🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trí tuệ xúc cảm – Ứng dụng trong công việc
Ebooks
Nhóm Zalo
DANIEL GOLEMAN
TRÍ TUỆ XÚC CẢM
Bản quyền tiếng Việt © 2008, 2012 Công ty Sách Alpha
Chia sẽ ebook : http://downloadsachmienphi.com/
Tham gia cộng đồng chia sẽ sách : Fanpage : https://www.facebook.com/downloadsachfree Cộng đồng Google :http://bit.ly/downloadsach
Lời giới thiệu
Đôi khi, chúng ta đã đồng nhất trí tuệ với chỉ số IQ. Đó là cách hiểu phiến diện bởi chúng ta chỉ chú trọng tới trí tuệ lý trí mà quên mất xúc cảm cũng là một dạng trí tuệ vô cùng quan trọng, làm cho con người mang đầy đủ tính người cũng như có thể thành đạt trong cuộc sống. Những thập kỷ cuối của thế kỷ XX, ở nhiều nước phương Tây, người ta nói nhiều tới xúc cảm của con người và sự giáo dục xúc cảm cho mọi người, đặc biệt cho lớp trẻ. Các nhà tâm lý học ngày càng đánh giá cao vai trò của cảm xúc và ảnh hưởng của nó đến đời sống con người. Nghệ thuật kiểm soát cảm xúc và định hướng nó một cách đúng đắn được gọi là “Trí tuệ xúc cảm”.
Kể từ khi cuốn sách đầu tiên của Daniel Goleman là Trí tuệ xúc cảm (Emotional Intelligence) viết về vấn đề này năm 1995, thì “Trí tuệ xúc cảm” trở thành một trong những thuật ngữ nóng bỏng nhất trong xã hội Mỹ. Daniel Goleman đã trình bày vấn đề này rất đầy đủ, rõ ràng và có sức thuyết phục. Năm 2002, bản dịch đầu tiên của cuốn sách này đã được dịch giả Lê Diên thực hiện từ tiếng Pháp. Nhận thấy đây là một tài liệu tham khảo bổ ích, có giá trị đối với các thầy cô giáo, các bậc phụ huynh và cả các bạn học sinh, sinh viên, Alpha Books đã chọn mua bản quyền tiếng Anh cuốn sách này và xuất bản lần đầu năm 2007, trong tủ sách Alpha Edu. Sau hơn một năm ra mắt, cuốn sách đã nhận được sự ủng hộ, đón đọc của đông đảo độc giả. Để đáp ứng tốt hơn yêu cầu của bạn đọc, Alpha Books quyết định tái bản cuốn sách này trên tinh thần giữ nguyên những nội dung cơ bản là tinh hoa của cuốn sách. Đồng thời có lược dịch, biên tập lại một số chương mục sao cho súc tích hơn, dễ hiểu hơn với bạn đọc Việt Nam.
Việc xuất bản cuốn sách này là cơ hội giúp chúng tôi khám phá những kiến thức mới, toàn diện hơn về trí tuệ con người. Tuy nhiên, chúng tôi cũng gặp không ít khó khăn bởi đây là một bộ sách có nhiều khái niệm mới nên khó tìm được thuật ngữ tương đương trong tiếng Việt. Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn mạnh dạn sử dụng những thuật ngữ này và rất mong tiếp tục nhận được đóng góp của bạn đọc gần xa, những dịch giả uyên thâm, có kinh nghiệm và nghiên cứu lâu năm trong lĩnh vực này.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Tháng 12 năm 2008
CÔNG TY SÁCH ALPHA
Lời thách đố của Aristote
Bất cứ ai cũng có thể trở nên giận dữ – đó là điều rất dễ xảy ra. Tuy nhiên, để giận đúng người, với mức độ thích hợp, đúng thời điểm, vì những lý do chính đáng và biểu lộ sự tức giận đúng cách – lại là điều không dễ.
– ARISTORE –
Đạo đức học cho Nicomaque.
Vào một buổi chiều tháng Tám, ở thành phố New York, không khí ẩm ướt, nóng nực khiến người ta dễ nổi cáu. Tôi trở về khách sạn, khi lên xe buýt ở Đại lộ Madison, người lái xe da đen đứng tuổi mỉm cười nói với tôi: “Xin chào! Anh khoẻ chứ?” Đó là câu đón tiếp anh thường dành cho tất cả hành khách. Hành khách đều lúng túng giống tôi, nhưng phần lớn không đáp lại vì đã quá ủ ê.
Khi chiếc xe buýt len lỏi qua những chỗ tắc đường, thì một biến đổi từ từ đã xảy ra. Người lái xe vẫn thao thao, bình luận về đủ thứ chuyện: viện bảo tàng nọ đang có cuộc triển lãm tuyệt vời, rạp chiếu phim cuối phố đang chiếu một bộ phim mới,.. Sự thích thú của anh về vô số cơ hội do thành phố mở ra quả là có sức lôi cuốn. Khi rời xe, hành khách đều hết ủ ê, và khi người lái xe nói với theo: “Hẹn gặp lại nhé! Chúc một ngày tốt lành!” thì mọi người đều nở một nụ cười thân thiện.
Chuyện đó xảy ra cách đây gần 20 năm nhưng vẫn khắc sâu vào trí nhớ tôi. Khi hình dung lại cảm giác dễ chịu mà những hành khách nói trên có được, tôi hiểu rằng người lái xe ấy là tuýp người có thể làm yên lòng người khác. Anh có khả năng làm thay đổi sự bực bội, làm nguôi ngoai và tháo mở được phần nào tâm tình của mọi người.
Còn đây là những điều ngược lại mà báo chí đã đề cập tới:
• Ở một trường học, một đứa trẻ chín tuổi bôi sơn lên bàn học, lên các máy vi tính, máy in và phá hỏng một chiếc xe đỗ trong bãi xe nhà trường. Nguyên nhân vì nó bị bọn trẻ “lớn” hơn gọi là “nhóc con” và nó muốn làm cho bọn chúng phải nể phục.
• Ở Manhattan, một thiếu niên dùng súng lục tự động bắn 38 viên đạn vào đám đông làm tám người bị thương.
• Theo một báo cáo, thủ phạm của 57% số vụ giết trẻ em là bố mẹ đẻ hay bố mẹ ghẻ của chúng.
Trong một nửa số trường hợp, họ khẳng định là “chỉ muốn trừng phạt đứa trẻ” do những “lỗi” nhẹ mà chúng gây ra như khóc lóc hay làm bẩn giường khiến họ không thể xem tivi yên.
• Một thanh niên mới bị kết án vì đã gây ra cái chết của năm người phụ nữ Thổ Nhĩ Kỳ bằng cách đốt nhà họ khi họ đang ngủ. Nguyên nhân là do hắn bị mất việc nên đã uống rượu và trút giận lên người nước ngoài.
Hàng ngày, những tin tức loại đó cho thấy sự suy đồi đạo đức và tình trạng bất ổn của xã hội. Nhưng đó chỉ là sự phản chiếu chung về nỗi ám ảnh rằng tất cả chúng ta đã mất sự kiểm soát với xúc cảm của mình. Không ai thoát được những cơn giận bùng phát và mỗi người trong chúng ta sớm hay muộn cũng phải trải qua trạng thái này.
Cuốn sách này đem lại ý nghĩa cho những gì tưởng như vô lý. Là một nhà tâm lý học theo sát những tiến bộ do khoa học đem lại trong sự hiểu biết cái phi lý, tôi thấy nổi lên hai xu hướng trái ngược: xu hướng ghi nhận trạng thái ngày càng tồi tệ của cuộc sống cảm xúc và xu hướng đưa ra những phương thuốc mang theo niềm hy vọng.
Tại sao có nghiên cứu này?
Cuối của thế kỷ XX, hàng loạt công trình khoa học nghiên cứu về cảm xúc đã ra đời. Nhờ có nhiều phương pháp đổi mới, như công nghệ mới về hình ảnh, chúng ta có thể thấy rõ bộ não họat động như thế nào, điều gì thật sự diễn ra khi chúng ta suy nghĩ, cảm nhận, tưởng tượng và mơ ước. Những thông tin thần kinh – sinh học này cho phép chúng ta hiểu rõ hơn trung tâm não bộ có chức năng điều khiển xúc cảm gây ra sự giận dữ hay làm cho chúng ta khóc, kích động tính hiếu chiến hay làm cho chúng ta thánh thiện, hướng chúng ta trở nên tốt hơn hay xấu đi như thế nào. Phát hiện mới này sẽ mang đến phương thuốc mới cho cuộc khủng hoảng xúc cảm đang diễn ra hiện nay.
Trong một thời gian dài, vị trí của tình cảm trong đời sống tinh thần chưa được nghiên cứu. Ngày nay, khoa học đã đề cập tới những vấn đề xuất phát từ họat động tâm thần ở những khía cạnh phi lý nhất và dựng lên bản đồ trái tim con người với sự chuẩn xác nhất định.
Đây là sự phủ định với quan điểm cho rằng IQ (chỉ số thông minh) là do di truyền, không thể thay đổi và số phận cá nhân phần lớn đã được định trước. Vậy cái gì có thể giúp chúng ta thành công hơn trong cuộc sống? Đâu là những nhân tố tác động? Ví dụ, một số cá nhân có IQ cao nhưng thất bại, trong khi những người có IQ khiêm tốn lại thành công. Tôi muốn khẳng định rằng sự khác nhau thường là ở năng lực mà ở đây chúng ta gọi là trí tuệ cảm xúc (emotinal intelligence) bao gồm: sự tự chủ, lòng nhiệt thành và kiên nhẫn cũng như khả năng và sự kích
thích hành động. Người ta có thể giáo dục cho trẻ em những phẩm chất ấy và giúp chúng sử dụng tốt hơn tiềm năng trí tuệ do di truyền.
Ngoài những khả năng đó, còn có đòi hỏi về mặt đạo đức. Chúng ta sống trong một thời đại mà tổ chức xã hội có vẻ có xu hướng ngày càng lỏng lẻo, thói vị kỷ, bạo lực và vô tâm dường như đang phá huỷ cuộc sống của chúng ta. Vậy thái độ đạo đức chúng ta cần có là gì? Đó là sự kiềm chế và lòng trắc ẩn.
Hành trình của chúng ta
Cuốn sách này giải thích một số thời điểm gây rắc rối trong cuộc đời mỗi người và thế giới xung quanh ta. Nó giúp ta hiểu tại sao trí tuệ có thể hòa hợp với xúc cảm và sự hòa hợp đó diễn ra như thế nào.
Hãy bắt đầu bằng việc xem xét những phát hiện mới nhất về cấu trúc bộ não để giải thích trạng thái bối rối của con người, khi tình cảm lấn át lý trí. Mối tương tác giữa cấu trúc bộ não quy định thái độ giận dữ và sự sợ hãi, đam mê và vui mừng cho phép chúng ta hiểu được cách lập lại những thói quen tâm lý từng làm thất bại những ý đồ tốt của chúng ta. Các dữ kiện thần kinh-logic cho phép chúng ta thấy được khả năng làm biến đổi các thói quen tâm lý của con em mình.
Trong phần thứ hai, chúng ta sẽ xem thần kinh-logic được thể hiện như thế nào qua hành vi − cái mà chúng ta gọi là trí tuệ cảm xúc: chẳng hạn, có thể làm chủ xung lực tình cảm, hiểu rõ tình cảm của người khác, kết nối những mối liên hệ hòa hợp với người khác. Theo cách nói của Aristote, đó là khả năng hiếm có để “tức giận đúng người với mức độ thích hợp, đúng thời điểm, vì những lý do chính đáng”.
Quan niệm mới về “trí tuệ” đem lại vai trò hàng đầu cho những xúc cảm. Trong phần thứ ba, chúng ta sẽ thấy tại sao năng lực này được coi là có vai trò quyết định trong việc giữ mối quan hệ tốt đẹp với những người xung quanh, hay thiếu nó sẽ ngăn cản sự tiến thân của chúng ta. Chúng ta cũng sẽ tìm hiểu những xúc cảm tiêu cực ảnh hưởng xấu đến sức khỏe như thế nào và sự cân bằng tâm lý góp phần duy trì sức khỏe và hạnh phúc của chúng ta ra sao.
Di sản di truyền quy định tính khí chúng ta nhưng tính khí không đồng nghĩa với số phận. Phần thứ tư chỉ ra những bài học tâm lý học được từ thời thơ ấu ở nhà hay trường học sẽ uốn nắn tinh thần của chúng ta và cho phép chúng ta tìm thấy cơ sở của trí tuệ xúc cảm. Nói cách khác, đây là những thời kỳ then chốt để rèn luyện thói quen tâm lý chi phối cuộc sống của chúng ta sau này.
Phần thứ năm chỉ ra mối nguy hiểm đối với những ai không làm chủ được xúc cảm trong sự phát triển của mình. Nói cách khác, những nhược điểm về trí tuệ xúc cảm làm tăng thêm mối nguy hiểm như thế nào. Phần này cũng giải thích việc rèn luyện những thói quen tâm lý và xã hội cho trẻ là hết sức cần thiết.
Những số liệu đáng lo ngại nhất được lấy từ một nghiên cứu quy mô lớn về các bậc cha mẹ và con cái cho thấy, ngày nay, trẻ em dễ bị rối loạn về tâm lý hơn dễ cô đơn và suy sụp hơn, vô kỷ luật và dễ nổi giận hơn, cáu kỉnh và lo lắng hơn, dễ bốc đồng và dễ gây hấn hơn.
Vấn đề là phải tìm hiểu cách chúng ta chuẩn bị cho trẻ vào đời như thế nào. Hiện nay, việc giáo dục tâm lý cho giới trẻ thường phó mặc cho tự nhiên. Theo tôi, giải pháp là nhà trường cần giáo dục nhân cách cho học sinh về mặt trí tuệ cũng như tình cảm. Kết thúc cuộc du hành, chúng ta đến thăm những ngôi trường đang khuyến khích sự phát triển trí tuệ xúc cảm. Đến ngày nào đó, giáo dục sẽ hướng tới việc trau dồi những khả năng cốt yếu của con người, như ý thức về bản thân, làm chủ bản thân, đồng cảm, tôn trọng người khác, biết giải quyết những xung đột và có ý thức hợp tác.
Đạo đức học cho Nihcomachean là tác phẩm của Aristote lấy hành vi trí tuệ của cuộc sống xúc cảm làm đối tượng. Những đam mê sẽ hướng dẫn cách suy nghĩ của chúng ta, sự lựa chọn các giá trị bảo đảm sự sống còn của chúng ta, nhưng chúng cũng có thể làm chúng ta lạc hướng. Aristote đã chỉ ra, nguyên nhân không chỉ ở bản thân những xúc cảm, mà còn ở tính đúng đắn và cách biểu hiện của chúng. Vấn đề là làm thế nào để trí tuệ ăn nhập với những xúc cảm của chúng ta.
Phần thứ nhất: BỘ NÃO XÚC CẢM
1. Các xúc cảm dùng để làm gì?
Với trái tim, người ta có thể nhìn thấy những cái cốt yếu mà đôi mắt không thể nhìn thấy được. – ANTOINE DE SAINT – EXUPERY –
Hãy suy ngẫm về kết cục bi thảm của Gary và Mary Jane Chauncey – bố mẹ của Andrea, đứa trẻ 11 tuổi bị chứng bệnh bại liệt. Trên một nhánh sông thuộc bang Louisiana, chuyến tàu hỏa có cả gia đình Chauncey đã bị trượt bánh và rơi xuống sông. Nghĩ tới con gái mình trước hết, bố mẹ Andrea cố cứu cho được cô bé khi nước đã ngập đầy toa tàu. Tuy trao được đứa con cho nhân viên cứu hộ qua ô cửa sổ, nhưng cả đều bị chết đuối .
Sự hy sinh của bố mẹ Andrea là một hành động anh hùng và những trường hợp như vậy có rất nhiều trong cuộc sống. Xét theo quan điểm tiến hóa, sự hy sinh này nhằm bảo đảm cho “thành công sinh sản”, bảo đảm sự truyền thụ gen cho thế hệ tiếp theo. Nhưng với những bậc cha mẹ, họ làm vậy chỉ vì lòng yêu thương. Hành vi ấy minh họa cho chức năng và sức mạnh của các xúc cảm, chứng minh cho vai trò của tình yêu vị tha và của tất cả những xúc cảm khác trong đời sống con người. Chúng cho thấy chúng ta phải nhờ tới quyền năng của những xúc cảm ấy để sống còn ra sao. Chỉ có một tình yêu thương sâu sắc cũng như duy nhất mong muốn cứu bằng được đứa con mới có thể đưa con người tới chỗ vượt qua bản năng tồn tại của mình. Xét về mặt trí tuệ, sự quên mình của bố mẹ dường như phi lý, nhưng xét về lý lẽ trái tim, thì đó là thái độ duy nhất có thể có.
Các nhà sinh học xã hội đã chỉ ra: những xúc cảm giúp chúng ta đương đầu với những cảnh ngộ và nhiệm vụ quan trọng mà đôi khi chỉ mình trí tuệ không thể quyết định nổi như những mối nguy hiểm, những mất mát đau đớn, sự kiên nhẫn bất chấp thất vọng. Mỗi xúc cảm chuẩn bị cho chúng ta hành động theo một cách nào đó. Nó chỉ cho chúng ta cách chấp nhận thách thức để sinh tồn.
Khi đam mê chi phối lý trí
Để trêu đùa bố mẹ, Matilda Crabtree, 14 tuổi, quyết định làm bố mẹ sợ khi về nhà muộn sau buổi tối chơi ở nhà bạn.
Nhưng, thật bi thảm, Bobby Crabtree và vợ tưởng rằng Matilda ngủ lại ở nhà bạn. Nghe thấy
tiếng động, Crabtree liền cầm khẩu súng lục và đi lên buồng của Matilda. Khi Matilda nhảy phóc ra từ nơi ẩn nấp và kêu to lên, ông liền bắn một phát trúng cổ con. Matilda chết 12 giờ sau đó2.
Di sản tâm lý do sự tiến hóa để lại có sự sợ hãi, yếu tố bảo vệ chúng ta khi gặp nguy hiểm. Chính nó đã đẩy Boby Crabtree tới chỗ bắn vào con gái mình trước khi nhận ra cô bé. Theo các chuyên gia, những phản ứng tự động thuộc loại này đã được ghi vào hệ thần kinh chúng ta. Trong thời gian dài, những phản ứng này đã giúp chúng ta sống sót. Điều quan trọng hơn, chúng đáp ứng nhiệm vụ cơ bản của sự tiến hóa: truyền cho con cháu biết gìn giữ sự sống.
Nếu xúc cảm từng là kẻ hướng đạo trong quá trình tiến hóa lâu dài của con người, thì trong xã hội hiện đại biến đổi không ngừng như hiện nay, sự tiến hóa chậm chạp của xúc cảm lại không theo được nhịp độ ấy. Về mặt sinh học mà nói, chúng ta đã thừa hưởng những vòng mạch nơ ron cho các xúc cảm hoạt động hoàn hảo trong 50 nghìn thế hệ, chứ không phải chỉ trong 500 thế hệ. Phải mất sức mạnh của sự tiến hóa một triệu năm để nhào nặn đời sống xúc cảm của chúng ta. Hàng nghìn năm qua, dù dân số tăng từ năm triệu lên năm tỷ người nhưng vẫn không để lại bất cứ dấu vết nào của yếu tố sinh học điều khiển đời sống xúc cảm của chúng ta.
Cách chúng ta đánh giá những cuộc gặp gỡ và phản ứng với chúng không chỉ bị quy định bởi sự xét đoán lý trí hay bởi quá khứ cá nhân mà còn bởi quá khứ của tổ tiên chúng ta. Tóm lại, chúng ta thường đứng trước những lựa chọn do xã hội hậu hiện đại đặt ra với một bộ sưu tập tâm lý có từ thời cổ xưa. Trên thực tế, trạng thái đáng buồn ấy là trung tâm của chủ đề này.
Tại sao chúng ta hành động?
Vào những ngày đầu xuân, khi đi qua đèo ở vùng Rocheuses, một cơn bão tuyết khiến ập đến khiến tôi không nhìn thấy gì cả. Tôi liền đạp phanh, nỗi kinh hoàng xâm chiếm và tim tôi đập liên hồi.
Nỗi kinh hoàng nhường chỗ ngay cho sự sợ hãi. Tôi dừng xe bên đường chờ cơn bão đi qua. Nửa giờ sau, tuyết ngừng rơi, tôi lại lên đường, nhưng đi được chừng 100 mét, tôi lại phải dừng: những nhân viên cứu thương đang cấp cứu một người lái xe vừa đâm vào chiếc xe khác. Nếu trước đó tôi tiếp tục đi trong cơn bão, biết đâu tôi đã đâm phải hai chiếc xe kia.
Hôm đó, nỗi sợ hãi có lẽ đã cứu sống tôi: trạng thái nội tâm đã buộc tôi dừng xe và chú tâm tới mối nguy hiểm ngay trước mắt.
Về căn bản, mọi xúc cảm xuất phát từ sự kích thích hành động; đó là phản ứng tức thì vì bản
năng sinh tồn. Việc xúc cảm thúc đẩy hành động đặc biệt rõ ràng ở loài vật hay trẻ em.
Mỗi xúc cảm của chúng ta đóng một vai trò riêng biệt, như những dấu ấn sinh học đặc trưng. Những điều diễn ra bên trong thân thể và bộ não cho thấy mỗi xức cảm chuẩn bị cho thân thể một kiểu phản ứng khác nhau:
• Sự giận dữ làm máu dồn tới bàn tay, khiến người ta đoạt lấy m¬¬¬ột thứ vũ khí hay đánh kẻ thù, và những hoóc-môn như adrenaline tiết ra rất mạnh để giải thoát năng lượng cần thiết cho một hành động quyết liệt.
• Sự sợ hãi đưa máu tới các cơ chỉ huy sự vận động của thân thể, như cơ bắp chân chuẩn bị bỏ chạy, làm cho mặt tái đi do máu bị dồn đến nơi khác. Thân thể bị tê liệt trong một khoảnh khắc. Trung tâm xúc cảm của bộ não tiết ra những hoóc-môn đặt cơ thể tập trung vào mối đe dọa trước mắt.
• Sự vui sướng được đặc trưng bằng hoạt động tăng lên của trung tâm não nhằm ức chế những tình cảm tiêu cực và làm năng lượng hiện có tăng lên, cũng như làm chậm lại họat động của trung tâm gây lo lắng. Trạng thái này đem lại cho cơ thể sự thư giãn. Cá nhân thực hiện vội vàng và phấn khởi hơn những nhiệm vụ đặt ra cho mình, đồng thời đặt ra nhiều nhiệm vụ khác nhau hơn.
• Tình yêu, sự âu yếm và sự thỏa mãn tình dục gây ra kích thích đối giao cảm. Phản xạ này là một tập hợp phản ứng của thân thể tạo ra trạng thái yên tĩnh, đồng cảm và hợp tác.
• Sự ngạc nhiên làm lông mày nhướn lên, tầm nhìn mở rộng, lượng ánh sáng lọt tới võng mạc tăng lên. Do đó, cá nhân nắm bắt được nhiều thông tin hơn về một sự kiện, đánh giá hoàn cảnh đúng hơn và nghĩ được kế họach hành động tốt hơn.
• Sự căm ghét luôn gây ra bực mình. Biểu hiện trên mặt là môi trên trễ xuống ở hai cạnh còn mũi thì hơi nhăn lại, như phản ánh ý muốn bịt mũi trước một mùi khó chịu hay nhè ra thứ thức ăn độc hại.
• Sự buồn rầu giúp người ta chịu đựng tổn thất đau đớn làm năng lượng suy sút và giảm niềm hứng khởi đối với mọi họat động của cuộc sống. Nó gần với sự suy sụp, làm cho quá trình trao đổi chất chậm lại. Việc thu mình lại để phục hồi hậu quả và khi trở lại năng lượng sẽ phát ra một sự khởi đầu mới. Khi buồn rầu, con người dễ bị tổn thương và cần ở gần nơi cư trú của mình để được an toàn.
Các nguyên nhân sinh học của hành động cũng chịu sự chi phối của văn hóa. Chẳng hạn, cái
chết của người thân luôn gây ra sự buồn rầu. Nhưng cách thể hiện nỗi buồn giữa đám đông hay nơi riêng tư phụ thuộc vào từng nền văn hóa.
Các phản ứng xúc cảm đã hình thành từ xa xưa, khi điều kiện sống vô cùng khắc nghiệt. Tỷ lệ tử vong rất cao và tuổi thọ không vượt quá 30. Người ta dễ bị làm mồi cho ác thú, nghèo đói và thiên tai. Với sự xuất hiện của kinh tế nông nghiệp và các hình thái xã hội đầu tiên, tình hình đã thay đổi và những yếu tố từng kìm hãm sự gia tăng dân số đã dần dần bị gạt bỏ.
Xúc cảm của chúng ta do đó cũng trở nên không thích hợp nữa. Một cơn giận xưa kia có thể là lợi thế quyết định sự sống còn, ngày nay mọi việc đã khác, chẳng hạn một đứa trẻ 13 tuổi giữ súng sẽ chỉ mang lại những hậu quả tai hại khi chúng nổi giận.
Hai thứ tinh thần của chúng ta
Một người bạn kể cho tôi nghe chuyện ly hôn của mình. Chồng cô yêu một cô gái trẻ hơn và đột ngột tuyên bố sẽ đến sống với cô ta. Sau nhiều tháng cay đắng, cô nói với tôi rằng cô thích cuộc sống độc lập, rằng những chuyện cũ không làm cho cô xúc động nữa. Nhưng, chỉ một thóang sau, mắt cô đã đẫm lệ.
Sự đồng cảm khiến tôi hiểu rằng nước mắt của ai đó là biểu hiện của nỗi buồn cho dù người đó có giải thích thế nào. Một bên có tinh thần xúc cảm, còn bên kia thì là tinh thần lý trí.
Sự tác động qua lại giữa những công cụ nhận thức khác nhau về căn bản ấy tạo ra đời sống nội tâm của chúng ta. Tinh thần lý trí là thứ mà nói chung chúng ta ý thức được và cảm nhận được sự hiện hữu của nó. Nhưng có một hệ thống nhận thức khác, bốc đồng, mãnh liệt, đôi khi không logic, đó là tinh thần xúc cảm.
Sự chia đôi xúc cảm/lý trí phù hợp với sự phân biệt giữa “trái tim” và “khối óc”. Khi người ta cảm thấy “từ đáy lòng mình” một sự việc có thật, thì mức độ tin chắc gần như sâu hơn, khác với mức độ do lý trí đem lại. Mức độ kiểm soát bằng lý trí hay bằng xúc cảm thay đổi dần dần: tình cảm càng mạnh, xúc cảm càng chi phối và lý trí càng mất đi tính hiệu quả. Trong phần lớn trường hợp, tinh thần xúc cảm và tinh thần lý trí hoạt động hài hòa với nhau, kết hợp những cách nhận thức khác nhau để hướng dẫn chúng ta. Thông thường, để có sự cân bằng giữa hai tinh thần ấy, xúc cảm cung cấp thông tin cho các thao tác của lý trí, còn lý trí thì tinh chế và đôi khi loại bỏ một số dữ kiện do tinh thần xúc cảm cung cấp. Thế nhưng, tinh thần xúc cảm và tinh thần lý trí là hai phạm trù độc lập và mỗi phạm trù phản ánh sự vận hành của những cấu trúc bộ não khác nhau nhưng có liên kết với nhau. Sự vận hành của chúng được phối hợp với nhau tinh tế và thường xuyên: tình cảm tỏ ra cốt yếu cho tư duy và tư duy cũng tỏ ra cốt yếu
cho tình cảm. Khi đam mê trỗi dậy thì tinh thần xúc cảm chiếm ưu thế.
Bộ não đã phát triển như thế nào?
Để hiểu rõ hơn sự khống chế mạnh mẽ của các xúc cảm đối với tinh thần lý trí và tại sao tình cảm và lý trí lại đối lập nhau, hãy xem bộ não phát triển như thế nào.
Bộ não người, với 1,5 kg nơ-ron và những mô khác, to gần gấp ba lần bộ não khỉ. Qua hàng triệu năm tiến hóa, bộ não đã phát triển từ dưới lên trên, các trung tâm phía trên hiện ra như sự hoàn thiện của các bộ phận cổ xưa hơn nằm ở phía dưới. (Sự phát triển bộ não ở thai người tóm lược sự tiến hóa ấy.)
Bộ phận xưa nhất của bộ não là thân não bọc quanh đầu trên của tuỷ sống. Bộ não nguyên thuỷ chi phối những chức năng như hô hấp, sự chuyển hóa của các cơ quan và những phản ứng, cử động đã được đúc khuôn. Bộ não ấy chiếm ưu thế ở thời kỳ bò sát.
Từ gốc nguyên thuỷ là thân não, xuất hiện trung tâm thần kinh của các xúc cảm. Từ trung tâm này, phần bên trên phát triển lên thành bộ não “lý trí” hay “vỏ não mới” (neocortex), một hành to gồm các mô tạo thành những hồi não. Việc hành não phát triển từ bộ não “lý trí” đã nói rõ về mối liên hệ giữa tư duy và xúc cảm: bộ não “xúc cảm” đã có trước bộ não “lý trí”.
Nguồn gốc xưa nhất của đời sống xúc cảm nằm ở hành khứu giác, tập hợp những tế bào tiếp nhận và phân tích các mùi. Mỗi sinh thể đều có một dấu ấn phân tử đặc trưng được gió chuyển đi. Vào thời nguyên thuỷ ấy, khứu giác là giác quan chủ yếu để tồn tại.
Từ thùy khứu giác, những trung tâm đầu tiên chi phối xúc cảm bắt đầu phát triển. Ở giai đoạn này, trung tâm khứu giác chỉ gồm có những lớp nơ-ron mỏng được quy tụ lại để phân tích các mùi. Lớp tế bào thứ nhất ghi lại những gì được cảm nhận và xếp nó vào đúng loại. Lớp tế bào thứ hai gửi những thông điệp phản xạ qua hệ thần kinh, ra lệnh cho cơ thể hành động thích hợp.
Những lớp mới trọng yếu của bộ não cảm xúc đã xuất hiện cùng những động vật có vú đầu tiên. Phần não này thít quanh thân não, nên người ta gọi nói là hệ thống “rìa” có nguồn gốc từ tiếng Latinh “Limbus”. Lãnh thổ nơ-ron mới mang lại cho bộ não những xúc cảm đích thực3. Khi chúng ta bị sự ham muốn hoặc phẫn nộ khống chế, khi chúng ta yêu đến quên thân mình hay mặt xanh như tàu lá vì khiếp hãi, thì đó chính là do hệ rìa chỉ huy.
