🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trí Tuệ Tài Chính
Ebooks
Nhóm Zalo
TRÍ TUỆ TÀI CHÍNH
Tác Giả: Karen Berman & Joe Knight, John Case Công ty phát hành: Alphabooks
Nhà xuất bản: NXB Lao Động Xã Hội Trọng lượng vận chuyển (gram): 350
Kích thước: 13 x 20.5 cm
Số trang: 350
Ngày xuất bản: 04-2014
Ebook: tna 07/06/16
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
NẾU NGƯỜI MỸ ĐỌC CUỐN SÁCH NÀY, TẠI SAO NGƯỜI VIỆT NAM LẠI KHÔNG?
Hãy tưởng tượng thế này. Bạn đang có 10 triệu đồng, và bạn quyết định kinh doanh. Trong 3 tháng đầu, bạn đạt được doanh thu lần lượt là 20 triệu, 30 triệu và 45 triệu đồng. Thật là một sự tăng trưởng doanh thu ấn tượng phải không? Chi phí trực tiếp giúp tạo ra doanh thu của bạn chiếm 60% doanh thu còn chi phí hoạt động chung hàng tháng là 10 triệu đồng/tháng. Từ đây, bạn rút ra được rằng bạn lỗ 2 triệu trong tháng đầu tiên, lãi 2 triệu trong tháng thứ hai, và lãi 8 triệu trong tháng thứ ba. Vậy là bạn nghĩ mình đang có một sự tăng trưởng lợi nhuận tốt. Thế nhưng liệu bạn có nên vui mừng không?
Đương nhiên là không, hay nói đúng hơn, là chưa nên vui mừng quá sớm. Các con số dù sao cũng chỉ là các con số và nếu bạn không hiểu được ý nghĩa đằng sau nó, thì chúng đều vô giá trị, nếu không muốn nói là cực kỳ nguy hiểm vì chúng có thể tạo ra ảo tưởng cho bạn. Đó chính là lý do bạn cần phải đọc cuốn sách này. Đúng như tên gọi của nó, Trí tuệ tài chính là một cuốn sách về tài chính nhưng không vì thế mà nó mất đi sự thú vị. Một cách tổng quát, cuốn sách sẽ dạy cho bạn cách đọc các bản báo cáo tài chính, chỉ ra những điểm quan trọng và lý do chúng quan trọng. Sau khi đọc xong cuốn sách này, bạn sẽ biết được rằng, thật ra, trong năm đầu tiên, doanh thu 20 triệu hoàn toàn chỉ nằm trong khoản phải thu khách hàng và phải 60 ngày nữa tiền mới về. Trong lúc đó, bạn phải trả 12 triệu đồng chi phí trực tiếp tạo ra 20 triệu doanh thu cho nhà cung cấp trong vòng 30 ngày tới. Vậy là trong tháng đầu tiên, bạn không thu về được đồng nào, phải trả 10 triệu chi phí chung, tức là lỗ 10 triệu, gấp 5 lần con số trong sổ sách. Sang tháng thứ hai, bạn tiếp tục thu về 0 đồng, phải trả 10 triệu chi phí chung, phải trả 12 triệu chi phí trực tiếp từ tháng đầu tiên, tức là lỗ 22 triệu, trái ngược hoàn toàn với con số trong sổ sách. Đến tháng thứ ba, bạn thu về 20 triệu từ tháng đầu tiên, phải trả 10 triệu chi phí chung và 18 triệu chi phí trực tiếp từ tháng thứ hai, tức là lỗ 8 triệu, một kết quả không lấy gì làm vui mừng. Giờ bạn đã hiểu sự nguy hiểm khi không hiểu rõ các con số rồi chứ?
Trí tuệ tài chính là một cuốn sách cực kỳ cơ bản, một cuốn sách về tài chính dành cho tất cả mọi người. Xin nhấn mạnh rằng, nó dành cho tất cả mọi người, từ người làm trong ngành tài chính đến người ngoài ngành, từ
nhân viên cấp thấp đến quản lý cấp cao, bất cứ ai quan tâm đến tình hình tài chính của công ty mình hay bất kỳ đơn vị kinh doanh nào khác đều cần và đủ khả năng đọc cuốn sách này. Nó cơ bản đến mức khi xuất bản cuốn sách này tại Mỹ, các tác giả đã liên tục nhận được phản hồi của người đọc rằng dù rất thích nhưng họ cần những cuốn sách viết ở trình độ cao hơn. Tuy nhiên, nếu ai nghĩ rằng mình không cần đến cuốn sách này thì hãy dành vài phút để làm bài kiểm tra trắc nghiệm trong sách. Đó cũng là cách các tác giả trả lời cho phản hồi trên của độc giả để rồi sau đó, các độc giả đều biết họ cần cuốn sách này vì rõ ràng họ không biết nhiều như họ nghĩ. Cuối cùng, hãy nhớ rằng, nếu những người Mỹ được hưởng nền giáo dục về tài chính và kinh tế tốt nhất thế giới còn cần đọc nó thì thật vô lý khi những người Việt Nam như chúng ta lại không quan tâm và tìm đọc.
Alpha Books trân trọng giới thiệu cuốn sách này tới độc giả! Hà Nội, tháng 4 năm 2014.
LỜI NÓI ĐẦU
THẾ NÀO LÀ TRÍ TUỆ TÀI CHÍNH?
Trong nhiều năm qua, chúng tôi đã làm việc với hàng ngàn nhân viên, nhà quản lý và lãnh đạo ở các doanh nghiệp của Mỹ, giảng giải cho họ về khía cạnh tài chính trong hoạt động kinh doanh. Triết lý của chúng tôi là mọi thành viên của doanh nghiệp sẽ làm việc tốt hơn, một khi họ hiểu thành công tài chính được đo lường như thế nào, và họ có ảnh hưởng ra sao đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Trí tuệ tài chính (Financial intelligence) là thuật ngữ mà chúng tôi dùng để nói về khả năng “thông hiểu” đó. Như chúng ta đều biết, trí tuệ tài chính càng cao sẽ giúp mọi người càng cảm thấy gắn kết và tận tâm. Mọi người hiểu rõ hơn thứ mà mình là một thành phần hợp nên, thứ mà tổ chức đang cố gắng đạt đến, và cách thức mà mình tác động đến kết quả. Lòng tin tăng lên, mức độ luân chuyển nhân sự giảm xuống, và kết quả tài chính cải thiện.
Chúng tôi đi đến triết lý này bằng nhiều con đường khác nhau. Karen tiếp cận bằng con đường học thuật. Luận án tiến sỹ của cô tập trung vào câu hỏi liệu việc chia sẻ thông tin và hiểu biết tài chính từ phía nhân viên và các nhà quản lý có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp không? (Câu trả lời là có). Sau đó, Karen trở thành chuyên gia đào tạo tài chính, và thành lập Viện Business Literacy, với mục đích giúp đỡ mọi người tìm hiểu về tài chính. Joe có bằng thạc sỹ quản trị kinh doanh chuyên ngành tài chính, nhưng phần lớn kinh nghiệm đào tạo tài chính cho các tổ chức của anh lại là từ thực hành. Sau một thời gian làm việc cho tập đoàn Ford Motor và một vài công ty nhỏ, anh gia nhập công ty khởi nghiệp Setpoint Systems and Setpoint Inc., chuyên sản xuất hệ thống tàu lượn siêu tốc và thiết bị tự động hoá nhà máy. Với tư cách là giám đốc tài chính (CFO) của Setpoint, anh nhận ra ngay tầm quan trọng của việc đào tạo để các kỹ sư và nhân viên khác hiểu về cơ chế vận hành của doanh nghiệp. Năm 2003, Joe tham gia cùng Karen trong vai trò đồng sở hữu Viện Business Literacy, và kể từ đó, anh đã làm việc cùng hàng chục công ty trong vai trò chuyên gia đào tạo tài chính.
Chúng tôi muốn nói đến điều gì qua từ trí tuệ tài chính? Nó không phải một dạng năng lực bẩm sinh mà bạn hoặc có hoặc không. Cứ cho là một số người giỏi về các con số hơn những người khác, và một số nhân vật huyền thoại dường như có năng lực trực giác tài chính vượt xa khỏi hiểu biết của chúng ta. Nhưng đó không phải điều chúng tôi đang nói đến ở đây. Đối với
hầu hết các nhà kinh doanh – kể cả chính chúng tôi, trí tuệ tài chính không là gì khác hơn một tập hợp những kỹ năng mà ta phải học và có thể học. Những người làm việc trong lĩnh vực tài chính rèn luyện các kỹ năng này từ sớm, và trong suốt thời gian còn lại của sự nghiệp, họ có thể nói chuyện với người khác bằng thứ ngôn ngữ chuyên ngành. Hầu hết (chứ không phải tất cả) các nhà điều hành cấp cao hoặc có xuất phát điểm từ tài chính, hoặc đã tích lũy các kỹ năng này trên hành trình thăng tiến, chỉ bởi thật khó điều hành một doanh nghiệp nếu không hiểu nổi dân tài chính nói gì. Những nhà quản lý không làm tài chính thường xuyên gặp vận rủi. Họ không bao giờ tích lũy các kỹ năng này, và vì thế, họ bị gạt ra rìa.
Về cơ bản, trí tuệ tài chính có thể đúc rút thành 4 nhóm kỹ năng riêng biệt, và khi hoàn thành xong cuốn sách này, bạn cần thành thạo cả bốn. Đó là:
Thông hiểu kiến thức cơ bản. Những nhà quản lý thông minh về tài chính hiểu rõ các yếu tố cơ bản trong phép đo lường tài chính. Họ có thể đọc báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối thu chi, và báo cáo dòng tiền. Họ biết lợi nhuận khác tiền mặt chỗ nào. Họ hiểu tại sao bảng cân đối thu chi lại… cân đối. Những con số không làm họ sợ hãi hay hoang mang.
Thông hiểu thủ thuật. Tài chính và kế toán vừa là một môn nghệ thuật, vừa là một môn khoa học. Hai ngành này phải cố định lượng những thứ không phải lúc nào cũng có thể định lượng, và do đó, chúng phải dựa vào các quy tắc, ước tính và giả định. Các nhà quản lý có trí tuệ tài chính có thể xác định đâu là nơi khía cạnh nghệ thuật tài chính được áp dụng vào các con số, và hiểu rõ những cách áp dụng khác nhau có thể dẫn đến những kết luận khác nhau như thế nào. Vì lẽ đó, họ sẵn sàng đặt câu hỏi và chất vấn các con số khi thích hợp.
Thông hiểu phép phân tích. Một khi đã có hiểu biết nền tảng và đúng đắn về nghệ thuật tài chính, bạn có thể sử dụng thông tin để phân tích các con số ở tầng sâu hơn. Các nhà quản lý có trí tuệ tài chính không lùi bước trước các con số tỷ lệ, phép phân tích tỷ suất hoàn vốn đầu tư (ROI – return of investmet), và các vấn đề tương tự. Họ sử dụng những phân tích này để có thêm thông tin cho quyết định của mình, và nhờ thế mà có quyết định sáng suốt hơn.
Thông hiểu bức tranh toàn cảnh. Cuối cùng, mặc dù là những người giảng dạy tài chính, và mặc dù cho rằng tất cả mọi người cần thông hiểu phương diện con số trong hoạt động kinh doanh, song chúng tôi cũng tin chắc rằng con số không thể và không nói lên toàn bộ câu chuyện. Kết quả tài chính của một doanh nghiệp phải luôn được hiểu trong bối
cảnh – tức là, trong khuôn khổ của một bức tranh toàn cảnh. Các yếu tố như nền kinh tế, môi trường cạnh tranh, các quy định chính sách, nhu cầu và kỳ vọng đang thay đổi của khách hàng, và công nghệ mới, tất cả đều tác động đến cách thức diễn giải các con số và những quyết định cần được đưa ra.
Nhưng trí tuệ tài chính không dừng lại ở việc học qua sách vở. Cũng như hầu hết các ngành học và nhóm kỹ năng, đó chắc chắn là thứ không chỉ cần học suông, mà còn phải thực hành và ứng dụng. Về mặt thực hành, chúng tôi hi vọng và mong đợi cuốn sách sẽ chuẩn bị để bạn có thể làm được những việc sau:
Nói được ngôn ngữ. Tài chính là ngôn ngữ kinh doanh. Dù bạn thích hay không thì điểm chung duy nhất giữa mọi tổ chức vẫn là các con số và cách mà chúng được kê khai, phân tích và báo cáo. Bạn cần sử dụng thứ ngôn ngữ này để được nhìn nhận nghiêm túc và giao tiếp hiệu quả. Cũng như với bất kỳ ngôn ngữ mới nào, bạn không thể mong đợi có thể nói lưu loát ngay lập tức. Đừng lo – cứ nhảy vào và thử sức. Bạn sẽ dần tự tin hơn khi dấn thân vào.
Đặt câu hỏi. Chúng tôi muốn bạn nhìn các báo cáo và phân tích tài chính bằng con mắt chất vấn. Điều này không có nghĩa là chúng tôi cho rằng những con số bạn xem nhất định không ổn. Chúng tôi chỉ đơn thuần tin rằng, việc hiểu các câu hỏi cái gì, tại sao và như thế nào về những con số mà bạn sử dụng để ra quyết định là vô cùng quan trọng. Bởi mỗi công ty mỗi khác, nên đôi khi, cách duy nhất để hiểu được tất cả những thông số đó là đặt câu hỏi.
Sử dụng thông tin. Sau khi đọc xong cuốn sách này, bạn sẽ biết thêm rất nhiều thứ. Vậy hãy sử dụng chúng! Dùng chúng để cải thiện dòng tiền. Dùng chúng để phân tích dự án lớn tiếp theo. Dùng chúng để đánh giá kết quả của công ty. Công việc của bạn sẽ càng thú vị hơn, và tác động của bạn lên hoạt động của công ty sẽ càng mạnh mẽ hơn. Từ vị trí có lợi thế của mình, chúng tôi rất thích gặp gỡ những nhân viên, nhà quản lý, và lãnh đạo có thể nhìn thấy mối liên hệ giữa kết quả tài chính và công việc. Họ dường như đột nhiên biết cả việc mình đang làm, lẫn lý do tại sao mình lại làm những việc đó.
Vì lẽ đó, chúng tôi hi vọng, cuốn sách này sẽ hỗ trợ các bạn phát triển trí tuệ tài chính của mình. Chúng tôi hi vọng nó sẽ giúp các bạn thành công hơn cả trong cuộc sống cá nhân cũng như trong công việc. Chúng tôi hi vọng nó cũng sẽ giúp công ty bạn gặt hái được nhiều thành tựu hơn. Song trên hết, chúng tôi cho là, sau khi đọc xong cuốn sách này, bạn sẽ có thêm chút động lực, thêm chút hứng thú, và thêm chút hào hứng với việc tìm hiểu một khía
cạnh hoàn toàn mới của công việc kinh doanh.
PHẦN I
NGHỆ THUẬT TÀI CHÍNH (VÀ TẠI SAO NGHỆ THUẬT TÀI CHÍNH LẠI QUAN TRỌNG)
1. Không phải lúc nào cũng có thể tin tưởng các con số
Nếu theo dõi báo chí thường xuyên, hẳn suốt những năm qua bạn đã biết kha khá về những phương thức tuyệt vời mà các doanh nghiệp dùng để “xào nấu” sổ sách kế toán. Họ ghi nhận doanh thu ảo. Họ ẩn đi chi phí. Vài thủ thuật trong số đó đơn giản đến khôi hài như cách đây vài năm, có công ty phần mềm nọ đã đẩy doanh thu lên bằng cách chuyển cho khách hàng những thùng các-tông rỗng ngay trước khi kết quý. (Khách hàng đã gửi trả lại những thùng rỗng đó, nhưng tất nhiên lúc đó đã sang quý khác). Những thủ thuật khác thì lại phức tạp đến độ gần như không thể hiểu nổi. (Phải mất hàng năm trời, các kế toán và công tố viên mới có thể lần ra hết toàn bộ các giao dịch giả mạo của Enron). Chừng nào những kẻ dối trá và hàng trộm cướp vẫn còn tồn tại, thì chắc chắn vẫn còn những kẻ tìm cách tham ô, lừa lọc.
Nhưng có thể bạn cũng nhận ra một điều khác về thế giới tài chính bí ẩn, chẳng hạn, nhiều doanh nghiệp có những cách đánh bóng sổ sách hoàn toàn hợp pháp. Tuy vậy, những công cụ hợp pháp này không mạnh bằng những mánh khóe gian lận thẳng tay: chúng không thể làm cho một công ty phá sản trông như một công ty ăn nên làm ra, chí ít là không thể làm được điều đó trong một thời gian dài. Nhưng những gì chúng có thể làm được thật đáng kinh ngạc. Ví dụ, một thủ thuật nhỏ có tên gọi phí tính một lần (one-time charge) cho phép công ty gom toàn bộ tin xấu và nhét tất cả vào kết quả tài chính của một quý, nhờ thế các quý tiếp theo trông khả quan hơn. Cách khác là xếp các khoản mục chi tiêu từ hạng mục này sang hạng mục khác, cách này có thể tô điểm cho bức tranh lợi nhuận hàng quý của doanh nghiệp và đẩy giá cổ phiếu lên cao. Trong khi chúng tôi đang thực hiện cuốn sách này, tờ Wall Street Journal đã cho đăng một bài trên trang nhất, nói về việc các doanh nghiệp đã vỗ béo kết quả kinh doanh sau thuế ra sao qua biện pháp cắt giảm trợ cấp hưu trí – dù có thể họ không hề giảm một xu nào trong các khoản trợ cấp đó.
Tất cả những ai không phải là chuyên gia tài chính rất có thể sẽ đón nhận những thủ đoạn này với sự hoang mang nhất định. Mọi hoạt động khác trong công việc kinh doanh – như marketing, nghiên cứu và phát triển, quản lý nhân sự, xây dựng chiến lược, v.v… – đều mang tính chủ quan thấy rõ, chúng là những vấn đề phụ thuộc vào kinh nghiệm, các phán đoán và dữ liệu. Vậy còn tài chính? Và cả kế toán nữa? Chắc chắn các con số mà những bộ phận này tạo ra đều khách quan, trắng đen rõ ràng, miễn bàn cãi. Chắc chắn, doanh nghiệp đã bán những gì đã bán, đã tiêu những gì đã tiêu, đã thu những gì đã thu. Ngay cả khi gian lận diễn ra, trừ phi doanh nghiệp thực sự gửi đi những thùng các-tông rỗng, còn không làm sao các nhà điều hành có thể dễ dàng biến hóa cho mọi thứ trông quá khác với thực tế được? Và nếu không gian lận, làm thế nào họ có thể ngụy tạo kết quả kinh doanh dễ dàng đến vậy?
NGHỆ THUẬT TÀI CHÍNH
Thực tế là, kế toán và tài chính, cũng như mọi kiến thức kinh doanh kia cũng mang tính nghệ thuật không kém gì tính khoa học. Bạn có thể gọi đó là bí quyết tuyệt mật của giám đốc tài chính hoặc kế toán trưởng, ngoại trừ việc nó chẳng phải là bí quyết, mà là một chân lý được thừa nhận rộng rãi, ai làm trong ngành tài chính cũng đều biết. Vấn đề là những kẻ còn lại trong chúng ta lại thường quên mất điều đó. Chúng ta tưởng rằng, khi một con số xuất hiện trên báo cáo tài chính hoặc trong các báo cáo mà bộ phận tài chính gửi lên ban quản lý, con số đó chắc chắn phải phản ánh đúng thực tế.
Hiển nhiên, thực tế là điều này không phải lúc nào cũng đúng, bởi ngay cả những người đang kiểm soát các con số cũng không thể biết hết mọi điều. Họ không thể biết chính xác mỗi ngày các thành viên trong doanh nghiệp làm gì, thế nên họ không biết chính xác phải phân bổ chi phí ra sao. Họ không thể biết chính xác một thiết bị sẽ hoạt động trong bao lâu, thế nên họ không biết phải ghi nhận mức khấu hao là bao nhiêu cho một năm cụ thể từ chi phí ban đầu đã bỏ ra để mua thiết bị đó. Nghệ thuật − tài chính kế toán là nghệ thuật sử dụng những dữ liệu hạn chế để đến gần nhất có thể với một mô tả chính xác về tình trạng hoạt động của doanh nghiệp. Tài chính − kế toán không phải là thực tế, mà là phản ánh thực tế, và tính chính xác của sự phản ánh đó phụ thuộc vào năng lực của kế toán viên và chuyên gia tài chính trong việc đưa ra những giả định và ước tính hợp lý.
Đây là một công việc đau đầu. Có lúc họ phải định lượng những thứ không dễ định lượng. Có lúc họ lại phải đưa ra những phán đoán khó phân định về cách phân loại một khoản mục nhất định. Những sự vụ phức tạp kể
trên không phải là hệ quả tất yếu của việc họ “xào nấu” sổ sách, hay bởi họ thiếu khả năng. Phức tạp nảy sinh vì những người làm kế toán và tài chính phải đưa ra những phỏng đoán theo kinh nghiệm về các số liệu của hoạt động kinh doanh.
Thông thường, kết quả của những giả định và ước tính này là một định kiến số liệu. Xin các bạn đừng hiểu lầm rằng chúng tôi sử dụng từ “định kiến [bias – thiên vị]” để công kích sự liêm chính của bất kỳ ai. (Trong số những người bạn thân thiết của chúng tôi, có nhiều người cũng là kế toán và một trong hai chúng tôi, Joe, thực chất còn có chức danh CFO trên danh thiếp). Ở giác độ liên quan đến kết quả tài chính, “định kiến” chỉ có nghĩa là các con số có thể nghiêng theo hướng này hoặc hướng kia. Nó chỉ có nghĩa là các chuyên gia kế toán và tài chính đã sử dụng những tập giả định và ước tính nhất định, thay vì những tập giả định và ước tính khác, khi tổng hợp báo cáo. Giúp các bạn hiểu rõ “định kiến” này, hiệu chỉnh lại nó khi cần thiết, và thậm chí là sử dụng nó phục vụ cho lợi ích của bạn (và doanh nghiệp) là mục tiêu của cuốn sách này. Để hiểu được nó, bạn phải biết nên đặt câu hỏi gì về các giả định và ước tính. Khi trang bị cho bản thân những thông tin như vậy, bạn có thể đưa ra những quyết định cẩn trọng và phù hợp.
Khung định nghĩa
Chúng tôi muốn kiến thức tài chính trở nên dễ dàng hết sức có thể. Hầu hết các cuốn sách về tài chính thường buộc chúng ta phải trở đi trở lại giữa trang đang đọc và phần thuật ngữ để tìm hiểu định nghĩa của từ mà chúng ta chưa biết. Nhưng đến khi chúng ta tìm ra định nghĩa và trở lại với trang đang đọc, chúng ta cũng đứt luôn mạch tư duy. Vì thế, ở đây chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn định nghĩa ngay khi bạn cần, ngay khi chúng xuất hiện lần đầu.
PHÁN ĐOÁN CHỦ QUAN
Ví dụ, chúng ta hãy cùng xem xét một biến số thường xuyên được ước tính – biến số mà bạn không hề nghĩ là cần ước tính. Doanh thu (revenue hay sale) chỉ giá trị mà doanh nghiệp bán được cho khách hàng trong một giai đoạn nhất định. Bạn hẳn sẽ cho rằng, xác định nó là việc dễ dàng. Nhưng câu hỏi đặt ra là: Nên ghi nhận (hay “công nhận” – nói theo kiểu của kế toán viên) doanh thu vào lúc nào? Sau đây là một số khả năng:
Khi hợp đồng được ký kết;
Khi sản phẩm hoặc dịch vụ được bàn giao;
Khi hóa đơn được gửi đi;
Khi hóa đơn được thanh toán.
Nếu bạn cho rằng đó là “khi sản phẩm hoặc dịch vụ được bàn giao,” thì bạn đã lầm; như chúng ta sẽ thấy trong chương 6, có một quy tắc nền tảng sẽ quyết định khi nào thì một khoản doanh thu mới được thể hiện trong báo cáo kết quả kinh doanh. Tuy nhiên, quy tắc đó không hề đơn giản. Việc thực hiện nó đòi hỏi phải đưa ra nhiều giả định, và trên thực tế toàn bộ câu hỏi “khi nào thì doanh thu là doanh thu?” là chủ đề gây sốt ở nhiều vụ gian lận suốt từ cuối thập niên 1990 trở lại đây.
Báo cáo kết quả kinh doanh
Báo cáo kết quả kinh doanh (income statement) thể hiện doanh thu, chi phí, và lợi nhuận của doanh nghiệp trong một giai đoạn, chẳng hạn một tháng, một quý, hoặc một năm. Nó còn được gọi là báo cáo lãi lỗ (profit & loss statement), báo cáo thu nhập (statement of earnings), hoặc báo cáo hoạt động kinh doanh (statement of operations). Đôi khi từ “hợp nhất” được đưa vào trước các cụm từ này, nhưng kỳ cùng thì nó vẫn chỉ là báo cáo kết quả kinh doanh. Dòng cuối cùng của báo cáo kết quả kinh doanh là lợi nhuận thuần (lãi thuần), hay còn được gọi là thu nhập thuần (net income hay net earnings).
Chẳng hạn, hãy thử tưởng tượng một công ty bán cho khách hàng một chiếc máy photocopy, đi kèm là hợp đồng bảo trì, tất cả đều được gói chung vào cùng một gói tài chính. Giả sử chiếc máy được giao vào tháng Mười, nhưng hợp đồng bảo trì có hiệu lực trong suốt 12 tháng tiếp theo. Vậy: nên ghi nhận bao nhiêu phần giá mua ban đầu vào sổ sách kế toán tháng Mười? Nói cho cùng thì công ty vẫn chưa bàn giao hết toàn bộ dịch vụ mà họ có trách nhiệm thực hiện trong suốt cả năm. Tất nhiên, các kế toán viên có thể dự toán giá trị của những dịch vụ này, và điều chỉnh doanh thu cho phù hợp. Nhưng việc đó đòi hỏi phán đoán chủ quan đáng kể.
Ví dụ sau đây cũng không thuần túy là giả thuyết. Hãy theo dõi Xerox, công ty này đã chơi trò công nhận doanh thu với quy mô khủng khiếp đến độ sau đó bị phát hiện là đã ghi nhận không đúng con số doanh thu khổng lồ 6 tỷ đô-la. Vấn đề ở đây là gì? Xerox bán thiết bị theo các hợp đồng cho thuê bốn năm, bao gồm cả dịch vụ và bảo trì. Vậy, trong giá bán có bao nhiêu phần bù cho chi phí thiết bị, và bao nhiêu phần cho các dịch vụ đi kèm? Lo sợ rằng lợi nhuận giảm sút sẽ khiến giá cổ phiếu của công ty lao dốc, các nhà điều hành Xerox quyết định ghi nhận trước tỷ lệ phần trăm tiếp tục tăng của doanh thu ước tính – kèm theo các lợi nhuận liên quan – vào sổ sách. Lập tức doanh thu của gần như mọi hợp đồng đều được ghi nhận ngay tại thời điểm giao dịch.
Chi phí hoạt động
Chi phí hoạt động (operating expense) là các phí tổn cần thiết để duy trì hoạt động hàng ngày, bao gồm tiền lương, trợ cấp, chi phí bảo hiểm, cùng nhiều khoản khác. Chi phí hoạt động được kê khai trên báo cáo kết quả kinh doanh và được trừ vào doanh thu để xác định lợi nhuận.
Xerox rõ ràng đã lạc lối, và công ty cố gắng lợi dụng nghiệp vụ kế toán để che đậy thất bại kinh doanh của mình. Nhưng bạn có thể thấy vấn đề quan trọng ở đây là: không cần phải “xào nấu” sổ sách, người ta luôn có thể tìm ra nhiều kẽ hở để làm cho các con số trông có vẻ thế này hoặc thế khác.
