🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trò Chơi Của Ripley - Patricia Highsmith
Ebooks
Nhóm Zalo
Chương 1
“T
rần đời không thể có một vụ giết người hoàn hảo,” Tom nói với Reeves. “Đó chỉ là một trò chơi tự biên tự diễn, cố gắng khiến nó trở nên hoàn hảo. Tất nhiên anh có thể tranh luận là có rất nhiều vụ án chưa được giải quyết. Hai chuyện này khác nhau.” Tom thấy chán. Anh đi đi lại lại trước lò sưởi nhà mình, bên trong có một ngọn lửa nhỏ nhưng ấm cúng nổ lép bép. Tom cảm thấy cái cách anh vừa nói chuyện có vẻ trịch thượng lại còn bảo thủ. Nhưng vấn đề là, anh không thể giúp Reeves và anh cũng đã nói với anh ta điều đó rồi.
“Phải, không sai,” Reeves nói. Anh ta đang ngồi trên một chiếc ghế bành lụa màu vàng, cơ thể mảnh dẻ chúi về phía trước, hai tay chụm lại giữa đầu gối. Anh ta có khuôn mặt xương xẩu, mái tóc ngắn màu nâu sáng, đôi mắt màu xám lạnh lẽo - không phải một khuôn mặt dễ chịu nhưng có thể được xem là khá đẹp trai nếu không có một vết sẹo dài mười hai phân từ thái dương bên phải vắt ngang qua má và gần chạm đến miệng. Có màu hồng sáng hơn một chút so với da mặt, vết sẹo giống như một tác phẩm khâu vá không lành nghề, hoặc cũng có thể nó chưa bao giờ được khâu lại. Tom chưa một lần hỏi về chuyện đó, nhưng Reeves từng tự nguyện kể lại, “Một cô gái dùng hộp phấn bỏ túi của cô ta gây ra đó. Anh có tưởng tượng nổi không?” (Không, Tom không thể.) Reeves nở một nụ cười buồn bã thoáng qua, một nụ cười hiếm hoi mà Tom nhớ ở
anh ta. Vậy nhưng trong một dịp khác, “Tôi bị ngã ngựa - bị kéo lê theo bàn đạp vài thước.” Reeves đã nói vậy với một người khác, nhưng Tom cũng có mặt ở đó. Anh thì nghi là do một con dao cùn trong một trận ẩu đả hết sức hung hãn ở đâu đó gây ra.
Giờ thì Reeves lại muốn Tom đề cử một người để thực hiện một mà có lẽ là hai “vụ giết người đơn giản” và có thể thêm một vụ trộm nữa, cũng rất an toàn và đơn giản. Reeves đã từ Hamburg đến tận Villeperce để nói chuyện với Tom và anh ta sẽ ở qua đêm, rồi ngày mai tới Paris để nói chuyện thêm với một người khác, sau đó mới quay về nhà, hẳn là để suy nghĩ thêm nếu mời chào thất bại. Reeves vốn chỉ làm việc mua bán đồ ăn cắp, nhưng dạo này đã bắt đầu nhúng tay vào thế giới cờ bạc phi pháp của Hamburg, giờ anh ta đang đảm nhận vai trò bảo vệ. Bảo vệ khỏi cái gì? Khỏi lũ cá mập Ý muốn nhảy vào ăn phần. Một gã từng là sát thủ đánh thuê của mafia đã được cử ra làm người thử lửa, ngoài ra còn có một gã nữa có thể đến từ một băng đảng khác, Reeves nghĩ. Khi trừ khử một hoặc có thể là cả hai kẻ xâm nhập đó, anh ta mong muốn sẽ dập tắt được những nỗ lực trong tương lai của bọn mafia, thêm vào đó là thu hút sự chú ý của cảnh sát Hamburg tới mối hiểm họa này, còn lại để cảnh sát giải quyết nốt việc tống cổ lũ mafia đi. “Bọn nhóc Hamburg đó là một băng đảng đứng đắn,” Reeves đã hùng hồn tuyên bố như vậy. “Có thể những gì chúng làm là phi pháp, việc điều hành vài casino tư, nhưng với câu lạc bộ thì không, vả lại chúng cũng chẳng thu về những khoản lợi nhuận kếch xù. Không giống Las Vegas, hoàn toàn bị mafia thao túng, lại còn ngay dưới mũi đám cảnh sát Mỹ!”
Tom cầm que cời và gạt lửa lại một chỗ cho gọn, đút thêm một khúc gỗ nhỏ được chẻ gọn gàng vào. Giờ là gần sáu giờ tối. Chẳng mấy nữa là đến lúc uống rượu. Mà sao không uống luôn nhỉ? “Anh có muốn.
Bà Annette, quản gia của nhà Ripley, đúng lúc ấy từ bếp vào. “Xin thứ lỗi. Anh Tome, anh có muốn uống rượu luôn không, vì hai anh đã không hề uống trà?”
“Có, cảm ơn bà Annette. Tôi cũng vừa mới nghĩ vậy xong. Bà mời Heloise uống rượu cùng chúng tôi luôn được không?” Tom muốn cô giải tỏa bầu không khí một chút. Trước khi đến sân bay Orly lúc ba giờ chiều để đón Reeves, anh đã dặn Heloise là anh ta muốn nói chuyện riêng với mình, nên cô đã nhẩn nha trong vườn hoặc ở lỳ trên gác cả buổi chiều.
“Anh vẫn không,” Reeves nói với vẻ khẩn thiết và dồn hết hy vọng lần chót, “cân nhắc chuyện tự mình đảm nhận việc đó sao? Anh thấy đấy, anh không có liên hệ nào với thế giới đó hết, đó là điều chúng tôi muốn. Sự an toàn. Sau tất cả, số tiền chín mươi sáu nghìn đô đâu phải là tệ.”
Tom lắc đầu. “Theo một cách nào đó mà nói, tôi có liên hệ với anh còn gì.” Chết tiệt, anh từng giúp Reeves Minot vài việc vặt, như là gửi những món đồ nhỏ bị ăn cắp, lấy lại đồ từ các tuýp kem đánh răng, nơi anh ta đã đút chúng vào, những vật nhỏ xíu như các cuộn vi phim chẳng hạn, được những hành khách mang theo không chút hoài nghi. “Anh nghĩ tôi có thể trốn thoát bao nhiêu phi vụ bí mật như thế này nữa? Tôi còn phải bảo vệ danh tiếng của mình, anh biết đấy.” Tom suýt phì cười khi nói ra câu này, nhưng đồng thời tim anh
cũng rộn ràng với một cảm xúc rất thật. Và anh đứng thẳng hơn, ý thức sâu sắc về ngôi nhà hoa lệ mà mình đang sống, về sự tồn tại an toàn của mình hiện giờ, tròn sáu tháng sau sự vụ Derwatt, suýt nữa đã trở thành một thảm kịch. Nhưng anh đã thoát được, chẳng phải chịu hậu quả gì ngoài chút hoài nghi quấn thân. Đi trên làn băng mỏng, đúng thế, nhưng mặt băng chưa vỡ. Tom đã tháp tùng thanh tra người Anh Webster và vài chuyên gia pháp y tới khu rừng ở Salzburg nơi anh đã hỏa thiêu cái xác của người được xem là họa sĩ Derwatt. Cảnh sát cũng hỏi vì sao anh lại đập nát sọ người. Tom vẫn nhăn nhó khi nghĩ lại, vì anh đã làm vậy để cố gắng rải rác và che giấu hàm răng trên. Hàm răng dưới dễ dàng bung ra, và Tom đã chôn nó ở cách đó một đoạn. Nhưng hàm răng trên... Vài chiếc răng đã được một chuyên gia pháp y thu thập lại, nhưng hoàn toàn không có hồ sơ nha khoa của Derwatt từ bất kỳ một nha sĩ nào ở Luân Đôn hết, Derwatt đã sống (như người ta nghĩ) ở Mexico suốt sáu năm trước đó. “Lúc ấy nó có vẻ là một phần của công tác hỏa táng, việc phải làm để giúp anh ấy biến thành tro bụi,” Tom đã trả lời họ như vậy. Cái xác bị đốt thực ra là xác của Bernard. Đúng thế, Tom vẫn thấy rùng mình trước sự nguy hiểm trong thời khắc ấy cũng như hành động đáng kinh sợ của anh, thả một tảng đá lớn xuống cái sọ đã cháy đen. Nhưng ít nhất anh không hề giết Bernard. Bernard Tufts đã tự tử.
Tom nói, “Chắc chắn là trong số những người mà anh quen thì anh có thể tìm được một người làm việc đó chứ.”
“Đúng thế, vậy nhưng họ đều có liên hệ với tôi - nhiều hơn anh. À, những người mà tôi quen thì đều khá tai tiếng,” Reeves nói với
giọng đượm vẻ đầu hàng buồn bã. “Anh quen rất nhiều người đáng kính, Tom, những người thật sự trong sạch, những người không thể chê trách.”
Tom bật cười. “Anh định dụ dỗ những người như thế bằng cách nào hả? Thỉnh thoảng tôi lại nghĩ anh mất trí rồi đấy, Reeves.” “Không! Anh hiểu ý tôi mà. Một người chịu làm vì tiền, chỉ cần tiền mà thôi. Họ không nhất thiết phải là chuyên gia. Chúng tôi sẽ chuẩn bị chu đáo. Nó sẽ giống như... một vụ mưu sát công cộng. Một ai đó mà nếu bị thẩm vấn thì trông anh ta sẽ... hoàn toàn không có khả năng gây ra hành động đó.”
Bà Annette đẩy xe chở rượu vào. Xô đá bạc bóng loáng. Chiếc xe đẩy kêu lọc xọc. Tom đã định tra dầu cho nó mấy tuần nay rồi. Anh có thể giễu cợt Reeves tiếp vì bà Annette, Chúa phù hộ linh hồn bà ta, không hiểu tiếng Anh, nhưng Tom đã chán ngán chủ đề này rồi và thậm chí còn thấy sung sướng khi bà Annette cắt ngang. Bà ta tầm sáu mươi tuổi, gốc Normandy, đường nét đẹp và cơ thể rắn rỏi, một viên ngọc quý trong số những người hầu. Tom không thể tưởng tượng ra Belle Ombre vận hành mà thiếu bà ta.
Sau đó Heloise từ vườn vào và Reeves đứng dậy. Cô đang mặc quần yếm kẻ sọc màu hồng đỏ ống loe có chữ LEVI in dọc trên toàn bộ đường kẻ sọc. Mái tóc vàng dài buông xõa. Tom nhìn ánh lửa vàng lấp lánh trên tóc và nghĩ, “Thật thuần khiết so với những chuyện mà mình vừa mới nói đến!” Dẫu vậy, ánh sáng vàng tỏa ra từ tóc cô lại khiến Tom nghĩ đến tiền. Thật ra anh cũng không thật sự cần thêm tiền, dù việc bán tranh Derwatt, anh cũng được hưởng một phần lợi nhuận trong đó, sẽ sớm chấm dứt vì không còn tranh
để bán. Tom vẫn nhận được phần trăm từ công ty bán họa cụ Derwatt, và công ty đó vẫn chạy tốt. Thêm vào đó còn khoản thu nhập khiêm tốn nhưng vẫn chậm rãi tăng trưởng từ cổ phần của công ty Greenleaf mà anh đã được thừa kế nhờ một di chúc giả do chính anh soạn ra. Chưa kể đến khoản trợ cấp dư giả của Heloise từ cha cô nữa. Không cần thiết phải tham lam. Tom căm ghét việc giết người trừ phi nó là điều hoàn toàn cần thiết.
“Hai người trò chuyện vui chứ?” Heloise hỏi bằng tiếng Anh và duyên dáng ngã xuống chiếc sôpha vàng.
“Có, cảm ơn cô,” Reeves nói.
Cả đoạn hội thoại còn lại chuyển sang tiếng Pháp vì Heloise không thoải mái khi dùng tiếng Anh. Reeves không biết nhiều tiếng Pháp lắm nhưng vẫn hiểu, với lại họ cũng không nói về chuyện gì quan trọng cả: khu vườn, mùa đông dễ chịu có vẻ đã trôi qua hẳn, lúc này mới là đầu tháng Ba vậy mà hoa thủy tiên đã nở rồi. Tom rót sâmpanh cho Heloise từ một cái chai nhỏ trên xe đẩy rượu.
“Hambourg thế nào hở?” Heloise lại thử chuyển sang tiếng Anh và Tom nhìn ra sự thích thú trong mắt cô khi Reeves nỗ lực tìm kiếm một câu đối đáp phù hợp trong tiếng Pháp.
Hamburg cũng không quá lạnh và Reeves nói thêm là anh ta cũng có một khu vườn, vì petite maison* của anh ta nằm trên Alster, một nhánh sông, tức là một khu vịnh nơi rất nhiều nhà có vườn và nằm cạnh sông, vậy nên họ có thể có cả thuyền nhỏ nếu muốn.
Tiếng Pháp: Khu biệt thự nhỏ xinh.
Tom biết là Heloise không thích và không tin tưởng Reeves Minot, anh ta là loại người mà cô muốn tránh xa. Tom hài lòng nghĩ thầm rằng tối nay anh có thể thành thật kể cho Heloise biết rằng mình đã từ chối hợp tác trong một phi vụ mà Reeves đề xuất. Cô lúc nào cũng lo lắng về thái độ của cha mình. Jacques Plisson là một nhà sản xuất dược phẩm triệu phú và là người ủng hộ Charles de Gaulle, hình mẫu về tính cách đáng kính của người Pháp. Hơn hết ông chưa bao giờ thích Tom. “Cha em sẽ không khoan dung thêm nữa đâu!” Heloise thường cảnh cáo anh như vậy, nhưng Tom biết rõ cô quan tâm tới sự an toàn của anh hơn là để ý đến khoản trợ cấp của cha cô, thứ mà ông cũng thường xuyên dọa cắt, theo lời Heloise. Cô ăn trưa với cha mẹ trong căn nhà ở Chantilly của họ một lần một tuần, thường là vào thứ Sáu. Tom vẫn biết là nếu cha cô thực sự cắt đứt trợ cấp của cô thì họ sẽ chẳng thể trụ nổi ở Belle Ombre.
Thực đơn bữa tối có món thịt thăn bò rưới xốt, trước đó là áctisô lạnh dùng kèm nước xốt riêng của bà Annette. Heloise đã thay một chiếc váy đơn giản màu xanh dương nhạt. Chưa gì cô đã cảm giác được là Reeves không đạt được điều anh ta mong muốn khi tới đây, Tom nghĩ. Trước khi họ về nghỉ, anh bảo đảm là anh ta đã có đủ mọi thứ mình cần, hỏi thăm anh ta muốn uống trà hay cà phê trên phòng và vào lúc mấy giờ. Reeves trả lời là cà phê lúc tám giờ sáng. Anh ta trong căn phòng khách ở khu trung tâm bên trái căn nhà, vì thế Reeves được sử dụng phòng tắm thường là của Heloise, nhưng bà Annette đã bỏ bàn chải đánh răng của cô sang buồng tắm trong phòng riêng của Tom.
“Em mừng vì ngày mai anh ta đi rồi. Sao anh ta lại căng thẳng thế?” Heloise hỏi trong khi đánh răng.
“Lúc nào anh ta chả vậy.” Tom tắt vòi hoa sen, bước ra ngoài và nhanh chóng quấn một chiếc khăn tắm lớn màu vàng quanh người. “Vì thế mà anh ta mới gầy - chắc vậy.” Họ đang nói tiếng Anh vì Heloise không ngại nói chuyện bằng tiếng Anh với anh.
“Anh đã quen anh ta như thế nào vậy?”
Tom không nhớ nổi. Khi nào nhỉ? Có thể là tầm năm hoặc sáu năm trước. Ở Rome thì phải? Reeves là bạn của ai ấy nhỉ? Tom quá mệt mỏi nên không muốn vắt óc nghĩ ngợi làm gì, vả lại nó cũng chẳng quan trọng. Anh có khoảng nửa tá người quen kiểu như vậy, và sẽ phải khó khăn lắm mới kể hết được nơi anh đã gặp từng người như vậy.
“Anh ta muốn gì ở anh?”
Tom vòng tay quanh eo Heloise, ép chiếc váy ngủ rộng rãi vào sát cơ thể cô. Anh hôn bờ má mát lạnh của cô. “Một việc bất khả thi. Anh đã từ chối. Em có thể nhìn ra mà. Anh ta thất vọng lắm.”
Đêm hôm ấy có một con cú cất tiếng gọi đâu đó giữa các tán lá thông trong khu rừng công cộng sau lưng Belle Ombre. Tom đặt cánh tay trái dưới cổ Heloise, ngẫm nghĩ. Cô đã ngủ, hơi thở trở nên chậm và nhẹ. Anh thở dài và tiếp tục cân nhắc. Nhưng anh không nghĩ ngợi theo một đường lối logic, mạch lạc. Tách cà phê thứ hai khiến anh tỉnh như sáo. Anh nhớ lại một bữa tiệc mà mình tham dự cách đây một tháng ở Fontainebleau, một bữa tiệc sinh nhật không chính thức dành tặng một quý cô - ai nhỉ? Chính tên của chồng cô ta
khiến Tom hứng thú, một cái tên Anh hẳn sẽ nảy ra trong đầu anh sau vài giây. Anh ta, chủ nhà, tuổi đầu ba mươi và họ có một đứa con trai nhỏ. Họ sống tại một căn nhà ống ba tầng, nằm trong một khu dân cư ở Fontainebleau, sau nhà có một mảnh vườn. Anh ta làm nghề đóng khung tranh, đó là lý do Tom bị Pierre Gauthier kéo theo, vì anh ta có một cửa hàng bán họa cụ ở phố Grande, nơi Tom hay mua màu sơn và cọ. Gauthier đã nói rằng, “Ôi, đi theo tôi đi, anh Reeply. Đưa cả vợ anh theo nữa! Anh ta muốn có nhiều người tham dự. Anh ta đang hơi tuyệt vọng... Dẫu sao đi nữa, vì anh ta làm khung tranh nên biết đâu anh lại có thể cho anh ta chút việc.”
Tom chớp mắt trong bóng tối và hơi ngả đầu ra sau để lông mi không chạm vào vai của Heloise. Anh nhớ lại gã người Anh cao ráo tóc vàng ấy với đôi phần chán ghét và oán giận, vì trong căn bếp u ám với vải sơn cũ mèm, trần nhà lợp thiếc hoa văn kiểu thế kỷ mười chín ám khói, người đàn ông ấy đã đưa ra một lời nhận xét khó chịu với Tom. Anh ta - Trewbridge, Tewksbury? - đã nói bằng giọng đậm mùi nhạo báng, “À phải rồi, tôi có nghe nói về anh.” Tom đã giới thiệu, “Tôi là Tom Ripley. Tôi sống ở Villeperce,” và anh định dợm hỏi thăm xem anh ta đã sống ở Fontainebleau bao lâu rồi, thầm nghĩ biết đâu một người Anh có vợ người Pháp lại thích kết bạn với một người Mỹ có vợ người Pháp sống cách đó không xa. Nhưng sự bạo dạn của Tom được đáp lễ bằng thái độ thô lỗ. Trevanny thì phải? Không phải đó là tên anh ta sao? Tóc vàng, thẳng, trông khá giống người Hà Lan nhưng người Anh cũng thường khá giống người Hà Lan và ngược lại.