Khi phát triển, hệ thống này đã tạo ra hai công cụ cực kỳ hữu hiệu là năng lực học tập và trí nhớ. Những bước tiến tuần tự ấy cho phép một con vật thực hiện những lựa chọn thông minh
hơn để tồn tại và thích ứng với những thay đổi của môi trường. Nếu một thứ thức ăn làm cho người ta mắc bệnh, thì sau đó người ta tránh đi. Quyết định đến việc ăn hay từ bỏ vẫn phụ thuộc vào khứu giác. Nhờ có liên lạc giữa hành khứu giác và hệ thống rìa, nó phân biệt những mùi khác nhau, so sánh thứ mùi hiện tại với những thứ mùi trước kia, tách cái tốt khỏi cái xấu. Đó chính là nhiệm vụ của khứu não (rhinen-cephacon), một yếu tố của hệ thống rìa và là cơ sở bước đầu của vỏ não mới, bộ não suy nghĩ.
Cách đây khoảng 100 triệu năm, bộ não của các động vật có vú trải qua đợt phát triển mạnh mẽ. Trên hai lớp mỏng của vỏ não đã chồng lên nhiều lớp tế bào tạo thành vỏ não mới. Khác với hai lớp cũ, vỏ não mới đem lại một ưu thế lạ thường về trí tuệ. Vỏ não mới của Người thông minh đã tạo ra tất cả những cái riêng biệt của con người. Nó là nơi cư ngụ của tư duy, chứa đựng những trung tâm phụ trách tập hợp và tìm hiểu những tri giác của giác quan. Nó mang cho cảm giác những gì chúng ta suy nghĩ về chúng và cảm giác về những ý tưởng, biểu tượng, những sản phẩm của sự tưởng tượng và những tác phẩm nghệ thuật.
Trong tiến hóa, vỏ não mới đã có sự thích ứng tinh tế và chuẩn xác để tạo ra ưu thế to lớn cho sự tồn tại của cá nhân. Chúng làm tăng thêm những cơ may để thế hệ con cháu được truyền những vòng mạch nơ-ron giống như thế.
Yếu tố cộng thêm của bộ não đã mang những sắc thái mới cho đời sống xúc cảm. Ví dụ trong tình yêu, cấu trúc rìa tạo ra những khoái cảm và ham muốn tình dục là xúc cảm nuôi dưỡng đam mê tính dục. Nhưng sự kết hợp của vỏ não mới với hệ thống rìa đã tạo ra sự gắn bó mẹ − con, tạo thành cơ sở của gia đình và sự chăm lo giáo dục cần thiết cho con cái.
Theo dõi bậc thang phát triển các loài, chúng ta sẽ thấy khối lượng của vỏ não mới tăng dần lên, tạo ra cấp số nhân cho số lượng những điểm nối kết giữa các nơ-ron. Số lượng này càng lớn, thì phạm vi những phản ứng càng mở rộng. Vỏ não mới mang lại cho đời sống tình cảm sự tinh tế và tính phức hợp. Việc tổ hợp vỏ não mới – hệ thống rìa phát triển hơn ở loài khỉ và đặc biệt ở loài người đã giải thích tại sao chúng ta có phản ứng khác nhau với những xúc cảm.
Nhưng các trung tâm não phía trên không chi phối toàn bộ đời sống tình cảm. Đối với những vấn đề của trái tim, đặc biệt đối với những trường hợp “khẩn cấp” về xúc cảm, chúng giao cho hệ thống rìa làm việc. Do có nhiều trung tâm não phía trên, nên phần não có các xúc cảm trú ngụ đóng vai trò then chốt trong cấu trúc nơ-ron. Vì nó bắt nguồn từ những vùng xúc cảm, nên vỏ não mới nối liền với những vùng này bằng vô số liên kết. Điều đó đem lại cho các trung tâm xúc cảm quyền năng vô tận đối với sự vận hành của phần não còn lại, kể cả đối với các trung tâm tư duy.
2. Khi xúc cảm nắm quyền lực: Giải phẫumột cuộc chính biến
Cuộc sống là hài kịch đối với những ai suy nghĩ
và bi kịch đối với những ai cảm nhận.
– HORACE WALPOLE –
Buổi chiều tháng Tám năm 1963, Richard Robles, tên trộm khét tiếng vừa mãn hạn ba năm tù quyết định đánh ván bài cuối cùng.
Căn hộ hắn lẻn vào là của hai cô gái trẻ – Janice Wylie và Emily Hoffert. Hắn nghĩ rằng trong nhà không có ai, nhưng thật ra Janice Wylie đang có nhà. Hắn trói cô gái lại. Khi chuẩn bị rời đi, Emily đột ngột trở về và hắn cũng trói cô lại.
Nhiều năm sau đó, Robles kể lại, trong khi trói Emily, Janice nói rằng cô đã nhớ rõ mặt hắn và sẽ giúp cảnh sát tìm ra hắn. Robles đã hốt hoảng và mất bình tĩnh. Hắn lấy một cái chai đập đầu hai cô gái, rồi dùng một con dao bếp đâm họ. 25 năm sau, hắn đã nói: “Lúc đó tôi đã điên lên. Đầu tôi như chực nổ tung”.
Những cơn bùng nổ bạo lực như vậy là do cuộc “chính biến” của các nơ-ron. Trung tâm rìa báo động và nắm lấy quyền kiểm soát bộ não. Sự kiểm soát ấy chỉ xảy ra trong một khoảnh khắc và phát ra những phản ứng nguy hại trước khi bộ não suy nghĩ. Vấn đề là người ta không biết được sau đó cái gì đã chi phối mình.
Tất cả chúng ta đều trải qua kinh nghiệm này dưới hình thức ít bi thảm hơn. Hãy nhớ tới lần gần nhất khi mất bình tĩnh, bạn đã mắng chửi thậm tệ vợ con mà sau khi nghĩ lại, bạn thấy mình thật quá đáng. Dường như, đó là một sự “cướp đoạt” của các nơ-ron, mà nguồn gốc nằm trong hạnh nhân (amygdala), một trung tâm não rìa.
Tất cả các cuộc “chính biến” của não rìa không phải lúc nào cũng nặng nề như khi chúng ta cười vỡ bụng vì một câu nói đùa hay khi cảm thấy niềm vui mãnh liệt.
Nơi trú ngụ của những đam mê
Ở con người, hạnh nhân là những cấu trúc liên kết nhau, nằm ở phần trên thân não và gần phía
dưới của hệ thống rìa. Cá ngựa (hippocampe) và hạnh nhân là hai bộ phận chủ yếu của bộ não khứu giác nguyên thuỷ, từ đó phát triển lên vỏ não và vỏ não mới. Các cấu trúc rìa này chịu trách nhiệm về việc tập luyện và trí nhớ. Hạnh nhân là chuyên gia về những vấn đề xúc cảm. Việc cắt bỏ nó đưa tới sự bất lực khi đánh giá nội dung xúc cảm của các sự kiện. Tình trạng đó được gọi là “chứng mù xúc cảm”. Một người bị cắt mất hạnh nhân sẽ mất đi hứng thú đối với người khác. Anh ta có thể trò chuyện, nhưng không còn nhận ra được bạn bè hay người thân. Anh ta cũng mất đi khả năng cảm nhận những xúc cảm và sự nhạy cảm. Hạnh nhân là nơi trú ngụ của trí nhớ xúc cảm, không có nó, cuộc đời mất hết ý nghĩa.
Hạnh nhân không chỉ có liên hệ với xúc cảm, nó còn chỉ huy tất cả các xúc cảm. Những con vật bị cắt hạnh nhân sẽ mất đi các xúc cảm như sợ hãi, cuồng nộ nữa hay nhu cầu đấu tranh, hợp tác. Nước mắt là biểu hiện một xúc cảm nào đó tiêu biểu ở con người, được hạnh nhân và một cấu trúc bên cạnh – những hồi não hình khuy – điều khiển. Không có hạnh nhân, sẽ không có nước mắt để lau khô, không có nỗi buồn để xoa dịu.
Nhà thần kinh học người Mỹ – Joseph Ledoux – là người đầu tiên giải thích vai trò căn bản của hạnh nhân trong họat động xúc cảm của bộ não. Ông đã khai thác những phương pháp mới để thăm dò bản đồ của bộ não. Những khám phá của ông đã lật đổ những quan niệm thu được về hệ thống rìa, đặt hạnh nhân lên đằng trước và phân lại các vai đã được gán cho các cấu trúc rìa khác.
Ngòi nổ nơ-ron
Sau những lúc nổi giận, chúng ta thườg cảm thấy ân hận, nó giúp ta hiểu được sức mạnh của các xúc cảm đối với đời sống tinh thần. Câu hỏi đặt ra: tại sao chúng ta dễ bị rơi vào trạng thái đó? Hãy xem xét trường hợp: một cô gái phải mất hai giờ đi đường để có một ngày ở Boston với cậu bạn trai của mình. Trong bữa ăn, anh tặng cho cô một bức tranh khắc quý hiếm. Nhưng niềm vui của cô sớm tắt khi anh từ chối đề nghị xem phim ở rạp với cô vì phải đi tập bóng chày. Bị tổn thương và không thể tin được, vừa khóc cô vừa rời khỏi hiệu ăn và ném ngay bức tranh vào thùng rác. Khi kể lại chuyện này, cô thấy tiếc vì mất tác phẩm nghệ thuật này hơn là vì không đi xem phim.
Chính trong những lúc ấy, khi xung đột lấn át lý trí, vai trò của hạnh nhân được biểu hiện. Tín hiệu được các giác quan truyền đi cho phép hạnh nhân sàng lọc tất cả kinh nghiệm đã trải qua của cá nhân nhằm phát triển một vấn đề có thể có. Điều này trao cho cấu trúc rìa vị trí then chốt trong đời sống tinh thần và làm cho nó trở thành một kiểu lính canh tâm lý, xem xét mỗi hoàn cảnh, mỗi tri giác theo tiêu chuẩn duy nhất: “Đây có phải là điều tôi ghét bỏ không? Điều
tôi nghi ngại không? Điều gây hại cho tôi không?”. Nếu câu trả lời là “đúng” thì hạnh nhân phản ứng như một ngòi nổ nơ-ron và truyền sự báo động vào tất cả các bộ phận của não.
Chẳng hạn, khi đó là một tín hiệu sợ hãi, nó liền tiết ra những hoóc-môn có nhiệm vụ làm cho cá nhân được đặt trong trạng thái chiến đấu hay chạy trốn, huy động những trung tâm chịu trách nhiệm về vận động hay kích thích hệ thống tim – mạch, các cơ và cơ quan nội tạng1. Những mạch khác bắt nguồn từ hạnh nhân cũng ra lệnh tiết ra rất nhiều norepinephrine (hoóc-môn làm tăng thêm sự họat động trở lại của các vùng trong bộ não), làm cho các giác quan nhạy cảm hơn, và cũng đặt nó vào trạng thái báo động. Đồng thời, các hệ thống vỏ của trí nhớ được huy động để tìm kiếm mọi hiểu biết có liên quan tới tình huống và chúng lấn át tất cả các vùng khác chịu trách nhiệm về tư duy.
Đây chỉ là một phần trong toàn bộ những thay đổi do hạnh nhân điều khiển. Trong trường hợp khẩn cấp, mạng lưới liên lạc nơ-ron rộng rãi của nó cho phép lãnh đạo phần lớn bộ não, kể cả tinh thần lý trí.
Lính canh tâm lý
Một người bạn của tôi khi đi dạo nhìn thấy một cô gái lao mình xuống dòng nước. Không cần biết lý do, anh nhảy xuống nước và cứu sống cô gái.
Cái gì đã thúc đẩy bạn tôi nhảy xuống nước? Câu trả lời nằm trong hoạt động của hạnh nhân.
Trong một phát hiện, LeDoux đã chỉ ra cấu trúc não nào cho phép hạnh nhân làm tên lính canh tâm lý của bộ não2. Ông đã mô tả hành trình của những tín hiệu giác quan. Tín hiệu thứ nhất từ mắt hay tai đến đồi não, rồi qua một sợi liên bào, đến hạnh nhân. Tín hiệu thứ hai được phát đi từ đồi não tới vỏ não mới, bộ não suy nghĩ. Sự chia đôi này cho phép hạnh nhân bắt đầu phản ứng trước vỏ não mới, nơi xử lý thông tin tổng hợp trước khi đạt tới tri giác đầy đủ và lựa chọn phản ứng thích hợp nhất.
Những nghiên cứu của LeDoux mang tính cách mạng vì chúng là những nghiên cứu đầu tiên làm sáng rõ vai trò của hành trình nơ-ron đi tắt trong vỏ não mới. Sự tồn tại của mạch này giải thích phần lớn việc các xúc cảm đã thắng lý trí như thế nào.
Quan niệm chính thống cho rằng, để phát ra những phản ứng xúc cảm của nó, hạnh nhân phải phụ thuộc vào những tín hiệu do vỏ não mới phát đi. Nhưng LeDoux đã phát hiện ra một bó nơ-ron nhỏ hơn dẫn tới vỏ não mới trực tiếp nối liền với hạnh nhân. Hạnh nhân được các giác quan cung cấp thông tin trực tiếp và phát ra phản ứng trước khi những thông tin này được vỏ
não mới ghi nhận đầy đủ thông qua một con đường hẹp hơn và ngắn hơn.
Bằng những nghiên cứu về sự sợ hãi ở động vật, LeDoux xem xét quan niệm đã có về các xúc cảm. Trong một thí nghiệm, ông đã phá huỷ vỏ não thính giác của những con chuột trước khi đặt chúng trước một tín hiệu âm thanh có bộ phóng điện kèm theo. Các con chuột nhanh chóng học được việc sợ cú sốc điện sau khi có tín hiệu âm thanh ấy. Rõ ràng là tín hiệu âm thanh đã mượn được đường đi nhanh chóng giữa tai và hạnh nhân qua đồi não, tránh con đường phía trên. Tóm lại, chuột học đọc một phản ứng xúc cảm mà không có sự can thiệp của vỏ não mới. Hạnh nhân tiếp nhận các tín hiệu, nhớ lại thông tin và chỉ huy hòan toàn độc lập phản ứng sợ hãi.
LeDoux phát biểu rằng: “Về mặt giải phẫu, hệ thống chi phối các xúc cảm có thể hành động độc lập với vỏ não mới. Một số phản ứng và ký ức xúc cảm có thể hình thành mà không cần chút can thiệp nào của ý thức và nhận thức.” Hạnh nhân lưu trữ cả một tổ hợp những ký ức và những phản ứng mà chúng ta lấy ra từ đó nhưng hoàn toàn không có ý thức về điều này.
Những nghiên cứu khác đã chứng tỏ rằng trong một phần nghìn giây đầu tiên của tri giác, chúng ta không những biết được đó là cái gì, mà còn biết được nó có làm chúng ta thích thú hay không. “Cái vô thức nhận thức” không chỉ bằng lòng với việc nhận ra điều gì đó, mà còn đưa ra ý kiến về nó3. Những xúc cảm của chúng ta có một thế giới riêng, một thế giới có những ý tưởng riêng, hoàn toàn độc lập với ý tưởng của đầu óc lý trí.
Tín hiệu nhìn trước tiên được truyền từ võng mạc tới đồi não, ở đó nó được dịch ra theo ngôn ngữ bộ não và được đưa tới vỏ não nhìn. Ở đó nó được phân tích để có câu trả lời thích hợp. Nếu câu trả lời ấy là về xúc cảm, thì một tín hiệu sẽ đi tới hạnh nhân để kích thích các trung tâm xúc cảm. Nhưng một phần nhỏ của tín hiệu ban đầu trực tiếp chuyển từ đồi đến hạnh nhân, cho phép trả lời nhanh hơn nhưng kém chính xác hơn. Hạnh nhân, do đó, có thể phát ra câu trả lời xúc cảm trước khi trung tâm vỏ não hiểu được cái gì đang diễn ra.
Chuyên gia về trí nhớ xúc cảm
Những công trình mà LeDoux và những người khác nghiên cứu đã chỉ ra: cá ngựa có chức năng cung cấp trí nhớ cụ thể về bối cảnh của các sự kiện, mà không có nó thì không thể có ý nghĩa cảm xúc.
Nếu cá ngựa nhớ lại những sự kiện thô nguyên thì hạnh nhân nhớ lại mùi vị xúc cảm gắn với những sự kiện ấy. Nếu chúng ta tránh được tai nạn trên đường, thì cá ngựa có thể nhớ được hoàn cảnh đặc biệt của tai nạn: nơi xảy ra tai nạn, những người cùng đi hoặc nhãn hiệu của chiếc xe. Nhưng, mỗi lần như vậy, thì chính hạnh nhân phát ra sự lo ngại kịch phát. “Cá ngựa cho phép bạn nhận ra cô bạn hàng xóm của bạn. Nhưng hạnh nhân đã nhắc thêm rằng cô bạn ấy nhìn thật ác cảm”.
Bộ não nhờ vào phương pháp đơn giản nhưng tài tình để đem lại sức mạnh đặc biệt cho ký ức xúc cảm: các hệ thống báo động hóa học thần kinh chuẩn bị cho cơ thể phản ứng trong những tình huống nguy hiểm đã in dấu ấn lên trí nhớ. Trong trường hợp stress, lo âu hay hưng phấn, dây thần kinh nối liền bộ não với tuyến thượng thận ra lệnh tiết ra những hoóc-môn epinephrine và norepinephrine. Chúng lan tỏa trong cơ thể, đánh thức bộ tiếp nhận dọc theo dây thần kinh phế vị; nó cho phép bộ não điều tiết sự vận hành của tim, truyền những tín hiệu do epinephrine và norepinephrine phát đi theo hướng ngược lại. Những tín hiệu này đi tới hạnh nhân, và hạnh nhân báo cho các vùng não khác nhớ lại những gì đang diễn ra.
Rõ ràng sự hưng phấn của hạnh nhân có hiệu quả là in vào trí nhớ những thời điểm xúc cảm với sức mạnh khác thường. Chính vì thế, người ta nhớ rất rõ nơi hẹn hò đầu tiên với người yêu hay nhớ rõ mình đang làm gì khi biết tin một người thân qua đời. Hạnh nhân càng được kích thích, dấu ấn càng sâu sắc. Trên thực tế, bộ não có hai hệ thống nhớ, một cho những sự kiện thông thường và một cho những sự kiện đầy xúc cảm. Hệ thống thứ hai đặc trưng cho sự tiến hóa, vì nó cho phép động vật giữ được ký ức sống động về những gì nguy hiểm hay thích thú. Nhưng ký ức có xúc cảm mạnh cũng có thể là cố vấn tồi tức thời.
Những báo động nơ-ron lỗi thời
Một điểm yếu của báo động nơ-ron là thường xuyên bị lỗi thời. Hạnh nhân rà soát những kinh nghiệm và so sánh sự kiện hiện tại với những sự kiện đã qua. Nó tiến hành công việc này bằng liên tưởng: khi yếu tố then chốt của hoàn cảnh hiện có giống với yếu tố trong quá khứ, thì nó đồng nhất ngay tức khắc hai hoàn cảnh này. Điều đó giải thích sự thiếu chính xác của hệ thống − nó đi vào hành động trước khi có sự xác nhận đầy đủ. Nó ra lệnh cho chúng ta phản ứng với
hoàn cảnh hiện tại theo những ý nghĩa, xúc cảm rút ra từ hoàn cảnh thường mơ hồ giống với hoàn cảnh đó. Nhưng tiếc thay, những ký ức xúc cảm gây báo động ấy thường kéo theo phản ứng hoàn toàn không thích hợp.
Chẳng hạn, một nữ y tá quân đội bị tâm thần vì ám ảnh những vết thương khủng khiếp mà cô đã chữa chạy cho thương binh ở chiến trường. Cô cảm thấy ghê sợ và hốt hoảng khi mở ra cái tủ mà con mình giấu vào trong đó một tấm vải bẩn, như một phản ứng do mùi hôi thối gây ra.
Sự thiếu chính xác của bộ não xúc cảm càng trầm trọng hơn do ký ức có xúc cảm mạnh từ những năm đầu đời và gắn với mối liên hệ giữa đứa trẻ và môi trường sống. Điều này đặc biệt đúng với những sự kiện gây chấn thương tinh thần, như sự trừng phạt hay cách đối xử tệ hại. Trong thời thơ ấu, cấu trúc của bộ não, nhất là cá ngựa (lưu giữ những ký ức xúc cảm trung tính) và vỏ não mới (nơi trú ngụ của tư duy lý trí) còn chưa phát triển đầy đủ. Về trí nhớ, hạnh nhân và cá ngựa hoạt động phối hợp với nhau; mỗi thứ cất giữ và độc lập tìm thấy thông tin riêng. Trong khi cá ngựa tìm kiếm và tách thông tin ra, thì hạnh nhân xác định xem nó có mang một xúc cảm nào không.
Theo LeDoux, vai trò của hạnh nhân trong thời thơ ấu xác nhận nguyên lý cơ sở của phân tâm học: bản chất mối quan hệ giữa đứa trẻ với những người thân để lại dấu ấn rất sâu sắc. Sở dĩ những bài học đầu đời có sức mạnh như thế, vì chúng được in vào hạnh nhân dưới hình thức sơ đồ hướng dẫn vào lúc đời sống xúc cảm còn rất thô sơ, khi đứa trẻ chưa thể nói lên những kinh nghiệm của mình.
Những tình cảm bền vững và sướt mướt
Khoảng 3 giờ sáng, một vật to lọt qua trần nhà tôi và rơi xuống đất, kéo theo những vật để trên tầng nóc xuống. Tôi nhảy ra khỏi giường và vội chạy ra khỏi phòng, khiếp sợ vì nghĩ trần nhà sẽ rơi xuống đầu. Khi đã nấp cẩn thận, nhìn quanh, tôi nhận ra chỉ là chồng hộp ở góc tường bị đổ. Chẳng có gì rơi từ tầng nóc xuống vì làm gì có tầng nóc. Nếu đúng là trần sập thì tôi cũng không thoát.
Hạnh nhân phát huy hiệu quả khi gặp tình thế nguy hiểm, trong khi vỏ não mới chưa kịp hiểu được cái gì đang xảy ra. Con đường ngắn nhất nối liền thị giác và thính giác với hạnh nhân đóng vai trò hàng đầu: nó cho phép chúng ta hành động ngay lập tức. Nhưng vòng mạch này chỉ truyền đi một phần thông điệp của các giác quan, còn phần chính thì dùng con đường của vỏ não mới. Cái mà hạnh nhân nhận được là tín hiệu thô sơ, vừa đủ để báo động. Như LeDoux nhấn mạnh: “Không cần thiết phải nhận ra một điều gì thật chính xác mới biết nó là nguy
hiểm.”4
Con đường này rất nhanh, vì thời gian phản ứng chỉ bằng một phần nghìn giây. Ở loài chuột, hạnh nhân có thể phát ra phản ứng trong khoảng mười hai phần nghìn giây, trong khi hành trình qua vỏ não mới phải mất gấp đôi thời gian. Người ta vẫn chưa đo được thời gian phản ứng ở con người, nhưng có lẽ cũng khoảng từng đó thời gian.
Trong quá trình tiến hóa, vòng mạch này có giá trị rất lớn đối với sự sống còn: nó cho phép giảm bớt vài phần nghìn giây có ý nghĩa quyết định khi đối mặt với nguy hiểm, đảm bảo sự sống cho tổ tiên chúng ta. “Nhưng đây là quá trình thô sơ; cái giành được bằng tốc độ thì lại mất đi sự chính xác”, LeDoux khẳng định.
Ở con sóc, sự thiếu chính xác ấy không để lại hậu quả; nó chỉ mắc lỗi vì quá thận trọng, chạy trốn mối nguy hiểm ngay từ dấu hiệu đầu tiên hoặc vội vàng chạy tới khi có chỉ báo nhỏ nhất là có thức ăn. Nhưng đối với con người, điều đó có thể dẫn đến hậu quả trong mối quan hệ với mọi người như khi chúng ta chọn sai một vật hay một người để “chạy trốn” hoặc “vội vã lao đến” (chẳng hạn như một nữ tiếp viên nhà hàng đánh rơi khay thức ăn khi nhìn thấy người đàn bà giống người tình của chồng mình).
Những sai lầm ấy là kết quả của quyết định dựa vào xúc cảm mà không phải vào suy nghĩ. LeDoux nói tới “cảm tiền nhận thức” ở những sai lầm ấy, phản ứng dựa vào các thông tin cảm giác chưa được phân tích kỹ. Đó là những thông tin rất thô sơ, giống khi người ta tìm cách đoán đúng tên của một bản nhạc từ vài nốt chơi sai. Khi hạnh nhân nhận được những thông tin đó, nó đưa ngay ra kết luận và phát đi báo động trước khi xác nhận được đầy đủ dữ kiện, thậm chí chẳng có sự xác nhận nào hết.
Vì thế, không nên ngạc nhiên nếu chúng ta thiếu xét đoán khi chúng ta đang bị các xúc cảm chiếm lĩnh. Hạnh nhân gây ra phản ứng cuồng nộ hay hoảng sợ trước khi vỏ não mới phân tích được những gì đang diễn ra, vì những xúc cảm độc lập với tư duy và xảy ra trước cả khi tư duy có thể biểu hiện.
Nhạc trưởng của những xúc cảm
Khi Jessica, con gái của bạn tôi, lần đầu tiên ngủ đêm ở nhà bạn, mẹ cô bé không tỏ ra lo lắng nhưng khi điện thoại reo lúc nửa đêm, thì chị ấy hối hả chạy tới cái máy, tim đập mạnh, trong đầu hiện ra hình ảnh Jessica đang khóc. Nhưng đó chỉ là cuộc gọi nhầm. Trấn tĩnh lại, bạn tôi trả lời:“Thưa bà, bà gọi nhầm số rồi.”
Hạnh nhân phát ra phản ứng mạnh mẽ và lo lắng, nhưng một phần khác của não lại điều chỉnh những phản ứng ấy. Trung tâm làm dịu bớt phản ứng của hạnh nhân nằm ở đầu kia của vòng mạch chính dẫn tới vỏ não mới, trong những thùy trán trước nằm ngay sau trán. Vỏ não trán trước can thiệp khi một người sợ hãi hay giận dữ. Vai trò của nó là kiềm chế hay điều khiển những xúc cảm ấy để đương đầu với tình thế, hay để thay đổi phản ứng cho phù hợp với hoàn cảnh, như trong trường hợp mẹ của Jessica.
Các vùng trán trước ngay từ đầu đã tham gia kiểm soát phản ứng của chúng ta. Những thông tin cảm giác từ đồi não truyền đi phần lớn được gửi tới vỏ não mới, nơi ghi lại những gì nhận được và đem lại cho chúng một ý nghĩa. Thông tin này và phản ứng do nó gây ra được các thùy trán trước phối hợp lại. Đây là điểm xuất phát của sự hoạch định và tổ chức những hành động xúc cảm của chúng ta. Trong vỏ não mới, vô số những vòng mạch ghi lại và phân tích những thông tin ấy, và qua thùy trán trước, chúng tổ chức ra một phản ứng.
Trình tự những sự kiện cho phép phản ứng rành mạch này đã trở thành chuẩn mực, nhưng xúc cảm mạnh mẽ là một ngoại lệ. Khi một xúc cảm xuất hiện, các thùy trán trước chỉ trong vài khoảnh khắc đã ước lượng được tương quan lành dữ đối với mỗi phản ứng và nhằm tới phản ứng nào chúng cho là tốt nhất.
Phản ứng của vỏ não mới chậm hơn cơ chế khẩn cấp, vì nó phải huy động số vòng mạch nhiều hơn. Nó cũng thận trọng hơn và cân nhắc hơn, do tư duy đi trước xúc cảm. Khi chúng ta buồn sau một mất mát, khi chúng ta cảm thấy niềm vui sau chiến thắng hay bị tổn thương khi ngẫm lại những sự kiện hay cử chỉ của ai đó, thì đó chính là vỏ não mới đang hoạt động.
Giống như trong trường hợp hạnh nhân, nếu người ta ngăn cản hoạt động của các thùy trán trước, thì phần chủ yếu của đời sống xúc cảm bị biến mất. Vào những năm 1940, vai trò của các thùy trán trước được biết tới khi người ta cắt những chỗ nối kết giữa các thùy trán trước và những bộ phận khác của não để chữa chứng rối loạn tinh thần để người bệnh cảm thấy sự đau đớn “nhẹ đi”. Nhưng họ không còn đời sống xúc cảm nữa. Vòng mạch chủ chốt đã bị phá huỷ.
Những lúc nổi khùng có thể gồm hai động thái: sự kích thích của hạnh nhân và sự bất lực trong việc huy động các vùng vỏ não mới khi đối mặt với những tình huống xúc cảm mạnh mẽ. Vai trò nhạc trưởng của vỏ não trán trước là làm dịu bớt những tín hiệu báo động do hạnh nhân và các trung tâm rìa khác phát đi, phần nào giống với ông bố ngăn cản đứa con lấy một vật gì đó và bảo nó hãy lễ phép xin hoặc hãy chờ đợi5.
Mệnh lệnh chính đưa tới chỗ “dập tắt” một xúc cảm đau đớn có lẽ nằm ở thùy trán trước phía bên trái. Các nhà thần kinh học đã nghiên cứu những người bệnh bị tổn thương thùy trán và kết luận rằng thùy trán trước bên trái được dùng làm “bộ ổn nhiệt” để làm dịu những xúc cảm khó chịu. thùy trán trước bên phải là nơi trú ngụ của những xúc cảm tiêu cực như sợ hãi hay gây hấn, còn thùy trái thì kìm giữ xúc cảm này. Vì thế, những người bị tổn thương vỏ não trán trước cảm thấy lo âu và sợ hãi, trong khi những người bị tổn thương thùy phải lại “vui vẻ vô cớ”. Trong những lần khám, họ bông đùa và thoải mái như thể không cần biết tới kết quả khám6.
Tóm lại, thùy trán trước bên trái dường như tham dự vào một vòng mạch nơ-ron có thể trung hòa, hay ít ra cũng làm dịu bớt xúc cảm tiêu cực, trừ xúc cảm mạnh nhất. Nếu hạnh nhân thường phát ra tín hiệu báo động, thì thùy trán trước bên trái làm dịu bớt những xúc cảm nhiễu loạn. Những sự liên lạc giữa các vùng trán trước và rìa ấy đóng vai trò quyết định trong đời sống tinh thần, vượt quá sự điều tiết tỷ mỉ về các xúc cảm, và mối liên lạc ấy là cần thiết để hướng dẫn chúng ta khi đưa ra những quyết định lớn trong đời.
Sự hòa hợp giữa xúc cảm và tư duy
Sự liên lạc giữa hạnh nhân gồm cả những cấu trúc rìa kết nối với nó và vỏ não mới là trung tâm những “chiến trận” hay “hiệp ước hợp tác” giữa tư duy và xúc cảm. Sự tồn tại của vòng mạch này giải thích tại sao các xúc cảm là cần thiết cho tư duy, khi cần có quyết định khôn ngoan hay suy nghĩ sáng suốt.