Ví dụ thứ hai thể hiện tính nghệ thuật của tài chính − và cũng là một ví dụ có vai trò quan trọng trong những vụ bê bối tài chính gần đây − là xác định liệu một khoản chi phí nhất định là chi phí đầu tư cơ bản (capital expenditure) hay là chi phí hoạt động (operation expense). Chúng tôi sẽ tìm hiểu chi tiết nội dung này trong phần sau; còn bây giờ, tất cả những gì bạn cần biết là chi phí hoạt động sẽ khiến kết quả kinh doanh sụt giảm ngay lập tức, còn chi phí đầu tư cơ bản lại trải rộng tác động lên nhiều kỳ kế toán. Bạn có thể nhìn thấy sự cám dỗ ngay ở đây. Gượm đã. Ý anh chị là nếu chúng ta thực hiện tất cả các giao dịch mua văn phòng phẩm và gọi chúng là “chi phí đầu tư cơ bản”, chúng ta có thể gia tăng lợi nhuận tương ứng ư? Chính kiểu tư duy này đã khiến WorldCom rơi vào rắc rối. Để ngăn chặn sự cám dỗ đó, cả ngành kế toán lẫn cá nhân các doanh nghiệp phải có những quy tắc định rõ: nên xếp cái gì vào đâu. Nhưng các quy tắc lại dựa đáng kể vào phán đoán và quyết định của cá nhân. Một lần nữa, những phán đoán này lại tác động mạnh đến lợi nhuận của doanh nghiệp, và kéo theo là tác động lên cả giá cổ phiếu.
Cuốn sách này chủ yếu dành cho các thành viên trong một doanh nghiệp, chứ không phải cho các nhà đầu tư. Vậy, tại sao độc giả phải lo lắng về bất kỳ điều nào kể trên? Tất nhiên, lý do là vì họ sử dụng số liệu để ra quyết định. Bản thân bạn − hoặc cấp trên của bạn – cũng đưa ra những phán đoán về ngân sách, chi phí đầu tư cơ bản, nhân viên và cả tá các vấn đề khác dựa trên đánh giá về tình hình tài chính của công ty, hoặc đơn vị kinh doanh. Nếu bạn không nhận ra các giả định và ước tính nằm ẩn bên dưới các con số, và cách thức những giả định cũng như ước tính này ảnh hưởng đến con số theo một cách nào đó, có thể bạn sẽ đưa ra quyết định sai lầm. Có trí tuệ tài chính nghĩa là hiểu được khi nào các con số là “cứng” − có căn cứ chắc chắn và tương đối ít gây tranh cãi, và lúc nào chúng “mềm” − tức là, phụ thuộc nhiều vào các phán đoán chủ quan. Không chỉ có vậy, các nhà đầu tư bên ngoài,
các ngân hàng, nhà cung cấp, khách hàng, và những đối tác khác cũng sẽ sử dụng các số liệu của doanh nghiệp để làm cơ sở cho quyết định của riêng họ. Nếu bạn không có những hiểu biết tốt, hữu dụng về báo cáo tài chính, và không biết những người này đang xem xét điều gì và tại sao, số phận của bạn sẽ nằm gọn trong tay họ.
Chi phí đầu tư cơ bản
Chi phí đầu tư cơ bản (capital expenditure) là chi phí mua một khoản mục được coi là khoản đầu tư dài hạn, chẳng hạn như hệ thống máy tính, thiết bị. Hầu hết các doanh nghiệp đều tuân theo quy tắc: bất kỳ giao dịch mua hàng nào nếu vượt quá một số tiền nhất định sẽ được xem là chi phí đầu tư cơ bản, giao dịch có giá trị thấp hơn là chi phí hoạt động. Chi phí hoạt động được thể hiện trong báo cáo kết quả kinh doanh, và do đó làm giảm lợi nhuận. Chi phí đầu tư cơ bản lại được kê khai trong bảng cân đối kế toán; chỉ có phần khấu hao của thiết bị đầu tư mới xuất hiện trong báo cáo kết quả kinh doanh. Chương 4 và chương 10 sẽ trình bày rõ hơn về nội dung này.
2. XÁC ĐỊNH CÁC GIẢ ĐỊNH, ƯỚC TÍNH, VÀ ĐỊNH KIẾN
Hãy cùng nhau tìm hiểu sâu hơn một chút yếu tố này của trí tuệ tài chính, hiểu khía cạnh “nghệ thuật” của tài chính. Chúng ta sẽ cùng xem xét ba ví dụ và đặt ra một số câu hỏi đơn giản nhưng trọng yếu:
Con số này chứa những giả định gì?
Có bất kỳ ước tính nào trong những con số này không?
Những giả định và ước tính này sẽ dẫn đến định kiến gì?
Chúng có tác động như thế nào?
Ba ví dụ mà chúng ta sẽ xem xét là chi phí trả trước và dự trù chi phí (accrual and allocation), khấu hao (depreciation) và định giá (valuation). Nếu bạn thấy những từ ngữ trên nghe như một thứ ngôn ngữ lạ của dân tài chính, thì chớ vội lo lắng. Bạn sẽ bất ngờ khi thấy mình có đủ hiểu biết để tiếp tục cuộc chơi này nhanh như thế nào.
CHI PHÍ TRẢ TRƯỚC VÀ DỰ TRÙ CHI PHÍ: CÓ RẤT NHIỀU GIẢ ĐỊNH VÀ ƯỚC TÍNH
Mỗi tháng cứ đến một thời điểm nhất định, kế toán trưởng của công ty sẽ bận bịu “kết sổ”. Đây cũng là một câu hỏi tài chính: Tại sao lại mất nhiều thì giờ đến vậy? Nếu bạn chưa từng làm tài chính, bạn có thể tưởng sẽ chỉ mất một ngày để tổng hợp mọi số liệu cuối tháng. Nhưng thực tế là hai hay ba tuần ư?
Đúng vậy, một bước ngốn khá nhiều thời gian đó là tìm tất cả các khoản trả trước và dự trù chi phí. Bạn chưa cần hiểu chi tiết ngay − chúng ta sẽ đi sâu vào chúng ở các chương 10 và 11. Còn bây giờ, hãy đọc định nghĩa trong các khung và tập trung vào thực tế là các kế toán viên sẽ sử dụng những khoản trả trước và dự trù chi phí để cố gắng vẽ ra một bức tranh chính xác về tình hình kinh doanh của tháng này. Sau cùng, chẳng ai được lợi nếu các báo cáo tài chính không cho chúng ta biết chúng ta mất bao nhiêu chi phí để sản xuất và cung cấp dịch vụ mà chúng ta vừa bán trong tháng qua. Đó là việc mà nhân viên của phòng tài chính đang cố gắng tìm ra, và đó là lý do việc này lại tốn nhiều thời gian đến vậy.
Chi phí trả trước
Chi phí trả trước (accrual) là một phần của một khoản mục doanh thu hay chi phí được ghi nhận trong một khoảng thời gian cụ thể. Ví dụ, chi phí phát triển sản phẩm có thể được trải ra nhiều kỳ kế toán, và vì thế từng phần của
tổng chi phí đó sẽ được trích chi mỗi tháng. Mục đích của chi phí trả trước là để doanh thu phù hợp nhất có thể với chi phí trong một khoảng thời gian nhất định.
Dự trù chi phí
Dự trù chi phí là phân bổ chi phí cho các bộ phận hoặc hoạt động khác nhau trong doanh nghiệp. Ví dụ, những khoản chi phí hoạt động như tiền lương của CEO thường được phân bổ vào các đơn vị hoạt động của doanh nghiệp.
Việc xác định chi phí trả trước và dự trù chi phí hầu như luôn đòi hỏi các giả định và ước tính. Hãy lấy tiền lương của bạn làm ví dụ. Giả sử trong tháng Sáu bạn nghiên cứu một dòng sản phẩm mới, và dòng sản phẩm đó được ra mắt vào tháng Bảy. Lúc này, nhân viên kế toán lên dự trù chi phí sẽ phải ước tính xem nên gán bao nhiêu phần lương của bạn cho giá thành sản phẩm (vì bạn đã bỏ phần lớn thời gian của mình cho những sản phẩm ban đầu), và bao nhiêu phần cho chi phí phát triển (vì bạn cũng làm các công việc phát triển ban đầu). Cô ấy cũng phải xác định cách tính trước cho tháng Sáu so với tháng Bảy. Tùy vào cách giải quyết các câu hỏi này, cô ấy có thể làm thay đổi đáng kể diện mạo của báo cáo kết quả kinh doanh. Giá thành sản phẩm sẽ được tính vào giá vốn hàng bán. Nếu giá thành sản phẩm tăng, lợi nhuận gộp sẽ giảm − và lợi nhuận gộp là thước đo chính để đánh giá khả năng sinh lợi của sản phẩm. Trong khi đó, chi phí phát triển lại được tính vào chi phí nghiên cứu và phát triển, và được gộp vào nhóm chi phí hoạt động trên báo cáo kết quả kinh doanh, và không hề tác động đến lợi nhuận gộp. Vậy, chúng ta hãy giả sử kế toán viên đã xác định rằng toàn bộ tiền lương của bạn cần được tính vào chi phí phát triển của tháng Sáu, thay vì giá thành sản phẩm của tháng Bảy. Cô giả định rằng, công việc của bạn không liên quan trực tiếp đến quá trình sản xuất sản phẩm, do đó không nên xếp vào giá thành sản phẩm. Nhưng ở đây có một định kiến nhân đôi dẫn đến hệ quả là:
Thứ nhất, chi phí phát triển cao hơn so với khi giả định theo hướng khác. Một nhà điều hành phân tích các chi phí sau đó có thể quyết định rằng hoạt động phát triển sản phẩm quá đắt đỏ và doanh nghiệp không nên mạo hiểm thêm nữa. Nếu điều này xảy ra, có thể doanh nghiệp sẽ hạn chế phát triển sản phẩm, việc làm này gây nguy hại cho tương lai của doanh nghiệp.
Thứ hai, nếu giá thành sản phẩm thấp hơn so với khi giả định theo hướng khác. Điều này sẽ tác động đến các quyết định then chốt như định giá và tuyển dụng. Có thể sản phẩm sẽ bị định giá quá thấp. Có thể sẽ có thêm nhiều người được tuyển vào để sản xuất thứ trông như một sản phẩm dễ sinh
lời − dù lợi nhuận cho thấy có những giả định đáng ngờ.
Tất nhiên, ở hầu hết các doanh nghiệp, tiền lương phải trả cho một cá nhân sẽ không tạo nên quá nhiều khác biệt. Song những giả định tác động đến một cá nhân đó có thể được áp dụng cho toàn bộ ban quản lý. Đúng như một câu nói quen thuộc ở Washington D.C., một khoản ở đây và một khoản ở kia, và chẳng mấy chốc ta đang nói về một số tiền có thật. Song dù ở mức độ nào, trường hợp này cũng đủ đơn giản để bạn có thể dễ dàng tìm thấy câu trả lời cho những câu hỏi mà chúng tôi đã đặt ra trước đó. Con số này chứa những giả định gì? Thời gian của bạn được đầu tư vào việc phát triển, và bạn không liên quan gì nhiều đến công đoạn sản xuất ra những sản phẩm được bán trong tháng Bảy. Ước tính? Nên phân bổ tiền lương của bạn ra sao giữa chi phí phát triển và giá thành sản phẩm. Định kiến? Chi phí phát triển cao hơn, giá thành sản phẩm thấp hơn. Và các tác động? Lo ngại chi phí phát triển quá cao, trong khi giá sản phẩm có thể quá thấp.
Ai dám nói công việc tài chính không khổ ải hay thiếu sự tinh tế? Chuyên gia kế toán và tài chính luôn dốc sức để cho ra bức tranh chính xác nhất có thể về hoạt động của doanh nghiệp. Dù suốt thời gian đó, họ biết rằng họ sẽ không bao giờ nắm được con số chính xác.
TỰ QUYẾT MỨC KHẤU HAO
Ví dụ thứ hai là việc sử dụng cách tính khấu hao. Khái niệm khấu hao không quá phức tạp. Ví dụ, một công ty mua một chiếc máy hoặc thiết bị đắt tiền và kỳ vọng có thể sử dụng nó trong nhiều năm. Kế toán viên sẽ nghĩ đến một sự kiện như sau: thay vì trừ toàn bộ chi phí vào doanh thu một tháng − điều này có thể đẩy công ty hoặc đơn vị kinh doanh vào tình trạng báo động đỏ trong tháng đó, nên phân tán chi phí theo tuổi đời hữu dụng của thiết bị. Chẳng hạn, nếu cho rằng một chiếc máy có thể sử dụng trong ba năm, mỗi năm chúng ta có thể ghi nhận (“mức khấu hao”) 1/3 chi phí, hoặc mỗi tháng 1/36 chi phí, bằng một phương pháp tính khấu hao đơn giản. Đây là cách hay để ước tính chi phí thực sự của doanh nghiệp trong một tháng hay một năm bất kỳ, thay vì ghi nhận một lần toàn bộ chi phí. Không chỉ có vậy, cách này còn giúp chi phí cho thiết bị phù hợp với doanh thu mà thiết bị đó tạo ra − đây là ý tưởng quan trọng mà chúng ta sẽ khảo sát sâu hơn trong chương 4.
Khấu hao
Khấu hao (depreciation) là phương pháp được các kế toán viên sử dụng để phân bổ chi phí trang thiết bị và các tài sản khác vào tổng giá thành cho sản phẩm và dịch vụ, như được thể hiện trong báo cáo kết quả kinh doanh.
Khấu hao cũng dựa trên ý tưởng tương tự như chi phí trả trước: chúng ta muốn làm cho chi phí sản xuất và dịch vụ phù hợp với những gì chúng ta đã bán hết sức có thể. Hầu hết các khoản chi phí đầu tư cơ bản đều được khấu hao (đất đai là ví dụ về chi phí đầu tư cơ bản không khấu hao). Nhân viên kế toán cố gắng trải đều chi phí đầu tư cơ bản lên tuổi đời hữu dụng của thiết bị. Chúng tôi sẽ nói rõ hơn về khấu hao ở Phần 2 và Phần 3.
Lý thuyết này hết sức hợp lý. Tuy nhiên, trên thực tế, các kế toán viên có quyền tự quyết đáng kể đối với chính xác là nên tính khấu hao bao nhiêu cho một thiết bị. Và quyền tự quyết đó có thể có tác động to lớn. Hãy lấy ngành công nghiệp hàng không làm ví dụ. Cách đây vài năm, các hãng hàng không nhận ra rằng máy bay của họ có tuổi đời hoạt động lâu hơn dự kiến. Vì vậy, các kế toán viên của ngành đã thay đổi bảng khấu hao để phản ánh tuổi đời dài hơn. Kết quả là, họ trừ đi mức khấu hao thấp hơn từ doanh thu mỗi tháng. Và hãy đoán xem điều gì đã xảy ra? Lợi nhuận ngành tăng đáng kể, phản ánh thực tế rằng các hãng hàng không sẽ không phải mua mới máy bay sớm như dự kiến. Nhưng cần lưu ý rằng, các kế toán viên đã phải giả định họ có thể dự đoán tuổi thọ hữu dụng của một chiếc máy bay. Bám vào phán đoán đó, và bản chất của một phán đoán chính là định kiến tăng trưởng cho lợi nhuận. Cũng bám vào phán đoán đó là mọi tác động: nhà đầu tư quyết định mua nhiều cổ phiếu hơn, các vị giám đốc điều hành của các hãng hàng không tính toán thấy khả năng có thể tăng lương hậu hĩnh hơn, v.v…
CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ
Ví dụ cuối cùng về nghệ thuật tài chính liên quan đến việc định giá một doanh nghiệp − nghĩa là, tính toán xem doanh nghiệp đó đáng giá bao nhiêu. Hiển nhiên, những doanh nghiệp có cổ phần mua bán tự do sẽ được định giá mỗi ngày bởi thị trường chứng khoán. Giá trị của doanh nghiệp sẽ bằng giá cổ phiếu bất kể là bao nhiêu nhân với số lượng cổ phiếu lưu hành, con số này được gọi là giá trị vốn hóa thị trường (market capitalization hay market cap). Nhưng trong những hoàn cảnh nhất định, ngay cả con số này không phải lúc nào cũng thể hiện hết giá trị của doanh nghiệp. Ví dụ, một đối thủ cạnh tranh với khuynh hướng thôn tính có thể quyết định mua lại cổ phiếu của doanh nghiệp với giá cao, bởi doanh nghiệp mục tiêu đáng giá với nó hơn với thị trường chứng khoán. Và tất nhiên, có hàng triệu doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân không hề có giá trị trên thị trường. Khi mua hoặc bán chúng, người bán và mua phải dựa vào các phương pháp định giá khác.
Nói về nghệ thuật tài chính: phần lớn khía cạnh nghệ thuật ở đây nằm ở việc lựa chọn phương pháp định giá. Các phương pháp khác nhau sẽ cho ra
những kết quả khác nhau − những kết quả mà, hẳn nhiên, sẽ tiêm nhiễm định kiến vào các con số.
Chẳng hạn, giả sử công ty của bạn đề xuất mua lại một nhà sản xuất van công nghiệp có cổ phần nằm chủ yếu trong tay một số ít cổ đông. Công ty này rất phù hợp với công ty bạn – đây là một vụ mua lại “chiến lược” – nhưng bạn nên trả bao nhiêu thì hợp lý? Chà, bạn có thể nhìn vào lợi nhuận của công ty van này, rồi lên thị trường chứng khoán để xem thị trường định giá những công ty tương tự ra sao trong mối tương quan với lợi nhuận của chúng. (Đây là phương pháp tỷ suất giá trên lợi nhuận). Hoặc bạn cũng có thể nhìn vào số tiền mặt mà công ty van đó tạo ra mỗi năm, và hình dung thực tế là bạn đang mua dòng tiền đó. Sau đó, bạn sẽ sử dụng một mức lãi suất nào đó để xác định dòng tiền tương lai đó có giá trị bao nhiêu ở thời điểm hiện tại. (Đây là phương pháp chiết giảm dòng tiền). Ngoài ra, bạn có thể đơn giản nhìn vào tài sản của công ty − máy móc, thiết bị, hàng lưu kho, v.v… cùng với các tài sản vô hình như danh tiếng của công ty và danh sách khách hàng − để ước tính giá trị (phương pháp định giá tài sản).
Hẳn nhiên, mỗi phương pháp lại đòi hỏi một tập những giả định và ước tính. Ví dụ, phương pháp tỷ suất giá trên lợi nhuận giả định rằng thị trường chứng khoán khá duy lý, do đó mức giá mà nó xác lập sẽ chính xác. Nhưng tất nhiên, thị trường không phải lúc nào cũng duy lý; khi thị trường sốt giá, giá của công ty mục tiêu sẽ cao hơn so với khi thị trường trầm lắng. Bên cạnh đó, bản thân con số “lợi nhuận”, như chúng ta sẽ thấy ở Phần 2, cũng chỉ là một ước tính mà thôi.
Có lẽ vì thế bạn sẽ cho rằng chúng ta nên dùng phương pháp chiết giảm dòng tiền. Vấn đề với phương pháp này là, đâu là mức lãi suất hay mức “chiết giảm” chuẩn để sử dụng khi tính toán giá trị dòng tiền? Tùy theo mức chúng ta xác lập, giá có thể rất khác nhau. Và tất nhiên, bản thân phương pháp định giá tài sản cũng chỉ thuần tuý là một tập hợp những dự đoán về giá trị của từng tài sản.
Cứ như thể là những yếu tố bất định này vẫn còn chưa đủ, chúng ta hãy nhớ lại thời kỳ thú vị, quá khích và căng thẳng được biết đến với tên gọi “sự bùng nổ dot-com” diễn ra cuối thế kỷ XX. Những công ty Internet non trẻ và đầy tham vọng đã bật dậy mạnh mẽ, nhờ được tưới tắm và nuôi dưỡng bởi luồng vốn đầu tư mạo hiểm ồ ạt. Nhưng khi những nhà đầu tư là chuyên gia đầu cơ bỏ tiền vào đâu đó, họ sẽ muốn biết khoản đầu tư – và do vậy là công ty – đáng giá bao nhiêu. Khi công ty mới khởi nghiệp, thật khó để xác định điều này. Lợi nhuận? Bằng 0. Dòng tiền hoạt động cũng bằng 0. Và tài sản
không đáng kể. Trong những thời điểm bình thường, đây là một trong những lý do tại sao các chuyên gia đầu cơ ngần ngại đầu tư cho những doanh nghiệp đang ở giai đoạn đầu. Nhưng trong kỷ nguyên dot-com, họ đã tung hê sự thận trọng, họ dựa vào thứ mà chúng ta chỉ có thể gọi là phương pháp định giá khác thường. Họ nhìn vào số kỹ sư trong biên chế công ty. Họ đếm lượng truy cập trang web (“nhãn cầu”) mà công ty đạt được mỗi tháng. Một CEO trẻ tuổi và năng động mà chúng tôi biết đã huy động được hàng triệu đô-la hầu như chỉ nhờ việc anh ta có trong tay một đội ngũ kỹ sư máy tính hùng hậu. Nhưng tiếc thay, chưa đầy một năm sau, chúng tôi đã nhìn thấy tấm biển “Cho thuê” ngay trước văn phòng công ty này.
Bây giờ thì các phương pháp định giá kiểu dot-com trông có vẻ ngu ngốc, dù ở thời điểm trước đó, với thông tin ít ỏi mà chúng ta biết về những điều tương lai nắm giữ, chúng không đến nỗi tệ như vậy. Nhưng các phương pháp còn lại đều có lý. Vấn đề là, mỗi phương pháp đều có một định kiến đưa đến những kết quả khác nhau. Và các tác động luôn có ảnh hưởng sâu rộng. Các doanh nghiệp được mua và bán dựa trên những phương pháp định giá này. Các khoản vay nợ cũng dựa trên đây. Nếu bạn nắm giữ cổ phiếu của một doanh nghiệp, thì giá trị cổ phiếu của doanh nghiệp đó phụ thuộc vào một phép định giá phù hợp. Theo chúng tôi thấy, trí tuệ tài chính của bạn cần bao gồm hiểu biết về cách thức tính toán những con số này.
3. TẠI SAO PHẢI TĂNG CƯỜNG TRÍ TUỆ TÀI CHÍNH?
Cho đến lúc này, cuộc thảo luận của chúng ta vẫn có phần trừu tượng. Chúng tôi đã giới thiệu với các bạn nghệ thuật tài chính và giải thích tại sao thông hiểu nghệ thuật đó là một thành tố thiết yếu để có được trí tuệ tài chính. Nhưng, ai mới là người cần có trí tuệ tài chính? Hay nói thẳng ra là tại sao nên đọc cuốn sách này?
Trước hết, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng cuốn sách này rất khác so với các cuốn sách tài chính khác. Nó không chứa bất kỳ kiến thức tài chính nào. Và nó cũng không phải là một phiên bản khác của cuốn Accounting for Dummies (tạm dịch: Kế toán cho kẻ ngốc). Chúng tôi sẽ không bao giờ đề cập đến ghi nợ và tín dụng. Chúng tôi cũng không bao giờ nói đến sổ cái (general ledge) hay các bảng cân đối (trial balance). Cuốn sách này nói về trí tuệ tài chính, hay như chính tiêu đề phụ của cuốn sách đã nói lên, là về việc hiểu ý nghĩa thật sự của các con số. Nó không dành cho những người sẽ trở thành kế toán viên, mà cho các thành viên trong tổ chức − nhà lãnh đạo, nhà quản lý, nhân viên − những người cần hiểu điều gì đang diễn ra trong doanh nghiệp từ góc độ tài chính, và những người có thể sử dụng thông tin này để làm việc và quản lý hiệu quả hơn. Trong cuốn sách này, bạn sẽ học cách đọc các báo cáo tài chính và cách sử dụng thông tin có trong đó để làm việc tốt hơn. Bạn sẽ học được cách tính các tỷ lệ. Bạn sẽ học về tỷ lệ hoàn vốn đầu tư (ROI − return on investment) và quản lý vốn lưu động (working capital managemet), hai khái niệm mà bạn có thể dùng để cải thiện quá trình ra quyết định và tác động lên tổ chức. Tóm lại, bạn sẽ nâng cao trí tuệ tài chính cho mình.
Vài năm trước đây, các giám đốc của các doanh nghiệp Fortune 500 được lấy làm nhóm mẫu nghiên cứu đã thực hiện một bài kiểm tra đơn giản về khả năng hiểu biết tài chính − và kết quả là họ trả lời đúng trung bình 32% câu hỏi. Nếu bạn đọc sách này, rất có thể bạn sẽ trả lời đúng 100%.
LỢI ÍCH CỦA VIỆC CÓ KỸ NĂNG TÀI CHÍNH
Không chỉ giúp đạt điểm kiểm tra cao, kỹ năng tài chính còn mang lại nhiều lợi ích thực tiễn. Dưới đây là danh sách sơ lược về những lợi ích mà bạn sẽ đạt được.
Nâng cao năng lực đánh giá phê bình doanh nghiệp
Bạn có thực sự biết liệu chủ doanh nghiệp có đủ tiền mặt để trả lương
không? Bạn có biết các sản phẩm hay dịch vụ mà bạn làm ra mang lại lợi nhuận ra sao không? Liên quan đến những đề xuất chi phí đầu tư cơ bản, phân tích tỷ lệ hoàn vốn đầu tư có dựa trên những dữ liệu vững chắc không? Hãy tăng cường trí tuệ tài chính của mình, và bạn sẽ có được những kiến giải sâu sắc hơn cho những câu hỏi trên. Hoặc có lẽ bạn vừa gặp phải cơn ác mộng mà trong đó, bạn làm việc tại Enron, hoặc Global Crossing, hoặc có thể là Sunbeam. Nhiều người ở đó không có chút ý niệm nào, dù là mơ hồ, về tình trạng bấp bênh của công ty mình.
Chẳng hạn, giả sử bạn làm việc cho ông lớn viễn thông WorldCom (về sau đổi tên thành MCI) trong giai đoạn cuối thập niên 1990. Chiến lược của WorldCom là tăng trưởng qua mua lại. Vấn đề là, tiền mặt mà công ty làm ra không đủ để cáng đáng những vụ mua lại mà công ty muốn thực hiện. Vì vậy, công ty đã sử dụng cổ phiếu như một loại tiền tệ, và mua lại các công ty khác phần nào bằng cổ phiếu. Điều này có nghĩa là công ty phải giữ cho giá cổ phiếu ở mức cao; nếu không, các vụ mua lại sẽ rất đắt đỏ. Điều đó cũng có nghĩa là công ty phải giữ lợi nhuận ở mức cao, để Phố Wall định giá cao cho công ty. WorldCom đã vay mượn để trả cho những cuộc mua lại này. Một công ty vay nợ quá nhiều sẽ phải đẩy lợi nhuận lên cao; nếu không, ngân hàng sẽ dừng cho vay. Thế nên, WorldCom phải chịu sức ép nặng nề trong việc báo cáo có lợi nhuận cao từ cả hai phía.
Đó tất nhiên là nguồn gốc của vụ gian lận mà cuối cùng cũng lộ chân tướng. Công ty đã đẩy lợi nhuận “bằng đủ loại thủ đoạn kế toán, bao gồm khai bớt chi phí và xếp các chi phí hoạt động vào chi phí đầu tư cơ bản,” theo bản tóm tắt cáo trạng từ Bộ Tư pháp được đăng trên tờ BusinessWeek. Khi tất cả mọi người vỡ lẽ rằng WorldCom không có khả năng sinh lời như họ tuyên bố, toàn bộ khối xếp hình đổ sụp xuống. Nhưng ngay cả nếu không gian lận, khả năng làm ra tiền mặt của WorldCom cũng sẽ lỗi nhịp với chiến lược tăng trưởng qua mua lại của công ty. Công ty có thể tồn tại nhờ vay nợ và cổ phiếu trong một thời gian, nhưng điều đó không thể kéo dài mãi mãi.