Dẫu vậy giờ Tom đang nghĩ đến điều mà Gauthier đã nói tối muộn hôm ấy. “Anh ta đang tuyệt vọng. Anh ta không cố tình tỏ ra kém thân thiện đâu. Anh ta bị mắc một chứng bệnh gì đó về máu - bệnh bạch cầu thì phải, tôi nghĩ vậy. Khá nghiêm trọng. Thêm vào đấy anh nhìn ngôi nhà thì cũng có thể đoán ra, anh ta làm ăn không được tốt cho lắm.” Gauthier có một con mắt giả bằng thủy tinh màu vàng-xanh lục kỳ lạ, rõ ràng là cố gắng mô phỏng con mắt thật, nhưng khá thất bại. Mắt giả của Gauthier trông như mắt một con mèo chết. Người ta tránh nhìn vào nó, vậy nhưng vẫn cứ bị nó hấp dẫn như thôi miên, vậy nên câu nói rầu rĩ của Gauthier kết hợp với con mắt bằng thủy tinh của anh ta, đã khắc sâu ấn tượng về Cái Chết trong lòng Tom, và anh không thể quên được.
À phải rồi, tôi có nghe nói về anh. Điều đó có nghĩa là gã Trevanny hay bất kể tên là gì đó nghĩ rằng anh nhúng tay gây ra cái chết của Bernard Tufts, và trước đó nữa là Dickie Greenleaf? Hay gã người Anh đó chỉ đơn thuần thù địch với tất cả mọi người vì bệnh tật của mình? Chứng phiền muộn, như một người đàn ông liên tục bị đau dạ dày vẫn hay gặp phải? Giờ Tom mới nhớ ra vợ của Trevanny, không xinh nhưng là một phụ nữ trông cũng khá thú vị với mái tóc hạt dẻ, tính tình thân thiện và cởi mở, cố gắng hết mình trong bữa tiệc trong căn phòng khách và căn bếp nhỏ xíu mà không vị khách nào chịu ngồi xuống vài cái ghế hiếm hoi được đặt sẵn.
Điều Tom đang nghĩ là: liệu người đàn ông này có nhận một công việc như Reeves đề xuất hay không? Tom vừa nảy ra một cách tiếp cận Trevanny rất thú vị. Nó sẽ có hiệu quả với mọi người đàn ông, nếu người ta chuẩn bị chu đáo, nhưng trong trường hợp này thì
mọi sự chuẩn bị đã sẵn cả rồi. Trevanny hết sức lo lắng về sức khỏe của mình. Ý tưởng của Tom chẳng qua chỉ là một trò đùa thực tế, anh nghĩ thầm, một trò đùa xấu xa, vì anh ta đã tỏ ra hằn học đối với anh. Trò đùa ấy chắc sẽ không quá một đến hai ngày, cho tới khi Trevanny có thể đến khám bác sĩ.
Tom hào hứng trước suy nghĩ của mình và nhẹ nhàng rời khỏi người Heloise, để nếu anh có rung cả người vì nén cười trong khoảnh khắc thì cũng sẽ không làm cô tỉnh giấc. Giả như Trevanny trở nên yếu đuối và thực hiện kế hoạch của Reeves như một chiến binh, như một giấc mơ thì sao? Có đáng thử một lần không? Có, vì Tom chẳng có gì để mất. Trevanny cũng vậy. Anh ta có khi còn có lợi. Reeves cũng sẽ thu lợi - theo lời Reeves, nhưng cứ để anh ta tự suy ra điều đó, vì theo Tom thấy thì những gì Reeves muốn có vẻ cũng mơ hồ như hoạt động lấy tấm vi phim của anh ta vậy, một hành động hẳn là liên quan tới gián điệp quốc tế. Các chính phủ có nhận thức được về trò hề điên rồ mà vài gián điệp của họ gây ra không? Những gã kỳ dị, loạn trí di chuyển từ Bucharest tới Moskva và Washington cùng súng và vi phim - những người mà biết đâu cũng nhiệt tình với chiến tranh quốc tế như nguồn năng lượng mà họ đổ vào việc thu thập tem hoặc tìm hiểu bí mật của những tàu điện siêu nhỏ?
Chương 2
V
ậy nên tầm khoảng mười hôm sau, ngày 22 tháng Ba, Jonathan Trevanny, sống ở đường St Merry, Fontainebleau, nhận được một bức thư kỳ lạ từ người bạn thân Alan McNear. Alan, đại diện ở Paris của một công ty điện tử Anh, đã viết thư ngay trước khi khởi hành tới New York để công tác, và kỳ lạ thay, ngay sau ngày anh ta tới thăm gia đình Trevanny ở Fontainebleau. Jonathan cứ nghĩ - mà cũng không dự kiến trước - đó là một bức thư cảm ơn từ Alan vì bữa tiệc chia tay mà anh và Simone đã tổ chức cho anh ta, và đúng là Alan có viết vài dòng biết ơn thật, nhưng đoạn thư khiến Jonathan thấy bối rối là thế này:
Jon, tôi đã rất sững sờ trước tin tức về bệnh máu lâu ngày của anh, và thậm chí đến giờ này vẫn hy vọng không phải là như vậy. Tôi thấy bảo anh đã biết, nhưng không định kể cho bất kỳ người bạn nào của mình. Anh thật cao thượng, nhưng bạn bè để làm gì cơ chứ? Anh không được phép nghĩ rằng chúng tôi sẽ lảng tránh anh hay nghĩ anh sắp trở nên u uất đến mức không muốn gặp anh nữa. Bạn bè anh (trong đó có tôi) ở đây - luôn luôn ở đây. Nhưng thật lòng mà nói, tôi không thể viết ra hết những gì mình muốn nói. Tôi sẽ bày tỏ trơn tru hơn trong lần tới gặp anh, sau vài tháng nữa khi
tôi đủ sức xoay xở để dành ra một kỳ nghỉ cho bản thân, nên xin hãy thứ lỗi cho những dòng không thỏa đáng này.
Alan đang nói cái gì vậy nhỉ? Hay là bác sĩ của anh, bác sĩ Perrier, đã nói gì đó với bạn bè anh, điều mà ông ta lại không nói cho anh? Về việc anh không còn sống bao lâu nữa? Bác sĩ Perrier đã không tới dự bữa tiệc tổ chức cho Alan, nhưng liệu có khả năng ông ta đã chuyển lời cho một người khác không?
Bác sĩ Perrier đã nói chuyện với Simone chắc? Và Simone cũng giữ bí mật chuyện đó với anh?
Khi nghĩ tới những khả năng này, Jonathan đang đứng trong vườn nhà mình lúc tám rưỡi sáng, lạnh cóng dưới lớp áo len, các ngón tay thì bám đầy đất bẩn thỉu. Tốt nhất anh nên nói chuyện với bác sĩ Perrier ngay hôm nay. Không cần nói chuyện với Simone làm gì. Nhỡ đâu cô lại đóng kịch. Cơ mà anh yêu này, anh đang nói đến chuyện gì thế? Jonathan không chắc là mình có thể phân biệt được lúc cô đang diễn hay không.
Còn bác sĩ Perrier - anh có thể tin ông ta không? Bác sĩ Perrier lúc nào cũng tràn trề lạc quan, chuyện đó cũng chẳng sao nếu người ta bệnh nhẹ - họ sẽ cảm thấy khỏe lên khoảng năm mươi phần trăm, thậm chí còn giống như đã khỏi hẳn. Nhưng Jonathan biết bệnh tình của mình không nhẹ. Anh mắc chứng bạch cầu tủy, triệu chứng là số lượng tủy vàng trong tủy xương vượt quá mức giới hạn. Trong năm năm qua, anh đã nhận ít nhất bốn lần truyền máu một năm. Mỗi lần cảm thấy người yếu ớt, anh đều phải tới chỗ bác sĩ của mình hoặc tới bệnh viện Fontainebleau để truyền máu. Bác sĩ
Perrier đã nói (cũng tương tự một bác sĩ chuyên khoa ở Paris) là sẽ đến lúc việc suy giảm diễn ra nhanh chóng, khi ấy thì việc truyền máu cũng chẳng có tác dụng nữa. Jonathan đã đọc đủ loại tài liệu về bệnh của mình để tự biết điều đó. Vẫn chưa có bác sĩ nào tìm được phương pháp chữa trị bệnh bạch cầu tủy. Trung bình, người ta chết sau sáu đến mười hai năm, hoặc thậm chí là sáu tới tám năm. Jonathan đang bước vào năm thứ sáu với căn bệnh này.
Jonathan cất cái chĩa lại vào tòa nhà gạch nhỏ, trước kia là nhà vệ sinh ngoài trời, giờ dùng làm kho chứa đồ, rồi đi lên bậc thang phía sau nhà mình. Anh mới đặt một chân lên bậc thềm đầu tiên thì dừng bước, hít hà không khí sáng sớm tươi mát vào phổi, thầm nghĩ, “Mình còn có bao nhiêu tuần nữa để tận hưởng sớm mai như thế này nhỉ?” Dẫu vậy, anh nhớ mùa xuân năm ngoái mình cũng đã có suy nghĩ này. Phấn khởi lên, anh tự nhủ, đã sáu năm rồi anh vẫn biết có thể mình không sống đến tuổi ba lăm. Jonathan bước hết tám bậc thang sắt với bước chân mạnh mẽ, thầm nghĩ đã tám giờ năm mươi hai phút sáng, anh phải đến cửa hàng lúc chín giờ, cùng lắm thì muộn vài phút.
Simone đã đưa Georges tới trường mẫu giáo, và căn nhà vắng lặng. Jonathan rửa tay ở bồn nước và sử dụng cọ rửa rau củ, một việc mà Simone sẽ không tán thành, nhưng anh sẽ rửa sạch cọ trả cô. Cả nhà chỉ còn đúng một cái bồn khác trong phòng vệ sinh tầng trên cùng. Không có điện thoại trong nhà. Anh sẽ gọi cho bác sĩ Perrier ngay khi đến cửa hàng.
Jonathan đi bộ tới đường Paroisse và rẽ trái, rồi sang đường Sablon vắt ngang. Đến cửa hàng, anh gọi vào số của bác sĩ Perrier,
một dãy số mà anh đã thuộc làu làu.
Y tá nói rằng hôm nay bác sĩ đã kín lịch, một việc mà Jonathan đã lường trước.
“Nhưng chuyện này rất khẩn cấp. Nó không tốn nhiều thời gian đâu. Thật ra tôi chỉ hỏi đúng một câu thôi - nhưng tôi phải gặp ông ấy mới được.”
“Anh đang cảm thấy không khỏe sao, anh Trevanny?” “Đúng thế,” Jonathan đáp lại ngay lập tức.
Anh được xếp lịch hẹn lúc mười hai giờ trưa. Thời điểm ấy có gì đó thật u ám.
Jonathan làm nghề đóng khung tranh. Anh cắt miếng lót và kính, làm khung, chọn khung trong kho cho các khách hàng chưa đưa ra quyết định, và họa hoằn lắm thì mới mua các khung tranh cũ ở các buổi đấu giá hoặc từ người bán đồ cũ, khi đó anh sẽ nhận được một bức tranh có chút thú vị đi kèm khung, bức tranh sau đó sẽ được anh lau sạch và đặt ở cửa sổ cửa hàng để bán. Nhưng công việc kinh doanh này không mang lại nhiều lợi nhuận. Anh chỉ kiếm đủ sống qua ngày. Bảy năm trước anh từng có một cộng sự, một người Anh khác, đến từ Manchester, và họ đã mở một tiệm bán đồ cổ ở Fontainebleau, chủ yếu bán mấy món đồ đồng nát được họ tái chế. Công việc này không đủ lợi nhuận cho cả hai nên Roy đã bỏ đi và chuyển sang làm thợ cơ khí trong một gara nào đó gần Paris. Không lâu sau đó, một bác sĩ ở Paris đã nói với anh một điều giống hệt như điều một bác sĩ ở Luân Đôn đã nói: “Anh có nguy cơ bị thiếu máu. Tốt hơn hết là anh nên đến kiểm tra thường xuyên và tránh làm việc nặng.” Vậy nên từ việc xử lý tủ và sôpha, Jonathan đã chuyển sang
công việc nhẹ nhàng hơn là xử lý khung tranh và kính. Trước khi cưới Simone, anh đã bảo cho cô biết là có thể anh sẽ không sống quá sáu năm nữa, bởi vì đúng lúc vừa gặp cô thì anh đã được hai bác sĩ xác nhận rằng sự yếu ớt theo chu kỳ của anh là do bệnh bạch cầu tủy.
Giờ, Jonathan nghĩ thầm khi đã bình tĩnh lại, hết sức bình tĩnh để khởi đầu ngày làm việc, Simone có thể tái hôn nếu anh chết. Cô làm việc năm buổi chiều một tuần từ hai rưỡi chiều tới sáu rưỡi tối ở một cửa hàng giày trên đại lộ Franklin Roosevelt, có thể đi bộ từ nhà họ tới đó, và chỉ đến năm trước khi Georges mới đủ lớn để được đi học trường mẫu giáo ở Pháp. Anh và Simone rất cần số tiền hai trăm franc một tuần mà cô kiếm được, nhưng Jonathan khó chịu với ông sếp của cô, Brezard, một kẻ hơi dâm đãng, thích véo mông nhân viên, và hiển nhiên hay thử vận may của mình ở nhà kho sau cửa hàng. Simone là phụ nữ đã kết hôn, và Brezard biết rõ điều đó, nên lão ta cũng sẽ chẳng dám quá trớn, Jonathan cho là vậy, nhưng điều đó chẳng bao giờ ngăn cản được loại người như gã ta thử một phen. Simone hoàn toàn không phải kiểu lả lơi - trên thực tế thì cô có vẻ e dè kỳ lạ, cho thấy cô nghĩ mình không hấp dẫn đàn ông. Chính phẩm chất đó khiến Jonathan mến cô. Theo ý kiến của anh thì Simone ngập tràn sức quyến rũ nhục dục, dù nó thuộc loại không quá lộ liễu dễ thấy với mấy gã tầm thường, và Jonathan đặc biệt bực mình khi con heo quản lý Brezard hẳn đã nhận thức được sức hấp dẫn cực kỳ khác lạ của Simone, và lão cũng muốn được nếm thử một ít. Dù cô không nhắc nhiều đến Brezard. Chỉ đúng một lần cô kể việc lão ta táy máy tay chân với hai nhân viên nữ còn lại ngoài
Simone. Sáng hôm ấy, trong khi giới thiệu bức tranh màu nước đã đóng khung với khách hàng, Jonathan thoáng tưởng tượng ra Simone, sau một khoảng dè dặt, thuận theo lão Brezard ghê tởm, sau rốt thì lão ta vẫn còn độc thân và có khả năng tài chính tốt hơn anh. Vớ vẩn, Jonathan nghĩ thầm. Cô ghét loại như lão ta.
“Ôi, đáng yêu quá! Thật tuyệt vời!” Người phụ nữ trẻ mặc chiếc áo khoác đỏ rực nói, giơ thẳng bức tranh màu nước trước mặt. Khuôn mặt dài, nghiêm túc của Jonathan chậm rãi nở nụ cười, như thể một mặt trời nhỏ của riêng anh vừa ló ra khỏi mây mù và bắt đầu rọi sáng nội tâm mình. Cô ta hài lòng một cách chân thật! Jonathan không biết cô ta, trên thực tế thì vị khách đến lấy một bức tranh do một phụ nữ lớn tuổi, có thể là mẹ cô ta, đã mang tới. Giá tiền cao hơn con số mà anh ước tính khoảng hai mươi franc, vì khung tranh này không phải loại mà người phụ nữ lớn tuổi đã chọn (Jonathan không có đủ loại khung đó trong kho hàng), nhưng anh không đề cập tới chuyện này và nhận tám mươi franc như đã thỏa thuận từ trước.
Sau đó Jonathan dùng chổi quét sàn gỗ và phủi bụi cho ba, bốn bức tranh nằm trong ô cửa sổ mặt tiền cửa hàng nhỏ xinh của anh. Cửa hàng này quá xập xệ, sáng hôm ấy Jonathan nghĩ. Không có nổi một màu sắc đẹp đẽ nào, khung tranh đủ loại kích cỡ dựa vào các bức tường trắng trơn, các mẩu gỗ mẫu treo trên trần nhà, một giá sách cất sổ đặt hàng, thước kẻ, bút chì. Ở trong góc cửa hàng là một cái bàn gỗ dài, nơi Jonathan làm việc với các hộp miter*, cưa, và máy cắt kính. Trên bàn còn đặt cả các tấm đệm tranh được bọc cẩn thận của anh, một cuộn giấy nâu lớn, vài cuộn dây, dây thép,
các lọ keo, các hộp đinh đủ kích cỡ, và treo trên tường là các giá đựng dao và búa. Nói chung, Jonathan thích bầu không khí kiểu thế kỷ mười chín, không có sự màu mè kiểu cách thương mại. Anh muốn cửa hàng của mình trông như được điều hành bởi một tay thợ lành nghề, và về điểm đó anh đã thành công, anh nghĩ thầm. Jonathan không bao giờ thu tiền cao, luôn hoàn thành đúng hẹn, hay nếu có trễ hẹn thì cũng sẽ thông báo cho khách hàng bằng bưu thiếp hoặc điện thoại. Anh nhận ra là mọi người đánh giá cao điều đó.
Hộp miter là một công cụ làm việc bằng gỗ được sử dụng để định hướng cưa tay để thực hiện các nhát cắt chính xác. Hình thức phổ biến nhất của hộp miter là hộp ba mặt để hở ở đầu và cuối. Hộp được làm đủ rộng để chứa chiều rộng của khối gỗ được cắt.
Hơn mười một rưỡi, sau khi đã đóng khung hai bức tranh nhỏ và gắn tên chủ nhân lên chúng, Jonathan rửa tay và mặt ở vòi nước lạnh trong bồn, chải tóc, đứng thẳng và cố chuẩn bị tinh thần cho những gì tồi tệ nhất. Văn phòng của bác sĩ Perrier không ở xa lắm, nằm trên đường Grande. Jonathan xoay tấm biển báo trên cửa thành MỞ CỬA lúc hai rưỡi, khóa cửa trước lại và ra ngoài.
Anh phải đợi trong phòng chờ của bác sĩ Perrier với chậu nguyệt quế màu hồng đất yếu ớt. Chậu cây này chẳng bao giờ nở hoa, chẳng chết, cũng chẳng lớn, chẳng bao giờ thay đổi. Jonathan thấy mình cũng giống chậu hoa đó. Hết lần này đến lần khác mắt anh dán về phía nó, dù anh cố gắng nghĩ tới nhiều chuyện khác. Có vài tờ Paris Match trên chiếc bàn bầu dục, đã phát hành từ lâu và được lật ra nhiều lần, Jonathan thấy chúng còn u uất hơn cả chậu nguyệt
quế. Bác sĩ Perrier cũng làm việc ở bệnh viện Fontainebleau lớn, Jonathan tự nhủ, không thì có vẻ thật ngớ ngẩn khi giao phó tính mệnh của mình cho một người, tin tưởng chẩn đoán của người đó về việc mình sẽ sống hay chết, khi người đó chỉ là một bác sĩ làm việc trong một chỗ nhỏ xíu khốn cùng như thế này.
Y tá ra ngoài mời anh vào.
“Chà chà, người bệnh thú vị, thú vị nhất của tôi thế nào rồi?” Bác sĩ Perrier nói, xuýt xoa rồi chìa tay ra với anh.
Jonathan bắt tay ông ta. “Tôi thấy tương đối ổn, cảm ơn. Nhưng có chuyện này - tôi muốn nói đến các xét nghiệm cách đây hai tháng. Theo tôi hiểu thì chúng không quá lạc quan?”
Bác sĩ Perrier trông có vẻ chẳng hiểu gì, và Jonathan chăm chú quan sát ông ta. Sau đó bác sĩ Perrier cười, khoe hàm răng vàng khè dưới bộ ria mép chẳng được để tâm cắt tỉa của mình.
“Ý anh là gì khi nói không quá lạc quan? Anh đã xem kết quả rồi còn gì.”
“Nhưng - ông biết đấy, tôi không phải là chuyên gia đọc hiểu chúng - có thể vậy.”
