🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Triết Lý Cái Đình Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn LỜI NÓI ĐẦU Trong giới trí thức miền Nam trước năm 1975, Giáo sư Kim Định (1915 – 1997) – nhà triết học, nghiên cứu triết học, nhà văn hóa là một diện mạo, một bản lĩnh độc đáo. Ông họ Lương, sinh ra ở làng Trung Thành, địa phận Bùi Chu thuộc Nam Định. Từ năm 1937 – 1939, ông dạy tiếng Latinh tại Tiểu chủng viện Ninh Cường. Từ năm 1939 – 1943, ông học triết học và thần học tại Đại chủng viện Quần Phương. Năm 1943 được phong Linh mục, từ đó đến năm 1947, ông dạy triết học phương Tây cũng tại Đại chủng viện Quần Phương. Năm 1947, ông được cử du học ở Pháp, vào học tại Học viện Công giáo Paris (Institut Catholique de Paris), và Học viện cao học Trung Hoa học (Institut des Hautes Etudes Chinoises), Paris. Sau khi tốt nghiệp, năm 1958, ông trở về miền Nam Việt Nam, dạy triết học tại nhiều trường đại học. Do nhu cầu giảng dạy môn triết học Đông phương, GS. Kim Định đã biên soạn một loạt giáo trình giảng dạy cho sinh viên. Các giáo trình này, về sau, ông nâng cao và hệ thống hóa, gắn kết chặt chẽ nhằm chứng minh, xây dựng nền tảng cho triết học Việt Nam mà ông gọi Việt Triết hay Việt Nho. Với sự chú tâm xuyên suốt, GS. Kim Định đặt vấn đề mà trước đó chưa mấy ai nghiên cứu đến tận cùng. Đó là, “Ông khởi xướng học thuyết An Vi hay Việt Nho tức là xem xét Nho giáo một cách siêu việt, ở tận đầu nguồn của nó. Đây cũng là vấn đề được đặt ra theo hướng phương pháp luận, nhằm phản bác lại cái nhìn “duy sử” cũng như cách đo đếm khoa học một cách cơ giới, khi muốn quay trở về đúng nguồn cội nền văn hóa Lạc Việt của người Việt Nam.” ( Tự điển văn học bộ mới , NXB Thế Giới – 2003, tr. 756). https://thuviensach.vn Có thể kể đến các tác phẩm chính của GS. Kim Định đã công bố như Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây, Triết lý giáo dục, Cửa Khổng, Nhân bản, Chữ Thời, Tâm tư, Việt lý tố nguyên, Dịch kinh linh thể, Triết lý cái đình, Lạc Thư minh triết, Vấn đề quốc học, Tinh hoa ngũ điển, Cơ cấu Việt Nho, Vấn đề nguồn gốc văn hóa… Không phải ngẫu nhiên, mở đầu cho “học thuyết An Vi”, Kim Định bắt đầu bằng Cửa Khổng . Ông quan niệm: “Những người muốn xây dựng cho dân nước một nền văn hóa ăn nhịp với chiều tiềm thức của dân tộc không thể không kể đến Nho giáo” ( Cửa Khổng, NXB Ca Dao – 1974, tr. 59). Kim Định không trình bày học thuyết Nho giáo như nhiều người đã làm, ông vận dụng phương pháp luận hiện đại, so sánh đối chứng Khổng giáo với các học thuyết khác trong Bách gia chư tử, triết học phương Tây cùng thời... Theo ông, “Tìm ra Nho giáo sơ khai tức cũng là Nho giáo chân chính. Nho giáo có đã lâu đời, tục truyền là từ Phục Hy, Thần Nông, còn Khổng Tử chỉ là đại diện cuối cùng.” ( Cửa Khổng , NXB Ca Dao – 1974). Khi xác lập lại hệ giá trị Nho giáo nguyên thủy, phương pháp luận của Kim Định là cần phải khởi nguồn từ “tố nguyên” (đi ngược trở lên) để nắm bắt cho được sự “tinh ròng” của sự vật/sự việc. Vậy, lúc quay về tìm hiểu cội nguồn văn hóa, tiếp cận bản sắc văn hóa cổ truyền của dân tộc Lạc Việt thì sao? “Theo Kim Định, chỉ có cách nhìn “huyền sử” mới là phương pháp thỏa đáng nhất, qua đó những nhân vật, hình tượng, và những sự tích mà truyền thuyết xưa ghi lại trong Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái – cũng giống như những chứng tích khảo cổ học và chứng tích trên trống đồng – sẽ không còn là những con người lịch sử có thật hay những sự việc cụ thể đã thật sự diễn ra trong một thời đoạn lịch sử chính xác nào đấy như sử gia từng nghĩ, mà chính là những biểu tượng quy nạp vào đó công cuộc tiến hóa hàng nghìn, hàng chục nghìn năm lịch sử của cha ông. https://thuviensach.vn Có nhìn như thế mới thấy được mối liên quan mật thiết giữa chuỗi truyền thuyết về người Việt cổ xưa (Hồng Bàng, Hùng Vương...) với chuỗi truyền thuyết mà Trung Hoa đã tự nhận là gốc tích riêng của tổ tiên họ (Tam hoàng Ngũ đế...). Và vấn đề phải đặt lại là chính tổ tiên người Việt là người Viêm Việt xưa kia đã từng ngự trị ở giữa vùng châu thổ sông Hoàng Hà và sông Dương Tử, đã chiếm lĩnh hết 18 tỉnh của Trung Quốc ngày nay, và đã làm nên văn hóa Việt Nho, một nền văn hóa tinh thuần, lấy nhu thuận làm cốt lõi, đại biểu cho văn minh nông nghiệp, mà sau này Hoa tộc, một giống người du mục từ Bắc tràn xuống, với tinh thần thượng võ, đã đẩy lui Viêm Việt xuống mãi phía Nam, phân hóa thành nhiều chủng: Anhđônêziêng (Indonésiens), Môn-Khme (Mon-Khmer), Âu Việt, Miêu Việt, Lạc Việt, nhưng đồng thời do trình độ văn minh thấp hơn, cũng lại bị văn minh Viêm Việt đồng hóa để đi đến hòa đồng Việt Nho của Viêm Việt thành Hán Nho của Trung Hoa” ( Tự điển văn học bộ mới , NXB Thế Giới – 2003, tr. 756). Lâu nay, trong học thuật tồn tại nhiều vấn đề đã có không ít ý kiến dị biệt, chẳng hạn, người Việt có nền quốc học hoặc triết lý hay không? Trong Vấn đề quốc học, Triết lý cái đình…, GS. Kim Định khẳng định tưởng rằng “nước đôi” là vừa “có” lại vừa “không”. Thế nào là có? Thế nào là không? Chẳng hạn, về vấn đề triết học, ông lập luận: “Điểm nhất là Hùng Vương không truyền ngôi cho con trưởng nam nhưng cho con nào tài ba hơn cả. Đây là giai đoạn chiết trung giữa truyền hiền của Việt Nho nguyên thủy và truyền tử của Hán Nho. Hùng Vương tham bám giữa Hán Nho là truyền tử, nhưng không truyền cho trưởng nam, mà truyền cho con nào hiền tài đó là chú ý đến truyền hiền của Viêm Việt. Điểm thứ hai mới thực là đặc tính của Lạc Việt là tìm cái phi thường trong cái thường thường. Và cái thường thường hơn nhất là cơm bánh mọi người phải dùng hàng ngày, vậy mà Lang Liêu con thứ 18 của Hùng Vương lại dùng để diễn đạt được cả đạo trời, đạo đất, đạo người” v.v... Những lập luận, những cách nhìn mới mẻ này cũng là một trong những yếu tố hấp dẫn, có tính phát hiện. https://thuviensach.vn Nhiều vấn đề mà GS. Kim Định đặt ra từ thập niên 1960, đến nay vẫn còn có ý nghĩa thời sự. Và theo chúng tôi được biết, hiện nay đã có nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước khi tìm về cội nguồn văn hóa Việt Nam đã đi theo hướng gợi mở táo bạo này. Do đó, không phải ngẫu nhiên, các công trình nghiên cứu của ông đã từng tạo ra sự tranh luận sôi nổi. Mà có như thế, nhiều vấn đề thuộc về quốc học, triết học, văn hóa… của nước nhà lại tiếp tục tìm tòi, chứng minh để có câu trả lời cuối cùng. Trong xu thế Đổi mới với chủ trương: “ Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, NXB Hội Nhà văn đã chọn lọc, tái bản các tập sách của nhà triết học, nhà văn hóa Kim Định nhằm phục vụ nhu cầu của bạn đọc, không ngoài mục đích “Ôn cố tri tân”. Tinh thần này, chắc chắn bạn đọc đồng theo suy nghĩ của triết gia Nietzsche (1844 – 1900) đã viết trong Zarathoustra đã nói như thế mà Kim Định nhiều lần nhắc lại với sự tán thành: “Học cổ không phải để lặp lại những dữ kiện lịch sử lấy ra ở một thế giới đã chết, nhưng là làm nẩy ra những biểu tượng có khả năng hiện thực được lý tưởng ngày nay của chúng ta. Học cổ là cốt để kích thích lý trí tiến lên đều đặn mong suy diễn ra một viễn cảnh cho tương lai do một sức tạo dựng linh hoạt tự do”. Một lần nữa, chúng tôi xin nhấn mạnh loạt sách của Kim Định được tái bản theo tinh thần học thuật mà Từ điển văn học bộ mới của nhóm chủ biên GS. Đỗ Đức Hiểu, GS. Nguyễn Huệ Chi, GS. Phùng Văn Tửu, PGS – TS. Trần Hữu Tá đã ghi nhận: “Nhìn chung không thể không thừa nhận đây là những tìm tòi đầy tâm huyết và có sức gợi mở không nhỏ, về một hệ thống vấn đề không kém quan trọng đang là “ẩn số”, cần được tiếp tục giải đáp trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn của Việt Nam” (tr. 756). Trong quá trình thực hiện, về công tác tái bản, nhằm hạn chế “tam sao thất bổn”, NXB Hội Nhà văn chỉ chọn bản in đã công bố khi nhà văn hóa Kim Định còn sống. Và chúng tôi nghiêm túc thực hiện đầy đủ về bản quyền theo luật định hiện hành sau khi có thông tin về thừa kế bản quyền. https://thuviensach.vn Để bộ sách này ngày càng hoàn thiện hơn, phục vụ tốt nhất cho bạn đọc, chúng tôi xin trân trọng ghi nhận mọi ý kiến đóng góp xây dựng. NXB HỘI NHÀ VĂN https://thuviensach.vn TỰA “Ta về ta tắm ao ta.” Nhưng ao ta ở đâu? Hình dạng thế nào? Tên gọi là chi? Hơn ở chỗ nào? Thưa, ao ta ở xứ Nghệ, hình nó tròn vuông. Tên nó là hồ Động Đình. Hồ là ao . Đình là nhà . Động Đình Hồ là “ Ao nhà vẫn hơn” còn hơn là hơn ở chỗ hồ tròn bao lấy nhà vuông. Nhà vuông hay chữ nhật cùng là 4 góc đều chỉ nghĩa tứ tượng, tứ tượng là mối đầu cho hiện tượng, cho mỗi biến cố, nên chỉ thị phần hành , mà hành khải vuông để đối đáp với phần biết phải tròn như câu ngạn ngữ Việt Nho nói: “Trí dục viên nhi hành dục phương”. 智欲圓而行欲方. Sau nửa thế kỷ thờ ông thầy Tây, chúng ta mới nhận ra rằng cái tri của ông chưa đạt chu tri, nên không thể có hành phương . Vì thế về đàng hành chúng ta đã học với ông được lắm điều hay thí dụ, khoa học cơ khí để tiến bộ, nhưng đồng thời cũng học lắm cái hại: Người Bồ dạy ta hút thuốc lá, Người Pháp dạy ta uống Whisky, Người Anh dạy ta hút thuốc phiện. ( Histoire de la Civilisation . W.Durant vol. III Payot.p. 205) https://thuviensach.vn Đó toàn là những chất ma túy hữu hình biểu thị những chất ma túy vô hình khiến cho tâm trí người dùng trở nên mê man đến nỗi học vào vô vàn cái dại dột, đã gieo rắc ra khắp nước không biết cơ man nào là tai ương mà chưa tỉnh ngộ. Chính vì muốn cho nhiều người cùng tỉnh ngộ mà hôm nay chúng ta làm một cuộc trở lui về ao nhà , mong làm cho nước ao trong trở lại và lưu động để linh nhuận tình nhà , tình đất , tình người vậy. https://thuviensach.vn I. NÉT ĐẶC TRƯNG NGUY HIỂM CỦA TRIẾT VIỆT 1. – Lao tâm lao lực một lòng Việt Nam đã có triết lý. Không những thế nó có cả triết bình dân. Và nền triết này đặc biệt ở chỗ nó không khác triết bác học về nội dung mà chỉ khác về trình độ và ngôn ngữ. Và đấy là nét đặc trưng, nhưng lại là nét đặc trưng nguy hiểm. Trước hết hãy bàn về điểm nhất, chúng ta sẽ dễ nhận ra đó là nét đặc trưng khi đem đối chiếu với các nền văn minh khác. Ở những nền văn minh Âu Ấn, triết học được sáng tạo hoặc do những người quý tộc hoặc do hàng tư tế tăng lữ là những giới không san sẻ cùng một đối tượng, cùng một mối bận tâm như bàn dân. Người tri thức quý tộc Hi Lạp mải đi tìm ý niệm trừu tượng (Platon); giới tăng lữ Ấn Độ lo cầu đảo kinh sách, còn người dân đâu đâu cũng như nhau lo ăn, lo làm, lo tình ái, lo về những mối giao liên giữa người với người. Vậy mà trong xã hội Việt Nho lại không có trí thức quý tộc chủ trương sống bám trên lưng nô lệ, cũng như không có tư tế biệt lập khỏi dân nên nói được là văn hóa do dân, triết cũng do dân, và vì thế không có hai đối tượng cho hai giai cấp mà chỉ có một và đối tượng đó là của dân: tức không nói về sau hay trước mà về những người đang sống ở đây và bây giờ. Bác học hay bình dân cũng thế cả, chỉ khác nhau có sự trình bày là để thích nghi với trình độ học thức mà thôi. Vì thế sự khác biệt hoàn toàn ở ngoại diện chứ không ở nội dung. Do đấy mà có một nét đặc biệt vô cùng đó là siêu hình nằm ngay trong hữu hình và đấy là điểm khác hẳn với Âu Tây như ông Alfred Meynard đã nhận xét: “Người Đông phương đã đem cái vô hình xuống cuộc đời hàng ngày của họ. Họ sống với thế giới huyền bí… Trái lại người Âu Tây sống bên lề cái vô hình, phủ nhận nó nữa vì không biết đến có nó hay là họ bị xô đẩy https://thuviensach.vn vào nó mà không nhìn ra. Ở bên Việt Nam tục lệ tín ngưỡng đã pha trộn và hợp hóa thần bí tâm linh của Phật giáo với chủ nghĩa ma thuật của Đạo giáo vào tín ngưỡng nguyên thủy, một phần hoạt động và tư tưởng đã dành cho phương diện vô hình của thiên nhiên. Đời sống hàng ngày của họ đã kết cấu bằng những đề tài huyền bí làm đề tài chính thức. Suốt ba tháng đầu năm của dân Việt Nam cũng có rất nhiều nghi lễ, trong ấy, người ta thông cảm với thần linh hay kéo thần linh xuống một lúc gần với người cùng với người san sẻ những nỗi lo âu hay hy vọng”. Revue Indochinoise. Mai, 1928 . Tôi trưng mấy lời của ngoại nhân để biểu thị tính chất khách quan. Khi không có hậu ý thì ngoại nhân cũng nhìn ra được nét đặc trưng của ta. Cần nhận xét rằng đây không phải là tình trạng bất phân sơ khai kéo dài, nhưng nó là hậu quả của một nền Minh triết đã được vun tưới tài bồi. Gọi là Minh triết vì đã được kết tinh vào Kinh điển của dân Lạc Việt gọi là Lạc Thư mà căn để của nó là linh thiêng (cũng gọi là Hoàng Cực) được gói tròn giữa các việc ăn làm (biểu thị bằng bát trù) gọi là Hồng Phạm cửu trù. Hồng Phạm là hình thái bác học còn khi biểu diễn cho toàn dân thì Hồng Phạm cửu trù trở thành câu chuyện bánh giầy, bánh chưng rất quen thuộc. Đây là một câu chuyện triết lý rất cao độ, cao độ vì nhập thể vào một vật rất thường như cơm bánh. Cơm bánh là những cái ta tiếp cận mỗi ngày vài ba lần nên rất thường thế mà lại nói lên được rất nhiều ý nghĩa cao siêu. Chúng ta hãy lưu ý về hai điểm: Điểm thứ nhất là Hùng Vương không truyền ngôi cho con trưởng nam nhưng cho con nào tài ba hơn cả. Đây là giai đoạn chiết trung giữa truyền hiền của Việt Nho nguyên thủy và truyền tử của Hán Nho. Hùng Vương tham bám giữa Hán Nho là truyền tử, nhưng không truyền cho trưởng nam, mà truyền cho con nào hiền tài đó là chú ý đến truyền hiền của Viêm Việt. Điểm thứ hai mới thực là đặc tính của Lạc Việt là tìm cái phi thường trong cái thường thường. Và cái thường thường hơn nhất là cơm bánh mọi người phải dùng hàng ngày, vậy mà Lang Liêu con thứ 18 của Hùng Vương lại https://thuviensach.vn dùng để diễn đạt được cả đạo trời, đạo đất, đạo người. Đấy là khả năng diễn tả cái phi thường bằng những cái thường thường, khỏi cần đi tìm trân châu hải vị mãi ở đâu đâu. Đấy là một tài ba thường không mấy người nhận ra được giá trị vì không thấy cái khó khăn của nó. Học triết là một việc nhiều người làm được nhưng nói lên triết bằng những lời đơn sơ, trong dăm ba câu, một hai cử chỉ… là một việc rất khó vì nó đòi sự thấu hiểu và nhập thể rất sâu là bậc chỉ dành cho một số người họa hiếm. Lang Liêu là một trong số họa hiếm đó vì đã khỏi phải nói dài dòng khó khăn quanh quất (huyền sử kêu là lên rừng xuống bể tìm vật lạ) nhưng chỉ với một cử chỉ cụ thể tức hai cái bánh hình thái khác nhau mà nói lên được cả đạo trời, đạo đất, đạo người. Thật là một thứ đơn sơ siêu tuyệt, nên đã được Hùng Vương chấm ưu điểm “Cum maxima laude” hết lời khen kèm theo ngôi báu, và để ghi nhớ Hùng Vương đã cho cải tên Lang Liêu 郎燎 Tieát Lieäu 節料. Chữ Tiết Liệu vừa có nghĩa là biết lo liệu một cách tiết kiệm không cần trèo núi lặn biển, sang Đông, chạy Tây, nhưng chỉ bằng mớ gạo bên tay với những cử chỉ hàng ngày như dọn cơm, làm bánh… thế mà nói lên được tiết điệu uyên nguyên của cả Đất, Trời, Người, tức là nói lên cùng tột cái cơ cấu sâu thẳm và nhân đó sự hiệu nghiệm của nền triết Việt. I. NÉT ĐẶC TRƯNG NGUY HIỂM CỦA TRIẾT VIỆT 1. – Lao tâm lao lực một lòng Việt Nam đã có triết lý. Không những thế nó có cả triết bình dân. Và nền triết này đặc biệt ở chỗ nó không khác triết bác học về nội dung mà chỉ khác về trình độ và ngôn ngữ. Và đấy là nét đặc trưng, nhưng lại là nét đặc trưng nguy hiểm. Trước hết hãy bàn về điểm nhất, chúng ta sẽ dễ nhận ra đó là nét đặc trưng khi đem đối chiếu với các nền văn minh khác. Ở những nền văn minh Âu https://thuviensach.vn Ấn, triết học được sáng tạo hoặc do những người quý tộc hoặc do hàng tư tế tăng lữ là những giới không san sẻ cùng một đối tượng, cùng một mối bận tâm như bàn dân. Người tri thức quý tộc Hi Lạp mải đi tìm ý niệm trừu tượng (Platon); giới tăng lữ Ấn Độ lo cầu đảo kinh sách, còn người dân đâu đâu cũng như nhau lo ăn, lo làm, lo tình ái, lo về những mối giao liên giữa người với người. Vậy mà trong xã hội Việt Nho lại không có trí thức quý tộc chủ trương sống bám trên lưng nô lệ, cũng như không có tư tế biệt lập khỏi dân nên nói được là văn hóa do dân, triết cũng do dân, và vì thế không có hai đối tượng cho hai giai cấp mà chỉ có một và đối tượng đó là của dân: tức không nói về sau hay trước mà về những người đang sống ở đây và bây giờ. Bác học hay bình dân cũng thế cả, chỉ khác nhau có sự trình bày là để thích nghi với trình độ học thức mà thôi. Vì thế sự khác biệt hoàn toàn ở ngoại diện chứ không ở nội dung. Do đấy mà có một nét đặc biệt vô cùng đó là siêu hình nằm ngay trong hữu hình và đấy là điểm khác hẳn với Âu Tây như ông Alfred Meynard đã nhận xét: “Người Đông phương đã đem cái vô hình xuống cuộc đời hàng ngày của họ. Họ sống với thế giới huyền bí… Trái lại người Âu Tây sống bên lề cái vô hình, phủ nhận nó nữa vì không biết đến có nó hay là họ bị xô đẩy vào nó mà không nhìn ra. Ở bên Việt Nam tục lệ tín ngưỡng đã pha trộn và hợp hóa thần bí tâm linh của Phật giáo với chủ nghĩa ma thuật của Đạo giáo vào tín ngưỡng nguyên thủy, một phần hoạt động và tư tưởng đã dành cho phương diện vô hình của thiên nhiên. Đời sống hàng ngày của họ đã kết cấu bằng những đề tài huyền bí làm đề tài chính thức. Suốt ba tháng đầu năm của dân Việt Nam cũng có rất nhiều nghi lễ, trong ấy, người ta thông cảm với thần linh hay kéo thần linh xuống một lúc gần với người cùng với người san sẻ những nỗi lo âu hay hy vọng”. Revue Indochinoise. Mai, 1928 . Tôi trưng mấy lời của ngoại nhân để biểu thị tính chất khách quan. Khi không có hậu ý thì ngoại nhân cũng nhìn ra được nét đặc trưng của ta. Cần nhận xét rằng đây không phải là tình trạng bất phân sơ khai kéo dài, nhưng nó là hậu quả của một nền Minh triết đã được vun https://thuviensach.vn tưới tài bồi. Gọi là Minh triết vì đã được kết tinh vào Kinh điển của dân Lạc Việt gọi là Lạc Thư mà căn để của nó là linh thiêng (cũng gọi là Hoàng Cực) được gói tròn giữa các việc ăn làm (biểu thị bằng bát trù) gọi là Hồng Phạm cửu trù. Hồng Phạm là hình thái bác học còn khi biểu diễn cho toàn dân thì Hồng Phạm cửu trù trở thành câu chuyện bánh giầy, bánh chưng rất quen thuộc. Đây là một câu chuyện triết lý rất cao độ, cao độ vì nhập thể vào một vật rất thường như cơm bánh. Cơm bánh là những cái ta tiếp cận mỗi ngày vài ba lần nên rất thường thế mà lại nói lên được rất nhiều ý nghĩa cao siêu. Chúng ta hãy lưu ý về hai điểm: Điểm thứ nhất là Hùng Vương không truyền ngôi cho con trưởng nam nhưng cho con nào tài ba hơn cả. Đây là giai đoạn chiết trung giữa truyền hiền của Việt Nho nguyên thủy và truyền tử của Hán Nho. Hùng Vương tham bám giữa Hán Nho là truyền tử, nhưng không truyền cho trưởng nam, mà truyền cho con nào hiền tài đó là chú ý đến truyền hiền của Viêm Việt. Điểm thứ hai mới thực là đặc tính của Lạc Việt là tìm cái phi thường trong cái thường thường. Và cái thường thường hơn nhất là cơm bánh mọi người phải dùng hàng ngày, vậy mà Lang Liêu con thứ 18 của Hùng Vương lại dùng để diễn đạt được cả đạo trời, đạo đất, đạo người. Đấy là khả năng diễn tả cái phi thường bằng những cái thường thường, khỏi cần đi tìm trân châu hải vị mãi ở đâu đâu. Đấy là một tài ba thường không mấy người nhận ra được giá trị vì không thấy cái khó khăn của nó. Học triết là một việc nhiều người làm được nhưng nói lên triết bằng những lời đơn sơ, trong dăm ba câu, một hai cử chỉ… là một việc rất khó vì nó đòi sự thấu hiểu và nhập thể rất sâu là bậc chỉ dành cho một số người họa hiếm. Lang Liêu là một trong số họa hiếm đó vì đã khỏi phải nói dài dòng khó khăn quanh quất (huyền sử kêu là lên rừng xuống bể tìm vật lạ) nhưng chỉ với một cử chỉ cụ thể tức hai cái bánh hình thái khác nhau mà nói lên được cả đạo trời, đạo đất, đạo người. Thật là một thứ đơn sơ siêu tuyệt, nên đã được Hùng Vương chấm ưu điểm “Cum maxima laude” hết lời khen kèm theo ngôi báu, và để ghi nhớ Hùng Vương đã cho cải tên Lang Liêu 郎燎 Tieát Lieäu 節料. Chữ https://thuviensach.vn Tiết Liệu vừa có nghĩa là biết lo liệu một cách tiết kiệm không cần trèo núi lặn biển, sang Đông, chạy Tây, nhưng chỉ bằng mớ gạo bên tay với những cử chỉ hàng ngày như dọn cơm, làm bánh… thế mà nói lên được tiết điệu uyên nguyên của cả Đất, Trời, Người, tức là nói lên cùng tột cái cơ cấu sâu thẳm và nhân đó sự hiệu nghiệm của nền triết Việt. I. NÉT ĐẶC TRƯNG NGUY HIỂM CỦA TRIẾT VIỆT 1. – Lao tâm lao lực một lòng Việt Nam đã có triết lý. Không những thế nó có cả triết bình dân. Và nền triết này đặc biệt ở chỗ nó không khác triết bác học về nội dung mà chỉ khác về trình độ và ngôn ngữ. Và đấy là nét đặc trưng, nhưng lại là nét đặc trưng nguy hiểm. Trước hết hãy bàn về điểm nhất, chúng ta sẽ dễ nhận ra đó là nét đặc trưng khi đem đối chiếu với các nền văn minh khác. Ở những nền văn minh Âu Ấn, triết học được sáng tạo hoặc do những người quý tộc hoặc do hàng tư tế tăng lữ là những giới không san sẻ cùng một đối tượng, cùng một mối bận tâm như bàn dân. Người tri thức quý tộc Hi Lạp mải đi tìm ý niệm trừu tượng (Platon); giới tăng lữ Ấn Độ lo cầu đảo kinh sách, còn người dân đâu đâu cũng như nhau lo ăn, lo làm, lo tình ái, lo về những mối giao liên giữa người với người. Vậy mà trong xã hội Việt Nho lại không có trí thức quý tộc chủ trương sống bám trên lưng nô lệ, cũng như không có tư tế biệt lập khỏi dân nên nói được là văn hóa do dân, triết cũng do dân, và vì thế không có hai đối tượng cho hai giai cấp mà chỉ có một và đối tượng đó là của dân: tức không nói về sau hay trước mà về những người đang sống ở đây và bây giờ. Bác học hay bình dân cũng thế cả, chỉ khác nhau có sự trình bày là để thích nghi với trình độ học thức mà thôi. Vì thế sự khác biệt hoàn toàn ở ngoại diện chứ không ở nội dung. https://thuviensach.vn Do đấy mà có một nét đặc biệt vô cùng đó là siêu hình nằm ngay trong hữu hình và đấy là điểm khác hẳn với Âu Tây như ông Alfred Meynard đã nhận xét: “Người Đông phương đã đem cái vô hình xuống cuộc đời hàng ngày của họ. Họ sống với thế giới huyền bí… Trái lại người Âu Tây sống bên lề cái vô hình, phủ nhận nó nữa vì không biết đến có nó hay là họ bị xô đẩy vào nó mà không nhìn ra. Ở bên Việt Nam tục lệ tín ngưỡng đã pha trộn và hợp hóa thần bí tâm linh của Phật giáo với chủ nghĩa ma thuật của Đạo giáo vào tín ngưỡng nguyên thủy, một phần hoạt động và tư tưởng đã dành cho phương diện vô hình của thiên nhiên. Đời sống hàng ngày của họ đã kết cấu bằng những đề tài huyền bí làm đề tài chính thức. Suốt ba tháng đầu năm của dân Việt Nam cũng có rất nhiều nghi lễ, trong ấy, người ta thông cảm với thần linh hay kéo thần linh xuống một lúc gần với người cùng với người san sẻ những nỗi lo âu hay hy vọng”. Revue Indochinoise. Mai, 1928 . Tôi trưng mấy lời của ngoại nhân để biểu thị tính chất khách quan. Khi không có hậu ý thì ngoại nhân cũng nhìn ra được nét đặc trưng của ta. Cần nhận xét rằng đây không phải là tình trạng bất phân sơ khai kéo dài, nhưng nó là hậu quả của một nền Minh triết đã được vun tưới tài bồi. Gọi là Minh triết vì đã được kết tinh vào Kinh điển của dân Lạc Việt gọi là Lạc Thư mà căn để của nó là linh thiêng (cũng gọi là Hoàng Cực) được gói tròn giữa các việc ăn làm (biểu thị bằng bát trù) gọi là Hồng Phạm cửu trù. Hồng Phạm là hình thái bác học còn khi biểu diễn cho toàn dân thì Hồng Phạm cửu trù trở thành câu chuyện bánh giầy, bánh chưng rất quen thuộc. Đây là một câu chuyện triết lý rất cao độ, cao độ vì nhập thể vào một vật rất thường như cơm bánh. Cơm bánh là những cái ta tiếp cận mỗi ngày vài ba lần nên rất thường thế mà lại nói lên được rất nhiều ý nghĩa cao siêu. Chúng ta hãy lưu ý về hai điểm: Điểm thứ nhất là Hùng Vương không truyền ngôi cho con trưởng nam nhưng cho con nào tài ba hơn cả. Đây là giai đoạn chiết trung giữa truyền hiền của Việt Nho nguyên thủy và truyền tử của Hán Nho. Hùng Vương https://thuviensach.vn tham bám giữa Hán Nho là truyền tử, nhưng không truyền cho trưởng nam, mà truyền cho con nào hiền tài đó là chú ý đến truyền hiền của Viêm Việt. Điểm thứ hai mới thực là đặc tính của Lạc Việt là tìm cái phi thường trong cái thường thường. Và cái thường thường hơn nhất là cơm bánh mọi người phải dùng hàng ngày, vậy mà Lang Liêu con thứ 18 của Hùng Vương lại dùng để diễn đạt được cả đạo trời, đạo đất, đạo người. Đấy là khả năng diễn tả cái phi thường bằng những cái thường thường, khỏi cần đi tìm trân châu hải vị mãi ở đâu đâu. Đấy là một tài ba thường không mấy người nhận ra được giá trị vì không thấy cái khó khăn của nó. Học triết là một việc nhiều người làm được nhưng nói lên triết bằng những lời đơn sơ, trong dăm ba câu, một hai cử chỉ… là một việc rất khó vì nó đòi sự thấu hiểu và nhập thể rất sâu là bậc chỉ dành cho một số người họa hiếm. Lang Liêu là một trong số họa hiếm đó vì đã khỏi phải nói dài dòng khó khăn quanh quất (huyền sử kêu là lên rừng xuống bể tìm vật lạ) nhưng chỉ với một cử chỉ cụ thể tức hai cái bánh hình thái khác nhau mà nói lên được cả đạo trời, đạo đất, đạo người. Thật là một thứ đơn sơ siêu tuyệt, nên đã được Hùng Vương chấm ưu điểm “Cum maxima laude” hết lời khen kèm theo ngôi báu, và để ghi nhớ Hùng Vương đã cho cải tên Lang Liêu 郎燎 Tieát Lieäu 節料. Chữ Tiết Liệu vừa có nghĩa là biết lo liệu một cách tiết kiệm không cần trèo núi lặn biển, sang Đông, chạy Tây, nhưng chỉ bằng mớ gạo bên tay với những cử chỉ hàng ngày như dọn cơm, làm bánh… thế mà nói lên được tiết điệu uyên nguyên của cả Đất, Trời, Người, tức là nói lên cùng tột cái cơ cấu sâu thẳm và nhân đó sự hiệu nghiệm của nền triết Việt. I. NÉT ĐẶC TRƯNG NGUY HIỂM CỦA TRIẾT VIỆT 1. – Lao tâm lao lực một lòng Việt Nam đã có triết lý. https://thuviensach.vn Không những thế nó có cả triết bình dân. Và nền triết này đặc biệt ở chỗ nó không khác triết bác học về nội dung mà chỉ khác về trình độ và ngôn ngữ. Và đấy là nét đặc trưng, nhưng lại là nét đặc trưng nguy hiểm. Trước hết hãy bàn về điểm nhất, chúng ta sẽ dễ nhận ra đó là nét đặc trưng khi đem đối chiếu với các nền văn minh khác. Ở những nền văn minh Âu Ấn, triết học được sáng tạo hoặc do những người quý tộc hoặc do hàng tư tế tăng lữ là những giới không san sẻ cùng một đối tượng, cùng một mối bận tâm như bàn dân. Người tri thức quý tộc Hi Lạp mải đi tìm ý niệm trừu tượng (Platon); giới tăng lữ Ấn Độ lo cầu đảo kinh sách, còn người dân đâu đâu cũng như nhau lo ăn, lo làm, lo tình ái, lo về những mối giao liên giữa người với người. Vậy mà trong xã hội Việt Nho lại không có trí thức quý tộc chủ trương sống bám trên lưng nô lệ, cũng như không có tư tế biệt lập khỏi dân nên nói được là văn hóa do dân, triết cũng do dân, và vì thế không có hai đối tượng cho hai giai cấp mà chỉ có một và đối tượng đó là của dân: tức không nói về sau hay trước mà về những người đang sống ở đây và bây giờ. Bác học hay bình dân cũng thế cả, chỉ khác nhau có sự trình bày là để thích nghi với trình độ học thức mà thôi. Vì thế sự khác biệt hoàn toàn ở ngoại diện chứ không ở nội dung. Do đấy mà có một nét đặc biệt vô cùng đó là siêu hình nằm ngay trong hữu hình và đấy là điểm khác hẳn với Âu Tây như ông Alfred Meynard đã nhận xét: “Người Đông phương đã đem cái vô hình xuống cuộc đời hàng ngày của họ. Họ sống với thế giới huyền bí… Trái lại người Âu Tây sống bên lề cái vô hình, phủ nhận nó nữa vì không biết đến có nó hay là họ bị xô đẩy vào nó mà không nhìn ra. Ở bên Việt Nam tục lệ tín ngưỡng đã pha trộn và hợp hóa thần bí tâm linh của Phật giáo với chủ nghĩa ma thuật của Đạo giáo vào tín ngưỡng nguyên thủy, một phần hoạt động và tư tưởng đã dành cho phương diện vô hình của thiên nhiên. Đời sống hàng ngày của họ đã kết cấu bằng những đề tài huyền bí làm đề tài chính thức. https://thuviensach.vn Suốt ba tháng đầu năm của dân Việt Nam cũng có rất nhiều nghi lễ, trong ấy, người ta thông cảm với thần linh hay kéo thần linh xuống một lúc gần với người cùng với người san sẻ những nỗi lo âu hay hy vọng”. Revue Indochinoise. Mai, 1928 . Tôi trưng mấy lời của ngoại nhân để biểu thị tính chất khách quan. Khi không có hậu ý thì ngoại nhân cũng nhìn ra được nét đặc trưng của ta. Cần nhận xét rằng đây không phải là tình trạng bất phân sơ khai kéo dài, nhưng nó là hậu quả của một nền Minh triết đã được vun tưới tài bồi. Gọi là Minh triết vì đã được kết tinh vào Kinh điển của dân Lạc Việt gọi là Lạc Thư mà căn để của nó là linh thiêng (cũng gọi là Hoàng Cực) được gói tròn giữa các việc ăn làm (biểu thị bằng bát trù) gọi là Hồng Phạm cửu trù. Hồng Phạm là hình thái bác học còn khi biểu diễn cho toàn dân thì Hồng Phạm cửu trù trở thành câu chuyện bánh giầy, bánh chưng rất quen thuộc. Đây là một câu chuyện triết lý rất cao độ, cao độ vì nhập thể vào một vật rất thường như cơm bánh. Cơm bánh là những cái ta tiếp cận mỗi ngày vài ba lần nên rất thường thế mà lại nói lên được rất nhiều ý nghĩa cao siêu. Chúng ta hãy lưu ý về hai điểm: Điểm thứ nhất là Hùng Vương không truyền ngôi cho con trưởng nam nhưng cho con nào tài ba hơn cả. Đây là giai đoạn chiết trung giữa truyền hiền của Việt Nho nguyên thủy và truyền tử của Hán Nho. Hùng Vương tham bám giữa Hán Nho là truyền tử, nhưng không truyền cho trưởng nam, mà truyền cho con nào hiền tài đó là chú ý đến truyền hiền của Viêm Việt. Điểm thứ hai mới thực là đặc tính của Lạc Việt là tìm cái phi thường trong cái thường thường. Và cái thường thường hơn nhất là cơm bánh mọi người phải dùng hàng ngày, vậy mà Lang Liêu con thứ 18 của Hùng Vương lại dùng để diễn đạt được cả đạo trời, đạo đất, đạo người. Đấy là khả năng diễn tả cái phi thường bằng những cái thường thường, khỏi cần đi tìm trân châu hải vị mãi ở đâu đâu. Đấy là một tài ba thường không mấy người nhận ra được giá trị vì không thấy cái khó khăn của nó. Học triết là một việc nhiều người làm được nhưng nói lên triết bằng những lời đơn sơ, trong dăm ba câu, một hai cử chỉ… là một việc rất khó vì nó đòi sự thấu hiểu và nhập thể https://thuviensach.vn rất sâu là bậc chỉ dành cho một số người họa hiếm. Lang Liêu là một trong số họa hiếm đó vì đã khỏi phải nói dài dòng khó khăn quanh quất (huyền sử kêu là lên rừng xuống bể tìm vật lạ) nhưng chỉ với một cử chỉ cụ thể tức hai cái bánh hình thái khác nhau mà nói lên được cả đạo trời, đạo đất, đạo người. Thật là một thứ đơn sơ siêu tuyệt, nên đã được Hùng Vương chấm ưu điểm “Cum maxima laude” hết lời khen kèm theo ngôi báu, và để ghi nhớ Hùng Vương đã cho cải tên Lang Liêu 郎燎 Tieát Lieäu 節料. Chữ Tiết Liệu vừa có nghĩa là biết lo liệu một cách tiết kiệm không cần trèo núi lặn biển, sang Đông, chạy Tây, nhưng chỉ bằng mớ gạo bên tay với những cử chỉ hàng ngày như dọn cơm, làm bánh… thế mà nói lên được tiết điệu uyên nguyên của cả Đất, Trời, Người, tức là nói lên cùng tột cái cơ cấu sâu thẳm và nhân đó sự hiệu nghiệm của nền triết Việt. Chương sau chúng ta sẽ nói đến cái đình, cũng là một tác động đáng mặt của Tiết Liệu. Ngay từ trong lối kiến trúc, cái đình đã hiện thực được cơ cấu của Lạc Thư tức là vuông tròn lồng vào nhau: Ao nước tròn bao quanh lấy cái đình và gọi là Động Đình Hồ. Đồng thời đình còn là nơi quy tụ mọi hoạt động thuộc ba cấp là kinh tế, chính trị và tinh thần tượng trưng cho tam tài địa, nhân, thiên. Đây là một nền Minh triết hết sức thiết cận vào thân tâm mỗi người Việt Nam lúc xưa. Với tinh thần tổng hợp ấy mọi sự việc đều có thể chở theo linh thiêng đượm màu Minh triết. Hãy lấy một thí dụ thông thường là việc ve gái. 2. – Nghệ thuật ve gái Ve gái đối với chúng ta hiện nay là chuyện không nên bàn đến bởi vì nếu không có tội ít nhất cũng là thiếu đứng đắn. Sở dĩ người này cho là không được đứng đắn vì đã được nhào nặn trong bầu khí của triết lý nhị nguyên. Mà với nhị nguyên thì tinh thần là tinh thần, vật chất là vật chất, tinh thần thì bay bổng cung mây còn vật chất thì nặng trình trịch nằm dính đét xuống mặt đất, phân minh rõ rệt như vậy chứ không có cái chuyện lộn sòng. Vì https://thuviensach.vn thế đã nói ra toàn nói về những cái cao thượng, chứ ve gái thuộc vật chất đâu có ai dám bàn, ít ra một cách công khai. Tiên hiền xưa thì lại nghĩ khác rằng, ve gái là một việc thường ai cũng làm cả, kể từ tuổi dậy thì thì ai cũng ve, ve liên tiếp mấy năm có khi đến cả chục năm cho tới lúc lấy được vợ mới thôi, nhiều ông vẫn chưa chịu thôi vẫn lén lút ve mãi. Một số nhà tu không ve gái thì lại thiên về các việc thờ nữ thần… Còn về phía gái, nếu không ve trai thì lại sửa soạn để được ve mà nếu không được ve thì buồn thấu đến gáy . Cho nên ai nấy đều sửa soạn và sự sửa soạn này được ngụy trang bằng tên sửa sắc đẹp. Chính ở những viện thẩm mỹ này mà bên các nước Âu Mỹ phụ nữ đã tiêu một số tiền vượt xa ngân sách quốc phòng. Cũng như ngân sách quốc phòng vượt xa ngân sách giáo dục… Vậy thì xét cả về bên ve lẫn bên chịu ve đều là việc rất lớn, thế mà triết lý lại lờ đi thì đâu có phải lẽ. Cho nên triết lý Việt Nho mới đề cập cả ở trình độ bác học cũng như ở trình độ bình dân. Ở bác học thì việc ve gái được đưa vào Kinh điển, chiếm đứt một quẻ, mà lại là quẻ lớn tức quẻ 31 mở đầu phần nhì quyển Kinh Dịch gọi là quẻ ve gái. Chữ Nho kêu là Hàm, đi trước quẻ Hằng 32 là việc vợ chồng “Đạo quân tử khởi tự vợ chồng” nhưng trước khi nên vợ chồng thì phải biết ve nhau. Vì thế hai quẻ Hàm Hằng có địa vị ngang với hai quẻ Càn Khôn. Càn Khôn mở đầu phần nhất Kinh Dịch, Hàm Hằng mở đầu phần nhì. Lẽ ra quyển này viết cho bình dân không nên đi vào chi tiết quẻ Hàm nhưng vì bình dân và bác học có liên hệ nằm ngầm nên tôi cứ đi vào ít trang, ít ngại có thể bỏ qua để đọc xuống đoạn “triết lý nhảy đầm”, một hình thức bình dân của đạo ve gái. Ve gái là gì thì trời vị tất đã định nghĩa nổi vì nó có muôn vàn hình trạng, mục tiêu cũng rất phiền toái, có khi chỉ cốt chiếm tí ngoài, hoặc gây nên một cái đỏ mặt, đỏ vì bực tức, đỏ vì thích thú… cho đến chỗ chiếm trọn vẹn cả toàn thân và tâm tình nữa. Cái vụ này mới rắc rối vì nếu chỉ có cái thân xác thì dễ hơn nhiều, ít ra có thể căn cứ trên sức mạnh mà tính toán, đàng https://thuviensach.vn này phải len lỏi đi đến