Chẳng hạn, ta hãy xem các xúc cảm làm tê liệt tư duy như thế nào. Các nhà nghiên cứu về khoa học thần kinh gọi khả năng nhớ được những dữ kiện cần thiết để thực hiện một nhiệm vụ hay giải quyết một vấn đề, như mua một ngôi nhà hay tham dự một kỳ thi, là “trí nhớ tích cực”. Vỏ não trán trước là vùng não chịu trách nhiệm về trí nhớ tích cực này7. Nhưng sự tồn tại của vòng mạch giữa não rìa và thùy trán trước làm cho những tín hiệu do xúc cảm mạnh như lo âu, giận dữ phát ra có thể gây ra sự tê liệt nơ-ron bằng cách phá bỏ khả năng duy trì trí nhớ tích cực của thùy trán trước. Đó là lý do tại sao trong trường hợp phật ý, chúng ta thấy “không thể tập trung được”, và tại sao những rối nhiễu xúc cảm lâu bền lại làm tổn hại khả năng trí tuệ của một đứa trẻ và ngăn cản nó học tập hiệu quả.
Sự biến đổi đôi khi rất tinh vi ấy không phải bao giờ cũng khám phá được bằng những trắc nghiệm trí tuệ, nhưng những cuộc thăm khám tâm lý – thần kinh cẩn thận hơn, hay sự kích động liên tục và bốc đồng của đứa trẻ, làm cho chúng ta thấy rõ như vậy. Chẳng hạn, một nghiên cứu dựa trên trắc nghiệm tâm lý – thần kinh đã phát hiện những học sinh tiểu học có IQ
cao hơn mức trung bình, nhưng kết quả học tập lại thấp là do những học sinh ấy bị rối loạn ở vỏ não trán trước8. Chúng thường bốc đồng, lo lắng và hiếu động vì vùng trán trước không kiểm soát được những xung động rìa. Tuy có tiềm năng trí tuệ, nhưng những đứa trẻ này dễ gặp phải nhiều vấn đề như: học hành yếu kém, nghiện rượu và phạm tội, do không làm chủ được đời sống xúc cảm của mình. Bộ não xúc cảm là nơi điều khiển những phản ứng giận dữ cũng như đồng cảm. Những vòng mạch chịu trách nhiệm về các xúc cảm này được những thí nghiệm thời thơ ấu nhào nặn và chúng ta phải chịu trách nhiệm vì đã hoàn toàn phó mặc những kinh nghiệm ấy.
Cũng cần xem xét vai trò của xúc cảm khi chúng ta có những quyết định theo “lý trí”. Trong những nghiên cứu tìm hiểu đời sống tinh thần, Antonio Damasio, nhà thần kinh học của trường Đại học Iowa đã nghiên cứu cách ứng xử của những bệnh nhân chịu ảnh hưởng bởi vòng mạch thùy trán trước xem hạnh nhân đã bị tổn thương như thế nào. Tuy IQ cũng như mọi năng lực nhận thức của họ vẫn như trước, nhưng những quyết định của họ trong việc lựa chọn nghề nghiệp và trong đời sống riêng tư bị sai lầm nghiêm trọng, và thậm chí không ngừng thoái thác khi phải có quyết định đơn giản như lựa chọn giờ hẹn gặp ai đó vì họ không tiếp cận được với những hiểu biết xúc cảm của mình nữa. Ở điểm gặp nhau giữa tư duy và xúc cảm, hạnh nhân là nơi chứa những điều thích và không thích mà chúng ta tích luỹ được trong cuộc đời. Những gì vỏ não mới phân tích, bị cắt khỏi trí nhớ xúc cảm, không thể gây ra những phản ứng xúc cảm gắn với chúng. Một sự kích thích, dù của con vật yêu thích hay một người bị ghét bỏ, không còn gây ra sự hấp dẫn hay kinh sợ nữa. Những người bệnh này đã “quên mất” hiểu biết xúc cảm ấy vì họ đã mất đi chiếc chìa khóa nằm ở hạnh nhân.
Những sự kiện như vậy khiến Damasio cho rằng: trái với những quyết định theo lý trí, chúng đưa chúng ta vào phương hướng đúng mà logic thuần tuý có thể được sử dụng ở mức tốt nhất. Trong cuộc đời, chúng ta thường phải đụng đầu với hàng loạt những lựa chọn rắc rối (Phải chọn cách thức tiết kiệm nào? Lấy ai? v.v...). Nhưng hiểu biết của chúng ta về mặt xúc cảm (ký ức về một lần đầu tư sai hay đổ vỡ) chính là cảnh báo để có những lựa chọn ngay từ đầu. Theo Damasio, bộ não xúc cảm can thiệp vào sự lập luận cũng tương tự như bộ não suy nghĩ vậy.
Do đó, các xúc cảm rất quan trọng với lý trí. Trong vũ điệu của xúc cảm và tư duy, xúc cảm thường xuyên hướng dẫn lựa chọn của chúng ta, chúng hoạt động khớp với tinh thần lý trí và cho phép hoặc ngăn cấm hoạt động của lý trí. Cũng vậy, bộ não suy nghĩ đóng vai trò điều hành xúc cảm của chúng ta, trừ khi các xúc cảm thoát khỏi sự kiểm soát của chúng ta và để cho bộ não xúc cảm làm chủ.
Theo ý nghĩa nào đó, chúng ta có hai bộ não, hai tinh thần và hai hình thức khác nhau của trí tuệ; trí tuệ lý trí và trí tuệ xúc cảm. Cách chúng ta chỉ dẫn cuộc sống của mình được quyết định bởi hai thứ trí tuệ ấy, trí tuệ xúc cảm cũng quan trọng như IQ. Trên thực tế, không có trí tuệ xúc cảm, thì trí tuệ lý trí không thể hoạt động sáng suốt. Sự bổ sung lẫn nhau của hệ thống rìa và vỏ não mới, của hạnh nhân và các thùy trán trước, có nghĩa là mỗi hệ thống là tác nhân riêng của đời sống tinh thần. Khi sự đối thoại được thiết lập thích hợp giữa các tác nhân ấy, trí tuệ xúc cảm được hoàn thiện và năng lực trí tuệ cũng vậy.
Quan niệm truyền thống về sự đối kháng giữa lý trí và tình cảm đã bị đảo lộn: đây không phải là sự giải thoát khỏi các xúc cảm và thay thế chúng bằng lý trí, như Erasmus từng nói, mà là tìm được sự cân bằng tốt đẹp giữa hai mặt đó. Khuôn mẫu trước đây coi lý trí thoát khỏi các xúc cảm là lý tưởng. Khuôn mẫu mới bắt chúng ta phải hòa hợp giữa cái đầu và trái tim. Để đạt được điều đó, phải biết cách sử dụng trí tuệ xúc cảm.
Phần thứ hai: BẢN CHẤT CỦA TRÍ TUỆ XÚC CẢM
3. Khi trí tuệ thiếu minh mẫn
David Pologruto, giáo viên vật lý của trường trung học ở Floride, bị một trong những học sinh xuất sắc nhất của ông chém. Sự thật là:
Jason H, sinh viên năm thứ 2 của trường trung học Coral Springs, Florida, muốn theo ngành y. Anh ta mơ ước tới Harvard. Nhưng trong một lần kiểm tra, Pologruto cho anh ta điểm kém làm ảnh hưởng đến việc xin học. Jason đã cầm dao chém vào cổ giáo viên của mình trong phòng thí nghiệm vật lý.
Toà án xử trắng án cho Jason vì cho rằng anh ta bị một cơn điên bất thường (loạn tâm nhất thời). Jason khai rằng mình định tự sát trước Pologruto sau khi nói với ông ta chuyện ông ta đã cho anh điểm xấu.
Sau khi được nhận vào học một trường trung học tư thục, hai năm sau, Jason đỗ tú tài trong tốp đầu của lớp .
Tại sao một người thông minh lại có thể phạm sai lầm như thế? Câu trả lời là: trí tuệ lý thuyết không liên quan nhiều tới đời sống xúc cảm. Những người thông minh nhất có khi lại phó mặc cho những đam mê và xung năng của mình, và không phải cứ có IQ cao là tránh được điều đó.
Trái với quan niệm truyền thống, một trong những điều bí ẩn của tâm lý học là cho rằng bằng cấp, IQ và các kỳ thi không phải là những thứ dùng để tiên đoán chắc chắn ai sẽ thành công trong cuộc đời.
Trong những nhân tố quyết định dẫn tới thành công, IQ chiếm nhiều nhất là 20%. Như một nhà quan sát nhận xét: “Trong đa số trường hợp, vị trí chắc chắn mà cá nhân có được trong xã hội được quy định bởi những nhân tố khác, chẳng hạn như nguồn gốc xuất thân hoặc cơ may.”
Ngay cả Richard Herrnstein và Charles Murray, tác giả cuốn The Bell Curve gán cho IQ tầm quan trọng hàng đầu, cũng nhận xét: “Một sinh viên năm thứ nhất không nên mơ trở thành nhà toán học, nếu chỉ đạt 8/20 điểm môn này trong kỳ thi. Nhưng nếu anh ta muốn trở thành nhà kinh doanh hay phó chủ tịch nước thì chẳng có lý do gì để nản lòng cả. (...) Về kiểu thành công này, kết quả đạt được trong các kỳ thi chẳng quan trọng gì đối với đặc trưng nhân cách khác của anh ta.”
“Những đặc trưng khác” ấy là cái được chúng ta bàn tới ở đây, đó là năng lực tự thúc đẩy hay kiên trì trong khó khăn, làm chủ những xung năng của mình và nhẫn nại chờ đợi sự thỏa mãn ham muốn, đó là khả năng điều hòa tâm lý và không để suy nghĩ của mình bị sự buồn rầu chi phối, đó là khả năng đồng cảm và hy vọng. Trái với IQ, trí tuệ xúc cảm là khái niệm còn khá mới. Hiện nay, vẫn chưa có ai khẳng định rằng nó tính toán được đến đâu sự thành công hay thất bại của mỗi cá nhân. Nhưng những dữ kiện hiện có cho thấy ảnh hưởng của nó quan trọng, thậm chí còn lớn hơn IQ. Và trong khi một số người cho rằng IQ hoàn toàn không thể thay đổi được, thì như chúng ta thấy, trẻ em có thể đạt được những năng lực xúc cảm chủ yếu và có thể cải thiện chúng miễn là ta chịu khó giúp chúng.
Trí tuệ xúc cảm và số phận
Tôi có một người bạn từng đạt được kết quả tốt nhất trong kì thi đại học. Nhưng anh ta lại thường bỏ học. Do đó, phải mất 10 năm anh ta mới có được tấm bằng.
IQ thường không giải thích được sự khác nhau về số phận các cá nhân mà lúc đầu có vẻ giống nhau. Khi nhìn lại sự tiến thân của 90 sinh viên ở Harvard đầu những năm 1940, người ta thấy rằng những người giành được kết quả tốt nhất trong các kỳ thi lại không thành công bằng những người khác về tiền lương và vị trí nghề nghiệp. Hơn nữa, họ cũng không hạnh phúc hơn trong đời sống riêng tư .
Một ví dụ khác được lấy từ một nghiên cứu cho thấy những người giỏi nhất nhì tại nhiều trường đại học ở Illinois năm 1981, khi đến 30 tuổi, họ cũng không thành công nhiều hơn những bạn học trung bình trước đây. Mười năm sau đại học, chỉ 1/4 người có mặt trong tốp dẫn đầu nghề nghiệp của họ, thậm chí nhiều người đã xoay xở trong cuộc sống kém hơn rất nhiều những người khác.
Karen Arnold, giảng viên trường Đại học Boston, một trong những người tham gia nghiên cứu này, giải thích: “Tôi tưởng rằng chúng tôi gặp toàn những học trò giỏi. Nhưng, sau khi học xong, những người học giỏi cũng phải chiến đấu như những người khác. Việc một cá nhân nằm trong số những người học giỏi nhất lớp chỉ cho thấy anh ta đặc biệt có khả năng đạt điểm tốt chứ không nói lên điều gì về năng lực phản ứng của anh ta trước thăng trầm của cuộc đời”.
Vấn đề là: trí tuệ lý thuyết không chuẩn bị cho cá nhân đương đầu với những thử thách của cuộc sống và nắm bắt những cơ hội hiện ra. Nhưng ngay cả chỉ số IQ cao cũng không bảo đảm cho sự thịnh vượng, cho uy tín cũng như hạnh phúc. Nhà trường và nền văn hóa của chúng ta chỉ chú trọng đến các năng lực trừu tượng mà bỏ quên trí tuệ xúc cảm, nói cách khác, bỏ quên
toàn bộ những nét tính cách có ảnh hưởng rất lớn tới số phận của chúng ta. Giống như toán hay văn, đời sống xúc cảm là lĩnh vực trong đó người ta có thể chứng tỏ mình có tài năng nhiều hơn hay ít hơn, và nó đòi hỏi sự am hiểu nhất định. Và sự thành thạo của cá nhân về mặt này giải thích tại sao về sau anh ta sẽ thành công, trong khi một người khác, thông minh tương đương, lại không thành công. Năng lực xúc cảm là một siêu năng lực (meta-ability); nó quyết định việc chúng ta khai thác thế mạnh của mình, kể cả trí tuệ hiệu quả như thế nào.
Đương nhiên có rất nhiều con đường thành công, cũng như nhiều lĩnh vực trong đó những năng lực khác của chúng ta được đền bù. Trong xã hội dựa trên sự tăng trưởng tri thức này, đó chính là trường hợp thành thạo về kỹ thuật. Nhưng rõ ràng, những người có thói quen suy nghĩ kích thích hiệu quả, hiểu biết tình cảm, nắm được và làm chủ chúng, đoán được tình cảm của người khác và hòa hợp với họ tốt, thì sẽ có lợi thế trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống, trong tình yêu cũng như công việc.
Ngược lại, những người không kiểm soát được đời sống tình cảm của mình thì chịu những xung đột nội tâm và phá bỏ mất năng lực tập trung và suy nghĩ sáng rõ của họ.
Một hình thức khác của trí tuệ
Mới thoạt nhìn, Judy, 4 tuổi, là một bé gái hơi mờ nhạt. Bé sống co mình và dường như không tham dự vào trò chơi của những đứa trẻ khác. Thế nhưng, bé là người quan sát tinh tế về những cuộc tranh giành ảnh hưởng trong lớp mẫu giáo của mình; bé có trực giác tốt hơn tất cả các học sinh và nắm được nhạy nhất sự thay đổi tính khí của các bạn.
Sự tinh tế của bé bộc lộ rõ trong trò chơi lớp học, một trắc nghiệm về tính nhạy cảm trong các quan hệ xã hội. Khi thầy giáo yêu cầu Judy xếp các bạn trong lớp vào nơi các bạn thích nhất – góc làm thủ công, góc chơi các trò xếp nhà, v.v... – bé thực hiện hết sức chính xác. Và khi thầy giáo yêu cầu xếp mỗi bé trai và mỗi bé gái cùng với những đứa chúng hay chơi nhất, Judy cũng tỏ ra hiểu rất rõ đứa nào thích chơi nhất với đứa nào. Những sự lựa chọn chính xác của bé cho thấy Judy hiểu rất rõ bản đồ xã hội của lớp mình và có sự nhạy cảm đặc biệt so với những đứa trẻ cùng lứa. Sau này, chắn hẳn Judy sẽ thành thạo trong những lĩnh vực đòi hỏi tài năng giao tiếp của con người.
Không ai phát hiện được khả năng đó của Judy nếu bố mẹ bé không ghi tên bé vào học trường mẫu giáo ở Eliot-Pearson nằm trong dự án Spectrum – một chương trình nghiên cứu nhằm kích thích những hình thức trí tuệ khác nhau. Đối với dự án này, năng lực của con người được mở rộng ra nhiều. Ngoài đọc, viết và làm toán, ba cột trụ của dạy học truyền thống, chương
trình này còn dậy những năng lực như tính nhạy cảm xã hội là điều mà một nền giáo dục phải trau dồi cho học sinh, thay vì bỏ quên hay bóp nghẹt chúng đi. Nhà trường cần chuẩn bị cũng như khuyến khích trẻ em phát triển những năng lực để chúng có thể thành công, hoặc chỉ là để tự thể hiện mình.
Linh hồn của dự án Spectrum là Howard Gardner, một nhà tâm lý học ở trường Đại học Harvard6. Ông nói: “Đã đến lúc phải mở rộng thang tài năng như chúng ta đã dự kiến. Bằng cách hướng dẫn cho trẻ hướng tới lĩnh vực trong đó tài năng của chúng có thể được áp dụng sau này, trong đó trẻ được phát triển và tỏ ra am hiểu. Hiện nay, chúng ta hoàn toàn không thấy được điều đó. Chúng ta phải dành ít thời gian hơn cho việc xếp loại trẻ em, cho việc giúp chúng nhận ra năng lực thiên bẩm của chúng và cho việc trau dồi những năng lực phú bẩm ấy. Có vô số con đường đưa tới thành công và vô số tài năng cho phép chúng ta đạt tới thành công.”
Tác phẩm Frames of Mind của Gardner là tuyên ngôn chống lại “bạo quyền của IQ”. Nó chứng minh rằng không có hình thức duy nhất của trí tuệ quyết định thành công trong cuộc đời, mà đúng hơn, có cả một thang trí tuệ rộng lớn mà người ta có thể xếp vào bảy loại gồm năm trí thông minh cổ điển là sự hoạt bát về ăn nói và về logic toán, trí thông minh làm chủ không gian (như ở một kiến trúc sư hay họa sĩ), trí thông minh vận động (ở các vận động viên điền kinh và các vũ công), trí thông minh âm nhạc và hai loại “thông minh cá nhân” nữa được Gardner bổ sung, đó là những tài năng hiểu biết giữa các cá nhân và năng lực “đi sâu vào tâm lý” hay đơn giản hơn, ở sự hài lòng nội tâm nhờ việc sống hòa hợp với tình cảm sâu sắc của mình.
Gardner thừa nhận ông có phần tùy tiện khi giới hạn vào con số bảy loại hình thông minh, vì năng lực của con người rất đa dạng. Một thời gian sau, danh mục này ước tính có đến 20 loại. Chẳng hạn, trí thông minh cá nhân chia thành bốn năng lực khác nhau: năng lực hướng dẫn, năng lực duy trì các liên hệ và bạn bè, năng lực giải quyết các xung đột và năng lực cần thiết để phân tích các quan hệ xã hội mà chính Judy đã có.
Quan niệm về một trí thông minh đa dạng giúp chúng ta hình dung đầy đủ hơn về các năng lực và tiềm năng thành công của một đứa trẻ so với chỉ số IQ cổ điển.
Tư tưởng của Gardner đang tiếp tục phát triển. Mười năm sau lần đầu tiên trình bày lý thuyết của mình, Gardner tóm lược quan niệm của mình về “trí thông minh cá nhân” như sau:
Trí thông minh về quan hệ giữa các cá nhân là năng lực hiểu biết người khác: cái gì thúc đẩy họ, cách làm việc của họ, cách cộng tác với họ. (…) Trí tuệ cá nhân hướng nội (...) là năng lực về
quan hệ nhưng hướng vào bên trong. Đó là năng lực tạo ra được mô hình cụ thể và chân thật về bản thân mình và sử dụng nó để tổ chức cuộc sống có hiệu quả.
Gardner lưu ý rằng trung tâm trí tuệ về quan hệ giữa các cá nhân là “năng lực nắm được tâm trạng, tính khí, động cơ và ham muốn của người khác và phản ứng lại thích hợp”. Trong thứ trí tuệ này – như chìa khóa để tự hiểu mình – ông đưa vào cả “năng lực khám phá tình cảm của mình và năng lực lựa chọn tình cảm để hướng dẫn ứng xử của mình theo sự lựa chọn ấy”.
Khi hiểu biết cũng chưa đủ
Gardner nói tới vai trò các xúc cảm trong trí tuệ cá nhân nhưng chỉ dành cho nó sự triển khai ngắn ngủi. Có thể vì, như chính ông từng nói, những công trình của ông chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của mô hình tinh thần bắt nguồn từ các khoa học nhận thức. Do đó, ông có khuynh hướng nhấn mạnh tới sự hiểu biết: sự hiểu biết bản thân mình và người khác, để định hướng cuộc sống của mình và sống thuận hòa với người khác. Nhưng, cũng như trong lĩnh vực vận động không thể hiện bằng lời nói, lĩnh vực xúc cảm mở rộng ra ngoài cả ngôn ngữ và hiểu biết.
Gardner gán cho trực giác một vị trí quan trọng trong sự tri giác và làm chủ xúc cảm, nhưng ông cũng như các đồng nghiệp đã không đề cập đến vai trò của tình cảm trong hình thức trí tuệ ấy, mà chủ yếu nói tới sự hiểu biết những tình cảm ấy. Điều đó đã để lại cả một đại dương xúc cảm chưa được khám phá. Chính những xúc cảm này làm cho đời sống nội tâm và mối liên hệ với những người khác trở nên phức tạp, mạnh mẽ và thường khó hiểu. Vì thế, phải nghiên cứu xem trí tuệ tham dự vào các xúc cảm theo hướng nào và làm thế nào để xúc cảm mang tính trí tuệ.
Trong những năm 1950, tâm lý học bị trường phái ứng xử (behaviorists) chi phối. Trường phái này cho rằng chỉ có ứng xử nào quan sát được mới là đối tượng nghiên cứu khoa học. Họ loại trừ đời sống nội tâm, kể cả các xúc cảm, ra khỏi trường của khoa học.
Cuối những năm 1960, với “cuộc cách mạng nhận thức”, tâm lý học chú trọng tới cách tinh thần ghi lại và cất giữ thông tin, cũng như tới bản chất của trí tuệ. Nhưng các xúc cảm vẫn nằm ngoài cuộc. Người ta quan niệm trí tuệ xử lý vô tư và chặt chẽ các sự kiện.
Mô hình xử lý thông tin do các chuyên gia về khoa học nhận thức phát triển đã không tính đến việc tình cảm hướng dẫn, đôi khi còn chinh phục lý trí. Về mặt này, mô hình nhận thức là quan niệm bị hạn chế về tinh thần; nó không giải thích được sự xáo động của tình cảm đã đem lại hương vị cho tư duy như thế nào.
Các nhà tâm lý học thuộc thế hệ mới đánh giá cao quyền năng của xúc cảm, cũng như những nguy cơ của chúng. Thứ logic lạnh lùng không thể mang lại giải pháp đầy đủ có tính người mà tình cảm chính là cái bộc lộ tính người rõ nhất. Data, người máy trong Star Trek, cố cảm nhận các tình cảm do nó nhận ra rằng mình thiếu mất một phẩm chất căn bản. Nó khao khát tình bạn, khao khát sự chung thuỷ; giống như con người bằng thiếc trong Nhà ảo thuật ở Oz, nó thiếu trái tim. Data có thể chơi nhạc hay làm thơ với khả năng điêu luyện về kỹ thuật, nhưng vì thiếu chất trữ tình được tình cảm mang lại, nó làm những việc đó không có niềm đam mê. Chính sự ham muốn cho chúng ta biết rằng những giá trị cao nhất bắt nguồn từ trái tim – lòng tin, hy vọng, sự tận tuỵ, tình yêu – đều không có trong quan niệm nhận thức thuần tuý. Các xúc cảm làm đời sống của chúng ta trở nên phong phú.
Gardner thừa nhận ông có khuynh hướng chỉ xem xét trí tuệ ở khía cạnh nhận thức của nó, nhưng ông không phủ nhận rằng những năng lực xúc cảm có tầm quan trọng quyết định trong cuộc sống. Ông nhấn mạnh rằng: “Nhiều người có IQ 160 làm việc không bằng những người IQ không vượt quá 100, do những người trên có trí thông minh quan hệ cá nhân yếu hơn những người dưới. Và trong đời sống hằng ngày, không một hình thức trí tuệ nào quan trọng hơn hình thức ấy cả. Nếu bạn không có nó, bạn sẽ lựa chọn không đúng người bạn đời, nghề nghiệp của bạn v.v... Nhà trường nhất thiết phải giáo dục cho trẻ em hình thức trí tuệ đó.”
Các xúc cảm có mang tính trí tuệ không?
Để hiểu rõ như vậy là thế nào, chúng ta phải quay sang những nhà lý thuyết khác tiếp bước Gardner, đặc biệt là nhà tâm lý học Peter Salovey và John Mayer, những người nghiên cứu rất cụ thể người ta có thể làm cho các xúc cảm mang tính trí tuệ như thế nào10.
Một số người ủng hộ quan điểm về IQ không những không thấy mâu thuẫn giữa “xúc cảm” và “trí tuệ” mà còn đưa các xúc cảm vào lĩnh vực trí tuệ. Chẳng hạn, E.L.Thorndike, nhà tâm lý học xuất sắc đã góp phần quảng bá khái niệm IQ trong những năm 1920 và 1930 của thế kỷ XX, cho rằng “trí tuệ xã hội” là năng lực hiểu người khác và “hành động khôn ngoan trong những quan hệ con người”, là một phần của IQ ở mỗi cá nhân. Nhiều nhà tâm lý học thời đó còn cho rằng trí tuệ xã hội là năng lực điều khiển người khác. Nhưng không một quan niệm nào trong những quan niệm ấy có ảnh hưởng lớn tới các nhà lý thuyết về IQ. Thậm chí, năm 1960, một cuốn giáo khoa về các trắc nghiệm trí tuệ còn khẳng định rằng trí tuệ xã hội là khái niệm “vô ích”.
Trí tuệ cá nhân không thể bị bỏ qua, vì nó đồng thời tham dự vào trực giác và lương tri. Chẳng hạn, khi nhà tâm lý học Robert Sternberg yêu cầu những đối tượng của mình mô tả được “người có trí tuệ” thì một trong những nét thường được kể tới nhiều nhất là năng lực làm chủ
trên thực tế đối với những quan hệ con người.
Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều nhà tâm lý học cho rằng IQ chỉ là vùng hẹp của năng lực ngôn ngữ và toán học. Chẳng hạn, hai nhà tâm lý học Sternberg và Salovey đã cố gắng đưa ra công thức cần thiết để thành công trong cuộc đời. Đường hướng nghiên cứu này một lần nữa làm sáng tỏ vai trò hàng đầu của trí thông minh “cá nhân” hay xúc cảm.
Salovey cùng với đồng nghiệp John Mayer, đã tập hợp những hình thức trí tuệ cá nhân do Gardner đề xướng vào một định nghĩa chi tiết về trí tuệ xúc cảm, mà ông phân thành năm lĩnh vực chính:
1. Hiểu biết về các xúc cảm: Ý thức về bản thân – có thể nhận biết các xúc cảm của mình – là cơ sở của trí tuệ xúc cảm. Như chúng ta sẽ thấy ở Chương 4, năng lực này có ý nghĩa căn bản đối với sự hiểu biết bản thân và trực giác tâm lý. Ai bị mù về những gì mình cảm nhận được sẽ bị phó mặc cho những tình cảm của mình. Trái lại, những người biết chắc về cảm giác của mình sẽ có thể sống tốt hơn, cảm nhận chân thực và đúng đắn hơn về các quyết định của mình.
2. Làm chủ các xúc cảm: Năng lực làm cho những tình cảm của mình thích nghi với hoàn cảnh phụ thuộc vào ý thức về bản thân. Ở Chương 5, chúng ta sẽ thấy con người tự trấn an tinh thần của mình, thoát ra khỏi sự chi phối của lo âu, buồn rầu và giận dữ như thế nào, cũng như thấy được những hậu quả tiêu cực của tình trạng ngược lại. Những người không có năng lực tâm lý căn bản này thường xuyên phải đấu tranh chống lại những tình cảm nặng nề. Những ai có năng lực đó thì chịu đựng thất bại và những điều không mong muốn trong cuộc đời rất tốt.
3. Tự thúc đẩy: Ở Chương 6, chúng ta sẽ thấy cần phải hướng dẫn các xúc cảm để tập trung chú ý, tự kiềm chế và tự thúc đẩy. Sự kiểm soát các xúc cảm là cơ sở của mọi sự hoàn thiện. Năng lực tự đặt mình vào trạng thái linh hoạt tâm lý cho phép làm những điều xuất sắc. Những người có năng lực này sẽ làm việc vô cùng hiệu quả.
4. Nhận biết các xúc cảm của người khác. Sự đồng cảm là yếu tố căn bản của trí tuệ quan hệ cá nhân. Ở Chương 7, chúng ta sẽ nhận biết những cơ sở của sự đồng cảm, hậu quả về mặt xã hội nếu không có nó và lý do để nó đưa tới lòng vị tha. Những người biết đồng cảm có năng khiếu về dạy học, mua bán, quản lý và những nghề lấy lợi ích người khác làm hàng đầu.
5. Sự làm chủ những liên hệ con người: Nghệ thuật của sự liên hệ phần lớn là kỹ năng điều khiển các xúc cảm của mình với người khác. Chương 8 sẽ bàn về những năng lực đặc biệt liên quan đến sự làm chủ này, đến hiệu quả xã hội của nó và hậu quả nếu thiếu nó. Những người biết cách làm cho mình được lòng mọi người, biết lãnh đạo và hướng dẫn có hiệu quả những
liên hệ của mình với người khác đều có sự làm chủ này ở mức cao nhất. Họ thành công trong mọi công việc dựa vào những quan hệ hòa hợp.
Tất nhiên, ở mỗi người năng lực này lại có sự khác nhau từ người này sang người khác. Chẳng hạn, một số người có thể chế ngự sự lo lắng của mình, nhưng không biết làm dịu những lo lắng của một người khác. Nơ-ron chắc chắn là nguồn gốc của những sự khác nhau ấy, nhưng như chúng ta sẽ thấy, bộ não có sự co giãn rất lớn và nó thường xuyên học hỏi. Có thể bù đắp những khuyết điểm này; ở một mức độ nào đó, mỗi năng lực ấy bao hàm tập hợp những thói quen và phản ứng mà người ta có thể thay đổi cho tốt hơn, miễn là chịu khó làm như vậy.
IQ và trí tuệ xúc cảm: Những kiểu loại thuần tuý
IQ và trí tuệ xúc cảm không loại trừ lẫn nhau. Tất cả chúng ta đều có sự pha trộn trí tuệ lý trí và trí tuệ xúc cảm; những người có IQ cao nhưng trí tuệ xúc cảm thấp (hoặc ngược lại) là tương đối hiếm. Trên thực tế, có quan hệ nào đó giữa IQ và một số mặt của trí tuệ xúc cảm, nhưng hai thực thể này rất độc lập với nhau.
