🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Triết Học Nhân Sinh Của Tôi Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Table of Contents LỜI NÓI ĐẦU CỦA NHÀ XUẤT BẢN MỘT CHUYẾN ĐI BIỂN SÁNG SỦA I - SINH TỒN VÀ HỌC TẬP “Sinh mệnh như ngôi nhà” Trân trọng quyền sinh tồn và giá trị sinh mệnh cá thể Tuyến chính trong đời người của tôi Tại sao tôi không tự sát? Thêm mấy loại “vũ khí” để sinh tồn và sáng tác Đi tìm “lối lên máy bay” cho đời người Thêm một loại hưởng thụ, thêm một loại nhân sinh II - TÔI LÀ HỌC TRÒ Học tập là xương cốt của tôi Tôi là học trò “Trí tuệ số Một” và “bản nguyên số Một” của nhân sinh Tư tưởng đẹp thì đang học tập cũng đẹp Cuộc sống: bộ “từ điển” và “sách giáo khoa” tốt nhất Học vô bờ, suy nghĩ vô bờ thì niềm vui cũng vô bờ Ngọn đèn trí tuệ tiến vào đường hầm vũ trụ III - HÓA CẢNH CỦA ĐỜI NGƯỜI “Sự học ở ngoài thân” và “sự học ở cùng thân” “Thuyết hữu hạn” công phu ở bên ngoài sách Chín chắn ấu trĩ và già dặn chín chắn “Học hay” không bằng “hay học” Thơ cao nhất là toán học? Nghệ thuật hóa nhân sinh Chỉ có suy nghĩ, tìm tòi mới vào được hóa cảnh “Cái hay nhất là lưỡi”, còn cái dở nhất là gì? Liễu ngộ: một loại siêu việt “tuệ căn” https://thuviensach.vn IV - HAI MƯƠI MỐT ĐIỀU VỀ QUAN HỆ VỚI NGƯỜI Tìm thầy dạy mình “Nhân tính ác” không nhất định chỉ thuộc về người khác Lẩn tránh “đồng minh” Hãy nhớ kỹ: quan hệ với người bao giờ cũng phải là hai chiều Thuyết “phi chiến xa” của tôi Hai mươi mốt chuẩn mực của tôi Quan hệ với người tốt nhất là “quên đi” V - QUAN NIỆM VÔ VI CỦA TÔI Vô vi là một loại cảnh giới Tìm ở người khác không bằng tìm ở chính mình “Hiệu ứng đói khát” và “cái giá phải trả cho mới lạ hóa” “Nghệ thuật vị nghệ thuật”: vô sự mà sinh sự Người tị người, tức chết người? Vẫn cần học Lão Tử Một số quy tắc của vô vi Vướng vào tranh chấp là một bi kịch lớn Tham chiến nhằm đề cao mình không bằng tỏ rõ bản lĩnh Điều quan trọng nhất trong đời người là biết “không làm cái gì” Vô vi cũng là một bài hát Khi càng muốn thắng thì trái lại càng dễ bị thua Biết tập trung thời gian và tinh lực cũng là một loại thiên tài Nắm vững lấy đường ranh giới của nhân sinh Có một loại người sinh ra đã lỗi thời? VI - GIÁ TRỊ LÀ GÌ? Trong cuộc đời, thế nào cũng có cái đáng trân trọng và quyến luyến Nghi ngại: thước đo giá trị là gì? “Một mình đau buồn mà nhỏ lệ”? Lời khuyến cáo thật lòng về nhân sinh theo “thể phủ định” “Nguyên tắc điệu trầm”(3) và “dân chủ của giá trị” “Hiệu ứng cứt chó hóa” và sự theo đuổi chân lý “Luật một phần ba” và tỉ lệ phân chia vàng https://thuviensach.vn “Nguyên tắc ý nghĩa” của sinh mệnh Không nên làm con chó “chẳng bao giờ với tới khúc xương có thịt” Việc lựa chọn ý nghĩa tùy người mà khác Quá trình tức là giá trị VII - THUYẾT NHÂN SINH KHỎE MẠNH Một tiêu chuẩn giá trị nhân sinh mang ý nghĩa phổ biến Lòng thương yêu lương thiện và “triết học tế bào ung thư” Không hiểu tự phản tỉnh, tự kiềm chế cũng là “tà giáo” Cảnh giới “lớn” và lạc thú “nhỏ” Ba tiêu chuẩn của sự khỏe mạnh sinh mệnh Không đề phòng: một con dấu khắc chơi của tôi Sáng tạo cho mình không chỉ một thế giới Hãy nhớ kỹ: bạn vĩnh viễn không bao giờ chiếm được tất cả số điểm Công thức toán học của số phận VIII - BÀN VỀ CẢNH NGỘ NHÂN SINH Nghịch cảnh: khảo nghiệm và thách thức của nhân sinh Thuận cảnh: có thể sẽ trở thành cái bẫy Tục cảnh: sự lặp lại đơn giản sinh mệnh và “lãng mạn mù quáng” Bàn về cảnh ngộ luôn biến đổi Phong độ lý tính, ung dung và nỗi “hiu quạnh” Ức chế tình cảm kích động và lựa chọn có lý tính Sợ hãi là gì? Hổ giấy làm thế nào biến thành chuột giấy? Chờ đợi: khái niệm tích cực khi không có cách nào khác Những đức tính tốt đẹp mang tính chủ động của con người trong cảnh ngộ Vô thường và hữu thường IX - ĐẠI ĐẠO VÔ THUẬT Một kiểu “sùng bái khái niệm” của người Trung Quốc Chỗ giống và chỗ khác giữa thuật và đạo https://thuviensach.vn Đại trí vô mưu và tiểu xảo Đại đức vô danh và đại dũng vô công Ai có thể “bốn không”? Cái đáng cười của A.Q không phải là “tự an ủi mình” “Người đáng thương ắt có chỗ đáng giận” Kinh nghiệm nhân sinh và nỗi xấu hổ của tôi X - HỮU VI CỦA NHÂN SINH Nhân sinh là bùng cháy Tôi đã quyết định cuộc đời mình như thế nào? Cân bằng giữa lạnh và nóng Không nên tưởng mình đã là thước đo Siêu thoát là một cảnh giới rộng lớn hơn nữa Niềm bi tráng “biết là không thể mà vẫn làm” “Không thể” - ở đây để lại kỷ lục của bạn XI - HƯỞNG THỤ TUỔI GIÀ “Triết học hoàng hôn” của tôi Tôi thà không có bạn còn hơn là “dị hóa” Không có người bạn nào là tuyệt đối “Hữu nghị bất tất phải hữu nghị” Hoài cựu và phẩm vị Niềm yêu thích cá nhân cũng là một loại văn hóa “Nhập hồ kỳ nội” và “xuất hồ kỳ ngoại” Không nên khiến người ta ghét Vui chơi: một loại thiên tính của loài người Chỉ có sở trường chuyên môn là chỗ dựa vững chắc Châm ngôn: “Tiếu hướng tịch dương mịch cổ thi” Chỉ cần tâm không hề già XII - TẢN MẠN VỀ NHÂN SINH Triết học xử thế của tôi Tôi thích hài hước Cái lưỡi thứ hai của tôi Khuyên làm điều thiện https://thuviensach.vn Lương thiện Không đề phòng Tiêu dao Ung dung Lại nói về ung dung Vui mừng Hãy làm tốt công việc của bạn Khoan dung và ghét cái ác như ghét kẻ thù Nhiều vẻ và thống nhất Đơn thuần Nhã và tục Cách mạng, thế tục và lời yêu cầu của giới tinh anh Khuyên cháu hiền Yêu quý gia đình Thương cảm Cười một tiếng Phiền não Đố kị Nói về nhẹ nhõm trong lời chúc mừng Năm bản mệnh Quý trọng sinh mệnh TIỂU SỬ VƯƠNG MÔNG LỜI CUỐI SÁCH https://thuviensach.vn LỜI NÓI ĐẦU CỦA NHÀ XUẤT BẢN Chỉ người nào đã đi qua lãnh thổ rộng lớn của đời người mới có tư cách nói về đạo lý chân thực của đời người; chỉ có ai thành công mà lòng dạ chân thành mới cho chúng ta những lời hữu ích về nhân sinh chân thực; chỉ có người đích thân trải qua bao khổ nạn của nhân sinh mới có thể vượt ra khỏi khổ nạn để nhìn nhận về nhân sinh; chỉ có ai điều khiển nhân sinh của mình bằng lý tính, lại không ngại tự mình trải nghiệm thực tiễn mới có thể nói ra được lý tính của nhân sinh. Lời tự thuật của Vương Mông: Triết học nhân sinh của tôi là một cuốn sách như thế. Khi còn chưa đầy mười bốn tuổi, tác giả đã hát vang bài hát của Tiền Tinh Hải(1) tham gia tổ chức bí mật của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhưng sau khi Đảng giành được chính quyền, chỉ vì một tác phẩm văn học mà bị đánh thành phái hữu. Một nhà văn trẻ từng được Mao Trạch Đông đích thân che chở như ông hoàn toàn có thể vì thế mà được giải thoát nhưng lại phải đem cả nhà chuyển tới miền Tây của Tân Cương và ở nơi từ xưa đã là chốn lưu đày tội phạm ấy đến mười sáu năm trời. Sau Đại hội đảng toàn quốc lần thứ 13, con người đã rong ruổi nửa cuộc đời trong ngọn gió mạnh mẽ của văn đàn Trung Quốc ấy, chỉ trong một đêm lại đã vụt trở thành “đại thần văn hóa” của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Từ sau Tuổi xuân muôn năm thuở ban đầu, trong 48 năm cầm bút, ông đã viết nên số tác phẩm hơn 10 triệu chữ. Đến nay, tuy đã gần tuổi xưa nay hiếm song trái tim nhà văn chưa hề già, vẫn bằng ngọn bút hào hùng và vốn văn hóa uyên bác cùng tư tưởng triết học sâu sắc, ông tổng kết kinh nghiệm và hiểu biết nhân sinh của mình để tìm tòi và nêu ra những lẽ lớn chí lý về nhân sinh. Đây không chỉ là viết một cuốn sách mà là thu hoạch về nhân sinh vào lúc tuổi đã sang thu, và càng là thực hiện tinh thần trách nhiệm đối với nhân sinh, đối với xã hội, đối với lịch sử. https://thuviensach.vn Nói một cách nghiêm túc, tác giả không chỉ dùng bút mà còn dùng sinh mệnh, dùng suy nghĩ và biện luận, dùng cả tâm huyết để viết nên cuốn sách này, mà viết trong bốn năm, đủ thấy thái độ của tác giả cẩn trọng và nghiêm túc đến mức nào. Đáng quý hơn nữa là tác giả tuy là nhà văn nổi tiếng cả trong và ngoài nước, lại có nhiều học hàm ở trình độ cao nhưng ông không dùng những điều đó để “dọa” người, mà dốc hết tâm can giao lưu cùng bạn đọc với tâm thái bình đẳng, thậm chí còn rất thẳng thắn, chân thành. Trong những lời lẽ thu hút người nghe, thỉnh thoảng cũng có lúc để lộ tình cảm kích động, phẫn uất của những ngày đã qua, song đó đều là những điều chân thực mà bản thân tác giả đã suy nghĩ và ngộ ra. Ông không bao giờ chịu rời bỏ trí tuệ triết học và cảnh giới(2) lý tưởng của nhân sinh, song cũng quyết không cao đàm khoát luận, bất kể việc nhỏ hay lý lẽ lớn lao đều là những điều chí lý về nhân sinh. Mọi điều nói ra đều lấy điểm nền là sự sinh tồn, lấy bối cảnh là cuộc sống, lấy triết học làm vũ khí, dùng phương pháp khoa học và linh động để mổ xẻ nhân sinh, dùng thái độ thực sự cầu thị khách quan và năng động để phân tích một số vấn đề mà nhiều người thường gặp phải trong cuộc sống, hơn nữa còn sáng tạo với ý mới nhiều khái niệm và phạm trù nhân sinh sâu sắc. Vì thế, lấy tên Triết học nhân sinh đặt cho sách này là thỏa đáng. Sách còn thu lượm thêm hơn hai mươi bài tùy bút hay nhất có liên quan với phương diện nhân sinh mà tác giả đã viết từ trước làm thành phần thứ XII, có thể bổ sung cho tư tưởng nhất quán của tác giả trong sách này. Chúng tôi tin rằng, cuốn sách được xuất bản nhất định sẽ là một dòng suối tươi mát cho thị trường sách đã có đầy sách viết về nhân sinh muôn hình muôn vẻ hiện nay. Hy vọng bạn đọc rút ra được những điều bổ ích từ cuốn sách để dấn thân vào sự nghiệp vĩ đại và cuộc sống một cách hiệu quả hơn, lành mạnh hơn để giành được trí tuệ, chín chắn, vui vẻ và cả thành công nữa. Nhà xuất bản Văn học Nhân dân Bắc Kinh Tháng 1 năm 2003 https://thuviensach.vn MỘT CHUYẾN ĐI BIỂN SÁNG SỦA (Thay lời tựa) Đời người như một con thuyền, thế giới như biển cả. Tự thân con người như là tay lái điều khiển con thuyền, sự nghiêng ngả của lịch sử và sự lựa chọn của thời đại chẳng khác gì nước thay đổi dòng chảy và gió lúc lớn lúc nhỏ. Đời người lại như một dòng chảy, lịch sử như con sông lớn gồm rất nhiều chi lưu đổ dồn lại. Ta không thể rời khỏi dòng sông lớn đó, song ta lại phát hiện dưới dòng sông đó là rất nhiều đá ngầm, trên sông còn có cuồng phong, nước sông chảy mãi, chảy mãi sẽ có lúc ngoặt rất gấp, rút xuống hoặc dâng lên rất gấp, thậm chí có cả đường chẽ và mê cung. Đời người lại như con đường dài, nhưng có lẽ lúc sắp kết thúc ta lại nhận thấy thực ra nó rất ngắn. Ta chưa biết gì cả thì đã bị ném lên con đường ấy và ta không thể dừng lại được. Thế là ta chập chững bước đi, mong sao đi tới đoạn đường bằng phẳng, lên tới đỉnh cao và tới lạc viên, về tới bến đỗ vui vẻ, thành công, hạnh phúc hoặc ít nhất cũng là bình an cho đến khi về tới vườn nhà lý tưởng. Song ta cũng có thể đi suốt đời mà chẳng có được một ngày bình an. Số phận người này với người kia sao mà khác nhau đến thế? Số phận nói ở đây vừa bao gồm điều kiện chủ quan, tức mọi đặc điểm, mọi nhận thức và thái độ của cá thể đơn độc, vừa bao gồm hoàn cảnh sinh tồn, tức vị trí về không gian và thời gian mà ta ở, có khi là cuộc gặp gỡ không thể tránh hoặc rất ngẫu nhiên. Đúng như tục ngữ thường nói, năng lực con người có nhiều ít, cảnh ngộ của con người có ngẫu nhiên tức nhờ vận may rủi, địa vị của con người có cao thấp, của cải của con người có giàu nghèo, tuổi thọ của con người có dài ngắn, thế lực của con người có mạnh yếu, hoàn cảnh xã hội và tự nhiên của con người có tốt, dở, đẹp, xấu, công bằng và rất không công bằng. Người so với người, tức chết người; người so với https://thuviensach.vn người ắt có không biết bao nhiêu điều bất bình, bao nhiêu niềm phẫn uất, bao nhiêu nỗi oán hận và đau khổ. Đau khổ cũng vậy, oán hận cũng thế, chỉ cần còn sống thì ai chẳng hy vọng số phận của mình được tốt hơn, tốt hơn nữa? Ai chẳng muốn biết và muốn tự mình tác động tích cực cho số phận của mình, thậm chí còn muốn nắm trong tay mình cần lái của số phận. Có lúc chúng ta lại cảm thấy đời người như một trò bắt thăm, người khác thường gặp may, bắt được tư chất trời phú hơn người, bắt được bối cảnh gia đình ưu việt, bắt được cơ hội từ trên trời rơi xuống và những cánh tay viện trợ đến từ bốn phương tám hướng. Còn khả năng mà ta bắt được chỉ là tài, chất bình thường hoặc có tài mà không gặp thời, khởi điểm bằng số không, bị hiểu lầm, bị oan khuất, bị đả kích ghen ghét từ bốn phương tám hướng, thậm chí còn là âm mưu hãm hại. Là người tuổi gần bảy mươi, viết được một ít sách, thấy được chút sự đời và đang già đi, tôi có thể cho các bạn ít lời khuyên chân thành, một ít kinh nghiệm và vài lời kiến nghị không? Có lẽ chẳng phải là kinh nghiệm và lời khuyên gì cả, song ít nhất tôi cũng ôm chút hy vọng, ôm chút ý nguyện, mong rằng càng có thêm nhiều người được sống sáng sủa hơn. Sáng sủa nghĩa là sao? Nghĩa là thành tựu có lớn hoặc nhỏ, cảnh ngộ có thuận hoặc nghịch, song vẫn có thể sống bình thản, sảng khoái, quang minh, lành mạnh và vui vẻ hơn một chút. Chỉ cần như thế là đủ. Là người đã viết tiểu thuyết và đã làm thơ, tôi từng biết có nhiều lời tán dương, bốc thơm cho sự phẫn nộ, ưu sầu, đau khổ, mâu thuẫn, điên cuồng, thậm chí tự hủy hoại, tự vứt bỏ, tự làm tổn thương và tự tận. Tôi thuộc lòng các danh ngôn như “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”(1), “phẫn nộ làm nảy ra nhà thơ”(2), “sứ mệnh của trí thức là phê phán”, “đau khổ vì trí tuệ”, “đau khổ làm con người thăng hoa”, “ta lấy máu ta dâng cho Tổ quốc”, “sinh, lão, bệnh, tử”, “ta không xuống địa ngục thì ai xuống địa ngục”, “địa ngục chưa từng trống không vì người thề không thành Phật”, rồi “văn https://thuviensach.vn chương ghét người thành đạt”(3) và “chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau”(4). Tôi không có ý đề xướng hoặc truyền dạy niềm vui vâng lệnh rẻ tiền, gần giống của kẻ thiểu năng trí tuệ. Niềm vui, sự lành mạnh, bình thản, sảng khoái, quang minh mà tôi muốn nói không phải có được một cách đơn giản như Lão Tử nói là “trở về với trẻ sơ sinh”, mà là một siêu việt, bay bổng khác, một cảnh giới nhân sinh khác: là sự trong sáng sau khi chịu đựng mọi hoạn nạn và đau khổ; là sự vững tâm khi đã trải qua hết hoặc ít nhất cũng gặp phải mọi trắc trở, gập ghềnh và gian nan, hiểm ác; là niềm tự tin chẳng những chỉ nhai kỹ được mà còn tiêu hóa được mọi khổ nạn nhân sinh phải chịu đựng và mọi khốn ách nhân sinh phải đối mặt; là coi mọi trách nhiệm, mọi sứ mệnh, mọi sự phê phán và phấn đấu chỉ là chuyện bình thường, thường thấy, không có gì đáng kể trong cuộc sống bình thường; là dù chín lần chết cũng không hối hận, là coi hiểm nguy gian nan như về nhà, không hề nao núng, dù có xuống nước, vào lửa nóng cũng như đi trên đất bằng phẳng; là khí phách cõng nổi cây thánh giá và cũng dẹp được vòng luẩn quẩn và tự hối hận, tự thương hại; là không chỉ có sự nung nấu trí tuệ và đau khổ vì nghi hoặc mà còn có cả sự thấu triệt trí tuệ và sự vui mừng phân minh, từ đó mà càng bao hàm trí tuệ sâu thêm một tầng; là đại nhã mà như tục, Tây hết mức mà như quê mùa, đại bất phàm mà như người tầm thường, từ đó tránh xa được mọi sự nôn nóng, mọi điều khoái lạc, cho chí lừa đời trộm danh cùng mọi thói ích kỷ, mọi cách làm bộ làm tịch nhỏ nhen. Hãy lèo lái con thuyền nhân sinh của bạn, làm một chuyến đi biển sáng sủa đi! Hãy lèo lái con thuyền nhân sinh của bạn, khiến chuyến ra khơi của bạn càng thêm sáng sủa đi! Mong sao trí tuệ và quang minh, trí tuệ quang minh và quang minh trí tuệ mãi mãi đi cùng bạn trong cuộc sống con người! Mãi mãi làm bạn với quang minh và trí tuệ, mãi mãi rời bỏ u ám và ngu muội, điều đó có thể được chứ? Đó là điều mà cuốn sách này muốn trao đổi. https://thuviensach.vn Vương Mông Bắc Đới Hà, tháng Tám năm 2002 https://thuviensach.vn I - SINH TỒN VÀ HỌC TẬP Đời người quan trọng nhất là gì? Một là sinh tồn, một nữa là học tập. Đời người mà không có niềm vui sinh tồn là đời người không có tính tiêu biểu, do đó chúng ta không nên chửi rủa chung chung dục vọng đầy rẫy của con người. Hy sinh có lúc là cần thiết nhưng quyền lợi sinh tồn là quyền số một của con người, không thể bị tước đoạt. Chúng ta cần phải biết trân trọng giá trị sinh mệnh cá thể, nhưng sinh tồn không có nghĩa là sống một cách giản đơn. Việc bạn làm quyết định giá trị và chất lượng sự sinh tồn của bạn, nhưng ở đây học tập là điều quan trọng nhất. Chương này tôi kết hợp với trải nghiệm của bản thân để nói về tầm quan trọng của học tập đối với sinh tồn, đối với cuộc sống của con người; người ta nên thông suốt về nhân sinh và hưởng thụ cuộc đời như thế nào trong khi học tập, đồng thời tôi cũng kể lại quãng đời khổ nạn của tôi trong mười sáu năm trời ở Tân Cương. “Sinh mệnh như ngôi nhà” Nữ biên tập viên bảo tôi viết một quyển sách nói lên cảm nghiệm về đời người. Khi đó, vấn đề tôi nghĩ đến trước tiên là: đối với tôi, điều quan trọng nhất trong đời người là gì? Cái làm nên hoạt động cho nội dung chủ yếu của đời người là gì? Đương nhiên, nói đến đời người thì trước hết phải nói đến việc duy trì sinh tồn của con người; mọi sự lao động, công tác, phấn đấu nhằm duy trì sinh tồn đều chính đáng, không nên tránh né và bỏ qua. Ngược lại, một người chưa từng bao giờ phải lao tâm, lao lực để sinh tồn, từ lúc lọt lòng mẹ là ăn cơm có sẵn, mặc quần áo có sẵn, ở nhà có sẵn, sau khi ăn no uống đủ thì lên tiếng bàn về ý nghĩa cuối cùng của đời người, hẳn những lời bàn luận cao siêu đó e rằng không đứng vững, ít nhất thì cũng rất cá biệt, ý nghĩa phổ biến không có là bao. Bởi vì lối sống ấy của anh ta hoặc cô ta https://thuviensach.vn không được tự nhiên, không có tính tiêu biểu, không có hoặc có rất ít giá trị tham khảo. Người ấy có thể trở thành thiên tài, trở thành một bậc thầy, trở thành quái dị... Người ấy cũng có thể, đúng hơn là càng có thể trở thành người nói suông không có thuốc chữa, trở thành kẻ tự cao tự đại điên cuồng, trở thành kẻ mắc bệnh thần kinh thật sự. Từ năm 1958, tôi nhiều lần về xã lao động, những đợt lao động ấy để lại cảm ngộ lớn nhất cho tôi là phải quan tâm đến vấn đề sinh tồn, phải quan tâm tới một loạt vấn đề như lương thực, thức ăn, nhà ở, quần áo, chất đốt, công cụ, thuốc men, giao thông, đèn đóm, củi lửa, sưởi ấm, hôn nhân, sinh đẻ, ma chay, hoàn cảnh... Điều mà đại đa số người trên thế giới này quan tâm đầu tiên chính là vấn đề sinh tồn của bản thân và người thân, đồng hương, đồng bào. Con người ở những quốc gia càng phát triển lại càng là như thế. Trong xã hội tương đối ổn định, điều quan tâm nhất của một người bình thường là kiếm được một công việc tương đối tốt, mua cho mình một căn nhà và một xe hơi, có bảo hiểm về tài sản và về khám chữa bệnh, là an toàn và tự do về nhân thân. Ở Mỹ, có người thậm chí lao động từ lúc trẻ cho tới lúc già mà vẫn không trả xong món nợ mua nhà trả góp, như thế họ cũng là suốt đời phấn đấu cho sự sinh tồn của mình, đó là điều rất bình thường và cũng rất chính đáng. Tôi từng xem một phim Mỹ, phim có tên Cuộc sống như ngôi nhà (Life as a house), kể về một người mắc bệnh ung thư trong bốn tháng cuối cùng của đời mình đã phá bỏ nhà cũ và xây nên nhà mới với nhiệt tình điên cuồng; lời trăng trối trước lúc chết của người ấy là sinh mệnh của anh ta đã được bảo tồn trong căn nhà mới. Như thế là không nên xốc nổi tin tưởng những người không coi trọng vấn đề sinh tồn, không nên tin vào những lời đại ngôn, khoác lác của những cậu ấm bịt mũi coi khinh, cho đó là vấn đề “hình nhi hạ”(1). Mọi lý luận không quan tâm tới điều kiện sinh tồn, chất lượng sinh tồn của con người đều có những phần nói suông, những chỗ đáng ngờ, to tát mà không thỏa đáng. Như thế cũng