“Nên tôi đã giải thích kỹ cho anh rồi còn gì - Thế giờ vấn đề là gì đây? Anh lại cảm thấy mệt mỏi à?”
“Thực ra là không.” Vì biết bác sĩ muốn nhanh nhanh chóng chóng đi ăn trưa, Jonathan hấp tấp nói, “Nói thật nhé, một người bạn của tôi đã nghe được đâu đó chuyện... tôi sắp phải đối mặt với một cơn khủng hoảng. Có thể tôi không còn nhiều thời gian để sống. Theo lẽ tự nhiên, tôi nghĩ thông tin này xuất phát từ ông.”
Bác sĩ Perrier lắc đầu, rồi cười lớn, nhảy một vòng như một chú chim rồi dừng lại, hai cánh tay khẳng khiu duỗi ra trên mặt một tủ kính đựng sách. “Bạn thân mến - đầu tiên, nếu điều đó là sự thật thì tôi cũng sẽ không nói ra với ai hết. Như vậy là thiếu đạo đức. Thứ hai, điều đó không phải là sự thật, theo tôi biết từ kết quả xét nghiệm lần trước... Anh có muốn xét nghiệm thêm một lần nữa hôm nay không? Cuối buổi chiều ở bệnh viện, có khi tôi...”
“Không cần thiết. Điều tôi thật sự muốn biết là... nó có phải sự thật không? Chỉ có điều ông không muốn báo cho tôi?” Jonathan cười nói. “Chỉ để tôi cảm thấy khá hơn?”
“Thật vớ vẩn! Anh nghĩ tôi là loại bác sĩ như thế chắc?” Đúng thế đấy, Jonathan nghĩ thầm, nhìn thẳng vào mắt bác sĩ Perrier. Và Chúa phù hộ cho ông ta, có thể trong vài trường hợp ông ta nên làm vậy, nhưng anh nghĩ mình xứng đáng được biết sự thật, vì anh là kiểu người có thể đối mặt với sự thật. Jonathan cắn môi dưới. Anh có thể đến phòng xét nghiệm ở Paris, anh nghĩ thầm, đòi gặp chuyên gia Moussu. Biết đâu anh cũng có thể moi thêm thông tin từ Simone trong bữa trưa.
Bác sĩ Perrier vỗ cánh tay anh. “Bạn anh - và tôi sẽ không hỏi tên người đó đâu - hoặc đã nhầm lẫn hoặc không phải một ông bạn quá tử tế, tôi nghĩ vậy. Giờ thì, anh nên thông báo cho tôi khi anh thấy mệt mỏi, chuyện đó mới quan trọng đấy...”
Hai mươi phút sau, Jonathan bước lên thềm nhà mình, mang theo một chiếc bánh táo nướng và một ổ bánh mỳ dài. Anh mở khóa vào nhà và đi dọc hành lang vào bếp. Anh ngửi thấy mùi khoai tây chiên, một mùi thơm ứa nước miếng luôn báo hiệu bữa trưa, chứ
không phải bữa tối, và khoai tây của Simone sẽ được cắt thành từng miếng dài mảnh, chứ không phải những miếng dày cục mịch như khoai tây chiên ở Anh. Sao anh lại nghĩ tới khoai tây chiên kiểu Anh nhỉ?
Simone đứng ở bếp, đeo tạp dề bên ngoài váy, quấy một cái dĩa dài. “Chào anh, Jon. Anh về hơi muộn đấy nhé.”
Jonathan vòng tay ôm lấy cô và hôn lên má, rồi giơ hộp giấy lên, quẳng nó về phía Georges đang ngồi ở bàn, mái tóc vàng rủ xuống, mải cắt đồ cho một cái treo nôi từ một hộp đựng bột ngô rỗng ruột. “A, bánh ngọt! Loại gì thế ạ?” Georges hỏi.
“Táo.” Jonathan đặt bánh lên bàn.
Mỗi người ăn một miếng thịt thăn bò nhỏ, khoai tây chiên ngon lành, và salad rau củ.
“Brezard bắt đầu kiểm kho rồi,” Simone nói. “Hàng hóa mùa hè sẽ đến vào tuần sau, nên ông ta muốn bán giảm giá vào thứ Sáu và thứ Bảy. Có thể tối nay em sẽ về hơi muộn đấy.”
Cô đã làm ấm món bánh táo trên một tấm a-mi-ăng. Jonathan sốt ruột chờ Georges vào phòng khách, nơi có vô số đồ chơi của thằng bé, hoặc ra vườn chơi. Cuối cùng cũng đợi được nó ra ngoài, anh nói:
“Hôm nay anh đã nhận được một bức thư rất buồn cười từ Alan.” “Alan à? Buồn cười thế nào?”
“Anh ta viết thư ngay trước khi đến New York. Có vẻ là anh ta đã nghe tin...” Anh có nên cho cô đọc bức thư của Alan không nhỉ? Cô đọc tiếng Anh khá tốt. Jonathan quyết định nói nốt đã. “Anh ta nghe
được tin từ đâu đó là anh bệnh nặng hơn, sắp đến giai đoạn khủng hoảng trầm trọng - hoặc sao đó. Em có biết gì về chuyện đó không?” Anh quan sát mắt cô.
Simone trông thật sự ngạc nhiên. “Sao lại thế chứ, Jon. Làm sao em biết được tin gì - trừ nghe tin từ anh?”
“Anh vừa mới nói chuyện với bác sĩ Perrier. Đó là lý do anh về muộn. Ông Perrier nói rằng ông ấy không biết một sự thay đổi tình trạng bệnh nào cả, nhưng em biết ông Perrier rồi đấy!” Jonathan mỉm cười, vẫn lo lắng đánh giá Simone. “À, thư đây này,” anh nói, rút nó ra khỏi túi quần sau. Anh dịch bức thư lại.
“Mon dieu!* - Anh ta nghe tin này từ đâu được nhỉ?”
Tiếng Pháp: Trời ơi.
“Đúng, đó chính là câu hỏi. Anh sẽ viết thư hỏi anh ta. Em nghĩ sao?” Jonathan lại mỉm cười, nụ cười này chân thành hơn. Anh chắc chắn là Simone không hề biết gì về chuyện đó hết.
Jonathan mang tách cà phê thứ hai vào phòng khách nhỏ vuông vắn nơi Georges đang ngồi xoài trên sàn với các mẩu giấy. Anh ngồi xuống bàn viết, nó luôn khiến anh cảm thấy mình như một gã khổng lồ. Nó là một chiếc bàn kiểu Pháp khá thanh nhã, một món quà từ gia đình Simone. Jonathan cẩn thận không dồn quá nhiều trọng lượng lên mặt bàn. Anh gửi thư bằng đường hàng không tới Alan McNear ở khách sạn New Yorker, mở đầu một cách nhẹ nhàng, rồi tiếp đến đoạn thứ hai:
Tôi không rõ anh có ý gì trong bức thư về việc tin tức mới (về tôi) khiến anh bị sốc. Tôi vẫn khỏe, nhưng sáng nay tôi đã tới nói
chuyện với bác sĩ của mình ở đây để xem xem ông ta đã nói hết mọi việc với tôi chưa. Ông ta phủ nhận, nói không hề biết có chuyện bệnh trạng của tôi xấu đi. Vậy Alan thân mến, tôi tò mò không biết anh đã nghe tin đấy từ đâu? Anh có thể viết thư lại cho tôi sớm không? Nghe có vẻ là một sự hiểu nhầm, tôi rất vui vẻ quên nó đi, nhưng tôi mong anh có thể hiểu cho nỗi hiếu kỳ của tôi muốn biết anh nghe thấy tin đó từ đâu.
Anh thả bức thư vào một hòm thư vàng trên đường đến cửa hàng của mình. Chắc phải một tuần nữa anh mới nhận được tin từ Alan.
Chiều hôm ấy, tay Jonathan vẫn vững vàng như thường khi đưa con dao dọc giấy dọc mép thước kẻ thép. Anh nghĩ đến bức thư của mình đang trên đường tới sân bay Orly, có thể là vào tối nay mà cũng có thể là vào sáng mai. Anh nghĩ đến tuổi tác của mình, ba mươi tư tuổi, số việc mà anh làm được ít ỏi đến mức đáng thương nếu anh chỉ còn vài tháng nữa là chết. Anh đã sinh được một cậu con trai, cũng là một sự kiện đáng giá, nhưng cũng không hẳn là một thành tựu đáng tuyên dương. Anh sẽ không để lại cho Simone một cuộc sống bảo đảm. Nếu có thì anh chỉ hạ thấp tiêu chuẩn sống của cô xuống mà thôi. Cha cô là một thương nhân than đá, nhưng bằng cách nào đó theo năm tháng tích lũy, gia đình cô cũng đã có được một cuộc sống tiện lợi, chẳng hạn như có xe ô tô, đồ gỗ tử tế. Họ đi nghỉ mát vào tháng Sáu hoặc tháng Bảy, ở phía Nam, trong một căn biệt thự cho thuê, và năm ngoái họ đã trả một tháng tiền thuê để Jonathan và Simone có thể đưa Georges đến chơi. Anh đã không
thành công được như anh trai Philip, lớn hơn anh hai tuổi, dù trông bề ngoài anh ấy yếu ớt hơn, là kiểu cả đời nhạt nhẽo, cần cù. Giờ Philip là giáo sư nhân chủng học ở Đại học Bristol, không xuất sắc, Jonathan chắc chắn, nhưng là một người đàn ông vững chãi với một sự nghiệp vững vàng, có vợ và hai con. Mẹ của Jonathan, giờ đã góa bụa, sống vui vẻ với anh trai và chị dâu của bà ở Oxfordshire, chăm sóc khu vườn lớn ở đó, đảm nhận toàn bộ việc mua sắm và nấu ăn. Jonathan cảm thấy mình là một thất bại của cả gia đình, cả về mặt cơ thể lẫn đường công danh. Trước kia anh từng muốn làm diễn viên. Năm mười tám tuổi anh đã đến học trường nghệ thuật biểu diễn suốt hai năm. Anh nghĩ so với một diễn viên thì trông mặt mình cũng không đến nỗi xấu, dù cũng không quá đẹp trai với mũi to và miệng rộng, nói chung đủ ưa nhìn để đóng các vai lãng mạn, đồng thời đủ thâm trầm để đóng các vai nặng ký hơn theo thời gian. Thật là một giấc mơ viển vông! Anh chỉ kiếm được hai vai phụ trong suốt ba năm vật vờ ở các rạp hát Luân Đôn và Manchester - tất nhiên, vẫn luôn tự nuôi sống bản thân với các công việc kỳ quặc, gồm cả trợ lý cho một bác sĩ thú y. “Anh choán quá nhiều không gian và anh cũng không mấy tự tin vào bản thân,” một đạo diễn từng nói với anh như vậy. Và sau đó, khi làm việc cho một nhà buôn đồ cổ trong một công việc kỳ quặc khác, Jonathan đã nghĩ là anh cũng thích ngành kinh doanh đồ cổ đấy. Anh đã học tất cả những gì có thể từ ông chủ của mình, Andrew Mott. Sau đó là động thái chuyển tới Pháp cùng cậu bạn thân Roy Johnson, người cũng có nhiệt huyết, dù thiếu kiến thức, và mở một cửa hàng bán đồ cổ thông qua việc buôn bán đồ đồng nát. Jonathan nhớ lại những giấc mơ về cuộc sống huy hoàng và những chuyến phiêu lưu ở một đất nước
mới, nước Pháp, giấc mơ về tự do, thành công. Vậy nhưng thay vì thành công, thay vì một loạt những người tình có học thức, thay vì kết bạn với những người phóng khoáng, hay với một tầng lớp xã hội Pháp mà Jonathan cho là có tồn tại nhưng có thể là không - anh tiếp tục sống lay lắt, không khá khẩm hơn là mấy so với thời cố gắng kiếm vai diễn và phải tự nuôi sống bản thân bằng đường cũ.
Thành công duy nhất trong cả cuộc đời anh là kết hôn với Simone, Jonathan nghĩ thầm. Tin dữ về bệnh trạng đã đến vào cùng tháng anh gặp Simone Foussadier. Khi đó anh đã bắt đầu cảm thấy yếu lả người một cách kỳ lạ và từng mơ mộng nghĩ rằng đó là do mình rơi vào lưới tình. Nhưng khi nghỉ ngơi nhiều hơn cũng chẳng đuổi được cảm giác bệnh tật đi, anh thậm chí còn từng ngất xỉu trên một con phố của Nemours, vậy nên anh đã đi khám bác sĩ - bác sĩ Perrier ở Fontainebleau, ông ta nghi ngờ là bệnh liên quan đến máu và chuyển anh đến bác sĩ Moussu ở Paris. Người này, sau hai ngày xét nghiệm, đã xác nhận bệnh bạch cầu tủy, nói rằng anh có thể còn sáu đến tám năm, may thì mười hai năm để sống. Lá lách anh sẽ phình to ra, trên thực tế thì Jonathan đã bị như vậy rồi, chỉ là anh không chú ý. Do đó lời cầu hôn anh dành cho Simone là lời tuyên ngôn về tình yêu lẫn cái chết trong một đoạn diễn văn vụng về. Như thế là đủ để khiến vài người con gái chạy dài, hoặc khiến họ nói rằng cần thời gian để nghĩ thêm. Simone thì nhận lời, cô cũng yêu anh. “Tình yêu mới là điều quan trọng, chứ không phải thời gian,” Simone đã nói vậy. Hoàn toàn không mang kiểu cách tính toán mà Jonathan hay thấy ở người Pháp, người Latinh nói chung. Simone bảo rằng cô cũng đã nói chuyện với gia đình. Đấy là sau khi họ mới
chỉ quen nhau có hai tuần. Jonathan cảm thấy bản thân đột nhiên bước vào một thế giới vững chãi hơn mọi thế giới mà anh từng biết. Tình yêu, trong thực tế chứ không phải chỉ là chuyện lãng mạn, tình yêu mà anh không thể kiểm soát, đã cứu rỗi anh một cách kỳ diệu. Theo một cách nào đó, anh cảm giác là nó đã cứu mình khỏi cái chết, nhưng thực ra anh muốn nói là tình yêu đã khiến cái chết trở nên không còn đáng sợ nữa. Và giờ, sau sáu năm, cái chết đang đến, như bác sĩ Moussu ở Paris đã dự kiến. Jonathan không biết phải tin vào điều gì nữa.
Anh nghĩ mình phải tới khám ở chỗ bác sĩ Moussu một lần nữa. Cách đây ba năm, Jonathan đã được thay máu hoàn toàn dưới sự giám sát của ông ta ở một bệnh viện Paris. Phương pháp điều trị này được gọi là Vincainestine, với ý tưởng hay hy vọng là lượng bạch cầu dư thừa đi cùng tủy vàng sẽ không quay lại máu. Nhưng tủy vàng dư thừa đã xuất hiện trở lại trong khoảng tám tháng.
Dẫu vậy, trước khi đặt hẹn với bác sĩ Moussu, Jonathan muốn chờ nhận thư từ Alan McNear trước đã. Anh cảm thấy chắc chắn anh ta sẽ hồi âm ngay lập tức. Alan rất đáng tin.
Jonathan, trước khi rời khỏi cửa hàng, đưa ánh mắt tuyệt vọng nhìn quanh không gian đậm chất Dicken của nó lần cuối. Nó không bám bụi, chỉ là tường cần được sơn lại. Anh tự hỏi mình có nên trang hoàng cho nó đẹp lên không, thu khách hàng với mức giá cắt cổ như rất nhiều người làm khung tranh khác, bán các món đồ đồng phết sơn đội giá trên trời? Jonathan nhăn mặt. Anh không phải loại như thế.
Hôm ấy là thứ Tư. Vào ngày thứ Sáu, lúc đang cúi người cố rút một chiếc lỗ đinh khuy đã cắm trong một cái khung gỗ sồi áng chừng phải một trăm năm mươi năm và không hề có ý định đầu hàng cặp kìm của anh, Jonathan đột ngột vứt cái kìm xuống và tìm ghế. Ghế là một cái hộp gỗ nằm cạnh tường. Anh đứng dậy gần như ngay lập tức và rửa mặt ở bồn rửa, cúi sâu hết mức có thể. Tầm khoảng năm phút sau, cảm giác chuếnh choáng nhạt đi, và đến trưa anh đã quên hẳn nó. Cứ hai đến ba tháng là anh lại có những lúc như vậy, và anh mừng vì không bị như vậy khi đang đi ngoài đường.
Vào thứ Ba, sáu ngày sau khi gửi thư cho Alan, anh nhận được một bức thư từ khách sạn New Yorker.
Thứ Bảy, 25 tháng Ba
Jon thân mến,
Xin hãy tin tôi, tôi rất mừng vì anh đã nói chuyện với bác sĩ của mình và nhận được tin tốt lành! Gã kể cho tôi chuyện anh lâm bệnh nặng là một người hơi hói đầu, có ria mép và một con mắt thủy tinh, chắc tầm đâu bốn mươi. Gã có vẻ thật lòng quan tâm, và có lẽ anh cũng không nên mang thái độ quá thù địch với gã làm gì, vì biết đâu gã chỉ nghe tin đó từ một người khác.
Tôi rất thích thành phố này và ước gì có anh và Simone ở đây, đặc biệt là khi tôi được cho phí công tác...
Người đàn ông mà Alan nhắc đến là Pierre Gauthier, có một cửa hàng bán họa cụ ở đường Grande. Anh ta không phải là bạn của Jonathan mà họ chỉ quen sơ. Gauthier thường xuyên giới thiệu
người tới chỗ Jonathan để đóng khung tranh. Anh ta cũng có mặt hôm tổ chức tiệc chia tay Alan và hẳn lúc ấy đã nói chuyện với Alan, anh nhớ rất rõ chuyện đó. Không có chuyện Gauthier có ác tâm. Jonathan chỉ hơi thấy ngạc nhiên khi thậm chí anh ta còn biết chuyện mình bị bệnh máu, dù đúng là tin đồn vẫn lan truyền. Anh nghĩ tốt nhất là phải nói chuyện với Gauthier và hỏi xem anh ta nghe chuyện đó từ đâu.
Lúc đó là tám giờ năm mươi. Jonathan đã mải đợi thư, hệt như việc anh làm sáng hôm qua. Anh thôi thúc muốn đi thẳng tới chỗ Gauthier, nhưng lại cảm thấy hành động như vậy chỉ tổ khiến anh tỏ ra lo lắng một cách khó coi, và tốt nhất là nên chịu đựng bằng cách tới cửa hàng và mở cửa như thường lệ.
Vì ba hay bốn khách hàng gì đó mà đến gần mười rưỡi Jonathan mới được nghỉ ngơi. Anh để một tấm bảng trên mặt kính ở cửa để báo sẽ mở cửa trở lại lúc mười một giờ.
Khi Jonathan đặt chân vào cửa hàng bán họa cụ, Gauthier đang bận tiếp hai khách nữ. Anh giả vờ lục tìm giữa các hàng cọ vẽ cho tới khi anh ta rảnh. Sau đó anh nói:
“Anh Gauthier! Mọi chuyện thế nào?” Jonathan chìa một bàn tay ra.
Gauthier dùng cả hai tay bắt tay Jonathan và mỉm cười. “Thế anh thì sao, bạn tôi?”
“Vẫn khỏe, cảm ơn anh... Nghe này. Tôi không muốn làm mất nhiều thời gian của anh - nhưng có chuyện này tôi muốn hỏi.” “Được thôi? Chuyện gì cơ?”
Jonathan ra hiệu cho Gauthier đi xa khỏi cánh cửa có thể mở ra bất kỳ lúc nào. Không có nhiều chỗ đứng trong cửa hàng bé xíu. “Tôi nghe một người bạn nói - anh bạn Alan của tôi, anh nhớ chứ? Người Anh. Ở bữa tiệc tại nhà tôi cách đây vài tuần.”
