🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Triết Học Kant Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Table of Contents TRIẾT HỌC KANT TỰA HỒI NIỆM VÀ VIỄN CẢNH NHẬP ĐỀ PHẦN THỨ NHẤT SINH HOẠT TRI THỨC CỦA CON NGƯỜI? CHƯƠNG I THẾ NÀO LÀ MỘT TRI THỨC KHOA HỌC? CHƯƠNG II KHẢ NĂNG TRI THỨC CON NGƯỜI TIẾT I: CẢM GIÁC HỌC SIÊU NGHIỆM TIẾT II: LUẬN LÝ HỌC SIÊU NGHIỆM CHƯƠNG III GIỚI HẠN CỦA TRI THỨC CON NGƯỜI TIẾT I: NHỮNG VÕNG LUẬN CỦA LÝ TRÍ THUẦN TÚY. TIẾT II: NHỮNG TƯƠNG PHẢN CỦA LÝ TRÍ THUẦN TÚY TIẾT III: Ý THỂ CỦA LÝ TRÍ THUẦN TÚY PHẦN THỨ HAI SINH HOẠT ĐẠO ĐỨC CỦA CON NGƯỜI CHƯƠNG I KANT ĐẶT VẤN ĐỀ SINH HOẠT ĐẠO ĐỨC THẾ NÀO ? TIẾT I: Ý THỨC ĐẠO ĐỨC CỦA MỌI NGƯỜI TIẾT II: KANT PHÊ BÌNH NHỮNG HỌC THUYẾT ĐẠO ĐỨC XÂY TRÊN THƯỜNG NGHIỆM TIẾT III: LẬP TRƯỜNG ĐẠO ĐỨC CỦA KANT CHƯƠNG II KANT GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ SINH HOẠT ĐẠO ĐỨC THẾ NÀO? TIẾT I: TỰ DO VÀ QUY LUẬT ĐẠO ĐỨC. TIẾT II: TỰ DO VÀ TỰ CHỦ TIẾT III: TỰ DO VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA ĐẠO ĐỨC. https://thuviensach.vn CHƯƠNG III Ý NGHĨA THUYẾT ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA KANT TIẾT I: VẤN ĐỀ SỰ THIỆN TOÀN HẢO. TIẾT II: NHỮNG ĐỊNH ĐỀ CỦA LÝ TRÍ THUẦN TÚY THỰC HÀNH PHẦN THỨ BA Ý NGHĨA CON NGƯỜI CHƯƠNG I PHÁN ĐOÁN THẨM MỸ TIẾT I: CÁI ĐẸP TIẾT II: CÁI CAO CẢ CHƯƠNG II PHÁN ĐOÁN MỤC TIÊU TIẾT I: BẢN CHẤT CỦA PHÁN ĐOÁN MỤC TIÊU TIẾT II: BIỆN CHỨNG PHÁP CỦA PHÁN ĐOÁN MỤC TIÊU TIẾT III: LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP CỦA PHÁN ĐOÁN MỤC TIÊU TỔNG KẾT THƯ MỤC TỔNG QUÁT https://thuviensach.vn Table of Contents TRIẾT HỌC KANT TỰA HỒI NIỆM VÀ VIỄN CẢNH NHẬP ĐỀ PHẦN THỨ NHẤT SINH HOẠT TRI THỨC CỦA CON NGƯỜI? CHƯƠNG I THẾ NÀO LÀ MỘT TRI THỨC KHOA HỌC? CHƯƠNG II KHẢ NĂNG TRI THỨC CON NGƯỜI TIẾT I: CẢM GIÁC HỌC SIÊU NGHIỆM TIẾT II: LUẬN LÝ HỌC SIÊU NGHIỆM CHƯƠNG III GIỚI HẠN CỦA TRI THỨC CON NGƯỜI TIẾT I: NHỮNG VÕNG LUẬN CỦA LÝ TRÍ THUẦN TÚY. TIẾT II: NHỮNG TƯƠNG PHẢN CỦA LÝ TRÍ THUẦN TÚY TIẾT III: Ý THỂ CỦA LÝ TRÍ THUẦN TÚY PHẦN THỨ HAI SINH HOẠT ĐẠO ĐỨC CỦA CON NGƯỜI CHƯƠNG I KANT ĐẶT VẤN ĐỀ SINH HOẠT ĐẠO ĐỨC THẾ NÀO ? TIẾT I: Ý THỨC ĐẠO ĐỨC CỦA MỌI NGƯỜI TIẾT II: KANT PHÊ BÌNH NHỮNG HỌC THUYẾT ĐẠO ĐỨC XÂY TRÊN THƯỜNG NGHIỆM TIẾT III: LẬP TRƯỜNG ĐẠO ĐỨC CỦA KANT CHƯƠNG II KANT GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ SINH HOẠT ĐẠO ĐỨC THẾ NÀO? TIẾT I: TỰ DO VÀ QUY LUẬT ĐẠO ĐỨC. TIẾT II: TỰ DO VÀ TỰ CHỦ TIẾT III: TỰ DO VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA ĐẠO ĐỨC. CHƯƠNG III Ý NGHĨA THUYẾT ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA KANT TIẾT I: VẤN ĐỀ SỰ THIỆN TOÀN HẢO. https://thuviensach.vn TIẾT II: NHỮNG ĐỊNH ĐỀ CỦA LÝ TRÍ THUẦN TÚY THỰC HÀNH PHẦN THỨ BA Ý NGHĨA CON NGƯỜI CHƯƠNG I PHÁN ĐOÁN THẨM MỸ TIẾT I: CÁI ĐẸP TIẾT II: CÁI CAO CẢ CHƯƠNG II PHÁN ĐOÁN MỤC TIÊU TIẾT I: BẢN CHẤT CỦA PHÁN ĐOÁN MỤC TIÊU TIẾT II: BIỆN CHỨNG PHÁP CỦA PHÁN ĐOÁN MỤC TIÊU TIẾT III: LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP CỦA PHÁN ĐOÁN MỤC TIÊU TỔNG KẾT THƯ MỤC TỔNG QUÁT https://thuviensach.vn TRIẾT HỌC KANT TS. TRẦN THÁI ĐỈNH Nguyên Giáo sư Đại học Văn Khoa Sài Gòn Nguyên Giáo sư Đại học Văn Khoa Huế Nguyên Khoa trưởng Đại học Văn Khoa Đà Lạt. (IN LẦN THỨ TƯ) CÔNG TY SÁCH THỜI ĐẠI NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC In lần thứ nhất: Nxb Nam Chi Tùng Thư, 1969 In lần thứ hai: Nxb Văn Mới, 1974 In lần thứ ba: Nxb Văn Hóa Thông Tin, 2005 https://thuviensach.vn TỰA (NHÂN DỊP IN LẠI LẦN THỨ 3) Cách đây chừng hai mươi năm, vào những năm đầu 1980..., một anh bạn ở Paris cắt gửi cho tôi một bài báo của tờ Le Nouvel Observateur hay là tờ L’Express, tôi không nhớ rõ, kể lại cuộc hội thảo của mấy giáo sư triết học nước Pháp. Mấy ông bàn về tình hình môn triết học lúc đó, một tình hình không hẳn là khủng hoảng, nhưng không còn hướng đi mãnh liệt như hồi phong trào Hiện sinh (những năm 40 và 50) và phong trào Cơ cấu (những năm 60 và 70). Nhất là vì những phân tích sâu xa của một Michel Foucauld chẳng hạn đã đưa tới chỗ kết luận rằng “con người chỉ là một ảo tưởng, một quan niệm rỗng”. Con người chết rồi. Đứng trước tình hình đó, Gs. Jacques Derrida đã kết thúc cuộc hội thảo bằng câu nói mà tôi nhớ từng chữ: “Vậy phải bắt đầu lại từ đầu. Phải bắt đầu lại với Kant. - II faut donc recommencer par le commencement. II faut recommencer avec Kant”. Tại sao bắt đầu lại từ đầu là bắt đầu lại với Kant ? Chúng ta đã có 3 lần bắt đầu trong lịch sử triết học, nhưng chỉ với Kant, triết học mới đã thật sự đi vào đúng hướng của nó. A. Lần thứ nhất với Socrate. Sau khi những bậc hiền nhân như Thalès, Parménide, Anaximandre, Anaximène... tìm hiểu bản tính cửa vũ trụ vạn vật (phusis), mà có vẻ quên con người,Socrate đã đưa ra mục tiêu của triết học là “Anh hãy hiểu biết chính bản thân mình”. Đối tượng của triết học phải là tìm hiểu con người. Nhưng rồi Platon, đệ tử của Socrate và Aristote, đệ tử của Platon, trong khỉ say mê suy tưởng, đã lại đi quá sâu vào hướng nghiên cứu về “bản tính” (phusis). Cho nên, với những đóng góp lớn lao cho triết học, môn triết học Hy Lạp, trước và sau Socrate, vẫn chưa thoát khỏi sức thu hút của cái “bản tính". Sau đó, bước vào thời Trung cổ, triết học đã ngủ “giấc ngủ giáo điều ”, một giấc ngủ triền miên mười mấy thế kỷ, trong thân phận “nữ tỳ của môn thần học” (ancilla theologiae). https://thuviensach.vn B. Lần thứ hai với Descartes và Hume. Descartes là người đầu tiên đề cao vai trò lớn lao của tâm trí con người, nhưng vì đã tuyệt đối hóa vai trò của tâm trí, của Cogito, cho nên ông đã đưa triết học vào đường cụt của thuyết Duy tâm. Phải nhờ tài trí của Locke và nhất là của Hume, triết học mới tránh được con đường sai lầm đó, và thoát khỏi “giấc ngủ giáo điều” đã kéo dài quá lâu. Nhưng các ông đã lại đưa triết học vào một con đường sai lầm khác, một đường cụt mới, đối lập với đường cụt của triết Descartes: đó là thuyết Duy cảm, Duy nghiệm. C. Lần thứ ba với Kant. Đứng trước cơn khủng hoảng đó của triết học, trước ngã ba đường mà trước mắt cả hai lối đi cùng dẫn tới những con đường cùng, Kant đã làm công việc mà trước đây chưa có một triết gia nào nghĩ tới. Như ông đã nói, ông không nhắm phê bình hệ thống tư tưởng này hoặc tác phẩm kia, nhưng ông đặt vấn đề với chính khả năng tư tưởng cửa con người. Kant đã tự đặt cho triết học phê bình cửa ông 4 câu hỏi:1) Tôi có thể tri thức gì? 2) Tôi phải làm gì? 3) Tồi có quyền hy vọng gì? 4) Con người là gì? Kant, đã tìm cách trả lời 3 câu hỏi trước bằng 3 cuốn Phê bình của ông. Câu hỏi thứ 4 là tất cả triết học cửa ông: triết học về con người. Mà con người, như Pascal đã nói, không phải là thiên thần, cũng không phải là con vật. Không chỉ là tâm linh, cũng không chỉ là thần xác. Cho nên cầu nói thời danh ngàn đời của Pascal vẫn còn đó để nhắc nhở chúng ta: “Qui fait 1’ange, fait la bête. Ai làm bộ thiên thần sẽ làm con vật”. Nhìn lại những năm đầu thập niên 80, chúng ta thấy triết học cũng có vẻ đứng ở ngã ba đường, mà hai ngả vừa đi qua là hai con đường cụt: triết Hiện sinh đã coi con người là tự do, một thứ tự do gần như tuyệt đối. Con người không còn là thành phần vũ trụ vạn vật, không còn hữu-tại-thế. Một hình thức của chủ nghĩa Duy tâm. Trái lại, khi thuyết Cơ cấu đi tới mức chủ nghĩa (isme), mà cái đặc sắc của tư tưởng Tây phương là đi tới chủ nghĩa, vì chỉ khi đó một tư tưởng mới biểu lộ hết cái hay và cái dở của nó, chứ không ở mãi cái thế truyền thống như Đông phương, vậy khi thuyết Cơ cấu đi tới mức chủ nghĩa, thì những phân tích của nó đã lạnh lùng khẳng định https://thuviensach.vn rằng: con người chỉ là ảo tưởng. Nói cách khác, con người chỉ là một vật thể. Một hình thức của chủ nghĩa Duy vật. Tôi không có phương tiện (sách, báo) để theo dõi những chuyển hướng cửa triết học Pháp nói riêng, nhưng những thông tin ít ỏi mà tôi có được những năm gần đây cho thấy tư tưởng của Kant đã có tác động tốt vào nền triết học Tây phương. Triết học ngày càng trở thành khoa Nhân học (anthropologie) với khuynh hướng chỉ đạo là thuyết Giải thích (Herméneutique), và một trong những vị thầy lớn nhất là Gs. Paul Ricceur, ông thầy đáng tôn kính của nhiều thế hệ chúng tôi. Khai thác những tư tưởng của Nietsiche, những phân tích của Marx và nhất là của Freud, nhóm Ricocur đã giúp triết học nhận rõ nhân dạng sâu xa và đích thực của con người, qua những biểu tượng của dân tộc học và phân tâm học. Bài học của Kant mà nhóm Ricoeur đã biết lợi dụng là bắt đầu lại với Kant mà không dừng lại ở Kant, cũng như Kant đã không dừng lại ở Platon, Aristote, Descartes, Hume... Đúng như Nietsiche đã nói một câu mà lẽ ra chúng ta phải ghi tâm. ông nói: “Mỗi bậc kỳ tài có nguy cơ trở thành một tận thế” (Chaque génie risque de devenir une fin du monde). Người ta thấy các vị đó quá vĩ đại, quá siêu phàm. Và người ta tôn kính các ngài đến nỗi coi đó là những ngọn Thái sơn không ai có thể vượt qua. Cái tai hại của các bậc vĩ nhân là thế. Mà điều tai hại này không do các ngài chút nào, nhưng do người ta đã không biết sử dụng những đóng góp vĩ đại của các ngài. Lẽ ra, thay vì thụ động tôn thờ các ngài như thánh hiền, ta phải làm như câu châm ngôn Việt Nam, “Con hơn cha, nhà có phước”. Nhất là trong lãnh vực tư tưởng, người ta phải làm như Abélard đã nói: “Các ngài là những người khổng lồ che khuất cả chân trời, nhưng chúng ta phải leo lên vai các ngài để nhìn về phía trước, tìm cách tiến thêm mãi”. Tôi chân thành cảm ơn Nhà xuất bản và các học trò cũ của tôi (ở khoa Triết các trường Đại học Văn Khoa Sài gòn, Huế và Đà Lạt): Nguyễn Quang Tuyển, Lê Nguyên Đại, Dương Anh Sơn và nhất là nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn đã đóng góp công sức rất nhiều cho lẩn tái bản cuốn Triết học Kant của tôi để đáp ứng nhu cầu học hỏi của giới trẻ. Rất tiếc vì https://thuviensach.vn tuổi già, tôi không còn đủ sức để bổ túc cho cuốn sách này những kiến thức mà nền triết học thế giới đã mang lại cho triết học Kant mấy chục năm nay. Nhưng tôi hy vọng cuốn sách vẫn có thể giúp ích cho các sinh viên triết học hôm nay. TRẦN THÁI ĐỈNH (4/2/2005) https://thuviensach.vn Nhân cuốn "TRIẾT HỌC KANT" của GS. Trần Thái Đỉnh được tái bản lần 3: https://thuviensach.vn HỒI NIỆM VÀ VIỄN CẢNH I. Giữa không khí nóng bỏng của thời cuộc những năm 1966-68, thế hệ “tuổi hai mươi” của một số anh chị em chúng tôi lúc bấy giờ còn may mắn được ngồi trên ghế nhà trường: Khoa Triết Đại học Văn khoa Sài Gòn. Ở đó, những đầu óc măng tơ được êm đềm “dẫn vào Triết học”, được khuyên khích “nhập môn” (chứ chưa dám nói đến “nhập thất”) vào một thế giới lạ lùng, bí hiểm nhưng cũng đầy quyến rũ gợi lên bao “thao thức”, “trăn trở”, “suy tư” của tuổi trẻ. Và nhất là, lại được “dẫn vào”, được “nhập môn” bằng chính những bàn tay êm ái của nhiều vị Thầy khả kính với các phong cách khác nhau. Muốn tìm “lối vào” triết Đông ư ? Chúng tôi có Thầy Nguyễn Đăng Thục uyên bác và bừng bừng tâm huyết (trong một giờ học, Thầy chỉ mạnh tay vào một quyển sách chữ Hán - hình như là quyển “Đạo giáo nguyên lưu” - rồi gằn giọng hỏi: “Thế hệ chúng tôi mất rồi, ai trong các anh chị còn đọc được những quyển sách này ?”); có Thầy Kim Định bay bổng, Thầy Nguyễn Duy cần cặm cụi, Thầy Lê Xuân Khoa hào hoa... Còn triết Tây ? Chúng tôi có Thầy Nguyễn Văn Trung (những vấn đề cơ bản, Marx), Thầy Lý Chánh Trung (đạo đức học), Thầy Lê Thành Trị (Husserl, Sartre...)... Nhưng, “sợ” nhất vẫn là Thầy Nguyễn Văn Kiết! Thầy nổi tiếng nghiêm khắc, lại dạy rất khó. Bốn tác giả lớn nhất và khó nhất của triết học cổ điển Đức (Kant, Fichte, Schelling, Hegel) được Thầy dồn lại trong một “cours” (giáo trình) chỉ ngót trăm trang, đọc muốn vỡ đầu mà chỉ có thể hiểu được lỏm bỏm. Mà nào phải chỉ cần đọc để tìm hiểu thôi đâu, còn “phải học” để đi thi nữa chứ; thi hỏng thì... “Thủ Đức” đang chờ sẵn ! (Chắc vì biết thế nên Thầy Lý Chánh Trung ít khi nào “nỡ” đánh hỏng chúng tôi ! Tệ lắm thì được nghe Thầy nhắc nhẹ: “Anh có đi nghe cours tôi không ?” rồi cho 10 điểm trung bình !). Cho đến một hôm, khi đang giảng về Fichte với các bài “Diễn văn cho dân tộc Đức” nổi tiếng hùng hồn trước cuộc tấn công của Napoléon, Thầy Kiết nhìn chúng tôi và trầm ngâm: “Tình hình hiện nay, ai sẽ là người đọc https://thuviensach.vn “Diễn văn cho dân tộc Việt” ? Câu hỏi ngắn nhưng gây chấn động tâm tư, vì đến từ một người Thầy tưởng như không hề quan tâm đến thế sự ! Chúng tôi càng bất ngờ nhưng rồi cũng hiểu được tại sao sau Tết Mậu Thân 68, Thầy, lúc ấy đã lớn tuổi và sức khỏe yếu nhiều, đã lặng lẽ chia tay chúng tôi vào tham gia kháng chiến[1]. Tôi không hiểu hết những lời Thầy dạy về Kant... (dù nhờ ơn Thầy mà lần đầu tiên được nghe những từ đầy “mê hoặc”: siêu nghiệm, võng luận, Antinomie...), nhưng Thầy đã ghi đậm lên tim tôi cái lẽ phải thông thường chẳng cần “triết lý “ cao xa: “quốc gia hưng vong...”. Công ơn Thầy lớn quá ! Thầy Lê Thành Trị một hôm cầm quyển “Phê phán Lý tính thuần túy” (bản dịch tiếng Pháp) dày cộm, nâng cao lên cho chúng tôi thấy, rồi nói: “Các Ông các Cô” [Thầy luôn cố ý gọi chúng tôi như thế dể tỏ lòng tôn trọng sinh viên trong “môi trường” đại học] học Triết học chuyên nghiệp thì phải đọc hết quyển này !”