng ký, chị tôi còn bảo chắc chẳng được đâu, đăng ký làm gì cho tốn tiền. Khác với những trường đại học khác ở Anh, nếu đăng ký vào Oxford và Cambridge bạn sẽ phải trả phí đăng ký học là 50 bảng, vào khoảng 1 triệu rưỡi Việt Nam đồng. Nhưng Cambridge là một trong những trường đại học có những khóa học về bảo tồn tốt nhất ở Anh quốc, và cũng là một thành phố cổ kính đẹp mê hồn với nhiều tổ chức bảo tồn động-thực vật trên thế giới đặt trụ sở nên tôi quyết tâm nộp đơn học, với suy nghĩ rằng mình có đủ giỏi hay không không phải chỉ do bản thân mình quyết định, dù thế nào cũng nên thử một lần xem sao. Cuối cùng thì kết quả tuyệt vời hơn cả mong đợi: tôi được nhận vào trường, và còn được nhận cả học bổng toàn phần với chi phí ăn ở, đi lại nữa.
Tôi viết email cho thầy David với trái tim lâng lâng sung sướng. Vậy là dù có tìm được báo gấm ở Việt Nam thì tôi cũng không thể làm đệ tử của thầy, nhưng tôi vẫn có thể tiếp tục dự án này và thầy vẫn có thể trở thành thầy cố vấn cho tôi, không có gì thay đổi nhiều. Điều thay đổi duy nhất và theo hướng cực kỳ có lợi, đó là kết quả của công việc lần này không hề ảnh hưởng đến tương lai nghiên cứu của tôi. Nếu không tìm thấy báo gấm trong lần nghiên cứu này thì tôi sẽ làm nghiên cứu theo đề tài ở châu Phi mà tôi đã phác thảo trong đơn đăng ký với trường Cambridge.
Vừa đi vừa nhảy chân sáo đến gặp anh Ben ở văn phòng FFI để thông báo về kết quả chuyến đi đặt bẫy máy ảnh đợt một, tôi vô tình gặp lại anh thanh niên trẻ có tóc dài buộc sau gáy hôm nọ. Anh ấy đang đi từ trên cầu thang xuống, chắc là đang quay trở xuống từ phòng anh Ben. Tôi lại cười toe toét, xòe tay ra vẫy vẫy:
- Xin chào!
- Xin chào! - anh ấy có vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi lần nữa. Chắc cũng không hiểu ở đâu ra con bé thoắt ẩn thoắt hiện cứ chạy ra chạy vào văn phòng mình. Tôi vừa bô lô ba la kể chuyện nhìn thấy đám chà vá chân xám ở Kon Tum, vừa cười ngặt nghẽo đùa với anh Ben về thầy David Chiever - một ông thầy ở Cambridge mà tôi từng liên lạc để làm đề tài, cũng là một nhà linh trưởng học khá nổi tiếng ở Anh lúc nào cũng rất nghiêm nghị chuyện gọi đúng tên của các ầ ằ ể
https://thuviensach.vn
loài. Thầy luôn cho rằng dùng từ langur - voọc để chỉ những loài chà vá là sai, vì xét về mặt phân loài, chúng gần họ với khỉ hơn là với voọc. Vì thế mà tôi luôn bị thầy sửa nếu nhỡ miệng gọi Douc Langur - Voọc chà vá thành Douc Monkey - Khỉ chà vá. Đúng lúc này thì anh thanh niên tóc dài lại gõ cửa rồi đẩy cửa vào, anh Ben liền giới thiệu:
- Trang, đây là Brian. Anh ấy là cố vấn chương trình bảo tồn linh trưởng của Việt Nam. Brian, đây là Trang, hiện đang làm dự án đặt bẫy máy ảnh ở khu bảo tồn Kon Tum Ngọc Linh. Trang sắp sửa vào học ở trường Đại học Cambridge, con bé này bỏ rơi ngành bảo tồn linh trưởng ở Việt Nam mà theo bọn vượn cáo ở Madagascar đấy - anh Ben nháy mắt.