“À rồi! Người bạn Anh của anh. Alan.” Gauthier vẫn nhớ và trông có vẻ cũng quan tâm.
Jonathan cố gắng tránh nhìn vào con mắt giả của Gauthier, chỉ tập trung vào con mắt còn lại. “À, có vẻ anh đã bảo với Alan là anh nghe nói tôi bệnh rất nặng, có thể còn không sống được lâu nữa.”
Khuôn mặt nhẹ nhàng của Gauthier trở nên nghiêm trang. Anh ta gật đầu. “Đúng vậy, bạn thân mến, tôi đã nghe tin đó. Tôi mong nó không phải sự thật. Tôi nhớ Alain vì anh đã giới thiệu anh ta là bạn thân của anh với tôi. Nên tôi cứ ngỡ anh ta cũng biết tin này. Có lẽ tôi không nên nói gì mới phải. Tôi xin lỗi, như vậy thật thiếu tế nhị. Tôi cứ ngỡ anh - theo phong cách Anh quốc - chỉ cố tỏ ra mạnh mẽ.”
“Không có gì nghiêm trọng hết, anh Gauthier ạ, vì theo tôi biết thì đó không phải là sự thật! Tôi đã hỏi lại bác sĩ của mình. Nhưng...” “À ha! À thì, như thế thì khác rồi! Tôi rất vui khi nghe tin đó, anh Trevanny! Ha! Ha!” Pierre Gauthier vỗ tay cười như thể vừa loại bỏ được một bóng ma và không chỉ Jonathan mà chính bản thân anh ta cũng quay lại thế giới người sống.
“Nhưng tôi muốn biết anh đã nghe tin này ở đâu. Ai đã bảo với anh là tôi bị ốm?”
“À - đúng rồi!” Gauthier ấn một ngón tay lên môi, nghĩ ngợi. “Ai nhỉ? Một người đàn ông. Đúng rồi - chắc chắn rồi!” Anh ta đã nghĩ
ra, nhưng khựng lại.
Jonathan đợi.
“Nhưng tôi nhớ anh ấy cũng đã nói mình không dám chắc. Anh ấy nói đã nghe được tin này. Một căn bệnh máu không thể chữa được, anh ấy đã nói vậy.”
Jonathan lại cảm thấy nóng lên vì lo lắng, giống vài lần trong tuần vừa rồi. Anh thấm ướt môi. “Nhưng là ai? Làm sao anh ta biết tin này? Anh ta không nói à?”
Gauthier lại ngập ngừng. “Vì nó đâu phải là sự thật - không phải chúng ta nên quên nó đi à?”
“Một người mà anh rất thân thuộc à?”
“Không! Hoàn toàn không thân tí nào, tôi bảo đảm với anh đấy.” “Vậy là một khách hàng.”
“Đúng. Đúng thế. Một người tử tế, một quý ông. Nhưng vì anh ấy đã nói là cũng không chắc chắn. - Thật lòng mà nói, anh không nên cảm thấy căm ghét anh ấy, mặc dù tôi có thể hiểu được việc anh căm ghét một lời đưa chuyện như vậy.”
“Nó dẫn đến một câu hỏi thú vị là làm sao mà quý ông đó nghe được tin tôi lâm bệnh nặng,” Jonathan tiếp tục, giờ đã cười được. “Đúng thế. Chính xác. Nhưng vấn đề là nó không phải sự thật. Không phải đó mới là điểm chính sao?”
Jonathan thấy Gauthier mang vẻ lịch sự đặc trưng của người Pháp, không sẵn lòng khai báo về một khách hàng, và - cũng có thể đoán được - căm ghét chủ đề liên quan đến cái chết. “Anh nói đúng.
Đó mới là điểm chính.” Anh bắt tay anh ta, giờ cả hai cùng cười, và nói lời chào tạm biệt.
Vào trưa hôm ấy, Simone hỏi Jonathan đã nhận được thư của Alan chưa. Anh trả lời là rồi.
“Gauthier là người đã nói tin đó cho Alan.”
“Gauthier? Người bán họa cụ à?”
“Đúng thế.” Jonathan đang châm một điếu thuốc lá trong khi uống cà phê. Georges đã ra vườn. “Sáng nay anh đã tới gặp Gauthier và hỏi anh ta nghe tin đó từ đâu. Anh ta nói là từ một khách hàng. Một người đàn ông - Buồn cười thật nhỉ? Anh ta không chịu nói cho anh biết là ai và anh cũng không thể trách được. Tất nhiên chỉ là nhầm lẫn thôi. Gauthier đã nhận ra điều đó.”
“Nhưng chuyện đó thật sốc,” Simone nói.
Jonathan mỉm cười, biết rõ cô không sốc lắm, vì cô biết bác sĩ Perrier đã báo cho anh một tin khá tốt. “Như bọn anh vẫn nói trong tiếng Anh, đừng chuyện bé xé ra to.”
Tuần tiếp theo, Jonathan chạm mặt bác sĩ Perrier ở đường Grande, ông ta đang vội vã vào ngân hàng Societe Generale trước khi nó đóng cửa lúc mười hai giờ đúng. Nhưng ông ta vẫn dừng lại để hỏi thăm anh.
“Khá ổn, cảm ơn ông,” Jonathan nói, đầu óc vẫn đang nghĩ đến việc mua một cây thông tắc bồn cầu từ một cửa hàng cách đó khoảng một trăm thước và cũng đóng cửa vào buổi trưa.
“Anh Trevanny...” Bác sĩ Perrier khựng lại khi một tay đã đặt trên tay nắm cửa ngân hàng. Ông ta rời khỏi cửa, tiến lại gần Jonathan.
“Về những gì chúng ta đã nói hôm trước - không một bác sĩ nào dám chắc cả, anh biết đấy. Trong một tình huống như của anh. Tôi không muốn anh nghĩ rằng tôi bảo đảm anh có sức khỏe hoàn hảo, miễn nhiễm suốt mấy năm liền. Anh tự biết...”
“À, tôi không hề nghĩ vậy!” Jonathan ngắt lời.
“Vậy là anh hiểu,” bác sĩ Perrier nói, mỉm cười rồi lao vào ngân hàng.
Jonathan tiếp tục hành trình mua cây thông tắc bồn cầu. Bồn bếp mới bị tắc chứ không phải bồn cầu, anh nhớ, và Simone đã cho một hàng xóm mượn món đồ đó của họ cách đây vài tháng và - Jonathan lại nghĩ đến những gì bác sĩ Perrier vừa nói. Ông ta biết một chuyện gì đó, nghi ngờ một chuyện gì đó qua xét nghiệm lần trước, nhưng không đủ chắc chắn để thông báo cho anh sao?
Đến cửa tiệm tạp hóa, Jonathan gặp một cô gái tóc đen đang mỉm cười và khóa cửa lại, tháo tay nắm bên ngoài ra. “Tôi xin lỗi. Đã mười hai giờ năm phút rồi,” cô ta nói.
Chương 3
T
om, trong tuần cuối cùng của tháng Ba, tập trung vào việc vẽ một bức chân dung toàn thân cho Heloise với hình cô nằm trên chiếc sôpha satanh vàng. Và Heloise hiếm khi đồng ý làm mẫu. Nhưng ghế sôpha thì vẫn ở nguyên một chỗ và Tom đã khắc họa được nó trên tranh một cách thỏa mãn. Anh cũng đã vẽ bảy đến tám bản phác họa Heloise với đầu chống lên bàn tay trái, còn tay phải đặt trên một quyển sách nghệ thuật to bự. Anh giữ lại hai bản đẹp nhất và quẳng chỗ còn lại đi.
Reeves Minot đã viết một bức thư cho anh, hỏi xem Tom có nảy ra ý tưởng hữu dụng nào không - ý anh ta là có nghĩ ra người nào không. Bức thư đến tay vài ngày sau khi Tom nói chuyện với Gauthier, người mà anh thường mua màu vẽ. Tom đã trả lời Reeves thế này: “Đang cố nghĩ đây, nhưng anh nên thực thi suy nghĩ của mình, nếu anh có một ý tưởng nào đó rồi.” Câu “đang cố nghĩ” chỉ đơn thuần là vì lịch sự, dù không phải sự thật, như rất nhiều cụm từ dùng để bôi trơn cho guồng quay giao thiệp xã hội, như Emily Post* nói. Reeves chẳng thể cấp đủ tài chính để vận hành Belle Ombre, trên thực tế các khoản tiền mà anh ta trả cho anh cho vài dịch vụ môi giới và mua bán đồ ăn cắp còn chả đủ trả chi phí giặt khô, nhưng duy trì một mối quan hệ hữu hảo chẳng bao giờ thiệt. Reeves từng kiếm giúp Tom một quyển hộ chiếu giả và đưa gấp tới Paris khi
anh cần nó để giúp bảo vệ đường dây Derwatt. Có thể một ngày nào đó Tom lại cần đến Reeves thì sao.
Emily Post là một tác giả người Mỹ và nhà hoạt động xã hội, nổi tiếng vì viết về nghi thức xã giao.
Nhưng chuyện với Jonathan Trevanny chỉ đơn thuần là một trò chơi đối với Tom. Anh không làm vậy vì sở thích cờ bạc của Reeves. Tom tình cờ thay lại ghét trò đỏ đen và không hề có chút kính trọng nào dành cho những kẻ chọn cách kiếm sống hoặc thậm chí là chỉ kiếm một phần thu nhập từ đó. Nó có phần nhỏ bé. Tom đã bắt đầu trò chơi Trevanny chỉ vì tò mò, vì anh ta từng châm chọc anh - và vì anh muốn xem xem liệu viên đạn bắn bừa của mình có trúng đích không, và khiến Jonathan Trevanny, người mà Tom cho là hợm hĩnh và tự coi bản thân là đúng, cảm thấy bồn chồn một thời gian. Sau đó Reeves có thể tung mồi, tất nhiên vẫn nhấn mạnh việc Trevanny đằng nào cũng sẽ sớm từ giã cõi đời. Anh chỉ không nghĩ anh ta sẽ mắc câu. Tiếc thay, Tom không thể đoán được bao giờ thì tin đồn lan đến tai của Jonathan Trevanny. Gauthier khá lắm mồm, nhưng rất có khả năng là cho dù Gauthier có kể cho hai hay ba người nữa thì cũng không một ai có đủ can đảm để đề cập chủ đề đó với chính Trevanny.
Vậy nên mặc dù vẫn bận rộn như thường lệ với việc vẽ tranh, trồng cây mùa xuân, học tiếng Đức và tiếng Pháp (giờ đến Schiller và Molière), cộng thêm việc giám sát một nhóm gồm ba người thợ đang xây dựng căn nhà kính dọc mé phải bãi cỏ sau lưng Belle Ombre, Tom vẫn đếm từng ngày trôi qua và tưởng tượng xem chuyện gì có thể xảy ra sau buổi chiều giữa tháng Ba, khi anh nói
với Gauthier là đã nghe tin Trevanny không còn sống lâu trên đời nữa. Khó có khả năng Gauthier sẽ nói chuyện trực tiếp với Trevanny, trừ phi họ thân thiết hơn Tom nghĩ. Nhiều khả năng Gauthier sẽ kể cho người khác nghe về chuyện này. Anh tin tưởng vào sự thật (và chắc chắn đây là sự thật) là viễn cảnh một người đang cận kề cái chết là chủ đề thú vị với tất cả mọi người.
Cứ khoảng hai tuần một lần, Tom lại tới Fontainebleau, cách Villeperce khoảng mười hai dặm. Fontainebleau tốt hơn Moret để mua sắm, để làm sạch áo da thuộc, để mua pin cho đài radio, và để kiếm những thứ hiếm lạ khó mua mà bà Annette muốn dùng để nấu ăn. Anh để ý thấy trong cuốn niên giám có số điện thoại cửa hàng của Jonathan Trevanny, nhưng không ghi số điện thoại nhà anh ta trên đường St. Merry, có thể vì ở đó không lắp. Tom đã cố gắng tìm kiếm số nhà, nhưng anh nghĩ mình sẽ nhận ra khi nhìn thấy nó. Tầm cuối tháng Ba, Tom lại tò mò muốn thấy Trevanny, tất nhiên chỉ nhìn từ xa, vậy nên nhân một chuyến đi tới Fontainebleau vào một sáng thứ Sáu, ngày mở chợ, để mua hai chậu hoa, sau khi đã cất các thứ này vào cốp xe Renault, anh đi dạo trên đường Sablons, nơi đặt cửa hàng của Trevanny. Giờ là gần trưa.
Cửa hàng của anh ta trông hơi u uất và cần sơn sửa, như thể nó thuộc về một ông già, anh nghĩ thầm. Tom chưa bao giờ sử dụng dịch vụ ở chỗ Trevanny, vì có một thợ làm khung tranh giỏi ở Moret, gần chỗ anh hơn. Cửa hàng nhỏ có dòng chữ “Làm khung” được sơn bằng mực đỏ đã bạc màu trên cánh cửa gỗ nằm giữa một dãy cửa hàng khác - hàng giặt tự động, hàng sửa giày, một đại lý du lịch khiêm tốn - cửa nằm bên trái còn bên phải là một ô cửa sổ hình
vuông với khung tranh cùng dạng và hai đến ba bức tranh có giá tiền viết tay gắn ở trên. Tom hờ hững băng qua đường, liếc vào trong cửa hàng và thấy bóng dáng cao ráo, trông như người Bắc Âu của Trevanny đang lúi húi sau quầy, cách tầm sáu mét. Anh ta đang chỉ cho một người đàn ông xem chiều dài của một khung tranh, đập nó vào lòng bàn tay, nói chuyện. Sau đó Trevanny liếc nhìn cửa sổ, thoáng thấy Tom, nhưng vẫn tiếp tục nói chuyện với khách mà không thay đổi biểu cảm.
Anh đi tiếp. Tom cảm thấy Trevanny không nhận ra mình. Anh rẽ phải, vào đường France, con đường quan trọng thứ hai sau đường Grande, và tiếp tục đi cho tới khi đến đường St. Merry, ở đó anh rẽ phải lần nữa. Hay là nhà Trevanny ở bên trái nhỉ? Không, đúng là bên phải.
Đúng vậy, nó nằm kia, không sai, căn nhà xám xịt chật chội với tay vịn màu đen mảnh bám theo cầu thang nhỏ dẫn lên nhà. Khu vực bé xíu hai bên bậc thang được lát xi măng, và không có nổi một chậu hoa để giảm bớt vẻ cằn cỗi này. Nhưng theo Tom nhớ thì sau nhà có một khu vườn. Cửa sổ, dù sáng loáng, lại được treo hai tấm rèm èo uột. Phải, đây là nơi anh đến theo lời mời của Gauthier tối tháng Hai đó. Có một lối đi hẹp ở bên trái căn nhà, hẳn là dẫn ra sau vườn. Một thùng rác nhựa màu xanh lá cây nằm trước cửa sắt khóa kỹ dẫn vào vườn, và Tom cho là nhà Trevanny thường đi ra vườn qua cửa sau ở bếp, theo anh nhớ.
Tom đứng ở bên kia đường, chậm rãi đi bộ, cẩn thận để trông không giống như đang rình rập chỗ đấy, vì anh không dám chắc liệu cô vợ, hay ai khác, giờ có đang nhìn ra ngoài cửa sổ hay không.
Anh còn cần mua gì nữa không? Màu trắng kẽm. Anh đã gần hết. Và để mua hàng thì anh cần tới chỗ Gauthier. Tom sải bước nhanh hơn, tự chúc mừng vì nhu cầu mua sắm màu vẽ là việc cần thiết có thật của anh, vậy nên anh sẽ đặt chân vào cửa hàng Gauthier với mục đích chính đáng, đồng thời cũng có thể thỏa mãn sự hiếu kỳ của mình.
Gauthier ở một mình trong cửa hàng.
“Bonjour*, anh Gauthier!” Tom nói.
Tiếng Pháp: Xin chào
“Bonjour, anh Reepley!” Gauthier đáp lại, mỉm cười. “Anh khỏe không?”
“Rất khỏe, cảm ơn, anh thì sao? - Tôi phát hiện ra là mình cần màu trắng kẽm.”
“Màu trắng kẽm à?” Gauthier kéo một cái ngăn kéo hẹp từ chiếc tủ cạnh tường ra. “Chúng đây rồi. Và theo tôi nhớ thì anh thích hãng Rembrandt.”
Đúng thế. Màu trắng kẽm Derwatt và nhiều màu khác của hãng Derwatt cũng được bày bán, tuýp đựng màu vẽ được trang trí bằng chữ ký màu đen mạnh mẽ, xiên dọc xuống của Derwatt trên nhãn, nhưng không hiểu sao Tom không muốn vẽ ở nhà với cái tên đó nằm ngay trong tầm mắt mỗi lần thò tay lấy một tuýp màu. Anh trả tiền và khi Gauthier đưa anh tiền thừa và chiếc túi nhỏ đựng màu, anh ta nói:
“À, anh Reepley này, anh có nhớ anh Trevanny, thợ làm khung tranh ở đường St. Merry không?”
“Có chứ, đương nhiên rồi,” Tom còn đang nghĩ xem phải khơi lên chủ đề Trevanny như thế nào.
“À, tin đồn mà anh nghe được, tin anh ta sẽ chết sớm ấy, hoàn toàn không đúng sự thật đâu.” Gauthier mỉm cười.
“Không à? Vậy thì quá tốt rồi! Tôi rất mừng khi nghe điều đó.” “Đúng thế. Anh Trevanny thậm chí còn tới hỏi lại bác sĩ đấy. Tôi nghĩ anh ta thấy hơi phiền lòng. Ai lại không? Ha ha! - Nhưng anh đã nói là có người nói vậy với anh phải không, anh Reepley?”
“Đúng thế. Một người cũng dự bữa tiệc - tháng Hai. Tiệc sinh nhật của vợ anh Trevanny. Nên tôi cứ ngỡ đó là sự thật mà ai cũng biết cả rồi, anh thấy đấy.”
Gauthier trông trầm ngâm.
“Anh đã nói chuyện với anh Trevanny à?”
“Không - không. Nhưng một tối nọ tôi đã nói chuyện với bạn thân của anh ta, một tối khác ở nhà của Trevanny, tháng này. Rõ ràng là người ấy đã nói chuyện đó với anh Trevanny. Mấy cái chuyện kiểu này lan truyền kinh thật!”
“Bạn thân của anh ta à?” Tom hỏi với vẻ ngây thơ.
“Một người Anh, Alain gì đó, hôm sau sẽ sang Mỹ. Nhưng... anh có nhớ là ai đã kể cho anh không, anh Reepley?”
Tom chầm chậm lắc đầu. “Không nhớ nổi cả tên lẫn diện mạo của anh ta. Tối hôm đó có quá nhiều người.”
“Bởi vì...” Gauthier cúi người lại gần thì thầm, như thể còn có người khác ở đây. “Anh biết không, anh Trevanny đã hỏi ai kể cho tôi, và tất nhiên tôi không nói là anh. Những chuyện kiểu này có thể bị hiểu sai. Tôi không muốn anh lâm vào rắc rối. Ha!” Con mắt thủy tinh của Gauthier không cười mà trợn trừng trừng, như thể có một bộ não khác trong đầu anh ta sau con mắt đó, một bộ não vi tính ngay lập tức có thể biết rõ tất thảy mọi chuyện nếu có người lập trình cho nó.
“Cảm ơn anh vì điều đó, việc bàn tán những điều sai sự thật về sức khỏe của người khác không phải là một hành động tử tế, nhỉ?” Giờ Tom đã toét miệng cười, sẵn sàng ra về, nhưng vẫn nói thêm, “Nhưng có đúng anh Trevanny bị bệnh về máu không, anh từng nói vậy mà?”
