🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trịnh Công Sơn Và Cây Đàn Lya Của Hoàng Tử Bé Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn BIỂU GHI BIÊN MỤC TRƯỚC XUẤT BẢN ĐƯỢC THỰC HIỆN BỞI THƯ VIỆN KHTH TP.HCM General Sciences Library Cataloging-in-Publication Data Hoàng Phủ Ngọc Tường. Trịnh Công Sơn và cây đàn Lya của Hoàng tử bé / Hoàng Phủ Ngọc Tường. - T.P. Hồ Chí Minh : Trẻ, 2013. 176 tr. ; 20 cm. 1. Trịnh Công Sơn, 1939-2001. 2. Nhạc sĩ -- Việt Nam. 780.92 -- dc 22 H678-T93 https://thuviensach.vn NHÀ XUẤT BẢN TRẺ https://thuviensach.vn Xin chân thành cảm ơn: Nữ họa sĩ Camille Huyền. Họa sĩ Đinh Cường (Virginia, Hoa Kỳ) đã cung cấp cho tôi các bức tranh phụ bản và bộ sưu tập ảnh tư liệu rất quý về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Anh Trần Viết Ngạc đã cung cấp cho tôi những tư liệu về hoạt động tham dự của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong phong trào đấu tranh đòi hòa bình của sinh viên học sinh các thành phố. Anh Nguyễn Văn Dũng (Võ sư, Huế) và anh Nguyễn Trọng Huấn (TP. HCM) đã giúp tôi hoàn chỉnh bản thảo sách này. HPNT https://thuviensach.vn Chân dung Trịnh Công Sơn. (Đinh Cường vẽ) https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn CHƯƠNG THỨ NHẤT Dấu chân địa đàng https://thuviensach.vn Địa đàng còn in dấu chân Trịnh Công Sơn sinh ngày 28.2.1939, tại thành phố Buôn Ma Thuột. Hai năm về trước, cụ thân sinh lên đây chơi, nhân thấy cảnh non xanh nước biếc xinh đẹp và thành phố núi yên tĩnh bèn đưa gia đình lên đây lập nghiệp dài lâu. Năm sau hai ông bà sinh con đầu lòng, nhưng không nuôi được. Năm tiếp theo, Trịnh Công Sơn ra đời, gia đình xem như con trưởng. Vết tích của thời kỳ ấu thơ này chẳng còn để lại gì, ngoài một tấm ảnh của tuổi hài đồng, cùng một ít kỷ niệm mờ nhạt trong trí nhớ của người thân; với Sơn chắc cũng không hơn gì. Dĩ nhiên thôi vì nói như M.Ponty, nếu người ta không thể dừng lại một phút sau khi chết để biết mình chết như thế nào; thì người ta cũng không 8 https://thuviensach.vn thể ra đời sớm hơn một phút, để biết mình ra đời như thế nào. Tuổi hài đồng là một kỷ niệm bất khả tri của đời người. Dù vậy, Trịnh Công Sơn vẫn coi rằng đây là thời kỳ trọng đại nhất trong cuộc đời của anh, và anh cố tìm đọc ở trong đó những tín hiệu của định mệnh mà anh sẽ phải đảm nhận sau này. Trịnh Công Sơn cảm nhận rằng tuổi hài đồng của anh là thời điểm mà thiên thần Ni-ca-e thông báo tin buồn về một sự ra đời, và rồi đây ở tuổi biết suy nghĩ Trịnh Công Sơn bắt đầu nghiền ngẫm về tin buồn đó trong nghệ thuật của anh, rằng cuộc đời này chẳng có gì vui, tuy nhiên, người ta vẫn phải sống hết cuộc đời của mình, điều mà triết học hiện sinh gọi là “Courage to be”. Trong bài hát Gọi tên bốn mùa, Trịnh Công Sơn viết: “Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người.” Âm nhạc của Trịnh Công Sơn xuất phát từ nỗi buồn có tính cách chung thẩm như vậy, cùng với cái nhìn âm u của anh ném ra khắp thế giới, bất cứ chỗ nào đôi mắt của anh từng hướng đến, kể cả cõi tình. Mà người ta có lý khi nghĩ về cuộc đời của Sơn như một hiện hữu không thể có niềm vui. Sau khi triển khai tất cả ý nghĩa của một hiện hữu vào nghệ thuật, Trịnh Công Sơn chỉ nhìn thấy còn lại trong tay mình một chút vôi kết tủa của nỗi cô đơn. Có thể nói rằng nỗi cô đơn là không khí tản mạn khắp trong nhạc Trịnh Công Sơn, và là “tội tổ tông” con người phải gánh chịu từ thuở sơ sinh, và không thể nói gì khác. Có 9 https://thuviensach.vn thể nói ngay rằng nỗi cô đơn của phận người là một đóng góp quí báu của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cho cảm hứng âm nhạc Việt Nam một thời. Trong khi mải dồn sức cho cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, nhiều người đã quen với những lời hô hùng tráng mà quên đi rằng con người là một gã lữ hành đi trong sa mạc. Nhưng một nền nghệ thuật đánh rơi mất nỗi cô đơn của phận người chưa phải là một nền nghệ thuật hoàn hảo. Bóng dáng nhân loại gần gũi và thân thiết nhất đối với con người trong tuổi sơ sinh chính là hình bóng của người mẹ. Trong hầu khắp các ca khúc của anh, Trịnh Công Sơn thường dùng từ Mẹ khi nói về Tổ quốc hoặc quê hương. Tổ quốc của Sơn là một đất nước đổ vỡ vì chiến tranh, là một quê hương mịt mù trong khói lửa (Gia tài của mẹ), là những bà mẹ quê bỏ hoang ruộng vườn, ngẩn ngơ nhìn trái quả trên tay, nhớ về một giàn đầy hoa (Người mẹ Ô Lý). Tình cảm đau thương về Tổ quốc là một cảm hứng lớn trong nhạc Trịnh Công Sơn, đã làm cho anh mất ngủ, héo hon suốt tuổi thanh xuân, và từ đó, chín muồi thành thái độ phản chiến trong nhạc của Trịnh Công Sơn. Nội dung phản chiến tuy nhất thời đã làm một số người không bằng lòng, nhưng đó vẫn là tư duy chủ yếu của Trịnh Công Sơn trong ba tập: Ca khúc Da Vàng, Phụ khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam, và là một nét nhân bản xứng đáng với nhân cách của một người công dân đối diện với một cuộc chiến quá dữ dằn và kéo dài. Chính Nguyễn Trãi, danh nhân văn hóa thế 10 https://thuviensach.vn giới (do Liên Hiệp Quốc bầu chọn) đã từng nói “hòa bình là gốc của nhạc” dù ông đã đi qua cuộc kháng chiến chống Minh với tất cả hăm hở của một người chiến sĩ. Và trên con đường số Chín đầy máu lửa của một thời, đã từng có những người lính Mỹ đứng dàn hàng ngang, không chịu đi hành binh để phản đối chiến tranh. Ở đây, chúng ta thấy hậu quả quyết liệt và lâu dài của hành động phản chiến đó, và bây giờ bất cứ nơi đâu trên thế giới có tiếng súng của kẻ gây chiến, người ta lại thấy cần có hành động phản chiến như của những người lính Mỹ nói trên. Vậy phản chiến không hề là một thái độ hèn nhát của những kẻ không dám xung trận mà là một hành vi dũng cảm của những người không muốn dùng máu lửa nhằm dập tắt một thảm kịch máu lửa đang diễn ra khắp nơi. Đây là một ít hồi quang xa xôi của tuổi sơ sinh mà chúng ta có thể tìm thấy trong sự nghiệp âm nhạc của Trịnh Công Sơn. Tôi muốn dừng lại ở đây trong khoảnh khắc để giãi bày lòng biết ơn của cuộc đời đối với vai trò đặc biệt quan trọng của Người Mẹ. Tôi sung sướng được tiếp xúc gần gũi với thân mẫu Trịnh Công Sơn trong nhiều năm kết bạn với anh, và được hưởng sự ngọt ngào từ trái tim người mẹ của bà. Bà người nhỏ nhắn, dịu dàng. Tuy phải xoay xở lo cho cả gia đình, bà vẫn chăm lo cho tám người con ăn học đàng hoàng, và lúc nào bà cũng giữ được phong thái ung dung. Thỉnh thoảng, bà vẫn phì phèo một điếu 11 https://thuviensach.vn thuốc Kent trên môi, và tiếp chuyện một cách thành thạo những người bạn cùng lứa tuổi của con bà lúc Sơn đi vắng. Dù con trai (Trịnh Công Sơn) đã lớn gần 50 tuổi, bà vẫn dành cho Sơn một tình yêu thương đằm thắm và sự chăm sóc tỉ mỉ như đối với một đứa trẻ; và đáp lại về phía mình, Trịnh Công Sơn cũng dành cho mẹ một niềm yêu mến và kính trọng. “Khi một người mất mẹ ở tuổi 50 - Sơn viết - điều ấy có nghĩa là không còn gì có thể dàn xếp được. Cái sa mạc để lại trong lòng bạn cứ thế mỗi ngày lan rộng ra và cõi lòng bạn thì tan nát như một cánh đồng xanh tươi vừa trải qua một cơn bão lớn” (Trịnh Công Sơn, thủ bút để lại). Tôi cho rằng nhiều nét trong tính cách của Trịnh Công Sơn là thừa hưởng từ bà, thí dụ như sự tế nhị, tính dịu dàng và lòng bao dung. Và với một người chuyên viết tình khúc như Trịnh Công Sơn, ta có thể nói rằng một người tình mang đến cho ta thật nhiều ngọt ngào pha lẫn chút cay đắng, còn tình yêu của người mẹ thì chỉ có sự cưu mang, và trái tim nhân từ mà thôi. Một người tình luôn tự đặt mình trong quan hệ biện chứng giữa cho và nhận, trong khi tình yêu của mẹ chỉ diễn ra trong một chiều của lòng từ tâm mà thôi. Chúng con xin triệu lần biết ơn mẹ, ôi người mẹ tuyệt vời, Nam Mô Đại Từ Đại Bi Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát! Phải có một người mẹ từ mẫu như thế, và phải có một đàn em trìu mến như thế mới có một tài năng kiệt xuất như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Không lạ gì bóng dáng của người mẹ thường hiện ra trong bài hát của Trịnh Công Sơn, hiện ra thấp thoáng trong hầu khắp mọi bài hát, hoặc 12 https://thuviensach.vn hiện ra thành một tượng đài toàn vẹn, như Người mẹ Ô Lý, Ngủ đi con, Ca dao mẹ, Huyền thoại mẹ... Với Trịnh Công Sơn, ý niệm lời ru không chỉ dành riêng cho những gì êm ái, ve vuốt (Ru tình) mà còn chỉ những gì dữ dội, tàn phá (Đại bác ru đêm) những gì đã trở thành thường xuyên, thường xuyên đến độ quen thuộc với tác giả, giống như một căn bệnh kinh niên của người già. Trịnh Công Sơn trở lại Huế cùng gia đình, sống ở vùng Bến Ngự. Anh đã sống tiếp những năm thơ ấu ở đây, tiếp giáp với dòng sông Bến Ngự và khu ngoại ô Nam Giao đầy những làng vườn thơ mộng vùng trung du, đắm mình trong tiếng kinh cầu và tiếng chuông thu không của những ngôi chùa cổ ở Bến Ngự. Anh đi học ở Trường tiểu học Nam Giao và vào những trưa hè, thường theo đuổi thú vui đi bắt ve ve trong các khu vườn. Gần Trường tiểu học Nam Giao, có ngôi tháp của một vị thiền sư nổi tiếng khắp trong vùng, gọi là tháp Cát Ma (tiếng địa phương gọi là tháp Kiết Ma). Sư Cát Ma kết bạn với sư Từ Quang. Hai người thân nhau như bóng với hình, và thường tranh luận với nhau về tư tưởng Phật giáo. Chiều chiều dân trong vùng vẫn thấy hai vị thiền sư từ trên dốc đi xuống vừa đàm đạo sôi nổi về những vấn đề kinh điển. Có lần một núi lửa nhỏ đã xuất hiện ngoài khơi tỉnh Phan Thiết và sư Cát Ma tích cực hưởng ứng một phong trào vận động nhằm quyên góp giúp đồng bào nạn nhân. Sư Từ Quang từ 13 https://thuviensach.vn chối sự quyên góp, cho rằng theo lý thuyết tiểu thừa của Phật giáo, thì mỗi người chỉ có thể độ lấy bản thân, không thể lo thay cho người khác. Ngài Cát Ma nói lại rằng lịch sử Phật giáo công nhận rằng sau khi thành đạo, đức Phật đã độ cho vợ là công chúa Gia Du Đà La, con trai là thái tử La Hầu La... Hôm sau, vừa gặp ngài Cát Ma, sư