🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trí Tuệ Do Thái Ebooks Nhóm Zalo TRÍ TUỆ DO THÁI | Những Phương Pháp Phát Triển Trí Tuệ Của Người Do Thái © Eran Katz | Phương Oanh : dịch | Nxb Tri Thức, | tna, 14.02.2018 Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com LỜI GIỚI THIỆU (CHO BẢN TIẾNG VIỆT) Quý bạn đọc thân mến! Cuốn sách mà bạn đang cầm trên tay là kết quả của mối nhân duyên kỳ ngộ giữa Công ty Sách Alpha và tác giả của nó là Eran Katz – một nhà văn, học giả người Israel, cũng là người nổi tiếng với kỷ lục Guinness về khả năng nhớ lại được một dãy số có đến 500 chữ số sau khi được nghe chỉ một lần. Eran Katz đến Việt Nam hồi đầu năm 2009 với bản thảo bằng tiếng Anh của hai cuốn sách: Secret of a Super Memory và Jerome Becomes a Genius, đã xuất bản bằng tiếng Hebrew (ngôn ngữ chính thức của Israel) và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Ông mong muốn hai bản thảo này được dịch và xuất bản bằng tiếng Việt. Nhiều nhà xuất bản và công ty sách, nhà sách có tiếng ở Việt Nam nồng nhiệt chào đón ông. Nhưng cuối cùng, ông đã chọn Alpha Books. Và ông đề nghị Công ty chuyển phần lớn tiền bản quyền của hai cuốn sách này cho Quỹ Sao Biển của Hoa hậu người Việt Ngô Phương Lan – một quỹ từ thiện nhằm giúp đỡ trẻ em và những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam. Cuốn Jerome Becomes a Genius (với tựa đề tiếng Việt Trí tuệ Do Thái) là câu chuyện kể về một chàng trai Do Thái tên là Jerome. Gã trai này có cái vẻ bề ngoài, nói theo cách của người Việt Nam chúng ta, là khá “lấc cấc”, sống “lông bông”, ăn mặc “lố lăng”. Gần như lúc nào anh ta cũng diện độc một chiếc quần bò bạc phếch, với đủ loại áo phông in những hình thù kỳ dị và những câu khẩu hiệu nghe rất chướng tai mà anh ta đang hăng hái quảng cáo và tiếp thị. Anh ta cũng rất ham mê thể thao, đặc biệt là môn bóng đá. Thế nhưng, trái với cái vẻ bề ngoài buồn cười đó, anh ta may mắn có được một động lực phấn đấu thật đặc biệt, dựa trên một vụ cá cược tưởng như đùa bỡn giữa anh ta với hai người bạn thân – một là Itamar Forman, giáo sư đại học; một là tác giả, nhà văn Eran Katz của chúng ta. Trong vòng ba năm, Jerome sẽ tích cực làm ăn để có một tài sản trị giá 50 triệu đô-la, đồng thời theo học một khóa Quản trị kinh doanh và thi lấy bằng Thạc sĩ, nhưng theo cách thức mà những người Do Thái thường làm. Rốt cục, Jerome đã làm được hơn thế rất nhiều. Nói đúng hơn, anh đã trở thành một “thiên tài” đúng với ý nghĩa đích thực của từ này. Chỉ hai năm, anh đã kiếm được 20 triệu đô-la, vẫn bằng cái nghề thiết kế mẫu và buôn bán đủ loại áo phông mà anh yêu thích; anh đã học xong chương trình đại học Quản trị kinh doanh. Và chẳng cần đợi đến khi có đủ 50 triệu đô-la và tấm bằng Thạc sĩ trong tay, Jerome cưới luôn Lisa, cô gái mà anh yêu và tôn thờ như “một phụ nữ Do Thái đặc biệt”. Trong không khí trang nghiêm, tưng bừng và cũng rất lãng mạn của lễ thành hôn, ba người bạn lại có dịp gặp nhau và ôn lại câu chuyện cá cược lúc trước. Itamar và Eran ngỏ ý rằng, những mục tiêu cao cả mà họ đã cùng Jerome đặt ra không nhất thiết phải được thực hiện quá hoàn hảo. Nhưng Jerome tươi cười nói, công việc làm ăn của anh hiện nay rất có triển vọng, và thời gian còn lại một năm nữa là quá đủ để anh hoàn thành nốt những gì còn lại. * Dựa trên cốt truyện lãng mạn này, cuốn sách dần dần hé lộ những bí ẩn về sự thông thái của người Do Thái. Nó kể chuyện về một dân tộc Do Thái thông tuệ với những phương pháp và kỹ thuật xây dựng và phát triển tầng lớp trí thức đã được giữ kín hàng ngàn năm như một bí mật mang tính văn hóa. Ở thời Trung đại, hơn 17% những nhà khoa học hàng đầu là người Do Thái, trong khi dân tộc Do Thái chỉ chiếm 1% dân số loài người. Cho đến nay, người Do Thái luôn được gắn với phẩm chất về chất xám và trí tuệ. Thuật ngữ “Bộ óc Do Thái”, dùng để chỉ một người nào đó thật thông thái, đã trở thành cụm từ được sử dụng bởi cả những người Do Thái và người không phải Do Thái. Không còn nghi ngờ gì nữa, Do Thái có lẽ là dân tộc giàu có nhất trên thế giới nếu tính về tài năng. Những cái tên Do Thái nổi bật, chiếm giữ nhiều vị trí quan trọng và có tầm ảnh hưởng lớn trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Những số liệu thống kê sau đây cho thấy sự thành công vĩ đại mà dân tộc nhỏ bé này đã đạt được: Về tư tưởng: Moses, Sigmund Freud, Albert Einstein. Thậm chí cả Karl Marx và chúa Jesus cũng là người Do Thái. Chính trị: Cựu Ngoại trưởng Mỹ Kissinger, Thủ tướng Áo Bruno Kreisky, Thủ tướng Pháp Pierre Mendes-France, Thủ tướng Na Uy Grew Brondenvald... Văn học: Shai Agnon, Shalom Aleichem, Isaac Bashevis Singer, Franz Kafka, Isaac Asimov, Joseph Heller... Âm nhạc cổ điển: Yascha Heifetz, Daniel Burnbaum, Isaac Stern, Arthur Rubinstein. Ngành giải trí: Barbara Streisand, Mandy Patinkin, Billy Joel, Simon & Garfunkel, Paul Anka, Jerry Seinfeld, Jackie Mason, Marcel Marceau, Larry King, David Copperfield… Điện ảnh: Woody Allen, anh em nhà Marx, Billy Crystal, Steven SpeilbergSpielberg, Bette Midler, Harrison Ford... Kinh doanh: Reichman, Bronfman, Estee-Lauder, George Soros, Ralph Lauren, Ben Cohen, Adam Citroen… Ở nước Mỹ hiện nay: Có 1/3 triệu phú Mỹ, và 20% giáo sư tại các trường đại học hàng đầu của Mỹ là người Do Thái. * Đọc đến đây, chắc quý bạn đọc rất nóng lòng muốn biết: Người Do Thái đã sáng tạo ra những gì và nguồn gốc trí tuệ của họ xuất phát từ đâu? Trong khuôn khổ của Lời giới thiệu này, chúng tôi chỉ có thể nói rằng, để đạt được thành công và trở thành một “thiên tài” đích thực, Jerome đã chăm chỉ và cố gắng hết mình. Bên cạnh đó, anh đã được hai người bạn thân nhiệt tình giúp đỡ, được vị giảng sư trường đạo Dahari giảng giải về triết lý, được một cậu sinh viên trường đạo là Schneiderman chia sẻ kinh nghiệm học hỏi, được cô gái Lisa hướng dẫn các thuật nhớ, được ông bác của Lisa là Samuel cho lời khuyên, thậm chí còn được những người bình thường như anh chủ quán cà phê Fabio khích lệ. Công ty Sách Alpha xin trân trọng giới thiệu cuốn sách rất hay này với bạn đọc, và xin chân thành kính chúc bạn đọc ngày càng đạt được nhiều thànhcôngmớitrongcuộcsống. HàNội,tháng11năm2009 CÔNGTYSÁCHALPHA 1 MỘT BUỔI TỤ TẬP TẠI QUÁN CAFÉ LADINO Chỉ một câu nói. Chỉ từng đó thôi cũng có thể thay đổi cuộc đời một con người. Dù sao, đó là điều đã xảy ra với Jerome… Trên tầng 14 của khách sạn Marriott ở Tulsa, Oklahoma, trong lúc đợi thang máy xuống tiền sảnh, tôi bắt đầu thấy hồi hộp. Lúc cửa thang máy mở ra là lúc tôi đang duyệt lại một lượt tất cả những điểm cơ bản trong bài phát biểu sắp tới của mình. Trong thang máy có một anh chàng cao to, vai rộng, mặc một bộ vest màu trắng đầy hoa văn, trên đầu anh ta ngự một chiếc mũ cao bồi, còn cổ thì đung đưa một chiếc thánh giá bằng vàng. Đôi ủng cao bồi là phụ kiện cuối cùng làm nên bộ trang phục hoành tráng của anh ta, đúng là một hình ảnh rất ấn tượng. Chỉ thiếu mỗi con ngựa, mà có khi nó đang đợi ở ngoài bãi đỗ xe của khách sạn cũng nên. Trên ve áo anh chàng cao bồi có một tấm card ghi tên cuộc hội thảo mà tôi sắp tham dự. Tấm card ghi, “Jim Brown, Houston, TX.” “Chào anh,” tôi mở lời với người lạ mặt khi bước chân vào buồng thang máy. “Xin chào,” anh ta đáp lời với âm mũi đặc trưng của người Texas cùng một nụ cười tươi, rộng đến tận mang tai. Anh ta liếc nhìn tấm card ghi tên tôi và đọc to, “Eran Katz, Jerusalem, Israel, Diễn giả.” Một chút ngạc nhiên làm nụ cười của anh ta còn tươi hơn. “Anh đến từ Jerusalem Đó hả?”, anh ta hỏi tôi. Jerusalem Đó, theo tôi hiểu, tức là Jerusalem – thủ đô của Israel chứ không phải Jerusalem – một trong số những thị trấn nho nhỏ ở Mỹ có cùng tên. “Một và chỉ một mà thôi,” tôi đáp lại, lòng đầy tự hào. “Tôi đã luôn mơ ước một ngày được đến đó.” “Chín trăm đô, mười hai tiếng, thế là đến nơi rồi,” tôi nói lại. Anh chàng có tên Brown mỉm cười hiểu ý. “Anh là diễn giả buổi sáng nay hả?”, anh ta nói, nửa khẳng định, nửa dò hỏi. “Phải.” Tôi nghĩ đến những lo lắng của mình về chủ đề của bài phát biểu, vậy nên tôi quyết định nói sơ qua cho anh ta về chủ đề tôi sắp trình bày. “Nghe có vẻ rất thú vị đấy,” anh ta động viên tôi. “Cảm ơn. Tôi cũng chỉ mong có thế,” tôi trả lời khi cánh cửa thang máy mở ra tiền sảnh. “Chắc chắc là thế rồi,” Brown nói chắc như đinh đóng cột khi chúng tôi cùng nhau ra khỏi thang máy. “Những người Do Thái các anh là những người thực sự rất thông minh.” Tôi mỉm cười khi chào tạm biệt, rồi hai người đi về hai phía khác nhau. Có thể trong những hoàn cảnh khác, tôi sẽ cảm thấy một chút phân biệt chủng tộc trong những lời anh ta nói, nhưng Jim Brown gây cho tôi ấn tượng rằng anh ta là một người tốt và chân thành. Anh ta không phải là người đầu tiên nói những lời đó với tôi, và tôi cũng chẳng phải là người Do Thái đầu tiên được nghe lời khen đó. Tôi đi dạo loanh quanh trong tiền sảnh, cảm giác hơi lạ lẫm. Tận sâu trong tâm trí mình, có một điều gì đó vẫn khiến tôi không yên – một điều gì đó rất khó nắm bắt mà tôi không thể chạm đến được. Trong lúc tiếp tục suy ngẫm về điều đó, tôi đã đi đến một kết luận rằng, về cơ bản, bây giờ tôi có hai mối quan tâm: 1. Tại sao ai cũng nói như vậy về người Do Thái? 2. Làm thế nào để tìm được chính xác chỗ ăn sáng trong vòng hai mươi phút tới? Bởi những thôi thúc của cái dạ dày luôn được đặt lên hàng đầu trong danh sách ưu tiên nên tôi đành gạt qua một bên bí ẩn về “Những người Do Thái thông minh.” Tôi có cảm giác rằng vào lúc bảy rưỡi sáng như thế này, một tách cà phê đặc và một chiếc bánh sừng bò sẽ tốt cho kỹ năng thuyết trình của tôi hơn nhiều so với lời giải cho một thắc mắc nho nhỏ về triết học. Một tuần sau cuộc gặp với Jim Brown, như thường lệ, tôi lại gặp Itamar và Jerome tại quán Café Ladino. Sáng thứ sáu nào cũng vậy, cứ 10 giờ là chúng tôi hẹn nhau ở quán cà phê nhỏ bé, quen thuộc này, một cái lỗ tí xíu trên bức tường rộng lớn, một góc khuất nằm trong một ngõ nhỏ ở khu Nahlaot của Jerusalem. Rất ít người biết đến quán cà phê tuyệt vời này. Jerome đã phát hiện ra nó từ hồi hắn còn đi giao báo buổi sáng. Những bài hát Do Thái tiếng Ladino(1) và ánh sáng màu cam mê hoặc đã thu hút hắn vào cái mà ban đầu hắn cứ ngỡ là một tầng hầm. Hắn bước tiếp thêm bốn bước nữa, những bước chân dẫn hắn từ con phố vào trong một cái hang được chiếu sáng bằng những ngọn đuốc. Sàn nhà được trải bằng những tấm thảm Ba Tư, những chiếc bàn hình tròn rải rác khắp căn phòng. Nơi đó có không khí mát mẻ, dễ chịu. Chủ nhân của quán, Fabio, là một người đam mê tiếng Ladino. Đó là lý do vì sao những bài hát thuần tiếng Ladino, từ những bản nhạc nhẹ nhàng lãng mạn cho đến những những bài hát salsa khó tìm, luôn đều đặn phát ra từ những chiếc loa giấu kín. Trong nhiều năm, Fabio đã cố gắng rất nhiều để cải thiện quán. Anh ta đã cho đập bức tường phía sau, mở một cánh cửa thông ra khoảng sân nhỏ sau quán. Anh ta thuê người xây một khoảng hiên rất đẹp, trồng vài cái cây quanh đó và đặt một bức tượng bằng đồng pha thiếc mà anh họ anh ta tự tay làm. Thế đấy, đó là nơi chúng tôi vẫn gặp nhau vào thứ sáu hàng tuần, đúng 10 giờ; thỉnh thoảng chúng tôi ngồi trong cái hang, đôi lúc lại ở ngoài hiên, tùy thuộc vào thời tiết và tâm trạng mỗi lần đến quán. Những người khách còn lại của quán là những cặp đôi lãng mạn hoặc những người khách du lịch tình cờ đi ngang qua. Thực ra thì chính ba chúng tôi cũng gặp nhau rất tình cờ. Itamar Forman và tôi biết nhau từ hồi học đại học. Tôi vẫn thường copy bài tập của cậu ta để chuẩn bị cho những buổi thảo luận chuyên đề mà chúng tôi cùng tham gia. Cậu ta đủ tốt bụng để giúp tôi, còn tôi thì đủ tốt bụng để chấp nhận sự giúp đỡ đó. Có một người bạn như thế, tôi thấy chẳng việc gì phải bắt bản thân mình quá sức, nhất là khi tôi còn có những môn học khác đòi hỏi nhiều thời gian và sức lực hơn. Đôi khi, tôi còn trả tiền cho Itamar để cậu ta làm bài cho tôi – nhất là khi tôi không có đủ thời gian; như hồi mùa hè năm 1990 chẳng hạn, khi đó là thời gian diễn ra World Cup ở Italia. Dù rất tôn trọng khóa học về “Những nhân tố trong mối quan hệ giữa người Do Thái và người Ả Rập kể từ Ngày chuyển giao đến nay,” nhưng trong những ngày đó, mối quan hệ giữa Macro van Basten và Ruud Gulit của đội Hà Lan còn quan trọng với tôi hơn nhiều. Hiện tại, Itamar là giáo sư giảng dạy môn Khoa học Chính trị. Cậu ta đã kết hôn với Dalia, cô gái cậu ta quen ở trường đại học và họ đã có hai đứa con sinh đôi đặt tên là Omry và Noa. Jerome lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. Jerome và tôi gặp nhau nhờ chiếc FIAT 127 nho nhỏ, xinh xinh của hắn. Hắn đã tông vào đuôi xe tôi trong khi lùi ra khỏi bãi đậu. Tôi nhớ mình đã bóp còi chiếc Subaru của mình inh ỏi nhưng chả có tích sự gì. Hắn thậm chí còn không thèm nhìn vào gương chiếu hậu trước khi bắt đầu lùi. Lúc đó hắn đang bận nghe tường thuật trận bóng đá trên đài giữa đội Hà Lan và Brazil, và đúng vào lúc hắn sang số lùi thì Frank Rijkaard làm bàn đưa Hà Lan lên dẫn trước. Vì cũng là một fan bóng đá cuồng nhiệt nên tôi phải đồng ý với hắn rằng sang số lùi vào đúng lúc ai đó ghi bàn là một điều hoàn toàn khó kiểm soát. Ở đây, chúng tôi nói về hai hành động ở hai thái cực hoàn toàn mâu thuẫn với nhau. Khi Jerome chui ra khỏi xe để đánh giá thiệt hại mà hắn đã gây ra, mắt tôi bắt gặp hình ảnh một gã cao nghều, gầy nhẳng với mái tóc bờm sư tử loăn quăn, cặp kính tròn màu đen giống cặp kính mà Buddy Holly vẫn hay đeo. Tuy vậy, điều ấn tượng nhất ở vẻ ngoài của hắn lại là chiếc áo. Trên đó in một hình vẽ, màu sáng, trông giống như “bà ngoại” Golda Meir, cựu thủ tướng Israel. Chính cái khoảnh khắc đó, tôi đã nhận ra Jerome đặc biệt đến mức nào. Có bao nhiêu người dám đi khắp nơi với một chiếc áo phô ra hình của Golda Meir chứ? Kể từ đó, chúng tôi trở thành những người bạn vĩ đại của nhau. Jerome là một người cực kỳ đặc biệt. Hắn sinh ra ở Australia và mặc dù hắn đã sống ở Israel hơn 25 năm nhưng hắn vẫn có chất giọng đặc trưng của dân mới nhập cư. Hắn đặc biệt hay mặc những chiếc áo với màu sắc dễ gây ảo giác mua ở Hawaii và các đảo vùng Caribbean, trên những chiếc áo đó in những bức hình nghệ thuật của những người mà chẳng ai nghĩ sẽ đem in lên áo. Thay vì những tấm hình của Bon Jovi, Bono(2) hay những ngôi sao nhạc rock khác, trong bộ sưu tập của Jerome, người ta sẽ có thể bắt gặp Khadaffi, Madeline Albright, Abba Eban hay thậm chí là Nelson Mandela(3) khoác trên mình bộ đồ Người dơi. Đến tận bây giờ, Jerome vẫn kiếm được kha khá từ những chiếc áo như thế. Jerome là một anh chàng vui tính. Hắn rất có khiếu hài hước và niềm lạc quan của hắn dành cho cuộc sống có thể biến mọi trở ngại trên con đường hắn đi thành những kinh nghiệm vĩ đại. Hắn có đến cả triệu bạn bè và dành phần lớn thời gian của cuộc đời để chạy xô từ bữa tiệc này sang bữa tiệc khác. Chúng tôi là những người bạn “trí thức” của hắn. Ít nhất, đấy cũng là từ mà hắn vẫn khoái dùng để giới thiệu chúng tôi với mọi người trong những dịp hiếm hoi chúng tôi đi dự tiệc cùng hắn. Vậy đó, theo lệ thường, như tôi đã nói, chúng tôi lại tụ tập vào một thời điểm quen thuộc, ở một nơi quen thuộc mà không hề biết rằng cái ngày thứ sáu đặc biệt đó sẽ thay đổi cuộc đời chúng tôi… Chúng tôi đang ngồi tán chuyện về việc làm ăn của Jerome và về chuyến đi mới nhất của tôi tới Mỹ. Đến cuối buổi, tự nhiên tôi nghĩ đến Jim Brown và kể cho hai người nghe về cuộc đối thoại trong thang máy. “Ai là người đầu tiên quan niệm rằng người Do Thái là những người có trí thông minh vậy nhỉ?”, tôi đặt vấn đề với Itamar. “Chỉ là định kiến hay nó có gắn với một sự kiện nào đó?” Itamar nhún vai và nhìn lên trời. “Nghe này,” cậu ta nói to suy nghĩ của mình thành lời, “trong quá khứ, và thậm chí cả ngày nay nữa, người Do Thái luôn được gắn với phẩm chất về chất xám và trí tuệ. Thuật ngữ ‘Bộ óc Do Thái’ dùng để chỉ một người nào đó thật thông thái, đã trở thành cụm từ được sử dụng bởi cả những người Do Thái và người không theo đạo Do Thái.” Cậu ta ngừng lại để suy nghĩ một lát. “Nhưng điều này rất thú vị,” cậu ta bỗng nhiên nói tiếp. “Điều bí ẩn này đã phát triển như thế nào, và về mặt học thuật mà nói thì nó có còn tồn tại không? Tớ chưa bao giờ ngẫm nghĩ thật kỹ về vấn đề này.” “Không phải chỉ vì một kiểu đại loại như chủ nghĩa bài Do Thái hả?”, tôi gợi ý, cố tìm lời giải cho vấn đề mình đưa ra. “Không hẳn là thế,” Itamar nhận xét. “Có những người không chịu ảnh hưởng của những thiên kiến đó, và họ chấp nhận điều này như một thực tế hoàn toàn rõ ràng, mặc dù cũng có xen lẫn một chút đố kỵ. Một kiểu đố kỵ xuất phát từ lòng ngưỡng mộ,” Itamar khẳng định. “Mặt khác, nếu là quan điểm bài Do Thái thì ‘bộ óc Do Thái’ phải được nói bằng những từ ngữ tiêu cực chứ.” “Rõ ràng là,” Jerome xen vào cuộc thảo luận, “một người Do Thái thông minh là một người Do Thái nguy hiểm. Chính từ điều này, người ta mới dựng nên điều bí ẩn đó – bởi vì đối với họ một bộ óc Do Thái là một kẻ xảo quyệt, nham hiểm và khó lường.” “Dù thế nào đi nữa,” Itamar tiếp tục mà không thèm để ý đến lời của Jerome. “Có một điều rất thú vị là những người Do Thái, ít nhất, đã thành công trong việc liên kết những kẻ không ưa họ và những người ủng hộ họ trong một điều: chưa từng có ai nói người Do Thái ngu ngốc. Một khuôn mẫu đã luôn gắn liền với người Do Thái – và mọi đứa trẻ đều lớn lên với khuôn mẫu này – rằng dân tộc Do Thái là một dân tộc thông minh, khôn khéo và có đầu óc nhạy bén.” Tôi nhìn Itamar đầy ngưỡng mộ. Theo nhịp