. Nghe lời Thầy, tôi tìm đến “Thư viện quốc gia” ở đường Gia Long (bây giờ là “Thư viện Khoa học xã hội” ở đường Lý Tự Trọng) rón rén mượn quyển sách... xem thử. Bác thủ thư nhận thẻ, ngước nhìn tôi bằng cặp mắt nghi ngờ, nhưng rồi cũng chịu khó xuống kho lục tìm. Ngót 15 phút sau, tôi mới được cầm trên tay quyển sách nặng trịch, bám bụi, trịnh trọng tìm một góc ngồi thật êm ái ở hành lang cổ kính, rồi dỡ ra... đọc. Lật tới lật lui năm bảy lần, thử ráng đọc vài đoạn mới biết sức mình có hạn, trong khi ngoài cửa sổ kia, hàng me xanh quá, và chiều Sài Gòn thơ mộng quá ! Cố ngồi nán thêm nửa tiếng đồng hồ mới dám... rón rén mang trả chỉ vì sợ gặp lại ánh mắt của bác thủ thư! May sao, chẳng biết nhờ đâu, tôi tìm đọc được bài giảng của Thầy Trần Thái Đỉnh — hình như là bài giảng của Thầy ở Đại chủng viện Xuân Bích —, sau này được in và công bố (“Triết học Kant”, Nhà xuất bản Nam Chi Tùng Thư, lần đầu, năm 1969 và sau đó là Nhà xuất bản Văn Mới, 1974). Tôi không may mắn được Thầy trực tiếp dạy về Kant. Ở “Văn khoa”, chúng tôi chỉ được nghe Thầy giảng về triết học hiện đại, và cũng là lần đầu tiên được nghe Thầy giới thiệu về thuyết cấu trúc (bấy giờ gọi là “Cơ cấu luận”) mà nay chỉ còn nhớ được đôi câu trích dẫn đầy “ấn tượng”: “Chúng ta không nói mà bị nói; https://thuviensach.vn không làm mà bị làm” V.V.. của những F.Saussure, C.L.Strauss... mới toanh ! Nhờ Thầy, chúng tôi được biết ít nhiều về triết học hiện đại, nhưng với riêng tôi, bài giảng về Kant của Thầy nói trên thật đã “cứu nguy” đúng lúc để giúp tôi phần nào hiểu được “cours” hóc búa của Thầy Nguyễn Văn Kiết và nhất là khóa giảng rất khó và rất sâu của Thầy Lê Tôn Nghiêm về quyển “Kant và vấn đề Siêu hình học” của M. Heidegger. Không hiểu Kant, làm sao hiểu nổi M. Heidegger bàn gì về Kant ! Từ đó và mãi đến hôm nay, quyển “Triết học Kant” của Thầy Trần Thái Đỉnh (cùng với hai bản dịch rất quý của Thầy về Descartes: “Luận văn về phương pháp”/ “Discours de la methode” và “Những suy niệm Siêu hình học”/ “Meditations métaphysique”, 1962) và quyển “Kant và vấn đề Siêu hình học” của Thầy Lê Tôn Nghiêm luôn theo sát bên tôi không chỉ như kỷ vật đáng nâng niu của một thuở hoa niên mà còn như hai vị Thầy lặng lẽ, lúc nào cũng ở bên cạnh mình để sẵn sàng chỉ dạy mỗi khi cần ôn lại một định nghĩa, tìm cách dịch một thuật ngữ nào dó. Gần đây, khi dịch và chú giải quyển “Phê phán Lý tính thuần túy” của Kant (NXB Văn học 2004) (ôi, quyển sách đầy kỷ niệm trong tay Thầy Lê Thành Trị thuở nào !), tôi đã trộm phép Thầy Trần Thái Đỉnh để sử dụng lại một số thuật ngữ tiếng Việt quan trọng được Thầy dùng để dịch Kant mà đến nay tôi vẫn chưa tìm thấy cách dịch nào tốt hơn: “niệm thức” (Schema), “Ý thể” (das Ideal), “Phân tích pháp” (Analytik) v.v.., để chỉ xin đơn cử một hai ví dụ. Các Thầy không chỉ trao truyền cho chúng tôi vốn kiến thức cơ bản, mà quan trọng hơn, đã thắp lên trong chúng tôi lòng khao khát học hỏi, lòng quý trọng đạo lý (Thầy Nguyễn Đăng Thục từng nửa đùa nửa thật bảo chúng tôi nên dịch chữ “Philo-sophia” của triết Tây thành “Minh Đức hữu hoài” !). Và Thầy Trần Thái Đỉnh, Thầy Lê Tôn Nghiêm... đều luôn khuyên rằng: học triết học là phải biết đặt câu hỏi; câu hỏi có khi quan trọng hơn câu trả lời; phải biết lùi lại để “đặt thành vấn đề” những gì tưởng đã giải quyết xong, phải biết lắng nghe và tôn trọng người khác vì chân lý chẳng của riêng ai và cũng chẳng dễ tìm. Hiện thân cho tinh thần ấy một cách mạnh mẽ và đầy thuyết phục không ai khác hơn là chính I. Kant, đối tượng https://thuviensach.vn được tìm hiểu trong quyển sách này. Do đó, nhân dịp tái bản quyển “Triết học Kant” của Thầy Trần Thái Đỉnh, được Nhà xuất bản gợi ý và được Thầy rộng lòng cho phép, tôi muốn nhân cơ hội quý báu này để trước hết, bày tỏ lòng biết ơn Thầy của một người học trò cũ và, sau đây, xin kính cẩn góp vài suy nghĩ “nối điêu”. II. Trình bày triết học của một tác giả lớn với tầm cỡ như của Kant bằng vài trăm trang sách là thách thức gian nan đối với bất kỳ nhà nghiên cứu nào. Ngoài ra, việc làm ấy còn phụ thuộc vào mục đích của công trình nữa: để phổ cập rộng rãi hay để phục vụ cho công việc giảng dạy và học tập chuyên ngành. Rồi còn phải lựa chọn trọng tâm hay kết hợp đến mức độ nào cả hai yêu cầu: tìm hiểu bản thân tác giả như là một trình bày về lịch sử phát triển tư tưởng hoặc tìm hiểu tác động và ảnh hưởng của tác giả ấy đối với hậu thế và trên nhiều lãnh vực. Đọc (và được đọc lại) “Triết học Kant” của Giáo sư Trần Thái Đỉnh, ta thấy ông chọn lựa một cách làm phù hợp với yêu cầu bức thiết lúc bấy giờ: giúp người học đi thẳng vào ba tác phẩm chính của Kant, tìm hiểu kỹ lưỡng chúng, để từ đó có cơ sở cho việc tự mình tiếp tục đi sâu nghiên cứu. “Quý hồ tinh bất quý hồ đa”, có lẽ đó là phương châm biên soạn của Giáo sư để giúp người học có được những kiến thức cơ bản, chính xác, chặt chẽ trước đã, vì thế, Giáo sư không mở quá rộng vấn đề mà tập trung cho thấy trình độ phản tư cao, tính khái niệm tinh tế và tính mạch lạc trong lập luận của Kant. Giáo sư cũng rất thận trọng và cân nhắc trong việc đưa ra những nhận định riêng, vì hình như soạn giả muốn khuyến khích người đọc tự mình làm lấy việc ấy; và ở đôi chỗ quan trọng cần đưa ra nhận xét, Giáo sư chọn cách làm “sòng phẳng”, “nghĩa tình” trong học thuật: khi tác giả không còn có mặt để tự lên tiếng, các lý giải và nhận xét của ta, nói chung, nên linh động và “có lợi” cho tác giả. Có lẽ nhờ cách biên soạn ấy mà “Triết học Kant”, sau hơn 30 năm, vẫn còn giữ nguyên giá trị như một trong số rất hiếm hoi các công trình tiên phong và rất bổ ích về lãnh vực này. 30 năm với biết bao “nước chảy qua cầu”, dù nói riêng trong việc nghiên cứu (không bao giờ kết thúc!) về Kant https://thuviensach.vn lẫn những tác động, tranh luận, khen chê chung quanh con người rất xứng đáng với chữ dùng của K.Jaspers là nhân vật thuộc về “thời trục” (“Achsenzeit”), gây ảnh hưởng sâu đậm lên tư duy và đời sống văn hóa chính trị-xã hội cận và hiện đại. Theo Kant, một nền triết học nghiêm chỉnh là phải hướng về những vấn đề cơ bản của con người, được thể hiện trong các “mối quan tâm của Lý tính”. Các mối quan tâm này quy lại thành ba câu hỏi lớn: — Tôi có thể biết gì? — Tôi phải làm gì ? và - Tôi được phép hy vọng gì? (PPLTTT, B833). Kant dành quyển “Phê phán Lý tính thuần túy” để trả lời câu hỏi thứ nhất; quyển “Phê phán Lý tính thực hành”, hay nói rộng hơn, triết học đạo đức và pháp quyền, để trả lời câu hỏi thứ hai; và, trong các tác phẩm tương đối ngắn về triết học lịch sử và triết học tôn giáo để trả lời câu hỏi thứ ba. Quyển “Phê phán năng lực phán đoán” (Mỹ học và Mục đích luận) là “cầu nối” quan trọng giữa cả ba câu hỏi với tầm quan trọng đặc biệt về hệ thống lẫn về nội dung. Tuy chưa thể đi sâu vào phần triết học pháp quyền, triết học lịch sử, triết học tôn giáo (có thể do khuôn khổ của một cuốn sách “nhập môn”), nhưng với việc trình bày cô đọng nhưng không kém cặn kẽ về ba quyển “Phê phán” chủ yếu, GS. Trần Thái Đỉnh đã cho ta một cái nhìn khá bao quát về triết học Kant. Tất nhiên, triết học Kant rất rộng, còn bao gồm nhiều tác phẩm khác nữa, đặc biệt những tác phẩm di cảo (các bài giảng, các thư từ trao đổi...) mới được công bố sau này được gọi chung là “Opus postunum” mà ta không nên bỏ qua vì chúng góp phần soi sáng hay bổ sung cho ba tác phẩm chính nêu trên[2]. Còn về ảnh hưởng và các cuộc tranh luận chung quanh triết học Kant, quyển sách tất nhiên phải tạm dừng lại ở mốc những năm đầu 70 của thế kỷ trước. Thật ra, không một công trình nào có thể bao quát hết được phạm vi, tầm mức ảnh hưởng cũng như sự ủng hộ hay phê phán đối với triết gia lớn như Kant, nhất là trong quãng thời gian lịch sử rất dài; tuy nhiên, sự giới thiệu và nhận định ngắn gọn của Giáo sư về ảnh hưởng của Kant trong khung cảnh triết học phương Tây những năm 70 (triết học hiện sinh, thuyết cấu trúc, thần học hiện đại...) cũng là những gợi hứng cho việc tìm hiểu xa hơn[3]. https://thuviensach.vn Ai cũng dễ thừa nhận rằng Kant là một trong số những đại triết gia của Tây phương và là người đã gây dấu ấn quyết định lên triết học cận đại. Tuy nhiên, ta cũng biết rằng Galilei và Newton, trong lãnh vực của mình, cũng là những khuôn mặt kiệt xuất đương thời. Trong khi Vật lý học của Galilei và Newton đều được xem là đã bị vượt qua, vậy tình trạng ấy phải chăng cũng không thể tránh khỏi đối với nhà đại triết gia của chúng ta ? Do đó, không thể không đặt câu hỏi như Otfried Hoffe: “Dù Kant là một khuôn mặt kiệt xuất, nhưng phải chăng vẫn là một hình thái đã bị vượt qua của tư duy con người ?”[4]. Trả lời câu hỏi ấy thật không dễ dàng, trừ khi ta thử dùng một phương pháp “phản chứng” như chính Hoffe đề nghị: “Càng có nhiều đối thủ tầm cỡ, thì điều ấy càng chứng tỏ Kant còn có vai trò lớn lao như thế nào cho đến ngày nay” (Sđd, tr. 300), và: “cho dù một triết gia được người đời sau cải tiến, phát triển sáng tạo hay bị ngộ nhận đến thế nào đi nữa, thì lịch sử triết học sau Kant, về một phần cơ bản, phải được hiểu như lịch sử ảnh hưởng, như sự tiếp thu và tiếp tục phát triển, như sự tái tạo, phê phán và tái tiếp thu chính những tư tưởng của Kant. Dự phóng về triết học phê phán siêu nghiệm dường như chứa đựng một tiềm lực tư duy không thể tát cạn, và có lẽ đến nay vẫn chưa thể đo lường hết được” (Sđd, tr.301-302). Trước khi minh chứng ngắn gọn về điều ấy và cũng chỉ cần thu gọn trong quãng thời gian từ khoảng 30 năm trở lại đây, tưởng cũng nên nhắc lại sơ qua thế đứng và cách đặt vấn đề của Kant. về mặt lịch sử tư tưởng, Kant thuộc về thời đại “Khai sáng” ở châu Âu. Nhiều lập trường cơ bản của thời đại này đang bị rạn nứt: quan niệm rằng mọi sự mọi vật đều có thể khống chế được, niềm tin vào sự tiến bộ không ngừng của nhân loại, hay nói ngắn: “chủ nghĩa lạc quan-lý tính”. Phải chăng chúng đều thuộc về quá khứ như bản thân thời kỳ lịch sử ấy ? Phải chăng Lý tính, Tự do, sự Phê phán, sự Trưởng thành, sự Tự trị... chỉ là sản phẩm nhất thời của thế kỷ 17, 18 ở châu Âu ?[5]. Thật ra, Kant vừa giữ khoảng cách đối với thái độ “Khai sáng” ngây thơ, vừa giữ khoảng cách đối với thái độ “phản-Khai sáng”, theo đó tất cả những gì hiện tồn đều là tốt đẹp cả. Ông muốn cải biến tận gốc “sự Khai sáng châu Âu” bằng khẩu hiệu: “Sapere aude ! Hãy có can đảm sử https://thuviensach.vn dụng lý trí của chính mình !” (“Khai sáng là gì?”, VIII 35) và biến nó thành vấn đề nguyên tắc. Ông cho rằng “Khai sáng” là cả một tiến trình, thậm chí là vận mệnh muôn thuở của con người chứ không phải công việc nhất thời, nhất đán: bằng quyết tâm Tự-suy tư bằng cái đầu của chính mình để dẹp bỏ dần dần những sai lầm và thành kiến, thoát ly dần dần ra khỏi những lợi ích vị kỷ và từng bước phát huy “lý tính chung, phổ biến của con người”. Từ nguyên tắc của lý tính nằm trong sự tự trị, sự tự do và sự tự ban bố quy luật, ông vừa phê phán triết học giáo điều truyền thống — như phê phán một “thuyết lạc quan ngây thơ”, vừa không chỉ truy tìm tận nguồn gốc mà cả những ranh giới, những giới hạn không thể vượt qua được của “lý tính thuần túy” lý thuyết lẫn thực hành. Tuy nhiên, là đứa con của thời Khai sáng, ông hết sức “ấn tượng” trước thành công của Lôgíc học và Toán học truyền thống và nhất là Khoa học tự nhiên đương thời (Galilei, Newton). Ông vững tin vào “Khoa học” như vào một mô hình lý tưởng của “tính phổ biến và tính tất yếu”. Do đó, để làm bùng nổ “cuộc cách mạng tư duy” ở trong triết học như Galilei, Newton đã làm trong khoa học tự nhiên, hay nói cách khác, để mang lại cho Siêu hình học “bước đi vững chắc của một Khoa học”, ông lùi lại một bước, hay đúng hơn, đi xuống một tầng sâu hơn để đặt câu hỏi: “Siêu hình học” hay “nền Đệ nhất triết học” có thể trở thành khoa học được không nếu cứ tiếp tục lao vào nghiên cứu các đối tượng như “Thượng đế, Tự do, Bất tử” như thể đó là những “sự vật thường nghiệm” mà không cần phân biệt “khả thể” và “bất khả thể” của nhận thức ? Trước khi nghiên cứu thế giới tự nhiên, thế giới xã hội và nhất là thế giới siêu nhiên từ chính những nguyên tắc của chúng, triết học hãy quay lại nghiên cứu “khả thể” của chính mình. Triết học không thể bắt đầu với tư cách là Siêu hình học [cổ truyền] mà phải bắt đầu như lý luận về triết học, như là lý luận về một “Siêu hình học Khoa học” trước đã. Cách đặt vấn đề ấy mang lại một tính triệt để chưa từng có trong nghị luận triết học. Tính triệt để ấy chỉ có thể có được bằng một “lề lối tư duy” cơ bản hơn, mới mẻ hơn, được ông gọi là “phê phán siêu nghiệm về lý tính”. (Siêu nghiệm: cầu hỏi về điều kiện khả thể). Cuộc “cách mạng tư duy” ấy không https://thuviensach.vn thể đặt ra một cách trừu tượng mà phải được tiến hành cặn kẽ về nội dung. Bởi lẽ, một nền triết học tự trị tiền giả định rằng trong nhận thức và hành động của con người, trong pháp quyền, lịch sử và tôn giáo cũng như trong những phán đoán thẩm mỹ và mục đích luận phải có những yếu tố có giá trị độc lập với mọi kinh nghiệm thường nghiệm (ông gọi là các yếu tố “tiên nghiệm”), cho nên, chúng không thể được nghiên cứu theo kiểu khoa học thường nghiệm mà phải bằng triết học. Khi dày công khám phá được những yếu tố ấy nằm trong chủ thể, ông mới có thể tuyên bố rằng, tuy con người là hữu hạn, tức phải phụ thuộc vào giác quan (tính thụ nhận và cảm năng), nhưng tính phổ biến và tất yếu của tri thức đích thực, của hành động đạo đức V.V.. là có thể có được. Việc phát hiện những yếu tố độc lập với kinh nghiệm ở trong chủ thể bằng sự phê phán lý tính đã thật sự làm đảo lộn tư duy triết học trước đó, và Kant tin rằng, từ nay, triết học mới được đặt trên những cơ sở thực sự vững chắc. Dù đồng ý hay hoài nghi trước việc “đặt cơ sở” này của Kant, không ai có thể phủ nhận rằng Kant đã làm biến đổi cơ bản quang cảnh triết học Tây phương, từ lý luận về nhận thức, lý luận về đối tượng, đến đạo đức học, triết học lịch sử và tôn giáo, kể cả triết học về nghệ thuật. Hàng loạt những thuật ngữ của ông: nhận thức tiên nghiệm và hậu nghiệm, phán đoán phân tích và tổng hợp, luận cứ siêu nghiệm, ý niệm cấu tạo và ý niệm điều hành, mệnh lệnh tuyệt đối hay sự tự trị của ý chí v.v... và v.v... gắn liền với triết học Tây phương ngót hai thế kỷ qua, đến nỗi không thể nào hiểu được nền triết học này mà không cần đến các khái niệm ấy. Trở lại với ảnh hưởng của triết học Kant trong vòng 30 năm qua, tức tạm không nhắc đến ảnh hưởng mạnh mẽ của ông trước đó (đến chủ nghĩa duy tâm Đức: Fichte, Schelling, Hegel; phái Kant-mới; Dilthey, Max Weber, hiện tượng học Husserl, triết học hiện sinh, thần học Cơ đốc giáo, thuyết duy lý phê phán của K.R.Popper...), ta có thể nói rằng hiếm có nhà tư tưởng hiện đại nào không ít nhiều tham khảo, luận bàn, lấy thái độ về triết học Kant. Theo o. HÕffe (Sđd), một hiện tượng đáng chú ý là sự quan tâm đặc biệt đến Kant trong “triết học phân tích” ngày nay. Trong “Individuals” (1959), https://thuviensach.vn P.F. Strawson phát triển một môn “Siêu hình học mô tả” nhằm phát hiện những phạm trù làm nền tảng cho tư duy và ngôn ngữ hàng ngày của chúng ta. Đối lập lại với thuyết hành vi và thuyết hoài nghi, Strawson khẳng định một “sơ đồ khái niệm tiên nghiệm” cho cấu trúc không gian-thời gian của những sự vật riêng lẻ trong thế giới. Quyển "The Bounds of Sense” (“Những ranh giới của giác quan”, 1996) của ông mang nhan đề phụ là “một thử nghiệm về việc Phê phán Lý tính thuần túy”. Tác phẩm ấy còn vượt ra khỏi sự phân tích và tái tạo lý luận của Kant, vì nó muốn phát họa một “triết học siêu nghiệm” - thay thế cho “thuyết duy tâm siêu nghiệm” của Kant - soi sáng cấu trúc nền tảng của mọi kinh nghiệm dựa vào phương pháp lập luận phân tích. Sự “phục hưng” triết học siêu nghiệm bằng phương pháp phân tích của Strawson gợi mở một loạt những nghiên cứu sắc sảo về các bộ phận then chốt của quyển “Phê phán Lý tính thuần túy” của Kant (“Cảm năng học”, “Phân tích pháp”, “Biện chứng pháp”) cũng như những nghiên cứu về cấu trúc và khả thể của “luận cứ siêu nghiệm” (vd: J.Bennett). Tất nhiên, so với Fichte, Schelling và Hegel, những “tham vọng” tư biện của Kant khiêm tốn hơn nhiều, nhưng vẫn còn là quá lớn đối với các đại diện khác của trào lưu triết học phân tích. Theo Quine, sự phân biệt của Kant về mệnh đề phân tích và mệnh đề tổng hợp là không đứng vững, còn theo s. Korner, các việc “diễn dịch siêu nghiệm” của Kant là bất khả “về nguyên tắc”[6]. Phê phán Kant triệt để nhất là khẳng định của R. Rorty khi ông cho rằng sự phát triển của triết học phân tích từ các giai đoạn của Wittgenstein, từ Russell cho đến Sellars và Davidson không gì khác hơn là tiến trình không ngừng “hủy-siêu nghiệm hóa” (detranscendentalization) và từ bỏ hoàn toàn các yếu tố tiên nghiệm. Nhưng, quan điểm này lại bị J.Hintikka phản bác và ông tìm cách tái tạo các “luận cứ siêu nghiệm” bằng việc kết hợp lý luận “trò chơi ngôn ngữ” và Lôgíc-quantor. Trong khi các nhà triết học phân tích (phần lớn ở khu vực Anh Mỹ) tiếp thu triết học Đức, thì triết học Đức hiện nay cũng bắt đầu tiếp thu triết học phân tích. Chính nhờ thông qua các cuộc thảo luận về Kant, kể cả việc phê https://thuviensach.vn phán Kant sau “bước ngoặt ngôn ngữ” (linguistic turn) mà có sự “hội tụ” nhất định giữa hai truyền thống vốn song hành và thường đối nghịch nhau: truyền thống duy nghiệm-phân tích của khu vực Anh Mỹ và truyền thống triết học siêu nghiệm và giải minh học (Hermeneutik) ở châu Âu lục địa. Một sự quan tâm đặc thù đến việc “môi giới” giữa hai truyền thống tư tưởng này, — và cũng là nỗ lực vượt qua sự hoài nghi của K. Popper về việc đặt cơ sở cho khoa học — là tư tưởng của KO.Apel. Apel muốn “cải biến” Kant trong tinh thần phê phán về ý nghĩa của Peirce và của Wittgenstein hậu kỳ về mặt triết học ngôn ngữ. Ông không xem cơ sở tối hậu cho tính giá trị khách quan của lập luận (khoa học) là ở trong “Tự-ý thức siêu nghiệm” như Kant mà ở trong mối quan hệ với một “trò chơi ngôn ngữ siêu nghiệm” (“transzendentales Sprachspiel”). Theo ông, điểm thống nhất tối cao không phải là “cái Tôi-tư duy” (có vẻ) như “duy ngã” của Kant, mà là “cộng đồng tương giao, cộng đồng truyền thông”, tạo nên tiền đề siêu nghiệm cho các khoa học xã hội và là nguyên tắc tối cao cho đạo đức học. Sự quan tâm đến Kant trong triết học hiện nay không chỉ ở lãnh vực triết học lý thuyết mà cả trong triết học thực hành. Sự khôi phục đạo đức học và triết học pháp quyền không chủ yếu hướng đến tư duy phê phán lý tính cho bằng đến những phát biểu về nội dung của nhiều vấn đề cơ bản của Kant: nguyên tắc về sự “phổ quát hóa” gắn liền với “mệnh lệnh tuyệt đối” như là tiêu chuẩn tối cao về luân lý (Hare, Singer); lý luận về “sự bình đẳng và công chính” của J.Rawls đặt nền tảng trên khái niệm của Kant về sự tự trị, cũng như vai trò của khái niệm này trong đạo đức học của “trường phái Erlangen” (P. Lorenzen, O.Schwemmer...) và trong “Đạo đức học diễn ngôn” (Diskursethik) của J. Habermas. Trong triết học chính trị của F.A.v.Hayek cũng có nhiều yếu tố của Kant, kể cả lý luận về phán đoán luân lý do L.K.Kohlberg tiếp nối J.Piaget cũng xem các khái niệm của Kant về sự tự trị và phổ quát hóa như là “cấp độ cao nhất” của ý thức luân lý. Tóm lại, dù tán thành hay phê phán Kant đến mức độ nào, dù “trung thành” với Kant hay “ngộ nhận ông một cách sáng tạo”, dòng chảy mạnh mẽ (và có khi hầu như hỗn loạn theo truyền thống “bế tắc trong sự phong https://thuviensach.vn phú, đa dạng”) của triết học Tây phương hầu như không lúc nào có thể vắng mặt ông! IV Một vấn đề khác không kém lý thú và quan trọng là cuộc thảo luận để xác định vị trí của Kant như là triết gia của thời [và của tinh thần] Hiện đại. Khuôn khổ bài viết không cho phép đi sâu vào cuộc thảo luận, — theo tôi là hết sức có ý nghĩa này —, nên chỉ xin được lược qua[7]. Mô hình của Max Weber về tiến trình “hợp lý hóa” của Tây phương dẫn đến “thuyết đa thần về giá trị” như là hình ảnh của nền văn hóa hiện đại được Heirich Rickert quy công cho Kant như sau: “Kant là nhà tư tưởng đầu tiên ở châu Âu đã tạo dựng nên những cơ sở lý luận phổ quát nhất, nhờ đó mới làm cho những câu trả lời về các vấn đề văn hóa đặc trưng của thời hiện đại có thể có được và nhất là đã tự mình chứng minh điều ấy. Tư tưởng của ông, như được trình bày trong ba quyển Phê phán, là có ý nghĩa “phê phán”, nghĩa là phân biệt và vạch ranh giới, qua đó, về nguyên tắc, tương ứng với tiến trình tự chủ hóa và dị biệt hóa của [bản thân nền] Văn hóa. Tiến trình ấy đã được thực hiện trong thực tế từ lúc bắt đầu thời cận đại nhưng chưa thể tìm được sự diễn đạt về lý luận nào trong nền triết học trước Kant”. (Sđd, tr. 141). Trong các bài giảng Biện luận triết học về “Hiện đại”[8], Jũrgen Habermas đưa ra một nhận định khác, hầu như trái ngược: “Kant diễn đạt thế giới hiện đại trong một tòa lâu đài về tư tưởng. Nhưng thật ra điều này chỉ có ý nghĩa là: các đường nét cơ bản của thời đại chỉ tự phản ánh vào trong triết học Kant như vào trong một tấm gương, chứ Kant đã không thấu hiểu được “Hiện đại” xét như là “Hiện đại”. Chỉ từ khi nhờ có [cách nhìn] hồi hướng (Retrospektive), Hegel mới có thể hiểu triết học Kant như là tiến trình tự-lý giải (Selbst-auslegung) mẫu mực về “Hiện đại”. Hegel cho rằng mình đã nhận thức những gì mà ngay ở trong sự biểu hiện được phản tư cao nhất này về thời đại [Kant], nó đã vẫn không [tự] thấu hiểu được chính nó: Kant không cảm nhận được các sự dị biệt hóa ở bên trong Lý tính [“lý tính lý thuyết, lý tính thực hành, năng lực phán đoán phản tư...”], các sự phân https://thuviensach.vn thù về hình thức bên trong nền văn hóa, hay nói chung, sự phân hóa của các lãnh vực ấy [vd: nhà nước, tôn giáo, kinh tế, xã hội, người công dân...] như là những sự phân đôi [những sự “tha hóa” tất yếu]. Vì thế, Kant mù tịt về cái nhu cầu [phải hợp nhất lại] đang xuất hiện ra cùng với những sự phân ly cưỡng bức do nguyên tắc của tính chủ thể gây ra. Chính nhu cầu này mới là cái thúc đẩy triết học, bao lâu “thời Hiện đại” tự thấu hiểu chính mình như là một thời kỳ lịch sử; bao lâu nó đi đến chỗ có ý thức rằng việc thay thế những gì là tiêu biểu của quá khứ và việc tất yếu phải tạo ra mọi tính quy phạm [mọi quy luật tự nhiên lẫn luân lý] từ chính bản thân mình chỉ như là một vấn đề lịch sử” (Sđd, tr. 30 và tiếp). Văn Habermas thường khó đọc, nhưng ý ông khá rõ: ông đồng ý với Rickert rằng Kant “đã tạo nên những cơ sở lý luận phổ quát nhất cho thời Hiện đại” nhưng lại cho rằng Kant không thực sự thấu hiểu được “Hiện đại xét như là Hiện đại”. Đó phải là công lao của Hegel ! Nói theo thuật ngữ của chính Hegel, Kant mới đang ở giai đoạn “tự-mình” (an sich) chứ chưa phải “cho-mình” (fur sich); Kant đang “đắm mình” trong những việc làm to tát nhưng không có “ý thức” về việc làm to tát của mình !. “Tự-mình” (theo thuật ngữ Hegel) cũng đồng nghĩa với “cho-ta” (fur uns), ở đây, là “cho Hegel”, tức chỉ có người đã đứng trên đỉnh cao của sự “hồi hướng” mới “lý giải” được tiến trình ấy. H. Schnãdelbach nghi ngờ nhận định này của Habermas và đặt hàng loạt câu hỏi: phải chăng Kant thực sự không thấu hiểu “Hiện đại xét như là Hiện đại ?” Vậy tại sao Hegel lại “hiểu triết học Kant như là sự tự-lý giải mẫu mực về Hiện đại ?” Luận điểm cho rằng Kant đã không cảm nhận được sự đa dạng nội tại của lý tính và của văn hóa như là “các sự phân đôi” tất yếu và vì thế mù tịt về “nhu cầu” nảy sinh từ đó về một “định hướng quy phạm” (tức sự “tái hợp nhất” của sự phân đôi) trong thế giới hiện đại là khẳng định của Hegel hay của bản thân Habermas? ông đưa ra các lý lẽ phản bác: - Không thể có một sự “tự-lý giải” về Hiện đại mà lại là “biểu hiện vô-ý thức hay chỉ là Sự “phản ánh vô-ý thức” của Hiện đại được. Như thế là mâu thuẫn. — Ý thức về tính hiện đại không hề thiếu nơi Kant, khi chính Kant https://thuviensach.vn đã gọi thời đại của ông là “thời đại của sự phê phán, buộc mọi sự phải phục tùng sự Phê phán” (PPLTTT, AXI); - cũng không thể bảo Kant “mù tịt” về nhu cầu (Bediirfnis) phải vươn tới một định hướng phổ quát (một sự “tái hợp nhất”) về nhận thức và quy phạm (đạo đức) sau khi đã “phân ly” giữa Vật tự thân và hiện tượng, giữa cái Khả niệm và cái Khả giác, giữa cái Đang là và cái Phải là..., bởi, chỉ cần nhớ đến học thuyết của Kant về các Ý niệm điều hành, về các định đề của lý tính thực hành và học thuyết về phương pháp trong quyển “Phê phán năng lực phán đoán” là đủ thấy rõ. (Sđd, tr. 30); đó là chưa nói đến Khái niệm “triết học toàn-hoàn vũ” (conceptus cosmicus, PPLTTT, B868) của Kant. Vấn đề thật ra nằm ở chỗ khác, sâu xa hơn, chứ không phải Habermas không hiểu hay hiểu sai Kant ! H. Schnădelbach cũng đã nhận ngay ra điều ấy khi cho rằng ở đây có hai “mô hình” tư duy khác nhau, có thể nói gọn là giữa Kant và Hegel. Nếu hiểu các sự phân biệt của Kant (giữa vật tự thân và hiện tượng V.V..) như là biểu hiện hay kết quả của “sự phân đôi” hay của sự “tha hóa” tất yếu thì phải tiền giả định có một sự “thống nhất nguyên thủy”, rồi từ đó cái “bị phân đôi”, cái “bị tha hóa” mới được “thoát thai” ra. Thật vậy, Hegel, trong “Hiện tượng học Tinh thần”[9], đã hiểu “thời hiện đại” nói chung như là “thế giới của Tinh thần tự tha hóa”; và khi lý giải nó, ông đi theo mô hình của sự tự-tha hóa của một cái “Toàn bộ” (tức cái Tuyệt đối, Tinh thần), thông qua sự phân ly và tha hóa thành tính hữu tận và tính dị biệt một cách tất yếu và cần thiết (notwendig) để “quay trở về lại vào trong chính mình” mà ông gọi là sự “hòa giải”. Mô hình “nhất thể - phân ly - hòa giải” (mà các nghiên cứu mới đầy chứng minh rõ là Hegel tiếp thu từ “trực quan nền tảng” của Holderlin [1] mang ít nhiều dư hưởng của mysteria creationis/huyền nhiệm sáng tạo và trinitatis/tam vị nhất thể của Thần học tư biện) tất nhiên ngụ ý rằng có thể đưa “thời hiện đại” vào trong viễn tượng của việc “vượt bỏ” nó một cách hiện thực. Việc “vượt bỏ” ấy không gì khác hơn là “vượt bỏ” (Auíheben) sự tha hóa để đạt tới “sự hòa giải”, https://thuviensach.vn như yêu cầu của Hegel: “vượt bỏ” (auíheben) những sự đối lập đã trở nên cứng đờ ấy là sự quan tâm duy nhất của lý tính”[10]. Trong khi đó, “mô hình” của Kant khác hẳn. Với ông, các sự “nhị phân” (Dichotomien) khổng lồ nói trên mà ông tập trung phân định không phải là cái gì “được thoát thai ra” hay “bị tha hóa đi” mà chính là “thân phận con người” (“condition humaine”) hiện thực, được triết học, bằng sự khai sáng, phát hiện và làm cho lộ rõ, thế thôi. Cho nên đối với Kant, một sự tái hợp nhất hiện thực của các cái đối lập ấy - dù trong