“Đúng là thế. Tôi nghĩ là bệnh bạch cầu. Nhưng anh ta có thể sống với căn bệnh đó. Anh ta từng bảo với tôi là anh ta đã mắc bệnh vài năm rồi.”
Tom gật đầu. “Dẫu sao thì tôi cũng mừng vì anh ta không lâm nguy. A bientot*, anh Gauthier. Cảm ơn nhiều.”
Tiếng Pháp: Hẹn gặp lại.
Anh đi về phía ô tô của mình. Cơn sốc của Trevanny, dù chỉ kéo dài vài tiếng đồng hồ cho tới khi anh ta tham vấn bác sĩ của mình, ít nhất cũng đã để lại vết nứt trong sự tự tin của anh ta. Vài người đã tin, và có thể chính Trevanny cũng đã tin rằng mình sẽ không còn sống quá vài tuần nữa. Đó là vì khả năng đó không phải là không thể với một người bị bệnh máu như anh ta. Tiếc là giờ Trevanny đã được trấn an, nhưng vết nứt nhỏ đó có thể là tất cả những gì
Reeves cần. Giờ trò chơi có thể bước sang giai đoạn thứ hai. Trevanny chắc sẽ từ chối Reeves. Trong trường hợp đó thì trò chơi kết thúc. Mặt khác, Reeves sẽ tiếp cận anh ta như thể anh ta hiển nhiên đang cận kề cái chết. Trevanny mà khuất phục thì chuyện mới thú vị đây. Ngày hôm ấy, sau bữa trưa với Heloise và cô bạn Noelle người Paris, cô ta còn định ở lại qua đêm, Tom để hai người phụ nữ lại và đi viết một bức thư cho Reeves bằng máy đánh chữ.
28 tháng Ba, 19...
Reeves thân mến:
Tôi có một ý tưởng cho anh đấy, trong trường hợp anh vẫn chưa tìm được điều mình cần. Tên anh ta là Jonathan Trevanny, đầu ba mươi, người Anh, thợ làm khung tranh, kết hôn với một phụ nữ Pháp và có một đứa con nhỏ [Đến đây Tom báo địa chỉ nhà cũng như địa chỉ và số điện thoại của cửa hàng Trevanny.] Trông anh ta có vẻ cần tiền, mặc dù anh ta có thể không phải là loại người mà anh muốn, anh ta hoàn toàn là hình mẫu của sự đứng đắn và trong sạch, và quan trọng hơn nữa đối với anh, đó là anh ta chỉ có thêm vài tháng hoặc vài tuần để sống, theo tôi biết. Anh ta bị bệnh bạch cầu, và mới nhận được tin dữ này. Biết đâu anh ta sẵn lòng nhận một công việc nguy hiểm để kiếm thêm ít tiền.
Tôi không quen biết Trevanny và tôi cần phải nhấn mạnh rằng mình không muốn kết bạn với anh ta, cũng như không muốn anh nhắc đến tên tôi trước mặt anh ta. Tôi gợi ý là, nếu anh muốn thăm dò anh ta thì hãy tới F'bleau, thuê phòng ở một khách sạn dễ thương tên là I'Aigle Noir trong vài ngày, liên lạc với Trevanny bằng
cách gọi điện tới cửa hàng của anh ta, đặt lịch hẹn, và dụ dỗ anh ta. Và tôi có căn dặn anh hãy báo một cái tên khác không phải tên thật của anh không?
Đột nhiên Tom cảm thấy lạc quan với dự án này. Hình ảnh Reeves với sự ngập ngừng và lo lắng đầy vẻ xoa dịu - thậm chí có chút gì đó đáng tin cậy - trình bày ý tưởng này trước một Trevanny trông đạo đức như một vị thánh, khiến anh bật cười. Anh có dám ngồi xuống một bàn khác ở phòng ăn hoặc quán bar của khách sạn l’Aigle Noir khi Reeves hẹn gặp Trevanny không? Không, như thế quá mạo hiểm. Điều này khiến Tom nhớ tới một chuyện khác và anh viết thêm vào thư:
Nếu anh đến F'bleau thì xin đừng gọi điện hay gửi thư cho tôi trong bất kỳ trường hợp nào. Xin hãy tiêu hủy bức thư này của tôi.
Người bạn thân thiết của anh,
Tom.
Chương 4
V
ào chiều thứ Sáu ngày 31 tháng Ba, điện thoại trong cửa hàng của Jonathan reo lên. Anh vừa mới dán xong giấy nâu vào sau một bức tranh lớn, và phải tìm vật đè thích hợp - một hòn đá sa thạch cũ mèm có dòng chữ LUÂN ĐÔN, hộp keo dán, một chiếc búa gỗ - trước khi anh có thể nhấc điện thoại lên.
“Xin chào?”
“Bonjour. Anh Trevanny phải không?... Xem ra anh nói tiếng Anh. Tên tôi là Stephen Wister, W-i-s-t-e-r. Tôi đang có mặt ở Fontainebleau vài ngày và tôi tự hỏi anh có thể dành ra vài phút để nói chuyện với tôi về một việc hay không - một việc mà tôi nghĩ sẽ hấp dẫn anh.”
Người đàn ông này nói giọng Mỹ. “Tôi không mua tranh đâu,” Jonathan nói. “Tôi là thợ làm khung tranh.”
“Tôi không muốn gặp anh vì bất kỳ chuyện gì liên quan đến công việc của anh hết. Chuyện này tôi không thể giải thích qua điện thoại được. Tôi đang ở tại l’Aigle Noir.”
“À?”
“Tôi muốn hỏi anh có vài phút vào tối nay sau khi đã đóng cửa hàng không. Tầm bảy giờ? Sáu rưỡi? Chúng ta có thể uống rượu hoặc cà phê.”
“Nhưng - tôi muốn biết vì sao anh lại muốn gặp tôi.” Một phụ nữ vừa bước vào cửa hàng - bà Tissot, hay Tissaud nhỉ? - để lấy tranh về. Jonathan cười hối lỗi với bà ta.
“Tôi chỉ giải thích được khi gặp anh,” giọng nói nhẹ nhàng, thành thật. “Chỉ mất đúng mười phút thôi. Liệu anh có thời gian rảnh lúc bảy giờ tối nay không, tầm đấy?”
Jonathan nhượng bộ. “Sáu rưỡi cũng được.”
“Tôi sẽ gặp anh ở sảnh. Tôi mặc một bộ vest màu xám bằng len sọc. Nhưng tôi sẽ nói chuyện với người khuân vác hành lý. Không khó tìm đâu.”
Jonathan thường đóng cửa hàng lúc sáu rưỡi tối. Đến sáu giờ mười lăm, anh đứng ở bồn rửa, kỳ cọ hai bàn tay. Hôm đó trời se lạnh và Jonathan mặc một chiếc áo len cổ lọ với áo khoác nhung màu be cũ kỹ, không đủ thanh lịch đối với l’Aigle Noir, kết hợp với chiếc áo đi mưa tốt thứ hai của anh chỉ càng làm bộ cánh xấu xí hơn. Sao anh lại phải quan tâm? Người đó muốn bán thứ gì đó cho anh. Không thể nào khác được.
Khách sạn chỉ cách cửa hàng năm phút đi bộ. Nó có một khoảng sân nhỏ sau cánh cổng sắt cao, và vài bậc thềm dẫn lên cửa trước. Jonathan nhìn thấy một người đàn ông mảnh dẻ, mặt căng thẳng với kiểu đầu đinh tiến về phía mình với vẻ ngập ngừng thoáng qua, và anh hỏi:
“Anh Wister à?”
“Phải.” Reeves gượng cười và chìa tay ra. “Chúng ta có nên uống rượu trong quán bar ở đây hay anh thích một chỗ khác hơn?”
Quán bar ở đây dễ chịu và yên tĩnh. Jonathan nhún vai. “Tùy anh.” Anh để ý thấy trên má của Wister có một vết sẹo dài khủng khiếp.
Họ đi tới cánh cửa rộng rãi của quán bar khách sạn, bên trong trống trơn, chỉ có đúng một người đàn ông và một phụ nữ đang ngồi ở một chiếc bàn nhỏ. Wister quay đi như thể không thích không khí yên tĩnh này, và nói:
“Đi chỗ khác đi.”
Họ đi ra khỏi khách sạn và rẽ phải. Jonathan biết quán rượu liền kề, Café du Sport hay sao đó, giờ này nó đang ồn ào với cánh thanh niên quây quanh máy chơi bắn đạn và công nhân ngồi ở quầy rượu. Vừa đến cửa quán bar-café này, Wister khựng lại như thể vô tình bước vào một trận chiến vậy.
“Anh có phiền,” anh ta nói, quay người bỏ đi, “nếu lên phòng tôi ngồi không? Nó yên tĩnh và chúng ta có thể gọi đồ lên.” Họ quay về khách sạn, đi lên một tầng rồi vào một căn phòng được trang trí theo phong cách Tây Ban Nha - đồ đạc bằng sắt đen, ga trải giường màu mâm xôi, thảm màu xanh lục nhạt. Vali đặt trên giá là dấu hiệu duy nhất cho thấy căn phòng có người sử dụng. Wister bước vào mà không cần chìa khóa.
“Anh muốn uống gì?” Anh ta tiến lại gần điện thoại. “Scotch nhé?”
“Được.”
Wister gọi đồ bằng tiếng Pháp vụng về. Anh ta muốn gọi nguyên chai rượu lên phòng và xin rất nhiều đá.
Sau đó là im lặng. Jonathan tự hỏi vì sao anh ta lại thấy bồn chồn đến vậy. Anh đứng cạnh cửa sổ, từ đó nhìn ra ngoài. Rõ ràng là Wister không muốn nói chuyện cho tới khi rượu đã lên. Jonathan nghe thấy một tiếng gõ nhẹ ở cửa.
Một người phục vụ mặc áo khoác trắng mang khay bước vào cùng nụ cười thân thiện. Stephen Wister rót rất nhiều rượu ra. “Anh có quan tâm đến việc kiếm ít tiền tiêu không?”
Jonathan mỉm cười, giờ đã yên vị trong chiếc ghế bành thoải mái, tay cầm cốc scotch lớn có đá. “Ai lại không chứ?” “Tôi đang có một công việc nguy hiểm - à, một công việc quan trọng - mà tôi sẵn sàng trả hậu hĩnh.”
Jonathan nghĩ đến thuốc phiện: chắc anh ta muốn vận chuyển hoặc tàng trữ một thứ gì đó. “Anh kinh doanh trong lĩnh vực nào?” Anh hỏi khá lịch sự.
“Vài ngành. Ngành tôi vừa nói với anh có thể gọi là... cờ bạc. Anh có đánh bạc không?”
“Không.” Jonathan mỉm cười.
“Tôi cũng không. Chuyện đó chẳng quan trọng.” Anh ta đứng dậy từ mép giường và chậm rãi đi quanh phòng. “Tôi sống ở Hamburg.” “À?”
“Cờ bạc không hợp pháp theo quy định của thành phố, nhưng nó vẫn diễn ra trong các câu lạc bộ tư nhân. Dẫu vậy, việc có hợp pháp hay không không quan trọng. Tôi cần trừ khử một người, có lẽ là hai, và có khả năng cần tiến hành thêm một vụ trộm nữa. Giờ thì tôi
đã lật toàn bộ quân bài của mình trên bàn rồi đấy.” Anh ta nhìn Jonathan với nét mặt nghiêm túc, tràn trề hy vọng.
Giết người, ý anh ta là vậy. Anh giật mình, sau đó mỉm cười và lắc đầu. “Tôi tự hỏi làm sao anh biết đến tôi chứ!”
Stephen Wister không cười. “Đừng bận tâm đến chuyện đó.” Anh ta tiếp tục cầm cốc rượu trong tay và đi qua đi lại, đôi mắt xám liếc nhìn Jonathan rồi lại quay đi. “Tôi tự hỏi không biết anh có hứng thú với chín mươi sáu nghìn đô la không? Trong đó có tầm bốn mươi nghìn bảng và khoảng bốn trăm tám mươi nghìn franc - tiền mới. Chỉ cần bắn một người, có thể là hai, và chúng ta sẽ xem mọi chuyện tiến triển ra sao. Nó sẽ là một thỏa thuận an toàn và dễ dàng đối với anh.”
Jonathan lại lắc đầu. “Tôi không biết từ đâu mà anh nghe được thông tin tôi là... một tay súng. Chắc anh đã nhầm tôi với ai khác rồi.” “Không. Hoàn toàn không.”
Nụ cười của Jonathan tắt dần trước ánh mắt mãnh liệt của người đàn ông. “Đó là một sự nhầm lẫn... Anh có ngại nói cho tôi biết làm sao anh lại gọi điện cho tôi không?”
“À thì anh...” Wister trông có vẻ đau đớn hơn bao giờ hết. “Anh sẽ không sống quá vài tuần nữa. Anh biết điều đó mà. Anh có vợ và con trai nhỏ không đúng sao? Anh không muốn để lại cho họ một ít tài sản nào đó trước khi mình qua đời sao?”
Jonathan cảm tưởng như máu bị rút cạn khỏi mặt. Làm sao gã Wister này lại biết được từng ấy chuyện? Sau đó anh mới nhận ra tất cả có liên kết với nhau, kẻ đã kể cho Gauthier biết anh sẽ sớm
chết biết người đàn ông này, bằng cách nào đó có liên hệ với gã. Jonathan sẽ không nhắc tới Gauthier. Đó là một người trung thực, còn Wister là một tay tội phạm. Đột nhiên cốc scotch của anh chẳng còn ngon lành gì nữa. “Có một tin đồn điên rồ... gần đây...”
Giờ đến lượt Wister lắc đầu. “Đó không phải là một tin đồn điên rồ đâu. Chỉ là có thể bác sĩ của anh đã không kể hết sự thật cho anh.”
“Thế anh thì biết rõ hơn cả bác sĩ của tôi à? Bác sĩ không nói dối tôi. Đúng là tôi bị bệnh về máu, nhưng... tình trạng hiện giờ không quá tệ...” Jonathan khựng lại. “Điều cốt yếu là, tôi e mình không thể giúp được gì cho anh rồi, anh Wi...ster.”
Khi anh ta cắn môi dưới, vết sẹo dài nhúc nhích một cách ghê tởm, như một con giun sống.
Jonathan rời mắt khỏi anh ta. Sau rốt thì liệu có chuyện bác sĩ Perrier nói dối không? Anh nghĩ là sáng mai mình nên gọi tới phòng xét nghiệm ở Paris để hỏi vài câu, hoặc đơn giản cứ đi thẳng lên Paris và đòi một lời giải thích khác.
“Anh Trevanny, tôi rất tiếc phải nói anh đã không được thông báo đầy đủ, rõ ràng là vậy. Ít nhất thì anh đã nghe được điều mà anh gọi là tin đồn, nên tôi không phải là người mang tin xấu đến. Chuyện này hoàn toàn do anh tự lựa chọn, nhưng trong hoàn cảnh này, với một khoản tiền đáng kể như thế, tôi nghĩ nghe cũng khá dễ chịu. Anh có thể ngừng làm việc và tận hưởng - À thì chẳng hạn, anh có thể đi du thuyền vòng quanh thế giới cùng gia đình và vẫn để lại cho vợ mình...”
Jonathan cảm thấy muốn ngất xỉu ở đấy và đứng dậy hít một hơi thật sâu. Cảm giác ấy trôi đi nhưng anh thích đứng hơn, Wister vẫn nói không ngừng nghỉ nhưng Jonathan chẳng mấy để vào đầu.
“Ý tưởng của tôi... Có vài người ở Hamburg sẽ đóng góp vào khoản tiền chín mươi sáu nghìn đô la ấy. Người hoặc những người mà chúng tôi muốn loại bỏ đều là dân mafia.”
Jonathan mới chỉ hồi phục lại một nửa. “Cảm ơn, tôi không phải sát thủ. Anh không nên tiếp tục chủ đề này.”
Wister vẫn tiếp tục. “Nhưng chính xác thì điều chúng tôi muốn là một người không hề có liên hệ với bất kỳ ai trong số chúng tôi, hay với Hamburg. Mặc dù người đầu tiên, gã đó chỉ là một tay sát thủ đánh thuê thôi nhé, phải bị bắn ở Hamburg. Lý do là chúng tôi muốn cảnh sát nghĩ rằng hai băng đảng mafia đang thanh toán nhau ở Hamburg. Trên thực tế, chúng tôi muốn cảnh sát đứng về phe chúng tôi.” Anh ta đi qua đi lại, chủ yếu là nhìn xuống sàn. “Người đầu tiên phải bị bắn hạ trong một đám đông, đám đông ở U-bahn. Đó là hệ thống tàu điện ngầm của chúng tôi, như cách các anh gọi. Súng sẽ bị vứt lại ngay lập tức, người - tay sát thủ hòa vào đám đông và biến mất. Một khẩu súng Ý, không có dấu vân tay. Không manh mối.” Anh ta hạ tay xuống như một người chỉ huy dàn nhạc kết màn.
Jonathan ngồi lại xuống ghế, tạm thời cần nó trong giây lát. “Xin lỗi. Nhưng không.” Anh sẽ đi ra cửa ngay khi hồi sức. “Tôi sẽ ở đây hết ngày mai và có lẽ đến tận cuối chiều Chủ nhật. Tôi mong anh cân nhắc thêm về đề nghị này. Thêm một ly scotch nhé? Có thể có ích cho anh đấy.”
“Không, cảm ơn.” Jonathan tự lôi mình dậy. “Tôi phải đi đây.” Wister gật đầu, trông ra chiều thất vọng.
“Và cảm ơn vì cốc rượu.”
“Đừng khách sáo.” Anh ta mở cửa hộ anh.
Jonathan ra ngoài. Anh cứ ngỡ Wister sẽ dúi một tấm danh thiếp có tên và địa chỉ của anh ta vào tay anh. Anh mừng vì anh ta không làm vậy.
Đèn đường đã sáng trên đường France. Bảy giờ hai mươi hai phút tối. Simone có nhờ anh mua cái gì không nhỉ? Chắc là bánh mỳ. Anh đi vào một tiệm bánh và mua một cái bánh mỳ dài. Công việc quen thuộc này có tính an ủi.
Bữa tối gồm súp rau, vài khoanh giò thủ còn thừa, salad cà chua và hành tây. Simone kể về giấy dán tường hạ giá ở một cửa hàng gần chỗ cô làm việc. Với một trăm franc, họ có thể dán tường phòng ngủ, và cô đã để ý một loại giấy có họa tiết màu xanh lục và hoa cà rất đẹp, nhã nhặn và hợp thời.
“Chỉ có một cửa sổ nên phòng ngủ đó rất tối, anh biết mà, Jon.” “Cũng được đấy,” Jonathan nói. “Đặc biệt là nếu nó được bán hạ giá.”
“Nó được bán giá rẻ mà. Không phải kiểu bán hạ giá ngớ ngẩn chỉ giảm đúng năm phần trăm - giống như ông sếp bủn xỉn của em đâu.” Cô nhúng vỏ bánh mỳ vào dầu salad và thả vào miệng. “Anh đang lo lắng chuyện gì thế? Hôm nay có việc gì xảy ra à?”
Jonathan bất chợt mỉm cười. Anh không hề lo lắng về một vấn đề gì cả. Anh thấy mừng vì Simone không để ý đến việc anh đã về
hơi muộn và anh còn uống rượu nữa. “Không, em yêu. Không có gì xảy ra cả. Có thể là vì đã đến cuối tuần. Gần cuối tuần rồi đấy.” “Anh cảm thấy mệt mỏi à?”
Nó hệt như một câu hỏi từ bác sĩ, nhưng giờ đã thành thông lệ. “Không... tối nay anh phải gọi điện cho một khách hàng từ tầm tám đến chín giờ.” Giờ đã là tám giờ ba mươi bảy phút tối. “Chắc anh nên gọi luôn, em yêu. Có thể lát nữa anh sẽ uống cà phê sau.”