Trái với IQ, không có những trắc nghiệm quen thuộc để đo trí tuệ xúc cảm. Tuy tất cả các thành tố của nó là đối tượng của những nghiên cứu quan trọng, nhưng chỉ một số thành tố có thể trắc nghiệm được. Chẳng hạn, sự đồng cảm có thể nghiên cứu bằng cách yêu cầu đối tượng lý giải những tình cảm của một người khác từ biểu hiện trên gương mặt. Nhà tâm lý học Jack Block đã hoàn chỉnh một trắc nghiệm để đo cái được ông gọi là “sự uyển chuyển của cái tôi”, một khái niệm hoàn toàn giống với trí tuệ xúc cảm. Nhờ trắc nghiệm này, ông đã có thể so sánh hai kiểu lý thuyết thuần túy: một người có IQ cao và một người được phú cho những năng lực xúc cảm mạnh. Những sự khác nhau thật là rõ ràng.
Người thứ nhất (không có mọi trí tuệ xúc cảm) gần như là một biếm họa về trí tuệ, thành thạo mọi điều liên quan tới trí tuệ, nhưng vụng về trong đời sống riêng tư. Đàn ông có IQ cao thường có rất nhiều mối quan tâm trí tuệ và năng lực trí tuệ nổi bật. Họ có nhiều tham vọng, thích làm việc, có thể đoán trước, kiên trì và phần nào có xu hướng quan tâm tới bản thân mình. Họ cũng có óc phê phán và chiều ý, hay bắt bẻ và tự kiềm chế, vụng về về tính dục và về sự nhạy cảm, ít bộc lộ và dửng dưng, tẻ nhạt và lạnh lùng về những xúc cảm của mình.
Ngược lại, những người đàn ông có một trí tuệ xúc cảm lớn thường dễ dàng trong đời sống xã hội. Họ cởi mở và vui chuyện, ít căng thẳng và không nghiền ngẫm mấy về những mối bận tâm của mình, sẵn sàng giúp đỡ và gánh vác trách nhiệm, đồng thời thường có những nguyên tắc cá nhân khá mạnh. Họ tỏ ra dễ thiện cảm và ân cần. Đời sống tình cảm của họ phong phú nhưng
được kiềm chế: họ cảm thấy thoải mái trong đời sống riêng tư và cộng đồng.
Người đàn bà có IQ cao thuộc kiểu “thuần túy” tự tin vào những năng lực trí tuệ của mình, diễn đạt dễ dàng, thích công việc trí óc, và mối quan tâm về trí tuệ và mỹ học của họ rất khác nhau. Nhưng họ thường hướng nội và thường có những lo âu và cảm giác phạm tội; họ do dự khi buông thả cho sự giận dữ của mình (nhưng họ làm điều đó gián tiếp).
Ngược lại, người đàn bà thuộc kiểu xúc cảm “thuần túy” tỏ ra tự tin, thể hiện trực tiếp những tình cảm của mình và tự đánh giá mình một cách tích cực. Đối với họ, cuộc sống thật có ý nghĩa. Giống như đàn ông, họ cởi mở, dễ tiếp xúc và biết điều chỉnh những xúc cảm của mình đúng mực (thay vì để chúng bùng nổ và sau đó hối tiếc). Họ chịu đựng stress khá dễ dàng. Thái độ thoải mái về mặt xã hội của họ khiến họ dễ làm quen, họ hồn nhiên và nhạy cảm. Trái với những nữ trí thức thuần túy, họ ít lo âu và không hay nghiền ngẫm.
Đương nhiên, những chân dung này là ở dạng cực điểm. Nhưng chúng cho phép thấy được những gì mỗi chiều kích này thêm vào những phẩm chất của một cá nhân, vì mỗi người đều có hình thức trí tuệ này hay hình thức trí tuệ kia ở mức độ nhiều hơn hay ít hơn. Tuy nhiên, chính những phẩm chất “xúc cảm” làm cho chúng ta mang tính người đầy đủ hơn.
4. “Hãy hiểu chính mình!”
Theo một truyện cổ Nhật Bản, có anh chàng võ sĩ hung hăng thách thức một vị thiền sư giải thích cho anh ta thế nào là thiên đường và địa ngục. Thiền sư đáp lại với thái độ khinh miệt:
– Anh là kẻ lỗ mãng, ta không muốn mất thì giờ với những kẻ như anh.
Cảm thấy bị lăng nhục, võ sĩ giận điên người và rút kiếm ra, thét to:
– Ta có thể giết ngươi vì sự hỗn xược.
– Đó chính là địa ngục − Thiền sư thản nhiên đáp lại.
Kinh ngạc vì lời nói rất đúng ấy, võ sĩ bình tĩnh trở lại, tra gươm vào vỏ, chào thiền sư và cảm ơn ông ta vì đã giúp mình “đốn ngộ”.
– Đó chính là thiên đường − Thiền sư nói thêm.
Câu chuyện này cho thấy, buông thả mình theo những xúc cảm và có ý thức về chúng thật khác nhau. Yêu cầu của Socrate là “Hãy hiểu chính mình!” nói lên nguyên tắc cơ bản của xúc cảm: phải có ý thức về những tình cảm của mình ngay từ khi chúng vừa xuất hiện.
Có vẻ như những tình cảm của chúng ta rất rõ ràng, nhưng khi nhớ lại những tình tiết đã xảy ra, chúng ta đều không chú ý tới tình cảm thật sự của mình, hoặc có chú ý tới thì quá muộn. Các nhà tâm lý học gọi ý thức về tư duy của mình là siêu nhận thức (metacognition) và ý thức về những xúc cảm của mình là siêu tâm trạng (metamood). Tôi thích nói tới ý thức về bản thân (self-awareness) để chỉ sự chú ý thường xuyên tới trạng thái nội tâm của mình . Trong ý thức hướng nội ấy, tinh thần thường quan sát và xem xét chính kinh nghiệm của mình, kể cả các xúc cảm .
Ý thức về bản thân dường như xuất phát từ sự kích thích của vỏ não mới, đặc biệt là những vùng của ngôn ngữ phụ trách việc nhận biết và gọi tên những xúc cảm được gây ra.
Tóm lại, theo cách nói của John Mayer, một trong những cha đẻ của lý thuyết về trí tuệ xúc cảm, thì ý thức về bản thân có nghĩa là chúng ta đồng thời “có ý thức” về tâm trạng tức thời và cả về những ý nghĩ liên quan với tâm trạng ấy.3 Ý thức về bản thân có thể mang hình thức sự quan tâm “khách quan” không xét đoán đối với những trạng thái nội tâm của mình. Nhưng Mayer nhận xét rằng tính nhạy cảm ấy cũng có thể kém vô tư hơn. Khi đó, ý thức về những xúc
cảm của mình được thể hiện thành ý nghĩ như: “Lẽ ra ta không nên cảm thấy như thế”, “Mình sẽ nghĩ đến những điều tốt đẹp để vui lên” hoặc nếu phạm vi của ý thức hẹp hơn, đó là ý nghĩ thoáng qua, như “Đừng nghĩ tới điều đó nữa” để phản ứng với sự kiện đặc biệt gây khó chịu.
Tuy có sự phân biệt logic giữa việc có ý thức về những tình cảm của mình và việc muốn thay đổi chúng, Mayer cho rằng trên thực tế, hai thái độ ấy thường đi đôi với nhau tức là, thừa nhận mình đang ở trong tâm trạng hung dữ cũng là muốn mình không như vậy. Nhưng sự chấp nhận này khác với những cố gắng của chúng ta nhằm chấm dứt tình trạng mình bị bốc đồng cuốn theo. Khi chúng ta nói “Dừng lại ngay” với đứa trẻ vừa đứa bạn nó, chúng ta có thể bắt nó dừng lại, nhưng không hẳn làm cho nó bình tâm được. Sự giận dữ vẫn ám ảnh đứa trẻ – “Nhưng nó làm vỡ đồ chơi của cháu!” – vì nó không được xoa dịu. Ý thức về bản thân có ảnh hưởng mạnh hơn với những xúc cảm thù địch và gây hấn. Hiểu rằng mình đang giận dữ sẽ mở rộng các khả năng giải quyết quyết định cứ để mặc nó hoặc tự giải thoát khỏi nó.
Theo Mayer, con người có thể được chia thành ba nhóm khác nhau tùy theo quan hệ của họ với xúc cảm:
– Những người có ý thức về bản thân mình. Những người này tinh tế trong đời sống tình cảm của mình. Sự hiểu biết về những xúc cảm của chính họ đôi khi làm rõ thêm một số nét nhân cách khác như: độc lập, có tâm lý tốt, có ý thức về giới hạn của bản thân và nói chung có quan niệm tích cực về cuộc sống. Khi ở trong tâm trạng xấu, họ không bao giờ u uất kéo dài mà có thể nhanh chóng thoát ra. Tóm lại, tính cách của họ giúp họ chế ngự các xúc cảm.
– Những người để những xúc cảm của mình nhấn chìm. Những người này thường nghĩ họ không thể thoát khỏi những xúc cảm của mình, như thể bị chúng chỉ huy. Họ thất thường và không hề có ý thức về những tình cảm của mình, đến mức bị chìm ngập vào đó và bỏ mất mọi cảm giác về không gian. Do đó, họ cũng chẳng làm gì nhiều để thoát khỏi tâm trạng xấu và thường có cảm giác là không thể kiểm soát được đời sống tình cảm của mình.
– Những người chấp nhận các thiên hướng tinh thần của mình. Họ là người vừa có ý thức về những gì mình cảm nhận vừa chẳng làm gì để điều chỉnh lại. Dường như nhóm người này chia thành hai: một bên là những người có tâm trạng tốt, do đó, ít muốn thay đổi tâm trạng; một bên là những người vừa có ý thức về sự biến đổi tâm trạng của mình và chấp nhận chúng, lại vừa có khuynh hướng buông xuôi và chẳng làm gì cả. Khuynh hướng này thường gặp ở những người suy sụp, cam chịu thất vọng.
Người sôi nổi và người lãnh đạm
Hãy tưởng tượng các bạn đang ngồi trên máy bay từ New York đến San Francisco. Chuyến bay yên ổn, nhưng khi tới gần dãy núi Rockies, giọng nói của người phi công vang lên: “Thưa các quý ông quý bà, chúng ta sắp gặp khu vực thời tiết xấu. Xin mời các vị về chỗ ngồi và thắt dây an toàn lại.” Máy bay dữ dội như chiếc thuyền giữa cơn sóng gió.
Bạn phản ứng như thế nào? Bạn cắm cúi vào việc đọc báo và không chú ý gì tới những điều đang diễn ra, hay đọc rất kỹ quy định về an toàn, thăm dò dấu hiệu hốt hoảng trên mặt các nữ tiếp viên và căng tai ra để thấy yên tâm vì nghe các động cơ vẫn quay đều?
Phản ứng tự nhiên nhất bộc lộ rõ thái độ của chúng ta đối với những thử thách. Kịch bản máy bay trên là một phần của trắc nghiệm do nhà tâm lý học Suzanna Miller đưa ra nhằm đánh giá xem đối tượng có khuynh hướng chú ý tới tất cả chi tiết của một tình huống nguy hiểm không, hay trái lại, đối tượng cố nghĩ tới chuyện khác để đánh lạc hướng sự lo âu của mình. Hai hướng chú ý trên phản ánh hai cách nhận biết rất khác nhau về những phản ứng xúc cảm của mình. Những người hướng sự chú ý của mình vào bên trong do cảnh giác thường vô tình cường điệu phản ứng của mình, nhất là khi họ thiếu bình tĩnh do ý thức về bản thân đem lại. Những xúc cảm của họ, vì thế, dường như mạnh hơn. Còn người hướng sự chú ý của mình ra bên ngoài như tìm cách tự khuây khỏa thì ít có ý thức hơn về những phản ứng tâm lý của mình và do đó, làm giảm bớt cảm nhận về tình huống nguy hiểm.
Nói rõ hơn, điều đó nghĩa là một số người để mình bị chìm ngập trong ý thức về các xúc cảm, trong khi những người khác hầu như không có sự cảm nhận chúng. Giống như chàng sinh viên thấy lửa cháy trong phòng ngủ, nhưng không hề hấp tấp, vội vàng đi tìm bình dập lửa vì anh ta không cảm thấy tình thế khẩn cấp.
Câu chuyện này được nhà tâm lý học Edward Diener kể cho tôi. Chàng sinh viên ấy là người ít xúc cảm nhất mà ông từng thấy. Anh ta không có một niềm say mê, dù nhỏ nhất. Anh ta đi qua cuộc đời dửng dưng, ngay cả khi gặp tai họa trong phòng ngủ của mình.
Ở trường hợp đối lập, một người phụ nữ sau khi bị mất chiếc bút mình yêu thích đã ủ rũ nhiều ngày liền. Một lần bị thu hút bởi lời quảng cáo bán giày hạ giá, chị ta liền gác lại công việc đang làm, nhảy lên ô tô và phải mất ba giờ để tới cửa hàng bán giày hạ giá ở Chicago.
Diener nhận xét rằng, nhìn chung, phụ nữ cảm nhận những xúc cảm tích cực hay tiêu cực mạnh hơn đàn ông. Ngoài sự khác nhau về giới tính, đời sống tình cảm của những người có khả năng chú ý thường phong phú hơn. Tính nhạy cảm về sự chú ý này trước hết có ở phụ nữ, chỉ cần sự kích thích nhỏ nhất cũng đủ gây ra cơn bão xúc cảm. Trong khi với những đối tượng ở cực kia,
tình thế gay go nhất trên thực tế cũng không gây ra sự rùng mình nào.
Người không có tình cảm
Gary làm Ellen, vợ chưa cưới của anh ta bực mình, vì tuy anh ta thông minh, thành công trong nghề nghiệp nhưng về tình cảm lại là kẻ trống rỗng và vô cảm. Tỏ ra xuất sắc về khoa học và nghệ thuật, nhưng khi phải biểu lộ tình cảm của mình kể cả đối với Ellen, anh ta lại rơi vào câm lặng. “Tính tôi không thích biểu hiện các xúc cảm của mình. Tôi không biết nói gì và tôi chẳng cảm thấy xúc cảm mạnh mẽ nào, dù tích cực hay tiêu cực”, anh ta nói với bác sĩ điều trị mà anh ta đã đến khám theo yêu cầu của Ellen.
Anh ta không thể nói rõ tình cảm của mình với ai vì anh ta không biết mình cảm thấy gì. Anh ta nhớ rằng mình chưa bao giờ cảm thấy tức giận, buồn rầu hay vui mừng cả4.
Như bác sĩ điều trị của anh ta nhận xét, sự trống rỗng về xúc cảm ấy làm Gary và những người giống anh ta trở nên tẻ nhạt: “Họ làm mọi người chán. Vì thế, những người vợ bảo họ tìm tới các nhà điều trị tâm lý.” Sự trống rỗng về tình cảm của Gary minh họa cho chứng không diễn đạt được xúc cảm. Những người như anh ta không tìm được từ ngữ để diễn đạt tình cảm của mình. Thật ra, dường như họ chỉ đơn giản là không có tình cảm, dù có thể do họ bất lực về diễn đạt hơn là không có chút cảm xúc nào. Một trong những đặc trưng lâm sàng của người mắc chứng này là họ khó mô tả các tình cảm của họ cũng như của người khác và vốn từ “tình cảm” của họ hết sức hạn chế5. Hơn nữa, họ không thể phân biệt được xúc cảm khác nhau của mình và quan hệ giữa xúc cảm ấy với những cảm giác thể chất: một người mắc chứng này có thể hồi hộp, bồn chồn, toát mồ hôi, nhưng lại không biết rằng mình đang lo lắng.
“Những người mắc chứng không diễn tả được xúc cảm rất khác biệt, và giữa một xã hội được các tình cảm chi phối, họ lạc lõng như đến từ một hành tinh khác”− nhà tâm bệnh học Peter Sifneos, người tạo ra từ alexithymia năm 1972, mô tả họ như vậy. Chẳng hạn, những người mắc chứng này hiếm khi khóc, nhưng đã khóc thì khóc sướt mướt. Nhưng hỏi tại sao họ buồn thì họ chẳng biết trả lời thế nào. Một phụ nữ mắc chứng này đã khóc suốt đêm sau khi xem bộ phim kể về một bà mẹ có tám con chết vì ung thư. Khi bác sĩ gợi ý rằng phản ứng trên có lẽ do người mẹ của bà đang hấp hối vì bị ung thư, thì bà ngồi bất động, câm lặng và bối rối. Ông ta bèn hỏi bà đang cảm thấy gì, bà nói bà “thấy trong mình hết sức khó chịu” nhưng không biết nói cụ thể hơn về tình cảm của mình. Rồi bà nói thêm rằng bà đã khóc mà không biết chính xác tại sao.
Đó chính là cái nút của vấn đề. Không phải những người mắc chứng này không có tình cảm, mà
là họ không thể biết được chính xác tình cảm của mình đặc biệt là không biết diễn đạt tình cảm bằng lời. Họ thiếu hẳn năng lực làm cơ sở cho trí tuệ xúc cảm: ý thức về bản thân, tức là biết được mình cảm thấy điều gì khi xúc cảm của mình xuất hiện. Khi có chuyện xảy ra, hay một người nào đó đánh thức những tình cảm trong họ, họ cảm thấy hoang mang và bối rối, muốn tránh đi bằng mọi giá. Khi xúc cảm xuất hiện, họ liền coi đó là nguồn gốc của sự phiền nhiễu. Họ cảm thấy “khó chịu kinh khủng” nhưng không biết diễn đạt chính xác họ cảm thấy khó chịu như thế nào và vì cái gì.
Trong khi đến nay, vẫn chưa ai xác định chắc chắn được nguyên nhân của chứng không thể diễn đạt các xúc cảm, thì bác sĩ Sifneos cho rằng, đây có thể là sự tách rời giữa hệ thống rìa và vỏ não mới, đặc biệt với các trung tâm ngôn ngữ. Điều này phù hợp với những gì chúng ta đã biết về bộ não xúc cảm. Những người động kinh, khi bị cắt đi sự liên lạc này để ngăn ngừa những cơn bệnh mới, đều trở nên trống rỗng về xúc cảm, giống như những người mắc chứng không thể diễn đạt được xúc cảm và bỗng nhiên mất hết đời sống tưởng tượng. Tóm lại, tuy các vòng mạch của bộ não xúc cảm vẫn có thể phản ứng, nhưng vỏ não mới không thể phân biệt được các xúc cảm và không thể diễn đạt bằng những sắc thái của ngôn ngữ.
Ca ngợi tình cảm sâu sắc
Elliot từng khổ sở vì khối u to bằng quả cam nằm ngay sau trán. Ca phẫu thuật đã cắt bỏ nó, nhưng những ai từng biết rõ Elliot đều khẳng định rằng anh ta không như trước nữa, nhân cách của anh ta đã biến đổi hẳn. Trước đây, Elliot là luật sư nổi tiếng, bây giờ, anh ta không thể làm việc được. Vợ anh ta đã bỏ anh ta.
Trường hợp của anh ta thật rắc rối. Những năng lực trí tuệ của anh ta vẫn còn nguyên, nhưng anh ta mất hết thì giờ vào những chi tiết nhỏ nhặt và dường như đã mất hết mọi khả năng nhận xét về những công việc cần ưu tiên. Anh ta tìm đến một nhà thần kinh học với hy vọng việc phát hiện ra vấn đề gì đó về thần kinh sẽ cho phép anh ta được hưởng khoản trợ cấp tàn tật.
Antonio Damasio, nhà thần kinh học mà Elliot đến khám đã kinh ngạc khi thấy anh ta thiếu mất một số yếu tố trong danh mục năng lực tinh thần. Trong khi năng lực lập luận, trí nhớ, sự chú ý và những năng lực nhận thức khác còn nguyên vẹn, thì Elliot hầu như quên hết cảm giác về những gì từng xảy ra với mình. Càng kinh ngạc hơn khi anh ta kể lại cuộc đời mình như một khán giả thờ ơ, không say mê, không tiếc nuối, không buồn rầu, không một chút thất vọng hay giận dữ nào.
Theo Damasio, sự vô thức về xúc cảm của Elliot là do anh ta bị cắt đi một phần các thùy trán trước để lấy khối u ra. Ca phẫu thuật đã cắt đứt liên lạc giữa các trung tâm bên dưới của bộ não xúc cảm đặc biệt là của hạnh nhân và các vòng mạch kết nối với vỏ não mới, nơi trú ngụ của tư duy. Từ đó, Elliot suy nghĩ giống như cái máy: anh ta có thể thực hiện một thao tác cần thiết dù rất nhỏ để đưa ra một quyết định, nhưng hoàn toàn không thể phân định giá trị của những khả năng khác nhau. Đối với anh ta, mọi sự lựa chọn đều như nhau. Theo Damosio, ý thức quá ít ỏi về tình cảm đã làm lập luận của Elliot bị sai lạc.
Sự thiệt thòi này biểu hiện ở những quyết định bình thường nhất. Khi Damasio thử ấn định ngày giờ của lần gặp sau, Elliot tỏ ra lúng túng, do dự. Anh ta có lý do để bác bỏ hay chấp nhận mỗi lần hẹp gặp ấy, nhưng không thể cảm thấy được lúc nào là thích hợp với anh ta hơn. Vì thiếu ý thức về những tình cảm của mình, anh ta không lựa chọn được.
Bài học rút ra là tình cảm đóng một vai trò cơ bản trong những quyết định của chúng ta. Nếu tình cảm quá mãnh liệt có thể nguy hại với sự lập luận, thì sự không biết tới chúng cũng nguy hại không kém, nhất là khi phải có những quyết định mà tương lai của chúng ta phụ thuộc vào như: phải chọn nghề nào, nên tìm hiểu hay nên lấy ai, nên thuê hay mua ngôi nhà nào, v.v... Những câu hỏi này nảy sinh suốt cuộc đời. Nếu chỉ có lý trí thì không thể đưa ra những quyết định đó. Chúng đòi hỏi phải cảm nhận mọi cái “trong lòng mình” và phải sử dụng tình cảm sáng suốt được tích luỹ từ những kinh nghiệm đã qua. Có những lĩnh vực trong đó lý trí bị mù quáng nếu không có tình cảm.
Những dấu hiệu trực giác hướng dẫn chúng ta ở những thời điểm quyết định là ấn tượng “sâu thẳm” có nguồn gốc rìa, những cái mà Damasio gọi là “những kẻ ra dấu cho thân thể” (somatic markers), những tình cảm bản năng. Một “kẻ ra dấu cho thân thể” là loại báo động tự động, có vai trò thu hút sự chú ý về nguy cơ tiềm năng của hành động nào đó. Thường thì “những kẻ ra dấu” ấy làm chúng ta tránh được sự lựa chọn mà kinh nghiệm của chúng ta cảnh báo, nhưng cũng có khi chúng báo hiệu cho chúng ta về một cơ hội đừng bỏ lỡ. Tất cả những gì chúng ta cần là dấu hiệu chỉ ra hành động có nguy cơ gây tai họa. Mỗi lần một xúc cảm bản năng như vậy xuất hiện, chúng ta sẽ có quyết định đáng tin cậy hơn, do đó, thu hẹp phạm vi lựa chọn của chúng ta. Tóm lại, để những quyết định cá nhân được đúng đắn, chúng ta phải hành động phù hợp với tình cảm của mình.
Thăm dò cái vô thức
Sự trống rỗng về xúc cảm của Elliot cho phép giả định năng lực hiểu những xúc cảm khi chúng xuất hiện thường khác nhau giữa người này với người khác. Nếu thiếu đi một vùng mạch nơ-
ron sẽ dẫn tới sự suy yếu của năng lực nào đó, thì sự mạnh hay yếu đi tương đối của vòng mạch nơ-ron ấy ở những người khỏe mạnh phải đưa tới những trình độ năng lực tương ứng trong lĩnh vực ấy. Vì những nguyên nhân về mặt thần kinh gắn liền với vai trò của các vòng mạch trán trước trong sự hòa hợp các xúc cảm, một số người thấy mình run sợ hay vui mừng dễ hơn người khác, do đó, xúc cảm của họ dễ được đánh thức hơn.
Định hướng nội quan cũng có thể phụ thuộc vào vòng mạch này. Một số người dễ tiếp nhận những cách tượng trưng đặc biệt của tinh thần xúc cảm: các ẩn dụ, hình ảnh, thơ ca, bài hát và truyện cổ, cũng như những giấc mơ và huyền thoại, trong đó những liên tưởng mơ hồ quyết định diễn biến của câu chuyện, phù hợp với logic của tinh thần xúc cảm. Những người dễ tiếp nhận tự nhiên tiếng nói nội tâm của họ có thể truyền những thông điệp của nó dễ hơn. Khả năng tiếp nhận nội tâm ấy đem lại cho họ tài diễn đạt “sự sáng suốt của vô thức”, ý nghĩa của những giấc mơ, tượng trưng biểu hiện ham muốn sâu xa nhất của chúng ta.
Ý thức về bản thân là cái căn bản đối với trực giác. Một phần quan trọng của sự điều trị tâm lý chính là tìm cách củng cố năng lực này. Đối với Howard Gardner, Sigmund Freud là hiện thân điển hình cho trí tuệ nội tâm. Freud đã chứng minh sáng rõ rằng đời sống xúc cảm phần lớn là vô thức. Có thể kiểm nghiệm định đề ấy bằng kinh nghiệm. Nhiều cuộc thí nghiệm cho thấy người ta có thể tỏ ra thích thú đặc biệt với những gì mà mình không có ý thức là đã nhìn thấy trước đó. Tất cả các xúc cảm có thể là vô thức, và thường là như vậy.
Sự khởi đầu về mặt sinh lý của một xúc cảm diễn ra trước khi ta ý thức được nó. Chẳng hạn, khi đưa tấm ảnh chụp một con rắn cho người thường sợ rắn rết, thì nhiều vùng trên da anh ta liền xuất hiện mồ hôi, dấu hiệu đặc trưng cho sự sợ hãi, trong khi đó anh ta vẫn quả quyết rằng mình chẳng cảm thấy điều đó. Sự phản ứng bằng mồ hôi ấy vẫn xảy ra ngay cả khi anh ta xem bức ảnh con rắn ấy thật nhanh khi chưa kịp có ý niệm cụ thể về cái mình vừa xem, cũng như sau đó, khi anh ta có thể biết mình bắt đầu lo hãi. Khi những vận động xúc cảm tiền ý thức đầu tiên ấy hiện rõ lên, chúng sẽ có đủ sức mạnh để thâm nhập vào trường ý thức. Như vậy, có hai mức độ xúc cảm: mức độ hữu thức và mức độ vô thức. Khoảnh khắc xúc cảm trở thành hữu thức tương ứng với sự ghi nhận nó trong vỏ não trán.
Những xúc cảm ấp ủ ở bên này ngưỡng ý thức có thể ảnh hưởng sâu sắc tới cái cách chúng ta tri giác sự vật và phản ứng lại, tuy chưa hay biết gì về hoạt động của những xúc cảm ấy. Ví dụ, một người vừa mới bị phật ý, anh ta cáu gắt vì một lý do rất nhỏ và quát mắng những người gần gũi mình mà không có duyên cớ thật sự nào. Sự bực bội của anh ta được nung nấu ở rìa ý thức và đẩy anh ta tới những phản ứng nặng nề, nhưng có thể là anh ta không biết và thậm chí
ngạc nhiên khi có người nào đưa ra nhận xét ấy với anh ta. Nhưng khi anh ta đã biết được điều đó − khi sự bực bội được vỏ não anh ta nhận biết − thì anh ta có thể đánh giá lại mọi chuyện, quyết định thoát ra khỏi tình cảm tiêu cực của mình và thay đổi thái độ ấy. Như vậy, ý thức về những xúc cảm của mình là nền tảng cho hình thức căn bản thứ hai của trí tuệ xúc cảm: năng lực tự giải thoát khỏi tâm trạng xấu.
5. Nô lệ của cảm xúc
Vì đã đau khổ về mọi điều rồi,
Bạn chẳng có gì để đau khổ nữa,
Và cứ thế, chịu những ngọn roi đều đều của số phận.
Cũng như hưởng những ân huệ của nó (...)
Hãy chỉ cho ta xem một người chưa từng là nô lệ cho cảm xúc của mình, ta sẽ giữ người đó lại. Tận trong đáy lòng ta, trong trái tim của trái tim này,
Nơi ta đang giữ bạn (...)
– HAMLET nói với bạn mình là HARATION –
Sự tự chủ hay năng lực chống lại những đòn roi của số phận gây ra thay vì trở thành “nô lệ của cảm xúc” đã được ca ngợi như một đức hạnh từ thời Platon. Người Hy Lạp gọi nó là sophrosyne, nghĩa là “sự cẩn trọng và sự thông minh dẫn đường cho cuộc sống, một sự cân bằng sáng suốt chừng mực”. Theo Aristotle, cần phải có cảm xúc phù hợp, tức là cảm giác phải tương xứng với hoàn cảnh. Cảm xúc quá yếu sẽ tạo ra buồn phiền và xa cách; ngược lại, cảm xúc vượt tầm kiểm soát hay quá cực đoan và dai dẳng sẽ trở thành bệnh lý như trầm cảm, lo lắng, cuồng nộ hay tâm trạng bối rối thất thường.
Trong thực tế, chế ngự những cảm xúc tiêu cực chính là chìa khóa đem lại hạnh phúc và sự cân bằng. Tất nhiên, điều đó không có nghĩa là chúng ta chỉ nên có một loại xúc cảm duy nhất. Vui sướng cũng như buồn rầu đều đem lại hương vị cho cuộc sống. Trong phép toán của trái tim, tỷ lệ giữa xúc cảm tích cực và tiêu cực quyết định cảm giác hạnh phúc, đó là kết luận của những nghiên cứu tâm lý trong đó hàng trăm người đã mang theo máy nhắn tin để ghi lại cảm xúc của họ trong những thời điểm ngẫu nhiên. Hạnh phúc không phải là lẩn tránh những cảm giác khó chịu mà là chế ngự những cảm xúc mạnh, ngăn không cho chúng chiếm chỗ của tâm trạng vui vẻ, hài lòng. Những người từng trải qua những lúc giận dữ hay trầm cảm vẫn có thể cảm thấy hạnh phúc nếu họ cũng có những niềm vui và giây phút tuyệt vời. Những nghiên cứu này cũng cho thấy sự độc lập của trí tuệ xúc cảm với trí tuệ lý thuyết và gần như không có mối liên hệ nào giữa kết quả học tập hay chỉ số IQ với cảm giác hạnh phúc của con người.
Chính vì thế, việc chế ngự cảm xúc là hết sức cần thiết để tạo nên sự cân bằng. Những việc chúng ta làm, đặc biệt trong thời gian rỗi như đọc truyện, xem tivi hay những hoạt động giải trí đều nhằm mục đích đó. Nghệ thuật trấn an là nguyên tắc cơ bản trong cuộc sống. Một số nhà phân tâm học như John Bowlby và D. W. Winnicot coi đó là một công cụ tâm lý cần thiết nhất. Theo lý thuyết của họ, những đứa trẻ có tâm lý tốt thường tự trấn an mình bằng cách bắt chước những người chăm sóc chúng, nhờ đó, chúng ít bị tổn thương hơn trước biến đổi của não bộ xúc cảm.