Hoặc hãy nhìn vào Tyco International. Bên cạnh mọi câu chuyện tin tức về bữa tiệc sinh nhật hoành tráng của Dennis và chiếc giá để dù có giá cả nghìn tỷ đô-la, lại là một câu chuyện khác rất ít được nói đến. Trong suốt thập niên 1990, Tyco cũng là một ông lớn chuyên mua lại các công ty khác. Chỉ trong vòng hai năm, công ty đã mua đến 600 công ty, tức là trong mỗi ngày làm việc, công ty mua ít nhất một công ty. Với tất cả các vụ mua lại như vậy, con số lợi thế thương mại trên bảng cân đối kế toán của Tyco tăng cao đến mức khiến các ngân hàng bắt đầu lo ngại. Các ngân hàng và các nhà đầu tư không thích nhìn thấy quá nhiều lợi thế thương mại trên bảng cân đối
kế toán; họ thích những tài sản có thể cầm nắm được (và lúc cấp thiết có thể bán ra được). Thế nên, khi khắp nơi kháo nhau rằng có thể có một số sai phạm trong hoạt động kế toán ở Tyco, họ lập tức buộc Tyco phải dừng hoạt động mua lại. Hiện nay, Tyco tập trung vào tăng trưởng hữu cơ và hiệu quả hoạt động xuất sắc hơn là tiến hành mua lại; bức tranh tài chính hiện tại cũng phù hợp với chiến lược của công ty này.
Lợi thế thương mại
Lợi thế thương mại (goodwill) xuất hiện trong cuộc chơi khi một doanh nghiệp mua lại một doanh nghiệp khác. Nó là con số chênh lệch giữa tài sản thuần mua được (nghĩa là, giá trị thị trường của tài sản trừ đi các khoản nợ giả định) và số tiền mà doanh nghiệp đi mua bỏ ra. Ví dụ, nếu một công ty có tài sản thuần trị giá 1 triệu đô-la và bên mua lại bỏ ra 3 triệu đô-la, thì khoản lợi thế thương mại 2 triệu đô-la sẽ được ghi vào bảng cân đối kế toán. Con số 2 triệu đô-la này phản ánh toàn bộ giá trị không được phản ánh trong các tài sản hữu hình của bên được mua − ví dụ như tên tuổi, danh tiếng, danh sách khách hàng, v.v…
Ở đây, chúng tôi không nói rằng một nhà quản lý thông minh về tài chính ắt sẽ phát hiện ra tình trạng bấp bênh của WorldCom hay Tyco. Rất nhiều người tưởng như khôn ngoan trên Phố Wall đã bị hai công ty này lừa phỉnh. Tuy nhiên, việc có thêm một chút kiến thức sẽ cung cấp cho bạn những công cụ theo dõi các xu hướng của doanh nghiệp, và hiểu thêm những câu chuyện ẩn sau các con số. Mặc dù có thể bạn không có mọi đáp án, song bạn nên biết cần đặt ra những câu hỏi nào. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp và các khách hàng tiềm năng luôn là việc nên làm. Bạn sẽ học được cách đánh giá hoạt động của doanh nghiệp, và tìm ra cách để hỗ trợ tốt nhất cho những mục tiêu này và gặt hái thành công.
Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán (balance sheet) phản ánh tài sản, các khoản nợ phải trả và vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp ở một thời điểm nhất định. Nói cách khác, nó cho ta thấy doanh nghiệp sở hữu những gì, nợ bao nhiêu và đáng giá như thế nào tại một ngày cụ thể. Nó được gọi là bảng cân đối kế toán bởi vì nó cân bằng − tài sản phải luôn bằng nợ phải trả cộng vốn chủ sở hữu. Một nhà quản lý khôn ngoan về tài chính biết rằng tất cả các báo cáo tài chính cuối cùng đều đổ về bảng cân đối kế toán. Chúng tôi sẽ giải thích tất cả những khái niệm này ở phần 3.
Hiểu hơn về định kiến trong các con số
Chúng ta đã thảo luận về định kiến được lồng vào các con số. Nhưng thế thì sao? Việc hiểu định kiến đó sẽ ích gì cho bạn? Rất nhiều: nó sẽ cho bạn kiến thức và sự tự tin − trí tuệ tài chính − để chất vấn những dữ liệu mà phòng tài chính kế toán đưa ra. Bạn sẽ có thể xác định những dữ liệu cứng, các giả định và ước tính. Bạn sẽ biết − và người khác cũng biết − khi nào thì quyết định và hành động của bạn có cơ sở vững chắc.
Hãy giả sử bạn làm ở bộ phận sản xuất, và bạn đang đề xuất mua một thiết bị mới. Cấp trên nói sẽ lắng nghe, nhưng ông ta muốn bạn chứng minh việc mua thiết bị là cần thiết. Điều này có nghĩa là bạn phải đào bới dữ liệu từ phòng tài chính, bao gồm phân tích dòng tiền cho thiết bị, các yêu cầu vốn hoạt động, và bảng tính khấu hao. Tất cả các con số này − bất ngờ thay! − đều dựa trên các giả định và ước tính. Nếu bạn hiểu chúng, bạn có thể tìm hiểu xem chúng có hợp lý không. Nếu chúng không hợp lý, bạn có thể thay đổi các giả định, sửa đổi các ước tính và tổng hợp thành một bản phân tích thực tiễn và (hi vọng là) sẽ hỗ trợ đề xuất của bạn. Ví dụ, Joe thích kể với khán giả rằng anh là một chuyên gia tài chính kỳ cựu, và anh có thể dễ dàng đưa ra một phân tích cho thấy rõ rằng công ty nên mua một chiếc máy tính có giá 5.000 đô-la. Joe sẽ giả định rằng mỗi ngày anh có thể tiết kiệm một giờ nhờ các chức năng và tốc độ xử lý của chiếc máy tính mới; anh sẽ tính toán giá trị của một giờ làm việc trong thời gian một năm; và rất nhanh, anh sẽ chứng minh được rằng việc mua chiếc máy tính là điều không cần phải đắn đo suy nghĩ. Tuy nhiên, một cấp trên thông minh về tài chính sẽ xem xét lại giả định này và đưa ra một số giả định khác, chẳng hạn thực tế là Joe có thể mất một giờ làm việc mỗi ngày vì giờ đây anh có thể dễ dàng lướt web và tải nhạc về nghe.
Điều tuyệt vời là một nhà quản lý thông minh về tài chính có thể thay đổi dễ dàng đến nhường nào các cách thảo luận, từ đó đưa ra được những quyết định xác đáng hơn. Khi làm việc cho tập đoàn Ford Motor, Joe đã có một kinh nghiệm khẳng định bài học này. Anh và một số nhân viên tài chính khác trình bày kết quả tài chính cho vị giám đốc marketing cấp cao. Sau khi mọi người ngồi vào bàn họp, vị giám đốc nhìn thẳng vào họ và nói: “Trước khi tôi mở những báo cáo tài chính này ra, tôi cần biết… trong bao lâu và ở nhiệt độ nào?” Ngay lúc đó Joe và những người khác không hiểu nổi ông ta đang nói tới chuyện gì. Sau đó, anh hiểu ra và trả lời: “Vâng thưa sếp, chúng được xử lý trong hai tiếng đồng hồ ở 350 độ”. Vị giám đốc nói: “Tốt, giờ thì tôi đã biết các anh xử lý chúng bao lâu. Chúng ta bắt đầu nào”. Ông nói với các nhân viên tài chính rằng, ông biết có những giả định và ước tính trong các con số, và ông sẽ đặt vài câu hỏi. Khi ông hỏi một con số nhất định có
mức độ chắc chắn như thế nào, các nhà tài chính yên tâm giải thích nguồn gốc của con số và những giả định mà họ phải đưa ra, nếu có. Sau đó, vị giám đốc chấp nhận các con số và sử dụng chúng để ra những quyết định mà ông cảm thấy yên tâm.
Nếu thiếu đi những kiến thức như vậy, điều gì sẽ xảy ra? Rất đơn giản: người của bộ phận tài chính kế toán sẽ điều khiển các quyết định. Chúng tôi sử dụng từ “điều khiển” là vì khi các quyết định được đưa ra dựa trên các con số, và khi các con số lại dựa trên các giả định và ước tính của kế toán viên, thì các kế toán viên và nhân viên tài chính đã nắm quyền điều khiển có hiệu lực (ngay cả khi họ chẳng cố ý điều khiển thứ gì). Đó là lý do bạn phải biết nên đặt ra những câu hỏi nào.
Khả năng sử dụng các con số và công cụ tài chính phân tích và ra quyết định
Thế nào là tỷ lệ hoàn vốn đầu tư (ROI) của một dự án? Tại sao chúng ta không thể tiêu tiền khi doanh nghiệp có lợi nhuận? Tại sao tôi phải tập trung vào các khoản phải thu khi tôi không phải là nhân viên phòng tài chính? Bạn đặt những câu hỏi kiểu này và nhiều câu hỏi khác mỗi ngày (hoặc có ai đó hỏi và giả định rằng bạn biết câu trả lời!). Bạn được kỳ vọng sử dụng kiến thức tài chính để ra quyết định, chỉ đạo nhân viên cấp dưới và lập kế hoạch cho tương lai của bộ phận mình. Chúng tôi sẽ chỉ cho bạn thấy cách làm việc này, cung cấp cho bạn những ví dụ và thảo luận về những việc cần làm với các kết quả. Trong quá trình này, chúng tôi sẽ cố gắng sử dụng ít biệt ngữ tài chính hết sức có thể.
Ví dụ, chúng ta hãy cùng xem tại sao bộ phận tài chính lại yêu cầu bạn không được chi tiêu bất kỳ khoản nào, ngay cả khi doanh nghiệp có lợi nhuận.
Chúng ta sẽ bắt đầu với thực tế cơ bản là, tiền mặt và lợi nhuận là hai thứ khác nhau. Trong chương 15,chúng tôi sẽ giải thích tại sao, bây giờ chúng ta hãy tập trung vào nguyên tắc cơ bản này. Lợi nhuận dựa trên doanh thu. Doanh thu, hãy nhớ, được ghi nhận khi một sản phẩm hay dịch vụ được bàn giao, chứ không phải khi hóa đơn được thanh toán. Vậy nên, dòng đầu tiên trên báo cáo kết quả kinh doanh, dòng mà chúng ta sẽ trừ đi chi phí để ra lợi nhuận, thường chẳng là gì ngoài một lời hứa hẹn. Khách hàng vẫn chưa thanh toán hóa đơn, nên con số doanh thu không phản ánh số tiền thực có, và dòng lợi nhuận ở cuối báo cáo cũng vậy. Nếu mọi thứ suôn sẻ, cuối cùng doanh nghiệp sẽ thu được hết những khoản phải thu và sẽ có tiền mặt tương đương với lợi nhuận. Còn trong lúc ấy thì không.
Giả sử bạn đang làm việc cho một công ty kinh doanh dịch vụ làm ăn phát đạt. Công ty đó kinh doanh nhiều dịch vụ với mức giá tốt, vì vậy doanh thu và lợi nhuận của công ty khá cao. Công ty tìm thuê người với tốc độ nhanh nhất có thể, và tất nhiên cũng trả lương ngay sau khi xong việc. Nhưng tất cả lợi nhuận mà những người này đang kiếm được lại không chuyển thành tiền mặt trước 30 hoặc có thể là 60 ngày tính từ sau khi hóa đơn được gửi đi. Đó là lý do tại sao ngay cả giám đốc tài chính của một công ty có lợi nhuận cao cũng có lúc nói, đừng tiêu ngay bất kỳ khoản nào lúc này vì tiền mặt đang eo hẹp.
Dù cuốn sách này chỉ tập trung vào việc nâng cao trí tuệ tài chính trong kinh doanh, song bạn cũng có thể ứng dụng những gì học được vào đời sống cá nhân. Hãy xem xét các quyết định mua nhà hoặc mua xe của bạn. Kiến thức mà bạn đạt được có thể áp dụng cho cả những quyết định này. Hoặc xem xét cách bạn lập kế hoạch tương lai và quyết định cách thức đầu tư. Cuốn sách này không nói về đầu tư, mà nói về việc hiểu biết các vấn đề tài chính của doanh nghiệp, điều sẽ giúp bạn phân tích những cơ hội đầu tư khả dĩ.
Tiền mặt
Tiền mặt (cash) như được trình bày trên bảng cân đối kế toán có nghĩa là số tiền mà doanh nghiệp có trong tài khoản ngân hàng, cộng với bất kỳ thứ gì khác có thể dễ dàng đổi thành tiền mặt (như cổ phiếu và trái phiếu). Quả thật, nó chỉ đơn giản như vậy thôi. Sau này chúng ta sẽ thảo luận về các số đo dòng tiền. Còn bây giờ, bạn chỉ cần biết rằng khi các doanh nghiệp nói về tiền mặt, đó quả thật là chủ đề ảm đạm, thô cứng.
TRÍ TUỆ TÀI CHÍNH LÀM LỢI CHO DOANH NGHIỆP NHƯ THẾ NÀO?
Chúng tôi đồng sở hữu một tổ chức có tên gọi Viện Business Literacy. Công việc của chúng tôi là giảng dạy kỹ năng tài chính, để từ đó (chúng tôi hi vọng) nâng cao trí tuệ tài chính cho các học viên là nhà lãnh đạo, nhà quản lý và nhân viên. Vì vậy, một cách rất tự nhiên, chúng tôi nghĩ rằng đây là một bộ môn quan trọng mà học viên của chúng tôi cần học. Nhưng từ công việc của mình, chúng tôi cũng nhận thấy kỹ năng tài chính có lợi như thế nào cho doanh nghiệp. Dưới đây là danh sách sơ lược về các lợi ích.
Sức mạnh và sự cân bằng trong toàn tổ chức
Các nhân viên tài chính có chi phối các quyết định không? Đó là việc họ không nên. Sức mạnh của bộ phận tài chính cần được cân bằng với sức mạnh
của bộ phận sản xuất, bộ phận marketing, bộ phận nhân sự, bộ phận khách hàng, bộ phận công nghệ thông tin, v.v… Nếu người đứng đầu các bộ phận khác không thông hiểu tài chính, không hiểu các kết quả tài chính được đo lường như thế nào và làm sao có thể sử dụng chúng để đánh giá phê bình doanh nghiệp, thì tất yếu bộ phận tài chính kế toán sẽ lấn át. Định kiến mà họ tiêm nhiễm vào các con số sẽ tác động và thậm chí có thể định đoạt quá trình ra quyết định.
Quyết định đúng đắn hơn
Các nhà quản lý thường kết hợp những gì họ biết về thị trường, đối thủ, khách hàng, v.v… vào quyết định của mình. Khi họ kết hợp thêm các phân tích tài chính, quyết định của họ đương nhiên sẽ đúng đắn hơn. Chúng tôi không phải là những tín đồ cuồng nhiệt của việc ra quyết định dựa trên các con số. Song chúng tôi thực sự tin rằng, phớt lờ những gì mà các con số phản ánh là khá dại dột. Một phân tích tài chính chính xác sẽ mở ra cho các nhà quản lý cánh cửa bước tới tương lai, và giúp họ đưa ra những lựa chọn thấu đáo hơn, thông minh hơn.
Gắn kết hơn
Hãy hình dung sức mạnh của tổ chức trong trường hợp mọi người đều hiểu khía cạnh tài chính của hoạt động kinh doanh. Mọi người có thể thực sự gắn kết với chiến lược và mục tiêu. Mọi người có thể làm việc như một đội để đạt tới khả năng sinh lời và dòng tiền ổn định. Mọi người có thể giao tiếp bằng ngôn ngữ kinh doanh, thay vì ganh đua địa vị qua các hoạt động chính trị nơi công sở.
NHỮNG RÀO CẢN CẢN TRỞ SỰ THÔNG HIỂU TÀI CHÍNH
Chúng tôi đã làm việc với nhiều cá nhân và doanh nghiệp, đủ để biết rằng, dù những kết quả mà mọi người mong muốn rất tuyệt, song chúng không dễ gì đạt được. Thực tế là, chúng tôi đã gặp nhiều rào cản có thể đoán trước, trên cả phương diện cá nhân lẫn tổ chức.
Có thể một rào cản trong số đó là bạn ghét toán, sợ toán và không hề muốn làm toán. Thế thì, hãy nhập hội với chúng tôi. Bạn có thể ngạc nhiên khi biết, phần lớn các hoạt động tài chính chỉ liên quan đến phép cộng và phép trừ. Khi dân tài chính thực sự hứng thú, họ mới thực hiện phép nhân và phép chia. Chúng tôi không bao giờ phải tính đạo hàm bậc hai của một hàm số hay xác định diện tích bên dưới một đường cong (xin lỗi các bạn kỹ sư). Thế nên đừng sợ: phần toán dễ thôi. Và máy tính cũng rẻ lắm. Bạn không cần phải là người thông minh tuyệt đỉnh mới có được trí tuệ tài chính.
Rào cản thứ hai là: bộ phận tài chính kế toán giữ kín mọi thông tin. Các nhân viên tài chính ở công ty bạn có mắc kẹt với cách tiếp cận cũ − là những người giữ và điều khiển các con số, miễn cưỡng dự mình vào các quá trình trao đổi thông tin không? Họ có quá chú tâm vào việc điều khiển và tuân thủ không? Nếu vậy, có nghĩa là bạn có thể sẽ có một quãng thời gian khó khăn để tiếp cận dữ liệu. Nhưng bạn vẫn có thể sử dụng những gì đã học được để nói về các con số trong cuộc họp của ban quản lý. Bạn có thể sử dụng các công cụ để hỗ trợ quá trình ra quyết định hoặc đặt câu hỏi về các giả định và ước tính trong những con số đó. Thực tế là có thể bạn sẽ khiến các nhân viên kế toán và tài chính vừa bất ngờ vừa thích thú.
Khả năng thứ ba là cấp trên không muốn bạn đặt câu hỏi về các con số. Nếu là như vậy, thì có lẽ chính cấp trên của bạn cũng lo lắng về kiến thức tài chính. Ông ấy có thể không biết về các giả định, ước tính và các định kiến sinh ra từ đó. Lời khuyên của chúng tôi là hãy cứ tiếp tục; cuối cùng, cấp trên sẽ nhận ra lợi ích đối với bản thân, bộ phận và doanh nghiệp. Bạn có thể giúp đỡ họ trong suốt quá trình này. Càng có nhiều người làm như thế, trí tuệ tài chính của tổ chức càng cao. Bạn cũng có thể bắt đầu mạo hiểm. Kiến thức tài chính của bạn sẽ mang đến cho bạn những nguồn năng lượng mới, và bạn có thể đặt ra một số câu hỏi thăm dò.
Khả năng thứ tư là bạn không có thời gian. Bạn chỉ cần cho chúng tôi thời gian đủ để đọc cuốn sách này. Nếu bạn đi công tác, hãy mang nó theo. Chỉ cần vài tiếng đồng hồ, bạn sẽ trở nên hiểu biết về tài chính hơn rất nhiều. Các chương được viết ngắn gọn có chủ ý, và bạn có thể đọc một chương bất kỳ khi nào rảnh. Tiện đây cũng xin nói thêm, chúng tôi đã đưa vào một số câu chuyện về những vụ lừa bịp tài chính thú vị do một số tội phạm doanh nghiệp thực hiện cuối thập niên 1990, để cuốn sách có thêm chút ít tính giải trí − và để cho bạn thấy rằng những sườn dốc ấy trơn trượt đến nhường nào. Chúng tôi không có ý rằng doanh nghiệp nào cũng giống những ví dụ đó; trái lại, hầu hết đang cố hết sức mình để cho thấy một diện mạo trong sạch và trung thực. Nhưng đọc về những gã xấu xa bao giờ cũng thú vị.
Nếu bạn có thể vượt qua những rào cản này, bạn sẽ có một đánh giá đúng mực, lành mạnh về nghệ thuật tài chính, và bạn có thể nâng cao trí tuệ tài chính của mình. Bạn sẽ không bỗng nhiên được trao cho tấm bằng MBA tài chính nhờ một phép màu nào đó, mà bạn sẽ thành một người biết đánh giá đúng các con số, một người có khả năng hiểu và đánh giá những gì mà nhân viên tài chính trình bày và đặt ra cho họ những câu hỏi đích đáng. Các con số sẽ không còn khiến bạn kinh hãi.
Nó sẽ không chiếm nhiều thời gian, nó tương đối nhẹ nhàng, và nó sẽ rất có ích cho sự nghiệp của bạn. Nào, chúng ta hãy cùng bắt đầu!
HỘP CÔNG CỤ
NHẬN VỀ NHỮNG GÌ BẠN MONG MUỐN
Hãy tưởng tượng sự kinh ngạc trên khuôn mặt của cấp trên khi bạn đề nghị tăng lương – và trong đề nghị của mình, bạn đưa ra một phân tích chi tiết về bức tranh tài chính của công ty, cho thấy chính xác đơn vị của bạn đã đóng góp thế nào cho công ty.
Xa vời ư? Không hẳn. Khi bạn đọc xong cuốn sách này, bạn sẽ biết làm sao để thu thập và diễn giải những dữ liệu như sau:
Tăng trưởng doanh thu, tăng trưởng lợi nhuận và những cải thiện trong lợi nhuận biên của công ty trong một năm qua. Nếu hoạt động kinh doanh thuận lợi, ban quản lý cấp cao có thể trù tính các kế hoạch và cơ hội mới. Họ sẽ cần đến những người có kinh nghiệm − như bạn.
Những thách thức tài chính còn tồn đọng. Tỷ lệ luân chuyển hàng tồn kho có thể cải thiện không? Lợi nhuận gộp hay kỳ thu tiền thì sao? Nếu bạn có thể đề xuất những cách thức cụ thể để cải thiện hiệu quả tài chính của doanh nghiệp, thì cả bạn và cấp trên đều trở thành những con người khôn ngoan.
Tình trạng tiền mặt của công ty. Có lẽ bạn có thể chỉ ra rằng: dòng tiền tự do của công ty đủ để tăng lương cho những nhân viên mẫn cán.
Điều tương tự cũng sẽ diễn ra khi bạn áp dụng cho công việc tiếp theo. Các chuyên gia luôn khuyên những người tìm việc hãy đặt câu hỏi cho người phỏng vấn − và nếu bạn đặt những câu hỏi về vấn đề tài chính, bạn sẽ cho họ thấy bạn có hiểu biết về khía cạnh tài chính của doanh nghiệp. Hãy thử hỏi những câu đại loại như:
Công ty có sinh lợi không?
Nguồn vốn của công ty có dương không?
Hệ số thanh toán ngắn hạn có thể hỗ trợ quỹ lương không? Doanh thu đang tăng hay giảm?
Nếu chưa biết cách đánh giá những điều này, hãy đọc tiếp − bạn sẽ học được chúng.
NHỮNG NGƯỜI THAM GIA CUỘC CHƠI VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA HỌ
Những ai thực sự phụ trách mảng tài chính – kế toán? Chức danh và trách nhiệm ở mỗi doanh nghiệp sẽ khác nhau, nhưng dưới đây là tổng quan
về những cá nhân có cấp bậc cao trong bộ phận này và công việc mà họ đảm nhận:
Giám đốc tài chính (CFO). Giám đốc tài chịu trách nhiệm quản lý và chiến lược cho tổ chức ở góc độ tài chính. Họ giám sát mọi chức năng tài chính; kế toán trưởng và thủ quỹ phải báo cáo cho giám đốc tài chính. Giám đốc tài chính thường có chân trong ban điều hành và ban giám đốc. Đối với các vấn đề tài chính, trách nhiệm đầu tàu nằm tại đây.
Thủ quỹ. Thủ quỹ tập trung vào các công việc ở cả trong và ngoài doanh nghiệp. Người này có trách nhiệm xây dựng và duy trì quan hệ với ngân hàng, quản lý dòng tiền, dự báo và đưa ra các quyết định về vốn chủ sở hữu và cơ cấu vốn. Thủ quỹ cũng chịu trách nhiệm về quan hệ đầu tư và các quyết định về vốn chủ sở hữu dựa trên cổ phiếu. Ta có thể nói một thủ quỹ lý tưởng là một chuyên gia tài chính có nhân cách tốt.
Kế toán trưởng (controller hoặc comptroller). Trọng tâm công việc của kế toán trưởng hoàn toàn nằm trong nội bộ tổ chức. Công việc của kế toán trưởng là cung cấp những báo cáo tài chính đáng tin cậy và chính xác. Kế toán trưởng chịu trách nhiệm về công tác kế toán chung, về báo cáo tài chính, về phân tích kinh doanh, về kế hoạch tài chính, về quản lý tài sản và về hoạt động kiểm soát nội bộ. Người này phải đảm bảo các giao dịch hằng ngày được ghi nhận chính xác và nghiêm chỉnh. Nếu không có những dữ liệu tốt và chặt chẽ từ kế toán trưởng, giám đốc tài chính và thủ quỹ sẽ không thể thực hiện phần việc của mình.
PHẦN II
NHỮNG ĐẶC THÙ CỦA BÁO CÁO KẾT QUẢ KINH DOANH
4. LỢI NHUẬN CHỈ LÀ DỰ TOÁN
Theo lối nói quen thuộc thường được cho là của Peter Drucker, lợi nhuận là tiêu chí tối cao của doanh nghiệp. “Tối cao” là từ chính xác khi nói về tiền bạc. Một doanh nghiệp có lợi nhuận sẽ tự vạch lối đi riêng. Các nhà quản lý có thể điều hành theo cách mà họ muốn. Khi một doanh nghiệp mất khả năng sinh lời, công việc kinh doanh sẽ bị kẻ khác chõ mũi vào. Khả năng sinh lời cũng là phương tiện có thể dùng để đánh giá bạn ở cương vị một nhà quản lý. Bạn đóng góp vào khả năng sinh lời của công ty, hay bạn làm nó hao hụt? Mỗi ngày bạn có tìm ra những cách để gia tăng khả năng sinh lời không, hay bạn chỉ hoàn tất công việc được giao và hi vọng mọi thứ sẽ suôn sẻ?
Một câu nói quen thuộc khác, lần này được cho là của Laurence J. Peter trong cuốn sách The Peter Principle (tạm dịch: Nguyên tắc của Peter), khẳng định, nếu chúng ta không biết mình đang đi đâu, rất có thể rốt cuộc chúng ta sẽ dừng lại ở một chốn khác. Nếu không biết làm sao để đóng góp vào khả năng sinh lời, bạn không thể làm việc hiệu quả.
Thực tế là trong giới kinh doanh có quá nhiều người không hiểu thực chất lợi nhuận là gì, chứ chưa nói đến việc tính toán nó. Họ cũng chẳng hề hiểu được rằng lợi nhuận của doanh nghiệp trong một giai đoạn bất kỳ sẽ phản ánh trọn vẹn tập các ước tính (dự toán) và giả định. Nghệ thuật tài chính có thể rút đơn giản thành nghệ thuật làm ra lợi nhuận − hay như trong một số trường hợp, là nghệ thuật làm cho lợi nhuận trông tốt đẹp hơn so với thực tế.
Trong phần này của cuốn sách, chúng ta sẽ tìm hiểu làm thế nào các doanh nghiệp có thể làm được việc này, bằng cả hai hình thức hợp pháp lẫn phi pháp. Kinh nghiệm của chúng tôi là, hầu hết các doanh nghiệp đều thực hiện minh bạch, dù luôn có một số ít vượt quá các giới hạn. Chúng tôi sẽ tập trung vào những điều căn bản giúp hiểu một báo cáo kết quả kinh doanh, vì “lợi nhuận” không gì khác hơn là những gì được thể hiện trên đó. Học cách giải mã tài liệu này, bạn có thể hiểu cũng như đánh giá khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Học cách kiểm soát những dòng mà bạn có thể tác động trên báo cáo kết quả kinh doanh, bạn sẽ biết làm thế nào để đóng góp vào khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Và học nghệ thuật xác định lợi nhuận, chắc chắn bạn sẽ nâng cao được trí tuệ tài chính của mình. Thậm chí, bạn có thể còn đến được nơi mà mình mong muốn.