là nói công việc, lao động bạn làm để sinh tồn, mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm bạn tiêu phí vì chúng là xứng đáng, ngọt ngào và lành https://thuviensach.vn mạnh, chí ít cũng là bình thường, chính đáng và đúng đắn. Niềm vui của bạn tuy không chỉ bó hẹp trong bản thân sự sinh tồn nhưng cũng là ở trong sự sinh tồn chứ không phải ở ngoài sự sinh tồn. Tống Nho chủ trương “tồn thiên lý, diệt nhân dục”(2), hơn nữa phải triệt để diệt nhân dục, đó là học thuyết vô cùng tầm bậy. Thiên lý ở trong nhân dục, nhân dục không chỉ xoay quanh tiêu xài hết mức mà còn biểu hiện ở sự cống hiến và tiết chế tự thân. Trong nhân dục vừa có dục vọng về sinh lý, vừa có dục vọng ở tầng cao của tinh thần. Thánh Gandhi ở Ấn Độ đề xướng sống giản dị và tư duy cao sâu, không thể bảo đó không phải là dục vọng của con người. Trong nhân dục có lý tính và nhân tố tự điều tiết, tự khống chế, ít nhất thì nhân dục cũng có thể thăng hoa thành lý tính và trí tuệ. Nhân dục có thể nguy hiểm khi tính ác được buông thả, nó cần được điều tiết, hướng dẫn và khống chế, nhưng sự hướng dẫn và khống chế này không hề coi nhân dục là kẻ thù. Rất đơn giản, đó là vì nếu không có tự điều tiết và khống chế, loài người sẽ không thể sinh tồn tốt. Còn nếu không có dục vọng sinh tồn, dục vọng cải thiện sinh tồn thì cũng không phát triển được lý tính và trí tuệ. Dù sao dục vọng của con người không chỉ là dục vọng của dạ dày, bộ máy sinh dục và chân tay mà còn bao hàm cả dục vọng của não và tâm linh nữa. Ở một nước đang phát triển như Trung Quốc, một nước giai đoạn đầu xã hội chủ nghĩa, một quốc gia giải quyết vấn đề no ấm chưa được bao lâu, hoặc một số người còn chưa giải quyết được vấn đề no ấm mà chửi rủa nhân dục đầy rẫy một cách chung chung thì không khỏi cho người ta cảm giác đó là lời của Tống Nho hoặc của giáo chủ tà giáo. Còn nếu chỉ hạn chế ở sự thỏa mãn dục vọng cảm quan thì cũng cho cảm giác con người vẫn dừng ở giai đoạn động vật. Trân trọng quyền sinh tồn và giá trị sinh mệnh cá thể Như thế là bạn đã tìm được tiếng nói chung với đa số người bình thường, bạn sẽ không khinh xuất phủ nhận và mạt sát người khác, bạn sẽ https://thuviensach.vn không hơi một ít là phô nhân tính ác như viển vông, nôn nóng, điên cuồng, hung ác, ngu xuẩn, bạn sẽ điều chỉnh đúng vị trí của mình trong đám đông, bạn sẽ vững vàng sống trên mặt đất. Như thế là bạn sẽ có một tiêu chuẩn về điều phải điều trái, tuy rằng không bao giờ đủ nhưng tối thiểu cũng phù hợp với việc kiện toàn lý tính. Có thể bạn vẫn không nắm được chân lý nhưng ít nhất cũng không để mắc lừa, bởi vì bạn đã hiểu được một chút thường thức: mọi tư tưởng, lý luận, kiến giải có lợi cho việc cải thiện cảnh ngộ sinh tồn của con người đều có thể chính xác, tuy nhiên vị tất đã đầy đủ và lý tưởng. Còn tất cả những lời bậy bạ, về tổng thể không cho người ta được sinh tồn, không cho người ta sống yên ổn, tước đoạt quyền lợi sinh tồn, chất lượng sinh tồn của con người đều bị người ta không thèm đếm xỉa, bất kể chúng giương lá cờ vĩ đại như thế nào. Điều đó đương nhiên không hề bài xích sự hy sinh của cá thể đối với tập thể, đối với quốc gia dân tộc trong tình thế đặc thù. Nhưng sự hy sinh ấy cần phải rõ ràng, hy sinh cho sự sinh tồn của quần thể chứ không phải vì sự diệt vong của quần thể, không phải hy sinh để hy sinh, hy sinh không phải để khoe mẽ, hy sinh vì giáo lý hoặc vì lên cơn bốc đồng, càng không thể bắt người khác hy sinh cho giá trị mà mình thấy là đúng. Trong nhiều trường hợp và trong mọi trường hợp nói chung, ý niệm tốt bao giờ cũng nhất trí với sinh tồn chứ không hề trái ngược. Ví như một số tà giáo không tập trung chú ý vào việc làm sao để sống tốt hơn mà chỉ chú ý đến chết, tự hủy hoại và tự sát cho giáo chủ, cho giáo nghĩa, thậm chí bản thân chết đi còn chưa đủ mà còn phải hủy diệt nhiều sinh mạng hơn nữa để chứng minh hoặc tiến gần lời dự báo của một tà giáo nào đó. Loại tín ngưỡng thù địch với mạng sống, coi thường quyền lợi sinh tồn của loài người, bất kể thế nào cũng không phải là tín ngưỡng tốt. Lại có người cuối cùng đã qua khỏi tai nạn, người ta không dám khiển trách kẻ gây ra tai nạn, không nghiêm túc tiếp thu bài học lịch sử để tránh tai họa tương tự xảy ra lần nữa mà lại xúm vào chất vấn người thoát chết: “Sao anh còn sống làm gì?” Sống sót trở về thành nỗi nhục vĩnh viễn của một số người, trở thành nguyên nhân chủ yếu khiến họ không ngẩng đầu lên https://thuviensach.vn được. Lời chất vấn ấy có lẽ là lời nghiêm khắc và chính nghĩa, song xét đến cùng chỉ có những ai đang sống mới có thể khiển trách như vậy. Điều đó khiến chúng ta không thể không cân nhắc và phân tích. Bởi vì, quyền sinh tồn rốt cuộc là điều đầu tiên của nhân quyền. Trong trường hợp nói chung, người đang sống chất vấn một người đang sống khác thì bất tất anh ta phải tự cho mình cao hơn người kia. Chúng ta hãy cùng nhớ lại một tình tiết trong kịch Dùng mưu chiếm núi Uy Hồ: Tọa Sơn Điêu không sao chịu đựng nổi kẻ thủ hạ đã từng bị bắt làm tù binh, nên Loan Bình không dám nói ra sự thật là hắn đã từng bị “Cộng quân” Dương Tử Vinh thẩm vấn, vì vậy cuối cùng hắn đã bị lính trinh sát bên ta là Dương Tử Vinh giết chết. Trong tiểu thuyết Anh em nhà Ershov của Kochetov, nhà văn Liên Xô trước đây, cũng có một nhân vật vì bị bắt làm tù binh chứ không chết trận nên không bao giờ ngóc được đầu lên, thậm chí người yêu của anh cũng vì thế mà tình nguyện ở lại lâu dài trong khu nhà tập thể chứ không chịu kết hôn với anh. Những việc như thế phải chăng tiêu biểu cho một lối suy nghĩ đúng đắn thì chúng ta vẫn còn cần đánh dấu hỏi. Còn như những anh hùng dũng cảm tựu nghĩa, khảng khái đi tới cái chết thì xưa nay, trong nước, ngoài nước đều có. Những biểu hiện anh dũng của họ trong tình thế đặc thù và không tránh khỏi, đương nhiên mãi mãi là gương sáng cho chúng ta. Nếu phải lựa chọn giữa hy sinh sự sinh tồn của cá thể với phản bội thì đương nhiên phải chọn hy sinh, không cần nghi ngờ gì nữa. Đặc biệt là sự sống đánh đổi bằng bán rẻ linh hồn, niềm tin, tổ chức, đồng chí và bạn bè, thì đó là vô sỉ, chúng ta không cần phải hoài nghi. Tuyến chính trong đời người của tôi Sinh tồn là vấn đề trước tiên không thể coi nhẹ, nhưng lại là vấn đề của bước đi thứ nhất. Đến nay, ở một số nước về cơ bản đã thỏa mãn được nhu cầu ấm no thì sinh tồn không còn là vấn đề. Bởi vậy, người ta không thể và cũng không nên chỉ thỏa mãn với việc sống và sống để mà sống. Vậy vấn đề tiếp ngay sau đó là: sau khi đã được sinh tồn thì trong đời, bạn chủ yếu https://thuviensach.vn làm cái gì? Sống thì ắt phải làm chút việc. Thường không chỉ là bạn sống, điều quan trọng hơn là việc bạn làm sẽ quyết định giá trị của bạn và cũng quyết định chất lượng sống của bạn. Điều người ta muốn hỏi là bạn sống như thế nào? Có nghĩa là trong lúc sống, bạn chủ yếu có những hoạt động gì? Lấy tôi làm ví dụ, tôi rất dễ trả lời là: viết. Cũng có thể đáp: làm công tác cách mạng. Nhưng phải chăng có hoạt động nào nhất quán hơn, xưa nay chưa từng ngừng, từng gián đoạn so với hai việc trên? Có hay không có một nội dung từ đầu chí cuối xuyên suốt cuộc sống của tôi, trở thành tuyến chính trong đời tôi? Có, đấy là học tập. Không bị bất kỳ điều kiện nào hạn chế, không hề ngưng nghỉ, không hề bị hoài nghi về giá trị và ý nghĩa, từ trước đến nay đều cho tôi sức mạnh cổ vũ, cho tôi lòng tự tôn và tự tin, cho tôi niềm vui và sự thỏa mãn; từ trước tới nay đều giúp tôi có hành vi hữu ích vô tận, đó chính là hai chữ: học tập! Học tập rất minh mẫn, học tập rất khoan khoái, học tập rất vui vẻ, học tập rất lành mạnh, học tập rất dễ chịu, học tập rất phong phú. Đặc biệt là trong nghịch cảnh, trong điều kiện hầu như không làm được việc gì, học tập là nơi tôi trao gửi tính mệnh, là cái phao cứu sống tôi, giúp tôi chiến thắng mọi sóng gió mà không bị nhấn chìm. Học tập là nơi tôi gửi gắm, học tập là ngọn đuốc cho tôi, học tập là chất dinh dưỡng và cũng là chất kháng sinh của tôi. Học tập khiến tôi không bi quan, không tuyệt vọng, không điên rồ, không nản lòng và cũng không sa đọa, giúp tôi không uổng phí tháng năm (điều này khó nhất), không than khóc, không oán trời oán người, không rơi vào cùng quẫn, không đến nỗi không có việc gì làm và hầu như không bị người chế ngự. Cái tôi không bị người khác tước đoạt là học tập, chính là học, học nữa, học mãi. Tại sao tôi không tự sát? https://thuviensach.vn Trong tình hình nào đó, thậm chí tôi phải nói rằng, chính trong lúc rơi vào nghịch cảnh, tôi lại có điều kiện tốt nhất để học tập, tâm trí chuyên chú nhất để học tập và hiệu quả cũng tốt nhất. Khi hoàn cảnh thuận lợi, người ta dễ nôn nóng, xung quanh thường có đủ loại bạn bè, người bám theo, người hâm mộ, người xin ý kiến. Khi hoàn cảnh thuận lợi, bạn thường bận rộn với viết bài, tiếp chuyện, phát biểu ý kiến, truyền thụ cho người khác, làm thầy người khác. Khi hoàn cảnh thuận lợi, bạn thường có cảm giác tốt về mình, thỏa lòng thỏa chí, chỉ nhìn thấy thiếu sót của người khác. Khi hoàn cảnh thuận lợi, bạn phải đáp ứng sự trông đợi của xã hội và mọi người đối với bạn, bạn phải dùng một lượng thời gian rất lớn để làm công việc mà người khác yêu cầu bạn làm, như dự một số hoạt động, nghi thức nào đó mà mục đích chỉ nhằm chứng tỏ quả thực bạn có đến dự. Còn trong nghịch cảnh, bị gạt ra một bên, “không được tiếp xúc”, “không cho phép làm cách mạng” thì đó chính là cơ hội tốt, là dịp tốt để suy nghĩ sâu sắc mà không bị làm phiền. Đó cũng là thời cơ để tổng kết kinh nghiệm và bài học, là thời cơ để thẩm định lại mình, để tự phản tỉnh, tự giải phẫu một cách nghiêm khắc và sáng suốt, là thời cơ để tự bổ sung, tự lớn mạnh, tự trưởng thành khiến bản thân được đổi mới. Đó chính là thời cơ tốt nhất để học tập những tri thức lớn, có được bản lĩnh lớn, thấu triệt hơn, giác ngộ hơn. Ví dụ trong “Cách mạng Văn hóa”, tôi ở nông thôn vùng tụ cư của dân tộc Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, lại là lúc phái cực tả đang rất nóng. Do lúc ấy tôi bị xếp sai vào phái khác nên không được viết, không được nhận công tác ở bất cứ cơ quan nào, cũng không thể tham gia hoạt động xã hội một cách bình thường..., đương nhiên cũng không có cách nào làm bất cứ một việc gì, thậm chí xem ra dường như tôi không có cách nào học tập một cách quang minh chính đại. Tôi bèn dốc hết tinh lực để học tập trước tác của Mao Chủ tịch cùng với cán bộ và quần chúng nông thôn. Học tập trước tác của Mao Chủ tịch như thế nào? Học bản bằng tiếng Duy Ngô Nhĩ. Tôi học thuộc lòng ba bài cần học bằng tiếng Duy Ngô Nhĩ, rồi học thuộc lòng rất nhiều ngữ lục của Mao Chủ tịch. Một lần tôi đọc to bài Kỷ niệm Norman https://thuviensach.vn Bethune(3), bà lão chủ nhà còn tưởng là tiếng đọc trên đài phát thanh. Điều đó chứng tỏ tôi đọc tròn vành rõ tiếng, rất nghiêm túc. Một số bạn nước ngoài không hiểu tôi làm sao có thể sống liền một mạch suốt mười sáu năm ở Tân Cương trong điều kiện như vậy mà không phát điên, cũng không tự tử. Họ căn vặn tôi làm những gì trong mười sáu năm ở Tân Cương. Ý không nói ra song họ nghĩ rằng trong thời gian rất dài đó, cuộc sống của tôi chắc hẳn trống rỗng và đau khổ lắm. Tôi nửa đùa nửa thật trả lời: “Tôi học lấy bằng sau tiến sĩ bằng tiếng Duy Ngô Nhĩ. Này nhé, hai năm dự bị, năm năm chính thức, ba năm nghiên cứu sinh thạc sĩ, ba năm nghiên cứu sinh tiến sĩ, lại thêm ba năm sau tiến sĩ nữa, chẳng phải tròn mười sáu năm là gì!” Bất kỳ lời giãi bày nào cũng không đầy đủ được mọi mặt, tôi chỉ không cố ý dùng lời nói để che đậy tính bi kịch của tôi và rất nhiều người cùng số phận với tôi, trong số đó có không ít người là nhân sĩ ưu tú từng trải qua những năm tháng đó. Tôi cũng không có ý đề xướng phép thắng lợi tinh thần theo kiểu A.Q. Nhưng tôi cho rằng quả thật có thắng lợi về tinh thần thực sự, không phải chỉ dùng cách nói “con đánh cha” để tự lừa dối và mê muội chính mình, mà biết cách học tập trong mọi nghịch cảnh, rồi thông qua học tập để phát triển và làm cho mình lớn mạnh, chuẩn bị cho tương lai, đặt cơ sở cho thắng lợi cuối cùng, chẳng những chỉ về mặt tinh thần mà còn là thắng lợi toàn diện. Cách học tập đó đồng thời cũng là câu trả lời tốt nhất cho bọn xấu đã gây ra khổ đau, làm những việc bất nghĩa, ghen ghét với người tài, người giỏi, hơi một tí là muốn đưa người ta vào chỗ chết. Còn như tại sao tôi không điên và không tự sát thì đương nhiên còn vì “chủ nghĩa lạc quan không thuốc nào chữa được” của tôi, tình yêu của tôi đối với cuộc sống và mọi người (như nông dân Duy Ngô Nhĩ). Cũng còn vì từ nhỏ và từ tuổi niên thiếu tự tôi đã lựa chọn cách mạng, kể cả những gập ghềnh và gian nan của cách mạng; vì do tôi tự lựa chọn, chứ không phải hoàn toàn là tai nạn từ bên ngoài cố gây ra cho mình. Suy nghĩ như thế làm tôi dễ chịu hơn, năng lực chịu đựng về mặt tâm sinh lý của tôi cũng vững vàng hơn. Có một nhà phê bình hăng hái cứ trách tôi không có thái độ đoạn https://thuviensach.vn tuyệt thẳng thừng với lịch sử, với hiện trạng như họ hy vọng. Xin lỗi các anh vậy, không cùng chung một đạo thì không thể chung cách tính toán. Khởi điểm, xuất phát điểm và góc độ suy nghĩ của tôi khác với các anh, tôi không định đón ý các anh. Tôi cũng không thích những lời đại ngôn giả danh lừa thiên hạ. Thêm mấy loại “vũ khí” để sinh tồn và sáng tác Từ đây tôi muốn nói tới vấn đề học tập ngôn ngữ. Nói đến học tập thì không có gì quan trọng hơn là học tập ngôn ngữ. Học thêm một thứ ngôn ngữ, chẳng những là mở thêm một cánh cửa, thêm một nhịp cầu để thu được nhiều kiến thức, mà còn thêm một thế giới, thêm một khối óc, thêm một sinh mệnh. Ít nhất ở Trung Quốc cũng có một hoặc nhiều kiểu lý luận hay lời lẽ cự tuyệt học tập ngôn ngữ. Hồi trẻ, một người bạn rất hiếu học của tôi đã từng nói với tôi lý do anh không học ngoại ngữ. Anh bảo, học ngoại ngữ mất quá nhiều thời gian mà anh thì quá bận. Anh bảo xu thế phát triển của thời đại là dịch thuật ngày càng phát triển và kịp thời, vì thế anh chờ dịch thuật giúp đỡ, dùng thời gian quý báu vào việc khác. Nhưng anh không biết rằng giao lưu và học tập thông qua dịch so với trực tiếp học tập và giao lưu từ nguyên văn thì cảm giác sẽ hoàn toàn khác nhau, hiệu quả cũng hoàn toàn khác. Mọi hoạt động tư duy, nhận thức, cảm tính trong tư tưởng, tình cảm cho chí phản xạ thần kinh của nhân loại đều không thể tách rời ngôn ngữ. Phần tinh vi nhất của tư tưởng, phần sâu thẳm nhất của tình cảm, phần tinh túy nhất của lý lẽ, phần bí ẩn nhất của đốn ngộ(4) đều gắn chặt với nguyên văn. Chúng ta thử lấy một ví dụ dễ thấy nhất, không cần nói Trung văn dịch Tây văn hay Tây văn dịch Trung văn, mà cứ thử lấy Đạo đức kinh của Lão Tử dịch ra văn bạch thoại xem thế nào. Chúng ta cũng thử dịch thơ Đường, từ Tống ra tiếng Quảng Đông hiện đại thì thứ tiếng ấy truyền đạt được bao nhiêu ý vị và chỗ tinh vi của nguyên văn? https://thuviensach.vn Còn có nhiều việc nữa đã chứng minh phiên dịch là phiên dịch có kèm theo lý giải và giải thích, mà ở những vấn đề càng quan trọng thì phiên dịch càng chịu sự hạn chế của bản thân người dịch, tức hạn chế về các mặt lịch sử, địa dư, hoàn cảnh, kết cấu tri thức và thậm chí cả cá tính của bản thân người dịch nữa; càng là những mệnh đề quan trọng và tác phẩm xuất sắc thì càng cần không ngừng dịch, không ngừng sửa chữa bản dịch, không ngừng đổi mới cách hiểu, cũng là đổi mới cách dịch. Một học giả thực sự hy vọng làm được một điều gì, phát triển, phát minh, sáng tạo được điều gì, lẽ nào lại chỉ thỏa mãn với việc để cho sự dịch dắt mũi mình? Có một cách nói cố ý khuếch đại, nghe ra rất sợ và cũng rất khó tin, nhưng không phải là chuyện vô căn cứ. Cách nói ấy nói rằng mọi vấn đề trong lịch sử cận đại Trung Quốc thật ra đều từ phiên dịch mà ra. Chẳng hạn chúng ta dịch democracy thành dân chủ, dịch dictatorship thành chuyên chính, cả hai đều không được đúng cho lắm. Người ta nhìn vào văn bản của bản quốc rồi mới nảy sinh ra ý của từ ngoại lai, như thế là đẻ ra vô số phiền toái. Lại như tác phẩm nổi tiếng của Lênin Tổ chức Đảng và văn học của Đảng mà mọi người đều biết, hơn hai mươi năm gần đây lại dịch thành Tổ chức Đảng và sách xuất bản của Đảng, từ đó mà có sự khác biệt giữa rộng rãi và nghiêm ngặt, thậm chí cực “tả” và không cực “tả” về mặt giải thích. Đối với những người không hiểu nguyên văn thì trong trường hợp này đều phải để cho người hiểu thứ ngôn ngữ ấy dắt mũi. Một người mong mỏi học tập và theo đuổi chân lý, một người mong mỏi được cống hiến và sáng tạo, có thể nào cho phép mình luôn ở trong trạng thái bị động như thế được chăng? Lại còn một cách nói lạ lùng nhất, ngu xuẩn nhất là dường như không học ngoại ngữ mới là yêu nước. Họ nói: “Tôi là người Trung Quốc, học ngoại ngữ để làm gì?” Thấy chưa, người tích cực học ngoại ngữ còn bị hiềm nghi là không muốn làm người Trung Quốc nữa! Trong “Cách mạng Văn hóa”, quả thật có chuyện cho không hiểu biết gì là điều vẻ vang, ai đó nếu dốt nát, chẳng đến lớp được mấy năm, thì đó là dấu hiệu đáng tin cậy về mặt chính trị. Thật là điều đáng lấy làm nhục nhã. Lẽ nào Tổ quốc lại https://thuviensach.vn mong con cháu mình dốt nát, sống trong hoàn cảnh khép kín? Những lối nói sai lầm ấy khiến tôi chẳng còn hứng thú nào mà bình luận về chúng. Có người bảo Trung văn của mình quá tốt, hoặc rất yêu mến tiếng mẹ đẻ là Trung văn nên không muốn học, hoặc có học cũng không học giỏi được ngoại ngữ, đó cũng là cách nói sai. Ngoại ngữ và tiếng mẹ đẻ không bài xích lẫn nhau mà cùng thúc đẩy và cùng có lợi cho nhau. Chỉ có người nào biết so sánh tiếng mẹ đẻ với tiếng nước ngoài thì mới có thể thực sự nhận thức được mọi đặc điểm của tự thân tiếng mẹ đẻ, mới có thể được gợi ý và có được những liên tưởng từ sự so sánh ấy, từ đó mà mở rộng và làm sâu sắc thêm mức hiểu và mức cảm thụ đối với tiếng mẹ đẻ cũng như tiếng nước ngoài. Tiếng mẹ đẻ như quê hương, vườn nhà, tiếng nước ngoài như thế giới. Có đi ra thế giới mới càng hiểu quê hương, yêu mến quê hương, vun xới cho vườn nhà càng tốt đẹp hơn. Đi ra thế giới không mâu thuẫn gì với yêu mến quê hương, trái lại càng bổ sung cho nhau. Tôi cũng không chỉ một lần nghe người biết một ngoại ngữ nào đó nhưng nói không thạo đưa ra lý luận như sau: “Chúng ta là người Trung Quốc nên chúng ta nói tiếng Anh theo kiểu người Trung Quốc cũng được, việc gì cứ phải nói giống như người Anh nói?” Thậm chí có người còn đàng hoàng viết bài, nói rằng sau này địa vị quốc tế của Trung Quốc cao hơn, mọi người đều có thể đàng hoàng nói tiếng Anh theo kiểu Trung Quốc và cả thế giới cũng phổ biến cách nói như thế! Trời ơi, may mà hiện giờ Trung Quốc còn chưa phải là nước lớn số Một, thế mà đã bắt đầu có kế hoạch dùng tiếng Anh theo kiểu Trung Quốc để nhất thống thiên hạ, phải chăng còn muốn dùng nghi thức thiết triều của nhà Đại Thanh, hoặc lối “sáng thỉnh thị, tối báo cáo” thời “Cách mạng Văn hóa” để nhất thống thiên hạ? Học một thứ tiếng nào là phải cố học cho giỏi, nói và viết đều phải học, ngôn ngữ càng học giỏi càng có lợi trong giao lưu, có lợi trong việc thực sự phát huy truyền thống văn minh lâu đời của Trung Hoa, có lợi cho việc trừ bỏ những thiên kiến và hiểu lầm của thế giới bên ngoài đối với Trung Quốc, cũng có lợi cho việc trừ bỏ những thiên kiến và hiểu lầm của người trong https://thuviensach.vn nước đối với thế giới, có lợi cho việc chọn lấy những sở trường của người khác