“Con đi cùng cha được không?” Georges hỏi, thả dĩa xuống, ngồi ngả lưng ra sau, sẵn sàng lao ra khỏi ghế bất kỳ lúc nào. “Tối nay thì không được, bé con ạ. Cha đang vội. Với cả cha biết thừa là con chỉ muốn chơi máy bắn đạn thôi.”
“Kẹo cao su Hollywood!” Georges hét lên, phát âm theo giọng Pháp: “Gẹo cau su Ollyvoo!”
Jonathan nhăn mặt khi nhấc chiếc áo khoác xuống khỏi móc treo trong hành lang. Kẹo cao su Hollywood, vỏ bọc màu xanh trắng của nó thỉnh thoảng tô điểm cho các rãnh nước và đôi lúc nằm rải rác trong vườn nhà anh, mang sức hấp dẫn bí ẩn đối với đám trẻ con Pháp. “Được rồi, thưa ngài,” Jonathan nói và ra khỏi cửa.
Trong cuốn niên giám có số điện thoại nhà của bác sĩ Perrier, và anh hy vọng tối nay ông ta ở nhà. Một cửa hàng bán thuốc lá, gần hơn cửa hàng của Jonathan, có điện thoại, và anh bắt đầu sải bước về phía cây xilanh màu đỏ sáng đèn nằm nghiêng là biển hiệu của cửa hàng cách đó hai con phố. Anh sẽ yêu cầu được biết sự thật. Jonathan gật đầu chào một chàng trai sau quầy, anh cũng hơi hơi quen, chỉ về phía điện thoại và cả giá cất các quyển niên giám nữa.
“Fontainebleau!” Jonathan hét lên. Cửa hàng hết sức ồn ào và bên cạnh còn có hộp nhạc đang bật. Anh tìm rồi quay số. Bác sĩ Perrier nghe máy và nhận ra giọng của Jonathan. “Tôi muốn được xét nghiệm thêm một lần nữa. Kể cả ngay tối nay. Ngay bây giờ... nếu ông có thể lấy mẫu.”
“Tối nay à?”
“Tôi có thể tới gặp ông ngay lập tức. Trong vòng năm phút nữa.” “Anh thấy... Anh thấy không khỏe à?”
“À - tôi nghĩ nếu ngày mai xét nghiệm được chuyển tới Paris...” Jonathan biết là bác sĩ Perrier có thói quen gửi các mẫu xét nghiệm tới Paris vào sáng thứ Bảy. “Nếu tối nay hoặc sáng sớm mai ông có thể lấy mẫu xét nghiệm...”
“Sáng mai tôi không có ở văn phòng. Tôi phải tới vài nơi. Anh Trevanny, nếu thấy bất an đến vậy thì cứ đến nhà tôi luôn bây giờ đi.”
Jonathan trả tiền điện thoại và ngay trước khi ra khỏi cửa thì nhớ ra phải mua hai gói kẹo cao su Hollywood rồi thả chúng vào túi áo khoác. Ông Perrier sống trên đại lộ Maginot, mất gần mười phút đi bộ tới đó. Jonathan chạy nước kiệu rồi đi chậm lại. Anh chưa từng đến nhà của bác sĩ.
Đó là một tòa nhà lớn, u ám, người gác cổng là một phụ nữ gầy gò, chậm chạp, già nua đang xem tivi trong một căn phòng kính đầy cây giả. Khi Jonathan chờ thang máy hạ xuống trong cái lồng ọp ẹp, người quản lý đi ra hành lang và tò mò hỏi:
“Vợ anh sắp chuyển dạ à?”
“Không. Không,” Jonathan nói, mỉm cười, nhớ ra là bác sĩ Perrier là một bác sĩ đa khoa.
Anh đi lên tầng.
“Có chuyện gì thế?” Bác sĩ Perrier hỏi, ra hiệu cho anh đi qua phòng ăn. “Vào phòng này đi.”
Căn nhà được thắp sáng yếu ớt. Màn hình tivi sáng lên từ một chỗ nào đó. Căn phòng mà họ bước vào trông như một văn phòng nhỏ, trên giá có sách y khoa, chiếc cặp đen của bác sĩ đang nằm trên bàn làm việc.
“Trời ơi, người ta sẽ nghĩ anh sắp gục đến nơi, vậy nhưng rõ ràng là anh vừa mới chạy một đoạn, má anh đỏ rực cả lên kia kìa. Đừng nói với tôi là anh lại vừa nghe tin đồn mình sắp chui xuống mồ tới nơi đây nhé!”
Jonathan cố tỏ ra bình tĩnh. “Chỉ là tôi muốn bảo đảm chắc chắn mà thôi. Nói thật là tôi không cảm thấy quá khỏe đâu. Tôi biết là mới hai tháng trôi qua kể từ lần xét nghiệm cuối cùng nhưng - vì lần xét nghiệm tiếp theo là vào tháng Tư, có hại gì đâu...” Anh không nói hết mà nhún vai. “Lấy ít tủy cũng không khó và mẫu thử có thể được gửi vào sáng sớm mai...” Jonathan nhận thấy rõ là vào thời khắc ấy tiếng Pháp của anh trở nên ngượng nghịu, rằng từ moelle, tủy, dần trở nên khó chịu, đặc biệt là khi Jonathan tự thấy bản thân vàng khè một cách bất thường. Anh cảm giác thái độ của bác sĩ Perrier là ông ta phải giúp bệnh nhân của mình vui lên.
“Được, tôi có thể lấy mẫu xét nghiệm. Kết quả chắc vẫn giống như lần trước thôi. Anh Trevanny này, anh sẽ chẳng bao giờ nhận
được lời cam đoan một trăm phần trăm từ người trong ngành y đâu...” Bác sĩ vẫn tiếp tục nói trong khi Jonathan cởi áo len ra, làm theo dấu tay ra hiệu của bác sĩ Perrier và nằm xuống một chiếc ghế sôpha da cũ mèm. Bác sĩ chọc kim gây tê vào. “Nhưng tôi hiểu sự lo lắng của anh,” vài giây sau ông ta vừa nói vừa ấn và gõ vào ống tiêm đang đi vào trong xương ức của anh.
Jonathan không thích tiếng lạo xạo đó, nhưng cảm thấy cơn đau nhẹ này vẫn chịu đựng được. Có thể lần này anh sẽ biết thêm tin tức nào đó. Jonathan không thể kiềm chế mà bật ra hỏi, trước khi ra về, “Tôi phải biết sự thật, bác sĩ Perrier. Thật lòng mà nói, ông không nghĩ là có khả năng phòng xét nghiệm không đưa cho chúng ta một biên bản đầy đủ chứ? Tôi sẵn lòng tin rằng số liệu của họ chính xác...”
“Bản kết luận hoặc dự đoán lần này mới là thứ mà anh chưa thể nhận được, chàng trai trẻ ạ!”
Sau đó Jonathan đi bộ về nhà. Anh đã nghĩ xem có nên kể cho Simone biết chuyện anh đã tới chỗ bác sĩ Perrier không, chuyện anh lại thấy lo lắng, nhưng anh không thể: anh đã khiến cô lâm vào quá nhiều khó khăn rồi. Nếu anh kể thì cô có thể nói gì? Cô cũng sẽ chỉ thấy thêm phần lo lắng mà thôi, giống anh.
Trong nhà Georges đã lên giường và Simone đang đọc truyện cho cậu. Lại đọc Astérix*. Georges, dựa vào gối ngủ, còn Simone ngồi trên một cái ghế đẩu thấp dưới ánh đèn, trông như một hoạt cảnh gia đình ấm cúng những năm 1880, Jonathan nghĩ, chỉ khác chiếc quần dài của cô. Mái tóc của thằng bé vàng như râu ngô dưới ánh đèn.
Những cuộc phiêu lưu của Asterix là loạt truyện tranh của Pháp do René Goscinny sáng tác và Albert Uderzo minh họa. “Kẹo cao su đâu ạ?” Georges hỏi, cười toe toét.
Anh mỉm cười và chìa một phong kẹo ra. Phong kẹo còn lại có thể chờ dịp khác.
“Anh đi lâu thế,” Simone nói.
“Anh đã uống bia ở một quán cà phê,” Jonathan nói. Buổi chiều hôm sau từ bốn rưỡi đến năm giờ tối, như bác sĩ Perrier đã dặn, anh gọi điện tới phòng xét nghiệm Ebberle Valent ở Neuilly. Anh báo tên, đánh vần, nói rằng mình là bệnh nhân của bác sĩ Perrier ở Fontainebleau. Sau đó anh chờ được kết nối với bộ phận liên quan, trong khi điện thoại kêu tinh mỗi phút phải trả tiền. Jonathan đã chuẩn bị sẵn giấy bút. Anh có thể đánh vần lại tên mình được không? Sau đó một giọng nữ bắt đầu đọc báo cáo và anh nhanh nhẹn ghi lại các số liệu. Glucose máu 190,000. Không phải con số này cao hơn lúc trước sao?
“Tất nhiên chúng tôi sẽ gửi báo cáo giấy tới bác sĩ của anh và ông ấy sẽ nhận được vào thứ Ba.”
“Kết quả xét nghiệm lần này không khả quan như lần trước, đúng không?”
“Tôi hiện không có kết quả xét nghiệm lần trước ở đây, thưa anh.”
“Có bác sĩ nào ở đó không? Tôi có thể nói chuyện với một bác sĩ được không?”
“Tôi là bác sĩ đây, thưa anh.”
“À. Vậy thì báo cáo này - dù bà có bản xét nghiệm cũ ở đó hay không, thì nó vẫn không khả quan, đúng không?”
Như đọc từ trong sách giáo khoa, bà ta nói, “Đây là một tình trạng nguy hiểm tiềm tàng liên quan đến việc suy giảm miễn dịch...” Jonathan đã gọi điện từ cửa hàng của anh. Anh đã quay biển ĐÓNG CỬA ra ngoài và kéo rèm, dù người ta vẫn có thể nhìn thấy rõ anh qua cửa sổ, và giờ khi ra cửa để tháo biển xuống, anh nhận ra là mình đã quên khóa cửa. Vì không còn ai đến hạn lấy tranh chiều hôm đó, Jonathan nghĩ mình có thể đóng cửa sớm được. Lúc đó là năm giờ chiều.
Anh đi bộ tới văn phòng của bác sĩ Perrier, sẵn sàng chờ hơn một tiếng đồng hồ nếu bắt buộc. Thứ Bảy là một ngày bận rộn vì phần lớn mọi người không làm việc và có thời gian đi khám. Trước Jonathan có ba người, nhưng y tá hỏi chuyện xem anh có cần nhiều thời gian không, anh bảo là không, và y tá đưa anh vào trước với lời xin lỗi bệnh nhân tiếp theo. Jonathan tự hỏi không biết có phải bác sĩ Perrier đã nói chuyện với y tá của mình về anh không?
Bác sĩ Perrier nhướn hàng lông mày đen nhánh lên trước bản ghi chép nguệch ngoạc của Jonathan và nói, “Nhưng thông tin này chưa hoàn chỉnh.”
“Tôi biết, nhưng nó cũng có chút ý nghĩa, không phải sao? Nó tệ hơn lần trước một chút - có đúng không?”
“Người ta sẽ nghĩ anh muốn mình bệnh nặng hơn đấy!” Bác sĩ Perrier nói với vẻ hào hứng thường thấy, nhưng giờ Jonathan đã
không còn tin vào nó nữa. “Nói thật, đúng là nó tệ hơn, nhưng chỉ tệ hơn một chút thôi. Không nghiêm trọng đâu.”
“Theo phần trăm - tệ hơn mười phần trăm, đúng không?” “Anh Trevanny - anh không phải một cỗ máy! Thôi nào, tôi không nên đưa ra bất kỳ một lời chẩn đoán nào cho tới khi nhận được báo cáo đầy đủ vào thứ Ba.”
Jonathan đi bộ về nhà một cách chậm chạp, đi qua đường Sablons phòng trường hợp anh nhìn thấy có người muốn vào cửa hàng của mình. Chẳng có ai hết. Chỉ có cửa hàng giặt là là kinh doanh phát đạt và người người cầm cả chồng đồ giặt va chạm nhau ở cửa. Lúc đó mới gần sáu giờ tối. Simone sẽ tan làm ở cửa hàng giày sau bảy giờ, muộn hơn thường lệ vì ông chủ Brezard của cô muốn thu về mọi đồng franc có thể trước khi đóng cửa vào Chủ nhật và thứ Hai. Còn Wister vẫn ở khách sạn l'Aigle Noir. Có phải anh ta chỉ đang đợi mỗi anh, đợi anh đổi ý và nhận lời? Có phải sẽ rất buồn cười không nếu bác sĩ Perrier thông đồng với Stephen Wister, nếu giữa họ có thỏa thuận sửa kết quả từ phòng xét nghiệm Ebberle Valent để đưa báo cáo xấu cho anh? Nhỡ Gauthier cũng đồng lõa, kẻ mang tin xấu bé nhỏ? Như một cơn ác mộng trong đó những yếu tố lạ lùng nhất cùng hợp sức - chống lại người nằm mơ. Nhưng Jonathan biết rõ là anh không nằm mơ. Anh biết rằng bác sĩ Perrier không được Stephen Wister trả tiền. Ebberle-Valent cũng không. Và chuyện tình trạng của anh xấu đi, cái chết gần kề hơn, hoặc đến sớm hơn một chút so với anh nghĩ, không phải là một giấc mơ. Dẫu vậy, điều đó đúng với tất cả mọi người khi họ có thêm một ngày để sống, Jonathan tự nhủ. Anh nghĩ đến cái chết, giai đoạn già đi, giống
như đi xuống một con dốc vậy. Phần lớn mọi người có cơ hội đi thật chậm, bắt đầu lúc năm lăm tuổi hoặc bất kỳ độ tuổi nào mà họ chậm chạp dần, đều đều đi xuống cho tới năm bảy mươi hoặc năm họ từ giã cõi đời, bất kể năm nào đi nữa. Jonathan nhận ra rằng cái chết của anh sẽ đến nhanh như bị ngã xuống vực. Khi đang cố “chuẩn bị tinh thần” cho mình, tâm trí anh nao núng và lẩn tránh. Thái độ, hoặc linh hồn của anh, vẫn ở nguyên tuổi ba tư, và muốn được sống tiếp.
Ngôi nhà hẹp của Trevanny, mang màu xám xanh trong ánh hoàng hôn, không có tí đèn nào. Nó khá xập xệ, và thực tế đó đã khiến Jonathan và Simone thấy thú vị khi mua lại căn nhà cách đây năm năm. “Nhà của Sherlock Holmes,” Jonathan thường gọi nó như vậy khi họ phân vân giữa căn nhà này với một căn nhà khác ở Fontainebleau. “Anh vẫn thích căn nhà của Sherlock Holmes hơn,” Jonathan nhớ đã nói vậy một lần. Ngôi nhà mang không khí của những năm 1890, gợi nhớ tới đèn khí và những hàng lan can bóng loáng, dù không một món đồ gỗ nào trong căn nhà này còn bóng loáng khi họ chuyển vào hết. Dẫu vậy căn nhà lúc ấy trông như thể nó có thể biến thành một nơi chốn mang sức quyến rũ của giai đoạn chuyển giao giữa hai thế kỷ. Các phòng đều nhỏ, được sắp đặt thú vị, khu vườn là một mảnh đất hình chữ nhật đầy những khóm hồng mọc quá cao, nhưng ít nhất vẫn còn nụ hồng nằm đó và tất cả những gì cần làm là dọn cỏ. Và mái cổng bằng kính vòm trên các bậc thềm sau nhà, trong hàng hiên được lắp kính, khiến Jonathan nghĩ tới họa sĩ Vuillard và họa sĩ Bonnard. Nhưng giờ anh mới nhận ra rằng năm năm trời họ sống ở đây cũng không đẩy lùi được cái vẻ u ám ấy. Đúng là giấy dán tường mới sẽ làm phòng ngủ sáng lên,
nhưng đó chỉ là một căn phòng mà thôi. Căn nhà vẫn chưa được trả xong tiền: họ còn phải trả thêm ba năm nữa. Một căn hộ nhỏ như nơi họ đã sống tại Fontainebleau trong năm đầu kết hôn thì rẻ hơn, nhưng Simone đã quen sống trong ngôi nhà có đất vườn - cô đã có vườn suốt quãng đời ở Nemours - và là người Anh, Jonathan cũng thích có vườn tược. Anh chưa bao giờ hối hận dù ngôi nhà chiếm một khoản lớn trong thu nhập của họ.
Khi trèo lên các bậc thang trước nhà, Jonathan không nghĩ nhiều đến khoản tiền còn lại phải trả mà chủ yếu nghĩ về việc có lẽ anh sẽ chết trong căn nhà này. Nhiều khả năng là anh sẽ chẳng bao giờ được biết đến một căn nhà tươi sáng hơn với Simone. Anh nghĩ rằng căn nhà Sherlock Holmes đã đứng vững vài thập niên trước khi anh chào đời và cũng sẽ đứng vững thêm vài thập niên nữa sau khi anh chết. Anh cảm thấy việc chọn căn nhà này là định mệnh của mình. Một ngày nào đó họ sẽ mang anh ra ngoài, đưa chân ra trước, có thể vẫn thở nhưng đã cận kề cái chết, và anh sẽ không bao giờ đặt chân vào căn nhà này nữa.
Trước sự ngạc nhiên của Jonathan, Simone đang ở trong bếp, chơi một trò bài bạc nào đó với Georges ở bàn. Cô ngẩng lên, mỉm cười, rồi anh nhìn thấy cô nhớ ra việc chiều nay anh phải gọi điện tới phòng xét nghiệm ở Paris. Nhưng cô không thể đề cập chuyện đó trước mặt Georges.
“Hôm nay lão già đáng ghét đó đóng cửa sớm,” Simone nói. “Không buôn bán gì hết.”
“Tốt quá!” Jonathan cười nói vui tươi. “Ổ bạc này như thế nào đây?”
“Con đang thắng!” Georges nói bằng tiếng Pháp.
Simone đứng dậy và theo Jonathan vào hành lang khi anh treo áo mưa lên. Cô dò hỏi.
“Không có gì phải lo hết,” anh nói nhưng cô ra hiệu cho anh tiến lại gần phòng khách. “Có vẻ tệ hơn một chút, nhưng anh không cảm thấy xấu đi, nên có chuyện quái gì đâu cơ chứ? Anh chán lắm rồi. Uống một chai Cinzano nào.”
“Anh vẫn lo lắng vì câu chuyện đó, phải không Jon?” “Đúng là như thế.”
“Em ước gì mình biết ai khởi xướng chuyện đó.” Mắt cô nheo lại cay đắng. “Đó là một câu chuyện thật ghê tởm. Gauthier chưa từng nói cho anh biết ai kể chuyện à?”
“Không. Như Gauthier nói, hẳn là có người nào đó đã nhầm lẫn, phóng đại.” Jonathan đang lặp lại những gì mà anh đã nói với Simone lúc trước. Nhưng anh biết đó không phải một sự nhầm lẫn mà là một chuyện đã được mưu tính.
Chương 5
J
onathan đứng ở cửa sổ phòng ngủ tầng một, nhìn Simone treo đồ giặt lên dây phơi ngoài vườn. Có vỏ gối, đồ ngủ của Georges, một tá tất của thằng bé và anh. Hai váy ngủ trắng, áo lót, quần đi làm màu be của Jonathan - tất cả mọi thứ chỉ trừ ga giường, Simone mang chúng tới tiệm giặt là vì việc chúng được là ủi cẩn thận rất quan trọng với cô. Cô mặc quần vải tweed và một chiếc áo len mỏng màu đỏ ôm sát cơ thể. Lưng cô trông vừa mạnh mẽ vừa dẻo dai khi cúi người lấy đồ từ chiếc giỏ to hình oval, giờ cô đang phơi đến khăn lau đĩa. Hôm đó là một ngày nắng đẹp với chút hơi hè trong gió.