Từ Quang đã nói: nếu chúng ta quyên tiền cho đồng bào nạn nhân Phan Thiết, thì thay vì dùng tiền đó mua quần áo, có kẻ lại dùng tiền ấy để mua cây dao giết người, thì biết làm thế nào? Cứ thế họ tranh luận với nhau không dứt. Hòa thượng Từ Quang mất vào khoảng năm 1915. Ngài Cát Ma bèn cho dựng một bức tường bên cạnh ngôi tháp định sẽ dành cho mình và đối diện với tháp của sư Từ Quang, nguyện rằng sẽ viết lên đó những ý kiến của mình về một vấn đề kinh điển nào đấy mà ngài tự đặt ra và hy vọng rằng linh hồn của ngài Từ Quang sẽ đọc thấy. Người Huế là như vậy, thích tranh luận dù ở tận bên kia thế giới. Những người đàn bà đi chợ để bán những trái cây sản xuất được trong vườn thường chọn một hai trái tốt nhất đặt ở tháp Kiết Ma, hoặc khi không có trái cây thì họ có ý thành kính bằng cách đặt vào đấy những viên đá xinh xắn nhặt được trên đường. Cũng nên nhắc lại rằng khoảng năm 1951–1956, gia đình của Trịnh Công Sơn thường xuyên vào ra Huế - Sài Gòn, ngụ tại đường Hàng Bè (nay là đường Huỳnh Thúc Kháng) sau dời về phố Phan Bội Châu (nay là đường Phan Đăng Lưu). Cụ thân sinh (và thân mẫu) của Trịnh Công Sơn hoạt động 14 https://thuviensach.vn cho phong trào kháng chiến, bị bắt giam nhiều lần, và đến tháng 6-1955 trên đường đi công tác, ông bị tai nạn xe qua đời. Trịnh Công Sơn và các em được mẹ đưa đi qui y ở chùa Phổ Quang nơi dốc Bến Ngự, pháp danh là Nguyên Thọ. Sơn tụng kinh, ăn chay một tháng bốn lần, không ăn nhiều hơn vì trong nhà lo cho sức khỏe của Sơn, trên đầu giường Sơn luôn có một chuỗi hạt và một chiếc áo tràng màu lam. Gia đình thường hay đi chùa vào những ngày rằm, mồng một. Vì vậy, Trịnh Công Sơn không tránh khỏi ít nhiều tư tưởng Phật giáo, như chủ đề của các bài hát Cõi tạm, Ở trọ, Đóa hoa vô thường, hoặc Một cõi đi về. Nhất là tư tưởng Sinh, Lão, Bệnh, Tử vẫn thường xuất hiện trong âm nhạc của Trịnh Công Sơn. Và trong những bài như Biết đâu nguồn cội, thì giai điệu của âm nhạc nhắc nhở lại một cách rõ ràng giọng tụng niệm của Phật giáo. Trên đây là tất cả những gì Phật giáo ở Huế đã để lại dấu ấn trong âm nhạc của Trịnh Công Sơn, làm tăng thêm giọng điệu buồn bã của các ca khúc. Thời kỳ ở Bến Ngự, Trịnh Công Sơn thường ham mê thú vui đi bắt ve ve với một vài người bạn thân. Những con ve sống đời ấu trùng suốt bốn năm dưới những hang sâu tự khoét lấy trong lòng đất, đợi đến mùa hè để trưởng thành. Khi thân thể đã chuyển hóa thành hình con ve, chúng ngoi lên mặt đất đậu trên những cành cây, hát vang lừng những tuổi học trò cho đến một ngày đầu thu thì đời ve kết thúc. Suốt đời ve ve, 15 https://thuviensach.vn nó chỉ biết ca hát, người ta thường mệnh danh nó là “ca sĩ mùa hè”. Đời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn như là một mô phỏng của đời ve, với tấm thân rỗng không, suốt đời chạy về phía một chân trời tràn ngập tiếng hát ca. Dạo ở Bến Ngự, thỉnh thoảng Trịnh Công Sơn đi bộ từ nhà qua trường, thường đi bộ dọc theo bờ sông Hương, băng qua bến đò Thừa Phủ. Có lẽ chính đó là thời kỳ anh bắt đầu đọc được từng nét Huế trên cây xanh, và sau này nhạc của Trịnh Công Sơn tràn ngập thiên nhiên Huế (ví dụ như bài Biết đâu nguồn cội). Cho đến tuổi thiếu niên, gia đình mới mua cho Sơn một cây đàn ghi-ta, điều mà lâu nay anh vẫn hằng mơ ước. Cho đến năm 12 tuổi, Sơn vẫn thường đánh bạn với cây sáo trúc, những gì cần cho anh trong âm nhạc về sau này đều do tự học. Và người ta tự hỏi: vậy thì Trịnh Công Sơn đã học nhạc từ bao giờ? Thì cũng giống như bảo con ve ve kia đã học nhạc từ bao giờ? Có lẽ nó đã học nhạc từ tuổi còn là ấu trùng, nằm tu luyện trong lòng đất tăm tối, hay nói như một ca sĩ chuyên nghiệp: Trịnh Công Sơn đã học nhạc từ trong “tiền kiếp”. 16 https://thuviensach.vn Hạt bụi và tia sáng Nếu nói “ảnh hưởng” của một đại gia cổ điển nào đó đối với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, có lẽ dễ thuyết phục hơn là ảnh hưởng Phật giáo đối với người này. Trịnh Công Sơn không phải là người ham nghiên cứu đạo Phật, điều ấy thật là hiển nhiên. Nhưng Trịnh Công Sơn đã lớn lên trong một thành phố đầy những ngôi chùa cổ, giữa những mối quan hệ Phật giáo hoặc trong tiếng chuông mỗi chiều hôm. Vậy ảnh hưởng của Phật giáo đối với Trịnh Công Sơn là một điều không thể tránh khỏi. Như ta biết, thế giới Trịnh Công Sơn là một vòng khép kín, giống như một lâu đài bằng đá ngày xưa, tĩnh mịch trong rừng, trong đó bằng sự nhạy cảm của một nghệ sĩ, Sơn thu nhận mọi thông tin về 17 https://thuviensach.vn kiếp người và Sơn lơ đãng ngồi ký tên vào từng viên đá. Gần như quán xuyến tất cả, âm nhạc của Trịnh Công Sơn diễn ra trong cung la thứ, chuyển tải hết cả biến cố của một đời người. Một truyền thuyết nhà Phật nói rằng về nỗi khổ của kiếp người, kinh sách Phật giáo có đến hàng vạn cuốn, rút gọn lại trong bốn chữ Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng đề cập đến những điều ấy, dù không có ý định. Sinh, là một cú nhảy khởi đầu trong kiếp luân hồi. Sinh, tự nó không phải là một điều đáng buồn; nhưng vì sinh mở đầu cho một chuỗi yếu tố gọi là khổ đế nên cũng không phải là điều đáng ước muốn. Kinh Thánh truyền đạt ý nghĩa của ngày lễ Nô-en tức là ngày sinh của Chúa, nên gọi là Tin Mừng, Trịnh Công Sơn thì gọi là Phúc âm buồn: Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người (Gọi tên bốn mùa) Đọc Trịnh Công Sơn, ta lấy làm ngạc nhiên khi bắt gặp một cái nhìn buồn bã về cuộc đời. Buồn bã vì trong cuộc sống đã có sẵn một biến cố đáng buồn là sự ra đời của một con người. Ôn Như Hầu, trong một tác phẩm nhuần thấm tư tưởng Phật giáo, cũng cho rằng: “thảo nào khi mới chôn nhau - đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra”. Điều ấy người ta cũng bắt gặp trong ngôn ngữ Trịnh Công Sơn: 18 https://thuviensach.vn Để một mai tôi về làm cát bụi (Cát bụi) Ta ru ta ngậm ngùi (Ru ta ngậm ngùi) Lưu ý rằng thời điểm của chữ Sinh rất ngắn và tuồng như con người chưa có đầy đủ ý thức về sự ra đời của chính mình. Vì thế, âm nhạc Trịnh Công Sơn ít khi nói trực tiếp vào sự ra đời mà chỉ nói qua ý niệm hát ru; và một cách nào đó, làm dịu đi ý nghĩa gay gắt của sự ra đời: Tiếng khóc ban đầu còn đau, còn đau, còn đau (Lời mẹ ru) Nhưng Trịnh Công Sơn cũng nhanh chóng rời bỏ vấn đề này để sang địa hạt của chữ Lão... Tóc xanh mấy mùa (Phôi pha) Con sông đâu có ngờ ngày kia trăng sẽ già (Biết đâu nguồn cội) Từng tuổi xuân đã già (Phôi pha) Chợt một chiều tóc trắng như vôi (Cát bụi) Lão hóa là một quá trình bất lực của thân thể trước vật chất và tinh thần. Thế giới đổi khác, và tôi cũng suy nghĩ khác, ấy là tôi đã già đi. Trịnh Công Sơn đã nói đến chữ Lão bằng tất cả giọng buồn nản: 19 https://thuviensach.vn Có một ngày bạc đầu tôi đi, tôi đi (Có một ngày như thế) Nếu Lão là một sự bất lực trước cuộc sống thì Bệnh là một tình trạng suy thoái và mất chất lượng của cuộc sống do sự bất lực tạo nên. Thân thể tiềm ẩn sẵn những mầm mống của bệnh; có thể coi con người là một con bệnh tiềm thể; và vì mang sẵn mầm bệnh như vậy, Trịnh Công Sơn tự xem mình ấp ủ sẵn một “mặc cảm lâm bệnh”. Có thể nói con người là một gã mắc bệnh trường kỳ, nghĩa là để hoạch định cho mỗi bước đi của mình trong cõi luân hồi, con người không có được mấy khoảnh khắc biểu hiện sự khỏe mạnh, tính chính xác hoặc là sự sáng suốt đáng tin cậy. Ngày thu đông phố xưa nằm bệnh (Có nghe đời nghiêng) Chập chờn lau trắng trong tay (Chiếc lá thu phai) Nghe bao nỗi đau trên bàn tay (Tôi đang lắng nghe) Ngày tháng trôi qua cơn đau mịt mù (Hoa vàng mấy độ) Không thể quên sự hạn chế của sức khỏe bản thân, những đêm khuya mất ngủ đã gieo vào lòng tác giả cái mặc cảm nói trên. Nhưng mặt khác, do một quan niệm có tính chất khổ hạnh, Trịnh Công Sơn đã xem “lâm bệnh” chính là bản chất cuộc đời. 20 https://thuviensach.vn Văn Cao và Trịnh Công Sơn (Tư liệu Đ.C) https://thuviensach.vn Đỗ Long Văn - Đinh Cường - Tôn Nữ Kim Phượng - Chị Sâm - Trịnh Xuân Tịnh - Khánh Ly - Trịnh Công Sơn tại triển lãm Đinh Cường Alliance Francaise, Đà Lạt, 1965 (Tư liệu Đ.C). Lữ Quỳnh - Trịnh Công Sơn - Đinh Cường - Nguyễn Tuân. Sài Gòn, 1985 (Tư liệu Đ.C). Đinh Cường - Dao Ánh - Bích Diễm. California, 1995 (Tư liệu Đ.C). https://thuviensach.vn Bùi Giáng - Trịnh Công Sơn, 1988 (Tư liệu Đ.C). https://thuviensach.vn Đinh Cường - Bửu Ý - Siphani - Trịnh Công Sơn. Ảnh chụp tại Sài Gòn, 1985 (Tư liệu Đ.C). Michiko - Trịnh Công Sơn - Thanh Hải (Tư liệu tham khảo). https://thuviensach.vn Trịnh Vĩnh Trinh - Trịnh Công Sơn - Khánh Ly. Montréal, Canada, 1992 (Tư liệu Đ.C). https://thuviensach.vn My - Thúy - Dao Ánh - Trịnh Công Sơn - NH Quỳ - Hoàng Phủ Ngọc Tường - T.X Kiêm tại triển lãm Đinh Cường, 1965 (Tư liệu H.P.N.T) Hoàng Thiệu Khang - Trịnh Công Sơn - Hoàng Phủ Ngọc Tường - Lê Hải (Tư liệu H.P.N.T) https://thuviensach.vn Trịnh Công Sơn ở Leningrad tháng 6 năm 1985 (Tư liệu H.P.N.T) https://thuviensach.vn Nguyễn Thị Lợi, Bửu Ý, Lâm Thị Mỹ Dạ, Đinh Cường, Ngô Minh, Hoàng Phủ Ngọc Tường (ngồi) tại phòng tranh tưởng niệm nhân 100 ngày mất của Trịnh Công Sơn. (Ảnh: Hồ Vĩnh) Trịnh Công Sơn - Đinh Cường (Tư liệu Đ.C). https://thuviensach.vn Đáng buồn nhất là cái chết (Tử), đáng buồn khi người ta đụng đến nó. Triết học phương Tây cho rằng cái chết không thuộc về đời người: nó thuộc về vũ trụ, nó giống như bức tường trắng, trắng nhờ, phẳng lỳ vô nghĩa (J.P.Sartre, le Mur). Nhưng với phương Đông cái chết thuộc về đời người. Nó găm vào hữu thể. Nó giống như con sâu đục khoét trái cây và làm rỗng dần ruột trái cây. Vì mang sẵn mặc cảm “lâm bệnh”, nên theo Sơn nghĩ, con người ta có thể đi ra khỏi thế giới này lúc nào cũng được: Một lần nằm mơ tôi thấy tôi qua đời (Bên đời hiu quạnh) Một hôm buồn lên núi nằm xuống (Tự tình khúc) Thí dụ bây giờ tôi phải đi, tôi phải đi, tay chia ly cùng đời sống (Rơi lệ ru người) Dưới vành môi mọc từng nấm mộ (Có một dòng sông đã qua đời) Cái chết là tất yếu, là bất khả kháng đối với con người. Hình ảnh cái chết, được lặp lại muôn nghìn lần, đã khiến cho âm nhạc Trịnh Công Sơn mang những lời tiên đoán xui xẻo, và một màu nâu xám buồn bã và mê hoặc. Cho đến trước năm 1975, Trịnh Công Sơn đã xây dựng xong toàn bộ một thế giới với bốn yếu tố nguyên thủy của nhà Phật là Sinh, Lão, Bệnh, Tử đều có tính hư 29 https://thuviensach.vn vô. Nhưng Trịnh Công Sơn đã tìm cách hóa giải chúng, bằng cách sử dụng một báu vật của tâm hồn, nửa ảo nửa thật rất lạ: Sống trong đời sống cần có một tấm lòng. (Để gió cuốn đi) Chính đó là cái tâm. Cái tâm thì không tìm kiếm cái gì cho mình, “Cái tâm” chỉ giống như tấm chiếu, để trải ra cho thiên hạ ngồi lên. Sách Phật có nói rằng lòng tốt ở đời giúp được con người, như một đôi hài cỏ, chỉ giúp người đi qua một độ đường. Nghĩ cho cùng thì nhiều bài hát của Trịnh Công Sơn như bài: Ở trọ, Đóa hoa vô thường, Một cõi đi về đều viết về đề tài mang hơi hướng nhà Phật. Truyện Phật kể rằng ngày xưa, có một con thằn lằn chọn nghiệp. Biết mình sắp viên tịch, vị sư già quyết định đọc một biến kinh sau cùng của đời mình để bày tỏ lòng ăn năn hối cải. Nhưng biến kinh của ông đã không bao giờ thực hiện được vì khi sắp hết bài thì ngọn đèn chợt tắt, và câm bặt hết ánh sáng. Một con thằn lằn đã bò theo mặt bàn, lên đĩa đèn và uống cạn dầu. Khám phá ra con thằn lằn, vị sư già mắng nó là “nghiệt súc”, và cầm dùi chuông đánh chết nó. Linh hồn con thằn lằn bay về địa ngục. Vua Diêm Vương bèn báo nó cho biết là nó được tự do lựa chọn cách hóa thân. Con thằn lằn khấn nguyện rằng xin đem 30 https://thuviensach.vn nó đến đài hoàn vũ và thiêu hủy thân thể nó thành tro bụi, và mỗi hạt bụi được tung ra ở một phương trời, sẽ hóa thành một tia sáng, soi rọi vào chốn mê lầm của con người. Thuở thiếu niên, gia đình đã qui y cho Sơn ở một ngôi chùa nhỏ; ở đó thỉnh thoảng Trịnh Công Sơn phải đứng bên vị sư già để lật từng trang kinh cho sư phụ đọc. Con thằn lằn đã chọn nghiệp từ thuở ấy. 31 https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn CHƯƠNG HAI Tuổi đá buồn https://thuviensach.vn Tuổi đá buồn Tôi học cùng với Trịnh Công Sơn, ngồi cạnh Sơn cùng một bàn ở lớp nhất Trường tiểu học Trần Quốc Toản. Sau đó mỗi người rẽ một ngả, tôi tiếp học bậc trung học ở trường Khải Định (lúc này cấp II của trường Khải Định đóng trụ sở ở trường Việt Anh) còn Sơn thì đổi sang học những trường Pháp ở Huế, Đà Nẵng và Sài Gòn. Hồi ấy chúng tôi có giờ âm nhạc hàng tuần với thầy Ngô Ganh và thỉnh thoảng chúng tôi lại xếp hàng hai đi theo thầy vào học ở hồ Tịnh Tâm. Ở đó chúng tôi ngồi bệt trên nền xi măng, còn thầy thì ngồi ở vị trí tâm của vòng tròn do chúng tôi tạo thành. Chúng tôi vừa vỗ tay đệm nhịp, vừa hát những bài hát thiếu nhi do thầy hoặc những nhạc sĩ khác ở Huế sáng tác. Tôi luôn luôn xếp hàng đi bên cạnh hoặc ngồi học nhạc ở hồ Tịnh Tâm kế bên Trịnh Công Sơn. Chắc là 34 https://thuviensach.vn thầy Ngô Ganh không thể ngờ rằng cậu bé có chiếc răng khểnh và được thầy vỡ lòng bằng những bài hát thiếu nhi đương thời như Trăng đóm đèn hoặc Chuột cắp trứng năm ấy, bây giờ lại là một nhạc sĩ tài danh, với một sự nghiệp lừng lẫy, tên gọi Trịnh Công Sơn. Trong cuộc đời nhạc sĩ của mình, theo tôi biết, thì Trịnh Công Sơn cũng viết một ít cho thiếu nhi, nhất là vào giai đoạn cuối và vào thời đi dạy học ở Blao về Huế nghỉ hè. Vào khoảng những năm 64–65, Trịnh Công Sơn có hát cho tôi nghe trong một quán cà phê ở Thành Nội bài hát Ông tiên vui. Tôi vẫn còn nhớ những câu cuối của bài hát ấy: “Ông tiên vui ông thường hay nói dối - chôn thiên đình không có tháng ngày trôi...” Không phải Sơn không quan tâm đến thiếu nhi, ngược lại là khác, mà vì tâm trạng của Sơn đã quá “già” so với tuổi thơ ngây của các cháu. Tất cả sự nghiệp của Sơn chủ yếu là dành cho lứa tuổi thanh niên, trĩu nặng ưu tư, về chiến tranh, thân phận và tình yêu. Huế trong những năm tháng đầu thập kỷ 60 thế kỷ XX đang rạo rực một cơn chuyển mình để thoát ra khỏi những rêu phong của một thành phố cố đô. Trường Mỹ thuật Huế, chung cho cả miền Trung vừa mới được thành lập, với một thế hệ những giáo sư trẻ được mời về từ Pháp. Họ mang theo tư tưởng mới tinh khôi của hội họa phương Tây thời hậu chiến. Vì thích cái mới của nó trong hội họa, nhiều thanh niên đã rời bỏ Trường Mỹ thuật Gia Định (mà các vị giáo sư đều tài giỏi, nhưng 35 https://thuviensach.vn thuộc tầng lớp lớn tuổi, vẫn tiếp tục hướng hội họa cũ), một sinh viên đã từ Nam ra Huế “tìm cái mới”, và đã từng đoạt giải thưởng quốc tế về nghệ thuật mới (art moderne) là họa sĩ Đinh Cường, bạn thân của Trịnh Công Sơn. Chính Cường đã nối lại liên lạc của tôi và Sơn sau những năm tháng biệt tin nhau, hồi bấy giờ tôi đang dạy học ở Huế. Viện Đại học Huế cũng vừa mới được thành lập năm 1957 cung cấp cho thành phố một lực lượng trí thức trẻ là những sinh viên. Chính họ là những tín đồ của triết học hiện sinh lúc bấy giờ cũng đang thịnh hành ở châu Âu, mà hai nghệ sĩ tiêu biểu rất được Huế sùng thượng, J.P.Sartre và A.Camus. Có thể nói rằng thanh niên ở Huế đã tạm dẹp những sách vở Nho giáo của một thời, để say mê đọc hiện sinh, với hai cuốn La Nasée của J.P.Sartre và l’Étranger của A.Camus. Tuổi trẻ Huế cũng đang mê mải phổ biến nhạc thánh ca da đen với điệu blue quen thuộc và thoang thoảng một chút buồn của những số phận nô lệ, cũng đến từ Pháp hoặc Mỹ qua những đĩa hát và những ca sĩ lừng danh như Dalida. Đến lượt Huế, thanh niên cũng lại thích nhạc Rock kiểu Pháp, nghĩa là không có đập phá và thác loạn, chỉ một thoáng ngậm ngùi. Thật ra Huế như là một thành phố vệ tinh của Paris, vì cả hai cùng đọc một cuốn sách, cùng hát một bài hát. Có lẽ cũng cần lưu ý thêm một điều nữa, rằng dành cho việc giải trí của thanh niên lúc bấy giờ, thanh niên Huế cũng không có gì ngoài những 36 https://thuviensach.vn quán cà phê và những rạp chiếu bóng. Môn chiếu bóng và những tên tuổi gạo cội của Hollywood như Robert Taylor, Clark Gable, Montgomery Clipt, Gregory Peck, Maryline Monroe, Elizabeth Taylor..., và những không gian lớn của miền Viễn tây Hoa Kỳ đã cuốn hút và làm thay đổi khiếu thẩm mỹ của thanh niên Huế. Nhất là về sau này xuất hiện một nhân vật với vẻ mặt khắc khổ, dửng dưng với mọi thứ hạnh phúc ở đời, và với một đôi giày lù xù, đi hoang khắp nơi không cần biết là mình sẽ đi tới đâu, nhân vật ấy tên là James Dean - “Không gian lớn” luôn luôn để lại dấu ấn rất dễ nhận trong hội họa của Đinh Cường; còn vị “anh hùng của sự cô đơn” James Dean trở thành một “mô hình” của thân phận con người rất được yêu mến bởi Trịnh Công Sơn, được anh treo tấm ảnh lớn ở cầu thang. Không thể nào tìm thấy một niềm hạnh phúc trên đời, ngay cả trong tình yêu. Chủ nghĩa hiện sinh hàm chứa một tư tưởng khổ hạnh về mặt đạo đức. Điều ấy có nghĩa là dù thế nào chăng nữa, thì người ta cũng phải sống một cách xứng đáng hơn, và có lẽ vì vậy, người ta thêm vào đó hai chữ “phi lý” và “trách nhiệm”. Không có cái gì đáng gọi là hợp lý cả, nhưng con người muốn sống xứng đáng thì phải “đoạt lấy trách nhiệm”. Điều này tỏ ra thích hợp hoàn toàn với Trịnh Công Sơn, và những bạn bè thân thiết của anh. “Phi lý” là cái lõi tư tưởng của nhân sinh quan của họ Trịnh cùng với các bạn của anh là Đinh Cường và Bửu Ý. Trong khi “trách 37 https://thuviensach.vn nhiệm” là nguyên lý ứng xử của nhà thơ Ngô Kha và Hoàng Phủ Ngọc Tường; cả bốn người này luôn luôn gắn bó với nhau trong một không khí gọi là “văn nghệ Huế”. Ngoài những sự thay đổi ngấm ngầm ấy thì đường phố Huế đầy dẫy xe tang nhà binh, và những đám đông của sinh viên xuống đường đòi chấm dứt chiến tranh. Chính trên bối cảnh gay gắt đó, Trịnh Công Sơn đã bước lên sân khấu của lịch sử âm nhạc Việt Nam, và tạo nên một tên tuổi chói lọi. 38 https://thuviensach.vn Như con sông từ nguồn ra biển I. Buổi chiều đến trạm sớm, tôi ra ngoài bờ sông A-mong ngồi duỗi chân trên một tảng đá lớn dựa lưng vào một cành rì rì sum sê. Sau nhiều năm bặt tin đầy lo lắng về Giao, thật tôi không ngờ được thấy lại hình ảnh của Giao, trong bộ ảnh về phong trào Huế bày trong phòng triển lãm của Đại hội chiến sĩ thi đua toàn khu Trị - Thiên. Trong một tấm ảnh khá lớn, tôi nhìn rõ Giao đang hát trong một đêm văn nghệ “Hát cho đồng bào tôi nghe” của sinh viên Huế. Vòm miệng mở rộng vẽ thành những nét gân guốc trên mặt, hai bàn tay ngửa xoè ra phía trước, hình như Giao đang cố hát thật to và khỏe. Cái dáng đứng hát đó là một nét mới ở con người Giao, 39 https://thuviensach.vn trước kia Giao chỉ hát một mình hoặc cho một người khác nghe, thường là một cô gái. Ngoài ra, trông Giao chẳng thay đổi gì mấy, vẫn mớ tóc dài, lười cắt cứ để mọc tự nhiên trên đầu như cỏ hoang, vẫn cặp kính trắng to choán gần hết nửa dưới của khuôn mặt xương, khắc khổ. Chiếc trán rộng và trầm lặng của Giao hói nhiều thêm, khiến Giao có vẻ già đi hơn là tôi tưởng. Có lẽ sau khi tôi đi rồi, Giao vẫn sống một mình ở cái thị trấn cao nguyên heo hút ấy một thời gian khá lâu, và tóc Giao đã rụng nhiều. Những năm đó, Giao dạy học ở một ngôi trường ấp chiến lược nhỏ cách thị trấn Bảo chừng nửa giờ đi bộ, băng qua mấy ngọn đồi trồng chè. Nói là trường nhưng thực thì chỉ có ba lớp, học trò hầu hết là con lính ngụy và lũ trẻ người Thượng bị dồn vào khu tập trung, bẩn thỉu, ghẻ lác đầy mình. Phần nhiều đám trẻ con không có áo mưa, đi học gặp cơn giông, vào lớp quần áo bốc hơi nghi ngút làm cho phòng học đục lờ nhờ, hôi hám đến ngạt thở. Trường không có lao công coi giữ, khóa cửa lại hỏng, nên cứ chiều chủ nhật, bọn lính bảo an đóng gần đấy kéo vào lớp đánh bạc rồi phóng uế tràn lên bàn ghế, có khi bừa cả vào hộc bàn thầy giáo. Giao sống mệt mỏi trong thị trấn nhỏ miền núi ấy, với cái ấn tượng nặng nề về cuộc sống mà trong thư gửi cho bạn bè, Giao vẫn thường gọi là “một cơn đau vùi”. Thỉnh thoảng quá nản, Giao bỏ đi xa, gửi lớp lại nhờ một ông giáo già dạy hộ. 40 https://thuviensach.vn (Ông giáo này xa gia đình, mỗi ngày chỉ dạy một buổi, ở nhà không làm gì cũng buồn nên vui vẻ nhận coi lớp giúp Giao). Giao về Sài Gòn, ký giao kèo bán bài hát cho vài hãng đĩa, lấy tiền cùng với lũ bạn bè đàn đúm ở quán cà phê La Pagode trong vài tuần lễ. Những ngày sống ồn ào đó hình như đã đem lại cho Giao một cảm giác quên lãng dễ chịu. Nhưng khi trở về căn phòng vắng lặng ở Bảo, nhớ lại khuôn mặt mình giữa cái đám đông cứ mỗi chiều lại ùn ùn xuất hiện trên vỉa hè Bô-na, lui tới, phơi bày, chen chúc nhau trong một cuộc luân lưu vô nghĩa, Giao bỗng thấy một cái gì đó ập vào mặt mình như một cơn ớn lạnh, và Giao đã viết thư cho tôi: “Từ đám người đó trở về, tao càng thấy mình sa sút thêm lên”. Mùa hè, Giao về sống với gia đình ở Huế. Năm bảy đứa chúng tôi lại tụ tập nhau trong phòng vẽ của Thụy ở bờ sông Bến Ngự. Buổi tối, Giao thường ngồi với chiếc Tây ban cầm trong một góc mờ, ánh nến hắt lên đôi mắt kính của Giao, trông Giao như một người mù. Giao hát cho chúng tôi nghe những bài hát mới viết xong. Đó là những điệu blue thực buồn, chất đầy những ý nghĩ ảm đạm của Giao về quê hương và chiến tranh, tuổi trẻ và tình yêu, thường phảng phất hình ảnh của những đứa bạn trai của Giao đã chết, những người con gái còn lại một mình đã mất hết trí nhớ, đi lang thang trong cơn bão, gọi tên người yêu bằng hai tiếng Việt Nam... Một vài lần Ngô và tôi đã tranh luận với Giao về những bài hát phản chiến của Giao, và giữa chúng tôi đã xảy ra những 41 https://thuviensach.vn cuộc cãi vã vô ích. Giao gọi chúng tôi là “những tên thô bạo” muốn đem những lời hò hét ầm ĩ của những cuộc biểu tình ở ngoài đường nhồi nhét vào trong bài hát. Tôi đành im lặng, nghĩ rằng chưa thể thuyết phục Giao cái gì trong lúc này. Bởi vì tôi hiểu rằng, sau những ngày sum họp ngắn ngủi này, Giao sẽ một mình quay về trong căn phòng trống trải mà lá khô đã bay vào đầy giường ngủ và chim sẻ làm tổ trong ngăn tủ sách khi Giao đi vắng, để rồi những buổi tối chập choạng đi ăn cơm quán về giữa thị trấn tràn ngập những bầy bò rung hạt chuông leng keng hòa lẫn với tiếng chuông nhà thờ chiêu hồn những người lính chết trận trở về mỗi ngày, và rồi Giao sẽ còn bám lấy cái chức vụ “trưởng giáo” ở ngôi trường ấp chiến lược khốn khổ nọ không biết đến bao lâu nữa để đối lấy tấm giấy hoãn dịch cho từng khóa Thủ Đức. Nhưng tôi vẫn định bụng sẽ nói hết với Giao những điều tôi không đồng ý với Giao trong cách nhìn cuộc chiến tranh này, vào một lần nào đó thực cần thiết, dù có vì thế mà giữa chúng tôi xảy ra đổ vỡ gì đi nữa. Trước ngày tôi quyết định thoát ly khỏi thành phố, vì có việc cần phải thu xếp ở Sài Gòn, tôi ngược lên Bảo tìm Giao. Bây giờ thì trong năm đứa chúng tôi đã thiếu mất một: Tuân nhận được giấy gọi lính, đã bỏ dạy ở trường Mỹ thuật vào sống cù bơ cù bất ở Sài Gòn để trốn lính và đã bị bắt. Tôi đến nhà Giao lúc chập tối. Cửa chỉ khép hờ, căn phòng tối mờ, lặng lẽ. Thấy có dáng người trùm chăn 42 https://thuviensach.vn nằm trên giường, tôi ngỡ là Giao bịnh, se sẻ đến bên lật chăn ra sờ tìm trán Giao. Dưới chiếc chăn vải mỏng, chỉ có cây đàn của Giao để lại, mặt gỗ lạnh ngắt. Tôi chợt nhớ ra cái thói quen lười biếng này của Giao. Vì ngại khóa cửa, nên mỗi lúc ra ngoài Giao thường trùm chăn lên chiếc đàn giả vờ làm người ốm để đánh lừa kẻ gian vào nhà. Tôi ra phố tìm Giao và gặp Giao ở quán cà phê đầu phố. Quán vắng, Giao ngồi tựa vào tường, duỗi chân gác lên chiếc ghế trống phía trước, vô hình như đang nói chuyện gẫu với người chủ quán. Người này là một lính Pháp cũ, bị cụt một tay, sau chiến tranh Đông Dương không hiểu sao không muốn về nước, ở lại Bảo mở một quán điểm tâm nhỏ nom cũng nghèo khổ như lão, với cái tên Pháp nghe buồn cười là quán “Lơ Caporal”*. Ngoài ông giáo già dạy cùng trường, lão chủ quán này là người bạn còn lại duy nhất của Giao ở thị trấn này. Thấy tôi đến bất ngờ, Giao mừng cuống quít, ôm lấy tôi: - Mày lên, mày lên đấy à? Quý quá! Tao đang buồn đây. - Tưởng có chi lạ. Mày thì có khi nào vui đâu! Giao cười to, hồn nhiên như trẻ thơ. Chúng tôi ăn tối ở quán và về nhà. Chúng tôi ngồi hút thuốc với nhau * Viên hạ sĩ. 43 https://thuviensach.vn trong căn phòng sáng đục ánh trăng của một đêm sương mù. Giao đánh đàn hát cho tôi nghe một bài hát chống chiến tranh vừa mới viết xong buổi chiều. - Mày nghe thế nào? - Buồn quá mày ạ. - Bài này tao viết cho thằng Tuân. Mày nói đúng. Buồn đến chảy nước mắt. Giao ngừng một lát, rồi nói, giọng ngập ngừng: - Nhiều khi tao đã cố viết cho vui lên một chút. Nhưng rồi bỏ, hát lên nghe nó nhạt nhẽo không chịu được. Thời đại này, tao chịu, không làm nổi một bài hát vui. Đêm ở Bảo thực im lặng, cái im lặng bất thường càng làm cho không khí chiến tranh dễ nhận ra hơn. Trong thị trấn cao nguyên nằm rải theo quốc lộ số 20 này, từ sáu giờ chiều trở đi, các loại xe đều ngừng chạy. Cổng hai đầu phố khóa chặt, và xe quân sự cũng không dám mò mẫm ra ngoài trên trục đường giao thông nguy hiểm này. Mùi nhựa thông thơm nồng từ những cánh rừng chung quanh bay vào đầy phòng, và không khí lạnh dịu của ban đêm làm cho tôi thấy người tỉnh táo dễ chịu sau một chuyến đi dài bằng xe đò* khá vất vả. Giao chợt vỗ nhẹ vào tai tôi: - Mày im nghe. Nó đã đến đấy. * Xe khách 44 https://thuviensach.vn Tôi ngạc nhiên: - Ai? - Nó, Oiseau de guerre*. Đêm nào nó cũng đến vào giờ này, đậu trên cây thông trước cửa sổ kia, kêu một lát rồi bay đi. Nó là người bạn nhỏ duy nhất của tao ở đây. Tôi lắng tai nghe. Từ bóng tối của rặng thông trước nhà, con chim nào đang hót. Tiếng chim rất trong và vang xa, cứ nhịp đều bảy tiếng, ba tiếng đầu rời rạc và những tiếng sau vội vàng gần nhau như cố kết thúc cho kịp hơi kêu ngắn ngủi, làm cho tôi nghĩ đến một đứa bé đứng thổi còi trong sương, vui đùa một mình bằng một điệu còi đã thuộc. Tôi hỏi Giao: - Tại sao cậu lại gọi nó là “con chim chiến tranh”? - Dân Pháp gọi nó như vậy. Lão chủ quán Lơ Caporal kể cho tao nghe chuyện con chim đó. Nó kêu khắp làng quê nước Pháp suốt thời chiến tranh. Dân miền Normandie quê lão nhại tiếng chim là “Père, mère, frères, tout est perdu”**. Giao rít chiếc tẩu một hơi dài, nhả khói mù mịt trong ánh trăng màu sữa lạnh chiếu qua ô cửa sổ, giọng nghe thật xa vắng: - Có lẽ sau chiến tranh thế giới, loài chim đó đã bay sang Việt Nam. * Con chim chiến tranh. **Cha, mẹ, anh, em... mọi người đều đã chết. 45 https://thuviensach.vn Tôi thấy đã đến lúc có thể bắt đầu câu chuyện. Tôi nói với Giao về vụ máy bay Mỹ vừa ném bom vào một trường tiểu học ở ngoại ô Đà Nẵng giết chết hơn sáu chục em học trò nhỏ lẫn thầy và cô giáo, về tính chất phản chiến giả dối của phong trào “tâm ca” đang thịnh hành và về vị trí chúng tôi phải lựa chọn trong cuộc chiến này, cuộc chiến tranh mà từ lâu nay đôi mắt u buồn và mơ mộng của Giao chỉ nhìn thấy như một mớ khói lửa hỗn loạn, khủng khiếp và không có nghĩa lý. - Lâu nay những người hòa bình vẫn có thói quen dùng mấy tiếng “chiến tranh - Việt Nam, với những từ ngữ như là phi nhân, phi lý, không có ranh giới, vân vân”. Tao nhắc mấy chữ đó trong ngoặc kép. Làm như thể chiến tranh Việt Nam là một cái gì nhất thể, liền một khối. Đúng ra thì trên đất nước chúng ta đang diễn ra hai cuộc chiến tranh khác nhau: chiến tranh xâm lược của bọn Mỹ và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của người Việt. Mày đồng ý với tao về điều ấy chứ? Không có ranh giới, đó là nói về mặt kỹ thuật quân sự. Còn về mặt chính trị, lịch sử của nó, cũng như trong tâm hồn của người Việt chúng ta, cái ranh giới đó phân biệt rõ ràng lắm. Một bên là kẻ thù ngoại xâm, một bên là đất đai cha ông, máu thịt của mình. Một cuộc chiến tranh chúng ta phải dập tắt, một cuộc chiến tranh khác chúng ta lại có nghĩa vụ phải làm đến cùng. Vậy mà lâu nay chúng ta đã chống chiến tranh theo cách vơ đũa cả nắm, như kiểu chúng ta vứt bỏ một đôi giày, cả chiếc bên phải lẫn chiếc bên trái, chỉ vì một trong hai chiếc của nó bẩn 46 https://thuviensach.vn thỉu, làm đau chân. Và chúng ta hợm hĩnh gọi đó là một thái độ. Sự thực thì chúng ta chưa có thái độ gì hết, nếu tao không nói là một thái độ đồng lõa với giặc. Giao, mày nghĩ lại xem, chính mày đã lựa chọn cái gì trong những bài hát phản chiến của mày? Giao nói bằng giọng mệt mỏi trong hai bàn tay úp lên mặt. - Lựa chọn à? Tuần trước, tao phải đến tận cái nhà thờ ở đầu phố để hát Réquiem* cho thằng Hoan. Thằng Hoan, trời ơi, mày nhớ cái thằng hiền khô, tánh nết con gái nhà lành, cùng học một khóa Sư phạm Quy Nhơn với tao đó chớ? Tôi lớn lên bằng tuổi chiến tranh, chưa bao giờ biết mặt người yêu... Nó làm thơ như thế, và chết hai hôm sau ở Đắc Sút. Đúng là đời nó chưa kịp biết cầm tay của một đứa con gái. Tháng trước về Sài Gòn qua Định Quán, tao thấy xác của một cô du kích bị bọn hắn phơi nắng trên một tảng đá, hai tay buông thõng xuống mặt đường. Khi xe đi sát qua tảng đá, trời ơi, mày thử tưởng tượng nó kinh khủng đến chừng nào. Tao thấy rõ hai bàn tay trắng muốt làm tao nghĩ đến một bàn tay nào đó mà trong đời thằng Hoan nó chưa kịp cầm lấy một lần. - ... - Mỗi ngày đi dạy, tao phải đi qua bãi tha ma. Hôm nào cũng thấy mọc thêm hai ba cái mộ mới. Quạ nhung * Réquiem: Bài thánh ca vĩnh biệt người chết. 47 https://thuviensach.vn nhúc, động tiếng người bay lên như mây đen. Đêm tiếng chuông nhà thờ làm tao mất ngủ. Lão chủ quán Lơ Caporal bảo tao đếm cừu để gọi giấc ngủ. Tao nhắm mắt, tưởng tượng ra một đàn cừu và đếm. Một, hai, ba... một trăm... hai trăm... Nhưng một lát sau, đàn cừu lại biến thành những bầy quạ đen ngòm cả giấc ngủ của tao. Thế là tao phải dậy, khoác áo choàng đi ra phố lang thang đến sáng. Giao nói trong một tiếng thở dài: - Chết chóc tràn ngập lên cả, làm tao mất phương