Như chúng ta đã thấy, cấu tạo của bộ não khiến chúng ta thường không làm chủ hoặc hiếm khi làm chủ được khi nào chúng ta bị các xúc cảm cuốn đi hay cảm xúc ấy là gì. Tuy nhiên, chúng ta có thể biết được cảm xúc sẽ kéo dài bao lâu. Những cảm xúc buồn bã, lo âu hay giận dữ thoáng qua không phải là vấn đề nảy sinh, thông thường chúng sẽ qua đi theo thời gian và sự kiên nhẫn. Nhưng khi những xúc cảm này vượt quá mức nào đó, chúng sẽ trở thành những nỗi đau khổ cùng cực như lo sợ thường trực, cuồng nộ hay trầm cảm. Trong những trường hợp đó, năng lực chế ngự cảm xúc là nhận ra được thời điểm tâm trạng lo âu kéo dài trong não bộ xúc cảm quá mạnh và không thể vượt qua nếu không dùng thuốc. Đối với những trường hợp rối loạn xúc cảm nghiêm trọng, việc chữa trị bằng thuốc là biện pháp để cuộc sống của họ tốt đẹp hơn.
Với những xúc cảm tiêu cực thông thường, chúng ta thường tự xoay sở. Nhưng không phải bao giờ cũng hữu hiệu, đó là kết luận của nhà tâm lý học Diane Tice sau khi điều tra hơn 400 người về những cách họ dùng để thoát khỏi tâm trạng xấu cũng như kết quả mà họ đạt được1.
Tuy nhiên, khoảng 5% số người được hỏi cho rằng họ không bao giờ thay đổi tâm trạng của mình vì theo họ, cảm xúc là "tự nhiên" và cần được trải nghiệm khi chúng đến, cho dù chúng buồn chán đến mức nào. Bên cạnh đó, có những người phải cố tạo ra tâm trạng tiêu cực vì lý do thực tiễn, ví dụ như các thầy thuốc phải tỏ ra buồn rầu khi thông báo tin xấu cho bệnh nhân. Ngoài ra, một số người biến cảm xúc của mình thành thủ đoạn nhằm mục đích nào đó, đặc biệt là những nhân viên thi hành án cố ý giận dữ với người không chịu nộp tiền phạt2. Tuy nhiên, ngoài những trường hợp ít gặp này, phần lớn mọi người than phiền rằng họ phó mặc mình cho tâm trạng định đoạt. Và các ghi chép cho thấy cách họ điều chỉnh tâm trạng cũng rất khác nhau.
Giải phẫu cơn thịnh nộ
Giả sử một ai đó băng qua đường khi bạn đang lái xe trên đường cao tốc. Chỉ cần bạn nghĩ rằng: “thật là một kẻ thô lỗ” thì một cơn thịnh nộ có thể bùng lên, cho dù sau đó nó có kèm theo
những ý nghĩ khác nữa hay không, đại loại như “Hắn ta suýt đâm vào mình! Mình không thể để hắn chuồn như vậy được.” Bạn nắm chặt tay lái như thể đang siết cổ tên kia. Toàn thân bạn chuẩn bị để đánh nhau chứ không phải để lái xe, người run lên, mồ hôi lấm chấm trên trán, tim đập liên hồi và các cơ mặt của bạn co lại. Nếu lúc đó, người lái xe đi sau bạn bóp còi vì bạn chạy chậm lại, thì bạn sẵn sàng trút cơn giận của mình lên anh ta. Chỉ cần thế là đủ để huyết áp bạn tăng lên, lái xe bất cẩn hay phóng như bay trên đường cao tốc.
Nhưng nếu bạn suy nghĩ khoan dung hơn:“Chắc anh ta không nhìn thấy mình, hoặc anh ta có lý do để lái xe bất cẩn như vậy”, điều đó có thể hạ nhiệt cơn giận hay khiến bạn thoải mái hơn và bỏ qua cơn giận dữ. Aristote đã từng nói “chỉ nên nổi giận vì những lý do chính đáng nhưng vấn đề là ở chỗ cơn giận thường xảy ra mà chúng ta không thể kiểm soát được. Benjamin Franklin rất chí lý khi nói rằng: “Giận dữ không bao giờ vô cớ, nhưng hiếm khi có lý do chính đáng.”
Tất nhiên, có nhiều kiểu giận dữ khác nhau. Khối hạnh nhân (một cơ quan trên bán cầu não có hình quả hạnh nhân) rất có thể là một trong những nguồn chính phát ra cơn thịnh nộ mà ta cảm thấy đối với người lái xe kia. Thế nhưng, ở cực kia của vòng mạch cảm xúc, vỏ não dường như cũng kích thích những cơn giận dữ, chẳng hạn như ý nghĩ trả thù vì sự bất công hay tổn thương. Những cơn giận này thường được biện minh bằng “lý do chính đáng” như Franklin đã nói hoặc là những lý do có vẻ chính đáng.
Trong tất cả những tâm trạng tiêu cực mà con người muốn thoát khỏi, sự giận dữ dường như là bất trị nhất. Tice nhận thấy giận dữ là trạng thái khó chế ngự nhất của tâm hồn. Nó có sức hấp dẫn hơn cả trong các xúc cảm tiêu cực. Trái với buồn rầu, sự giận dữ chứa đầy năng lượng, thậm chí mang lại sảng khoái. Chính vì thế, có quan điểm cho rằng không thể kiểm soát được sự giận dữ, hay trong bất cứ trường hợp nào cũng không nên kiểm soát nó, cứ để cho cơn giận nổ ra như một cách “giải thoát” có lợi. Nhưng có quan niệm lại cho rằng có thể ngăn cơn giận hoàn toàn. Tuy nhiên, cả hai quan điểm này đều sai lầm, nếu không muốn nói là hoang đường.
Chuỗi suy nghĩ dẫn tới sự giận dữ cũng là chìa khóa tiềm năng để ngăn cơn giận nổ ra bằng cách phá vỡ những lý lẽ tiếp thêm cho cơn giận ngay từ lúc đầu. Chúng ta càng nghiền ngẫm về nguyên nhân cơn giận của mình thì càng dễ biện bạch ra những “lý do chính đáng”. Điều này chỉ càng đổ thêm dầu vào lửa, còn nếu thay đổi cách nhìn, bạn sẽ dập tắt được nó. Diane Tice nhận thấy rằng việc xem xét tình huống dưới góc nhìn tích cực là một trong những cách hiệu nghiệm nhất để xoa dịu sự bực mình.
Cơn giận tức thì
Theo nhà tâm lý học Dolf Zillmann tại Đại học Alabama, ngòi nổ thường thấy của cơn giận chính là cảm giác bị đe doạ. Sự đe dọa không chỉ là những nguy cơ rõ ràng về mặt thể chất mà nhiều khi đó còn là nguy cơ xâm phạm lòng tự trọng hay phẩm giá: đó là việc bị đối xử bất công hay thô bạo, bị chửi mắng hay sỉ nhục, bị ngăn cản khi theo đuổi một mục tiêu nào đó. Việc cảm nhận mối đe dọa này đưa tới phản ứng của hệ thống rìa, hệ thống này tác động tới bộ não ở hai mặt. Một mặt, nó giải thoát catecholamin (một loại hợp chất hữu cơ truyền tín hiệu thần kinh hoặc hoóc-môn), tạo ra một luồng năng lượng đột ngột đủ để gây ra một “hành động quyết liệt”. Năng lượng dâng trào kéo dài vài phút, trong khoảng thời gian đó toàn thân sẵn sàng để đánh lại hay chạy trốn, tùy theo não bộ xúc cảm đánh giá sức mạnh của đối thủ ra sao.
Mặt khác, một làn sóng khác bắt nguồn từ khối hạnh nhân, qua tuyến thượng thận của hệ thần kinh, cũng tạo ra những thông tin chung bổ trợ để sẵn sàng hành động và kéo dài hơn sự thúc đẩy của catecholamin. Sự hưng phấn của vỏ não và tuyến thượng thận có thể kéo dài vài giờ, thậm chí vài ngày, khiến cho não bộ xúc cảm luôn trong trạng thái báo động và giúp cho các phản ứng khác có thể phát ra đặc biệt nhanh chóng. Do đó, một người trở về nhà sau ngày làm việc vất vả rất dễ nổi giận vì những lý do như tiếng ồn hay đống bày bừa của lũ trẻ.
Zillmann đã đi tới kết luận thấu đáo này thông qua những thí nghiệm kỹ lưỡng. Ví dụ, trong một thí nghiệm điển hình, ông yêu cầu người cộng tác khiêu khích những người tình nguyện tham gia thí nghiệm gồm cả nam và nữ bằng lời nhận xét ác ý về họ. Những người này sau đó được xem một cuốn phim thú vị hoặc khó chịu. Sau đó, họ có thể trả đũa người cộng tác kia bằng cách đưa ra ý kiến của họ về việc có thuê anh ta hay không. Mức độ trả thù của họ tương ứng trực tiếp với những kích thích do cuốn phim vừa xem gây ra; sau khi xem một bộ phim nặng nề, họ càng tức giận hơn và đưa ra những ý kiến tồi tệ nhất.
Giận dữ tạo nên giận dữ
Zillmann nhận thấy khi một người đã nổi cáu vì sự kiện nào đó làm cho xúc cảm trào dâng, thì những cảm xúc tiếp theo bất kể là sự giận dữ hay lo lắng đều đặc biệt mạnh mẽ. Cơ chế này hoạt động khi một người điên tiết lên. Zillmann coi sự leo thang giận dữ là “một chuỗi khiêu khích, mỗi chuỗi phát ra phản ứng kích thích từ từ dịu đi”. Trong chuỗi này, mỗi ý nghĩ hay cảm nhận kế tiếp giống như một ngòi nổ nhỏ khiến khối hạnh nhân giải phóng catecholamin và được dựa trên xung lượng hoóc-môn tăng vọt trước đó. Lượt thứ hai hình thành trước khi lượt thứ nhất lắng xuống và cứ thế tiếp diễn. Đợt sóng sau đè lên làn bọt của đợt sóng trước, khiến mức độ kích thích của cơ thể tăng lên nhanh chóng. Một ý nghĩ xuất hiện khi quá trình leo thang đã tiến khá xa sẽ gây ra cơn giận dữ kịch liệt hơn nhiều so với lúc đầu. Giận dữ tạo
nên giận dữ, não bộ xúc cảm sôi lên, và sau đó, cơn thịnh nộ vô cớ dễ dàng gây ra bạo lực.
Lúc này, con người không còn khoan dung và tỉnh táo nữa, tâm trí bị ám ảnh bởi những ý nghĩ trả thù bất chấp những hậu quả có thể gây ra. Zillmann cho rằng sự kích thích mạnh mẽ ấy “tăng cường ảo giác về sức mạnh và khả năng bất bại, có thể gây ra và thúc đẩy một cuộc chiến; khi một người nổi giận, họ sẽ “mất ý thức” và quay lại với phản ứng bản năng nhất. Sự thúc đẩy của hệ thống rìa sẽ lấn át và bài học sơ khai nhất về cái ác của cuộc đời sẽ chỉ đạo hành động.
Làm dịu cơn giận dữ
Từ những phân tích về sự giận dữ nêu trên, Zillmann đưa ra hai cách can thiệp chính. Thứ nhất là tháo ngòi nổ bằng cách chống lại những ý nghĩ làm cho nó tăng vọt lên. Thời điểm can thiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng; nó càng đến sớm thì càng hiệu quả. Thực tế, cơn giận hoàn toàn được bỏ qua nếu những thông tin giảm nhẹ đến trước khi nó nổ ra.
Có thể thấy rõ khả năng hạ nhiệt cơn giận do hiểu được cơ chế của nó qua một thí nghiệm khác của Zillmann, trong đó người trợ lý của ông mắng chửi và khiêu khích những người tình nguyện tham gia thí nghiệm. Khi họ có cơ hội trả thù người trợ lý kia (cũng bằng cách lấy ý kiến của họ để cân nhắc đơn xin việc của anh ta), họ đã làm điều đó với niềm vui sướng vô cùng. Nhưng trong một thí nghiệm khác, một người trợ lý khác bước vào khi các đối tượng đã bị khiêu khích, nhưng trước khi cho họ cơ hội trả thù, cô nói với kẻ khiêu khích kia rằng anh ta có cuộc điện thoại ở dưới sảnh. Anh ta vừa đi ra khỏi phòng vừa ném ra lời nhận xét châm chọc đối với cô gái. Nhưng cô không lấy làm khó chịu và giải thích cho các đối tượng biết rằng anh ta đang chịu áp lực kinh khủng và lo lắng vì kỳ thi tốt nghiệp đang đến gần. Sau đó, khi có cơ hội trả thù, họ chẳng làm gì cả, trái lại, còn bày tỏ sự thông cảm với anh ta.
Những thông tin giảm nhẹ như vậy cho phép đánh giá lại các sự kiện đã gây nên cơn giận dữ và đem lại cơ hội cho sự “xuống thang”. Zillmann nhận thấy cách làm này rất hiệu quả đối với những cơn giận vừa phải; trái lại khi một người đang giận dữ cao độ thì nó chẳng thay đổi được điều gì bởi cái mà ông gọi là “mất khả năng nhận thức”, nghĩa là người đó không thể suy nghĩ đúng đắn được nữa. Khi con người giận dữ cao độ, họ gạt bỏ thông tin giảm nhẹ ấy.
Tự trấn an
Năm 13 tuổi, có lần tôi giận dữ đi khỏi nhà và thề sẽ không bao giờ trở về nữa. Đó là ngày mùa hè tuyệt vời, tôi đã đi bộ rất lâu trên những con đường đẹp, cuối cùng sự yên lặng và vẻ đẹp của chúng làm lòng tôi dịu xuống. Sau vài tiếng đồng hồ, tôi về nhà, hối hận và mệt lử. Từ hôm ấy, mỗi khi nổi giận, tôi thường dùng cách đó và tôi nhận thấy đó là phương thuốc hữu hiệu nhất
tôi được biết.
Câu chuyện này là của một người tham gia thí nghiệm trong một nghiên cứu khoa học đầu tiên về sự giận dữ năm 1899. Đến nay, nó vẫn là một hình mẫu của phương pháp thứ hai nhằm “xuống thang” và tự xoa dịu về mặt sinh lý bằng cách để cho cơn kịch phát của tuyến thượng thận qua đi và khó có thể gây ra cơn giận dữ sau đó.
Còn theo Diane Tice, một trong những chiến lược hữu hiệu mà mọi người thường dùng để làm dịu cơn thịnh nộ của mình là bỏ đi khỏi nơi đó. Một biện pháp an toàn hơn là đi bộ và tập thể dục. Điều này cũng đúng cả với phương pháp thư giãn, thở sâu và thả lỏng các cơ, có lẽ vì những phương pháp này cho phép thân thể chuyển từ trạng thái bị kích động mạnh sang một trạng thái kích thích yếu hơn, và có thể chúng làm người ta không chú ý đến những gì đã châm ngòi cho cơn giận nữa.
Tuy nhiên, chúng ta sẽ không đạt được mục tiêu nếu thời gian xoa dịu được dùng để tăng thêm những ý nghĩ giận dữ. Tác dụng của việc giải trí là ở chỗ chúng cắt đứt được chuỗi ý nghĩ gây hấn. Trong cuộc điều tra về những chiến lược được nhiều người sử dụng, Tice nhận thấy việc tìm cách tự giải trí giúp làm dịu sự giận dữ như xem truyền hình, điện ảnh, đọc sách, v.v... tất cả những điều đó đan xen với những ý nghĩ giận dữ sẽ làm tiêu tan cơn thịnh nộ. Trái lại, đi mua sắm cho mình hay ăn uống, sẽ không có hiệu quả lắm vì khi đó người ta rất dễ tiếp tục nghiền ngẫm sự tức giận của mình.
Ngoài ra, một bác sĩ tâm thần khác là Redford Williams đã đưa ra phương pháp là cố gắng nghĩ những điều tồi tệ hay thù địch khi chúng vừa hiện ra và ghi lại trên giấy. Khi đã nắm bắt được những ý nghĩ ấy, người ta có thể phản bác và đánh giá lại. Tuy nhiên, Zillmann cho rằng, phương pháp này chỉ mang lại kết quả tốt nhất khi sự giận dữ chưa trở thành cơn thịnh nộ.
Để mặc cơn giận dữ không phải là giải pháp
Việc để mặc cho cơn thịnh nộ bùng phát đôi khi được ca ngợi như cách tốt để trút bỏ sự giận dữ của mình. Theo quan niệm này, điều đó cho phép ta “cảm thấy dễ chịu hơn”. Nhưng những khám phá của Zillmann cho thấy, có nhiều lý do để tin rằng đó không phải là giải pháp. Tuy do tính hấp dẫn của nó, thái độ này có thể khiến người ta tưởng nó hữu ích. Trong một số điều kiện rất đặc biệt, có thể có ích khi buông thả sự giận dữ của mình. Chẳng hạn, như khi người ta nói ra sự thật cho một người nào đó, hoặc khi điều đó cho phép lấy lại quyền kiểm soát một tình huống hay uốn nắn những lỗi lầm. Hoặc khi điều đó chạm tới người khác “thích hợp” và làm cho người đó thay đổi thái độ mà không tìm cách trả thù.
Diane Tice khẳng định, việc để mặc cho cơn giận của mình nổ ra là một trong những cách tồi tệ nhất để xoa dịu, vì nó càng kích thích não bộ xúc cảm nhiều hơn, và cuối cùng càng giận dữ hơn trước. Theo ông, khi những người được hỏi khẳng định họ đã trút được cơn thịnh nộ lên kẻ đã gây ra nó, thì xét cho cùng, điều đó cũng chỉ dẫn tới chỗ duy trì tâm trạng khó chịu của họ chứ không thể chấm dứt nó. Thái độ đúng đắn là hãy bắt đầu tự trấn an, rồi với tinh thần xây dựng, giải quyết mối bất đồng trong một cuộc gặp tay đôi. Theo giáo chủ Tây Tạng Chogyam Trungpa, cách tốt nhất để chế ngự sự giận dữ, đó là “Đừng tìm cách loại trừ nó, nhưng cũng đừng để nó chi phối hành động của mình”.
Làm thế nào để xua tan mối lo âu:
“Tôi đang lo lắng ư?”
Thật lạ! Tiếng động cơ nghe kỳ cục làm sao... Nếu tôi phải đưa xe đi sửa, thì còn tốn kém nữa... Rồi còn bảng điểm xấu tuần qua...
... Đúng là động cơ hỏng mất rồi...
Những đầu óc hay lo lắng cứ tự khép vào vòng luẩn quẩn hết mối lo này đến mối lo khác, để rồi cuối cùng quay lại với mối lo đầu tiên. Ví dụ trên do các nhà tâm lý học Lizabeth Roemer và Thomas Borkovec đưa ra. Hai ông đã tiến hành những nghiên cứu về thiên hướng hay lo – trung tâm của mọi sự lo lắng. Tất nhiên, đây không phải là đề cập tới những nỗi lo mang tính xây dựng. Mặc dầu hai thái độ ấy bề ngoài thì giống nhau, nhưng sự lo lắng theo chiều hướng xây dựng mang lại cơ may tìm thấy những giải pháp khác. Thật vậy, phản ứng làm cơ sở của nỗi lo lắng chính là sự cảnh giác trước nguy cơ tiềm tàng. Cách ứng xử này chắc chắn đã giúp tổ tiên chúng ta sống sót trong quá trình tiến hóa của mình. Nếu sự lo ngại huy động bộ não xúc cảm, thì sự sợ hãi bắt nguồn từ đó đưa tới hậu quả là tập trung chú ý vào mối đe dọa tức thời, bắt đầu óc phải tập trung vào phương tiện để đối phó và bỏ dở những gì đang làm. Thái độ này cho phép tìm ra giải pháp tích cực trước những tai họa khi người ta đoán trước được mối nguy hiểm.
Vấn đề nảy sinh từ căn bệnh lo lắng mãn tính lặp đi lặp lại, không từ bỏ bạn và không bao giờ cho phép bạn tìm ra giải pháp thỏa đáng. Những lo lắng vô cớ rõ ràng là không thể kiểm soát và lý trí không thể nhận ra chúng. Chúng tạo ra ám ảnh thường xuyên của nỗi lo sợ và giữ người ta trong cách nhìn cố hữu duy nhất về đối tượng lo lắng của mình. Khi chu kỳ này tăng lên và kéo dài, nó đánh lạc hướng nơ ron thật sự và đưa tới những rối nhiễu gắn với lo sợ: các chứng sợ, ám ảnh và kiềm tỏa, các cơn hốt hoảng. Trong mỗi trường hợp, sự lo lắng được cố
định theo cách khác nhau: ở người mắc chứng sợ, nó kết tinh vào tình huống đáng ngại; ở người gặp ám ảnh, nó tập trung vào những phương tiện ngăn ngừa tai họa mà người đó cảm nhận được; còn ở người bị những cơn hốt hoảng, nó gắn liền với tâm lý sợ chết hay sợ cơn hốt hoảng mới.
Là mẫu số chung của tất cả những trạng thái bệnh lý ấy, sự lo lắng vượt khỏi mọi sự kiểm soát. Chẳng hạn, một người phụ nữ được chữa chứng loạn tâm ám ảnh đã bỏ phần lớn thời gian vào việc thực hiện một loạt nghi thức: tắm nhiều lần mỗi ngày và mỗi lần kéo dài 45 phút, rửa tay ít nhất 20 lần và mỗi lần 5 phút, không bao giờ ngồi xuống mà không lau chỗ ngồi bằng cồn 90 độ để khử trùng, không bao giờ chạm vào một đứa trẻ hay một con vật – “quá bẩn”, bà ta nói. Tất cả những sự kiềm tỏa ấy đều dựa vào tâm lý sợ vi khuẩn đến mức bệnh hoạn; bà ta thường xuyên sống trong nỗi lo sợ bị mắc bệnh hay sợ bị chết nếu không thực hiện tất cả những sự phòng ngừa ấy3.
Những người lo lắng thường đi theo sơ đồ tư duy: họ tự kể cho mình nghe một câu chuyện, đi từ mối lo này sang mối lo khác, rất thường xuyên tưởng tượng ra một tai họa hay bi kịch khủng khiếp nào đó. Những sự lo lắng ấy hầu như bao giờ cũng được diễn đạt bằng thính giác hơn là bằng thị giác nghĩa là bằng lời mà không phải bằng hình ảnh, điều quan trọng để chế ngự sự lo lắng.
Trong quá trình tìm ra phương thuốc chữa trị chứng mất ngủ, Borkovec và các đồng nghiệp của ông ghi nhận, sự lo lắng mang hai hình thức khác nhau: lo lắng nhận thức (những ý nghĩ thể hiện sự lo ngại) và lo lắng thể chất (những triệu chứng sinh lý của sự lo lắng, như đổ mồ hôi, nhịp tim nhanh lên và căng cơ). Những người mắc chứng mất ngủ là những người lo lắng mãn tính; họ không thể ngăn mình khỏi lo lắng, dù buồn ngủ đến mấy. Cách hiệu quả nhất giúp họ tìm được giấc ngủ là làm thay đổi những ý nghĩ của họ bằng cách yêu cầu họ tập trung vào cảm giác thư giãn. Tóm lại, có thể xua đuổi những mối lo lắng bằng cách không chú ý tới chúng nữa.
Tuy nhiên, hiếm có những người hay lo đạt được điều đó. Thay vì tìm được giải pháp, họ chỉ nghiềm ngẫm về nguy cơ và tự gặm nhấm nỗi lo. Những người lo lắng mãn tính thường lo về đủ mọi thứ hầu như không có khả năng xảy ra. Họ nhìn thấy những chướng ngại trên đường mà người khác không bao giờ chú ý tới.
Thế nhưng, họ quả quyết rằng sự lo lắng của họ là có ích, mặc dù lo lắng ấy cứ kéo dài, trong vòng luẩn quẩn. Tại sao lo lắng kéo theo sự lệ thuộc tinh thần? Borkovec nhấn mạnh rằng điều kỳ lạ là thói quen hay lo thường tăng lên giống như cơ chế của sự mê tín, giống như mong chờ một đạo bùa gạt bỏ điều xấu. Người lo lắng gán cho mình khả năng đoán trước được mối nguy
cơ ám ảnh anh ta.
Cơ chế của sự lo lắng
Một cô gái rời khu vực miền Trung Bắc Hoa Kỳ đến sinh sống tại Los Angeles và làm việc ở nhà xuất bản. Nhưng ít lâu sau, cô bị thất nghiệp. Cô quay sang làm nghề viết tự do, nhưng không có việc đều. Lần đầu tiên, cô không có tiền đóng bảo hiểm y tế. Điều này khiến cho cô thực sự lo lắng, cô nghĩ tới những tai họa xấu nhất về sức khỏe như tin chắc rằng hơi nhức đầu là triệu chứng của một khối u não, mỗi lần đi ô tô là sợ bị tai nạn. Cô thường nghiền ngẫm nỗi lo sợ của mình trong giấc mơ, nhưng lại khẳng định sự nghiền ngẫm này dường như đã trở thành nhu cầu.
Borkovec đã khám phá ra rằng sự lo lắng đôi khi có lợi. Khi một người chìm đắm vào những ý nghĩ lo lắng, anh ta dường như không chú ý những biểu hiện thể chất của lo lắng – nhịp tim nhanh hơn, đổ mồ hôi, run rẩy – và chừng nào những suy nghĩ của anh ta vẫn còn huy động được tinh thần, chừng đó chúng loại bỏ được phần nào sự lo lắng. Cơ chế này giống như người lo lắng mường tượng ra hình ảnh mối đe dọa hay một nguy cơ tiềm tàng, sự tưởng tượng ấy gây ra nỗi sợ hãi ở mức độ nhẹ. Sau đó, anh ta lại chìm vào hàng loạt ý nghĩ lo sợ dai dẳng. Mỗi ý nghĩ ấy lại làm xuất hiện chủ đề lo lắng khác. Khi chuỗi lo lắng độc quyền, hình ảnh gây lo lắng lúc đầu sẽ biến mất. Borkovec nhận xét: các hình ảnh kích thích sự lo lắng sinh lý nhiều hơn các ý nghĩ, do đó, việc chìm đắm vào những ý nghĩ của mình làm dịu đi phần nào cảm giác lo hãi khiến những lo lắng cứ lặp đi lặp lại, phần nào giống như phương thuốc chữa sự lo lắng do chính nó gây ra.
Tóm lại, sự nghiền ngẫm triền miên về những lo lắng tạo ra những kết quả tích cực ở mặt nào đó, nhưng không phải là kết quả cần thiết nhất. Nó làm dịu đi phần nào sự lo lắng nhưng không giải quyết được vấn đề.
Sau nhiều năm tiến hành thí nghiệm, Borkovec khám phá ra một số biện pháp đơn giản có thể giúp những người hay lo lắng chế ngự được thiên hướng của họ.
Bước đầu tiên là hiểu được bản thân mình, điều này cho phép nhận ra nỗi lo lắng ngay từ đầu. Borkovec bắt đầu bằng cách dạy người ta theo dõi dấu hiệu lo lắng, đặc biệt là những tình huống gây ra nó, ý nghĩ và những hình ảnh ban đầu, cũng như cảm giác thể chất gắn liền của sự lo lắng. Bằng thực hành, người ta nhanh chóng nhận ra xúc cảm lo lắng. Borkovec cũng hướng dẫn phương pháp thư giãn hằng ngày để áp dụng ngay khi cần.
Nhưng thư giãn không chưa đủ mà cần phải loại trừ được những ý nghĩ gây lo lắng. Bước tiếp
theo là có thái độ phê phán chính mình. Tình huống không mong muốn có khả năng xảy ra kia có thật sự quan trọng không? Có cách nào đề phòng khả năng ấy không? Lặp đi lặp lại những ý nghĩ lo lắng ấy thật sự có ích không?
Sự hoài nghi đúng đắn này có tác dụng như cái phanh đối với sự kích thích nơ-ron nằm bên dưới sự lo lắng. Bằng cách đặt ra những câu hỏi tương tự, người ta thúc đẩy vòng mạch ức chế của sự kích thích rìa – nguyên nhân của lo hãi – đồng thời, trạng thái thư giãn làm suy yếu tín hiệu phát sinh lo lắng mà bộ não xúc cảm truyền đi khắp cơ thể.
Thật vậy, Borkovec nhận xét, khi người ta để cho sự lo lắng khống chế mà không chống lại, thì sức mạnh của nó tăng lên. Trái lại, nghĩ tới những quan điểm có lý khác sẽ ngăn cản được ý nghĩ chỉ coi nó là đúng. Ngay cả một số người mắc chứng lo lắng trầm trọng đến mức phải điều trị cũng trở nên đỡ hơn.
Chiến thắng u sầu
Buồn rầu là tâm trạng mà người ta cố thoát ra hơn cả. Tice nhận xét: khi tìm cách thoát khỏi nỗi u sầu, con người tỏ ra có nhiều sáng kiến nhất. Giống như tất cả những tâm trạng khác, u sầu có mặt tích cực và không nên cố thoát khỏi nó triệt để. Sự buồn rầu làm mất đi mọi hứng thú về giải trí và khoái lạc, tạm thời mất hết nguồn năng lượng cần thiết cho công việc mới và chỉ tập trung vào những gì đã mất. Tóm lại, u buồn dẫn đến suy nghĩ từ bỏ những hoạt động thường ngày, nó khiến người ta dành thời gian than khóc sự tổn thất của mình, thực hiện điều chỉnh tâm lý và dựng lên kế hoạch mới để tiếp tục cuộc sống.
Nhưng trong trường hợp trầm cảm nghiêm trọng, cuộc sống sẽ bị tê liệt vì không có một sự bắt đầu mới nào. Với những trường hợp này, không thứ thuốc nào, không liệu pháp tâm lý nào có hiệu quả, chỉ có thời gian và vào nằm viện mới khắc phục được.
Ở đây, tôi quan tâm tới sự buồn rầu thông thường, được thuật ngữ khoa học gọi là “trầm cảm tiềm tàng”. Trạng thái này tương ứng với mức độ mệt mỏi mà người ta có thể tự khắc phục, nếu có nguồn sức mạnh nội tâm cần thiết. Đáng tiếc, một số chiến lược quen thuộc có thể bị thất bại và người ta cảm thấy khó chịu hơn như ngồi một mình (cách làm này tăng thêm nỗi buồn bởi cảm giác cô đơn và tách biệt). Tice cho rằng sách lược thông thường nhất để đấu tranh chống lại sự trầm cảm là nhìn ra thế giới xung quanh, dự một trận đấu thể thao, đi xem chiếu bóng, làm một việc gì đó cùng với bạn bè và gia đình. Phương pháp này tỏ ra hiệu quả vì nó cho phép tinh thần tách khỏi nỗi buồn. Nhưng nếu người ta dùng cơ hội này để lặp đi lặp lại nguyên nhân khiến cho mình buồn thì sự u buồn càng được duy trì.