quá khứ, hiện tại hay tương lai - là không thể có được. Theo Kant, cơ sở cho các sự phân biệt ấy là độc lập với lịch sử, vì thế, ông không thể hình dung có một hoàn cảnh lịch sử nào, một xã hội hiện thực nào trong đó vật-tự thân và hiện tượng, cái khả niệm và cái khả giác, cái “đang là” và cái “phải là” rút cục sẽ hợp nhất với nhau. Lý do sâu xa là ở chỗ Kant nhấn mạnh đến tính hữu hạn của lý tính và của con người nói chung, trong khi Hegel, với mô hình “nhất thể - phân ly - hòa giải”, nhận định về “thời Hiện đại” cũng như về “tính hữu hạn” của con người nói chung trong viễn tượng của cái Tuyệt đối và tin rằng tính hữu hạn, hay “thân phận con người”, về nguyên tắc, là có thể khắc phục, có thể “vượt bỏ’’ được. Kant chỉ đề ra “nguyên tắc của Hy vọng” để giúp con người hữu hạn biết hướng thượng, còn Hegel thì tin vào lý tính vô hạn biết tự vượt qua sự tự - tha hóa của chính mình. H. Schnãdelbach nhận định nhẹ nhàng rằng nếu tính hiện đại có liên quan ít nhiều đến tính không [còn] ảo tưởng thì Kant tỏ ra... hiện đại hơn Hegel ! (Sđd, tr. 34). Theo ông, luận điểm của Kant cho rằng con người là một “con vật được phú cho năng lực lý tính” (animal rationabile) và “một con vật sống có lý tính” (animal rationale) không phải là sự “quy định về bản chất” mà chỉ là một “nhiệm vụ đặt ra cho con người phải giải quyết” (aufgegeben)[11], do đó, về mặt lịch sử thuật ngữ, là một sự đoạn tuyệt với “thuyết Logos trung tâm” trong Nhân loại học, còn Hegel thì tỏ ra luôn cố gắng ngăn chặn điều ấy[12]. Nói cách khác, Hegel tin vào một sự “hòa giải” với hiện thực, còn Kant thì khiêm tôn cho rằng tốt hơn nên dành công cuộc trọng đại ấy cho... Thượng đế, còn con người hữu hạn chỉ nên dựa vào các định đề của lý tính https://thuviensach.vn thực hành để lo “hòa giải với nhau ở trong hiện thực” mà chưa chắc đã xong ! (Xem: Kant: “Hướng đến nền hòa bình vĩnh cửu”). Vấn đề đủ hấp dẫn và quan trọng để trở thành chủ đề “Kant hay Hegel ?” của một Hội nghị quốc tế lớn về Hegel (Hegel-Kongress) ở Stuttgart (quê hương Hegel) vào năm 1981. “Kant hay Hegel ?”. Chủ đề ấy buộc ta phải chọn một trong hai hay lại vẫn có thể... “hòa giải” ? Tóm lại, triết học tuy “rắc rối” nhưng thú vị và bổ ích ở chỗ, “một lúc nào đó trong đời”, nói như Descartes, nó thôi thúc và cho phép chúng ta được theo chân các đại triết gia để có thể bình tâm trao đổi với nhau về những chuyện tưởng như cao xa nhưng lại hết sức thiết cốt với “thân phận con người”. Để kết luận, tôi cho rằng nền văn hóa là “hiện đại”, khi con người biết “phản tư” về việc có nên nhìn nhận tính hữu hạn của chính mình hay không để sống cho phù hợp với nhìn nhận ấy. Ngược lại, điều ấy lại “tiền-giả định” phải có một cấu trúc cơ bản về nền văn hóa cũng có tính phản tư không kém để làm cho việc phản tư ấy về chính mình - theo cách nói quen thuộc của Kant - có thể có được. BÙI VĂN NAM SƠN (3/2005) https://thuviensach.vn [1] Thầy Nguyễn Văn Kiết làm Phó Chủ tịch “Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam”, Chủ tịch là Luật sư Trịnh Đình Thảo. https://thuviensach.vn [2] FI. Kant: “Tập hợp tác phẩm”; “Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Phổ” (gọi tắt là bản Hàn Lâm, “AA”): tập X-XIII: thư từ trao đổi; tập XIV - XXIII: di cảo; tập XXIV - XXIX: các bài giảng. https://thuviensach.vn [3] Xem thêm: “dẫn luận” cho bản dịch “Phê phán Lý tính thuần túy”, nhất là phần 4: “Phê phán Lý tính thuần túy trong tư tưởng và triết học đương đại” của Thái Kim Lan, trong: “Kant, Phê phán Lý tính thuần túy”, BVNS dịch và chú giải, NXB Văn học, 2004, tr. XXVII LXXVII. https://thuviensach.vn [4] Otfried Hoffe: Immanuel Kant, Munchen, 1996, tr. 11. https://thuviensach.vn [5] Xem: Bùi Văn Nam Sơn: “Tương lai của Khai sáng ?” trong: Chuyên luận “Từ Đông sang Tây” mừng Giáo sư Lê Thành Khôi (sắp xuất bản) https://thuviensach.vn [6] Xem thêm chi tiết và thư mục trong: “Kant, Phê phán Lý tính thuần túy”, BVNS dịch và chú giải, NXB Văn học 2004. https://thuviensach.vn [7] Xem thêm:- Jũrgen Habermas: Der Philosophische Diskurs der Modeme. Zwùlf Voríesungen/Biện luận triết học về “Hiện đại”. Mười hai bài giảng, Frankfurt7 a Main, 1985.- Heirich Rickert: Kant als Philosoph der modernen Kultur. Ein geschichtsphilosophischer Versuch/Kant với tư cách là triết gia của nền văn hoa hiện đại. Một thử nghiệm về triết học lịch sử, Túbingen, 1924, tr. 141.- Herbert Schnádelbach: Philosophie in der modemen Kultur/Triết học trong nền văn hóa hiện đại, Frânkfurt/M, 2000.- Peter Koslovvski: Die postmodeme Kultur/Văn hóa hậu-hiện đại, Mtlnchcn, 1987. https://thuviensach.vn [8] Xem: Bùi Văn Nam Sơn: “Tương lai của Khai sáng ?” trong: Chuyên luận “Từ Đông sang Tây” mừng Giáo sư Lê Thành Khôi (sắp xuất bản) https://thuviensach.vn [9] Hegel, Hiện tượng học Tinh thần/PhŨnomenologie des Geistes, BVNS dịch và chú giải (sắp xuất bản). https://thuviensach.vn [10] Hegel: “Sự dị biệt giữa hệ thống triết học của Fichte và của Schelling”, tr. 20. https://thuviensach.vn [11] Kant: Nhận loại học trong phương diện thực tiễn, B313/Anthropologie in pragmatischer Hinsicht https://thuviensach.vn [12] Xem: chẳng hạn: Hegel: Bách khoa thư về các Khoa học triết học, §2A/ “Enzyklopủdie...” https://thuviensach.vn [1] Xem: - BVNS: “Đôi lời giới thiệu” cho quyển “Martin Heidegger và tư tưởng hiện đại” của Bùi Giáng, NXB Văn học, 2001, tr. 7-36.- Dieter Heirich: “Hegel und Hỏlderlin”/Hegel và Hõlderlin, trong: “Hegel im Kontext”/ Hegel trong văn cảnh, Frankfurt/M, 1971, tr. 9 và tiếp. https://thuviensach.vn NHẬP ĐỀ Triết của Kant vẫn ảnh hưởng một cách sâu xa vào các trào lưu tư tưởng hiện đại. Heidegger đã tự xưng là môn đệ Kant và tự cho mình cái danh dự khai thác những nguồn phong phú còn tàng ẩn trong triết học Kant[13]. Gần đây những người thủ xướng thuyết Cơ cấu như Claude Lévi-Strauss và Michel Foucoult cũng hết sức đề cao Kant. Lévi- Strauss tự nhận là một “chủ nghĩa Kant không chủ thể siêu nghiệm” (Kantisme sans sụịet transcendantal), bởi vì Lévi-Strauss giống Kant ở chỗ không đặt những nền tảng này nơi chủ thể siêu nghiệm như Kant, mà lại đặt nơi môi trường thiên nhiên[14]. Còn Foucault thì nhận rằng thuyết phê bình của Kant là “cửa mở vào thời đại ta”, và mặc dầu ông buộc tội Kant đã để triết học “ngủ giấc ngủ của khoa Nhân học sau khi lay tỉnh nó khỏi giấc ngủ của thuyết Giáo điều”, ông cũng phải nhận rằng “tư tưởng về hữu hạn tính mà thuyết phê bình của Kant đã coi là phần việc của triết học, thì nay vẫn là lãnh vực suy tưởng của chúng ta”[15]. Nhưng Kant đã làm thầy cho Heidegger về nội dung, và làm thầy cho Lévi-Strauss về phương pháp: quan niệm sinh hoạt đạo đức của Kant đã giúp Heidegger xây dựng triết học Hiện hữu, và phương pháp hình thức của Kant thì giúp ta hiểu phương pháp phân tích cơ cấu của Lévi Strauss và các thuyết Cơ cấu nói chung. Làm công việc trình bày triết của Kant, chúng tôi không đi quá xa những gì chính ông đã viết. Giúp bạn đọc hiểu Kant là giúp hiểu Heidegger và triết Hiện hữu cũng như giúp hiểu triết học hình thức của trào lưu Cơ cấu đang lên. Nhưng sao Kant nói khó hiểu thế? Sao người ta hiểu Kant sai thế? Krueger đã than rằng ảnh hưởng của Kant đã đi ngược lại ý của Kant và cái gọi là tân phái Kant cũng như thuyết Duy tâm của Đức quốc không những không dựa theo học thuyết của Kant mà thực ra đã dựa vào những chủ nghĩa bị Kant phi bác[16]. Trong nẻo đó, người ta hết lên án thuyết Kant là chủ nghĩa bất tri, lại gán cho nó cái tên là chủ nghĩa phê bình. Gần đây, J. Vuillemin đã kê khai truyền thống tư tưởng Kant như sau: Kant có ba người con tinh thần là Fichte, Cohen và Heidegger[17]. Fichte đã khai thác phần https://thuviensach.vn “Biện chứng pháp siêu nghiệm” trong cuốn Phế bình lý trí thuần túy của Kant, và Fichte giải thích Kant theo chiều hướng đó. Đến Cohen lại khai thác phần “Phân tích pháp siêu nghiệm” của cuốn Phê bình lý trí thuần túy, nhân đấy đã lái triết học Kant sang phía một chủ nghĩa phê bình (criticisme). Sau cùng Heidegger coi trí tưởng tượng siêu nghiệm là cái gì căn bản nhất trong con người, căn bản hơn cả lý trí và trí năng, nên ông đã khai thác phần “Cảm giác học siêu nghiệm” của cuốn Phê bình lý trí thuần túy và đạt tới lãnh vực hiện hữu và hữu thể. Trong việc nhận định sự khác biệt giữa ba triết gia tự xưng là thừa tự tinh thần của Kant trên đây, hình như chính J. Vuillemin cũng chưa nhận rõ đâu là căn nguyên sinh ra những sai lầm hoặc thiếu sót của các triết gia kia; thực vậy, điểm quan trọng và nồng cốt trong hệ thống triết học Kant không phải là phần một, phần hai hay phần ba cuốn Phế bình lý trí thuần túy vì dầu sao cuốn Phế bình lý trí thuần túy chưa phải là chìa khóa mở vào hệ thống tư tưởng Kant. Mặc dầu sự quan trọng của nó, cả về khối lượng và cả về sâu sắc, cuốn Phê bình lý trí thuần túy chỉ là phần dự bị của triết học Kant, như chính Kant đã nhắc đi nhắc lại [18]. Vậy cuốn nào phải được coi là then chốt và chính yếu trong ba cuốn Phê bình làm nên tòa nhà tư tưởng triết học Kant? Ba cuốn phê bình này là: Phê bình lý trí thuần túy, Phê bình lý trí thực hành, và Phế bình khả năng phán đoán. Chính Hégel là người đầu tiên đã nhìn nhận rằng cuốn Phê bình lý trí thực hành là phần trụ chốt của hệ thống triết học Kant. Tiếc thay, Hégel và những học giả sau này đã không nhớ điều đó khi tìm hiểu triết học Kant. Mà Kant đã nêu điều này thực rõ nơi đầu bài Tựa cuốn Phê bình lý trí thực hành “Quan niệm tự do, xét như đó là một thực tại được chứng minh bởi lý trí thực hành, làm nên trụ chốt của tất cả tòa nhà hệ thống lý trí thuần túy, cả của lý trí lý thuyết nữa”[19]. Ai cũng công nhận cuốn Phê bình lý trí thuần túy là một kỳ công vĩ đại của Kant và của tư tưởng nhân loại nói chung. Ai cũng chịu là cuốn này sâu sắc và khó hiểu. Phải chăng nhân đấy mà nhiều triết gia cũng như học giả trước đây đã dừng lại ở cuốn đó, và là nạn nhân của cái thế “cây to che khuất cả rừng”? Phải chăng người ta đã dừng lại ở cuốn đó cũng vì hai thế https://thuviensach.vn kỷ XIX và XX đã choáng váng vì chủ nghĩa khoa học, nên đã hiểu triết Kant theo lối một học thuyết đề cao tri thức? Dầu sao cũng phải đợi những năm gần đây người ta mới nhận ra ý hướng của triết học Kant và phục hồi địa vị quan trọng cho cuốn Phê bình lý trí thực hành: đó là kết quả những nghiên cứu của N. Hartmann, H. Heimsoeth, A. Baeumler, J.Ebbinghaus, G. Krueger, E. Weil, G. Deleuze, J. Vuillemin v.v... Nhờ những nghiên cứu và những nhận định xác đáng của các triết gia này, người ta đã có một cái nhìn đích đáng về triết học Kant: triết học Kant không còn là thứ triết đề cao tri thức như người ta vẫn tưởng lầm nữa, nhưng là triết tìm hiểu ý nghĩa và bổn phận làm người của ta. Đúng như J. Lacroix viết: Kant đã thay thế triết học tri thức của Hy Lạp bằng triết học bổn phận của ông [20]. Chỉ trong hướng đi này, nghĩa là chỉ khi nào người ta nhìn chung tất cả hệ thống Kant, với 3 cuốn “Phê bình” của nó, người ta mới hy vọng tìm ra ý nghĩa thực sự của triết học con người của Kant. Cuốn Phê bình lý trí thuần túy không còn là một mảnh rời rạc, hoặc một hệ thống đóng kín không dành chỗ nào cho hai cuốn Phê bình kia, nhưng trái lại người ta sẽ thấy Kant là một kiến trúc sư tài tình và tỉ mỉ đã xếp đặt ba cuốn Phê bình căn bản của ông thành một tòa nhà kiên cố và tráng lệ, thực tế và nhân đạo. Cuốn Phế bình lý trí thuần túy đã được viết để vạch giới hạn cho lý trí con người, với mục đích chứng tỏ cho con người biết không thể dùng tri thức khoa học là sản phẩm của kinh nghiệm để đạt tới những đối tượng của Siêu hình học. Trái với sự nhiều người thường nghĩ, Kant không hề đề cao hoặc suy tôn khoa học. Ngược lại, ông đã chỉ nghiên cứu cặn kẽ về tri thức khoa học để đưa ra nhận định cuối cùng: tri thức khoa học là thứ tri thức hiện tượng, cấu tạo bằng quan niệm và trực giác, bởi vậy tri thức này không thể vươn lên khỏi thế giới kinh nghiệm giác quan, và như vậy không thể trở thành tri thức siêu hình học. Đã vậy, khoa Siêu hình học không thể nuôi mãi hoài vọng trở thành một khoa theo kiểu những khoa học thực nghiệm: nó phải đi con đường riêng của nó, một con đường mà từ trước đến nay nó vẫn chưa bao giờ nghĩ tới. Con đường này, chính cuốn Phê bình thứ hai, tức Phê bình lý trí thực hành sẽ vạch ra cho con người: nếu con người là một vật có lý https://thuviensach.vn trí, thì chỉ trong lãnh vực của lý trí con người mới thực sự sinh hoạt theo đúng cương vị của mình, còn như trong lãnh vực thực nghiệm thì con người vẫn bị chi phối bởi những hiện tượng như những động vật khác. Con người của thế giới hiện tượng, tức thế giới khả nghiệm, là đồng bang của các vật trong thế giới hữu hình. Vậy chỉ có một nẻo duy nhất để con người tiến lên lãnh vực riêng biệt của mình: đó là lãnh vực luân lý và sinh hoạt đạo đức. Một con người sinh hoạt theo lý trí sẽ nhất thiết sống tự do, không còn bị chi phối bởi cảm giác và nhục dục; đã sống tự do, con người sẽ nhận ra địa vị của mình và nhân vị của tha nhân, đồng thời con người sẽ nhận thấy Thượng Đế trên đầu mình. Đó là đại khái tương quan giữa hai cuốn Phê bình thứ nhất và thứ hai. Cuốn Phê bình thứ ba, tức Phê bình khả năng phán đoán, sẽ làm công việc môi giới giữa hai cuốn trước, giữa tri thức và