🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trên Đỉnh Phố Wall - Peter Lynch Ebooks Nhóm Zalo VỀ BỘ SÁCH CHỨNG KHOÁN CỦA ALPHA BOOKS Đ áp ứng nhu cầu ngày càng tăng trong việc tìm hiểu về cổ phần, cổ phiếu, chứng khoán, chiến lược đầu tư của độc giả, Alpha Books chọn mua bản quyền dịch và xuất bản bộ sách về đầu tư chứng khoán bao gồm những cuốn sách hay nhất và nổi tiếng nhất, được viết bởi những học giả, các nhà đầu tư thành công hàng đầu của thế giới. Cuốn sách Trên đỉnh phố Wall mà các bạn đang cầm trong tay nằm trong loạt sách trên kể lại những kinh nghiệm và bí quyết của Peter Lynch, nhà quản lý tài chính hàng đầu ở Mỹ. Là một trong những cuốn sách kinh điển về đầu tư chứng khoán, chúng tôi tin rằng Trên đỉnh phố Wall sẽ mang lại cho các nhà đầu tư chứng khoán của Việt Nam hôm nay những bài học và kỹ năng vô cùng hữu ích. Được tuyển chọn từ những bộ sách về đầu tư, tài chính và chứng khoán nổi tiếng nhất của nhiều tác giả tên tuổi hàng đầu thế giới, hy vọng loạt sách này sẽ trở thành một món quà giá trị và hữu ích cho tất cả các độc giả quan tâm. Xin trân trọng giới thiệu tới độc giả loạt sách về đầu tư và chứng khoán này. Tháng 5 năm 2007 Công ty Sách Alpha Tặng Carolyn, người vợ và là người bạn tốt nhất của tôi suốt hơn 20 năm. Sự ủng hộ và hi sinh của cô ấy có ý nghĩa quyết định đối với tôi. Tặng các con tôi, Mary, Annie, và Beth, tình yêu của chúng dành cho cha mẹ và cho nhau thực sự có ý nghĩa rất lớn. Tặng các đồng nghiệp của tôi ở Quỹ Đầu Tư Fidelity, những người đã nỗ lực hết mình để đảm bảo hoạt động của Magellan nhưng những cống hiến âm thầm của họ không hề được công chúng biết đến. Tặng một triệu cổ đông ở Magellan, đã tin tưởng và uỷ thác tài sản tiết kiệm của họ cho tôi, đã gửi hàng ngàn lá thư và gọi hàng ngàn cuộc điện thoại trong suốt những năm qua để an ủi tôi trong những lần thị trường xuống giá và nhắc nhở tôi rằng tương lai sẽ tươi sáng hơn. Tặng các thánh thần vì tất cả những lời ban phước đã che chở tôi trong suốt cuộc đời. LỜI GIỚI THIỆU Cho Ấn phẩm thiên niên kỷ C uốn sách này viết ra nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản cũng như khuyến khích các nhà đầu tư cá nhân. Ai có thể biết trước rằng nó sẽ được xuất bản tới 30 lần và bán được hơn một triệu bản? Ấn phẩm mới nhất này ra đời 11 năm sau lần xuất bản đầu tiên. Do vậy tôi thực sự tin tưởng rằng những nguyên tắc đã từng giúp tôi thành công ở Fidelity Magellan vẫn có thể áp dụng trong đầu tư cổ phiếu ngày nay. Đã qua một thời gian dài kể từ lần đầu tiên Trên đỉnh phố Wall xuất hiện tại các cửa hàng sách vào năm 1989. Tôi rời khỏi Magellan vào tháng 5 năm 1990 và các chuyên gia ở đây nói đây quả thực là một bước đi trí tuệ. Họ chúc mừng tôi vì đã ra đi đúng thời điểm - ngay trước khi thị trường đầu cơ giá lên sụp đổ. Vào thời điểm đó, những người bi quan trông có vẻ hợp với thời cuộc hơn. Các ngân hàng lớn trên khắp nước Mỹ hầu hết đều rơi vào tình trạng vỡ nợ, chỉ có một số ít là vẫn đứng vững và phát triển. Đầu mùa thu năm đó, một cuộc chiến chống Iraq đang được chuẩn bị. Thị trường chứng khoán trải qua thời kỳ khủng hoảng trầm trọng nhất từ trước đến nay. Nhưng không lâu sau, khi cuộc chiến với Iraq giành thắng lợi, hệ thống ngân hàng lại hồi sinh và thị trường chứng khoán bước vào giai đoạn phục hưng. Phục hưng thật sự! Chỉ số Dow Jones tăng gấp hơn bốn lần kể từ tháng 10 năm 1990, từ 2.400 điểm lên 11.000 điểm và vẫn tiếp tục tăng - đây là thập kỷ huy hoàng nhất của cổ phiếu trong thế kỷ XX. Số lượng các hộ gia đình Mỹ nắm giữ các cổ phiếu hay chứng chỉ của các quỹ đầu tư đã tăng đáng kể từ 32% năm 1989 lên gần 50%. Toàn bộ thị trường đã tạo ra 25 nghìn tỷ đô la giá trị của cải mới, được biểu hiện ở mọi thành phố và thị trấn. Hơn bốn nghìn tỷ đô la của cải mới đã được đầu tư vào các quỹ đầu tư, tăng gấp nhiều lần so với số lượng 275 tỷ năm 1989. Vì tôi cũng quản lý một quỹ nên tôi rất hài lòng khi các quỹ này thịnh vượng. Song điều đó cũng đồng nghĩa với việc có nhiều nhà đầu tư chứng khoán nghiệp dư hoạt động không hiệu quả. Nếu họ đã hoạt động tốt hơn trong lĩnh vực sản sinh ra các thị trường đầu cơ giá lên này, thì hẳn họ đã không phải chuyển vốn đầu tư sang các quỹ với qui mô như họ đã làm. Có lẽ những thông tin chứa đựng trong cuốn sách này sẽ giúp các nhà đầu tư sai lầm tìm ra hướng đi mới có ích hơn cho họ. Kể từ khi rời khỏi Magellan, tôi trở thành một nhà đầu tư cá nhân hoạt động tự do. Trong lĩnh vực từ thiện tôi đã kêu gọi đóng góp học bổng giúp các trẻ em trong thành phố thuộc mọi đức tin đến học tập tại các trường công giáo ở Boston. Mặt khác tôi còn làm việc bán thời gian ở Fidelity với tư cách uỷ viên quản trị, đồng thời là người tư vấn/đào tạo các nhà phân tích nghiên cứu trẻ tuổi. Gần đây, thời gian nghỉ ngơi giải trí của tôi đã tăng ít nhất 30 lần do tôi dành nhiều thời gian cùng gia đình mình hơn. Có lẽ bấy nhiêu điều đã đủ nói về tôi. Vậy chúng ta hãy cùng quay lại chủ đề mà tôi quan tâm: chứng khoán. Kể từ khi thị trường đầu cơ giá lên hình thành vào tháng 8 năm 1982, chúng ta đã chứng kiến cổ phiếu tăng giá ở mức kỷ lục trong lịch sử nước Mỹ, với chỉ số Dow tăng gấp 15 lần. Theo cách nói riêng của Lynch, sự gia tăng này được gọi là “fifteenbagger” (tạm dịch là “túi 15 gang” - “fifteenbagger”: một loại chứng khoán mà giá trị của nó tăng tới 15 lần - thuật ngữ này do Peter Lynch, một nhà đầu tư lớn nhất mọi thời đại, sáng tạo ra). Tôi không lạ gì khi thấy những chiếc túi 15 gang ở một số công ty thành công, tuy nhiên một chiếc túi 15 gang ở toàn bộ thị trường thì quả là một phần thưởng giá trị. Hãy xem xét điều này: từ năm 1929 đến năm 1982, chỉ số Dow mức cao nhất chỉ tăng gấp bốn lần: từ 248 điểm lên 1.046 điểm trong nửa thế kỷ. Gần đây, tốc độ tăng giá cổ phiếu nhanh hơn mức độ tăng của chỉ số Dow Jones. Để chỉ số Dow Jones tăng gấp đôi từ 2.500 điểm lên 5.000 điểm, phải mất 8 năm 4 tháng, nhưng chỉ trong vòng 3 năm rưỡi chỉ số này cũng đã tăng gấp đôi từ 5.000 điểm lên 10.000 điểm. Từ năm 1995 - 1999, lần đầu tiên lãi cổ phiếu đạt 20% trong năm năm liên tiếp. Chưa bao giờ thị trường chứng khoán lại đạt mức lãi cổ phiếu 20% đến hai lần như khoảng thời gian này. Thị trường đầu cơ giá lên lớn nhất của Phố Wall đã trọng đãi những người tin tưởng và làm kinh ngạc những người hoài nghi ở mức độ mà không ai có thể tưởng tượng được trong thời kì đình trệ đầu thập kỷ 1970, khi tôi mới giữ cương vị lãnh đạo tại Magellan. Ngay trước thời điểm đó, các nhà đầu tư thoái chí đã phải tự nhắc nhở mình rằng thị trường đầu cơ giá xuống không thể duy trì mãi mãi. Và những người kiên nhẫn thì cố giữ các cổ phiếu cũng như các chứng chỉ quỹ đầu tư của họ trong suốt 15 năm - khoảng thời gian mà chỉ số Dow Jones và các chỉ số trung bình khác tăng trở lại mức độ giữa thập niên 1960. Giờ đây chúng ta cũng cần tự nhắc nhở mình rằng các thị trường đầu cơ giá lên không duy trì mãi mãi, và rằng kiên nhẫn là đức tính cần thiết không chỉ ở những người tin tưởng mà cả những người hoài nghi. Ở phần sau của cuốn sách này, tôi có nói rằng sự sụp đổ của ATT vào năm 1984 có lẽ là bước phát triển quan trọng của thị trường chứng khoán trong thời kì đó. Ngày nay, chính là Internet và đến nay cũng chỉ có Internet đã phớt lờ tôi. Chỉ vì từ trước đến nay tôi vốn là người “ác cảm với công nghệ”. Những kinh nghiệm của tôi cho thấy để trở thành một nhà đầu tư thành công, bạn không nhất thiết phải là người thức thời. Thực tế thì hầu hết những nhà đầu tư lớn nhất mà tôi biết (đứng đầu danh sách này là Warren Buffet) đều là những người “ác cảm với công nghệ”. Họ không sở hữu những gì mà họ không hiểu rõ, và tôi cũng vậy. Tôi hiểu rõ các hãng Dunkin’ Donuts và Chrysler, đó là lý do hai loại cổ phiếu này đều xuất hiện trong danh mục đầu tư của tôi. Tôi hiểu về ngân hàng, các khoản tiết kiệm và nợ, thân thích của chúng là Fannie Mae (một ngân hàng tín dụng nhà ở của Mỹ). Tôi không bao giờ ghé thăm các trang web. Tôi cũng chưa từng truy cập hay chat trên đó. Nếu không có sự hỗ trợ chuyên môn (của vợ tôi hay các con tôi chẳng hạn), thì chắc hẳn tôi sẽ chẳng thể tìm được các trang web. Vào dịp Lễ Tạ ơn năm 1997, tôi cùng uống cocktail trứng sữa với một người bạn rất sành về web tại New York. Tôi có nói rằng Carolyn - vợ tôi rất thích tiểu thuyết gia thần bí Dorothy