để làm lớn mạnh và phát triển tự thân, chí ít cũng có lợi cho việc xây dựng hình ảnh đẹp của cải cách và mở cửa. Đương nhiên, nếu bị những điều kiện bẩm sinh hoặc hoàn cảnh sau này hạn chế mà không học giỏi được ngoại ngữ thì cũng không có gì quá tệ. Tàm tạm chắp vá vẫn có thể làm cách mạng, vẫn có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội, vẫn có thể làm quan, vẫn có thể có học vị và được bình bầu chức danh, tệ đi nữa thì nhờ anh em nào giỏi ngoại ngữ viết giùm mấy trang lời nói đầu luận văn bằng tiếng Anh hoặc bản tóm tắt luận văn bằng tiếng Anh thì cũng được, nhưng xin chớ nặn ra lý luận ngu xuẩn để không học hoặc học không giỏi ngoại ngữ. Đi tìm “lối lên máy bay” cho đời người Có một loại lý luận cũng rất thú vị, đó là nói mình già rồi, không sao học nổi ngoại ngữ. Một nhà văn trẻ hơn tôi rất nhiều, chưa tới bốn mươi tuổi, thấy tôi cũng có thể dùng tiếng Anh ngắc ngứ vài câu với đồng nghiệp nói tiếng Anh thì thở dài mà rằng: “Anh Vương, chiến lược của anh rất đúng, cần phải học tiếng Anh!” Tôi nói: “Đúng quá, mau học đi!” Anh ta đáp: “Tôi già mất rồi!” Nhưng khi tôi bắt đầu nghiêm túc học tiếng Anh thì tuổi tôi còn nhiều hơn anh ta bây giờ. Đúng thế. Hồi học phổ thông cơ sở từ năm 1945 đến 1948, tôi có được học tiếng Anh, mỗi tuần 5 tiết, mỗi tiết 50 phút (sau giải phóng, đổi lại mỗi tiết học chỉ có 45 phút). Sau giải phóng tôi không học tiếng Anh nữa, tôi đã sớm nghỉ để tham gia công tác và có học một chút tiếng Nga trên đài phát thanh. Năm 1980, khi đã 46 tuổi mới sang Mỹ lần đầu, tiếng Anh của tôi chỉ gồm 26 chữ cái và “good bye” với “thank you”. Đến nay tôi vẫn còn nhớ chuyến bay cuối tháng 8 năm 1980, từ San Fransisco chuyển máy bay tới Iwa ở miền Tây nước Mỹ. Lúc đó, tôi đã làm xong thủ tục lên máy bay ở sân bay San Fransisco, đã nhận thẻ lên máy bay nhưng không biết đi lối nào để lên máy bay. Tiễn tôi lên máy bay là một lãnh sự làm kiều vụ của Tổng Lãnh sự quán ở San Fransisco nhưng cô ấy https://thuviensach.vn không biết tiếng Anh. Nhà thơ cao tuổi cùng đi với tôi và vợ ông ấy cũng không biết tiếng Anh, trên sân bay lại không tìm được người nào hiểu tiếng Trung, thật là lúc đó bí chết đi được. Thế là tôi hạ quyết tâm phải học tiếng Anh, ít nhất đủ để tìm lối lên máy bay cho mình ở sân bay. Hồi ấy, tôi đã 46 tuổi nhưng cảm thấy như thế vẫn chưa muộn. Tôi quy định cho mình một chỉ tiêu cứng rắn là mỗi ngày học thuộc lòng ba chục từ đơn. Học tập khiến tôi cảm thấy mình trẻ ra, học tập khiến tôi cảm thấy mình đang tiến bộ, đang không ngừng sung mãn. Học tập khiến tôi cảm nhận được tiềm năng và sức sống của chính mình. Học tập khiến cuộc sống của tôi có thêm ý nghĩa mới, mỗi ngày, mỗi giờ đều không bỏ phí. Học tập khiến tôi giũ bỏ được cảm giác cô độc do ở hải ngoại có một mình. Học tập khiến tôi thoát ra khỏi không ít sự thích thú thấp kém và những giằng co vô vị, không phải để nói rằng tôi cao cả mà để nói rằng tôi thực sự không có thì giờ đâu cho những việc chẳng ra gì. Lại có người nói mình kém cỏi, có học ngoại ngữ cũng chẳng nên. Nếu thực sự người đó bỏ công phu thì dù có học không giỏi cũng không ai nỡ trách cứ. Vấn đề ở chỗ, người cố gắng học tập và đạt thành tích học tập thường được khen là thông minh, còn người không chịu học tập, không chịu bỏ công đọc sách thì chính là người đần, tự mình chuốc lấy danh. Lẽ nào chúng ta không biết câu tục ngữ “chim đần bay trước” hay sao? Đã đần thì tại sao không bỏ thêm công phu, sớm bỏ thêm công phu để bay được trước và bay được nhiều? Xin hỏi, không học rồi trở nên đần hơn người khác, hay là đần rồi mới không học? Rốt cuộc học rồi trở nên thông minh hay thông minh rồi mới thích học? ở đây ít nhất có sự khu biệt giữa tuần hoàn lành tính và tuần hoàn ác tính chăng? Học tập khiến tôi thêm tự tin. Không nên sợ hãi, không nên tự ti, tiếng Tây xí xa xí xô do học mà biết, người ta học được thì tôi cũng học được. Điều người ta không biết, chẳng hạn tình hình xã hội Trung Quốc, những thể nghiệm thiết thân về sự biến đổi lịch sử hiện đại và đương đại Trung Quốc, những kinh nghiệm sống được trên chính trường, văn đàn, nông thôn và biên cương ở Trung Quốc... thì tôi lại biết. Học tập giúp tôi trong bất kỳ https://thuviensach.vn cảnh ngộ nào đều nắm vững được khả năng tiến thủ của đời người. Người ta có thể cấm tôi viết, cấm tôi ăn thịt, cấm tôi xuất đầu lộ diện, không cho tôi tham gia rất nhiều hoạt động quan trọng, nhưng người ta không thể cấm tôi học. Dù họ có tịch thu sách của tôi (chỉ là nói quá lên chứ việc này chưa từng xảy ra), tôi vẫn có thể nhẩm đọc, nhẩm học thuộc lòng, ngầm suy nghĩ, lẳng lặng kiên trì học tập. Thêm một loại hưởng thụ, thêm một loại nhân sinh Hóa ra kinh nghiệm học tiếng Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương đã có lợi rất nhiều cho việc học tiếng Anh của tôi. Thứ nhất, tôi bỏ được lối tư duy đã định hình do tiếng Hán tạo nên, thấy rằng cách phát âm khác, từ vựng khác, ngữ pháp khác là điều rất tự nhiên, là chuyện chính đáng. Ta có thể nói như thế này, ta cho rằng nói như thế này mới hợp lý thì người ta lại có thể hoàn toàn nói một cách khác và cách đó cũng có lý. Ta có phương thức biểu đạt, có ưu thế biểu đạt của ta, thì người ta cũng có phương thức biểu đạt, ưu thế biểu đạt của người ta. Cho nên khi học một ngôn ngữ mới, ta phải khắc phục tâm lý từ chối một loại ngôn ngữ khác với mình do tiếng mẹ đẻ làm chủ ta trước đây gây nên. Thứ hai, tôi tăng cường niềm tin vào việc học ngoại ngữ. Lúc mới học tiếng Duy Ngô Nhĩ, tôi ngại nhất là mình phát âm không chính xác, nói không đúng ngữ pháp khiến người nghe không hiểu. Nhưng sau đó tôi phát hiện chính sự khiếp sợ của tôi, sự rụt rè, ngập ngừng, ấp úng và thiếu tự tin của tôi mới là trở ngại trong việc giao lưu với người khác. Còn người Tân Cương ở đây đã lâu năm, hoặc bất kể dân tộc nào, cũng bất kể họ phát âm lạ lùng, không đúng ngữ pháp như thế nào, nhưng vì họ có đầy đủ niềm tin nên vẫn được hiểu, vẫn được tiếp nhận, chẳng có vấn đề gì. Nhờ kinh nghiệm ấy, học được chút tiếng Anh nào là tôi đem đi sử dụng, không còn sợ hãi như trước nữa. Ngoài ra, giữa bất kỳ ngôn ngữ khác nhau nào đều có một số điều có thể gợi ý, có thể vay mượn. Ngôn ngữ là thứ rất quái, khác https://thuviensach.vn nhau nhiều bao nhiêu thì cũng có nhiều bằng ấy những điều có thể trao đổi được. Chẳng hạn tiếng Anh và tiếng Duy Ngô Nhĩ đều có một số từ Latinh có gốc giống nhau. Lại như từ bão, lụt trong tiếng Anh (mà nghĩa tinh xác hơn là tràn lan) đều có liên quan với tiếng Trung. Thứ ba, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy rất tinh vi, khi học một ngôn ngữ nào đó, ta có thể nhận ra đặc điểm tư duy và sở trường, sở đoản về mặt tư duy của một dân tộc, và kiến thức ấy là điều không có được ở chỗ khác. Ngôn ngữ là tri thức, công cụ và cây cầu, những cách nói đó đương nhiên rất đúng, nhưng điều mà ngôn ngữ và học tập ngôn ngữ mang lại cho ta không chỉ là công cụ giao lưu, sự thuận tiện để hiểu nhau và những kiến thức kỳ diệu, những kiến văn gián tiếp có liên quan tới thế giới của chúng ta và với nước ngoài, với dân tộc khác ở ngoài chúng ta. Điều mà ngôn ngữ và học tập ngôn ngữ mang lại cho chúng ta còn là một tấm lòng rộng mở hơn, một đầu óc cởi mở hơn, hứng thú với sự vật mới mẻ hơn, có khả năng so sánh phân biệt và thói quen suy nghĩ để so sánh phân biệt. Ở đó còn bao gồm nuôi dưỡng sự hiểu biết và trân trọng tính đa dạng của thế giới, của văn hóa, sự hiểu biết sâu sắc đối với đạo khoan thứ “kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”(5), “kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân”(6), sự nuôi dưỡng khí phách “hải nạp bách xuyên, hữu dung nãi đại”(7). Cùng với sự nuôi dưỡng đó là biết khắc phục và thay đổi kiểu mắt chuột nhìn gần của kinh tế tiểu nông, tâm lý bài ngoại “không phải tộc loại của ta thì lòng dạ ắt khác”, tâm lý sùng ngoại “trăng trên nước Mỹ tròn hơn trăng trên đất Trung Quốc”, tâm lý bảo thủ ôm khư khư những gì đã tàn khuyết, ý nghĩ hoang đường, phong bế tự cho mình là lớn nhất, kể cả quan niệm đơn giản hóa và mù quáng “không phải thế này ắt là thế kia”, người ta nói thế nào mình cũng nói theo thế ấy. Học tập ngoại ngữ là một sự hưởng thụ, hưởng thụ sự phong phú nhiều vẻ của thế giới đại thiên, hưởng thụ vẻ đẹp toàn diện và tác dụng tương hỗ của văn hóa nhân loại, hưởng thụ niềm lạc thú bất tận của việc học rồi thường xuyên ôn tập, hưởng thụ một loại nhân sinh đa dạng chứ không đơn https://thuviensach.vn nhất, một loại nhân sinh có sự khu biệt rất lớn chứ không phải đại đồng tiểu dị với những loại nhân sinh khác. https://thuviensach.vn II - TÔI LÀ HỌC TRÒ Tôi đã tới tuổi xưa nay hiếm, song vẫn muốn tự xưng mình là học trò. Đó tuyệt nhiên không chỉ là ý nghĩa thực sự của đời người, mà còn là sự theo đuổi, sự học không có bến bờ và sự suy nghĩ không bờ bến, một cảnh giới đời người, hiểu được vũ trụ không có nơi nào là dừng. Có điều, trong chương này tôi không chỉ nói về việc học tập, bởi vì người thầy thuốc tốt nhất là cuộc sống, trường học tốt nhất là thực tiễn. Học tập bao gồm tất cả, học là sống, học là tính cách, học là đặc điểm số Một, sở trường số Một, trí tuệ số Một, bản nguyên số Một của con người. Học tập là một cách xây dựng, một loại tiết tháo, một loại công năng miễn dịch, học tập là ngọn đèn trí tuệ của đời người. Học tập là xương cốt của tôi Học tập là xương cốt của tôi, học tập là da thịt của tôi (vật liệu và kết cấu). Học tập là tinh khí, tinh thần của tôi, học tập là sự theo đuổi, sự phấn đấu và sứ mệnh của tôi. Học tập cũng là niềm vui, là trò chơi, là môn thể thao trí lực. Học tập là sự chống đỡ của tôi, học tập là dinh lũy không bao giờ chiến thắng được; học tập là tính chủ động, tính tích cực vĩnh viễn của tôi, học tập là sự bảo đảm cho tôi không bao giờ thất bại. Học tập là sự chống đỡ anh dũng và lặng lẽ đối với tà ác. Cũng như tư tưởng là điều không thể tước đoạt, học tập cũng là điều không thể tước đoạt. Học tập khiến tôi kiên cường tới mức dao súng không thể xâm phạm. Người ta có thể vu cáo, hãm hại tôi, tước đoạt và khống chế nhân thân của tôi, song không cách gì khống chế tôi đọc làu thơ Đường, từ Tống và thơ mười bốn dòng tiếng Anh trong lúc tôi nhắm mắt dưỡng thần; người ta không cách nào cấm đoán tôi ôn lại những từ đơn trong tiếng nước ngoài, không cách nào tước đoạt sự suy nghĩ, sự hồi tưởng, phân tích, quan sát và lắng nghe của tôi, thậm chí lắng nghe một tên ngu xuẩn thao thao bất tuyệt https://thuviensach.vn nói bậy nói bạ, hống hách ngang ngược, tự cho mình là đúng. Đó cũng là một cách tìm tòi và truy hỏi tính người, là một cách thể nghiệm và quan sát kinh nghiệm nhân sinh, là một cách học tập. Khi một thằng cha nào đó lên tiếng cấm ta học tập thì hắn đã cung cấp cho ta một bài học tính người là ác rất khó kiếm, cung cấp cho ta một vở hài kịch nhân gian rất hiếm gặp, giải đáp cho ta một vấn đề mà lâu nay ta không giải đáp được về con người có thể ngu xuẩn, xấu xa tới mức nào và việc kẻ ngu xuẩn và kẻ xấu một khi tạm thời nắm quyền thì chúng sẽ diễn trò buồn cười tới mức nào. Đương nhiên, ta cũng nên cố gắng lý giải tâm lý và động cơ của kẻ ngu và kẻ xấu ấy, xem chúng rốt cuộc tại sao lại tự cho mình đúng đến thế, tự vỗ ngực đắc ý đến thế, để rồi từ chúng mà được gợi mở, được cảnh giác, có được bài học. Thấy kẻ xấu không nên chỉ nghĩ về cái xấu của hắn mà nên tự hỏi mình, thử xem trong một điều kiện khác, mình cũng có làm những việc ngu, việc xấu như thế hay không? Hoặc giả mình có chỗ nào sai lầm và sơ sểnh để hắn ta hoặc mụ ta có thể thừa cơ? Học tập còn là sự hòa giải, hòa hợp và thông hiểu giữa tôi và thế giới khách quan. Thông qua học tập, tôi phát hiện và trân trọng từng khả năng có thể ở điều kiện hiện thực, điều động và lợi dụng mọi nhân tố tích cực, hiểu biết đầy đủ hơn về thế giới này, đúng như nhà triết học Hà Lan Spinoza đã nói, “không khóc, không cười mà phải lý giải”. Trong mọi điều kiện, ta phải làm cho cuộc sống của mình được đầy đặn, hướng tới trước, có ý nghĩa, từ đó mà giũ bỏ được nỗi thất vọng, sự đau khổ và lời than thở vì phí hoài năm tháng. Chính vì thế học tập khiến tôi lạc quan, học tập luôn khiến tôi có thu hoạch, học tập khiến tôi luôn không đến nỗi bi quan thất vọng. Học tập khiến tôi khiêm tốn, khiến tôi có gan, hơn nữa quen với việc thường xuyên phản tỉnh, tự kiểm tra, tự ước thúc mà tôi gọi là “học rồi sau đó mới biết mình còn thiếu”. Nếu tự cho bản thân đã hoàn mỹ, không khiếm khuyết thì sẽ chặn đứng sự tất yếu phải học tập và khả năng học tập. Học tập khiến tôi không đến nỗi coi mình cao hơn người, tự tâng bốc, khua chiêng đánh trống cho mình, giam mình trong phòng nhỏ mà xưng vương, xưng hùng. Học tập https://thuviensach.vn còn biểu thị sự tôn trọng và hướng tới tri thức, trí tuệ, văn hóa, văn minh nhân loại của tôi, trong đó bao gồm cả cuộc sống sinh động. Cho đến nay, tri thức của chúng ta còn rất hạn chế, lý tính của chúng ta thường sa vào cảnh khốn cùng. Trí tuệ tự cho mình đúng của chúng ta thường bị hướng đi lầm lạc, dẫn tới tự lừa dối mình và dối người; trong cuộc sống của chúng ta còn đầy rẫy những mặt chẳng ưng ý, nhưng chúng ta không thể vì thế mà vứt bỏ văn minh, vứt bỏ lý tính, vứt bỏ đời người mà phải biết đem hết khả năng tìm kiếm viễn cảnh gần với chân lý, gần với hoàn thiện từ văn minh đã có của nhân loại, từ trí tuệ đã có của tự thân và của nhân loại, từ đủ loại bức tranh cuộc sống sống động, từ câu chuyện của đời người và kinh nghiệm của đời người. Ví như y học. Đương nhiên y học hiện nay còn xa với hoàn mỹ không thiếu sót, y học hiện nay cũng chẳng phải vạn năng song tôi chưa tìm thấy phương pháp nào chữa bệnh tốt hơn là lợi dụng y học hiện có. Bảo không thể tin hoàn toàn lời bác sĩ, nhưng cũng không thể không tin, nói thì dễ như trở bàn tay, nhưng nên tin gì và không nên tin gì? Tùy cơ chăng? Nhờ vận may chăng? Không tin lời bác sĩ mà tin lời không thể tin hết của người khác chăng? Thôi đi, tôi thà tin lời bác sĩ còn hơn tin lời tầm bậy do miệng người khác nói ra. Khoa học là như thế. Ở một nước mà ngu dốt và mê tín còn tràn lan, phê phán điều không đủ tin cậy của khoa học, hơn nữa lại là lời phê phán của một số tri thức nhân văn mà kiến thức khoa học của họ vị tất đã hơn những người mù khoa học, thì tôi luôn cảm thấy đó là điều bất bình thường. Theo kinh nghiệm của tôi, chí ít thì bản thân tôi cũng thuộc quần thể mù khoa học, mù y học khi đem so với tiêu chuẩn phát triển của khoa học y học, vì vậy tôi thà nể sợ khoa học còn hơn. Học tập còn khiến tôi vượt lên và siêu thoát. Học tập giúp tôi hễ gặp chuyện gì thì không chỉ quan tâm tới được mất, thành bại trong một lúc, ở một nơi mà coi đó là cơ hội để học tập, là một khâu trong quá trình lâu dài của học tập; mỗi một việc đều hỏi (kể cả tự hỏi), mỗi một việc đều học, thế là tôi có được sự cảm nhận “lên cao nhìn xa”, “phong thái ung dung”, có được niềm vui của sự đi quanh co một hồi rồi cũng tới chỗ sáng sủa. https://thuviensach.vn Học tập khiến người ta có được thái độ và sách lược lành mạnh hơn. Phê phán cũng là phê phán lành mạnh chứ không phải đại ngôn để lừa đời. Đau khổ cũng là đau khổ lành mạnh chứ không phải phản ứng kiểu nghiện ma túy. Cổ vũ cũng là cổ vũ lành mạnh chứ không phải huênh hoang khoác lác. Thành công phải là sự thành công tỉnh táo chứ không phải như Phạm Tiến thi đỗ(1). Đời người là đời người sáng sủa, là chuyến đi xa sáng sủa chứ không phải ngoi ngóp dưới vũng nước tối đen, buồn thảm. Học tập giúp tôi có được trí tuệ, có được ánh sáng; nếu không có được ngay tắp lự thì ít nhất cũng xoay quanh, tiến gần và cảm nhận được trí tuệ và ánh sáng. Tôi là học trò Giả Bình Ao có một lối nói rất nổi tiếng, đó là tự nhận “Tôi là nông dân”. Anh nói rất chân thực, rất sát sao và cũng rất chính xác. Từ khi Giả Bình Ao đưa ra thuyết trên, tôi cứ nghĩ mãi mình có thể nói mình là gì? Cụ tổ tôi sống ở nông thôn tỉnh Hà Bắc, sau năm 1958, tôi trước sau lao động ở nông thôn hơn tám năm, bản thân tôi có thể còn lưu giữ một số thói quen nào đó của nông dân, chẳng hạn đi đâu thì luôn luôn sợ nhỡ tàu nhỡ xe, chẳng hạn rất quý hạt thóc hạt gạo, dù có no đến căng mề cũng không muốn đổ bỏ cơm thừa, thức ăn thừa. Nhưng dù sao tôi cũng sinh ra ở thành phố lớn, lớn lên ở thành phố lớn, công tác ở thành phố lớn nên không tiện nhận mình là nông dân. Thực ra, nhận mình là nông dân thì có vẻ chất phác, hơn nữa ít phải chịu trách nhiệm về một số sự việc Tôi là thị dân? Không đúng. Từ tuổi thiếu niên, tôi đã tham gia công tác cách mạng. Hầu như tôi có thể nói rằng xưa nay tôi chưa từng sống cuộc sống thường ngày của thị dân. Có một dạo tôi thậm chí suy nghĩ mình tự nhận là cán bộ cho rồi. Tháng Ba năm 1949, khi mới mười bốn tuổi rưỡi, tôi đã chính thức là cán bộ, đảm nhiệm nhiều chức vụ lớn nhỏ, thậm chí hồi “lao động để rèn luyện” ở nông thôn Tân Cương, tôi còn làm đại đội phó của Công xã Nhân dân, đến nay vẫn có tư cách là cán bộ nhà nước. Nhận mình là cán bộ chẳng có vấn đề gì, https://thuviensach.vn tuy hiện nay một số văn nghệ sĩ không thích danh từ “cán bộ”, còn tôi thì phải thật thà nhận mình là cán bộ. Tôi có tâm lý và thói quen của một loại cán bộ, ưu điểm là biết suy nghĩ tới đại cục, khuyết điểm là thích làm thầy người ta và thích ôm những việc không đâu. Hơn nữa làm cán bộ không phải để kiếm miếng ăn, không phải để được thăng quan, không phải vì muốn có đặc quyền mà là vì lý tưởng cách mạng, vì nhân dân, vì muốn tìm hiểu những nỗi khổ của dân. Nhưng nói như thế cũng không thật đúng. Tính lại thời gian từ năm 1948 (trước khi lập nước), tôi vào Đảng và tham gia công tác cách mạng, tới nay đã hơn nửa thế kỷ. Trong số thời gian ấy, nhận chức cụ thể khoảng 12 năm, bốn chục năm còn lại hoặc đi học (2 năm), hoặc lao động chân tay (13 năm), hoặc “sáng tác chuyên nghiệp” (12 năm), hoặc “lui về tuyến sau” (13 năm), hoặc “chịu sự thẩm tra” (2 năm), như vậy cũng khó nói đời cán bộ xuyên suốt đời tôi. Mùa thu năm mười chín tuổi, tôi bắt tay viết bản thảo lần đầu truyện dài Tuổi xuân muôn năm, tới nay thời gian đã trôi qua bốn mươi tám năm, có lẽ có thể nói tôi là người sáng tác chăng? Nhưng trong bốn mươi tám năm ấy, có đến hơn hai mươi năm, tôi chẳng những không thể sáng tác mà cũng chẳng có tâm thái sáng tác dù chỉ tự nhủ sau này sẽ sáng tác. Tâm thái của tôi lúc đó là tự nhủ sau này không sáng tác nữa. Vả chăng, nếu tự nhận là người sáng tác thì Giả Bình Ao cũng như vậy. Ở đây nói tôi là gì gì, không phải để chỉ sáng tác mà để chỉ một tư cách xã hội, tư cách xã hội, tư cách “tiền sáng tác”, huống hồ xưa nay tôi cho rằng sáng tác chỉ là hoạt động nghiệp dư của loài người. Điều tôi muốn thảo luận ở đây là tư cách xã hội, vai trò vốn có của người sáng tác. Bỗng nhiên tôi tỉnh ngộ: đặc điểm lớn nhất của tôi, tư cách đi suốt cuộc đời tôi, không phải là gì khác mà chính là học trò. Tôi là học trò. Tuy lý lịch học tập chính thức của tôi chỉ có học năm thứ nhất trung học phổ thông, nhưng tôi chưa hề ngừng học bao giờ. Tôi đọc sách, tôi bổ sung cho mình kiến thức về mọi mặt. Tôi càng chú ý học tập trong cuộc sống, mỗi người đều là thầy giáo của tôi, mỗi địa phương đều là lớp học của tôi, mỗi một https://thuviensach.vn quãng thời gian đều là học kỳ của tôi. Trong tờ khai lý lịch cán bộ của tôi, tôi điền vào mục xuất thân của cá nhân chính là