ĐÔI CHÚT VỀ KẾ TOÁN
Ngay từ đầu chúng tôi đã nói rằng sẽ không dạy bạn về kế toán, vậy nên chúng tôi sẽ không làm thế. Tuy nhiên, có một khái niệm kế toán sẽ được chúng tôi giải thích trong chương này, vì một khi bạn hiểu nó, bạn sẽ hiểu được chính xác thế nào là một báo cáo kết quả kinh doanh, và thứ đó đang cố nói với bạn điều gì. Dù vậy, trước tiên chúng tôi muốn lùi lại một bước và đảm bảo rằng không có một sự hiểu lầm nghiêm trọng nào lẩn khuất trong tâm trí bạn.
Bạn cũng biết, báo cáo kết quả kinh doanh có nhiệm vụ thể hiện lợi nhuận của doanh nghiệp trong một giai đoạn nhất định − thường là một tháng, một quý hoặc một năm. Chỉ cần chút ít khả năng tưởng tượng là bạn có thể kết luận, báo cáo kết quả kinh doanh cho biết doanh nghiệp đã thu được bao nhiêu tiền mặt trong giai đoạn đó, chi tiêu bao nhiêu, và còn lại bao nhiêu. Phần “còn lại” ắt sẽ trở thành lợi nhuận của doanh nghiệp, đúng chứ?
Nhưng, không đâu. Ngoại trừ một vài doanh nghiệp rất rất nhỏ làm kế toán theo kiểu ấy − được gọi là kế toán dựa trên tiền mặt − quan niệm như thế về báo cáo kết quả kinh doanh và lợi nhuận là một sự hiểu sai cơ bản. Trên thực tế, một báo cáo kết quả kinh doanh đo lường một thứ khác hẳn so với lượng tiền ra vào, và còn lại. Nó đo lường doanh thu hoặc tổng thu nhập, chi phí hoặc chi tiêu, và lợi nhuận hoặc lãi.
Bất kỳ báo cáo kết quả kinh doanh nào cũng bắt đầu bằng doanh thu. Khi doanh nghiệp bàn giao một sản phẩm hay một dịch vụ cho khách hàng, kế toán viên sẽ nói doanh nghiệp đã tạo ra doanh thu. Chẳng cần bận tâm đến việc khách hàng đã thanh toán hay chưa, doanh nghiệp có thể tính ngay khoản doanh thu này vào dòng trên cùng của báo cáo kết quả kinh doanh trong giai đoạn đang xét đến. Có thể chưa hề có khoản tiền nào được trao tay. Tất nhiên, đối với những doanh nghiệp ghi nhận kế toán dựa trên tiền mặt như các đại lý bán lẻ và các nhà hàng, doanh thu và tiền mặt là gần như nhau. Nhưng hầu hết các doanh nghiệp đều phải chờ ít nhất 30 ngày, hoặc hơn mới có thể thu về doanh thu, và nhà sản xuất của những mặt hàng lớn, như máy bay, thậm chí có thể phải chờ trong nhiều tháng. (Quản lý một công ty như Boeing sẽ đòi hỏi lượng dự trữ tiền mặt lớn để trang trải chi phí lao động và các chi phí hoạt động cho đến khi công ty được thanh toán. Nhưng sang phần sau, chúng ta sẽ làm quen với khái niệm được gọi là vốn lưu động (working capital), một thông số giúp bạn đánh giá những vấn đề kể trên).
Thế còn dòng “chi phí” trên báo cáo kết quả kinh doanh thì sao? Vâng, các khoản chi phí hay chi tiêu mà doanh nghiệp báo cáo không nhất thiết phải là những gì doanh nghiệp viết séc thanh toán trong giai đoạn đó. Các
khoản chi phí hay chi tiêu trên báo cáo kết quả kinh doanh là những gì mà doanh nghiệp phải chịu khi tạo ra doanh thu được ghi nhận trong cùng kỳ. Các kế toán viên gọi đây là nguyên tắc phù hợp (matching principle) – các khoản chi thích đáng phải phù hợp với tất cả các khoản thu về được ghi nhận trong báo cáo kết quả kinh doanh cùng kỳ, và đây là mấu chốt để hiểu phương thức xác định lợi nhuận.
Nguyên tắc phù hợp
Nguyên tắc phù hợp (matching principle) là quy tắc kế toán cơ bản để lập báo cáo kết quả kinh doanh. Nguyên tắc này phát biểu giản dị như sau: “Hãy khớp doanh thu cho phù hợp với chi phí liên quan để xác định lợi nhuận của một kỳ sổ sách − thường là một tháng, một quý hoặc một năm”. Nói cách khác, một trong những nhiệm vụ chính yếu của kế toán viên là tìm và ghi nhận đúng tất cả các chi phí phải chịu trong quá trình tạo ra doanh thu.
Nguyên tắc phù hợp chính là chút ít chuyên môn kế toán mà bạn cần học. Ví dụ:
Nếu một công ty mực và mực in mua một xe hộp mực vào tháng Sáu để bán lại cho khách hàng trong những tháng tiếp theo, công ty sẽ không ghi nhận chi phí mua toàn bộ số hộp mực vào tháng Sáu. Thay vào đó, công ty sẽ ghi nhận chi phí của từng hộp mực khi hộp mực được bán ra. Lý do là bởi nguyên tắc phù hợp.
Và nếu một công ty chuyển phát mua một chiếc xe tải vào tháng Một, và lên kế hoạch sử dụng trong ba năm tiếp theo, chi phí mua xe sẽ không được thể hiện trên báo cáo kết quả kinh doanh của tháng Một. Thay vào đó, chiếc xe sẽ được tính khấu hao trong suốt ba năm sử dụng, với mức khấu hao 1/36 chi phí mua xe và được thể hiện như một khoản chi trên báo cáo kết quả kinh doanh từng tháng (giả sử, doanh nghiệp đang áp dụng phương pháp tính khấu hao đơn giản theo đường thẳng). Tại sao lại vậy? Vì nguyên tắc phù hợp. Chiếc xe là một trong nhiều chi phí gắn với công việc của tháng − những công việc không được thể hiện trong doanh thu của tháng Một.
Nguyên tắc phù hợp thậm chí còn mở rộng sang các khoản mục như thuế. Doanh nghiệp có thể thanh toán hóa đơn thuế theo quý − nhưng mỗi tháng, kế toán viên sẽ phải ghi nhận vào báo cáo kết quả kinh doanh một con số phản ánh mức thuế đánh lên thu nhập tháng đó.
Nguyên tắc phù hợp áp dụng cho cả doanh nghiệp dịch vụ và doanh nghiệp sản xuất. Chẳng hạn, một công ty tư vấn bán giờ dịch vụ có tính phí, tức là thời gian mà mỗi tư vấn viên làm việc với khách hàng. Bộ phận kế toán phải khớp các chi phí liên quan đến thời gian này − như
chi phí marketing, chi phí tài liệu, chi phí nghiên cứu, v.v… − cho phù hợp với các khoản thu về.
Bạn có thể thấy chúng ta đã đi xa thế nào khỏi dòng tiền ra vào. Theo dõi sự lưu chuyển của dòng tiền là nhiệm vụ của tài liệu tài chính khác, có tên là báo cáo lưu chuyển tiền tệ (cash flow statement) (Phần 4). Bạn cũng có thể thấy chúng ta đã đi xa thế nào khỏi hiện thực khách quan đơn giản. Các kế toán viên không thể đơn giản cộng tổng dòng tiền; họ phải quyết định khoản chi nào liên quan đến khoản thu nào. Họ phải giả định và ước tính. Trong quá trình đó, họ có thể đưa định kiến vào các số liệu.
MỤC ĐÍCH CỦA BÁO CÁO KẾT QUẢ KINH DOANH
Về nguyên tắc, báo cáo kết quả kinh doanh cố gắng đánh giá xem, liệu sản phẩm hay dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp có sinh lời hay không, sau khi tính tổng mọi thứ. Kế toán viên làm hết sức mình để thể hiện doanh thu mà doanh nghiệp tạo ra trong kỳ kế toán, những chi phí phát sinh khi tạo ra những khoản thu đó (bao gồm cả chi phí vận hành doanh nghiệp trong kỳ), và lợi nhuận – tức, phần còn lại nếu có. Để những định kiến tiềm ẩn sang một bên, thì đây là một nỗ lực vô cùng quan trọng đối với hầu hết các nhà quản lý của doanh nghiệp. Một giám đốc bán hàng cần biết mình và đội của mình đang tạo ra loại lợi nhuận nào, để có thể đưa ra các quyết định về chiết khấu, về điều khoản bán hàng, về đối tượng khách hàng, v.v… Một giám đốc marketing cần biết sản phẩm nào có khả năng sinh lời nhất, để chú trọng vào chúng trong các chiến dịch marketing. Một giám đốc nhân sự cần biết khả năng sinh lời của sản phẩm, để biết doanh nghiệp cần ưu tiên chiến lược cho bộ phận nào khi tuyển dụng người mới.
Theo thời gian, báo cáo kết quả kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ của một doanh nghiệp được điều hành tốt sẽ theo dõi lẫn nhau. Lợi nhuận sẽ được chuyển thành tiền mặt. Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy ở chương 3, việc doanh nghiệp đang tạo ra lợi nhuận trong một giai đoạn không có nghĩa rằng doanh nghiệp đó sẽ có đủ tiền để thanh toán hóa đơn. Lợi nhuận luôn là dự toán − và bạn không thể chi tiêu một thứ được dự toán.
Với sự gia cố thêm từ bài học này cho đai an toàn, chúng ta hãy cùng chuyển sang công việc giải mã báo cáo kết quả kinh doanh.
5. PHÁ GIẢI BỘ MÃ CỦA BÁO CÁO KẾT QUẢ KINH DOANH
Hãy chú ý đến hạn từ mà chúng tôi sử dụng ở tiêu đề chương: bộ mã (code). Không may là báo cáo kết quả kinh doanh thường xuyên trông như một bộ mã cần được phá giải.
Lý do là như sau. Trong những cuốn sách như cuốn sách này − và thậm chí trong các phần sau của cuốn sách, bạn sẽ thường thấy những mẩu báo cáo kết quả kinh doanh nho nhỏ dễ thương như sau:
Doanh thu 100 đô-la
Giá vốn hàng bán 50
Lợi nhuận gộp 50
Chi phí 30
Thuế 5
Lợi nhuận thuần 15 đô-la
Một cô bé lớp 4 sáng dạ cũng có thể hiểu ngay bài toán này mà không cần chỉ bảo quá nhiều, trừ một chút giảng giải về định nghĩa. Có khi cô bé còn chẳng cần đến máy tính. Nhưng giờ chúng ta hãy cùng xem một báo cáo kết quả kinh doanh thực tế − của chính công ty bạn hoặc báo cáo mà bạn tìm thấy trong báo cáo thường niên của công ty khác. Nếu là bản chi tiết, báo cáo đó có thể kéo dài nhiều trang − từng hàng từng hàng số liệu, thường được in nhỏ tới mức chỉ vừa đủ đọc. Thậm chí nếu là một báo cáo “hợp nhất” như những gì bạn tìm được trong các báo cáo thường niên, nó còn có thể chứa tất cả những dòng với các nhãn tên khó hiểu như “đầu tư kinh doanh/đầu tư khác” (báo cáo của IBM), hay “ bộ phận chứng khoán hóa thanh khoản hợp nhất” (báo cáo của General Electric). Và thế là đủ khiến bất kỳ ai không phải là chuyên gia tài chính than trời trong vô vọng.
Vì vậy, hãy kiên nhẫn chịu đựng cùng chúng tôi khi chúng ta tìm hiểu một số thủ tục đơn giản để cuộn mình vào một báo cáo kết quả kinh doanh. Nâng cao trí tuệ tài chính không nên đi cùng cảm giác đau tim, và việc học từng bước như thế này có thể cứu bạn thoát khỏi điều đó.
ĐỌC BÁO CÁO KẾT QUẢ KINH DOANH
Trước khi bắt đầu nghiền ngẫm các con số, bạn sẽ cần bối cảnh để hiểu các tài liệu.
Nhãn tên
Trên đầu báo cáo có dòng chữ “báo cáo kết quả kinh doanh” không? Có thể không. Thay vào đó, nó có thể có dòng chữ “báo cáo lãi lỗ” (profit and loss statement hay P&L statement), “báo cáo hoạt động kinh doanh” (operating statement hay statement of operations), “báo cáo thu nhập” (statement of earnings hay earnings statement). Thường thì còn có thêm từ hợp nhất (consolidated) đi cùng các cụm từ này. Chúng tôi từng làm việc với một khách hàng gọi báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo lợi nhuận trong báo cáo thường niên của mình. Trong khi đó, một bộ phận của công ty này lại gọi nó đúng như cái tên báo cáo kết quả kinh doanh, còn bộ phận khác lại dùng cái tên báo cáo lãi lỗ. Với việc tất cả các thuật ngữ trên cùng chỉ một thứ, một người có thể đi đến kết luận rằng, những đồng nghiệp ở phòng tài chính − kế toán không hề muốn chúng ta biết chuyện gì đang xảy ra. Hoặc có thể họ chỉ mặc nhiên cho rằng ai cũng biết các thuật ngữ ấy đều mang cùng một ý nghĩa. Dù sự thể là thế nào, trong cuốn sách này, chúng tôi sẽ chỉ sử dụng xuyên suốt thuật ngữ báo cáo kết quả kinh doanh (income statement).
Tiện đây cũng xin nói luôn, nếu bạn thấy nhãn tên “bảng cân đối kế toán” (balance sheet) hay “báo cáo lưu chuyển tiền tệ” (cash flow statement) ở dòng trên cùng của một báo cáo bất kỳ, thì tức là bạn đã cầm nhầm tài liệu. Nhãn tên đúng hầu như chỉ sử dụng những cái tên mà chúng tôi đã trình bày ở trên.
Báo cáo kết quả kinh doanh đo lường cái gì?
Đây có phải báo cáo kết quả kinh doanh của cả doanh nghiệp không? Hay chỉ là báo cáo của một bộ phận hoặc một đơn vị kinh doanh? Hay chỉ là của một khu vực nhất định? Các doanh nghiệp lớn thường lập báo cáo kết quả kinh doanh cho các bộ phận khác nhau, đồng thời có báo cáo cho toàn tổ chức. Trong tác phẩm kinh điển Relevance Lost (tạm dịch: Mất tính thích đáng), H. Thomas Johnson và Robert S. Kaplan đã chia sẻ cách được General Motors dùng để phát triển hệ thống đơn vị của mình trong nửa đầu thế kỷ XX − với báo cáo kết quả kinh doanh cho từng bộ phận. Chúng ta có thể mừng vì tập đoàn này đã làm việc đó. Việc lập báo cáo kết quả kinh doanh cho những đơn vị kinh doanh nhỏ hơn mang lại cho những nhà quản
lý các tập đoàn lớn những kiến giải sâu rộng về hoạt động tài chính của cả doanh nghiệp.
Khi xác định được thực thể liên quan, bạn cần kiểm tra kỳ báo cáo. Báo cáo kết quả kinh doanh, cũng như phiếu báo điểm ở trường, luôn áp dụng cho một khoảng thời gian nhất định: một tháng, một quý hoặc một năm, hay có thể là từ một năm nào đó đến thời điểm hiện tại. Một số doanh nghiệp còn lập những báo cáo kết quả kinh doanh cho quãng thời gian ngắn là một tuần. Tiện đây cũng xin chia sẻ, số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp lớn thường được làm tròn, và những số 0 cuối cùng thường được lược bỏ. Thế nên, bạn hãy dò tìm dòng lưu ý nhỏ ở trên đầu: “triệu” (thêm sáu số 0 vào con số) hoặc “nghìn” (thêm ba số 0). Điều này nghe có vẻ thông thường, và thật ra thì đúng là như vậy. Nhưng kinh nghiệm của chúng tôi cho thấy, những chi tiết tưởng như tầm thường như vậy thường bị những người mới tiếp cận lĩnh vực tài chính bỏ qua.
Phân biệt “thực tế” với “hình thức”
Hầu hết các báo cáo kết quả kinh doanh đều là “thực tế”, và nếu không có thêm một nhãn nào khác, bạn có thể cho rằng đó đúng là những gì bạn đang nhìn thấy. Chúng cho ta biết “trên thực tế” điều gì đang xảy ra với doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong kỳ kế toán, theo các quy định kế toán. (Chúng tôi đặt từ “trên thực tế” trong ngoặc kép để nhắc bạn nhớ rằng, bất kỳ một báo cáo kết quả kinh doanh nào về bản chất cũng có những ước tính, giả định và định kiến lồng trong đó, chúng ta sẽ thảo luận kỹ hơn nội dung này ở cuối phần này).
Kế đó, có những báo cáo được gọi là báo cáo kết quả kinh doanh hình thức. Đôi khi hình thức có nghĩa là báo cáo kết quả kinh doanh ấy là một sự phóng chiếu dự kiến. Ví dụ, nếu bạn đang lập kế hoạch cho một hoạt động kinh doanh mới, bạn có thể viết ra một báo cáo kết quả kinh doanh dự kiến cho một hoặc hai năm đầu − nói cách khác là viết ra những gì bạn hi vọng và kỳ vọng sẽ xảy ra trên khía cạnh thu chi. Sự phóng chiếu dự kiến đó được gọi là hình thức (pro forma). Nhưng báo cáo hình thức cũng có thể chỉ một báo cáo kết quả kinh doanh loại trừ tất cả những khoản phí một lần và bất thường. Chẳng hạn, nếu doanh nghiệp phải xử lý một khoản nợ xấu lớn trong một năm cụ thể, gây tổn thất đến kết quả kinh doanh. (Ta sẽ bàn nhiều hơn về chủ đề xử lý nợ xấu ở cuối phần này). Cùng với báo cáo kết quả kinh doanh thực tế, doanh nghiệp có thể phải chuẩn bị thêm một báo cáo cho thấy mọi chuyện sẽ như thế nào nếu không phải xử lý nợ xấu (write-off).
Hãy cẩn thận với loại báo cáo hình thức này! Mục đích bề ngoài của nó
có vẻ là để bạn có thể so sánh năm trước (khi chưa xử lý nợ xấu) với năm sau (sau khi xử lý nợ xấu). Nhưng thường có một thông điệp ngầm, đi cùng với câu nói “Này, mọi thứ không đến nỗi tệ như trông vậy đâu − chúng ta chỉ mất tiền vì xử lý nợ xấu thôi.” Tất nhiên, việc xử lý nợ xấu quả thật đã diễn ra, và công ty quả thật đã mất tiền. Bạn gần như luôn cần xem cả báo cáo thực tế lẫn báo cáo hình thức, và nếu bạn buộc phải chọn một, thì báo cáo thực tế có lẽ là cửa tốt hơn để đặt cược. Những người hoài nghi đôi khi mô tả các báo cáo hình thức như những báo cáo kết quả kinh doanh bày ra toàn bộ thứ tệ hại, mà trên thực tế thỉnh thoảng lắm chúng mới xuất hiện.
Những con số khủng
Bất kể bạn đang xem báo cáo tài chính của công ty nào, trên đó chắc chắn sẽ có ba mục chính. Một là doanh thu hay tổng thu nhập (cả hai cách gọi đều như nhau). Doanh thu luôn nằm ở dòng trên cùng. Khi mọi người đề cập đến “tăng trưởng dòng đầu,” thì tức là mọi người muốn nói đến tăng trưởng doanh thu. Chi phí nằm ở giữa, và lợi nhuận ở dưới cùng. (Nếu bản báo cáo kết quả kinh doanh bạn đang xem là của một tổ chức phi lợi nhuận, thì “lợi nhuận” có thể được ghi là “thặng dư/thâm hụt” hoặc “thu nhập thuần”). Lợi nhuận được chia thành những nhóm nhỏ, được liệt kê theo trình tự − chẳng hạn, lợi nhuận gộp. Chúng tôi sẽ giải thích về tất cả các nhóm này trong chương 8.
Thường thì bạn có thể chỉ ra đâu là điều quan trọng đối với một doanh nghiệp khi nhìn vào những con số lớn nhất liên quan đến doanh thu. Chẳng hạn, sau dòng doanh thu thường là dòng “giá vốn hàng bán”, hay COGS (cost of goods sold). Ở các công ty dịch vụ, dòng này thường được ghi là “giá thành dịch vụ”, hay COS (cost of services). Nếu dòng này chiếm phần lớn doanh thu, bạn có thể cược rằng ban quản lý công ty đang theo dõi COGS hoặc COS rất sát sao. Ở công ty của mình, bạn sẽ cần biết chính xác những gì được bao gồm trong các khoản mục liên quan đến công việc của bản thân. Chẳng hạn, nếu bạn là giám đốc bán hàng, bạn sẽ cần biết chính xác những gì tạo nên khoản mục “chi phí bán hàng”. Như chúng ta sẽ thấy, các kế toán viên có quyền tự quyết nhất định trong cách thức phân loại các chi phí khác nhau.
Tiện đây, xin lưu ý: trừ khi bạn là chuyên gia tài chính, nếu không rất có thể bạn sẽ bỏ qua các khoản mục như “bộ phận chứng khoán hóa thanh khoản hợp nhất”. Dù sao, hầu hết các dòng có nhãn tên kiểu này đều không quá quan trọng với kết quả kinh doanh. Trong trường hợp như vậy, chúng cần được giải thích ở phần chú thích.
Dữ liệu so sánh
Báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất được trình bày trong báo cáo thường niên thường có ba cột số liệu, phản ánh những gì diễn ra trong ba năm gần đó. Báo cáo kết quả kinh doanh nội bộ có thể có nhiều cột số liệu hơn. Chẳng hạn, bạn có thể gặp một báo cáo như sau:
% thực tế/doanh thu % ngân sách/doanh thu % chênh lệch Hoặc như sau:
Thực tế giai đoạn trước đó
chênh lệch tiền mặt (+/–)
% chênh lệch
Những bảng số liệu kiểu này có thể gây kinh hãi. Nhưng quả thật chúng không cần phải như vậy.
Ở trường hợp đầu tiên, “% doanh thu” chỉ đơn giản là một cách thể hiện độ lớn của chi phí xét trong tương quan với doanh thu. Dòng doanh thu được coi như là điểm cho trước − điểm cố định − và tất cả mọi thứ khác sẽ được so sánh với nó. Nhiều doanh nghiệp thiết lập mục tiêu %/doanh thu cho những khoản mục nhất định, và ra tay hành động nếu trượt xa khỏi mục tiêu. Chẳng hạn, có thể các nhà điều hành cấp cao của doanh nghiệp đã quyết định không để chi phí bán hàng vượt quá 12% doanh thu. Nếu chi phí này vượt ra khỏi con số 12%, thì bộ phận bán hàng phải cẩn trọng hơn nữa. Nguyên tắc tương tự cũng áp dụng cho con số ngân sách và chênh lệch. (“Chênh lệch” có nghĩa là sự khác biệt). Nếu con số thực tế vượt xa khỏi ngân sách − tức là, nếu chênh lệch lớn, dứt khoát sẽ có người muốn biết lý do tại sao. Các nhà quản lý hiểu biết về tài chính luôn xác định những con số chênh lệch với ngân sách và tìm hiểu lý do tại sao.
Ở trường hợp thứ hai, báo cáo đơn giản cho ta thấy doanh nghiệp đang hoạt động ra sao so với quý trước hoặc năm trước. Đôi khi điểm so sánh sẽ là “cùng kỳ năm trước”. Một lần nữa, nếu có một con số đi chệch hướng, sẽ có người muốn biết lý do tại sao.
Tóm lại, giá trị của các báo cáo kết quả kinh doanh dạng so sánh là để nêu bật những gì đang thay đổi, con số nào đang theo đúng kỳ vọng và con số nào không.
Chú thích
Báo cáo kết quả kinh doanh nội bộ có thể bao gồm các chú thích hoặc
không. Nếu có, thì chúng tôi khuyên bạn nên đọc thật cẩn thận. Chúng có thể cho bạn biết điều gì đó mà các kế toán viên nghĩ rằng mọi người đều nên biết. Các báo cáo kết quả kinh doanh cho đối tác bên ngoài, như những báo cáo đi cùng các báo cáo thường niên, lại hơi khác một chút. Chúng thường gồm nhiều, rất nhiều chú thích. Có thể bạn cần lướt qua chúng: một số có thể thú vị, số khác có thể không.
Tại sao phải đọc tất cả các chú thích? Trong những trường hợp có nghi vấn, các quy tắc kế toán sẽ đòi hỏi nhân viên tài chính phải giải thích làm sao họ có thể cho ra những tổng số như thế. Vì thế, hầu hết các chú thích giống như những cửa sổ cho ta thấy được phương thức tính toán số liệu. Một số chú thích đơn giản và dễ hiểu, chẳng hạn hai chú thích sau đây trong Báo cáo 10-K năm 2004 của Dell (báo cáo thường niên được thực hiện theo Đạo luật Giao dịch Chứng khoán năm 1934):
Năm tài khóa − Năm tài khóa của Dell kéo dài 52 hoặc 53 tuần, kết thúc vào ngày thứ Sáu gần với ngày 31/1 nhất. Tất cả các năm tài khóa 2004, 2003 và 2002 đều gồm 52 tuần.
Chi phí vận chuyển − Chi phí vận chuyển và xử lý hàng của Dell đều được tính vào chi phí bán hàng trong báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất đi kèm cho tất cả các giai đoạn trình bày.
Tuy nhiên, những chú thích khác có thể dài và phức tạp, như những đoạn chú thích dưới đây trong Báo cáo 10-K của Tyco International cho năm tài khóa kết thúc vào ngày 30/9/2004:
Ghi nhận doanh thu − Công ty ghi nhận doanh thu chủ yếu trên 4 loại giao dịch − bán sản phẩm, bán hệ thống an ninh, thu phí thuê bao đối với dịch vụ giám sát và bán hợp đồng.
Doanh thu bán sản phẩm được ghi nhận tại thời điểm chuyển giao tên tuổi, rủi ro và lợi ích của quyền sở hữu. Thời điểm này thường diễn ra khi các sản phẩm đến cảng đi FOB, giá bán là cố định và có thể xác định được, và việc thu nhận hàng được đảm bảo.
Những điều khoản hoàn tiền, ưu đãi bán hàng, xúc tiến thương mại, phiếu giảm giá, đổi trả hàng và chiết khấu cho khách hàng được ghi nhận là phần giảm trừ khi xác định doanh thu trong kỳ ghi nhận doanh thu. Những điều khoản này được thực hiện dựa trên những dự toán phát xuất từ các yêu cầu của chương trình hiện tại và kinh nghiệm đã có.
Chú thích đặc biệt này còn kéo dài thêm 7 đoạn nữa. Song xin đừng hiểu sai ý chúng tôi: việc Tyco giải thích cách thức họ ghi nhận doanh thu là rất
quan trọng. Các quyết định về thời điểm ghi nhận doanh thu là yếu tố chủ chốt trong nghệ thuật tài chính. Bạn cũng không nên cho rằng Dell luôn có những chú thích đơn giản, còn các chú thích của Tyco thì luôn phức tạp. Các ví dụ của chúng tôi chỉ đơn giản minh họa cho sự đa dạng của các loại chú thích mà bạn sẽ gặp trong các báo cáo kết quả kinh doanh thường niên. Đôi khi bạn còn có thể thấy một số điều rất đỗi thú vị về các doanh nghiệp, qua việc đọc các chú thích! Vậy nên, hãy cứ thưởng thức đi! Tiện đây xin nhắn bạn, nếu không thể tìm ra những giải thích mình cần trong phần ghi chú, hãy hỏi giám đốc tài chính. Ông ta ắt có câu trả lời.