Sayers. Bạn tôi bèn ngồi xuống một chiếc máy tính gần đó, và chỉ sau vài cái nhấp chuột ông đã kéo lên một danh sách đầy đủ các tác phẩm của Sayers, ngoài ra còn có các lời bình của độc giả và một bảng xếp hạng từ một đến năm sao cho các tác giả (trên các trang web văn học, các tác giả cũng được xếp hạng giống như các giám đốc quản lý quỹ). Tôi mua bốn cuốn tiểu thuyết của Sayers cho Carolyn, chọn kiểu gói quà, đánh địa chỉ gia đình tôi vào, và sau đó loại một món quà ra khỏi danh sách quà tặng Giáng sinh của tôi. Đây là lần đầu tiên tôi mua hàng trên Amazon.com. Sau đây bạn sẽ đọc về cách mà tôi phát hiện được một số cổ phiếu lãi nhất của mình khi đang ăn uống hay đi mua sắm, đôi khi sớm hơn các chuyên gia săn tìm chứng khoán nhiều. Vì Amazon tồn tại ở không gian điện tử chứ không phải không gian buôn bán ngoại ô, nên tôi đã phớt lờ nó. Amazon nằm ngoài tầm hiểu biết của tôi - đối với tôi nó cũng khó hiểu như thể một hiệu giặt khô vậy. Tuy nhiên, đến năm 1997, Amazon đã được định giá tương xứng với những triển vọng của mình và đã được hỗ trợ vốn thích đáng. Nhưng tôi không đủ linh hoạt để có thể thấy ngay được cơ hội mà lĩnh vực này đem lại. Nếu tôi không ngại nghiên cứu hẳn tôi đã thấy thị trường khổng lồ cho loại hình mua bán này, cũng như khả năng của Amazon để có thể nắm bắt thời cơ. Hỡi ôi, tôi đã không làm thế! Và kết quả là Cổ phiếu Amazon đã tăng gấp 10 lần (một chiếc “túi 10 gang” theo cách nói của Lynch) chỉ trong có một năm 1998. Amazon là một trong ít nhất là 500 loại cổ phiếu “dot.com” đã tăng giá cực kỳ ngoạn mục. Trong giới công nghệ cao và “dot.com”, không có gì lạ khi một cổ phiếu lần đầu tiên chào bán ra công chúng tăng giá gấp mười lần trong thời gian ngắn hơn cả thời gian cần thiết để Stephen King viết một truyện kinh dị. Những sự đầu tư này không đòi hỏi nhiều tính kiên nhẫn. Trước khi Internet phát triển, các công ty đã phải nỗ lực tăng trưởng để lọt vào bảng xếp hạng các công ty có tài sản hàng tỷ đô la. Nhưng giờ đây, họ đã có thể đạt được giá trị một tỷ đô la trước khi họ thu được lợi nhuận, và trong nhiều trường hợp còn trước cả khi họ kiếm được bất kỳ khoản doanh thu nào. Ngài Thị trường (một đại diện giả tưởng cho cổ phiếu nói chung) không chờ đợi sự ra đời của một trang web mới để tự chứng tỏ mình trong cuộc sống thực tại, giống như cách mà Wal-Mart và Home Depot tự chứng tỏ với thế hệ trước. Đối với những cổ phiếu Internet đang nóng hiện nay, các yếu tố cơ bản dường như không còn hợp thời. Sự xuất hiện đơn giản của một dấu chấm bên cạnh một chữ “com” và khái niệm lý thú ẩn sau nó đã đủ để thuyết phục những người lạc quan trả tiền trước cho giá trị tăng trưởng và thịnh vượng của cả một thập kỷ về sau. Và những người mua hàng kế tiếp thì trả giá cao hơn lên trên cơ sở “những nguyên tắc cơ bản” vị lai, một mức giá tăng lên từng thời khắc. Xét theo doanh số của Maserati ở thung lũng Silicon, thì các cổ phiếu “dot.com” đem lại những phần thưởng xứng đáng cho các doanh nghiệp đã đưa chúng ra thị trường hay những người mua sớm và biết bán ra đúng lúc. Tuy nhiên, tôi cũng muốn đưa ra một lời nhắc nhở đối với những người mua cổ phiếu sau khi giá của chúng tăng vọt. Có nghĩa lý gì khi đầu tư vào một cổ phiếu dot.com với những mức giá tương ứng với nhiều năm gia tăng thu nhập chóng mặt, mà sự gia tăng đó lại chưa có gì là chắc chắn? Khi tôi trình bày vấn đề này, hẳn độc giả đều dễ dàng nhận thấy câu trả lời của tôi là: “Không”. Với hàng loạt vấn đề mới này, giá cổ phiếu đã tăng gấp đôi, gấp ba, thậm chí là gấp bốn trong ngày giao dịch đầu tiên. Nếu người môi giới của bạn không thể khoanh vùng bạn vào một nhóm cổ phiếu hợp lý ở giá chào bán ban đầu - một viễn cảnh khó xảy ra bởi những lời chào bán trên Internet còn hấp dẫn hơn cả những chiếc vé Super Bowl - bạn sẽ mất đi một số phần trăm lãi đáng kể. Thậm chí bạn có thể mất toàn bộ tiền lãi, bởi một vài loại cổ phiếu dot.com đạt những mức giá cao kỷ lục trong một vài phiên giao dịch đầu tiên mà không bao giờ tăng trở lại mức giá ấy. Nếu bạn cảm thấy mình bị loại ra khỏi cuộc chơi mang tên dot.com thì hãy tự an ủi mình rằng có rất ít nhà đầu tư dot.com đã thành công từ đầu chí cuối. Thật sai lầm khi đánh giá cả quá trình biến động của những cổ phiếu này qua mức giá chào bán ban đầu mà hầu như không ai mua được. Những người được chia cổ phiếu là những người may mắn vì họ nhận được nhiều hơn “một chút”. Mặc dù xung quanh tôi có vô số điều hấp dẫn tức thời, tôi vẫn tiếp tục đầu tư theo cách cổ truyền. Tôi sở hữu những cổ phiếu mà lãi phụ thuộc vào những nhân tố cơ bản lâu đời: một công ty thành công gia nhập các thị trường mới, lợi nhuận tăng, và giá cổ phiếu cũng tăng theo. Hay một công ty hoạt động tồi thay đổi thành một công ty hoạt động tốt. Một cổ phiếu thắng đậm điển hình trong danh mục đầu tư của Lynch nhìn chung phải mất từ ba đến mười năm, thậm chí hơn thế, để giành thế thượng phong. Do thiếu yếu tố lợi nhuận trong lĩnh vực dot.com, nên hầu hết các cổ phiếu dot.com không thể xếp hạng theo tiêu chuẩn so sánh giá cả/thu nhập (price/earnings). Nói cách khác không có “e” trong chỉ số “P/E” - trong đó cả hai yếu tố “p, e” đều đóng vai trò quan trọng. Không có chỉ số “P/E” nên các nhà đầu tư tập trung vào một loại dữ liệu duy nhất rất phổ biến - đó là giá cổ phiếu! Theo tôi nghĩ, giá cổ phiếu là thông tin ít có ích nhất mà bạn nên dựa vào, song trên thực tế nó lại được sử dụng rộng rãi nhất. Vào năm 1989, khi cuốn Trên đỉnh phố Wall này được viết, thì băng tin điện báo giá cổ phiếu chỉ xuất hiện ở cuối trang của mạng Tin tức Tài chính. Ngày nay, bạn có thể thấy băng tin điện báo ở rất nhiều phương tiện thông tin, trong khi rất nhiều phương tiện khác trưng bày những chiếc hộp thoại nhỏ thể hiện chỉ số Dow, chỉ số tổng hợp của 500 loại cổ phiếu S&P 500… Những người truy cập các kênh thông tin này tự nhiên phải biết các thông tin như thị trường nào đã đóng cửa. Trên những cổng Internet phổ biến, bạn có thể nhấn chuột vào danh mục đầu tư do bạn lập ra và tìm thấy những thông tin mới nhất về mỗi cổ phiếu. Hoặc bạn có thể thu thập thông tin về giá cả của trên 800 loại cổ phiếu, máy nhắn tin hay hộp thư thoại. Với tôi hàng loạt những thông tin về giá cả này đều đưa tới những thông điệp sai lầm. Nếu công ty Internet tôi yêu thích bán một cổ phiếu với giá 30 đô la và công ty yêu thích của bạn chỉ bán với giá 10 đô la, thì hẳn những người chỉ quan tâm đến giá cả sẽ nói rằng công ty của tôi đang chiếm thế thượng phong. Đây là một ảo tưởng nguy hiểm. Cái giá mà ngài Thị trường trả cho một cổ phiếu hôm nay hay tuần sau không hề nói cho bạn biết công ty nào có cơ hội thành công lớn nhất sau hai hay ba năm trên siêu xa lộ công nghệ thông tin. Nếu bạn chỉ có thể bám theo một loại dữ liệu, hãy bám sát dữ liệu về thu nhập - giả định rằng công ty đang đề cập có thu nhập. Tôi tán thành một quan điểm dễ gây nổi giận rằng chẳng chóng thì chày, thu nhập sẽ tạo nên thành công hay thất bại của một quyết định đầu tư vào chứng khoán vốn. Giá cổ phiếu hôm nay, ngày mai, hay tuần sau chỉ làm chúng ta sao nhãng mà thôi. Internet khác xa so với tiến bộ đầu tiên làm thay đổi thế giới. Đường sắt, điện thoại, xe lửa, máy bay và ti vi “đòi quyền sở hữu” những ảnh hưởng mang tính cách mạng đối với đời sống bình thường, hay ít nhất là đối với 1/4 dân số thế giới giàu có nhất. Những ngành mới này đã dẫn đến sự ra đời của nhiều công ty mới, nhưng rất ít trong số chúng có thể sống sót và đạt vị trí thống trị trong ngành. Có lẽ điều tương tự cũng sẽ xảy ra với Internet. Một hoặc hai tên tuổi lớn sẽ thống trị lãnh địa này, cũng giống như McDonald’s trong lĩnh vực đồ ăn nhanh (cụ thể là Hamburger) hay Schlumberger trong ngành dịch vụ dầu khí. Các cổ đông trong những công ty thành công sẽ trở nên giàu có, trong khi đó, các cổ đông của những công ty chậm tiến, hết thời, hay tụt hậu sẽ mất hết tiền. Có lẽ bạn sẽ đủ thông minh để đầu tư vào những công ty thành công góp mặt trong một nhóm riêng biệt các công ty có doanh thu một tỷ đô la hàng năm. Mặc dù một công ty dot.com điển hình không hề có thu nhập nhưng bạn vẫn có thể tiến hành một phân tích ngắn gọn để đưa ra một ý niệm chung về doanh thu mà công ty cần đạt được trong tương lai để điều chỉnh giá cổ phiếu hiện hành. Hãy cùng đưa ra một giả thiết: dot.com. Trước tiên bạn tìm được “giá trị kinh doanh” bằng cách nhân số lượng cổ phiếu nợ (ví dụ 100 triệu) với giá cổ phiếu hiện hành (ví dụ 100 đô la/cổ phiếu). 