tìm cô nàng, sao cho nàng phải trả lại số cảm tình tương đương thì lúc ấy mới là đạt đạo ve. Đạo ve gái nói rằng: “Hàm cảm dã, nhị khí cảm ứng, dĩ tương dữ: chỉ nhi duyệt”: 咸感也,二氣感應,以相 與止而說: Hàm là gây cảm sao cho hai khí kích thích và hưởng ứng nhau để tự tình đi đến chỗ kết hợp”. Vậy tác động đầu tiên của ve là hãy hạ mã “nam hạ nữ”, nam phải đặt mình bên dưới nữ, cho hợp đạo chung là “nhu thượng nhi cương hạ” = mềm trên cứng dưới. Đấy là cốt tủy của đạo ve được diễn tả bằng quẻ Hàm kép bởi hai quẻ đơn: trên là quẻ Đoài chỉ thiếu nữ, ao nước, đẹp lòng; dưới là quẻ Cấn chỉ thiếu nam, núi và bền gan. Hai quẻ đó nói lên đạo ve gái ở tại làm đẹp lòng (Đoài) phải kiên trì bền chí (Cấn). Thiếu nữ (Đoài) phải ở trên thiếu nam (Cấn), bởi vậy lời tượng của quẻ rằng: “Tượng viết: Sơn thượng hữu trạch, quân tử dĩ hư thụ nhân: 象曰:山上有澤,君子以虚受人: Trên núi có đầm ao, quân tử coi đó mà lấy trống rỗng tiếp người”. Lấy trống rỗng tức là lấy lòng trống rỗng không thiên kiến hay kỳ thị nào mà chỉ có tấm lòng trinh trong để xử kỷ tiếp vật. Đấy là đạo chung cho hết mọi việc, nếu áp dụng vào việc cai trị thì thiên địa an hòa, áp dụng vào việc nam nữ thì gây nên an lạc. Lòng trống rỗng biểu thị bằng quẻ Đoài (trên có cái miệng) còn quân tử biểu thị bằng quẻ Cấn là núi. Trên núi mà có sự trống rỗng thì chứa được nước là sự đẹp lòng. Người quân tử mà lòng trống rỗng thì được lòng dân. Sự trống rỗng sẽ được xác định trong các hào tự dưới trở lên để chỉ ngón chân, bắp thịt, đùi, bụng, tim, gáy, miệng … có ý nói phải vượt những cái bé nhỏ để đạt tâm linh mới là đạo chân thực. Ta hãy đọc một lượt các hào: Hào 1: Cảm ở ngón chân cái = “Hàm kỳ mẫu: chí tại ngoại” 咸其梅:志在 外. Bắt đầu tuy đã có cảm nhưng còn ở thấp quá ngoài tâm, chí chưa dự vào chút nào. Hào 2: Cảm ở bắp chân: hung, nhưng bền vững; thì tốt: “ Hàm kỳ phi: hung, cư cát” 咸其腓: 凶,居吉 . https://thuviensach.vn Hung vì cũng còn quá thấp, nhưng nếu bền chí thì chờ sự cảm ứng tự hào 5 trên thì sẽ gặp tốt, vậy đừng vội. Hào 3: Cảm ở đùi, bám sát những kẻ theo mình mà đi thì có lỗi: “Hàm kỳ cổ, chấp kỳ tùy, vãng lẫn” 咸其股, 執其隨. Đây là hào dương đã có thể tự động, nhưng vì còn ở đợt dưới nên dễ chấp theo hai hào theo mình là hào 1 và 2. Nếu như thế thì lầm. Hào 4 : “Trinh cát hối vong. Đồng đồng vãng lai, bằng tòng nhĩ tư, vị quang đại da” 貞吉,悔亡,憧憧往来,朋從爾思,未光大也, bền gan thì tốt, sự hối sẽ tan đi, trở đi trở lại với một ý thì chỉ có người bạn cũ theo anh, như vậy chưa sáng lớn. Đây là bước vào cửa tâm nên bền gan thì tốt. Còn nếu trở đi trở lại với một ý nhỏ nào đó thì chỉ có bạn theo, bạn đây là hào 1 liên hệ với hào 4. Vì hào 1 bé nhỏ mà đi lại mãi thì chưa đạt ánh sáng lớn lao. Hào 5: “Hàm kỳ môi vô hối, chi mạt dã” 咸其脢无悔,志末也, cảm đến gáy thì không còn hối hận vị chi đã ra tận đến ngành ngọn. Gáy là nơi ngự trị của óc con mà nhiều nhà sinh lý học kêu là “phần đất bí nhiệm”: “terra incognita”. Gọi là bí nhiệm vì người ta chưa khám phá ra được vai trò rõ rệt của nó, chỉ biết rằng nó rất nhạy cảm, mỗi khi gặp cái gì sợ thì tóc gáy “dựng lên” trước tiên, tức là nói lên sự nhạy cảm nhất của phần này. Có thể thí nghiệm khi đi đường xem thẳng vào gáy người nào (nhất là phụ nữ) một tí thì là người đó quay lại. Như thế tỏ ra gáy rất nhạy cảm, bởi vậy có người cho rằng óc con là nơi mà tâm tình bắt liên lạc với óc lớn nơi sản xuất ra ý tưởng. Ý tưởng thường rõ rệt nhưng khô khan, song nếu được tinh thần linh nhuận thì nó sẽ trở nên ý lực giàu chất tác động, nên trong kinh nói là cái chí (tâm) đã tỏa ra tới ngành ngọn. Vì thế khi cảm đến gáy là tuyệt đỉnh của tác động ve gái. Sang đến hào 6 thì lại xấu rồi, vì cảm ở má, mép, lưỡi: “Hàm kỳ phụ, giáp, thiệt” 咸其輔, 頰, 舌, hoàn toàn hời hợt ngoài môi miệng vậy thôi. Chữ miệng gợi lên do quẻ Đoài, là miệng vì có hào gẫy ở trên như cái miệng mở https://thuviensach.vn ra. Lời kinh nói: “đằng khẩu thuyết dã” : 滕口説也: mở miệng ra, chỉ có nói vậy. Chỉ có nói là ngoại diện, đối với hào 1 cảm ở ngón chân cái, cũng là hời hợt ngoài cùng. Có thể toàn bằng lời bôi bác và y như hào 1 cảm ở ngón chân tức những cảm xúc hạ đẳng bên ngoài. Trên ngón chân là cảm tình biểu thị bằng bắp chân rồi đùi ở hào 2, 3. Đợt sau nữa là tâm , nhưng ở hào 4 thì còn nguy vì liên lạc với hào 1; chỉ đến hào 5 là cao nhất vì ở gáy theo nghĩa bao gồm vừa ý ở hào 4 và tình ở các hào 2, 3 hòa trộn với nhau ở hào 5 là chí 志. Có đạt chí thì mới đạt đạo ve gái, cũng chính là một lối biểu hiện của đại đạo giữa trời với đất, giữa cha với con, giữa chồng với vợ, giữa người với người. Cho nên ve gái không còn là chuyện vớ vẩn nữa nhưng chính là một việc làm như trời với đất nên con người cũng phải tuân theo. Và bởi vậy có thể xem xét đường lối thông minh mà đoán ra được giá trị của mọi việc. Vì thế lời kinh quẻ Hàm mới nói: “Thiên địa cảm nhi vạn vật hóa sinh Thánh nhơn cảm nhơn tâm nhi thiên hạ hòa bình: 天地感而萬物化生, 聖 人感人心而天下和平.” Trời với đất cảm nhau mà vạn vật hóa sinh. Thánh nhơn cảm hóa lòng người mà thiên hạ được hưởng hòa bình. Trở lên là thử đem ra một lối bác học để trình bày về việc “nam nữ thông giao”. Tất nhiên đó là lối rất khó, chỉ một số nhỏ người có trí thông minh và đủ điều kiện mới đi vào được. Nhưng đạo là đạo chung mọi người, vậy cần lối bình dân, nhiều lối bình dân để rất nhiều người tham dự, trong đó có lệ hát trống quân, mà chữ Nho kêu là “lễ sơn thủy” hay là sông núi, còn nếu gọi bằng danh từ ngày nay thì là lối “nhảy đầm công cộng” mà chúng ta cần bàn tới. 3. – Triết lý nhảy đầm https://thuviensach.vn Nhảy đầm là chữ nhà quê còn người trí thức gọi là khiêu vũ, nghe sang hơn nhưng không cụ thể và bình dân bằng hai chữ nhảy đầm. Nhảy đầm là do Tây đưa vào nó có tính cách cá nhân, còn nếu nhảy đầm công cộng thì đã có bên ta tự lâu, đó là hát trống quân. Trống quân không những khác nhảy đầm vì tính chất công thể, tức không nhảy với một bà nhưng nhảy với một đàn bà . Nét thứ hai trong việc nhảy còn có cái gì linh thiêng bao bọc nên trống quân lẽ ra phải được tổ chức dưới núi, bên bờ sông ở cửa Đông Nam của thành hay làng. Thường thì những điều kiện đó khó hội đủ nên người xưa đã sáng chế ra tiếng, trời tiếng đất để thay thế cho những điều kiện trên kia. Đó là cái trống đất (đào lỗ xuống đất) lại có dây chằng ở trên chỉ trời . Khi hát mà gõ lên dây phát ra tiếng gầm gừ như là tiếng đất tiếng trời đệm theo quấn quýt lấy những lời hát đối của đôi bên. Còn những lời đối đáp qua lại nhiều khi chở theo rất nhiều yếu tố triết bình dân. Hãy đưa ra vài thí dụ: Miếng trầu là đầu câu chuyện. Bè nữ: Gặp nhau ăn một miếng trầu Gọi là nghĩa cũ về sau mà chào. Bè nam: Miếng trầu đã nặng là bao Muốn cho đông liễu tây đào là hơn. Bè nữ: Miếng trầu kể hết nguồn cơn Muốn xem đây đấy thiệt hơn thế nào. Bè nam: https://thuviensach.vn Miếng trầu là nghĩa xướng giao Muốn cho đây đấy duyên nào hợp duyên. Thí dụ khác: Bè nam: Ở đâu năm cửa nàng ơi? Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng? Sông nào bên đục bên trong? Núi nào thắt quả bồng mà có thánh sinh? . . . . . . . . . . . . . . . . . . Ai mà xin được túi đồng? Ở đâu mà lại có con sông Ngân Hà? Nước nào dệt gấm thêu hoa? Ai sinh ra cửa ra nhà nàng ơi? Kìa ai đội đá vá trời? Kìa ai trị thủy cho đời được yên? Bè nam: Thành Hà Nội năm cửa chàng ơi Sông Lục Đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng Nước sông Tương bên đục bên trong https://thuviensach.vn Núi đức Thánh Tản thắt quả bồng mà lại có thánh sinh. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Ông Khổng Minh không xin được túi đồng Trên trời lại có con sông Ngân Hà Nước Tàu dệt gấm thêu hoa Ông Hữu Sào sinh ra cửa ra nhà chàng ơi Bà Nữ Oa đội đá vá trời Vua Đại Vũ trị thủy cho đời được yên. Bè nam: Bây giờ mận mới hỏi đào Vườn hồng đã có ai vào hay chưa? Bè nữ: Mận hỏi thì đào xin thưa Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào. Nam kết: Ai về đường ấy hôm nay Gởi dăm điều nhớ gởi vài điều thương Gởi cho đến chiếu đến giường Gởi cho đến chốn buồng hương em nằm. https://thuviensach.vn Đại khái đó là vài mẩu khi đọc lên nhận thấy hai điểm đặc sắc sau đây: Thứ nhất là tính chất động đích của trống quân khác với nhảy đầm. Nhảy đầm chỉ cần biết đưa tay đưa chân sao cho hợp với điệu nhạc khỏi phải suy nghĩ, cũng khỏi phải hát nữa, đã có máy. Trống quân thì phải hoạt động hơn nhiều: miệng phải hát, tâm trí phải tác động để đối đáp, vì không được hát bài có sẵn mà phải tùy cảnh mà sáng tác lấy rồi hát lên tức khắc cho hợp câu hỏi. Thứ hai là ý phải tự xa tới gần, mà gần cuối cùng là việc lấy nhau, nói lên một cách không úp mở nhưng phải nói “hoa tình” tức là nói lên một cách văn hoa và như thế nó không phải là một sự vui giải trí như nhảy đầm, nhưng là việc làm có chủ đích đưa đến hôn nhân nhưng đưa đến bằng nghệ thuật, bằng múa hát, tức là một lối triết lý toàn diện: Tất cả tinh thần vật chất hòa trộn với nhau, chứ không có kiểu phân chia: vào điện hay đền thờ lạy, rồi ra xóm Bình Khang chui lủi: tinh thần ra tinh thần, vật chất ra vật chất. Ở đây tinh thần vật chất hòa hợp ngay trong một nơi, một lúc theo đúng triết lý tìm phi thường ngay trong cái thường thường. 4.– Nguy cơ Trở lên là thử đưa ra một hai thí dụ về sự thấm nhập của triết lý vào trong mọi hành vi cử chỉ của người Việt. Đấy là ơn ích rất lớn và nếu biết làm phục hoạt thì sẽ là bài thuốc chữa bệnh thời đại mà Herbert Marcuse kêu là bệnh duy một chiều kích. Hay cũng quen gọi là nhị nguyên: tức là duy vật hoặc duy linh: Linh thiêng được biểu lộ rất lớn lao trong bao nhiêu điện đài, bao nhiêu sách, bao nhiêu người hy hiến thân tâm cho tinh thần. Nhưng vì là nhị nguyên nên anh đi đường anh tôi đi đường tôi. Đạo là đạo. Đời là đời. https://thuviensach.vn Hóa cho nên đời trở nên vô đạo, mặc dầu các thứ đạo lý truyền bá khắp nơi nhưng vì đứng ngoài đời nên đời vẫn vô đạo. Nhưng hỏi vậy tại sao người đời không để ý đến đạo nằm ngay trong đời. Thưa vì đó là điều rất khó và rất dễ quên đi. Rất khó vì người ta dễ chú ý đến những cái gì ở ngoài mình: Vì lúc ấy nó là đối tượng, giác quan có thể tác động. Còn như Đạo đã lẫn vào đời, vào thân tâm thì không còn đứng ngoài nên không còn là đối tượng. Vì thế Kinh Dịch mới nói là “Bách tính nhật dụng nhi bất tri chi: 百姓日用而不知之: Bách tính dùng hàng ngày nhưng không biết đến”. Không biết đến nên là nguy cơ, và mối nguy cơ đó càng ngày càng trở nên lớn lao vì không những bách tính là thường dân không biết, mà cả giới trí thức cũng không biết đến nữa thế mới nguy. Vì từ lúc ấy họ sẽ đi tìm triết ở xa xăm theo cả hai nghĩa một là phát xuất tự ngoài đời sống, đứng ngoài con người nên dễ được nhìn thấy, dễ được học hỏi, và do vậy gây nên cho nền triết lý Việt Nam một cơn thử thách lớn lao như chưa từng thấy. Vì hầu hết trí thức trong nước đã bỏ triết nhà để chạy theo triết ngoài. Có còn cách nào cứu vớt nổi tình trạng này chăng? Chưa biết, nhưng chắc một điều là nếu không cứu vớt nổi tinh thần triết Việt thì chúng ta chỉ còn có triết học để mà học, nghĩa là để mà chơi. Chớ còn triết lý tẩm nhuận việc ăn làm, triết lý hướng dẫn thân tâm thì không còn nữa. Bởi vậy dù thành hay bại, việc đáng làm là chúng ta hãy cố gắng làm. Và đó là mục tiêu của quyển sách nhỏ này, và đường lối của quyển này là bình dân. Cụ thể là những lễ lạy đình đám mà vì tinh thần thống nhất nên chúng ta có quyền coi chúng như những tài liệu chân thực về triết lý bình dân trong đó cái đình là trung tâm hiện thực nên lấy đó làm đầu đề cho sách: Triết lý cái đình . https://thuviensach.vn II. TRIẾT LÝ CÁI ĐÌNH Cái đình hiện nay chỉ còn là một ngôi nhà rách nát, chẳng đâu nghĩ đến sửa lại, mà chỉ còn thấy xây hội đồng xã với các loại đền đài khác thay vào. Chúng ta cũng không cần chống lại khuynh hướng đó, vì hoàn cảnh đã đổi thay cần phải biến hóa. Tuy nhiên tiến hóa có nghĩa là tinh thần còn nhưng chỉ tùy thời mà mặc những mô thức mới cho hợp thời hơn và vươn lên cao hơn. Vì vậy mà cần tìm xem tinh thần cái đình ở chỗ nào. Cái đình có thể coi là đình chót vót của nền văn minh Viêm Việt. Nền văn minh này đặt nền tảng trên gia đình, nhiều gia đình họp thành khu, xóm, ấp và đợt cuối cùng là làng. Nhà của làng là đình, và đến đấy là biên cương; để gặp nền văn minh du mục Bắc phương được biểu thị tự trên mà xuống tức tự triều đình xuống đến tỉnh, phủ và đơn vị cuối cùng là huyện hay quận. Còn Tổng thì có thể coi như một tổ chức lưng chừng giữa hai bờ cõi văn minh và thường chỉ đóng một vai trò mờ nhạt. Người đại diện thực cho dân là lý tưởng. Lý tưởng thu thuế và tuyển lính cho triều đình, cũng như hiện thực các chương trình của làng xã, nền lý tưởng mới thực là người nối hai văn minh du mục của Hán tộc và nông nghiệp của Việt Nho. Cũng như rất có thể chữ đình là nhà đại biểu cho Viêm Việt, còn triều là của Hoa tộc, hai văn minh hòa trộn thành ra triều đình. Ta hãy trở lại văn minh Việt Nho để tìm hiểu những nét đặc trưng của nó. Đó là một nền văn minh dân chủ theo nghĩa trung thực nhất nghĩa là dân có cả tiếng lẫn miếng. Người xưa quen nói “miếng ở làng, sàng ở nước” cho nên chữ miếng ở đây nói lên cái gì có thực, ăn được – đó là thể chế bình sản : Cho nên làng trước hết là một đơn vị kinh tế trong đó kỳ mục bàn việc làm sao cho ai cũng là điền chủ , ít ra theo hiến pháp, còn thực thi thì có https://thuviensach.vn nhiều thời đại không đạt tới. Dầu sao có thể nói đặc tính thứ nhất của làng là bình sản. Làng còn là đơn vị chính trị tổ chức theo lối dân chủ đặc biệt là trọng hiền mà biểu hiệu cụ thể là kinh nghiệm. Kinh nghiệm đi với tuổi tác chữ Nho kêu là xỉ, nên gọi là trọng xỉ . Khác với trọng hoạn tức là trọng quan tước do ảnh hưởng Hán tộc, nên cũng nhiều làng trọng hoạn thay vì trọng xỉ, tùy theo hương ước mỗi làng. Trong thực tế thường là tham bám cả hai xuýt xoát như sau. Mỗi làng có một hội đồng kỳ mục gồm hai ban: một thuộc kỳ hào hai là ban chức dịch . Ban kỳ hào gồm các bô lão (trọng xỉ) và một số thân hào cùng những người đã đỗ đạt, đã làm quan… (trọng hoạn). Ban kỳ hào này tương đương với quốc hội lập pháp đặt bên cạnh hành pháp tức ban chức dịch mà người đứng đầu là lý trưởng… Nói là hành pháp vì quả thực làng là một thứ nước, và ta có thể nói nước Việt Nam xưa là một thứ liên bang mà mỗi bang có sự độc lập của nó, được nói lên qua câu “lệnh vua thua lệ làng”. Vua thua vì làng là một tiểu bang, mà lệnh vua chỉ đạt tới độ liên bang chứ không được đi vào nội bộ của tiểu bang, đây là đặc tính thứ hai của “dân chủ”. Đặc tính thứ ba thuộc văn hóa và đây mới là điểm có thể nói là hợp thời hơn hết. Bởi vì cái đình là tiêu biểu cho nền văn hóa của Lạc Việt một cách cụ thể và sống động nhất, tức nền văn hóa xây trên thái hòa, là hòa đất, hòa trời, nói cụ thể thì hòa đời với đạo, hòa siêu nhiên với thiên nhiên. Muốn thấy rõ điểm này chúng ta nên so sánh với một, hai văn minh khác. Nếu văn minh Ai Cập được biểu thị bằng kim tự tháp, văn minh Hi Lạp bằng đền thờ Parthenon, văn minh Ấn Độ bằng chùa chiền (xứ Chùa tháp) thì biểu hiệu kiến trúc của văn minh Việt Nho là cái đình. Cái đình có đặc tính là thiết thực và toàn diện. Để hiểu rõ hai điểm này ta chỉ việc so sánh mục tiêu của mỗi kiến ốc. https://thuviensach.vn Kim tự tháp lo giữ xác chết. Đền chùa lo cho kiếp sau hoặc phụng sự nhà vua như đền Đế Thiên, Đế Thích. Riêng Đình là chú ý ngay vào đời sống hiện tại ở đây và bây giờ. Điểm thứ hai là toàn diện, tức không phải cái bây giờ hạn cục, nhưng là cái bây giờ sâu thẳm nên bắt liên lạc với dĩ vãng và tương lai, cũng như với những chiều sâu của siêu hình mà có chỗ tôi đã nói đặc trưng của Minh triết Lạc Thư là tìm ra và vun tưới ngay trong đời sống hiện tại, là tìm cái phi thường ngay trong những cái thường thường: ăn, ngủ, làm việc, những mối giao liên… tất cả mọi tác động đó làm nên đời sống gia đình. Vì thế triết lý Việt Nho tìm hết cách đôn đốc tình gia tộc, nâng lên hàng nền tảng. Nền móng xã hội Việt Nam là gia đình chứ không phải cá nhân như xã hội Tây phương. Do lẽ đó mà không để cho thể chế nào làm sứt mẻ đời sống gia đình. Nhưng nếu vậy thì các gia đình sẽ bị bó trong tổ kén gia tộc mà không còn chỗ hội thông với nhau, để người trong một làng tham dự vào đời sống công thể? Thưa có và đó là nhiệm vụ cái đình. Đình là nơi hội tụ nhiều gia đình . Nói cách khác, đời sống cái đình cũng một loại với đời sống ở gia đình, nếu ở gia đình có ăn uống thì ở đình cũng có đình đám tức cũng là ăn uống khác hẳn với việc làm khi người ta đến chùa để cầu kinh chứ không phải để ăn uống như có thể xảy ra ở đình. Như vậy đình là nơi tụ họp của dân làng trong những ngày từ ngày Tết, ngày lễ, ta quen gọi chung là đình đám. Chữ đám gắn liền với chữ đình làm tỏa ra cho các giác quan khứu, thị, thính, cảm một vẻ tưng bừng thơm ngát với những nét hân hoan tràn đầy sinh thú, những khuôn mặt say sưa. Nếu đối với văn minh chuyên về kiếp sau hoặc những sự “cao