Thật vậy, trầm cảm kéo dài hay không phần lớn phụ thuộc vào thiên hướng thích nghiền ngẫm của con người. Dường như việc lặp đi lặp lại những gì đè mình xuống sẽ duy trì và làm trầm trọng thêm trạng thái trầm cảm. Người trầm cảm thường lo lắng vì đủ mọi lý do gắn liền với chính sự trầm cảm: cảm giác mệt mỏi, thiếu nghị lực hay thiếu động lực. Nói chung, những suy nghĩ này không bao giờ kèm theo hành động cụ thể để giải quyết được vấn đề.
Người trầm cảm thường biện minh cho những sự nghiền ngẫm khi quả quyết rằng họ cố thử “hiểu mình hơn”, nhưng thực tế, điều này chỉ kéo dài những cảm xúc buồn rầu của họ và cũng có thể làm tăng thêm sự trầm cảm. Nhà tâm lý học Susan Nolen Hoeksma đưa ra ví dụ về một phụ nữ bán hàng bị trầm cảm đã mất thời gian vào việc nghiền ngẫm sự trầm cảm của mình. Bà ta bỏ mất những lô hàng quan trọng khiến doanh thu giảm sút. Bà coi đó là thất bại, khiến cho sự trầm cảm càng trở nên trầm trọng thêm. Ngược lại, nếu bà ta cố đưa tinh thần sang hướng khác, như vùi mình vào công việc, doanh thu của bà ta sẽ không giảm, bà sẽ tự tin hơn và bằng cách nào đó sẽ giảm bớt sự trầm cảm.
Theo Nolen Hoeksma, phụ nữ trầm cảm có xu hướng suy ngẫm nhiều hơn đàn ông. Điều đó một phần là do ở phụ nữ sự trầm cảm xảy ra gấp hai lần ở nam giới. Có nhiều nhân tố gây ra, chẳng hạn, thiên hướng bộc lộ sự buồn rầu hay tự tìm những lý do khiến mình suy sụp của phụ nữ nhiều hơn. Ngoài ra, đàn ông thường nhấn chìm nỗi buồn của mình vào rượu, do đó ở họ, tỷ lệ nghiện rượu nhiều gấp đôi.
Cách trị liệu nhận thức – hành vi nhằm thay đổi thực trạng trên cũng có hiệu quả như dùng thuốc trong việc điều trị chứng trầm cảm lâm sàng nhẹ, và nhất là cho phép ngăn ngừa nó tái phát. Có hai chiến lược đặc biệt hữu hiệu4. Một là phản bác những ý nghĩ được nghiền ngẫm và thay chúng bằng những ý nghĩ tích cực. Hai là lập ra một chương trình giải trí.
Một lý do đưa tới hiệu quả của giải trí là những ý nghĩ làm người ta suy sụp đều có tính tự động và chúng len vào đầu óc rất tự nhiên. Khi người trầm cảm cố tách khỏi chúng, họ cảm thấy khó tìm được những ý nghĩ tích cực hơn. Khi đó làn sóng ý nghĩ làm suy sụp tinh thần bắt đầu dâng lên, tạo ra sự lôi cuốn mạnh mẽ vào chuỗi liên tưởng. Chẳng hạn khi người ta yêu cầu những người trầm cảm xếp sáu từ lộn xộn thành một câu, họ thường đặt thành những câu bi quan, như “Tương lai chắc rất tối tăm”, hơn là thành những câu lạc quan như “Tương lai có vẻ rạng rỡ”.
Khuynh hướng tự đối thoại của những người trầm cảm có ảnh hưởng tới hình thức giải trí họ lựa chọn. Khi người ta đưa ra cho họ danh sách liệt kê những khả năng khác nhau để họ đừng hướng vào một sự kiện gây buồn phiền, như cái chết của một người bạn, họ thường chọn
những hoạt động không vui. Richard Wenzlaff – nhà tâm lý học thực hiện cuộc nghiên cứu này – kết luận: người từng rơi vào trạng thái trầm cảm phải đặc biệt tập trung vào những gì vui vẻ, tránh tìm cách giải trí có hại cho tinh thần như đọc một cuốn tiểu thuyết bi thảm hay xem một bộ phim buồn.
Làm thế nào để lấy lại tinh thần?
Trong một thí nghiệm, Wenzlaff dùng những kịch bản bi thảm gây ra xúc cảm buồn bã ở những đối tượng tự nguyện tham gia. Sau đó, họ cố xua đuổi cảnh tượng ấy ra khỏi đầu và ghi lại ý nghĩ của mình trong 9 phút. Cứ mỗi lần cảnh tượng ấy hiện lên, họ đánh bằng một ký hiệu. Trong khi đa số mọi người ngày càng ít nghĩ tới cảnh tượng ấy, thì ở những người trầm cảm, tần số của những hình ảnh không mong muốn ấy lại tăng lên rõ rệt.
Wenzlaff cho rằng: “Các ý nghĩ liên kết nhau trong đầu, không phải chỉ theo nội dung của chúng, mà theo cả màu sắc xúc cảm của chúng. Những người chán chường dễ hút mình vào chuỗi ý nghĩ đen tối. Họ có xu hướng tạo ra hệ thống liên tưởng rất mạnh giữa các ý nghĩ của mình. Càng ngày họ càng khó thoát khỏi nó. Điều đáng ngại là người trầm cảm hay dùng ý nghĩ nặng nề này để xua đuổi ý nghĩ nặng nề khác, nhưng cái họ đạt được duy nhất chỉ là xúc cảm tiêu cực mới mà thôi.”
Theo một số nhà nghiên cứu, nước mắt có lẽ là phương thuốc tự nhiên nhất để giảm bớt sự tập trung của các hóa chất gây buồn phiền trong bộ não, nhưng đôi khi người ta vẫn có thể bị những lý do buồn phiền ám ảnh. Ý tưởng “nước mắt tích cực” là không hợp lý, nước mắt chỉ kéo dài thêm sự nghiền ngẫm, duy trì sự buồn phiền. Ngược lại, giải trí loại bỏ chuỗi ý nghĩ đem lại buồn phiền. Diane Tice nhận xét: để xua đuổi sự buồn phiền thông thường, nhiều người quay sang những hình thức giải trí như đọc sách, xem phim và truyền hình, chơi trò chơi điện tử, đi ngủ hoặc mơ tới những kỳ nghỉ. Wenzlaff cho rằng, những hình thức giải trí hiệu quả nhất là những giải trí làm thay đổi được tâm trạng như một sự kiện thể thao gây hứng thú, một bộ phim kỳ lạ, một cuốn sách lôi cuốn.
Theo Tice, thể dục nhịp điệu (aerobic) là một trong những phương tiện có hiệu quả nhất để loại bỏ sự trầm cảm nhẹ và những tâm trạng tiêu cực khác. Hiệu quả tích cực của tập thể dục thấy rõ hơn ở những người không hoạt động, những người thường không chơi thể thao. Nó hiệu quả, có lẽ vì nó làm thay đổi trạng thái tâm lý do những thiên hướng tinh thần tạo ra: sự trầm cảm là trạng thái uể oải, còn thể dục nhịp điệu thì đánh thức thân thể. Cũng vậy, những kỹ thuật thư giãn làm dịu cơ thể có hiệu quả chống lại sự lo lắng, một trạng thái kích thích sinh lý, nhưng tác động của chúng lại rất nhỏ trong trường hợp trầm cảm.
Một phương thuốc khác khá thông thường để chống u buồn là tìm kiếm khoái cảm như ăn những món ăn ưa thích, tắm nước nóng, nghe nhạc hoặc làm tình. Phụ nữ thường rất thích đi mua sắm, dù chỉ là để liếc nhìn các quầy hàng. Tice cho rằng ăn uống là phương thuốc chữa u sầu được phụ nữ thích thú gấp ba lần so với đàn ông. Trái lại, đàn ông thì thích uống rượu và ma tuý gấp năm lần so với phụ nữ. Tất nhiên, những phương thuốc này cuối cùng sẽ có tác dụng ngược lại với hiệu quả mong muốn ban đầu: ăn uống quá mức là một sự hối tiếc, rượu là một thứ kích thích có hại cho hệ thần kinh trung ương và làm tăng những hậu quả của sự trầm cảm.
Theo Tice, cách hiệu quả hơn để nâng tinh thần lên là tự thích thú với thành công nhỏ như làm một nghĩa vụ hay công việc gia đình đã bị trì hoãn từ lâu. Chăm sóc hình ảnh bản thân như tự trang điểm cũng mang lại hiệu quả rõ rệt.
Một trong những phương thuốc hữu hiệu nhất nhưng ít được sử dụng là cố gắng nhìn mọi cái theo cách khác đi, người ta gọi đó là đổi khung nhận thức (cognitive veframing). Nói cách khác, đánh giá sự mất mát dưới góc nhìn tích cực hơn là phương thuốc tốt chữa trị sự buồn bã. Những người mắc chứng ung thư, dù tình trạng bệnh tình nghiêm trọng như thế nào, tinh thần sẽ được nâng lên khi nghĩ tới một người bệnh khác nặng hơn (Ta chưa nặng đến thế, ít ra ta vẫn còn đi lại được.) Những ai tự so mình với những người mạnh khỏe chính là những người suy sụp nhất.
Một cách khác để lấy lại sự can đảm là giúp đỡ người khác và chia sẻ nỗi đau khổ của họ là cách để thoát khỏi sự trầm cảm. Theo nghiên cứu của Tice, hành động giúp đỡ người khác là phương thuốc hiệu qủa nhất để chống lại u buồn. Tuy nhiên, đó lại là cách ít được dùng nhất.
Trạng thái vô cảm
Trong khi các nhà nghiên cứu trước đây bắt đầu coi sự vô cảm là ví dụ rất tốt về mất khả năng cảm nhận các xúc cảm, gần giống chứng không có khả năng diễn đạt xúc cảm, thì ngày nay, người ta coi đó là cách điều chỉnh các xúc cảm rất hiệu quả. Những người thường nén các xúc cảm của mình trở nên thành thạo trong việc xóa bỏ những xúc cảm tiêu cực. Họ dường như không có ý thức về thái độ tiêu cực của mình nữa. Họ điềm nhiên như không có chuyện gì xảy ra.
Thiên hướng bỏ qua xúc cảm giận dữ hay lo âu khá phổ biến. Theo nhà tâm lý học Daniel Weinberger, cứ sáu người thì có một người như vậy. Về lý thuyết, trẻ em có thể học được thái độ thản nhiên bằng nhiều cách khác nhau. Có trẻ cự tuyệt khi phải đối mặt với chứng nghiện
rượu của cha (hoặc mẹ) trong gia đình. Có trẻ có phản ứng tương tự do cha mẹ kìm nén các xúc cảm của mình và nêu gương về một tâm trạng hết sức thoải mái hay thái độ thản nhiên khắc kỷ. Số khác thì thừa kế được nét tính cách này từ gia đình. Người ta không biết chính xác nguồn gốc của lối ứng xử này, nhưng khi một người đến tuổi trưởng thành thì dễ dàng thoải mái và thanh thản ngay trong cảnh bất hạnh.
Tất nhiên, vẫn phải tìm hiểu xem những người ấy thật sự bình thản và thoải mái đến mức nào. Phải chăng họ không nhận biết được những biểu hiện thể chất của các xúc cảm nặng nề? Hay họ làm ra vẻ bình thản? Richard Davidson – nhà tâm lý học từng cộng tác với Weinberger – trả lời câu hỏi này bằng những công trình nghiên cứu của ông. Ông yêu cầu những người có xu hướng kìm nén xúc cảm đưa ra một bảng từ vựng trung tính, trong đó có một số từ mang nội hàm tính dục hoặc gây hấn gây lo lắng ở đa số mọi người. Những phản ứng thể chất của họ cho thấy dấu hiệu sinh lý của sự lo lắng khi phản ứng với những từ mang nặng xúc cảm. Chẳng hạn, họ đặt “tình yêu” tương ứng với “thù ghét”.
Nghiên cứu của Davidson dựa trên cơ sở: ở những người dùng tay phải, trung tâm xử lý những xúc cảm tiêu cực nằm ở bán cầu phải, còn trung tâm của lời nói nằm ở bán cầu trái. Khi bán cầu phải tiếp nhận một từ gây cảm giác lo lắng, nó truyền thông tin qua “thể chai” – nơi tách rời hai nửa của bộ não – tới trung tâm lời nói, và từ vựng đó được phát ra. Nhờ có hệ thống thấu kính, Davidson giúp cho các đối tượng nhìn thấy “từ” mà chỉ sử dụng một nửa trường nhìn của họ. Do cấu trúc nơ-ron của hệ thống nhìn, nếu từ này được nhìn từ phía bên trái thì nó được bán cầu phải của bộ não nhận ra, vì bán cầu này rất nhạy cảm với sự buồn rầu. Còn nếu từ này được nhìn từ phía bên phải, thì tín hiệu được phát ra từ bán cầu trái, nhưng không phải là thông tin tiêu cực.
Các đối tượng tham gia thí nghiệm đều phản ứng chậm với những từ do bán cầu phải nhận ra, vì đó là những từ mang nội hàm tiêu cực. Những từ trung tính được liên kết ngay tức khắc. Phản ứng chậm trễ không xuất hiện đối với “từ” do bán cầu trái nhận ra. Tóm lại, sự thản nhiên ở những người tham gia thí nghiệm dường như là do cơ chế nơ-ron làm chậm quá trình truyền thông tin khó chịu. Chúng ta kết luận rằng họ không phải giả vờ không biết tới sự khó chịu của thông tin mà bộ não đã che giấu chúng. Nói chính xác hơn, những xúc cảm ngọt ngào che phủ cảm nhận khó chịu ấy có thể là kết quả hoạt động của thùy trái trán trước. Điều ngạc nhiên là khi Davidson đo mức độ hoạt động của các thùy trán trước, thì thùy trái – trung tâm của xúc cảm thú vị – tỏ ra hoạt động mạnh hơn rõ rệt so với thùy phải, trung tâm của thái độ tiêu cực.
Những người này – Davidson giải thích – “biểu hiện với một thái độ dễ chịu, bề ngoài lạc quan.
Họ phủ nhận những căng thẳng bên trong. Khi họ ngồi yên, thùy trán trái của họ hoạt động mạnh, tức là thùy gắn liền với những xúc cảm tích cực. Hoạt động não này có thể giải thích thái độ tích cực, bất chấp sự hoạt động sinh lý ẩn sâu bên trong như lo lắng.” Lý thuyết của Davidson cho rằng, xét về hoạt động não, việc cảm nhận hiện thực khó chịu bằng thái độ lạc quan đòi hỏi sự chi phí năng lượng lớn. Những nỗ lực của các vòng mạch nơ-ron để bảo tồn xúc cảm tích cực hay để xoá bỏ hoặc ức chế xúc cảm tiêu cực góp phần làm tăng thêm hoạt động sinh lý.
Tóm lại, vô cảm là sự phân tích tích cực, cho thấy các cơ chế nơ-ron đang hoạt động trong những trạng thái phân giải mạnh nhất, chẳng hạn như căng thẳng sau chấn thương. Davidson kết luận: “Khi nó thể hiện ở sự yên tĩnh tinh thần, nó có tác động tự điều chỉnh có lợi đối với các xúc cảm.”
6. Năng lực chế ngự
Duy nhất một lần tôi cảm thấy tê liệt vì sợ hãi. Đó là hồi học ở trường trung học khi bước vào kỳ thi toán mà tôi không ôn tập. Khi mở đề thi ra, tim tôi đập mạnh và tôi cảm thấy nỗi sợ hãi đang bóp thắt dạ dày của mình.
Tôi liếc nhìn thật nhanh các câu hỏi. Chẳng có tia hy vọng nào. Trong một giờ đồng hồ, mắt dán xuống tờ giấy thi, tôi tưởng tượng ra thảm họa. Những ý nghĩ ấy không ngừng hành hạ tôi với nỗi sợ hãi. Tôi ngồi bất động, như con vật tê liệt vì trúng đạn. Ấn tượng mạnh nhất trong giây phút đó là trường suy nghĩ của tôi như bị co hẹp lại. Tôi ngồi đó, bị cơn sợ hãi khủng khiếp của mình ám ảnh, chờ đợi nỗi đau khổ chấm dứt .
Câu chuyện trên cho thấy hậu quả tàn phá mà sự sợ hãi gây ra đối với sự sáng suốt của tinh thần. Nó chứng tỏ quyền năng của bộ não xúc cảm trong việc khống chế, thậm chí làm tê liệt bộ não tư duy. Các giáo viên biết rất rõ những hậu quả gây rối nhiễu xúc cảm ấy. Những học sinh lo sợ, suy sút tinh thần hoặc dễ nổi giận đều không thể học được; em nào tự nhốt mình vào các trạng thái xúc cảm ấy không ghi nhận được thông tin, hoặc không sử dụng được nó tốt nhất. Như chúng ta đã thấy ở Chương 5, xúc cảm mang nặng tiêu cực thường thu hút sự chú ý vào những lo lắng và chống lại mọi định hướng chú ý sang chỗ khác. Khi các xúc cảm đã xâm chiếm đầu óc đến mức xua đuổi mọi ý nghĩ khác và phá hoại nỗ lực tập trung vào công việc hoặc vào hành động đang làm, thì chúng đã vượt qua giới hạn bệnh lý rồi.
Khi các xúc cảm ngăn cản mọi sự tập trung, thì cái bị rối nhiễu là năng lực tinh thần mà các nhà chuyên môn gọi là “trí nhớ tích cực”, năng lực tiếp nhận mọi thông tin có liên quan tới nhiệm vụ đang làm. Trí nhớ tích cực chứa đựng dữ kiện thông thường. Chính nó làm cho những thao tác trí tuệ khác có thể thực hiện được, dù đó là đọc to lên một câu hay tìm cách giải quyết vấn đề logic gai góc . Vỏ não trán trước là nơi trú ngụ của trí nhớ tích cực và cũng là nơi gặp nhau của tình cảm và xúc cảm . Sự chi phối của nỗi thất vọng về tình cảm đối với vùng mạch rìa (quy tụ vào vỏ não trán trước) được đặc biệt trả giá bằng hiệu quả nhỏ hơn của trí nhớ tích cực: người ta trở nên thiếu tập trung như trong thử thách khủng khiếp về môn toán của tôi.
Bây giờ, trái lại, ta hãy xét vai trò của một sự thúc đẩy tích cực như sự hứng khởi, hăng hái và tin tưởng khi được huy động để đạt tới mục đích. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, các vận động viên Olympic, các nhạc công lớn và các đấu thủ cờ vua ở trình độ cao đều có năng lực tự thúc đẩy bản thân tới chỗ phải chịu đựng chế độ luyện tập khắc nghiệt4. Ở Thế vận hội
Olympic 1992, nhiều người trong đội tuyển bơi lội Trung Quốc chỉ mới 12 tuổi, họ dành thời gian luyện tập môn thể thao của mình cũng ngang như những vận động viên Mỹ đã hơn 20 tuổi. Những nghệ sĩ vĩ cầm giỏi nhất của thế kỷ XX bắt đầu chơi nhạc cụ này lúc lên 5 tuổi, các nhà vô địch quốc tế về cờ vua trung bình 7 tuổi, trong khi các đấu thủ thuộc đẳng cấp quốc gia thì chỉ bắt đầu lúc 10 tuổi. Việc luyện tập sớm đem lại lợi thế sẽ được duy trì suốt đời.
Cái để phân biệt những người thuộc tốp đứng đầu với người bình thường có khả năng ngang nhau, đó là năng lực kiên nhẫn tập luyện hệ thống và khó nhọc trong nhiều năm, từ lúc còn nhỏ. Và sự kiên nhẫn ấy trước hết dựa vào một số nét tâm lý: sự hứng khởi và kiên nhẫn trước tâm trạng thất vọng.
Về mặt thành công, những người có động cơ mạnh mẽ thường có được lợi thế đi trước như những kết quả nổi bật ở nhà trường và trong nghề nghiệp như những học sinh gốc châu Á ở Mỹ cho thấy. Lý do có thể là từ những năm đầu tiên ở trường học, trẻ em châu Á học nhiều hơn trẻ em phương Tây. Theo Sanford Dorenbush, một nhà xã hội học ở Stanford từng tiến hành cuộc nghiên cứu trên hơn 10 nghìn học sinh trung học, thì trẻ em châu Á dành hơn 40% thời gian làm bài tập ở nhà so với những học sinh khác. “Trong khi phần lớn các bậc phụ huynh người Mỹ sẵn lòng chấp nhận con cái mình nhận điểm thấp hơn và chú trọng hơn tới những điểm mạnh khác, thì người châu Á có thái độ khác: khi đạt những kết quả thấp, thì phải khắc phục điều đó bằng cách học tối muộn hơn và nếu vẫn chưa đủ thì phải thức dậy sớm hơn để học. Họ đều tin chắc rằng mọi người sẽ đạt được những kết quả tốt nếu chịu khó”. Tóm lại, nỗ lực về học tập thể hiện ở sự tự thúc đẩy kiên trì và hăng hái hơn, điều này tạo thành lợi thế tâm lý hiển nhiên.
Khi các xúc cảm của chúng ta hạn chế hay làm tăng thêm khả năng suy nghĩ và hoạch định của chúng ta, cũng như khả năng học tập để đạt tới mục đích lâu dài, giải quyết các vấn đề v.v... thì chúng cũng xác định những giới hạn năng lực trong việc sử dụng năng lực tinh thần bẩm sinh và, do đó, quyết định tương lai chúng ta. Và khi chúng ta được thúc đẩy bởi sự hứng khởi và thích thú – thậm chí bởi mức độ lo sợ tối đa – thì các xúc cảm sẽ đưa chúng ta tới thành công. Chính theo ý nghĩ đó, trí tuệ xúc cảm là năng lực chủ yếu có ảnh hưởng sâu sắc tới tất cả năng lực khác bằng cách kích thích hay ức chế chúng.
Chế ngự các xung lực: Trắc nghiệm cho kẹo
Hãy tưởng tượng là bạn lên bốn tuổi và có ai đó nói với bạn: nếu sau khi chạy một vòng, cố chờ một lúc thì em sẽ được thưởng hai cái kẹo; còn nếu không chờ được thì em chỉ được thưởng một cái kẹo, nhưng được thưởng ngay tức khắc. Trắc nghiệm này cho phép thăm dò tâm lý một
đứa trẻ, xung đột giữa các xung lực và sự kiềm chế, giữa ham muốn và sự chế ngự bản thân, giữa niềm thích thú tức khắc và sự mong đợi. Sự lựa chọn của đứa trẻ nhanh chóng cho phép hiểu được không chỉ tính cách của nó mà cả tương lai của nó sẽ là thế nào.
Có lẽ không một năng lực tâm lý nào có ý nghĩa căn bản hơn năng lực cưỡng lại xung lực của mình. Sự chế ngự các cảm xúc phụ thuộc vào nó, vì do bản chất của chúng, các xúc cảm phát ra nhu cầu hành động mãnh liệt. Năng lực cưỡng lại nhu cầu hành động, đè nén hành động ngay từ đầu, có lẽ là do sự ức chế của những tín hiệu rìa hướng tới vỏ não vận động, tuy rằng cách lý giải này hiện nay chỉ là suy luận thuần tuý.
Trắc nghiệm trên được nhà tâm lý học Walter Mischel tiến hành trong những năm 1960 tại một nhà trẻ ở trường Đại học Stanford, nghiên cứu này cho phép theo dõi các đối tượng trong quá trình học tập ở nhà trường5.
Một số em có thể chờ đợi người đưa kẹo trở lại sau một thời gian tưởng dài vô tận. Để khỏi chịu thua sự cám dỗ, chúng tự bịt mắt lại để không nhìn thấy cái chúng thèm muốn, chúng lấy hai cánh tay che đầu, tự nói chuyện với mình, hát, chơi, thậm chí cố ngủ. Và những đứa trẻ can đảm ấy nhận được hai cái kẹo. Những đứa khác, hiếu động hơn, thì lao tới chiếc kẹo, gần như chỉ mấy giây sau khi người đưa kẹo vừa đi khỏi.
Giá trị tiên đoán của thử thách này đã hiện rõ khi chúng trở thành những thiếu niên. Sự khác nhau về tâm lý giữa những đứa trẻ hiếu động và những đứa trẻ khác thật nổi bật. Những đứa từng cưỡng lại được sự cám dỗ trở thành những thiếu niên sẵn sàng đương đầu với cuộc sống trong xã hội: tự tin và có thể vượt qua những rủi ro. Chúng ít hoài nghi, ít sợ hãi và ít thất bại hơn, biết giữ bình tĩnh và giữ đầu óc sáng suốt khi chịu sức ép; chúng biết chấp nhận thử thách và cố vượt qua thử thách ấy thay vì buông xuôi; chúng tin vào bản thân và tỏ ra đáng tin cậy. Chúng có nhiều sáng kiến và lao vào những kế hoạch. Hơn 10 năm sau cuộc trắc nghiệm, chúng vẫn nhận được phần thưởng của cuộc sống.
Trái lại, những đứa trẻ chộp lấy ngay một cái kẹo, khoảng một phần ba số đó, nói chung không có những phẩm chất này, ngược lại, có diện mạo tâm lý rối nhiễu hơn. Khi trở thành thiếu niên, chúng có khuynh hướng tránh tiếp xúc với người khác, bướng bỉnh, do dự, dễ phật ý vì những thất bại, thường có quan điểm tiêu cực và trong trường hợp căng thẳng, chúng thường bị tê liệt. Chúng rất hay nghi ngờ và bực tức vì “không giành được đủ”, ganh ghét đố kỵ, dễ tự ái, do đó, trở thành nguồn gốc của xung đột. Và một thời gian dài, chúng vẫn không thể tự kiềm chế được.
Sự khác nhau được ghi nhận ở giai đoạn non trẻ của cuộc đời đã trở thành thang đo rất khác nhau về những năng lực xã hội và tâm lý. Năng lực trì hoãn sự thoả mãn các xung lực quyết định thành công. Khi lên 4 tuổi, một số em đã hiểu rằng, trên sân khấu xã hội, lòng kiên nhẫn thật có lợi, chúng có thể không chú ý tới sự cám dỗ trước mắt và tỏ ra kiên trì theo đuổi mục đích của mình, tức là giành được hai chiếc kẹo.
Vào cuối cấp trung học, những em đó lại là đối tượng của sự đánh giá: đứa trẻ nào biết kiên nhẫn đã trở thành học sinh giỏi hơn những đứa bạn hiếu động của chúng. Theo bố mẹ chúng, chúng có khả năng diễn đạt các ý tưởng, biết lập luận và tập trung hơn, vạch ra được và thực hiện các kế họach, ham học hơn như thể được thưởng về tất cả những điều đó, kết quả đậu đại học của chúng cao hơn kết quả của các đứa bạn kia khoảng 20%6.
Những kết quả giành được trong trắc nghiệm cho kẹo cho phép đoán đúng hơn trắc nghiệm IQ gấp hai lần về những đứa trẻ nào sẽ thành công trong các kỳ thi vào đại học, trắc nghiệm IQ chỉ chính xác hơn sau khi chúng học nói. Điều đó gợi lên rằng khả năng thoả mãn những ham muốn của chúng là yếu tố chủ yếu của tiềm năng trí tuệ, dù IQ như thế nào. (Sự chế ngự không tốt các xung lực cũng là chỉ dẫn tốt về các xu hướng phạm tội sau này, chỉ dẫn ấy cũng rõ hơn IQ)7. Như chúng ta sẽ thấy trong phần thứ năm, trong khi một số người khẳng định rằng IQ không thể thay đổi, vì thế, là ranh giới cứng nhắc được áp đặt lên tiềm năng của trẻ em, thì có nhiều lý do đúng đắn để cho rằng giáo dục trí tuệ xúc cảm sẽ giúp trẻ em đạt được những năng lực tâm lý như chế ngự các xung lực và khả năng phân tích một tình huống xã hội.
Những thiên hướng tiêu cực, trở ngại cho tư duy
Tôi lấy làm lo lắng cho con trai tôi. Nó vừa gia nhập đội bóng trong trường đại học và sớm hay muộn nó sẽ bị thương. Vì không muốn nhìn thấy nó chơi bóng nên tôi không đi xem các trận đấu bóng nữa. Tôi biết điều đó làm nó thất vọng, nhưng đối với tôi thì đó lại là một sự tra tấn...
Người đàn bà nói như vậy khi bà đang chữa bệnh; bà biết rằng nỗi lo lắng ấy ngăn cản không được sống như mình muốn8. Nhưng cứ mỗi lần bà phải đưa ra quyết định như đến hay không đến dự các trận đấu bóng của con thì bà lại tưởng tượng ra điều xấu nhất. Sự lo lắng của bà chi phối cả lý trí.
Như chúng ta đã thấy, hậu quả tai hại của sự lo lắng đối với hoạt động tinh thần chủ yếu là do thiên hướng chuốc lấy lo âu. Theo nghĩa nào đó, lo âu cũng là phản ứng có ích nhưng không được hướng dẫn đúng, một sự chuẩn bị quá sốt sắng cho mối đe doạ được đoán trước. Nhưng phương pháp tập đương đầu với tai họa đoán trước ấy lại tạo ra sự bất động nhận thức tai hại
khi trở thành thói quen thu hút sự chú ý và ngăn cản nó hướng tới điều khác.
Nỗi lo lắng phá huỷ trí tuệ. Sự lo lắng ảnh hưởng tới kết quả học tập ở bậc phổ thông và bậc đại học: 126 nghiên cứu về 36 nghìn học sinh đã cho thấy, người nào càng lo nghĩ nhiều, người đó càng kém thành công hơn trong học tập, dù là theo tiêu chuẩn nào: điểm trung bình cả năm, các kỳ thi từng phần hay tốt nghiệp9.
Nghiên cứu khoa học đầu tiên về sự lo sợ trong các kỳ thi đã được Richard Alpert thực hiện vào những năm 1960. Ông cho biết đã chú ý tới vấn đề này vì lúc còn đi học, tính dễ kích thích đã ảnh hưởng xấu tới kết quả học tập của ông, trong khi đồng nghiệp Ralph Haber thì lại nói rằng mình đã bị sự căng thẳng trước sự kích thích10. Những nghiên cứu này cho thấy rằng có hai loại học sinh lo lắng: những người bị sự lo lắng gây tác hại tới kết quả học tập và những người đã thành công bất chấp sự căng thẳng, thậm chí nhờ sự căng thăng mà họ càng thành công hơn11. Một điều trớ trêu của các cơ chế tâm lý: chính sự sợ hãi thúc đẩy những sinh viên như Haber miệt mài chuẩn bị cho các kỳ thi và đưa họ tới thành công cũng là nguồn gốc thất bại ở những người khác. Với những người quá sợ hãi, như Alpert, sự lo lắng gây tổn hại cho suy nghĩ sáng suốt và trí nhớ – những điều cần thiết để thi cử hiệu quả và thành công.