100 triệu lần của 100 đô la tương đương 10 tỷ đô la, và đó chính là giá trị kinh doanh của dot.com. Khi bạn đầu tư vào bất kỳ công ty nào, bạn đều kỳ vọng giá trị kinh doanh của công ty đó sẽ tăng. Điều này không thể xảy ra nếu người mua không trả những mức giá cao hơn cho các cổ phiếu để nâng cao giá trị đầu tư. Với suy nghĩ này, trước khi cổ phiếu dot.com tăng gấp 10 lần, giá trị kinh doanh của công ty phải tăng 10 lần từ 10 tỷ lên 100 tỷ đô la. Khi bạn đã đạt được những giá trị kinh doanh mục tiêu, bạn sẽ phải tự hỏi chính mình: dot.com sẽ phải kiếm được bao nhiêu để đạt được giá trị 100 tỷ đô la? Để có một câu trả lời gần đúng, bạn có thể áp dụng phương pháp chỉ số giá cả/thu nhập riêng đối với hoạt động tăng trưởng nhanh - ở các thị trường đang nóng hiện nay, chỉ số này có thể đạt mức 40 lần thu nhập. Cho phép tôi được lạc đề một chút ở đây, ở phần sau của cuốn sách này, tôi có đề cập đến phép màu có thể biến các công ty trở thành những tài sản đầu tư mạo hiểm khi người ta trả quá nhiều tiền cho chúng, sử dụng McDonald’s làm ví dụ A. Vào năm 1972, cổ phiếu của công ty này được đặt giá cao hơn 50 lần thu nhập rất bất thường. Không như kỳ vọng, giá cổ phiếu đã giảm từ 75 đô la xuống 25 đô la, một cơ hội tuyệt vời để mua ở mức giá thực tế hơn - mức giá cao gấp 13 lần so với thu nhập. Trong trang kế tiếp, tôi cũng nói tới mức giá cao đặc biệt gấp 500 lần thu nhập mà các cổ đông trả cho cổ phiếu của “Các hệ thống dữ liệu điện tử của Ross Perot (Ross Perot’s Electronic Data Systems). Ở mức giá 500 lần so với thu nhập, tôi đã ghi chú rằng “sẽ mất 5 thế kỷ để bạn có thể đầu tư lại, với giả định là thu nhập của EDS vẫn giữ mức ổn định”. Nhờ có Internet mà mức giá gấp 500 lần thu nhập đã giảm xuống dưới điểm gây sốc, và cả mức giá 50 lần, 40 lần trong ví dụ lý thuyết của tôi về dot.com cũng vậy. Trong bất kỳ tình huống nào, để có thể trở thành một doanh nghiệp 100 tỷ đô la, chúng ta có thể dự đoán rằng dot.com cuối cùng sẽ phải kiếm được 2,5 tỷ đô la mỗi năm. Chỉ có ba tập đoàn của Hoa Kỳ có mức doanh thu trên 2,5 tỷ trong năm 1999, vậy để điều này xảy ra với dot.com, công ty sẽ phải gia nhập nhóm độc nhất của các công ty thành công vĩ đại, tương tự như Microsoft. Tuy nhiên, trên thực tế, đây quả là một kỳ tích hiếm có. Tôi muốn kết thúc cuộc thảo luận ngắn về Internet này bằng một điều lưu ý. Có ba cách để đầu tư vào xu thế này mà không cần mua một niềm hi vọng hay một giá trị kinh doanh quá cao Cách thứ nhất là một phát sinh của chiến thuật “cuốc chim và xẻng” trước kia: Trong suốt thời kỳ sốt vàng, hầu hết những người muốn trở thành thợ đào vàng đều mất tiền, nhưng những người bán hết cuốc chim, xẻng, lều trại thậm chí cả quần áo lao động của họ (như Levis Strauss) đã kiếm được món lợi lớn. Ngày nay bạn có thể tìm thấy các công ty phi Internet hưởng lợi gián tiếp thông qua giao dịch trên Internet (một ví dụ rõ ràng là người giao hàng đồng bộ); hay bạn cũng có thể đầu tư vào các công ty sản xuất công tắc hay các thiết bị liên quan đảm bảo giao dịch được lưu thông. Cách thứ hai còn được gọi là “trò chơi Internet tự do”. Đó là nơi một doanh nhân Internet gắn bó với một công ty phi Internet có thu nhập thực tế và giá cổ phiếu ổn định. Tôi không đặt tên đó - bạn có thể tự mình tìm hiểu - nhưng một vài trò chơi tự do đầy hiếu kỳ đã thu hút sự chú ý của tôi. Trong một tình huống điển hình, công ty tự do được định giá, ví dụ ở mức 800 triệu đô la trong thị trường hiện tại, trong khi giao dịch về tài chính qua Internet còn thiếu kinh nghiệm của công ty được định giá 1 tỷ đô la, trước khi khả năng đó được chứng minh. Nếu giao dịch tài chính trên Internet diễn ra như hứa hẹn, thì chắc chắn sẽ rất đáng kể - giả sử rằng một bộ phận trong công ty được phân phối cổ phiếu nhanh thì họ sẽ thực hiện các giao dịch trên những cổ phiếu được phân phối đó. Hoặc là nếu công ty Internet hoạt động không hiệu quả thì nó sẽ củng cố thêm ý chí của những nhà đầu tư đề cao sức lao động ở phía đối lập. Cách thứ ba là tạo ra lợi nhuận đặc biệt, trong đó một doanh nghiệp truyền thống chặt chẽ (như gạch và vữa) hưởng lợi từ việc sử dụng Internet để cắt giảm chi phí, tăng hiệu quả hoạt động, để đạt năng suất cao hơn và nhờ đó thu được lợi nhuận lớn hơn. Ở giai đoạn phát triển trước đó, người ta đã lắp đặt máy quét trong các siêu thị. Việc này đã giúp làm giảm nạn ăn cắp vặt, giúp quản lý hàng tồn kho tốt hơn, và đem lại lợi ích to lớn hơn cho các chuỗi siêu thị. Lại nói về tương lai, Internet và những lợi ích phụ thêm của nó sẽ tạo ra nhiều thành công vĩ đại hơn, nhưng ở điểm này, hầu hết chúng ta đều kỳ vọng quá nhiều dẫn đến định giá không hiệu quả. Các công ty hiện nay được định giá 500 triệu đô la có thể sẽ thành công, trong khi đó các công ty được định giá 10 tỷ đô la trong tương lai có thể không đáng đến 10 xu. Khi các kỳ vọng trở thành hiện thực, những người chiến thắng sẽ sáng suốt hơn nhiều so với hiện tại. Những nhà đầu tư thấy trước điều này sẽ tận dụng lợi thế của họ tốt hơn. Trở lại với Microsoft, một loại cổ phiếu tăng giá gấp 100 lần mà tôi đã theo dõi. Cùng với Cisco và Intel, người khổng lồ với sức mạnh tối thượng trong lĩnh vực công nghệ cao này đã đạt được doanh thu bùng nổ hầu như ngay từ những ngày đầu tiên. Microsoft cổ phần hóa vào năm 1986 ở mức giá 15 xu một cổ phiếu. Ba năm sau đó, bạn vẫn có thể mua một cổ phiếu với mức giá dưới 1 đô la, nhưng kể từ đó, giá cổ phiếu đã tăng gấp 80 lần. (cổ phiếu đã “chia nhỏ” vài lần trước khi ra mắt công chúng, do đó cổ phiếu phát hành lần đầu thực sự không bao giờ bán với giá 15 xu 1 cổ phiếu - về chia nhỏ cổ phiếu, xin mời xem chú thích ở những trang sau.) Nếu bạn áp dụng phương thức tiếp cận “hãy thể hiện cho tôi thấy” của Missouri và chờ đợi để mua cổ phiếu của Microsoft cho đến khi hãng này đạt được thành công lớn với Windows 95, thì bạn vẫn có thể kiếm được gấp 7 lần số tiền ban đầu mà bạn có. Bạn không cần phải là một lập trình viên máy tính để có thể nhận ra Microsoft ở bất cứ nơi nào bạn quan sát. Ngoại trừ ở lãnh địa của Apple, thì tất cả các máy tính mới đều được trang bị hệ điều hành Microsoft và Microsoft Windows. Apple đang mất dần sức lôi cuốn của mình. Càng có nhiều máy tính sử dụng hệ điều hành Windows thì càng có nhiều chuyên gia phần mềm viết các chương trình cho Windows, chứ không phải cho Apple. Apple đã bị dồn vào một góc - ở đó, hãng này chỉ bán được 7 - 10% dung lượng thị trường. Trong khi đó, các hãng máy tính chạy các chương trình của Microsoft (như Dell, HP, Compaq, IBM, v.v…) tiến hành một cuộc chiến giá cả gay gắt để bán được nhiều máy tính. Cuộc chiến không hồi kết này đã làm giảm doanh thu của các hãng máy tính, tuy nhiên Microsoft lại nằm ngoài tầm ảnh hưởng. Công ty của Bill Gates không thuộc ngành kinh doanh máy tính - công ty này bán “khí” để máy tính hoạt động. Cisco cũng là một công ty đạt được thành công nổi bật. Kể từ khi công ty này cổ phần hóa vào năm 1990, thì giá cổ phiếu của công ty đã tăng gấp 480 lần. Tôi quan sát người thắng cuộc phi thường này vì những lý do rất bình thường, nhưng chắc hẳn rất nhiều người đã chú ý tới Cisco. Các doanh nghiệp tự do thuê Cisco trong việc hỗ trợ liên kết các máy tính thành các hệ thống; rồi các trường đại học thuê Cisco vi tính hóa các ký túc xá sinh viên. Các sinh viên, giáo viên và các bậc phụ huynh đến thăm con cái đều có thể nhận thấy sự phát triển này. Có lẽ một số người trong bọn họ đã trở về nhà, nghiên cứu và mua cổ phiếu. Tôi đề cập đến Microsoft và Cisco nhằm đưa vào những ví dụ đương thời để minh họa một chủ đề quan trọng trong cuốn sách này. Đó là, một nhà đầu tư nghiệp dư cũng có thể mua được những cổ phiếu sẽ thành công rực rỡ trong tương lai nếu anh ta chú ý đến những tiến bộ ở nơi làm việc, khu buôn bán, các phòng triển lãm xe hơi, các nhà hàng, hay bất cứ nơi nào mà một doanh nghiệp mới đầy hứa hẹn sẽ tiến hành khởi nghiệp. Khi trình bày vấn đề, tôi luôn đề cao tính rõ ràng, thể hiện bằng sự trật tự. Charles Barkley, một tuyển thủ bóng rổ nổi tiếng với những cú ném xa đã từng tuyên bố rằng, người ta đã trích dẫn sai trong cuốn tự truyện của anh. Tôi không có ý nói mình bị trích dẫn sai trong cuốn sách này, nhưng