hướng. Lựa chọn cái gì? Tao xin chịu. Tôi đứng dậy, lắc mạnh vai Giao: - Giao! Ai đẩy thằng Hoan đến chỗ chết? Ai, nếu không phải là bọn Mỹ? Còn cô du kích kia... Tao nghĩ là mày phải cất mũ chào cái chết ấy. Ít ra, mày cũng phải thấy rằng cô gái đó đã hy sinh cho một cái gì đó có ý nghĩa chứ... Chính đó là cái mà những người sống phải tiếp tục... Giao ngắt lời tôi: - Biết ai là người còn sống? - Mày còn sống, tao còn sống, những người Việt Nam khác còn sống. Giao hé màn cửa sổ, nhìn ra ngoài. Phía bên kia vườn, một ô cửa sổ còn sáng ánh đèn. Giao đưa ngón tay lên miệng, khẽ suỵt: 48 https://thuviensach.vn - Bên kia là nhà thằng an ninh quân đội đấy! Giao nói tiếp, giọng trở nên cay đắng lạ thường: - Còn mày, mày làm gì? Mày đi biểu tình năm này qua năm khác, người khô rạc đi như một con mắm. Để rồi được cái gì? Thằng Lâm em mày nhịn đói mất gần hai chục kí-lô rốt cuộc cũng bị nó kéo cổ về Thủ Đức. Thằng Tuấn trốn chui trốn nhủi như chuột trên mấy cái gác xép ở Bàn Cờ rốt cuộc cũng bị đày đi làm lao công chiến trường ngoài đường Chín. Cả những thằng tai to mặt lớn trước kia cũng đi biểu tình, tuyệt thực với mày rốt cuộc cũng chui vào nội các chiến tranh rồi quay lại dọa tống cổ mày vào tù. Cái gì cũng có cái rốt như thế cả. Chỉ có chiến tranh là còn mãi. Giao ngừng lại một lúc, nói tiếp: - Ngọc à, tao hiểu mày là một kẻ có lòng, và vì thế trong đám bạn bè, tao vẫn nể mày hơn cả. Nhưng nói thực, tao rất ít tin ở hiệu quả những việc làm của mày. - Đừng bi quan quá, Giao à. Chiến tranh còn kéo dài chính là bởi có những người như tao, như mày, chưa làm hết sức mình để đuổi bọn Mỹ ra khỏi nước. Tổ quốc sẽ định đoạt vận mệnh của chúng ta. Nhưng ngược lại, mỗi hành động có ích của chúng ta cũng góp phần định đoạt vận mệnh của Tổ quốc. Tôi cầm lấy tay Giao, tha thiết: - Giao, chúng mình đã làm gì cho đất nước? Buồn khóc hết cả tuổi trẻ này được sao? 49 https://thuviensach.vn Sáng hôm sau thức dậy, tôi thấy Giao đã dậy sớm, chăm chú ngắm một bức tranh treo trước bàn viết. Đó là một tấm sơn dầu của Thụy mới gửi cho ngày sinh nhật của Giao. Bức tranh vẽ một mặt biển nổi sóng dữ dội, trên đó, như mọc lên từ đáy biển, một bàn tay rất đẹp cầm một đóa hoa hồng đỏ thắm. Từ ngoài xa, một cánh hải âu đang trong tư thế vượt qua gió bão để bay đến chiếc hoa hồng. Vẻ mỏi mệt đêm qua hình như đã biến mất trên mặt Giao sau một đêm ngủ ngon. Giao bảo tôi: - Bức Nụ Hồng Đời này của Thụy đạt chứ, mày? - Đẹp đấy. - Dù sao... Như con chim kia, tao cũng cần phải tin một cái gì ở cuộc sống. Bộ mày cho rằng tao chỉ biết “Buồn ơi, chào mi”* thôi à? Giao bỗng cười vang, giọng cười khỏe khoắn, hồn nhiên mà thỉnh thoảng tôi lại bắt gặp ở Giao, mỗi khi có một nguồn vui chợt đến. Hai hôm sau, tôi trở về Huế. Lúc chia tay Giao tôi nhắc lại một câu trong bài hát mới của Giao, và nói: - Tao mừng thấy có hình ảnh mặt trời lại mọc trong bài hát của mày. Hãy gảy đàn lên thật khỏe, biến những bài hát của mày thành những bài ca chào đón mặt trời, và gửi tiếng hát của mày đến cho bạn bè trong cuộc chiến đấu. Nhớ rằng rồi đây từ một nơi xa nào đó, tao vẫn chờ nghe tiếng hát của mày, Giao ạ. * Tên một tác phẩm thời thượng của nữ văn sĩ Pháp Francoise Sagan (BTV).50 https://thuviensach.vn Giao bối rối: - Ngọc. Mày định đi đâu? - Tạm xa chúng mày ít lâu. Hết chiến tranh tao sẽ về. Tôi chỉ kịp nhìn nụ cười thoáng nở và đôi mắt hoe đỏ trên mặt Giao, ôm hôn Giao rồi đi vội ra đường băng. Khi máy bay nghiêng cánh, nhìn xuống sân bay Liên Khàng, tôi thấy bóng Giao cùng với đồi núi nghiêng hẳn đi, như thể Giao đang đi ngược lên một cái dốc. Tôi nghĩ thầm chính Giao đang đi trên triền dốc chênh vênh của tuổi trẻ của Giao. Chưa bao giờ như lúc ấy, tôi tha thiết ước mong Giao đừng ngã nửa chừng để vượt qua con dốc nguy hiểm ấy. Đó là hình ảnh cuối cùng của Giao tôi mang theo lúc rời thành phố Huế vài hôm sau đó. Đến nay đã gần bốn năm. II. Mùa nắng, những buổi chiều miền Tây bao giờ cũng có màu xanh huyền ảo như màu của những giấc mơ. Trước mắt tôi, trên những rặng núi xa, màu lá cây già ban ngày đã biến đi, núi non trầm xuống trong màu khói đá xanh thẫm. Chiều yên tĩnh không có tiếng máy bay. Những sườn núi ven sông A-mong chi chít những đám rẫy với nhiều màu sắc: rẫy khô chưa đốt màu vàng cháy, rẫy già vừa dọn xong màu đất đỏ ửng, lúa ba trăng 51 https://thuviensach.vn dậy thì lượn sóng xanh mơn mởn bên cạnh những rẫy ngô trổ cờ màu lục tươi lấp loáng ánh nắng, gợi nhớ đồng bằng và trên những đám rẫy khác, lá sắn mì và sắn trắng in thành những đám xanh đậm nhạt chồng lên nhau, trông như những mái nhà rêu phong lỗ chỗ những vạt ngói mới. Dưới chân những nương rẫy bạt ngàn đó, như những tấm thảm màu vô tận trải thành những ô hình vuông, hình tam giác hoặc hình vòng cung trên mặt nghiêng của vách núi, sông A-mong như một dòng trường ca rầm rộ đổ về đồng bằng. Bờ sông chỗ tôi ngồi là một bãi đá liền rộng chạy dài hẳn đến hàng cây số. Nước lũ đã đục xói mặt đá thành những lớp sóng lô xô nối liền nhau đến mút tầm mắt, lưng sóng tròn nhẵn và đầu sóng nhọn vút đổ theo một chiều, giữ nguyên trên mặt đá hình ảnh hùng dũng của con sông A-mong đã tràn qua đó trong mùa thác lũ. Dọc theo bờ sông, loài cây rì rì mọc san sát, rậm rịt, cành và lá nhỏ nhắn như cây trúc đào, rễ tỏa ra ôm chặt những tảng đá vững chãi, hình như còn toát ra sức chống chọi mãnh liệt của loài cây này để đứng vững trong mùa nước lũ dữ dội. Bây giờ đang là tháng tư, nước sông A-mong chảy hiền, và rặng rì rì lao xao gió nồm, lá cây lay động lấp lánh như ngàn triệu con mắt lá răm sáng trưng nắng hè, hoa rì rì năm cánh nở từng chùm đỏ ngun ngút như hoa phượng ở thành phố. Trong chuyến công tác dài ngày vừa qua, con đường mòn Bắc Sơn đã đưa tôi đi sâu lên những đất đai ở biên 52 https://thuviensach.vn giới phía tây thành phố Huế, đến tận những đỉnh núi có hai nguồn nước khác nhau, nguồn phía đông thì đổ dần về phá Tam Giang, nguồn phía tây thì lại chảy vào sông Mê-kông, ở đó có những người chủ bản làng mà hồi trước, ngụy quyền Diệm đã gán đại cho cái chức gọi là “Chánh tổng ngọn nước Lào”. Tôi gọi đó là chuyến hành hương của tôi về Đất Nguồn. Tôi gặp những con người đã nổi lên những ngọn lửa đầu tiên của cuộc chiến đấu trên đất này như A Vai, Kan Lịch... Tôi bắt gặp cả những chiếc nón bài thơ mảnh khảnh bọc ni-lông giữ gìn cẩn thận từ năm này qua năm khác, mà lâu lâu, người chủ của nó lại đem ra soi bên bếp lửa đánh vần từng chữ: “Đường về xứ Huế xinh xinh, sông Hương núi Ngự cảm tình xiết bao”... Không phải chỉ có chừng ấy. Ở một vài bản giáp giới vùng Hạ Lào, tôi đã được nghe những người già kể lại chuyện cha ông họ đi theo Hàm Nghi đánh Tây. Họ nói rằng đến nay, gia đình họ còn giữ tờ chiếu đánh Tây của Hàm Nghi và cả chiếc áo rồng năm móng mà nhà vua đã ban cho dân bản để đền ơn tiếp tế trâu heo cho nghĩa quân. Nhiều người khác, có lẽ là con cháu của nghĩa quân Hàm Nghi, kể cho tôi nghe những sự tích đã pha đầy màu sắc thần thoại về gốc gác tổ tiên họ, với những tên đất xa thẳm trong trí nhớ của họ như An Cựu, Dương Xuân... mà bây giờ họ chỉ biết mang máng “đâu ở dưới cửa sông”. Những người già kể rằng một lần đã lâu lắm, “hồi đầu phong trào”, có cán bộ Cụ Hồ lên phát động vùng này. Dân bản không biết Cụ Hồ là ai. Người già hỏi: “Cụ Hồ có phải phe Hàm 53 https://thuviensach.vn Nghi không?” Nghe cán bộ nói: “Cụ Hồ cũng đánh Tây như Hàm Nghi”, thế là dân cả vùng nổi dậy theo Cụ Hồ đánh Tây, làm cách mạng và đánh Mỹ cho đến bây giờ. Có thể nào tưởng tượng nổi rằng trong một đêm, bên ánh lửa bập bùng của một bản làng heo hút như một chiếc tổ chim trên nóc nhà của Tổ quốc ấy, giữa tiếng hát và điệu múa của những khúc “xoa rơ” cổ truyền, tôi đã bắt gặp không khí sử thi hùng tráng của ngày “thất thủ kinh đô”. Miền Tây đã đem lại cho tôi những điều khám phá mới mẻ về thành phố của tôi. Tôi thấy Huế rộng lớn lạ lùng, không phải chỉ rộng lớn trong giới hạn về địa lý, mà chính trong những liên hệ lịch sử đã ràng buộc nó với Đất Nguồn, những mối liên hệ máu thịt tươi rói giống như những dây chằng buộc bào thai vào bụng mẹ và đã quyết định sự sống còn và lớn dậy của chính bản thân đứa bé. Những năm dài đã trôi qua trong tuổi trẻ của chúng tôi trước khi tiếng súng giải phóng của dân tộc vang động vào thành phố để đánh thức chúng tôi trước cuộc chuyển mình của đất nước. Trong không khí yên ổn tạm bợ của những thành phố, bọn tôi đã là nạn nhân của một trạng thái tâm lý kỳ quặc mà sau này vượt qua, tôi đã gọi nó là một thứ “trò chơi thần kinh”. Tôi cố thu nhỏ mình lại trong một cuộc sống khổ hạnh để cắm đầu trên những trang sách đầy nỗi lo âu về cái chết, mặc dù tôi vẫn sống yên ổn, cái chết chưa hề đe dọa gì đến tôi cả. Thụy thức từng đêm trước khung vải để tạo hình những mặt đất nứt nẻ của một thời hồng hoang 54 https://thuviensach.vn nào đó, những mặt đất mà Thụy nói một cách buồn bã rằng “phải mưa đến hàng triệu năm mới đủ ướt”. Ngô làm thơ về gỗ, đá, chim sẻ và những bầy ngựa hoang trong những giờ coi học sinh làm bài ở lớp, còn Giao thì cặm cúi viết những bài “thánh ca da vàng” cho một quê hương nào đó đã mất. Bọn tôi kiếm sống, làm việc và đàn đúm với nhau năm bảy đứa, để rồi thỉnh thoảng ngó nhau buồn ngẩn ngơ, không hiểu tất cả những cái đó để làm gì. Có đứa nào trong bọn tôi biết được rằng trên dãy núi xanh thẳm mà mình vẫn ngồi nhìn lặng lẽ những buổi chiều bão táp đã nổi, cách mạng đang gọi từng trái núi đứng dậy đi đánh giặc. Và Giao, gần hết cả tuổi trẻ mỏi mệt đuổi theo những tình yêu phù phiếm, có bao giờ Giao biết được rằng trên đỉnh núi đó có hai người yêu nhau đã rủ nhau đi phục kích sân bay A Lưới, bắn hạ một chiếc máy bay giặc để làm quà cưới nhau vào ngày mai? Những ý nghĩ đó quay tít trong đầu tôi. Dòng sông A-mong vẫn ầm ã chảy. Tôi thấy tự giận cho sự tối tăm của mình hồi