thực hành, giữa lý trí và cảm giác. Triết Kant là triết con người bị cắt xé giữa tinh thần và thể xác, giữa lý trí và cảm giác. Điều này ai cũng thấy, nhưng ít ai để ý tới vai trò “giải thoát” của cuốn Phê bình thứ ba, trong đó Kant bàn tới vài hình thức văn hóa có khả năng giải thoát con người và dần dần giúp con người vươn lên khỏi những ràng buộc của giác quan hòng tiến tới những thực tại siêu hình. Trước hết, trong phần có nhan đề “Thẩm mỹ học” Kant bàn đến mỹ thuật và coi đó là hình thức của một sự hoà hợp giữa lý trí và cảm giác, vì cảm giác nghệ thuật có tính chất vô vị lợi, không bị ràng buộc bởi những kích thích chất thể của tác phẩm nghệ thuật, nhưng chỉ say mê cái hình thức tuyệt hảo của nghệ phẩm. Kant gọi thế là một cảm giác đã được thanh tẩy để có thể liệt vào lãnh vực lý trí. Cũng vậy, trong phần “Đạo đức học”, tức phần hai của cuốn Phê bình khả năng phán đoán, Kant nói đến niềm kính phục như nói đến một hình thức tình cảm đã được thanh tẩy khỏi mọi tì vết của cảm giác xấu: đây là một tình cảm không thiên tư và không vị kỷ, do đây được coi là một tình cảm hoàn toàn hợp lý. Kant đã coi khả năng phán đoán như chiếc cầu dẫn con người từ lãnh vực tình cảm sang lãnh vực lý trí, từ lãnh vực nhận thức sang lãnh vực đạo đức. Tuy nhiên từ lãnh vực đạo đức sang lãnh vực tôn giáo còn cả một vực thẳm. Kant đã quá kỳ vọng lý trí con https://thuviensach.vn người để vượt qua vực thẳm này. Nhưng hiện còn quá sớm để bàn về điểm tế nhị này. Người ta thường nói: muốn hiểu một cuốn sách khó, cần phải đọc ngược lại. Nói thế nghĩa là cần phải có thể đọc xuôi và đọc ngược, và tất nhiên đó là chuyện chỉ có thể làm khi nào người ta rất quen với một khu rừng hay một khu nhà thì mới có thể đi ngược đi xuôi mà không sợ lạc. Đối với triết học Kant cũng thế, nhiều tác giả, kể cả những vị được coi là thầy dạy của một thế hệ, - đã bị cái nạn “cây to che khuất cả rừng”: họ đã vấp phải cuốn Phê bình lý trí thuần túy, họ đã dừng lại đó và coi đó là tất cả triết học Kant. Cũng vì triết của Kant quá mới mẻ đối với họ, và cũng quá sâu xa, nên cần nhiều thế hệ và nhiều triết gia tài ba mới nắm được đường dây truyền và mới nhận ra thực chất của tư tưởng ông. Ngày nay, sau những nghiên cứu mới đây của nhiều triết gia và học giả, người ta đã đồng ý nhau về những điểm mà xưa kia không thể có sự đồng ý. Heidegger đã nói lên điểm then chốt của triết học Kant khi ông nhắc lại nguyên văn một câu của Kant trong cuốn Phê bình lý trí thuần túy. “Tất cả sự chú tâm của lý trí lý thuyết và thực hành đều thâu gồm trong 3 câu hỏi này: 1. Tôi có thể tri thức gì? 2. Tôi phải làm gì? 3. Tôi có quyền hy vọng gì? [21]. Hơn nữa, như chính Heidegger đã nhắc lại một đoạn sách khác của Kant, mục đích của Kant không phải là tri thức, nhưng chỉ dùng tri thức làm bàn đạp để tiến sang lãnh vực sinh hoạt, cho nên 3 vấn đề trên đây lại được Kant quy về một vấn đề duy nhất là vấn đề con người: “Kant đã viết trong phần nhập đề cuốn Luân lý của ông về quan niệm triết học của ông như sau: “Lãnh vực của triết học quy về bốn câu hỏi này: 1. Tôi có thể tri thức gì? 2. Tôi phải làm gì? 3. Tôi có quyền hy vọng gì? 4. Con người là gì?”. Và Kant thêm: “Tất cả chỉ là vấn đề con người, bởi vì ba câu hỏi trên cũng quy về câu thứ bốn” [22]. Như vậy, tất cả chỉ là vấn đề con người. Tất cả con người, và chỉ con người thôi. Kant muốn giúp con người nhận ra địa vị cùng là cách sống xứng với con người: con người phải sống cái bản chất của mình là một sinh vật có lý trí, đừng sống theo cảm giác như những vật thiếu lý trí. Nhưng https://thuviensach.vn đàng khác Kant không muốn cho triết học bị chi phối bởi những định đề của thuyết Duy tâm, một thuyết đã gán cho con người những khả năng mà thực ra con người không bao giờ có được. Người ta đã nhiều lần gọi triết Kant là “triết học về nhiệm vụ” với nghĩa rằng Kant muốn con người tránh cả hai con đường làm sẵn của Duy nghiệm và Duy trí. Duy nghiệm muốn con người chỉ là cảm giác, là phản ứng, hoàn toàn sống theo kích thích của ngoại vật, không cần suy tính chi hết: theo ý đó, con người sẽ hoàn toàn tất định như các vật khác trong thiên nhiên. Nhưng Duy tâm cũng nguy hiểm không kém: từ Platon đên Descartes, triết Tây phương vẫn dành cho con người quá nhiều khả năng tri thức, đồng thời Socrate lại dành cho con người quá nhiều “tính bản thiện” đến nỗi theo ông và truyền thống Hy lạp thì “người phạm tội chỉ là một người thiếu tri thức chính xác”. Theo hướng này, con người đã quá lâu lầm tưởng mình là một vị thần sa cơ, từ trời rơi xuống cõi trần. Kant đã ra sức phá đổ những mơ hồ đó: ông dạy cho con người biết mình chỉ có thể có tri thức con người, một tri thức giới hạn và bắt đầu với kinh nghiệm giác quan. Con người không có tri thức của thần linh, và cũng không có tri thức về thần linh (linh hồn và Thượng Đế) nếu tri thức được hiểu theo nghĩa tri thức thực nghiệm của khoa học. Đừng vội tưởng rằng làm thế Kant đã thu hẹp giá trị tinh thần của sinh hoạt con người. Trái lại, vì tri thức thuộc lãnh vực tri giác, cho nên tri thức khoa học luôn có tính chất tất định; còn như tri thức ta có về thiện ác và sinh hoạt đạo đức (về linh hồn và Thượng Đế) thì siêu việt và tự do, chứ không tất định như tri thức khoa học thực nghiệm. Kant nói: giả tỉ sinh hoạt đạo đức của ta cũng bị chi phối bởi tri thức thực nghiệm thì đó không làm vinh dự con người, nhưng sẽ đặt con người đồng hàng với những chiếc máy và những con vật trong lãnh vực thiên nhiên và của luật tất định. Kant có đạt được nguyện vọng đó không ? Muốn trả lời một cách công bình, cần phải hiểu hệ thống triết học Kant đã. Và hệ thống đó được ông xây dựng nơi ba cuốn Phê bình căn bản của ông. Chúng ta sẽ theo cùng một đường lối và trật tự như Kant. Chúng ta sẽ lần lượt bàn đến ba vấn đề then chốt của triết học Kant về con người. Trước hết là vấn đề tri thức: tri thức https://thuviensach.vn con người thuộc loại tri thức nào? Con người có thể tri thức những gì? Và không thể tri thức những gì? Đó là nội dung cuốn Phê bình lý trí thuần túy. Thứ đến chúng ta sẽ tìm hiểu vấn đề sinh hoạt đạo đức của con người: hành vi đạo đức khác hành vi vô luân ở chỗ nào? Tri thức khoa học và tri thức đạo đức khác nhau thế nào ? Châm ngôn và luật đạo đức khác nhau làm sao ? Kant giải quyết vấn đề linh hồn và Thượng Đế thế nào ? Đó là nội dung cuốn Phế bình lý trí thực hành. Sau hết, để giải quyết những mâu thuẫn giữa lý trí và cảm giác, giữa đối tượng của cuốn Phê bình lý trí thực hành và đối tượng của cuốn Phê bình lý trí thuần túy, Kant đã viết cuốn Phê bình khả năng phán đoán, trong đó ông đi sâu vào công việc phân tích sinh hoạt thực tế của con người: chính nơi sinh hoạt, mọi mâu thuẫn sẽ được giải quyết vì thực ra không có mâu thuẫn trong sinh hoạt. Những gì được coi là mâu thuẫn trong các quan niệm vẫn thường không thấy hiệp nhất với nhau trong sinh hoạt. Kant chú ý đến hai hình thức, một của Thẩm mỹ học, hai của Đạo đức học. Trong Thẩm mỹ học, ta gặp cái Đẹp thuần túy: theo Kant, đây là một hình thái cảm giác không vương một khoái cảm ích kỷ nào, vì thế ta mới gọi đó là một cái đẹp lý tưởng. Đẹp mà không xui nên những thích thú đê tiện và ích kỷ: đó thực là một cảm giác được thanh lọc hết những vẩn đục của giác quan để chỉ còn giữ lại “hình thức” của cảm giác thôi. Kant coi đây là một cảm giác theo lý trí, một cảm giác hợp lý hơn là bị chi phối bởi dục tính. Sự “cảm phục” cũng lại là một hình thái cảm giác “thuần túy” nữa: đó là tình cảm mà ta có khi đứng trước một hành vi cao cả, dầu hành vi này là của kẻ thù ta. Như vậy, sự Thiện đây (cũng như cái Mỹ trên này) quả thực là một cái Thiện “thuần túy”, không bị chi phối bởi những tình cảm riêng tư vị kỷ. Các học giả đồng ý về chỗ Kant coi cảm phục là bước đầu của sinh hoạt tôn giáo. Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy trong phần phê bình sau này, Kant đã không coi tôn giáo như một hệ luận của triết học: từ niềm tin triết học sang tới tôn giáo, còn cả một quãng cách xa vời như một vực thẳm. Chính chỗ này Kant đã được J. Lacroix kính phục và coi triết Kant là một triết học gần với tư tưởng Thiên Chúa giáo https://thuviensach.vn [23]. Kant hết sức kính trọng sinh hoạt tôn giáo của mỗi người: tôn giáo là một sự dấn thân trọn vẹn nhất, hơn cả sự dấn thân trong đời sống luân lý. Một điểm nữa tưởng cũng nên nhớ để dễ hiểu triết học Kant và cũng là điều đã hiện ra thực rõ ràng qua mấy trang trên đây: Kant không phải là người phá đổ khoa siêu hình học như người ta đã hiểu lầm trước đầy. Trái lại ông là người đã hy sinh cả cuộc đời để xây dựng lại khoa siêu hình. Người ta đã hiểu lầm và cho rằng ông phá đổ khoa siêu hình học chỉ vì ông quả quyết rằng không thể có khoa siêu hình học theo kiểu một khoa học thực nghiệm, và chỉ có thể có khoa siêu hình học xây trên lý trí thực hành, tức lý trí đạo đức thôi. Tóm lại, theo ông, không thể có khoa siêu hình học theo kiểu triết Hy Lạp cổ truyền, một thứ siêu hình học duy trí, xây dựng trên lý trí lý thuyết tức lý trí con người vẫn dùng để tri thức vạn vật và xây dựng khoa học thực nghiệm: tự do của con người cũng như các hành vi nhân linh của ta là những thực tại không thể dùng các khoa học thực nghiệm để nghiên cứu, nhưng phải dùng sự suy luận độc lập của lý trí thực hành. Vĩnh Long, hè 1968 https://thuviensach.vn [13] HEIDEGGER, Kant et le problème de la métaphysique, bản dịch Pháp văn, Gallimard 1953, tr. 57 và 255-257. https://thuviensach.vn [14] Coi Cl. LÉVI-STRAUSS, Le cru et le cuit, Plon 1964, tr. 19 https://thuviensach.vn [15] M.FOUCAULT, Les mots et les choses, Gallimard 1966, tr. 255,352,396. https://thuviensach.vn [16] G.KRƯEGER, Crilique et Morcile chez Kant, bản dịch Pháp văn của M. Régnier, Beauchesne 1961, tr. 23 https://thuviensach.vn [17] J. VU1LLEMIN, ưhéritaịỊe kantien et la révolution copernicienne, PUF. 1954. https://thuviensach.vn [18] Crìtique de la raison pure, bản dịch Tremesaygues và Pacaud, PUF1950, tr. 21, 46 và 563 https://thuviensach.vn [19] Critỉque de la raisơn pratíque, bản dịch F. Picavet, PUF 1949, tr.l https://thuviensach.vn [20] LACROIX, Kant et le kantisme, PUF 1966, tr.121: “ La sagesse passe du savoir au devoir”. https://thuviensach.vn [21] Raison Pure, tr. 543 https://thuviensach.vn [22] HEIDEGGER, Kcmt et le problème de la métaphysique, tr. 264 https://thuviensach.vn [23] J. LACROIX, Sd, tr. 76 và 87 https://thuviensach.vn PHẦN THỨ NHẤT SINH HOẠT TRI THỨC CỦA CON NGƯỜI? Kant được coi là người đầu tiên trong lịch sử loài người đã đứng ra nghiên cứu về khả năng cũng như giới hạn của tri thức con người. Như ông đã nhắc đi nhắc lại, ông không muốn mất thời giờ để phê bình học thuyết này chủ nghĩa kia, cuốn sách này hay khảo luận khác, nhưng ông nhắm phê bình chính công việc và khả năng tri thức của lý trí con người mọi nơi và mọi thời. Ông đã làm công việc này trong cuốn Phê bình lý trí thuần túy. Đây là cuốn đầu trong một bộ ba cuốn Phê bình đúc thành hệ thống triết học Kant. Đây cũng là cuốn sách dày nhất và khó hiểu nhất. Phải chăng vì thế nhiều người đã dừng lại ở đây, không đi xa hơn được nữa để cùng với Kant nhìn xem toàn hệ thống ? Phải chăng vì thế người ta đã vội coi cuốn Phê bình lý trí thuần túy là tất cả triết học Kant ? và rồi quả quyết rằng, đối với Kant, không thể có khoa Siêu hình học. Thực ra, nếu dừng lại nơi cuốn Phê bình lý trí thuần túy này, người ta rất có thể có cảm tưởng rằng không thể có khoa Siêu hình học, bởi vì chủ ý của Kant trong cuốn này là chứng minh rằng không thể có khoa Siêu hình học theo kiểu một khoa học thực nghiệm. Tuy nhiên người ta quên rằng, đối với Kant, cuốn Phê bình lý trí thuần túy mới chỉ là dự bị dẫn vào triết học của ông thôi. Chính cuốn Phê bình lý trí thực hành mới là trung tâm và then chốt, và nơi đó Kant đã xây dựng khoa Siêu hình học trên những nền tảng mới. Sinh hoạt tri thức là phần sinh hoạt quan trọng trong đời sống con người. Nhưng con người có khả năng tri thức tất cả mọi sự không ? Bởi vậy Kant mời ta đọc cuốn Phê bình thứ nhất của ông với tinh thần thận trọng của ông. Ông viết: “Lý trí cần phải lo tính công việc khó khăn hơn cả là tự biết mình, thiết lập một tòa án để bảo đảm những yêu sách chính đáng cũng như để lên án những chiếm đoạt vô bằng của lý trí, và không thực thi công việc này một cách tự nhiên, nhưng là chiếu cố những định luật ngàn đời và bất di bất dịch. Tòa án đó chính là cuốn Phê bình lý trí thuần túy này vậy. Tôi không https://thuviensach.vn có ý phê bình những sách vở hoặc những hệ thống tư tưởng, nhưng nhắm phê bình chính khả năng tri thức của lý trí nói chung, xem lý trí có thể đạt tới những tri thức nào, bất kể nó dùng đến thứ kinh nghiệm nào: làm thế để giải quyết vấn đề có thể hay không có thể có một khoa Siêu hình học nói chung, và xác định nguồn gốc, phạm vi cùng là giới hạn của lý trí. Và phải làm tất cả những công việc này theo đúng nguyên tắc” [24]. Kant đã nói rõ chủ đích của ông như thế khi xuất bản lần thứ nhất cuốn Phế bình lý trí thuần túy. Cũng như Descartes, ông muốn đi ngay vào chính sự, mà chính sự không phải là học thuyết này hay chủ nghĩa kia, nhưng là chính lý trí con người xét như đó là nguồn gốc mọi học thuyết và chủ nghĩa. Cho nên vấn đề