người ta đã suy luận sai về tôi ở một điểm cơ bản. Và đây là lời biện giải của tôi. Peter Lynch không khuyên bạn mua cổ phiếu của cửa hàng mà bạn ưa thích chỉ bởi lý do bạn thích mua sắm ở cửa hàng đó. Ông cũng không khuyên bạn mua cổ phiếu của một nhà sản xuất chỉ vì họ làm ra những sản phẩm mà bạn ưa thích, hay một nhà hàng vì bạn thích thức ăn ở đó. Thích một cửa hàng, một sản phẩm hay một nhà hàng là một lý do tốt để bạn quan tâm đến một công ty và đưa nó vào danh sách cần nghiên cứu; nhưng đó chưa phải là lý do đủ thuyết phục để mua cổ phiếu! Đừng bao giờ đầu tư vào bất kỳ một công ty nào trước khi bạn hoàn thành tốt “bài nghiên cứu ở nhà" về các triển vọng thu nhập của công ty, điều kiện tài chính, vị thế cạnh tranh, các kế hoạch bành trướng, v.v… Nếu bạn sở hữu một công ty bán lẻ, một yếu tố quan trọng trong phân tích là chỉ ra liệu có phải công ty đang tiến dần đến giai đoạn cuối trong thời kỳ bành trướng của mình hay không - tôi gọi đây là “những lượt chơi cuối” trong trò chơi bóng. Khi một cổ phiếu Radio Shack hay Toys “R” US đã tự khẳng định mình trong 10% thị trường cổ phiếu toàn quốc, thì viễn cảnh đó khác xa với việc sở hữu các cửa hàng trên 90% lãnh thổ quốc gia. Bạn cần bắt kịp nơi nào sự tăng trưởng tương lai xuất hiện và khi nào nó có xu hướng giảm sút. Chưa có điều gì xảy ra làm lay chuyển niềm tin của tôi rằng nhà đầu tư nghiệp dư điển hình có nhiều lợi thế hơn nhà đầu tư chuyên nghiệp điển hình. Vào năm 1999, những nhà đầu tư chuyên nghiệp được tiếp cận nhanh hơn với những thông tin có giá trị hơn, nhưng giờ đây khoảng cách về thông tin đã bị xoá bỏ. Từ một thập kỷ trước những người nghiệp dư đã có thể thu thập thông tin về một công ty theo ba cách: từ chính công ty đó, từ Tạp chí Value Line (Đường Giá trị) hay các bảng nghiên cứu Standard & Poor’s, hay từ những báo cáo của các nhà phân tích trong nhà thuộc các công ty môi giới chứng khoán nơi những người nghiệp dư này nắm giữ một tài khoản. Thông thường các báo cáo này được gửi qua đường bưu điện từ trụ sở chính, và phải mất vài ngày để thông tin đến đích. Ngày nay hàng loạt các báo cáo của các nhà phân tích tài chính luôn sẵn có trên mạng trực tuyến, ở đó những người truy cập có thể gọi ra các thông tin bất cứ lúc nào. Các thông tin cập nhật về những công ty mà bạn quan tâm được gửi tự động đến địa chỉ email của bạn. Bạn có thể biết được những người trong cuộc đang mua hay bán hoặc các nhà môi giới đang nâng giá hay hạ giá một cổ phiếu. Bạn có thể sử dụng những màn hình có thể căn chỉnh để tìm kiếm các cổ phiếu với những đặc điểm nhất định. Bạn cũng có thể tìm thông tin về các loại quỹ đầu tư khác nhau, so sánh các số liệu của họ, hay tìm thấy những cái tên trong bảng xếp hạng 10 cổ phiếu hàng đầu. Bạn có thể nhấn chuột vào đề mục “sách tóm tắt” đính kèm theo phiên bản trực tuyến của Tạp chí phố Wall (The Wall Street Journal) hay Barron’s, và có một cái nhìn nhanh về hầu hết các công ty thương mại phổ biến. Từ đó, bạn có thể truy cập vào “Zacks” và thu được một bản phân loại tóm tắt từ tất cả các nhà phân tích nghiên cứu một loại cổ phiếu riêng. Cũng nhờ có Internet mà chi phí mua và bán cổ phiếu đã giảm đáng kể đối với các nhà đầu tư nhỏ, cũng như trường hợp chi phí giảm đối với các nhà đầu tư thuộc các tổ chức vào năm 1975. Thương mại trực tuyến đã gây áp lực buộc các nhà môi giới truyền thống giảm tiền hoa hồng và phí giao dịch, tiếp tục một xu hướng đã bắt đầu cùng với sự xuất hiện những nhà môi giới giá rẻ hai thập kỷ trước. Có thể bạn sẽ phân vân điều gì đã xảy ra với những thói quen đầu tư của tôi kể từ khi tôi rời Magellan. Thay vì theo đuổi hàng ngàn công ty, giờ đây tôi chỉ theo đuổi khoảng 50. (Tôi tiếp tục làm việc trong các uỷ ban đầu tư thuộc các định chế hay các tổ chức từ thiện khác nhau, nhưng trong tất cả những trường hợp này, chúng tôi đều thuê các giám đốc quản lý vốn đầu tư và để họ đưa ra những quyết định đầu tư cổ phiếu.) Các nhà đầu tư thức thời có thể nghĩ rằng danh mục đầu tư của gia đình Lynch thuộc về Hội đồ cổ New England. Danh mục này bao gồm một vài khoản tiết kiệm và khoản nợ mà tôi đã mua được ở những mức giá hời trong suốt thời kỳ mà các khoản tiết kiệm và các khoản nợ được đánh giá cao. Những cổ phiếu này đã đem lại lợi nhuận khổng lồ, và giờ đây, tôi vẫn đang nắm giữ một phần trong số chúng. Tôi cũng nắm giữ cổ phiếu của một vài công ty tăng trưởng từ những năm 1980, và một vài công ty khác từ những năm 1970. Các doanh nghiệp này tiếp tục phát triển thịnh vượng, và giá cổ phiếu vẫn duy trì ở một mức hợp lý. Bên cạnh đó, tôi vẫn giữ cổ phiếu ít tiềm năng của khá nhiều công ty chậm phát triển với mức giá thấp hơn nhiều so với mức giá mà tôi sẵn sàng trả. Tôi không giữ cổ phiếu của các công ty đáng thất vọng này bởi tính cứng đầu hay một niềm hoài niệm quá khứ. Lý do tôi giữ chúng là ở những công ty này, tình hình tài chính đang duy trì ở mức tốt, và đó chính là bằng chứng của một tương lai sáng sủa hơn. Những cổ phiếu ít tiềm năng của tôi luôn nhắc nhở tôi một điều quan trọng: Bạn không nhất thiết phải kiếm được tiền từ mọi cổ phiếu bạn đầu tư. Theo kinh nghiệm của bản thân tôi, thì 6 trong 10 cổ phiếu đạt được thành công là một kết quả khả quan. Vì sao lại thế? Bởi vì những tổn thất của bạn chỉ giới hạn trong lượng vốn mà bạn đầu tư vào mỗi cổ phiếu (dĩ nhiên là nó không thể nhỏ hơn 0), trong khi lợi nhuận mà bạn thu được hoàn toàn không có giới hạn. Khi bạn đầu tư 1.000 đô la vào một cổ phiếu ít tiềm năng, nếu tình huống xấu nhất xảy ra, có thể bạn sẽ mất 1.000 đô la. Nhưng khi bạn đầu tư 1.000 đô la vào một cổ phiếu tiềm năng, bạn có thể kiếm được 10.000 đô la, 15.000 đô la, 20.000 đô la thậm chí nhiều hơn thế sau vài năm. Tất cả những gì bạn cần để có thể đầu tư thành công trong suốt cuộc đời là nắm giữ một vài cổ phiếu đem lại lợi nhuận cao, và những lợi nhuận mà chúng đem lại sẽ bù trừ và lấn át những tổn thất do những cổ phiếu không hiệu quả gây ra. Tôi xin phép được đưa ra những thông tin cập nhật về hai công ty mà tôi không nắm cổ phần nhưng đã được tôi viết đến trong cuốn sách này, đó là: Bethlehem Steel và General Electric. Cả hai công ty này đều đã dạy cho tôi những bài học bổ ích. Tôi đã đề cập rằng cổ phiếu của Bethlehem - một công ty sản xuất máy bào một thời được ưa chuộng, đã giảm từ năm 1960. Có vẻ như một công ty đã nổi tiếng lâu đời cũng tỏ ra kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư như một doanh nghiệp mới còn non nớt. Bethlehem, một thời là biểu tượng có tính toàn cầu của Mỹ, đã tiếp tục gây thất vọng. Vào năm 1958, cổ phiếu của Bethlehem được bán ở mức giá 60 đô la một cổ phiếu, nhưng đến năm 1989 đã giảm xuống 17 đô la, giáng một đòn nặng nề vào các cổ đông trung thành cũng như những nhà săn cổ phiếu rẻ - những người nghĩ rằng họ sẽ kiếm được một món hời. Từ năm 1989, giá cổ phiếu lại tiếp tục giảm, từ 70 đô la xuống những mức giá dưới 10 đô la, chứng minh cho tất cả chúng ta thấy rằng một cổ phiếu rẻ luôn luôn có thể rẻ hơn nữa. Một ngày nào đó, cổ phiếu Bethlehem Steel có thể sẽ tăng trở lại. Nhưng cho rằng điều đó sẽ xảy ra chỉ là mơ ước chứ không phải là đầu tư. Tôi đã từng đề cập đến cổ phiếu General Electric trong một chương trình ti vi phát sóng toàn quốc (vì đây đã từng là một chiếc túi mười gang), nhưng trong cuốn sách của tôi có nói rằng kích thước thị trường của General Electric (giá trị thị trường 39 tỷ đô la; lợi nhuận thường niên 3 tỷ đô la) sẽ khiến công ty này khó có thể tăng lợi nhuận nhanh chóng. Thực tế thì công ty dịch vụ công cộng này đã đem lại cho những cổ đông của mình nhiều hơn những gì mà tôi dự đoán. Sau khi thực hiện một số cải tổ dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Jack Welch, công ty này đã lột xác từ một gã khổng lồ chậm chạp thành một người linh hoạt và hoạt động hiệu quả hơn. Welch, gần đây vừa tuyên bố nghỉ hưu, đã thúc đẩy hoạt động của hàng loạt chi nhánh của General Electric đạt hiệu quả tối đa, sử dụng một lượng lớn tiền mặt để mua các công ty mới và mua lại cổ phiếu. Thành công của General Electric trong thập niên 1990 cho thấy tầm quan trọng của việc theo kịp các sự kiện của một công ty. Mua lại cổ phiếu còn đem đến một thay đổi quan trọng khác cho thị trường: cổ tức trở thành thứ “có nguy cơ tuyệt chủng”. Tôi có viết về tầm quan trọng của vấn