ấy đã kéo dài một cách quá lố trước những điều lớn lao đang diễn ra trên đất nước. Một câu hỏi chợt bật trong đầu tôi, nghiêm nghị như một lời quở trách của chính dòng sông: - Tại sao không nhìn thấy những điều đó sớm hơn? Vâng, tôi tin rằng nếu chúng tôi biết được những điều đó sớm hơn thì sự lựa chọn của chúng tôi sẽ hết sức giản dị. Nhưng dù người ta không biết, hoặc đúng 55 https://thuviensach.vn hơn, chưa biết đến thì lịch sử cũng sẽ có những cánh tay vươn dài đến tận mỗi tâm hồn và gõ cửa. Miễn rằng người ta đừng nhắm mắt lại và đừng để cho trái tim tắt hết lửa trước cuộc sống. Những cơn mưa trên nguồn, dù rất xa, sẽ quyết định phương hướng của dòng sông ở cửa biển, và đất bồi của nó sẽ làm nảy sinh mùa màng của thảo mộc hai bên bờ. Tôi nghĩ thế. Một đêm mưa, bỗng nhiên Phương, một thằng bạn học cũ của tôi bặt tin đã lâu ngày, đã băng rừng vượt đồng về gõ cửa phòng đọc sách của tôi. Hai đứa nằm gác chân nhau tâm sự một đêm. Một đêm không ngủ, đã đổi khác cuộc đời tôi từ đó. Rồi lần lượt những bạn bè khác của tôi. Thụy đang hoạt động trong nhóm họa sĩ trẻ tiến bộ ở thành phố. Tôi nghe nói bức ranh Rừng sống của Thụy đã bị bọn chúng tịch thu trong một cuộc triển lãm, vì trên đó Thụy vẽ một ngàn cây xanh mà những vệt nắng đã tạo thành hình ảnh một rừng chông đứng thẳng san sát, và bọn tâm lý chiến đã nhìn thấy điều đó. Ngô đã bỏ nghề làm thơ siêu thực, dẫn đám học trò của mình đi tìm đốt xe Mỹ và nhét đá vào đầy túi quần để ném trả vào mặt bọn cảnh sát dã chiến ở ngoài đường phố. Trong cuộc triển lãm vừa rồi ở đại hội Khu, nhìn hình ảnh nổi dậy của sinh viên Huế giữa những hình ảnh khác của nhân dân miền Tây xây dựng hậu cứ và của các đơn vị quân giải phóng trong chiến dịch đánh điểm cao 935, tôi chợt thấy thú vị khi nhớ lại những câu thơ rất mới của Ngô: 56 https://thuviensach.vn Ngước mắt chung quanh, bốn phương đồng đội Anh em như thừng buộc chặt vào nhau* Còn Giao? Trong những năm qua, tôi không nhận được một tin tức nào về Giao. Có lẽ nào sự chuyển mình của bè bạn và cuộc sống sôi bỏng ở chính ngay thành phố đã không chữa khỏi “bịnh thần kinh” của Giao? Sự im lặng quá lâu của Giao đã làm cho tôi rất băn khoăn. Mãi cho đến vừa rồi gặp lại Phương công tác ở thành ra dự đại hội, tôi mới được biết những điều mới về Giao. Mấy hôm sau ngày thành phố nổi dậy trong mùa xuân Mậu Thân, máy bay Mỹ ầm ầm kéo đến ném bom vùng Giao ở. Cả nhà Giao sợ quá, chui cả xuống gầm phản, ôm mền, gối, xa lông chất bừa lên trên để làm “hầm” chống bom. Giữa lúc đó hai người lính giải phóng bỗng chạy vào nhà, cõng hai đứa em Giao chạy ra vườn, đẩy cả nhà xuống một chiếc công sự mà họ đã đào sẵn từ bao giờ ở mé vườn. Còn họ thì nép sau những gốc cây, vừa bắn chặn bọn địch ở phía bên kia sông, vừa đào hố ẩn nấp giữa những loạt bom khét lẹt của mấy chiếc phản lực. Sau trận đánh, một người bị thương nặng ở cánh tay. Người lính mang bông băng định bó vết thương, nhưng anh ta khoát tay nói bằng giọng như ra lệnh: - Đồng chí hãy đưa bà, mẹ và các em ra ngay khỏi vùng này. Để tôi tự lo liệu lấy! * Những câu trích trong bài này đều phỏng theo những bài đã xuất hiện trong phong trào đấu tranh của sinh viên - học sinh Huế. 57 https://thuviensach.vn Đó là lần đầu tiên gia đình Giao được hiểu về những người bộ đội “Việt cộng”. Những ngày sau đó, bom đạn ác liệt khắp nơi, gia đình Giao phải sơ tán về vùng quê ở Phú Vang. Khi Giao trở lại thành phố, thì Huế đã đổ nát. Người yêu Giao đã mất tích, có người nói cô bị bọn Mỹ từ phía sau Phú Cam bắn chết khi cùng một đám đông chạy qua cầu Bến Ngự, và chính mắt họ thấy xác cô trôi trên sông An Cựu. Còn nhiều bạn bè khác của Giao thì đã lên đường đi kháng chiến. Người ta thấy cái bóng lặng lẽ, đăm chiêu của Giao lang thang nhiều ngày qua những đống đổ nát của thành phố, và sau đó Giao vắng mặt hẳn, không biết đã đi đâu. Phương kể chuyện Giao cho tôi nghe và nói: - Hình như tất cả những gì xảy ra như thế đã thay đổi nếp suy nghĩ của Giao rất nhiều. Sau Tết Mậu Thân, cậu ta bỏ dạy ở Bảo, im lặng một thời gian khá lâu... Tôi theo dõi những tin tức về Giao mà Phương đã thu nhặt được qua các cơ sở ở nội thành bằng nỗi xúc động kỳ lạ mà có lẽ tôi chưa bao giờ cảm thấy trong tình bạn giữa tôi và Giao. Qua suốt câu chuyện kể của Phương, không hiểu sao tôi cứ thấy hiện ra cái dáng của Giao đang đi ngược dốc ở sân bay Liên Khàng mấy năm trước, rõ ràng và gần gũi đến nỗi có lúc tôi nhìn thấy Giao từ dưới chân đồi kia đang đi dần lên chỗ chúng tôi ngồi. Phương là một thằng bạn dày dạn kinh nghiệm trong cuộc lăn lộn với phong trào thành phố mà tôi phục hết mình; và tôi hiểu 58 https://thuviensach.vn rằng Phương cũng đã chăm chú theo dõi từng bước đi của Giao giống y như tôi. Tôi hỏi Phương: - Cậu biết rõ tại sao Giao nó bỏ dạy ở Bảo không? - Hình như ở đấy bị ám ảnh quá, nó không chịu nổi. Ở Huế có một bài hát phản chiến của Giao đang được ưa thích, nghe nói viết từ Bảo. “Đừng hót nữa, hỡi con chim chiến tranh, tôi đã nghe...”. Mình nhớ một câu đại khái như thế. Đấy là một bài hát có nội dung khá. Tôi gật đầu: - Đúng như vậy. Trước nay, Giao nó cố bám lấy cái ngôi trường nhỏ ở Bảo như một chỗ trú ẩn trước cuộc chiến tranh. Đã đến lúc sự bình yên ảo tưởng cuối cùng đã bị phá vỡ. Có lẽ Giao nó đã nhận ra điều đó và quay lại thành phố. Phương kể tiếp: - Trong cuộc biểu tình trầm lặng của sinh viên hồi mùa hè năm ngoái, dẫn đầu là một bức pa-nô lớn của nhóm Thụy và Bửu Chỉ, vẽ cảnh tàn sát Sơn Mỹ. Một bức tranh thật dữ dội, do một cô sinh viên khiêng một bên, còn bên kia là Ngô. Đoàn tuần hành rẽ qua phố Duy Tân là đụng phải tiểu đội lính Mỹ gác khách sạn Thuận Hóa giương lưỡi lê dàn hàng ngang. Cuộc đàn áp bắt đầu. Sinh viên bỏ hàng ngũ ùa lên ném đá túi bụi vào bọn chúng. Giữa lúc đó, Giao ở đâu đi tới, đứng lại bên lề đường. Ngô gọi to: - Giao, mày đứng nhìn à? Vào đây, vào mau! 59 https://thuviensach.vn Thế là Giao bị cuộn vào, mất hút giữa đám người hỗn loạn đang đánh nhau với lính Mỹ ở đầu cầu Trường Tiền. Sau vụ ấy, Giao trở lại phong trào sinh viên Huế bằng những bài hát mới. Bằng một âm điệu không mấy chính xác, Phương hát cho tôi nghe một bài ca tranh đấu của Giao. Trong nỗi vui mừng đã chờ đợi bao lâu, tôi nhận ra trong bài hát ấy điệu blue u buồn quen thuộc đã được thay thế bằng một nhịp hành khúc mới, tuy chưa thực chắc nhịp trên cây ghita của Giao, nhưng cũng đã hiện bóng những con người đang bước ra khỏi nỗi yếu hèn của đời sống để nhập vào cả một thành phố nổi dậy. Nghe đâu Giao đã bị bắt trong một cuộc biểu tình đòi hòa bình của sinh viên vào đêm Nô-en. Sau đây là mẩu đối thoại giữa Giao và cảnh sát trưởng, tôi đọc thấy trên một tờ báo in Rônêo ở Sài Gòn mà Phương mang theo lên rừng: - Tại sao anh lại làm bài hát ca ngợi hòa bình vào lúc này? - Ủa, thế chẳng lẽ ông lại bảo tôi ca ngợi chiến tranh? - Nhưng anh có biết rằng lúc này, ai nói hòa bình là trung lập, trung lập là cộng sản không? Tôi nhắc lại cho anh rõ: Sắc luật ngày 7-5-1965 của chính phủ đã đặt hòa bình ra ngoài vòng pháp luật. - Chính vì các ông đặt hòa bình ra ngoài pháp luật của các ông, nên nó phải đi vào trong tiếng hát của chúng tôi. 60 https://thuviensach.vn Tên cảnh sát trưởng: (đập bàn) - Tôi không có thì giờ để nghe anh lý sự. Tôi cho phép anh chọn một trong hai điều này: hoặc chấm dứt ngay việc làm những bài hát xách động của các anh, hoặc vô tù. Hãy trả lời, ngay bây giờ! Giao (chậm rãi): - Tôi vẫn cứ sáng tác. III. Bê từ phía trạm đi lại, thong thả, men theo bãi cát dài ven sông. Áo chẽn màu xanh da trời may rộng, quần xắn gọn lên nửa đầu gối, một tay đặt hờ lên khẩu AK nằm ngang trên vai, tay kia đong đưa một chùm hoa rì rì đỏ, Bê vừa đi vừa nhìn gì phía bên kia sông. Mặt trời lặn đỏ rực ở phía sau, bóng Bê đổ dài trên mặt cát, trông Bê khỏe khoắn, thoải mái như một o du kích nhỏ đi tuần tra trên một vùng làng biển yên tĩnh. Được nhận một khẩu AK báng xếp mới toanh ở đại hội, cô bé hí hửng ra mặt, đi đâu cũng mang theo mình, lên dốc mệt không kịp thở vẫn nhất định không chịu để cho tôi mang hộ. Tôi gọi Bê: - Bé ba xàm! Đi mô mà vác súng, dẫn cán bộ về vùng sâu đó hả? Bê ngẩng lên, cười ríu rít, chạy lúp xúp về phía tôi. Tôi kéo tay Bê lên tảng đá đến ngồi cạnh tôi. Bê mở chiếc cặp tóc, hai tay bung mớ tóc ngắn cho gió lộng vào, vừa nói: 61 https://thuviensach.vn - Tưởng anh đi mô, té ra anh ngồi một mình ở đây. Đang nhớ người Thành Nội phải không? - Nhớ ai mà nhớ. Anh đang nghĩ đến mấy thằng bạn của anh. Bê liến thoắng: - À, chắc nhớ anh Giao. Chà hồi trước hai người như hình với bóng. Anh đi rồi, coi bộ anh Giao như cua gãy càng. À, mà anh Ngọc ơi! Coi ảnh triển lãm thấy anh Giao đi biểu tình với đồng bào trong Huế, em phấn khởi chi lạ! Bê là chiến sĩ thi đua của ngành đường dây huyện Hương Thủy. Gặp Bê lên báo cáo trong đại hội, thấy dáng dấp cô bé quen quá chừng, nhưng tôi nhớ mãi không ra. Hỏi chuyện Bê, tôi sửng sốt nhận ra cô bé giao liên này chính là con “Bê dại” bưng hàng ở quán cà phê Thành Nội năm xưa. Cha Bê là du kích, hy sinh hồi kháng chiến trước. Mẹ Bê làm nghề sáo ở cửa Thuận, bị địch bắt bớ đánh đập mãi, mới gửi Bê lên học nghề ở quán cà phê của một người dì họ ở Huế, lúc Bê mới mười tuổi. Giữa năm 1968, làng ngoại Bê ở Phú Vang bị địch cày thành vùng trắng, mạ và chị Hiền của Bê bị lùa vô ấp tập trung. Cuối năm đó, chị Hiền tìm về làng liên lạc với cán bộ, bị bọn kỵ binh bay bắn chết giữa trảng cát. Nghe tin chị Hiền chết, Bê khóc sưng vù cả hai mắt, bỏ ăn bỏ uống ba ngày liền. Sau đó, Bê bỏ quán cà phê về làng nội ở xã M.T. 62 https://thuviensach.vn năn nỉ mấy chú xin làm giao liên hợp pháp. Đi rừng đi chổi, có nhiều lần Bê bị bọn Mỹ bắt lên xe M.113, lên trực thăng chở về Động Tòa, nhưng thấy Bê còn con nít, bọn Mỹ mũ nồi xanh gọi Bê là “Bé ba xàm” và thả Bê về. Có lần ngồi dưới hầm bí mật, Bê nghe bọn địch trung đoàn 54 ném lựu đạn ầm ầm và xăm xỉa suốt buổi sáng trên miệng hầm. Lỗ thông hơi bị vỡ lớn như miệng bát, con chó bécgiê thò mõm xuống khịt khịt. Bê nhét hạt nén* vào lỗ thông hơi đuổi chó đi. Nhưng rồi bàn chân thằng Mỹ to như chân voi đã giẫm lên, mấp mé ở miệng lỗ, Bê xé hết tài liệu, lên đạn khẩu các-bin ra ngồi sẵn dưới miệng hầm, sẵn sàng nhảy lên chiến đấu. Nhưng bọn địch lại bỏ đi nơi khác. Ngồi chờ lâu, Bê lấy một điếu Ru-by của chú cán bộ để trong hầm ra hút cho đỡ buồn ngủ. Không ngờ mới vài hơi Bê bị chóng mặt, say đừ. Đến khi bà mẹ ra giở nắp hầm gọi Bê lên thì thấy cô bé đang ngồi ôm khẩu súng ngủ ngon lành... Tôi nhớ lại hình ảnh con “Bê dại” đội tay lên đầu, mở mắt thao láo đứng nghe khách hàng nói chuyện gẫu trong quán cà phê Thành Nội những năm xưa... Bây giờ trước mắt tôi, Bê đã trở thành một cô gái rắn rỏi vững vàng với khẩu súng trong tay, dù người không cao lớn thêm mấy, và cái miệng cười khỏe khoắn để hở chiếc lợi đỏ giữa hai cái má phính trẻ con thì không có gì thay đổi. Bê ngẫm nghĩ điều gì, tủm tỉm cười một mình. * Nén: một loại hành tăm, hành hoa; củ nhỏ và trắng. 