- Và người thầy đầu tiên dạy em về linh trưởng là anh Ben đây - tôi đùa. - Tôi già thật rồi, hồi đấy em mới có 17 tuổi thôi nhỉ? - anh Ben hỏi lại. Anh Brian bắt tay tôi, rồi chìa ra một chiếc dây buộc tóc:
- Của em đúng không? Anh nhặt được ở trên cầu thang - chả hiểu sao nói ra câu này thì mặt anh ấy đỏ phừng lên và lảng nhìn sang chỗ khác. - Hô! Đúng rồi, em hậu đậu quá. Cảm ơn anh nhé!
* * *
Hồi còn nhỏ, tôi ghét học tiếng Anh cực kỳ. Còn nhớ lúc học cấp I, tôi đã cằn nhằn với mẹ, than thở rằng mình là người Việt, sống ở Việt Nam thì học tiếng Anh để làm gì cơ chứ. Trong suốt những năm cấp I và cấp II, điểm tiếng Anh của tôi thấp lè tè thậm tệ vì tôi chỉ học đối phó thôi. Nhưng mọi sự thay đổi khi tôi phát hiện ra rằng tiếng Anh là thứ cực kỳ quan trọng cần phải có nếu thực sự muốn làm khoa học, và thực sự muốn theo ngành bảo tồn. Thế là sau khi thì tốt nghiệp cấp II, tôi xin mẹ cho đi học tiếng Anh ở trung tâm, một tuần ba buổi, rồi tôi cũng cố gắng ở nhà luyện nghe, luyện đọc, luyện viết. Ngay cả phim ảnh thời đó tôi cũng cố gắng xem phim phụ đề tiếng Anh. Thành thật mà nói thì thời ấy vốn tiếng Anh thậm tệ của tôi khiến việc xem phim phụ đề tiếng Anh giống như một cực hình vì tôi hiểu được rất ít. Nhưng dần dần càng nghe lại càng quen, và càng học được nhiều từ mới thì lại càng có động lực để học tiếp, nghe tiếp và nói tiếp. Tôi có một điểm mạnh - thực ra bản thân tôi đến bây giờ cũng không rõ đó là điểm mạnh hay điểm yếu nữa, đó là chẳng biết sợ. Dù là việc gì, chỉ cần tự nói với bản thân “nhất định sẽ được” thì tôi sẽ cố gắng làm cho bằng được. Vậy nên ngay cả chuyện sử dụng vốn tiếng Anh vô cùng bập bẹ để nói chuyện với người nước ngoài, tôi cũng cứ nói ào ào chứ chẳng hề sợ hãi và xấu hổ. Âu đó lại là cái lợi vô cùng cho chuyện học ngoại ngữ.
Mùa hè của tuổi 14, có một thầy giáo dạy tiếng Anh người Mỹ tên là Ryan đến dạy ở trung tâm tôi theo học. Tôi thích thầy lắm, vì thầy hồi đó sang Việt Nam dạy thêm tiếng Anh cho vui thôi, chứ thực ra thầy làm về phim ảnh và có quay một bộ phim tài liệu nhỏ về loài chà vá chân xám mà vài năm sau đó tôi được sử dụng nó như tài liệu trong một dự án về giáo dục bảo tồn cho những em học sinh cấp II. Một hôm, thầy ra bài tập về nhà là viết về ước mơ của mình. Tôi nghĩ mãi chẳng biết nên viết gì, vì mỗi lần tôi nói rằng muốn làm ngành bảo tồn động vật hoang dã là thầy cô và bạn bè đều cười chê, cho rằng đó là thứ viển vông dở hơi không tưởng. Thế rồi ôm nỗi ấm ức trong lòng, tôi ế ế ể ố ế
https://thuviensach.vn
viết hết một trang rưỡi - mà vào thời điểm cái vốn tiếng Anh của tôi dở tệ hại, viết được những một trang rưỡi toàn bằng tiếng Anh là cả một sự cố gắng cực kỳ. Lúc nộp bài cũng thấy hơi run run, vì không biết thầy sẽ phê bình thế nào. Hồi trước có một thầy người Úc đứng lớp, tôi giải thích mãi về công việc mà tôi muốn làm, nhưng thầy không hiểu là tôi muốn làm nhà bảo tồn học - conservationist, chứ không phải là nhà động vật học - zoologist.
Hôm nhận lại bài tập, tôi vui không kể xiết. Vì mặc dù bài của tôi bị gạch dấu đỏ tùm lum, nhưng lời phê của thầy, mãi cho đến tận bây giờ, tôi vẫn nhớ như in:
“Well done, don’t forget to always follow your dreams.”