được quá trình suy nghĩ rất hệ thống và logic của cậu ta lúc nào cũng là một kinh nghiệm rất thú vị với tôi. Khi ai đó hỏi cậu ta bất cứ câu hỏi gì, cậu ta không bao giờ trả lời chỉ mang tính chất chiếu lệ. Cậu ta luôn suy nghĩ theo chiều sâu của vấn đề. “Mà thực ra, chả có gì bất thường trong chuyện này,” cậu ta tiếp tục, một minh chứng hùng hồn cho những điều mà tôi đang nghĩ về cậu ta. “Dân tộc nào chẳng có một vài kiểu khái quát hóa như thế. Hầu như tất cả các dân tộc đều có những nét đặc trưng nhất định gắn liền với mình, cho dù những nét đặc trưng này có thật hay không đi chăng nữa. Người Scotland keo kiệt, người Mexico lười biếng, người Thụy Sĩ nghiêm khắc, người Nhật láu cá, người Đức mô phạm…” “Xem nào,” Itamar nói tiếp, “còn gì nữa không nhỉ… À, người Italia thì sao nhỉ?” “Người Italia là những người tình tuyệt vời,” Jerome phát biểu. “Còn người Pháp?” Itamar vẫn tiếp tục. “Người Pháp cũng là những người tình tuyệt vời,” Jerome thông thái khẳng định. “Có dân tộc nào không khiến cậu nghĩ đến chuyện trăng hoa lăng nhăng không hả?”, tôi hỏi Jerome. “Có chứ,” hắn trả lời. “Người Polak(4). Tớ không thể tượng tượng ra cảnh họ trên giường.” Ba chúng tôi cùng bật cười khúc khích khi nghĩ đến cảnh đó. Vấn đề ở đây là mặc dù cuộc thảo luận là về chủ đề các mẫu hình đặc trưng, câu nhận xét này vẫn cho thấy Jerome là người thích phân biệt chủng tộc và khoái châm biếm. “Tại sao những con chó ở Ba Lan lại có mũi tẹt?”, Jerome tiếp, và sau một vài giây im lặng, “Bởi vì chúng đuổi theo những chiếc xe đang đậu!” Hắn phá ra cười làm chúng tôi cười theo. Trong mấy phút sau đó, chúng tôi lao vào những trận cười nghiêng ngả khi cả ba thay nhau kể chuyện cười về các dân tộc khác nhau, mỗi câu chuyện lại khiến người kia nhớ đến một câu chuyện cười đại loại như thế. Dần dần, chúng tôi cạn hết những câu chuyện và ngồi đó im lặng, cố gắng lấy lại hơi sau những trận cười mệt lử. Một lần nữa – ‘hình như’ những “người Do Thái thông minh” không có sự nhạy cảm với những nét đặc trưng của các dân tộc khác và tự chiều chuộng mình bằng việc cười cợt. Nếu chỉ đơn giản là kể các câu chuyện theo một mạch thống nhất thì đã đành… nhưng đằng này bạn ta lại kể chuyện đùa để cười đùa, giễu cợt. Liệu bạn có cười không nếu một nhóm những gã người Tây Ban Nha phá lên cười trước những câu đùa về chuyện người Do Thái viêm màng túi? Jerome nghịch chiếc tách cà phê của hắn, nhìn chằm chằm vào đó như kiểu đang nằm mơ giữa ban ngày. Tôi mân mê gói đường, còn Itamar hết gập lại duỗi chân trong khi dán mắt vào cặp vợ chồng già mới bước vào quán. “Và chuyện những người Do Thái thông minh,” Itamar lên tiếng, đưa chúng tôi trở lại với chủ đề đang dở,. “thật thú vị,”. Ccậu ta tiếp tục trầm ngâm. “Tớ phải tìm hiểu xem tại sao lại có điều bí ẩn này mới được.” Trông cậu ta như thể thực sự đang rất trăn trở trước vấn đề đó. “Các cậu biết đấy,” tôi bất chợt lý luận. “Tớ đã giảng một vài buổi tại Viện ngôn ngữ Do Thái về việc cải thiện trí nhớ. Cuối mỗi buổi dạy, sinh viên lớp Torah(5) hay đến chỗ tớ và nói về những phương pháp nghiên cứu, những kỹ năng phát triển trí nhớ mà họ vẫn sử dụng. Điều thú vị, điều này có liên quan đến vấn đề chúng ta đang thảo luận, là tớ chưa từng bắt gặp những phương pháp đó trong bất cứ cuốn sách nào hay trong bất cứ nghiên cứu nào mà tớ từng thực hiện.” Mắt Itamar sáng lên. “Cậu nói nghiêm túc chứ?” Cậu ta kéo ghế thẳng lại và ngồi dựa về phía tôi. “Rất nghiêm túc,” tôi trả lời. “Điều đó thật đáng kinh ngạc,” cậu ta nói bằng một giọng phấn khích mà tôi không thể nào hiểu nổi. Cậu ta nhìn đăm đăm ra ngoài cây táo trồng trong sân, đôi mắt đảo đảo cho thấy cậu ta đang suy nghĩ hết công suất. “Điều gì đáng kinh ngạc cơ?” Jerome, cũng giống như tôi, đang cố gắng hiểu sự việc. “Ở đây, chúng ta có hai điểm,” cậu ta phân tích tình huống theo đúng cái kiểu ‘Itamar-biết-tuốt’ đặc trưng của mình. “Chúng ta có một điều bí ẩn đằng sau sự khôn ngoan và sắc sảo của người Do Thái, và chúng ta có những phương pháp thực tế mà người Do Thái đã sử dụng trong hàng thế kỷ qua!” Cậu ta phá vỡ dòng suy nghĩ của chính mình. “Nếu tớ hiểu đúng, chúng ta đang có một câu chuyện vĩ đại trong tay – câu chuyện về một dân tộc Do Thái thông tuệ với những phương pháp và kỹ thuật phát triển tầng lớp trí thức đã được giữ kín hàng ngàn năm như một bí mật mang tính chất văn hóa. Chúng ta có thể viết nên một cuốn sách kỳ vĩ về tất cả những điều này.” “Tại sao phải làm thế?”, Jerome hỏi, chẳng thèm che dấu sự thiếu hứng thú của mình. “Để tất cả mọi người trên thế giới này có thể được hưởng lợi từ bí mật đó, tất nhiên là thế rồi,” Itamar đập mạnh tay xuống bàn đầy hăng hái. “Nghĩ mà xem. Chúng ta có thể dạy cho những đứa trẻ người Na Uy, chẳng hạn thế, cách để ghi hàng núi thông tin về các bài kiểm tra thông qua việc sử dụng chính những phương pháp đã giúp các sinh viên Do Thái theo học tại trường đạo nhớ được kinh Talmud giỏi đến vậy! Chúng ta cũng có thể dạy các thương nhân cách đàm phán, thương thuyết bằng chính phương pháp mà các nhà buôn Do Thái đã làm ở châu Âu… hay… thậm chí… chúng ta có thể chỉ cho sinh viên Harvard cách đạt toàn điểm A bằng chính những kỹ thuật đã biến Marahal của Praha hay Gaon của Vilna(6) thành những học giả Torah vĩ đại! “Nếu chúng ta nói đến những phương pháp có hiệu quả thì tại sao lại phải bó hẹp chúng trong khuôn khổ bức tường của những trường đạo chứ? Tại sao tất cả mọi người lại không áp dụng những phương pháp đó chứ? Các cậu có hiểu điều tớ muốn nói không? Chúng ta có thể bật mí những bí mật của bộ óc Do Thái!” Cậu ta kết thúc suy nghĩ của mình bằng một sáng kiến, một điều đang bắt đầu sôi sục lên trong tâm trí mình. Sự kích động của Itamar bắt đầu ảnh hưởng đến tôi. Có một điều gì đó trong những điều cậu ta nói thực sự rất độc đáo. Đó là kiểu ý tưởng mà bạn sẽ tự hỏi chính mình, “Làm sao mà mình lại không nghĩ ra sớm hơn nhỉ?” Một lúc sau, Jerome buông ra một câu làm chúng tôi cụt hứng. “Xin lỗi nhé, nhưng chính xác thì ‘chúng ta’ mà bọn mình đang nói đến là ai vậy? Với tất cả lòng tự trọng, tớ chính xác không phải là ứng cử viên thích hợp cho vị trí đồng tác giả đâu đấy. Đầu tiên, tớ chỉ vừa đủ điểm qua được kỳ thi SAT(7). Thứ hai, trừ khi có phương pháp nào đó để phát triển tri thức hướng tới việc kiếm một cô bạn gái, còn nếu không, tớ chả hứng thú với cuốn sách của các cậu đâu,” Jerome nói huỵch toẹt. Rồi ngay lập tức, hắn nói thêm “dù vậy, tớ sẵn sàng giúp các cậu tiếp thị tại thị trường Carribe. Biết đâu kế hoạch này lại giúp vụ kinh doanh quần áo của tớ ở đấy phát đạt thì sao. Nó sẽ nhắc người ta nhớ rằng người Do Thái là những người cực lỳ sáng láng… đại loại như thế.” Hắn cười tự mãn ra vẻ rất đồng tình. “Cậu nói gì ấy nhỉ, Eran?” Itamar hỏi tôi. “Cậu có muốn thực hiện ý tưởng này không?” “Nghe có vẻ thú vị lắm,” tôi trả lời. “Thực sự rất hấp dẫn.” Tôi không thể kiềm chế được. Itamar thu xếp mấy thứ đồ lặt vặt của cậu ta và ra hiệu cho bồi bàn đem hóa đơn đến cho chúng tôi. “Đến thứ sáu tuần sau, tớ sẽ tìm hiểu được sự hình thành bí ẩn về người Do Thái thông minh. Tớ có một vài giả thuyết về sự bí ẩn này.” Cậu ta nguệch ngoạc vài dòng ra một tờ khăn ăn nhỏ, nhét nó vào túi bên của chiếc cặp da và kéo ghế đứng dậy. “Xin lỗi nhưng tớ phải đi đây. Tớ có hẹn với nha sĩ,” cậu ta giải thích. Jerome cũng đứng dậy và thay cặp kính đọc sách bằng một cặp kính râm thời trang. “Cả tớ, cũng phải đi con đường của mình đây,” hắn nói. “12 giờ tớ có hẹn với chuyên gia chăm sóc sắc đẹp, Bob,” hắn lại một lần nữa giở câu đùa quen thuộc. “Còn tớ thì có hẹn với cái hóa đơn, chắc là vậy rồi,” tôi thở dài khi thọc tay vào túi quần và rút ví ra. Liền kề với bãi đỗ xe bên ngoài, trước khi đến lối vào siêu thị, tôi chợt thấy cô Lippman, cô giáo tôi hồi lớp sáu. Hai mươi năm đã trôi qua kể từ lần cuối tôi gặp cô (nói đúng hơn là làm phiền cô, như tôi vẫn thường vậy), và tôi nghĩ rằng mình nên lịch sự một chút bằng cách đến chào cô. Tôi băng qua đường và gọi to. “Cô Lippman ơi.” Cô quay lại và nheo nheo mắt, cố nhận ra xem tôi là ai. “Yossi à,” cô hướng về phía tôi. “Eran ạ,” tôi sửa lại. “Eran Burnstein!” cô nói thêm. “Eran Katz.” “Eran Katz hả!” cô kêu lên cùng một nụ cười gượng. “Ôi, tất nhiên là cô nhớ rồi.” Trên khuôn mặt cô tôi chẳng thấy có dấu hiệu gì chứng tỏ niềm vui của cô khi gặp lại cậu học trò cũ là tôi. Tôi hỏi thăm tình hình cô và tỏ ý muốn nghe những điều cô đã trải qua trong suốt hai mươi năm qua. Rõ ràng là cô đã đi qua rất nhiều sự kiện. Mà thực tế là hình như năm nào cũng có một điều gì đó đáng kể xảy ra với cô, và tôi là một kẻ cực kỳ may mắn mới được nghe tất cả những sự kiện đó, với tốc độ khoảng mười lăm phút cho mỗi năm. Mặc dù sự chán ngán và khó chịu đã vây xung quanh tôi nhưng tôi nghĩ mình nên cho cô một chút cảm giác hài lòng trong nghề nghiệp. Nhiều năm đã trôi qua từ khi tôi phá hoại những buổi cô lên lớp hay đơn giản chỉ là không thèm đến lớp, giờ tôi tự hào nói với cô rằng tôi, một học sinh cá biệt, đang viết một cuốn sách về bí mật của bộ óc Do Thái, và tôi đang tìm hiểu sự thật đằng sau bí ẩn về sự thông minh của người Do Thái. “Cái đó thì có gì mà tìm hiểu?” Cô hỏi tôi, với đúng cái giọng của một bà giáo. “Đó là một thực tế! Người Do Thái luôn thông minh.” Tôi chợt nhớ lại lý do tại sao tôi hay bỏ giờ cô hai mươi năm về trước. Trong mọi trường hợp, chỉ cần có cơ hội là cô ngăn cản bất cứ ai có ý định viết một cuốn sách về bí ẩn sự thông thái của người Do Thái. Cô chính là bằng chứng sống cho thực tế rằng không phải người Do Thái nào cũng được Đấng tối cao ban cho một bộ óc. Mặt khác, chính vì cô, niềm hứng thú của tôi với việc tìm hiểu bí ẩn này tiếp tục lớn dần lên. 2 BÍ ẨN VỀ SỰ THÔNG THÁI CỦA NGƯỜI DO THÁI Đúng một tuần sau, chúng tôi lại gặp nhau ở Café Ladino. Chúng tôi đã không nói chuyện cả tuần vừa rồi và tôi thấy mình thực sự trông đợi buổi tụ họp lần này. Tôi băn khoăn không biết Itamar có bỏ công tìm hiểu về điều bí ẩn đó không và cậu ta có phát hiện ra thông tin gì hay không, hay là sự hào hứng của cậu ta đã nguội dần trong mấy ngày qua. Khi tôi đến quán cà phê thì thấy Jerome đang đợi bên ngoài. Hắn kẹp một tờ báo dưới cánh tay và mặc một chiếc áo sơ mi, có lẽ là kinh dị nhất mà tôi từng thấy: một chiếc áo có cảnh rừng rú loang lổ màu in hình Kofi Anan, Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc, đang chuyền cành từ cây nọ sang cây kia. Quán vắng tanh, còn Fabio thì đang đợi chúng tôi với cánh tay giang rộng. Chúng tôi ngồi xuống chiếc bàn quen thuộc trong “hang.”. Mười phút sau, Itamar xuất hiện, đóng bộ một bộ vest tối màu, thanh lịch cùng một chiếc cà vạt lụa màu vàng sáng, trông có vẻ đắt tiền. “Jerome này, đây mới là kiểu chúng ta nên mặc,” tôi phát biểu, mắt vẫn không rời khỏi Itamar. “Trông cậu bảnh lắm,” Jerome nhận xét, “nhưng tớ nghĩ bộ này cần thêm một chút màu sắc nữa… có lẽ là điểm thêm vài vệt hồng hồng, xanh xanh thì đẹp hơn.” “Hôm nay tớ phải đi dự một buổi hội đàm,” Itamar giải thích vẻ hối lỗi. Cậu ta ngồi xuống ghế và rút ra một đống giấy tờ, sách vở từ trong túi. “Các cậu nghĩ sao,” cậu ta bắt đầu bằng một vẻ mặt rất thỏa mãn, “nếu tớ nói rằng cả tuần vừa qua, tớ chẳng làm việc gì cả? Tớ giữ bí mật tất cả những gì có thể các cậu muốn biết về ‘Bí ẩn Trí thông minh của người Do Thái.’” Cậu ta bắt đầu bới tung đống giấy tờ. Itamar kích động đến nỗi thậm chí không thèm hỏi xem tình hình chúng tôi ra sao như các lần khác. Cậu ta tiến thẳng đến chủ đề mình đang theo đuổi, muốn ngay lập tức kể cho chúng tôi nghe những điều cậu ta đã tìm hiểu được. “Trong lúc ở chỗ nha sĩ thứ sáu tuần trước ấy,” cậu ta bắt đầu, “tớ đã suy nghĩ về vấn đề này từ nhiều góc độ khác nhau. Trước hết, người Do Thái là những người sống sót. Họ đã trải qua bao nhiêu điều bất công trong lịch sử? Họ đã phải chịu đựng bao nhiêu cuộc tàn sát? Đã bao nhiêu lần họ bị đẩy ra khỏi đất nước, buộc phải lang thang khắp thế giới để tìm một nơi trú chân mới, để rồi lại bị ném đi một lần nữa khi đã ổn định mọi thứ ở nơi mới? Babylon, Tây Ban Nha, châu Âu. Họ đã sống sót qua những Tòa án Dị giáo, những cuộc tàn sát và, qua tất cả những điều này, dân tộc Do Thái vẫn phát triển lớn mạnh. Làm thế nào họ giữ được những điều đó? Những dân tộc khác hùng mạnh hơn dân tộc Do Thái nhiều, với những nền văn hóa ấn tượng kỳ vĩ, đã không làm được điều đó. Người Ai Cập cổ đại, dân tộc đã xây dựng nên những kim tự tháp vĩ đại, nay đâu rồi? Người Hy Lạp phát minh ra nền dân chủ và sản sinh ra cho thế giới những Plato, những Aristoste nay đâu rồi? Người La Mã với thời hoàng kim của công nghệ tiên tiến nay đâu rồi? Tất cả những dân tộc đó đều đã sụp đổ như những tòa tháp xếp bằng những quân domino, chỉ còn lại là những đổ nát và chỉ còn tồn tại trong ký ức…” Cậu ta dừng lại giữa câu khi cô bé bồi bàn đến để ghi đồ uống. Itamar gãi cằm suy nghĩ và gọi một tách espresso. “Một latte,” tôi gọi. Còn Jerome chọn cappuccino. “Người Do Thái đã sống sót,” Itamar tiếp tục dòng suy nghĩ, “mà không có sự hỗ trợ của bất cứ đội quân hùng mạnh hay thế lực nào, mà họ cũng chưa từng sở hữu sức mạnh nào như thế. Họ thành công trong việc giữ gìn truyền thống của mình trong những điều kiện bất khả thi là bởi vì họ đã học được cách sử dụng trí óc trong những hoàn cảnh thay đổi không ngừng. ‘Bộ óc’ đó cho phép họ không chỉ sống sót mà còn có ảnh hưởng đến môi trường khắc nghiệt quanh mình và phát triển những kỹ năng ghi nhớ để giúp họ truyền miệng toàn bộ bản Torah từ thế hệ này sang thế hệ khác.” Cậu ta dừng lại một lát. “Dù sao, đó chính là điểm khởi đầu cho nghiên cứu của tớ.” “Và đây chính là điều làm cho người Do Thái thông minh hơn những dân tộc khác sao?” tôi hỏi. “Chờ một lát đã,” Itamar ngắt lời tôi, giọng cậu ta hơi lưỡng lự một chút. Cậu ta ngừng lại, tìm một từ thật chính xác. “Nghe này… thực sự… tớ đã tìm hiểu nguyên nhân và phương thức của sự hình thành bí ẩn về Trí thông minh Do Thái. Câu hỏi của cậu, nếu đúng là họ có thông minh hơn, rất khó trả lời. Chúng ta không thể kết luận một câu chung chung như thế. Dân tộc nào cũng có kẻ yếu, người mạnh, kẻ xấu, người tốt, kẻ ngu đần, người thông minh. Tất nhiên, có những người Công giáo, người Hồi giáo, người Hindu thông thái hơn và thành đạt hơn rất nhiều người Do Thái mà tớ biết.” Tôi lại nhớ đến lần gặp cô Lippman. “Mà còn chưa kể đến nhé, chúng ta đang nói đến loại người Do Thái nào? Gốc Đức? Gốc Tây Ban Nha? Do Thái chính thống? Cải cách? Mỹ? Nga? Chẳng lẽ tất cả đều là những nhà khoa học kiệt xuất sao? Sự khác biệt ở đây lớn lắm. Theo như tớ biết thì câu hỏi ai thông minh hơn ai là một câu hỏi hoàn toàn không hợp lý. Mục đích của tớ là hiểu được tại sao người Do Thái, với tư cách là một con người cụ thể, lại được cho là người thông minh, và làm thế nào mà điều bí ẩn, hay đặc trưng này, lại được gắn với họ. Cậu biết người ta thường nói đấy, ‘không có lửa làm sao có khói.’ Cái khói đó có thể đưa tớ đến với một sự thật cụ thể nào đó. Đó mới là cái tớ muốn tìm hiểu.” Itamar kết luận suy nghĩ của mình và quay trở lại với việc sục sạo đống giấy tờ. Qua khe mắt, tôi để ý thấy Jerome đang đọc mục tin thể thao dưới gầm bàn. Khổ thân Jerome. Cuộc thảo luận nho nhỏ của chúng tôi không hề lấy được của hắn một chút xíu hứng thú nào. Nhận ra mình bị “bắt quả tang,” hắn gập nhanh tờ báo lại và để nó ngay ngắn trên bàn. “Các cậu có biết Real Madrid đã mua Louis Figo với giá năm mươi sáu triệu đô-la không?” Hắn cố phân bua về điều đã thu hút sự chú ý của hắn hơn cuộc đối thoại bên bàn. “Thế thì hơi quá đà, phải không?” tôi trả lời, giọng pha chút ngạc nhiên. Itamar nhướn mắt lên và nhìn Jerome vẻ không đồng tình. “Chúng ta đang nói về một điều rất thú vị, và đây là cái đã khiến cậu mất tập trung hả? Một cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha kiếm được hàng triệu đô-la chỉ vì hắn ta biết cách đá một quả bóng sao? Niềm ham học hỏi tri thức của cậu nằm ở đâu vậy?” Jerome cười toét đến tận mang tai. “Itamar à! Cậu biết Louis Figo là người Bồ Đào Nha cơ đấy! Tớ sốc nặng rồi!” Itamar liếc mắt nhìn lại và cười ngượng nghịu. “Tớ tình cờ xem một chút hồi Euro 2000,” cậu ta thú nhận. Đến tôi còn phải ngạc nhiên vì điều này. Tôi không bao giờ nghĩ Itamar có thể xem một trận bóng đá; cậu ta lúc nào cũng lớn tiếng phản đối thể thao. “Điều quan trọng ở đây là,” Itamar nối lại dòng suy nghĩ vừa bị đứt đoạn của mình trong khi rút một trang ra khỏi đống giấy tờ, “người Do Thái lúc nào cũng thích cái tiếng tăm hơi quá cường điệu đó về sức mạnh và trí tuệ của mình. Tiếng tăm này bắt nguồn từ rất nhiều thứ – nỗi sợ hãi, lòng đố kị, sự thù ghét và, thật đáng ngạc nhiên, cả các số liệu thống kê thực tế nữa, cái này tớ sẽ cho các cậu xem ngay đây.” Cậu ta lấy ra một trang khác và xem xét nó. “Kết luận đầu tiên tớ rút ra được về bí ẩn này đi liền với con số những người Do Thái nổi tiếng trên thế giới. Các cậu cứ thử nghĩ mà xem, những cái tên Do Thái luôn nằm trên đầu các danh sách ở hầu hết mọi lĩnh vực – những cái tên có ảnh hưởng đến toàn nhân loại: Moses, Maimonides, Spinoza, Sigmund Freud, Albert Einstein. Thậm chí cả Karl Marx và chúa Jesus cũng là người Do Thái. “Tớ có cả một bản danh sách những người Do Thái nổi tiếng và quyền lực nhất trong các lĩnh vực khác nhau,” Itamar tiếp tục. “Trong văn học chẳng hạn – Shai Agnon, Shalom Aleichem, Isaac Bashevis Singer, Franz Kafka, Isaac Asimov, Joseph Heller, Philip Roth, Herman Wouk, Harold Robbins. Tất cả đều là người Do Thái.” “Còn nhạc cổ điển nữa – Yascha Heifetz, Daniel Burnbaum, Isaac Stern, Arthur Rubinstein, còn nhiều nhiều nữa…” cậu ta lật lật qua các trang giấy. “Còn cả một loạt những người hoạt động trong ngành giải trí này. Barbara Streisand, Mandy Patinkin, Billy Joel, Simon & Garfunkel, Paul Anka, Jerry Seinfeld, Jackie Mason, Marcel Marceau , – diễn viên kịch câm người Pháp, Larry King, ảo thuật gia David Copperfield, và thậm chí cả William Shatner và Leonard Nimoy, thường được biết đến dưới cái tên Thuyền trưởng Kirk và Ngài Spock trong Star Trek.” “David Copperfield là người Do Thái hả?” Jerome ngạc nhiên hỏi. “Mẹ tớ sẽ lăn đùng ra chết mất nếu cụ biết điều này.” “Trong ngành công nghiệp điện ảnh thì tràn ngập người Do Thái,” Itamar lại tiếp tục, một lần nữa phớt lờ câu nhận xét nho nhỏ của Jerome. “Các cậu có biết diễn viên nào người Do Thái không?” “Có chứ, làm gì có ai không biết?” tôi trả lời. “Woody Allen, anh em nhà Marx, Billy Crystal…” “Cậu nói đúng.” Itamar lại lục tung đống giấy tờ. “Còn có Steven SpeilbergSpielberg, dĩ nhiên rồi, Bette Midler, Harrison Ford, Mel Brooks...” “Frankeinstein,” Jerome lại xen vào mà mắt vẫn dán vào tờ báo. Itamar nhìn chằm chằm vào hắn, vẻ sững sờ tột độ. “Frankeinstein hả?!” “Phải, đó là một cái tên Do Thái mà, chẳng phải sao?” Jerome cười toe toét, cuối cùng cũng nhấc mắt ra khỏi tờ báo một lát. “Nói thế thì cũng có khác gì bảo Gấu Yogi hay Pokemon là người Do Thái vậy,” tôi đùa. “Cậu nói cái quái gì thế?” hắn ra thế đề phòng. “Ai mà chả biết Pokemon là của Nhật. Cậu cứ nhìn tên bọn nó xem: Pikachu này, Jigglypuff này, Butterfree này… những cái tên truyền thống của Nhật từ thời nhà Minh đấy.” “Nhà Minh là ở Trung Quốc chứ,” tôi sửa lại lời hắn. “Còn về kinh doanh thì sao?” Itamar chẳng thèm để ý gì đến cuộc tranh luận bên lề của chúng tôi và quay trở lại với chủ đề chính. “Có gia đình Rothchild, Reichman, Bronfman, Estee-Lauder, Max Factor, George Soros, Ralph Lauren, Levi Strauss, Ben Cohen và Jerry Greenfield (chủ của hãng kem ‘Ben and Jerry’), Adam Citroen (trong hãng xe của Pháp)… Nói cách khác, danh sách này dài lắm.” “Kissinger là người Do Thái,” tôi thốt ra. “Chính xác,” Itamar xác nhận. “Về chính trị…” Cậu ta đảo mắt vào những trang giấy. “Phải, có Kissinger, Disreali, Thủ tướng Áo Bruno Kreisky, Thủ tưởng Pháp Pierre Mendes-France, Thủ tướng Na Uy Grew Brondenvald... và danh sách này vẫn còn nữa,” cậu ta kết luận. “Gấu Yogi là Ấn Độ, tớ nghĩ thế,” Jerome chia sẻ điều đang làm đầu óc hắn bận tâm. “Nó xuất phát từ yoga. Trong tiếng Sanskrirt, tên của nó có nghĩa là ‘chú gấu bay.’” Hắn mỉm cười có vẻ thỏa mãn. Cô bồi bàn quay lại và mang cho chúng tôi những thứ chúng tôi đã gọi, cẩn thận đặt những chiếc cốc ở giữa bàn. “Vậy, không còn nghi ngờ gì nữa, Do Thái có lẽ là dân tộc giàu có nhất nếu tính đến tài năng,” tôi kết lại. “Với danh sách những người Do Thái xuất chúng như thế, thảo nào mới sinh ra điều bí ẩn đó. Những cái tên Do Thái luôn đứng đầu mọi thứ.” “Hoàn toàn sai,” Itamar khiến tôi ngạc nhiên bằng câu trả lời cụt lủn của cậu ta. “Danh sách này là một thứ ảo tưởng, nó dẫn người ta đến những kết luận sai lầm.” Cậu ta đặt lại những tờ giấy lên bàn và đưa mắt nhìn chúng tôi. “Các cậu có biết Newton, Copernic, Mahatma Gandhi, Leonardo da Vinci, Michelangelo, Abraham Lincoln and Muhammed có điểm gì chung không?” cậu ta hỏi. “Tất cả đều là đường một chiều ở London,” Jerome nhận xét hài hước. “Chẳng ai trong số họ là người Do Thái,” tôi nêu ý kiến, nhận ra điều mà Itamar đang dẫn dắt chúng tôi. “Chẳng ai trong số họ là người Do Thái,” cậu ta nhắc lại. “Nhưng, mỗi người trong số họ đều để lại dấu ấn đối với thế giới, không hề nhỏ hơn so với bất cứ ai khác trong lĩnh vực của mình. Vậy danh sách này và danh sách kia có gì khác nhau?” Jerome cuối cùng cũng bỏ tờ báo xuống khi tôi và hắn cùng đợi câu trả lời sắp tới. “Không đi quá sâu vào vấn đề này,” Itamar bắt đầu, giải phóng chúng tôi khỏi cảnh chờ đợi, “người ta biết đến một người Do Thái có tài không chỉ vì những thành tựu của người đó mà còn vì thực tế rằng anh ta cũng là một người Do Thái. Tớ nhớ đã từng đọc ở đâu đó rằng người ta đã hỏi nhà văn Saul Bellow rằng ông ấy cảm thấy thế nào khi là một người Do Thái và ông đã trả lời bằng một câu châm biếm đại loại là, ‘tôi biết mình là một người Do Thái, và mình là một người Mỹ, và mình là một nhà văn. Tuy vậy, tôi còn là một fan nhiệt thành của môn khúc côn cầu, một thực tế mà chưa ai nhắc tới bao giờ.’ Nói cách khác, những người Do Thái tài năng nổi bật bởi vì thực tế họ là người Do Thái. Lấy ví dụ chẳng hạn, chẳng ai lại đi chỉ vào Stephen Hawkings và bảo, ‘Nhìn một thiên tài người Công giáo này!’ Thực tế rằng ông ấy là người Công giáo không hề liên quan đến những khả năng của ông ấy, điều đó hoàn toàn khác với những nhận thức của mọi người về người Do Thái.” “Đúng vậy,” Jerome mỉm cười đồng tình. “Điều quan trọng nhất,” Itamar tiếp tục, “là người Do Thái ‘được’ PR tốt hơn và nhận được sự chú ý đặc biệt bởi vì bản chất Do Thái của họ, chứ không phải lúc nào cũng tương xứng với khả năng thực sự của họ trong đám đông. Đây là một trong những lý do làm lan truyền bí ẩn đó.” “Cậu nói ‘khả năng thực sự của họ trong đám đông’ nghĩa là sao?” tôi hỏi. “Đơn giản thế này nhé,” cậu ta đáp lời, “cứ thử hỏi một người Mỹ hay một người châu Âu bình thường xem trên thế giới có bao nhiêu người Do Thái và họ chiếm bao nhiêu phần trăm dân số thế giới đi, chắc chắc cậu sẽ nhận được câu trả lời là trong khoảng vài trăm triệu người, độ từ 15% đến 50% dân số thế giới,” cậu ta giải thích. “Làm gì có chuyện, không thể đến 50% được. Nói thế thì hơi quá, tớ thì nghĩ người Do Thái chiếm khoảng 10% đến 15% dân số thế giới,” Jerome ước tính. “Đấy, vấn đề là ở chỗ đó đấy,” Itamar cười hả hê. “Ngay đến chúng ta còn không nhận thức được!” Itamar rút một tờ giấy khác ra, tờ này trên đầu trang có ghi chữ “Số liệu.” “Số liệu chính xác của năm 2000,” cậu ta đọc to, “những ông bạn thân mến của tôi ạ, tổng số người sống trên hành tinh này là sáu tỉ người, mười ba triệu trong số đó là người Do Thái. Thế đấy! Chúng ta thực chất đang nói đến 0,25% dân số thế giới thôi. Không phải 10%, cũng chẳng phải 15%. Chỉ có một phần tư của một phần trăm thôi! Chỉ có vậy. Đó là tất cả số người Do Thái sống trên hành tinh này.” “Thú vị thật,” tôi lẩm bẩm. “Thật đáng kinh ngạc,” Jerome reo lên. “Cậu có tính đến những nhà du hành vũ trụ người Nga gốc Do Thái đang ở trên trạm vũ trụ của Nga không đấy?” “Có chứ, bao gồm cả cháu gái tớ mới sinh tuần vừa rồi nữa ấy chứ,” Itamar cười rạng rỡ đầy tự hào. “Bỏ qua Jerry Springer và Geraldo Rivera đi,” Jerome buột miệng mỉa mai. “Hai người đó không được tính.” Itamar bới đống giấy và lôi ra một tờ màu vàng ghi chi chít những con số. “Trước khi cho rằng điều bí ẩn này thực ra chỉ là một ảo tưởng sai lầm, để tớ cho các cậu biết một điều ngạc nhiên. Không phải ngẫu nhiên mà điều bí ẩn to lớn này được dựng lên xung quanh bộ óc và sự thông minh của người Do Thái đâu. Những số liệu thống kê đã cho thấy rằng mặc dù số lượng ít nhưng tài năng của họ lại tỉ lệ nghịch với số lượng ít ỏi đó.” Itamar đưa cho chúng tôi mỗi người một bản phô-tô trang giấy mà cậu ta đang cầm. “Trong năm tập của bộ sách đồ sộ Toàn cảnh lịch sử khoa học, George Sarton đã miêu tả sự phát triển của khoa học xuyên suốt thế kỷ XIV,” Itamar bắt đầu như kiểu lời mở cho một buổi lên lớp. “Trong phần nói về thời Trung đại, Sarton không chỉ nghiên cứu sự phát triển khoa học và tri thức trong thời kỳ này mà ông còn so sánh những thành tựu của những dân tộc khác nhau. Nghiên cứu của ông đã đề cập đến rất nhiều lĩnh vực bao gồm có giáo dục, công nghệ, toán học, vật lý học, hóa học, y học… “Thưa giáo sư,” Jerome ngắt lời, “vào vấn đề chính đi thôi.” “Vấn đề chính,” Itamar hơi ngượng – “17,6% trong số những nhà khoa học hàng đầu của thời Trung đại là người Do Thái,” cậu ta kết luận. “Và vào thời kỳ đó, họ chiếm bao nhiêu phần trăm dân số nói chung?” tôi hỏi đầy vẻ tự hào. “Một phần trăm,” Itamar trả lời. “Nói cách khác, số nhà khoa học người Do Thái nhiều gấp mười tám lần con số người ta thường nghĩ, đấy là nói về mặt số liệu. Thực tế thậm chí còn thú vị hơn nếu chúng ta so sánh thành tựu của những nhà khoa học người Do Thái tại các quốc gia riêng rẽ. Như Tây Ban Nha chẳng hạn,” cậu ta tiếp tục những lý luận của mình. “41% trong số các nhà khoa học hàng đầu của Tây Ban Nha thời Trung đại là người Do Thái, mặc dù người Do Thái thực tế chỉ chiếm khoảng 2,7% dân số. Số nhà khoa học Do Thái cao gấp hai mươi lăm lần số nhà khoa học người Tây Ban Nha không theo đạo Do Thái.” “Thời hoàng kim của Do Thái,” tôi nhớ lại tên của thời kỳ lịch sử này. Itamar ngừng một chút để suy nghĩ rồi tiếp tục. “Ở đây,” cậu ta ra hiệu về phía Jerome, “sao cậu không đọc to những con số này lên và cho biết cậu nghĩ gì về chúng nhỉ.” Jerome cầm lấy tờ giấy và bắt đầu đọc. “Khoảng những năm từ 1819-1835, người Do Thái nắm giữ 20% nền kinh tế của Đức mặc dù họ chỉ chiếm chưa đầy 1% dân số.” “Vào năm 1952, 24% số sinh viên theo học tại trường Đại học Harvard là người Do Thái, tại Cornell là 23% và Princeton là 20% cho dù người Do Thái chiếm chưa đến 3% dân số.” “Quá nhiều phần trăm,” Jerome có vẻ hơi bực mình. “Đọc tiếp đi,” Itamar giục. “Một phần ba số triệu phú Mỹ là người Do Thái.” “20% số giáo sư tại các trường đại học hàng đầu của Mỹ là người Do Thái.” “40% số luật sư làm việc trong các hãng luật hàng đầu của Mỹ là… các cậu không đoán được đâu. Để tớ gợi ý nhé. Họ không theo đạo Phật, và họ không theo chủ nghĩa vô thần.” Jerome phẩy tay thả mảnh giấy rơi xuống bàn, quay tròn. “Vậy,” Itamar hỏi, “các cậu có thể rút ra kết luận gì từ những điều này? Và cố gắng nghiêm túc đi, một lần này thôi.” “Kết luận về cái gì?” Jerome mang một vẻ mặt ngạc nhiên. “Chuyện gì vừa mới xảy ra à? Tớ đang ở đâu vậy?” Hắn nhìn quanh mình như kiểu vừa mới tỉnh dậy sau một giấc mơ giữa ban ngày. Hắn lại nhặt tờ giấy lên và liếc nhanh qua những dòng chữ ghi trên đó. “À… mình nghĩ,” hắn nói to thành lời suy nghĩ của mình, “tài liệu trước mặt chúng ta cho thấy rằng… để xem nào… hừm… mình biết.” Hắn ngồi thẳng người lại. “Nó chỉ rõ ra rằng 45% những người nông dân trồng khoai tây ở Idaho thích đọc Harry Potter, 17% số người New York không bao giờ đi nghỉ, 22% số người Ailen uống Guinness và 115% dân số Pháp là những kẻ hợm hĩnh – rắc rối đây… và, mặt khác, ‘người Do Thái, Ach, diese Juden!” Hắn nói bằng giọng mũi, bắt chước Charlie Chaplin trong bộ phim Tên độc tài. “Người Do Thái, nếu để so sánh, là những người cực kỳ thông minh, thành đạt, xinh đẹp, mạnh mẽ và (khá phát triển, nếu nói về mặt sinh lý) – có cần thiết không nhỉ? Hai cậu muốn gì ở tớ nào?” hắn cười toét vẻ xấu hổ khi mắt đảo hết từ bên này sang bên kia giữa hai chúng tôi. “Mà nhân tiện,” hắn tiếp, “những số liệu này chứng tỏ, không một chút hoài nghi nào, rằng tớ không phải là người Do Thái. Ở đây chẳng có chỗ nào giải thích tại sao người Do Thái nào cũng là tỉ phú với chỉ số IQ lên đến 3000 trong khi tớ lại chỉ sống trong một căn hộ hai phòng chật chội, chỉ có bằng trung học và lái một chiếc Toyota đời 82.” Lôi dưới đống giấy tờ trên bàn ra tờ báo của Jerome, tôi đưa cho hắn. “Thôi, đọc tiếp đi, anh bạn,” tôi gợi ý. “Tớ đọc hết rồi.” “Thì xem lại bài báo về Figo ấy,” tôi trấn an. “Tớ chắc chắn là cậu chưa xem kỹ đâu, và sẽ thật đáng tiếc nếu bỏ qua một thông tin giá trị như thế trong biển kiến thức kỳ vĩ của cậu.” Jerome mở tờ báo ra và bắt đầu đọc. “Đội đấu kiếm của Israel luyện tập cả tuần tại Đan Mạch.” “Được đấy chứ,” tôi nhận xét, “cậu tìm thấy ngay một bài báo hấp dẫn để đọc đấy còn gì.” “Ít nhất thì trong đó cũng không có bất cứ số liệu phần trăm nào,” hắn thở ra vẻ mệt mỏi. Itamar mỉm cười và gật đầu đồng tình. Cậu ta ra hiệu cho cô bé bồi bàn, cô bé đang hối hả bước về phía bàn chúng tôi. “Cho tôi một Coca-Cola,” cậu ta gọi. Cô bé bồi bàn gật đầu và liếc mắt về phía tôi. “Hai anh có dùng gì thêm không ạ?” cô bé hỏi tôi và Jerome. “Ừm, tôi thì không,” tôi trả lời. “Heineken,” Jerome hào hứng. “Heineken không phải Do Thái, mình hy vọng thế.” Cô bé bồi bàn dọn mấy cái tách của chúng tôi và chúng tôi nhìn cô bước đi. Khi cô đã vào trong bếp, Itamar vươn vai, duỗi người, còn Jerome thì quay trở lại với tờ báo. Đột nhiên, Itamar nhặt chiếc túi lên và sục sạo khắp một lượt. “Đâu rồi nhỉ?” cậu ta lẩm bẩm. “Đây rồi.” Cậu ta cầm lên một tờ giấy khác. “Cậu có muốn xem một số liệu ấn tượng nữa không?” Cậu ta hướng câu hỏi về phía tôi. “Chắc chắn là có rồi.” “Giải Nobel vì Hòa bình.” “Ừ, nó làm sao?” “Giải này được trao hàng năm cho những người thể hiện tài năng kiệt xuất so với phần còn lại của thế giới, đúng không?” “Theo tớ hiểu thì là thế,” tôi đồng tình. “Vậy, nếu chúng ta nói đến đội ngũ những nhà trí thức cấp cao, những người đã có nhiều cống hiến giá trị cho nhân loại thì chúng ta nên xem bao nhiêu người Do Thái đã được nhận giải này, cậu nghĩ có đúng không?” “Tất nhiên rồi,” tôi nói lớn. Cậu ta chỉ vào một dòng hơi mờ trên trang giấy. “270 người đã được nhận giải này kể từ khi nó được bắt đầu vào năm 1901. Cậu nghĩ có bao nhiêu người trong số đó là người Do Thái?” Cậu ta đưa chiếc tách về một bên miệng để thì thầm câu trả lời với tôi mà không để Jerome nghe thấy. “102. Tức là 34% đấy – thực ra là 37%.” “Thật đáng ngạc nhiên, đúng không?” cậu ta buột miệng kêu to làm Jerome giật mình và nhìn lên. “Cái gì đáng ngạc nhiên thế?” hắn hỏi, giọng hắn mang chút vẻ hờn dỗi vì bị bỏ ngoài cuộc. “Cậu không tin được đâu!” tôi thốt lên với giọng nhiệt tình giả tạo. Itamar gật đầu ngưỡng mộ. “Cậu không thích những thứ như thế này mà, đúng không?” cậu ta tiếp. “Các cậu đang nói về cái gì thế?” Jerome bắt đầu mất kiên nhẫn. “Bao giờ đội đấu kiếm sẽ trở về từ Đan Mạch thế?” tôi hỏi Jerome. Hắn làm mặt giận, thừa biết rằng chúng tôi chỉ trêu hắn tí thôi. “Giải Nobel Hòa bình. Hóa ra đã có rất nhiều người Do Thái được trao giải thưởng cao quý này. Và thêm vào đó là sức ép mà một người được nhận giải phải chịu,” cậu ta lại quay sang phía tôi, “ở đây còn có một mảnh ghép khác nữa.” “Chưa kể đến,” Itamar lại bới trong đống giấy tờ của mình, “có một lĩnh vực mà những cái tên Do Thái nổi trội hơn bất cứ lĩnh vực nào khác. Tớ đang nói đến một lĩnh vực mà có lẽ là có đóng góp lớn nhất vào điều bí ẩn mà ta đang tìm hiểu… ngành truyền thông đại chúng Mỹ,” cậu ta thốt lên, giọng đầy chất kịch. “Để ý mà xem,” cậu ta lại cầm một tờ giấy khác trong tay, “hầu hết các trường quay lớn nhất ở Hollywood – Disney, Touchstone, Universal, MCA, Caravan, Dreamworks… – được điều hành vởi những người như Michael Eisner, David Geffen, Steven SpeilbergSpielberg, Jeffrey Katzenburg, Edgar Bronfmann, và Arnon Milchin, đấy mới chỉ là kể một số thôi. Ba mạng truyền hình lớn, ABC, NBC và CBS được điều hành bởi những người Do Thái. Những ấn phẩm tin tức như Time, Newsweek, The Washington Post, The New York Times, and The Wall Street Journal thuộc sở hữu của người Do Thái, với những biên tập viên và phụ trách chuyên trang người Do Thái. “Người Do Thái cũng điều hành những công ty thu âm hàng đầu, những đài phát thanh, nhà xuất bản lớn. Danh sách vẫn còn dài lắm. Nói tóm lại, kể từ khi thế giới này trở thành một ngôi làng toàn cầu nhỏ bé nằm dưới ảnh hưởng của ngành truyền thông – kẻ thống trị mọi suy nghĩ và khía cạnh của cuộc sống con người, dường như người Do Thái và ảnh hưởng của họ đã có mặt ở mọi nơi.” Cậu ta kết thúc bài phát biểu bằng một nụ cười giả tạo rộng đến mang tai. “Tớ không muốn nói cho cậu biết trông cậu giống cái gì đâu,” tôi lẩm bẩm. Itamar mở to mắt. “Nói đi,” cậu ta gật đầu khích lệ. “Cậu cứ như một kẻ cực đoan chính trị ấy,” tôi giễu. “Điều cậu vừa nói giống như kiểu tuyên truyền bài Do Thái vậy.” “Chính xác!” Itamar reo lên và đập tay xuống mặt bàn. “Tớ lấy những thông tin này trên trang web bài Do Thái mà.” “Và mục đích của cái này là…?” “Chủ nghĩa bài Do Thái là một trong những lời giải thích mang ý nghĩa tiêu cực đằng sau bí ẩn này,” cậu ta giải thích, giọng đầy hân hoan. “Cứ cho là những số liệu thống kê chúng ta vừa điểm qua là đúng đi. Chúng ta chẳng thể làm gì để thay đổi điều đó được, nhưng thực tế đúng là có rất nhiều người Do Thái nắm giữ những vị trí quan trọng trong ngành truyền thông Mỹ. Đó là sự thật! Vấn đề thực chất ở đây là những tổ chức bài Do Thái xuyên tạc những thực tế như vậy vì mục đích riêng của họ,” cậu ta nói giọng chán nản. “Trong lịch sử, những người bài Do Thái đều luôn thành công trong việc truyền bá vào đầu óc công chúng suy nghĩ rằng người Do Thái là những người nguy hiểm. Chẳng thiếu gì những học thuyết tuyên bố rằng người Do Thái mang tham vọng làm bá chủ thế giới. Khả năng lập luận của người Do Thái là vũ khí duy nhất chống lại được những kẻ thù ghét mình,” cậu ta khẳng định. “Sự thật là,” tôi nhẹ nhàng thay đổi quan điểm của mình, “khi thấy quá nhiều người Do Thái nắm giữ hầu hết những vị trí quan trọng nhất trong ngành truyền thông, người ta có thể cho rằng người Do Thái có ảnh hưởng quá lớn.” “Tớ không nghĩ thế.” “Tại sao lại không chứ? Nhìn mà xem. Truyền thông là một thứ máy tẩy não. Người Do Thái kiểm soát ngành truyền thông. Còn kết luận nào logic hơn nữa chứ? Người Do Thái thực sự kiểm soát suy nghĩ của chúng ta! Cậu biết điều tớ nói là đúng mà,” tôi nhoài về phía cậu ta với một vẻ mặt