Kant muốn giải quyết là: theo khả năng tri thức của con người, thì có thể có khoa siêu hình học không? Nghĩa là con người có tri thức về những thực tại siêu hình như linh hồn và Thượng Đế không ? Khi tái bản cuốn Phê bình này, Kant còn viết rõ hơn về ý định của ông khi soạn cuốn sách vĩ đại này: “Cuốn Phê bình lý trí thuần túy chỉ là một biên khảo về phương pháp luận, chứ không phải một hệ thống khoa học. Tuy nhiên nó cũng vạch ra tất cả phạm vi của lý trí, xét về phương diện cơ cấu nội tại và giới hạn của lý trí, bởi vì lý trí lý thuyết thuần túy có đặc tính này là có thể và phải đo lường cho đúng cái khả năng của mình theo những cách thế nó đã chọn đối tượng tri thức của nó: như vậy lý trí có thể kê khai tất cả những cách đặt vấn đề, đồng thời nó có thể tự vạch ra một kế hoạch về một hệ thống siêu hình học” [25]. Không thể nào nói rõ hơn: ý định của Kant là dùng cuốn Phê bình lý trí thuần túy như một phương pháp luận để tìm ra câu trả lời cho vấn đề có thể có khoa Siêu hình học không, và nếu có thì khoa đó sẽ phải như thế nào. Ý định của Kant là một ý định thành thực, và ông đã thành tâm theo đuổi đến cùng. Cũng vì không nhận ra chủ đích và sự thành tâm của Kant nên có thời người ta đã xếp ông vào loại các triết gia chủ trương thuyết Bất tri (Agnosticisme) với nghĩa con người không thể biết gì về linh hồn và Thượng Đế. Sự thực ngược lại: Kant đã lần lược dùng phương pháp phê bình để phá đổ cả Duy vật lẫn Duy tâm. Nếu ông chống lại thuyết hoài nghi https://thuviensach.vn của Hume, thì ông cũng gắt gao lên án thuyết giáo điều của Wolf. Ông đã trả lại cho tri thức con người cái bản chất riêng của nó: con người không chỉ là thân thể, và tri thức con người không dừng lại ở nấc những tri thức thường nghiệm lẻ tẻ, thiếu nguyên tắc và thiếu chắc chắn, như chủ trương của Hume. Nhưng con người cũng không phải “chị em của chư thần” như chủ trương của Platon, hoặc là “tinh thần thuần túy” như chủ trương của Descartes. Kant là triết gia đầu tiên đã phân biệt rõ ràng thế nào là tri thức và thế nào là suy tưởng. Ông còn là người phân biệt rõ ràng giữa hai loại tri thức của con người: tri thức thường nghiệm và tri thức thực nghiệm, tri thức vụn vặt của người đường phố và tri thức chứng minh của nhà bác học. Tóm lại trong khi Descartes lẫn lộn tri thức với quan niệm, và Hume còn đồng hóa tri thức với cảm giác, thì Kant quả quyết: tri thức con người phải luôn luôn có đủ hai yếu tố quan niệm và cảm giác. Thiếu cảm giác, những quan niệm của ta chỉ là quan niệm rỗng tuếch, không đáng gọi là tri thức ; và thiếu quan niệm, thì những cảm giác của ta sẽ chỉ là những cảm giác mù, nghĩa là cảm giác mà không biết là cảm giác gì [26]. Tóm lại, con người không có tri thức của chư thần, nên khi thiếu cảm giác, tức tri giác giác quan, những quan niệm của ta không thể gọi là tri thức, nhưng chỉ là những ý tưởng suông, thí dụ ý tưởng về một hình vạn giác. Ngược lại, ta cũng không thể có những cảm giác thuần túy, nghĩa là những cảm giác mà không rõ là cảm giác gì: Kant gọi mỉa mai đó là những cảm giác mù tịt. Như vậy tri thức con người đứng vào giữa hai thứ đó, giữa tri thức thần linh của chư thần, một tri thức không nhờ đến cảm giác, và cảm giác thuần túy không kèm theo tri thức như ta có thể thấy nơi súc vật. Với cái tri thức lưỡng diện đó, vừa là quan niệm vừa là cảm giác, con người có thể có khoa Siêu hình học được không ? Kant đã trả lời ta trong cuốn Phê bình lý trí thuần túy. Đại để ông đã nêu lên và giải quyết 3 vấn đề sau đây trong đó có một vấn đề dự bị và hai vấn đề chính yếu: 1. Thế nào là một tri thức khoa học đích thực? 2. Khả năng và cơ cấu của tri thức con người, 3. Giới hạn của tri thức con người. https://thuviensach.vn [24] Raison pure, tr. 7 https://thuviensach.vn [25] Raison pure, tr. 21 https://thuviensach.vn [26] Raison pure, tr. 77 https://thuviensach.vn CHƯƠNG I THẾ NÀO LÀ MỘT TRI THỨC KHOA HỌC? Thực ra đây không phải là một vấn đề chính, nhưng vì Kant muốn giải quyết vấn đề khả năng tri thức con người, nên ông đã buộc lòng phải bắt đầu từ chỗ phân biệt thế nào là tri thức đích thực, tức tri thức khoa học thực nghiệm, và thế nào là tri thức thông thường, tức tri thức thường nghiệm. Kant viết: “Tất cả mọi tri thức của ta bắt đầu VỚI kinh nghiệm ... Nhưng nói thế không có nghĩa là tri thức của ta hoàn toàn DO kinh nghiệm đâu, vì trong tri thức ta còn có phần trí năng không lệ thuộc vào kinh nghiệm”[27]. Như vậy giữa tri thức khoa học và tri thức thông thường có một sự khác biệt lớn lao: một bên hoàn toàn thụ động, “như cậu học trò ngoan ngoãn nghe bất cứ điều gì ông thầy nói”, còn một bên giống “như ông quan tòa dùng phương pháp để tra hỏi những gì ông muốn biết” mặc dầu hiện thiên nhiên vẫn giấu giếm ta [28] Về tri thức thông thường, Kant viết: “Kinh nghiệm cho ta biết sự vật nó thế này hay thế nọ, nhưng không thể cho ta biết sự vật có thể là thế khác chăng”[29]. Nghĩa là kinh nghiệm thông thường chỉ cho ta biết cái mà ta đã nghiệm: thấy thế nào thì biết như thế. Bởi vậy tri thức thông thường luôn có tính chất vụn vặt, lẻ tẻ và hạn hẹp vào từng sự kiện ta đã kinh nghiệm. Trái lại tri thức thực nghiệm, cũng gọi là tri thức khoa học vượt tới mức phổ quát và tất yếu, bao trùm lên tất cả mọi trường hợp có thể xảy ra giống như vậy. Tri thức này, theo Kant, không do kinh nghiệm mà có, vì kinh nghiệm bị hạn hẹp vào từng cái ta đã nghiệm: vậy cái vượt lên trên những sự kiện lẻ tẻ bao quát cả một loại sự kiện như thế phải do một nguồn khác, và nguồn đó là trí năng con người. Chính trí năng đã dự đoán và chứng nghiệm để đạt tới tri thức thực nghiệm: Kant gọi loại tri thức này là tri thức tiên thiên. Ông viết: “Như vậy, nếu một mệnh đề (tức một phán đoán) hàm nghĩa một tính chất tất yếu, thì chắc đó là một phán đoán tiên thiên. Thứ đến, không bao giờ kinh nghiệm có thể ban cho các phán đoán một tính chất phổ quát thực sự, nhưng chỉ là thứ phổ quát giả tỉ và tương đối như kiểu: qua những lần https://thuviensach.vn quan sát chúng tôi không thấy một trường hợp ngoại trừ nào đối với định luật này” [30]. Như vậy tri thức khoa học đã bỏ bình diện những kinh nghiệm lẻ tẻ của tri thức thông thường để vươn tới bình diện hình thức, tức bình diện lý thuyết. Điều nên nhớ là kinh nghiệm thông thường không có khả năng dạy ta một lý thuyết hoặc ban cho ta một tri thức phổ quát và tất yếu, vì kinh nghiệm chỉ hạn hẹp trong cái mà ta kinh nghiệm thôi. Cho nên tri thức khoa học, cùng với hai đặc tính của nó là phổ quát và tất yếu, thuộc loại tri thức tiên thiên, đúng như Kant viết: “Tính chất tất yếu và tính chất phổ quát thực sự là những dấu hiệu chắc chắn của một tri thức tiên thiên, và hai tính chất này không khi nào lìa nhau” [31]. Tóm lại tri thức đích thực, tức tri thức khoa học bao giờ cũng chắc chắn vì tất yếu và phổ quát, và được áp dụng một cách tiên thiên tuyệt đối cho tất cả các trường hợp có thể xảy ra. Dưới đây, khi bàn về các khoa học như Toán, Luận lý và Vật lý, Kant sẽ trở lại vấn đề này dưới một khía cạnh khác: ông sẽ gọi các tri thức tiên thiên này là “những mệnh đề tổng hợp tiên thiên”. Nhân đó chúng ta sẽ xem đến bản chất những mệnh đề tổng hợp tiên thiên, một vấn đề khá quan trọng của cuốn Phê bình lý trí thuần túy. Thế nào là một mệnh đề tổng hợp tiên thiên ? Để hiểu vấn đề này, cần biết Kant phân các phán đoán, hay mệnh đề, làm hai loại: những mệnh đề phân tích và những mệnh đề tổng hợp. Nơi những mệnh đề phân tích, thì thuộc từ đã nằm sẵn trong chủ từ rồi, và chỉ cần dùng phân tích là có thể lôi nói ra. Chẳng hạn câu “Tất cả các vật thể đều có khối lượng” là một mệnh đề phân tích, vì quan niệm khối lượng (masse) đã nằm sẵn trong quan niệm vật thể: nghĩ đến vật thể là nghĩ đến một cái gì có trường độ và khối lượng. Cho nên mệnh đề phân tích không mang lại một cái gì mới cho ta. - Trái lại nơi những mệnh đề tổng hợp, thuộc từ là một cái gì hoàn toàn mới do ta thêm vào cho chủ từ: thí dụ câu “Tất cả các vật thể đều có trọng lượng” là một câu tổng hợp, vì quan niệm trọng lượng không nhất thiết nằm trong quan niệm vật thể. Trọng lượng là quan niệm ta có khi nghĩ đến tương quan giữa một vật thể và trái đất chẳng hạn, thành thử khi không còn tương quan này nữa thì sẽ không có trọng lượng (đó là trường hợp vô trọng lượng của https://thuviensach.vn các phi hành gia). Như vậy mệnh đề tổng hợp có mang lại một cái gì thật sự mới, cho nên Kant nói đối với mệnh đề phân tích, chúng ta không ra khỏi nội dung của quan niệm ta có về chủ từ, còn đối với mệnh đề tổng hợp ta phải ra ngoài nội dung đó để đón một cái gì khác. Hơn nữa, ông còn gọi các mệnh đề phân tích là mệnh đề giải thích, bởi vì chỉ nói nêu rõ lên những gì đã hàm chứa sẵn trong quan niệm ta có về chủ từ, - còn mệnh đề tổng hợp là mệnh đề kinh nghiệm, vì chỉ có kinh nghiệm mới dạy ta biết thôi. Tuy nhiên cái khó là làm sao có thể có những mệnh đề tổng hợp tiên thiên ? Như ta biết, Kant còn phân các mệnh đề tổng hợp thành hai thứ: những mệnh đề tổng hợp hậu nghiệm và những mệnh đề tổng hợp tiên thiên. Ta vừa thấy ông viết: “Tất cả các phán đoán về kinh nghiệm đều là những phán đoán tổng hợp” [32]. Như vậy ta dễ dàng chấp nhận những mệnh đề tổng hợp hậu nghiệm bởi vì chính kinh nghiệm dạy cho ta biết. Còn như nói tổng hợp mà tiên thiên thì hiểu thế nào được ? Chưa có kinh nghiệm mà đã có tổng hợp được sao? Nhưng nếu không là tổng hợp tiên thiên, thì không trở thành tri thức khoa học được ! Kant đã giải nghĩa thế nào về những mệnh đề tổng hợp tiên thiên này? ông đã đưa ra câu “Tất cả mọi biến cố đều có nguyên nhân của nó”, và ông nói đây là một nguyên lý có tính chất một tri thức tiên thiên: mỗi khi ta thấy nguyên nhân A, ta cũng thấy luôn hậu quả B. Nhưng ta dựa vào cái gì, cái X nào, để quyết rằng A và B liên kết một cách tất yếu và phổ quát? Tất nhiên ta không thể dựa vào kinh nghiệm vì kinh nghiệm chỉ cho ta biết từng sự kiện. Hơn nữa chính kinh nghiệm cũng dựa vào một cái gì vượt quá tri thức giác quan, tức là quá kinh nghiệm: khi tôi thấy nguyên nhân A thì hậu quả B chưa có, và khi tôi thấy B thì có khi A không còn. Bởi vậy Kant viết “Trí năng ta dựa vào cái X nào để quyết rằng quan niệm B, một quan niệm xa lạ với quan niệm A, lại nhất thiết gắn liền với quan niệm A? Chắc chắn là không dựa vào kinh nghiệm, bởi vì không những nguyên tắc X kia phổ quát hơn tất cả những gì kinh nghiệm có thể mang đến cho ta, nhưng nó còn có tính chất tất yếu nữa; thành thử trí năng ta hoàn toàn chỉ dựa trên tiên thiên và trên những quan https://thuviensach.vn niệm mà thôi” [33]. Kant sẽ trở lại vấn đề này trong phần phân tích các nguyên tắc sau này. Dưới đây Kant lần lượt khảo sát qua những khoa học đã thành hình như Luận lý học, Toán học, Vật lý học để chứng minh rằng các khoa này đều xây dựng trên những mệnh đề tổng hợp tiên thiên. A. TÍNH CHẤT KHOA HỌC CỦA KHOA LUẬN LÝ: Khoa này đã trở thành khoa học thực thụ từ lâu, ít là từ thời Aristote. Được thế cũng bởi vì khoa này bỏ qua những câu luận lý cụ thể và thông thường để chú tâm nghiên cứu những hình thức phổ quát người ta có thể dùng mỗi khi luận lý. Khoa Luận lý đã nghiên cứu tỉ mỉ những luật lệ cùng là những khuôn mẫu (hình thức) mà nhất định ai cũng phải dùng một cách tiệm nhiên mỗi khi lý luận: nhân đó khoa Luận lý đã được mệnh danh là Luận lý học hình thức (Logique formelle). Kant viết: “Khoa Luận lý đã theo con đường vững chắc của khoa học thực thụ từ thời xa xưa, cho nên nguyên một sự từ thời Aristote đến nay nó không buộc phải lui một bước nào cũng chứng minh điều đó. Điều chúng ta phải khâm phục nơi khoa học này là cho tới nay nó không thể tiến thêm một bước nào nữa: đó là dấu nó đã tới mức toàn hảo và thành tựu” [34]. Tại đâu nó thành tựu như thế ? Kant cho biết là tại vì nó đã đi vào cuộc cách mạng của các khoa học: bỏ cách làm việc thông thường để noi theo phương pháp thuần túy tiên thiên, đúng như Kant viết: “Khoa Luận lý đã thành công tốt đẹp như thế vì nó biết tự hạn chế, nghĩa là buộc mình bỏ qua tất cả các đối tượng tri thức cùng là những dị đồng của chúng, để trí năng chỉ chú tâm nghiên cứu về chính mình nó và hình thức của nó”[35]. Kant ca tụng khoa luận lý ở chỗ biết bỏ qua những đối tượng của tri thức thông thường để chỉ chú tâm vào những hình thức thuần túy của công việc luận lý. Càng ngày chúng ta sẽ càng thấy triết Kant đi sâu vào lối hình thức như thế, đào sâu tới khả năng cơ cấu phát sinh ra những tri thức cụ thể và thông thường. Tuy nhiên ông không đề cao Luận lý học như Aristote, nên ông chỉ coi luận lý học là khoa Dự bị và là tiền đường dẫn vào tòa nhà các khoa học thôi [36]. Tại sao? Tại vì khoa luận lý thuộc loại các khoa học suy diễn và giải thích, thành thử https://thuviensach.vn “khi bàn đến các khoa học, chúng ta cần khoa luận lý để đánh giá các khoa học đó, còn như muốn đạt tới các khoa đó thì ta phải đi vào chính các khoa đó” [37]. Khoa luận lý không giúp ta thêm tri thức, nhưng chỉ giúp ta giải nghĩa một cách mạch lạc và rõ ràng. Descartes cũng đã nghĩ như vậy. Nhân đó, muốn hiểu quan điểm của Kant về tri thức khoa học, cần phải xem xét kỹ càng những gì ông viết về các khoa Toán và Vật lý dưới đây, nhất là khoa Vật lý. Cũng vì thế khi bàn về các khoa học trong cuốn “Prolégomènes