đề này ở những chương sau, nhưng cách chia lãi của các cổ đông trước kia dường như cũng giống như đường đi của loài chồn chân đen. Điểm bất lợi của việc cổ tức mất đi là những sự kiểm tra thư từ thường xuyên tạo cho các nhà đầu tư một dòng thu nhập và còn cho họ lý do tiếp tục theo đuổi những cổ phiếu trong những giai đoạn mà giá cổ phiếu không đem lại lợi nhuận cho nhà đầu tư. Vào năm 1999, lợi suất cổ tức của 500 công ty trong hệ thống chỉ số S&P 500 giảm xuống mức thấp kỷ lục trong suốt thời gian kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai: gần 1%. Thực tế là tỷ lệ lãi suất hiện nay thấp hơn so với năm 1989, vì thế hẳn bạn sẽ kỳ vọng rằng lợi suất của trái phiếu và cổ tức của cổ phiếu sẽ tiếp tục giảm. Khi giá cổ phiếu tăng, thì lợi suất cổ tức cũng tự nhiên giảm. (Nếu một cổ phiếu có giá 50 đô la và mức cổ tức là 5 đô la trên mỗi cổ phiếu, thì lợi suất cổ tức ở đây là 10%; khi giá cổ phiếu tăng lên 100 đô la, thì lợi suất cổ tức giảm xuống còn 5%). Trong khi đó, các công ty sẽ không khuyến khích tăng cổ tức như họ đã từng làm trước kia. Theo quan sát của Thời báo New York (The New York Times) ngày 7 tháng 10 năm 1999 thì “Điều bất bình thường là nền kinh tế vẫn hoạt động tốt cả trong tình huống các công ty đang ngày càng phải miễn cưỡng tăng cổ tức của họ”. Cách đây không lâu, khi một công ty trưởng thành và vững mạnh định kỳ tăng mức cổ tức thì đó là dấu hiệu của sự thịnh vượng. Còn giảm hoặc tăng cổ tức bất thường là dấu hiệu của sự bất ổn. Gần đây, các công ty lớn mạnh đang ngày càng hà tiện hơn với cổ tức của mình và thường dùng tiền để mua lại cổ phiếu đã phát hành của công ty, ví dụ như trường hợp của General Electric. Giảm lượng cung cổ phiếu làm tăng thu nhập trên mỗi cổ phiếu, và cuối cùng đem lại lợi nhuận cho các cổ đông, tuy nhiên lợi nhuận đó chỉ có được khi họ bán các cổ phiếu. Nếu có ai đó phải chịu trách nhiệm về tình trạng cổ tức biến mất thì đó chính là chính phủ Mỹ. Chính phủ Mỹ không những đánh thuế vào lợi nhuận công ty mà còn đánh thuế toàn phần vào cổ tức công ty, do đó cổ tức trở thành thu nhập không kiếm được. Để giúp đỡ các cổ đông tránh phải chịu thuế hai lần, các công ty đã xoá bỏ cổ tức nhằm khuyến khích chiến lược mua lại, giúp làm tăng giá cổ phiếu. Chiến lược này đặt ra cho các cổ đông các loại thuế đánh vào giá trị tài sản tăng thêm nếu họ bán cổ phần của mình, nhưng giá trị tài sản dài hạn chỉ chịu mức thuế 50% so với các loại thuế thu nhập thông thường. Nói về thu nhập dài hạn trong những bài diễn thuyết vào bữa ăn trưa và bữa ăn tối của tôi suốt 11 năm, tôi đã hỏi một số khán giả: “Bao nhiêu người trong số các bạn là những nhà đầu tư cổ phiếu dài hạn?” Ngày nay, câu trả lời đều thống nhất - mỗi người là một nhà đầu tư dài hạn, bao gồm cả những giao dịch viên ban ngày trong số các khán giả, những người luôn dành 2 giờ để nghỉ ngơi. Đầu tư dài hạn đã trở nên quá phổ biến, đến mức thà bạn thừa nhận mình là một kẻ nghiện bạch phiến mạnh còn dễ dàng hơn việc thừa nhận mình là một nhà đầu tư ngắn hạn. Tin tức thị trường chứng khoán đã đi từ chỗ khó tìm kiếm (trong thập niên 1970 và đầu thập niên 1980) đến chỗ dễ tìm kiếm (cuối thập niên 1980), và giờ đây là khó có thể tránh được. “Thời tiết tài chính” được theo dõi thường xuyên giống như thời tiết thực: lên, xuống, những vùng áp suất thấp, những biến động, và vô số dự đoán về điều gì sắp xảy ra cũng như cách thức đối phó. Người ta khuyên các nhà đầu tư suy nghĩ cho dài hạn, nhưng những lời bình luận không dứt về mỗi biến động chỉ làm họ thêm bực mình và khiến họ chỉ có thể tập trung vào ngắn hạn. Để có thể suy nghĩ cho dài hạn cũng là một thách thức. Nếu có một cách để tránh khỏi nỗi ám ảnh về những thăng trầm mới nhất, hay tránh được việc kiểm tra cổ phiếu định kỳ sáu tháng như kiểm tra dầu cho xe vậy, thì có lẽ các nhà đầu tư sẽ cảm thấy thư thái hơn. Không ai tin vào đầu tư dài hạn mạnh mẽ như tôi, nhưng cũng giống như với “Nguyên tắc vàng” (nguyên tắc đối xử với người khác như mình muốn được người ta đối xử như vậy), việc thuyết giáo dễ hơn là thực hành. Tuy nhiên, thế hệ các nhà đầu tư hiện nay đã giữ vững niềm tin và kiên trì trong cả những tình huống khó khăn mà tôi đã nói ở trên. Đánh giá những cuộc gọi điện xin lỗi từ quỹ Fidelity Magellan, nơi làm việc cũ của tôi, thì các khách hàng đã cảm thấy hoàn toàn tự mãn. Chỉ có một số phần trăm rất nhỏ rút tiền ra khỏi thị trường đầu cơ giá xuống liên quan tới Saddam Hussein vào năm 1990. Nhờ có những giao dịch viên làm việc ban ngày và những giám đốc quản lý quỹ chuyên nghiệp mà cổ phiếu ngày nay được sang tay với một tốc độ chóng mặt. Vào năm 1989, 300 triệu cổ phiếu được giao dịch được đánh giá là một phiên giao dịch cực kỳ sôi nổi ở sàn giao dịch chứng khoán New York, nhưng ngày nay một phiên giao dịch với 300 triệu cổ phiếu được coi là ảm đạm, và 800 triệu cổ phiếu mới được xem là bình thường. Có phải những giao dịch viên trong ngày đã đem lại những thay đổi cho ngài Thị trường? Liệu ngành thương mại chứng khoán phát đạt có lôi kéo những mối quan tâm? Dù nguyên nhân là gì chăng nữa (ở đây, tôi coi những giao dịch viên trong ngày là một nhân tố chủ chốt), thì những giao dịch thường xuyên đã khiến cho thị trường chứng khoán thêm bất ổn. Nếu một thập niên trước, giá cổ phiếu tăng hay giảm 1% trong một phiên giao dịch đơn được coi là một sự hy hữu, thì ngày nay, giá cổ phiếu biến động ở mức 1% xảy ra vài lần trong một tháng. Mặt khác nếu so sánh về mức độ chênh lệch của khả năng thành công hay thất bại, thì việc kiếm sống từ nghề giao dịch trong ngày này cũng xấp xỉ với việc kiếm sống từ nơi trường đua, bàn đánh bài, hay trò chơi bài qua màn hình. Thực sự, tôi coi giao dịch chứng khoán như một sòng bạc tại gia vậy. Điểm bất lợi của sòng bạc tại gia là công việc văn phòng. Bạn tiến hành 20 giao dịch mỗi ngày thì tổng cộng một năm bạn sẽ thực hiện khoảng 5.000 giao dịch, và tất cả những giao dịch này phải được ghi chép lại, lập danh sách, và báo cáo cho IRS. Vì thế giao dịch chứng khoán là một sòng bạc cần nhiều kế toán viên. Mọi người đều muốn biết bằng cách nào mà giá cổ phiếu tăng trong một ngày giao dịch bất kỳ. Chỉ số Dow sẽ gần với mức nào? Còn tôi thì quan tâm đến vấn đề có bao nhiêu cổ phiếu tăng giá và ngược lại, có bao nhiêu cổ phiếu giảm giá. Những con số tăng giảm này vẽ lên một bức tranh chân thực hơn. Bức tranh ấy chưa bao giờ chân thực hơn bây giờ, trong thị trường độc quyền, nơi rất ít cổ phiếu tăng giá, và đa số các cổ phiếu đều giảm giá. Những nhà đầu tư mua các cổ phiếu giá thấp hay trung bình đã bị trừng phạt vì sự quá thận trọng của họ. Người ta đang tự hỏi: Làm thế nào mà chỉ số S&P 500 có thể tăng 20% trong khi giá cổ phiếu của tôi lại giảm? Câu trả lời là một số ít các cổ phiếu lớn trong số 500 cổ phiếu thuộc chỉ tiêu S&P 500 đang lấn át những cổ phiếu bình thường khác. Ví dụ như, vào năm 1998, chỉ số S&P 500 tăng 28% tổng thể, nhưng khi bạn xem xét kỹ hơn, bạn sẽ thấy rằng chỉ số của 50 công ty lớn nhất tăng 40%, trong khi 450 công ty khác thì hầu như không biến động. Trong thị trường NASDAQ (Hệ thống yết giá tự động của Hiệp hội quốc gia các nhà kinh doanh chứng khoán ở Mỹ), nơi đầu tiên áp dụng Internet và các công cụ hỗ trợ khác, có khoảng một tá các công ty lớn là những công ty có cổ phiếu thành công vượt trội, trong khi tất cả các công ty còn lại trong thị trường này đều thất bại. Câu chuyện tương tự lại tái diễn vào năm 1999, ở đó một nhóm nhỏ các cổ phiếu thành công lấn át và áp đảo một số lượng lớn các cổ phiếu thất bại khác. Sự tách biệt này chưa từng xảy ra trong lịch sử. Nhân tiện đây, tôi chợt nghĩ rằng chỉ số S&P 500 do các công ty lớn thống trị, trong khi chỉ số NASDAQ lại là lãnh địa của các công ty mới nổi. Vào cuối những năm 1990, những đại gia trong hệ thống NASDAQ (như Intel, Cisco, và một số tên tuổi khác) đã thống trị chỉ số NASDAQ ở mức độ còn cao hơn những đại gia trong S&P thống trị chỉ số này. Công nghệ sinh học là một ngành tràn ngập những cổ phiếu nhỏ. Nỗi ác cảm của tôi đối với công nghệ cao đã khiến tôi nhìn một doanh nghiệp công nghệ sinh học điển hình với con mắt giễu cợt: 100 triệu đô la tiền mặt từ việc bán cổ phiếu, 100 vị tiến sĩ, 99 chiếc kính hiển vi, và doanh thu bằng không. Những tiến bộ gần đây đã gợi cảm hứng cho tôi dành một và lời tốt đẹp