siêu” thì “miếng ăn là miếng hèn”. Trái lại với văn minh chăm lo cho con người toàn diện có tâm mà cũng có thân thì miếng ăn lại là đầu: “Dân dĩ thực vi tiên” nói là tiên hay thiên cũng được, cả hai tiếng đều nói lên sự quan trọng của việc ăn. Tiếng ta quen nói ăn ở, ăn làm, https://thuviensach.vn ăn chơi, ăn hỏi, ăn cưới, ăn xin, ăn học… là nằm trong cái triết lý đầy thành thực đó. Cho nên những đình đám, những bữa ăn công cộng đều được coi là những cao độ của triều sống để mọi người hội thông nhau trong niềm hân hoan toàn triệt. Toàn triệt theo nghĩa thể chế tức là có việc cảm thông qua những việc rất cụ thể: từ việc tế thần ở làng đến việc ăn chơi vui nhộn, để nhu cầu con người toàn diện đều được đáp ứng thỏa thuê. Nói cho hợp tiếng ngày nay là cả hồn (tức tâm tình) lẫn xác đều được tham dự. Nếu theo thuyết nhị nguyên của Platon khinh rẻ trần thế coi “thế gian xác thịt” là kẻ thù, thì với triết lý nhân sinh, thân xác lại là bạn thiết và vì thế coi sự đáp ứng nhu cầu của xác thân, của tình cảm đều quý trọng ngang nhau. Bởi vậy những ngày “đình đám” nghĩa là những ngày có đám ở đình chỉ làm tôn vẻ linh thiêng của cái đình lên độ tuyệt cao. Ta quen nói đình làng mà làng là nước ở tỉ xích mọi người nên đình làng cũng là đình nước vậy. Cho nên có thể coi cái đình là chính gạch nối giữa nhà và nước. Nói là gạch nối còn mang hơi sách vở, chính ra phải nói là mối liên hệ sống động nối kết hai đầu là nhà và nước. Cần dùng chữ sống động vì cái đình không làm tổn thương đến đời sống gia đình. Các lễ lạy đình đám không làm giảm mức sống của gia tộc chút nào… Đây chính là nét đặc biệt của cái đình, và do đó ngày nay nó mới bị tranh giành ảnh hưởng, để đi đến tình trạng ngắc ngoải hiện nay. Người ta tố cáo cái đình đã gây nên óc xôi thịt, thì điều ấy đúng nhưng chỉ đúng trong vòng thường tình, tức bất cứ thể chế nào cũng bị lạm dụng, bị sa đọa. Thời nay chúng ta hết xôi thịt thì lại có óc khác chưa biết kêu là gì nhưng thực chất là thụt két, hối lộ, tham nhũng… Cũng còn có những nhóm tố cáo cái đình là vì nếu phá bỏ được đình đám thì đám đó sẽ đi về một nơi khác, và lợi cho những ai khác hơn là cho những dân đến đình làng. Chung quy cũng tại miếng ăn nhưng không được nói toạc ra như trong triết lý cái đình. Về phía nước, cái đình cũng bị cùng một số phận, bởi vì nó là tiêu biểu sống động cho nhà gắn liền với nước nên đình là cái gai trong con mắt người Pháp. Mà cụ thể hơn hết là sắc thần làng phải do vua phong mới “có https://thuviensach.vn giá trị” (mới valide nói theo luật Roma) và đấy là cái phiền cho thực dân. Họ đã muốn cho người Nam Kỳ “tự trị” theo nghĩa cắt đứt mọi liên hệ với triều đình Huế, thế mà sắc thần lại phải do triều đình phong thì đấy cả là một sự đi ngược chương trình của họ. Đành rằng cái sắc chẳng qua là một mảnh giấy nhưng đối với những người dân “nặng tinh thần hơn vật chất” thì miếng giấy đó gây rất nhiều trở ngại trong công việc đồng hóa người Việt. Vì thế có sự âm mưu phá hoại tinh thần cái đình, hạ giá cách này hay cách khác để cho giới trí thức chỉ còn thấy đình là cái lò “xôi thịt” hầu tự nguyện đứng ra đảm nhiệm việc bôi xấu cái đình. Và thế là vô tình trí thức đã đồng công lấp hộ cửa đình để dọn đường cho các ý hệ ngoại lai tràn vào đập tan chút vốn liếng tinh thần của dân tộc. Cho đến lúc nước nhà tan rã, nhìn trở lui mới nhận ra thâm ý của ngoại nhân, và ta phải băn khoăn hỏi liệu còn có thể cứu vớt được triết lý cái đình nữa chăng? Câu thưa sẽ như sau: Cái đó còn tùy ở trình độ thức tỉnh của đồng bào. Để giúp vào việc lay thức đó, hôm nay chúng ta quay trở lại học về nguồn gốc và ý nghĩa của cái đình. Về nguồn gốc thì khó có thể xác định, chỉ biết rằng nó phát hiện ngay từ thời khai quốc, lúc nước ta còn chìm trong thời khuyết sử mà tôi quen gọi là huyền sử. Có thể nghĩ rằng cái đình đã xuất hiện ở thời xa xăm này và được ghi lại bằng tên vua huyền sử Hữu Sào, tức giai đoạn đã biết làm nhà ở. Đó là loại nhà sàn lúc trước kêu là cái rong, về sau kêu là cái đình, nhiều nơi ngoài Bắc xưa còn làm đình cao cẳng; về sau dưới ảnh hưởng của Hoa tộc, cái nhà cao cẳng rút ngắn dần chân lại để cuối cùng làm thẳng trên đất liền (xem tạp chí Sử Địa số 4, trang 44). Dầu sao chúng ta cũng có lý tin rằng đình chính là cái nôi mà nước Việt Nam cổ đại khi sinh ra đã được mẹ Âu Cơ đặt vào và chính trong đó nó đã lớn lên và trải qua biết bao cuộc thăng trần: vinh có, nhục có nhưng bao giờ nó cũng vẫn mang theo cái nôi nọ. Là bởi vì cái nôi này cũng chính là cái cơ cấu nguyên sơ tức là những yếu tố căn để tác tạo nên tinh thần dân tộc, nên vẫn gắn liền với dân tộc cho tới tận nay. Bởi chưng cái đình cũng chính là sự hiện thân cái triết lý Tiết Liệu, tác giả cặp bánh giầy, bánh chưng là cặp bánh bao hàm ý tưởng tìm cao cả ngay trong cái thường thường, để bớt hao https://thuviensach.vn tốn: Chỉ một cái nhà mà làm nơi quy tụ cả kinh tế, chính trị lẫn tôn giáo, vì chính trong cái đình làng mà ban kỳ mục tế thần làng vào những ngày sóc, ngày vọng. Tức là tinh thần lồng lên các việc ăn làm. Thật là tiết giảm. Vậy mà tinh thần vẫn mạnh đủ để gìn giữ nước non qua bao nguy nan để trao lại cho ta ngày nay. Cái triết lý Tiết Liệu đó chúng ta đã quên, hiện dân nước đang tốn phí biết bao để xây thêm điện đài cao ngất khắp nơi thế mà tinh thần vẫn mỗi ngày mỗi sút kém. Hồn nước tức óc lo lắng chân thành cho công ích vẫn sa sút trầm trọng. Xét lại thì ra chúng ta đã quên mất nền triết lý lưỡng nhất tính của cái đình để chạy theo những triết lý nhị nguyên đạo đời riêng rẽ: Cho nên đền đài có mọc lên đầy rẫy và cao mất hút vào mây thì cũng không tiêm vào cho đời được chút tinh thần nào, các con đạo cũng tham nhũng như ai… Vì thế mà hồn nước hấp hối. Hấp hối vì bầu khí hiện tại càng ngày càng trở nên duy vật một chiều do các tư trào ngoại lai đưa vào, để chống lại tinh thần của cái đình lại là lưỡng nhất tính: Một động một tĩnh Một tròn một vuông. Vuông tượng trưng bằng cái nhà ở giữa, chung quanh là ao nước hình tròn chỉ đạo thể lung linh nên gọi là động hồ bao lấy cái đình thành ra Động Đình Hồ. Và đấy là thâm nghĩa của ba chữ hồ Động Đình . Nó là nước biểu thị cho nền Minh triết lưỡng thê bao gồm cả thân lẫn tâm, cho nên có đình có đám. Đám là bữa ăn chung cho thân, đình là sự thông giao, là tình liên đới cho tâm. Và nhờ đó mà nó đủ duy trì được một nền Minh triết duy nhất trên thế giới đã không mắc vòng nhị nguyên. Mắc vào vòng nhị nguyên có nghĩa là mắc vòng bị sâu xé, xâu xé trong tâm hồn không tìm ra mối thống nhất nên thiếu sự an nhiên tự tại, và xâu xé trong xã hội biểu thị bằng phân chia giai cấp và đẳng cấp với những đặc ân dành cho nhóm nọ phá nhóm kia gây nên tranh chấp. Đó là tệ trạng đã được các tư trào ngoại lai đưa vào nước ta. Vì chưa nhận ra nên giới trí thức của ta đã gia công vun tưới tài https://thuviensach.vn bồi cho các thứ đặc ân đó. Và vì vậy nước ta mới lâm vào cảnh phân hóa trầm trọng khiến cho người trong nước sa lần vào bệnh cô đơn tan rã suy yếu tinh thần. Nghĩa là cũng lâm vào tình trạng bi đát của con người thời đại mà H. Marcuse gọi là con người một chiều kích (unidimensional man) chỉ biết có duy vật hay duy tâm, nên đời trở nên vô đạo, đạo trở nên trống rỗng. Không còn vòng đai tinh thần tẩm nhuận cho những việc ăn làm được biểu thị bằng cái hồ bọc lấy cái đình như xưa nữa, mà chỉ còn là các thứ duy tượng trưng bằng hội đồng xã duy đời, đền chúa duy linh. Đó không là biểu tượng suông nhưng có thực: có sự phân li trong văn hóa của nước nhà: kẻ theo duy vật, người theo duy linh. Có cách nào làm cho các duy kia ngưng việc xâu xé con dân đất Việt chăng? Chúng tôi cho rằng cách đó nằm trong sự phục hoạt triết lý cái đình. https://thuviensach.vn III. ÔNG TRĂNG MÀ LẤY BÀ TRỜI Xưa nay chúng ta quen nói ông trời chứ chưa nghe nói bà trời. Nếu có bà thì đó là bà trăng, đúng hơn người ta quen nói là chị Hằng, cô Hằng Nga, ghẹo Nguyệt. Nguyệt mà bị ghẹo là giống cái thị mẹt rõ rồi. Các tiếng trên thế giới hình như cũng đồng thanh cho mặt trăng là giống cái: “La lune” chứ không “le lune”. Thế tại sao bọn trẻ lại dám hát “ Ông trăng mà lấy bà trời” ? Ông trời hay bà trời? Ai nói phải? Khó mà thưa. Dẫu sau này có ghé phi thuyền lên rờ bụng trăng để phân xử cũng khó đạt kết quả hơn khi đứng dưới đất nhìn lên vì cả hai đường đều chả thấy gì biện minh cho “cái giống” của mặt trăng cả. Vì thế ta hãy bỏ việc mó sờ nhìn ngắm để đi sang địa hạt huyền sử, và lúc ấy chúng ta sẽ nhận ra một chuyện thú vị về câu “ Ông trăng mà lấy bà trời” , vì nó trở thành một ấn tích của hai nền văn hóa: một của mẹ, một của cha. Khởi đầu văn hóa của chúng ta là nông nghiệp thì mẹ làm chủ, rồi sau mới đến du mục do đàn ông làm chủ. Trong thời bà làm chủ thì mặt trăng là “ông” như Miên tộc quen gọi thế ( Festivals 102). Đấy là thời mà “lưỡng long chầu nguyệt”, nghĩa là hai con rồng mà chầu có một bà trăng. Đó hẳn là bà Âu Cơ có hai ông chầu là Đế Lai và Sùng Lãm. Thế rồi khi du mục tràn vào thì lần lần các bà xuống bậc, trở nên một người tùy tòng: lúc cha còn sống thì tòng cha, lúc đi lấy chồng thì tòng chồng, chồng chết thì tòng con; ba cái tòng đó được Hán Nho dùng để rút hết nhựa sống của chị em phụ nữ. Đó là điều bất công và đang trở nên lỗi thời. Trên thế giới đâu đâu bà cũng đương có mòi đi lên. Bởi vậy hôm nay chúng ta hãy đặt một cái nhìn tổng quát lên lịch sử, văn hóa nước nhà để làm một cuộc khảo cổ loại riêng. https://thuviensach.vn Trong quyển Việt lý chúng tôi đã nêu ra một số nét mẹ nổi hơn cha như tính họ theo mẹ và tục cưới rể. Riêng về tục này chúng tôi mới được nghe biết các sắc dân Ra-Đê trên Ban Mê Thuột vẫn còn giữ. Ngày cưới, chàng rể vác cái xà gạc (dao phá rừng) về ở đàng vợ. Đó là phạm vi phong tục có thể khảo cứu rộng thêm. Ở đây chỉ có ý nhấn mạnh một điểm là ban sơ họ mẹ thường đi đôi với tên đất. Bà Âu Cơ là mẹ một tên đất là Âu hoặc Âu Lạc, và Khương Nguyên là tên đất Khương… hay một sự tích nào liên quan đến sự sinh nở, như con ông Vũ tên là Khải nghĩa là mở ra vì khi sinh con phải mổ bụng mẹ ra… Khổng Tử được gọi Khâu vì mẹ đi cầu tự tại núi Khâu… Ngày nay khi nghiên cứu lại các lễ lạy của nền văn minh sơ khai thì hầu hết thấy đặt trọng điểm ở mầu nhiệm sinh đẻ, sai mắn thuộc giá, sắc tức những việc lớn lao của nông nghiệp, mà việc khởi đầu là gieo gặt. Việc gieo gặt hầu chắc là do phụ nữ sáng kiến ra. Đàn ông đi săn liên miên, đàn bà ở nhà có giờ nhàn rỗi đem gieo hạt, rồi sự việc ban đầu rất có thể chỉ là tình cờ đưa đến việc gieo trồng có chủ đích, sự kiện này kéo theo việc quan sát thời gian thay đổi: Từ thời bát tiết nào thuận cho lúc gieo lúc gặt, thế là đi đến việc ngắm trăng sao rồi phân cung độ vòng trời để làm lịch tức là bước cao nhất của văn minh nông nghiệp. Khởi đầu là lịch hoàn toàn của dân gian căn cứ trên những nhận xét thường nghiệm về con nước xuống lên, mây mưa, cầu vồng, sấm chớp như được ghi trong ca dao kiểu: “Mồng tám tháng Tư không có mưa thì bán cày bừa đi buôn”. Rồi sau đến quan sát thiên tượng một cách có hệ thống thuộc đợt bác học, thường là về sau khi đã tiến cao. Thế là việc nọ kéo theo việc kia từ việc để dành giống đến lúc gieo hạt rồi chăm nom cho hạt mọc lên đến lúc gặt về… Rồi khi gặt xong thì thưởng thức lúa gạo tức đình đám… Mỗi việc đều quan trọng và cùng với tâm trạng thời cổ xưa đều trở nên linh thiêng được bao bọc bằng những nghi thức, những lễ lạy để linh thiêng hóa những giai đoạn của việc gieo gặt. Bởi vì với việc gieo gặt, con người bước lên bậc văn minh cao hơn chỉ biết có săn bắn đầy bấp bênh: khi thừa mứa khi thiếu hụt. Nhưng từ lúc biết gieo gặt tích trữ thì cũng từ đấy đời sống được bảo đảm nhiều hơn và nhờ vậy có thêm được những phút thư nhàn dành cho văn hóa, nhờ đấy văn minh tiến bước mạnh. https://thuviensach.vn Vì vậy mà những gì có liên hệ tới gieo gặt như các hiện tượng tự nhiên sấm, mưa hay những công tác lớn như cày, bừa, đều được nâng lên hàng lễ lạy hay tục lệ này khác. Do đó đã để lại những chứng tích mà ngày nay, ta có thể nương vào để tìm phần nào quá trình hình thành văn minh và sự giao thoa giữa các yếu tố văn hóa khác nhau. Ta hãy đi ngược dòng thời gian để kiểm điểm lại ít sự kiện. III. ÔNG TRĂNG MÀ LẤY BÀ TRỜI Xưa nay chúng ta quen nói ông trời chứ chưa nghe nói bà trời. Nếu có bà thì đó là bà trăng, đúng hơn người ta quen nói là chị Hằng, cô Hằng Nga, ghẹo Nguyệt. Nguyệt mà bị ghẹo là giống cái thị mẹt rõ rồi. Các tiếng trên thế giới hình như cũng đồng thanh cho mặt trăng là giống cái: “La lune” chứ không “le lune”. Thế tại sao bọn trẻ lại dám hát “ Ông trăng mà lấy bà trời” ? Ông trời hay bà trời? Ai nói phải? Khó mà thưa. Dẫu sau này có ghé phi thuyền lên rờ bụng trăng để phân xử cũng khó đạt kết quả hơn khi đứng dưới đất nhìn lên vì cả hai đường đều chả thấy gì biện minh cho “cái giống” của mặt trăng cả. Vì thế ta hãy bỏ việc mó sờ nhìn ngắm để đi sang địa hạt huyền sử, và lúc ấy chúng ta sẽ nhận ra một chuyện thú vị về câu “ Ông trăng mà lấy bà trời” , vì nó trở thành một ấn tích của hai nền văn hóa: một của mẹ, một của cha. Khởi đầu văn hóa của chúng ta là nông nghiệp thì mẹ làm chủ, rồi sau mới đến du mục do đàn ông làm chủ. Trong thời bà làm chủ thì mặt trăng là “ông” như Miên tộc quen gọi thế ( Festivals 102). Đấy là thời mà “lưỡng long chầu nguyệt”, nghĩa là hai con rồng mà chầu có một bà trăng. Đó hẳn là bà Âu Cơ có hai ông chầu là Đế Lai và Sùng Lãm. Thế rồi khi du mục tràn vào thì lần lần các bà xuống bậc, trở nên một người tùy tòng: lúc cha còn sống thì tòng cha, lúc đi lấy chồng thì tòng chồng, https://thuviensach.vn chồng chết thì tòng con; ba cái tòng đó được Hán Nho dùng để rút hết nhựa sống của chị em phụ nữ. Đó là điều bất công và đang trở nên lỗi thời. Trên thế giới đâu đâu bà cũng đương có mòi đi lên. Bởi vậy hôm nay chúng ta hãy đặt một cái nhìn tổng quát lên lịch sử, văn hóa nước nhà để làm một cuộc khảo cổ loại riêng. Trong quyển Việt lý chúng tôi đã nêu ra một số nét mẹ nổi hơn cha như tính họ theo mẹ và tục cưới rể. Riêng về tục này chúng tôi mới được nghe biết các sắc dân Ra-Đê trên Ban Mê Thuột vẫn còn giữ. Ngày cưới, chàng rể vác cái xà gạc (dao phá rừng) về ở đàng vợ. Đó là phạm vi phong tục có thể khảo cứu rộng thêm. Ở đây chỉ có ý nhấn mạnh một điểm là ban sơ họ mẹ thường đi đôi với tên đất. Bà Âu Cơ là mẹ một tên đất là Âu hoặc Âu Lạc, và Khương Nguyên là tên đất Khương… hay một sự tích nào liên quan đến sự sinh nở, như con ông Vũ tên là Khải nghĩa là mở ra vì khi sinh con phải mổ bụng mẹ ra… Khổng Tử được gọi Khâu vì mẹ đi cầu tự tại núi Khâu… Ngày nay khi nghiên cứu lại các lễ lạy của nền văn minh sơ khai thì hầu hết thấy đặt trọng điểm ở mầu nhiệm sinh đẻ, sai mắn thuộc giá, sắc tức những việc lớn lao của nông nghiệp, mà việc khởi đầu là gieo gặt. Việc gieo gặt hầu chắc là do phụ nữ sáng kiến ra. Đàn ông đi săn liên miên, đàn bà ở nhà có giờ nhàn rỗi đem gieo hạt, rồi sự việc ban đầu rất có thể chỉ là tình cờ đưa đến việc gieo trồng có chủ đích, sự kiện này kéo theo việc quan sát thời gian thay đổi: Từ thời bát tiết nào thuận cho lúc gieo lúc gặt, thế là đi đến việc ngắm trăng sao rồi phân cung độ vòng trời để làm lịch tức là bước cao nhất của văn minh nông nghiệp. Khởi đầu là lịch hoàn toàn của dân gian căn cứ trên những nhận xét thường nghiệm về con nước xuống lên, mây mưa, cầu vồng, sấm chớp như được ghi trong ca dao kiểu: “Mồng tám tháng Tư không có mưa thì bán cày bừa đi buôn”. Rồi sau đến quan sát thiên tượng một cách có hệ thống thuộc đợt bác học, thường là về sau khi đã tiến cao. Thế là việc nọ kéo theo việc kia từ việc để dành giống đến lúc gieo hạt rồi chăm nom cho hạt mọc lên đến lúc gặt về… Rồi khi gặt xong thì thưởng thức lúa gạo tức đình đám… Mỗi việc đều quan trọng và cùng với tâm trạng thời cổ xưa đều trở nên linh thiêng được bao bọc bằng những https://thuviensach.vn nghi thức, những lễ lạy để linh thiêng hóa những giai đoạn của việc gieo gặt. Bởi vì với việc gieo gặt, con người bước lên bậc văn minh cao hơn chỉ biết có săn bắn đầy bấp bênh: khi thừa mứa khi thiếu hụt. Nhưng từ lúc biết gieo gặt tích trữ thì cũng từ đấy đời sống được bảo đảm nhiều hơn và nhờ vậy có thêm được những phút thư nhàn dành cho văn hóa, nhờ đấy văn minh tiến bước mạnh. Vì vậy mà những gì có liên hệ tới gieo gặt như các hiện tượng tự nhiên sấm, mưa hay những công tác lớn như cày, bừa, đều được nâng lên hàng lễ lạy hay tục lệ này khác. Do đó đã để lại những chứng tích mà ngày nay, ta có thể nương vào để tìm phần nào quá trình hình thành văn minh và sự giao thoa giữa các yếu tố văn hóa khác nhau. Ta hãy đi ngược dòng thời gian để kiểm điểm lại ít sự kiện. III. ÔNG TRĂNG MÀ LẤY BÀ TRỜI Xưa nay chúng ta quen nói ông trời chứ chưa nghe nói bà trời. Nếu có bà thì đó là bà trăng, đúng hơn người ta quen nói là chị Hằng, cô Hằng Nga, ghẹo