hai chữ “học sinh”. Sau khi nghĩ kỹ và thấy rõ mình là học trò, tôi mới vui mừng biết chừng nào! Đó không những là một loại tư cách, mà còn là thế giới quan, nhân sinh quan, tính cách và một phần tình cảm của tôi, một phần rất quan trọng và được làm nên một cách hữu cơ. Tôi coi đời người là một quá trình học tập, nó không trống rỗng, suy đồi, tắt lịm và vô nghĩa; nó là mục đích, có sự quan tâm, có hứng thú, có thành tích, có ý nghĩa. Là học trò thì ngày nào cũng có bước tiến, ngày nào cũng có ích nhờ học tập. Nó không bao giờ cho mình là tinh anh, tự thổi phồng mình, không bao giờ là Chúa Cứu thế đứng ở trên cao, không phải loại siêu nhân, loại bá chủ mà thà thấp nhỏ còn hơn. Tôi tình nguyện bắt đầu làm từ học trò trở đi, bắt đầu từ học tập suy nghĩ, thực nghiệm, khảo sát, phán đoán. Nó tuyệt đối không độc đoán, chuyên quyền, không phải kẻ nào thuận theo ta thì vượng, kẻ nào làm trái ý ta thì tiêu vong, mà là “như thiết như tha, như trác như ma, xuân phong hóa vũ, huệ ngã lương đa”(2). Nó không tự cho mình là người sáng tạo, quên mất nguồn gốc của sự việc, vì thế cũng không chửi đổ tất cả theo kiểu bùng nổ và đầy ý đối nghịch, mà tôn trọng lịch sử, tôn trọng tiên hiền, tôn trọng học vấn và cách suy nghĩ khác nhau, tiếp thu mọi thành quả dù mới dù cũ nhưng hợp lý, có thái độ thân thiện với đồng nghiệp và mọi người. Nó là sự thể hiện phẩm chất văn hóa có tính xây dựng. Nó luôn cố gắng tiếp thu, học hỏi, phát minh, phát hiện tri thức mới, quan điểm mới, góc độ mới. Nó tôn trọng lý tính, tôn trọng trí tuệ, tôn trọng cuộc sống, tôn trọng thực tiễn và văn minh. Tiền đề của nó là trân trọng và tôn trọng chứ không phải vứt bỏ và áp đảo. Nó cho rằng người nào cũng học được, người nào cũng có quyền và có khả năng học tập, đồng thời bất kỳ người nào cũng không thể là chân lý cuối cùng và lũng đoạn chân lý. Nó không thừa nhận người đang sống trở thành thượng đế vạn năng, thành giáo chủ duy nhất, cũng không dễ dãi cho rằng những ai không cùng môn phái với mình thì đều là đồ tà ác, đồ dị giáo và ma quỷ. Nó đối xử dân chủ và bình đẳng với mọi người, nó còn không https://thuviensach.vn biết mệt mỏi là gì, không biết tự mãn, tự cho đã đầy đủ là gì, không hề biết cái già sắp đến. Rất đáng tiếc là tôi chưa hoàn toàn làm được như thế, song tuy chưa được như thế nhưng lòng tôi luôn hướng về nó. Tôi mãi mãi chưa thể gọi được là một học trò đúng quy cách, nhưng chí ít tôi cũng biết rằng làm học trò thì thật hay. “Trí tuệ số Một” và “bản nguyên số Một” của nhân sinh Tôi vui lòng đặc biệt nhấn mạnh và thảo luận về tính tuyệt đối của học tập. Đối với tôi, học tập là một khái niệm tuyệt đối. Vì sao lại bảo học tập là tuyệt đối? Thứ nhất vì học tập là vô điều kiện, bất kể điều kiện nào cũng học tập được. Có sách thì học được, mà không có sách vẫn học được như thường. Lúc khỏe thì học, lúc nằm trên giường bệnh cũng học được. Mọi thể nghiệm và kinh nghiệm đều do học mà có. Thể nghiệm mới, kinh nghiệm mới đương nhiên là nhờ học, sự lặp lại thể nghiệm cũ cũng là một cách học. Ôn cũ mà biết mới vì trong tất cả những cái cũ đều có trời đất mới, khả năng mới, cảm giác mới mà ta chưa từng phát hiện, bởi vì ta không thể hai lần bước xuống cùng một dòng sông. Thứ hai, vì học tập đi suốt từ đầu chí cuối, cùng trời cuối đất, bắt đầu cùng với sinh mệnh và kết thúc cùng với sinh mệnh. Thời gian học tập mỗi ngày của một người là hai mươi tư giờ, thời gian học tập mỗi tuần là bảy ngày, không có ngày giờ nghỉ ngơi, thậm chí trong giấc mơ ta vẫn còn hồi tưởng, ôn tập, suy nghĩ, ấp ủ, đau khổ. Tất cả những cõi mộng và không vào cõi mộng, tất cả những kinh nghiệm ngủ ngọt ngào và cay đắng, bình yên và trằn trọc, thỏa mãn và khổ sở đều là một phần của thể nghiệm đời người, đều có thể gợi ý cho ta về đời người, đều yêu cầu ta phải sáng suốt hơn, cởi mở hơn, cao thượng hơn, thuần thục hơn, thân và tâm lành mạnh hơn; đều yêu cầu ta phải có cảnh giới nhân sinh cao hơn, mà cảnh giới đó thì không thể một bước là tới, không hề trải qua học tập. https://thuviensach.vn Thứ ba, vì học tập là bản lĩnh thực sự của một con người, là đặc điểm số Một, sở trường số Một, trí tuệ số Một, bản nguyên số Một của con người, mọi thứ khác đều là kết quả của học tập, ơn huệ của học tập. Một người cũng như một quần thể, suy cho cùng phải có thực lực, mà thực lực thì hầu hết có từ học tập. Cần phải học mới có bản lĩnh, cần phải học mới có tu dưỡng đạo đức; cần phải học mới có tri thức, phải học thì có mưu trí và phản ứng linh hoạt; muốn cống hiến, muốn hy sinh đều phải học; muốn hưởng thụ cuộc sống, muốn nâng cao chất lượng sống của mình đều cần học tập. Thân và tâm được lành mạnh nhờ học mà biết phương thức sống lành mạnh, đặc biệt là mô thức hoạt động tâm lý lành mạnh, do vậy chính là kết quả của học tập. Tính tuyệt đối của học tập và tính số Một của học tập không hề tách rời nhau. Thứ tư, vì học tập không bao giờ có ngày kết thúc. Mọi sự học tập, mọi sự giảng dạy đều có thời gian, địa điểm riêng, mỗi chương trình giảng dạy đều có tính mục đích, tính cụ thể, sức sống cùng tính giới hạn. Mọi tri thức và phán đoán đều không vĩnh viễn và vô điều kiện. Mọi trải nghiệm của con người, một mặt là chân thực và rõ ràng - tôi không chủ trương đời người như giấc mộng - vì thế có thể nắm vững một cách xác định; mặt khác lại là nhất thời, ở một nơi và ở một việc, vị tất chúng có thể tiêu biểu cho mọi thời, mọi chỗ, mọi việc, hơn nữa chúng đang trở thành quá khứ, trở thành ngày xưa chỉ chậm hoặc nhanh mà thôi. Người ta không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông, có nghĩa là ta mãi mãi phải đối mặt với vấn đề mới, không bao giờ có sẵn đáp án trăm phần trăm. Phán đoán và tri thức của ta đều do tính cụ thể của học tập mà trở nên có sức sống, song cũng vì tính cụ thể đó mà không thể sống lâu trăm tuổi, chỉ vất vả một lần là thảnh thơi mãi mãi được. Triết học đương đại phương Tây chủ trương, đặc điểm của khoa học ở chỗ nó có thể bị chứng minh là giả chứ không phải ở chỗ nó được chứng thực. Kiến giải này quả thực rất cao minh, bởi vì mọi quy tắc khoa học đều thông qua rất nhiều lần thực nghiệm, thí nghiệm, dùng phép quy nạp mà khái quát nên. Nhưng dù thực nghiệm, thí nghiệm hàng trăm vạn lần đều có https://thuviensach.vn cùng một kết quả như nhau, thì về lý thuyết vẫn không thể đảm bảo lần thực nghiệm, thí nghiệm thứ một triệu lẻ một lại không phát hiện tình hình mới, số liệu mới, tức khả năng chứng minh kết luận vốn có là giả. Đó chính là tính chất đặc biệt của khoa học. Còn như chẳng hạn một số mệnh đề thần học thì không cách gì chứng minh là đúng, cũng không cách gì chứng mình là không đúng, bởi vậy mà không thuộc phạm trù khoa học. Lối suy nghĩ đó có thể gợi ý cho chúng ta nhận thức về một đặc điểm, một phẩm chất của khoa học và chân lý: tìm tòi và nhìn thẳng vào thiếu sót của mọi thứ đã có, tìm tòi một cách đột phá kết luận đã có, dốc sức vào tự phê bình để có thể tự hoàn thiện, mãi mãi đặt mình vào quá trình học tập, tuyệt đối không nên cho rằng chân lý đã đủ dùng, đã đến hồi chung cuộc. Cách nghĩ đó sẽ mở rộng rất nhiều tầm nhìn của chúng ta, xóa bỏ sự thỏa mãn, tự cho là đủ và giữ khư khư những thiếu sót của chúng ta, dẫn chúng ta bước vào một cảnh giới mới của việc cầu học, cầu hiểu biết. Cuối cùng, học tập là bao hàm tất cả. Sống là học, học là sống. Học tập là tính cách; sự tự nhận biết phát huy và tự khống chế, tự hoàn thiện tính cách đều nhờ học tập. Học tập là thành tựu, thành tựu là học tập, những gì học được ắt xây nên thành tựu, hoặc chí ít cũng giúp cho việc giành được thành tựu, bản thân việc ấy đã là một sự học hoặc thực hành cực hay. Khi đã giành được thành tựu bước đầu và nhận thức được rằng như thế vẫn chưa đủ, cần phải giành tiếp thành tựu lớn hơn nữa, đương nhiên việc đó càng là một sự học. Phản tỉnh sau khi sai lầm, cố gắng bù đắp sau khi phản tỉnh, biết chờ đợi trong tình thế chưa thể bù đắp nổi, biết trấn tĩnh ung dung trong tình huống xấu nhất, dù nhục dù vinh cũng không kinh hãi, cách học như thế thì ngay cả đến nghiên cứu sau tiến sĩ cũng chưa chắc đã tới được mức ấy. Điều càng quan trọng hơn, đó là thực tiễn tức học tập, nhận thức tức học tập, suy nghĩ tức học tập. Nói trên phương diện ý nghĩa của nhận thức luận, mọi sự thực tiễn đều là một phần không thể thiếu của quá trình nhận thức, vì thế mà cũng là học tập. Phàm những ai nắm vững hoạt động thực tiễn xã hội của mình xuất phát từ ý nghĩa của nhận thức luận thì đều là người có https://thuviensach.vn tâm, biết cách học, nói cách khác tức là người có tư tưởng. Biết cách giành lấy tri thức, nắm được nhận thức từ thực tiễn, biết cách làm cho những hoạt động trực quan cụ thể, vụn vặt thăng hoa thành cảnh giới tư tưởng, người đó chẳng phải là nhà tư tưởng hay sao? Không nên cho rằng chỉ đọc một vài quyển sách mới được dịch rồi làm ra vẻ có tư tưởng lớn thì là có tư tưởng; càng không nên cho rằng chỉ có được sinh vào năm tháng đặc định nào đó, phù hợp với số tử vi nào đó thì mới có tư tưởng. Lẽ nào tiếp thu tư tưởng, quan điểm, nguyên tắc và phương pháp trong thực tiễn thì không phải nhà tư tưởng hay sao? Người nào có thể đạt được trí tuệ sáng suốt trong biển dâu của cuộc đời mới là người có tư tưởng. Chí ít chúng ta cũng nên coi trọng những ai biết cách khái quát kinh nghiệm và cảm thụ rồi làm cho chúng thăng hoa thành tư tưởng. Thực ra, ta chỉ cần học sâu một chút thì sẽ đột phá được tầng thuộc lòng nhớ kỹ để bước vào tư tưởng. Phân tích, khái quát, liên tưởng, gợi mở, tìm tòi, đặt giả thiết đều là tư tưởng, chí ít thì cũng là bước đầu của tư tưởng. Đôi khi chúng ta khen một người nào đó có tư tưởng, hoặc bảo người đó có tâm, thì tức là bảo người đó biết cách suy nghĩ, phán đoán, phân tích, tổng kết, tìm tòi và tổng hợp từ thực tiễn. Tư tưởng của một người là cái đáng được khen ngợi nhất, là điều bảo đảm cho trí tuệ sáng suốt, dụng tâm trong sáng, sâu sắc và thực lực; là sự trừ bỏ ngu muội, mê tín, vô tri, vô năng, hồ đồ và nông cạn. Học vô bờ, suy nghĩ vô bờ và niềm vui cũng vô bờ. Chớ nên tưởng rằng chỉ có những người Hồng Kông, Đài Loan nào thích dùng kệch cỡm những từ mới của phương Tây, làm ra vẻ tinh anh, hầm hầm nổi giận, oán trách, đầu óc u tối, cứ như người khác nợ nần gì họ, hơn nữa còn hồ đồ, cù nhầy mới là người có tư tưởng. Chớ nên tưởng rằng người có tư tưởng đều là người có nỗi khổ lớn, mối thù sâu, lưng giắt lựu đạn, nói mấy lời thường thức vặt vãnh là đã anh dũng, lẫm liệt như kiểu sắp tập kích liều chết. Tư tưởng không phải đặc quyền của một số ít người, không phải làm ra vẻ mà có được. Quý học tức là quý tư tưởng, biết cách học tức là biết cách tư duy. Người nào quý thực tiễn, hơn nữa thực tiễn một cách thông minh chứ không phải hồ đồ thì đều là tư tưởng gia, hay chí ít thì người đó cũng có khả năng tiến tới tư tưởng có tính sáng tạo và có giá trị. https://thuviensach.vn Tư tưởng đẹp thì đang học tập cũng đẹp Tư tưởng có giá trị thì thật đẹp, đang học tập là đẹp, đang trong dòng tư tưởng là đẹp, thực tiễn đang trong nhận thức cũng đẹp. Đề xướng học tập là đề xướng tư tưởng, đề xướng trí tuệ và quang minh, diệt trừ ngu muội và đen tối. Dù có nghĩ ra hàng ngàn từ nữa cũng không nói hết được ý nghĩa của học tập, lợi ích của học tập, tính tuyệt đối của học tập. Đời người còn có rất nhiều mối nghi hoặc, nhiều luận điểm sai trái, nhiều điều nhất thời nhìn không tỏ, nói không rành, tiến thoái lưỡng nan. Có lúc một người đã trưởng thành không có cách nào nhưng lại phải lập tức quyết định hoặc lập tức phải tỏ thái độ tán thành hay không. Khi ta phải khổ tâm đứng trước một sự lựa chọn, ta càng vững vàng hơn để học tập, dùng học tập và tư duy để an ủi nỗi lo lắng của ta, cởi bỏ hết nỗi đau khổ của ta, gợi mở trí tuệ của ta và tìm lời giải đáp cho ta. Học tập nói cho cùng là đi tới chân lý, đi tới tri thức, đi tới quang minh, đi tới sự lựa chọn đúng đắn. Đồng thời học tập còn là đi tới niềm vui, đi tới thắng lợi, đi tới vườn hoa tinh thần và thiên quốc tinh thần. Học cái này rồi học cái kia, nhìn cái này rồi nhìn cái kia, nghe cái này rồi nghe cái kia, nghĩ thế này rồi nghĩ thế kia, vẽ ra hết đồ án này đến đồ án khác, rồi sửa chữa kỹ càng và hoàn thành chúng, như thế ta sẽ tránh được bốc đồng, cực đoan, mới tránh được cố chấp, gậy ông lại đập lưng ông, mới tránh được cái sự chẳng có việc gì để làm, tinh thần trống rỗng, tiêu cực, bi quan; hơn nữa còn tránh được cơn thịnh nộ, oán trời, oán người. Khi thế giới còn có nhiều việc hỗn loạn, thậm chí ta tưởng trời sụp đất lở đến nơi, ta hoàn toàn không biết mình nên làm gì, thì ít nhất ta hoàn toàn có thể học tập, thậm chí mọi nghi hoặc đó lại khiến ta thấy bức thiết phải học, cảm thấy thèm khát muốn được học, cảm thấy rõ hơn mục đích học và mức độ thiết thực của học. Đấy chẳng phải là thời cơ, cơ hội rất tốt để học tập đó sao? Khi ta nhất thời bị hiểu lầm, bị đả kích, bị xuyên tạc, bị phong bế, mà ta chưa có được biện pháp gì, không làm sao thay đổi được hoàn cảnh của mình thì hãy yên tâm mà học, học bổ https://thuviensach.vn sung, học những môn có vẻ ít được chú ý mà trong tình hình thuận lợi, ta dù muốn học cũng không có thời gian. Đó chính là lúc bắt đầu những năm tháng học tập tốt nhất trời dành cho ta. Lúc đó hẳn ta càng học được nhiều học phần, càng đạt tới học vị cao hơn. Cuộc sống: bộ “từ điển” và “sách giáo khoa” tốt nhất Đọc sách là học. Đối với tôi, tài liệu học tập rất quan trọng. Ví như học tiếng Duy Ngô Nhĩ, trước hết tôi dựa vào sách giáo khoa của Trường Cán bộ Hành chính tỉnh Tân Cương (lúc ấy chưa thành lập Khu Tự trị) trước giải phóng. Từ quyển sách giáo khoa đó, tôi học các chữ cái, học phát âm, học viết, học một số từ, câu và những câu đối thoại. Ngoài ra tôi còn dựa vào một cuốn tạp chí ngữ văn Trung Quốc của những năm 60 thế kỷ XX, số này có bài giới thiệu tóm tắt ngôn ngữ Duy Ngô Nhĩ do Chu Chí Minh, nghiên cứu viên Sở Nghiên cứu Dân tộc ngành Khoa học Xã hội Viện Khoa học Trung Quốc viết. Bài này tôi đọc không biết bao nhiêu lần, đọc một đoạn, dừng một đoạn, rồi quay trở lại đọc bài viết của Chu tiên sinh từ đầu thì lại có được những hiểu biết mới. Có lúc tôi nghe thấy nông dân Ngô Duy Nhĩ có cách nói mà trước đây chưa từng nghe bao giờ, tôi lại giở bài của ông Chu ra tra thì quả nhiên tìm thấy, hóa ra là như vậy. Biết bao nhiêu quy tắc ngữ pháp, quy tắc biến đổi, quy tắc phát âm, quy tắc cấu tạo, nguồn gốc từ vựng..., tôi đều học được từ bài viết của giáo sư Chu. Giáo sư Chu là một trong những bậc thầy mà tôi hàm ơn nhiều nhất nhưng đến nay vẫn chưa được gặp mặt. Lúc ấy Lâm Bưu đang thuyết giảng “học linh hoạt, dùng linh hoạt, cần dùng gấp thì học trước, học kèm theo các câu hỏi, học sao cho có hiệu quả” trong việc học tập cương yếu trước tác của Mao, song quả thật tôi đã dùng cách đó để học “trước tác của Chu”. Có điều, đó không phải trước tác của đồng chí Chu Đức mà là trước tác của giáo sư Chu Chí Minh. Chỉ một bài giới thiệu tóm tắt của ông mà suốt đời tôi dùng không hết. https://thuviensach.vn Đúng vậy, học tập có phương pháp là phải biết kết hợp giữa sách vở và thực tiễn. Tôi thường lần mò trở về gốc để xem ngôn ngữ của nhân loại được học như thế nào. Đứa trẻ mới sinh ra chưa biết một thứ ngôn ngữ nào, nó chỉ nghe, nghe hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn lần rồi sau đó bắt chước; lúc mới bắt chước còn nói sai, sau khi thực hành hàng trăm, ngàn, vạn lần thì nó biết nói đúng. Thoạt đầu là nghe, sau đó biết nói, sau đó nữa mới học đến chữ. Như thế nghĩa là học tiếng thì một là phải nghe nhiều; hai là phải mở miệng để nói, không sợ nói sai; ba là lặp đi lặp lại, lặp đi lặp lại không ngừng; bốn là phải giao lưu, công năng của ngôn ngữ là giao lưu, công năng của ngôn ngữ là ở cuộc sống, ngôn ngữ nhất định liên hệ với cuộc sống, ngôn ngữ nhất định liên hệ với hàm ý thần thái tình cảm giống nhau và khác nhau của những người khác nhau. Ngôn ngữ mà học một cách cô lập thì chẳng qua là chất đống ký hiệu mà thôi, chỉ nhận biết và ghi nhớ ký hiệu thì chẳng thú vị gì, vì vậy học rất khó vào. Ngôn ngữ cần phải được học bằng cách có liên hệ với cuộc sống và con người, có như thế việc học mới vô cùng sinh động, vô cùng hình tượng, vô cùng linh hoạt, muôn màu muôn vẻ. Chẳng hạn, có một từ người Duy Ngô Nhĩ hay nói nhiều nhất là “mana”, có người dịch là “đây”, có người dịch là “cho đấy” nếu cứ dựa vào cách dịch đó thì loay hoay không nắm được yếu lĩnh, nhưng một khi dùng trong cuộc sống thì hiểu rõ ra ngay: khi ta vào một hợp tác xã cung tiêu mua hàng, lúc trả tiền cho người bán, ta có thể nói “mana”, có nghĩa là “Thấy chưa, tiền đây này, trả cho cô đấy!”. Cô bán hàng trả lại tiền thừa, cũng có thể nói “mana” với ý như trên. Ta muốn tìm một người nào đó ở nơi công cộng, người khác tìm giúp ta và cuối cùng tìm thấy, nói “mana”, có nghĩa là “đây rồi”, không còn hàm ý “cho, trả” nữa. Mấy người đang thảo luận một vấn đề gì đó nhưng mỗi người nói một phách, lúc ấy nhân vật đức cao vọng trọng mới phát biểu, chỉ mấy câu mà nói trúng yếu điểm, ai nấy tâm phục khẩu phục, thế là cùng tán thưởng, nói “mana”, có nghĩa là: “Thấy chưa, nói như thế mới trúng phóc chứ!” Hoặc ngược lại khi ta cãi nhau với vợ, ta càng nói càng tức giận, càng quá lời, lúc đó vợ ta mới lại buột ra: “Anh cút đi, tôi không muốn thấy anh nữa!” Thế là ta kêu to: “Mana!” với ý: “Thấy chưa, tôi đã nắm được yếu điểm của cô, khiến cô https://thuviensach.vn cuối cùng phải buột miệng nói ra điều cô không muốn nói ra nhất!” Thế đấy, nếu tách rời cuộc sống thì ta không bao giờ rõ được hàm ý chân thực của từ “mana”. Một từ đối ứng với “mana” là “kini”. “Kini” như một đại từ nghi vấn, khi ta không tìm thấy người cần tìm, ta có thể dùng “kini” đứng đầu câu hỏi của ta, như: “Kini, anh X đi đâu rồi?” Hội nghị đã bắt đầu nhưng chưa ai phát biểu, ta cũng có thể dùng “kini”: “Kini, phát biểu đi chứ!”, “Kini” ở đây có nghĩa là “có ai”, tức “Có ai đó phát biểu không?” Ta mời khách ăn cơm, khách đã ngồi vào chỗ, thức ăn đã dọn lên, chủ nhà bèn nói: “Kini, xin mời thưởng thức!” Một toán người xuống ruộng, ra công trường hoặc cùng vào phòng làm việc, tới giờ bắt tay vào việc, đội trưởng, đốc công hoặc ông chủ bèn nói: “Kini, chúng ta còn chưa bắt tay vào việc à?” Như thế “kini” vừa có hàm ý hỏi lại vừa có ý kêu gọi. Vậy rốt cuộc nên hiểu, nên dịch “kini” như thế nào thì thích hợp nhất? Đây là việc mà mọi cuốn từ điển và sách giáo khoa đều không giải quyết nổi. “Kini”, nếu có điều kiện thì sao chúng ta lại không đến với các anh chị em Duy Ngô Nhĩ để học tiếng của họ nhỉ? Tiếng Anh cũng vậy, tiếng Anh không chỉ là một loại ký hiệu để biểu đạt ý mà còn là một công cụ biểu hiện tư tưởng tình cảm, một loại văn hóa, một loại lôgích và một phương thức sống. Hiện nay có cách giảng dạy gọi là “tiếng Anh nghịch hướng” và “tiếng Anh điên cuồng”, song chỉ cần gạt bỏ những nhân tố tô vẽ có tính thương mại thì tinh thần học từ cuộc sống, nghe quen âm vận, cùng thái độ coi trọng khẩu ngữ, niềm tự tin học tiếng Anh, nói tiếng Anh, kể cả thái độ say mê đến phát cuồng khi học một thứ tiếng nước ngoài đều là điều đúng đắn và cần thiết. Quá trình học tập một ngôn ngữ là một quá trình sống, là một quá trình giao lưu linh hoạt giữa người thuộc các dân tộc khác nhau, là một quá trình văn hóa. Ta không những học được ký hiệu ngôn ngữ, mà còn học được tâm thái, phương thức sống, cách giao tiếp, phong tục tập quán, phương thức tư duy, sự lắng đọng văn hóa của một dân tộc khác. Dùng một từ đặc thù của https://thuviensach.vn công việc sáng tác văn học nước ta để nói, thì học tập ngôn ngữ là thể nghiệm cuộc sống, thâm nhập cuộc sống. Làm sống việc học ngôn ngữ nước ngoài là một phương pháp học tập rất tốt, cũng là một cảnh giới tinh thần và một quan niệm; không những học trong khi dùng, dùng trong khi học, mà khi tới trình độ nhất định thì dùng tức là học, học tức là dùng, người biết cách học thì không thể phân biệt rành mạch đâu là học, đâu là dùng. Chúng ta thường bảo trẻ con bi bô học nói, nhưng thực ra cũng có thể bảo chúng bi bô sử dụng ngôn ngữ. Làm bất cứ việc gì đều có thái độ học tập thì đó cũng là có thái độ cẩn thận chịu trách nhiệm, có thái độ động não, có thái độ đã tốt rồi còn cầu tốt hơn, có thái độ không ngừng nâng cao, có thái độ cùng hứng thú, từ một điều suy ra nhiều điều khác, coi khó nhọc cũng như không, tham khảo nhiều mặt để thông suốt hoàn toàn. Như vậy, là đã kết hợp ở mức độ cao giữa thái độ học tập với thái độ làm việc và thái độ sống, giữa tinh thần học tập và tinh thần làm việc, giữa lý tính công cụ và lý tính giá trị. Học vô bờ, suy nghĩ vô bờ thì niềm vui cũng vô bờ Không phải chỉ học ngôn ngữ mới như thế. Khi coi một ngành học là thành quả cuộc sống và lao động của một quần thể, là ghi chép và phương thức của một cuộc sống, là sự thể hiện tập trung của trí tuệ, kinh nghiệm, sự theo đuổi, đau khổ và vui sướng; khi kết hợp giữa tìm tòi, theo đuổi học vấn với tìm tòi theo đuổi cuộc sống, coi quá trình học tập là một quá trình sống, biến việc theo đuổi lý tính công cụ thành một nhận thức về giá trị, coi quá trình phấn đấu, chịu khổ và dâng hiến đồng thời cũng là quá trình tiến tới chân lý, hưởng thụ toàn bộ vẻ đẹp của thế giới và nhân sinh, tìm hiểu toàn bộ bí mật của vũ trụ và sự sống, thì khi đó, việc học tập, sinh sống và công tác của ta sẽ đổi khác vô chừng, vì đó là một lý lẽ có tính phổ biến. Về đại thể, nó cũng thích hợp cho việc đọc một truyện dài, đọc một cuốn sách triết học hoặc sử học, thậm chí là toán học; về đại thể, nó cũng thích hợp dùng vào thực nghiệm khoa học và nghiên cứu khoa học. https://thuviensach.vn Không gì khiến người ta xúc động hơn bằng việc phát hiện một chứng minh về nhân tính mà ta quen thuộc trong một cuốn truyện dài. Từ câu chuyện tình yêu trong truyện, ta liên tưởng tới kinh nghiệm tình yêu bao gồm cả tình cảm nào đó manh nha nhưng chưa phát triển thành tình yêu của chính mình hoặc của bạn bè; từ những câu chuyện quái đản mang tính mạo hiểm, ta cảm thụ được sự thách thức của sinh mệnh, lắng nghe tiếng tim đập thình thịch trong lồng ngực; từ những đoạn trữ tình dài của tác giả, ta cảm nhận được tình cảm nồng ấm của đời người và niềm vui buồn khó chia cắt; từ sự suy nghĩ của tác giả, ta liên tưởng đến cảnh ngộ của bản thân và lời giải đáp của mình. Cách đọc như thế về căn bản không cần đến ghi nhớ bằng cố nhồi nhét hoặc ăn sống nuốt tươi, không cần đến túm tóc buộc lên xà nhà hoặc lấy dùi đâm vào vế(3). Cũng như vậy, từ những luận chứng về lý luận, ta có thể tìm thấy đầu mối giữa sự trải nghiệm của mình với những điều tai nghe mắt thấy, có thể gạt bỏ lớp sương mù về mặt nhận thức tư tưởng; từ một công thức toán học, ta có thể nghĩ tới lôgích tư duy chặt chẽ của bậc trí giả tiền bối, mường tượng ra quá trình tìm tòi cho đến ngọn nguồn, công việc thử nghiệm, chứng minh trở đi trở lại đề đạt tới mức độ có vấp ngã cũng không nản cùng niềm vui của bậc trí giả ấy. Học tập là một cách phát hiện, học tập là khám phá bí mật, học tập cũng như phá án bởi bí mật của thiên nhiên và đời người ẩn tàng đan xen, không dễ gì nhất thời đã tìm ra được. Bởi vậy, khi ta từ thiên nhiên, lịch sử, xã hội, nhân sinh phát hiện ra sự thật còn ẩn náu, từ thành quả của người đi trước mà hiểu được những sự thật đó thì ta sẽ tràn trề niềm vui, không sao dừng lại được, chẳng khác chi phá được một vụ án mới. Tôi kính trọng những người khổ học, nên càng muốn nói nhiều về niềm vui học tập. Tôi rất tán thành ý đề xướng “bóng đá vui vẻ” của Bora Milutinovic(4). Chỉ có những kẻ lý sự cùn không thuốc nào cứu được (tức những kẻ chui vào ngõ cụt, cãi chầy cãi bửa, biện luận lấy được) mới cảm thấy cần phải nhắc nhở huấn luyện viên và cầu thủ chỉ thấy vui là chưa đủ mà còn cần khổ luyện. Bởi vì niềm vui và khổ luyện bao giờ cũng bổ sung https://thuviensach.vn cho nhau tuy thuộc hai tầng bậc khác nhau. Nói một cách tổng quát, học tập nắm một bản lĩnh, từ vương quốc bắt buộc từng bước một tiến vào vương quốc tự do, giành được thu hoạch mới, thành tích mới đương nhiên là điều vui thú nhất, mà niềm vui là biểu hiện của thành công. Trong quá trình ấy, phải khắc phục rất nhiều khó khăn, ứng phó với rất nhiều thách thức, bỏ ra rất nhiều tâm huyết và sức lực, đó đương nhiên cũng là điều rất gian khổ. Điều đó về đại thể có điểm chung với lý lẽ coi nhẹ mặt chiến lược, coi trọng mặt chiến thuật mà Mao Trạch Đông từng bàn tới. Về chiến lược, dám thắng nhất định thành công, không phải sợ hãi, rụt rè; về chiến thuật thì lúc nào cũng có nguy hiểm, có quanh co, như thế sao có thể khinh địch được? Học tập là xây dựng cách tuần tự nhi tiến, bắt đầu từ lúc đào móng cho đến khi sừng sững xây nên từng tòa nhà cao to, thành công từng bức tranh phong cảnh một. Học tập là sự mạn du về mặt tinh thần, mở rộng không gian và dung lượng tinh thần. Học tập còn là sự thách thức đối với sinh mệnh có hạn, theo đuổi vũ trụ và thời gian vô hạn bằng sinh mệnh có hạn, không phải như Trang Tử nói là “Nguy thay!” mà là “Hùng tráng thay!” Học tập là một cách kiên trì, một kiểu cố thủ, một tiết tháo, một khả năng miễn dịch. Trong khi học, tuyệt đối không được dối mình, dối người, không được giả mạo, không được làm bộ làm tịch, không được khoác lác, không được tụ tập làm ồn, kéo bè kéo cánh, cũng không thể làm tôi làm tớ, tâng bốc lấy lòng, chiều theo thói tục. Người học tập là người cao nhất, mạnh nhất, trong sáng nhất, lại gian khổ và vui sướng nhất. Ngọn đèn trí tuệ tiến vào đường hầm vũ trụ Cho dù là bài viết triết học và toán học trừu tượng nhất thì bài đó cũng thể hiện sức hấp dẫn và ánh sáng của trí tuệ. Trí tuệ có một niềm tự tin, có hùng tâm, có sáng suốt; nó chối bỏ bóng tối, không thừa nhận thất bại, không thừa nhận hỗn loạn và thiếu trật tự. Lý tính luôn tuần tự tiến lên trong đường hầm vũ trụ, bước một bước đặt một dấu chân; lý tính vươn mình ra một cách ngoan cường, gạt bỏ nhiều tầng mây mù, phá vỡ nhiều https://thuviensach.vn tầng băng cứng, chiếu sáng phần này và chiếu sáng phần kia. Đằng sau nguyên lý triết học và nguyên lý số học, ta sẽ nhận ra trí tuệ cùng với dũng cảm thâm trầm và kiên nhẫn đã hài hòa và đẹp mỹ mãn như thế nào. Đời người có rất nhiều niềm vui, vận dụng trí tuệ và thắng lợi của trí tuệ là niềm vui nhất của đời người, là điều thiện bậc nhất của tính người. Khi ta vắt óc suy nghĩ một vấn đề của đời người, khi ta làm hàng chục, hàng trăm lần thực nghiệm mà vẫn không giành được thành quả vốn đã tin chắc sẽ giành được, bốn phía mênh mông, không một dấu chân, tìm khắp dưới trên, trái phải đều húc phải tường, mệt mỏi chạy vạy, hầu như tuyệt vọng thì đột nhiên ta như được gợi mở. Sự gợi ý này không trực tiếp, cũng không nhằm trúng vấn đề, nhưng ta nghe được thanh âm của Phật, thấy được một dòng nước, ngửi thấy một luồng thơm, ta hắt xì một cái thì có cái bóng lướt trước mắt ta, một đám mây ngũ sắc hiện ra trong không trung phía trên đầu thì bỗng nhiên ta hiểu ra, bỗng nhiên ta đổi sang lối suy nghĩ khác, ta dường như tìm ra một con đường lớn khác. Lúc ấy ta mới biết trước nay ta hiểu sai, ta hướng dẫn lầm bản thân ta nên ta đã đi vào ngõ cụt. “Bể khổ không bờ, quay đầu là bến”, thoát chết sống lại, chuyển bi thành hỉ chỉ trong một ý nghĩ, một luồng ánh sáng thiêng chiếu rọi xung quanh, một con đường sáng xuất hiện trước mắt, gió thổi tới từ tám hướng, mùa xuân tươi tắn, cung khuyết chín tầng đột nhiên mở thông, đã thông một thì thông cả trăm, đã thuận một thì thuận cả trăm, trời quang rờ rỡ, ánh sáng trí tuệ lóe như chớp, thế là làm đâu được đấy, cúi ngửa đều đúng, thế như chẻ tre, khí như cầu vồng, bay cao phơi phới; ý và khí cùng phát ra như gió, làm thành một thể, không chỗ nào không giác ngộ, niềm vui ấy mới khoái lạc biết bao! Tôi còn muốn nói trí tuệ là một vẻ đẹp, phẩm chất của trí tuệ là trong sáng, ung dung, sắc bén, chu đáo, nhẹ nhàng - việc nặng mà coi như không. Trí tuệ lại rất nghiêm túc, rất hàm súc, phải dụng tâm, khiêm tốn; là nụ cười không bao giờ tắt, là nét duyên dáng không cần lời, là niềm tự tin khi đứng trước mặt vua, là sự thoải mái của mây trắng, là sự trong vắt của nước mùa thu, là điều tuyệt đối bất khả bại, bất khả khuất phục. Học thức cũng là một vẻ đẹp, học thức là núi cao, là biển cả, là bầu trời và mặt đất, là bao dung, là https://thuviensach.vn cá côn(5), là chim bằng và cây lớn chọc trời, là gió ào ạt vô biên, là cỏ xanh mướt và hoa tươi, là màu xanh um vĩnh cửu, là bài ca không bao giờ hát hết! Hãy trân trọng vẻ đẹp của trí tuệ và học thức nhé! Tuy ngu xuẩn bao giờ cũng thâm thù trí tuệ, vô tri mãi mãi thù ghét hữu tri, không chịu học và vô thuật mãi mãi thù địch với học và hữu thức, không hiểu lý lẽ sự việc bao giờ cũng căm ghét học và hiểu rõ lý lẽ, nhưng những ai có trí tuệ và ham học tập hãy tha thứ và hãy giúp đỡ những kẻ đáng thương đã ngu xuẩn vô tri mà còn tự cho mình là hay để họ thông minh lên ít nhiều, thông minh thêm hơn nữa. Hãy để cho kẻ ngu thù ghét trí tuệ cuối cùng rồi cũng bị ánh sáng trí tuệ khuất phục. https://thuviensach.vn III - HÓA CẢNH CỦA ĐỜI NGƯỜI Ý nghĩa của sinh mệnh ở chỗ đạt tới hóa cảnh(1) của đời người, mà đã đạt tới hóa cảnh thì cũng là đã đến được vương quốc tự do của đời người. Đó có lẽ là một việc rất khó, nhưng một điều gì đó đã học rất tốt, làm rất tốt thì cũng là đến được hóa cảnh. Chỉ cần chịu khó suy nghĩ, chịu khó trau dồi trong thực tiễn thì cũng đến được hóa cảnh rồi._ Chương này còn muốn nêu ra một số khái niệm mới như “sự học ở ngoài thân” (thân ngoại chi học), “sự học ở cùng thân” (thân đồng chi học), thuyết “hữu hạn” của học tập, “học biết” không bằng “biết học” và “liễu ngộ”. Hiểu được nội hàm của những khái niệm mới đó có lẽ sẽ giúp bạn đọc đủ dùng. “Sự học ở ngoài thân” và “sự học ở cùng thân” Có lẽ chúng ta có thể chia học vấn thành hai phần, hoặc hai bước, hai giai đoạn là sự học ở ngoài thân và sự học ở cùng thân. Những gì cố nhồi nhét để dự thi thì khi thi xong, hầu hết sẽ quên. Những gì có thể dựa vào đó để nói từ chuyện này sang chuyện khác, tuy có thể dùng để khoe khoang sự uyên bác của người nói, song lại càng làm nổi bật hơn sự nông cạn của anh ta. Liếc mắt đã thuộc là điều khiến người ta hâm mộ, chẳng hạn đọc thuộc lòng được bao nhiêu cuốn sách, thậm chí chỉ rõ trang nào trang nào cũng đọc được vanh vách, người xưa gọi đó là “thuộc như cháo chảy”. Nhưng đó cũng chỉ là công phu của học trò tiểu học, dù đọc thuộc lòng đến đâu cũng chẳng qua là học trò nhỏ có tài trời cho, hoặc có thể nói thực ra cũng chưa bằng một máy tính ở dạng sơ đẳng nhất. Bởi vậy tôi luôn cho rằng nếu khen học vấn một bậc đại gia theo lối đó thì thật sai lầm, là bốc thơm chứ không phải lời đánh giá nghiêm túc. Lại ví như một loại kỹ nghệ nào đó, về đại thể nếu ai đã tiếp xúc hoặc đọc kỹ bản thuyết minh thì đều có thể nắm vững, khi sử dụng kỹ nghệ đó chỉ cần làm theo bản thuyết minh là được, tập trung https://thuviensach.vn tinh thần là khỏi phải lao tâm khổ tứ. Còn có một số ngành nghề cần huấn luyện, người được huấn luyện chỉ vì muốn kiếm việc làm, mà mục đích kiếm việc làm cũng chỉ để mưu sinh. Tôi gọi chung tất cả những điều nói trên là sự học ở ngoài thân, tức sự học không gây ảnh hưởng có tính tổng thể đối với con người, sự học không trở thành máu thịt, tinh thần của người học, sự học không mang theo tình cảm và sáng tạo mà chỉ dựa vào sự lặp đi lặp lại không có gì đổi khác, sự học nói chung có thể do máy tính hoàn toàn thay thế. Tuy nhiên, sự học ở ngoài thân cũng rất quan trọng và hữu dụng, về cơ bản có dựa vào sức nhớ và sức chú ý, dựa vào nhiều lần luyện tập và ôn tập. Sự học ở ngoài thân nếu có được nhiều thì cũng ảnh hưởng tới tự thân người học và ảnh hưởng đến toàn cục, ví như vì thuộc nhiều mà nâng cao được năng lực nhớ toàn diện của mình rồi lan cả sang năng lực lý giải; ví như vì thường xuyên tập trung sức chú ý mà có thói quen cẩn thận khi làm mọi việc; ví như vì nghiêm túc tiếp thu huấn luyện nghề nghiệp mà có được tinh thần kính nghiệp. Do đó việc chia thành hai loại học vấn như trên không hề có ý coi thường sự học ở ngoài thân. Còn như đối với tôi, sức chú ý, sức lý giải, sức ghi nhớ, tinh thần nghiêm túc chịu trách nhiệm trong công tác, tinh thần kính trọng nghề nghiệp, tất cả đã bước vào sự học mà tôi gọi là ở cùng thân. Sự học ở cùng thân chỉ sự học tập bồi dưỡng không riêng tri thức và kỹ xảo, không chỉ một điều, một vật, một sự, một môn mà còn là trí lực, năng lực, ý chí và ý niệm toàn diện, nhân phẩm, phong độ, khí chất, tính cách, phong cách toàn diện cùng toàn bộ lực lượng của thân thể và tinh thần. Ví như trí tuệ, trấn tĩnh, ung dung, nhìn xa, kiên định, uyên bác, cao thượng, lương thiện, thoải mái, cơ trí, bền bỉ... đều là những điều không thể bổ sung tạm thời, biến đổi tạm thời, hoàn thành tạm thời được. Tất cả đó là người, là cảm giác của người, tính nết của người, thần kinh của người, lương tâm, lương tri, lương năng của người, diện mạo, nội hàm, năng lượng của người và là chỗ người này khác với người kia. Chúng cùng tồn tại với người, cùng tồn tại với thân, cùng tiến bước với người và với thân. Chúng biểu hiện ở https://thuviensach.vn mọi lúc mọi nơi và về các phương diện, biết đối phó với vạn biến, không sợ hãi trước trăm nguy, ngàn đầu vạn mối mà lòng kiên định, tám phương các cấp mà ứng phó không biết mệt, xuôi chèo mát mái mà không quên buổi ban đầu, thắng to được lớn cũng vẫn tỉnh táo, bình tĩnh. Điều tôi muốn nói là một loại phương pháp, hơn thế nữa là một loại trí tuệ, một loại giác ngộ, một loại phẩm chất, một đạo lý lớn, một lý tưởng gần với hóa cảnh. Cảnh giới của hóa cảnh không phải nhờ đọc một vài quyển sách mà có thể đạt tới. Đọc sách cả đời cũng chưa chắc đã đạt tới, nếu như chỉ đọc, chỉ học vẹt mà không tiêu hóa nổi. Đạt tới hóa cảnh là một quá trình học tập, cũng là quá trình thực hành, quá trình suy nghĩ, quá trình lĩnh hội, quá trình phản tỉnh, phát triển và chín muồi, cũng là một quá trình cảm hóa, gột rửa, thăng hoa, ấm áp và đầy đặn. “Thuyết hữu hạn” công phu ở bên ngoài sách Mao Trạch Đông từng nói, có một số trí thức “sách đọc càng nhiều càng ngu xuẩn”. Người ta phần nhiều cho câu nói này phản ánh vấn đề coi khinh tri thức sách vở của Mao Trạch Đông. Trộm nghĩ sự việc không đơn giản như thế. Mao Trạch Đông là nhân vật như thế nào? Chính ông đã đọc bao nhiêu là sách. Đến thăm nơi ở cũ của ông tại Trung Nam Hải, bạn sẽ thấy cả đến trên giường ngủ của ông cũng có một phần ba chỗ xếp đầy sách. Một Mao Trạch Đông như thế há lại phản đối người khác đọc sách sao? Cho tới những năm cuối đời, ông còn ra một chỉ thị quan trọng, có đầu đề là Nghiêm túc đọc sách, học tập thông suốt chủ nghĩa Mác. Vậy thì tại sao ông lại nói những lời rất cực đoan có ý hạ thấp việc đọc sách như thế? Điều này phải nghiên cứu bắt đầu từ tư tưởng của Mao Trạch Đông. Ông nói: “Đọc sách là học tập, sử dụng cũng là học tập và càng là sự học tập quan trọng hơn”. Câu nói này đã hé lộ hạt nhân tư tưởng của ông. Ông nhấn mạnh phẩm cách thực tiễn của nhận thức, coi trọng tác dụng quyết https://thuviensach.vn định của thực tiễn đối với nhận thức. Ngược lại, ông coi khinh thậm chí căm ghét lối học vẹt tách rời tính thực tiễn của nhận thức, cũng như chủ nghĩa sách vở, chủ nghĩa giáo điều, xổ chữ khoe nghĩa và học vẹt. Về điều này, tôi còn có một liên tưởng nữa, mạnh dạn nói thì có thể là một chút phát huy. Trên thế giới có một số điều có thể học được trong sách vở, còn một số điều khác thì không thể học được qua sách vở, hoặc nếu học qua sách vở thì chỉ có thể được những điều ngược lại. Vậy thì nếu bạn chỉ có kiến thức trên sách vở, chỉ biết nhận thức qua sách vở, hoàn toàn không biết kết hợp với thực tế thì đó chẳng phải càng học càng ngu hay sao? Lấy một ví dụ: học bơi mà chỉ học trên sách vở thì có thể biết bơi được không? Cách mạng Trung Quốc nên đi theo con đường nào thì trên sách vở có sẵn đáp án hay không? Cũng như thế, bất kể Thái Cực quyền hay tập thể dục theo loa truyền thanh, nếu chỉ học trên sách thì học chỉ tổ mệt, chỉ tổ bực mình, càng học càng cuồng; nếu kiếm một ông thầy rồi tập luyện theo ắt sẽ đạt hiệu quả, chỉ tốn nửa công sức mà đạt được trọn việc. Lại lấy thêm một ví dụ không được cao nhã cho lắm: trên sách vở, đâu đâu chúng ta cũng thấy những lời dạy con người ta nên tuân thủ luật pháp, coi trọng việc chung, chí công vô tư, quang minh lỗi lạc, làm việc theo chương trình... Có sách nào dạy đi cửa sau như thế nào không? Đi cửa sau là không tốt, không nên dạy, nhưng xin hỏi, ai dám nói mình chưa từng dính líu gì đến hiện tượng đi cửa sau? Anh không đi cửa sau, vậy anh có thấy người khác đi cửa sau hay chưa? Khi đó anh cần phải có đối sách như thế nào? Đi cửa sau là một hiện tượng xã hội, thậm chí là một hiện tượng văn hóa, đáng được nhìn thẳng vào. Đã muốn chống đi cửa sau thì chẳng phải cần làm rõ đường đi lối lại của việc đi cửa sau hay sao? Nhưng sách về phương diện này thì chẳng bao giờ có. Thí dụ này đủ chứng tỏ ngoài tri thức sách vở ra, con người ta còn có tri thức thuộc loại khác ở bên ngoài sách vở. Nếu chỉ có tri thức trên sách vở mà không có tri thức thuộc loại khác thì tri thức của bạn rất có thể còn thiếu nhiều. https://thuviensach.vn Lại xin cử một ví dụ khiến người ta lúng túng: đã có quyển sách nào nói về viên chức quốc gia nên làm thế nào để giành được cơ hội thăng tiến tốt hơn hay không? Không có cuốn sách nào như thế cả, vì về tính chất mà nói, viên chức nhà nước đều là đầy tớ của dân, hoàn toàn không nên có quan niệm địa vị, quan niệm thăng quan tiến chức. Điều chúng ta đề xướng là làm bò già(2) cho nhân dân, mà đã là bò già thì làm sao còn nghĩ tới địa vị, chức danh, cấp bậc và đãi ngộ của mình nữa? Nhất là “kinh nghiệm”, “biện pháp”của những dốc sức cho việc thăng tiến của mình là những điều không đáng nói cùng người, không đáng đem ra dạy bảo. Đấy là chưa kể có những điều rất bậy bạ, dù viết ra một cuốn sách như thế thì cũng không cách gì xuất bản được, mà dù xuất bản được đi nữa thì cũng đến chết yểu trong lời khiển trách phẫn nộ. Vậy thì trên thực tế có tồn tại một vấn đề là phấn đấu để được thăng tiến, tổng kết những kinh nghiệm để được thăng tiến hay không? Có hay không vấn đề viên chức nhà nước hoặc nhân viên công ty đang bàn luận, đang nghiên cứu, đang quan tâm tới việc thăng tiến của mình? Chúng ta có thể hoàn thành một cuốn sách về môn “thăng tiến học”, cho dù không viết thành chữ mà chỉ có thể truyền thụ và lĩnh hội bằng con tim và tinh thần hay không? Vấn đề này không nói cũng biết, đó cũng thuộc học vấn loại khác, nếu chỉ học qua sách vở thì công dụng rất hạn chế. Chín chắn ấu trĩ và già dặn chín chắn Khi nghị luận về một người