Khi chúng ta lo sợ thất bại, sự chú ý sẽ suy yếu, khiến chúng ta không thể tìm được câu trả lời đúng. Những tiên đoán đen tối của chúng ta rốt cuộc lại trở thành sự thật.
Ngược lại, những người biết sử dụng xúc cảm của mình có ý thức có thể sử dụng sự lo lắng của mình – chẳng hạn, do một kỳ thi gây ra – để chuẩn bị đúng mức cần thiết và vì thế họ vượt qua thử thách và thành công. Mối liên hệ giữa sự lo lắng với kết quả thu được, kể cả những kết quả trí tuệ, tạo thành đường cong hình chữ U lộn ngược. Trên đỉnh, mối liên hệ này ở mức độ tối ưu, sự căng thẳng thần kinh ít nhất sẽ đưa lại những kết quả rõ ràng. Nhánh đi lên của chữ U lộn ngược làm người ta hờ hững và không đủ động cơ để tạo ra cố gắng cần thiết, trong khi sự lo lắng – nhánh kia của chữ U – làm cho tất cả cố gắng thành con số không.
Một trạng thái hứng khởi nhẹ nhàng, cái được các nhà tâm lý học gọi là hứng cảm nhẹ (hypomani) là điều lý tưởng đối với các nhà văn và những người hoạt động sáng tạo khác. Những hoạt động này đòi hỏi tính uyển chuyển của tư duy và tưởng tượng; trạng thái ấy nằm ở gần đỉnh hình cong chữ U. Nhưng nếu sự hứng cảm này vượt ra khỏi mọi kiểm soát để trở thành sự sôi động thật sự, như ở những người hứng cảm – trầm nhược, thì nó lại ngăn cản suy nghĩ nhất quán để có thể viết hay.
Một cách hiệu quả để giúp cho ai đó khắc phục khó khăn là kể cho anh ta nghe một câu chuyện
khôi hài. Tiếng cười, cũng như tâm trạng thoải mái nói chung, làm cho tư duy được thanh thoát, tạo điều kiện cho ý tưởng liên kết và do đó cho phép khám phá ra những liên hệ phức tạp và dự đoán hệ quả của quyết định nào đó.
Hiệu quả của tiếng cười đặc biệt lớn khi người ta đụng phải vấn đề đòi hỏi trí tưởng tượng: Một nghiên cứu về những người vừa xem các băng video có phản ứng tốt hơn về trắc nghiệm suy nghĩ sáng tạo của các nhà tâm lý12. Người ta đưa một ngọn nến, một hộp diêm và một hộp kim găm và yêu cầu họ gắn cây nến lên tường sao cho khi nó cháy mà sáp không chảy xuống đất. Đa số tìm cách giải quyết vấn đề bằng cách chỉ dùng những vật đang có trong tay như vẫn thường làm. Những người vừa xem video thì hiểu rất dễ dàng rằng có cách đặc biệt để sử dụng chiếc hộp đựng kim găm và một số người đi tới một giải pháp sáng tạo; họ gắn cái hộp vào tường và cắm cây nến vào đó.
Ngay cả những thay đổi tâm trạng nhỏ cũng ảnh hưởng tới tư duy. Một trong những lý do là nội dung trí nhớ của chúng ta phụ thuộc vào trạng thái tinh thần. Khi thoải mái, chúng ta nhớ lại những sự kiện tích cực tốt hơn; khi cân nhắc mặt được và không được của một quyết định, trí nhớ tác động thuận lợi cho sự đánh giá tình hình và thúc đẩy chúng ta mạnh hơn, chẳng hạn, thực hiện công việc hơi nguy hiểm hay phiêu lưu.
Cũng vậy, tâm trạng xấu đem lại cho trí nhớ thái độ tiêu cực và đẩy chúng ta tới chỗ đưa ra quyết định quá dè dặt hay quá thận trọng.
Những xúc cảm không bị chế ngự thường ngăn cản trí tuệ. Nhưng, như đã thấy ở Chương 5, có thể chấn chỉnh đúng. Năng lực tâm lý đó là năng lực chế ngự; nó mở đường cho các hình thức trí tuệ khác. Chúng tôi sẽ chứng minh điều này bằng cách xem xét những cái lợi của tinh thần lạc quan, thời điểm đặc biệt trong đó người ta tự vượt lên.
Khả năng và tư duy tích cực
Người ta yêu cầu các sinh viên tưởng tượng trong hoàn cảnh sau đây:
Bạn hy vọng đạt điểm cao trong kỳ thi của mình, nhưng lại chỉ đạt điểm dưới trung bình trong lần thi đầu. Bạn đã biết kết quả này từ một tuần nay. Bạn sẽ làm gì13?
Chính niềm hy vọng tạo ra sự khác biệt. Câu trả lời của những sinh viên giữ được hy vọng là họ sẽ làm việc chịu khó hơn và làm tất cả những gì có thể để nâng điểm trung bình lên. Những người tin vừa phải vào cơ may thành công của mình nói rằng họ sẽ tìm cách để nâng điểm mình lên, nhưng không quả quyết lắm. Và, như đã dự đoán, những sinh viên có ít hy vọng thì
buông xuôi, nản lòng.
Vấn đề này không chỉ mang ý nghĩa lý thuyết. Khi nhà tâm lý học C.R.Snyder, tác giả nghiên cứu này so sánh kết quả đạt được của các sinh viên năm thứ nhất, những người bi quan cũng như lạc quan, ông nhận thấy rằng sức mạnh từ niềm hy vọng của họ báo trước những điểm khá hơn. Những kết quả này cũng được coi như dự báo về thành công trong thời gian học đại học của họ.
Đây là lời giải thích của Snyder: “Những sinh viên tự tin thường đặt mục tiêu cao hơn và biết làm việc say mê để đạt tới những mục tiêu đó. Khi người ta so sánh kết quả đạt được của những sinh viên có năng lực trí tuệ ngang nhau, thì chính thái độ tin tưởng vào tương lai của từng sinh viên cho phép phân biệt mỗi người”14.
Các nhà nghiên cứu nhận thấy ngày càng rõ rằng “hy vọng” không chỉ làm vững lòng ta khi mọi thứ đang diễn ra tồi tệ, mà nó còn đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc đời và ban phát những điều tốt lành như thành công về học tập ở nhà trường cũng như những công việc khó khăn khác. Về mặt lý thuyết, hy vọng chỉ là cách nhìn lạc quan theo đó mọi cái sẽ tốt đẹp hơn.
Theo nghĩa ấy, mọi thứ đều có thể có hy vọng. Một số người tin chắc, họ sẽ thoát khỏi tất cả trở ngại hoặc sẽ tìm thấy giải pháp cho mọi vấn đề của họ, trong khi những người khác cho rằng mình không thể có nghị lực, năng lực hay phương tiện cần thiết để đi tới đó. Snyder nhận xét những người tin vào tương lai của mình có một số nét chung: họ biết tự thúc đẩy và tự thuyết phục khi gặp rủi ro, rằng mọi cái rồi sẽ đâu vào đấy và họ tin chắc rằng có nhiều phương tiện để đạt được mục tiêu của mình, họ cũng đủ thông minh để chia một nhiệm vụ khó khăn thành những nhiệm vụ nhỏ dễ thực hiện hơn.
Về mặt trí tuệ xúc cảm, “hy vọng” có nghĩa là không lùi bước trước lo lắng, không buông tay hoặc chán nản khi đương đầu với khó khăn hay thất vọng. Thật vậy, những người tự tin nói chung ít lo lắng và ít bị rối nhiễu xúc cảm trong cuộc sống.
Lạc quan – động lực lớn
Năm 1988, những người ham thích bơi lội đặt hy vọng lớn vào Matt Biondi. Một số nhà báo thể thao tiên đoán anh ta có thể sánh với Mark Spita ở Thế vận hội Olympic 1972 với bảy huy chương vàng. Than ôi, Biondi chỉ giành được một huy chương đồng trong lần thử thách đầu tiên 200m bơi tự do và trong cuộc thi đấu 100m bơi bướm tiếp theo anh ta bị đấu thủ khác bơi vượt lên dẫn đầu.
Các chuyên gia bình luận thể thao cho rằng những thất bại ấy sẽ làm suy sụp tinh thần của Biondi. Nhưng anh ta đã vượt qua thất bại và giành được năm huy chương vàng. Nhà tâm lý học Martin Seligman đã làm trắc nghiệm cho Biondi trong năm đó để đánh giá tinh thần lạc quan của anh ta: tại cuộc họp được tổ chức để Biondi phát biểu có thể vượt qua kỷ lục của mình, huấn luyện viên báo cho anh ta biết kết quả kém hơn kết quả đã thực sự giành được trước đó và yêu cầu Biondi làm lại lần nữa sau khi nghỉ ngơi, thì kết quả còn tốt hơn lần đầu vốn đã tuyệt vời rồi. Trái lại, khi những thành viên khác trong nhóm cũng được báo cho biết họ giành được những thành tích thấp hơn và họ cũng làm thêm một lần nữa, thì kết quả tồi hơn lần đầu rất nhiều15.
Lạc quan, cũng như hy vọng, đó là niềm tin chắc rằng, bất chấp thất bại và thất vọng, mọi cái rồi sẽ đâu vào đấy. Về mặt trí tuệ xúc cảm, lạc quan là trạng thái tinh thần ngăn người ta rơi vào chán nản, suy sụp và cảm giác bất lực xâm chiếm đầu óc trong thời kỳ khó khăn.
Đối với Seligman, tinh thần lạc quan thể hiện ở cách người ta tự giải thích về thành công và thất bại của mình. Người lạc quan coi thất bại bắt nguồn từ một điều gì đó có thể được thay đổi để đi thành công lần tiếp theo, còn người bi quan thì tự trách móc và gán cho nó một tính chất không thể thay đổi. Hai cách nhìn ấy tạo ra hệ quả sâu sắc về cách ứng xử của người ta trong cuộc đời. Chẳng hạn, đáp lại một sự thất vọng, những người lạc quan làm như thể mình chưa làm công việc đó, sẽ phản ứng tích cực và tự tin, như bằng cách hoàn thành kế hoạch hay tìm kiếm sự giúp đỡ và những lời khuyên; đối với họ, thất bại luôn luôn vượt qua được. Trái lại, người bi quan phản ứng với thất vọng thuộc loại đó như thể tất cả những lần sau nữa không thể tốt hơn, và vì thế, họ chẳng làm gì để lao vào giải quyết vấn đề; đối với họ, thất bại là do một sự thiếu hụt cá nhân mà họ sẽ không bao giờ thoát khỏi.
Giống như những người biết nuôi dưỡng niềm hy vọng, người lạc quan thường thành công trong học tập. Trong một nghiên cứu được thực hiện năm 1984 trên 500 sinh viên năm thứ nhất tại trường Đại học Pennsylvanie. Seligman, tác giả nghiên cứu này, khẳng định:“Các kỳ thi vào đại học sẽ nói cho bạn biết ai có tài năng, còn cách giải thích của sinh viên về những thành tích của họ cho bạn biết ai sẽ bỏ cuộc nửa chừng. Chìa khóa thành công chính là sự kết hợp một tài năng vừa phải và sự kiên trì. Điều mà các kỳ thi vào đại học không đánh giá được, đó là động lực của cá nhân. Điều người ta muốn biết, đó là cá nhân ấy có tiếp tục tiến lên sau khi anh ta trải qua thời kỳ khó khăn hay không. Cảm giác của tôi là với trí tuệ bằng nhau, thành công không chỉ phụ thuộc vào năng lực, mà còn phụ thuộc vào cả năng lực chịu đựng thất bại nữa”16.
Một minh họa rõ nhất cho khả năng thúc đẩy của tinh thần lạc quan được thấy rõ qua nghiên cứu do Seligman thực hiện ở những người bán bảo hiểm. Để thành công trong việc bán hàng nói chung và trong việc bán bảo hiểm nói riêng, phải có khả năng chịu đựng sự từ chối của khách hàng mà vẫn giữ được nụ cười. Seligman nhận xét: Trong hai năm đầu, những người bán hàng có bản tính lạc quan bán được nhiều hơn 37% so với các đồng nghiệp có thái độ bi quan. Và trong năm thứ nhất, những người bi quan bỏ việc nhiều gấp đôi những người lạc quan.
Seligman đã thuyết phục công ty bảo hiểm tuyển một nhóm từng giành được kết quả tốt trong việc trắc nghiệm về tinh thần lạc quan nhưng lại thất bại trong trắc nghiệm tuyển chọn thông thường. Doanh số của các thành viên nhóm này trung bình vượt 21% doanh số của những người bi quan trong năm đầu, và 57% trong năm thứ hai.
Lý do khiến cho những người lạc quan khác biệt như vậy cũng cho phép hiểu được thế nào là thái độ thông minh về mặt xúc cảm. Mỗi lần người bán bị từ chối là một thất bại nhỏ. Phản ứng xúc cảm đối với những thất bại này quy định khả năng của cá nhân có tìm thấy sự dũng cảm và tính kiên trì hay không. Bị từ chối càng nhiều, tinh thần của người bán hàng dễ bị tổn thương và càng khó chịu đựng lần thất bại tiếp theo. Người bi quan khó “tiêu hóa” những thất bại mà họ coi là thất bại cá nhân ấy như “Ta chẳng đáng giá một cái đinh, ta sẽ không bao giờ bán hàng được”, cách lý giải này dễ gây ra tâm lý chán nản, thất bại, thậm chí suy sụp. Ngược lại, những người lạc quan sẽ tự nhủ “Chắc là ta chưa biết bán”, hoặc “Người mà ta vừa chào hàng là một kẻ khó tính”. Vì anh ta cho rằng hoàn cảnh chịu trách nhiệm về thất bại chứ không phải do anh ta, nên anh ta có thể thay đổi cách tiếp cận trong lần gọi điện thoại sau. Trong khi thái độ tinh thần của người bi quan đưa tới thất vọng, thì thái độ tinh thần của người lạc quan lại làm nảy sinh hy vọng.
Thiên hướng tích cực hay tiêu cực có lẽ là một phần tính khí bẩm sinh của mỗi cá nhân. Nhưng, như chúng ta sẽ thấy ở Chương 14, tính khí có thể được điều hòa. Có thể học để trở thành lạc quan và tin vào tương lai cũng giống như để cảm thấy mình bất lực và nản chí. Hai thái độ này đều dựa trên niềm tin rằng chính ta làm chủ cuộc đời ta và có thể chấp nhận thách thức. Bằng cách đạt được sự thành thạo trong một lĩnh vực nào đó, chúng ta làm tăng thêm cảm giác về hiệu quả cá nhân của mình, lúc đó chúng ta sẵn sàng chấp nhận rủi ro và những thách thức khó khăn hơn. Và đến lượt nó, điều này làm tăng thêm cảm giác về hiệu quả cá nhân. Thái độ này cho phép chúng ta khai thác tốt hơn năng lực của mình hoặc làm những gì cần thiết để phát triển chúng.
“Trạng thái sảng khoái” – Một nhà soạn nhạc đã mô tả khoảnh khắc làm việc thoải mái nhất
của mình
Bạn như đang ở trong trạng thái xuất thần đến mức không hề có cảm giác là mình đang tồn tại. Điều này vẫn thường xảy ra với tôi. Bàn tay tôi dường như tự nó viết như thể tôi chẳng liên quan tới những gì đang được viết ra. Tôi ngồi lặng ngắm tất cả những nốt nhạc với sự cảm phục và ngạc nhiên. Mọi cái như tự nó diễn ra17.
Sự mô tả này gần giống với mô tả của hàng trăm người khác – những vận động viên leo núi, nhà vô địch cờ vua, những bác sĩ phẫu thuật, những kỹ sư, những nhà lãnh đạo doanh nghiệp… Khi họ nói tới may mắn trong đó họ như vượt qua chính mình. Trạng thái này được nhà tâm lý học Mihaly Csikszentmihalyi gọi là “trạng thái sảng khoái” (flow). Các vận động viên điền kinh gọi trạng thái này là “vùng xuất thần”, đó là lúc mà sự nổi trội không cần cố gắng. Diane Roffe – Steinrotter, người đã giành được huy chương vàng Thế vận hội mùa Đông 1994, đã khẳng định rằng chị không còn giữ được ký ức nào về cuộc thi trượt tuyết ngoài việc cảm thấy mình hoàn toàn không căng thẳng:“Tôi có cảm giác mình như một thác nước.”18
Bước vào trạng thái sảng khoái, hưng phấn, đó là tuyệt đỉnh của trí tuệ xúc cảm. Khi người ta buồn phiền vì suy sụp, hoặc bồn chồn vì lo hãi, thì không thể đạt tới trạng thái sảng khóai được. Thế nhưng, tất cả mọi người, hoặc gần như thế, thỉnh thoảng cũng từng trải trạng thái hưng phấn (hay một trạng thái sảng khoái yếu hơn, chừng mực hơn) khi người ta cống hiến điều tốt đẹp nhất của bản thân mình hay khi vượt qua những giới hạn quen thuộc. Đó có thể là sự thăng hoa của tình yêu và thể chất, khi hai con người thành một sự thống nhất uyển chuyển mà tự nhiên dành cho ở mức cao nhất.
Đó là kinh nghiệm tuyệt vời khi một người hoàn toàn bị cuốn hút vào những gì mình đang làm, tập trung toàn bộ sự chú ý vào đó. Sự chú ý tập trung cao độ đến mức người đó chỉ biết có trường tri giác gắn chặt với điều mình đang làm và mất hết mọi ý niệm về thời gian và không gian. Chẳng hạn, khi bác sĩ phẫu thuật nhớ lại một ca mổ tinh vi, ông ta kinh ngạc khi biết có một mảnh trần nhà bong ra mà ông ta không hay biết gì. Trạng thái sảng khoái bị phá vỡ khi người ta suy nghĩ quá nhiều về những gì đang diễn ra, chỉ việc cho rằng: “Thật là tuyệt” cũng đủ để kết thúc cảm giác này.
Trong trạng thái thăng hoa, con người không còn nghĩ tới bản thân, họ bị hút vào những gì mình đang làm đến mức hoàn toàn mất hết ý thức về bản thân và quên đi phiền muộn của cuộc sống thường ngày. Những phản ứng của họ hoàn toàn thích nghi với những nhu cầu thay đổi của nhiệm vụ. Và, tuy họ đã đạt tới đỉnh cao thành tích, họ không tự hỏi xem họ sẽ thành công hay thất bại, chỉ có khoái cảm thuần tuý về hành vi đã thúc đẩy họ.
Có nhiều cách để đạt tới trạng thái sảng khoái ấy. Một trong những cách này là tập trung cao độ vào nhiệm vụ phải làm. Thực chất của trạng thái sảng khoái chính là sự tập trung lớn. Nhưng, khi sự chú ý bắt đầu được tập trung, nó có sức mạnh riêng cho phép người ta không chú ý tới cơn lốc xúc cảm và thực hiện nhiệm vụ của mình dễ dàng. Trong trạng thái sảng khoái, sự chú ý vừa chùng lại, vừa rất tập trung. Hình thức tập trung này rất khác với sự chú ý trong khi người ta đang mệt mỏi hay buồn phiền, hoặc khi sự chú ý của mình bị ảnh hưởng bởi những xúc cảm chi phối khác, như lo lắng hay giận dữ.
Người ta có thể đạt tới trạng thái hưng phấn khi bắt tay vào công việc mình đã thành thạo. Như Csikszentmihalyi nói: “Người ta dường như tập trung tốt hơn khi nhiệm vụ khó hơn bình thường và phải bỏ sức mình vào nhiều hơn. Nếu nhiệm vụ ấy quá dễ, người ta sẽ buồn chán. Nếu quá khó, người ta trở nên lo lắng. Tính hưng phấn xuất hiện trong một vùng tế nhị được giới hạn bởi sự buồn chán và lo lắng.”
Hưng phấn là trạng thái đem lại sự hoan hỉ cực kỳ nhẹ nhàng. Xúc cảm này dường như là sản phẩm phụ của sự tập trung, mà không có nó thì không thể đạt tới sự thăng hoa.
Khi quan sát một người ở trong trạng thái sảng khoái, ta có cảm giác những gì khó khăn nhất lại là những cái dễ dàng và thành tích đặc biệt là hoàn toàn tự nhiên. Điều đó dường như cũng đúng ở bên trong bộ não, những nhiệm vụ phức tạp nhất lại được thực hiện với chi phí nhỏ nhất về năng lượng tinh thần. Sự hưng phấn và ức chế của các vòng mạch nơ-ron hoàn toàn thích nghi với nhu cầu tức thì. Khi người ta bị cuốn hút vào những hoạt động mà sự chú ý của họ được huy động và duy trì không cần đến một nỗ lực nhỏ nhất, thì bộ não của họ vẫn “dịu lắng” nghĩa là sự hưng phấn vỏ não giảm đi20. Đó là phát hiện nổi bật, nếu người ta cho rằng trạng thái sảng khoái cho phép mình bắt tay vào những công việc khó khăn nhất, dù đó là đánh cờ với kiện tướng cờ vua hay giải bài toán phức tạp. Người ta có thể thấy rằng những nhiệm vụ khó khăn ấy đòi hỏi hoạt động vỏ não tăng lên mà không phải giảm bớt. Nhưng đặc trưng chủ yếu của trạng thái sảng khoái là nó chỉ xuất hiện khi năng lực cá nhân được đẩy tới cùng lĩnh vực mà người ta đã có kinh nghiệm, trong đó các vòng mạch nơ-ron có hiệu quả nhất.
Sự thành thạo trong lĩnh vực nào đó là cái cho phép người ta đi vào trạng thái hưng phấn làm chủ một hoạt động, dù đó là thể chất, như leo núi hay tinh thần, như lập chương trình cho máy tính – có nghĩa là bộ não thực hiện điều đó có hiệu quả hơn. Những hoạt động được luyện tập nhiều đỏi hỏi nỗ lực ít hơn nhiều so với những hoạt động mà người ta mới học được hay vẫn còn cảm thấy quá khó. Cũng vậy, khi bộ não làm việc kém hiệu quả hơn vì mệt mỏi hay bị kích thích, thì nỗ lực của vỏ não mất đi tính chính xác, vì có quá nhiều vùng được kích động vô ích,
và trạng thái nơ-ron ấy được cảm thấy như sự mất tập trung lớn. Hiện tượng này cũng xảy ra khi người ta buồn chán. Nhưng khi bộ não hoạt động với hiệu quả tối đa trong trạng thái sảng khoái, thì có sự tương ứng giữa các vùng bị kích động và những đòi hỏi của nhiệm vụ phải làm. Trong trạng thái sảng khoái, ngay cả những nhiệm vụ khó khăn dường như có thể gây ra sự thư thái hay có tác dụng điều chỉnh hơn là cảm giác làm cho người ta phải chịu đựng.
Học tập và trạng thái sảng khoái: Mô hình mới cho giáo dục
Do trạng thái sảng khoái xuất hiện ở một vùng trong đó hoạt động đỏi hỏi người ta phải huy động những năng lực của mình đến mức tối đa. Sự thành thạo của người đó càng tăng lên, thì càng phải nỗ lực để đi vào trạng thái hưng phấn. Trong một cuộc nghiên cứu 200 họa sĩ 18 tuổi sau khi họ rời Trường mỹ thuật Csikszentmihalyi đã nhận thấy, chỉ những sinh viên thích vẽ mới trở thành những họa sĩ giỏi. Những người khác, bị kích thích bởi giấc mơ nổi tiếng hay giàu có, phần lớn đã từ bỏ nghệ thuật sau khi nhận bằng tốt nghiệp.
Đối với việc tập luyện cũng vậy, trạng thái sảng khoái là điều kiện tiền đề cho thành công. Những học sinh học tập trong trạng thái sảng khoái thì thành công nhiều hơn học sinh khác. Những học sinh của một trường trung học ở Chicago chuyên về các môn khoa học, tất cả nằm trong số 5% học sinh thu được những kết quả tốt nhất trong lần kiểm tra toán – đã được các giáo viên phân loại theo năng lực thành công nhiều hơn hay ít hơn của họ. Những em kém thành công hơn cả chỉ dành khoảng 15 giờ mỗi tuần để học ở nhà, ít hơn nhiều những bạn có khả năng thành công nhất (trung bình là 27 giờ).
Sự khác nhau chủ yếu giữa hai nhóm học sinh là cảm nhận mà việc học đem lại cho chúng. Những em có năng lực nhất cảm thấy sự tập trung và thích thú gắn liền với trạng thái sảng khoái trong gần 40% thời gian. Ở những em ít năng lực nhất, việc học đưa lại trạng thái này chỉ chiếm 16% thời gian; rất nhiều em trong số đó có cảm giác lo lắng khi nhiệm vụ vượt quá năng lực của chúng. Tóm lại, những học sinh thành công ở trường học thường hay chú ý vào việc học, vì việc học cho phép chúng đạt tới trạng thái sảng khoái. Với những em kém nhất, do không mài giũa năng lực chỉ có thể đến với chúng trong trạng thái sảng khoái, đã để mất sự thích thú về học tập. Howard Gardner, cha đẻ của lý thuyết đa thông minh, cho rằng việc sử dụng sự sảng khoái và các trạng thái tích cực của nó là phương tiện lành mạnh nhất để giáo dục lớp trẻ vì nó kích thích những trạng thái này từ bên trong mà không phải bởi sự đe doạ hay triển vọng được hưởng.
Chiến lược được áp dụng ở nhiều trường học bằng cách sử dụng mô hình nhiều trí tuệ khác nhau của Gardner chủ yếu là thiết lập phác đồ những điểm mạnh, đồng thời cố làm cho những
điểm yếu của chúng trở thành điểm mạnh.
Tổng quát hơn, mô hình về trạng thái sảng khoái gợi lên rằng, trong trường hợp lý tưởng, việc đạt được sự thành thạo hay một khối tri thức phải được thực hiện tự nhiên, vì trẻ em được thu hút vào lĩnh vực đánh thức hứng thú của nó tự phát, nói cách khác, vào những gì chúng yêu thích. Sự đam mê ban đầu ấy sẽ cho phép trẻ về sau đạt được những kết quả đặc biệt, vì chúng hiểu rằng sự kiên trì sẽ cho phép chúng đạt tới trạng thái sảng khoái. Và vì chúng phải tự vươn lên để duy trì trạng thái này, đòi hỏi ấy trở thành sự kích thích làm đúng như thế và sẽ làm cho trẻ em sung sướng. Cách quan niệm ấy về giáo dục rõ ràng tích cực hơn so với những cách tiếp cận truyền thống. Do đó, việc nghiên cứu trạng thái uyển chuyển là cách thức nhân đạo hơn, tự nhiên hơn và chắc chắn là hiệu quả hơn để đưa các xúc cảm phục vụ cho giáo dục.
Điều này xác nhận rằng khả năng định hướng xúc cảm vào mục đích nhất định là năng lực hàng đầu. Dù để chế ngự những xung lực của mình hay trì hoãn sự thoả mãn ham muốn, để kiểm soát tâm trạng của mình nhằm tạo thuận lợi cho tư duy thay vì ngăn cản nó, để tự khuyến khích phải kiên trì mà không để bị nản lòng vì thất bại, để đạt tới trạng thái sảng khoái và có hiệu quả hơn, tất cả những điều đó nhấn mạnh khả năng của xúc cảm trong việc định hướng những gì chúng ta đang làm.
7. Nguồn gốc của sự đồng cảm
Đồng cảm dựa vào ý thức về bản thân; khi chúng ta càng nhạy cảm với xúc cảm của mình, thì chúng ta càng hiểu rõ cảm xúc của người khác . Những người không có khả năng diễn đạt xúc cảm đều không có ý niệm nào về những gì họ cảm thấy và hoàn toàn không hiểu được những gì người khác cảm thấy. Về mặt tình cảm, họ không có “tai”; họ không cảm nhận được những nốt nhạc và những hợp âm xúc cảm nằm trong lời lẽ và cử chỉ của người khác dù là một sự đổi giọng, một sự im lặng hay một cơn giận dữ bùng nổ.
Bị chính xúc cảm của mình làm cho bối rối, những người không có khả năng diễn đạt xúc cảm cũng bị xúc cảm của người khác làm bối rối. Tình trạng không cảm nhận được xúc cảm của người khác là thiếu sót nghiêm trọng về trí tuệ xúc cảm và là khiếm khuyết bi thảm về cái được người ta coi là “tính người”. Trong các mối quan hệ của con người, ân cần, sự trìu mến bắt nguồn từ sự hòa hợp với người khác và khả năng đồng cảm.
Người ta hiếm khi thể hiện những xúc cảm của mình bằng lời lẽ mà bằng nhiều cách khác. Hiểu xúc cảm của người khác bằng trực giác, trước hết là giải được tín hiệu không lời như giọng nói, cử chỉ, biểu hiện nét mặt v.v... Nhà tâm lý học Robert Rosenthal đã tưởng tượng ra PONS (phác đồ diễn đạt cảm xúc không lời – Profile of Nonverbal Sensitivity), một trắc nghiệm cho phép đánh giá sự đồng cảm nhờ hàng loạt băng video về một cô gái biểu hiện những tình cảm khác nhau, như sự ghê tởm hay sự trìu mến của người mẹ , từ một cơn ghen đến việc xin lỗi, từ lòng biết ơn đến sự cảm phục. Trong một vài cảnh, tất cả biểu hiện tình cảm khác đều bị xoá bỏ, chỉ trừ biểu hiện nét mặt. Trong những cảnh khác, người ta chỉ cho thấy những cử động của thân thể, v.v... để cho người xem phải nhận ra xúc cảm từ kênh không lời nào đó.
Trắc nghiệm được thực hiện với 700 người Mỹ và ở 18 quốc gia khác cho thấy, năng lực lý giải các tình cảm từ những chỉ dẫn không lời làm cho các xúc cảm của mình thích nghi với tình huống nhất định, được người khác ưa thích hơn, làm cho chúng cởi mở hơn và, tất nhiên, nhạy cảm hơn. Nói chung, phụ nữ thường tỏ ra dễ đồng cảm hơn nam giới. Và những đối tượng có kết quả tốt hơn trong trắc nghiệm cho thấy họ đã giữ được những liên hệ tốt nhất với những người khác giới. Có gì phải ngạc nhiên khi sự đồng cảm là con chủ bài trong đời sống tình yêu không?