63 https://thuviensach.vn - Cười chi, Bê? - Em cười... ơ... ờ... Con người hiền, đuổi ruồi không bay như anh Giao mà cũng đi biểu tình tranh đấu... Nghĩ cũng lạ. - Lạ sao bằng con “Bê dại” ngày trước, bây giờ thành ra o giao liên chiến sĩ thi đua? Bê “xì”, đấm nhẹ vào lưng tôi: - Em khác, anh Giao khác chớ bộ... Tôi hỏi: - Bê còn nhớ anh Giao à? - Nhớ chớ. Em chưa thấy ai tử tế như anh Giao. Bê kể: - Mấy năm nay anh đi rồi, nghỉ hè, anh Giao hay tới quán một mình, lúc chín mười giờ. Anh kêu cà phê phin, hút Bát-tô điếu ni nối qua điếu khác, cắm cúi đọc quyển sách chi cầm nơi tay rồi đi. Có lần quán vắng, anh tập cho em hát bài “Ông tiên vui”, anh nói anh làm để dạy cho học trò của anh ở trên Đà Lạt. Mấy bà chị con bà dì em thấy anh vô quán là bấm nhau cười, kêu anh là “Ông tiên buồn...”. Bê im lặng một chốc, rồi nói tiếp: - Em nhớ năm tể năm tê... Lần đó em bưng cà phê cho anh Giao, lỡ vướng bàn rớt cái choảng, đổ bể tan tành, cà phê đổ lên cả áo của anh. Dì em trên nhà chạy 64 https://thuviensach.vn xuống, hầm hầm giơ tay định tát em. Anh Giao choàng tay che cho em và nói: “Tôi làm bể đó, không phải con Bê”. Tội nghiệp bữa đó, anh Giao cũng hết tiền, chỉ còn hai lăm đồng tiền trả cho dì em. Còn một đồng bạc lẻ, anh biểu em bán cho anh một hộp diêm, ngồi hút thuốc một lát rồi về... Gần Tết năm ngoái, anh đi mô biệt luôn, không thấy tới quán nữa. - Hồi đó, có thể anh Giao đang ở tù, Bê à. - Hèn chi... Sau kỳ khởi nghĩa Mậu Thân, nhiều anh quen tự nhiên không thấy tới quán nữa. Anh Nguyên nè, anh Ngô nè, anh Thiết, anh Xuân... Lên đây em mới biết các anh rủ nhau đi cách mạng hết. Còn anh Giao, anh Giao có thiệt là vô tù không anh? À, mà anh Ngọc ơi... - Chi Bê? - Anh viết thơ cho anh Giao đi, em chuyển cho. Em bảo đảm thơ tới tận tay anh Giao. Anh ấy tốt vậy, mình phải tranh thủ giúp đỡ, kẻo lỡ ra... Em nghe nói những người như anh Giao, thằng địch hay tìm cách mua chuộc... Tôi hiểu Bê lo lắng cho Giao như lo sợ cho một người thân. Tôi siết chặt tay Bê: - Anh tin là Giao sẽ không đến nỗi nào. Nhưng để rồi anh sẽ viết thư thăm anh ấy. Bọn anh xa nhau cũng khá lâu... Trời chiều hẳn, không còn nắng. Cơn giông nào ở xa làm nước sông A-mong đục nhờ và dâng to rất nhanh 65 https://thuviensach.vn khỏa mất dải cát dưới chỗ chúng tôi ngồi, khiến tôi có cảm giác lạ là tưởng mình đang ở một cửa biển, buổi chiều nước triều lên. Ánh sáng dịu hẳn xuống, và màu sắc bãi đá ửng lên một cách kỳ lạ. Những phiến đá nhìn trầm trầm giống nhau lúc nãy, bây giờ phân biệt nhau rất rõ, thành những màu trắng, hồng nhạt, xanh, màu rêu già và màu nâu sẫm... khiến bãi sông trong chốc lát bỗng dậy lên những màu sắc tươi vui. Dòng sông bắt đầu chảy mạnh và cả cái thung lũng hẹp chạy dài giữa hai triền núi cao bỗng rung lên như trống hội làng, chuyển đi những tiếng rùng rùng liên hồi. Bê yên lặng nhìn dòng sông. Trong đôi mắt trong sáng và linh động của cô bé, tôi chợt bắt gặp một thoáng mơ màng xa xa, như vẫn thường thấy trong mắt những cô gái Huế lúc chiều xuống. Bê lẩm bẩm nói một mình: - Ai ngờ... Giữa núi non tít tè ni lại có một con sông đẹp không khác chi sông dưới quê mình. Bê chợt quay lại đột ngột hỏi tôi: - Sông ni chảy về mô, anh Ngọc hè? - Chảy về cửa Thuận. Sông A-mong là nguồn sông Hương đó Bê. Đôi mắt Bê mở tròn xoe như mắt búp bê: - Hứ... Xa thế ni mà sông cũng chảy về tới dưới biển được, hả anh? Tôi bật cười trước câu hỏi ngây thơ của cô bé:66 https://thuviensach.vn - Xa mấy thì xa, trăm sông rồi cũng về biển, Bê ạ. Như khám phá ra điều gì, mặt Bê hớn hở hẳn lên: - Anh Ngọc ơi! - Ơi! - Sông A-mong cũng chảy về làng ngoại em. Mạ em làm sáo dưới đó... Cô bé ném cành hoa rì rì xuống sông, nhìn theo những cánh hoa màu đỏ bị cuốn đi rất nhanh theo dòng nước. - Em ném chùm hoa trên nguồn, nếu dưới đó mạ biết, chắc mạ sẽ bắt được. Phải không anh? - Có thể là mạ sẽ bắt được. - Vậy là khe suối mô trên ni cũng chảy về biển dưới mình hết, anh hè. Tôi gật đầu, Bê cau mày, có vẻ ngẫm nghĩ: - Anh Ngọc ơi! - Ơi hoài! - Khe Trà đó răng? Khe Trà chảy vô trong một cái nà mây, thành một bãi lầy rồi biến mất, có về biển được mô anh? - Ờ ờ. Cũng có những dòng nước rủi ro... Tôi bỏ lửng câu nói. Hình ảnh cái Khe Trà trong câu nói hồn nhiên của Bê bỗng khiến tôi nhớ đến Giao trong đêm hai đứa tâm sự ở Bảo. Có biết bao nhiêu 67 https://thuviensach.vn người đã không vượt qua nổi cái triền dốc ấy của tuổi trẻ, sống vật vờ rồi biến đi mất tích trong cơn lốc của cuộc chiến tranh này như một vật bị gió cuốn. Tôi mở ví lấy tấm ảnh, nhìn Giao đi trong “Ngày tuổi trẻ quật khởi” của Huế. Giao cầm đàn đi giữa những bạn bè phẫn nộ, giữa những bà mẹ nghèo le te áo cụt chân đất, những chị tiểu thương tay đánh đàng xa hăm hở bước chân, những bác xích lô đội nón rách giơ cao nắm tay... Người và biểu ngữ kéo thành một dòng dài như vô tận dọc theo sông Hương. Niềm xúc động chợt dâng lên trong tôi, rưng rưng. Tôi nghe văng vẳng tiếng hát của Giao “Đi ta đi, đừng mong ai, đừng nghi ngại. Vì đời ta hôm nay đã thắm máu người”. Tôi nói thầm về Giao: Đúng thế, Giao ơi! Hai mươi lăm năm, ta đã lấy máu hồng che kín non sông. Máu đã tưới thắm đất đai yêu quý. Nên trên mặt đất nứt nẻ từ hàng triệu năm của Thụy, cây đã mọc xanh dựng thành rừng chông. Nên trên nền đất khổ hạnh của tâm hồn Giao, hoa hồng đã nở... Tôi sung sướng thấy Giao đã tìm thấy niềm tin giữa nhân dân, và chính tôi cũng tìm thấy niềm tin ở bạn bè. Bê vẫn ngồi im lặng, chờ đợi câu trả lời bỏ dở nửa chừng của tôi về chuyện cái Khe Trà nào đó. Có lẽ cô bé vẫn còn băn khoăn, lo nỗi dòng sông A-mong yêu mến này của cô có chắc sẽ chảy đến nơi đến chốn về tới biển quê ngoại của cô. 68 https://thuviensach.vn Tôi nói với Bê, trong một ý nghĩ xúc động về Giao: - Cũng có những dòng nước rủi ro bị lạc đường... Nhưng khi những dòng nước đã nhập được vào sông, thì nhất định nó sẽ ra đến biển, Bê ạ. Thấy tôi trăn trở mãi tấm ảnh Giao trong tay, và nghe giọng nói của tôi hơi khác đi, hình như Bê hiểu. Cô bé cùng vui theo tôi khoác khẩu AK lên vai, cặp môi đỏ chót nhoẻn cười thật tươi giữa hai má phính tròn như còn phảng phất mùi kẹo: - Chắc anh Giao hết làm “Ông tiên buồn” rồi, anh Ngọc hỉ... Tôi bắt tay Bê, hai anh em tôi vừa đi vừa nhảy trên những lượn sóng đá... Tháng Tám, 1971 69 https://thuviensach.vn Căn nhà của những gã lang thang Theo tôi, người ta không nên dính líu quá nhiều đến quá khứ nhưng người ta cũng khó lòng đoạn tuyệt với quá khứ. Bởi vì chẳng phải sao, quá khứ là những gì thân thuộc nhất của tâm hồn và quá khứ là “khu vườn bí mật” của tâm hồn; có thể nói quá khứ là tài sản quý báu còn lại sau cùng của đời người, mãi mãi không thay đổi. Đó là lý do tại sao tôi cứ khăng khăng ở lại ngôi nhà này khi Sơn đã cùng gia đình dọn vào sống ở Thành phố Hồ Chí Minh và giao căn nhà ở Huế lại cho tôi. Hình như trong mỗi góc đầy bóng tối của căn nhà này, trên chiếc bàn viết bằng gỗ mộc của Sơn để lại, và trong chiếc ghế làm bằng sợi mây hèo to của Cường thường ngày vẫn ngồi vẽ, đều dậy lên mùi hương lặng lẽ 70 https://thuviensach.vn của tuổi trẻ chúng tôi. Hồi ấy gia đình Sơn sống ở ngôi nhà này, còn tôi và Đinh Cường thì sống chung ở một căn nhà thuê ở hẻm Bến Ngự bên kia sông. Tôi quên sao được hình ảnh của Cường thường treo một cánh tay lên cổ, bông băng và thuốc đỏ băng kín, giả vờ làm bị thương để vẽ về chiến tranh. Tôi ngồi chấm bài trước bàn viết trong căn phòng im lặng, trong khi bên ngoài hàng rào chè tàu xình xịch một đoàn tàu dài xuôi Nam chở theo những gương mặt quen thuộc ở lớp học, cố nhoi ra bên ngoài cửa sổ như để nói lời vĩnh biệt với tôi. Vâng, chúng tôi lớn lên bằng tuổi chiến tranh, và đó là nền tảng hội họa sơn dầu của Đinh Cường, của nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn, và của tuổi trẻ bi thảm của chúng tôi đang loanh quanh ở thành phố này. Buổi tối, Cường và tôi thường thả bộ qua nhà Sơn ở phía bên kia chiếc cầu nhỏ để cùng Sơn đi lang thang dọc sông Hương. Phía ngoài căn nhà Sơn đang sống là một hành lang dài, và ở dưới đường, quãng trước mặt nhà có những cây long não đại thụ chừng thuộc thế hệ những cây đầu tiên của thành phố còn lại sau những cơn bão. Ở đầu kia đường, có một cây xà cừ to lớn về mùa thu lá vàng chói nguyên cả cây, giống y như mỗi chiếc lá đều được thợ kim hoàn đúc bằng vàng. Phía cuối hành lang là một dòng sông nhỏ mà chúng tôi thường đứng ngắm qua mỗi cơn mưa. Dưới cơn mưa, dòng sông phẳng lặng và hình như rộng hơn; trên mặt nước trong xanh này, thánh thót hàng ngàn giọt mưa sáng chói, và 71 https://thuviensach.vn reo ca như những phím dương cầm, “ôi những dòng sông nhỏ, lời hẹn thề là những cơn