tự mãn. Itamar giơ tay lên và vẫy về một bên, như kiểu định gạt đi những nhận xét của tôi, và lắc đầu không đồng tình. “Đầu tiên,” cậu ta bắt đầu, “một người giữ quan điểm như thế rõ ràng là ý thức về lòng tự trọng rất tệ.” Cậu ta nhìn chằm chằm vào tôi, mắt mở to. “Thứ hai, đã bao giờ cậu xem một bộ phim hay một chương trình TV, kiểu chương trình Do Thái, mà cảm thấy chương trình đó đang cố gắng tẩy não người xem bằng những đức tin Do Thái chưa, dù là rõ ràng hay tinh vi đi chăng nữa? Chẳng hạn, tớ không nhớ là Người ngoài hành tinh (E.T) có cảnh nào miêu tả lễ minyan(8) buổi sáng dù rằng ‘cha đẻ’ của nó là Stephen SpeilbergSpielberg, một người Do Thái. Tớ cũng chưa thấy có lần nào Clint Eastwood hôn lên chiếc mezuzah(9) trên cửa mỗi lần anh ta bước vào phòng, hay cầu nguyện trước khi nhảy lên ngựa và phi nước đại trong bóng hoàng hôn hết.” Một nụ cười rộng ngoác nở trên khuôn mặt cậu ta. “Thực ra, tớ nhớ một lần trong phim Phòng cấp cứu (E.R) George Clooney đã quấn bùa da lên cánh tay bệnh nhân,” Jerome nhảy vào. “… nhưng, giờ nghĩ lại, hình như đó là cái băng đo huyết áp thì phải,” hắn nhanh chóng tự sửa. “Trông chúng giống nhau lắm, các cậu biết mà.” Itamar duỗi chân và bắt đầu gõ nhịp ngón tay lên mặt bàn. “Được rồi, vậy có thể người Do Thái kiểm soát Hollywood, nhưng đạo Do Thái, hay tư tưởng Do Thái thì không,” cậu ta kết luận. “Cậu đi mà nói điều đó với bọn 3K(10) ấy,” Jerome nói đúng câu tôi đang định nói khi hắn đứng lên khỏi bàn. “Tớ đã thử rồi nhưng thính giác của những kẻ mũ trùm trắng đó có vẻ không được tốt lắm.” “Xin lỗi, các quý ông,” Jerome nói và đi về phía nhà vệ sinh. Itamar sắp xếp lại đống giấy tờ cho gọn gàng và đặt chúng trên bàn, ngay trước mặt tôi. “Cầm đi,” cậu ta nói. “Những thứ này dành cho chương đầu tiên.” Tôi cầm lấy mớ giấy tờ và bỏ vào chiếc túi nhựa đựng cả ổ bánh mỳ đen vừa mới nướng mà sáng đó tôi đã mang theo. “Nói tóm lại, bí ẩn đã được phổ biến dựa trên ba điểm cơ bản,” cậu ta bắt đầu thiết lập kết luận của mình. “Những cái tên Do Thái nổi bật chiếm giữ nhiều vị trí quan trọng trong những lĩnh vực khác nhau, các số liệu thống kê cho thấy những thành công vĩ đại mà dân tộc nhỏ bé này đã đạt được, và cuối cùng là chủ nghĩa bài Do Thái.” Tôi nhanh chóng ghi vội mọi điều cậu ta nói lên chiếc khăn giấy. “Nhân tiện, điều thú vị ở đây là,” cậu ta nói thêm, “những người không theo đạo Do Thái có xu hướng gắn thành công của người Do Thái với sự sắc sảo trong trí tuệ của họ.” “Nhưng điều đó cũng có lý mà, đúng không?” tôi nói to điều mình đang băn khoăn. “Dù thế, nhưng vẫn còn những nguyên nhân khác nữa. Sự cần cù, động cơ, sự may mắn. Tuy vậy, rõ ràng trong trường hợp của người Do Thái, sự thành công của họ có thể coi là gắn liền với trí tuệ. Trong suốt lịch sử của mình, có quá nhiều điều chống lại họ, và chắc chắn là may mắn không hề đứng về phía họ. Cậu có nhớ cậu đã hỏi là liệu người Do Thái có thông minh hơn không? Câu trả lời là ‘Không.’ Họ không thông minh hơn. Nhưng rõ ràng, họ sử dụng trí thông minh của mình theo một cách khác! Và đó sẽ là bước tiếp theo trong cuộc tìm hiểu của chúng ta: những kỹ năng và phương pháp độc đáo, cơ bản mà người Do Thái đã sử dụng để phát triển trí tuệ.” Itamar lôi trong túi áo sơ mi ra một tập giấy nhỏ, lật qua vài trang và ấn xuống để tập giấy mở đúng trang cậu ta muốn. “Chúng ta sẽ xem xét điều này,” cậu ta mỉm cười. “Xem xét cái gì cơ?” tôi thấy ngạc nhiên vì Itamar có thể bị thu hút bởi phần tiếp theo của cuộc thảo luận dễ dàng đến thế. “Những nguyên tắc cơ bản.” Tôi nheo mắt cố bắt kịp dòng suy nghĩ của cậu ta. “Trước khi nói đến những phương pháp,” cậu ta lặp lại, “ta cần phải vạch ra một số nguyên tắc cơ bản.” Cậu ta ngẩng đầu nhìn tôi. Tôi chậm rãi nhìn lại cậu ta, chờ đợi một lời giải thích mà biết sẽ chẳng bao giờ có. “Nói lại đi.” Tôi bắt đầu thấy khó chịu. “Có thể đến lần thứ ba tớ sẽ hiểu.” “Tại sao?” Cậu ta băn khoăn. “Khi cậu mua một trò chơi điện tử trên máy tính,” cậu ta lập luận, “trước khi học tất cả những thứ về mặt kỹ thuật, những thủ thuật nho nhỏ và những thiết lập cậu có thể thay đổi để cải thiện khả năng của nó, đầu tiên cậu phải hiểu được những nguyên tắc cơ bản đã, đúng không?” Lại một sự im lặng nữa bao trùm không khí khi tôi cố gắng hiểu những điều cậu ta nói, nhưng bất thành. Nếu Jerome là ví dụ điển hình của một người hơi chậm hiểu thì Itamar lại là kiểu người luôn bỏ qua những giải thích cần thiết. Cậu ta luôn cho rằng người khác có thể tự mình hiểu ra. “Tất cả những điều này liên quan thế nào tới nhau,” tôi hỏi, không để lộ ra là thực tế tôi cũng chẳng hiểu chính xác ví dụ của cậu ta về trò chơi trên máy tính. “Chắc chắn là phải có những đặc điểm hay hành vi mang tính đặc trưng, chỉ có duy nhất ở người Do Thái,” cậu ta ngẫm nghĩ. “Một điều gì đó cho họ những lợi thế hơn những dân tộc khác.” “Có thể, nhưng làm thế quái nào mà tớ biết được chứ?” “Cậu không cần phải biết. Thế thì chúng ta mới ngồi đây để nói về điều đó chứ,” cậu ta trả lời. Chúng tôi ngồi im lặng một lúc cho đến khi tôi không thể chịu nổi nữa. “Tớ chẳng hiểu gì hết. Không một chút gì,” tôi căng thẳng. Đúng lúc đó, Jerome trở về từ nhà vệ sinh và ngồi xuống ghế. “Đang bàn chuyện gì vậy?” “Bọn tớ đang cố tìm hiểu xem điều gì khiến cho người Do Thái khác với những dân tộc khác, để tìm ra một vài manh mối hoặc những nguyên nhân dẫn đến sự thông minh và trí tuệ đặc biệt của họ,” Itamar giải thích. Jerome vỗ tay, đan những ngón tay vào nhau và gật gù cười tự mãn. “Lễ bris(11),” hắn tuyên bố mà không hề chớp mắt. “Hiểu rồi.” Itamar chậm rãi ngẩng đầu lên. “Thế cái lễ đó thì có liên quan gì đến bộ óc chứ?” Jerome nhắm mắt lại. Trông hắn cứ như đang chìm trong suy nghĩ để tìm kiếm câu trả lời vậy. Đột nhiên, hắn mở mắt và bắt đầu gật gù đầy quả quyết. “Cũng tương tự như những người bị tật nguyền vậy,” hắn khẳng định. “Khi một giác quan bị tổn thương, cơ thể sẽ đền bù lại bằng việc phát triển một giác quan khác mạnh mẽ hơn. Như người mù chẳng hạn, thính giác của họ phát triển hơn người bình thường rất nhiều. Đối với người Do Thái, cơ quan sinh dục của họ bị tổn thương nhẹ nên trí não của họ được đền bù.” Chúng tôi cùng ngồi im lặng. Cả Itamar và tôi đều biết hắn đang giễu cợt chúng tôi nhưng không phải ngày nào hắn cũng… sáng láng thế. “Vậy cậu giải thích đi, nếu được, là tại sao cậu cũng trải qua quy trình tương tự như thế mà lại chẳng được gì từ sự đền bù tự nhiên đó?” Itamar thách thức. Và trong vòng 15 phút sau đó, chúng tôi tham gia vào cuộc thảo luận ngớ ngẩn về cơ thể con người, việc buôn bán quần áo của Jerome và, dĩ nhiên, cả đội tuyển đấu kiếm Israel nữa – một chủ đề mà từ trước đến giờ chưa từng có mặt trong những cuộc thảo luận của chúng tôi. Chúng tôi gọi thêm một lượt cà phê nữa, và đến khoảng 12 giờ 30 phút, chúng tôi quyết định dừng. Trên đường đi ra, Itamar bỗng nhiên nhớ ra rằng chúng tôi chưa xác định nguyên tắc đầu tiên đằng sau trí tuệ Do Thái. “Ngoài lễ bris ra,” hắn khởi xướng, “hai cậu nghĩ điều gì thực sự khiến người Do Thái đặc biệt?” “Họ đang đói,” tôi khẳng định, nghe tiếng bụng réo ùng ục khi giờ ăn trưa đang sắp đến. “Tuần sau chúng ta sẽ tìm hiểu sau.” “Ôi, thôi nào,” cậu ta nằn nì. “Không cần phải là sáng kiến gì vĩ đại lắm đâu. Có lẽ là một điều gì đó mà người Do Thái làm khác những dân tộc khác. Có thể là cái gì đó mà họ sáng tạo ra. Một cái gì đó khác, đi nào?” “Họ phát minh ra bánh vòng,” Jerome xen vào, thể hiện sự hưởng ứng với cơn đói của tôi. “Không, nghiêm túc đấy.” “Họ sáng tạo ra Chúa.” Fabio không biết từ chỗ nào bỗng nhiên xuất hiện. Cả ba chúng tôi nhìn anh ta chằm chằm và băn khoăn không hiểu anh ta đột nhiên đến từ chỗ nào và làm sao mà anh ta biết chúng tôi nói về chuyện gì. Anh ta đọc được điều chúng tôi đang nghĩ và quay qua Itamar, “Anh muốn biết người Do Thái sáng tạo ra cái gì và nguồn gốc trí tuệ của họ, đúng không?” anh ta nói bằng giọng Achentina. “Ờ, đúng,” Itamar lẩm bẩm, vẫn còn kinh ngạc. “Đó là điều mà ba người thảo luận cả sáng nay, đúng không?” Ba chúng tôi cùng gật đầu như những bọn trẻ con nghịch dại vừa bị bắt quả tang tại trận. Ở một khía cạnh nào đó, tôi còn cảm thấy hơi xấu hổ. Chúng tôi đã không nói chuyện kiểu những cuộc nói chuyện mà người ‘bình thường’ hay nói trong lúc uống cà phê sáng thứ sáu. Thậm chí lúc này, nói về đội tuyển đấu kiếm Israel có khi còn không làm tôi xấu hổ bằng. “Người Do Thái có trí tưởng tượng đặc biệt,” Fabio tiếp tục trong khi tựa người vào chiếc máy tính tiền bên cạnh quầy thu ngân. “Họ phát triển khái niệm về Chúa với hình thức hiện tại. Thời của họ, khái niệm đó không tồn tại. Thời đó, chỉ có các pha-ra-ông và những vị thần nhưng không phải dành cho người Do Thái! Họ có kiểu chúa khác.” Anh ta giơ ngón trỏ lên trời. “Tôi muốn nói với các anh rằng họ đã tạo ra Chúa. Mọi thứ bắt nguồn từ đó.” Tôi nhìn Itamar và mỉm cười, “Bingo(12)!” “Bingo!” Itamar cười đáp lại, đầy mãn nguyện. Jerome ôm lấy hai chúng tôi và hớn hở, “Thế quái nào mà bọn mình lại không nghĩ đến điều này nhỉ? Ai mà nghĩ… người Do Thái lại phát minh ra Bingo chứ!” 3 LỜI TIÊN TRI CỦA FRANKEL Nguyên lý của trí tưởng tượng Một tuần sau, trong lúc tản bộ đến quán Café Ladino, chúng tôi đã rất ngạc nhiên thấy Fabio đang đứng trước cửa quán và đưa tay vẫy chúng tôi. Anh ta có vẻ hào hứng hơn mức bình thường khi thấy chúng tôi đi đến. Cái việc anh ta đứng ngoài chờ chúng tôi vào mười giờ đúng làm chúng tôi hơi chột dạ. “Làm thế nào mà hắn nhớ được chính xác giờ bọn mình đến đây nhỉ?” Jerome tự hỏi. “Bọn mình mới chỉ gặp nhau kiểu này trong vòng hai năm qua thôi. Tớ nghĩ chả có gì lạ khi cuối cùng hắn cũng nắm được quy luật đó.” Itamar trả lời khi ba người chúng tôi vẫy tay chào lại. “Các cậu không thấy mình giống những lão già khốt ta bít à?” “Còn hơn thế ấy chứ!” tôi gật gù đồng ý. “Xin lỗi, cho tớ nói,” Jerome ngắt lời, hơi cao giọng, “nhưng tại hai ông bố các cậu mà bọn mình mới phải tụ tập vào sáng thứ sáu như hội hưu trí thế này. Người bình thường ấy, họ đi chơi bời vào buổi tối cơ.” “Vấn đề ở đây là, Jerome à, với cậu, buổi tối bắt đầu lúc 11 giờ đêm còn đêm thì phải đến 3 giờ sáng. Cái từ ‘buổi sáng’ thậm chí còn chả có mặt trong từ điển của cậu nữa.” “Bởi vì tớ là người bình thường mà!” Jerome phản pháo. “Người bình thường ấy, họ làm việc vào buổi sáng.” “Tớ làm việc nhiều hơn hai người các cậu. Tớ có công việc kinh doanh của riêng mình, văn phòng riêng và thậm chí còn có cả một cô thư ký nữa. Các cậu thì làm gì có cái gì chứ.” “Ờ, phải rồi,” tôi nói mát. “Văn phòng của cậu có thể được lên Discovery Channel đấy, trong chương trình những nơi lạ lùng và quái dị nhất, những nơi chưa từng có ai dám đặt chân đến.” “Đúng thế, và còn cô thư ký của cậu nữa, cô ta cứ đến rồi đi, như làn gió vậy,” Itamar cười khúc khích. Trước khi Jerome kịp bảo vệ danh dự của mình, chúng tôi đã đến quán và nồng nhiệt bắt tay Fabio. “Que pasa amigos? Nào, vào đi thôi,” anh ta nói với một sự nhiệt tình đáng ngờ. Itamar, người đầu tiên bước qua cửa, quay lại nói với tôi, “Tuần trước cậu có vô tình để lại tiền boa hậu hĩnh quá không đấy?” “Tớ nghĩ có khi còn tệ hơn thế ấy,” Jerome thốt ra. “Tớ có cảm giác hắn cư xử thế này là do cái vụ ‘Trí thông minh Do Thái’ thôi.” Jerome đã đúng. Fabio tiếp tục diễn thuyết, chính xác từ cái đoạn mà anh ta đã kết thúc tuần trước. “Các anh có nhớ tôi đã nói sao không, rằng người Do Thái đã sáng tạo ra Chúa ấy?” Cả ba chúng tôi gật đầu im lặng. “Mọi người muốn uống gì nào?” Và thế là Fabio ngồi vào chiếc ghế thứ tư, điều này làm Jerome chán nản ghê gớm, và cho chúng tôi một buổi sáng tuyệt vời để khám phá về nguyên tắc đầu tiên của Trí thông minh Do Thái. “Hàng ngàn năm trước, một bộ lạc đã lang thang khắp sa mạc. Một bộ lạc mà nhiều năm sau này lớn mạnh và trở thành một quốc gia vĩ đại,” Fabio bắt đầu bằng phong cách rất kịch nghệ. Fabio, có lẽ tôi nên nói qua một chút, đã từng học triết trong trường đại học cho đến khi anh ta đi đến cái kết luận rằng mở một quán cà phê sẽ mang đến nhiều cơ hội phát tài hơn. Mặc dù đổi nghề như vậy nhưng những cuộc thảo luận kiểu trí thức thế này vẫn là niềm đam mê của anh ta. “Bộ tộc này có những quy tắc và tục lệ,” anh ta tiếp tục đầy hào hứng, “phù hợp với mọi khía cạnh của cuộc sống nơi sa mạc. Họ cũng giao lưu với những người khác sống trong cùng địa bàn, những quốc gia với những giá trị, văn hóa và đức tin khác họ. Tuy vậy, tất cả đều có chung một điểm rất quan trọng – họ đều tin vào một thứ quyền lực to lớn hơn, thứ quyền lực có thể điều khiển sinh, tử và những điều huyền diệu trong vũ trụ. Vào thời đó, hầu hết cư dân của thế giới đều tôn thờ các vị pha-ra ông, các vị thần và các thực thể thần thánh khác. Nhưng, khi người Do Thái gặp những người hàng xóm của mình, rất có thể họ sẽ có một cuộc trò chuyện điển hình, kiểu như: “Ông đã nhìn thấy tượng thần Canaanite mới trong công viên chưa?” “Chưa, trông nó thế nào?” “Hay cực. Kiểu mắt lác với môi sưng ấy. Cái mũi chắc chả trụ được đến hai tuần đâu. Họ dùng chất liệu không…” “Thế cái ông thần này làm gì?” “Tôi nghĩ chắc là để tăng năng suất, cầu mưa, và nhất là chống lại các loại sâu bệnh chung chung, rồi bệnh tật, tiểu đường và tội lỗi gì đó…” Ba chúng tôi cùng mỉm cười. Chúng tôi nhận ra rằng Fabio ngoài việc là một diễn giả rất lành nghề còn là một diễn viên hài đầy triển vọng nữa. “Có một điều cơ bản nào đó về đền thờ bách thần của những người ngoại đạo đã làm những người Do Thái bận tâm,” anh ta tiếp tục. “Người Do Thái cũng tin vào một thứ quyền lực lớn lao hơn và đối với họ thứ quyền lực đó là độc nhất – vị Chúa Do Thái. Có một điều rất dễ nhận thấy giữa Chúa của người Do Thái và những vị chúa của người ngoại đạo khác, một điều không thể diễn tả được, một điều không có trong bối cảnh ngày nay, và chắc chắn là cũng không ở thời đó; chúa của người Do Thái là một thể vô hình. Vị chúa đó không mang một hình dạng, một màu sắc hay một mùi hương cụ thể. Người ta không thể nhìn thấy vị chúa đó. Không ai có thể chạm vào Người. Người ta chỉ có thể tưởng tượng ra Người; một nhiệm vụ bản thân nó đã rất khó khăn. Thậm chí đến cả những dân tộc tiên tiến nhất, như là Hy Lạp hay La Mã chẳng hạn, cũng có những vị chúa được xác định rõ ràng. Mang đức tin đặt vào chúa của những dân tộc khác mới dễ dàng làm sao. Những vị chúa đó là những thực thể mang tính vật chất. Cái gì nhìn thấy được là có được. Cái gì không thấy tức là không tồn tại. Đó là quan điểm tâm linh của thời kỳ đó. “Bây giờ, hãy thử tưởng tượng xem cần phải có trí tuệ và sáng tạo ở mức độ nào mới rút ra được một kết luận rằng Chúa là một điều trừu tượng. Ở núi Sinai, chúa đã hiện ra trước Moshe Rabinu dưới hình thức một bụi cây đang bốc cháy, dù Người chẳng phải bụi cây mà cũng chẳng phải đám lửa. Người là một thứ gì đó vĩ đại hơn thế nhiều. ‘Bạn sẽ so sánh Chúa với ai [và] bạn sẽ so sánh bức chân dung nào với Người?’ sách kinh Isaiah đã đưa ra một câu hỏi như vậy đó. Người trông thế nào và Người có những đặc điểm gì? Vậy chính xác Chúa là gì? Điểm cuối cùng tự bản thân mỗi người Do Thái phải quyết định, mà điều này chỉ có thể làm được bằng sự tưởng tượng. Các dân tộc khác luôn đấu tranh chống lại những lời sỉ nhục này, và thậm chí chống lại cả sự hoài nghi đôi nghi nhen nhóm trong trái tim họ. Đơn giản, họ sẽ chỉ nhắm mắt lại và cầu nguyện vị Chúa của mình, đến sự tưởng tượng của họ. Họ sẽ cầu nguyện Chúa dưới bất cứ dạng thức nào kết tinh trong tâm trí họ. Họ mang lời cầu nguyện của mình đến một thứ quyền lực cao hơn mà thực tế chỉ đơn giản là sản phẩm sinh ra từ trí tượng tượng của họ nhưng họ biết rằng hình ảnh đó là đúng. Đó là vị Chúa của họ, và không ai có thể nói với họ liệu cái mà mắt họ thấy có thực là Chúa hay không. “Hàng ngàn năm trôi qua, và ba tín ngưỡng thờ một thần lớn đã tiếp nhận quan niệm của người Do Thái về Chúa trời, quan niệm cho rằng thứ quyền lực lớn lao hơn đó một phần là sản phẩm từ trí tưởng tượng của một con người. “Bất cứ ai tin vào Chúa trời, dù đó là một người Hồi giáo, một người Do Thái hay một người Công giáo, đều biết điều tôi đang nói đây. Hình ảnh nào hiện lên trong đầu bạn khi bạn nghe đến từ ‘Chúa?’” Fabio đặt ra câu hỏi, chẳng cho riêng ai trong chúng tôi. “Cho dù bạn có muốn hay không thì một hình ảnh cụ thể nào đó vẫn hiện lên trong đầu bạn.” “Đúng vậy,” tôi đồng ý với anh ta. “Cá nhân mà nói, tôi hình dung ra ông nội tôi, ông đã mất nhiều năm trước rồi. Tôi cũng không biết tại sao lại thế. Hình ảnh ông cứ tự nhiên hiện ra, như kiểu có một sự liên kết tự do khi tôi tưởng tượng ra Chúa. Cậu thì sao hả Itamar?” Itamar nhắm mắt. “Chúa,” cậu ta vỗ vỗ lên trán, “mình thấy những đám mây hình một ông già râu tóc bạc phơ.” “Thế còn cậu, Jerome?” Jerome nhìn sang Fabio, giơ tay lên và làm động tác như kiểu đập đập trong không khí. “Tớ thấy một người đang lượn lờ trong không trung, lom khom và méo mó. Ông ấy quay lại, xoay một vòng trong khi bay lượn, đưa tay lên từ đằng sau đầu, và làm một cử động như thế này…” Jerome đứng lên khỏi ghế để minh họa, “Ông ấy đập quả bóng vào rổ trong tiếng gầm rú cổ vũ của đám đông.” Cậu ta giơ hai ngón tay làm thành chữ “V” và nhìn sang trái, sang phải trong khi nhẹ nhàng gật đầu. “Michael Jordan,” tôi giải thích cho các khán giả đang theo dõi cậu ta. “Giáo sĩ Joseph Ashkenazi, còn được gọi là Joseph Cao, sống ở cuối thế kỷ XIII, đã kết luận rằng một người sùng đạo sẽ tạo ra hình ảnh của Chúa khi, ‘Những chữ cái của cái tên được tiết lộ hiện ra trước mắt người đó thật rõ ràng. Người đó sẽ cảm thấy giọng nói, ngửi thấy mùi sấm và sự ồn ào trong mọi giác quan, và sau đó trong tâm trí mình, người đó sẽ nhìn thấy mọi cảnh tượng, ngửi thấy mọi loại mùi, nếm mọi loại vị và cảm nhận được từng cái tiếp xúc và tất cả sẽ bừng nở khi những chữ cái thần thánh xuất hiện trước mắt người đó, và đó chính là hình ảnh tiên tri.’ Vị giáo sĩ ấy đó đã nói thế đấy… Josep Cao.” Sau khi trích dẫn cả một đoạn từ trí nhớ của mình, Fabio cười bẽn lẽn. “Một người, giáo sĩ Nahum, đã viết, ‘Khi nói ra tên Người, hãy tưởng tượng đến những chữ cái thần thánh trước mắt mình trong một chiếc bánh xe rực lửa…’” “Trí tưởng tượng là một khả năng mà chúng ta thường bỏ quên bởi vì nó đòi hỏi một nỗ lực khá lớn,” Jerome gật đầu buồn bã. “Cậu nói đúng,” tôi đồng ý, “đó là bởi vì chúng ta đang sống trong một thế giới của những chiếc lò vi sóng – ta muốn mọi thứ lúc nào cũng phải sẵn sàng phục vụ ta. Đó là lý do tại sao hầu hết mọi người thích đến rạp xem phim hơn ngồi nhà đọc sách. Tại xem phim thì dễ hơn nhiều mà. Trong một bộ phim, bạn có thể thực sự thấy cốt truyện bày ra ngay trước mặt mình mà không cần phải căng óc lên để tưởng tượng ra những hình ảnh.” “Suy nghĩ khiến chúng ta khó chịu,” Itamar nói thêm, “Jan Masrick, Tổng thống Czechoslovakia đã nói vậy.” “Chính xác,” Fabio tiếp tục, “việc gì ta phải mất công tưởng tượng xem Chúa trông thế nào trong khi chỉ cần ra ngoài và mua một bức tượng Chúa làm sẵn, một bản sao ý tưởng của một nhà điêu khắc về Chúa? Đó là suy nghĩ của những người ngoại đạo, và thậm chí đó cũng là suy nghĩ của hầu hết mọi người thời nay. Người Do Thái cũng biết rằng cầu nguyện trước một bức tượng dễ hơn nhiều nhưng họ lại chọn cách khác. Vì một lý do nào đó, họ cảm thấy rằng một vị chúa mà mũi làm bằng đất sét rồi cuối cùng kiểu gì cũng rơi ra thì không thể nào tượng trưng, chứ chưa nói đến là một quyền lực cao hơn được. Kết luận rất logic này đã dẫn họ đến việc đòi hỏi bản chất thật sự của Chúa. Càng nghĩ nhiều về điều đó, người Do Thái càng đi đến kết luận rằng hình ảnh chân thật duy nhất về Chúa chính là sản phẩm tạo ra từ trí tưởng tượng của chúng ta. Vào ngày đó, họ nhận ra rằng trí tưởng tượng chính là sức mạnh. Nếu bạn có thể hình dung ra Chúa, tin vào Người và cảm thông với những gì bạn nhìn thấy bằng con mắt của lý trí, thì chính cái khả năng tưởng tượng đó sẽ giúp bạn tạo nên những ý tưởng độc nhất mà chưa ai từng nghĩ đến, những ý tưởng có thể làm xoay chuyển thực tại. ‘Hình ảnh tiên tri’, giáo sĩ Joseph Cao đã gọi như vậy. Và tiên tri là gì?” “Hình ảnh tưởng tượng trở thành thực tế,” tôi bật ra, cảm thấy sự kích động trào lên từ khám phá này. “Giáo sĩ Joseph Cao không phải là người duy nhất nói về trí tưởng tượng từ quan điểm tiên tri. Giáo sĩ Judah Ha-Levi, khi bàn về trí tưởng tượng của người Do Thái cũng đã nói với nhà vua Kurazim rằng, ‘hình ảnh tiên tri có tính rõ ràng hơn là logic.’ Sự tưởng tượng, theo ông, không chỉ mạnh hơn thực tại, nó còn mạnh hơn cả logic. Nói cách khác, một điều không logic có thể trở nên logic với sự hỗ trợ của một trí tưởng tượng sáng tạo!” “Rất đúng,” Itamar nói. “Một người bình thường sống ở thời Trung đại, ví dụ thế, liệu có dám mơ đến một ngày đặt chân lên mặt trăng không? Chỉ sau hàng ngàn năm, hàng vạn năm nhìn chăm chăm lên mặt trăng, tưởng tượng xem ở trên đó thế nào, thì nhân loại mới tìm ra được phương pháp để hiện thực hóa giấc mơ đó.” “Một ví dụ khác,” Fabio nói thêm. “Hãy nghĩ đến một người sống ở thời cổ đại, người đó tưởng tượng mình có thể chuyển hình ảnh của chính mình đến một nơi cách đó hàng dặm đường.” “Ti-vi,” Itamar đáp. “Ti-vi, radio, máy fax…” “Chính xác,” Jerome xen vào phụ họa làm chúng tôi khá ngạc nhiên. “Đã có ai từng tưởng tượng Đan Mạch giành được cúp bóng đá châu Âu chưa?” Cậu ta lắc đầu hoài nghi. Một sự im lặng nặng nề rớt xuống chúng tôi. Tất cả chúng tôi cùng nhìn chằm chằm vào Jerome với những khuôn mặt hoài nghi. Không phải vì chúng tôi không tin rằng Đan Mạch giành cúp châu Âu. Chỉ đơn giản là chúng tôi không tin vào tai mình nữa. “Không hẳn là một ví dụ hay lắm,” Itamar nói. “Albert Einstein cũng đã thú nhận rằng chỉ với sự giúp sức của trí tưởng tượng, ông ấy mới sáng tạo ra thuyết tương đối.” Tôi nhớ lại một cuốn sách mình đã đọc và cố đưa cuộc thảo luận trở về với chủ đề ban đầu của nó. “Trong cuốn tự truyện của mình, Einstein đã nhắc đến hình ảnh mà từ đó ông phát triển nên thuyết tương đối. Lần đầu tiên ông bắt gặp hình ảnh đó là khi ông 16 tuổi, thấy mình ra đường trong một giấc mơ giữa ban ngày. ‘Sẽ thế nào,” Einstein nghĩ, “nếu ta chạy bên một tia sáng với cùng một tốc độ nhỉ?’ Hầu hết mọi người, theo như Einstein nói, đều sẽ quên giấc mơ nho nhỏ này ngay khi nó vừa nảy lên trong tâm trí họ. Nhưng Einstein lại khác. Ông trằn trọc vì câu hỏi này trong suốt gần mười năm cho đến khi tìm thấy câu trả lời.” “Mà nhân tiện,” tôi tự ngắt lời mình, “người có trí nhớ tốt nhất thế giới từng được biết đến là một người Nga Do Thái tên là Solomon Shershevsky. Ông ta nhớ được mọi thứ nhờ sử dụng những kỹ thuật liên tưởng dựa trên trí tưởng tượng tuyệt vời của mình. Chẳng hạn, Shershevsky có thể nhớ được danh sách những từ vô nghĩa chỉ sau một lần nghe đọc và có thể đọc lại danh sách đó từ đầu đến cuối. Hơn tám năm sau, khi nhà tâm lý học A. L. Luria hỏi xem ông còn nhớ danh sách đó không, Shershevsky đã đọc lại toàn bộ bản danh sách, không sai một từ. Mà rõ ràng là Shershevsky không hề nghĩ đến danh sách đó trong suốt tám năm. “Vào năm 1920 khi các nhà tâm lý học Xô-viết bắt đầu nghiên cứu trí nhớ siêu phàm này, họ đã phát hiện ra rằng bí quyết của ông dựa trên kỹ thuật tương tự mà Giáo sĩ Joseph Cao đã nêu ra – sự ứng dụng mạnh mẽ tất cả các giác quan. Shershevsky có thể nhìn thấy những màu sắc khi nghe những bản nhạc. Ông ta có thể ngửi thấy giọng nói, cùng với hàng loạt những điều cực kỳ lạ lùng khác. Chẳng hạn, khi trò chuyện với chuyên gia tâm lý học nổi tiếng L. S. Vigotsy, Shershevsky đã nhận xét, ‘Ông có giọng nói màu vàng thật kêu răng rắc!’ “Shershevsky nhớ được danh sách những từ vô nghĩa và đọc lại cho Luria bằng cách tạo ra những hình ảnh từ những từ ngữ đó, sử dụng trọng lượng và mùi vị của chúng. Thậm chí, ông ta còn nhớ được cách vào viện nghiên cứu ở Mat-xcơ-va bằng cách gợi lại ‘vị’ mặn của những viên gạch trên bức tường dẫn vào nơi đó. “Tại những cuộc hội thảo về trí nhớ, người ta dạy những kỹ thuật phi thường dựa trên việc làm chủ trí tưởng tượng. Tuy vậy, không có gì phải nghi ngờ rằng Shershevsky đã thành công trong việc nâng tầm trí tưởng tượng của mình lên một mức mà hầu như toàn nhân loại không thể nào vươn tới được.” “Giọng cậu thực ra có màu xanh và những đường cong khá đẹp đấy,” Jerome bắt chước bằng giọng mái, eo éo. Itamar mỉm cười, quay sang Fabio và nói, “Có một điều tôi vẫn chưa hiểu lắm. Rõ ràng, một trí tưởng tượng phong phú, sáng tạo đâu chỉ là đặc trưng của người Do Thái. Vì chúng ta đang nói đến tri thức Do Thái, và đang tìm kiếm những khả năng độc đáo, đặc biệt của người Do Thái, anh có nghĩ là người Do Thái có trí tưởng tượng siêu phàm không, hay đơn giản chỉ là họ dùng trí tưởng tượng của mình theo một cách khác? Tôi cũng chẳng hiểu rõ câu hỏi mình đặt ra nữa.” Fabio trả lời ngay lập tức, cứ như thể anh ta đã đoán trước được câu hỏi vậy. “Dĩ nhiên,” anh ta đáp lại, “người Do Thái phát triển một trí tưởng tượng cực kỳ sáng tạo bởi vì họ không còn lựa chọn nào khác nữa. Người Do Thái, hơn bất cứ dân tộc nào khác, biết rằng chỉ có trí tưởng tượng mới có thể cứu được họ thoát khỏi hoàn cảnh của mình. Chỉ với sự hỗ trợ của trí tưởng tượng, họ mới thâm nhập được vào trái tim tàn nhẫn của những kẻ áp bức và thuyết phục chúng đối xử với mình tốt hơn, và chỉ có sự giúp sức của trí tưởng tượng, họ mới có thể vượt qua được những rào cản mà những dân tộc khác đã đặt ra với họ. Và thậm chí nếu tất cả những nỗ lực này không mang lại cho họ thực tế tốt đẹp hơn thì ít nhất trí tuệ của họ sẽ đưa họ từ thực tế hà khắc đến với vương quốc tinh thần vượt xa khỏi thực tế đó.” “Các anh đã xem bộ phim của Pháp tên là La-Boom chưa? Nó khá nổi tiếng trong thanh thiếu niên ở thập kỷ 80. Nhớ không?” “Có chứ,” Jerome thốt ra vui vẻ trong khi tôi đang cố gắng hiểu xem Fabio đang dẫn đến đâu. “MƠ ƯỚC LÀ THỰC TẠI CỦA TÔI,” Jerome bắt đầu gào lên giai điệu quen thuộc. Tôi bỗng nhớ đến rạp hát ba phòng ở Haifa. Nó luôn đông đúc, chật hẹp, đầy bọn trẻ con đủ mọi lứa tuổi, và tất cả chúng tôi cùng nhau hát vang giai điệu này với khí thế hệt như khi hát những bài hát trong chương trình The Hocky Horror Picture Show. “Anh có để ý mình vừa nói gì không?” Fabio hỏi Jerome. “Mơ ước là thực tại của tôi,” Itamar nhắc lại. “Người viết lời bài này rất có thể khi đó đang nghĩ đến những mối tình trong sáng trẻ con và những hình ảnh đẹp đẽ. Người viết nên lời ca đó có thể không hề nghĩ nó sẽ được sử dụng làm khẩu hiệu của Viktor Frankl(13) trong những ngày ông phải ở Trại Auschwitz. Không có đến một hình hài của con người, không có gì giá trị, đói rách và ốm yếu trong thực tại của những cái lò và buồng khí, Viktor Frankl chẳng có gì ngoài một thứ – trí tưởng tượng. Ông đã viết nên một cuốn sách chân thật đến lạnh lùng có tên là Con người đi tìm ý nghĩa cuộc sống (Man’s search for meaning). “Tôi đã đọc cuốn đó rồi,” Itamar cắn môi vẻ đau đớn. “Frankl đã liên kết những ý nghĩ và những giấc mơ nho nhỏ của mình để giúp ông đứng vững và cho ông niềm hy vọng. Trong tất cả những điều đó, có một điều nổi bật hẳn lên.” Fabio lôi ra một cuốn sách nhỏ có bìa mềm và mở đến trang anh ta đã đánh dấu bằng tem vàng. “Các anh có muốn nghe không?” “Sao lại không chứ?” Jerome nhún vai, “hôm nay tôi thấy hơi buồn chán một tí.” Fabio đỡ gáy cuốn sách và đọc. “Chân tôi bị thâm tím hết cả vì đôi giày tệ hại đó. Tôi đã bật khóc vì đau đớn. Tôi phải đi trong một hàng dài những ‘thây ma’ từ trại đến khu lao động. Từng đợt gió lạnh cắt da cắt thịt quất vào chúng tôi khi tôi nghĩ đến cuộc đời khốn khổ này không biết đến khi nào mới kết thúc. Tối nay chúng tôi sẽ được ăn gì? Liệu chúng tôi có được thêm phần xúc xích để đổi lấy một lát bánh mỳ không? Tôi căm thù sự tồn tại này, sự tồn tại buộc tôi phải ngẫm nghĩ, từ ngày này qua ngày khác, từ giờ này sang giờ khác, về những chuyện tầm thường đến vậy. Tôi đã buộc tâm trí mình phải nghĩ đến chuyện khác. Bỗng nhiên, tôi thấy mình đang đứng sau bục diễn giả ở một phòng hội thảo đẹp lộng lẫy, tràn ngập ánh sáng và hơi ấm. Một đám đông thính giả đang ngồi trước mặt tôi trên những chiếc ghế bọc da thanh nhã. Tôi diễn thuyết về khái luận tâm lý tại những trại tập trung. Tất cả những điều trước đó đè nặng lên tôi giờ trở thành một thực tại xa vời. Bằng cách này, tôi cảm thấy mình vươn lên trên thực tại đau đớn, quay lại nhìn cái thực tại đó như một điều đã qua trong quá khứ. Những vấn đề của tôi và chính tôi trở thành chủ đề của đề tài nghiên cứu khoa học, tâm lý của mình!” “Nghe hơi buồn nhỉ,” Jerome lẩm bẩm. “Những điều họ phải chịu đựng… anh nói gì nhỉ, chúng ta chuyển chủ đề đi.” “Tôi không nghĩ thế,” Fabio tựa sát vào bàn hơn. “Điều đó không hề buồn bã. Nó mang đầy cảm hứng bởi vì chống lại mọi thử thách, sự tưởng tượng của Frankl đã trở thành thực tế! Viktor Frankl, cha đẻ của Trị liệu Ý nghĩ, một trong những nhà tâm lý học quan trọng nhất của thế kỷ XX, từ ngày thoát khỏi Auschwitzs, đã được mời đến diễn thuyết tại hơn 138 trường đại học trên khắp thế giới. Những ý nghĩ mang tính tưởng tượng của Frankl là nguồn gốc và là sức mạnh giúp ông sống sót. Chỉ mình những ý nghĩ đó thôi đã giúp ông đứng vững và cho ông niềm hy vọng.” “Đây chính là ví dụ rõ ràng nhất về chiến thắng của tâm hồn con người, một ví dụ chứng minh rằng trí tưởng tượng có thể vượt qua được cả thực tại tồi tệ nhất,” Itamar xen vào. “Tôi đã tìm ra được một thứ khác khá thú vị về mối liên hệ giữa người Do Thái và trí tưởng tượng đây, ”Fabio tiếp tục rút ra một trang giấy khác. “Người Do Thái có khả năng sống trong những ý kiến hoàn toàn mang tính chất tưởng tượng như thể chúng là những sự việc cụ thể,” anh ta đọc to. “Điều này được viết bởi một nhà nghiên cứu người Đức tên là Fritz Lentz. Những bài báo ông viết đã được những kẻ cầm đầu Đức quốc xã đọc rất kỹ, mặc dù chính bản thân ông cũng không đồng ý với việc coi chủ nghĩa bài Do Thái là cơ sở cho bất cứ nghiên cứu nào. ‘Khả năng này của người Do Thái mang lại nhiều lợi thế,” ông viết, khi nói về những động thái mang tính cách mạng trong đó trí tưởng tượng được sử dụng như một động lực để đem lại những thay đổi to lớn. “Những người như Marx và Lassalle ở thế kỷ XIX, Eisner, Rosa Luxemburg, Toller và Trotsky, tất cả họ đều là người Do Thái,” Lentz giải thích. “Họ, những người Do Thái, có thể để đầu óc mình hoàn toàn chìm trong những sáng kiến không tưởng, và chính vì thế, họ có thể đưa ra những lời hứa đầy sức thuyết phục, cùng với sự chân thành xuất phát từ bên trong, đối với công chúng.” “Nhà nước Israel cũng là một sáng kiến không tưởng, thành quả của trí tưởng tượng mạnh mẽ của Theodor Herzel,” Itamar nói thêm. “Để thiết lập nên một nhà nước nơi tất cả những người Do Thái cuối cùng có thể sống chung trong tự do và có quyền định đoạt những vấn đề của chính mình theo cách họ cho là thích hợp nhất. Và nhà nước đó ở đâu chứ? Ở giữa một phương Đông hoang dã, xung quanh là hàng triệu người Ả Rập…” “Trong một đất nước cằn cỗi, không nước, không tài nguyên thiên nhiên,” tôi bổ sung. “Một ý tưởng hoàn toàn điên rồ,” Jerome khẳng định. “Ý tưởng về năm triệu người Do Thái với tám triệu ý kiến khác nhau có thể thành công trong việc điều hành một quốc gia! Thật khôi hài làm sao…” “Chính thế đấy. Thực tế là sự tồn tại của đất nước Israel chính là một minh chứng rõ ràng cho quan điểm rằng trí tưởng tượng còn mạnh hơn cả thực tại,” Fabio tiếp tục. “Nếu người ta có thể hình dung ra một thực tại khác, bỏ ra ngoài tất cả những ý niệm về sự logic và tính khả thi, rất có thể ta sẽ nhận ra được thực tại đó. “Và người Do Thái đã biết điều đó từ rất lâu rồi. Đối với họ, sử dụng trí tưởng tượng là một việc mang tính bản năng. Đó là yêu cầu cơ bản và thiết yếu nhất trong việc phát triển trí tuệ để tìm ra con đường sống sót cho mình.” “Thực sự thì tớ chẳng tin vào mấy cái buổi tự thảo luận chuyên đề gì đó đâu, mà tớ cũng chẳng tin rằng trí tưởng tượng là một cách để tạo ra sự khác biệt. Tất cả những thứ đó đối với tớ là vô nghĩa,” Jerome thốt lên khi vẫy tay gọi cô bồi bàn. “Một Corona nhé,” hắn gọi to. “Ở đây chúng tôi không có cái đó đâu,” Fabio trả lời. “Gọi thứ gì khác đi.” Jerome có vẻ ngạc nhiên tột độ. “Thế quái nào mà trong một quán cà phê Latino như Café Ladino này lại không có bia Mexico chứ?” Fabio mỉm cười hơi bối rối và quay qua cô bồi bàn. “Đem cho anh ấy một cốc Budweiser, miễn phí.” “Tại sao cậu lại nghĩ những điều đó là vô nghĩa?” tôi hỏi. Jerome nghĩ một lúc để nhớ lại chủ đề mà chúng tôi lúc trước đang nói dở. “Những quan điểm kiểu như trí tượng tượng có thể thay đổi thực tại… cũng giống như kiểu tớ mà tưởng tượng mình giàu có và thành đạt như Donald Trump thì tớ sẽ là Donald Trump ấy. Hoàn toàn và dứt khoát là vớ vẩn.” “Donald Trump thì rõ ràng là cậu không thể rồi,” Itamar giải thích, “nhưng cậu có cơ hội được giàu có và thành đạt như Jerome.” “Tuyệt nhỉ,” hắn khoát tay vẻ coi thường. “Đổi chủ đề đi. Tớ chán nói chuyện này rồi.” “Chủ đề gì?” Itamar hỏi. “Cái vụ nghiên cứu của các cậu ấy, về trí tuệ của người Do Thái, sự thông thái của người Do Thái, bộ óc, đầu lâu, xương sọ Do Thái… đại loại thế.” “Cậu không có hứng thú với bí ẩn về trí tuệ Do Thái hả?” Itamar hỏi giọng mỉa mai. “Sao phải hứng thú chứ, tớ có được lợi lộc gì đâu? Các cậu thực sự nghĩ mình có thể tìm ra điều đã biến ông thầy đạo người Vilna đó thành một thiên tài rồi có thể làm điều tương tự với một cái đầu đất như tớ sao?” hắn vặn vẹo. Itamar nhìn tôi, mắt lấp lánh. “Phải,” cậu ta phản lại và nhìn hắn vẻ cương quyết. “Ha!” “Tớ nói nghiêm túc đấy,” Itamar trả lời. “Ha! Ha!” Jerome ha đến hai lần. “Tớ sẵn sàng bỏ tiền ra.” “Thế thì cậu mất tiền rồi đấy,” Jerome đáp mà thậm chí còn không thèm nhìn lại Itamar. Itamar nhặt túi lên và rút tập séc ra. Không nói một lời, cậu ta lấy bút và bắt đầu viết một tấm séc. Jerome nhìn tôi, ánh mắt chứa đựng cả một câu hỏi lớn. Tôi nhún vai. Càng ngày mọi chuyện càng trở nên thú vị. Itamar là một người điềm đạm và nghiêm túc, không phải kiểu người làm bất cứ điều gì theo cảm hứng bất chợt, nhất là khi liên quan đến tiền bạc như thế này. Cậu ta xé tấm séc và đưa nó cho Jerome. Jerome nhìn tấm séc chằm chặp, sửng sốt. “Chuyện gì vừa xảy ra thế?” “Tớ sẵn sàng đưa cho Jerome số tiền này nếu cậu ta chịu tham gia một cuộc thí nghiệm,” Itamar giải thích. “Cậu muốn tớ làm phẫu thuật cấy não hả, có phải số tiền này là để chi cho việc cấy não không đấy?” “Không. Cậu sẽ phải tự mình cải thiện lấy bộ não của cậu! Nhưng cậu sẽ làm điều đó theo một cách mà chưa bao giờ được thực hiện trên những người như cậu,” cậu ta mỉm cười, “phương pháp của người Do Thái.” “Tớ không hiểu,” Jerome nói khi đung đưa vẻ khó chịu trên chiếc ghế. Itamar rút một cuốn sổ ra và xé lấy một trang trắng, chưa viết gì. “Chúng ta sẽ không làm như người ta vẫn hay làm trong những buổi tự thảo luận chuyên đề, những thứ mà cậu cho là vô nghĩa. Bây giờ, cậu viết ra đây hai điều mà cậu muốn làm được trong năm nay. Mà không, trong ba năm tới đi. Hai mục tiêu quan trọng trong ba năm. Trong lúc đó, tớ và Eran sẽ tiếp tục thu thập thêm những kỹ thuật và phương pháp mà người Do Thái đã thực hiện trong suốt những thế kỷ qua. Bọn tớ sẽ sắp xếp chúng thành một cuốn sách, và cuốn sách đó sẽ là chỉ dẫn cho cậu. Cậu sẽ phải áp dụng mọi điều bọn tớ khám phá ra để đạt được những mục tiêu đã đề ra. Cậu có hiểu tất cả những điều này không?” Ý tưởng này, tôi phải thừa nhận, cực kỳ thú vị. Vấn đề, tôi nên nói rõ, nằm ở con người được chọn để thực hiện nó, với tất cả lòng tôn trọng của tôi dành cho anh bạn Jerome thân mến của tôi. Jerome cắn môi. “Chắc chắn rồi, việc gì phải nghĩ chứ?”, hắn bằng lòng, mặc dù giọng có đôi chút kích động. “OK, vậy là xong. Bắt đầu viết đi,” Itamar yêu cầu. “Viết cái gì?” “Hai mục tiêu mà cậu muốn đạt được.” “Không vấn đề.” Hắn cầm bút và bắt đầu viết mà không cần suy nghĩ. “1. Tôi muốn có một triệu đô-la trong ngân hàng,” hắn đọc to trong lúc viết. “OK,” Itamar gật đầu, “còn mục tiêu thứ hai?” Jerome ngừng lại một lúc. “Các cậu hứa không được cười đâu nhé?” hắn có vẻ lo lắng. “Sao bọn tớ có thể làm thế chứ?” Hắn viết số ‘2.’ “Thực ra, tớ chưa nói với các cậu nhưng gần đây tớ đã nghĩ đến việc học một khóa quản trị kinh doanh. Tớ nghĩ có thể tớ sẽ học được nhiều điều từ đó,” hắn giải thích vẻ hối lỗi. “Tuyệt,” Itamar mỉm cười. “Viết ra đi.” “2. Học quản trị kinh doanh,” Jerome viết lên trang giấy. Itamar cầm lấy tờ giấy và nhìn vào đó. “Gần như hoàn hảo rồi.” “Cậu nói thế nghĩa là sao?” Jerome bối rối. “Nếu chúng ta định làm theo cách của người Do Thái, chúng ta sẽ không đi hết con đường này. Có nhớ Fabio nói gì không?” “Tưởng tượng một thứ mà tớ muốn hả, không đâu?” “Không hẳn thế,” Itamar mỉm cười trong khi nhìn qua Fabio. “Tưởng tượng một thực tại khác, bỏ ra ngoài tất cả những ý niệm về sự logic và tính khả thi,” Fabio nhắc lại. “Nâng cao khát vọng của cậu lên một bậc nữa. Một triệu đô-la trong tài khoản ngân hàng là một mục tiêu thực tế, cũng như việc theo học một khóa về kinh doanh.” “Cậu bảo tớ viết gì hả, năm mươi triệu đô-la chắc?! Thật lố bịch.” “Xuất sắc,” Itamar nói. “Viết ra đi.” Jerome nhìn lại Itamar với ánh mắt đầy sự hoài nghi, xóa chữ ‘một triệu’ đi và viết thay vào đó là ‘năm mươi triệu.’ Hắn nhìn chằm chằm vào dòng chữ, im lặng trong vài giây. “50 triệu đô-la trong ngân hàng,” hắn lẩm bẩm. Trong một giây, tôi thề là đã thấy mắt hắn sáng lên. Cứ như thể hắn, Jerome nhỏ bé, đã viết ra một con số tưởng tượng, đầy hoang đường là năm mươi triệu đô-la vậy. “Thế còn khóa học thì sao?” “Cậu không muốn đơn giản là chỉ theo học. Cậu muốn có một tấm bằng,” Itamar nói với hắn. “Sao lại chỉ là một tấm bằng được chứ?” Jerome mỉm cười tinh quái. “Tớ muốn là một tiến sĩ, giống như cậu.” Itamar mỉm cười ủng hộ. “2,” Jerome nhanh chóng ghi ra, “có bằng tiến sĩ về quản trị kinh doanh.” Hắn có vẻ thực sự thích thú với tất cả những chuyện này. Ý tưởng của Itamar đang bắt đầu có hiệu quả. “Cậu có biết logic của một hệ thống dựa trên việc tưởng tượng và đặt ra những mục tiêu ngoài khả năng thực hiện của mình không?” Itamar nói và tiếp tục luôn mà không chờ đợi một câu trả lời. “Cậu tập trung tâm trí vào việc kiếm năm mươi triệu đô-la và bỗng nhiên việc kiếm chỉ có hai hay ba triệu thôi trở thành một chuyện khá dễ dàng, mà số tiền đó còn hơn nhiều con số ban đầu cậu viết ra nhé. Đồng thời, khi cậu đã quyết định rằng mình sẽ phải có được bằng tiến sĩ thì cậu sẽ tiếp cận việc học hành của mình như thể cậu thực sự đã là một tiến sĩ rồi. Điều đó có nghĩa là những tài liệu cậu nghiên cứu sẽ dễ dàng và ít thách thức hơn bởi vì cậu tiếp cận những tài liệu đó với một suy nghĩ trong đầu rằng cậu đã biết tất cả nội dung của chúng.” “Đó là sự khác nhau giữa những buổi thảo luận chuyên đề tự học và ‘Những buổi thảo luận chuyên đề kiểu Do Thái’, nếu chúng ta có thể gọi như thế,” Fabio phụ họa. “Mọi người thường bảo bạn phải đặt ra những mục tiêu thực tế và nghĩ đến những cách thực tế để đạt được những mục tiêu đó. Ý tưởng cơ bản của người Do Thái là: hãy tưởng tượng ra điều ngớ ngẩn nhất có thể. Hãy đặt ra những mục tiêu phi thực tế đến không tưởng, và sau đó hãy suy nghĩ một cách thực tế về việc bạn có thể đạt được những điều đó bằng cách nào, bởi vì không có gì là không thể cả.” “Không có gì là không thể,” Itamar nhắc lại. “Có hàng đống người kiếm được những khoản tiền vượt xa mức nhu cầu của một người bình thường; có những người, khi còn trẻ, phải chật vật xoay sở mới kiếm được 300 đô-la để trả tiền thuê nhà. Đưa con người lên mặt trăng cũng là một ý tưởng phi thực tế, nhưng đầu tiên bạn học bay, rồi sau đó qua mỗi lần nỗ lực, bạn học được cách nâng cao hiệu quả và khả năng của mình. Dần dần, cuối cùng bạn thiết kế được một quả tên lửa. Nghe thì có vẻ bất khả thi, nhưng thực sự có thể làm được.” “Và điều đó chỉ phụ thuộc vào bạn thôi,” tôi kết luận. Jerome nhìn chăm chăm xuống sàn nhà lát gỗ sẫm màu. Tôi lấy một chiếc khăn ăn trên bàn và viết ra nguyên tắc đầu tiên của trí thông minh Do Thái. Nguyên tắc của trí tượng tượng mang ý nghĩa tiên tri – nhận thức điều bất khả thi bằng những phương thức khả thi. “OK, vậy chúng ta bắt đầu thế nào đây?” Jerome thốt lên. Hắn muốn bắt đầu, đó đã là một dấu hiệu tốt rồi. “Vì tấm séc của Itamar hả?” tôi không thể ngăn mình hỏi câu này được. “Không.” Hắn ném cho tôi một ánh mắt ngạc nhiên. “Bỗng nhiên tớ cảm thấy rất hào hứng. Tớ cũng không biết tại sao.” Hắn vẫn tiếp tục nhìn thẳng vào mắt tôi, nhưng tôi biết tâm trí hắn đang bồng bềnh ở nơi khác. Itamar vỗ vai hắn. “Cảm ơn các bạn,” Fabio đứng dậy, “nhưng tôi có việc phải làm đây.” “Anh tuyệt lắm,” Itamar đáp lại khi họ bắt tay nhau. “Chúng tôi sẽ dành hẳn một phần của cuốn sách cho anh,” tôi nói với Fabio khi chúng tôi bắt tay. “Cảm ơn Quý ngài phóng khoáng,” Jerome nhiệt thành, xuất phát từ đáy lòng. “Bia ngon lắm.” Fabio nhận ra rằng cô bé bồi bàn vẫn chưa mang bia tới nên ra hiệu bảo Jerome đợi một lát khi anh ta lao về phía bếp. “Tuần sau tớ không đến được rồi,” tôi nói với cả nhóm. “Tớ sẽ đi châu Âu vài ngày.” “Ngay lúc mọi thứ bắt đầu thú vị,” Jerome nhặng xị lên. “Nhưng tớ sẽ về, và sẽ mang cho cậu sôcôla Toblerone.” “Tớ ghét Toblerone.” “Không sao. Vậy thì tớ sẽ mang về cho cậu gói tiết kiệm thôi,” tôi đùa. “Cậu biết sao không? Thay vì sôcôla, tớ sẽ mang cho cậu nguyên tắc tiếp theo của trí thông minh Do Thái,” tôi nói mà không biết liệu có giữ được lời hứa hay không… 4 TRÍ THÔNG MINH CỦA NGƯỜI SỐNG SÓT Nguyên tắc của chú chuột lang thang Trên chuyến tàu đến Paris, tôi đã khám phá ra nguyên tắc thứ hai của trí thông minh Do Thái. Khi tàu chầm chậm lăn bánh khỏi sân ga Antwerp rộng lớn, tôi nhìn đăm đăm ra bên ngoài cửa sổ, nơi sừng sững những tòa nhà màu xám xịt. Một người thở hổn hển và ngồi xuống bên cạnh tôi. Ông ta khoảng 50 tuổi và mặc một bộ vest ba mảnh, trên mũi ngự một cặp kính hai tròng khá tinh xảo. Một chiếc mũ kipah che gần hết phần đầu hói của ông ta. Samuel, tôi đã biết tên ông ta trong lúc ở trên tàu, là một thương gia đến từ Antwerp. Ông đi khắp thế giới, bán những viên kim cương tinh tế cùng với anh họ mình, ông này tình cờ cũng đang ở London tuần đó. Có thể tôi sẽ không nhắc đến Samuel nếu không có một chuyện nhỏ, có vẻ rất tầm thường xảy ra, một chuyện mà sau hai ngày đã kết tinh thành một điều mang tính cách mạng. Trong lúc nói đến Jerusalem, một nơi mà tám năm trước ông đã đến thăm, ông bỗng nhớ đến một sân chơi nhỏ có đài phun nước mà ông đã thấy ở chỗ đường Herzog giao nhau với phố Tchernikovsky. Thật trùng hợp là tôi lại sống ở chính khu đó, ngày nào tôi cũng lái xe qua ngã tư đó và nếu có một thứ không có ở đó thì chính là một cái đài phun nước! “Xin lỗi,” tôi mỉm cười, “nhưng tôi nghĩ là ông nhớ nhầm.” “Không, làm gì có chuyện đó,” Samuel quả quyết. “Nếu cậu đi từ đại lộ Rupin, thì cậu không thể không đi qua đó được. Cái đài phun nước đó đứng sừng sững giữa những cái cây ấy.” “Có thể ông nhầm với ngã tư nào đó rồi,” tôi vẫn bảo vệ quan điểm của mình. Samuel nghĩ một lúc, cố gắng nhớ lại và rồi khẳng định lại chắc chắn, kèm theo một nụ cười, “Nó ở đó mà. Herzog và Tchernikovsky.” “Tôi sống ở đó mà, ông Samuel,” tôi nói, giọng hơi tỏ vẻ khó chịu. “Có phải ý ông là tôi không nhớ mình đi qua cái gì và không đi qua cái gì mỗi ngày không?” Sự tự tin của Samuel làm tôi bực mình. Nếu có một thứ thực sự khiến tôi cáu thì đó là việc người ta cứ ngoan cố khẳng định là mình biết điều mà thực sự họ chẳng biết gì cả, hay nói đúng hơn là họ khẳng định mình biết điều mà thực sự họ không hề biết còn tôi thì biết chắc! Tôi lấy điện thoại di động và đặt nó lên bàn, trước mặt chúng tôi. “Vợ tôi, Yael, đã sống ở Jerusalem suốt từ nhỏ đến giờ,” tôi nói. “Tôi sẽ gọi cho cô ấy ngay bây giờ và thử xem ai trong hai chúng ta nói đúng. Ông có muốn đánh cược cái gì trước khi tôi gọi cho cô ấy không?” Samuel gật đầu và mỉm cười. Không cần nghĩ ngợi, ông nói, “Một tách cà phê khi chúng ta đến Paris nhé. Tất nhiên, nếu cậu không vội.” “Thỏa thuận thế nhé,” tôi trả lời. “Tôi sẽ rất vui lòng được ông mời tách cà phê đó.” Tôi gọi cho vợ tôi, và sau khi hỏi han chuyện nọ chuyện kia, tôi giải thích cho cô ấy nghe về lý do chính khiến tôi gọi cho cô ấy lúc đó. “Ở ngã tư chỗ Herzog giao với Tchernikovsky, ngang chỗ Tu viện Thập giá ấy, có cái sân chơi với đài phun nước nào không? Anh đánh cược với một người…” tôi kết thúc câu hỏi và nhìn Samuel, cười toe toét và gian xảo. Yael không nói gì một lúc. “Vâng, đúng là có thật,” cô ấy bắt đầu. “Có một cái sân chơi, nhưng không có đài phun nước. Đó là một cái tháp canh hình tròn bỏ lại từ thời thuộc địa Anh, nhưng đúng là trông nó giống một cái đài phun nước.” Tôi ngạc nhiên trước những gì Yael nói đến nỗi tôi quay mặt ngay ra ngoài cửa sổ, quay hẳn khỏi Samuel. “Anh đã nói rằng chẳng có sân chơi hay đài phun nước gì hết,” tôi thở chậm. “Em có chắc không?” “Anh bị làm sao thế? Anh đang đùa đấy hả?” cô ấy trả lời. Tôi liếc nhìn lại Samuel như một kẻ thua cuộc. “Không, anh nghiêm túc đấy. Thực ra anh vừa mất một tách cà phê rồi.” Samuel và tôi xuống tàu ở “Gare du Nord” và đi xuống phố để tìm một quán cà phê tử tế. Trời bắt đầu tối và gió thu lành lạnh thổi vào chúng tôi từng đợt. Samuel lững thững bước trên đường, tay xách một chiếc cặp James Bondesque màu bạc. Khi chúng tôi cùng dạo bước, ông chỉ cho tôi mái một ngôi nhà được chiếu sáng bằng những bóng đèn màu xanh. Tôi sững sờ trước khung cảnh tuyệt đẹp đó. “Ông để ý tới mọi thứ, phải không?” tôi khen ông, tự nhắc mình nhớ đến cái lý do chúng tôi đang đi dạo loanh quanh với nhau thế này. “Đó chỉ là bản năng sinh tồn của người Do Thái trong tôi thôi,” ông trả lời làm tôi rất ngạc nhiên, từ lúc đó tôi cứ tự hỏi không biết có mối liên hệ gì giữa người đàn ông Do Thái giàu lòng trắc ẩn này với cuốn sách mà tôi đang viết không. Bỗng nhiên, tôi nhớ lại điều Samuel đã nói với tôi lúc ở trên tàu, về việc tôi không để ý đến mọi thứ, “nhất là kể từ khi tôi sống ở đó.” Tôi vẫn bước bên cạnh ông, ngẫm nghĩ về con người thú vị này. Kế hoạch ban đầu của tôi là sẽ trả món nợ cá cược trong vòng mười lăm phút rồi tiếp tục gặp gỡ những người bạn đang đợi tôi tối nay. Tuy vậy, có một điều gì đó đã khiến tôi có cảm giác rằng nếu làm thế sẽ là một sai lầm. Samuel chỉ một quán nhỏ bên kia đường. Chúng tôi đi nhanh qua đường. Ở lối vào quán, một luồng hơi ấm phả vào mặt chúng tôi. Ánh sáng mờ mờ, sàn nhà ốp gỗ sẫm màu tạo một không khí rất thoải mái. Một đôi trai gái đang ngồi nắm tay nhau ở chiếc bàn bên cánh cửa sổ lớn nhìn ra ngoài đường phố. Ở một chiếc bàn khác là một thanh niên tay cầm một cuốn sách. Tay còn lại đặt trên đầu với một điếu thuốc mỏng, dài trên ngón, phả ra từng làn khói. Chúng tôi ngồi xuống một chiếc bàn trong góc và tiếp tục cuộc trò chuyện. Sau khoảng mười lăm phút, tôi để ý thấy chẳng có lấy một anh bồi bàn nào đến hỏi chúng tôi dùng gì. “Có chuyện gì với bồi bàn ở đây vậy nhỉ?” tôi nói to khi nhìn quanh quán cà phê. “Chúng ta đang ở Paris,” Samuel trả lời. ‘Ừ đúng rồi!’ tôi nghĩ thầm. ‘Làm sao tôi quên được điều đó chứ. Chúng ta đang ở Pháp, nơi khách du lịch bị những tay bồi bàn tấn công.’ Sau một hồi vẫy tay loạn xạ, một gã bồi bàn trẻ, mặc toàn một màu đen, xuất hiện ở bàn chúng tôi. Tôi nhớ lại có lần mình đã tự hỏi liệu có phải nghề bồi bàn ở Pháp được chính phủ dành cho những kẻ được ra khỏi tù với điều kiện chúng bọn họ sẽ làm được một dịch vụ gì đó cho xã hội, mặc dù từ ‘dịch vụ’ không hẳn có thể áp dụng được trong trường hợp này. Những tay bồi bàn này hành động như thể việc mình việc đến bàn của khách là ban cho họ một đặc ân lớn lao vậy. Chúng Bọn họ cứ đứng đó, nhìn quanh ngó những người đến và đi, đập đập bút lên tập giấy và đợi thôi! Chúng Họ không hỏi bạn xem bạn chọn gì. Chúng Họ cũng chẳng thèm mang thực đơn đến. Chúng Họ chỉ đứng đó đợi bạn nói thứ bạn muốn! Mọi khách du lịch đến Paris đều biết điều tôi đang nói đây. Và chính vì thế, tay bồi bàn của chúng tôi cũng đang đứng. Sau khi chúng tôi gọi đồ uống, hắn hối hả đi về phía bếp. Thật không may, tôi quên không hỏi xin một cốc nước, một điều thuộc dạng không thể chấp nhận được và không thể tha thứ được theo như tuyên ngôn của liên minh bồi bàn Pháp. Nếu như mafia có một nguyên tắc đạo đức về việc không làm hại trẻ em và phụ nữ thì trong các quán cà phê ở Pháp cũng có một luật bất thành văn rằng một khi việc gọi đồ đã hoàn tất thì bất cứ cái gì khách quên không gọi đều mất luôn. Thêm vào đó, tôi đang khát. Khi tay bồi bàn quay lại cùng với hai tách cà phê của chúng tôi và thô lỗ thả (hay tôi phải nói là đập) chúng xuống bàn, tôi mỉm cười và ra hiệu rằng tôi muốn gọi thêm một thứ khác. Tay bồi nhìn tôi, hoàn toàn sửng sốt. “Tôi muốn, nếu không quá phiền, anh có thể mang cho tôi thêm một cốc nước có được không?” Gã sốc thực sự. Gã thực sự không hề mong đợi yêu cầu của tôi, hoàn toàn bất ngờ. Giọng gã run run, pha trộn giữa tức giận và sốc. “Anh muốn một cốc nước hả?” “Một cốc nhỏ thôi, làm ơn,” tôi cố giảm hết cỡ yêu cầu của mình. Thực ra, lúc đó tôi đã nghĩ đến chuyện bảo gã thôi, quên yêu cầu của tôi đi. Nhìn gã như vậy khiến tôi chạnh lòng, chứng kiến sự bất lực của gã. Gã ậm ừ từ tiếng Pháp nho nhỏ ‘ừm’ qua mũi, mím môi, và trong lúc vẫn đang run khẽ, gã quay đi và đi trở lại bếp. Samuel quan sát cảnh này và cười. “Bọn họ thế đấy,” ông an ủi tôi. Mắt ông nhìn theo gã bồi bàn cho đến khi gã khuất dạng sau bếp. Sau đó, Samuel ngả về phía tôi và thì thầm, “Tay này không phải ở Paris. Chắc hắn là người ở miền trung. Có thể là thung lũng Loire. Chắc hắn đến đây để kiếm thêm chút tiền.” “Đó cũng là một phần trong bản năng sinh tồn của người Do Thái chăng?” tôi hỏi. “Khả năng nhận biết và ‘chẩn đoán’ người khác ấy?” “Tất nhiên rồi,” ông nhấn mạnh. “Tôi thừa hưởng điều này từ bố tôi.” Samuel tự điều chỉnh tư thế ngồi trên ghế và vắt chéo chân lại. “Tôi sinh ra ở Berlin, sau đó khi tôi lên ba, chúng tôi phải trốn đi. Gia đình tôi sống ở Pháp vài năm rồi chuyển đến Antwerp. Ở đó, bố tôi đã mở cửa hàng đồ trang sức. Tôi nhớ thỉnh thoảng tôi thường bỏ học, chạy đến làm việc với bố vào buổi tối. Tôi đứng cạnh bố trong cửa hàng, và mỗi lần có khách bước vào, bố tôi luôn đoán chính xác người đó đến từ đâu, người đó làm nghề gì kiếm sống, và người đó đã lập gia đình hay chưa – và tất cả chỉ cần một cái liếc nhanh. Bố tôi là người đã sáng tạo ra thuật ngữ ‘Bản năng sinh tồn Do Thái.’ Bố tôi nói rằng là một người Do Thái bị ngược đãi, hắt hủi ở mọi nơi ông đi đến nên trong suốt cuộc đời, ông đã phát triển một thứ bản năng là luôn chú ý đến những chi tiết nhỏ nhất và gắn cho chúng tầm quan trọng thật to lớn.” Samuel nói xong khi gã bồi bàn quay trở lại. Gã bồi bàn đặt cốc nước lên bàn, mà đúng là chiếc cốc nhỏ thật, nhưng trước khi gã quay đi và bỏ lại những vị khách khó tính nhất trong ngày, Samuel lôi gã vào cuộc trò chuyện. Lúc đầu, gã bồi bàn có vẻ xa cách và bối rối nhưng dần dần một nụ cười cũng nở ra trên khuôn mặt. Gã nồng nhiệt bắt tay Samuel trước khi quay trở lại chỗ mình ở góc phòng. “Thật không thể tin được,” tôi reo lên kinh ngạc. “Ông thực sự đã làm cho một tay bồi bàn người Pháp mỉm cười. Ông xứng đáng được huân chương của quân đội Pháp đấy.” “Thật ra hắn đến từ Baloit, ở vùng Loire, miền trung,” Samuel trả lời với vẻ hài lòng. “Chắc chắn hắn ấn tượng với chiếc ‘ra đa’ của ông lắm đấy.” Samuel rút chiếc tẩu ra khỏi túi, nhét lá thuốc vào và châm lửa. Tôi quyết định nói cho ông nghe về cuốn sách mà chúng tôi đang nung nấu. Sau khi giải thích ngắn gọn về Jerome và Itamar, vụ cá cược và Nguyên lý về Trí tưởng tượng của Fabio, tôi quay trở lại với vài điều mà Samuel đã nói. “Vậy trí thông minh của người Do Thái có liên quan đến bản năng sinh tồn, một thứ bản năng trong vô vàn những bản năng khác, cho phép người ta để ý tới những tiểu tiết phải không?” “Gần như là vậy,” Samuel khẳng định, “nhưng không chỉ có vậy. Điều chúng ta đang nói đến ở đây là khả năng phân tích tình huống và đối mặt với sự thay đổi bất ngờ của hoàn cảnh với tần xuất gần như là hàng ngày. Đặc điểm này khá phát triển trong cộng đồng người Do Thái và liên quan đến việc người Do Thái không bao giờ có một nơi ở cố định. Họ lúc nào cũng trong tư thế ‘chuẩn bị’, sẵn sàng cho khoảnh khắc họ có thể bị tống đi, mà cái khoảnh khắc đó thì kiểu gì cũng đến! Khả năng này cũng liên quan đến thực tế là người Do Thái luôn tập trung ở các thành phố lớn.” “Có phải ông muốn nói rằng những người sống ở thành phố thì thông minh hơn?” tôi chất vấn. “Nhìn chung thì đúng là thế,” ông trả lời. “Thế thì cần phải làm sáng tỏ vài điểm đây,” tôi cười. Samuel thổi ra một làn khói trắng và đóng túi thuốc lại. “Đến năm 1800, hầu hết dân số thế giới đều sống tại các vùng nông thôn. Hầu hết họ đều làm nông nghiệp và tài sản có giá trị nhất mà một người có thể sở hữu chính là đất đai. Đất đai là cơ sở cho lòng tự hào và danh dự, và là nguồn gốc của sự giàu có.” “Có được sự thoải mái và an toàn về tài chính ở một mức độ nhất định là mong muốn của phần lớn người dân thời đó, mà thậm chí đến tận bây giờ vẫn vậy, nhưng điều này lại không áp dụng được với người Do Thái. Họ không bao giờ nghỉ ngơi hay sở hữu tài sản gì bởi vì họ không được phép. Những kẻ thống trị ngoại bang luôn ngăn cản họ tiếp cận quyền được sở hữu đất đai hợp pháp. Cứ khi nào người Do Thái giành được một chút đất đai thì chẳng bao lâu sau sẽ lại có một kẻ thống trị mới đến, chiếm lấy tài sản của họ và đuổi họ đi. Người Do Thái cũng phải sống với hàng tá những hạn chế về kinh tế. Nói về nghề nghiệp, họ phải tham gia vào những nghề nghiệp được coi là bẩn thỉu và mờ ám như là cho vay nặng lãi, thương mại, bất động sản, hoặc những nghề nghiệp thuộc về dịch vụ như là y khoa, luật hay tư vấn. Những công việc đó mang tính chất thành thị. Cộng thêm với vấn đề quyền sở hữu đất thì việc người Do Thái túm tụm tại các thành phố là một điều hết sức tự nhiên. Thực tế, vào đầu thế kỷ XX, có khoảng 75% đến 94% số người Do Thái trên thế giới sống ở các thành phố. Một điều rất nghịch lý ở đây là chính những giới hạn và điều luật kìm nén người Do Thái lại cho họ một lợi thế rõ ràng so với những người khác. Việc biến người Do Thái thành thị dân chính là điều đã đặt nền tảng cho thành công của họ trong tương lai! “Cậu đã bao giờ xem bộ phim hoạt hình về chú chuột quê lên thăm họ hàng ở thành phố chưa?” “Hình như là xem rồi,” tôi cố nhớ lại. “Chú chuột thành phố, nếu cậu để ý, lúc nào cũng được xây dựng với mô-típ là một sinh vật thành đạt, có trình độ và văn hóa, một sinh vật trải đời và khôn ngoan.” “Mối liên hệ giữa giáo dục và thành công trong cuộc sống thành thị không chỉ được khắc họa trong những nhân vật hoạt hình. Những người trẻ tuổi tại các thành phố lớn, những loài động vật hai chân, cũng được miêu tả bằng hình ảnh tương tự, và họ cũng rất thành công.” “Nhiều phân tích được thực hiện đối với nhiều tầng lớp dân số khác nhau đều chỉ ra mối liên hệ tương tự giữa cuộc sống thành thị với một mức độ thông minh cao hơn.”(14). “Mối liên hệ giữa người Do Thái và thành thị có hai ý nghĩa. Thành phố có ảnh hưởng đến trí thông minh, trong khi chính những người Do Thái lại được dẫn dắt tới các đô thị bởi vì điều đó góp phần thúc đẩy mưu cầu về trí tuệ của họ.” “Thế ở thành phố có gì giúp cải thiện trí thông minh của con người mà ở nông thôn không có?” tôi băn khoăn. “Một lối sống đòi hỏi chúng ta luôn phải vận động,” ông giải thích. “Cậu đã bao giờ thử gọi taxi ở New York chưa? Việc này đòi hỏi phải có một độ khéo léo nhất định, khả năng ứng biến và cả cách suy nghĩ sáng tạo nữa”. “Hay đấy,” tôi cười. Tôi hoàn toàn nghiêm túc. Ai mà nghĩ chỉ cần đứng bên đường, vẫy vẫy một cánh tay là có thể khiến một chiếc taxi vàng chóe đỗ xịch ngay lại thì người đó hoàn toàn không thực tế chút nào. Một người New York thực thụ sẽ vạch ra hẳn một kế hoạch để vẫy taxi, gồm có: anh ta đi đến chỗ nào, phải đứng ở đường bên nào, và địa điểm tốt nhất để vẫy được một chiếc taxi – thường thì là trước cửa khách sạn hoặc cửa hàng mua sắm. Cuộc sống thành thị có một mức độ dữ dội đòi hỏi người ta phải phát triển sự khéo léo mang tính chất sống còn. Tôi muốn nói đến yêu cầu phải phản ứng tức thì trong những tình huống căng thẳng, với những hoàn cảnh biến đổi không ngừng của cuộc sống thành thị. Điều này luôn đúng với bất cứ người dân thành thị nào. Đối với người Do Thái thì khả năng suy nghĩ và phản ứng thậm chí còn phải nhanh hơn những người khác bởi vì họ là thiểu số. Những dân tộc thiểu số, dù là ai đi chăng nữa, có một lợi thế dễ dàng nhận thấy so với phần đông dân số còn lại – sự thiếu tiện nghi, cảm giác tạm bợ; một giác quan mà họ phải đấu tranh để đạt được và bảo vệ số mệnh của mình. Những khó khăn trong cuộc sống ở một môi trường khắc nghiệt góp phần phát triển trí thông minh mang tính chất sống còn này. Cũng giống như ví dụ về chiếc taxi ở New York, người ta lúc nào cũng phải nghĩ trước hai bước. Là một dân tộc thiểu số, người Do Thái luôn phải đánh giá đúng vị thế và hiểu rõ những điểm mạnh của mình khi phát triển một chiến lược để cất cánh trong những thời điểm thuận lợi và sống sót trong những giai đoạn cực kỳ cam go. Bí quyết được ẩn giấu trong mức độ tiếp thu cái mới cao và khả năng thích ứng với những hoàn cảnh thay đổi với tốc độ chóng mặt. Những kinh nghiệm cay đắng đã dạy cho họ rằng số mệnh của họ là không bao giờ được tận hưởng sự thoải mái. Không thoải mái và không có gì đảm bảo về tài chính. Bất cứ ai phải thích nghi với những nỗi đau về mặt tình cảm đều trở nên cảnh giác và để ý đến môi trường xung quanh mình hơn. Người Do Thái làm quen với những địa điểm họ đến giống như cách mà một con chuột làm quen với một con mèo nhà. Nhân tiện, điều này không chỉ áp dụng với người Do Thái. Nó cũng đúng với bất cứ người dân nào quyết định phải ‘nhập gia tùy tục.’ Đây là một trong những lý do giải thích cho việc tại sao tỉ lệ sinh viên người Trung Quốc thành công tại các trường đại học của Mỹ lại cao đến vậy.” Tôi nghĩ về những điều ông nói nhưng không hiểu tại sao mọi thứ đối với tôi vẫn mù mờ lắm. “OK, đúng là cuộc sống thành thị buộc chúng ta phải suy nghĩ theo một cách có thể giúp chúng ta đối mặt với sự sôi động, hối hả của nó. Nhưng, như ông và tôi, chúng ta đều đã quen với cuộc sống thành thị.” “Và đó chính là gót chân Asin của chúng ta,” Samuel đáp lại. “Nghĩa là sao?” “Quen với mọi thứ. Cảm thấy thoải mái,” ông giải thích. “Chúng ta cuối cùng rồi sẽ quen với mọi thứ và điều đó đặt ra cho bản thân chúng ta và sự phát triển trí tuệ vấn đề lớn nhất. “Nếu có một điều mà người ta có thể học từ những kinh nghiệm cay đắng trong quá khứ của người Do Thái thì đó chính là nguyên tắc của sự thoải mái. Chung quy lại, nếu muốn phát triển trí thông minh và thành đạt trong cuộc sống thì bạn không bao giờ được cảm thấy hài lòng, thỏa mãn hay đạt đến độ thoải mái và đảm bảo về tài chính! Con người ta phải tiến bộ hàng ngày, lang thang cả về thể xác và tinh thần. Con người mà cảm thấy thoải mái thì bộ óc cũng ngừng làm việc luôn. Khi ta thấy thoải mái, ta sẽ chấp nhận mọi việc như nó vốn có. Ta không nghĩ đến chúng nữa. Ta chỉ là một con người nhỏ bé trong đám đông, chỉ biết đi cùng hướng với mọi thứ và cho rằng nếu mọi người cùng đi một hướng thì chắc chắc đó phải là hướng đi đúng.” Samuel ngừng lại một lát. “Thú vị thật,” tôi lẩm bẩm. “Cậu biết đấy,” ông tiếp tục. “Freud đã từng giải thích rằng ông cảm thấy chất Do Thái của mình, không phải bởi vì truyền thống hay lòng tự hào dân tộc, mà bởi vì hai đặc điểm mà ông thấy còn quý hơn vàng – tự do khỏi những khuôn mẫu niềm tin xưa cũ, những niềm tin thường ngăn cản con người sử dụng trí tuệ của mình, và đi ngược lại điều mà đa số thường làm.” “Tôi đang cố nghĩ xem không biết tất cả những thứ này có ích gì cho công việc làm ăn của Jerome không,” tôi lơ mơ nói to. “Cậu ta là anh chàng mà tôi kể với ông ấy.” “Cậu ta làm gì?” Samuel hỏi. Tôi kể cho ông nghe về dây chuyền sản xuất quần áo của Jerome. “Và cậu ta kiếm được tiền từ công việc đó hả?” “Cũng bình thường. Cậu ấy có thu nhập ổn định. Những khách hàng thường xuyên. Sẽ không thể làm giàu được bằng nghề đó, nhưng như ông nói, cậu ta thấy thoải mái. Nghề kiếm sống mà.” “Nếu cậu ta thoải mái với số mệnh của mình thì chẳng có gì để nói nữa,” Samuel bắt đầu, “nhưng nếu cậu ta muốn có nhiều hơn, cậu ta sẽ phải thay đổi.” “Hắn đã cố nghĩ ra vài sáng kiến mới nhưng chả ích gì.” “Cậu ta làm việc ở đâu?” Samuel hỏi. “Jerusalem.” “Và cậu ta suy nghĩ tất cả những điều đó ở đâu?” “Ở Jerusalem, dĩ nhiên là thế rồi,” tôi cười khúc khích vì sự lố bịch của câu hỏi. Samuel lắc đầu. “Cậu có biết tại sao chúng ta ngồi đây không?” ông hỏi, rồi tiếp luôn, “bởi vì sự thua cược của một anh chàng đã sống ở Jerusalem vài năm rồi. Và tại sao anh ta lại thua? Bởi vì anh ta cảm thấy quá thoải mái và quen thuộc với thành phố của mình đến nỗi mất cả khả năng nhìn thấy mọi việc.” “Chính xác là ông muốn dẫn tôi đến đâu đây?” tôi mỉm cười ngượng ngùng. “Các giác quan của cậu đã bị cùn hết rồi!” ông quay trở lại với chủ đề đang nói. “Cậu không còn thấy những điều mới mẻ nữa. Cậu không còn khả năng suy nghĩ một cách sáng tạo về những điều mới mẻ nữa. Khi một người ở một nơi quá lâu thì anh ta sẽ tự tạo ra cho mình những hàng rào về nhận thức. Anh ta không có đủ sự khích lệ bởi vì anh ta đã biết mọi thứ; chẳng còn gì mới mẻ dưới bầu trời này nữa nên những giác quan của anh ta bị cùn đi. Anh ta cần phải đi lang thang và thay đổi địa điểm.” “Có phải ông định nói rằng hắn cần phải mở một văn phòng nữa ở Tel Aviv chăng?” “Nếu làm được thế thì tốt quá nhưng cũng chẳng cần đến một bước đi xa đến vậy. Chỉ cần cậu ta động não ở một chỗ khác là đủ rồi. Sự logic đằng sau việc ‘lang thang’ chính là thực tế rằng việc đi đến một nơi khác có thể tác động đến chúng ta theo một cách rất đặc biệt. “Những nghiên cứu được thực hiện trong phòng thí nghiệm trên loài chuột cho thấy sự khác biệt rất thú vị giữa những con chuột sống trong một chiếc lồng cả đời và những con thường xuyên di chuyển từ nơi này sang nơi khác.” “Những con chuột ‘lang thang’ thường xuyên gặp được những môi trường ‘béo bở’, những tác nhân kích thích luôn thay đổi – đồ chơi, vật gây tiếng động, ánh sáng, các loại mùi…, những con chuột này thể hiện một trí thông minh vượt trội hơn hẳn. Sau khi những con chuột đó chết, người ta thực hiện một phân tích sâu hơn và phát hiện ra rằng não của chúng phát triển hơn trên nhiều phương diện nhất định. Vỏ não, chẳng hạn, dày hơn và đầy hơn so với những con chuột không có các kích thích, hàm lượng của một số loại enzyme cũng cao hơn,” ông giải thích, nghe có vẻ rất chuyên nghiệp. “Tôi chẳng hiểu gì những điều ông nói, nhưng có vẻ nó cũng khá thuyết phục đấy,” tôi đưa tay đẩy nhẹ cặp kính lên, chứng tỏ sự quan tâm của mình. “Ngoài những kích thích có thể nhìn thấy được ở một nơi mới,” ông tiếp tục, “cơ thể còn kích hoạt những cơ chế phòng vệ cần thiết bằng cách mài giũa các giác quan, tăng cường khả năng tiếp thu và thúc đẩy sự sáng tạo, tất cả những thứ này nhằm mục đích giúp ta đối mặt với hoàn cảnh mới. Cái này thì không cần phải cố. Nó thuộc về tự nhiên rồi. Ai đi nước ngoài về đều biết đến cảm giác đó. Lấy cậu làm ví dụ chẳng hạn. Khi cậu quay trở về Israel sau khi ở nước ngoài một thời gian, có đúng là cậu cảm thấy mình từng trải hơn không? Cậu cảm thấy mình đã có thêm nhiều kinh nghiệm sống và thấy được những điều mới mẻ. Cậu thấy mình thông minh và khéo léo hơn, đúng không?” “Ông biết hết những thứ đó rồi,” tôi mỉm cười ngượng nghịu. “Lòng tự tôn của cậu cũng cao lên,” ông tiếp, “bởi vì cậu thấy rằng nếu ta đã ở London hay Paris suôn sẻ đến vậy thì làm sao ở Givatayim hay Netanya lại có thể có chuyện gì khó khăn được chứ?! Khi cậu quay trở về từ nước ngoài, cậu thấy mình ‘vĩ đại hơn’ về tinh thần và trí lực. Bỗng nhiên mọi thứ khác đi một chút.” “Vậy tức là, khi ta cảm thấy mình trở nên ‘nhỏ bé’, ta cần phải đến một nơi nào đó khác trong vài ngày,” tôi cố tóm lại những điều ông nói. “Chính xác,” ông khẳng định. “Ai cũng trải qua một thời kỳ với cảm giác bị mắc kẹt, vô dụng hay nhàm chán. Khi đó, người ta có ít động lực để cố gắng hơn. Tương lai dường như mờ mịt, như một cỗ xe sa lầy mà chẳng có con ngựa nào ở đó để kéo nó lên được.” “Đúng, chính là cái cảm giác đó.” “Nhưng sự thực là có một con ngựa như thế. Nó có tên là ‘Thành phố Lớn,’ và nó không nhất thiết phải ở nước ngoài. Nó có thể là một thành phố khác trong chính đất nước ta đang sống. Vấn đề cốt yếu ở đây là ta cần phải đi đến một nơi khác. Bất cứ ai muốn phát triển sự sáng tạo và thành công đều cần phải rời xa sự thoải mái nơi cái tổ của mình.” “Nghe giống như đọc truyện cười ngày xưa nhỉ, ‘Định nghĩa một chuyên gia là gì?’” tôi nhớ lại. “Định nghĩa một chuyên gia là gì?” Samuel nhắc lại. “Một người đi ra khỏi thị trấn.” “Điều đó hoàn toàn đúng,” ông mỉm cười. “Có một câu nói của người Do Thái, ‘Ở thành phố anh ta sống không có nhà tiên tri.’ Một người không thể thành công trong thành phố mình sống bởi vì ở đó ai cũng biết những sai lầm của anh ta. Chỉ khi đến một nơi khác, nơi anh ta hoàn toàn thoát khỏi những xiềng xích, những ý niệm xã hội được hình thành từ trước hay theo cách nói của cậu, những khả năng thực sự của anh ta. Người Do Thái thành công bởi vì họ là những người ngoài. Là một người ngoài, bạn không phải quan tâm đến hiện trạng, điều này giúp bạn chấp nhận những nguy cơ và thử những điều mới mẻ.” “Có một loại rượu táo tên là ‘Người ngoài,’” tôi nói to và ngay sau đó thấy hối hận vì đã buột miệng nói suy nghĩ của mình thành lời. Một tiếng thảo luận các vấn đề trí tuệ bắt đầu ảnh hưởng đến tôi rồi đây. “Rất vui được biết thông tin đó,” ông mỉm cười vẻ giễu cợt. “Nhưng có những ví dụ thực tế về những người ngoài đã được đưa vào lịch sử,” ông nói tiếp. “Như Napoleon, Karl Marx hay thậm chí là Hitler chẳng hạn, một cái tên đáng nguyền rủa.” “Ông nói ‘người ngoài’ tức là sao?” “Napoleon Bonaparte, chẳng hạn, không phải là người Pháp hoàn toàn. Ông sinh ra ở đảo Corsica của Italia, cả bố mẹ đều là người Italia, sau này họ mới chuyển đến Pháp. “Karl Marx là một người Đức nhập cư vào London, và ở đó ông đã viết nên bản tuyên ngôn của mình, sau này được những người Xô-viết gọi là chủ nghĩa Marx. Bản thân Marx thậm chí còn chưa bao giờ đặt chân đến Nga!” “Và Hitler là người Áo chứ không phải người Đức.” “Hoàn toàn chính xác! Một sự thật mà người Áo luôn cố gắng che giấu. Ở nơi hắn sinh ra, hắn cảm thấy quá thất vọng, chính vì vậy hắn đã nhập cư vào Đức và thử vận may của mình tại nơi mới. Ở đó hắn đã làm nên vận may lớn. Rất lớn.” Samuel mím môi. Ông duỗi người trên ghế và ho vài tiếng mệt mỏi. “Dù sao, thay đổi địa điểm là một điều thiết yếu. Nhiều người thất bại ở nơi này nhưng lại đã làm nên chuyện ở một nơi khác.” “Nói cách khác, để Jerome suy nghĩ tích cực và sáng tạo hơn về triển vọng tương lai của mình, hắn cần phải đến một nơi nào đó không quen thuộc.” “Chính xác,” Samuel gật đầu đồng tình. “Và nếu tôi muốn tiếp tục tập trung vào cuộc trò chuyện này,” tôi nghiêng người về phía ông, “tôi cần phải đến một nơi.” Samuel cố hiểu ý tôi. “Tôi cần phải đến nhà vệ sinh,” tôi mỉm cười khi đứng dậy. Cạnh nhà vệ sinh, tôi thấy có một máy điện thoại công cộng. Tôi dừng lại một lát, không phải bởi vì tôi chưa từng thấy máy điện thoại để gần toa lét bao giờ – thực tế thì ngược lại mới đúng – vì tôi đã nhìn thấy quá nhiều máy điện thoại để gần nhà vệ sinh trong các nhà hàng đến nỗi tôi tự hỏi hay là các nghiên cứu về tiếp thị đã chỉ ra rằng khi buộc phải ‘chết dí trong đó’ thì người ta sẽ cảm thấy một khao khát mãnh liệt được gọi cho bạn bè thân thích chăng. Mà thôi, tôi chợt hiểu điều mình phải làm ngay lúc này. Tôi lấy máy điện thoại di động ra và bấm số. Ở đầu dây bên kia, một giọng nói lạc quan trả lời sau vài hồi chuông. “Jeromikins,” tôi bắt đầu. “Ô la la!” hắn nhận ra giọng tôi. “Bonsoir, mon ami.(15) Vì lý do gì mà tớ lại có cái vinh dự được nhận cuộc điện thoại vào giờ này nhỉ?” “Tớ muốn cậu đến gặp tớ ở Paris ngay ngày mai.” Im lặng. “Mọi chuyện ổn chứ?” “Ổn cả. Cứ coi đây như là bốc đồng đi. Về cái dự án nho nhỏ của bọn mình ấy mà,” tôi giải thích. “Cậu muốn mình bay đến Paris ngay sáng mai hả?” “Ừ.” “Vì dự án nho nhỏ của chúng ta.” “Ừ.” Im lặng. “Paris, ngày mai?” “Ừ.” Jerome bắt đầu lẩm bẩm cái gì đó kiểu như bị nhiễu sóng, không hiểu nổi. “HOUSTON, CHÚNG TA CÓ CHUYỆN ĐÂY…” át cả tiếng ‘nhiễu sóng.’ “Cậu có đang bị kích động không đấy?” “Tớ muốn cậu gặp một người, và cậu phải gặp ông ấy ở đây, Paris này, gặp trực tiếp, quan trọng lắm,” tôi giải thích. “Cậu nói nghiêm túc đấy hả? Cậu muốn tớ quẳng đi 800 đô-la vì việc này hả?” “Với một người dự định kiếm 50 triệu đô-la thì tớ nghĩ 800 đô-la còm đâu có nghĩa lý gì,” tôi trả lời, cố gắng tỏ ra tự tin hơn suy nghĩ thật của mình. “Mà còn nữa, cậu đã từng làm những điều tự phát như thế này bao nhiều lần rồi. Thôi, đến đây đi. Tớ tình cờ có một điều ngạc nhiên cho cậu…” Khi tôi quay trở lại bàn, tôi lấy ra một mảnh giấy nhỏ ra và viết lên đó nguyên tắc thứ hai của trí thông minh Do Thái: Nguyên tắc của người sống sót – Không bao giờ được cảm thấy thoải mái. Hãy tiếp tục lang thang, cả về thể xác và tinh thần, để trải nghiệm những điều mới mẻ. Tôi nói chuyện tiếp với Samuel khoảng một tiếng nữa rồi chúng tôi chia tay và hẹn gặp nhau vào tối hôm sau. Đúng hai giờ chiều hôm sau, Jerome xuất hiện ở cửa phòng tôi tại khách sạn Saint Paul với một chiếc túi nhỏ đặt dưới chân. “Jerome Vĩ đại” đã làm được. 5 TẠI SAO NGƯỜI DO THÁI LUÔN TRẢ LỜI MỘT CÂU HỎI BẰNG MỘT CÂU HỎI KHÁC? “Trí thông minh của con người là ánh sáng của Chúa trời, thâm nhập vào nơi đáy cùng của mọi thứ Thành ngữ Ả Rập Lá đỏ phủ kín vỉa hè. Mặt trời đã gần như lặn hẳn khi chúng tôi thư thái tản bộ dọc theo bờ sông Seine. “Cứ như đi trên lớp khoai tây chiên ấy,” Jerome nói. Tôi kéo phéc-mơ-tuya túi khoác và lấy ra một chiếc phong bì màu trắng từ túi trong. “Điều ngạc nhiên cho cậu đây,” tôi đưa chiếc phong bì cho hắn. Jerome cười toe toét và xé ngay chiếc phong bì ra. “Trời ạ, không thể tin được!” hắn hét lên khi nhìn thấy hai chiếc vé trên tay. “Paris San Germain và Marseille.” Hắn vỗ vai tôi nồng nhiệt. “Cảm ơn nhé. Đi xem bóng đá tại Paris thay vì ở sân vận động Teddy Kollek ở Jerusalem. Cậu mang đến cho tớ ngày hoàng kim rồi đấy.” Khi bóng tối phủ kín thành phố thì chúng tôi đã đến Đại lộ San Michelle. Hàng đoàn khách du lịch đi dạo chật kín đường phố. Chúng tôi băng qua hết đám đông và mười phút sau, thấy mình trong một con hẻm nhỏ, tĩnh lặng. ‘Café Terrace,’ quán cà phê duy nhất trong con hẻm, tựa như bước ra từ một bức tranh của Van Gogh vậy. Samuel đang ngồi ở một chiếc bàn trước quán chờ chúng tôi. Tôi nhìn đồng hồ, mỉm cười và bắt tay chào Samuel. “Tôi đến đây được năm phút rồi,” Samuel giải thích và đưa tay về phía Jerome. “Tôi là Samuel. Rất vui được gặp cậu.” “Tôi là Jerome,” hắn bắt tay Samuel. “Ông đi loanh quanh khắp nơi với chiếc mũ Do Thái này mà không sợ à?” Jerome hỏi, vẫn thiếu tế nhị như thường lệ. Samuel phá lên cười. Rõ ràng câu hỏi này không làm ông lúng túng. “Thế cậu đi loanh quanh với chiếc áo in hình Jacque Chirac thế này không không sợ à?” “Tôi nghĩ là dân Pháp sẽ thích nó.” Jerome chỉ vào Samuel khi hắn quay lại phía tôi. “Ông bạn này được đấy.” Jerome ngồi xuống. “Cậu vẫn hay nói thế với người vừa mới quen hả?” tôi hỏi. “Tất nhiên là không rồi. Thường thì tớ hỏi xem họ có biết cô nàng dễ thương nào đó có thể hứng thú với tớ không… thế ông có biết cô nào không?” Jerome có rất ít khả năng kiềm chế. Giờ tôi mới nhớ ra. “Thế chính xác là cậu tìm người như thế nào?” Samuel tủm tỉm cười. Jerome ngồi thẳng lại và đặt tay lên bàn. “Ồ, tôi tìm một cô nàng xinh đẹp, thông minh, có khiếu hài hước, có cổ phần của Microsoft và Yahoo! từ năm 1987. Và cuối cùng, theo thiển ý của tôi, phải góp phần quan trọng cho một mối quan hệ tốt đẹp.” “Cậu ta cũng được đấy,” Samuel nói với tôi. “Ồ, vậy thì, tôi rất vui vì buổi hẹn hò đầu tiên đã thành công,” tôi đầu hàng. Tôi không biết liệu Samuel có chuẩn bị để tiếp tục cuộc trò chuyện của chúng tôi hôm trước không, hay chỉ là tình cờ thôi, nhưng chúng tôi đã tiến đến một nguyên tắc khác liên quan đến trí thông minh của người Do Thái. Samuel ca ngợi Jerome vì quyết định của hắn, cho hắn một vài lời khuyên rồi hỏi, “Cậu có biết tại sao người Do Thái luôn trả lời một câu hỏi bằng một câu hỏi khác không?” “Sao họ lại không nên làm thế chứ?” Jerome mỉm cười. “Dĩ nhiên, ai cũng biết là thế, nhưng nghiêm túc đấy, có hẳn một triết lý dựa trên điều này. Hôm qua Eran đã kể cho tôi nghe về dự án của các cậu, và trên đường về khách sạn, tôi nghĩ rằng một trong những nguyên lý cơ bản của trí thông minh Do Thái đó là sự quan tâm dành cho việc học hành và giáo dục. Ai cũng có một khao khát cơ bản là được hiểu biết nhưng không phải xã hội nào cũng ưu tiên cho giáo dục. Chẳng thiếu gì lý do để biện hộ cho việc này: họ không có tiền, và nếu có đi nữa thì có vẻ đầu tư số tiền đó vào phát triển kinh tế sẽ có nghĩa hơn nhiều so với đầu tư vào sách vở, trường lớp hay các thứ ‘xa hoa’ khác. “Nhưng người Do Thái thì khác. Một người có thể sống mà không có vật chất nhưng không thể sống trong sự ngu dốt. Trong suốt lịch sử, người Do Thái luôn sống ở những nơi tồi tàn. Mà ngay cả ngày nay cũng vậy, nếu nhìn vào những khu Do Thái chính thống – ngay ở Jerusalem hay Bnei Barak – sẽ thấy rằng hầu hết họ đều sống dưới mức nghèo khổ. Một cậu bé có thể không có nổi một miếng thịt nhưng không thể không có sách vở. Bố mẹ cậu bé có thể chẳng kiếm được đồng nào khi làm giáo viên bán thời gian nhưng đổi lại, họ sẽ nhận được những điều quý giá hơn – sự kính trọng và danh dự. Đề cao việc học hành là một giá trị rất cao đối với người Do Thái. “Vì vậy, những nhà lãnh đạo Do Thái hiểu rằng tương lai của đạo Do Thái dựa vào giáo dục. Giáo dục quan trọng đến nỗi một trong những thầy đạo cấp cao còn thừa nhận rằng ông ta thích học kinh Torah hơn bất cứ bổn phận nào khác, trong đó có việc chăm lo chuyện lễ tế hàng ngày. Sau đó, một triết lý của người Do Thái đã được phát triển ‘Thế giới được chống đỡ bởi ba điều: Torah, công việc và lòng từ thiện.’ Để ý mà xem, giáo dục đứng đầu danh sách đó đấy.” “Thức ăn ngon và những trận bóng đá nữa chứ,” Jerome bổ sung. “Nếu bạn muốn thế giới ổn định hơn nữa và được chống đỡ tốt hơn trên nền tảng năm điều.” “Điều mà có thể người Do Thái không biết hay ít nhất là họ không nghĩ sẽ xảy ra đó là việc họ đã đặt nền móng cho sự phát triển của trí thông minh của cả cá nhân và tập thể. Người Do Thái tập trung vào việc sử dụng cái đầu, sau đó mới đến chân tay. Đó là một lý do nữa giải thích tại sao hầu hết người Do Thái đều làm việc trong những ngành ít đòi hỏi vận động mà chủ yếu đòi hỏi trí óc như y khoa, thương mại, luật, v.v… Đó cũng là lý do tại sao có rất ít vận động viên nổi tiếng người Do Thái. Phát triển trí óc luôn đi trước phát triển thân thể.” “Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng sử dụng bộ não, tức là suy nghĩ nhiều, sẽ giúp phát triển trí thông minh. Nếu bạn làm những việc mang tính máy móc như là hái cà chua hay những việc ít đòi hỏi suy nghĩ, sáng tạo thì rất có khả năng sẽ bị teo não.” “Đúng rồi đó,” tôi đồng ý. “Hồi ở khu định cư, tôi cũng đã nghĩ y như thế.” “Cậu đã từng sống ở khu định cư hả?” Samuel hỏi có vẻ ngạc nhiên. “Đúng vậy. Cả Jerome cũng thế,” tôi trả lời đầy tự hào. “Tôi cũng đã từng làm tình nguyện viên ở một khu định cư,” Samuel trả lời thỏa mãn, “mà… đợi chút. Thế hồi ở khu định cư ấy, cậu nghĩ gì?” “Ôi, chả có gì đâu. Chỉ là chúng tôi làm những công việc nhà nông kiểu như nhặt cà chua, dưa hấu, hành và khoảng năm mươi loại rau củ quả khác. Tôi nhớ là sau hai năm làm công việc nhặt nhạnh đó, tôi chỉ muốn nhặt những thứ như kiểu hoa tai, bóng đèn, bóng bay… Nói tóm lại – không phải là tôi muốn xúc phạm những người nông dân đâu, có Chúa chứng giám – nhưng rõ ràng là nhặt cà chua thực sự không đòi hỏi nhiều suy nghĩ lắm. “Ngay cả việc vắt sữa bò, một công việc được coi là thú vị hơn nhiều, thì công đoạn cần đến bộ óc nhất cũng chỉ là nhớ đặt chiếc ống hút vào vú con bò chứ không phải vào chỗ nào khác. Tất nhiên, để hoàn thành được công việc đó, đầu tiên bạn phải túm được vú con bò đã. Và, thêm nữa, phải nhớ đưa mỗi con trở lại đúng chuồng và cài then cửa – việc này thì thỉnh thoảng tôi vẫn hay quên. Nhưng dù gì, khoảng thời gian ở khu định cư là một trong những giai đoạn tốt đẹp nhất trong cuộc đời tôi vì tôi chẳng cần phải nghĩ ngợi gì hết…” “Cậu nói cũng đúng,” Samuel mỉm cười. “Đôi khi, không nghĩ gì lại tốt, nếu người ta đã chọn như thế. Nhưng ta có quyền quyết định mình muốn cả ngày làm công việc nhặt cà chua nhàm chán hay đầu tư thời gian cho phát triển trí não và đấu tranh với sự đơn điệu, buồn tẻ.” “Đến lúc bảy mươi thì chẳng làm được gì nữa,” Jerome lẩm bẩm. “Hừ. Tuổi tác chả liên quan gì hết.” “Không liên quan sao?” Lông mày tôi rướn lên đầy thắc mắc. “Hoàn toàn đúng.” Samuel chậm rãi gật gù. “Con người có thể học tập và phát triển bộ óc ở bất cứ lứa tuổi nào. Như đại tá Sanders, người sáng lập ra KFC, một trong những chuỗi cửa hàng đồ ăn nhanh phát đạt nhất thế giới, đến tận tuổi sáu mươi mới thành lập hãng đấy.” Jerome đưa tay lên má. “Tôi nghĩ chắc mình sẽ về hưu ở tuổi năm mươi thôi.” “Có một điều còn thú vị hơn,” Samuel tiếp tục, “đó là người Do Thái có một phương pháp rất hiệu quả để kích thích não bộ. Phương pháp cân nhắc.” “Hỏi và đáp,” tôi dõng dạc tuyên bố. “Cậu có nhớ tôi đã hỏi cậu tại sao người Do Thái luôn trả lời một câu hỏi bằng một câu hỏi khác không?” Samuel quay sang Jerome. “Bởi vì họ được dạy như thế và đó là thói quen đã truyền lại qua nhiều thế hệ.” “Đạo Do Thái có một nguyên tắc là không bao giờ được coi bất cứ điều gì là chuyện đương nhiên, thậm chí cả những mệnh lệnh nghiêm khắc và cơ bản nhất. Cho dù mệnh lệnh có đến từ đâu thì người Do Thái cũng luôn khao khát được hiểu tại sao họ phải hành động như thế và logic đằng sau mỗi mệnh lệnh là gì. Sinh viên trường đạo không phải cứ mù quáng chấp nhận tất cả những điều thầy đạo nói như những lời thánh truyền mà không có gì chứng minh cho những lời đó. Họ được quyền tranh luận với người dạy mình và được khuyến khích đưa ra câu hỏi nếu họ nghĩ rằng hành động của thầy đạo đi ngược lại những điều họ được học. Một giáo viên may mắn là người được dạy những sinh viên có khả năng giúp mình hiểu biết hơn nhờ những câu hỏi của sinh viên và việc trả lời những câu hỏi đó. Đó cũng là lý do vì sao sách Talmud lại đóng một vai trò quan trọng đến vậy trong cuộc sống của người Do Thái. Đó là một tác phẩm không có điểm bắt đầu và cũng không có điểm kết thúc. Không có cái gọi là câu trả lời cuối cùng và ai cũng có thể bắt đầu một cuộc thảo luận tại bất cứ điểm nào trong đó, thậm chí cả những điểm đã được tất cả mọi người ‘chấp nhận.’ Học tập không phải là học thuộc như vẹt những điều về quá khứ mà phải là lời mời gọi thảo luận về tương lai.” “Không được coi bất cứ điều gì là hiển nhiên,” Jerome kết luận. “Đúng vậy,” Samuel khẳng định. “Bạn cần phải kiểm tra tất cả, nghiên cứu và đưa ra những câu hỏi. Chúng ta thường chấp nhận nhiều điều mà không xem xét chiều sâu của những điều đó, và chính vì thế mà cuối cùng chúng ta sống với rất nhiều quan điểm sai lầm. Tôi sẽ cho mọi người một ví dụ.” Ông ngừng lại nghĩ một lúc. “Cậu có biết câu chuyện Adam và Eva bị trục xuất khỏi vườn địa đàng khi Eva xúi giục Adam cắn một miếng táo cấm không?” “Có chứ,” tôi trả lời. “Hãy kể câu chuyện đó với một học sinh trường đạo và tôi chắc chắn một điều là cậu học sinh đó sẽ nhảy dựng lên… ai bảo đó là trái táo chứ?” “Ừ, phải rồi,” Jerome mỉm cười. “Thật ra nó là ‘một trái hái từ cây tri thức.’” “Chính xác, và các nhà hiền triết cho rằng ‘trái’ đó rất có thể là nho hoặc sung vì chúng ta biết rằng sau đó Adam và Eva phủ đầy mình lá sung.” Samuel mỉm cười. “Cũng giống như hộp đen ấy nhỉ,” Jerome nói to suy nghĩ của mình. “Tớ chả thấy liên quan gì hết,” tôi nói. “Cái hộp đó thực ra đâu phải màu đen. Nó màu da cam mà, để cho dễ tìm.” Jerome đã cho chúng tôi một ví dụ về một điều chúng tôi cứ tưởng mình biết trong khi thực ra không hề biết. “Chung quy lại, tôi muốn giải thích cho thực tế rằng việc học hành của người Do Thái dựa trên những câu hỏi, nghiên cứu, tranh luận và xem xét chiều sâu, chiều rộng của mọi vấn đề. Phương pháp này là một thứ tài sản có đóng góp rất lớn vào trí tuệ và khả năng rút ra những kết luận chính xác của người Do Thái.” Ông quay qua Jerome. “Trước khi cậu bước vào một sự kiện mới, đàm phán công việc làm ăn hay đơn giản chỉ là đến thăm một chỗ nào đó mới lạ, hãy đưa ra những câu hỏi. Bằng cách này, cậu có thể biến một tình huống nan giải với hàng tỉ thứ không biết thành một điều quen thuộc với cảm giác mình có thể kiểm soát được mọi thứ. Giữa tri thức và sự tự tin có mối quan hệ rất mật thiết.” Điện thoại của Jerome bắt đầu đổ chuông. Hắn lục tung tất cả các túi để tìm chiếc điện thoại. Hắn vừa tìm thấy thì chuông ngừng kêu. Hắn nhìn chằm chằm vào màn hình. “Số máy đã bị chặn. Tuyệt thật, và trong nửa tiếng tới, mình sẽ phải bận rộn nghĩ xem đó có thể là ai được.” Hắn tắt điện thoại. “Lạc quan lên nào,” tôi nói. “Có thể cậu không biết được đó là ai nhưng việc cố gắng suy nghĩ sẽ làm bộ óc cậu sắc sảo hơn.” “Điều này làm tôi nhớ đến câu chuyện về một cậu bé và ông bố có liên quan đến việc học hành và những câu hỏi,” Jerome ngắt lời. “Có ai nghe chưa?” “Chắc là chưa đâu… Cậu kể đi.” Jerome mỉm cười và ngồi thẳng dậy. “Một cậu bé đến chỗ bố và hỏi, ‘Tại sao bầu trời lại màu xanh?’ Bố cậu trả lời rằng ông không biết. Sau vài phút, cậu bé hỏi, ‘Đường kính của trái đất là bao nhiêu?’ Ông bố gãi đầu và nói, ‘Đó là một câu hỏi khó, sao con không thử tra trong sách xem?’ Một vài phút sau nữa, cậu bé lại hỏi, ‘Tại sao con voi lại có cái vòi dài thế?’ ‘Con trai à, bố không biết.’ Cuối cùng, cậu bé quay sang bố và nói, ‘Thế bố có bực mình vì con hỏi nhiều quá không?’ ‘Dĩ nhiên là không rồi,’ ông bố trả lời. ‘Nếu con không hỏi thì làm sao con học được?” Samuel cười và tự nói với mình, “Mình phải nhớ câu chuyện này mới được.” Jerome ngả người tựa vào ghế, bắt chéo chân và nhìn chằm chằm vào một cặp vợ chồng già đi ngoài phố. “Ông có ví dụ nào về một câu hỏi kiểu Talmud không?” Samuel nghĩ một lúc. “Có hai tên trộm đột nhập vào một ngôi nhà qua ống khói. Mặt một tên bị đen sì đầy bồ hóng còn tên kia thì mặt mũi vẫn sạch nguyên. Thế cậu nghĩ tên nào đi rửa mặt?” Samuel nhún vai. “Tôi đoán chắc tên mặt bẩn.” Samuel lắc đầu. “Cậu đưa ra kết luận mà không nghĩ ngợi chút nào. Tên mặt bẩn sẽ nhìn mặt tên đồng phạm của hắn, thấy một khuôn mặt sạch sẽ và nghĩ rằng mặt hắn cũng sạch như thế. Còn tên kia sẽ nhìn tên mặt bẩn và cho rằng mặt mình cũng bị bẩn. Tên thứ hai mới là người sẽ đi tìm chỗ rửa mặt.” “Ừ, đúng rồi,” Jerome mỉm cười. Hắn nhìn ra đường và ngồi ngẫm nghĩ một lúc. “Nhưng mà… sao hai tên cùng trượt xuống ống khói mà một tên lại chui ra với khuôn mặt sạch sẽ được chứ?” Samuel giơ ngón tay cái lên và nháy mắt với hắn. “Câu hỏi của cậu chứng tỏ cậu có khả năng học Talmud đấy.” Tôi lục túi áo và tìm thấy một mảnh giấy nhỏ. Tôi mượn Jerome chiếc bút đắt tiền lúc nào hắn cũng để trong túi áo trái và viết: Để học tập mãi mãi, hãy đưa ra những câu hỏi và không bao giờ được coi bất cứ điều gì là chuyện hiển nhiên. “Eran chịu trách nhiệm thu thập mọi thông tin cho cuốn sách,” Jerome giải thích. “Tôi thì nhận vai trò dễ dàng hơn nhiều. Chỉ cần thực hiện mọi thứ thôi.” Hắn mỉm cười ngượng nghịu. “Mà nhân tiện,” Samuel tiếp tục dòng suy nghĩ, “khi cậu đưa ra những câu hỏi, cậu sẽ có khả năng nhận ra những thay đổi cần có trong thực tại, như cái băng dán trên tay cậu kia chẳng hạn. Khi đó, cậu sẽ thực sự có khả năng thay đổi tương lai của mình.” Jerome xem xét cái băng tay một lúc. “Cái băng tay của tôi thì có vấn đề gì chứ?” 6 SỰ SÁNG TẠO CỦA NGƯỜI DO THÁI Nguyên tắc về việc nâng cấp “Cậu có hay nhìn thấy người ta dán băng lên vết thương không?” Samuel hỏi Jerome. “Hàng tỉ lần rồi phải không?” Jerome gật đầu. “Cậu có bao giờ quan sát thật kỹ chiếc băng dán không? Chắc là không rồi bởi vì chả có lý do gì để đi quan tâm tới một thứ đơn giản và rõ ràng đến vậy. Thế giới đã dùng băng dán gần bảy mươi năm nay rồi nhưng chỉ khoảng một thập kỷ trở lại đây mới có một người để ý thấy một điều mà chúng ta cho là hiển nhiên: tất cả các loại băng dán đều cùũng một màu da kem. Trong suốt sáu mươi năm, tất cả mọi người, không cần biết màu da gì, đều sử dụng chiếc băng dán có màu tiêu chuẩn đó và chấp nhận nó như một thực tế. Phải mất sáu mươi năm, người ta mới đặt ra câu hỏi, ‘Sao không làm băng dán màu tối hơn cho những người da tối?’ Và vì thế, chỉ trong một thập kỷ trở lại đây, các công ty mới bắt đầu cải thiện quan niệm về chiếc băng dán và sản xuất những loại băng có nhiều màu sắc hơn. Sáu mươi năm đó! “Phải mất vài trăm năm các nhà sản xuất nước sốt mới tự hỏi chính mình, ‘Sao người dùng cứ phải dốc ngược chai thủy tinh lên chỉ để lấy ra vài giọt nước sốt tí tẹo chứ?’ Và chính vì vậy, trong vài năm qua, một số nhà sản xuất đã bắt đầu sản xuất những chai nước sốt bằng nhựa bóp được và có hình úp xuống. Hàng triệu người giờ đây đã có thể thưởng thức nước sốt mà không phải trầy trụa cả tay vì dốc chai.” Samuel mỉm cười. “Tôi có cảm giác là ông đang muốn dẫn đến một điều gì đó,” Jerome thận trọng. “Tất nhiên. Tôi muốn nói rằng chẳng cần thiết phải phát minh một loại bánh xe khác làm gì. Những phát minh vĩ đại nhất của loài người đều chỉ là việc cải tiến những cái có sẵn. Cải tiến ở đây mang ý nghĩa là dùng những cái có sẵn và tìm cách làm cho chúng đơn giản hơn, dễ sử dụng hơn và hiệu quả hơn.” Jerome cầm ống muối lên và xem xét một hồi. “Xem nào,” hắn bắt đầu. “Lỗ cần rộng hơn để muối khỏi bị tắc lại.” “Không tệ chút nào,” Samuel mỉm cười. “Cái này có liên hệ gì đến trí thông minh Do Thái không vậy?” Jerome hỏi. “Có chứ, ít nhiều liên quan,” Samuel khẳng định. Chúng ta đã nói đến việc người Do Thái phát triển một thứ bản năng sinh tồn đòi hỏòi họ phải để ý rất kỹ đến sự thay đổi không ngừng của hoàn cảnh xung quanh mình, khả năng thích ứng với những thay đổi này và một nguyên tắc căn bản đó là không được coi bất cứ điều gì là hiển nhiên. Người Do Thái luôn cố gắng giữ một bộ óc cởi mở. Sự cởi mở này cho họ một hiểu biết quan trọng – không việc gì phải phát minh ra một loại bánh xe khác. Cứ sử dụng cái đã có sẵn theo cách phù hợp với nhu cầu của mình nhất. Tất nhiên, nhiều người Do Thái đã có những ý tưởng tác động đến toàn nhân loại nhưng họ cũng đủ khôn ngoan để tiếp thu những tinh hoa của các nền văn hóa và những con người sống quanh họ, để đáp ứng nhu cầu của mình. Ở một khía cạnh nào đó, họ là những người bắt chước sáng tạo.” “Những người bắt chước sáng tạo?” tôi nói. “Một người bắt chước sáng tạo là người áp dụng có hiệu quả một thứ đã có sẵn để phù hợp với nhu cầu của mình và cải tiến thứ đó. Một tấm đệm chỉ là một chiếc chiếu được cải tiến, một chiếc ô tô chỉ là một chiếc xe ngựa tinh vi…” “Và George W. Bush chỉ là phiên bản tốt hơn của George. W. H. Bush,” Jerome ngắt lời. “Chính xác thì người Do Thái đã học tập những gì từ các nền văn hóa