nào, chúng ta thường nói ai ai đó ấu trĩ, ai ai đó thiếu chín chắn, ai ai đó già dặn. Vậy xin hỏi, tiêu chuẩn của chín chắn và già dặn là gì? Điểm khu biệt giữa chín chắn và ấu trĩ là gì? Thật sự xin lỗi, tôi không thể không nói tới một điều, đó là bản lĩnh nhận thức về cái ác và đối phó với cái ác. Rất đáng tiếc là trong đời người và trong xã hội còn có rất nhiều điều không lương thiện, còn có rất nhiều điều ác. Người ấu trĩ gặp điều bất thiện và điều ác ấy thường rất đau lòng, rất đau khổ, cảm thấy rất bất ngờ, rất lúng túng, thậm chí sau mấy lần giao đấu đầu tiên đã ngã xuống đài, hoặc mất dũng khí sống tiếp, hoặc đi tới bi quan và suy sụp, hoặc buông trôi theo dòng để tự mình cũng biến thành bất thiện và ác. https://thuviensach.vn Những trường hợp gặp ác mà không hề có biện pháp nào, gặp ác mà chỉ biết kêu la ầm ĩ, gặp ác thì sa bẫy bị lừa, gặp ác thì mất hết tinh thần hoặc giả liều lĩnh vào chốn hiểm nguy, trở thành người quá kích động, thành kẻ phẫn thế ghét đời có tính phá hoại, rồi trở thành kẻ mạo hiểm và kẻ khủng bố - có thể nói tất cả những biểu hiện như trên quả là những tiêu chí của một người khá ấu trĩ. Còn người chín chắn và già dặn thì sẽ kiên định không nao núng, lại biết ung dung ứng chiến, khôn khéo đối phó, biến bị động thành chủ động, tìm được mấu chốt để chuyển hóa nhân tố bất thiện thành nhân tố thiện ngay trong lúc cái ác đang khiêu chiến, chí ít thì cũng phải chiến thắng được cái ác, chuyển hóa cái ác, hoằng dương cái thiện cho tới khi đạt tới mức lách lưỡi dao thoăn thoắt như đầu bếp thạo mổ trâu, đạt tới mức ra khỏi bùn nhơ mà không nhiễm mùi bùn. Chưa bao giờ gặp cái ác là điều không thể có, không thất bại tự sát trước cái ác, cũng không biến thành cái ác là điều bắt buộc và hữu dụng. Còn truyền thống văn hóa, quy tắc xuất bản cho chí chính sách, pháp lệnh của chúng ta lại thường thiên về không nói, chí ít là không nói nhiều, không nói sâu về cái ác trong nhân gian - đối với điều này, tôi lại không có gì phản đối, vì ở đây quả thực có điều cần cân nhắc: khi tố chất con người chưa đủ lý tưởng mà chúng ta lại nói quá nhiều đến cái ác thì có thể về mặt khách quan sẽ biến thành những lời mách nước làm điều ác. Ở đây tôi không có ý bàn luận những ý kiến xung đột về nguyên tắc tính phổ biến, nguyên tắc tính thích ứng và nguyên tắc tính giá trị của xuất bản. Tôi chỉ muốn nói nhờ cậy kiến thức sách vở không thôi là không đủ. Vì nhiều nguyên nhân, người ta không viết toàn diện trên sách, không xuất bản toàn diện các sách, bạn cũng vì nhiều lý do nên không đọc được toàn diện. Nhiều khi người ta chỉ muốn tìm cái đẹp, cái ngọt ngào trong sách vở mà bỏ qua những vị mặn, đắng, cay, chua, chát; người ta thiên về chọn lựa cái thơm tho mà bỏ qua cái tanh, hôi. Người ta tiếp thu lối xuôi theo dòng lớn mà bỏ bớt hoặc tránh né, thậm chí còn dứt khoát giấu nhẹm những gì bất nhã, những gì sâu kín, hoặc những gì quá nhạy cảm. Cho dù không có bất kỳ sự tránh né hoặc giấu kín nào thì cũng không bao giờ có một quyển sách https://thuviensach.vn chuyên viết cho bạn ở lúc này và ở nơi này; ngược lại những sách ấy là do tác giả của chúng viết ra nhân tình hình và vấn đề lúc ấy, chỗ ấy của chính tác giả. Vì thế, chúng ta phải biết cách vận dụng trong thực tiễn, biết cách suy nghĩ, biết cách phân biệt, biết cách phân tích và tổng kết, khái quát, biết cách tìm ra quy luật và tri thức trong tình hình khác nhau, trong những thành bại, được mất khác nhau, rồi suy nghĩ để rút ra một điều gì đó. Đối với việc học ngôn ngữ là thứ tương đối “chết cứng” cũng vậy. Học phát âm cho tốt và học khẩu ngữ qua sách vở là điều rất khó. Bạn nên chịu khó lắng nghe, nghe hết lần này đến lần khác, nghe người có tiếng mẹ đẻ là thứ ngôn ngữ bạn muốn học ấy nói ra sao, phát âm như thế nào, sau đó so sánh với lời nói, cách nói, lối phát âm của mình, có như thế mới tìm ra thiếu sót mà cải tiến. Ý nghĩa của việc đọc đối với việc học ngôn ngữ ở chỗ không những giúp bạn đọc hiểu những điều bạn đang đọc, mà còn là học tập lối tu từ và đặt câu hỏi của người khác thông qua đọc sách, học tập cả phương thức biểu đạt và kỹ xảo biểu đạt của người khác. Cùng một câu nói mà có thể có đến mấy chục, thậm chí hàng trăm cách nói khác nhau, nhưng trong số đó, chỉ có một vài cách là thích hợp nhất cho khi ấy, nơi ấy, cảnh ấy, người ấy. Làm thế nào chọn ra được một cách hoặc vài cách nói hay nhất trong tình thế khác nhau, thích hợp nhất với thân phận người nói khác nhau và thân phận của người đối thoại khác nhau, đó là điều bất kỳ một cuốn dạy ngôn ngữ nào cũng không cách gì nói cho rành được. Chỉ có tự mình thông qua vô số những sự việc, bao gồm cả những sự việc phản diện để tổng kết kinh nghiệm thì mới càng học càng thông minh, càng giỏi giang. “Học hay” không bằng “hay học” Bây giờ chúng ta hãy sơ kết xem những loại nào khó có thể học được trên sách. Trước hết là loại nặng về thao tác, nhẹ về lý thuyết, như bơi, như thể dục. Những loại này dựa vào học trên sách không bằng dựa vào người hướng dẫn, làm mẫu và càng cần dựa vào mò mẫm trong thực tiễn. Hai là https://thuviensach.vn loại không cao nhã và đẹp đẽ cho lắm, xin lược bỏ thí dụ. Ba là loại hoàn toàn mới như cách mạng Trung Quốc, kinh tế thị trường trong chế độ xã hội chủ nghĩa, một nước hai chế độ, việc tìm tòi trào lưu văn nghệ mới, thủ pháp mới, v.v... đó đều là những thứ không có trong sách vở. Chúng ta còn có thể nói, cái gì đã có trong sách thì không còn là điều mới sáng tạo. Sáng tạo là phải vừa dựa vào sách vở đồng thời lại tách khỏi sách vở, đột phá sách vở, thông qua thực tiễn để mở ra con đường khác. Điều căn bản nhất của mục đích học tập rốt cuộc là gì? Để giải quyết được những vấn đề trong thực tiễn, những vấn đề mới trong thực tế, để huấn luyện mình có được trí tuệ hơn người, đạt được tới cảnh giới cao cả, có được những cống hiến lớn hơn, giành được thành công, có được những biểu hiện càng hoàn mỹ hơn, được hưởng thụ cuộc đời huy hoàng hoặc chí ít cũng vui vẻ và lành mạnh. Tất cả những điều nói trên đều không đến tay bằng cách chỉ đơn thuần dựa vào đọc và thuộc lòng sách vở. Mỗi người đều có thể gặp cảnh ngộ và vấn đề rất đặc thù đối với mình vào bất cứ lúc nào, tuy vị tất đã đặc thù đến mức có một không hai, song cũng không bao giờ là phiên bản cảnh ngộ và vấn đề của một người khác hay của người đi trước như tác giả viết sách. Chỉ có biết cách quan sát, thể nghiệm trong cuộc sống, trong thực tiễn, biết tổng kết, biết phản tỉnh, biết mài giũa, biết theo cái thiện, biết tùy lúc mà điều chỉnh, vừa điểm tới đã thấu suốt... thì mới gọi được là người biết cách học tập. Vậy thì tại sao Mao Trạch Đông lại nhận định có người càng học càng ngu? Tôi cho rằng, một là vì chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa sách vở hại người. Nếu vì chúi mũi vào đọc sách mà để mất cảm giác tươi mát về cuộc sống, vì luận đoán có sẵn trong sách mà trói buộc chân tay, vì sách mà bóp chết mọi sự sống thì như thế người đã ngu lại càng ngu hơn. Hai là nếu người học xa rời thực tế, cả đời chỉ đi từ cuốn sách này đến cuốn sách khác, từ danh từ tới danh từ, từ khái niệm tới khái niệm, tuần hoàn với chính mình ắt sẽ trở thành người học đấy mà chẳng thông lý lẽ, cố chấp những điều sai lầm, hại người mà cũng hại cả mình, mụ mẫm cả người mà cứ tưởng chẳng ai hơn được mình. https://thuviensach.vn Ba là, những điều trong sách vở không phải đều hoàn toàn đúng. Sai lầm trong sách vở chưa chắc đã ít hơn sai lầm ngoài đời, chỉ đi từ cuốn sách này sang cuốn sách khác thì rất khó phán đoán cái đúng cái sai; chỉ có lắng nghe tiếng nói của thực tiễn thì mới có thể ngốn sách mà vẫn tiêu hóa được. Bốn là sách vở còn làm một số người thuộc lòng nhờ có trí nhớ tốt sinh lòng kiêu ngạo, tự cho là phi thường, bàn suông không dứt, lừa đời trộm danh, huênh hoang không biết xấu hổ, người như thế không mấy khi làm nên còn thất bại thì có thừa. Trong thời điểm mấu chốt của cách mạng và chiến tranh, Mao Trạch Đông đặc biệt căm ghét những ai theo chủ nghĩa sách vở, đó là điều có thể hiểu được. Đương nhiên câu “đọc càng nhiều càng ngu” cũng như tất cả những câu nói đặc biệt nổi tiếng khác trong thế gian này không phải tới chỗ nào là sáng ra chỗ đó. Một khi dùng ngôn ngữ để nói lên một nhận thức thì sau khi đạt tới hình thức ngôn ngữ tương đối trong sáng, rõ ràng sẽ có thể dễ bị trở nên khô cứng, thậm chí phiến diện. Mọi cách trình bày ngôn ngữ của loài người cho dù đã cố gắng đạt tới toàn diện, song vẫn không tránh khỏi có chỗ thiếu toàn diện. Hơn nữa khi đã nhấn mạnh một điểm, một mặt nào đó thì ngay từ ngày đầu khi nó chào đời đã bao hàm khả năng biến thành sai lầm. Nhất là sau khi cách mạng thắng lợi, ông cụ đã coi nhẹ tầm quan trọng của việc nắm vững tri thức, nắm vững khoa học kỹ thuật cao cấp để xây dựng một nước xã hội chủ nghĩa, coi nhẹ tầm quan trọng của việc một nước lạc hậu cả về kinh tế và khoa học kỹ thuật cần học hỏi những kinh nghiệm và tri thức đã có của các nước tiên tiến, ngẩng cao đầu đuổi kịp họ. Bởi vậy câu nói đó đã bị một số người vốn dĩ không hiểu biết gì nhưng lại ngang ngạnh chuyên quyền lấy làm chỗ dựa để bức hại người tri thức. Khi đó, câu nói ấy đã hoàn toàn đi chệch đường. Thơ cao nhất là toán học? Như thế là tôi muốn nói, người coi trọng học tập, biết cách học tập thì chẳng những biết cách đọc sách mà càng biết cách tiếp thu những tri thức trong thực tiễn cuộc sống. Họ vừa học kiến thức trong sách vở, vừa học https://thuviensach.vn được kiến thức thuộc loại khác, vừa học được cái học ở ngoài thân, lại học được cái học ở cùng thân. Vậy thì làm thế nào để không ngừng giành được tri thức và linh cảm trong thực tiễn, học tập qua thực tiễn và thực tế đây? Trước hết, bạn cần phải ham học tập. Trên đời có rất nhiều lý luận về việc không cần học, trong số đó lý lẽ được người ngu xuẩn nhắc tới nhiều nhất là: “Học chẳng để làm gì thì cần gì phải học?” Tôi có một người bạn tính tình rất thuần phác. Sang Mỹ, người ta tổ chức cho anh tham gia một lớp học tiếng Anh, anh liền hỏi người mời: “Sang năm các ông còn định mời tôi sang nữa không?” Nhận được câu trả lời là “Không”, anh cho rằng học tiếng Anh chẳng có ý nghĩa gì đối với mình, liền bỏ luôn cơ hội học tập ấy. Buồn thay! Thái độ muốn có lợi ngay tức khắc, cái tầm nhìn của loài chuột và ý nghĩ hẹp hòi, cố chấp ấy thì còn có thể học được cái gì? Còn có triển vọng bao nhiêu nữa? Thật ra các ngành học đều có liên hệ với nhau, ngôn ngữ với tâm lý học, với địa lý nhân văn, địa lý tự nhiên, với lịch sử, với chính trị, với văn nghệ, với nhân loại học, với triết học, ngôn ngữ này với ngôn ngữ kia, khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn và khoa học xã hội đều có rất nhiều ảnh hưởng lẫn nhau, có đường thông với nhau. Thậm chí lùi về một vạn bước mà nói, cho dù chỉ để rèn luyện tư duy, tăng thêm kiến thức, thỏa mãn lòng muốn biết và lòng hiếu kỳ thì cũng vẫn phải sống đến già học đến già. Nhớ lại thời niên thiếu, hầu hết thời gian của tôi chỉ dùng để giải các đề toán, những tri thức toán học sau đó rất ít khi trực tiếp dùng đến, song việc học toán cực kỳ có ích cho việc rèn luyện tư duy của tôi. Từ đó đến nay đã hơn nửa thế kỷ, có lúc thấy thằng cháu đang học trung học gặp đề toán làm không ra, tôi vẫn thích cầm đề toán ấy sang chỗ khác làm. Bây giờ đã cách hồi tôi học toán ở trường hơn nửa thế kỷ rồi, song đa số trường hợp tôi vẫn giải được toán và qua đấy tôi có được niềm vui rất lớn. Tôi tin rằng về cơ bản, các ngành học đều tương thông với nhau, chân lý có phẩm chất thống nhất của mình. Tính thống nhất của thế giới vừa biểu hiện ở tính thống nhất của vật chất - chẳng hạn vật chất trên mặt trăng và https://thuviensach.vn vật chất trên trái đất là thống nhất - vừa biểu hiện ở tính thống nhất của tình lý sự việc. Trong chúng ta, hẳn chẳng có ai có thể sống trong hoàn cảnh kiểu vườn Đại Quan và phủ Vinh Quốc, nhưng tình lý sự thể như tụ tán, chìm nổi, thân sơ, xa gần, thiện ác, giả thật trong Hồng lâu mộng thì đối với chúng ta vẫn vô cùng gần gũi, tựa như chính mình trải qua vậy. Lại như chúng ta nói một người nào đó biết tôn trọng đạo lý thì đó vừa là đặc điểm của tư cách làm người, vừa là yêu cầu của học vấn. Còn như không biết gì đến đạo lý thì đó vừa là thiếu sót về nhân cách, vừa là dấu hiệu không đủ chỗ dựa cho học vấn. Có thể nói đức tính tốt đẹp cũng thống nhất với nhau, ví như thực sự cầu thị, đối xử với người bằng lòng thành và chữ tín, sức sống bời bời, khoan dung nhẫn nại... thì đối với hầu hết mọi người đều là điều tất yếu, đối với tất cả các nghề đều là tất yếu, đối với tất cả những ai thực tập, chuyên tu nghề nghiệp cũng là điều tất yếu. Bất kỳ việc học tập một phương diện nào đều vừa có ý nghĩa thực dụng lại vừa có tác dụng nâng cao trí lực, nâng cảnh giới lên về căn bản, tất cả việc học tập đều đưa tới biển cả trí tuệ, đỉnh cao trí tuệ, trong mọi ngành học đều bao hàm phẩm chất theo đuổi chân lý, hiến thân cho mọi người, một phẩm chất chính đại quang minh không gì là không làm được; trong mọi ngành học đều bao hàm đạo lý thích ứng cho việc vận dụng một cách phổ biến. Từ xưa tới nay, các triết nhân của chúng ta đều đã suy nghĩ, tìm tòi, miêu tả, tưởng tượng một đạo lớn bao gồm tất cả, không gì là không thể và thích hợp vận dụng một cách phổ biến như thế. Có người gọi đó là Đạo, có người gọi đó là Nhân, hoặc gọi là Lý, là ý niệm tuyệt đối. Có lẽ sự miêu tả về Đạo như vậy chủ yếu vẫn còn là trực giác, chưa nói gì đến một luận chứng lôgích đầy đủ, càng không nói gì đến thực chứng. Song cũng như lòng ngưỡng vọng đối với quang minh và hạnh phúc, đó là sự cầu mong lý tính, có cùng lúc với sự sống, với loài người. Mấy năm trước đây có một nhà phê bình văn học ở Phúc Kiến đã nói một câu gây kinh ngạc. Ông ta nói: “Thơ cao nhất là toán học”. Rất nhiều người cảm thấy câu đó khó hiểu, còn tôi thì tin rằng ông nói rất hay. Tôi có thể cảm nhận được luận điểm của ông ấy nhưng lại không có cách gì giải https://thuviensach.vn thích đầy đủ về nó. Tôi cảm thấy, toán học cao nhất cũng như thơ ca cao nhất, đều đầy sức tưởng tượng, đầy trí tuệ, đầy sáng tạo, đầy trình tự và quy tắc, rất hài hòa và đầy thách thức. Thơ và toán học lại đều đầy ắp linh cảm, đầy ắp sức mạnh tinh thần của nhân loại. Nhà thơ nào thể nghiệm được toán học trong thơ thì đó là nhà thơ giỏi, còn những ai thấy được ý thơ trong toán học thì đó là nhà toán học giỏi. Mọi học vấn đều là trí tuệ, càng là một loại cảnh giới. Mọi học vấn đều là trí não, càng là một hoài bão, một bản lĩnh, một thái độ, một nghề nghiệp, một sứ mệnh; là một loại phải tích góp hàng ngày, hàng tháng, là sự thăng hoa của nhân tính. Người nào để cho linh hồn vang lên khúc nhạc giao hưởng của học tập và học vấn thì người đó là người hạnh phúc, cao thượng và có giá trị. Còn người nào làm cho đời mình vang lên khúc nhạc giao hưởng thực tiễn có tính tìm tòi thì người đó mới học được thông suốt, hiểu được rõ ràng, học được điều tươi mới, như thế là không những đọc nhiều mà còn hiểu được lý lẽ. Còn như học mà học vẹt, học gạo, học đến ngây ngô thì đó là tội lỗi không tha thứ được. Nghệ thuật hóa nhân sinh Khi chúng ta miêu tả và khen ngợi một kỹ năng, một hoạt động và công việc của một người nào đó, chúng ta thường dùng từ “nghệ thuật”. Chẳng hạn chúng ta bảo bóng đá Brasil là một loại nghệ thuật, khen khả năng lãnh đạo của một vị lãnh đạo nào đó là nghệ thuật, khen một quan chức ngoại giao có nghệ thuật đối đáp, thậm chí bảo một người nào đó đạt tới nghệ thuật làm người v.v... Nói như thế là có ý gì? Đội Brasil đá bóng như múa thì khi đó độ tinh thâm của kỹ thuật, tầm phóng khoáng của động tác và nét đẹp của hình thể đã hòa vào làm một. Một vị lãnh đạo biết cách liên hệ với quần chúng nhân dân, biết cách biến chủ trương chính trị của đảng mình, phái mình thành nhu cầu của nhân dân, biết cách tổ chức, phân phối lực lượng, biết cách điều động mọi nhân tố tích cực, đồng thời hóa giải và khắc phục mọi nhân tố tiêu cực để đạt tới mục tiêu của mình được nhanh nhất, tốt nhất và trả giá ít nhất... thì như thế, hoạt động chính trị của ông ta đã biến thành sức hấp dẫn về nhân cách. Ông ta đã kết hợp được sự tính toán https://thuviensach.vn sáng suốt về lợi và hại của chính trị cùng tình cảm chân thực trong nội tâm với tinh thần hiến thân trung thành của nhân dân vào làm một. Việc ông ta làm rất ngoạn mục, lời nói rất hay, như thế chẳng là nghệ thuật thì là gì? Hoạt động ngoại giao cũng vậy, mà đối xử với đời, với người cũng thế, đều có sự phân biệt giữa vụng về, cứng nhắc, ngang ngược, giật gấu vá vai, mệt mỏi ứng phó với ung dung, tự nhiên, văn minh, trôi chảy như mây bay nước cuốn, thừa sức xử lý. Như thế là để nói một việc gì đã học được, đã làm được, đã vào được tới hóa cảnh. Hóa cảnh là nơi chuẩn xác nhất, thích đáng nhất, vừa đúng độ nhất, lại là nơi mỹ mãn, đẹp đẽ, khiến người ta dễ chịu khi nhìn thấy. Làm một công việc thể lực như gặt lúa, càng là lão nông lao động giỏi thì gặt càng đẹp mắt, còn càng là người mới thì càng cong mông rướn cổ, càng mắm môi mắm lợi thì lúa càng đổ nghiêng đổ ngả, mọi vẻ vụng về đều lộ ra bằng hết. Lại như làm một cuộc diễn thuyết, nói đến khản cổ, hết hơi chưa chắc đã diễn thuyết được hay, đỏ bừng mặt mũi cũng không được gọi là biết nói chuyện; nhai từ cắn chữ, khoe khoang ra vẻ, làm bộ làm tịch, phô trương thanh thế cũng không thể gọi là biết nói chuyện. Trong hầu hết trường hợp, thật lòng nói thực, lời lẽ dễ nghe, không ồn ào, to tát, càng nghe càng thấy thú, trọn vẹn như vốn có sẵn thì đấy mới là cách biểu đạt lời nói thành công nhất. Như thế là để nói, đặc điểm lớn nhất khi tới hóa cảnh là cái học ngoài thân trở thành cái học cùng thân, mọi học vấn tri thức, bản lĩnh, niềm tin đều hóa thành bản năng, bản sắc, thành niềm yêu chuộng và thói quen, thành niềm vui và nhu cầu nội tại, thành niềm sung sướng và sự thỏa mãn về thẩm mỹ. Thế là thành thực bên trong mà lộ hình ra ngoài, chỉ nghe mệnh lệnh ở sự thành thực nội tâm, tùy theo ý muốn mà không ra ngoài quy củ, chẳng khác gì đầu bếp giỏi ung dung mổ trâu như vào chỗ không người, trị nước lớn mà như nấu món ăn nhỏ, cứ việc tùy tay nhón lấy, chỉ cần cúi xuống và nhặt lên được thì trăm trận trăm thắng, thuận lợi trăm chiều. Thế là không để lộ dấu vết, không lừa dối hù dọa, lại càng không ỷ thế ép người và đón ý để được tiếng khen. https://thuviensach.vn Tất cả những điều trên nếu chỉ dựa vào sách vở là không học được, nếu chỉ dựa vào kinh nghiệm thì cũng không rút ra được. Chỉ có vừa tiếp thu mọi thành quả của các bậc tiên hiền, suy nghĩ, lĩnh hội trong thực tiễn, lại thêm sự hiểu biết, khôn ngoan, chịu khó đọc, chịu thành khẩn làm việc, chịu suy nghĩ, chịu tìm tòi thì mới mong có vài phần hy vọng. Trong một lúc không phân biệt được Phật và ma, chưa tới được hóa cảnh cũng cố làm ra tới hóa cảnh, không chân thành mà giả vờ làm ra vẻ phóng khoáng, không có bản lĩnh cũng cố làm ra vẻ trấn tĩnh, chưa biết rõ ngọn nguồn lại muốn làm ra vẻ sẵn có hiểu biết đầy đủ thì đấy đâu phải là hóa cảnh mà là giả dối giảo hoạt, vẽ hổ không nên hóa thành vẽ chó, hóa cảnh chưa vào được đã thành ngụy quân tử rồi. Vậy thì làm sao phân biệt chín chắn và giảo hoạt, lão luyện và giả dối đây? Vấn đề này sau đây chúng ta sẽ còn bàn tới. Chỉ có suy nghĩ, tìm tòi mới vào được hóa cảnh Hóa cảnh không phải