à toute métaphysique Ịuture qui pourra se présenter comme Science” (Sơ luận về tất cả những khoa Siêu hình học sau này muốn tự xưng là khoa học), Kant không nói gì đến khoa Luận lý nữa, mà chỉ nói đến các khoa Toán, Vật lý và Siêu hình học thôi. B. TÍNH CHẤT KHOA HỌC CỦA KHOA TOÁN HỌC. Trước hết Kant lưu ý ta về sự khác biệt giữa khoa Toán học và khoa Vật lý: “Toán học và Vật lý học là hai tri thức lý thuyết của lý trí có khả năng xác định đối tượng của mình một cách tiên thiên, nhưng khoa thứ nhất xác định một cách hoàn toàn thuần túy, còn khoa thứ hai phải dựa vào những nguồn khác nữa của tri thức chứ không chỉ dựa vào lý trí mà thôi” [38]. Như thế nghĩa là Toán học được xây dựng trên trực giác và không cần kinh nghiệm giác quan, còn khoa Vật lý thì cần đến tri giác, tức kinh nghiệm. Do đấy Kant gọi Toán học là loại khoa học trực giác (Sciences intuitives) và Vật lý là loại khoa học động lực (Sciences dynamiques): một cái không có tri giác và chuyển biến, một cái xây trên chuyển động và nguyên lý nhân quả. a) Trở lại bản chất thuần túy của khoa Toán, Kant viết: “Bản chất của khoa Toán học cho thấy điều kiện sơ khởi và tối hậu để có thể có khoa này là: nó phải được xây trên một trực giác thuần túy, nghĩa là nó có thể đưa ra những quan niệm vừa cụ thể vừa tiên thiên. Nói cách khác, khoa Toán học phải kiến tạo những quan niệm của nó” [39]. Khoa Toán học có thể, và còn phải kiến tạo những quan niệm của nó, chứ không lệ thuộc vào những đối tượng có sẵn ngoài thiên nhiên: có thế nó mới thực sự thuần túy và tiên thiên. Nó phải vẽ ra các hình theo quan niệm của nó: như thế gọi là kiến tạo đó. về vấn đề này Kant viết: “Từ những thời xa xưa, khoa Toán học nơi dân https://thuviensach.vn Hy Lạp đã bước vào con đường chắc chắn của khoa học. Đó không phải là điều dễ. Và tôi tưởng khoa này đã lần mò lâu, và sự thay đổi có tính chất quyết định này đã do một cuộc cách mạng mà thành. Cuộc cách mạng này do ý kiến một người và đã mở đường cho các thế hệ sau bước vào con đường chắc chắn của khoa học. Người đầu tiên (người này có tên là Thalès là gì không hệ) chứng minh được hình tam giác cân, quả thực tỏ ra đã có một sự mặc khải: ông thấy không cần theo sát từng nét của hình vẽ, cũng không cần trói mình vào quan niệm của hình đó như thể hình đó có thể dạy ông về những đặc tính của hình đó, nhưng chính ông phải thể hiện, tức kiến tạo hình đó theo như cái ông nghĩ về nó và nhờ những gì ông quan niệm về nó một cách tiên thiên. Và để tri thức một cách chắc chắn và tiên thiên bất cứ cái gì, ông chỉ cần gán cho sự vật tất cả những gì nhất thiết phải có đúng như quan niệm ông có về sự vật đó”. [40] Câu nói vừa đây của Kant rất quan trọng, cần được hiểu thấu đáo để dễ theo dõi tư tưởng của ông sau này. Vậy cuộc cách mạng Toán học ở chỗ Thalès hay một nhà Toán học nào đó đã không nghiên cứu toán học với những hình cụ thể, nhưng đã dùng những quan niệm tiên thiên để kiến tạo nên những hình để mà nghiên cứu. Và kiến tạo như thế một cách thuần túy, bằng quan niệm thôi. Như vậy không phải thiên nhiên cùng với những hình thể cụ thể đã dạy nhà toán học điều gì, nhưng chính nhà toán học đã dùng quan niệm tiên thiên của ông để tạo nên những hình mà ông nghiên cứu. b) Sau tính chất thuần túy và tiên thiên của Toán học, Kant nhấn mạnh về tính chất tổng hợp của khoa này. Tưởng cũng nên nhắc lại: đối với Kant, một phán đoán tổng hợp luôn mang lại một cái gì mới cho tri thức. Trong cuốn Phê bình lý trí thuần túy cũng như trong cuốn Sơ luận, chúng ta luôn gặp những câu như: “Theo bản chất của chúng, các phán đoán về kinh nghiệm đều là tổng hợp hết. Thực là phi lý nếu người ta phải dựa vào kinh nghiệm để xây dựng một phán đoán phân tích: để thực hiện những phán đoán phân tích người ta không cần ra khỏi quan niệm và như vậy không cần gì đến bằng chứng của kinh nghiệm”[41]. Trở lại vấn đề Toán học, ông viết: “Những mệnh đề toán học đều là tổng hợp tiên thiên”. Nói tổng hợp là nói https://thuviensach.vn rằng những cái đó có thực trong kinh nghiệm, và nói tổng hợp tiên thiên là nói thêm rằng những cái đó nhất thiết được thực hiện trong bất cứ trường hợp nào. Thí dụ: 7 + 5 = 12. Người ta có thể tưởng đó là một mệnh đề phân tích, nhưng theo Kant thì đó là một mệnh đề tổng hợp vì tổng số 12 không nằm sẵn trong số 7 và số 5. Cho nên tất cả các mệnh đề toán học và số học đều tổng hợp và tổng hợp tiên thiên. Kant còn lấy thí dụ định lý “Giữa hai điểm, đường thẳng là đường ngắn nhất” và bất cứ định lý hình học nào đều là những mệnh đề tổng hợp hết, vì trong quan niệm đường thẳng chỉ có phẩm tính “thẳng” thôi, không bao hàm ý nghĩa gì về lượng tính “ngắn nhất” hết. Bởi vậy khi nói “giữa hai điểm, đường thẳng là đường ngắn nhất” chúng ta thực sự đã ra khỏi quan niệm của đường thẳng để đạt tới một quan niệm mới nữa là quan niệm quãng cách, cũng như thí dụ trên kia “tất cả các vật thể đều có trọng lượng” chúng ta đã ra khỏi quan niệm về vật thể để tiến sang quan niệm tương quan giữa hai vật thể, bởi vì trọng lượng chính là sự vạn vật hấp dẫn nhau. Đến đây Kant đã chứng minh được rằng Toán học là khoa học gồm toàn những mệnh đề tổng hợp tiên thiên, liên can đến những hình thể và những tương quan giữa các hình đó, đúng như ta quan niệm một cách thuần túy tiên thiên về chúng. Với tính chất tổng hợp, Toán học là khoa học thực sự vì mang lại cho ta những tri thức mới mẻ. Với tính chất tiên thiên, Toán học đã kiến tạo nên các hình thể và xác định tất cả những tương quan có thể có nơi các hình đó, bao trùm tất cả những gì người ta có thể quan niệm và tưởng tượng về các hình đó. Nhân đó tri thức toán học là tri thức khoa học đích thực với hai đặc tính là phổ quát và tất yếu. c) Sau cùng Kant đặt vấn đề căn bản hơn nữa: ‘'Làm, sao có thể có khoa Toán học thuần túy ?”. Ông chỉ phớt qua vấn đề này trong cuốn Phê bình lý trí thuần túy, nhưng lại bàn luận tỉ mỉ nơi cuốn Sa luận. Ông không nêu lên vấn đề này vì khoa toán học, nhưng vì khoa Siêu hình học dưới đây: từ chỗ tìm ra nguồn gốc một khoa học, ông sẽ tiến sang chỗ tìm ra nguồn gốc tri thức khoa học nói chung, rồi từ đó bước sang giai đoạn cuối cùng là xác định khả năng và giới hạn của trí năng con người. Nói cách khác, chủ đích của ông là lập một tòa https://thuviensach.vn án để xác định quyền hạn của lý trí con người. Nhân đó, việc xem xét tính chất và nguồn gốc của Toán và Vật lý học nên được coi là những chuẩn bị cần thiết. Làm sao có thể có khoa Toán học thuần túy ? Kant trả lời: “Chúng ta đứng trước một tri thức vĩ đại đã được minh chứng sự bao la của nó thực là đáng kể và nó còn hứa hẹn một sự phát triển vô hạn trong tương lai. Nó đạt được tính chất chắc chắn hoàn toàn, nghĩa là một sự tất yếu tuyệt đối, bởi vì nó không dựa trên một nền tảng thường nghiệm nào hết: nó là một sản phẩm thuần túy của lý trí, đồng thời nó có tính chất tổng hợp” [42]. Nhưng nếu là thuần túy, nghĩa là nếu không dựa trên kinh nghiệm thì Toán học lấy đâu ra những hình để làm đối tượng nghiên cứu ? Hỏi thế vì trực giác là đối diện với một đối vật. Kant vẫn hãnh diện rằng đây là lần đầu tiên trong lịch sử loài người một người đã nghiên cứu đến nguồn ngọn của khả năng tri thức con người. Về vấn đề làm sao có thể có trực giác thuần túy, Kant trả lời: “Nếu trực giác của ta là biểu tượng những vật tự thân, thì ta có thể có trực giác thường nghiệm thôi, không thể có trực giác tiên thiên. Sự thực thế nào ? Sự thực chúng ta chỉ biết vạn vật theo phương diện chúng ảnh hưởng đến cảm giác của ta chứ ta không biết gì về bản tính tự thân của chúng”. Nói cách khác, ta chỉ biết vạn vật theo như chỗ ta có kinh nghiệm giác quan về chúng, còn bản tính tuyệt đối của chúng là gì ta không biết. Tuy nhiên cảm giác của ta cũng có hai thứ: cảm giác thường nghiệm và cảm giác thuần túy. Cảm giác thường nghiệm, tức thông thường, là tất cả những gì ta cảm thấy về phẩm tính sự vật như nóng, lạnh, to, bé V.V.. Còn cảm giác thuần túy là khả năng cảm thọ của ta. Kant gọi đó là cảm năng thuần túy của ta (sensibilité pure), nhờ nó mà ta lãnh hội được hình thù và sự chuyển động của vạn vật. Dưới đây, trong Chương II, chúng ta sẽ có dịp bàn giải đầy đủ về cảm năng thuần túy này. Đại để cảm năng này có hai hình thức: không gian và thời gian. Trước đây các triết gia vẫn coi không gian và thời gian là những thuộc tính của vạn vật, hoặc coi đó là những thực tại tự thân, trái lại Kant coi đó chỉ là những hình thái của cảm năng ta: không gian là khả năng của ta để hình dung các vật ở ngoài ta, thời gian là khả năng của ta https://thuviensach.vn để hình dung sự chuyển biến ở trong ta và ngoài ta. Như vậy vạn vật được ta tri thức chỉ vì chúng có biểu tượng nơi không gian và thời gian xét như đây là hai hình thái thuần túy của cảm năng con người. Vạn vật nhất thiết phải nhờ cảm năng của ta mới trở thành những đối tượng cho ta. Xét như chúng nhất thiết được biểu tượng nơi không gian, cho nên nhờ sự biết bản chất của không gian (tức cảm năng thuần túy của ta) ta có thể biết một cách tiên thiên và thuần túy về các hình toán học. Nhân đó mà có thể có khoa Toán học thuần túy, đúng như Kant viết: “cũng như khoa Toán học phải hình dung các quan niệm của nó bằng trực giác, thì khoa Toán học thuần túy cũng hình dung các quan niệm của nó bằng trực giác thuần túy, nghĩa là bằng cách kiến tạo nên chúng” [43]. Tóm lại, sở dĩ có khoa Toán học thuần túy vì ta có khả năng hình dung các hình một cách tiên thiên khi ta kiến tạo nên chúng theo quan niệm ta. Tới đây, muốn chứng minh một cách cụ thể rằng con người không thể tri thức những vật tự thân, nhưng chỉ biết những hiện tượng, Kant đã đưa ra vấn đề những hình giống nhau mà lại không lồng lên nhau được, không thay thế nhau được. “Hai hình tam giác bầu của hai bán cầu, có chung một đáy là một hình cung ở xích đạo: chúng có những cạnh và những góc bằng nhau, như vậy chúng không khác nhau tí nào, vậy mà người ta không thể lấy tam giác này thay cho tam giác kia” [44]. Tại sao? Tại vì chúng có một khác biệt mà không một trí năng nào giải thích được, vì là khác biệt do tương quan ngoại tại nơi không gian làm nên. Muốn rõ hơn Kant đã lấy thí dụ khi ta giơ tay mặt trước tấm gương, thì trong gương ta có hình ảnh tay trái: hai tay giống hệt nhau nhưng lại không thể thay thế cho nhau. Và như thế không phải do một khác biệt nội tại nào hết, nhưng do tính chất tri thức hiện tượng của ta là thứ tri thức lệ thuộc vào không gian, và nói lệ thuộc vào không gian tức cũng như nói lệ thuộc vào cảm giác của ta [45]. Rồi Kant kết luận một cách vui vẻ: “Chúng ta không thể hiểu tại sao những sự vật hoàn toàn giống nhau lại không thể thay thế cho nhau, nếu chúng ta chỉ dựa vào những quan niệm, bởi vì chúng chỉ khác nhau theo tương quan của chúng đối với tay phải hay tay trái ta trong việc trực giác thôi” [46]. https://thuviensach.vn Nhìn lại ta thấy Kant đã lần lượt trình bày thế nào là một tri thức thuần túy, một tri thức tổng hợp tiên thiên, và sở dĩ có khoa Toán học thuần túy vì ta có khả năng hình dung một cách tiên thiên các hình của hình học cùng là những tương quan của các hình đó. Vì ta hình dung vạn vật và các hình thể theo cách thức nhận thức của cảm giác ta, nên tri thức của ta là tri thức hiện tượng, nghĩa là ta chỉ tri thức sự vật xét như nó có tương quan với cảm giác ta thôi, chứ ta không biết gì về bản tính tuyệt đối của nó. Thực ra như Kant sẽ trình bày sau này, con người không phải là thần linh, nên con người không có tri thức thuần lý. Con người chỉ có tri thức hiện tượng, một tri thức khả giác. C. TÍNH CHẤT KHOA HỌC CỬA KHOA VẬT LÝ HỌC THUẦN TÚY Cũng như nơi những nghiên cứu của ông trên kia về Toán học thuần túy, mục đích của Kant khi nghiên cứu về khoa Vật lý thuần túy ở đây không là gì khác ngoài sự tìm hiểu khả năng tri thức con người. Khác và hơn một điều là với khoa Vật lý ông đi thẳng vào lãnh vực những thực tại khả giác, tức lãnh vực kinh nghiệm của giác quan. Như vậy chúng ta tiến thêm bước nữa gần khoa Siêu hình học, vì khoa Siêu hình học là khoa đặt nền cho những thực tại của thế giới hữu hình. Tất cả cuốn Phê bình lý trí thuần túy có thể được coi là một thiên biện luận về tri thức vật lý học. Ngay nơi phần nhập đề, Kant đã nêu lên vấn đề căn bản: “Làm sao có thể có khoa vật lý thuần túy ?”