Nguyệt. Nguyệt mà bị ghẹo là giống cái thị mẹt rõ rồi. Các tiếng trên thế giới hình như cũng đồng thanh cho mặt trăng là giống cái: “La lune” chứ không “le lune”. Thế tại sao bọn trẻ lại dám hát “ Ông trăng mà lấy bà trời” ? Ông trời hay bà trời? Ai nói phải? Khó mà thưa. Dẫu sau này có ghé phi thuyền lên rờ bụng trăng để phân xử cũng khó đạt kết quả hơn khi đứng dưới đất nhìn lên vì cả hai đường đều chả thấy gì biện minh cho “cái giống” của mặt trăng cả. Vì thế ta hãy bỏ việc mó sờ nhìn ngắm để đi sang địa hạt huyền sử, và lúc ấy chúng ta sẽ nhận ra một chuyện thú vị về câu “ Ông trăng mà lấy bà trời” , vì nó trở thành một ấn tích của hai nền văn hóa: một của mẹ, một của cha. Khởi đầu văn hóa của chúng ta là nông nghiệp thì mẹ làm chủ, rồi https://thuviensach.vn sau mới đến du mục do đàn ông làm chủ. Trong thời bà làm chủ thì mặt trăng là “ông” như Miên tộc quen gọi thế ( Festivals 102). Đấy là thời mà “lưỡng long chầu nguyệt”, nghĩa là hai con rồng mà chầu có một bà trăng. Đó hẳn là bà Âu Cơ có hai ông chầu là Đế Lai và Sùng Lãm. Thế rồi khi du mục tràn vào thì lần lần các bà xuống bậc, trở nên một người tùy tòng: lúc cha còn sống thì tòng cha, lúc đi lấy chồng thì tòng chồng, chồng chết thì tòng con; ba cái tòng đó được Hán Nho dùng để rút hết nhựa sống của chị em phụ nữ. Đó là điều bất công và đang trở nên lỗi thời. Trên thế giới đâu đâu bà cũng đương có mòi đi lên. Bởi vậy hôm nay chúng ta hãy đặt một cái nhìn tổng quát lên lịch sử, văn hóa nước nhà để làm một cuộc khảo cổ loại riêng. Trong quyển Việt lý chúng tôi đã nêu ra một số nét mẹ nổi hơn cha như tính họ theo mẹ và tục cưới rể. Riêng về tục này chúng tôi mới được nghe biết các sắc dân Ra-Đê trên Ban Mê Thuột vẫn còn giữ. Ngày cưới, chàng rể vác cái xà gạc (dao phá rừng) về ở đàng vợ. Đó là phạm vi phong tục có thể khảo cứu rộng thêm. Ở đây chỉ có ý nhấn mạnh một điểm là ban sơ họ mẹ thường đi đôi với tên đất. Bà Âu Cơ là mẹ một tên đất là Âu hoặc Âu Lạc, và Khương Nguyên là tên đất Khương… hay một sự tích nào liên quan đến sự sinh nở, như con ông Vũ tên là Khải nghĩa là mở ra vì khi sinh con phải mổ bụng mẹ ra… Khổng Tử được gọi Khâu vì mẹ đi cầu tự tại núi Khâu… Ngày nay khi nghiên cứu lại các lễ lạy của nền văn minh sơ khai thì hầu hết thấy đặt trọng điểm ở mầu nhiệm sinh đẻ, sai mắn thuộc giá, sắc tức những việc lớn lao của nông nghiệp, mà việc khởi đầu là gieo gặt. Việc gieo gặt hầu chắc là do phụ nữ sáng kiến ra. Đàn ông đi săn liên miên, đàn bà ở nhà có giờ nhàn rỗi đem gieo hạt, rồi sự việc ban đầu rất có thể chỉ là tình cờ đưa đến việc gieo trồng có chủ đích, sự kiện này kéo theo việc quan sát thời gian thay đổi: Từ thời bát tiết nào thuận cho lúc gieo lúc gặt, thế là đi đến việc ngắm trăng sao rồi phân cung độ vòng trời để làm lịch tức là bước cao nhất của văn minh nông nghiệp. Khởi đầu là lịch hoàn toàn của dân gian căn cứ trên những nhận xét thường nghiệm về con nước xuống lên, mây https://thuviensach.vn mưa, cầu vồng, sấm chớp như được ghi trong ca dao kiểu: “Mồng tám tháng Tư không có mưa thì bán cày bừa đi buôn”. Rồi sau đến quan sát thiên tượng một cách có hệ thống thuộc đợt bác học, thường là về sau khi đã tiến cao. Thế là việc nọ kéo theo việc kia từ việc để dành giống đến lúc gieo hạt rồi chăm nom cho hạt mọc lên đến lúc gặt về… Rồi khi gặt xong thì thưởng thức lúa gạo tức đình đám… Mỗi việc đều quan trọng và cùng với tâm trạng thời cổ xưa đều trở nên linh thiêng được bao bọc bằng những nghi thức, những lễ lạy để linh thiêng hóa những giai đoạn của việc gieo gặt. Bởi vì với việc gieo gặt, con người bước lên bậc văn minh cao hơn chỉ biết có săn bắn đầy bấp bênh: khi thừa mứa khi thiếu hụt. Nhưng từ lúc biết gieo gặt tích trữ thì cũng từ đấy đời sống được bảo đảm nhiều hơn và nhờ vậy có thêm được những phút thư nhàn dành cho văn hóa, nhờ đấy văn minh tiến bước mạnh. Vì vậy mà những gì có liên hệ tới gieo gặt như các hiện tượng tự nhiên sấm, mưa hay những công tác lớn như cày, bừa, đều được nâng lên hàng lễ lạy hay tục lệ này khác. Do đó đã để lại những chứng tích mà ngày nay, ta có thể nương vào để tìm phần nào quá trình hình thành văn minh và sự giao thoa giữa các yếu tố văn hóa khác nhau. Ta hãy đi ngược dòng thời gian để kiểm điểm lại ít sự kiện. III. ÔNG TRĂNG MÀ LẤY BÀ TRỜI Xưa nay chúng ta quen nói ông trời chứ chưa nghe nói bà trời. Nếu có bà thì đó là bà trăng, đúng hơn người ta quen nói là chị Hằng, cô Hằng Nga, ghẹo Nguyệt. Nguyệt mà bị ghẹo là giống cái thị mẹt rõ rồi. Các tiếng trên thế giới hình như cũng đồng thanh cho mặt trăng là giống cái: “La lune” chứ không “le lune”. Thế tại sao bọn trẻ lại dám hát “ Ông trăng mà lấy bà trời” ? Ông trời hay bà trời? Ai nói phải? Khó mà thưa. https://thuviensach.vn Dẫu sau này có ghé phi thuyền lên rờ bụng trăng để phân xử cũng khó đạt kết quả hơn khi đứng dưới đất nhìn lên vì cả hai đường đều chả thấy gì biện minh cho “cái giống” của mặt trăng cả. Vì thế ta hãy bỏ việc mó sờ nhìn ngắm để đi sang địa hạt huyền sử, và lúc ấy chúng ta sẽ nhận ra một chuyện thú vị về câu “ Ông trăng mà lấy bà trời” , vì nó trở thành một ấn tích của hai nền văn hóa: một của mẹ, một của cha. Khởi đầu văn hóa của chúng ta là nông nghiệp thì mẹ làm chủ, rồi sau mới đến du mục do đàn ông làm chủ. Trong thời bà làm chủ thì mặt trăng là “ông” như Miên tộc quen gọi thế ( Festivals 102). Đấy là thời mà “lưỡng long chầu nguyệt”, nghĩa là hai con rồng mà chầu có một bà trăng. Đó hẳn là bà Âu Cơ có hai ông chầu là Đế Lai và Sùng Lãm. Thế rồi khi du mục tràn vào thì lần lần các bà xuống bậc, trở nên một người tùy tòng: lúc cha còn sống thì tòng cha, lúc đi lấy chồng thì tòng chồng, chồng chết thì tòng con; ba cái tòng đó được Hán Nho dùng để rút hết nhựa sống của chị em phụ nữ. Đó là điều bất công và đang trở nên lỗi thời. Trên thế giới đâu đâu bà cũng đương có mòi đi lên. Bởi vậy hôm nay chúng ta hãy đặt một cái nhìn tổng quát lên lịch sử, văn hóa nước nhà để làm một cuộc khảo cổ loại riêng. Trong quyển Việt lý chúng tôi đã nêu ra một số nét mẹ nổi hơn cha như tính họ theo mẹ và tục cưới rể. Riêng về tục này chúng tôi mới được nghe biết các sắc dân Ra-Đê trên Ban Mê Thuột vẫn còn giữ. Ngày cưới, chàng rể vác cái xà gạc (dao phá rừng) về ở đàng vợ. Đó là phạm vi phong tục có thể khảo cứu rộng thêm. Ở đây chỉ có ý nhấn mạnh một điểm là ban sơ họ mẹ thường đi đôi với tên đất. Bà Âu Cơ là mẹ một tên đất là Âu hoặc Âu Lạc, và Khương Nguyên là tên đất Khương… hay một sự tích nào liên quan đến sự sinh nở, như con ông Vũ tên là Khải nghĩa là mở ra vì khi sinh con phải mổ bụng mẹ ra… Khổng Tử được gọi Khâu vì mẹ đi cầu tự tại núi Khâu… Ngày nay khi nghiên cứu lại các lễ lạy của nền văn minh sơ khai thì hầu hết thấy đặt trọng điểm ở mầu nhiệm sinh đẻ, sai mắn thuộc giá, sắc tức những https://thuviensach.vn việc lớn lao của nông nghiệp, mà việc khởi đầu là gieo gặt. Việc gieo gặt hầu chắc là do phụ nữ sáng kiến ra. Đàn ông đi săn liên miên, đàn bà ở nhà có giờ nhàn rỗi đem gieo hạt, rồi sự việc ban đầu rất có thể chỉ là tình cờ đưa đến việc gieo trồng có chủ đích, sự kiện này kéo theo việc quan sát thời gian thay đổi: Từ thời bát tiết nào thuận cho lúc gieo lúc gặt, thế là đi đến việc ngắm trăng sao rồi phân cung độ vòng trời để làm lịch tức là bước cao nhất của văn minh nông nghiệp. Khởi đầu là lịch hoàn toàn của dân gian căn cứ trên những nhận xét thường nghiệm về con nước xuống lên, mây mưa, cầu vồng, sấm chớp như được ghi trong ca dao kiểu: “Mồng tám tháng Tư không có mưa thì bán cày bừa đi buôn”. Rồi sau đến quan sát thiên tượng một cách có hệ thống thuộc đợt bác học, thường là về sau khi đã tiến cao. Thế là việc nọ kéo theo việc kia từ việc để dành giống đến lúc gieo hạt rồi chăm nom cho hạt mọc lên đến lúc gặt về… Rồi khi gặt xong thì thưởng thức lúa gạo tức đình đám… Mỗi việc đều quan trọng và cùng với tâm trạng thời cổ xưa đều trở nên linh thiêng được bao bọc bằng những nghi thức, những lễ lạy để linh thiêng hóa những giai đoạn của việc gieo gặt. Bởi vì với việc gieo gặt, con người bước lên bậc văn minh cao hơn chỉ biết có săn bắn đầy bấp bênh: khi thừa mứa khi thiếu hụt. Nhưng từ lúc biết gieo gặt tích trữ thì cũng từ đấy đời sống được bảo đảm nhiều hơn và nhờ vậy có thêm được những phút thư nhàn dành cho văn hóa, nhờ đấy văn minh tiến bước mạnh. Vì vậy mà những gì có liên hệ tới gieo gặt như các hiện tượng tự nhiên sấm, mưa hay những công tác lớn như cày, bừa, đều được nâng lên hàng lễ lạy hay tục lệ này khác. Do đó đã để lại những chứng tích mà ngày nay, ta có thể nương vào để tìm phần nào quá trình hình thành văn minh và sự giao thoa giữa các yếu tố văn hóa khác nhau. Ta hãy đi ngược dòng thời gian để kiểm điểm lại ít sự kiện. Việc đầu tiên là nơi chứa hạt giống. Chọn giống là một trong ba yếu tố thành công trong việc gieo gặt và được người xưa chú ý đến đâu thì không rõ. Chỉ biết rằng họ chú ý đến việc giữ hạt giống bằng những tác động linh https://thuviensach.vn thiêng. Thí dụ phải để trong buồng của mẹ, phòng này ở hướng Đông Nam gọi là Áo 奥. Chữ này giống với chữ Việt 粤quá nửa, nên chúng ta có thể hỏi đã có liên hệ chi chăng. Người xưa khi đặt tên nước là Việt có nghĩ rằng đây sẽ là nơi trữ hạt giống cho nền văn minh nông nghiệp? Áo 奥là buồng ở phía Đông Nam, là nơi đón ánh sáng ban mai không như căn đối diện bên Tây Bắc chịu nhiều ánh sáng ban chiều. Chính vì có ánh sáng ban mai nên được coi là chốn u linh, dùng làm nơi cúng tế cho các thần và nó là phòng của chủ nhà. Ai là chủ nhà? Bố hay mẹ? Thưa tùy sự lên xuống của văn minh Viêm hay Hoa mà là bố hay mẹ. Khi tính con gọi theo họ mẹ thì nhà gọi là nội 内 nằm trong quyền mẹ, bố chỉ là chàng rể có nghĩa là chàng ràng bên ngoài (Socio 201). Sau này khi văn minh Hoa tộc vươn lên thì bố làm chủ và chiếm buồng mẹ, và chỉ nhường cho mẹ trong thời kỳ sinh đẻ. Sự nhường này là theo Viêm tục trong khi vợ sinh thì nhường hẳn buồng chồng cho vợ (Socio 201, 167). Đấy là những tục lệ thời cổ xưa rất rắc rối khiến cho việc nghiên cứu dễ sai lạc vì sự thăng trầm của hai nền văn hóa lúc gặp gỡ, tuy nhiên cũng nhờ sự rắc rối đó mà học giả có được ít tiêu điểm để nhìn lại sự giao thoa của hai nền văn hóa trong những việc bất ngờ thí dụ việc bố chiếm phòng mẹ vừa nói xong. Phận gái thấp hèn Bây giờ chúng ta bàn đến điểm thứ hai thuộc việc giao thoa của hai nền văn hóa này. Đó là tục lệ khi mới sinh ra thì con trai đặt trên giường, con gái phải đặt dưới đất, để chỉ phận hèn hạ phục tòng của con gái như trong Kinh Thi Tiểu Nhã, bài Tư Can: 乃生男子 載寢之牀 乃生女子 載寢之地 https://thuviensach.vn Nãi sinh nam tử Tái tẩm chi sàng… Nãi sinh nữ tử Tái tẩm chi địa. Đấy là sự tin tưởng của Hán Nho nên là một sự lầm tưởng và nó biểu lộ rõ rệt sự hiểu sai và bẻ quặt Việt Nho ra sao. Trước hết ta hỏi tại sao con gái phải đặt xuống đất? Thì câu thưa sẽ là: Không nên nói phải mà là được . Con gái được đặt xuống đất vì chủ đất là đàn bà như đã nói trên về đất mẹ, quê mẹ, nên đặt xuống đất và nhận quyền làm chủ đất. Chính từ trong ý tưởng then chốt đó mà huyền sử nói khi bà Âu Cơ đẻ cái bọc trăm trứng thì đem bỏ ngoài đồng. Trong câu chuyện bà Âu Cơ, ta thấy nhiều liên hệ với Bách Việt: Trước hết là đẻ ra trăm con trai. Thời xưa khi người ta muốn khen tặng cùng cực một bà mẹ nào thì chúc bà đẻ trăm con trai, như Kinh Thi (Đại Nhã bài Tư Trai) khen bà Thái Tự vợ Văn Vương có câu: 太姒嗣徽音, 則百斯男 Thái Tự tự huy âm Tắc bách tư nam. (Bà Thái Tự kế thừa tiếng thơm Nên sinh con trai có hàng trăm). Về việc bỏ ngoài đồng là có ý niệm chủ đất như đã nói trên, bởi thế theo huyền sử khi bà Khương Nguyên đẻ ra Hậu Tắc tổ nhà Chu thì cũng bỏ con https://thuviensach.vn ngoài đồng. Bài Sinh Dân (Đại Nhã) nói bà cầu khẩn để khỏi tội không con, rồi bà đi hội mùa xuân đạp lên lốt chân người to lớn, sinh ra ông Hậu Tắc. Đây là ơn trọng của trời nên sự sinh đẻ trở nên phi thường: Bà Khương Nguyên đẻ con dễ dàng như dê, không bị rách, không bị nứt, không bị tai (họa), không bị hại. 誕彌厥月 先生如達 不坼不副 無菑無害 以赫厥靈 上帝不寧 不康禋祀 居然生子。 Âm: Đản di quyết nguyệt Tiên sinh như đạt Bất xích bất phách Vô tai vô hại Dĩ hách quyết linh Thượng đế bất ninh? https://thuviensach.vn Bất khang án dĩ (tự)? Cư nhiên sinh tử. Nghĩa: Thai kia đã đủ tháng rồi Đầu lòng sinh sản dễ thời như dê Nàng Khương Nguyên chẳng hề rách nứt Tai hại thì rõ thật đều không Rõ ràng linh ứng lạ lùng Thì trời há chẳng an lòng hay sao Chẳng vui lòng việc cầu con ấy? Mà bỗng dưng sinh trái đạo thường. Chính vì đẻ trái đạo thường nên khi đẻ rồi bà đem con ra bỏ ngoài ngõ hẻm. Nhưng “bò dê đến che chở và thương mến mới bế đem bỏ con trẻ trong rừng, thì gặp người đốn củi thương hại săn sóc lại đem để trên nước băng giá rét, chim thấy vậy động lòng bèn bay đến một cánh lót cho nằm, một cánh che cho ấm”. 鳥覆翼之 誕寘之隘巷 牛羊腓字之 誕寘之平林 https://thuviensach.vn 會伐平林 誕寘之寒冰... Âm: Điểu phú dị chi Đản trí chi ải hạng Ngưu dương phi tự chi Đản trí chi bình lâm Hội phạt bình lâm Đản trí chi hàn băng. Nghĩa: Đem con ra bỏ bên đường Bò dê che chở mến thương vô cùng Rừng đất bằng lại bồng đem bỏ Gặp tiều phu đến đó nhặt về Bỏ trên nước đá tái tê Chim đâu bay đến lót che anh hào Thấy nàng đến chim bay đi mất Lúc bấy giờ Hậu Tắc oa oa Tiếng to lại kêu dài ra https://thuviensach.vn Nẻo đường vang khắp gần xa tiếng nàng. “Điểu phú dị chi” (phú là che, dị là đây). Tôi trưng ra hơi dài để độc giả thấy sự giao thoa của hai nền văn hóa nông nghiệp và du mục. Theo Hoa tộc du mục thì bà Khương Nguyên có tội vì đẻ hoang. Nhưng tác giả bài “Sinh Dân” đã đứng về phe văn hóa Viêm Việt nên bênh vực bà. Không những bênh vực, tác giả còn đề cao vật biểu của Viêm Việt là chim, vì trong bài, chim tỏ ra tán tỉnh biết bao “một cánh lót cho nằm một cánh che cho ấm”; trong văn chương thế giới không tìm đâu được giống chim tận tình đến thế. Như vậy văn hóa Viêm Việt thắng một cách nào vì nó cũng có tục lệ đặt trẻ sơ sanh xuống đất cũng như bà Khương Nguyên kết hôn theo lối “bôn”. Bạn hỏi tại sao Hậu Tắc là con trai cũng được đặt xuống đất? Thưa là vì tự lúc nào đó nhiều ý tưởng ma thuật hoặc tiêu biểu đã gắn thêm vào ý tưởng chủ quyền ban sơ như niềm tin rằng đất là nơi tích tụ mọi ảnh hưởng tốt, những sức nuôi dưỡng có tính cách tổng hợp, và theo ý này thì không những con gái mà về sau con trai cũng được đặt xuống đất để nhờ ảnh hưởng tốt. Rồi về sau người ta đặt xuống đất cả những người gần chết với hy vọng sinh khí của đất làm hồi phục sức sống (Socio 168). Cũng trong dòng tư tưởng đó nảy sinh dần những ý nghĩ đất có thể trừ tà ma xú khí, nhân đó mà có thêm tục bắn 6 phát tên bằng cây dâu khi trẻ mới sinh… Tục này ban đầu cũng mang nặng tính chất văn hóa mẹ, vì dâu đi với việc nuôi tằm là phần việc mẹ (Chức Nữ, Socio 169) mà vì mẹ ở phía Đông nên sau dâu cũng ở phía Đông (Phù Tang 扶桑 là cây dâu nâng đỡ mặt trời lúc mới mọc). Đây là một thí dụ về những ý tưởng, những niềm tin thuộc thời bái vật (ma thuật) nhưng đã chớm có tâm linh đi kèm lẫn lộn nên khó phân ra yếu tố nào xuất hiện trước, chỉ biết rằng vì lâu ngày ý thức lu mờ dần đi nên mới có chuyện Hán Nho bẻ quặt ý nghĩa của cổ tục để hạ giá đàn bà, là vô tình hay hữu ý hạ giá văn hóa Viêm tộc xuống vậy (Socio 161-168). Chìa khóa https://thuviensach.vn Tuy nhiên nếu chịu lần theo các dấu của phong tục học cũng như xã hội mà đi sâu vào sẽ nhận ra lắm nét giúp ta giải đáp nhiều vấn nạn, chẳng hạn tại sao trong dịp “chơi xuân” sau lúc hát trống quân thì nam nữ hợp thân trên mặt đất, trên nệm cỏ xanh mà không đưa nhau vào buồng, lên giường cho đàng hoàng? Thưa vì hợp thân ở đây mang thêm niềm tin tưởng là họ kích động thiên nhiên, giúp trời đất trong việc nuôi dưỡng nên phải hợp thân trên mặt đất. Cho nên khi đào sâu nền văn hóa dân tộc, ta mới nhận ra mối liên hệ với đất đóng vai trò quan trọng: Tự việc tế thần làng cho tới ý tưởng tế thần lúa (xã tắc)… nói lên tính chất nông nghiệp của đất, của mẹ. Ta còn có thể thấy trong khi tế gia tiên cha dâng thịt, mẹ dâng trái cây (Socio 217) cũng là dấu ghi lại nguồn gốc hai nền văn hóa nhưng vì tính cách giao thoa nên cần tinh ý. Thí dụ với câu “Ông trăng mà lấy bà trời” thì ta đoán chừng câu ấy được đặt ra vào lúc ngôn ngữ đã công nhận cho ông cao hơn bà rồi, nhưng trong dân gian thì vang bóng thời xưa của các bà vẫn còn mạnh nên mới đem tiếng ông đặt cho trăng chỉ các bà, và cho trăng được quyện lấy trời lúc này đã bị gọi là bà thay vì là ông, tức còn phảng phất tục cưới rể: Bà lấy chồng chứ không phải ông lấy vợ. Vì thế việc bà trên ông có thể là chìa khóa mở ra nhiều bí mật ngày xưa; chẳng hạn lối kết hôn không mai mối gọi là bôn , thì lúc được đề cao lúc lại bị hạ. Tại sao có hai nền luân lý trái ngược một thuộc thành thị, một thuộc nông thôn? Tại sao có rất nhiều lễ chỉ mừng có từ vùng Trường Giang trở xuống. Tôi lấy một thí dụ về quyển “ Lãnh Nam dật sử ”. Đây