mưa”, như trong bài hát của Sơn. Tấm kính nơi chiếc cửa lớn nhìn ra đường của mặt tiền nhà Sơn đã vỡ từ lâu, Sơn cũng lười không gắn lại; gió heo may bên ngoài cứ thổi thẳng vào nhà, nghe văng vẳng như tiếng người. Sau này về sống trong căn nhà của Sơn, tôi ngồi viết ở phòng sau, cứ nghe tiếng người ta gọi tên mình ở trước cửa. Giờ này hai đứa bé đều đi học, căn nhà trở nên quạnh hiu lạ lùng, tôi thường mong có bạn đến chơi. Nghe tiếng gọi ngoài cửa tôi mừng quá, đặt bút chạy ra mở cửa. Hóa ra chỉ là tiếng gió thổi, mấy chiếc lá khô theo cơn gió chạy dài dọc hành lang. Căn phòng sau, do Sơn tự thiết kế, bày biện làm phòng học; tôi thường đến vào giờ nghỉ, để dạy thêm cho các em Sơn. Phải thành thực nói rằng vào hồi đó ở Huế, hội họa trừu tượng đang xa lạ với công chúng, nên trong bạn bè, Cường vẫn được tôn sùng như một người thuộc “thế kỷ ánh sáng”. Thỉnh thoảng Cường vào Sài Gòn tổ chức triển lãm. Có lần, tôi đang bận dạy học thì được văn phòng nhà trường chuyển cho một tấm vé máy bay. Đó là tấm vé của Cường gửi để rủ tôi lên dự cuộc triển lãm của Cường mở ở Đà Lạt. Tôi vội về nhà thu xếp ít hành lý rồi đi thẳng ra sân bay; giây lát sau tôi đã đến Đà Lạt, và có mặt ở phòng triển lãm của Cường. Tôi còn nhớ đó là một ngày lễ Nô-en, và bức tranh Thiếu nữ trong màu hoa anh đào của Cường được nhiều người hỏi mua, trong đó Cường vẽ một khuôn 72 https://thuviensach.vn mặt thiếu nữ từ khung cửa sổ của một biệt thự đang đăm đắm cúi nhìn xuống một nụ hoa anh đào mùa xuân. Ở Huế, Cường có vẽ tặng tôi bức Cầu say trong đó, những nét có vẻ nguệch ngoạc vẽ chiếc vài cầu Tràng Tiền nổi bật lên nền màu gạch và một chấm đèn màu vàng le lói trên cao, như một dấu hiệu của ý thức. Có lẽ đó là cơn say của chúng tôi trong những đêm lang thang ở Huế. Ở Huế đi lang thang cũng là một sinh hoạt văn hóa. Cường luôn luôn ăn vận đàng hoàng, lúc nào cũng như mới, và thường sang phòng tôi gọi tôi đi chơi. Tôi mặc một chiếc vét cũ của anh Đỗ cho, áo khoác vào dài quá nửa vế, dệt bằng sợi len thô, có lẽ là áo anh Đỗ thường mặc vào ban đêm, lúc đứng chờ chị Quỳ ở ga tàu điện ngầm ở Paris. Thỉnh thoảng, chúng tôi còn có Ngô Kha nhập bọn; Ngô Kha, vốn là thi sĩ khá nổi tiếng bị động viên làm sĩ quan quân đoàn I đóng ở Đà Nẵng. Thỉnh thoảng Ngô Kha ra Huế nghỉ phép và cùng đi lang thang với chúng tôi. Chúng tôi thường ra khỏi nhà vào lúc đêm đã khuya, đường phố vắng không có xe cộ, cũng không có người. Chúng tôi thường ghé vào cư xá giáo sư đại học rủ anh Đỗ đi chơi; vào giờ ấy chị Quỳ đã đi ngủ, và anh Đỗ còn ngồi một mình, nhấm nháp ly cà phê pha loãng và đọc truyện chưởng Kim Dung. Chúng tôi coi cuộc đi chơi bắt đầu từ nhà Sơn, lúc ấy, mọi người đã đông đủ. Chúng tôi đi theo đường phố dọc sông Hương, kéo sang cầu Trường Tiền và ngồi ở một quán cà phê 73 https://thuviensach.vn nổi tiếng thời đó. Đường vắng, hai hàng cây muối bên đường như chụm đầu vào nhau thành một cái vòm trên đầu, và con đường Lê Lợi như dài thêm ra dưới ánh đèn đường. Thỉnh thoảng trên đường phố vắng chúng tôi có gặp những người phu quét đường chở lá rụng trong những xe ba gác và đẩy đi cành cạch trên mặt đường. Đi bên Sơn, tôi hát thầm những câu hát của Sơn: “Đại bác đêm đêm dội về thành phố. Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe”. Còn Ngô Kha thì đọc cho chúng tôi nghe bài thơ mới làm, Kha thích ngâm thơ dưới những hàng cây ban đêm, còn tôi thì thích nghe hết mọi cái ngoài giờ dạy học. Hình như những lúc đó chúng tôi mới nhận thức được rằng con người là một tự do. Tôi nhớ câu thơ của Ngô Kha làm trong những cuộc lang thang ấy: Lần hồi sinh trên con tàu cuối cùng Chung quanh anh phù sa cát đỏ Anh hỏi thầm về đời mình Gỗ đá có buồn không? Trong những cuộc lang thang này, chúng tôi thường gặp Bích. Bích thường mặc quần áo jean, đầu cạo trọc vừa lang thang vừa huýt sáo, một điệu nhạc nào đó đang thời thượng trong giới trẻ thành phố. Bích huýt sáo rất hay, thường từ xa nghe tiếng huýt sáo người ta đã biết Bích đang đi đến. Có lần, tôi thấy Bích đi bộ ngang trước nhà Sơn; khi Bích bắt đầu huýt sáo thì người ta đổ ra xem, đứng kín hết cả ban công của ngôi chung cư đầu cầu. 74 https://thuviensach.vn Người ta chết một mình nên cũng sống một mình. Từ đó, chúng tôi được xem nhà ở chỉ là một nơi tạm trú, một nơi tạm dừng chân ở cõi đời. Chúng tôi cả ba người giống nhau, đều quan niệm rằng nghệ thuật chỉ là một cách thế đối diện với cái chết. Từ ấy về sau, người ta không còn nghe tiếng huýt sáo khuya khoắt của Bích nữa. Có lẽ vì cả thành phố không ai có thể huýt sáo hay giống như Bích, mà Bích thì đã bị bắt đi quân dịch không biết sống chết ở chiến trường nào. Khắp nơi đều khói lửa mịt mù... Trong những cuộc đi chơi đêm hôm như vậy, Cường rất thích dừng lại đọc một hình vẽ bí ẩn nào không biết trên những bức tường rêu phong, dưới ánh đèn vàng. Theo ngón tay của Cường tôi thấy hiện ra nhiều thứ hình trên nền gạch cổ khi thì một mặt người nhìn nghiêng, khi thì con chim đang bay, thảng hoặc một vài ngôi nhà thờ hoang phế trên đồi. Đó chính là nguồn cảm hứng đích thực của Cường và thỉnh thoảng, tất cả lại hiện ra trên khung vải của Cường, dưới một màu rêu xám ảm đạm và sang trọng, rất được quần chúng hâm mộ trong các phòng triển lãm, từ đó bạn bè gọi đùa là tranh sơn dầu của Đinh Cường thuộc trường phái “rêu xanh”. Còn Sơn... Sau những ngày đông vui giữa bạn bè, giữa đám con gái bay lượn trong bộ cánh rất mốt ở Sài Gòn, Sơn lại quay về với sự tĩnh mịch của mùa thu ở Huế. Và tất cả khối lượng nhạc phản chiến đồ sộ ký tên Trịnh Công Sơn đều được viết ra từ căn phòng này. Nhạc 75 https://thuviensach.vn phản chiến là rất mới đối với quần chúng các đô thị miền Nam thời bấy giờ, trong đó, đối diện với một cuộc chiến tranh dữ dội, người ta thấy một khuôn mặt trẻ mệt mỏi, hờ hững, không biết hy vọng gì ở tương lai... Chúng tôi đi lang thang trong những đêm mùa hạ, thơm ngát mùi hương ngọc lan, trong những khu vườn tối, và trên trời nhiều mây trắng bay. Tôi ước mơ tập luận văn triết học của tôi sẽ đầy ắp hình ảnh của bạn bè và cái tự do phù phiếm của tôi sẽ được viết trên nền trời xanh trong nét bút của mây trắng. Qua những cuộc rong chơi trên thành phố mến yêu, giống như những người thợ thủy tinh, chúng tôi thổi hơi thở của mình vào chất nhựa chai của tư duy, để làm hình thành ở đó một thế giới lấp lánh muôn màu dưới ánh sáng nghệ thuật, một thế giới từ không thành có, từ khoảnh khắc thành vĩnh cửu hoặc như bài hát của Sơn “Ta nghe đời rất mênh mông. Trong chân người bước chầm chậm”. Đêm ấy, chúng tôi lại tiễn đưa anh Đỗ đi quân dịch. Cả anh Đỗ và Sơn đều bị gọi lính vào một trại quân nào đó ở Đà Nẵng vì tham gia một phong trào đòi hòa bình ở Sài Gòn. Sơn đã uống thuốc xổ, để cơ thể mất quá nhiều nước, người nhẹ thân không đủ cân và do đó được hoãn dịch. Sau khi ngồi ở quán cà phê, chúng tôi về lang thang dọc sông Bến Ngự. Anh Đỗ xé nát tấm giấy gọi lính, và nằm lăn ra ngủ dưới gốc cây bên đường. Đây là một con đường ven sông có thảm cỏ dày, và hương cỏ đêm khuya thơm lạ lùng làm người ta nghĩ 76 https://thuviensach.vn đến một nỗi bình yên nào đó không có ở đời. Khi anh Đỗ ngủ say, Ngô Kha đi nhặt đâu đó những cánh hoa phượng vĩ hồng đem rải quanh người anh, để khi anh ngủ dậy, còn lại dấu vết một hình người trên mặt cỏ. Chiều hôm sau, chúng tôi đưa Sơn và anh Đỗ vào trại nhập ngũ ở Đà Nẵng. Khác với tình trạng nhẹ cân của Sơn, anh Đỗ bị chất độc trong thuốc xổ ảnh hướng đến tâm thần. Người ta phải thả để anh về, vì anh đã mất hết trí nhớ, không dùng được vào việc binh. Trước ngày lên đường, tôi có việc cần phải lên Đà Lạt, có ý tìm thăm anh Đỗ, định nói với anh một điều. Tôi gặp anh đi thơ thẩn một mình trong rừng thông, mặt ngơ ngẩn như một người đã quên hết mọi sự ở đời. Tôi đành quay về Huế một mình và cũng không tiện từ giã anh lúc ra đi. Đêm ấy... Con sông Hương trôi trong đêm tối, êm đềm như một dải lụa huyền. Ngay trong thành phố, thỉnh thoảng người ta vẫn gặp một vài đám lau sậy um tùm, tưởng như chỗ buộc thuyền của người kỹ nữ bến Tầm Dương xưa, và chàng Tư Mã khóc đời bằng dòng nước mắt màu xanh, nên bây giờ dòng nước sông Hương xanh thẳm đến lạ lùng. Sau này, trong những năm đi xa chợt nghĩ về anh Đỗ, không hiểu tại sao trong tâm trí tôi vẫn hiện ra một hình người vẽ bằng nét hoa nằm im trên cỏ. *** 77 https://thuviensach.vn Một chiều, tôi gặp một người giao liên hợp pháp thông báo với tôi ý kiến của Thành ủy nói rằng Tòa lãnh sự Mỹ ở Huế đã bị thiêu hủy, thế hợp pháp của tôi và em Phan tôi đã hết, và chúng tôi cần rút “lên xanh” để được an toàn, tránh sự nguy hiểm từ phía địch. Đi hay không là tùy bọn tôi, nhưng phải trả lời ngay bây giờ để tổ chức tiện bố trí đường dây. Tôi đồng ý là phải đi. Trời đất rộng bao la mà ở đây không có một chỗ dung thân cho anh em tôi. Đã hết rồi những cuộc lang thang với bạn bè... Từ chỗ trú ẩn bên kia sông Bến Ngự, tôi sang ăn bữa cơm chiều cuối cùng với nhà Sơn. Tôi vẫn duy trì những buổi dạy kèm với em Sơn giữa những đợt đấu tranh của thành phố. Vào giờ học, Thúy - em của Sơn - nói với tôi rằng theo lời dặn của Ngô Kha, thì quân đội của tướng Nguyễn Cao Kỳ sẽ kéo đại quân ra Huế để đàn áp cuộc nổi dậy. Kha dặn tôi hãy tìm một nơi khác, lên Trường Sơn cũng được, tạm tránh lúc tranh tối tranh sáng của cuộc tiến công. Theo tin tức quân báo của Kha nhận được từ Đà Nẵng, thì lực lượng thủy quân lục chiến của Kỳ sẽ chĩa mũi nhọn vào những người của phong trào mà họ cho là nguy hiểm, ngay từ lúc họ đặt chân đến Huế để tránh hậu họa. Ngô Kha cùng với chiến đoàn ly khai của anh sẽ kéo dài cuộc cầm cự trên đèo Hải Vân, để tạo điều kiện cho tôi đi thoát. Sau đó, đơn vị của Kha sẽ về bám Lăng Cô đánh “du kích”. Kha hy vọng ít lâu sau Kha và tôi sẽ tái ngộ ở một hang đá nào đó của Trường Sơn. 78 https://thuviensach.vn