cho công nghệ sinh học - đó không phải là “những nhà đầu tư nghiệp dư nên mua cổ phiếu của các doanh nghiệp công nghệ sinh học” mà là “ngành công nghệ sinh học nói chung có thể đóng một vai trò quan trọng trong thế kỷ mới giống như ngành điện đã làm trong thế kỷ trước”. Ngày nay có một danh sách dài các công ty công nghệ sinh học có doanh thu, khoảng ba tá có lợi nhuận, và khoảng 50 công ty khác hứa hẹn có lợi nhuận. Amgen đã trở thành một doanh nghiệp công nghệ sinh học độc nhất vô nhị, với thu nhập trên một triệu đô la. Một trong vô số các quỹ đầu tư công nghệ sinh học có lẽ xứng đáng để bạn thực hiện một cam kết dài hạn cho số tiền của bạn. Các nhà phân tích thị trường đã lấp đầy không gian và lấp đầy các tạp chí với những sự so sánh giữa thị trường ngày nay với một thị trường nào đó ra đời trước, ví dụ như: Sự kiện này rất giống với năm 1962 hay “Điều này gợi cho tôi nhớ đến năm 1981”, hoặc khi họ cảm thấy ảm đạm, họ sẽ nói “Chúng ta đang đối mặt với cuộc khủng hoảng 1929 một lần nữa”. Gần đây, người ta đang có xu hướng so sánh với những năm 1970, khi các cổ phiếu nhỏ hơn không ngừng biến động, còn các cổ phiếu lớn hơn (đặc biệt là loại cổ phiếu đầy sức hút “Nifty Fifty”) thì liên tục tăng giá. Sau đó, trong thị trường đầu cơ giá xuống những năm 1973 - 1974, giá cổ phiếu Nifty Fifty giảm 50 - 80%! Sự giảm giá bất thường này đã bác bỏ lý thuyết cho rằng các công ty lớn không chịu tác động của hiện tượng đầu cơ giá xuống. Nếu bạn mua cổ phiếu Nifty Fifty và giữ lô cổ phiếu đó trong vòng 25 năm (giả thuyết hợp lý hơn là bạn bị mắc kẹt trên một sa mạc hoang vu không có bất kỳ đài phát thanh, truyền hình, hay tạp chí nào có thể bảo bạn từ bỏ cổ phiếu mãi mãi) thì bạn sẽ không phải hối tiếc về kết quả. Tuy phải mất đến một thế hệ, nhưng Nifty Fifty đã hồi sinh hoàn toàn và thậm chí còn hơn thế. Đến giữa những năm 1990, chỉ số của Nifty fifty đã theo kịp và vượt qua chỉ số Dow và chỉ số S&P 500 như một sự phục sinh hoàn toàn từ năm 1974. Thậm chí nếu bạn đã mua cổ phiếu này với giá cao ngất trời từ năm 1972, thì sự lựa chọn của bạn cuối cùng sẽ được chứng minh. Một lần nữa, chúng ta lại chứng kiến 50 công ty lớn nhất bán cổ phiếu ở những mức giá mà những người hoài nghi cho rằng “đắt quá sức tưởng tượng”. Liệu loại cổ phiếu Nifty Fifty ngày nay có phải chịu một cuộc xuống giá giống như cơn sốt giá 1973 - 74 hay không là điều ai ai cũng đều dự đoán. Lịch sử cho chúng ta thấy rằng chuyển biến đảo ngược (hiện tượng giá cổ phiếu giảm 10% trở lên) xuất hiện hai năm một lần, và các thị trường đầu cơ giá xuống (hiện tượng giá cổ phiếu giảm 20% trở lên) xuất hiện sáu năm một lần. Đầu cơ giá xuống nghiêm trọng (hiện tượng giá cổ phiếu giảm 30% trở lên) đã xuất hiện năm lần kể từ sau cuộc khủng hoảng 1929 - 1933. Thật ngu ngốc nếu cho rằng chúng ta đã chứng kiến cuộc đầu cơ cuối cùng, điều đó giải thích tầm quan trọng của việc không nên mua cổ phiếu hay góp cổ phần vào các quỹ đầu tư bằng số tiền mà bạn định chi dùng trong vòng 12 tháng tới cho việc đóng học phí đại học, tổ chức lễ cưới, hay bất cứ điều gì khác. Hẳn bạn không muốn bán cổ phiếu trong tình trạng thị trường xuống giá nhằm thu hồi vốn. Khi bạn là một nhà đầu tư dài hạn, thời gian là yếu tố quan trọng cần xem xét. Thị trường đầu cơ giá lên tiếp tục va phải những “ổ gà” bất thường. Khi cuốn sách Trên đỉnh phố Wall được viết, cổ phiếu chỉ vừa mới hồi phục từ cơn sốt hạ giá 1987. Cơn sụt giá tồi tệ nhất trong 50 năm này xảy ra cùng thời điểm Lynch đang có một kỳ nghỉ đánh gôn ở Ireland. Tôi phải mất thêm 9 hay 10 chuyến đi (tôi đã mua nhà ở Ireland) để có thể thuyết phục mình rằng việc tôi đặt chân đến Ireland sẽ không phải là nguyên nhân gây ra một nỗi lo sợ mới. Tôi cũng cảm thấy không mấy thoải mái khi đến thăm Israel, Indonesia, hay Ấn Độ (India). Đặt chân lên những đất nước có tên bắt đầu bằng chữ “I” luôn khiến tôi cảm thấy lo sợ. Nhưng tôi đã đến Israel hai lần, đến Ấn Độ hai lần, và một lần đến Indonesia mà chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Cho đến nay, trận sụt giá 1987 vẫn chưa lặp lại, nhưng hiện tượng đầu cơ giá xuống lại xuất hiện vào năm 1990, năm tôi từ chức giám đốc quỹ Fidelity Magellan. Trong khi trận sụt giá 1987 khiến vô số người lo sợ (chắc hẳn mức giảm giá 35% trong hai ngày là nguyên nhân gây ra nỗi lo sợ đó), thì giai đoạn năm 1990 còn khiến tôi sợ hãi hơn. Tại sao vậy? Vào năm 1987, nền kinh tế đang sôi nổi trở lại, và các ngân hàng của chúng ta có khả năng thanh toán nợ, điều đó có nghĩa là các yếu tố cơ bản đều khả quan. Nhưng vào năm 1990, đất nước rơi vào tình trạng suy thoái, các ngân hàng lớn nhất của chúng ta ở trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”,“mành chỉ treo chuông”, và chúng ta lại đang chuẩn bị cuộc chiến tranh với Iraq. Rất may là không lâu sau, chiến tranh kết thúc thắng lợi, đất nước vượt qua cơn suy thoái, các ngân hàng bắt đầu hồi phục, và cổ phiếu bắt đầu những bước đi thần tốc nhất trong lịch sử hiện đại. Gần đây hơn, chúng ta đã chứng kiến chỉ số trung bình các cổ phiếu chủ yếu giảm 10% vào mùa xuân năm 1996, mùa hè các năm 1997 và 1998, và mùa thu năm 1999. Vào tháng 8 năm 1998, chỉ số S&P 500 giảm 14.5%, đây là tháng tồi tệ thứ nhì từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. 9 tháng sau đó, cổ phiếu lại tăng giá trở lại, và chỉ số S&P 500 tăng đến hơn 500%. Vậy mục đích của tôi khi liệt kê tất cả những sự việc trên là gì? Thật kỳ diệu nếu chúng ta tránh được những cơn sụt giá, chỉ cần chúng ta có thể bán cổ phiếu ra đúng thời điểm, nhưng chưa từng có ai chỉ ra được làm cách nào để dự đoán trước những cơn sụt giá này. Hơn nữa, nếu bạn bán cổ phiếu và tránh được một trận sụt giá, thì làm thế nào bạn có thể chắc rằng mình sẽ quay lại mua cổ phiếu ở giai đoạn tăng lại sau hạ giá tiếp theo? Sau đây tôi xin phép kể một câu chuyện: Nếu bạn đầu tư 100.000 đô la vào cổ phiếu trong ngày 1/7/1994, và đầu tư toàn bộ liên tục trong 5 năm, 100.000 đô la ban đầu của bạn sẽ tăng lên 341.772 đô la. Nhưng nếu bạn ngừng đầu tư khoảng 30 ngày trong 5 năm đó, và 30 ngày đó lại là khoảng thời gian mà cổ phiếu đem lại lợi nhuận cao nhất - thì 100.000 đô la của bạn sẽ chỉ biến thành con số 153.792 đô la đáng thất vọng. Với việc bám trụ trên thị trường, bạn đã tự nhân đôi phần thưởng của mình. Như một nhà đầu tư thành công từng nói: “Cuộc tranh luận ồn ào nhất luôn là cuộc tranh luận trí tuệ nhất”. Bạn có thể tìm ra một lý do hợp lý để làm tăng gấp bội tiền vốn của mình trong mỗi tờ báo buổi sáng hay mỗi bản tin phát sóng hàng tối. Khi Trên đỉnh phố Wall trở thành cuốn sách bán chạy nhất thì cũng là lúc cuốn The Great Depression of 1990 (Đại Suy thoái năm 1990) của Ravi Batra đạt được danh hiệu này. Lời cáo phó cho thị trường đầu cơ giá lên này đã được viết vô số lần kể từ năm 1982. Một trong những nguyên nhân khả dĩ là: Nền kinh tế yếu kém của Nhật Bản, thâm hụt cán cân thương mại của Hoa Kỳ so với Trung Quốc và thế giới, sự sụp đổ thị trường trái phiếu năm 1994, sự sụp đổ của thị trường mới nổi năm 1997, hiện tượng nóng lên toàn cầu, thủng tầng ozone, hiện tượng giảm phát, chiến tranh vùng vịnh, những khoản nợ khách hàng, và gần đây nhất là hiện tượng Y2K. Vào ngày thứ hai của năm mới, chúng ta nhận thấy rằng Y2K là nỗi sợ hãi được thổi phồng quá mức, kể từ sau bộ phim cuối cùng về Godzilla. “Cổ phiếu được định giá quá cao” là điều mà các nhà đầu tư kêu ca suốt mấy năm. Một số người cho rằng giá cổ phiếu năm 1989 quá cao, ở mức Dow 2.600 điểm. Một số khác cho rằng cổ phiếu đắt thái quá vào năm 1992, trên mức Dow 3.000 điểm. Một điệp khúc những lời kêu ca lại lặp lại vào năm 1995, khi giá cổ phiếu cao hơn mức Dow 4.000 điểm. Một ngày nào đó, có thể chúng ta sẽ lại chứng kiến một thị trường đầu cơ giá xuống nghiêm trọng, nhưng ngay cả khi giá cổ phiếu giảm xuống mức kỷ lục 40% thì nó vẫn còn cách xa điểm mà các chuyên gia khác nhau kêu gọi các nhà đầu tư từ bỏ các cổ phiếu của mình. Như tôi đã lưu ý trong các tình huống trước đó: “Tôi không nói rằng không có sự tồn tại của một thị trường được định giá quá cao, song chẳng có ích gì khi lo lắng về điều đó”. Người ta thường nói rằng một thị trường đầu cơ giá lên phải vượt qua khỏi bức tường lo lắng, nhưng những nỗi lo lắng chẳng bao giờ dừng lại. Gần đây chúng ta lo lắng làm sao để