Tạm dịch: “Giỏi lắm, em đừng bao giờ từ bỏ những ước mơ của mình.” Chỉ với một câu động viên, một lời khích lệ vô cùng đơn giản ấy thôi, mà tôi của ngày đó cảm thấy như mình đang được lắng nghe, được thấu hiểu, và nó đã cho tôi động lực để cố gắng hơn nữa, nhiều hơn nữa, để học tiếng Anh thật tốt, để có thể đọc các báo cáo, tài liệu bằng tiếng Anh, để giúp tôi tiến một bước gần hơn đến việc biến ước mơ của mình thành hiện thực.
Những năm cấp I, môn tiếng Anh của tôi rất tệ, lại thêm việc rất hiếu động trong lớp nên tôi không được lòng cô giáo dạy tiếng Anh. Có một lần, ngay trong lớp học, trước mặt bạn bè cả lớp, cô bảo tôi rằng tôi là một đứa trẻ “không có tương lai” và cũng “không có năng khiếu học tiếng Anh”. Lúc đó tôi cảm thấy bị tổn thương kinh khủng khiếp, nhất là khi đám bạn trong lớp cười rộ lên. Có lẽ khi đó cô cũng không nghĩ rằng lời của một cô giáo nói với một học sinh mới học cấp 1 có thể làm tổn thương nó đến mức nào, và nó có thể nhớ những lời ấy lâu ra sao. Nhiều năm sau đó, khi tôi được mời tham gia nói chuyện trên chiếc ghế đỏ ở Hiệp hội Hàn lâm Địa lý Hoàng gia Anh (Royal Geographical Society), lúc được hỏi về chuyện của tôi ngày xưa bé, và chuyện làm sao để đưa động lực đến các bạn trẻ tham gia bảo tồn, tự dưng tôi thần ra một lúc. Tôi nhớ lại câu nói của cô giáo ngày xưa. Ừ, chắc cô cũng không ngờ là cái đứa bị cô nói là “không có tương lai” và “không có năng khiếu học tiếng Anh” lại đang ngồi đây và nói chuyện bằng tiếng Anh như thế này.
Vậy mới nói, để một người trẻ có động lực, trưởng thành và tự tin, đôi khi chỉ cần một câu nói, một lời động viên, một sự tin tưởng đúng lúc, đúng chỗ của người lớn.
Cũng thật may mắn là năm học cấp III, tôi cũng đã gặp được một người thầy tin tưởng vào những ước mơ của mình giống như thầy Ryan đã từng. Thực ra ngày ấy tôi sợ thầy lắm, vì thầy nóng tính và hay mắng. Nhưng thầy lại rất thương học trò và không bao giờ coi thường chuyện thích làm thí nghiệm hơn là học những thứ lý thuyết trong sách vở của tôi. Thầy thẳng thắn nói rằng, tôi không phải học trò xuất sắc nhất của thầy, nhưng tôi là đứa hiếm hoi có niềm đam mê với khoa học và thầy ủng hộ tôi ngay cả khi bố mẹ còn đang phản đối chuyện cứ chạy lăng xăng mà làm dự án nghiên cứu này kia chứ không chú tâm
vào việc ôn thi đại học.
Hồi cấp III tôi có tham gia một vài cuộc thi khoa học về chủ đề môi trường. Vì may mắn được một vài giải thưởng, nên khoảng thời gian đó có nhiều anh ế ấ ế ề ề ấ
https://thuviensach.vn
chị nhà báo đến phỏng vấn và viết bài về tôi. Có một điều tôi luôn thấy bứt rứt, đó là họ thường gắn cho tôi cụm từ “học sinh giỏi toàn diện”. Nói thật tôi chưa bao giờ nghĩ mình là học sinh giỏi toàn diện và ngay cả đến bây giờ tôi cũng không rõ việc “giỏi toàn diện” nó phải như thế nào. Tôi chưa bao giờ đứng đầu lớp và cũng chưa bao giờ đạt điểm tổng kết trung bình các môn 9 phẩy hay toán lý hóa lên tận 10 phẩy như cô bạn thân của tôi hồi cấp III. Về sau đó, tôi rất biết ơn thầy, vì thầy cũng nhắc những anh chị nhà báo đến phỏng vấn tôi rằng đừng gọi tôi là “học sinh giỏi toàn diện 10 hay 12 năm”. Đơn giản vì nó tạo áp lực lên tôi và không đúng với bản chất con người tôi. Vì điều đó mà tôi đã cảm thấy như luôn có một người ở bên, ủng hộ và hiểu tôi cho dù có thế nào đi nữa trong suốt ba năm học ấy.