một bước mà tới được, nhưng dựng một mục tiêu cảnh giới như vậy so với không dựng một mục tiêu như thế là rất khác nhau. Hóa cảnh là một trạng thái chủ động, là một vương quốc tự do, là một loại nghệ thuật, càng là một loại khí phách, một con đường lớn, một loại phẩm chất. Tất nhiên người tà ác dù có bận lòng mất sức cũng đến bực bội bất bình vì không vào được hóa cảnh; người lòng dạ hẹp hòi tất nhiên sẽ rề rà, chậm chạp, kêu ca phàn nàn, cũng không vào được tới hóa cảnh; người nào quá nôn nóng tất nhiên sẽ sức mòn lực kiệt, vỡ đầu mẻ trán, đương nhiên không liên quan gì với hóa cảnh. Chúng ta ngoài đọc sách để hiểu biết còn phải ham suy nghĩ, tìm tòi. Vào hóa cảnh là một quá trình, quá trình kết hợp giữa đọc sách và thực tiễn, càng là một quá trình không ngừng quay về tự hỏi và tìm tòi, cũng là suy nghĩ và cân nhắc. Niềm vui lớn nhất trong học tập là phát hiện những điều hay, đúng trong thực tiễn cuộc sống, nghe được hơi thở của thực tế cuộc sống, từ lúc này, nơi này, người này, vấn đề này liên hệ với lúc khác, nơi https://thuviensach.vn khác, người khác, vấn đề khác, từ đó mà có được sự cảm thụ, hiểu ra, có được phát hiện, có được gợi mở, có được bước tiến dài. Niềm vui lớn nhất của thực tiễn là từ trải nghiệm đời thường nhất, thực tế nhất phát hiện ra những mệnh đề tri thức, đạo lý và học vấn. Thông qua thực tiễn, chẳng những làm nên việc mà còn có được học vấn, không những thêm được kiến thức mà còn thêm được tài thực, học thực. Điều quan trọng nhất ở đây là coi mọi thực tiễn là quá trình tìm tòi chân lý, cuộc sống không biết đến đâu là cùng, sự nghiệp cũng không biết đến đâu là dừng, và tư tưởng, suy nghĩ cũng không biết đến đâu là cùng. Mỗi một lần thực tiễn, mỗi một lần hành động, mỗi một công việc đều có thể cung cấp cho bạn một chút kinh nghiệm tươi mới, một vấn đề, một gợi ý mới. Trong thi đấu bóng đá, không một lần bóng vào lưới nào lặp lại lần bóng vào lưới khác, viết văn cũng kị nhất là lặp lại và sao chép. Không một chứng bệnh của bệnh nhân này y hệt chứng bệnh của bệnh nhân khác. Vậy thì điều người biết cách học tập rút ra được trong thực tiễn chung chung hàng ngày đương nhiên ắt xác nhận và củng cố cho những điều hữu hiệu phổ biến, đồng thời cũng rút ra được một chút gì đó tươi mới, cho dù chỉ là chút chút phát triển, chút chút bí quyết độc đáo. Cũng như vậy, đọc sách cũng là một quá trình tìm tòi, suy nghĩ. Phải xem những học vấn trong sách có điểm nào thông với tri thức loại nào đó của bạn hay không, có thể giải đáp một loại vấn đề thực tế nào đó của bạn hay không, cho dù không trả lời trực tiếp thì cũng là một gợi mở gián tiếp qua gián tiếp cũng được. Chẳng hạn, điểm đặc biệt của tiểu thuyết là kết cấu, không một ai có thể dạy bạn nên kết cấu, nên viết như thế nào; không có một tiểu thuyết nào vừa kể truyện, kể nhân vật, vừa bảo bạn biết tác giả đã cấu trúc như thế nào. Bởi vì kết cấu của tiểu thuyết này với tiểu thuyết khác đều không giống nhau, nhưng nếu bạn viết hoặc đang viết một tiểu thuyết, thế nào bạn cũng phải nắm vững một điều gì đó, thế nào cũng phải cảm thấy một điều gì đó. https://thuviensach.vn Tôi còn nhớ năm mười chín tuổi, khi tôi viết Tuổi xuân muôn năm, chính vì kết cấu rộng lớn, phức tạp của nó mà tôi lúng túng không tìm được cách giải quyết. Đúng lúc đó, vào một ngày Chủ nhật, tôi đến Hội Hữu nghị Trung Xô thời bấy giờ nghe phát những đĩa nhạc mới. Trong lúc thưởng thức nhạc giao hưởng, tôi đột nhiên hiểu ra kết cấu một tiểu thuyết có một số điểm giống với kết cấu một bản nhạc giao hưởng: chủ đề, phụ đề, phát triển, tái hiện, biến tấu, hòa thanh, đối ứng, tiết tấu, những điều chẳng phải giống với tuyến chính, tuyến phụ, nhàn bút, hô ứng, đan xen, gom lại rồi kết thúc ở tiểu thuyết đó sao? Thì ra kết cấu chẳng những phải phân tích, tìm tòi mà quan trọng hơn là phải cảm giác được nó. Từ đó, kết cấu truyện của tôi bắt đầu tiến bước lên đường. Đối với mọi đối tượng xung quanh, bao gồm hiện tượng tự nhiên, hiện tượng xã hội, hiện tượng tinh thần, tôi đều có đánh giá riêng, có dự kiến riêng của mình. Song thực tế, sự phát triển biến hóa của mọi đối tượng và hiện tượng ấy thông thường không phải hoàn toàn giống như dự kiến và đánh giá của bạn. Trước khi bạn làm việc gì, bạn đều có dự liệu nhất định về mục tiêu, song lẽ trên đời này ít khi có tình thế thực hiện được cả trăm phần trăm mục tiêu của mình. Gặp trường hợp đó ắt là cơ hội để học tập: tại sao bạn lại sai? hoặc ít nhất cũng không hoàn toàn đúng? Bạn cả tin một thuyết nào đó và tưởng rằng người nào đấy là bậc đại trí đại dũng, nhưng sự thật chứng minh không phải như thế; sự thực chứng minh người ấy vô dụng hơn bạn lường trước rất nhiều. Tại sao bạn dùng toàn bộ sức lực để làm một việc gì đó nhưng không thành công, còn việc khác bạn cứ tự nhiên mà làm thì lại được? Như thế gọi là “có ý trồng hoa hoa chẳng sống, vô tâm cắm liễu, liễu sum suê”. Lúc đó càng cần suy nghĩ đôi chút: Tại sao? Tại sao có lúc để mặc tự nhiên lại thu được hiệu quả tốt hơn là cố làm cho kỳ được? Đời một con người có bao nhiêu cơ hội tốt đẹp có thể khiến bạn học được, hiểu được đạo lớn, học vấn lớn, có thể khiến bạn trưởng thành vượt bậc, thăng hoa vượt bậc, có được trí tuệ và ánh sáng? Và chúng ta cũng đã bao nhiêu lần bỏ lỡ những cơ hội tốt đẹp, đã phụ lòng trời gợi mở, bỏ mất dịp tới được chân lý, đạo lớn, có được trí tuệ và sự sáng láng? https://thuviensach.vn Học tập tốt nhất là liên hệ sách vở với cuộc sống. Lý luận cao thâm, khái niệm huyền diệu, tưởng tượng kỳ dị, thực ra vẫn là từ cuộc sống mà thăng hoa lên. Còn cuộc sống thường ngày vụn vặt cũng bao hàm rất nhiều đạo lý rất sâu sắc, rất nhiều tri thức thú vị và những gợi mở khiến người ta đột nhiên thông suốt. “Cái hay nhất là lưỡi”, còn cái dở nhất là gì? Chúng ta hãy lấy thí dụ là câu chuyện cười về người không biết cách ăn nói. Có một người ăn nói rất vụng về, một hôm anh ta mời khách tới nhà ăn cơm. Thấy khách mời vẫn chưa đến đủ, anh ta liền nói: “Sao người đáng đến vẫn chưa đến nhỉ?” Một số khách đã đến cảm thấy khó chịu, nghĩ thầm hay họ là người không đáng đến, bèn bực bội bỏ về. Chủ nhà vội nói: “Làm sao người không đáng về lại về thế?” Số khách còn lại nghe thấy thế không vui, thầm nghĩ lẽ nào mấy người chúng ta mới là đáng về? Được lắm, chúng mình về! Thế là họ cũng bỏ về. Chủ nhà càng cuống, vội nói: “Người tôi muốn nói không phải là mấy ông đâu!” Vài người khách còn lại cuối cùng thầm nghĩ, thì ra chủ nhà nói đến không phải là mấy người kia, vậy thì ông ta muốn đuổi chúng ta rồi! Thế là mấy người khách cuối cùng cũng bỏ về nốt. Đương nhiên đây chỉ là chuyện hài, nhưng nó đã nói đến cảnh khốn cùng của việc giãi bày bằng ngôn ngữ, nói đến sự bất lực của lôgích (ba tốp khách bỏ về thực ra tư duy phán đoán của họ không phù hợp nghiêm ngặt với quy tắc lôgích), dùng từ tu sức không cần thiết (không đáng đến, không đáng về) và cách nói thiếu thẳng thắn (người tôi muốn nói không phải là mấy ông) đã làm hỏng việc. Qua câu chuyện này, chúng ta có thể nghĩ tới nói làm sao cho ít tác dụng phụ, nói làm sao cho người ta tiếp thu được, đồng thời cũng thể hội được sự sai lầm của chủ nghĩa sách vở và chủ nghĩa giáo điều. Nhân vật chính trong truyện cười nói trên cố nhiên không biết ăn nói, nhưng các vị khách cũng hơi quá chấp nhặt, vin cớ, nắm lấy vài câu chữ lầm lẫn mà tỏ thái độ. Làm https://thuviensach.vn bất cứ việc gì, phán đoán bất cứ điều gì đều không thể xuất phát từ một chữ, một câu, không thể lấy lời nói làm chứng cớ mà phải lấy tình hình thực tế làm chỗ dựa. Nếu bạn dự một bữa tiệc nhưng không đợi tiệc bắt đầu đã rời khỏi bàn tiệc và có lời phản đối, thì ngoài việc suy nghĩ tới câu nói thiếu đúng mực nào đó, ít nhất bạn cũng nên nghĩ tới toàn bộ tình cảnh của người mời tiệc và toàn bộ quan hệ chủ khách ở nơi đó. Lời nói là cái có ích song lời nói cũng là cái làm khổ người. Ngụ ngôn Aesop từ lâu đã kể cái hay nhất trên thế giới là lưỡi và cái dở nhất trên thế giới cũng vẫn là lưỡi. Cổ nhân ta từ xưa đã thấm thía điều này, cho nên Khổng Tử mới nói “thuật nhi bất tác”(3), còn Lão Tử thì nói: “Đạo khả đạo phi thường đạo”(4). Cả hai vị đều chú ý bảo lưu tính linh hoạt tiềm tại của ngôn ngữ. Thiền tông cũng không dùng ngôn ngữ, thậm chí hạ thấp và bài xích ngôn ngữ. Cổ nhân của chúng ta nhấn mạnh “đắc ý nhi vong ngôn”(5), nhấn mạnh “ngôn hữu tận nhi ý vô cùng”(6). Những điều đó thật là sâu sắc và cao minh. Có suy nghĩ thì mới có thể thấu suốt lý lẽ như người xưa từng dạy khi đọc sách. Đọc sách mà không thông suốt lý lẽ thì chỉ là đâm đầu vào đám sương mù, như câu “Vấn dĩ kinh tế sách, mang như trụy yên vụ”(7) đã nói. Thấu suốt lý lẽ mà không tiếp tục đọc sách thì chỉ có thể thỏa mãn với những việc nhỏ nông cạn, tầm thường, tỉa tót, tẩn mẩn. Coi cuộc sống như một cuốn sách lớn để đọc, coi sách như người hướng đạo và tư liệu tham khảo cho cuộc sống, như đối tượng để chuyện trò và biện bác, thế thì học cũng vậy mà sống cũng vậy, tất cả đều trở nên thú vị biết bao! Đọc sách để thấu hiểu lý lẽ cùng tiến bước với thời gian. Sách có lúc cạn, việc có lúc hết nhưng suy nghĩ thì vô cùng, vận dụng cũng vô cùng. Đặt mình vào nơi sáng láng, đứng ở chỗ đất không sụt, như thế là càng ngày càng gần tới hóa cảnh rồi vậy. Liễu ngộ: một loại siêu việt “tuệ căn” Mục đích của suy nghĩ tìm tòi là để liễu ngộ. Liễu(8) ngộ là gì? Bây giờ người ta càng ngày càng hay nói đến ngộ tính, vậy từ “ngộ tính” này có https://thuviensach.vn nghĩa như thế nào? Có thể nói, ngộ tính là năng lực học tập, lý giải, hiểu rõ. Còn đối tượng của học tập, lý giải không phải là sách giáo khoa, không phải là quy tắc, điều lệ không thuật lại bằng lời, cho dù không phải ngôn ngữ của bản quốc mà là một ngôn ngữ rất khó, rất sâu sắc, mà biểu hiện thành lối dạy không dùng đến lời nói, một quy luật ở tầng sâu, ẩn tàng trong hiện tượng, một loại khái niệm, yếu lĩnh, kinh nghiệm không cần đến suy diễn theo lôgích, cũng không cần thực nghiệm để chứng minh. Không có bất kỳ trường lớp nào giảng một môn học như thế, và cũng rất khó để mở một trường lớp như thế, vì môn đó rất khó giảng dạy, rất khó giảng giải, rất khó truyền đạt, nó tựa như sai mà lại đúng, khác nào linh dương giấu sừng, chẳng dấu vết đâu mà tìm. Có được nó không phải nhờ đọc sách, cũng không phải nhờ suy nghĩ nung nấu, càng không phải nhờ trực giác, nhờ cảm giác, nhờ từ sự việc này suy ra việc khác cùng loại hoặc nhờ tưởng tượng. Thật là, lê mòn giày sắt không tìm thấy, lúc được hoàn toàn chẳng phí công. Nghe nói từ “ngộ” truyền vào nước ta là nhờ Phật giáo. Có lẽ là như thế này: rất nhiều quan niệm, thuyết pháp của Phật giáo đều không phải là kết quả dựa vào luận chứng hoặc thực nghiệm khoa học. Điều chúng cần tới là một loại “tuệ căn”, một loại “ngộ tính”, vượt lên trên hiện thực để bước sang vô hạn và chung cực. Thiết nghĩ, ở một số mối quan hệ và đối tượng trong lĩnh vực mà đầu óc bình thường của người ta không thể tiến vào nổi có rất nhiều thứ quả thật là những ý nghĩ kỳ lạ, lý lẽ vi diệu; rất nhiều điều không phải là lời trình bày chính diện mà là một số tỉ dụ, một số tượng trưng, một số câu đố. Hơn nữa, tỉ dụ của nó và cái mà nó muốn tỉ dụ, cái nó chỉ ra và cái mà nó muốn chỉ, câu đố và lời giải thì mối quan hệ giữa chúng không thật xác định, có lúc chỉ là một sự nhanh trí, là trò chơi chữ nghĩa, là một loại phong cách, thậm chí là một kiểu nói lấy được, và cuối cùng là một loại tín ngưỡng phi lôgích, phi thực chứng. Ví như câu chuyện về tổ đời thứ sáu là Tuệ Năng rất nổi tiếng. Tổ đời thứ năm là Hoằng Nhẫn muốn tìm người nối pháp, bảo các sư đồ đệ mỗi https://thuviensach.vn người làm một bài kệ. Dâng bài kệ đầu tiên là Thượng tọa Thần Tú, kệ rằng: Thân thị Bồ đề thụ, Tâm như minh kính đài, Thời thời cần phất thức, Mạc sử hữu(9) trần ai. (Cây bồ đề ấy là thân, Đài gương trong sáng ấy tâm nhà chùa. Bụi luôn chăm chỉ phủi cho, Chớ nên để bụi bám mờ đài gương. - ND) Còn bài kệ của Tuệ Năng là: Bồ đề bản vô thụ, Minh kính diệc phi đài. Bản lai vô nhất vật, Hà xứ nhiễm trần ai? (Bồ đề vốn chẳng có cây, Gương kia trong sáng phải đây là đài? Vốn không một vật ở đời, Chốn nào có bụi trần ai nhiễm vào? - ND) So hai bài kệ thì thấy ngộ tính của Tuệ Năng cao hơn, tổ đời thứ năm Hoằng Nhẫn bèn truyền y bát cho Tuệ Năng. Thực ra chuyện ấy giống một trò chơi chữ nghĩa, nếu như tôi cùng làm bài kệ bằng thơ với Tuệ Năng thì tôi không làm mà giữ yên lặng, tốt nhất là ngủ luôn ở đấy, ngáy lên mấy tiếng, hoặc bắt chước tiếng ếch kêu, hoặc bắt https://thuviensach.vn chước tiếng kêu của con lạt lạt cổ(10), như thế chẳng hư vô, chẳng hậu hiện đại, chẳng nghệ thuật hành vi hơn Tuệ Năng hay sao? Lấy ví dụ ngoài Phật: Huệ Thi hỏi Trang Tử: “Ông không phải là cá sao biết niềm vui của cá?” Trang Tử đáp: “Ông không phải là tôi, sao biết tôi không biết được niềm vui của cá?” Thực ra đây là một cách ngụy biện. Huệ Thi hoàn toàn có thể dùng lời của Trang Tử để trả đũa, chỉ cần nói: “Ông không phải là tôi, sao biết tôi không biết ông không biết niềm vui của cá?” Như thế là ngày xưa có một tòa núi, trên núi có một ngôi miếu, trong miếu có một hòa thượng, cứ thế mà kể thì có thể kể đến cả vạn năm cũng chưa hết chuyện. Điều cần ở đây vẫn là “được ý” và “quên lời”. Cố moi óc tìm hiểu lời kệ của Tuệ Năng và lời đáp của Trang Chu thì bản thân việc đó đã là tự làm ra vẻ thông minh hoặc phủ phục xuống đất thán phục, nhưng thực ra chỉ tỏ rõ ngốc nghếch. Hai câu chuyện ấy phần lớn chỉ nhằm để nói về phong thái phóng khoáng, nhón tay cầm bông hoa mỉm cười của họ mà thôi. Có lẽ thí dụ hay hơn cả là nghệ thuật. Kỹ xảo là điều học được, tri thức cũng truyền thụ được nhưng ngộ tính là điều không ai có thể giúp gì được, cảm giác nghệ thuật là điều khác hẳn. Cái gọi là thần vận, cái gọi là sinh khí tuôn trào, cái gọi là linh khí, ý mới, sức hấp dẫn và thanh tân đều rất khó truyền thụ hoặc dứt khoát không thể truyền thụ được. Ít nhất có một nguyên nhân rất đơn giản là nghệ thuật quý ở chỗ sáng tạo ra cái mới. Điều mà bạn dạy cho người khác còn gọi được là mới hay sáng tạo nữa hay không? Ngoài ra, nghệ thuật vô cùng chú ý đến phong cách cá nhân, tính độc đáo cá nhân. Điều thầy giáo dạy cho bạn chỉ có thể là nguyên tắc, chỉ có thể gắn với phong cách cá nhân của thầy giáo chứ tuyệt đối không thể thay bạn sáng tạo ra tính độc đáo của chính bạn. Cái tốt nhất bạn được truyền thụ là cái tốt, cái hay nhưng không thể coi là cái của bạn. Cho tới khi nào bạn ngộ ra được cái của mình từ trong sáng tạo, tìm được phong cách đặc sắc của mình, thì mới coi như bạn đã học được đến nơi đến chốn và đã học đúng cách. https://thuviensach.vn Thực ra, rất nhiều điều chỉ có thể hiểu được bằng ý (ý hội) chứ không thể truyền dạy bằng lời. Một điều nhỏ cho chí một con người, bạn chỉ dựa vào lý lịch hoặc nghe người đó tự thuật thì bạn có thể hiểu được người ấy không? Có khi trải nghiệm thống nhất với tính cách, có khi lại chẳng thống nhất chút nào; có khi điều nói ra sát hợp với thực tế, có khi chính bản thân cũng không nói rành được về bản thân, đó là chưa kể tới những người cố ý hay vô tình giấu giếm một số đặc điểm bản chất nào đó. Dựa vào cái gì để hiểu? Dựa vào liễu ngộ, dựa vào cảm giác, vào trực giác, vào liên tưởng. Tôi không có ý cho rằng lý lịch không quan trọng, lời tự thuật không đáng tin; tôi cũng không có ý cho rằng bất kỳ cảm ngộ không hiểu được nào mới là hay. Cảm ngộ cũng có thể chủ quan phiến diện, nông cạn, thậm chí méo mó nhưng những biện pháp để quan sát, tìm hiểu, nghe, đọc và cảm ngộ đều có thể vận dụng, đều có thể tham khảo thì càng hay. Trong ngôn ngữ Trung Quốc, ngoài chữ “ngộ” ra còn có chữ “thông”. Chúng ta bảo một người không hiểu rõ lý lẽ sự việc là người “bất thông”; học rồi hiểu ra thì bảo là “làm thông”, “đánh thông”. Chữ này rất hình tượng, thông suốt thì có thể thông hiểu lẫn nhau, có thể giao lưu, có thể tới lui, qua lại, như thế đương nhiên khỏe mạnh. Y học Trung Quốc cũng ưa dùng khái niệm và lý luận này. Khám bệnh là để xem chỗ nào đó bất thông; uống thuốc, tiêm thuốc thế là thông, bệnh liền khỏi. Vậy thì thông còn là gì nữa? Theo cách giải thích của tôi, thông trước hết là sự thông suốt không gì trở ngại giữa sách và cuộc sống, thông suốt giữa lý luận và thực tiễn, giữa sự thể và tình lý, giữa đọc sách và thấu hiểu lý luận và thực tiễn, giữa sự việc này và sự việc khác, giữa cái học ở ngoài thân và cái học ở cùng thân, đó là một tiêu chí quan trọng của hóa cảnh. Một số vấn đề thuộc về phong cách, phong độ, đối xử với người và việc, xử thế, để lại ấn tượng cho người, v.v... cũng cần đến ngộ tính tốt. Thông minh như nhau nhưng có người để lại ấn tượng giảo hoạt, ấn tượng quá quắt, ấn tượng khoe mẽ cho người khác; có người khiến người ta cảm thấy nhanh trí, sắc sảo, nhạy bén song không đến nỗi mất đi sự khoan hậu, rộng lượng. Cùng văn nhã như nhau, có người cho người khác ấn tượng làm bộ, https://thuviensach.vn có người thì rất tự nhiên. Cùng một bụng kinh luân như nhau, có người rất giống kẻ đầu cơ tích trữ hoặc kẻ buôn đi bán lại, rất giống gian thương cố ý phô học vấn; có người lại rất thành khẩn, rất nhân hậu, không để mất bản sắc. Còn có người tuy đấm ngực giậm chân nhưng vẫn không có ai tin. Có người cẩn thận phòng bị nhưng vẫn lộ hết chỗ sơ hở; có người ăn nói nghiêm trang song vẫn khiến người ta cảm thấy hoạt kê tức cười. Những điều đó đều không thể truyền thụ, biểu đạt bằng ngôn ngữ được mà phải dựa vào sự liễu ngộ của mình. Học tập cũng như vậy. Được một điều, học một điều, học theo lối thuộc lòng, đó là cách học thông thường. Nếu từ một điều mà phản bác được ba điều, từ điều này nghĩ tới điều khác, nắm được quy luật học tập và quy luật học vấn trong lúc học tập, tìm ra được tính khí của việc học và học vấn, thế là khi đã thông một thì thông được cả trăm, mất sức một nửa mà công lao bội phần, khác nào trời quang mây tạnh, bầu trời bừng sáng, ta thấy sáng sủa rực rỡ, đó chính là lúc đạt tới ngộ tính. Ngạn ngữ có câu rằng: “Thà cãi nhau với người sáng suốt còn hơn trò chuyện với kẻ hồ đồ”. Mục đích của liễu ngộ là hiểu rõ. Điều nói ra được, điều không tiện nói ra; điều nắm được, điều không thể nắm; điều biểu đạt được bằng lời, điều chỉ có thể liếc mắt, giơ tay ra hiệu; điều ngoài mặt, trong lòng, thậm chí ẩn náu rất sâu thế mà cũng hoàn toàn hiểu rõ, hoàn toàn thấu suốt, hoàn toàn ngộ được bằng cái tâm. Như thế thì dù có đánh nhau với người như vậy lại chẳng khoan khoái, sung sướng hay sao? Ngộ tính tuy có chút huyền diệu, nhưng suy nghĩ thì vẫn thấy có thể bồi dưỡng, nâng cao được. Ham học, suy nghĩ sâu sắc, tìm tòi, mô phỏng, học theo, dám đem ra thực hành, biết cách tổng kết, dũng cảm tự xét mình, gặp việc thì phân tích, phân tích không ra thì ôn lại cả quá trình, tìm ra được chỗ sai biệt nhỏ nhất, dựa vào tranh mà tìm được ngựa quý, lần theo dây mà tìm ra dưa, học được một chút thì nhân lên một chút, nếu làm cách này không được thì thử dùng biện pháp khác, như thế thì có thể từ chỗ xuẩn đi tới chỗ không xuẩn mấy, từ ngu mười phần tiến đến ngu sáu phần, cứ thế mà đi thì ắt tới gần chỗ hiểu rõ và liễu ngộ. https://thuviensach.vn Đương nhiên, sự việc không mấy đơn giản như thế. Vấn đề ở chỗ càng là người không hiểu rõ mới càng nóng nảy, nôn nóng; càng là người hồ đồ mới tưởng không có ai bì được với mình, càng là người ấu trĩ mới