QUY TẮC QUAN TRỌNG
Đó là những quy tắc để đọc báo cáo. Song bạn cũng chớ quên một quy tắc quan trọng luôn cần được đặt lên trước suy nghĩ của bạn bất cứ khi nào bạn phải đối mặt với một báo cáo kết quả kinh doanh. Quy tắc đó phát biểu như sau:
Hãy nhớ rằng nhiều số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh các ước tính và giả định. Kế toán quyết định tính những giao dịch này, và bỏ qua các giao dịch khác. Họ đã quyết định dự toán theo cách này, và bỏ qua các cách khác.
Đó là nghệ thuật tài chính. Nếu bạn ghi nhớ kỹ điểm này, chúng tôi đảm bảo, trí tuệ tài chính của bạn đã vượt nhiều nhà quản lý.
Vậy nên, chúng ta hãy mạnh dạn dấn sâu vào để có cái nhìn chi tiết hơn về một số hạng mục chủ chốt. Nếu bạn không có báo cáo kết quả kinh doanh sẵn dùng, hãy tham khảo mẫu báo cáo ở phần phụ lục.
6. DOANH THU VẤN ĐỀ LÀ Ở VIỆC GHI NHẬN
Chúng tôi sẽ bắt đầu từ dòng trên cùng. Chúng tôi đã lưu ý rằng doanh thu − dòng trên cùng của báo cáo kết quả kinh doanh − còn có một tên gọi khác là tổng thu nhập. Đến đây vẫn không có vấn đề gì: hai từ chỉ cùng một thứ cũng không phải là điều gì quá tệ, và chúng tôi sẽ sử dụng cả hai, bởi chúng rất thông dụng. Nhưng hãy cẩn thận: một số doanh nghiệp (và nhiều cá nhân) còn gọi dòng đầu đó là “thu nhập”. Trên thực tế, phần mềm kế toán thông dụng QuickBooks cũng dán nhãn cho dòng đó là thu nhập. Điều này thật sự khiến mọi thứ nhập nhằng, vì “thu nhập” vẫn thường có nghĩa là “lợi nhuận,” khoản mục nằm ở dòng kết quả kinh doanh dưới cùng. (Rõ ràng, chúng ta đang vấp phải một cuộc chiến khó khăn ở đây.
Doanh nghiệp có thể ghi nhận hoặc công nhận một khoản thu khi họ bàn giao sản phẩm hoặc dịch vụ cho khách hàng. Đây là nguyên tắc đơn giản. Nhưng như chúng tôi đã gợi ý từ trước, khi đưa vào thực hành, nguyên tắc ấy lập tức đưa đến những rắc rối phức tạp. Thực tế là vấn đề khi nào có thể ghi nhận một khoản doanh thu là một trong những khía cạnh đậm tính nghệ thuật của báo cáo kết quả kinh doanh. Đó là khía cạnh mà kế toán viên có quyền tự quyết đáng kể, và do đó cũng là khía cạnh mà nhà quản lý chắc chắn hiểu tường tận nhất. Bởi vậy, đó là khía cạnh mà những kỹ năng như một người sử dụng có hiểu biết tài chính của bạn sẽ trở nên đắc dụng. Nếu mọi thứ trông không ổn, hãy đặt câu hỏi − và nếu bạn không nhận được câu trả lời thỏa đáng, đó có lẽ là lúc phải bận tâm. Ghi nhận doanh thu là đấu trường phổ biến cho các gian lận tài chính.
Doanh thu
Doanh thu (sales hay revenue) là giá trị tiền tệ của tất cả các sản phẩm hoặc dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng trong một giai đoạn nhất định.
NHỮNG CHỈ DẪN MÙ MỜ
Nguyên tắc được các kế toán viên sử dụng để ghi nhận hoặc công nhận doanh thu là doanh thu phải được tạo ra. Công ty sản xuất phải vận chuyển sản phẩm đến khách hàng. Công ty dịch vụ phải thực hiện công việc của mình. Điều này cũng hợp lý − nhưng bạn sẽ làm thế nào trong những tình huống sau?
Công ty của bạn chuyên tích hợp hệ thống cho các khách hàng lớn. Một
dự án điển hình cần khoảng 6 tháng để thiết kế và được khách hàng phê duyệt, tiếp theo đó là 12 tháng thực hiện. Khách hàng không nhận được bất kỳ giá trị thực nào từ dự án cho đến khi hoàn tất. Vậy, khi nào bạn mới nhận được doanh thu mà dự án tạo ra?
Công ty của bạn bán hàng cho các đại lý. Với chính sách viết hóa đơn mà không giao hàng, bạn cho phép khách hàng mua sản phẩm (chẳng hạn, một mặt hàng rất được ưa chuộng cho dịp Giáng sinh) trước khi họ thực sự cần nó. Bạn giúp họ lưu kho và sẽ giao hàng ra sau đó. Vậy thì khi nào bạn sẽ nhận được doanh thu?
Bạn làm việc cho một công ty kiến trúc. Công ty của bạn giúp khách hàng lên kế hoạch thi công, thỏa thuận với các nhà chức trách xây dựng địa phương và giám sát quá trình thi công hoặc tái xây dựng. Tất cả các dịch vụ này đều được tính vào phí dịch vụ của công ty, khoản mục thường được tính dưới dạng phần trăm chi phí xây dựng. Làm thế nào bạn xác định được thời gian công ty nhận được doanh thu?
Chúng tôi không thể cho bạn đáp án chính xác cho những câu hỏi trên, vì phương pháp kế toán ở mỗi nơi mỗi khác. Nhưng đó chính là vấn đề: không hề có câu trả lời chắc chắn nào. Những công ty hoạt động theo mô hình dự án thường có các nguyên tắc cho phép ghi nhận một phần doanh thu khi dự án đạt đến một cột mốc nhất định. Song những nguyên tắc này có thể thay đổi. Con số “doanh thu” ở dòng trên cùng luôn phản ánh phán đoán của các kế toán viên về thời điểm ghi nhận doanh thu. Và ở đâu có phán đoán thì ở đó sẽ có chỗ cho tranh cãi − nếu không muốn nói là cho cả các thủ đoạn tài chính.
XÁC SUẤT DIỄN RA CÁC THỦ ĐOẠN TÀI CHÍNH
Trên thực tế, áp lực sử dụng các thủ đoạn tài chính có thể rất căng. Chẳng hạn, hãy cùng xem xét một công ty phần mềm. Và hãy giả sử rằng công ty này bán phần mềm kèm hợp đồng bảo trì và nâng cấp cho một giai đoạn 5 năm. Bởi vậy, công ty phải đưa ra các phán đoán về thời điểm ghi nhận doanh thu của giao dịch bán hàng.
Bây giờ, hãy giả sử công ty phần mềm này thật ra là một bộ phận của một tập đoàn lớn phải cung cấp các dự báo thu nhập cho Phố Wall. Các nhà tài chính của văn phòng công ty mẹ muốn Phố Wall vui lòng. Nhưng quý này trông như thể công ty mẹ có nguy cơ thiếu một vài xu so với con số thu nhập trên cổ phần ước tính. Nếu thật là thế, Phố Wall sẽ không hài lòng. Và khi Phố Wall không hài lòng, cổ phiếu của công ty sẽ chịu trận.
(Bạn có thể thấy nhân viên tài chính trong văn phòng công ty mẹ đang suy nghĩ). Đây là bộ phận phần mềm. Giả sử chúng ta thay đổi cách ghi nhận
doanh thu của bộ phận này? Giả sử chúng ta ghi nhận trước 75% thay vì 50%? Có thể viện lý do ằng giao dịch bán hàng trong ngành này đòi hỏi nhiều công sức bước đầu, vì vậy ta nên ghi nhận chi phí và nỗ lực thực hiện giao dịch, cũng như chi phí cung cấp sản phẩm và dịch vụ. Chỉ cần thay đổi – mà ở đây là ghi nhận thêm doanh thu, thế là thu nhập trên cổ phần sẽ lập tức được đẩy nhẹ lên mức mà Phố Wall mong muốn.
Điều thú vị là cách thay đổi như vậy không hề phạm pháp. Công ty có thể giải thích trong chú thích của báo cáo tài chính, nhưng việc đó có khi cũng chẳng cần thiết. Chẳng hạn, chúng ta hãy xem xét một phần khác trong chú thích rất dài của công ty Tyco mà ta đã nhắc ở chương 5:
Khi cung cấp dịch vụ theo những hợp đồng nhất định, Dịch vụ cơ sở hạ tầng (một đơn vị kinh doanh thuộc nhóm Sản phẩm và dịch vụ thiết kế) phải tuân theo hợp đồng phụ và chịu những chi phí khác do bộ phận Dịch vụ cơ sở hạ tầng thanh toán và viết lại hóa đơn cho khách hàng. Trước đây, các chi phí này được coi là “đã thông qua” và vì vậy không được tính vào doanh thu và giá vốn hàng bán khai báo của Dịch vụ cơ sở hạ tầng. Có hiệu lực từ ngày 1 tháng Một năm 2004, tính ngược trở lại ngày 1 tháng Mười năm 2003, công ty bắt đầu phản ánh các chi phí của hợp đồng phụ vào cả doanh thu lẫn giá vốn hàng bán cho Dịch vụ cơ sở hạ tầng, do đó doanh thu tăng và giá vốn hàng bán là 739 triệu đô-la trong năm tài khóa kết thúc vào ngày 30 tháng Chín năm 2004.
Về nguyên tắc, bất kỳ một thay đổi kế toán nào “quan trọng” với kết quả kinh doanh đều phải được chú thích theo cách này. Nhưng ai mới được quyền quyết định cái nào quan trọng, cái nào không? Bạn đoán ra rồi đó: các kế toán viên. Thực tế là, việc ghi nhận trước 75% doanh thu có thể thể hiện bức tranh chính xác hơn hiện trạng của công ty phần mềm. Nhưng sự thay đổi như vậy về phương pháp kế toán có được là nhờ những phân tích tài chính hữu ích, hay nó phản ánh nhu cầu đưa ra dự báo lợi nhuận? Liệu có định kiến nào lẩn khuất đâu đây không? Hãy nhớ rằng, kế toán là nghệ thuật sử dụng các dữ liệu hạn chế để tới gần nhất có thể với một mô tả chính xác về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Doanh thu trên báo cáo kết quả kinh doanh là ước tính, là tiên đoán tốt nhất. Ví dụ này cho ta thấy các ước tính có thể dẫn đến định kiến như thế nào.
Không chỉ các nhà đầu tư mới phải thận trọng với định kiến; những quyết định như thế còn có thể ảnh hưởng trực tiếp đến công việc của nhà quản lý. Giả sử nếu bạn là giám đốc bán hàng, và bạn cùng đội ngũ nhân viên của mình đang tập trung vào con số doanh thu mỗi tháng. Bạn quản lý
nhân viên dựa trên những con số này. Bạn trao đổi với họ về hiệu quả công việc. Bạn đưa ra quyết định tuyển dụng và sa thải, và bạn phát thưởng rồi công nhận, tất cả đều theo các con số này. Giờ, công ty của bạn làm đúng việc mà công ty phần mềm kia đã làm: thay đổi cách thức ghi nhận doanh thu nhằm thực hiện mục tiêu nào đó của tập đoàn. Bỗng nhiên mọi chuyện trông như thể nhân viên của bạn đang làm việc rất tốt! Có tiền thưởng cho tất cả! Nhưng hãy cẩn thận: nếu ghi nhận theo phương pháp cũ, con số doanh thu cơ sở có thể không tốt đến vậy. Nếu bạn không biết chính sách đã thay đổi và bạn bắt đầu tung ra các gói thưởng, tức là bạn đang trả thêm nhưng không cho một cải thiện thực tế nào. Trí tuệ tài chính trong trường hợp này có nghĩa là hiểu doanh thu được ghi nhận thế nào, phân tích các chênh lệch thực tế trong con số doanh thu, và quyết định thưởng (hoặc không) dựa trên những thay đổi thực sự trong hoạt động.
Chỉ xin nói một lời riêng thế này, nguồn gốc phổ biến nhất của các gian lận kế toán đã và có lẽ vẫn luôn là dòng trên cùng: doanh thu. Sunbeam, Cendant, Xerox và Rite Aid, tất cả đều chơi tiểu xảo với việc ghi nhận doanh thu theo những cách phải đặt dấu hỏi. Vấn đề này đặc biệt gay gắt trong ngành công nghiệp phần mềm. Nhiều công ty phần mềm bán sản phẩm cho các nhà phân phối, trung gian đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Các nhà sản xuất, thường phải chịu áp lực doanh thu từ Phố Wall, thường bị cám dỗ với việc giao những phần mềm chưa được đặt hàng cho các nhà phân phối vào cuối quý. (Biện pháp này được gọi là nhồi hàng vào kênh). Một công ty đã tìm được lối đi đúng đắn liên quan đến biện pháp này là Macromedia, công ty sáng tạo ra ứng dụng Internet Flash Player và nhiều sản phẩm khác. Khi việc nhồi hàng vào kênh trở thành vấn đề nghiêm trọng trong ngành, Macromedia đã tự nguyện trình báo các ước tính về hàng tồn kho hiện đang do nhà phân phối nắm giữ, qua đó cho thấy các kênh phân phối sản phẩm của công ty không phải được nhồi nhét khống. Thông điệp gửi tới các các cổ đông và nhân viên của công ty rất rõ ràng: Marcomedia sẽ không bị cuốn vào biện pháp ấy.
Tuy nhiên, lần tới khi bạn đọc về một vụ bê bối tài chính trên mặt báo, trước tiên hãy kiểm tra xem liệu ai đó có đang tung hứng số liệu doanh thu hay không. Rủi thay, chuyện này lại quá phổ biến.
7. CHI PHÍ VÀ NỢ PHẢI TRẢ
Không có quy tắc bất di bất dịch
Hầu hết các nhà quản lý đều có nhiều kinh nghiệm cá nhân với chi phí. Nhưng bạn có biết, có rất nhiều ước tính và định kiến trong các dòng chi phí? Chúng ta hãy cùng nghiên cứu các khoản mục chi phí chủ yếu.
GIÁ VỐN HÀNG BÁN HOẶC GIÁ THÀNH DỊCH VỤ
Có lẽ bạn đã biết, các chi phí trên báo cáo kết quả kinh doanh thường rơi vào hai nhóm cơ bản. Nhóm thứ nhất là giá vốn hàng bán, hay COGS. Thường thì, có nhiều tên gọi khác nhau cho nhóm này, chẳng hạn ở một công ty dịch vụ, nó có thể được gọi là giá thành dịch vụ. Chúng tôi cũng thường xuyên nhìn thấy những cái tên như chi phí doanh thu và chi phí bán hàng. Để đơn giản, chúng tôi sử dụng từ viết tắt COGS hoặc COS. Ở mức độ nào đi nữa, điều quan trọng không phải là ở nhãn tên, mà là những gì được bao gồm trong nó. Mục đích ẩn sau COGS là để đo lường mọi chi phí liên quan trực tiếp đến việc làm ra sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ. Nguyên vật liệu. Lao động. Nếu bạn ngờ rằng quy tắc này sẽ mở ra cho bạn hàng tấn các diễn giải, thì bạn đã hoàn toàn đúng. Bộ phận kế toán phải ra quyết định sẽ bao gồm những gì trong COGS và những gì ở các hạng mục khác.
Giá vốn hàng bán (COGS) và giá thành dịch vụ (COS)
Giá vốn hàng bán (cost of goods sold) hay giá thành dịch vụ (cost of service) là một hạng mục chi phí, bao gồm tất cả các chi phí liên quan trực tiếp đến quá trình sản xuất hoặc thực hiện dịch vụ.
Một số quyết định trong số đó khá đơn giản. Chẳng hạn, trong một công ty sản xuất, các chi phí sau đây chắc chắn sẽ được tính vào:
Tiền lương cho các công nhân làm việc trong dây chuyền sản xuất. Chi phí nguyên vật liệu được dùng để làm ra sản phẩm.
Và nhiều chi phí khác chắc chắn sẽ bị loại ra, như: Chi phí vật tư văn phòng phẩm mà bộ phận kế toán sử dụng (giấy, bút, v.v…) Lương cho giám đốc nhân sự của văn phòng công ty.
Tiếp đó sẽ là những khoản nằm ở vùng xám − những khoản này thì nhiều vô kể. Ví dụ: Thế còn lương của giám đốc nhà máy sản xuất ra sản phẩm? Lương của quản đốc nhà máy thì sao? Hoa hồng bán hàng thì thế nào?
Tất cả những khoản này có liên quan trực tiếp đến quá trình sản xuất sản phẩm không? Hay chúng là chi phí hoạt động, giống như chi phí cho giám
đốc nhân sự? Trong ngành dịch vụ cũng xuất hiện sự nhập nhằng tương tự. COS trong các công ty dịch vụ thường bao gồm chi phí cho nhân lực tham gia thực hiện dịch vụ. Thế còn trưởng nhóm thì sao? Bạn có thể lập luận rằng lương của anh ta là một phần của các hoạt động chung, và vì thế không nên bao gồm trong COS. Bạn cũng có thể cho rằng anh ta hỗ trợ nhân viên trực tiếp thực hiện dịch vụ, vì vậy lương của anh ta cần được tính vào giá thành dịch vụ. Những lập luận trên đều là phán đoán. Không có một quy tắc bất di bất dịch nào.
Thẳng thắn mà nói thì việc không có bất kỳ quy tắc bất di bất dịch nào là một điều ngạc nhiên nho nhỏ. Bộ tiêu chuẩn GAAP − các quy tắc kế toán được thừa nhận phổ quát dùng để kiểm soát cách ghi sổ sách của các kế toán viên ở Mỹ − dày đến 4.000 trang và có rất nhiều quy tắc chi tiết. Bạn có thể tưởng rằng GAAP sẽ quy định: “giám đốc sản xuất không được tính” hoặc “quản đốc thì tính”. Không may mắn như vậy, GAAP chỉ cung cấp cho ta các định hướng. Các doanh nghiệp tuân thủ các định hướng này và áp dụng một logic hợp lý với trường hợp cụ thể của doanh nghiệp mình. Mấu chốt, như các kế toán viên vẫn thường nói, là sự hợp lý và nhất quán. Chừng nào logic của doanh nghiệp vẫn còn hợp lý và chừng nào logic đó vẫn còn được áp dụng nhất quán, thì chừng đó doanh nghiệp muốn làm gì cũng được.
GAAP
GAAP là từ viết tắt của cụm từ “generally accepted accounting principles” − các quy tắc kế toán được thừa nhận phổ quát. GAAP định ra chuẩn mực cho việc lập báo cáo tài chính ở Mỹ. Nó giúp đảm bảo giá trị pháp lý và độ tin cậy của báo cáo, và cho phép dễ dàng so sánh các doanh nghiệp và các ngành công nghiệp với nhau. Tuy nhiên, GAAP không giải thích rõ ràng mọi thứ; bộ quy tắc này cho phép kế toán viên có quyền tự quyết và phán đoán chủ quan đáng kể.
Liên quan đến việc tại sao nhà quản lý nên quan tâm đến việc nên ghi, nên bỏ khoản nào, hãy xem xét các kịch bản sau đây:
Bạn quản lý bộ phận phân tích kỹ thuật của một công ty kiến trúc, và trước đây tiền lương cho nhân viên của bạn được tính vào COS. Hiện tại, phòng tài chính chuyển tất cả các chi phí này ra khỏi COS. Việc làm này hoàn toàn hợp lý − dù bộ phận của bạn tham gia nhiều vào quá trình hoàn thành bản vẽ thiết kế, nhưng có thể nói bộ phận không liên quan trực tiếp đến bất kỳ công việc cụ thể nào. Vậy, sự thay đổi đó có quan trọng không? Chắc chắn là có. Bạn và nhân viên của mình sẽ không còn là một phần của cái gọi là “trên vạch” nữa. Nghĩa là bạn sẽ
xuất hiện một cách khác đi trên màn hình ra-đa của doanh nghiệp. Nếu công ty của bạn tập trung vào lợi nhuận gộp chẳng hạn, ban quản lý sẽ giám sát COS thật cẩn thận, và đảm bảo rằng mọi bộ phận ảnh hưởng đến COS sẽ có được tất cả những gì mình cần để đạt được mục tiêu. Một khi bạn được định khoản bên ngoài COS − “dưới vạch” − mức độ chú ý dành cho bạn có thể ít đi đáng kể.
Bạn là giám đốc một nhà máy, có nhiệm vụ làm ra khoản lợi nhuận gộp 1 triệu đô-la mỗi tháng. Tháng này lợi nhuận kém 20.000 đô-la. Sau đó, bạn nhận ra rằng 25.000 đô-la trong COGS của bạn đang được định khoản ở dòng “quản lý hợp đồng các đơn hàng của nhà máy”. Khoản đó có thật sự nằm trong COGS hay không? Bạn kiến nghị kế toán trưởng chuyển các khoản đó vào chi phí hoạt động. Kế toán trưởng đồng ý; thay đổi được tiến hành. Bạn đạt được chỉ tiêu, và mọi người đều hân hoan. Ngay cả một người ngoài cũng có thể nhìn vào những gì đang diễn ra và tin rằng lợi nhuận gộp đã cải thiện − tất cả là nhờ thay đổi mà bạn đã thực hiện vì bạn đang cố gắng đạt chỉ tiêu.
Trên vạch, dưới vạch
Từ “vạch” ở đây thường ám chỉ lợi nhuận gộp. Phía trên vạch lợi nhuận gộp của báo cáo kết quả kinh doanh thường là doanh thu và giá vốn hàng bán, hoặc giá thành dịch vụ. Phía dưới vạch là chi phí hoạt động, lãi vay, và thuế. Vậy sự khác biệt ở đây là gì? Những khoản mục trên vạch (trong ngắn hạn) thường biến đổi nhiều hơn những khoản mục dưới vạch, và vì vậy thường được ban quản lý chú ý đến hơn.
Một lần nữa, những thay đổi này cũng hợp pháp, miễn là chúng đáp ứng được bài kiểm tra hợp lý và nhất quán. Thậm chí bạn còn có thể rút một khoản mục chi phí ra khỏi COGS trong một tháng và kiến nghị tính gộp nó trở lại vào tháng sau. Tất cả những gì bạn cần là một lý do đủ sức thuyết phục kế toán trưởng (và các kiểm toán viên nếu những thay đổi đó quan trọng đối với kết quả tài chính của công ty). Tất nhiên, việc liên tục thay đổi các quy tắc giữa các kỳ kế toán là một hình thức không hay. Tính nhất quán là một trong những điều mà chúng ta cần ở các kế toán viên.
CHI PHÍ HOẠT ĐỘNG: CÁI GÌ CẦN THIẾT?
Và khi bị loại khỏi COGS, các chi phí sẽ được đưa vào đâu? Đâu là “dưới vạch”? Đó là một nhóm chi phí cơ bản khác, được gọi là chi phí hoạt động. Một số doanh nghiệp quy chi phí hoạt động là chi phí bán hàng và quản lý chung (viết tắt là SG&A – sales, general and administrative; hoặc chỉ G&A – general and administrative), trong khi những doanh nghiệp khác lại xem G&A (chi phí chung và chi phí hành chính) là nhóm con và tách chi phí
bán hàng cùng chi phí marketing ra dòng riêng. Thường thì doanh nghiệp sẽ tiến hành phân biệt như vậy dựa trên quy mô tương đối của từng loại chi phí. Microsoft chọn cách thể hiện chi phí bán hàng và chi phí marketing ở dòng riêng vì hai loại chi phí này chiếm một phần đáng kể trong tổng chi phí của tập đoàn. Ngược lại, các công ty công nghệ sinh học lại áp dụng cách tiếp cận điển hình hơn, đó là gộp chung chi phí bán hàng và marketing vào chi phí G&A. Cả hai nhóm đều tách riêng chi phí nghiên cứu và phát triển vì khoản mục này có tầm quan trọng tương đối cao. Vì vậy, hãy lưu tâm đến cách thức doanh nghiệp tổ chức các khoản mục chi phí.
Chi phí hoạt động thường được coi và gọi là “chi phí chung” (overhead). Nhóm chi phí này bao gồm các khoản như tiền thuê mặt bằng, chi phí điện nước, điện thoại, nghiên cứu và marketing. Nó cũng bao gồm tiền lương cho nhân viên và ban quản lý − bộ phận nhân sự, kế toán, công nghệ thông tin, v.v… − cộng thêm tất cả những khoản mục mà kế toán quyết định không kê vào nhóm COGS.
Chi phí hoạt động (định nghĩa thêm lần nữa)
Chi phí hoạt động là nhóm chi phí lớn còn lại [bên cạnh nhóm COGS. Nhóm này bao gồm những chi phí không liên quan trực tiếp đến quá trình làm ra sản phẩm hay thực hiện dịch vụ.
Bạn có thể coi chi phí hoạt động như cholesterol trong doanh nghiệp. Cholesterol tốt sẽ làm bạn khỏe mạnh, nhưng cholesterol xấu sẽ làm động mạch của bạn tắc nghẽn. Chi phí hoạt động tốt sẽ giúp doanh nghiệp vững mạnh, và chi phí hoạt động xấu sẽ kéo tụt kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, cản bước bạn tận dụng các cơ hội kinh doanh. (Một cách gọi khác cho những chi phí hoạt động xấu là “thủ tục quan liêu không cần thiết”. Cũng có thể gọi là “việc đèo bòng”. Hoặc bạn có thể liên tưởng đến những hình ảnh khác).
Thêm một điều nữa về COGS và chi phí hoạt động. Bạn có thể cho rằng COGS cũng giống như “chi phí biến đổi” − những chi phí thay đổi theo khối lượng sản xuất − và rằng chi phí hoạt động là chi phí cố định. Chẳng hạn, nguyên vật liệu là chi phí biến đổi: sản xuất càng lớn, bạn càng phải mua nhiều nguyên vật liệu. Và chi phí nguyên vật liệu luôn được tính vào COGS. Tiền lương cho nhân viên của bộ phận nhân sự là chi phí cố định, và khoản đó được tính vào chi phí hoạt động. Nhưng rủi thay, mọi thứ không đơn giản như vậy. Chẳng hạn, nếu tiền lương của các quản đốc được tính vào COGS, thì khi đó khoản mục này là cố định trong ngắn hạn, bất kể bạn làm ra 100.000 hay 150.000 sản phẩm. Hoặc xem xét ví dụ về chi phí bán hàng, vốn
được xem như một phần của chi phí SG&A. Nếu bạn có một đội ngũ bán hàng ăn hoa hồng, chi phí bán hàng ở một chừng mực nào đó sẽ là biến phí, tuy vậy chúng lại thường được tính vào chi phí hoạt động, hơn là COGS.
SỨC MẠNH CỦA CON SỐ KHẤU HAO TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ TÀI SẢN VÔ HÌNH
Một phần khác của chi phí hoạt động thường được lồng vào dòng SG&A là chi phí khấu hao tài sản vô hình và hữu hình (depreciation and amortization). Cách thức xử lý loại chi phí này có thể ảnh hưởng lớn đến con số lợi nhuận trên báo cáo kết quả kinh doanh.
Ở phần trước, chúng tôi đã trình bày một ví dụ minh họa về khấu hao tài sản hữu hình − doanh nghiệp mua một chiếc xe tải chở hàng và phân tán chi phí đó qua một giai đoạn ba năm, khoảng thời gian mà chúng tôi giả định là tuổi đời sử dụng của chiếc xe. Như chúng tôi đã nói, đó là một ví dụ minh họa cho nguyên tắc phù hợp. Nói chung, khấu hao tài sản là việc “tính phí” một tài sản vật chất, như một chiếc xe tải hoặc một chiếc máy, theo tuổi đời hữu dụng ước tính. Toàn bộ điều này có nghĩa là kế toán phải xác định thời gian mà tài sản đó có thể được sử dụng, lấy tỷ lệ tương ứng trên tổng chi phí, và ghi nhận con số đó như một khoản mục chi phí trên báo cáo kết quả kinh doanh.