Ở Việt Nam mọi người rất thích cụm từ “học sinh giỏi toàn diện”. Phụ huynh rất muốn con mình 12 năm đi học đều là “giỏi toàn diện”. Nếu có một bạn trẻ nào đó đoạt giải này giải kia, làm được điều to tát, bỗng dưng bạn ấy sẽ được gắn cái mác “giỏi toàn diện”, và phải cố gắng sao cho đúng với cái sự “giỏi toàn diện” mà mọi người gắn cho ấy. Vô tình, nó lại là sức ép, là gánh nặng, thay vì là sự cổ vũ, động viên cho người trẻ.
Ngày ấy mỗi lần được đăng lên báo là “giỏi toàn diện”, tôi luôn ấm ức nghĩ rằng tại sao tôi không được phép chỉ giỏi đúng thứ mà tôi giỏi, tại sao tôi lại phải giỏi toàn diện? Trên đời này có bao nhiêu người “giỏi toàn diện” từ khi sinh ra đến khi chết đi? Giỏi và chuyên về một (hoặc vài) điều thì đã sao? Tại sao không thể để người trẻ chúng tôi được giỏi đúng cái mà chúng tôi giỏi? Tại sao lại cứ phải “toàn diện” thì mới đáng được hoan nghênh?
Bây giờ, tôi nhận ra rằng có một sự khác biệt rất lớn giữa một người có đam mê về một công việc gì đó và một người “giỏi toàn diện” mà không có đam mê. Tôi có thể thấy được ánh sáng nhiệt thành phát ra từ đôi mắt của người đối diện khi nói về công việc mà họ đam mê cháy bỏng, có thể cảm thấy tình yêu và nhiệt lượng từ từng lời họ nói. Chính những người trẻ đó sẽ thay đổi thế giới mà họ đang sống. Tôi nghĩ rằng, phụ huynh, thầy cô hay bất kỳ người lớn nào khác, nên nhìn những người trẻ và động viên họ có đam mê, có hoài bão,
có ước mơ và sống vì những điều mà họ mơ ước, hơn là cứ tìm cách đóng khuôn họ vào cái “giỏi toàn diện” mà đôi khi chẳng mang lại điều gì cho cuộc sống thực sau này.
* * *
Khác với mọi lần, lần này tôi muốn thử tìm tình nguyện viên là một người nhiệt tình, muốn tham gia công tác bảo tồn lâu dài nhưng chưa có điều kiện để tham gia. Quả thật ngành bảo tồn ở Việt Nam rất hiếm, ngay cả các trường đại học cũng chưa thực sự có khoa chuyên sâu về bảo tồn, đa phần các sinh viên chỉ có kinh nghiệm làm việc trong ngành nếu tham gia làm tình nguyện viên cho các tổ chức phi chính phủ hoặc được tham gia vào dự án nào đó của thầy cô trong trường. Vì vậy mà những đơn nộp xin tham gia chuyến đi này của tôi đa phần đều là những bạn trẻ chưa bao giờ đi thực địa, trong đó nhiều đơn tham gia bày tỏ nguyện vọng và trình bày kinh nghiệm đi… phượt, nhiều bạn còn nói rõ lý do muốn đi là để thử cảm giác mạnh khi sống trong rừng sâu. Giữa những đơn xin làm tình nguyện viên như vậy, đơn đăng ký của bạn Hằng nổi
ẳ ấ ố ồ ể ầ
https://thuviensach.vn
bật hơn hẳn. Bạn ấy muốn tham gia làm bảo tồn và có kể lại một vài lần đăng ký đi làm tình nguyện viên cho công tác bảo tồn, trình bày là dù chưa bao giờ học trong ngành, nhưng bạn ấy khao khát muốn được đi để học hỏi và để tự tìm hiểu xem ngành có phù hợp với bạn ấy không. Hằng cũng là người duy nhất thường xuyên email và gọi điện để hỏi tôi liệu có cần thêm thông tin gì về bạn ấy không, và bạn ấy sẽ cố gắng hết sức có thể để đi cùng tôi .