Jonathan đã trốn tránh việc tới Nemours để ăn trưa với cha mẹ của Simone, ông bà Foussadier. Đã thành thông lệ, cứ hai tuần một lần anh và cô sẽ tới đó vào Chủ nhật. Trừ phi anh trai Gerard của Simone đến đón, không thì họ sẽ đi xe buýt tới Nemours. Cha mẹ của Simone lúc nào cũng làm quá khi gặp Georges, lúc nào cũng chuẩn bị quà cho thằng bé. Tầm ba giờ chiều, cha của Simone, ông Jean-Noel, sẽ bật tivi lên. Jonathan thường thấy chán chết, nhưng anh vẫn đi theo cô vì đó là một hành vi đúng đắn và cũng vì anh tôn trọng sự gần gũi của các gia đình Pháp.
“Anh cảm thấy khỏe chứ?” Simone đã hỏi như vậy khi anh cáo lỗi ở nhà.
“Khỏe, em yêu. Chỉ là hôm nay không có tâm trạng, và anh muốn chuẩn bị sẵn sàng luống đất kia để trồng cà chua. Vậy nên sao em không đi với Georges nhỉ?”
Vậy nên Simone và Georges lên xe buýt vào buổi trưa. Cô đã cho nốt chỗ thịt bò hầm còn lại vào một cái nồi đỏ nhỏ trên bếp, nên tất cả những gì Jonathan phải làm là đun nó lên khi cảm thấy đói.
Anh muốn ở một mình. Anh nghĩ về Stephen Wister bí ẩn và lời đề nghị của anh ta. Jonathan không có ý định gọi điện cho Wister ở khách sạn l’Aigle Noir hôm nay, dù anh rất rõ là anh ta vẫn ở đó, cách chưa đầy ba trăm mét. Anh không hề có ý định liên lạc với Wister, dù ý tưởng đó vừa thú vị vừa phiền nhiễu một cách kỳ lạ, như một tia chớp từ hư vô, một dải màu xuất hiện trong sự sống buồn tẻ của anh, và Jonathan muốn quan sát nó, muốn tận hưởng nó theo một nghĩa nào đó. Anh cũng có cảm giác là (thực ra nó đã thường xuyên được chứng minh) Simone có thể đọc được suy nghĩ của anh, hoặc ít nhất biết khi có chuyện gì đó choán hết tâm trí anh. Nếu Chủ nhật hôm đó anh có biểu hiện lơ đễnh thì anh không muốn Simone để ý và hỏi thăm. Anh nghĩ đến con số bốn mươi nghìn bảng, khoản tiền đủ để trả hết toàn bộ chi phí mua nhà, thêm cả vài món đồ đi thuê, sơn lại những chỗ cần sơn, mua một bộ tivi mới, một khoản tiền tiết kiệm để dành riêng cho Georges đi học đại học, vài bộ đồ mới cho Simone và anh - à, sự yên ổn về tinh thần! Đơn giản là giải thoát khỏi mọi nỗi lo lắng! Anh nghĩ tới một, có lẽ là hai bóng dáng mafia - hai gã côn đồ vạm vỡ, tóc đen, nổ tung rồi chết, tay quờ quạng, cơ thể ngã xuống. Điều Jonathan không thể tưởng tượng ra, khi xẻng của anh nhấn vào mặt đất trong vườn, đó là cảnh
anh kéo cò súng, có thể là khi nhắm vào lưng của một người đàn ông. Thú vị hơn, bí ẩn hơn, nguy hiểm hơn, là làm sao mà Wister biết tên anh. Có một âm mưu nhằm vào anh ở Fontainebleau này, và bằng cách nào đó nó đã truyền đến Hamburg. Không thể có chuyện Wister nhầm anh với người khác, vì anh ta thậm chí còn nhắc đến cơn bệnh của anh, vợ và con trai bé bỏng của anh nữa. Một người nào đó, Jonathan nghĩ, mà anh xem là bạn hoặc ít nhất cũng là một người quen xã giao, hoàn toàn không hề thấy hữu hảo với anh.
Wister chắc sẽ rời khỏi Fontainebleau vào tầm năm giờ chiều hôm nay, Jonathan nghĩ. Đến ba giờ, anh đã ăn xong bữa trưa, dọn dẹp các giấy tờ và hóa đơn cũ trong ngăn kéo chứa đồ của chiếc bàn tròn nằm chính giữa phòng khách. Sau đó - anh vui vẻ nhận thấy là mình hoàn toàn không mệt mỏi - anh dùng chổi và xẻng hót rác xử lý mặt ngoài các đường ống và sàn nhà xung quanh lò mazut của họ.
Tầm năm giờ hơn, khi Jonathan đang cọ rửa chỗ bồ hóng bám trên tay ở bồn nước trong bếp, Simone với Georges về nhà cùng anh trai Gerard và chị dâu Yvonne của cô, bọn họ cùng uống rượu trong bếp. Georges được ông bà ngoại tặng một hộp bánh kẹo lễ Phục sinh hình tròn có một quả trứng bọc giấy nhám vàng, một con thỏ sôcôla, kẹo cao su trái cây màu sắc, tất cả nằm dưới giấy bóng kính vàng và vẫn chưa được mở ra, vì Simone cấm thằng bé mở nó sau số bánh kẹo mà thằng bé đã ăn ở Nemours. Georges đưa anh chị họ ra vườn.
“Đừng dẫm lên chỗ đất mềm nhé, Georges!” Jonathan hét lên. Anh đã cào mịn đất nhưng vẫn để sỏi lại cho thằng bé nhặt. Georges chắc sẽ nhờ hai anh chị giúp chất đầy chiếc xe đỏ của mình. Jonathan cho con trai năm mươi xu với mỗi xe sỏi đầy - dù chẳng bao giờ đầy cả, nhưng kín hết thùng xe là được rồi.
Trời bắt đầu đổ mưa. Anh đã cất hết đồ vào trong cách đây vài phút.
“Khu vườn trông đẹp quá!” Simone nói. “Nhìn kìa, Gerard!” Cô ra dấu cho anh trai đi theo ra hàng hiên nhỏ sau nhà.
Đến lúc này, Jonathan nghĩ, Wister chắc đã lên tàu từ Fontainebleau đi Paris, hoặc có thể anh ta sẽ đi taxi tới thẳng sân bay Orly, cân nhắc đến số tiền mà dường như anh ta có. Có thể giờ này anh ta đã ở trên không, đang bay về Hamburg. Sự hiện diện của Simone, giọng nói của Gerard và Yvonne, dường như xóa nhòa Wister khỏi khách sạn l’Aigle Noir, và ở một mức độ nào đó, biến anh ta thành một hình ảnh chỉ có trong trí tưởng tượng của Jonathan. Anh cũng cảm thấy có chút hân hoan chiến thắng nhẹ trước thực tế là mình đã không gọi điện cho Wister, như thể việc đó cho thấy anh đã thành công kháng cự lại một loại cám dỗ.
Gerard Foussadier, một kỹ sư điện, là một người gọn gàng, nghiêm túc, tóc sáng màu hơn tóc của Simone, và có một hàng ria mép được tỉa tót cẩn thận. Sở thích của anh ta là lịch sử hải quân, và anh ta chế tạo mô hình tàu chiến thế kỷ mười tám và mười chín, anh ta còn lắp cả những bóng đèn điện nhỏ xíu trong phòng khách của mình mà anh ta có thể bật toàn bộ hoặc bật một phần bằng cách ấn công tắc. Chính Gerard cũng cười trước sai lầm về niên đại
khi lắp bóng đèn điện trong tàu chiến của anh ta, nhưng khi toàn bộ những bóng đèn khác đều tắt thì hiệu quả mang lại đẹp tuyệt vời, tám hay mười con tàu chiến dường như đang bơi trên biển đen trong phòng khách.
“Simone nói rằng cậu hơi lo lắng - về vấn đề sức khỏe, Jon,” Gerard thực lòng hỏi thăm. “Anh rất tiếc.”
“Không hẳn. Chỉ là kiểm tra sức khỏe như thường lệ mà thôi,” Jonathan nói. “Kết quả xét nghiệm cũng vẫn vậy.” Anh đã quen sử dụng những câu sáo rỗng này, cũng như nói “Rất khỏe, cảm ơn anh” khi có người hỏi thăm sức khỏe. Điều Jonathan nói có vẻ đã khiến Gerard hài lòng, vậy nên rõ ràng là Simone cũng không kể nhiều.
Yvonne và Simone đang trò chuyện về vải sơn lót sàn. Vải lót sàn trước bếp và bồn rửa đã sờn rách. Khi họ mua ngôi nhà này thì nó cũng đã chẳng mới rồi.
“Anh thật sự cảm thấy ổn chứ, anh yêu?” Simone hỏi Jonathan sau khi nhà anh trai cô đã ra về.
“Hơn cả ổn ấy chứ. Anh thậm chí còn xử lý phòng đun nước nóng rồi đấy. Bồ hóng.” Anh mỉm cười.
“Anh điên rồi. Ít nhất thì tối nay anh sẽ có một bữa tối đúng nghĩa. Mẹ khăng khăng bắt em mang ba miếng thịt cuộn về từ bữa trưa và chúng ngon lắm!”
Sau đó gần mười một giờ tối, khi họ chuẩn bị lên giường, Jonathan đột nhiên cảm thấy trầm cảm, như thể chân và toàn bộ cơ thể anh nhão thành bùn - tựa hồ anh đang nhúng nửa người xuống bùn. Có phải chỉ là mệt mỏi thôi không? Nhưng có vẻ đây là trạng
thái tinh thần chứ không phải trạng thái thể chất. Anh mừng khi đèn đã tắt hết, anh có thể thả lỏng vòng tay ôm lấy Simone, cô ôm lấy anh, như họ vẫn luôn nằm khi đi ngủ. Anh nghĩ tới Stephen Wister (mà đó có phải là tên thật của anh ta không nhỉ?) có thể giờ đang bay về hướng Đông, cơ thể mảnh khảnh duỗi dài trên ghế máy bay. Jonathan tưởng tượng ra khuôn mặt của Wister với vết sẹo hồng rực, băn khoăn, căng thẳng, nhưng anh ta sẽ không còn nghĩ về Jonathan Trevanny nữa. Anh ta sẽ nghĩ đến một người khác. Anh ta chắc phải có hai đến ba ứng viên khác, anh nghĩ.
Buổi sáng lạnh lẽo đầy sương. Tám giờ hơn, Simone đưa Georges tới trường mẫu giáo, Jonathan đứng trong bếp, làm ấm các ngón tay bằng bát cà phê sữa thứ hai. Hệ thống làm nóng không hoạt động tốt. Họ đã trải qua một mùa đông không mấy dễ chịu, và thậm chí đến mùa xuân rồi mà căn nhà vẫn lạnh băng vào buổi sớm. Lò đốt đã có sẵn trong nhà khi họ mua, đủ sức cấp nhiệt cho năm lò sưởi dưới tầng một nhưng không đủ cho thêm năm lò sưởi nữa trên gác, dù họ đã thầm hy vọng khi lắp chúng. Họ đã được cảnh báo, Jonathan vẫn nhớ, nhưng một lò sưởi lớn hơn sẽ tốn ba nghìn franc, và họ thì không có tiền.
Ba bức thư rơi qua khe cửa trước. Một là hóa đơn điện. Jonathan lật một phong bì vuông vắn lại và nhìn thấy dòng chữ Khách sạn l'Aigle Noir trên lưng. Anh mở phong bì ra. Một tấm danh thiếp rơi xuống đất. Jonathan nhặt nó lên và đọc thấy “Địa chỉ nhà Stephen Wister,” được viết trên dòng:
Reeves Minot
159 Agnesstrasse
Winterhude (Alster)
Hamburg 56
629-6757
Còn có cả một bức thư.
Ngày 1 tháng Tư năm 19...
Anh Trevanny thân mến:
Tôi rất tiếc vì không nhận được tin gì từ anh suốt cả sáng nay hoặc cho đến giờ này buổi chiều. Nhưng phòng trường hợp anh đổi ý, tôi đính kèm danh thiếp có địa chỉ nhà mình ở Hamburg. Nếu anh suy nghĩ lại về lời đề nghị của tôi thì xin hãy gọi điện cho tôi vào bất kỳ giờ nào. Hoặc hãy đến nói chuyện với tôi ở Hamburg. Phí di chuyển khứ hồi sẽ được chuyển cho anh ngay khi tôi nhận được tin từ anh.
Trên thực tế, sao anh không cân nhắc ý tưởng đến gặp một bác sĩ chuyên khoa ở Hamburg về bệnh máu và nhận thêm một chẩn đoán khác? Việc này có thể khiến anh cảm thấy thoải mái hơn.
Tôi sẽ quay lại Hamburg vào tối Chủ nhật.
Trân trọng,
Stephen Wister.
Jonathan vừa thấy ngạc nhiên, thú vị, vừa thấy bực mình. Thoải mái hơn. Câu đó có vẻ buồn cười, vì Wister chắc chắn là anh sẽ chết sớm. Nếu một bác sĩ chuyên khoa ở Hamburg chẩn đoán là “Ái chà, anh chỉ có thêm một đến hai tháng để sống,” thì điều đó sẽ khiến anh cảm thấy thoải mái hơn sao? Jonathan đút bức thư và tấm danh thiếp vào túi quần sau. Một chuyến đi khứ hồi miễn phí tới Hamburg. Wister đã nghĩ đến mọi cách cám dỗ. Thật thú vị khi anh ta lại gửi thư vào chiều thứ Bảy, để anh nhận được thư vào sáng sớm ngày thứ Hai, dù Jonathan có thể gọi cho anh ta vào bất kỳ một thời điểm nào hôm Chủ nhật. Nhưng vào Chủ nhật không có ai đi thu thư từ các hòm thư trong thị trấn hết.
Lúc đó là tám giờ năm mươi hai phút sáng. Jonathan nghĩ xem mình phải làm gì. Anh cần thêm giấy lót từ một công ty ở Melun. Có ít nhất hai khách hàng anh cần gửi bưu thiếp thông báo vì tranh của họ đã xong hơn một tuần nay rồi. Jonathan thường dành thứ Hai để làm những việc lặt vặt tại cửa hàng, vì việc mở cửa hàng sáu ngày một tuần là trái luật Pháp.
Jonathan tới nơi lúc chín giờ mười lăm phút sáng, kéo chiếc rèm màu xanh lá xuống, và khóa cửa lại, treo tấm biển ĐÓNG CỬA. Anh đi lại vẩn vơ, vẫn nghĩ đến Hamburg. Ý kiến của một chuyên gia người Đức có thể là chuyện tốt. Cách đây hai năm Jonathan đã tham khảo ý kiến của một bác sĩ chuyên khoa ở Luân Đôn. Chẩn đoán của ông ta cũng giống như ở Pháp, khiến anh thấy hài lòng vì chúng đều chính xác. Không phải người Đức sẽ kỹ càng và hiện đại hơn sao? Giả sử anh chấp nhận đề nghị khứ hồi của Wister? (Jonathan đang chép lại một địa chỉ lên một tấm bưu thiếp.) Nhưng
sau đó thì anh sẽ mắc nợ anh ta. Jonathan nhận ra rằng anh đang cân nhắc đến ý tưởng giết người cho Wister - không phải vì Wister mà vì tiền. Một tay mafia. Tất cả bọn chúng đều là tội phạm cả, không phải sao? Tất nhiên, Jonathan thầm nhủ, anh luôn có thể trả tiền cho Wister, nếu anh nhận tấm vé khứ hồi. Vấn đề là, hiện giờ anh không thể rút tiền ra khỏi ngân hàng được, chưa đủ. Nếu anh thật sự muốn chắc chắn về tình trạng của mình, Đức (hoặc Thụy Sĩ cũng được) có thể cho anh biết. Họ có những bác sĩ giỏi nhất thế giới, không phải sao? Jonathan giờ đang đặt tấm danh thiếp của nhà cung cấp giấy ở Melun bên cạnh điện thoại để nhắc mình mai phải gọi vì hôm nay chỗ bán giấy cũng không mở cửa. Với cả ai mà biết được, chẳng lẽ đề nghị của Stephen lại không khả thi sao? Trong một giây, anh thấy mình bị bắn nát bươm bởi làn đạn của các sĩ quan cảnh sát Đức: họ bắt được anh ngay sau khi anh nổ súng bắn gã người Ý. Nhưng kể cả khi anh chết thì Simone và Georges vẫn nhận được khoản tiền bốn mươi nghìn bảng. Jonathan quay lại thực tại. Anh sẽ không giết ai cả, không. Nhưng Hamburg, việc đi tới Hamburg như một thú vui, một quãng nghỉ giải lao, dù anh có nhận được tin dữ ở đó đi nữa. Dù thế nào thì anh vẫn sẽ biết được sự thật. Và nếu hiện giờ Wister trả tiền thì Jonathan có thể trả lại anh ta trong vòng ba tháng, nếu anh chắt bóp chi tiêu, không mua quần áo, không mua cả một cốc bia trong quán cà phê. Jonathan sợ không dám kể cho Simone, dù cô sẽ đồng ý, tất nhiên, vì như thế có nghĩa là đi khám một bác sĩ nữa, cứ cho là một bác sĩ hết sức xuất sắc. Việc chắt bóp chi tiêu chỉ áp dụng với tiền riêng của Jonathan mà thôi.
Tầm mười một giờ sáng, Jonathan gọi điện tới số của Wister ở Hamburg, gọi trực tiếp chứ không để người nhận trả tiền. Ba đến bốn phút sau, điện thoại của anh reo và Jonathan có kết nối rõ, tốt hơn nhiều so với các cuộc gọi đến Paris thường ngày.
“Vâng... Wister đây,” Wister nói bằng giọng nhỏ nhẹ, căng thẳng của anh ta.
“Sáng nay tôi đã nhận được thư của anh,” Jonathan mở đầu. “Ý tưởng tới Hamburg...”
“Đúng thế, sao lại không?” Wister bình thản nói.
“Nhưng ý tôi muốn nói đến việc tới đó khám bác sĩ chuyên khoa...”
“Tôi sẽ chuyển tiền cho anh ngay lập tức. Anh có thể nhận tiền ở bưu điện Fontainebleau. Chắc sẽ đến nơi sau vài tiếng đồng hồ.” “Việc đó... anh thật tốt bụng. Khi đến nơi, tôi có thể...” “Anh có thể đến hôm nay không? Ngay tối nay? Ở đây có phòng cho anh ở lại.”
“Tôi không chắc hôm nay có được không.” Vậy nhưng sao lại không?
“Hãy gọi lại cho tôi khi anh đã mua xong vé. Báo cho tôi biết anh đến lúc nào. Tôi sẽ ở nhà cả ngày.”
Khi dập máy, tim của Jonathan đập hơi nhanh.
Trong bữa trưa ở nhà, anh lên phòng ngủ ở tầng hai để kiểm tra vali của mình. Nó nằm trên nóc tủ quần áo, nơi nó đã yên vị từ chuyến du lịch cuối cùng của họ, gần một năm trước, đến Arles.
Anh nói với Simone, “Em yêu, có chuyện quan trọng. Anh đã quyết định đến Hamburg để khám bác sĩ chuyên khoa ở đó.” “Vậy à - ông Perrier gợi ý thế à?”
“À - trên thực tế là không. Tự anh. Anh không ngại nghe thêm chẩn đoán của một bác sĩ Đức. Anh biết làm vậy hơi phung phí tiền.” “Ôi Jon! Phung phí tiền thì làm sao! - Sáng nay anh nhận được tin gì à? Nhưng phải mai kết quả xét nghiệm mới đến, không phải sao?”