là một thứ tiểu thuyết phong tục thuộc mấy nhóm dân ở vùng Lãnh Nam như dân Mường, Dao, Thái, Việt… Ai đọc cũng nhận ra vai trò phụ nữ rất cao. Lý công chúa đứng đầu Gia Quế, Mai tiểu thư đánh một phát mà hai tướng tiên phong ngã cái rụp… Học giả Trần Nhật Duật, người đã dịch nguyên tác bằng tiếng Mường ra tiếng Việt kết bằng câu: “Trừ cha con Hoàng Nhượng là bậc trung hiếu không dám bàn tới, ngoài ra những người có công huân ghi vào làn các hết thảy đều thuộc nữ lưu, hẳn chừng tác giả dụng ý gì chăng?” (tr. 312). Nếu hiểu địa vị các bà trong văn hóa Viêm Việt thì có thể thưa là không có dụng ý chi hết mà chỉ là phản ánh đúng phong tục của những nhóm dân thiểu số còn giữ nhiều tục cổ xưa mà thôi. https://thuviensach.vn Sở dĩ văn hóa cổ xưa của Viêm Việt chú ý đến vai trò quan trọng của phụ nữ là vì nó tiêu biểu cho nguyên lý mẹ cần thiết ngay từ trong cơ cấu để cùng với nguyên lý cha làm thành mối bình quân căn để. Văn hóa Âu Tây đã đánh mất nguyên lý mẹ nên xô vào tai họa một chiều gây nên vô vàn đau thương và vì thế tự ít thế kỷ này họ khởi đầu đề cao đàn bà. Nhưng nếu không đi sâu vào đến nguyên lý uyên nguyên mà chỉ đề cao suông thì sự đề cao đó sẽ đốc ra sự mê dục. https://thuviensach.vn IV. TRIẾT LÝ CÁI PHÁO Đùng đùng Tết đến sau lưng: Pháo Tết. Pháo dính liền với Tết. Và ăn Tết to mấy kệ thiếu pháo là thiếu đi một cái chi rất khó nói, chỉ biết nó làm cho tâm hồn không được thỏa mãn, cái đó mới lại kỳ cục vì đốt pháo có ơn ích chi đâu, chỉ là một việc lãng phí vô ích. Các nước văn minh giàu thịnh còn chẳng thừa tiền đem đốt đi như vậy. Chẳng thà gói thêm bánh, mua thêm thịt cho bữa ngày Tết thêm phong phú. Chứ pháo đem thêm được cái gì đâu nào? Chỉ thấy gây ra nhiều tai họa, có khi đến cháy cả nhà hay ít ra thì cũng làm mất cả ngủ nghê. Đúng thực, các lý lẽ trên đây không sai một li, ấy thế mà làm sao người Việt cũng vẫn nhớ pháo, tiếc xót ra mặt, mà giá trẻ con ít tuổi không nói làm gì. Đàng này có cả những người lớn đầu, những người trí thức, những kẻ có ăn học biết suy nghĩ cũng vẫn mê pháo mới chết người ta chứ. Thế thì phải có cái gì đây. Trong khi tìm hiểu chúng ta mới nhận ra rằng pháo đã bắt nguồn ngay từ buổi sơ khai và vì thế nó đã in vào tiềm thức dân tộc một nét sâu đậm. 1. – Sấm Số là phòng ngủ của các bà nằm ở phía Đông Nam nơi giữ thóc giống như đã nói trên. Đông Nam là cung quẻ Chấn (theo tiên thiên bát quái). Mà Chấn có hai nghĩa một là sấm, hai là chấn động bụng khi có thai. Khi bà Khương Nguyên đi chơi xuân đạp phải lốt chân người to lớn thì bụng bà động rồi to dần lên. Chữ Nho kêu là Chấn “Lý đế vũ mẫn hàm”. https://thuviensach.vn Tái chấn tái tức Đạp lên dấu chân chỗ ngón cái của trời thấy kinh động trong mình. Liền có thai và kính cẩn giữ gìn (Đại Nhã, Sinh Dân). Quẻ Chấn như vậy là báo hiệu sự sinh nở, mà sinh nở là mầu nhiệm, trung tâm của các Tôn giáo cổ sơ vì thế mà nhiều nơi thờ dương vật, âm vật [1]. Chính vì đó nên tất cả những gì có liên hệ tới sinh nở đều được coi trọng. Quẻ chấn cũng còn được quý trọng vì nó báo tin một sự sinh nở khác của lúa gạo mùa màng phong đăng ngũ cốc. Là vì sấm thường khởi vào đầu xuân, nghĩa là mùa gieo thóc giống. Thế mà sấm là dấu tốt, vì nó báo hiệu có mưa, mà có mưa là cả một nguồn sinh lực cho dân nông nghiệp. Nên trong bầu trời văn hóa này sấm đã giữ một vai trò then chốt, nó như tiếng kẹt cửa mà trời mở ra để đổ xuống cho loài người ít chậu nước uống. Vì thế mà cứ đến đầu mùa xuân là con nhà nông mong sấm như trẻ mong mẹ về chợ. Bởi vậy mấy tiếng sấm đầu tiên thường làm trào lên những nguồn hy vọng chứa chan, như có ai cho cái gì quý. Đó có thể là lý do đầu tiên giải nghĩa tại sao người Viễn Đông lại thích tiếng pháo, vì tiếng pháo nhắc lại tiếng sấm phần nào theo phản đáp điều kiện. Càng có thể nghĩ như vậy hơn nữa vì ngày Tết theo lịch nhà Hạ (chính là Việt lịch) nhằm vào cung Dần , tức là đầu xuân lúc khởi đầu có sấm. Vì lý do trên nên đến Tết người ta gây nên tiếng nổ để nghe vọt từ cõi lòng những triều vui mừng chở theo những niềm hy vọng bàng bạc. Ta có thể nghĩ như vậy, vì tục đốt pháo vào dịp Tết chỉ có ở trong cõi Viễn Đông, nơi còn giữ được nền văn hóa nông nghiệp hầu như duy nhất. Ngoài ra còn tìm được nhiều lý do để gây tiếng nổ bắt chước sấm thí dụ để nhắc nhở trời. Bởi vì nhiều khi tháng Ba đến rồi mà trời cứ lờ đi, không nói gì cả. Trời không nói rồi đâm ra không sấm nữa. Làm thế nào bây giờ? Cần phải nhắc nhở. Bằng cách nào? Thưa bằng gây ra tiếng nổ. Và thế là mãi từ xa xưa, vì lý do nọ lý do kia mà có tục lệ gây tiếng nổ vào tháng đầu xuân. Và vì tiếng nổ gây nên một sự vui sâu xa làm bằng rất nhiều hy vọng, nên nhiều người đâm ra khoái. Và một khi đã như thế thì sẽ có người chú ý đến việc cải tiến sự làm phát tiếng nổ. https://thuviensach.vn Ban đầu người ra dùng cây tre, luồng, nứa để đốt, mỗi khi cháy đến một đốt thì phát ra tiếng nổ. Bước thứ hai sẽ là dồn chất nổ vào ống tre. Bước này hiện thực được là khi tìm ra chất nitrate. Ai cũng biết bên Tàu tìm ra chất đó đã lâu đời. Các bước sau sẽ là sự pha độ các chất diêm sinh, than… làm cho tiếng nổ to thêm theo ý muốn. Bước sau nữa là nghĩ ra cách gói thuốc nổ vào giấy thay cho ống tre. Sau cùng đến bước hoàn bị: Pháo làm nhỏ lại để có thể kết thành tràng. Và từ đấy cứ mỗi khi Tết đến thì người Viễn Đông đã đốt muôn vàn tràng pháo. Vậy là tiếng pháo ban đầu đã lẫn vào với tiếng sấm gây nên sự mừng vui hy vọng, thế rồi thành tập quán: Tiếng pháo trở thành như những bước chân sột soạt của chúa xuân đang tưng bừng tiến lại tay trĩu nặng lì xì… Rồi càng về lâu về dài ý tưởng đó càng thấm sâu mãi vào tiềm thức, nên mỗi tiếng pháo về sau càng gợi lên những âm vang hy vọng của muôn thế hệ trước cũng đã rung cảm trong tiếng sấm, rồi tiếng pháo rạng xuân. Và do lẽ đó đến nay khi phải ăn Tết im lặng không có pháo thì nhiều người cảm thấy như thiếu một cái gì rất sâu xa vậy. 2. – Rồng Cùng đi với sấm là rồng. Dân gian nông nghiệp tin rồng là chủ mưa. Nếu sấm báo hiệu mưa thì rồng báo hiệu nước. Và người dân ta gọi những cây mây ở chân trời là vòi rồng hút nước. Do lẽ đó mà rồng đi với nước và nước ta tự ngày khai quốc đã dùng rồng làm vật tổ dương. Và một trong những vua đầu tiên có tính chất huyền sử được gọi là Lạc Long Quân. Và vì rồng đi với nước nên Lạc Long Quân “ở dưới thủy phủ” . Vì những lý do đó nên người Việt mới tự xưng là con rồng cháu tiên . Và đầu xuân khi nghe tiếng sấm thì dân tin là rồng vừa ngủ suốt mùa đông đã bắt đầu thức https://thuviensach.vn giấc để làm sấm làm mưa cho con cháu nhờ. Cũng vì mưa là nguồn sống cho dân nông nghiệp nên những vật đi với mưa được chú ý nhiều như cóc (thiềm thừ) được gọi là cậu ông trời vì đó. 3. – Trống Trống đi với rồng. Trống thay mặt cho rồng cũng như sấm. Vì thế trống cũng là một bảo khí của nước nhà, nên có trống cầu mưa có tục thờ trống và có miếu gọi là Đồng Cổ thần. Bồ Tát Tôn Quang Hiến vịnh về Nam Man có câu: Đồng cổ dữ Man ca Nam nhân kỳ tài đa Trống đồng với ca Man Người Nam tế lễ thường. Chữ Man có nghĩa rất rộng, người Tàu xưa dùng để chỉ những dân ở mạn Nam, tức là Bách Việt mà biên cương cũng rộng bằng biên cương của trống đồng… Trống đồng chắc đã có lâu đời lắm, ít nhất là đời nhà Hạ mà nhà Hạ với Việt tộc thì về văn hóa là một. Cho nên việc chế ra trống đồng khởi thủy chắc cũng là liên hệ với hiện tượng mưa, hiện tượng sấm: thần sấm, thần mưa và vì thế trên mặt trống đồng có khắc hình cóc nhái hay chim nước. Chim là vật biểu của tiên nhưng tiên kết hôn với rồng dưới nước, nên thường chú ý tới những chim nước như tên Hồng Bàng thì Hồng là một giống hạc quen sống trên sông Dương Tử. Đó là đại loại những tang chứng của nền văn minh nông nghiệp. Hiện nay khắp thế giới thì chỉ có Viễn Đông còn kể được là nền văn minh nông nghiệp, mà đại diện từ cổ xưa đến nay trong cõi Viễn Đông này là dân Lạc Việt, Việt Nam. Nền văn minh Tây Âu đang lan tràn khắp thế giới, nhưng https://thuviensach.vn nó quá nặng chất du mục công thương nên biết bao người đã nhận ra sự thiết yếu phải duy trì và làm phát triển những yếu tố tâm linh của nền văn hóa nông nghiệp. Cho nên, sự duy trì một, hai tiêu biểu cho nền văn hóa nông nghiệp trở nên đầy ý nghĩa. Chính vì thế mà chúng tôi đề tựa chương là Triết lý cái pháo . Và sau khi đã tìm về nguồn gốc, chúng ta mới nhận ra pháo không chỉ là trò chơi của trẻ nhưng cùng với “Lôi công” và “Cổ thần” là những chứng từ của sự ra đời nền văn hóa nông nghiệp. [1] Trong quyển Nalssance de la tragdie, Nietzsche cĩ ghi nhận: La vraie vie consistant dans la survie collective due la gnration humaine grce aux mystres de la sensualit. C’est pourquoi le symbole vnrable par excellence, la pense profonde de toute pit antique, tous les dtails de la fcodation, de la gestation, de la naissance veillaient les plus hautes et les plus solennelles motions. https://thuviensach.vn V. TRIẾT LÝ NHỮNG CON SỐ Ngày: 10 tháng 3 lễ giỗ tổ Hùng Vương Ngày: 15 tháng 3 lễ Thanh minh Ngày: 5 tháng 5 lễ Đoan ngọ Ngày: 15 tháng 8 lễ Trung thu Ngày: 9 tháng 9 lễ Trùng cửu… Tất cả bấy nhiêu con số không phải là con số để đếm đo kiểu thường nhưng mang theo một ý nghĩa mà nếu chưa hiểu được thì kể là còn để một thiếu sót nghiêm trọng trong việc tìm về nguồn gốc văn hóa Việt Nam. Đây là một nền văn hóa có tính cách tiêu biểu hơn hết. Xưa nay hễ đã nói đến tiêu biểu là phải kể tới các con số. Và văn minh nào cũng dùng số làm biểu tượng, nhưng vì tính chất biểu tượng rất co dãn nên ý nghĩa được gán cho cũng trở nên dị biệt. Lấy thí dụ về ý nghĩa ngày giỗ Tổ 10-3 thì có ít ra hai kiểu cái nghĩa chính: một là coi con số 10 là tận cùng của diễn tiến đi tự 1 đến 10. Và lúc ấy 3 là then chốt vì nó là số nhiều đầu tiên đầy đủ. Số nhiều thứ nhất tuy là 2 nhưng nếu phân tách ra thì mới là 1 cộng 1 còn có thể kể là 2 số trời hoặc nữa mới là số đất chưa hàm ngụ được số trời. Vậy phải chờ đến số 3 mới là đất trời hội tụ tức 2 cộng 1 bằng 3 cho nên người ta lấy số 3 làm số toàn diện tiên thiên, theo đó khi vua đi săn thời không được giết 3 loại vật vì như vậy là tiêu hủy toàn thể loài vật. Điều ấy chỉ nên dành cho việc cúng tế. Khi tế thì tế tam sinh (bò, dê, heo) để chỉ toàn thể giống thú. Khi đào xuống đất đến “tam tuyền” thì tức là sâu nhất rồi (s. m. III p. 194. Socio. 19). Vài thí dụ trên nói lên tính chất toàn thể quy cho số 3. Đó mới là một lối cắt nghĩa, còn có thể thêm nhiều lối khác, chẳng hạn coi số 3 https://thuviensach.vn là tam tài, còn số 10 là 2 lần 5 chỉ cặp số 5 âm trong Hà đồ (xem Dịch Kinh linh thể ) hoặc chỉ ngày trùng ngũ 5-5. Có nhiều lối giải nghĩa. Đó gọi là tính chất co dãn của biểu tượng, và bởi thế biểu tượng các số trở thành bấp bênh và ở nền văn minh nào cũng thế. Chính vì vậy mà sự tiêu biểu bằng số đã biến dần. Duy bên Viễn Đông nó đã sống dài hơn vì nó được hai điểm đặc biệt khiến cho việc tiêu biểu bằng số có phần vững chắc hơn. Trước hết là các con số được đặt vào biên cương Minh triết, tức là được cơ cấu hóa theo cung ngũ hành. Vì thế muốn hiểu cơ cấu các số thì phải hiểu cơ cấu ngũ hành (xem Chữ Thời, chương Ngũ Hành). Học về cơ cấu ngũ hành tức cũng là học về cơ cấu Minh triết Việt Nho. Điều nhận xét thứ hai là nội dung các con số còn được xác định thêm do nội dung các lễ lạy. Mà nội dung quan trọng nhất của lễ đề cao hai tác động then chốt của nông nghiệp là giá sắc (gieo gặt). Gieo vào mùa Xuân Gặt vào mùa Thu. Vì thế mùa Thu có nghĩa là làm cho hoàn bị, tựu thành cũng là số 9. Một cuộc diễn tiến trọn vẹn thì đi tự 1 đến 9 rồi tự 9 trở về 1. Vì thế mà chọn lễ mồng 9 tháng 9. 2 lần 9 là 18, 18 đời Hùng Vương. Cho được làm trọn phải có đức Dũng, phải can đảm Hùng cương. Như vậy ta thấy bằng chứng rõ là các con số nói trên thuộc văn minh Lạc Việt nhiều hơn như thấy trong hình Lạc Thư sau: Ta nhận thấy từ ô số 5 thì Hồng Phạm có 8 ô, rồi cộng chiều nào ta cũng được số 15. Thế là có Tết Trung thu 15 tháng 8, không những đúng trăng rằm mà còn trùng với số 15 trong Lạc Thư là sách của Lạc Việt. Lễ này quan trọng vì nó nhằm mừng việc thu gặt, nên cũng quan trọng như lễ giá https://thuviensach.vn (gieo) vào đầu xuân. Ban đầu rất có thể lễ gieo trùng hợp với lễ Thượng điền chỉ kinh nghiệm nông nghiệp. Cũng như có thể ban đầu số 3 là một loại biểu thị riêng biệt, đến sau mới kết hợp với kinh nghiệm nông nghiệp để làm nên lễ Thượng điền. Có lẽ vì sự gần gũi này mà nước ta dùng mồng 10 tháng 3 làm lễ giỗ Tổ, vì cũng là một thứ nhớ đến vị điền tổ, tức các vị đã khai sáng ra nước Việt Nam, gồm chung vào danh hiệu Hùng Vương. Chữ Hùng nói lên đức tính dũng mạnh can trường cần phải có thì trời lập ra được nước và duy trì được đến nay. Bởi chưng do địa dư mà nước Việt Nam luôn luôn phải đương đầu với những đe dọa rất lớn lao nên cần phải can trường. Lễ này cũng gần với lễ Thanh minh chú ý đến người chết. Còn chính ra thì nó là lễ mừng sự phục hoại của thiên nhiên chết trong mùa Đông sống lại mùa Xuân. Cổ xưa trên thế giới đâu đâu cũng có lệ này, nó gần giống với lễ Phục sinh của Ki tô giáo, cũng mừng vào đầu xuân để thay cho lễ Phục sinh của cảnh vật thiên nhiên xưa. Chữ Nho kêu là “Thanh minh” có nghĩa là làm cho trời thanh đãng sáng sủa không còn mây mù của mùa Đông. Đó là một lễ nói lên sự sống mạnh phì nhiêu, một lễ của tuổi thanh niên… Sau này đem ý nghĩa chết vào thì “thanh” có nghĩa là “tảo mộ gọi là đạp thanh” . Còn đối với nước ta thì là kỷ niệm thời thanh xuân khai quốc của các vị tiên tổ đầy can đảm hùng cường. Đấy là suy luận chung về con số. Bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu nó qua một số lễ lạy. https://thuviensach.vn VI. ĐỊA VỰC LỄ LẠY NGUỒN GỐC VĂN MINH Điều đặc chú trong chương này là địa vực một số lễ được coi như ấn tích của tác giả văn minh: nếu văn minh là nông nghiệp thì ở đâu mừng lễ đó, tức đấy là chủ khởi sáng ra nền văn minh. Tinh chất các lễ nông nghiệp là đi sát thiên nhiên như mùa gặt, mùa cấy, hoặc những hiện tượng thiên nhiên như ngày trùng ngũ mừng mặt trời vào cúng Ngọ. Nói chung là các lễ này hướng nhiều đến sự sống, và gọi là Tết : Tết Nguyên đán Tết Đoan ngọ Tết Trung thu. Có lẽ ý nghĩa chữ Tết là một lối đọc chữ Tiết , hiểu là tiết nhịp uyên nguyên mà mọi tác động đều nhịp theo thì mới đạt cảnh thái hòa: “Phái nhi giai trùng Tiết vị chi hóa ” . Theo Tiết là những nhịp sống cao độ mà mọi cơ năng đều cố vươn lên cực điểm để cùng nhịp theo với tiết điệu thiên nhiên. Vì thế mà có những cuộc vui, tưng bừng ăn uống đình đám kèm theo nói lên sự sống tràn ngập. Văn minh nông nghiệp đặt nền trên sinh sinh nên chú ý nhiều về sống hơn về chết như lễ Thanh minh, lễ các vong hồn là những lễ không được chú ý lắm và phần nhiều mang nặng ảnh hưởng Phật giáo. Chúng ta chú ý đến ba cái Tết (Lễ sống). Tìm hiểu nơi phát xuất của cái Tết với những biến dạng của nó xuyên qua các đời và hiện nay còn những đâu giữ nhiều nhất… thì đấy là việc dài hơi của một nhóm nghiên cứu và thuộc văn học xã hội hay Cổ tục học. Ở đây chúng tôi không bàn kỹ về các lễ mà chỉ nhằm ghi lại ít nét thuộc địa vực phát xuất hoặc duy trì [1]. https://thuviensach.vn 1. – Tết Trước hết là Tết . Cái Tết của ta rất lớn lao như chưa có đâu ăn Tết trọng thể bằng: kéo dài đến cả hai tháng. Tháng Chạp sửa soạn còn tháng Giêng thì ăn Tết ở nhà và tới nay tuy đời sống bắt phải giản lược nó vào những chiều kích bé nhỏ, nhưng so với các nơi khác Tết vẫn còn to hơn, lâu hơn nhiều lắm. Có một điểm mới xuất hiện là bên Tàu, Đài Loan, Nhật đã bãi bỏ Tết để ăn Tết Tây, trái lại bên Việt Nam mặc dầu ở vào tình trạng thuộc địa thì lẽ ra phải bỏ Tết trước hết, vậy mà vẫn giữ Tết thì có nên xem đó như một dấu chỉ ngầm rằng xưa kia tổ tiên Việt đã đặt ra cái Tết? Đấy chỉ là một sự gợi ý mời các nhà nghiên cứu về sau, ở đây chúng tôi chỉ tìm hiểu ít nhiều nét riêng biệt của ba ngày Tết. a) Gia đình tính Điều nhận xét đầu tiên nằm trong chữ “tháng Giêng ăn Tết ở nhà”. Đây là nét đặc trưng, bởi vì Tết là lễ trọng thể nhất cũng như lâu dài nhất trong năm mà lại không mừng ở đền chùa cũng như không ở những công sở mà lại mừng ngay ở nhà thì điều đó biểu lộ gia đình là nền móng của xã hội, mà không có gì khác thay thế được kể cả tôn giáo lẫn chính quyền. Về phía chính quyền thì đã có mấy lễ chung rồi như hai lễ “tế Đế, tế Thường” hay một hai kỷ niệm gì đó thì nói chung dân vẫn tỏ ra hờ hững, họ để chú ý vào đó may ra được một phần mười, còn tất cả thì dốc trọn vào cái Tết phần lớn nằm trong khuôn khổ gia đình. Phía các tôn giáo cũng có tính cách kéo Tết ra khỏi gia đình ít ra một phần. Không thành công vì chỉ có thể kéo ra khỏi gia đình để đem đến chỗ tinh thần hơn. Nhưng theo quan niệm Việt Nho thì tinh thần đã lại nằm sẵn ngay trong nhà rồi nên không có gì hơn mà phải ra ngoài nếu có ra chăng thì cũng là rất chóng vánh: đi lạy Phật, hay hái lộc một lát rồi về “ăn Tết ở nhà”. TÁO