Cuối cùng tôi hẹn gặp Hằng khi ở Hà Nội. Bạn ấy là người Quảng Ninh nhưng đã ra Hà Nội học đại học và sống ở Hà Nội cũng đã lâu rồi. Đôi mắt sáng, nhanh nhẹn, thân hình gầy gò nhưng rất hoạt bát. Có một điều gì đó từ bạn ấy khiến tôi nhớ đến mình của ngày xưa, rất muốn được làm bảo tồn nhưng không biết phải làm thế nào, không biết phải bắt đầu từ đâu, nên tôi quyết định cho bạn ấy một cơ hội để thử xem làm bảo tồn theo hướng nghiên cứu thực địa có phù hợp với bạn ấy không. Khi nhắc đến làm bảo tồn, gần như bạn trẻ nào cũng hấp háy mong ước có thể được đi rừng, thay vì làm những dự án giáo dục bảo tồn nâng cao nhận thức người dân ở thành phố. Quả thực là việc đi rừng rất thú vị, nhưng không phải ai cũng có thể làm việc ở trong rừng vì điều kiện sức khỏe, thể chất, và vì nhiều lý do khác nữa.
Lúc đến khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Linh ở Kon Tum, tôi mới biết sẽ có một vài sự thay đổi nhân sự. Chú Lâm quyết định không đi cùng chúng tôi nữa, chỉ có anh Ba là vẫn sẽ tiếp tục. Thực ra tôi nghe mọi người nói rằng anh Ba cũng không muốn phải đi vào rừng sâu như thế, nhưng cả trạm chẳng ai muốn phải vất vả chui vào rừng, nên rốt cuộc anh ấy vẫn phải tham gia làm việc cùng dự án này của chúng tôi. Tôi dự định sẽ tìm thuê người bản địa dẫn đường vì lần này chúng tôi phải đi rất sâu vào phía bên trong khu bảo tồn, đến tận khu vực giáp ranh với rừng Ngọc Linh ở Quảng Nam. Mặc dù có người dẫn đường nhưng chúng tôi vẫn không thể tách thành hai đội nếu chỉ có anh Ba là kiểm lâm ở đây. Tôi đành ngậm ngùi chấp nhận công việc sẽ lại bị chậm hơn dự định.
Khi đang chờ anh Ba chuẩn bị đồ đạc thì mọi người bắt đầu kể chuyện cho chúng tôi, rằng-thì-là-mà mấy hôm trước có dấu chân hổ ở dưới bản, rồi có người còn nghe thấy tiếng hổ gầm. Tôi cười khoái chí:
- Thế thì tốt quá ạ, bẫy máy ảnh của em mà chụp được hình hổ thì coi như là phát hiện chấn động trong ngành bảo tồn ở Việt Nam.
- Hơ… cô này không sợ à? - anh Thế hỏi, có vẻ chưng hửng. - Ô, thế hóa ra anh chỉ dọa thôi ạ? Làm em thất vọng quá!
Thực ra thì đúng như tôi nghĩ, mọi người thấy tôi là con gái, lại sinh ra ở Hà Nội, nên định dọa tôi về chuyện hổ xuất hiện. Có lẽ họ hy vọng tôi sẽ sợ run, nhưng trái lại tôi lại cười khoái chí.
- Con bé này không biết sợ đâu - anh Ba từ trong phòng đi ra - Nó bị tắc ở trong rừng một tối, phải ngủ dưới đất với chú Lâm, hí hí hí… - Này, thế có… ấy ấy không? - vài người khác cười hô hố chêm vào. - Bọn mày vớ vẩn! - chú Lâm gắt - Nó bằng tuổi con tao đấy. Tôi cau mặt nhìn anh Ba và vài người nữa vẫn đang cười hô hố. Nhận thấy vẻ mặt của tôi và chú Lâm, mấy người này liền ngừng cười mà lảng sang chỗ khác. Kiểu trêu đùa như thế này với những phụ nữ làm bảo tồn nghiên cứu thực ế ẳ ầ ế ế ổ
https://thuviensach.vn