Tuy vậy, ở những câu khô khan trên ẩn chứa một công cụ rất quyền năng mà các nghệ sỹ tài chính có thể ứng dụng. Nó đáng để chúng ta đi sâu vào chi tiết, vì bạn sẽ thấy chính xác các giả định về khấu hao có thể tác động như thế nào đến kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp bất kỳ.
Để cho đơn giản, hãy giả sử chúng ta mở một công ty chuyển phát, và cung cấp dịch vụ cho một số khách hàng. Trong tháng đầu hoạt động, chúng ta thực hiện được khối lượng công việc có giá trị 10.000 đô-la. Đầu tháng, công ty của chúng ta mua một chiếc xe tải có giá 36.000 đô-la để chở hàng. Bởi chúng ta kỳ vọng có thể sử dụng chiếc xe trong ba năm, nên chúng ta sẽ khấu hao chiếc xe này ở mức 1.000 đô-la mỗi tháng (sử dụng phương pháp khấu hao đường thẳng đơn giản). Vì vậy, một báo cáo kết quả kinh doanh giản lược có thể sẽ có dạng như sau:
Doanh thu 10.000 đô-la
Giá vốn hàng bán 5.000
Lợi nhuận gộp 5.000
Chi phí 3.000
Khấu hao 1.000
Lợi nhuận thuần 1.000 đô-la
Nhưng các kế toán viên của chúng ta không phải là thầy bói. Họ không biết chắc chiếc xe tải có sử dụng được chính xác trong ba năm không. Đó chỉ là một giả định được họ đưa ra. Hãy xem xét một số giả định khác:
Họ có thể giả định rằng chiếc xe chỉ dùng được một năm, trong trường hợp này, họ phải khấu hao 3.000 đô-la mỗi tháng. Cách tính này làm kết quả kinh doanh tụt giảm 2.000 đô-la, và đẩy công ty từ chỗ có lãi 1.000 đô-la thành lỗ 1.000 đô-la.
Hoặc họ giả định rằng chiếc xe có thể sử dụng được trong sáu năm (72 tháng). Trong trường hợp này, mức khấu hao chỉ là 500 đô-la mỗi tháng, và lợi nhuận thuần sẽ lên đến 1.500 đô-la.
Ở trường hợp thứ nhất, công ty chúng ta đột nhiên rơi vào tình trạng hoạt động ở mức báo động đỏ. Ở trường hợp sau, chúng ta lại tăng được lợi nhuận thuần lên 50% − chỉ bằng việc thay đổi giả định về khấu hao. Tất nhiên, các kế toán viên phải tuân theo bộ tiêu chuẩn GAAP, nhưng bộ quy tắc này cho phép họ được linh hoạt đáng kể. Bất kể kế toán viên tuân theo bộ tiêu chuẩn nào, họ luôn cần đưa ra dự toán mỗi khi một tài sản có thời gian sử dụng dài hơn một kỳ kế toán. Việc của một nhà quản lý thông minh về tài chính là hiểu những ước tính này để biết chúng ảnh hưởng như thế nào đến tình hình tài chính.
Nếu bạn cho rằng đây thuần túy là một bài tập sách vở thì hãy xem lại ví dụ đáng tiếc về Waste Management Inc. (WMI). WMI là một trong những câu chuyện doanh nghiệp thành công trong thập niên 1970-1980. Chính bởi vậy, mọi người đều choáng váng khi năm 1998 công ty này thông báo mình sẽ phải trả một khoản trước thuế lên đến 3,54 tỷ đô-la từ thu nhập – khoản xử lý nợ xấu một lần. Đôi khi những khoản phí một lần được tính trước khi thực hiện tái cơ cấu, như chúng ta sẽ thảo luận ở phần sau của chương này. Nhưng trong trường hợp này thì khác. Thực tế là WMI đang thừa nhận đã gian lận sổ sách ở quy mô mà khó ai có thể mường tượng ra. Trong suốt nhiều năm trước đó, công ty thật ra chỉ thu được về con số ít hơn con số mà công ty báo cáo 3,54 tỷ đô-la.
Chuyện gì đã xảy ra khi đó? Kể từ thập niên 1980, khi bắt đầu tăng trưởng nhanh chóng bằng cách mua lại các công ty xử lý rác thải khác, WMI đã là con cưng của Phố Wall. Khi nguồn cung công ty xử lý rác thải bắt đầu sụt giảm, khoảng năm 1992, công ty chuyển sang mua các công ty thuộc
ngành khác. Nhưng trong khi xoay chuyển thành công các công ty rác thải, thì công ty lại không biết cách vận hành hiệu quả các công ty ngoài ngành. Biên lợi nhuận của WMI tụt giảm. Giá cổ phiếu tuột dốc. Tuyệt vọng chống đỡ giá cổ phiếu, ban điều hành bắt đầu tìm cách tăng thu nhập của công ty.
Họ bắt đầu chú ý trước tiên tới đội xe gồm 20.000 xe rác, mỗi xe có giá trung bình 150.000 đô-la. Tính đến thời điểm đó, đoàn xe tải đã được khấu hao từ 8 đến 10 năm, đây là mức khấu hao tiêu chuẩn của ngành. Ban điều hành quyết định, bấy nhiêu thời gian là không đủ. Một chiếc xe tải tốt có thể dùng được 12, 13, thậm chí 14 năm. Khi thêm 4 năm nữa vào bảng khấu hao xe tải, người ta có thể tạo nên điều kỳ diệu cho kết quả kinh doanh; việc đó giống như ví dụ nho nhỏ chúng tôi đã nêu khi nãy, nhưng được nhân lên với cấp số hàng ngàn. Tuy nhiên, ban điều hành không dừng lại ở đó. Họ nhận ra rằng còn những tài sản khác có thể áp dụng thủ thuật tương tự − như 1,5 triệu thùng rác cỡ đại chẳng hạn. Thời gian khấu hao của mỗi thùng rác có thể kéo dài từ 12 năm (theo chuẩn) lên đến 15, 18, hoặc 20 năm, và thế là ta sẽ có thêm một khoản thu nhập kếch xù nữa mỗi năm. Bằng cách gian lận các số liệu khấu hao xe tải và thùng rác, ban điều hành WMI đã bơm lợi nhuận trước thuế của công ty lên con số khổng lồ là 716 triệu đô-la. Và đây mới chỉ là một trong những chiêu trò họ sử dụng để làm cho lợi nhuận trông có vẻ lớn hơn thực tế, khiến tổng số cuối cùng lớn đến vậy.
Tất nhiên, toàn bộ mạng lưới lùng nhùng đó cuối cùng cũng được gỡ tung, như phần lớn các thủ đoạn lừa đảo. Dù vậy, lúc đó đã quá muộn để cứu công ty. Công ty được bán cho một đối thủ cạnh tranh, những người chủ mới giữ lại tên công ty, và thay đổi gần như tất cả. Về phía những thủ phạm gây ra vụ gian lận, dù không bị xử lý hình sự, nhưng họ phải chịu một số án phạt dân sự.
Khấu hao là một ví dụ cơ bản cho cái mà các kế toán viên gọi là chi phí phi tiền mặt (noncash expense). Hẳn nhiên đây cũng chính là chỗ họ thường để lạc mất những kẻ còn lại. Một khoản chi thì có thể là gì khác ngoài tiền mặt? Điểm mấu chốt ở thuật ngữ đánh đố này là phải nhớ rằng tiền mặt có thể đã được chi từ trước. Xe tải thì công ty đã mua. Nhưng chi phí thì không được ghi nhận toàn bộ trong tháng đó, mà rải rác trong tuổi đời của xe tải, mỗi lần một khoản nhỏ. Không có thêm khoản tiền mặt nào ra khỏi cửa; đúng hơn thì đó chỉ là cách mà kế toán viên chỉ ra rằng doanh thu tháng này dựa vào việc sử dụng chiếc xe tải đó, thế nên, báo cáo kết quả kinh doanh nên có dòng nào đó phản ánh chi phí của chiếc xe. Tiện đây, bạn cũng nên biết rằng có rất nhiều phương thức để tính khấu hao cho một tài sản. Bạn không cần biết tài sản đó là gì; việc đó có thể giao cho kế toán viên. Tất cả
những gì bạn cần biết là liệu việc sử dụng tài sản có phù hợp với doanh thu mà nó tạo ra hay không.
Chi phí phi tiền mặt
Chi phí phi tiền mặt (noncash expense) là loại chi phí được tính cho một kỳ báo cáo kết quả kinh doanh, nhưng không được chi trả thật sự bằng tiền mặt. Khấu hao là một ví dụ: kế toán viên khấu trừ một số tiền nhất định mỗi tháng để khấu hao trang thiết bị, nhưng doanh nghiệp không có nghĩa vụ phải chi số tiền đó, vì thiết bị đã được mua từ trước.
Khấu hao tài sản vô hình về cơ bản là ý tưởng tương tự như khấu hao tài sản hữu hình, nhưng được áp dụng cho các tài sản vô hình. Ngày nay, tài sản vô hình chiếm một phần đáng kể trên bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp. Các khoản mục như bằng sáng chế, bản quyền, và lợi thế thương mại (sẽ được giải thích trong chương 10) đều là tài sản vô hình − ta phải tốn tiền để có chúng và chúng có giá trị − dù chúng không phải là các tài sản vật chất như bất động sản và trang thiết bị. Tuy vậy, chúng cũng phải được đưa vào sổ sách như các tài sản hữu hình. Chẳng hạn như bằng sáng chế. Công ty bạn phải mua bằng sáng chế, hoặc phải nghiên cứu và phát triển để có sáng chế, và sau đó xin cấp bằng cho nó. Giờ thì bằng sáng chế mang lại doanh thu. Thế nên, công ty phải khớp sao cho Chi phí của tấm bằng sáng chế phù hợp với doanh thu mà nó giúp mang lại, mỗi lần một chút. Trong tiếng Anh, khi một tài sản là vô hình, người ta sẽ dùng từ “amortization” để chỉ khấu hao cho nó, thay vì “depreciation”. Chúng tôi không biết chắc lý do − nhưng dù vì lẽ gì, đó cũng là nguồn cơn gây khó hiểu.
Nhân đây, cũng xin nói thêm, trong kinh tế khấu hao ngầm chỉ rằng món tài sản mất dần giá trị theo thời gian. Thật vậy, một chiếc xe tải được sử dụng trong ngành chuyển phát thật sự mất dần giá trị khi trở nên cũ kĩ. Nhưng việc khấu hao tài sản vô hình và tài sản hữu hình trong kế toán lại mang ý nghĩa phân bổ chi phí nhiều hơn là khấu trừ giá trị. Chẳng hạn, một chiếc xe tải có thể sẽ được khấu hao trong ba năm, cho nên giá trị kế toán của chiếc xe tải đó ở cuối giai đoạn đó sẽ bằng 0. Nhưng nó vẫn có giá trị nào đó trên thị trường. Một bằng sáng chế có thể được khấu hao trong suốt tuổi đời sử dụng, nhưng nếu công nghệ đã tiến bộ vượt xa nó, giá trị của nó có thể gần như bằng 0 sau một vài năm, bất kể các kế toán viên có nói gì. Thế nên, các tài sản thường hiếm khi đáng giá như những gì được thể hiện trên sổ sách. (Chúng tôi sẽ trình bày chi tiết hơn về giá trị kế toán hay giá trị “sổ sách” trong Phần 3).
KHOẢN TRẢ MỘT LẦN: CỜ VÀNG CẢNH BÁO
Kế toán cũng giống như cuộc sống, ít nhất là ở chỗ: có rất nhiều thứ không nằm gọn trong hạng mục nào. Bởi vậy, mỗi báo cáo kết quả kinh doanh lại có một nhóm lớn gồm những chi phí không thuộc về COGS, mà cũng chẳng phải là chi phí hoạt động hay chi phí chung. Mỗi báo cáo mỗi khác, nhưng thường thì bạn sẽ nhìn thấy các dòng “thu nhập/chi phí khác” (đây thường là khoản thu được hay mất đi từ việc bán tài sản, hoặc từ các giao dịch không liên quan đến hoạt động thực sự của doanh nghiệp) và tất nhiên là cả dòng “thuế”. Bạn không cần bận tâm đến hầu hết những dòng này. Nhưng có một dòng thường đảo lên sau COGS và chi phí hoạt động (đôi khi nó còn được đưa vào ngay dưới chi phí hoạt động) − dòng mà chắc chắn bạn cần hiểu vì nó có ý nghĩa trọng yếu đối với khả năng sinh lời. Nhãn tên phổ biến nhất cho nó là “khoản trả một lần”.
Có thể đôi lúc bạn đã bắt gặp cụm từ taking the big bath (gột rửa) hoặc một cụm từ tương tự trên tờ Wall Street Journal. Đó là một cách nói ám chỉ đến những khoản trả một lần, những khoản này còn được gọi là khoản đặc biệt (extraordinary item), xử lý nợ xấu (write-off) hay phí tái cơ cấu (restructuring charge). Có những lúc doanh nghiệp phải tiến hành xử lý nợ xấu, như trong trường hợp của WMI, khi đi sai hướng và muốn điều chỉnh lại sổ sách. Thường xuyên hơn thì những khoản phí một lần xuất hiện khi một CEO mới lên nắm quyền và muốn tái cơ cấu, tái tổ chức, đóng cửa nhà máy và có thể cắt giảm biên chế. Đó là nỗ lực của CEO, bất kể đúng sai, để cải thiện doanh nghiệp dựa trên đánh giá cá nhân của ông ta về những gì là thiết yếu đối với doanh nghiệp. Thường thì một cuộc tái cơ cấu như vậy đòi hỏi nhiều chi phí − tiền thuê nhà xưởng, chi phí thực hiện các gói hỗ trợ thất nghiệp, vứt bỏ cơ sở vật chất, bán trang thiết bị, v.v…
Ngày nay, các kế toán viên luôn muốn thận trọng. Thực tế là họ buộc phải thế. GAAP khuyến cáo các kế toán viên nên ghi nhận chi phí ngay khi biết rằng chi phí đó phát sinh, kể cả trong trường hợp họ phải ước tính chính xác con số cuối cùng là bao nhiêu. Vì vậy khi cuộc tái cơ cấu diễn ra, các kế toán viên cần ước tính những chi phí này và ghi nhận chúng.
Đây thật sự là nơi cần cắm cờ vàng cảnh báo − một nơi tuyệt vời cho các định kiến số liệu. Nói cho cùng thì bạn thực sự ước tính chi phí tái cơ cấu như thế nào? Các kế toán có nhiều quyền tự quyết, và họ có khả năng che đậy dấu vết theo hướng này hay hướng khác. Nếu dự toán họ đưa ra quá cao − tức là nếu chi phí thực tế thấp hơn dự kiến − thì một phần của khoản phí một lần đó phải được “đảo ngược lại”. Một khoản đảo ngược như vậy sẽ tăng thêm lợi nhuận cho kỳ mới, làm nó tăng chóng mặt so với lợi nhuận thực − và tất cả là bởi ước tính của kế toán trong kỳ trước đó thiếu chuẩn
xác! Người ta từng kháo nhau rằng Al Dunlap “Cưa Xích”, CEO khét tiếng của Sunbeam, đã coi bộ phận kế toán như một trung tâm lợi nhuận, và những trình bày ở trên có thể giải thích tại sao. (Nếu bạn nghe một nhà điều hành cấp cao nói về bộ phận kế toán theo cách ấy, công ty của bạn ắt có vấn đề).
Tất nhiên, cũng có thể có trường hợp chi phí tái cơ cấu quá thấp. Khi đó, sẽ phải có một khoản phí khác được chi ra sau đó. Cách này làm số liệu rối tung, vì khoản phí đó không thật sự phù hợp với một khoản doanh thu nào trong kỳ kế tiếp. Trong kỳ này, lợi nhuận sẽ thấp hơn so với thực tế, và một lần nữa là vì các kế toán viên đã đưa ra dự toán không chính xác trong khung thời gian trước đó. Trong suốt giai đoạn đầu những năm 1990, năm nào AT&T cũng thực hiện một khoản tái cơ cấu “một lần”. Công ty này liên tục khẳng định rằng thu nhập trước tái cơ cấu đang tăng − nhưng việc làm này không tạo được thay đổi đáng kể, bởi sau toàn bộ những khoản tái cơ cấu này, công ty lại rơi vào tình trạng biến động tài chính. Hơn nữa, nếu một công ty liên tục chi các khoản tái cơ cấu một lần đặc biệt suốt nhiều năm, thì những khoản chi ấy có thể đặc biệt đến thế nào?
8. CÓ NHIỀU KIỂU LỢI NHUẬN
Cho đến lúc này, chúng tôi đã trình bày về doanh thu − dòng trên cùng − và kế đó là các khoản chi phí. Lấy doanh thu trừ đi chi phí, ta sẽ có lợi nhuận.
Đương nhiên, phép tính này cũng cho ra thu nhập, thu nhập thuần, hay thậm chí là biên lợi nhuận thuần. Điều đáng ngạc nhiên là một số doanh nghiệp sử dụng tất cả những thuật ngữ khác nhau này để chỉ lợi nhuận, đôi khi còn sử dụng tất cả trong cùng một tài liệu. Một báo cáo kết quả kinh doanh có thể có những khoản mục được gắn nhãn “lợi nhuận gộp”, “thu nhập hoạt động”, “lợi nhuận thuần” và “thu nhập trên mỗi cổ phần”. Tất cả chúng đều là những dạng khác nhau của lợi nhuận, thường xuất hiện trên báo cáo kết quả kinh doanh − và doanh nghiệp có thể chỉ cần đơn giản gọi đó là “lợi nhuận gộp”, “lợi nhuận hoạt động”, “lợi nhuận thuần” và “thu nhập trên cổ phần”. Khi doanh nghiệp sử dụng những từ này trong cùng một báo cáo kết quả kinh doanh thì có vẻ họ đang nói về những khái niệm khác nhau. Nhưng thực sự là không phải vậy.
Trong cuốn sách này, chúng ta hãy chỉ sử dụng thuật ngữ “lợi nhuận”, và tìm hiểu các cách gọi khác nhau của nó.
Lợi nhuận
Lợi nhuận (profit) là số tiền còn lại sau khi đã trừ tất cả các chi phí khỏi doanh thu. Có ba loại lợi nhuận cơ bản: lợi nhuận gộp, lợi nhuận hoạt động và lợi nhuận thuần. Mỗi loại được xác định bằng cách trừ khỏi doanh thu những hạng mục chi phí nhất định.
LỢI NHUẬN GỘP: BAO NHIÊU THÌ ĐỦ?
Lợi nhuận gộp − doanh thu trừ đi COGS hoặc COS − là số liệu chính đối với hầu hết các doanh nghiệp. Nó cho biết khả năng sinh lời cơ bản của sản phẩm hoặc dịch vụ. Nếu khoản mục này không sinh lời, thì công ty bạn có thể sẽ không trụ được lâu. Nói cho cùng thì làm sao bạn có thể chi trả cho những chi phí dưới vạch, bao gồm cả lương bổng của ban quản lý, nếu bạn không tạo được lợi nhuận gộp vững mạnh?
Lợi nhuận gộp
Lợi nhuận gộp (gross profit) là kết quả sau khi lấy doanh thu trừ đi giá vốn hàng bán hoặc giá thành dịch vụ. Đó là những gì còn lại sau khi một
doanh nghiệp thanh toán các chi phí trực tiếp phát sinh trong quá trình làm ra sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ. Lợi nhuận gộp phải đủ để bù chi phí hoạt động, thuế, chi phí tài chính và lợi nhuận thuần.
Nhưng “vững mạnh” nghĩa là gì? Lợi nhuận gộp bao nhiêu thì đủ? Điều này lại có sự khác biệt rất lớn giữa các ngành, và có thể cũng có khác biệt giữa các công ty trong cùng một ngành. Trong ngành kinh doanh tạp hóa, lợi nhuận gộp thường chiếm tỷ lệ phần trăm rất nhỏ trong doanh thu. Trong khi đó, ở ngành kinh doanh trang sức, lợi nhuận gộp lại thường chiếm tỷ lệ lớn hơn hẳn. Nếu tất cả các điều kiện khác đều như nhau, thì một doanh nghiệp có doanh thu lớn hơn có thể tỏa sáng với tỷ lệ lợi nhuận gộp nhỏ hơn một doanh nghiệp có doanh thu thấp hơn. (Đó là một trong những lý do khiến Wal-Mart có thể tính giá thấp đến vậy). Để đánh giá lợi nhuận gộp của một doanh nghiệp, bạn có thể so sánh với các chuẩn của ngành, đặc biệt là những doanh nghiệp có cùng quy mô. Bạn cũng có thể nhìn vào các xu hướng qua từng năm, kiểm tra xem liệu lợi nhuận gộp của bạn đi lên hay đi xuống. Nếu nó đang đi xuống, bạn có thể đặt câu hỏi tại sao. Có phải do giá thành sản xuất tăng? Hay vì công ty đang tiến hành chiết khấu cho các giao dịch mua hàng? Hiểu được tại sao lợi nhuận gộp thay đổi, nếu có, sẽ giúp các nhà quản lý tìm ra điểm cần tập trung chú ý.
Tuy nhiên, ở đây cũng vậy, bạn cần tinh ý dõi theo những định kiến có thể ẩn sau các con số. Lợi nhuận gộp có thể chịu ảnh hưởng rất lớn từ những quyết định về thời điểm ghi nhận doanh thu và quyết định về những khoản cần tính vào COGS. Giả sử bạn là giám đốc nhân sự của một công ty nghiên cứu thị trường, và bạn nhận thấy rằng lợi nhuận gộp đang có chiều hướng đi xuống. Bạn nhìn vào số liệu, thoạt trông có vẻ như chi phí dịch vụ đã tăng. Thế là bạn và các nhân viên của mình bắt đầu lên kế hoạch cắt giảm chi phí dịch vụ, thậm chí có thể sử dụng đến cả biện pháp cắt giảm biên chế. Nhưng khi nghiên cứu kỹ hơn, bạn phát hiện ra phần tiền lương vốn nằm trong chi phí hoạt động đã được chuyển gộp vào COGS. Do vậy, thực tế là chi phí dịch vụ không tăng, và việc cắt giảm biên chế sẽ là sai lầm. Lúc này bạn phải trao đổi với bộ phận kế toán. Tại sao họ lại chuyển tiền lương vào COGS? Tại sao họ không báo cho bạn biết? Nếu những khoản lương ấy vẫn được gộp vào COGS, thì có thể cần giảm lợi nhuận gộp mục tiêu của công ty. Không cần thêm một thay đổi nào nữa.
LỢI NHUẬN HOẠT ĐỘNG LÀ CHÌA KHÓA CHO SỰ VỮNG MẠNH
Lợi nhuận hoạt động − có được khi lấy lợi nhuận gộp trừ đi các chi phí
hoạt động hay SG&A, bao gồm các khoản khấu hao tài sản hữu hình và tài sản vô hình − còn được gọi tắt là EBIT (đọc là i-bit). EBIT là từ viết tắt của thu nhập trước thuế và lãi vay (earnings before interest and taxes). (Nên nhớ rằng thu nhập chỉ là một cách gọi khác của lợi nhuận). Những khoản chưa bị trừ khỏi doanh thu là lãi vay và thuế. Tại sao lại chưa? Vì lợi nhuận hoạt động là lợi nhuận mà doanh nghiệp có được từ hoạt động kinh doanh mà mình tham gia – tức, từ hoạt động. Các khoản thuế không thực sự liên quan đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Và chi phí lãi vay thì phụ thuộc vào việc doanh nghiệp lấy vốn từ vay nợ, hay từ vốn chủ sở hữu (chúng tôi sẽ giải thích rõ sự khác biệt này ở chương 11). Cơ cấu tài chính của doanh nghiệp không hề nói lên điều gì về hiệu quả của doanh nghiệp trên phương diện hoạt động.
Lợi nhuận hoạt động, hay EBIT, là một thước đo hiệu quả để đánh giá công tác quản lý doanh nghiệp. Khoản mục này được tất cả các bên liên quan theo dõi chặt chẽ, vì nó đo lường cầu tổng thể đối với sản phẩm − dịch vụ (doanh thu) của doanh nghiệp, lẫn hiệu suất cung cấp các sản phẩm − dịch vụ (chi phí) đó. Ngân hàng và các nhà đầu tư nhìn vào lợi nhuận hoạt động để đánh giá liệu doanh nghiệp có đủ khả năng trả nợ và mang lại lợi tức cho cổ đông không. Các nhà cung cấp thì nhìn vào đó để xem xét liệu doanh nghiệp có khả năng thanh toán hóa đơn không. (Tuy vậy, như chúng ta sẽ thấy ở phần sau, lợi nhuận hoạt động không phải là thước đo chuẩn nhất cho việc này). Các khách hàng lớn phân tích lợi nhuận hoạt động để xác định xem liệu doanh nghiệp có đang làm ăn hiệu quả và có khả năng duy trì ổn định không. Ngay cả những nhân viên khôn ngoan cũng kiểm tra lợi nhuận hoạt động. Lợi nhuận hoạt động ổn định và tăng trưởng sẽ gửi đi thông điệp rằng, các nhân viên có thể tiếp tục công việc và có cơ hội thăng tiến.
Lợi nhuận hoạt động hay EBIT
Lợi nhuận hoạt động (operating profit) có được khi lấy lợi nhuận gộp trừ đi chi phí hoạt động, bao gồm các khoản khấu hao tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Nói cách khác, nó thể hiện lợi nhuận được tạo ra từ hoạt động kinh doanh.
Tuy nhiên, hãy nhớ rằng những định kiến tiềm tàng cũng có thể tác động đến lợi nhuận hoạt động. Có bất kỳ khoản trả một lần nào không? Dòng khấu hao thì thế nào? Như chúng ta đã thấy, doanh nghiệp có thể điều chỉnh khấu hao để tác động đến lợi nhuận theo cách nào đó. Từng có thời gian, các nhà phân tích của Phố Wall theo dõi sát sao lợi nhuận hoạt động − hay EBIT − của các doanh nghiệp. Nhưng các doanh nghiệp mà về sau bị lộ tẩy là đã
gian lận hóa ra đều dàn cảnh với các số liệu khấu hao (hãy nhớ lại câu chuyện của WMI), bởi vậy các số liệu EBIT của họ đều đáng ngờ. Chẳng bao lâu sau, Phố Wall bắt đầu tập trung vào một thông số khác − EBITDA (đọc là i-bit-đa), hay thu nhập trước lãi vay, thuế, khấu hao tài sản hữu hình và tài sản vô hình (earnings before interest, taxes, depreciation, and amortization). Một số ý kiến cho rằng EBITDA là thước đo tốt hơn để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, vì nó bỏ qua các khoản chi phí phi tiền mặt, chẳng hạn như mọi khoản khấu hao.
LỢI NHUẬN THUẦN VÀ CÁCH ĐIỀU CHỈNH
Cuối cùng, chúng ta cũng tiến đến dòng dưới cùng. Lợi nhuận thuần. Khoản mục này thường nằm ở dòng cuối cùng trên báo cáo kết quả kinh doanh. Lợi nhuận thuần là những gì còn lại sau khi mọi thứ được trừ đi − COGS hoặc COS, chi phí hoạt động, thuế, lãi vay, các khoản phí trả một lần và các chi phí phi tiền mặt như khấu hao tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Khi có ai đó hỏi “Kết quả kinh doanh thế nào?” thì đó hầu như luôn là câu hỏi về lợi nhuận thuần. Một vài số liệu được dùng để đánh giá doanh nghiệp, chẳng hạn như thu nhập trên cổ phần và tỷ suất giá cả/lợi nhuận, đều được tính dựa trên lợi nhuận thuần. Đúng là rất lạ khi người ta không đơn giản gọi là thu nhập trên cổ phần và tỷ suất giá cả/lợi nhuận. Nhưng người ta không gọi như thế.