Giống như những thành tố khác của trí tuệ xúc cảm. Tính độc lập của sự đồng cảm đối với trí tuệ lý thuyết đã được trắc nghiệm PONS thích hợp với trẻ em xác nhận. Trên 1011 em được
trắc nghiệm, những em có năng lực hiểu tình cảm nhờ vào tín hiệu không lời là những em được yêu quý nhất trong trường, những em ổn định nhất về tâm lý . Chúng cũng đạt được những kết quả học tập tốt, dù mức IQ trung bình của chúng không cao hơn những em chậm hiểu những thông điệp không lời, điều đó khiến người ta nghĩ rằng sự làm chủ năng lực đồng cảm này làm cho việc học tập dễ dàng hơn (hay thu hút sự yêu mến của các giáo viên).
Giống như từ ngữ là phương thức biểu hiện tư duy lý tính, tín hiệu không lời là phương thức biểu hiện xúc cảm. Khi lời lẽ của ai đó ngược lại với cách biểu hiện giọng nói, với những cử chỉ hay kênh không lời khác, thì sự thật của xúc cảm này là ở cách anh ta nói chứ không phải ở những gì anh ta nói. Về mặt giao tiếp, quy tắc chung là ít nhất có tới 90% thông điệp xúc cảm không được biểu hiện bằng lời. Và những thông điệp ấy có thể là sự lo sợ trong giọng nói, sự bực mình thể hiện bằng cử chỉ mạnh, bao giờ cũng được cảm nhận gần như vô thức.
Sự đồng cảm biểu hiện như thế nào?
Khi nhìn thấy đứa bạn ngã xuống đất, Hope, đứa bé chín tháng tuổi, liền khóc tướng lên và bò tới chỗ mẹ để được an ủi, như thể mẹ nó sẽ cảm thấy nó bị đau. Michael, 15 tháng đi tìm con gấu bông để đưa cho bạn nó là Paul đang khóc; vì Paul vẫn khóc, nó lại đưa cho bạn cả cái khăn to để Paul đắp cho con gấu kia. Hai biểu hiện nhỏ đầy sự thiện cảm và ân cần ấy cho thấy, sự đồng cảm có nguồn gốc từ khi chúng ta còn rất nhỏ. Ngay từ lúc mới đẻ, những đứa bé đã cảm thấy buồn khi nghe thấy đứa bé khác khóc, một phản ứng được một số người coi là dấu hiệu báo trước sự đồng cảm.
Các nhà tâm lý học về lứa tuổi trẻ thơ đã khám phá ra rằng trẻ em biết buồn vì đồng cảm với bạn trước khi có ý thức đầy đủ về việc chúng là những cá thể khác nhau. Chỉ vài tháng sau khi đẻ, khi nghe thấy một đứa khác khóc, chúng cũng tỏ ra bối rối và trào nước mắt như chính chúng đang gặp phải rắc rối. Khoảng một tuổi, chúng bắt đầu hiểu những nỗi buồn ấy không phải là của chúng mà của một đứa khác, nhưng bao giờ cũng đưa lại ấn tượng là chúng không biết làm thế nào để giúp bạn nguôi đi. Chẳng hạn, trong các cuộc khảo sát của nhà tâm lý học Martin L.Hoffman, đứa bé một tuổi yêu cầu mẹ nó an ủi đứa bạn đang khóc, ngay cả khi mẹ đứa bạn này vẫn có mặt trong phòng. Sự bối rối này cũng hiện ra khi những đứa trẻ lên một bắt chước sự buồn bã của một đứa khác, có lẽ để hiểu rõ hơn xem nó cảm thấy như thế nào. Ví dụ, nếu thấy một đứa bé bị đau ở ngón tay, thì đứa kia liền đưa ngón tay vào miệng để xem nó có bị đau không. Khi nhìn thấy mẹ khóc, đứa bé cũng chùi mắt mình tuy nó không khóc.
Người ta gọi ứng xử này là một sự bắt chước động (motor mimicry), để mô tả điều đó mà nhà tâm lý học E.B. Tichener đưa ra thuật ngữ đồng cảm (empathy) trong những năm 1920. Theo
lý thuyết của Titchener, đồng cảm bắt nguồn từ kiểu bắt chước xúc cảm thể chất của người khác, sự bắt chước mà sau đó gợi lên chính những xúc cảm ấy ở bản thân mình.
Sự bắt chước động biến mất khỏi danh mục tâm lý của trẻ em khi chúng được hai tuổi rưỡi, lúc chúng hiểu nỗi đau của người khác là khác với của chúng và lúc chúng có thể bắt đầu an ủi người khác. Đây là minh họa rõ rệt về hiện tượng này, lấy từ nhật ký của một người mẹ:
Đứa con của một bà hàng xóm khóc... Jenny xán gần lại và đưa cho nó những chiếc bánh nhỏ. Nó theo dõi thằng bé kia đang bắt đầu rên rỉ. Rồi nó thử vuốt ve mái tóc thằng bé, nhưng thằng bé lùi ra... Thằng bé đã nín, nhưng Jenny dường như vẫn lo lắng. Nó lại đưa đồ chơi và vỗ vỗ thân mật lên đầu và lên vai thằng bé .
Ở giai đoạn phát triển này, trẻ em bắt đầu tự phân biệt nhau bằng sự nhạy cảm tương đối rõ đối với các xúc cảm của người khác. Một số, như Jenny, thì rất nhạy cảm, trong khi một số khác lại không chú ý. Một loạt nghiên cứu do Marian Radke – Yarrow và Carolyn Zahn – Waxler thực hiện tại Viện nghiên cứu quốc gia Mỹ về sức khoẻ tinh thần, đã cho thấy rằng những sự khác nhau trong biểu hiện đồng cảm phần lớn là do cách bố mẹ dạy dỗ con mình. Trẻ biết đồng cảm hơn khi bố mẹ làm chúng chú ý tới hậu quả từ hành vi xấu của chúng đối với những đứa trẻ khác (“Xem này, con đã làm cho bạn buồn đấy”, thay vì: “Mày đã làm một điều thật tệ hại”). Hai nhà nghiên cứu nữ này cũng nhận xét rằng sự đồng cảm nảy sinh ở trẻ em khi chúng nhìn thấy người khác phản ứng như thế nào đó với nỗi buồn của người khác. Bằng cách bắt chước những điều chúng nhìn thấy, trẻ em có được một loạt những phản ứng đồng cảm, đặc biệt là khi chúng đến giúp cho những đứa bạn đang buồn.
Đứa trẻ hòa hợp
Sarah đẻ sinh đôi, Mark và Fred. Theo chị, Mark giống mình hơn còn Fred thì giống bố hơn, điều đó có lẽ giải thích cho những đối xử khác nhau rất tinh tế của chị dành cho hai đứa con trai nhỏ. Khi chúng được 3 tháng, Sarah thường cố đón bắt cái nhìn của Fred rồi lại quay mặt đi. Khi chị nhìn đi chỗ khác, Fred lại nhìn chị, và vòng quay ấy cứ tiếp tục – cuối cùng Fred thường oà lên khóc. Ngược lại, Sarah không hề bắt Mark phải nhìn mình như thế. Nó có thể thôi nhìn khi nó muốn, mà không hề bị mẹ nài ép.
Đó là ứng xử vô hại nhưng lại cho thấy những hậu quả nghiêm trọng. Một năm sau, Fred thường hay lo sợ và lệ thuộc hơn Mark; nhất là nó thường biểu lộ sự sợ hãi này bằng cách ngừng tiếp xúc bằng mắt với người khác. Trái lại, Mark nhìn thẳng vào mắt người khác; khi nó muốn ngừng tiếp xúc, nó nhè nhẹ quay đầu đi với một nụ cười quyến rũ.
Những quan sát trên đã được Daniel Stern, nhà tâm thần học ở trường Đại học Cornell, thực hiện . Daniel bị thu hút bởi những trao đổi lặp đi lặp lại và khó nhận thấy giữa bố mẹ và con cái; ông cho rằng cơ sở của đời sống tình cảm đã được thể hiện trong những khoảnh khắc thân thiết ấy. Những thời điểm quyết định là những thời điểm mà đứa con thấy rằng xúc cảm của nó được đền bù lại, theo quá trình được Daniel gọi là sự hòa hợp (attunement). Mẹ của hai đứa trẻ sinh đôi hòa hợp với Mark, nhưng lại không hòa hợp về xúc cảm với Fred. Daniel cho rằng sự lặp đi lặp lại vô số khoảnh khắc hòa hợp hay lệch pha giữa bố mẹ và con cái quyết định việc con cái, khi trở thành người lớn, sẽ điều chỉnh quan hệ tình cảm với người thân của chúng như thế nào.
Sự hòa hợp diễn ra trầm lặng, theo nhịp độ của những quan hệ. Daniel đã nghiên cứu nó với sự chuẩn xác tinh vi bằng cách ghi lại ứng xử giữa bà mẹ và con cái trong nhiều giờ liền. Ông nhận thấy rằng sự hòa hợp cho phép các bà mẹ làm cho con mình biết rằng mình hiểu được những gì chúng đang cảm nhận. Chẳng hạn, khi đứa con kêu lên vì thích thú, người mẹ xác nhận thông điệp này bằng cách vừa lắc nhẹ đứa con vừa tỉ tê với nó, hay cất cao giọng ngang với tiếng kêu của đứa con. Trong loại trao đổi này, thông điệp xác nhận của người mẹ phù hợp với mức độ hưng phấn của đứa bé.
Sự hòa hợp rất khác với sự bắt chước đơn thuần. Nếu chỉ muốn bắt chước một đứa bé – Daniel nói, thì điều đó chỉ có nghĩa là biết được những gì nó làm mà không phải những gì nó đang cảm thấy. Để nó hiểu rằng mình biết những gì nó cảm thấy, thì tự mình phải biểu hiện những tình cảm của đứa bé bằng một cách khác.
Ở người lớn, tình yêu thể chất là một phần của sự hòa hợp, Daniel viết: “Dựa vào sự cảm nhận trạng thái chủ quan của người kia: ham muốn và ý định được chia sẻ với nhau, trạng thái hưng phấn tăng lên đồng thời. Những người yêu nhau đáp lại nhau kịp thời, đem lại cảm giác ngụ ý của sự hòa hợp sâu sắc.” Khi họ thoả mãn, những quan hệ tình dục là hành vi đồng cảm lẫn nhau; còn khi không thoả mãn, thì không có sự chia sẻ cảm xúc ấy.
Sự lệch pha và những hậu quả của nó
Theo Daniel, chính nhờ có kinh nghiệm lặp đi lặp lại về sự hòa hợp mà đứa bé hiểu rằng người khác có muốn chia sẻ xúc cảm với nó hay không. Sự hiểu biết này dường như xuất hiện vào lúc được 8 tháng, khi đứa bé biết mình khác với những người khác và sẽ tiếp tục được bồi đắp bằng những quan hệ thân thiết của nó suốt cả đời. Khi bố mẹ không hòa hợp với con mình, thì sẽ có hậu quả rất xấu. Trong một thí nghiệm, Daniel yêu cầu các bà mẹ tăng hay giảm các phản ứng của họ đối với tình cảm mà con mình biểu hiện, thay vì làm cho sự phản ứng ấy hòa hợp.
Những đứa con ngay lập tức biểu lộ sự thất vọng và buồn rầu.
Thiếu sự hòa hợp giữa bố mẹ và con cái trong thời gian dài sẽ gây ảnh hưởng sâu sắc tới tình cảm của những đứa con. Khi bố (mẹ) không biểu lộ chút đồng cảm nào đối với biểu hiện xúc cảm nào đó của đứa con như vui, buồn, thích được mơn trớn, thì đứa con bắt đầu tránh bộc lộ xúc cảm ấy và cuối cùng không còn cảm nhận được nó nữa. Chính vì thế, cả những mảng xúc cảm thân thiết cũng có thể bị xoá đi, nếu biểu hiện của những tình cảm ấy vẫn tiếp tục bị làm mòn đi công khai hoặc ngấm ngầm.
Trẻ em có thể bị ảnh hưởng một số tình cảm tiêu cực từ những người chung quanh chúng. Ngay cả những đứa rất nhỏ cũng cảm nhận được thái độ của người mẹ suy sụp tinh thần khi họ chơi với chúng và chúng hay bộc lộ sự giận dữ và buồn rầu hơn, ít hiếu kỳ và hứng thú hơn những đứa bé có mẹ không bị suy sụp tinh thần .
Cái giá phải trả cho sự thiếu hài hòa về xúc cảm thời thơ bé có thể quá lớn, và không chỉ đối với đứa trẻ. Một nghiên cứu về những tội phạm đặc biệt hung ác và dữ tợn cho thấy, chúng đều được nuôi trong các gia đình hay nhà trẻ mồ côi theo cách giống nhau, mà do đó khả năng về quan hệ xúc cảm hài hòa chắc chắn ở mức thấp nhất .
Nếu sự thờ ơ xúc cảm dường như dẫn đến xói mòn sự đồng cảm, thì bạo lực tâm lý nhất là sự tàn bạo tinh thần và thể chất, những sự sỉ nhục và hung bạo dường như đưa tới kết quả ngược lại. Những đứa trẻ phải chịu sự gây hấn tinh thần ấy có thể trở nên nhạy cảm quá mức, bằng thái độ nghi ngờ sau chấn thương với những chỉ số nguy hại. Sự ám ảnh về tình cảm của người khác là đặc trưng của những người vốn là nạn nhân của bạo lực tâm lý thời thơ ấu nên đã hiểu rõ những biến đổi đột ngột thăng trầm về tâm trạng mà đôi khi người ta gọi là “sự rối nhiễu của nhân cách”. Nhiều người trong số đó có năng khiếu hiểu được những gì người khác cảm nhận9.
Thần kinh học về sự đồng cảm
Như thường xảy ra trong thần kinh học, những bệnh nhân có các triệu chứng lạ đã cho thấy những chỉ báo đầu tiên về sự đồng cảm của não. Bản báo cáo năm 1975 đã phân tích trường hợp những bệnh nhân có nhiều thương tổn ở phần bên phải các thùy trán, những người này không thể hiểu được thông điệp tình cảm thể hiện ở giọng nói của người nói chuyện với họ, nhưng lại hoàn toàn có thể hiểu được những lời của người đó. Đối với họ, một tiếng “cảm ơn” châm chọc, một tiếng “cảm ơn” chân thành và một tiếng “cảm ơn” bực bội đều mang ý nghĩa giống nhau. Một bản báo cáo khác năm 1979 mô tả những bệnh nhân có tổn thương ở các vùng
khác tại bán cầu phải, họ lại mắc chứng thiếu hụt rất khác về sự cảm nhận xúc cảm của chính họ. Những người này không thể diễn đạt được xúc cảm của mình bằng giọng nói hay cử chỉ. Họ có ý thức về xúc cảm của mình, nhưng không thể diễn đạt chúng. Những vùng vỏ não bị tổn thương có liên hệ chặt chẽ với hệ thống rìa, như các tác giả đã nhận xét.
Những nghiên cứu này xuất phát từ bài viết của nhà tâm thần học Leslies Brothers về sinh học đồng cảm10. Điểm qua những dữ kiện thần kinh học và những nghiên cứu so sánh, Brothers đã đồng nhất hạnh nhân và những liên kết của nó với vùng liên tưởng của vỏ não thị giác như một bộ phận của vòng mạc não chính chịu trách nhiệm về sự đồng cảm.
Phần lớn những dữ kiện thần kinh được lấy từ nghiên cứu trên động vật, đặc biệt là loài khỉ. Việc những con khỉ biểu lộ sự đồng cảm hay sự “giao tiếp xúc cảm” như Brothers gọi được chứng minh không chỉ bằng quan sát mà bằng cả kinh nghiệm, như ví dụ sau đây: người ta tập cho những con khỉ rhesus sợ một tín hiệu âm thanh bằng cách liên kết nó với sự phóng điện. Những con khỉ này học cách tránh sự phóng điện bằng cách tựa vào đòn bẩy mỗi lần nghe thấy tín hiệu. Sau đó, người ta đặt các cặp khỉ vào những chuồng tách xa nhau, phương tiện giao tiếp duy nhất của chúng chỉ là vòng mạch khép kín của truyền hình, cho phép chúng nhìn thấy mặt con vật kia trên màn hình. Một trong hai con khỉ sau khi nghe thấy tín hiệu đáng ngại kia, thì biểu lộ sự sợ hãi. Con khỉ còn lại, nhìn thấy biểu hiện sợ hãi ấy, liền tựa vào đòn bẩy để ngăn sự phóng điện – một hành vi đồng cảm.
Sau khi đã thấy những con khỉ ấy có thể đọc được xúc cảm trên mặt đồng loại, các nhà nghiên cứu cắm những điện cực rất nhỏ vào não chúng. Những điện cực này cho phép ghi nhận hoạt động của nơ-ron. Bằng cách ghi nhận hoạt động của các nơ-ron của vỏ não thị giác và của hạnh nhân, người ta nhận thấy khi cho một con khỉ nhìn thấy mặt con khỉ kia, sự phóng nơ-ron sẽ xảy ra trong vỏ não thị giác, rồi trong hạnh nhân. Như chúng ta đã biết, hành trình này là lối đi quen thuộc của thông tin kích thích xúc cảm. Nhưng điều đáng ngạc nhiên trong kết quả nghiên cứu này là chúng cho phép nhận biết các nơ-ron của vỏ não thị giác chỉ phản ứng với biểu hiện trên mặt, hay với cử chỉ riêng biệt, như sự nhăn mặt đe doạ hay khiếp hãi, hay một tư thế phục tùng. Những nơ-ron này khác với nơ-ron khác trong vùng thường phản ứng với bộ mặt thân thuộc. Điều đó chỉ ra rằng, ngay từ đầu, bộ não được tạo ra để phản ứng với biểu hiện của các xúc cảm, điều đó cũng có nghĩa: đồng cảm là một sự kiện sinh học.
Những nghiên cứu của nhà tâm lý học Robert Levenson cho thấy ở con người, sự đồng cảm dựa vào cơ sở sinh lý tương tự. Levenson nghiên cứu các cặp vợ chồng đang cố đoán xem phía đối phương cảm thấy như thế nào khi đang cãi nhau kịch liệt11. Phương pháp thật đơn giản:
các cặp vợ chồng được chụp phim và những phản ứng sinh lý của họ được đo khi họ cãi nhau. Sau đó, mỗi bên xem phim và mô tả xúc cảm mà mình lần lượt cảm thấy. Rồi xem lại phim để thử giải mã những xúc cảm của người kia.
Câu trả lời của các đối tượng tỏ ra chính xác nhất khi phản ứng tâm lý của họ theo sát sự tiến triển của cuộc cãi cọ. Khi người chồng hay người vợ đổ mồ hôi đầm đìa, thì mồ hôi của người kia cũng chảy ròng ròng. Khi tim người kia đập chậm lại, tim người này cũng vậy. Tóm lại, cơ thể họ bắt chước phản ứng sinh lý tinh vi và luôn luôn thay đổi của người kia. Khi những phản ứng sinh lý của người xem phim chỉ lặp lại đúng như phản ứng đã có khi cãi nhau, người xem khó đoán đúng những gì người kia cảm thấy. Chỉ có sự đồng cảm khi phản ứng sinh lý của các cặp vợ chồng diễn ra đồng thời.
Từ đó có thể suy ra rằng khi bộ não xúc cảm bắt cơ thể có phản ứng mạnh, chẳng hạn, một cơn giận – thì ít hoặc không có sự đồng cảm. Sự đồng cảm đòi hỏi năng lực tiếp nhận và sự yên tĩnh đủ để những tín hiệu tinh tế thể hiện tình cảm của người kia có thể được nhận biết và bắt chước.
Đồng cảm và đạo đức: Nguồn gốc của sự vị tha
“Đừng bao giờ tìm hiểu xem chuông nguyện hồn ai: nó nguyện hồn người đó”. Trong câu nói nổi tiếng này, John Donne diễn đạt thực chất của mối quan hệ thống nhất giữa sự đồng cảm và lòng nhân từ: cảm nhận được nỗi đau của người khác, đó là quan tâm tới chính bản thân mình. Theo nghĩa đó, đồng cảm là cái ngược lại với ác cảm. Có nên nói dối để khỏi làm tổn thương tình cảm của một người thân không? Có nên giữ lời hứa đến thăm một người bạn bị ốm hay chấp nhận một lời mời ăn trưa vào phút cuối cùng không? Có nên giả tạo duy trì sự sống của người nào đó không?
Những câu hỏi đạo đức ấy được Martin Hoffman đặt ra khi tiến hành nghiên cứu về sự đồng cảm, và ông cho rằng phán xét đạo đức bắt nguồn từ tình cảm này, do đồng cảm với những người đang khổ sở vì gặp nguy hiểm hay thiếu thốn và, do đó, chia sẻ nỗi đau khổ của họ mà người ta bị thúc đẩy tới chỗ giúp đỡ họ12. Hoffman cho rằng chính năng lực đồng cảm, đặt mình vào địa vị của người khác đưa người ta đến chỗ tôn trọng một số nguyên tắc đạo đức.
Theo Hoffman, sự đồng cảm phát triển từ thời thơ ấu. Khi được 1 tuổi, đứa trẻ cảm thấy buồn rầu mỗi khi nó nhìn thấy một đứa khác ngã hoặc khóc. Sau năm đầu tiên, khi nó bắt đầu biết tới sự hiện diện riêng của nó, nó cố giải khuây cho đứa bé kia bằng cách đưa một con gấu bông, chẳng hạn. Từ 2 tuổi, nó bắt đầu hiểu rằng tình cảm của người khác là khác với của nó, và nó
trở thành nhạy cảm hơn với những tín hiệu cho thấy người khác đang cảm thấy gì. Ở giai đoạn này, nó có thể hiểu được rằng cách tốt nhất để giúp đứa trẻ khác hết khóc có lẽ là tôn trọng bản lĩnh của nó và đừng quá chú ý tới nước mắt của nó.
Sự đồng cảm đạt tới hình thức hoàn chỉnh nhất vào lúc kết thúc tuổi thơ, khi đứa trẻ hiểu rằng nỗi buồn có thể không chỉ là tình thế trước mắt mà còn là sự nhìn nhận thân phận hay vị thế của một người nào đó trong cuộc đời, đó có thể là nguồn gốc thường xuyên của sự đau khổ. Phát triển tinh thần tới mức này, nó có thể đồng cảm với đau khổ của cả một nhóm, như những người bị loại trừ. Vào tuổi niên thiếu, sự hiểu biết này có thể làm tăng thêm niềm tin đạo đức vững chắc hướng tới ý chí đấu tranh chống lại bất hạnh và bất công.
Sống không đồng cảm: Tâm lý và đạo đức của kẻ chống xã hội
Eric Eckardt, vệ sĩ của nữ vận động viên trượt băng Tonya Harding, là chủ mưu một tội ác bỉ ổi. Hắn thuê bọn lưu manh tấn công Nancy Kerrigan, đối thủ chính của Harding tại Thế vận hội 1994. Bị thương ở đầu gối, Kerrigan không thể luyện tập trong những tháng quyết định trước cuộc thi. Nhưng khi Eckardt thấy Kerrigan khóc nức nở trên truyền hình, hắn lấy làm hối hận và thú nhận điều bí mật của mình với một người bạn, đưa tới chỗ bọn thủ phạm bị bắt. Đó là sức mạnh của sự đồng cảm.
Nhưng nói chung, thủ phạm của những tội ác bỉ ổi đều hoàn toàn không có sự đồng cảm. Bọn trộm cắp, bọn hiếp dâm trẻ em và tội phạm bạo lực gia đình khác thường có chung đặc điểm ấy. Việc chúng không thể cảm nhận được nỗi đau khổ của các nạn nhân cho phép chúng tự dối mình để biện minh cho tội ác của chúng. Chẳng hạn, bọn hiếp dâm tự nhủ: “Phụ nữ mơ ước được hiếp dâm” hoặc “Nếu cô ta chống cự, thì đó là làm ra vẻ khó khăn mà thôi”; bọn hiếp dâm trẻ em nghĩ: “Ta không làm điều ác với nó, ta dạy cho nó làm tình”, hoặc: “Đó là cách để biểu lộ sự trìu mến”; còn những ông bố bà mẹ đánh đập con mình lại tự nhủ: “Đó là ta dạy cho nó một bài học đích đáng”. Những sự biện minh ấy được họ lặp đi lặp lại khi hành hạ nạn nhân của mình.
Đôi khi, sự thiếu đồng cảm đúng lúc lại có thể là “ưu điểm” trong một số “nghề nghiệp” như viên cảnh sát phụ trách thẩm vấn chẳng hạn. Những người đã từng làm tra tấn dưới chế độ chuyên chế giải thích việc họ đã học cách tách khỏi những xúc cảm của nạn nhân như thế nào để thực hiện “nhiệm vụ” của mình. Có nhiều con đường dẫn tới chỗ dùng thủ đoạn.
Một trong những biểu hiện đáng lo ngại nhất của sự thiếu đồng cảm đã được phát hiện ngẫu nhiên trong nghiên cứu về bạo lực vợ chồng. Những nghiên cứu này đã tìm thấy sự dị thường
sinh lý ở những anh chồng dữ tợn nhất, những kẻ thường xuyên đánh vợ, hoặc doạ giết vợ bằng một con dao hay một khẩu súng: những kẻ đó hành động lạnh lùng và có tính toán hơn là bị cơn cuồng nộ chi phối13. Chính vào lúc cơn giận dữ của họ trào lên, sự dị thường ấy xuất hiện: nhịp tim họ chậm lại thay vì đập nhanh lên, như lẽ ra phải thế. Nói cách khác, họ bình tĩnh về mặt sinh lý ngay cả khi họ trở nên gây hấn và tàn bạo hơn. Bạo lực của họ dường như là hành vi khủng bố có tính toán, khống chế vợ họ bằng sợ hãi.
Khác với những người đàn ông khác cũng đánh vợ, họ có xu hướng bạo lực hơn ở bên ngoài gia đình và thường tham gia ẩu đả, hoặc thường đánh nhau với các đồng nghiệp hay bạn bè. Mặt khác, trong khi phần lớn những người đàn ông đánh vợ làm điều đó lúc cơn giận dữ nổi lên thì những kẻ này thường tấn công vợ chẳng vì lý do rõ ràng nào.
Một số nhà nghiên cứu về những tên tội phạm mắc bệnh tâm thần cho rằng cách thực hiện tội ác lạnh lùng như thế, cũng như việc thiếu đồng cảm của chúng là do khuyết tật nơ-ron mà có. Một nguồn gốc sinh lý của bệnh tâm thần đã được phát hiện theo hai cách khác nhau, nhưng cả hai đều chịu ảnh hưởng của các vòng mạch nơ-ron dẫn tới hệ thống rìa. Trong một thí nghiệm, người ta đã ghi các sóng não của các đối tượng trong khi họ cố đọc những từ mà thứ tự chữ cái đã bị đảo lộn. Các từ hiện ra rất nhanh, chỉ trong khoảng một phần mười giây. Phần lớn đã phản ứng khác nhau với từ ngữ mang nội hàm xúc cảm, như “giết” và với những từ trung tính, như ghế: họ tìm thấy nhanh hơn lời giải đối với những từ mang tính xúc cảm và các sóng não của họ có dạng chuyển động đặc trưng, không thấy có ở từ trung tính. Nhưng những người mắc bệnh đa nhân cách không bao giờ có phản ứng như vậy: các sóng não của họ không có chuyển động đặc biệt nào để phản ứng với những từ mang tính xúc cảm, cũng không phản ứng với các từ đó nhanh hơn. Tất cả những điều này cho thấy có sự cắt đứt các vòng mạch giữa vỏ não ngôn từ (nhận biết các từ) và não rìa (gắn với một xúc cảm).
Theo Robert Hara, nhà tâm lý học Canada đã thực hiện các nghiên cứu này, những kết quả ấy cho thấy người mắc bệnh tâm thần chỉ có hiểu biết hời hợt về các từ mang tính xúc cảm, còn tính trơ ì của người mắc bệnh nhân cách, theo Hare, một phần là do đặc điểm dị thường trong hoạt động của hạnh nhân và các vòng mạch liên kết: những người mắc bệnh đa nhân cách, lúc sắp nhận sự phóng điện, không hề tỏ ra một dấu hiệu sợ hãi nào. Vì đau đớn không gây ra một chút sợ hãi nào ở người mắc bệnh tâm thần, nên Hare cho rằng họ không sợ sẽ bị trừng phạt vì hành vi của mình. Và bởi vì chính họ không cảm thấy một chút sợ hãi nào, nên họ cũng không đồng cảm với nỗi sợ hay đau đớn từ nạn nhân của họ.
8. Nghệ thuật hòa hợp với người khác
Len, 5 tuổi đã tức điên lên với Jay, đứa em trai hai tuổi rưỡi vì phá những hình lắp ghép của nó. Tức giận, nó cắn Jay khiến thằng em khóc thét. Mẹ chúng mắng Len, bắt nó cất đồ chơi đi. Như phải chịu sự bất công ghê gớm, Len oà khóc nức nở. Mẹ nó vẫn còn bực mình, không dỗ nó.
Jay băn khoăn với những tiếng khóc của anh trai, nó quay sang an ủi anh mình: – Đừng khóc, Len – Jay van xin. Đừng khóc nữa...
Nhưng Len vẫn khóc. Can thiệp không xong, Jay cầu cứu mẹ:
– Mẹ! Xem Len vẫn khóc kìa. Len vẫn khóc kìa!
Rồi quay sang anh, nó học kiểu mẹ vỗ vỗ anh mình và nói với giọng dịu dàng: – Thôi, đừng khóc nữa!
Nhưng Len vẫn nức nở. Jay thử dùng thủ thuật khác, nó giúp anh xếp lại các hình lắp ghép.
Chẳng ăn thua gì. Jay chưa chịu thua và thay đổi phương pháp. Nó đưa cho anh trai chiếc ô tô nhỏ xíu và cố làm cho anh quên đi tấn kịch vừa rồi:
– Xem này, có một hình người ngồi trong xe này. Đó là cái gì thế, Len? Cái gì thế? Vẫn chưa nguôi, nước mắt Len vẫn trào ra. Mẹ nó lại giở trò đe doạ cổ điển: – Mày muốn ăn roi hả?
Len lắc đầu.
– Vậy thì nín ngay – Mẹ nó chưa hết bực mình, nói với giọng kiên quyết.
Qua tiếng khóc nức nở, Len lẩm bẩm:“Con sẽ thôi”, giọng thê thảm và hổn hển.
Điều đó khiến cho Jay thử dùng một thuật cuối cùng nữa: bắt chước giọng ra oai của mẹ, nó doạ:
– Đừng khóc nữa, Len. Nếu không sẽ ăn đòn đấy!
Câu chuyện trên cho thấy sự tinh tế tâm lý đáng chú ý mà đứa trẻ 30 tháng có thể có khi muốn