QUÂN https://thuviensach.vn Điều biểu lộ tinh thần gia đình tính thứ hai là tục Táo quân: Ngày 23 tháng Chạp, ông Táo về trời lập bô về các việc đã xảy ra trong năm qua có liên hệ đến nước, đến gia đình. Đấy là một tục lệ coi có vẻ dị đoan nhưng biểu lộ niềm tin vào Hoàng Thiên Thượng Đế của các dân Viễn Đông. Đêm 23 tháng Chạp các gia đình thường tiễn ông Táo một bữa cơm thịnh soạn những món ăn toàn là đồ ngọt: cốt để cho khi lập bô ông dùng những lời lẽ ngọt ngào: vì thế mâm chất bánh ngọt, mật, lại thêm một xị mật ong để bôi mép ông Táo! Lễ này do các ông phụ trách, còn các bà lo bếp ráp không tham dự. Nhân dịp này ông Eberhard nhận xét về mối liên hệ giữa người và thần trong xã hội Viễn Đông: Tuy thần có quyền phép hơn nhưng đó chỉ là sự khác về cấp bậc, chứ không về giống loại. Thần cũng chỉ là những công chức, một thứ quan lại, coi một việc nào đó mà nếu không chu toàn nhiệm vụ thì phải đổi đi. Thí dụ khi trời đại hạn dân đã cúng tế đàng hoàng mà thần vẫn không chịu làm mưa thì rất có thể tượng thần sẽ bị đem ra phơi nắng để nếm mùi đại hạn là gì. Cũng có thể bị quăng vào đống rác, rồi dân làng viết đơn lên Thượng Đế xin sai xuống một ông thần khác đắc lực hơn. Học giả Eberhard thêm rằng: Tuy người Âu Tây chúng ta coi là buồn cười nhưng theo các nhà tâm lý thì lối quan niệm bình đẳng với thần thánh kiểu này không gây ra cảm tình tội lỗi hay ý niệm bị lệ thuộc quá đáng vào quyền năng thần thánh, đó là điều có sức cứu gỡ tâm hồn khỏi nhiều sự căng thẳng thần kinh do sự dồn nén, sợ sệt thần thánh nếu giúp cho con người cảm thức được quyền hạn riêng của mình. Tuy biết mình là một vật nhỏ không có nhiều quyền năng nhưng có một số quyền lợi bất khả sang nhượng, và hai bên đều có ăn sang ăn giả chứ không một chiều như bên Âu ( Festivals 22). Đối với tục lệ Táo quân ta có thể coi như việc thanh toán sổ sách trong năm sắp qua đặng có thể bước vào năm mới với tâm hồn thanh thản. b) Tổ tiên Ngày mồng một đầu năm là ngày trọng đại hơn cả, cũng là ngày nói lên tính chất gia đình đầy đủ hơn hết vì đấy không còn phải là gia đình nhỏ hẹp https://thuviensach.vn nữa nhưng là đại gia đình ăn về trước đến các tiên tổ đã qua cũng được thỉnh về để cùng ăn Tết với con cháu. Còn về hàng ngang nghĩa là những người đang sống thì dù ở xa mấy mặc lòng trong mấy ngày Tết, gia đình cũng cố tụ hợp để cùng chung vui. Bởi vậy có thể nói ngày mồng một Tết là tuyệt độ cao của đời sống gia đình trong đó mọi người đều được nhắc đến nhờ có tục lệ đọc và ghi gia phả. Ông Eberhard có nhận xét về việc ghi gia phả trong dịp này như sau: Bất kỳ đứa con nào sinh ra dù là chết yểu cũng được ghi chú tên tuổi phần số để lại các thế hệ về sau, nhờ đấy ai nấy đều có một địa vị trong cái chuỗi dài bất tận của các thế hệ. “Thật là một điều đáng suy nghĩ trước sự đổ vỡ của gia đình hiện nay, các nhà tâm lý nói đi nói lại rằng rất nhiều những khó khăn nội tâm của chúng ta như bệnh thần kinh… là hậu quả của những cảm thức bất an ninh một cách sâu xa, bởi ngay tự trong những ngày bé bỏng đứa trẻ đã cảm thấy mình trơ trọi trên đời: vì sống trong một nhóm tuy gọi là gia đình nhưng thực chất chỉ là một đơn vị kinh tế. Trái lại ở đây ai nấy đều có một địa vị ngay từ lúc bé thơ và truyền lại mãi về sau. Nó vẫn là một phần trong công thể, mặc dầu ngày mai có xảy ra sao đi nữa nó vẫn là một phần tử nên vẫn còn được tham dự trong buổi tiệc đầu năm này” ( Festivals 43 ). Đấy là cảm nghĩ của một tác giả ngoại quốc về tính chất gia đình của ngày Tết, đã nhìn ra những điểm rất sâu xa nhưng vì chúng ta ở trong cuộc quá quen nên không nhận thấy được, nên cần nhờ đến những suy nghĩ của người ngoại cuộc xem bằng con mắt lạ lẫm tra hỏi thì cũng là điều hay. c ) Múa lân Trong các trò vui công cộng dịp Tết thì có tục múa lân. Trong lúc múa người ta vừa múa vừa ca những bài hát phương Nam “leader of the group sang the Southern song” ( Festivals 15). Tôi ghi điểm này vì coi là kiện chứng cho tính chất phương Nam của ngày Tết, tức là người Bách Việt rất ưa ca vũ. Nhưng tự năm 200-100 trước dương lịch xảy ra một sự đứt khúc rõ rệt gây nên do sự thắng thế của Hán Nho tức một thứ Nho đã bị trộn vào https://thuviensach.vn quá nhiều chất thanh giáo Bắc phương, nên tự đấy ca vũ bị trụt xuống dần cho tới độ “xướng ca vô loài”, và dân ca chỉ còn sống bám víu vào một số lễ lạy mà thôi. Bởi vậy cần phải có con mắt tinh tấn nhìn những cái bé nhỏ để tìm ra dấu vết của nguồn gốc chúng ta. 2. – Đoan ngọ Tết Đoan ngọ đã được bàn tới trong Việt lý bài Âu Cơ Túy, ở đây chỉ ghi nhận thêm ít điểm minh chứng đó là Tết của Việt tộc. Điểm trước hết thuốc màu dùng trong Tết này là sắc đỏ để chỉ sự sáng nóng, mặt trời, mùa hạ, sự sống… vì thế đấy là lễ sống thứ hai gọi là lễ “cầu may” hay lễ của sự sống thuộc phương Nam: “Double fifth is a Southern festiva, lucky festival or festival of the living” ( Festivals 70-71). Vì thế Tết này ít có ở phía Bắc, ngược lại được mừng trọng thể ở phía Nam nước Tàu, tức trong miền của Bách Việt. Một trong những trò vui của Tết là cuộc đua thuyền trong đó có hai dấu nói lên tính chất phương Nam: Một là mỗi thuyền gồm 50 người. Con số 5 vừa nói lên ngày mồng 5 tháng 5 mà đồng thời cũng nói đến “50 con theo mẹ lên núi, 50 con theo cha xuống biển”. Thứ hai là dùng cồng để đánh hiệu đua thuyền. Cồng đi với bà nên là dấu chỉ thuộc Viêm Việt. Tuy nhiên những yếu tố này dễ mất ý thức nên sau lẫn lộn. Nhất là vì Tết này bị vương triều cấm đoán ít ra hạn chế, thí dụ việc đua thuyền, vì khi đua thuyền người ta hát những bài của Khuất Nguyên rất dễ gợi lòng ái quốc, nhưng còn vì một tục lệ nguy hiểm cho tính mạng Hán tộc. Không hiểu tục bơi thuyền có tự lúc nào, nhưng về sau nó kéo theo sự kỷ niệm Khuất Nguyên trầm mình dưới sông Mịch La. Khuất Nguyên là người Nam Man thuộc nhóm Thái hoặc Dao tức Bách Việt ( Festival 75) vì không được vương triều thâu nhận những bản điều trần mà tự vẫn, thì đấy là một mối thù của dân gian đối với vương triều của Hán tộc, và vì thế có tục bắt một người Hán để đến ngày đua thuyền thí tế đặng báo thù cho Khuất Nguyên. Đấy là tục lệ nguy hiểm cho Hán tộc nhất là những người có bộ râu dài đẹp. Dân Nam Man bắt cóc họ đưa về nuôi https://thuviensach.vn nấng đàng hoàng để đến ngày trùng ngũ đưa ra dìm sông tế Khuất Nguyên. Về sau vì có nhiều biến đổi, nhiều hiện tượng dị đoan len lỏi vào như việc thả cơm cháo xuống nuôi hồn Khuất Nguyên… ( Festivals 76). Nhưng ý tưởng cầu mưa để đặng mùa màng phong đăng luôn đi kèm lễ, nên ta vẫn có thể nhìn ra được gốc gác của nó thuộc nông nghiệp và từ phương Nam phát xuất. 3. – Trung thu Trung thu là Tết sống thứ ba hoàn toàn có tính cách đàn bà. Trước hết đây là lễ đặc biệt thuộc mặt trăng. Vì thế không mừng đúng vào ngày Thu phân là 21 tháng 9 SCN nhưng lại mừng vào ngày 15 tháng 8, thường là cuối tháng 9. Cứ kể ra thì lễ nào cũng gọi được là thuộc mặt trăng vì theo lịch Viễn Đông thì tháng tính theo mặt trăng biểu thị nguyên lý mẹ. Nhưng lễ này còn có thêm hai nét nữa nói lên nguyên lý mẹ là mừng về đêm, nên có tính chất “lãng mạn” nhất (it is undoubtedly the most romantic. Festivals 79). Hai nữa là việc tế tự thì do các bà chủ sự. Tại sao lại thuộc các bà? Lý do sâu xa là vì mùa gặt là công các bà: Thời sơ nguyên đàn ông đi săn, đàn bà ở nhà nghĩ ra việc gieo mà đã gieo thì rồi có gặt, cho nên mọi Tết đều có tính chất mẹ hơn cha. Nhưng vì hậu quả của gặt kéo dài hơn nên có lẽ vì vậy mà Tết Trung thu – một Tết mừng mùa gặt, mùa tích trữ (thu tàng) thóc lúa nơi buồng các bà, nên là lễ thuộc các bà hơn và vì thế cũng phát xuất bởi vùng Viêm Việt nhất là Phúc Kiến, theo như các sách cổ nói: “Old texts tell us that the midautum festival orinated in Fukien Province” ( Festivals 100). Không hiểu tự lúc nào đó thì có một lễ khác gọi là Trùng cửu, tuy sau này sáp nhập với Tết Trung thu nhưng ban đầu là hai Tết khác nhau. Tết Trung thu hoàn toàn vui vẻ, còn Trùng cửu thì có mang sắc thái lo âu, xem ra là riêng của dân Việt – một dân có nhiều điểm giống với các dân Thái. “The festival of “Double Nine” belonged to an East Chinese ethnic group, the Yueh. These Yueh were in many respects similar to the Tai” ( Festivals https://thuviensach.vn 111). Có lẽ vì sự bành trướng của du mục Bắc phương nên nhiều lần Viêm Việt phải bỏ tất cả để tháo chạy, nên lễ Trùng cửu tỏ ý lo âu chăng. Ngoài những lý lẽ trên thì ta còn thêm được một chiều kích siêu hình của Tết Trung thu tức là sự trùng hợp với các số Lạc Thư mà Lạc Thư biểu thị một nền triết đạt quan như đã trình bày trong quyển Dịch Kinh linh thể (bài cuối). Thế mà Lạc Thư có những con số hợp với Tết Trung thu. Vì Lạc Thư gồm 8 lô với một trung cung , và cộng chiều nào cũng được 15, như vậy là có sự trùng với số ngày 15 tháng 8 cũng như trùng hợp với ý cùng của Tết là ăn mừng mùa màng thu gặt thì Lạc Thư cũng là triết đại quan thâu thái, vì là biểu hiện nguyên lý mẹ đối với Hà Đồ biểu hiện nguyên lý cha. [1] Trong việc này chúng tôi có nhờ đến tài liệu của một số học giả trong đó phải kể tới quyển Chinese Festivals của giáo sư Wolfram Eberhard (Henry Schuman 1952 ) tác giả đã tốt nghiệp về Triết học, Xã hội và Nho học năm 1931. Năm 1933 được hội Baessler cấp học bổng cho sang Tàu nghiên cứu về Cổ tục học nước này. Luôn thể ông có dạy ở Đại học Bắc Kinh cũng như Bắc Bình. Nhờ nghiên cứu tại chỗ nên sách của ông là những tài liệu đáng tin cậy có thể dùng làm tiêu điểm đầu tiên cho những ai muốn đi sâu vào đề tài. https://thuviensach.vn BỐN CHẶNG HUYỀN SỬ NƯỚC NAM https://thuviensach.vn I. NỀN TẢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Tập này nhằm xác định một số những mệnh đề còn để qua chung trong quyển Việt lý nhất là bài “Theo chân sử truyền” . Nhân tiện cũng là để trả lời một số thắc mắc được nêu lên do đấy. Những dữ kiện làm cơ sở suy tư ở đây mượn trong quyển Han chinese expansion in South China (the Shoe string Press inc 1967), của giáo sư Harold J. Wiens (sẽ viết tắt là Wiens) thuộc Đại học Yale bên Mỹ chuyên về ngành Nhân chủng học. Đây là một công trình đã đúc kết những điều sở đắc của rất nhiều nhà nghiên cứu nổi danh, trong đó phải kể trước hết đến sử gia Eberhard đã dày công nghiên cứu tại chỗ về các sắc dân sống ở mạn Nam nước Tàu mà ông cho là có tới con số hơn tám trăm. Phương pháp của ông thuộc về Văn hóa và Phong tục học… Người thứ hai là ông Eickstedt đi lối Ngữ học và Chủng tộc (hình dáng, thân thế, khuôn mặt, nước da…). Ngoài ra rất nhiều học giả người Trung Hoa, ở đây chỉ nêu ra vài ba tên tuổi làm thí dụ: Ông Trương Kỳ Quân 張其昀tác giả quyển “ Trung Quốc dân tộc chí” 中 國民族志 . Ông Từ Tùng Thạch : “ Thái tộc, Xung tộc, Việt tộc khảo ” 徐 松石《泰族徸族粵族考》 ( Thượng Hải 1949) và quyển thứ hai là “Việt giang lưu vực nhơn dân” 《粤江流域人民史》(Thượng Hải 1947). Lăng Thuần Thanh 凌純聲và Nhuế Dật Phu 芮逸夫" Tương Tây Miêu tộc điều tra báo cáo” 湘西苗族調查報告(Acadennia Sinica. Thượng Hải 1947)… Như vậy là về đàng tài liệu đã bảo đảm được giá trị quốc tế của quyển sách, vì thế nhiều chỗ chúng tôi sẽ trưng cả bản văn bằng tiếng Anh. https://thuviensach.vn Có một điểm tưởng cũng cần nói tới là tất cả các tác giả trên đây ít ra về phía người Mỹ không hề có một chủ thuyết nào, mục đích của họ chỉ là để tìm hiểu sự kiện khách quan nên khỏi e ngại có sự uốn nắn cho sự kiện hợp theo chủ thuyết của mình. Quyển sách trên cũng có nhiều lần nhắc tới huyền thoại. Vậy là hợp chủ trương của chúng tôi về đàng phương pháp. Vì chúng tôi dùng lối huyền sử thì tất nhiên phải dùng đến huyền thoại, tuy nhiên lại dùng theo một lối riêng gọi là huyền sử. Xin tóm qua lại như sau: Huyền sử khác lịch sử ở chỗ có dùng huyền thoại nhưng lại đăng tên sử vì được giải nghĩa dưới ánh sáng của định chế, phong tục, cổ tục … là những yếu tố có tính chất lịch sử. Đây là phương pháp không những hợp với khoa học hiện đại (uyên tâm, cơ cấu, triết học đều dùng thần thoại) nhưng còn là một yếu tố cần thiết trong việc đi tìm về nguồn gốc nước ta. Bỏ huyền thoại, chúng ta hầu không còn gì để làm tiêu điểm dò đường. Vì trước nhà Đường và Tống thì sử liệu về dân mạn Nam nước Tàu rất hiếm hoi. Giáo sư Wiens kể lại lời học giả Eickstedt đại khái rằng: Tư Mã Thiên sinh ở Long Môn thuộc Sơn Tây nên nhất quyết từ chối không để lại tài liệu gì về dân mạn Nam. Điều đó người Tàu mạn Bắc đều đồng ý. Tác giả phàn nàn về điểm những học giả Tây Âu chỉ biết ngốn nghiến sử liệu của Tư Mã Thiên hay những sử gia khác mà không chú ý đến việc bẻ quặt do sự bỏ sót nhiều sự kiện, nhất là khi nói đến các dân man di ngoài Hán tộc. “Where fault is found with Chinese history it is with the distorstion resulting from omission of facts particularly in the accounts dealing with the so called “barbarians” or non Han Chinese tribes people” (Wiens 30). Chính vì thế nên sử gia Tàu đã nhắc tới quá ít về những dân Môn, Man, Miêu, Thái, Việt mặc dầu hàng bao thế kỷ họ đã cư ngụ ở mạn Nam nước Tàu và nước Trung Hoa hiện nay đã nhiều ngàn năm chính là đất của Việt Thái. Lý do sự bỏ sót đó là họ đã xem di sản Nho giáo xuyên qua lăng kính nhuộm đẫm màu Hán tộc nên chỉ nhìn nhận là có những gì thuộc miền Bắc nước Tàu “an outlook through very darkly (Han) Chinese colored glasses which recognized only what was North Chinese” (Wiens 30). https://thuviensach.vn Có một lý do nữa khiến người Hán từ chối những tài liệu xưa là có lẽ vì họ muốn bảo toàn quyền tác giả tuyệt đối của họ trên Nho giáo cũng như về sự họ là chủ nhân đầu tiên trong nước Tàu. Thế mà những điều này sẽ bị đặt lại thành vấn đề khi người ta chú ý đến tất cả những tài liệu khác, như sẽ làm trong bài này. Vì những lý do trên mà chúng tôi bó buộc phải dùng đến huyền thoại, truyền kỳ để trám lỗ hổng. Sử liệu thì mới có từ đời Tống, một ít đời Đường, rất ít đời Hán. Trên nữa chỉ còn có Kinh Thư, mà Kinh Thư có lấy gạn cũng chỉ được đến nhà Thương. Trên nữa chỉ còn là huyền thoại, thế mà đấy mới là quãng hình thành của nền văn minh Nho giáo. Vậy nếu muốn tìm ra phần đóng góp của Việt tộc thì phải tìm ở thời này, và nếu thế thì phải dùng đến huyền thoại. Cho tới nay các sử gia kiêng dùng thần thoại vì cho là thiếu nền tảng khoa học, nhưng huyền sử cho rằng có một phương pháp biến huyền thoại thành tiền đường của khoa học, đó là sự dùng cổ tục học, định chế, ẩn dụ… để “đọc ra” nội dung của truyền kỳ và huyền thoại. Đó là phương pháp chúng tôi dùng và kêu là huyền sử. Sở dĩ mãi cho tới thế kỷ này người ta mới nghĩ tới khai thác huyền thoại là vì tới nay mới đủ yếu tố để có thể dùng. Vì muốn đi vào rừng huyền thoại một cách “khoa học” thì đòi người dùng phải biết rất nhiều để có thể đối chiếu, người ta quen gọi đó là phương pháp “thiên văn” hay là dùng thiên lý kính tức là phương pháp bắt phải lùi rất xa cả về thời gian lẫn không gian để có thể nhìn bao trùm đối tượng. Về thời gian phải lùi hẳn về buổi sơ khai lúc còn khuyết sử. Về không gian phải nhìn bao trùm cả khối người phương Nam, hơn thế nữa nhiều lần còn phải đối chiếu với các nền văn minh khác. Có như vậy mới nhìn ra cơ cấu là cái thuộc toàn thể. Chính vì thuộc toàn thể nên nó là cái gì chìm rất sâu dưới miền tiềm thức, cần phải lùi xa mới nhận ra. Đồng thời lại phải nhìn rất rộng bao quát được nhiều khoa cùng hướng như phân tâm, cơ cấu luận, siêu ngôn (mestalanguage) là những khoa cũng cố gắng nhìn xuyên qua đợt ý thức để đặt tầm tiềm thức là địa vực của cái mà Kinh Dịch kêu là Cơ, tức cũng chính là cái mà các nhà Cơ cấu luận ngày nay đang muốn tìm. Khi xem toàn diện theo lối đó sẽ thấy những hình thái khác lạ, làm điểm tựa cho những quyết đoán mà người https://thuviensach.vn không quen sẽ cho là sai. Vì thế ở đây tôi xin đưa ra vài thí dụ thiết thực để xác định. Trước hết khi nói đến huyền sử thì câu nói phải hiểu theo lối toàn diện, nếu hiểu theo lối thông thường cục hạn thì có chỗ sai, nhưng sai trong tiểu tiết mà lại đúng trong toàn bộ. Thí dụ khi nói đến Hán tộc du mục thì tưởng là rất dễ bác vì từ lúc xuất hiện đã thấy Hán tộc bám sát nông nghiệp cũng như miền Nam nước Tàu vẫn có dân du mục. Thế nhưng nhìn vào cơ cấu uyên nguyên thì lại phải nói văn hóa Hán tộc thuộc du mục. Y như người Ai Cập phần nhiều nông nghiệp nhưng cơ cấu văn hóa là du mục vì nó có những nét thuộc du mục, thí dụ việc tuyệt đối hóa quân quyền, phụ quyền… vì thế trong tam tài của Egypt thì ngôi Ka là cha, ngôi King là con rồi yếu tố nối kết của cha con lại là Ka-mutef tức cũng là Ka nam tinh (xem Jung, Mysterium conjunctionis, c.IV. 1-3). Cơ cấu đã như vậy thì trong xã hội sẽ có những đặc ân tuyệt đối sinh ra mối liên hệ chủ nô, còn cai trị thì thiên về pháp hình… là những nét thuộc du mục sẽ theo bén gót khối dân ấy lâu về sau khi đã đi sang nông nghiệp, như sẽ nói về Hán tộc dưới đây. “Tay thì nông nghiệp mà tiếng là tiếng du mục”. Ngược lại những dân du mục mạn Nam nước Tàu tuy vẫn còn tồn tại mãi tới tận