Sẽ thế nào nếu lợi nhuận thuần của doanh nghiệp thấp hơn mức dự trù? Ngoài cách chơi trò tiểu xảo với sổ sách, chỉ có ba cách khắc phục khả dĩ cho khả năng sinh lời thấp. Một là, doanh nghiệp gia tăng những giao dịch bán hàng sinh lợi. Phương án này gần như luôn đòi hỏi nhiều thời gian. Bạn phải tìm được thị trường mới hoặc khách hàng tiềm năng mới, nỗ lực suốt các chu kỳ bán hàng, v.v… Hai là, doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm và điều hành hiệu quả hơn − tức là, giảm COGS. Cách này cũng tốn thời gian không kém: Bạn cần nghiên cứu quá trình sản xuất, tìm ra những điểm kém hiệu quả, và tiến hành các thay đổi. Cách thứ ba là cắt giảm chi phí hoạt động, gần như đồng nghĩa với việc cắt giảm số lượng nhân viên. Thường thì đây là phương pháp tức thời duy nhất. Đó là lý do tại sao nhiều CEO khi tiếp quản những công ty gặp khó khăn đều bắt đầu bằng việc cắt giảm biên chế ở những bộ phận bị bội chi ngân sách. Việc đó nhanh chóng làm thu nhập trông ổn hơn.
Tất nhiên, biện pháp cắt giảm nhân công có thể phản tác dụng. Tinh thần làm việc sẽ sa sút. Những người giỏi mà CEO muốn giữ có thể bắt đầu muốn đi tìm việc ở nơi khác. Mà đó cũng không phải là hiểm họa duy nhất. Chẳng
hạn, “Al Cưa Xích” đã từng nhiều lần dùng chiến lược thải hồi nhân viên để bơm phồng thu nhập của những công ty mà ông này tiếp quản, và Phố Wall thường tưởng thưởng cho ông ta vì việc đó. Nhưng chiến lược đó không còn hiệu quả khi ông ta đến Sunbeam. Vâng, đúng là ông ta đã cắt giảm nhân lực, và đúng là thu nhập có tăng. Thực tế thì Phố Wall đã nồng nhiệt với việc lợi nhuận của công ty tăng lên đến độ cổ phiếu của Sunbeam được đẩy lên cao. Nhưng chiến lược của Dunlap là luôn phải bán công ty ở mức có lợi nhuận – và lúc này, khi cổ phiếu của công ty có giá cao, công trở nên quá đắt đỏ đến độ các khách hàng tiềm năng khó lòng mua lại. Khi không ai mua lại, Sunbeam buộc phải lê lết tồn tại cho đến khi mọi sự lộ rõ rành rành và “Al Cưa Xích” bị hội đồng quản trị sa thải.
Lợi nhuận thuần
Lợi nhuận thuần (net profit) là dòng cuối cùng của báo cáo kết quả kinh doanh: là những gì còn lại sau khi trừ khỏi doanh thu tất cả giá thành và chi phí. Đó là lợi nhuận hoạt động sau khi trừ đi lãi vay, thuế, các khoản trả một lần và bất kỳ chi phí nào còn lại trong chi phí hoạt động.
Bài học ở đây là gì? Đối với hầu hết các doanh nghiệp, biện pháp quản lý với tầm nhìn dài hạn, và tập trung gia tăng những giao dịch bán hàng có lợi nhuận, cũng như cắt giảm chi phí sẽ hiệu quả hơn. Dĩ nhiên, chi phí hoạt động cũng phải cắt giảm. Nhưng nếu đó là mục tiêu duy nhất mà bạn quan tâm, thì có lẽ bạn chỉ đang cố trì hoãn ngày phán quyết mà thôi.
HỘP CÔNG CỤ
HIỂU RÕ CHÊNH LỆCH
Chênh lệch đơn giản có nghĩa là sự khác biệt. Đó có thể là sự chênh lệch giữa ngân sách và thực tế trong một tháng hay một năm, giữa thực tế tháng này với thực tế tháng trước, v.v… Nó có thể xuất hiện dưới dạng số lượng hoặc tỷ lệ phần trăm, hoặc cả hai. Con số tỷ lệ phần trăm thường hữu dụng hơn, vì chúng mang lại cơ sở so sánh dễ dàng và nhanh chóng giữa hai con số.
Vấn đề nan giải duy nhất với chênh lệch là ở việc xác định xem liệu chênh lệch đó là tốt hay xấu. Ví dụ, doanh thu lớn hơn kỳ vọng là tốt, trong khi chi phí lớn hơn kỳ vọng lại là xấu. Đôi khi, giới tài chính tỏ ra giúp đỡ, và cho bạn biết bằng một lưu ý nhỏ rằng khi chênh lệch được đặt trong dấu ngoặc hay chênh lệch có dấu trừ đứng trước thì đó là chênh lệch bất lợi. Nhưng thường thì bạn phải tự tìm hiểu. Chúng tôi khuyên bạn nên tự tính toán, tìm xem những chênh lệch được cho biết là tốt hay xấu, rồi kiểm tra
xem chúng được thể hiện như thế nào. Hãy đảm bảo rằng bạn thực hiện các phép tính cho cả hai khoản doanh thu và chi phí. Đôi khi dấu ngoặc đơn hay dấu trừ chỉ cho ta biết chênh lệch trong phép toán, chứ không chỉ ra sự tốt xấu. Trong trường hợp đó, dấu ngoặc ở dòng doanh thu có khi là tốt, còn dấu ngoặc ở dòng chi phí có thể mang ý nghĩa xấu.
LÀM THẾ NÀO ĐỂ THỰC SỰ GIA TĂNG DOANH THU
Đừng cố thử thủ thuật dưới đây trong công ty của bạn: đó là một kiểu gian lận. Tuy nhiên, ta có thể nhìn vào đó và biết một số công ty có thể đi quá xa đến đâu để tăng doanh thu và lợi nhuận trong báo cáo.
Đó là Adelphia, công ty truyền hình cáp lớn bị phá sản một vài năm trước. Adelphia mua một số lượng lớn các hộp thu sóng truyền hình cáp để lắp đặt tại nhà cho khách hàng. Mỗi hộp thu sóng có giá 500 đô-la. Có thời điểm, một người ở Adelphia đã nảy ra sáng kiến: tính phí marketing đối với nhà cung cấp hộp thu sóng truyền hình cáp vì Adelphia đã dùng hộp truyền hình cáp của họ, rồi cho phép nhà cung cấp nâng giá thiết bị lên mức đủ để bù phí marketing. Thế là, Adelphia bắt đầu tính phí 26 đô-la mỗi hộp, và nhà cung cấp cũng nâng giá theo mức đó. Thậm chí chẳng cần phải trao đổi bằng tiền mặt: khi hóa đơn của nhà cung cấp được chuyển đến, với giá 526 đô-la mỗi thiết bị, Adelphia chỉ đơn giản là giảm 26 đô-la cho cái mà họ gọi là chi phí marketing, và họ phải chi tiền túi cho chính mức phí đó. Trong khi đó, các chi phí được định khoản là dùng vào chiến dịch marketing − thực sự thì hoàn toàn không có chiến dịch nào, theo những gì Adelphia thừa nhận − lại được khấu hao trong nhiều năm.
Thế là toàn bộ giao dịch chỉ tồn tạo trên giấy tờ. Nhưng chỉ vậy mà Adelphia đã có thể kết sổ thêm hàng triệu đô-la doanh thu mà không cần phải làm gì. Vì các chi phí được dẫn ra đã được khấu hao theo thời gian, nên gần như toàn bộ 26 đô-la thu được từ mỗi hộp sẽ đi thẳng xuống dòng kết quả kinh doanh cuối cùng của Adelphia. Tác động này đã thổi thu nhập của công ty từ 37 triệu đô-la năm 2000 lên 54 triệu đô-la năm 2001.
Đương nhiên, chúng tôi không nghĩ, bạn hay ai khác trong công ty của bạn sẽ thử những việc kiểu như thế. Hành vi gian lận kiểu này không phổ biến lắm. Nếu bạn phát hiện thấy một hành vi nào kiểu như thế, hãy hô hoán thật to. Nghệ thuật tài chính không mở rộng đến việc có thể tạo ra doanh thu và lợi nhuận từ không khí. Đồng thời, hãy tỉnh táo trước những chiêu trò kế toán muôn hình vạn trạng. Cuốn sách này sẽ không trang bị cho bạn trở thành một kiểm toán viên tòa án, nhưng nó sẽ giúp bạn trở thành một nhà quản lý thông minh về tài chính, có khả năng đặt ít nhất một hoặc hai câu
hỏi.
PHẦN III
BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN - NƠI VÉN MỞ NHIỀU ĐIỀU NHẤT
9. HIỂU NHỮNG ĐIỀU CĂN BẢN VỀ BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN
Ở các báo cáo tài chính có một điều khó hiểu mà có lẽ bạn cũng đã nhận ra.
Nếu trao cho một nhà quản lý giàu kinh nghiệm một tập tài liệu tài chính, thì thứ đầu tiên mà ông ta sẽ tìm đến là báo cáo kết quả kinh doanh. Hầu hết các nhà quản lý đều giữ − hoặc đều muốn giữ − “trọng trách lỗ lãi”. Họ có trách nhiệm “làm đẹp” các khoản lợi nhuận khác nhau. Họ biết, báo cáo kết quả kinh doanh là nơi mà cuối cùng hiệu quả công việc của họ sẽ được ghi lại. Bởi vậy, họ luôn nhìn vào nó trước nhất.
Bây giờ, ta hãy thử đưa tập tài liệu tài chính tương tự cho một chuyên viên ngân hàng, hay một nhà đầu tư có kinh nghiệm ở Phố Wall, hay một thành viên kỳ cực có chân trong hội đồng quản trị. Báo cáo đầu tiên mà những người này luôn tìm xem sẽ là bảng cân đối kế toán. Thực tế là họ sẽ săm soi nó một lúc lâu. Sau đó, họ mới bắt đầu lật giở các trang khác, kiểm tra báo cáo kết quả kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ − nhưng họ luôn trở lại bảng cân đối kế toán.
Tại sao các nhà quản lý không làm như các chuyên gia? Tại sao họ chỉ giới hạn sự ý của mình đến bản báo cáo kết quả kinh doanh? Chúng tôi cho rằng có ba lý do như sau:
Bảng cân đối kế toán có phần hơi khó hiểu so với báo cáo kết quả kinh doanh. Báo cáo kết quả kinh doanh dù gì cũng khá trực quan. Nhưng bảng cân đối kế toán thì không − chí ít là không dễ để bạn hiểu được những điều căn bản.
Quá trình lập dự toán của hầu hết các doanh nghiệp đều tập trung vào doanh thu và chi phí. Nói cách khác, các hạng mục ngân sách đều phù hợp với báo cáo kết quả kinh doanh. Bạn không thể trở thành nhà quản lý mà không biết chút gì về công tác lập dự toán − điều này tự động nói lên rằng, có rất nhiều dòng khác trên báo cáo kết quả kinh doanh quen thuộc với bạn. Trái ngược với điều này, các dữ liệu trên bảng cân đối kế toán hiếm khi có trong bảng dự toán của vị giám đốc điều hành (dù chắc chắn bộ phận tài chính có lập dự toán cho các khoản trên bảng cân đối kế toán).
Kiểm soát bảng cân đối kế toán (hay còn gọi là bảng cân đối thu chi) đòi hỏi những hiểu biết tài chính sâu hơn so với việc kiểm soát báo cáo kết quả kinh doanh. Bạn không chỉ buộc phải hiểu các hạng mục khác
nhau cho thấy điều gì, mà còn phải biết chúng phù hợp với nhau như thế nào. Bạn cũng phải hiểu những thay đổi trên bảng cân đối kế toán ảnh hưởng ra sao đến các báo cáo tài chính khác, và ngược lại.
Chúng tôi đoán là bạn có phần e dè khi tìm hiểu bảng cân đối kế toán. Nhưng hãy nhớ: ở đây chúng tôi đang tập trung vào trí tuệ tài chính − tức là hiểu các kết quả tài chính được đo lường như thế nào, và bạn − với tư cách một nhà quản lý, nhân viên hoặc một nhà lãnh đạo − có thể làm gì để cải thiện kết quả. Chúng tôi sẽ không đi vào các yếu tố chuyên sâu của bảng cân đối kế toán, mà chỉ nói về những điều mà bạn cần biết để đánh giá đúng nghệ thuật của loại báo cáo này, và tiến hành các phân tích với sự hỗ trợ từ nó.
BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN CHO BIẾT NGAY LÚC NÀY MỌI THỨ ĐANG Ở ĐÂU
Vậy thế nào là bảng cân đối kế toán? Bảng cân đối kế toán chẳng là gì khác ngoài một báo cáo về những gì doanh nghiệp có và nợ tại một thời điểm cụ thể. Con số chênh lệch giữa tài sản và nợ phải trả của doanh nghiệp là vốn chủ sở hữu (equity). Cùng với mục tiêu gia tăng khả năng sinh lời, doanh nghiệp còn có một mục tiêu khác nữa là gia tăng vốn chủ sở hữu. Và rất tình cờ, hai mục tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau.
Vốn chủ sỡ hữu
Vốn chủ sở hữu (equity) là “phần góp vốn” của các cổ đông trong doanh nghiệp, theo cách đo lường của các quy tắc kế toán. Nó còn được gọi là giá trị sổ sách của doanh nghiệp. Trên phương diện kế toán, vốn chủ sở hữu luôn bằng tài sản trừ đi nợ phải trả; nó cũng là tổng số tiền mà các cổ đông bỏ ra cộng với bất kỳ khoản lợi nhuận nào mà doanh nghiệp thu được sau khi trừ hết các khoản lợi tức chia cho cổ đông. Dù sao thì đây cũng là công thức kế toán; và chớ quên rằng giá trị thật sự của cổ phiếu doanh nghiệp là mức giá bất kỳ mà người mua đồng ý bỏ ra.
Vậy, mối quan hệ ở đây là gì? Hãy xem xét một trường hợp tương tự. Khả năng sinh lời giống như điểm số mà bạn nhận được sau khóa học ở trường đại học. Bạn bỏ ra một học kỳ viết luận và thi cử. Cuối học kỳ, thầy cô giáo kiểm tra kết quả học tập của bạn, và cho bạn điểm A- hoặc C+, hay một số điểm bất kỳ nào đó. Vốn chủ sở hữu giống như tổng điểm trung bình (GPA: grade point average). GPA luôn phản ánh kết quả học tập tích lũy của bạn, nhưng chỉ tại một thời điểm nhất định. Bất kỳ một điểm số nào cũng ảnh hưởng đến nó, nhưng không thể quyết định được nó. Báo cáo kết quả kinh doanh tác động đến bảng cân đối theo cách gần như tương tự với cách
điểm số ảnh hưởng đến GPA. Tạo ra lợi nhuận trong một giai đoạn cụ thể, và số vốn chủ sở hữu trên bảng cân đối kế toán của bạn sẽ tăng. Khi bạn thua lỗ, nó sẽ giảm. Theo thời gian, khoản mục vốn chủ sở hữu trên bảng cân đối kế toán sẽ cho ta thấy sự tích lũy lợi nhuận hoặc thua lỗ còn lại của doanh nghiệp; dòng này được gọi là thu nhập (khoản lỗ) giữ lại, hoặc đôi khi là thu nhập (thâm hụt) tích lũy.
Tuy nhiên, ở đây, hiểu biết về bảng cân đối kế toán cũng có nghĩa là hiểu về mọi giả định, quyết định và ước tính lồng trong nó. Cũng như báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán, trên nhiều phương diện, là một tác phẩm nghệ thuật, chứ không đơn thuần là một công trình tính toán.
CÁ NHÂN VÀ DOANH NGHIỆP
Bởi lẽ bảng cân đối kế toán rất đỗi quan trọng, nên chúng tôi muốn bắt đầu với một số bài học đơn giản. Hãy đồng cam cộng khổ cùng chúng tôi – điều quan trọng là ta phải biết bò trước khi tập đi, đặc biệt là trong trường hợp này.
Hãy bắt đầu bằng việc xem xét tình hình tài chính, hay giá trị tài chính, của một cá nhân tại một thời điểm bất kỳ. Cộng tất cả những gì sở hữu, rồi trừ đi mọi khoản nợ, và bạn sẽ thu được giá trị thuần của người đó:
có − nợ = giá trị thuần
Một cách phát biểu khác cho công thức trên là:
có = nợ + giá trị thuần
Đối với một cá nhân, hạng mục sở hữu có thể bao gồm tiền mặt trong ngân hàng, những món tài sản giá trị như nhà ở, ô tô và tất cả các tài sản khác mà người đó nắm quyền sở hữu. Nó cũng có thể bao gồm các tài sản tài chính như cổ phiếu và trái phiếu, hoặc tài khoản hưu trí 401 (k). Hạng mục “nợ” bao gồm thế chấp mua nhà, tiền vay mua xe, nợ thẻ tín dụng và một khoản nợ bất kỳ nào khác. Xin hãy lưu ý, lúc này chúng tôi đang cố tránh câu hỏi phải tính toán các con số trên như thế nào. Giá trị của căn nhà là gì – là giá trị người ta đã bỏ ra để mua nó, hay giá trị mà hiện tại nó mang lại? Còn ô tô và tivi thì sao? Bạn có thể thấy nghệ thuật tài chính đang dáo dác đâu đây − nhưng ta sẽ nói kỹ hơn về nó vào lúc khác.
Bây giờ, hãy chuyển từ cá nhân sang doanh nghiệp. Vẫn là những khái niệm đó, chỉ có ngôn từ khác đi:
Những gì một doanh nghiệp có được gọi là tài sản.
Những gì một doanh nghiệp nợ được gọi là nợ phải trả.
Giá trị của doanh nghiệp được gọi là vốn chủ sở hữu hoặc vốn cổ đông. Và ta có phương trình cơ bản như sau:
Tài sản − nợ phải trả = vốn chủ sở hữu
hoặc
Tài sản = nợ phải trả + vốn chủ sở hữu
Nếu từng học bất kỳ một khóa kế toán nào, có lẽ bạn đã được học những công thức này. Có lẽ các giảng viên đã gọi nó là phương trình kế toán cơ bản. Và có lẽ bạn cũng biết, công thức thứ hai thể hiện hai bên của bảng cân đối kế toán: một bên là tài sản, bên kia là nợ phải trả và vốn chủ sở hữu. Tổng bên này luôn bằng tổng bên kia; bảng cân đối kế toán luôn cân đối. Trước khi kết thúc Phần III này, bạn sẽ hiểu lý do tại sao.
ĐỌC BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN
Tuy vậy, trước tiên, ta phải tìm được một bảng cân đối kế toán, bất kể đó là bảng cân đối kế toán của công ty bạn, hay bảng cân đối kế toán trong một báo cáo thường niên nào đó. (Hoặc bạn có thể xem mẫu bảng cân đối kế toán trong phần phụ lục). Vì bảng cân đối kế toán thể hiện tình hình tài chính của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định, nên nó cần ghi rõ ngày tháng cụ thể ở trên đầu. Thường thì đó là ngày cuối tháng, cuối quý, cuối năm hoặc cuối năm tài khóa. Khi xem cùng lúc nhiều báo cáo tài chính khác nhau, thường bạn sẽ muốn xem báo cáo kết quả kinh doanh của một tháng, một quý hoặc một năm cùng với bảng đối kế toán ở cuối kỳ kế toán đó. Không giống như báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toàn gần như luôn được lập cho toàn bộ tổ chức. Cũng có khi một công ty lớn lập bảng cân đối kế toán phụ cho các chi nhánh, nhưng họ hiếm khi làm thế đối cho một cơ sở. Như chúng ta sẽ thấy, các chuyên gia kế toán phải đưa ra các dự toán trong bảng cân đối kế toán, tương tự như trong báo cáo kết quả kinh doanh. Bạn còn nhớ công ty chuyển phát mà chúng ta đã thảo luận không? Cách thức chúng ta khấu hao chiếc xe tải không chỉ ảnh hưởng đến báo cáo kết quả kinh doanh mà còn ảnh hưởng cả giá trị tài sản trên bảng cân đối kế toán. Điều đó chỉ ra rằng các giả định và định kiến trong báo cáo kết quả kinh doanh sẽ đổ vào bảng cân đối kế toán theo một cách nào đó.
Bảng cân đối kế toán có hai dạng điển hình. Kiểu truyền thống thể hiện tài sản ở bên trái, và phần nợ cùng vốn chủ sở hữu ở bên phải, với các khoản nợ nằm trên. Dạng cách tân hơn thì đặt tài sản trên cùng, nợ ở giữa và dưới cùng là vốn chủ sở hữu. Nhưng dù là dạng nào, bảng cân đối kế toán vẫn giống nhau: tài sản phải bằng nợ phải trả cộng với vốn chủ sở hữu. (Ở các tổ
chức phi lợi nhuận, vốn chủ sở hữu đôi khi được gọi là “tài sản thuần”). Thường thì bảng cân đối kế toán đưa ra các con số so sánh cho, chẳng hạn, ngày 31 tháng Mười hai của năm gần đây nhất với ngày 31 tháng Mười hai của năm trước đó. Hãy kiểm tra các tiêu đề cột để biết thời điểm đang được so sánh.
Năm tài khóa
Năm tài khóa (fiscal year) là khoảng thời gian 12 tháng bất kỳ mà một doanh nghiệp dùng vào các mục đích kế toán. Nhiều doanh nghiệp áp dụng năm tài khóa theo lịch, nhưng một số lại dùng các khoảng thời gian khác (chẳng hạn, từ ngày 1 tháng Mười đến ngày 30 tháng Chín). Một số nhà bán lẻ dùng một ngày cuối tuần cụ thể, chẳng hạn như ngày Chủ nhật cuối cùng trong năm, để đánh dấu kết thúc năm tài khóa. Bạn phải biết năm tài khóa của doanh nghiệp để hiểu rõ thông tin mà bạn đang theo dõi cập nhật đến mức độ nào.
Cũng như với báo cáo kết quả kinh doanh, một số tổ chức cũng sẽ có các khoản mục bất thường trên bảng cân đối kế toán, chúng tôi sẽ không thảo luận về các khoản mục đó trong cuốn sách này. Hãy nhớ rằng, nhiều khoản như vậy có thể được giải thích rõ trong phần chú thích. Trên thực tế, bảng cân đối kế toán khét tiếng cũng vì các chú thích. Báo cáo thường niên của Tập đoàn Ford Motor có đến 30 trang dày đặc chú thích, chủ yếu trong số đó là chú thích cho bảng cân đối kế toán. Thật vậy, các doanh nghiệp thường có tuyên bố từ chối trách nhiệm ở phần chú thích, nêu rõ quan điểm về nghệ thuật tài chính được sử dụng. Chẳng hạn, Ford có nói:
Việc sử dụng các ước tính
Các báo cáo tài chính được lập ra theo bộ tiêu chuẩn tắc kế toán được thừa nhận phổ quát tại Mỹ (GAAP). Ban quản lý buộc phải đưa ra các ước tính và giả định có ảnh hưởng đến các con số và kết quả công bố trong báo cáo. Kết quả thực tế có thể khác những giả định này. Các ước tính và các giả định được xem xét định kỳ, và tác động của bất kỳ điều chỉnh quan trọng nào cũng được phản ánh trong các báo cáo tài chính của những giai đoạn mà việc hiệu chỉnh được cho là cần thiết.
Nếu các chú thích không mang lại sự sáng sủa cần thiết, bạn có thể để khoản mục đó lại cho các chuyên gia tài chính. (Dù vậy, nếu điều bạn thắc mắc quan trọng, thì bạn nên tham vấn bộ phận kế toán về khoản mục đó và các số liệu đi kèm).
Vì bảng cân đối kế toán vẫn còn khá xa lạ đối với hầu hết các nhà quản
lý, nên chúng tôi muốn cùng bạn tìm hiểu qua các khoản mục phổ biến nhất. Một số ban đầu có thể trông lạ lẫm, nhưng chớ lo: bạn chỉ cần chú ý đến sự khác biệt giữa “tài sản” và “nợ phải trả”. Và cũng như với báo cáo kết quả kinh doanh, chúng ta sẽ dừng lại lâu hơn ở những khoản mục dễ điều chỉnh nhất.
10. TÀI SẢN
Thêm các ước tính và giả định (Trừ tiền mặt)
Tài sản là những gì doanh nghiệp sở hữu, gồm tiền mặt và chứng khoán, máy móc và thiết bị, nhà xưởng và đất đai, hay bất kỳ thứ gì. Tài sản ngắn hạn (current asset), thường xuất hiện trước nhất trên bảng cân đối kế toán, bao gồm bất kỳ thứ gì có thể chuyển đổi thành tiền mặt trong thời gian lâu nhất là một năm. Tài sản dài hạn (long-term asset) là những tài sản có tuổi đời sử dụng lâu hơn một năm.
CÁC LOẠI TÀI SẢN
Nằm trong những hạng mục tổng quát như vậy tất nhiên là rất nhiều khoản mục. Chúng tôi sẽ liệt kê ra đây những khoản mục phổ biến nhất − những khoản mục xuất hiện trong bảng cân đối kế toán của gần như mọi doanh nghiệp.
Tiền và các khoản tương đương tiền
Đây là thứ dễ tác động đến sức khỏe doanh nghiệp. Tiền gửi ngân hàng. Tiền nằm trong các tài khoản trên thị trường tiền tệ. Cả cổ phiếu và trái phiếu mua bán trên thị trường − loại mà khi cần, có thể chuyển đổi thành tiền trong chưa đầy một ngày. Hạng mục này còn có một cái tên khác là tài sản lưu động (liquid asset). Đây là một trong số ít những khoản mục không phụ thuộc vào quyền tự quyết của kế toán viên. Khi Microsoft cho biết mình có 56 tỷ đô-la, hay bất kể con số mới nhất nào, tiền mặt và các khoản đầu tư ngắn hạn, thì điều đó có nghĩa là họ thật sự có chừng đó tiền trong tài khoản ngân hàng, các quỹ tiền mặt và chứng khoán giao dịch công khai. Dĩ nhiên, các doanh nghiệp cũng có thể khai khống. Công ty Parmalat khổng lồ của Ý đã báo cáo khống trên bảng cân đối kế toán rằng họ có hàng tỷ đô-la trong một tài khoản ở Ngân hàng Mỹ.
Các khoản phải thu, hay A/R (accounts receivable)
Đây là số tiền mà khách hàng nợ doanh nghiệp. Hãy nhớ, doanh thu là một khoản được hứa thanh toán, nên các khoản phải thu bao gồm tất cả những hứa hẹn thanh toán chưa được thu về. Tại sao khoản này cũng là một tài sản? Vì tất cả, hoặc hầu hết, các cam kết này sẽ sớm chuyển đổi thành tiền mặt và sẽ sớm thuộc về doanh nghiệp. Nó giống như một khoản mà doanh nghiệp cho khách hàng vay − và doanh nghiệp sở hữu các khoản nợ phải trả của khách hàng. Các khoản phải thu là khoản mục mà nhà quản lý
cần theo dõi sát sao, đặc biệt là khi nhà đầu tư, nhà phân tích và các chủ nợ có thể cũng đang theo dõi chúng. Chúng tôi sẽ nói thêm về phương pháp quản lý các khoản phải thu trong Phần VII, khi bàn về vốn lưu động (working capital).