. Để trả lời, ông đã lần lượt trình bày về bản chất của tri thức thực nghiệm, sau đó ông tiến sang vấn đề then chốt, tức vấn đề khoa Vật lý học thuần túy. a) Trước hết nên nắm vững những quan niệm cơ bản như: bản chất sự vật, bản thể, nguyên nhân, kinh nghiệm v.v... Tư tưởng của Kant rải rác trong bài Tựa và phần Nhập đề cuốn Phế bình lý trí thuần túy cũng như trong cuốn Sơ luận. Sau đây là những nét chính. Về bản tính, hay bản chất sự vật. Kant viết: “Bản tính vạn vật là sự hiện hữu của vạn vật xét như sự hiện hữu này được xác định bằng những định luật phổ quát. Bởi vì nếu danh từ bản tính có nghĩa là sự vật tự thân, thì chúng ta không thể biết gì về các vật đó dù là cách tiên thiên hay cách hậu https://thuviensach.vn nghiệm” [47]. Kant thấy cần phải xác định ngay về quan niệm vật lý của ông: từ Platon, Aristote đến Descartes và Hume, triết học vẫn nói đến những bản tính vĩnh cửu và bất biến của vạn vật, tức bản tính tự thân và tuyệt đối của chúng. Theo Kant, con người không có cách nào biết được những bản tính tự thân đó, vì cách thế tri thức duy nhất của con người là tri giác, một tri thức kết tinh của quan niệm và cảm giác, nhân đấy con người không thể có cái nhìn vào bản tính tuyệt đối của vạn vật như chư thần. Nói cách khác, con người phải nhờ kinh nghiệm mới tri thức được sự vật; tuy nhiên Kant vẫn nhấn mạnh rằng kinh nghiệm không phải là nguồn mạch duy nhất của tri thức, vì ngoài tri thức thường nghiệm của giác quan, ta còn một thứ tri thức chắc chắn hơn: đó là tri thức khoa học. Tri thức khoa học này không chịu dừng lại nơi những sự kiện vụn vặt, cũng không tự cho mình cái quyền biết tới bản tính tuyệt đối của vạn vật, nhưng nhiệm vụ của nó là tìm hiểu những định luật chi phối sự xuất hiện của vạn vật cùng là những biến chuyển của chúng. Xem thế, ta thấy vẫn là danh từ “bản tính” nhưng từ Aristote đến Kant nó đã đổi hẳn nội dung. Với Aristote và truyền thống Tây phương cho tới Descartes và Hume, thì bản tính có nghĩa là cơ cấu nội tại, tuyệt đối bất biến của vạn vật. Còn đối với Kant, thì chữ bản tính lại chỉ có nghĩa là hệ thống những định luật chi phối những biến dịch của sự vật thôi. Nói cách khác, khoa Vật lý của Aristote đưa ra những quan niệm suông, những định nghĩa về sự vật, còn khoa Vật lý của Newton mà Kant nhận làm của mình thì lại chú trọng đến những định luật liên can đến những biến thái của sự vật. Kant viết: “Chúng ta không có cách nào khác để nghiên cứu bản tính sự vật ngoài cách tìm biết những điều kiện và những định luật phổ quát (mặc dù chủ quan) nhờ đó mà ta có thể có tri thức về vạn vật, tức có thể có kinh nghiệm về sự vật” [48]. Đối với Kant, tri thức không phải là chiêm ngưỡng những thực tại tự thân như ta thấy nơi thuyết Platon và truyền thống Tây phương cho đến Descartes, nhưng tri thức chỉ là tương quan giữa sự vật và khả năng lãnh hội của ta. Khả năng này chính là cảm năng của ta cùng với hai hình thái của nó là không gian và thời gian: cảm năng của ta là điều kiện https://thuviensach.vn để ta có thể có kinh nghiệm, tức có thể có tri thức về vạn vật. Nhân đó tri thức vật lý lệ thuộc vào khả năng tri thức của con người: vì ta biết khả năng tri thức của ta, nên ta có thể tri thức một cách tiên thiên về sự vật, và do đó ta mới có tri thức phổ quát và tất yếu về vạn vật. Chúng ta đạt tri thức này cách nào? Kant trả lời: “Tất cả các phán đoán của ta, thoạt tiên chỉ là những phán đoán dựa trên tri giác, và như vậy chúng chỉ có giá trị cho riêng mỗi người chúng ta, nghĩa là cho chính chủ thể tri thức thôi, rồi chỉ sau đó chúng ta mới mang lại cho chúng một tương quan mới, nghĩa là làm cho chúng có giá trị luôn luôn và cho mọi người” [49]. Từ chỗ chỉ có giá trị riêng cho từng chủ thể tri thức, những phán đoán của ta đã sang tới chỗ có giá trị phổ quát cho mọi người mọi thời: đó là một biến chuyển sâu xa. Kant gọi trạng thái mới này là: kinh nghiệm nói chung, hoặc ý thức nói chung. Ta có kinh nghiệm nói chung này khi ta không còn dùng ý thức để nhìn những sự vật cụ thể và cá vị, nhưng lấy ý thức tổng quát để nhìn một loại sự kiện nào đó. Thí dụ khi nói: “Không khí có tính chất co giãn”, tôi có thể ý thức điều đó hai cách: hoặc nhìn vào sự kiện không khí đang co giãn trước mắt tôi, hoặc lấy ý thức tổng quát để nhìn mệnh đề này như một chân lý phổ quát [50]. Chính nơi ý thức tổng quát này, chúng ta nhận ra nguồn gốc của tri thức tiên thiên, tức tri thức khoa học, vì ý thức tổng quát không nhắm từng sự kiện hoặc từng trạng thái sự vật, nhưng nhìn toàn thể những sự kiện có thể có về một loại nào đó, và toàn thể những trạng thái có thể có và nhất thiết phải có khi có đủ những điều kiện. b) Làm sao có thể có khoa Vật lý thuần túy ? Vấn đề có giống mà cũng có khác với vấn đề Toán học thuần túy trên kia: giống nhau ở chỗ cả hai tri thức cùng có bản chất tiên thiên, nhưng lại khác nhau ở chính chỗ tiên thiên đó. Khoa Toán học kiến tạo một cách tiên thiên những đối tượng nghiên cứu của nó, còn khoa Vật lý không có quyền và không có khả năng kiến tạo nên kinh nghiệm, nhưng chỉ làm sao tìm ra những định luật chi phối kinh nghiệm. Ta không có khả năng kiến tạo nên những thực tại vật lý vì chỉ mình Thượng Đế có trực giác phát nguyên (intuition originaire) nghĩa là trực giác kiến tạo nên sự vật, còn con người chỉ có trực giác tiếp xuất (intuition dérivée) nghĩa https://thuviensach.vn là trực giác lãnh hội những thực tại hiện đã có đấy rồi. Cái nhìn của Thượng Đế làm cho có sự vật ; cái nhìn của ta chỉ làm cho sự vật trở thành hiện tượng cho ta, làm cho vạn vật có thêm một cái gì trước đó chưa có: đó là tương quan của chúng với ta [51]. Như vậy khoa Vật lý khác khoa Toán học ở một điểm quan trọng: một bên không cần đến kinh nghiệm, một bên là khoa học về kinh nghiệm. Điều khó hiểu là: Làm sao có thể có kinh nghiệm tiên thiên ? Nói kinh nghiệm tiên thiên không phải là tự mâu thuẫn sao? Thực ra, nếu phải kinh nghiệm những vật tự thân, thì kinh nghiệm tiên thiên là mâu thuẫn và phi lý. Nhưng Kant đã nhấn mạnh từ đầu rằng kinh nghiệm vật lý không phải là kinh nghiệm về những vật tự thân, nhưng là kinh nghiệm về những hiện tượng, kinh nghiệm những sự vật đúng như chúng được lãnh hội bởi tri giác ta. Đến đây Kant đưa ra một lời phê bình nghiêm khắc đối với Hume, một triết gia ông kính phục vì đã lay ông khỏi giấc mê ngủ giáo điều. Hume chủ trương cảm giác là nguồn duy nhất của tri thức và ông cho rằng trí năng hay lý trí chỉ là những danh từ rỗng vì ông phủ nhận tâm trí và tinh thần. Hume đã lấy cảm giác để giải nghĩa không những tri giác và hoài niệm, mà còn giải nghĩa luôn cả những nguyên lý của lý trí như nguyên lý nhân quả. Ông bảo vì nhiều lần ta đã thấy hi có A (nguyên nhân) liền có B (hậu quả) theo sau, lâu dần ta liên kết hai sự kiện đó với nhau để quyết rằng hễ có A tất sẽ có B. Tuy nhiên, vẫn theo Hume, nguyên lý nhân quả không có tính chất tất yếu, bởi vì nếu người ta hoài nghi có một thay đổi quan trọng nào đó trong trật tự thiên nhiên, thì bao nhiêu kinh nghiệm trước đây của ta liền trở thành vô ích, quá khứ không còn là bài học cho tương lai nữa, và nguyên lý nhân quả cũng tiêu luôn. Kant trả lời: Nếu chỉ xây tri thức ta trên nền tảng cảm giác của kinh nghiệm thông thường, thì tri thức ta không có tính chất tất yếu và phổ quát như tri thức khoa học. Kant tố cáo Hume đã làm cho không thể xây dựng một khoa Vật lý học thực thụ bởi vì Hume chỉ truy nhận có tri thức thường nghiệm thôi, không nhận tri thức lý thuyết, mà “tri thức thường nghiệm thì không có giá trị của những đệ nhất nguyên lý” [52]. Vẫn theo Kant, ta không thể https://thuviensach.vn tìm nơi tri thức giác quan những nguyên lý tất yếu của tri thức khoa học, nhưng phải tìm nơi trí năng: “Những định luật phổ quát của kinh nghiệm sở dĩ có được là vì chúng dựa vào tương quan giữa trí năng và kinh nghiệm, chứ chúng không do kinh nghiệm mà có, trái lại chính kinh nghiệm đã nhờ các định luật đó mà có thể có” [53]. Hume đã không giải quyết được vấn đề nguồn gốc của nguyên lý nhân quả, vì ông đã tìm gia phả của nó nơi cảm giác. Cảm giác và lý trí là hai lãnh vực biệt lập như vật chất và tinh thần. Cảm giác không thể nào phát sinh ra các nguyên lý của lý trí được. Bởi vậy Kant đã lật ngược cách giải quyết của Hume: theo Kant, không phải kinh nghiệm đã dạy cho ta những định luật của kinh nghiệm, nhưng chính trí năng đã cho ta cái khả năng để kiến tạo nên kinh nghiệm và thấu hiểu những định luật của kinh nghiệm. Nói cách khác, trí năng là chính khả năng thâu nhận những cảm giác vụn vặt của nhiều tri giác để rồi đúc kết nên kinh nghiệm, xét như kinh nghiệm là mối liên hệ chặt chẽ giữa những hiện tượng đi trước và hiện tượng đi sau, giữa nguyên nhân và hậu quả. Cái định luật chi phối mối liên hệ giữa cái trước và cái sau, giữa nguyên nhân và hậu quả: cơ cấu này không nằm trong từng sự kiện khả giác, không nằm trong cái trước hoặc cái sau, nhưng nằm bắc ngang từ cái trước sang cái sau. Nó không nằm trong sự kiện, nhưng nằm trong tương quan giữa các sự kiện: và tương quan này thì trí năng ta có thể biết một cách tiên thiên. Như vậy, một lần nữa, ta gặp quan niệm hiện tượng nơi học thuyết Kant: đối tượng của tri thức vật lý không phải là những vật tự thân, nhưng là những hiện tượng, tức những sự vật trong tương quan của chúng với tri giác của ta. Kant viết: “Chúng ta không nên tìm những định luật phổ quát của vật lý nơi thiên nhiên, nhờ kinh nghiệm; nhưng trái lại chúng ta chỉ nên tìm hiểu về tính chất vạn vật luôn phù hợp vái các định luật, và tìm hiểu điều này nơi những điều kiện của cảm giác và trí năng ta, tức những điều kiện làm cho có thể có kinh nghiệm” [54]. Xác định như vậy rồi, Kant có thể giải quyết vấn đề đã nêu lên trên đây: “Làm sao có thể có khoa Vật lý thuần túy?”. Khoa này sở dĩ có được vì nó https://thuviensach.vn không mất công nghiên cứu những sự vật lạc lõng trong thiên nhiên, như kiểu chúng là những vật tự thân, không thuộc vào những điều kiện tri thức của con người chúng ta. Trái lại, khoa Vật lý thuần túy chỉ nghiên cứu những biến chuyển của vạn vật xét như những biến chuyển này được lãnh hội bởi khả năng tri thức ta, với những điều kiện nhất định của trí năng và cảm giác ta. Nói cách khác, khoa Vật lý không nghiên cứu vạn vật nơi vạn vật, nhưng nghiên cứu chúng nơi biểu tượng ta có về chúng, nơi quan niệm ta có về chúng, nơi những giả thuyết và những chứng nghiệm ta đưa ra về chúng. Đó là ý nghĩa câu nói trên đây của Kant: không tìm hiểu nơi những điều kiện chủ quan thực sự chi phối kinh nghiệm ta có về vạn vật, làm sao nắm được những công thức nói lên sự vạn vật luôn phản ứng theo những định luật nhất định. Những điều kiện đó là những gì? Là những điều kiện của tri thức nói chung. Mà theo Kant thì tri thức là kết tinh của quan niệm và cảm giác, như vậy những điều kiện của tri thức là cảm năng thuần túy và trí năng thuần túy. Dưới đây, nơi Chương II, chúng ta sẽ thấy Kant trình bày tỉ mỉ về cảm năng thuần túy với hai hình thức của nó là không gian và thời gian, rồi trí năng thuần túy với 12 phạm trù tức quan niệm thuần túy. Điều chúng ta cần biết nơi đây là: với hai hình thái của cảm năng thuần túy là không gian và thời gian, và với 12 phạm trù được coi là 12 hình thái phán đoán của trí năng, Kant đã muốn kê khai cho ta thấy phạm vi cùng là giới hạn của tri thức con người: con người chỉ có tri thức khi có đủ những điều kiện về cảm năng và trí năng đó. Rồi nếu nghiên cứu kỹ càng những điều kiện tri thức này, con người có thể biết một cách tiên thiên các hiện tượng của khoa Vật lý. Chúng ta vừa theo dõi Kant trong việc giải quyết vấn đề khoa Vật lý thuần túy, một khoa không chịu lần mò theo vết chân của kinh nghiệm thông thường, nhưng đã dựa vào tính chất hiện tượng của sự vật vật lý để xác định một cách tiên thiên về những định luật chi phối tất cả các sự việc có thể xảy ra trong lãnh vực vật lý. Đó là một công việc có thể làm được, vì chỉ cần nghiên cứu những định luật của tri thức con người nơi phần cảm https://thuviensach.vn năng cũng như phần trí năng. Nhân đó, để kết thúc những trang bàn về khoa Vật lý thuần túy, Kant viết: “Chúng ta không nghiên cứu về bản tính của những vật tự thân, nghĩa là một thứ bản tính không liên can gì đến những điều kiện của cảm năng và trí năng ta, nhưng chúng ta chỉ tiếp xúc với những bản tính vạn vật xét như đó là một cái gì có thể được ta kinh nghiệm. Trí năng ta làm ta có thể có kinh nghiệm này, nên đồng thời nó cũng xác định đâu là thế giới ta có thể có kinh nghiệm và đâu là những thực tại không thể trở thành đối tượng kinh nghiệm của ta” [55]. D. CÓ THỂ CÓ KHOA SIÊU HÌNH HỌC KHỔNG ? Trên đây Kant vừa lần lượt nghiên cứu những điều kiện để có thể có khoa Toán học thuần túy và khoa Vật lý thuần túy, xét như đó là những tri thức hoàn toàn chắc chắn bởi vì hội đủ hai đặc tính phổ quát và tất yếu. Các khoa đó đã bước vào con đường chắc chắn của tri thức khoa học vì đã thể hiện được những cuộc cách mạng cần thiết: thay vì theo nẻo đường của những sự kiện vụn vặt và bất tất nơi kinh nghiệm thông thường, các khoa đó đã tìm ra con đường sáng sủa của tri thức tiên thiên, một tri thức bao trùm tất cả kinh nghiệm con người có thể có. Khoa Siêu hình học có thể đi vào con đường này không ? Tất cả cuộc đời của Kant chỉ là một cố gắng liên lỷ để xây dựng một khoa Siêu hình học xứng với “thời đại ánh sáng” (Auíklaerung), và ông nói cần phải làm một “cuộc cách mạng Copernic” cho khoa Siêu hình học. Hơn nữa ông còn nói muốn theo phương pháp của các nhà Vật lý học. Bằng ấy điều đã làm nhiều học giả vội kết luận rằng Kant muốn xây khoa Siêu hình học của ông trên nền tảng của khoa học thực nghiệm. Có học giả còn cho rằng: vì Kant chủ trương chỉ tri thức thực nghiệm mới đáng gọi là tri thức khoa học, và bởi khoa Siêu hình bàn về những thực tại không thể chứng nghiệm được, cho nên Kant đã kết luận rằng không thể có khoa Siêu hình học. Thực không gì sai lầm hơn. Muốn rõ chủ trương của Kant về vấn đề Siêu hình học, tưởng nên nhớ những phê bình của ông đối với khoa Siêu hình học cổ truyền mà ông gọi là Siêu hình học giáo điều (Wolf), đồng thời phải nhớ những gì ông đã đưa ra https://thuviensach.vn