vượt qua những thảm họa không tưởng như: Chiến tranh thế giới lần thứ ba, trận quyết chiến vũ khí sinh học cuối cùng, những cuộc tấn công bằng vũ khí hạt nhân với sức công phá khủng khiếp, hiện tượng băng tan ở hai cực, sao băng đâm vào trái đất, v.v… Trong khi đó chúng ta lại chứng kiến vài điều không tưởng có ích như: sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản; Chính phủ liên bang Hoa Kỳ và chính quyền các bang đạt được thặng dư ngân sách; toàn nước Mỹ tạo ra 17 triệu việc làm mới trong những năm 1990, bù đắp cho số lượng biên chế bị cắt giảm tại các công ty công cộng lớn. Việc giảm biên chế đã gây ra không ít sự hoang mang và lo lắng cho các viên chức nhận sự bảo trợ của nhà nước, song nó lại giúp giải phóng hàng triệu công nhân, đưa họ đến với những công việc thú vị và hữu ích hơn ở những công ty nhỏ và tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên, người ta đã không dành sự quan tâm đúng mức cho những công việc mới được tạo ra này. Nước Mỹ có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất trong nửa thế kỷ vừa qua, trong khi châu Âu phải đối mặt với tình trạng nhân công nhàn rỗi trên diện rộng. Nhiều công ty lớn ở châu Âu cũng đã tiến hành cắt giảm biên chế, Nhưng châu Âu thiếu những doanh nghiệp nhỏ để những công nhân này có thể chuyển đến làm việc. Họ có tỷ lệ tiết kiệm cao hơn, công dân của họ được giáo dục tốt hơn, tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp ở châu Âu vẫn cao hơn hai lần so với Hoa Kỳ. Và đây là một sự phát triển đáng kinh ngạc khác: Ở châu Âu, vào thời điểm cuối năm 1999, có nhiều người có việc làm hơn vào thời điểm cuối thập niên trước đó. Câu chuyện chủ đạo vẫn tỏ ra đơn giản và không hồi kết. Cổ phiếu không phải là những chiếc vé xổ số. Có một công ty gắn liền với mỗi cổ phiếu. Các công ty hoạt động tốt hơn hoặc tồi tệ đi. Nếu một công ty hoạt động tốt hơn, cổ phiếu của công ty đó sẽ tăng giá. Nếu bạn sở hữu những công ty hoạt động tốt hơn và liên tục tăng lợi nhuận, thì công việc của bạn đang tốt đẹp. Lợi nhuận công ty tăng gấp 55 lần kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, và thị trường chứng khoán tăng trưởng gấp 60 lần. 4 cuộc chiến tranh, 9 cuộc suy thoái, 8 nhiệm kỳ tổng thống và một vụ tai tiếng, tất cả không làm thay đổi những kết quả trên. Trong bảng sau đây, bạn sẽ thấy tên của 20 công ty trong danh sách 100 công ty thành công nhất trên thị trường Hoa Kỳ những năm 1990. Những con số trong cột ngoài cùng bên trái cho biết vị trí xếp hạng của các công ty này dựa trên tổng lợi nhuận thu được từ vốn đầu tư tính theo đô la. Rất nhiều công ty công nghệ cao (như Helix, Photronics, Siliconix, Theragenics) đứng trong danh sách 100 công ty thành công nhất này nhưng không có tên trong bảng, bởi tôi chỉ muốn nêu ra những cơ hội đáng chú ý mà một người bình thường nào cũng có thể nhận thấy, nghiên cứu và tận dụng. Hãng máy tính Dell là hãng thành công nhất, và có ai lại chưa từng nghe nói về Dell? Bất kỳ ai cũng có thể nhận ra doanh số khổng lồ của Dell và danh tiếng ngày càng gia tăng của các sản phẩm máy tính Dell. Những người mua cổ phiếu Dell từ sớm đã thu về số tiền khổng lồ, gấp tới 889 lần số vốn ban đầu; tức là 10.000 đô la đầu tư vào cổ phiếu Dell ngay từ đầu sẽ đem lại một tài sản trị giá 8.99 triệu đô la. Bạn không cần phải hiểu biết về máy tính mới có thể nhận ra cơ hội đầy hứa hẹn từ Dell, Microsoft hay Intel (mỗi máy tính mới đều xuất hiện với băng keo in chữ “Intel Inside”). Bạn không nhất thiết phải là một kỹ sư di truyền học mới có thể nhận ra rằng Amgen đã thay đổi từ một phòng thí nghiệm thành một nhà sản xuất dược phẩm với hai loại thuốc bán chạy nhất. Swab? Hẳn chúng ta không thể không nhắc đến thành công của họ. Home Depot? Hãng này tiếp tục phát triển với một tốc độ chóng mặt, tạo nên danh sách 100 hãng hàng đầu trong thập niên 1990. Harley Davidson? Việc tất cả các luật sư, bác sĩ và nha sĩ của họ đã trở thành các nhân vật của “Easy Riders cuối tuần” là một tin tức tốt lành cho Harley. Lowe’s? Và một lần nữa lại là Home Depot. Ai có thể dự đoán rằng có tới hai loại cổ phiếu kinh điển trong cùng một ngành kinh doanh nhạt nhẽo? Paycheck? Rất nhiều doanh nghiệp nhỏ ở khắp mọi nơi đã không còn phải đau đầu khi có Paychex quản lý bảng lương giúp họ. Vợ tôi, Carolyn, đã sử dụng dịch vụ của Paychex trong công việc quản lý quỹ của gia đình, còn tôi đã để lỡ cơ hội và đã không mua cổ phiếu này. Một vài công ty đạt lợi nhuận cao nhất trong thập kỷ qua (cũng như trường hợp trong các thập kỷ trước) xuất phát từ lĩnh vực bán lẻ truyền thống. The Gap, Best Buy, Staples, Dollar General - tất cả các công ty này đều là những công ty được quản lý tốt và có mức tăng giá cổ phiếu lên đến một triệu lần, và hàng triệu khách hàng đã được trực tiếp trải nghiệm. Việc hai ngân hàng nhỏ xuất hiện trong danh sách này một lần nữa chứng tỏ rằng những công ty thành công xuất sắc có thể đến từ bất kỳ ngành nào - thậm chí một ngành tăng trưởng chậm và ì ạch như ngân hàng. Lời khuyên mà tôi muốn gửi đến các bạn trong thập kỷ tới là: Hãy kiên trì quan sát và tìm kiếm những công ty thành công lớn trong tương lai. Có thể bạn sẽ tìm được một công ty như thế. - PETER LYNCH VÀ JOHN ROTHCHILD B M LỜI NÓI ĐẦU ột ghi chép từ Ireland ạn không thể nghiên cứu thị trường chứng khoán ngày nay mà không phân tích các sự kiện xảy ra từ ngày 16 đến 20 tháng 10 năm 1987. Đó là tuần lễ bất thường nhất mà tôi từng trải qua. Hơn một năm sau đó, nhìn lại thời điểm này với một thái độ khách quan và bình thản, tôi đã có thể tách riêng những sự ồn ào gây xôn xao dư luận ra khỏi những sự kiện có tầm quan trọng vĩnh viễn. Sau đây là những sự kiện đáng nhớ nhất mà ký ức của tôi còn lưu giữ: • Vào ngày 16 tháng 10, một ngày thứ sáu - vợ tôi - Carolyn - và tôi đã trải qua một ngày đầy thú vị lái xe qua vùng County Cork, Ireland. Tôi rất ít khi đi nghỉ, vì vậy mà việc tôi đang đi du lịch tự bản thân nó đã rất kỳ lạ rồi. • Thậm chí tôi đã không dừng lại dù chỉ một lần để ghé thăm trụ sở của một công ty kinh doanh nổi tiếng. Thông thường, tôi sẽ đi chệch hướng theo bất cứ hướng nào để có thể thu thập những thông tin mới nhất về doanh số, bảng kiểm kê hàng hóa, và thu nhập, nhưng dường như không có bất kỳ bản báo cáo S&P hay một bảng cân đối nào ở bất cứ nơi đâu trong phạm vi 250 dặm xung quanh chúng tôi. • Chúng tôi đã đến lâu đài Blarney, nơi hòn đá Blarney huyền thoại nằm chắn trên bức tường của nóc tòa nhà, nơi lưu giữ vô vàn câu chuyện cổ. Bạn sẽ phải nằm ngửa và khẽ lách người qua tấm lưới sắt ngăn cách bạn khỏi một cú ngã xuống địa ngục, và sau đó, trong khi cố nắm chặt một thanh chắn để lấy lại dũng khí, bạn đặt một nụ hôn lên hòn đá huyền thoại. Cảm giác khi ạ ặ ộ ụ y ạ g hôn lên hòn đá Blarney huyền thoại cũng rộn ràng và sung sướng đặc biệt như thể bạn vừa thoát khỏi bàn tay thần chết vậy. • Để thoát khỏi nỗi ám ảnh sau khi đến thăm hòn đá Blarney, chúng tôi dành cả hai ngày cuối tuần tĩnh lặng để chơi gôn - ở Waterville vào thứ Bảy và ở Dooks vào chủ nhật - và sau đó lái xe xung quanh khu vực vành đai Kerry xinh đẹp. • Vào thứ Hai ngày 19 tháng 10, tôi đối mặt với thử thách cuối cùng, đòi hỏi tôi phải tập trung cao độ trí thông minh và sức chịu đựng bền bỉ của mình - 18 lỗ trong sân thi đấu gôn Killen ở Killarney, một trong những đấu trường gôn hóc búa nhất trên thế giới. Và sau khi đã xếp gậy đánh gôn vào trong ô tô, tôi lái xe cùng Carolyn trên bán đảo Dingle đến khu nghỉ mát ven biển cùng tên. Ở đó, chúng tôi đã đặt phòng trong khách sạn Sceilig. Lúc đó, tôi chắc hẳn đã rất mệt. Vì thế mà tôi không rời khỏi phòng khách sạn suốt cả buổi chiều hôm đó. • Chúng tôi đã ăn tối cùng hai người bạn, Elizabeth và Peter Callery, ở một nhà hàng hải sản nổi tiếng có tên là Doyle’s. Hôm sau, ngày 20 tháng 10, chúng tôi đáp máy bay về nhà. Những biến cố nhỏ Dĩ nhiên tôi đã không nhắc đến những biến cố nhỏ của mình. Sau khi cân nhắc từ thực tế, tôi thấy những biến cố này không đáng đề cập đến. Một năm sau đó, người ta cho rằng bạn sẽ nhớ về Sistine Chapel, chứ không phải nhớ đến bàn chân phồng rộp vì chạy suốt Vatican của bạn. Nhưng tôi sẽ nói cho bạn biết điều gì khiến tôi lo lắng, bởi tôi đang ở trong tâm trạng cần phải giãi bày: • Vào thứ Năm, ngày chúng tôi khởi hành đến Ireland sau giờ tan sở, chỉ số trung