nay có tới vài chục triệu nhưng vài chục triệu mà so với khối dân dăm trăm triệu thì lại là thiểu số không đáng kể, phương chi trong cái nhìn tổng quan của huyền sử về cơ cấu thì các dân thiểu số đó lại mang đặc tính chất nông nghiệp. Đấy là điều nhà quan sát kiểu thường ít chú trọng. Còn một điểm nữa phương pháp thường hay mắc phải đó là không nhận ra ý nghĩa biến đổi của cùng một danh từ. Thí dụ cũng là chữ Miêu, chữ Mán, Mường mà mỗi đời mỗi nơi gọi khác nhau. Cùng là dân Dao nơi Quảng Đông, Quảng Tây mà khi vào Bắc Kỳ thì lại kêu là Mán, Mường (Wiens 67). Chữ Miêu hiện nay thường chỉ mấy dân thiểu số ở Quý Châu là tự đời Tống, nhưng trước kia đời Đường gọi là Mán, đời Tống là Miêu Man, thời nhà Chu gọi là Kinh Man cũng có khi gọi là Tràng Sa Man, Ngũ Khê Man, Ngũ Lĩnh Man, Nam Man… https://thuviensach.vn Vậy trong khi nghiên cứu nên xác định nội dung mỗi danh từ theo thời đại và khu vực. Khi nhìn toàn diện theo kiểu huyền sử thì Miêu là Man, là Môn, là Thái, là Việt (Âu Việt, Miêu Việt, Lạc Việt) mà chúng tôi quen gọi là Viêm Việt, để chỉ tất cả những dân đã cư ngụ ở miền Nam nước Tàu, đúng hơn là trên 9/10 diện tích nước Tàu, nhưng thường sử gia quên đi và cứ dùng ý niệm nước Tàu hiện đại cho những thời kỳ nước Tàu còn nhỏ xíu. Hiện nay đã có một số nhà nghiên cứu nhấn mạnh điểm này. Trong khi nói Viêm Việt là chúng tôi chỉ có ý đối chọi một quảng đại quần chúng trong đó Bách Việt đứng đầu, với một thiểu số người xâm lăng trước kêu là Hoa sau kêu là Hán, mà không có ý đả động đến vấn đề nhân chủng học. Thí dụ Miêu có phải là Mán hay Tam Miêu chăng. Vấn đề này xin để trong ngoặc vì có giải quyết đàng nào cũng không phương hại đến vấn đề toàn diện giữa Nam Man một bên và Hán Hoa bên kia. Hiểu như thế thì mới trả lại cho chữ Man (Môn, Mân, Việt, Mường, Thái…) ý nghĩa uyên nguyên của nó bên ngoài nghĩa khinh miệt mà lúc sau người Hán quen gán cho rồi chúng ta cũng hùa theo. Đó là vì đã hiểu theo nghĩa hẹp chỉ một sắc dân sống trên núi rừng xa văn minh thành thị, nên kêu là Mường, Mán, Mọi… Còn chính ra khi hiểu theo nghĩa rộng tức chỉ cả miền Nam nước Tàu thì tên đó không có gì là quê mùa mọi rợ cả. Nó cũng là một tên như bao tên khác Hán, Hoa Mông, Tạng, Việt… Vì thế khi vua nhà Chu muốn phong vương cho vua Sở thì vua nước này trả lời: “Cần chi tới chức tước của Tàu” (Wiens 80). Nói thế vì lúc đó nước Tàu cũng còn rất nhỏ, như sẽ xác định thêm về sau. II. VIỆT HOA AI ĐẶT NỀN TRƯỚC CHO NHO GIÁO? Có một vấn đề khác nữa đó là ai vào nước Tàu trước, Việt hay Hoa. Trong Việt lý tố nguyên chúng tôi cho rằng Việt vào nước Tàu trước. Một số học giả cùng một chủ trương cũng như một số khác thì bác đi. Xem chẳng hạn https://thuviensach.vn ông Chu Hi Tổ 朱希祖với tập “Bác Trung quốc tiên hữu Miên hậu hữu Hán chủng thuyết” 駁中國先有苗後有漢種說 1920. Nhưng vào trước hay sau đấy chỉ là vấn đề phụ. Điều then chốt hơn cả là ai đã đặt cơ sở trước hết cho nền văn hóa Viễn Đông gọi là Nho giáo: Hán tộc hay Việt tộc? Việt đây phải hiểu là đại diện cho khối người mênh mông gọi là Man một bên, còn bên kia là Hoa hay Hán, cả hai ở lúc sơ khai làm nên những trung tâm văn hóa mà học giả có khi chia ra làm 9 nhóm, có khi quy vào 4. Có nhiều lối quy vào 3 hợp cho cái nhìn toàn diện hơn, chia tùy theo từng tác giả, nhưng lối chia 9. Và 3 đó là Hán, Thái và Việt, và cuối cùng nữa thì còn có Hán và Việt. Tại sao không Thái lại Việt thì sẽ nói sau. Ở đây chỉ xin ghi sự chú ý của học giả cho rằng mạn Nam có thể quy tụ vào một, hay có một nhóm bao trùm các nhóm nhỏ, nên ở mạn Nam không có sự phân biệt rõ như mạn Bắc. “In the south the differentiation were not always as precise as in the case of the north and west. Above all there was an entire group of Southern people who appear to have straddled several groups” (Wiens 40). Người ta đã thử chứng minh sự thuần nhất này bằng sự pha trộn văn hóa, nhưng ông Eberhard lại hỏi tại sao không giải nghĩa sự thuần nhất kia bằng một nguồn gốc chung (một số học giả Tàu cũng quyết đoán thế. Xem Từ Tùng Thạch, tr. 20, 22) và ông đã chứng minh là có mối liên hệ nền tảng giữa ba nhóm dân Man mà ông chia ra ba khối gọi là: Austro-asiatic Austronesian Chuang tức Thái (Wiens 40). Trong Việt lý chúng tôi có biên lại chủ trương cho rằng người Tàu với Viêm, Tạng thuộc Nam tam hệ cùng một gốc tự miền Thiên Sơn di cư dần xuống nước Tàu; Viêm vào trước Tàu vào sau ( Việt lý, tr. 52...). Về điểm này không có chủ trương nào chống đối rõ rệt, vì những chủ trương tương tự chỉ khác về tiểu tiết. Thí dụ người thì cho là Mán Miêu https://thuviensach.vn phải đuổi dân bản thổ miền Dương Tử, Động Đình Hồ để chiếm đất, người thì cho là Miêu với Tam Miêu là một (Hirth và Eickstedt) người khác chối như hai ông Lăng và Nhuế. (Xem chi tiết 2 trang 70-71, Wiens). Nhưng về ý kiến cho rằng Miêu (Mán, Thái, Viêm) xuất hiện theo nguồn sông Dương Tử đi đến đất Thục hiện nay thì nói chung có thể là đồng ý. Cho nên lấy về đại cương mà bàn thì những chủ trương này không nghịch với việc chia Nam tam hệ ra Tạng, Viêm, Hoa hay lối chia Viêm Việt ra Anh-đô-nê, Mon khmer, Âu Việt, Miêu Việt, Lạc Việt ( Việt lý, tr. 77). Trong hai lối chia này yếu tố Viêm nổi vượt. Ông Eberhard cũng nhiều lần nhận rằng Việt là yếu tố nổi nhất trong nhóm Austronesian, trong đó có cả Thái, Dao, Đản (cũng thuộc Dao). Còn Liêu thì ông cho thuộc Austroasiatic da đen cũng gọi là Khương, hay là Tibeto Burman (Wiens 39). Hiện nay bên Tàu còn nhiều người ở vùng Vân Nam. “Under the Yueh (Việt) group, the Austronesian elements are preponderants. The Yueh are the relatives of the Yao and Tan (Đản) but mixed with the T’ai or Chuang that had settled among them” (Wiens 41) và “In the ancient times the Yueh peoples were culturally the highest among the Austronesians” (Wiens 39). Đời xưa dân Việt nổi nhất về văn hóa trong nhóm người Austronesians . Tôi nhấn mạnh điểm này vì chính giáo sư Wiens hay nói đến Thái ở nhiều chỗ lẽ ra phải nói Việt, vì hầu hết các học giả công nhận là Việt nổi hơn về văn hóa nên quên xếp Thái dưới Việt, nhưng cho là về chính trị thì Thái hơn. “Although culturally lumped under the term Yueh, they (Thái) were set off some what from the Yueh of Tung Ou (Đông Âu) and Min in Fu Chien and Che Chiang” (Wiens 130). (Mân ở Phúc Kiến và Chiết Giang). Tại sao Thái lại được coi là nổi hơn Việt về chính trị thì sau sẽ rõ. Ở đây chỉ cần ghi nhận là trong các sắc dân cư ngụ miền Nam nước Tàu thì Việt là sắc dân nắm phần chủ chốt về văn hóa. Vì thế mới hỏi Việt Hoa ai đã đặt nền tảng trước hết cho văn hóa Viễn Đông là Nho giáo? Theo quan niệm thông thường thì không ai khác ngoài Tàu, đó là điều chắc chắn đến độ không ai đặt thành vấn đề. Nhưng theo Việt Nho thì dân có công đầu lại là Viêm Việt. Trong Wiens (tr. 55) có nói là nền văn hóa sớm https://thuviensach.vn nhất ở mạn Trung nước Tàu xuất hiện ở Tứ Xuyên (ngọn sông Dương Tử) cùng một trật hay còn đi trước cả văn hóa Hán tộc cư ngụ trên sông Hoàng Hà. Ông Eberhard gọi văn hóa này là Ba còn ông Từ Tùng Thạch thì gọi là Thục Sơn văn hóa bao gồm cả đất Ba ( Việt Giang lưu vực nhân dân , 1939, tr. 14). “The earliest cultural center of South China appears to be in Ssu Chu’an at a time contemporary with or even preceding the first appareance of Han Chinese culture in the Yellow River valley” (Wiens 55). Cũng trong Việt lý đã nói Hán tộc còn nấn ná lại ở Cam Túc, thì Miêu tộc đã theo sông Dương Tử vào nước Tàu trước. Chặng đầu tiên mà họ gặp là miền Ba và nhất là Thục. Nó là nước Ba như Eberhard hay là Ba Thục, như Từ Tùng Thạch thì chỉ là tiểu tiết, ta sẽ vượt qua bằng gọi là Ba Thục. Ba Thục là một trong ba miền có điều kiện cho sự phát triển văn hóa tức sản xuất thặng dư và được tích lũy. Nước Tàu xưa có được ba miền như thế là Ba Thục , rồi đồng bằng Dương Tử gọi là Kinh Sở và sau là Hoàng Hà . Trong ba miền này thì Hoàng Hà đứng riêng ra về phía Bắc, còn Ba Thục với Kinh Sở thuộc phía Nam và hầu chắc Thục với Dương Tử tức miền của Kinh Sở hay Kinh Man cùng một chỗ gọi bằng nhiều tên như Miêu, Man, Mân, Môn hay Cửu Lê, Bách Việt, Thái... Lấy về huyền sử mà bàn thì miền Bắc là Hoàng Hà thuộc Hoàng Đế, còn miền Nam thuộc Thần Nông (gồm cả Toại Nhân và Phục Hi). Có Hoàng Đế hay Thần Nông chăng thì không thành vấn đề, chúng ta chỉ cần tên hai nhân vật thần thoại đã đủ để chỉ hai thực thể, hai loại tinh thần một gọi là du mục ưa võ lực, đề cao yếu tố nam, ưa dùng những số chẵn vật tổ thú. Ngược lại là Thần Nông đi với nông nghiệp, nam nữ phân quyền nên nữ được nhiều quyền hơn, thong dong hơn bên Bắc, lại ưa số lẻ, vật biểu chim... Hỏi rằng Việt hay Hoa ai sáng lập ra Nho giáo cũng là hỏi rằng hai tinh thần nông nghiệp và du mục cái nào xuất hiện ở nước Tàu trước? III. BA GIAI TẦNG THÔNG GIAO https://thuviensach.vn Muốn trả lời câu hỏi trên chúng ta có thể xét theo nhiều phương thức. Trước hết hãy theo chân các nhà Xã hội học xét qua ba mấu chốt trong việc trao đổi là đàn bà, khí dụng và văn tự (dans toute société communication s’opère au moins à trois niveaux: Communication des femmes Communication des biens et des services Communication des messages. 1. – Đàn bà Trong ba tiêu mục thì đàn bà là giai tầng cao nhất, nổi nhất vì hai điểm kia thuộc vật thể còn đây thuộc nhân vị. Nó còn biểu lộ trình độ văn minh cao hơn. Truyền thuyết cho rằng Hoàng Đế đã cưới vợ Thục Sơn cho con là Chiêm Ích 霑益(Chan-Yi) đẻ ra con đầu lòng là Đế Cốc (2435-2343 TCN), Wiens 56. Con của Chiêm Ích cũng lấy vợ Thục Sơn đẻ ra Chuyên Húc sau làm vua nước Kinh Man (Sở). Phải coi vụ này là một huyền sử vì còn xảy ra rất nhiều lần: Đế Minh tuần thú phương Nam lấy Vu Tiên. Mục Vương xuống Nam lấy Thịnh Cơ. Còn việc Triệu Đà lấy vợ Việt và cổ động cho quan quân lấy từng vạn vợ Việt thì đã thuộc lịch sử rồi. Theo huyền sử như trên đã nói, lấy vợ đâu thì đấy kể là có văn minh cao hơn. Vua rợ Hồ lấy được Chiêu Quân thì thỏa mãn hơn vì coi là cao trọng hơn. Vua Chàm lấy được Huyền Trân công chúa cũng coi là việc trọng, có đổi đất cũng đáng giá. Sự kiện đó biểu lộ sự hùng mạnh, văn hóa cao hơn. Vậy vợ Thục Sơn có thể là một biểu lộ nền văn hóa Thục Sơn cao hơn. Truyền thuyết nói rằng một trong Tam Hoàng là Nhơn Hoàng đã chia nước ra chín châu và đóng đô ở Trung cung còn các anh em cai trị xung quanh. Trung cung được đoán là Ba Thục vẫn được kể là chúa trùm ở miền Nam và văn hóa được cho là đã đạt độ cao rất sớm (Wiens 56). Vì số 9 là yếu tố quan trọng chứng tỏ văn hóa Nho giáo đã đạt đến cơ cấu cho nên nói Nhân Hoàng chia nước ra 9 châu thì có nghĩa là Ba Thục đã đạt đợt cao trước Hoàng Hà. Cũng https://thuviensach.vn phải nói như thế về Kinh Dịch. Vì Kinh Dịch đi với Nhơn Hoàng tức Phục Vi. Vì thế ta có thể kết luận việc lấy vợ Thục Sơn biểu lộ sự truy nhận văn hóa Thục Sơn cao hơn. Thực ra việc lấy vợ còn một ý nghĩa khác thuộc chính trị coi đó như con đường xâm nhập chiếm đoạt: Gả Huyền Trân cho vua Chàm là cốt mở thêm đất vào hai châu Ô, Rí. Đế Minh lấy Vụ Tiên để làm vua Ngũ Lãnh. Triệu Đà lấy vợ Việt để đạt cơ sở chính trị vững hơn. Trong chiều hướng này tên Chiêm Ích có thể là một khẩu hiệu: Chiêm có nghĩa thâm nhập, còn Ích là lần lần. Và khẩu hiệu này đã được hiện thực. Tuy vậy mục tiêu chính trị không đi ngược yếu tố văn hóa, hơn thế nữa còn có thể kiện chứng ở chỗ là người ta chỉ dùng việc lấy vợ làm lối đi cho chính trị là khi bên vợ vì lý do văn hóa hay kinh tế phải hơn hay ít ra ngang hàng, vì nếu sút hơn thì không giấu được mưu lược. Vì thế việc các vua Bắc phương lấy vợ Nam phương cũng là một lý do để người ta nghĩ rằng văn hóa phương Nam đã đi trước trong lúc ấy. Triệu Đà sinh quán tại nước Lỗ, tổ của văn hóa Hán thế mà khi làm vua tại Nam Việt thì từ bỏ thói tục Bắc phương để sống theo phong tục Nam Việt, (Wiens 136). Lấy vợ Việt thì phải có lý do gì. Giả sử một toàn quyền Pháp cưới vợ Việt rồi ăn trầu, để búi tó, dùng toàn người Việt thì sẽ thấy rõ. Thường người ta cho đó là ngón đòn ngoại giao, nhưng ngoại giao chỉ có giới hạn, ngoài ra phải có một trình độ văn hóa cao, nếu không hơn thì phải có một số nét nào đó đáng chấp nhận không những cho mình mà còn cho cả đoàn tùy tòng của mình, như Triệu Đà không những lấy vợ Việt mà còn tích cực cổ động cho quân đội lấy phụ nữ Việt. Đọc lịch sử thế giới ta thấy một trường hợp khác đó là Alexandre Đại đế đã từ lâu bỏ dần lối sống Hi Lạp, để thâu hóa lối sống của Ba Tư. Sự thay đổi này phải giải nghĩa phần lớn bằng sự trội hơn của nền văn hóa sở tại, ít ra đối với ý nghĩ người chấp nhận là Alexandre, là Triệu Đà. Sự kiện này xảy ra nhiều lần trên mảnh đất Viễn Đông nơi mà nhà cai trị lại chấp nhận văn hóa của người bị trị như trường hợp Mông Mãn (Wiens 81). Những sự kiện này rất đáng chú ý vì nó đưa ta đến một sự kiện khác lớn lao hơn là các đợt https://thuviensach.vn xâm lăng đều bị văn hóa người Tàu cải hóa. Ở nơi khác thì nhà cai trị chuyển hóa người bị trị, ở đây thì người bị trị chuyển hóa nhà cai trị. Đó là một hiện tượng có thể chứng minh cho sự trồi vượt về văn hóa của phương Nam. 2. – Khí dụng Từ hơn một thế kỷ nay thì khí dụng đã trở thành tiêu chuẩn để ghi mốc văn minh làm ra những chặng cổ thạch rồi tân thạch, và sau đó đến đồ đồng đen… Đồ đồng xuất hiện ở đâu trước thì đấy cũng là dấu hiệu văn hóa. Vậy mà các nhà nghiên cứu cho là đồ đồng xuất hiện ở phương Nam trước và người ta thường lấy trống đồng làm tang vật “The Thai developed a bronze culture before the northerners did” (Wiens 131). Trong Thiên Vũ Cống có nói đến Đồng bằng Dương Tử như là miền cung cấp đồng duy nhất mà người Hán tộc biết đến. Từ Tùng Thạch cho rằng trống đồng được sáng tạo do dân Lĩnh Nam tên là Xung 徸(chữ này có thấy trong tự vị Khang Hy) đó là một tên khác để gọi Thái sống trong tỉnh Quảng Đông Quảng Tây. Trống gặp được ở các nơi khác (mạn Bắc) đều bé hơn và mới hơn (Wiens 131). 3. – Tằm tang Nghề dệt cũng như cao hơn một độ là nghề tằm tang chứng tỏ một bước khá cao của văn minh. Vậy câu hỏi: Nghề tằm tang do đâu? Eickstedt gắn liền miền Bắc với lúa mạch, đàn cừu, chiên, và vách đất với dâu và lụa, tác giả không có ý chủ trương là nghề tằm tang phát xuất từ miền Bắc, nhưng chỉ nhận xét là có nhiều. Hình như chưa có học giả nào chủ trương phương Bắc là nơi phát xuất của tằm tang. Trái lại nếu căn cứ theo dạng tự và huyền thoại thì có thể kết luận do miền Nam. Vì chữ Man 蠻chỉ toàn dân miền Nam kép bởi bộ trùng 虫, nhiều học giả cho là do nghề nuôi tằm (trùng) mà viết với bộ trùng như vậy, và chữ trùng này thêm vào là do miền Nam chứ trước kia miền Bắc không viết với bộ trùng (Wiens 35). Trong quyển Việt giang lưu vực nhân dân , ông Từ Tùng Thạch kê khai ra 4 nét văn hóa của Thục Sơn thì nét 2 là sản xuất ra tằm tang (Wiens 60). Huyền https://thuviensach.vn sử nói Phục Hi đã lập ra phép cấy dâu nuôi tằm, vì thế sách Hoàng Đế nội kinh nói khi Hoàng Đế chặt đầu Xi Vưu rồi thì thần tằm tang dâng lụa cho ông. Vậy là nghề dệt cũng như nghề tằm tang hầu chắc phát xuất ở Thục Sơn trước. 4. – Văn tự Bây giờ nói đến văn tự cũng là nói đến yếu tố tập trung văn hóa hơn hết, ai nắm được thì nhất định thắng. Đó là một điều thật ở bất cứ đâu huống chi đối với Viễn Đông thì chữ Nho có một sức thôi miên kỳ lạ như nhiều học giả nhận xét. Cho nên về các đời sau, Hán tộc đã thắng thế thì các nhà nghiên cứu (Wiens 121) cho là “nhờ chữ Nho”, vì cùng một chữ viết mà mỗi miền nói tiếng khác vẫn đọc và hiểu được, dụng cụ viết lại là những vật quanh mình dễ kiếm, thế mà lại chở theo một nền triết lý sâu xa với những văn thơ xán lạn đầy sức hấp dẫn. Sức hấp dẫn đó không nuốt trôi một cách bạo tàn nhưng lôi kéo “nạn nhân” bằng sức thôi miên… Chính nhờ đó mà văn hóa Hán tộc đã có một tiềm lực hồi sinh và bền vững vô địch. Ông Eickstedt cho đó là nền văn hóa mạnh nhất mà thế giới thấy được, đến nỗi nó cứ tiến dần một cách quyết liệt nhưng êm đềm và phần lớn một cách kín đáo ngấm ngầm (Wiens 121). Vậy bây giờ ta hỏi Bắc hay Nam đã tìm ra chữ trước? Nếu kể từ đời Thương trở xuống thì rõ ràng là của Bắc phương. Nhưng trước nữa thì chỉ còn có huyền thoại. Và tuy huyền thoại cho là công của Hoàng Đế nhưng huyền thoại còn thêm là Hoàng Đế giao cho Thương Hiệt trông coi. Nhưng cũng theo huyền thoại thì trước đó còn một đợt văn tự manh nha gọi là kết thằng gắn liền với việc sáng tác Kinh Dịch là do Nhân Hoàng thuộc Thục Sơn. Vì thế khởi nguyên chữ viết phải là do phương Nam, không những thế phương Nam còn tiến thêm một đợt nữa là đợt viết chữ theo dấu “chân chim”. Chính là vật biểu của Viêm Việt nên chữ theo lốt chân chim có thể giải nghĩa là chữ theo văn hóa của những người có vật biểu chim. Vì thế khi Hoàng Đế cướp được chính quyền của Xi Vưu thì trao cho nhơn tài miền có vật biểu chim để hoàn bị chữ viết và người đó gọi là Thương Hiệt. Hiệt là chim bay cao. Thương là https://thuviensach.vn