Đôi khi bảng cân đối cũng có một mục gọi là “dự phòng nợ xấu,” được trừ vào các khoản phải thu. Đây là ước tính của kế toán viên − thường là dựa trên kinh nghiệm đã có − về khoản nợ của những khách hàng không thanh toán hóa đơn. Ở nhiều doanh nghiệp, việc trừ đi một khoản dự phòng nợ xấu cho ta thấy một diện mạo chính xác hơn về giá trị của các khoản phải thu. Nhưng cũng cần lưu ý: các khoản dự phòng đó chứa đầy các ước tính. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp còn sử dụng khoản dự phòng nợ xấu như một công cụ để “chuốt” thu nhập. Khi tăng khoản dự phòng nợ xấu trên bảng cân đối kế toán, bạn sẽ phải ghi nhận một khoản phải chi trừ vào lợi nhuận trên báo cáo kết quả kinh doanh. Việc làm này làm giảm con số thu nhập trên báo cáo. Tương tự như vậy, nếu bạn kê giảm khoản dự phòng nợ xấu, thì điều chỉnh này sẽ làm tăng lợi nhuận trên báo cáo kết quả kinh doanh. Vì khoản dự phòng nợ xấu luôn là ước tính, nên ở đây luôn có chỗ cho phán đoán chủ quan.
“Chuốt” thu nhập
Bạn ắt sẽ cho rằng Phố Wall thích những cú hích lớn trong lợi nhuận của doanh nghiệp − để đồng nghĩa với việc sẽ có thêm lợi tức cho các cổ đông, đúng không? Nhưng nếu cú hích ấy xảy đến ngoài dự đoán và khó lý giải − và đặc biệt là nếu nó khiến Phố Wall bất ngờ, thì các nhà đầu tư nhiều khả năng sẽ phản ứng tiêu cực, xem đó như một dấu hiệu cảnh bảo rằng ban quản lý mất khả năng kiểm soát tình hình của doanh nghiệp. Bởi lẽ đó, các doanh nghiệp mới muốn “chuốt” lợi nhuận, để duy trì mức tăng trưởng ổn định và trong tầm dự đoán.
Hàng tồn kho
Các công ty dịch vụ thường không có hàng tồn kho, nhưng gần như tất cả các loại hình doanh nghiệp khác − công ty sản xuất, thương mại, bán lẻ − thì đều có. Trong con số tồn kho có một phần là giá trị của những sản phẩm sẵn sàng để bán. Nhóm này được gọi là tồn kho thành phẩm (finished product). Nhóm thứ hai, thường chỉ có ở các công ty sản xuất, là giá trị của những sản phẩm đang được sản xuất. Kế toán viên gọi chúng là tồn kho hàng đang sản xuất, hay tồn kho WIP (work-in-process). Và cuối cùng, đương nhiên, có cả tồn kho những nguyên vật liệu thô sẽ được sử dụng trong sản xuất. Lùi xa một chút, đó chính là tồn kho nguyên vật liệu thô.
Kế toán viên có thể (và quả thật!) dành nhiều ngày nói không dứt về những cách thức định giá hàng tồn kho. Chúng tôi định sẽ không đề cập gì, vì nó không thật sự ảnh hưởng đến công việc của đa số các nhà quản lý. (Tất nhiên, nếu công việc của bạn là quản lý kho, thì cuộc thảo luận của các kế toán viên sẽ ảnh hưởng lớn đến bạn − và nếu thế thì bạn nên tìm một cuốn sách bàn về vấn đề đó). Dù vậy, các phương thức định giá hàng tồn kho khác nhau có thể làm thay đổi đáng kể phía tài sản của bảng cân đối kế toán. Nếu doanh nghiệp thay đổi phương thức định giá hàng tồn trong suốt một năm nhất định, thì việc đó cần được ghi lại trong phần chú thích của bảng cân đối kế toán. Nhiều doanh nghiệp trình bày tỉ mỉ cách họ xác định giá trị hàng tồn kho trong phần chú thích, như tập đoàn Barnes & Noble trong báo cáo thường niên năm 2004:
Hàng tồn kho được ghi nhận thấp hơn giá thành lẫn giá thị trường. Giá thành được xác định chủ yếu bằng phương pháp kiểm kê bán lẻ trên cơ sở nhập trước xuất trước (FIFO) đối với 92% hàng tồn kho của công ty tính đến ngày 29 tháng Một năm 2005 và 90% hàng tồn kho tính đến ngày 31 tháng Một năm 2004, và được ghi nhận dựa trên phương pháp giá thành bình quân. Số hàng tồn kho còn lại được định giá bằng công thức nhập sau xuất trước (LIFO).
Tuy vậy, những gì bạn cần nhớ ở vai trò nhà quản lý là tất cả hàng tồn kho đều tốn kém. Trên thực tế, đây là một cách giúp doanh nghiệp cải thiện tình hình tiền mặt của mình. Nếu các yếu tố khác không đổi, việc giảm lượng hàng tồn kho sẽ giúp bạn nâng mức tiền mặt của công ty mình. Các doanh nghiệp luôn muốn giữ hàng tồn kho ở mức thấp nhất có thể, miễn là cung cấp đủ nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất và đủ sản phẩm khi khách hàng đặt mua. Chúng tôi sẽ trở lại với chủ đề này ở phần sau của cuốn.
Đất đai, nhà xưởng và thiết bị (PPE)
Dòng này trên bảng cân đối kế toán bao gồm nhà xưởng, máy móc, xe tải, máy tính và tất cả những tài sản vật chất khác mà doanh nghiệp sở hữu. Số liệu PPE (Property, Plant, and Equipment) là tổng số tiền doanh nghiệp bỏ ra để mua những cơ sở vật chất và trang thiết bị cần thiết cho công tác vận hành doanh nghiệp. Lưu ý rằng chi phí liên quan ở đây là giá mua (purchase price). Nếu không đánh giá liên tục, sẽ không ai thực sự biết bất động sản và thiết bị của doanh nghiệp có giá bao nhiêu trên thị trường mở. Bởi lẽ đó, trên thực tế, các kế toán viên, vốn bị chi phối bởi các nguyên tắc thận trọng, thường nói: “Cứ sử dụng những gì chúng ta biết rõ, đó là chi phí mua tài sản.”
Một lý do khác cho việc sử dụng giá mua là để tránh tạo thêm cơ hội lồng định kiến vào số liệu. Giả sử một tài sản − như đất đai chẳng hạn − quả thật đã tăng giá trị. Nếu muốn “đánh dấu tăng trưởng” giá trị hiện thời của nó trên bảng cân đối kế toán, chúng ta sẽ phải ghi nhận một khoản lợi nhuận trên báo cáo kết quả kinh doanh. Nhưng khoản lợi nhuận đó sẽ không chỉ đơn thuần dựa trên ý kiến của một ai đó về giá trị của mảnh đất ngày hôm nay. Đó không phải là một ý hay. Một số doanh nghiệp − hãy nhớ lại trường hợp Enron − đã đi quá xa khi dựng lên những vỏ bọc, đặt dưới sự sở hữu của các nhà điều hành cấp cao hoặc các thành viên khác trong công ty, và rồi bán tài sản cho những vỏ bọc đó. Việc đó cho phép họ ghi nhận lợi nhuận, cứ như thể họ đã thực sự bán các tài sản. Nhưng đó không phải là kiểu lợi nhuận mà các nhà đầu tư hoặc Ủy ban Chứng khoán Mỹ thích nhìn thấy.
Tất nhiên, việc các doanh nghiệp phải dựa trên giá mua để định giá tài sản có thể tạo ra một số điểm hết sức bất thường. Cứ thử tưởng tượng, bạn làm việc cho một công ty giải trí 30 năm trước mua được một số đất đai quanh thành phố Los Angeles với giá 500.000 đô-la. Đến nay số đất đai đó có thể trị giá 5 triệu đô-la − nhưng nó sẽ vẫn được định giá là 500.000 đô-la trên bảng cân đối kế toán. Các nhà đầu tư sành sỏi thích sục sạo quanh bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, với hi vọng tìm thấy những “tài sản bị định giá thấp” kiểu như thế.
Trừ: khấu hao lũy kế
Đất đai sẽ không bị hao mòn, nên kế toán viên không ghi nhận khoản khấu hao hàng năm cho tài sản này. Nhưng nhà xưởng và thiết bị thì có. Dù vậy, điểm mấu chốt của công tác khấu hao kế toán lại không phải là ước tính xem ngay tại thời điểm hiện tại, nhà xưởng và thiết bị có giá trị bao nhiêu; mà quan trọng là phải phân bổ nguồn vốn đầu tư cho tài sản đó xuyên suốt thời gian doanh nghiệp sử dụng nó để tạo ra doanh thu và lợi nhuận (hãy nhớ lại nguyên tắc phù hợp ở chương 4). Khấu hao là một cách để đảm bảo rằng báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh chính xác chi phí sản xuất, dịch vụ thực tế. Để tính được khấu hao lũy kế, các kế toán viên chỉ cần cộng tổng tất cả các khoản phí khấu hao tính từ ngày mua tài sản.
Trong chương trước, chúng tôi đã chỉ cho các bạn thấy cách thức một doanh nghiệp có thể “hô biến” từ không có lợi nhuận thành có lợi nhuận, chỉ bằng việc thay đổi phương thức khấu hao tài sản. Trò ảo thuật nghệ-thuật tài-chính này đã lan cả sang bảng cân đối kế toán. Nếu một doanh nghiệp quyết định đội xe tải của mình có thể hoạt động đến tận sáu năm thay vì ba năm, họ sẽ ghi nhận mức chi phí khấu hao thấp hơn đến một nửa trên báo
cáo kết quả kinh doanh từ năm này qua năm khác. Điều đó nghĩa là khoản khấu hao lũy kế trên bảng cân đối kế toán sẽ giảm, PPE thuần sẽ cao hơn, và do vậy tài sản của doanh nghiệp sẽ nhiều hơn. Và theo phương trình kế toán cơ bản, nhiều tài sản hơn đồng nghĩa với việc nhiều vốn chủ sở hữu hơn.
Lợi thế thương mại
Lợi thế thương mại thường xuất hiện trên bảng cân đối kế toán của những doanh nghiệp mua lại doanh nghiệp khác. Đó là con số chênh lệch giữa giá mua doanh nghiệp và giá trị tài sản thuần mà bên mua nhận được. (Xin nhắc lại, tài sản thuần là giá trị thị trường của tài sản thuộc về bên được mua trừ đi công nợ mà bên mua phải gánh).
Ý niệm này nghe có vẻ phức tạp, nhưng thực tế thì không phải vậy. Hãy cứ tưởng tượng bạn là CEO của một công ty đi mua, và bạn phát hiện ra một doanh nghiệp nhỏ, hoạt động ổn định trong lĩnh vực kho vận, tên là MJQ Storage, hết sức phù hợp với nhu cầu của bạn. Bạn đồng ý mua lại MJQ với giá 5 triệu đô-la. Theo nguyên tắc kế toán, nếu bạn thanh toán bằng tiền mặt, thì tài sản tiền mặt trên bảng cân đối kế toán của bạn sẽ giảm 5 triệu đô-la. Điều đó có nghĩa là những tài sản khác sẽ phải tăng 5 triệu đô-la. Cuối cùng, bảng cân đối kế toán vẫn cân đối. Và đến lúc này, bạn vẫn không làm gì quá đáng đến mức làm biến động nợ và vốn chủ sở hữu.
Và giờ hãy quan sát kỹ hơn. Vì bạn đang định mua một tổ hợp các tài sản hữu hình (cùng các tài sản khác), nên bạn sẽ phải thẩm định những tài sản đó như tất cả những người mua khác. Có lẽ bạn sẽ quyết định rằng các công trình của MJQ, kệ hàng, xe nâng và máy tính, tất cả trị giá 2 triệu đô-la, sau khi trừ đi mọi khoản nợ mà bạn phải gánh. Điều này không có nghĩa là bạn bị thiệt. Bạn đang mua một doanh nghiệp hoạt động, có tên tuổi, danh sách khách hàng, những nhân viên tài năng và hiểu biết, v.v…, và trong một số trường hợp, những tài sản vô hình này có thể còn giá trị hơn nhiều so với các tài sản hữu hình. (Bạn sẽ trả bao nhiêu để có thể sở hữu thương hiệu Coca Cola? Hay danh sách khách hàng của hãng Dell?). Trong ví dụ của chúng tôi, bạn đang mua khối tài sản vô hình trị giá 3 triệu đô-la. Các kế toán viên gọi 3 triệu đô-la đó là “lợi thế thương mại”. 3 triệu đô-la lợi thế thương mại và 2 triệu đô-la tài sản vật chất cộng tổng lại sẽ thành con số 5 triệu đô-la mà bạn đã bỏ ra, và khoản tăng tương ứng 5 triệu đô-la trong dòng tài sản của bảng cân đối kế toán.
Mua lại
Mua lại (acquisition) diễn ra khi một doanh nghiệp mua một doanh
nghiệp khác. Thông thường, bạn sẽ bắt gặp trên các báo những từ như sáp nhập (merger) hoặc hợp nhất (consolidation). Chớ để bị mắc lừa: đó vẫn chỉ là chuyện doanh nghiệp này mua doanh nghiệp khác. Họ chỉ sử dụng những thuật ngữ nghe trung tính hơn để giao dịch mua bán trông ổn hơn mà thôi.
Và bây giờ chúng tôi muốn kể một mẩu chuyện nhỏ về lợi thế thương mại; mẩu chuyện này sẽ cho thấy nghệ thuật tài chính được thực hiện như thế nào.
Trong nhiều năm qua, lợi thế thương mại luôn được tính khấu hao. (Nên nhớ, khấu hao tài sản vô hình giống như khấu hao tài sản hữu hình, chỉ khác ở chỗ đối tượng là tài sản vô hình). Các tài sản khác thường được khấu hao trong giai đoạn từ hai đến năm năm, nhưng lợi thế thương mại có thể được khấu hao với thời gian tối đa lên đến 40 năm, hoặc theo tuổi đời hữu dụng ước tính của doanh nghiệp được mua lại.
Tài sản vô hình
Tài sản vô hình (intangible asset) của một doanh nghiệp bao gồm bất kỳ thứ gì có giá trị nhưng lại không thể cầm nắm hay tiêu xài: nhân viên, danh sách khách hàng, kiến thức độc quyền, bằng sáng chế, thương hiệu, danh tiếng, điểm mạnh chiến lược, v.v… Hầu hết các tài sản này sẽ không được kê khai trong bảng cân đối kế toán trừ khi được doanh nghiệp mua và ghi nhận là lợi thế thương mại. Trường hợp ngoại lệ là các sở hữu trí tuệ, như bằng sáng chế và bản quyền. Những khoản này có thể được trình bày trong bảng cân đối kế toán và được khấu hao theo tuổi đời sử dụng.
Sau đó thì nguyên tắc thay đổi. Những người soạn thảo bộ tiêu chuẩn GAAP − Hội đồng Các Tiêu chuẩn Kế toán Tài chính (FASB − Financial Accounting Standards Board) − quyết định rằng nếu lợi thế thương mại bao gồm danh tiếng, cơ sở khách hàng và những tài sản tương tự của doanh nghiệp được mua, thì chúng không mất đi giá trị theo thời gian. Chúng thậm chí có thể tăng giá trị. Nói tóm lại, lợi thế thương mại giống đất đai hơn là trang thiết bị. Thế nên, việc không khấu hao lợi thế thương mại sẽ giúp các kế toán viên khắc họa được hình ảnh chính xác của hiện thực mà họ luôn tìm kiếm.
Nhưng hãy xem hệ quả. Khi bạn mua MJQ Storage, bạn chịu chi một khoản 3 triệu đô-la cho lợi thế thương mại trên bảng cân đối kế toán, và cứ giả sử bạn ước tính MJQ có thể tồn tại 30 năm. Trước khi luật thay đổi, bạn tính khấu hao tài sản này trong 30 năm với mức 100.000 đô-la mỗi năm. Nói cách khác, mỗi năm bạn sẽ trừ 100.000 đô-la khỏi doanh thu, và vì thế lợi
nhuận của công ty bạn cũng giảm đi từng ấy. Cùng lúc đó, bạn cũng khấu hao tài sản vật chất của MJQ trong thời gian, chẳng hạn là, bốn năm với mức 500.000 đô-la một năm. Như vậy, 500.000 đô-la này cũng sẽ được trừ vào doanh thu để xác định lợi nhuận.
Vậy thì điều gì sẽ xảy ra? Trước khi luật thay đổi và trong điều kiện mọi yếu tố khác đều không đổi, bạn sẽ muốn có nhiều lợi thế thương mại, và ít tài sản hữu hình, đơn giản là vì lợi thế thương mại được tính hao mòn trong giai đoạn dài hơi hơn, nên số tiền phải trừ khỏi doanh thu để xác định lợi nhuận sẽ giảm (giữ lợi nhuận ở mức cao hơn). Bạn có động cơ tìm mua các doanh nghiệp, mà trong đó thứ được mua chủ yếu là lợi thế thương mại, và bạn có động cơ để định giá thấp tài sản vật chất của doanh nghiệp định mua. (Đừng quên, chính bạn và người của mình là người định giá cho những tài sản ấy!)
Với luật mới, lợi thế thương mại ở lì trên sổ sách và không bị khấu hao. Không có khoản nào bị trừ vào doanh thu, và lợi nhuận vì thế còn cao hơn. Giờ thì thậm chí bạn còn có động cơ lớn hơn cho việc tìm kiếm những doanh nghiệp có ít tài sản hữu hình, và động cơ lớn hơn nữa cho việc định giá thấp các tài sản ấy. Tyco là một trong những công ty bị cáo buộc là đã lợi dụng quy tắc này. Như chúng tôi đã trình bày ở phần trước, trong riêng hai năm liên tiếp, năm 2000 và 2001, Tyco đã tiến hành mua lại với tốc độ chóng mặt − hơn 600 công ty. Nhiều nhà phân tích nhận thấy Tyco thường xuyên định giá thấp tài sản của những công ty mua lại. Việc làm này gia tăng lợi thế thương mại của tất cả các giao dịch mua lại, và làm giảm khoản khấu hao mà Tyco phải chịu mỗi năm. Đến lượt, điều này khiến lợi nhuận tăng thêm và đẩy giá cổ phiếu của Tyco lên cao.
Nhưng suy cho cùng, các nhà phân tích và các nhà đầu tư đều nhận thấy một thực tế mà chúng tôi đã nói ở Phần I, cụ thể là Tyco đã có quá nhiều lợi thế thương mại trên sổ sách và quá ít (nói một cách tương đối) tài sản hữu hình, và nếu bạn gạt lợi thế thương mại ra khỏi phương trình của bảng cân đối kế toán, thì các khoản nợ của công ty thực chất lại lớn hơn tài sản. Đây hẳn nhiên không phải là tình huống mà các nhà đầu tư muốn nhìn thấy.
Sở hữu trí tuệ, bằng sáng chế và các tài sản vô hình khác
Bạn sẽ giải trình thế nào đối với chi phí phát triển chương trình phần mềm mới mà bạn kỳ vọng là sẽ tạo ra doanh thu trong những năm tới? Và chi phí phát triển một phương thuốc thần kỳ, được bảo hộ bởi bằng sáng chế có thời hạn 20 năm (kể từ ngày đăng ký) thì sao? Rõ ràng là sẽ bất hợp lý nếu ghi nhận toàn bộ chi phí như một khoản phải trả trên báo cáo kết quả
kinh doanh trong bất kỳ một giai đoạn nào, cũng tương tự như sự bất hợp lý khi ghi nhận toàn bộ chi phí cho chiếc xe tải vào một lần. Cũng như chiếc xe tải, phần mềm và bằng sáng chế sẽ giúp tạo ra doanh thu trong nhiều kỳ kế toán về sau. Thế nên, những khoản đầu tư này phải được xét như các tài sản vô hình và phải được khấu hao xuyên suốt thời gian mà chúng tạo ra doanh thu. Tuy vậy cũng bởi lý do đó, những khoản chi nghiên cứu và phát triển mà không cho ra một tài sản có thể tạo doanh thu phải được ghi nhận như một khoản phải chi trên báo cáo kết quả kinh doanh.
Bạn có thể thấy tiềm năng cho tính chủ quan ở ngay đây. Theo bộ tiêu chuẩn GAAP, chi phí R&D có thể được khấu hao nếu sản phẩm phát triển khả thi về mặt công nghệ. Nhưng ai sẽ xác định tính khả thi công nghệ đó? Một lần nữa, chúng ta lại quay trở về địa hạt của nghệ thuật. Nếu một doanh nghiệp quyết định rằng dự án R&D khả thi về công nghệ, họ có thể khấu hao tổng chi phí theo thời gian và làm cho lợi nhuận trông có vẻ cao hơn. Ngược lại, họ phải ghi nhận các chi phí R&D khi chúng phát sinh − đây là cách tiếp cận thận trọng hơn. Computer Associates đã tự chuốc lấy rắc rối khi khấu hao chi phí R&D của những sản phẩm không có tương lai chắc chắn. Cũng như công tác khấu hao tài sản hữu hình, các quyết định khấu hao tài sản vô hình cũng thường có ảnh hưởng to lớn đến khả năng sinh lời và vốn chủ sở hữu.
Các khoản trả trước và tài sản trả trước
Để giải thích cho khoản mục này, chúng ta hãy xem một ví dụ nhỏ. Hãy tưởng tượng bạn đang khởi sự một công ty sản xuất xe đạp, và bạn thuê mặt bằng sản xuất cả năm hết 60.000 đô-la. Vì công ty bạn là một rủi ro tín dụng xấu − không ai muốn làm ăn với một doanh nghiệp mới cũng bởi lý do này, nên người chủ sở hữu khăng khăng đòi thu trước tiền thuê mặt bằng.
Theo nguyên tắc phù hợp, chúng ta biết việc “ghi sổ” toàn bộ 60.000 đô la như một chi phí trên báo cáo kết quả kinh doanh tháng Một là vô lý. Đó là tiền thuê mặt bằng cả năm. Nó cần phải được rải đều ra cả năm, như thế chi phí thuê mặt bằng mới phù hợp với doanh thu mà nó giúp mang lại. Thế nên trong báo cáo kết quả kinh doanh tháng Một, bạn chỉ ghi chi phí thuê mặt bằng là 5.000 đô-la. Vậy 55.000 đô-la còn lại sẽ đi đâu? Bạn phải theo dõi nó ở đâu đó. Vậy đấy, tiền thuê trả trước là một ví dụ về tài sản trả trước. Bạn mua thứ gì đó − bạn có quyền sử dụng nó một năm − nên nó là tài sản. Và bạn sẽ theo dõi nó trên bảng cân đối kế toán.
Mỗi tháng, đương nhiên, bạn sẽ phải cắt chuyển 5.000 đô-la ra khỏi dòng tài sản trả trước trên bảng cân đối kế toán, và đưa nó vào báo cáo kết quả
kinh doanh dưới dạng khoản tiền thuê. Đó là chi phí trả trước, và “mục kê khai” được dùng để ghi nhận những khoản chưa chi trên bảng cân đối kế toán được gọi là tài sản trả trước. Dù các thuật ngữ này không dễ hiểu, nhưng hãy lưu ý rằng phương pháp thực hành vẫn tuân theo nguyên tắc thận trọng: chúng ta theo dõi tất cả các khoản chi đã biết, và chúng ta cũng theo sát những gì mình trả trước.
Tuy nhiên, nghệ thuật tài chính có thể len vào đây, vì vẫn có chỗ cho phán đoán về cái gì cần trả trước và cái gì cần ghi sổ trong một kỳ cụ thể. Chẳng hạn, giả sử công ty bạn đang lên một chiến dịch quảng cáo rầm rộ. Toàn bộ công việc hoàn tất vào tháng Một, và phí tổn lên đến 1 triệu đô-la. Các kế toán viên có thể quyết định rằng chiến dịch này sẽ mang lại lợi ích cho công ty trong hai năm, nên họ sẽ ghi sổ 1 triệu đô-la đó như tài sản trả trước, và ghi nhận 1/24 chi phí vào báo cáo kết quả kinh doanh mỗi tháng. Một doanh nghiệp đang có một tháng khó khăn có thể quyết định rằng đây là hướng đi đúng đắn nhất − nói cho cùng thì trừ dần 1/24 của 1 triệu đô-la khỏi lợi nhuận vẫn tốt hơn là trừ một lần cả 1 triệu đô-la. Nhưng sẽ thế nào nếu tháng Một là tháng hoạt động tuyệt vời? Công ty có thể quyết định “ghi chi phí” của cả chiến dịch − trừ tất cả vào doanh thu tháng Một − vì, thì đấy, họ không biết chắc chiến dịch có giúp tạo ra doanh thu trong hai năm tới không. Hiện tại, họ có một chiến dịch quảng cáo đã được thanh toán toàn bộ, và lợi nhuận trong các tháng sắp tới sẽ tăng lên tương ứng. Trong một thế giới hoàn hảo, các kế toán viên của chúng ta sẽ có một quả cầu thủy tinh cho phép tiên đoán chính xác chiến dịch quảng cáo có thể mang lại doanh thu trong bao lâu. Nhưng vì chưa có một công cụ như thế, nên họ buộc phải dựa vào các ước tính.
Vâng, đó là những gì về tài sản. Cộng tổng tất cả lại với nhau, cùng với bất kỳ khoản mục nào khác mà bạn tìm thấy, bạn sẽ ra được “tổng tài sản” ở dòng cuối cùng của bên trái bảng cân đối. Bây giờ là lúc chuyển sang bên còn lại − nợ phải trả và vốn chủ sở hữu.
11. PHÍA BÊN KIA
Nợ phải trả và vốn chủ sở hữu
Như chúng tôi đã nói ở phần trước, nợ phải trả là những gì doanh nghiệp nợ, còn vốn chủ sở hữu là giá trị thuần của doanh nghiệp. Có một cách khác − chỉ đôi chút − để đọc phần này của bảng cân đối kế toàn, đó là phần này cho ta thấy các tài sản đã được thu về như thế nào. Nếu một doanh nghiệp vay vốn dưới bất kỳ phương thức, hình thức hay loại hình nào để có được tài sản, thì khoản vốn vay sẽ được thể hiện trên một dòng nợ phải trả. Nếu doanh nghiệp bán cổ phiếu để mua tài sản, thực tế này sẽ được phản ánh trên một dòng thuộc hạng mục vốn chủ sở hữu.
CÁC LOẠI NỢ PHẢI TRẢ
Nhưng, trước tiên hãy nói về những khoản mục đầu tiên, mà ở đây là nợ phải trả, tức nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp khác. Nợ phải trả luôn được chia thành hai loại chính. Nợ ngắn hạn là những khoản phải thanh toán trong vòng chậm nhất là một năm. Nợ dài hạn là những khoản được thỏa thuận thanh toán trong khoảng thời gian dài hơn. Các khoản nợ được kê khai trên bảng cân đối kế toán theo trình tự từ ngắn hạn nhất đến dài hạn nhất, vì vậy cách bố trí này sẽ cho bạn biết khi nào khoản nào sẽ đến hạn.
Khoản phải trả của nợ dài hạn
Nếu công ty bạn vay dài hạn ngân hàng 100.000 đô-la, nhiều khả năng 10.000 đô-la trong số đó sẽ tới hạn thanh toán trong năm nay. Nếu vậy, số tiền đó sẽ được thể hiện trong phần nợ ngắn hạn của bảng cân đối kế toán. Dòng này sẽ có tên “khoản phải trả của nợ dài hạn” (current portion of longterm debt) hoặc một cái tên nào khác tương tự. 90.000 đô-la còn lại sẽ được ghi nhận trong mục nợ dài hạn.
Các khoản vay ngắn hạn
Đây là dòng vay nợ tín dụng và vay xoay vòng ngắn hạn. Những khoản mục vay nợ tín dụng ngắn hạn này thường được bảo đảm bằng các tài sản ngắn hạn như khoản phải thu và hàng tồn kho. Tổng dư nợ hiện tại được thể hiện trong khoản này.
Khoản phải trả
Các khoản phải trả thể hiện số tiền mà doanh nghiệp nợ các nhà cung cấp. Doanh nghiệp nhận hàng hóa và dịch vụ từ các nhà cung cấp mỗi ngày,