càng không cho người khác phân bua. Những loại người này thường có lòng thù ghét bản năng đối với những người đạt tới liễu ngộ. Tại sao lại như thế? Chỉ đành tùy họ mà thôi. https://thuviensach.vn IV - HAI MƯƠI MỐT ĐIỀU VỀ QUAN HỆ VỚI NGƯỜI Từ khi kinh tế thị trường bước vào Trung Quốc đến nay, hầu như không ai là không sùng bái mối quan hệ với người, thậm chí coi như một môn để giảng dạy. Có điều, “nhân tính ác không nhất thiết chỉ thuộc về người khác”, “mối quan hệ với người là hai chiều”, cần né tránh “đồng minh” và còn có thuyết “phi chiến xa” nữa. Vậy thì mối quan hệ với người mà tôi tuân thủ gồm những gì? Mối quan hệ với người tốt nhất là “quên đi” lại là nghĩa làm sao? Tìm thầy dạy mình Lấy một ví dụ đơn giản: cũng một sự việc, tìm cùng người như nhau để phối hợp, giúp đỡ; có người làm mà làm không nên, có người làm thì lại làm tốt hơn. Điều này không thể tìm thấy đáp án trong sách vở. Bạn chỉ có biết cách tìm tòi, biết cách suy nghĩ, biết cách phân tích, biết cách quan sát, chiêm nghiệm thì bạn mới có thể dần dần hiểu được phải làm việc đó như thế nào, phải tiếp xúc với người lạ như thế nào, phải gây được tín nhiệm và thiện cảm của người khác như thế nào, phải nhờ vả người như thế nào, phải nói rõ nhu cầu và ý định của mình với người khác ra sao, phải ngầm tỏ ý mình cũng có thể giúp được người ta ra sao v.v... Trước đây người Mỹ đã từng viết cuốn sách về thuật lạ trong xử thế, cũng đã dịch ra Trung văn, nhưng một là, thuật lạ xử thế của nước Mỹ chưa hẳn đã thích hợp với Trung Quốc; hai là, một khi xử thế đã có kỳ thuật, hơn nữa còn viết ra và dịch ra được thì những kỳ thuật ấy chỉ có thể là thứ mạt hạng, chỉ có thể là vặt vãnh bề ngoài, chỉ có thể là ngắt bừa nếu không phải là những lời lừa bịp. Việc “tổng kết kinh nghiệm” về mặt quan hệ cũng chỉ có thể ở trình độ rất thấp, tổng kết rất phiến diện, thậm chí sai lầm. Chẳng hạn, nhờ vả ai làm https://thuviensach.vn việc gì đó, có người dùng phương pháp biếu xén, nghiêm trọng hơn chút nữa là đút lót, hối lộ. Thật không may, quả thực đưa lễ là một biện pháp nhờ vả người, nhưng chúng ta cần hiểu rằng không phải bất cứ nhờ vả việc như thế nào cũng có thể đưa lễ, cũng không phải bất cứ lễ nào cũng có thể đưa, hơn nữa không phải bất cứ người nào cũng có thể đưa lễ. Biếu xén và hối lộ chỉ cách nhau có một bước, mà hậu quả của hối lộ là rất nghiêm trọng, là hành vi phi pháp, là phạm tội, mà đã phạm tội thì phải nghĩ tới sẽ phải chịu sự trừng phạt như thế nào. Còn một điểm nữa là làm việc bằng cách đưa lễ thì một khả năng là không làm được, một khả năng nữa là phản ứng dây chuyền ác tính, càng đưa lễ càng “đen”, sự việc chỉ có thể phát triển theo hướng dung tục và xấu đi. Vả chăng, rất ít khi sự việc làm được nhờ hành vi đó, cho dù thành công thì bạn cũng phải trả giá đắt. Nói như thế là vì bạn biểu hiện quá tầm thường, khó coi, do đó hình ảnh, danh dự của bạn đều bị ảnh hưởng theo mặt trái, lời bạn nói ra sẽ bị chiết khấu đi rất nhiều, người có phẩm vị nhất định sẽ cảm thấy ngán khi phải giao thiệp với bạn. Thanh danh “thần thông quảng đại” nhất thời của bạn sẽ đi tới kết luận rút cục chẳng dùng được vào việc lớn, rút cục chẳng phải đại tài, không đáng tin cậy, không giao nổi việc lớn. Đương nhiên, điều tôi nói không nhằm phủ nhận mọi lễ vật. Những quà biếu có tính bạn bè, có tính kỷ niệm, có tính cảm ơn, có vị “tình người” đều khó có thể phủ nhận và gạt bỏ. Đó cũng là một đặc điểm của thế giới. Việc tốt và việc thô tục, việc thô tục và việc xấu, việc xấu và việc phi pháp, phạm tội có lúc khác nhau chỉ một chút, khoảng cách chỉ là một phân, một tấc và chỉ cần thế tính chất và mùi vị đã thay đổi, vì vậy hoàn toàn phải nhờ ở việc tự mình nắm cho vững. “Nhân tính ác” không nhất định chỉ thuộc về người khác Từ đây mở ra, tôi muốn nói những việc về quan hệ với người. Trung Quốc là nước lớn, đông dân, chế độ xã hội Trung Quốc thực thi là xã hội chủ nghĩa, Trung Quốc thiếu khá nhiều truyền thống giữ khoảng cách giữa https://thuviensach.vn người và người, tôn trọng chuyện riêng tư của nhau. Cuộc sống của người Trung Quốc có thể còn nhiều thiếu sót, nhưng có một điều là họ quyết không cô độc. Chúng ta rất khó tưởng tượng ra một người nào đó cả đời ít giao thiệp, chỉ biết làm theo ý mình, tự làm những điều mình cho là phải. Trái lại, truyền thống văn hóa của chúng ta đặc biệt chú trọng đến mối quan hệ giữa người và người, rất nhiều quy phạm đạo đức như trung, hiếu, tín, nghĩa và lễ đều trước hết được dùng để quy phạm mối quan hệ với người. Chúng ta lại rất coi trọng tình cảm, người quen dễ làm việc là lý lẽ không cần nói cũng rõ. Người bây giờ hơi một tí là nói đến môn học quan hệ, ấy là vì có nguyên nhân của nó. Quan hệ với người lại là một chủ đề người ta ít muốn nhìn thẳng vào, bởi vì mối quan hệ đó không ngoài chuyện đại loại như cùng nhau ăn uống, chăm sóc nhau một chút, người quen dễ làm việc v.v... nói thế tuy hơi tầm thường song cũng không có gì phải ngại. Quan hệ với người phiền toái nhất là vướng mắc với nhau, lúc đầu có lẽ chỉ là bất đồng ý kiến thông thường, dần dần trở thành sự phiền toái giữa người này với người khác, bạn có muốn nghĩ không có gì phiền phức cũng không được. Mâu thuẫn giữa người với người dường như còn nhiều hơn cả mối mâu thuẫn, xung đột giữa hổ và hổ, sói và sói. Hiện nay có một từ là “mặt đối lập”, trên dưới, phải trái, chỗ nào cũng có chuyện người đối lập với người. Người nhiều dễ xảy ra xung đột với nhau, đó cũng là sự thực. Một nhóm cán bộ, nhân viên về hưu, sáng sớm kéo nhau tới một nơi tập thể dục hay nhảy cho khỏe người, kết quả là cũng chia thành hai phe chọi nhau, chuyện như thế tôi từng nghe kể lại. Thật là thích chọi nhau quá lắm. Trong xã hội ngày nay, có ai dám nói mình và người khác chưa từng bao giờ phát sinh mâu thuẫn không? Thực ra, nhiều người rất sợ có vướng mắc trong mối quan hệ với người, một khi đã sa vào sự vướng mắc ấy thì chẳng khác nào sa xuống ao bùn, xuống hố phân, thường là có cố nhảy ra cũng không ra được, muốn gột rửa cũng rửa không sạch, có cố tranh cãi cũng không thể làm rõ, có muốn rút lui cũng không chỗ nào để rút lui. Tuy nhiên, sợ không có nghĩa là bản thân có thể không cần mối quan hệ với người khác, không có nghĩa là bản thân có https://thuviensach.vn thể giữ mình cho sạch, tránh bùn nhơ không để cho vấy vào. Hơn nữa, điều quan trọng hơn là, người tự nói mình thanh cao, thuần khiết, cao thượng, nhã nhặn như thế nào, chưa hẳn trong mối quan hệ với người đã không có lỗi nào đáng công kích; không hẳn anh ta hoặc cô ta, không có trách nhiệm trong mối quan hệ với người, không hẳn họ hoàn toàn không tầm thường, ích kỷ, không ghen ghét, không tự đánh trống khua chiêng cho mình, không đa nghi và chấp nhặt, không có dã tâm và giả dối. Như thế là nói nhân tính ác không nhất thiết chỉ thuộc về người khác. Quả thật những vướng mắc trong quan hệ cuối cùng thường trở thành món nợ cù nhầy, hơn nữa nên biết rằng không mấy ai có sức lực, có đầu óc lại hứng thú, rỗi hơi lắng nghe lời tố khổ của các bên - những lời tố khổ này nói chung đều đã thêm mắm thêm muối, mượn dịp thêm thắt, tránh những việc nghiêm trọng, chỉ nói những vấn đề nhỏ hoặc cố cãi lấy được, tùy tiện bôi xóa nếu không làm cho càng xấu đi thì cũng xuyên tạc sự thật, bịa đặt, nói vung tán tàn, đảo lộn trắng đen. Tuy bản thân bạn cảm thấy mình rất có lý, cảm thấy vấn đề giữa bạn và đối thủ của bạn là cuộc tranh cãi giữa điều phải lớn và điều trái lớn, là cuộc tranh cãi về đạo đức cao hay thấp, là cuộc tranh cãi để bảo vệ lẽ trời và lương tâm, nhưng người ta lại không hề có hứng thú nghe lời tố cáo của bạn. Chẳng ai muốn dính vào cuộc tranh cãi giữa bạn và đối thủ của bạn, ai cũng cho rằng cuộc đấu tranh không biết đâu là cùng đó là một việc làm chán ngắt. Điều này tự bạn cần phải nhận thức cho rõ. Lẩn tránh “đồng minh” Đương nhiên cũng có những thí dụ ngược hẳn lại. Có người đặc biệt thích thú với vướng mắc trong quan hệ giữa bạn và người khác. Không có tranh chấp cũng tìm ra kẽ hở, đánh hơi ý đối địch. Người như thế là loại người sống nhờ vào mắc mớ trong quan hệ giữa người và người. Người đó sẽ do thám tình hình của bạn, bày mưu tính kế, đưa tin, khuyến khích cho tới khi đánh trận đầu thay bạn, xông lên trước tiên, lấy tư cách là đội viên https://thuviensach.vn cảm tử của bạn mà xông lên đánh dữ..., từ đó mà được hưởng lợi. Khi đã có những kẻ tự nguyện làm tên tốt trước đầu ngựa thì lo gì quan hệ giữa người với người lại không có tranh chấp hay sao? Bởi vậy, sự lựa chọn tốt nhất là né tránh những ai tự nguyện xung phong vì bạn. Nếu thực sự không tránh được thì cũng phải có chủ định: cười nói ngoài mồm thì được, coi là thân tín thì đừng. Chuyên vời gọi những người như thế, chuyên coi trọng những người như thế thì hỏng to, nó chỉ chứng tỏ chẳng qua bạn cũng cùng một giuộc với loại người ấy, là chồn cùng một hang với nhau mà thôi. Bởi vậy, nên tránh mạng lưới vướng mắc giữa người với người như tránh ôn dịch, tránh cùng với bất kỳ người nào mắc vào sự tranh chấp cá nhân vô vị, tránh sa vào việc kết thành đồng minh với mỗ mỗ nào đó và đúng đắn hơn là phải đối đầu với mỗ mỗ đó. Tại sao phải tránh kết đồng minh cá nhân với mỗ mỗ? Nguyên nhân, một là kết minh không phân biệt phải trái thì lúc đầu hai người có thể vì có chung chí thú, có chung ý niệm mà kết đồng minh, sau đó kết đi kết lại biến thành một nhóm nhỏ, biến thành “tập đoàn lợi ích”, biến thành vinh cùng vinh, nhục cùng nhục, biến thành kẻ “độc phu”(1), trở thành giặc của dân, thành “đại ca”, thành công cụ cho giáo chủ đại tà lợi dụng. Sự thật đó thấy đã nhiều, không có gì mới; hai là, do kết đồng minh nên bạn có thể có chút lợi nhỏ, trở nên có chút thế lực, đi đến đâu cũng có thể làm nơi đó trở nên náo nhiệt, anh lôi kéo tôi, tôi lôi kéo anh, anh giúp tôi một việc tôi giúp anh một việc v.v... Đó là điều hoàn toàn có thể. Song đồng thời, thành cũng Tiêu Hà, bại cũng Tiêu Hà(2), người nhờ lôi kéo mà được chút lợi thì rồi hầu hết cũng ngã ngựa vì sự lôi kéo đó. Xin hãy thử nghĩ, trong số những anh em “chí cốt” đó của bạn, có được mấy người là thánh nhân, có được mấy người là Lôi Phong? Họ làm đồng minh của bạn thực ra chỉ nhằm lợi dụng bạn làm lợi cho họ, họ thổi phồng bạn kỳ thực là để thổi phồng mình, họ tâng bạn lên kỳ thực để tâng chính họ. Bạn xây dựng mối quan hệ đặc thù với họ, họ sẽ đòi hỏi bạn phải luôn nhớ làm việc cho họ. Bạn đoàn kết được một nhóm nhỏ thì bạn làm mất https://thuviensach.vn lòng một số đông; họ làm những việc tồi tệ thì bạn phải cõng thay cho họ; họ có bị chửi thì bạn phải chịu đựng thay họ. Lại nói, thế nào là cáo mượn oai hổ? Một khi bạn kết minh với họ, họ sẽ lấy danh nghĩa là người thân tín, người anh em, người cùng họ với bạn để làm bậy ở khắp nơi, điều này có muốn đề phòng cũng chẳng đề phòng nổi. Hơn nữa, họ còn hơi một tí là to tiếng, còn cắn xé lẫn nhau vì món lợi chia không đều. Đã có biết bao người giỏi, tướng tài bị hủy hoại trong tay cái gọi là “người của mình”? Hơn nữa, càng là tiểu nhân càng dễ gây mâu thuẫn với đủ mọi người. Hôm nay hắn gieo họa cho Trương Tam, ngày mai hắn trách móc Lý Tứ, bạn làm thế nào đây? Họ không thể hiểu được bất cứ ý nghĩ nào hơi lớn của bạn. Lôgích của họ là tôi vì anh mà hai nách giắt hai dao thì anh phải chung thù chung địch với chúng tôi. Chưa được mấy ngày, nếu không làm thành chòm thành nhóm mới là lạ. Người dựa vào một nhóm nhỏ mà gây náo loạn được một lúc rất đông, nhưng nhờ thế mà thành đại sự, giành được thành tích thực sự, thắng lợi thực sự thì tôi chưa từng được thấy. Kết đồng minh trong quan hệ giữa người và người còn vì quá yêu mà thành phẫn nộ, phẫn nộ mà thành hận thù, chuyện đó tôi thấy nhiều lắm. Người tụ tập bên bạn vì tư lợi càng nhiều thì người rời bỏ bạn vì tư lợi (không được thỏa mãn), mà oán bạn, hận bạn, biến bạn thành thù lại càng lắm. Mối quan hệ đơn thuần xây dựng trên quan hệ lợi và hại thì bạn đồng minh là đối thủ “hậu bổ”(3). Đấy thật là câu danh ngôn chí lý. Hãy nhớ kỹ: quan hệ với người bao giờ cũng phải là hai chiều Nói như thế không phải bảo suốt đời bạn không cần có bạn bè, không cần có người chí đồng đạo hợp để cùng hợp tác. Những người bạn như thế, một là không phải tuyệt đối, không phải là một tiểu tập đoàn trong xã hội đen, không phải là sự tụ bạ của lũ vong mệnh, nghĩa là nói họ không nên có tính bài xích kẻ khác. Hôm nay ý kiến chúng ta nhất trí thì chúng ta ra sức https://thuviensach.vn hợp tác, ngày mai ý kiến không thống nhất nữa, hoặc bạn đột nhiên cảm thấy cùng làm chung một việc với tôi có chỗ nào bất tiện, mỗi người tự có thể làm riêng mà không hề trở mặt coi nhau là thù. Về một điểm nào đó bạn nhất trí với tôi nên chúng ta có thể hợp tác giúp đỡ nhau, đương nhiên như thế là rất tốt; về một điểm khác, hoàn cảnh và góc nhìn của bạn khác tôi nên không nhất trí với tôi, đó cũng là chuyện rất bình thường. Chẳng hạn, bạn có kinh nghiệm của bạn, bạn nhận định anh A xấu tính, khó làm việc, vì thế bạn lựa chọn thái độ xa lánh anh A. Nhưng một ông nào hoặc một bà nào thấy mình không đủ thực lực, do đó không thể không cúi đầu dưới mái hiên nhà anh A, quyết định phải nhờ vả A, liền gần gũi và lấy lòng anh A, như vậy bạn sẽ như thế nào? Như thế bạn có nhận định ông kia và bà kia đã phản bội tình bạn với bạn không? Như thế bạn có tuyệt giao với hai người đó không? Theo tôi bất tất phải như thế. Biện pháp tốt là trước tình thế đó, bạn nên có chủ ý, có thể tránh nhắc quá nhiều đến những vấn đề của A trong khi giao thiệp trong khi hợp tác với ông hoặc bà nào đó, đồng thời phải thấy rằng tình hình mỗi người mỗi khác, chí hướng và biện pháp mỗi người mỗi khác. Làm thịt lợn lại chọc mông, mỗi người có một cách; cắt tóc thì dùng dùi, mỗi ông thầy có cách truyền thụ riêng; chim ưng có đạo của chim ưng, rắn có thuật của rắn, tại sao bạn lại cố đòi hỏi người ta phải có cách lựa chọn tuyệt đối nhất trí với bạn? Hãy nhớ kỹ, quan hệ giữa người với người bao giờ cũng phải là hai chiều. Bạn yêu cầu người ta việc gì cũng phải làm theo bạn thì việc gì bạn cũng phải bảo vệ, che chắn cho người ta. Muốn người ta không ngại hy sinh, cho dù trong một lúc phải vứt bỏ hết lợi ích của mình vì lợi ích của bạn thì bạn phải chuẩn bị tư tưởng vì lợi ích của người ta mà không ngại đắc tội với người bạn không hề muốn làm phật ý. Nghĩa vụ nào bạn không gánh vác được thì tốt nhất chớ nên yêu cầu người khác phải gánh vác thay bạn; sự hy sinh nào bạn không muốn làm thì tốt nhất không nên động một tí là đòi người ta phải hy sinh vì bạn. Những ai tự cho là thông minh nhưng lại không chính phái thì điều họ cảm thấy thích thú là để người khác ra mặt đối đầu vì mình, bám chặt đối thủ không lơi tay vì mình, còn bản thân thì lẩn https://thuviensach.vn vào phía sau làm người tốt. Thực ra như thế đều là những tính toán ma quỷ chỉ biết thỏa ý mình, cuối cùng người đã mất quân lại phải đền cả phu nhân chỉ có thể là chính bản thân. Lại như, nếu bạn hy vọng một số người cung kính bò rạp trước bạn vậy thì bạn có thể vì người khác trước, sau đó mới nghĩ tới mình, chịu khổ trước, hưởng thụ sau hay không? Quan hệ giữa người với người lại mãi mãi có thể biến đổi không đứng yên. Hôm nay thuận lợi trơn tru, ngày mai có thể rạn nứt; hôm nay phối hợp rất ăn ý, ngày mai có thể hai lòng ba ý. Có quan hệ tốt với người bên cạnh cố nhiên là đáng mừng, nhưng nếu thấy có rạn nứt, có nghi ngờ, có khó hiểu thì bất tất phải đau đầu đứt ruột, càng không nên lòng như lửa đốt, nôn nóng sốt ruột mà chỉ nên cười rồi bỏ qua, coi là việc tự nhiên. Ngàn dặm dựng rạp dài, không có bữa tiệc nào là không tàn, đến thoải mái thì tan cũng thoải mái, đó là giao tiếp của người quân tử vậy. Điều tôi muốn nói ở đây có nghĩa là không nên họp thành nhóm nhỏ, mượn một từ để nói là không nên kết đồng minh. Một kinh nghiệm nữa là không nên nhờ vả. Thái độ của tôi là: tôi tôn trọng mọi vị lãnh đạo nhưng không nhờ vả; tôi đối xử tốt với các bạn nhưng không kéo bè kéo cánh. Trong một xã hội mà sắc thái nhân trị còn chưa tuyệt tích thì mối quan hệ với lãnh đạo, quan trọng nhất là cần để lại ấn tượng cho lãnh đạo, đó là điều không cần nói mà ai cũng hiểu. Nhưng nếu mặt này làm quá đi một chút thì sẽ thành quỳ gối làm tôi tớ, xiểm nịnh về hùa. Đó là điều bậc chính nhân quân tử không coi ra gì. Trước hết về mặt hình tượng, thành công của một người có hình tượng xấu ắt bị chế ước bởi hình tượng ấy của mình, đó là điều thứ nhất. Điều thứ hai là, người nhờ vả cũng có thể đem lại một số lợi nào đó cho người được nhờ vả song cũng đem đến những rủi ro rất lớn. Rủi ro thứ nhất là đứng nhầm đội ngũ. Bạn không chính phái vậy mà nhờ vả lại thành công, chứng tỏ nhân vật mà bạn nhờ vả cũng không chính phái, hoặc chí ít cũng thiếu nghiêm túc; mong muốn nhờ người ấy mà được vẻ vang cũng có thể cuối cùng phát sinh kết quả cùng người ấy bị sứt mẻ. Mọi mối quan hệ giữa những người không chính phái đều có thể bị phỉ báng, bị phê bình, bị hỏi tội, bị kiểm tra, gặp ác báo. Người quân tử thường bình https://thuviensach.vn thản, khoáng đãng trong lòng, kẻ tiểu nhân thường lo lắng, không an tâm(4), đó cũng là một phương diện. Cách làm không chính phái của bạn ắt sẽ phải trả giá không ít. Ba là, bạn nhờ vả A, anh ta nhờ vả B, thế là bạn trở thành người của A, anh kia trở thành chó của B. Khi người đương chức đương quyền biến A thành B, thế thì kết quả của bạn như thế nào còn cần hỏi nữa chăng? Giậu đổ bìm leo, sau khi A bị ngã ngựa hoặc bị buộc phải rút lui, ngoài cảnh ngộ không có mẹo hay nào để nhờ vả, thử hỏi bạn còn có kết cục nào hay hơn? Bốn là, bạn dồn hết học vấn và tinh lực cho việc kết bè mưu lợi riêng với người khác hoặc nhờ vả quyền thế, thời gian quý báu của bạn cũng dùng hết vào việc mong lên được ngôi đền đại nhã, khả năng chịu đựng trong tâm lý của bạn dành hết cho việc xử lý những áp lực rất lớn về tâm lý do mối quan hệ không chính phái đem lại, thử hỏi bạn còn có bao nhiêu bản lĩnh thực sự, bạn còn có được bao nhiêu sức khỏe và tuổi thọ? Chúng ta hãy trao đổi một vấn đề như sau: giới hạn phân biệt giữa tôn trọng, có thiện ý chính đáng với người khác và nhờ vả, lôi kéo không chính phái ở chỗ nào? Điều thứ nhất ở đây là nguyên tắc đạo đức. Mọi sự tôn trọng và ý tốt của bạn có hợp với đạo đức không? Hai là nguyên tắc lương tri. Cách làm cho dù là lấy lòng ông chủ, cấp trên, cấp dưới hay bạn bè của bạn phải chăng có điều gì khiến lương tri của bạn cảm thấy không yên ổn không? Ba là nguyên tắc hợp pháp. Bạn đối xử tốt với người nào đó, lòng tốt đó phải chăng có điều gì trái với chuẩn mực pháp luật? Bốn là nguyên tắc công khai. Bạn có quan hệ tốt với ai đó, vậy bạn có dám công khai thừa nhận bạn và ai đó có quan hệ hữu hảo, tri kỷ hay không? Nghĩa là, mọi chi tiết trong quan hệ với người khác của bạn phải chăng có chỗ nào đó không thể cho người khác biết hay không? Năm là nguyên tắc tôn trọng. Bạn tôn trọng và làm ơn cho người khác như thế nào? Phải chăng bạn đã duy trì được sự tôn nghiêm của mình và người khác trong mối quan hệ ấy? Trong mối quan hệ của bạn với người khác phải chăng có hành vi và lời nói nào làm tổn thương đến nhân cách của mình và của người khác hay không? Cuối cùng là không cẩu thả gây thù hằn, không cẩu thả trong việc đấu nguyên tắc. Muốn mình có mối quan hệ tốt đẹp, muốn mình có được cảm https://thuviensach.vn