“Đúng thế. Nhưng em yêu, họ luôn nói giống hệt nhau. Anh muốn nhận được một chẩn đoán mới tinh.”
“Anh muốn đi khi nào?”
“Sớm. Tuần này”
Năm giờ kém, Jonathan gọi đến bưu điện Fontainebleau. Tiền đã đến. Anh trình diện thẻ căn cước và nhận được sáu trăm franc. Anh đi từ bưu điện tới đại lý du lịch ở quảng trường Franklin Roosevelt, chỉ cách đó vài khu phố, mua một vé khứ hồi tới Hamburg trên một chuyến bay rời khỏi sân bay Orly lúc chín giờ hai mươi lăm phút tối hôm đó. Anh nhận ra mình sẽ phải nhanh chân và anh thích chuyện đó, vì nó loại trừ mọi cân nhắc, mọi do dự. Anh về cửa hàng của mình và gọi tới Hamburg, lần này để người nhận trả tiền điện thoại.
Wister lại nghe máy. “À, được thôi. Lúc mười một giờ năm lăm, được rồi. Anh hãy đi xe buýt sân bay tới ga thành phố nhé? Tôi sẽ đón anh ở đó.”
Sau đó Jonathan gọi điện cho vị khách đã đặt một bức tranh quan trọng ở cửa hàng, thông báo rằng sẽ đóng cửa vào thứ Ba và
thứ Tư vì “lý do gia đình”, một cái cớ phổ biến. Anh sẽ phải treo biển với thông báo tương tự ở cửa vài ngày. Không phải một vấn đề quá quan trọng, Jonathan nghĩ thầm, vì các chủ tiệm trong thị trấn cũng thường xuyên đóng cửa vài ngày vì lý do này kia. Jonathan từng thấy một tấm biển thông báo “đóng cửa vì say rượu”.
Anh đóng cửa hàng và về nhà để dọn đồ. Anh nghĩ tối đa chuyến đi chỉ kéo dài hai ngày, trừ phi bệnh viện ở Hamburg đòi anh ở lại thêm để xét nghiệm. Anh đã kiểm tra lịch tàu tới Paris và có một chuyến lúc bảy giờ tối, quá thích hợp. Anh phải đến Paris rồi tới Les Invalides để đi xe buýt tới sân bay Orly. Khi Simone đón Georges về nhà, Jonathan đã mang vali xuống tầng một.
“Tối nay luôn à?” Simone hỏi.
“Càng sớm càng tốt, em yêu. Anh đã lên cơn bốc đồng. Anh sẽ quay lại vào thứ Tư, có thể thậm chí là ngay tối mai.” “Nhưng - em có thể liên lạc với anh ở đâu? Anh đã thuê được khách sạn nào chưa?”
“Chưa. Anh sẽ đánh điện cho em sau, em yêu. Đừng lo gì cả.” “Anh đã thu xếp xong mọi thứ rồi à? Bác sĩ nào thế?” “Anh chưa biết. Anh chỉ mới nghe tên bệnh viện thôi.” Jonathan
làm rơi hộ chiếu khi cố gắng nhét nó vào túi áo trong. “Em chưa bao giờ thấy anh thế này cả,” Simone nói. Anh mỉm cười với cô. “Ít nhất thì - rõ ràng là anh chưa gục ngã!” Cô muốn đi cùng anh tới ga tàu Fontainebleau-Avon rồi một
mình đi xe buýt quay về, nhưng Jonathan xin cô đừng làm vậy. “Anh sẽ đánh điện cho em ngay lập tức,” anh nói.
“Hamburg ở đâu ạ?” Georges hỏi lần thứ hai.
“Allemagne!*” Jonathan trả lời.
Tiếng Pháp: Nước Đức.
May thay, anh bắt được taxi ở đại lộ France. Tàu đang cập bến ga Fontainebleau-Avon khi anh đến, và anh chỉ vừa vặn đủ thời gian mua vé và nhảy lên tàu. Sau đó là đi taxi từ ga Lyon tới Les Invalides. Jonathan còn lại một ít tiền từ khoản sáu trăm franc. Một thời gian tới anh sẽ không cần lo về tiền nữa.
Lên máy bay, anh ngủ gà gật, trong lòng vẫn còn đặt một tờ tạp chí. Anh tưởng tượng mình là một người khác. Chuyến bay vội vàng dường như cũng chia tách con người mới này với người đàn ông ở lại trong ngôi nhà xám xịt u tối trên đường St. Merry. Anh tưởng tượng vào thời điểm này một Jonathan khác đang giúp Simone rửa bát đĩa, tán gẫu về những chủ đề nhạt nhẽo như giá vải sơn lót sàn bếp.
Máy bay hạ cánh. Không khí lạnh lẽo và hanh khô hơn nhiều. Có một đường cao tốc dài sáng đèn, sau đó là đến phố xá đô thị, những tòa nhà khổng lồ đứng lừng lững trong trời đêm, đèn đường có màu sắc và hình dáng khác với ở Pháp.
Và Wister xuất hiện, mỉm cười, tiến về phía anh, bàn tay phải chìa ra. “Xin chào, anh Trevanny! Chuyến đi dễ chịu chứ?... Xe của tôi đỗ ngay bên ngoài. Hy vọng anh không phiến phải đi xe tới ga này. Lái xe của tôi - thật ra là một người thỉnh thoảng tôi thuê - cho đến tận mới đây thôi mới hết bận.”
Họ đi bộ ra phía vỉa hè. Wister lải nhải bằng giọng Mỹ. Ngoại trừ vết sẹo trên mặt, ở anh ta không có gì biểu hiện sự hung hãn hết. Jonathan xác định là anh ta quá bình tĩnh, nhìn từ góc độ tâm thần thì đó cũng có vẻ đáng quan ngại. Hoặc chỉ là anh ta đang kìm nén? Wister dừng chân cạnh một chiếc xe Mercedes-Benz đen sáng bóng. Một người đàn ông trung niên, không đội mũ, đón chiếc vali cỡ trung của Jonathan rồi mở cửa cho anh và Wister.
“Đây là Karl,” Wister nói.
“Chào anh,” anh nói.
Karl mỉm cười và nhỏ giọng trả lời gì đó bằng tiếng Đức. Đoạn đường khá dài. Wister chỉ vào tòa thị chính, “tòa nhà cổ nhất ở châu Âu, và không bị đánh bom” và một nhà thờ hoặc lâu đài vĩ đại mà Jonathan không nhớ tên. Anh và Wister ngồi cùng nhau ở ghế sau. Họ đi đến một khu vực trong thành phố đậm không khí đồng quê hơn, qua một cây cầu, tiến vào một con đường tối tăm. “Đến nơi rồi,” Wister nói. “Chỗ của tôi.”
Xe ô tô đã tiến vào một con đường dốc rồi dừng lại cạnh một ngôi nhà lớn có vài ô cửa sổ đang sáng đèn và cửa ra vào được chăm chút cẩn thận cũng đang sáng đèn.
“Đây là một ngôi nhà cũ bốn căn hộ, và tôi sở hữu một căn trong đó,” Wister giải thích. “Có rất nhiều nhà như vậy ở Hamburg. Chúng được cải tạo lại. Ở đây tôi có tầm nhìn rất đẹp ra hồ Alster. Hồ Aussen Alster, hồ lớn hơn. Ngày mai anh sẽ thấy.”
Họ lên nhà trong một chiếc thang máy hiện đại, Karl xách hành lý hộ Jonathan. Anh ta ấn chuông và một người phụ nữ trung niên mặc
váy đen đeo tạp dề trắng mở cửa, mỉm cười.
“Đây là bà Gaby,” Wister nói với Jonathan. “Quản gia bán thời gian của tôi. Bà ấy làm việc cho một gia đình khác trong ngôi nhà này và ngủ ở chỗ họ, nhưng tôi đã dặn là tối nay muốn ăn một xíu. Bà Gaby, đây là anh Trevanny đến từ Pháp.”
Người phụ nữ chào đón Jonathan một cách dễ chịu, cầm áo hộ anh. Bà ta có khuôn mặt tròn trịa như bánh pudding và trông có vẻ tử tế.
“Rửa mặt ở đây, nếu anh muốn,” Wister nói, ra dấu vào một phòng tắm đã bật sẵn đèn. “Tôi sẽ lấy một ly scotch cho anh. Anh có đói không?”
Khi Jonathan ra khỏi phòng tắm, đèn - bốn ngọn đèn - đã bật trong căn phòng khách vuông vức rộng rãi. Wister ngồi trên một chiếc sôpha xanh lục, hút xìgà. Hai cốc scotch nằm trên một chiếc bàn cà phê trước mặt. Bà Gaby tiến vào ngay lập tức với một khay đựng sandwich và một miếng phô mai tròn màu vàng nhạt.
“À, cảm ơn bà Gaby.” Wister nói với Jonathan, “Giờ này hơi muộn đối với bà ấy, nhưng khi tôi bảo là có một vị khách sắp đến thì bà ấy khăng khăng đòi ở lại để phục vụ sandwich.” Anh ta, dù nói lời vui vẻ nhưng không hề cười. Trên thực tế thì hàng lông mày thẳng tắp nhíu lại lo lắng khi bà Gaby sắp xếp đĩa và dao dĩa. Khi bà ta lui ra, anh ta nói, “Anh cảm thấy khỏe chứ? Giờ thì chuyện chính là - đến khám bác sĩ chuyên khoa. Tôi đã có một người rất giỏi trong đầu, bác sĩ Heinrich Wentzel, bác sĩ huyết học ở Eppendorfer Krankenhaus, là bệnh viện lớn nhất ở đây. Nổi tiếng toàn thế giới.
Tôi đã đặt lịch hẹn cho anh lúc hai giờ chiều mai, nếu anh thấy hợp lý.”
“Chắc chắn rồi. Cảm ơn anh,” Jonathan nói.
“Như vậy anh sẽ có cơ hội ngủ bù. Tôi hy vọng vợ anh không phiền lòng về việc anh lên đường gấp như vậy... Sau rốt thì tham khảo thêm ý kiến của bác sĩ khác về một căn bệnh máu nghiêm trọng cũng là hành động khôn ngoan...”
Jonathan chỉ lơ đãng lắng nghe. Anh cảm thấy đờ đẫn, thêm vào đó anh còn hơi xao lãng trước đồ trang trí trong nhà, trước thực tế là tất cả mọi thứ ở đây đều mang chất Đức, và đây là lần đầu tiên anh tới Đức. Đồ đạc đều khá thông dụng và trông hiện đại chứ không cổ kính, dù có một chiếc bàn làm việc Biedermeier đẹp đẽ kê sát bức tường đối diện anh. Có vài giá sách thấp nằm dọc tường, rèm cửa sổ dài màu xanh lục, và các bóng đèn ở trong góc tỏa ra ánh sáng dễ chịu. Một chiếc hộp gỗ màu tím mở ra trên bàn cà phê bằng kính, đặt các loại xì gà và thuốc lá khác nhau trong từng ngăn. Lò sưởi trắng có đồ trang trí bằng đồng, nhưng hiện giờ không có ngọn lửa nào đang cháy cả. Một bức tranh trông khá thú vị xem chừng là một bức Derwatt treo trên lò sưởi. Thế Reeves Minot đâu rồi? Jonathan đoán Wister chính là Minot. Anh ta có định thông báo điều đó hay cho rằng anh đã tự nhận ra? Jonathan chợt nghĩ anh và Simone nên sơn hoặc dán toàn bộ ngôi nhà của họ thành màu trắng. Anh nên phản đối ý tưởng dán giấy dán tường nghệ thuật tân thời trong phòng ngủ. Nếu họ muốn phòng sáng hơn thì màu trắng là hợp lý...
“Anh nên cân nhắc thêm một lời đề nghị khác của tôi...” Wister nói bằng chất giọng êm ái của anh ta. “Ý tưởng mà tôi đã nói đến ở
Fontainebleau.”
“Tôi e là mình chưa thay đổi ý định về chuyện đó,” Jonathan nói. “Vậy nên dẫn đến chuyện - rõ ràng là tôi nợ anh sáu trăm franc.” Jonathan gượng cười. Chưa gì anh đã cảm thấy ngà ngà say, và ngay khi nhận ra điều này, anh run rẩy uống thêm một ít rượu trong cốc. “Tôi có thể trả lại cho anh trong vòng ba tháng. Vào lúc này gặp bác sĩ chuyên khoa là chuyện thiết yếu đối với tôi. Chuyện gì quan trọng thì phải làm trước.”
“Đương nhiên rồi,” Wister nói. “Và anh cũng đừng bận tâm đến chuyện trả tiền cho tôi. Vớ vẩn.”
Jonathan không muốn tranh luận, nhưng anh mơ hồ cảm thấy xấu hổ. Hơn hết thảy, anh cảm thấy kỳ lạ, như thể anh chỉ đang nằm mơ, hoặc không hiểu sao không phải là chính mình nữa. Anh nghĩ chắc là do mọi thứ quá xa lạ.
“Gã người Ý mà chúng tôi muốn trừ khử,” Wister nói, đưa hai tay ra sau đầu và ngẩng lên nhìn trần nhà, “có một công việc cố định. Ha! Buồn cười thật đấy! Gã ta chỉ giả vờ đó là một công việc với giờ làm thông thường mà thôi. Gã ta la cà quanh các câu lạc bộ gần đường Reeperbahn, giả vờ ham mê cờ bạc, giả vờ làm nghề chế rượu nho, và tôi chắc chắn là gã ta có bạn ở - cái chỗ mà họ gọi là nhà máy rượu vang ấy. Chiều nào gã ta cũng tới đó, nhưng gã ta lại dành cả tối ở hết câu lạc bộ riêng này đến câu lạc bộ riêng kia, chơi một chút và xem xem gặp được ai. Sáng thì gã ta ngủ, vì đã thức cả đêm. Giờ trọng điểm là,” Wister nói, ngồi thẳng dậy, “chiều nào gã ta cũng đi U-bahn về nhà, đấy là một căn hộ cho thuê. Gã ta thuê sáu tháng và có một công việc thực sự thời hạn sáu tháng với chỗ làm
rượu vang để hợp pháp hóa. Ăn sandwich đi chứ!” Anh ta chìa đĩa ra như thể mới chợt nhận ra có sandwich ở đó.
Jonathan ăn một miếng sandwich lưỡi. Có cả xà lách trộn và dưa chuột muối thì là nữa.
“Trọng điểm là hàng ngày gã ta một mình xuống tàu điện ngầm U-bahn ở ga Steinstrasse lúc sáu giờ mười lăm, trông như mọi doanh nhân vừa rời khỏi văn phòng. Đó là thời điểm chúng tôi muốn tấn công gã ta.” Wister úp hai bàn tay xương xẩu xuống. “Nếu đến được sau lưng gã ta thì sát thủ sẽ nổ súng một lần, có thể là hai lần để bảo đảm, thả súng xuống đất và thế là - đơn giản như cách người Anh các anh nói, không phải sao?”
Cụm từ này đúng là có phần quen thuộc, đến từ quá khứ xa xôi. “Nếu dễ dàng như thế thì sao anh lại cần đến tôi?” Jonathan gượng nở một nụ cười lịch sự. “Tôi là tay mơ, nói nhẹ là thế. Tôi sẽ làm hỏng việc.”
Witser cứ như chưa nghe thấy gì. “Đám đông ở U-bahn có thể sẽ túm tụm lại. Vài người thôi. Ai mà biết được? Có lẽ là khoảng ba mươi đến bốn mươi người, nếu cảnh sát tới đó nhanh. Đó là một ga tàu lớn, cùng với ga đường sắt chính. Có thể họ sẽ kiểm tra người. Nhưng giả sử họ khám người anh thì sao?” Anh ta nhún vai. “Anh sẽ phải bỏ súng lại. Anh sẽ dùng một chiếc tất mỏng bao tay, và vứt nó đi vài giây sau khi nổ súng. Sẽ không có bột súng trên người, không có dấu vân tay trên súng. Anh chẳng có liên hệ gì với người chết hết. À, sẽ không điều tra đến mức đó đâu. Chỉ cần nhìn vào thẻ căn cước Pháp của anh, việc anh đặt lịch hẹn với bác sĩ Wentzel, là anh
hoàn toàn trong sạch. Trọng điểm của tôi, của chúng tôi, là không muốn thuê bất kỳ ai có liên hệ với chúng tôi hay câu lạc bộ...” Jonathan lắng nghe và không bình luận gì. Anh đang nghĩ đến ngày nổ súng, anh sẽ phải vào ở một khách sạn, không thể làm khách ở nhà Wister để phòng trường hợp cảnh sát hỏi anh đang ở đâu. Thế còn Karl và bà quản gia thì sao? Họ có biết gì về chuyện này không? Họ có đáng tin không? Tất cả những chuyện này đều thật vô lý, Jonathan nghĩ thầm và muốn cười, nhưng anh không cười.
“Anh mệt rồi,” Wister nói. “Muốn xem phòng của anh không? Bà Gaby đã chuyển vali lên đó rồi.”
Mười lăm phút sau, Jonathan mặc đồ ngủ sau khi tắm nước nóng. Phòng của anh có một ô cửa sổ thẳng mặt trước nhà, như căn phòng khách có hai cửa sổ và Jonathan nhìn xuống mặt nước, đèn đường chạy dọc bờ nước, có vài ánh đèn màu đỏ và xanh lục của những con thuyền bị neo lại. Nó trông tối tăm, yên bình, và rộng lớn. Ánh đèn tuần tra quét dọc bầu trời một cách cẩn mật. Giường của anh dài hai mét rộng mét hai, được sắp đặt gọn gàng. Có một ly hình như là đựng nước lọc trên tủ đầu giường và một gói thuốc lá Gitane mais, nhãn hiệu anh dùng, một chiếc gạt tàn và diêm. Jonathan nhấp một ngụm nước từ cốc và nhận ra nó đúng là nước lọc thật.
Chương 6
J
onathan ngồi ở mép giường, nhấm nháp tách cà phê mà bà Gaby vừa mang lên. Cà phê đúng kiểu anh thích, đậm đặc nhưng có một lớp kem dày. Jonathan đã tỉnh giấc lúc bảy giờ sáng, sau đó ngủ tiếp cho tới khi Wister gõ cửa lúc mười rưỡi.
“Đừng xin lỗi làm gì, tôi mừng vì anh đã ngủ được,” Wister nói. “Bà Gaby đã chuẩn bị sẵn sàng cà phê để mang lên cho anh rồi. Hay anh thích trà hơn?”
Anh ta còn nói thêm rằng đã đặt phòng cho Jonathan ở khách sạn - à thì tên tiếng Anh của nó là Victoria, họ sẽ tới đó trước bữa trưa. Jonathan cảm ơn. Không trò chuyện gì thêm về khách sạn. Nhưng đó chỉ là khởi đầu, Jonathan nghĩ, như anh đã suy xét tối qua. Nếu thực hiện theo kế hoạch của Wister thì anh không được phép làm khách ở nơi này nữa. Dẫu vậy, anh thấy mừng vì sẽ thoát khỏi mái nhà của anh ta trong vài giờ đồng hồ.
Một người bạn hay người quen của Wister tên là Rudolf gì đó đến vào buổi trưa. Người này trẻ măng, mảnh khảnh, mái tóc đen thẳng đuột, lo lắng và lịch sự. Wister nói rằng anh ta là sinh viên y khoa. Rõ ràng là anh ta không biết tiếng Anh. Anh ta khiến Jonathan nhớ tới các bức tranh của Franz Kafka. Tất cả cùng lên xe, Karl lái, và khởi hành đến khách sạn của Jonathan. Mọi thứ trông thật mới so với nước Pháp, anh nghĩ, rồi nhớ ra là Hamburg đã bị bom san