bình Dow Jones ngành công nghiệp giảm 48 điểm. Và vào ngày thứ Sáu, ngày chúng tôi đến nơi, chỉ số này giảm thêm 108,36 điểm. Điều này khiến tôi băn khoăn liệu chúng tôi có nên đi nghỉ hay không. • Tôi chỉ nghĩ về chỉ số Dow Jones mà chẳng hề đoái hoài gì đến Blarney, kể cả vào thời khắc tôi hôn lên hòn đá. Trong suốt kỳ nghỉ cuối tuần, giữa các séc đấu gôn, tôi cố tìm cho được vài chiếc điện thoại và nói chuyện với văn phòng của mình về loại cổ phiếu nào nên bán, và loại cổ phiếu nào nên mua ở mức giá hời nếu thị trường tiếp tục xuống giá. • Vào ngày thứ Hai, ngày tôi đấu giải Killen ở Killarney, chỉ số trung bình Dow Jones ngành công nghiệp lại tiếp tục giảm 508 điểm. Nhờ có sự chênh lệch về thời gian mà tôi kết thúc séc đấu một vài giờ trước khi tiếng chuông đầu tiên điểm trên phố Wall, nếu không hẳn tôi đã thi đấu tệ hơn. Có thể nói một cảm giác ảm đạm và chán nản đã bắt đầu trong tôi từ thứ sáu, và có lẽ điều đó đã giải thích (1) việc tôi chơi tệ hơn bình thường, nếu không muốn nói là tệ nhất từ trước đến giờ; và (2) việc tôi không thể nhớ được tỷ số trận đấu. Tỷ số duy nhất mà tôi quan tâm sau đó là hơn một triệu cổ đông ở Magellan Fund vừa mới mất đi 18% tài sản của họ, tương đương với hai tỷ đô la, trong phiên giao dịch ngày thứ hai. Nỗi ám ảnh của tôi về điều không may này khiến tôi thờ ơ với khung cảnh xung quanh trên đường đến Dingle. Tất cả những gì tôi nhận thức được lúc đó là 40 giây và đường cao tốc. Tôi đã không hề chợp mắt suốt buổi chiều ở khách sạn Sceilig, như đoạn văn trước đó có thể đã ám chỉ. Thay vào đó, tôi nói chuyện điện thoại với văn phòng chính của mình, quyết định loại cổ phiếu nào trong số 1.500 cổ phiếu của quỹ chúng tôi nên bán ra để tăng lượng tiền mặt bù đắp cho lượng tiền suy giảm bất thường của quỹ. Chúng tôi có đủ tiền để sử dụng trong những tình huống bình thường, nhưng không thể đủ trong hoàn cảnh ngày thứ hai, 19 tháng 10. Xét trên một khía cạnh, tôi không thể quyết định liệu thế giới có đang đến ngày tận thế, liệu chúng tôi có rơi vào một cuộc suy thoái, hay liệu mọi thứ có không quá tồi tệ như thế chăng, và có một điều là chỉ có phố Wall là không can dự. Tôi cùng những cộng sự của mình đã bán những gì mà chúng tôi phải bán. Trước tiên chúng tôi bán một số cổ phiếu Anh ở thị trường chứng khoán London. Vào buổi sáng thứ hai, giá cổ phiếu ở London nói chung đã cao hơn ở thị trường Mỹ, nhờ một cơn bão bất thường đã buộc sở giao dịch chứng khoán London phải đóng cửa vào ngày thứ sáu tuần trước đó, do đó đã tránh được trận đại sụt giá của ngày hôm đó. Rồi chúng tôi bán một vài cổ phiếu ở sở giao dịch chứng khoán New York, chủ yếu vào đầu phiên giao dịch, khi chỉ số Dow chỉ mới giảm 150 điểm, và chẳng lâu sau đã giảm xuống mức thấp nhất, mức 508 điểm. Tối hôm đó, ở nhà hàng Doyle’s, tôi thậm chí chẳng thể nói cho bạn biết tôi đã ăn loại hải sản nào. Bạn chẳng còn có thể phân biệt món cá tuyết với món tôm khi mà quỹ đầu tư của bạn đã không còn bắt kịp Tổng thu nhập quốc dân (GNP) của một quốc gia duyên hải nhỏ. Chúng tôi trở về nhà vào ngày 20 vì tất cả những sự việc trên khơi dậy trong tôi niềm khát khao được trở về văn phòng của mình. Đây là một khả năng mà tôi đã chuẩn bị đối mặt từ ngày chúng tôi đến Ireland. Thành thật mà nói, tôi sẽ để những biến cố này đến với mình tự nhiên. Những bài học của tháng 10 Tôi vẫn luôn tin rằng các nhà đầu tư nên phớt lờ những thăng trầm của thị trường. May mắn thay, phần lớn trong số họ không mấy quan tâm đến những thăng trầm mà tôi đã đề cập ở trên. Hãy xem xét ví dụ sau đây: Có dưới 3% trong hàng triệu chủ tài khoản ở Fidelity Magellan đã rút vốn đầu tư ra khỏi quỹ và chuyển đến một quỹ thị trường tiền tệ trong suốt những ngày thị trường mất giá trong tuần. Khi bạn bán cổ phiếu trong tình trạng thị trường mất giá, bạn sẽ luôn phải chấp nhận bán rẻ. Dù cho ngày 19 tháng 10 khiến bạn lo lắng về thị trường chứng khoán, bạn cũng không nhất thiết phải bán cổ phiếu ngay trong ngày hôm đó, thậm chí là ngày tiếp theo. Bạn có thể dần dần giảm danh mục đầu tư của mình và vượt qua những người bán cổ phiếu đầy hoang mang, bởi vì, từ đầu tháng 12, thị trường lại tăng giá ổn định. Đến tháng 6 năm 1988, thị trường phục hồi 400 điểm sau suy thoái, tương đương với trên 32%. Tôi muốn đưa thêm ba bài học nữa vào hàng tá những bài học mà chúng ta nên đúc rút từ tháng 10: (1) đừng để những điều phiền toái làm hỏng một danh mục đầu tư tốt; (2) đừng để những phiền toái làm hỏng một kỳ nghỉ tuyệt vời; và (3) đừng bao giờ đi du lịch nước ngoài khi bạn đang có mối lo về tài chính. Tôi có thể viết thêm vài chương về vấn đề này, với nhiều sự kiện nổi bật đáng chú ý hơn, nhưng có lẽ tôi sẽ không làm lãng phí thời gian của bạn. Tôi thích viết về những gì bạn cảm thấy có giá trị hơn: làm thế nào để nhận dạng các công ty vượt trội. Dù cho vào ngày mà chỉ số Dow đạt 508 điểm hay 108 điểm, thì các công ty vượt trội sẽ vẫn luôn luôn thành công còn các công ty tầm thường sẽ thất bại, và các nhà đầu tư vào những công ty này sẽ nhận được những phần thưởng tương xứng. Cuối cùng, nếu tôi có thể nhớ rằng mình đã ăn món gì ở Doyle’s, tôi nhất định sẽ cho bạn biết. LỜI GIỚI THIỆU N hững lợi thế của “những đồng tiền dại” Đ ây là nơi tác giả cuốn sách, một nhà đầu tư chuyên nghiệp, hứa hẹn với các độc giả rằng trong 30 trang tiếp theo, ông sẽ chia sẻ những bý quyết thành công của mình. Nguyên tắc số một trong cuốn sách của tôi là: Đừng bao giờ nghe lời những người chuyên nghiệp! Hai mươi năm kinh nghiệm trong lĩnh vực này đã đủ thuyết phục tôi rằng bất kỳ người bình thường nào sử dụng 3% bộ não thông thường đều có thể đầu tư cổ phiếu thành công như, nếu không muốn nói là thành công hơn một chuyên gia chứng khoán phố Wall bình thường. Tôi biết bạn không kỳ vọng vị bác sỹ giải phẫu thẩm mỹ khuyên bạn tự làm phẫu thuật cho mình, hay người thợ sửa ống nước bảo bạn tự mình lắp đặt bình nước nóng, hoặc người thợ cắt tóc gợi ý rằng bạn nên cắt tóc ngang trán, tuy nhiên đây không phải là giải phẫu, đường ống nước hay cắt tóc. Mà đây chính là đầu tư, ở đó những đồng tiền khôn ngoan chưa hẳn đã khôn ngoan, và những đồng tiền dại chưa hẳn đã ngu ngốc như chúng ta nghĩ. Những đồng tiền dại chỉ ngu ngốc khi nghe theo những đồng tiền khôn ngoan mà thôi. Thực tế nhà đầu tư nghiệp dư có vô số lợi thế của riêng mình, mà nếu được tận dụng và khai thác thì anh ta sẽ thành công hơn cả những chuyên gia, và thành công vượt trội trên thị trường nói chung. Hơn nữa, khi bạn tự quyết định đầu tư chính cổ phiếu của mình, bạn sẽ phải làm tốt hơn những chuyên gia. Và cuối cùng, chẳng có lý do gì mà bạn không cố gắng làm tốt hơn họ cả. Tôi không định khuyến khích hay khuyên bạn bán tất cả các quỹ đầu tư của bạn. Vì nếu điều đó xảy ra trên diện rộng thì chắc hẳn tôi sẽ trở thành người thất nghiệp. Ngoài ra, những quỹ đầu tư chẳng có vấn đề gì cả, đặc biệt là những quỹ hoạt động hiệu quả và đem lại lợi nhuận cho nhà đầu tư. Chính sự thành thật, chứ không phải tính tự đại đã buộc tôi phải tuyên bố rằng hàng triệu nhà đầu tư nghiệp dư đã nhận được những phần thưởng xứng đáng khi đầu tư vào Fidelity Magellan, và đó cũng chính là lý do tôi được mời viết cuốn sách này ngay từ đầu. quỹ đầu tư là một phát minh tuyệt vời cho những người không có cả thời gian lẫn khuynh hướng kiểm tra trí thông minh của mình trên thị trường chứng khoán, cũng như cho những người chỉ có một lượng vốn đầu tư nhỏ nhưng lại muốn đa dạng hóa sự đầu tư của mình. Chỉ khi nào bạn đã quyết định tự mình đầu tư, đó chính là lúc bạn nên tự mình làm việc đó. Nghĩa là hãy phớt lờ mọi mánh khóe, mọi lời khuyến khích từ các nhà môi giới chứng khoán, hay lời gợi ý đầy hấp dẫn “không thể bỏ lỡ” từ bản tin thường kỳ mà bạn yêu thích và chỉ tập trung vào những nghiên cứu của chính bạn. Điều đó có nghĩa là hãy bỏ ngoài tai những cổ phiếu mà bạn nghe nói Peter Lynch, hay một tác giả tương tự nào đó sẽ mua. Có ít nhất ba lý do thuyết phục để bạn phớt lờ những cổ phiếu mà Peter Lynch sẽ mua. (1) ông ta có thể mắc sai lầm! (một danh sách dài những người thất bại do tôi tự liệt kê luôn luôn nhắc nhở tôi rằng cái gọi là đồng tiền khôn ngoan đã có tới 40% thời gian trở thành ngu ngốc); (2) ngay cả khi ông ta đúng, bạn cũng chẳng bao giờ biết được khi nào ông ta sẽ thay đổi quyết định và bán một cổ phiếu nào đó; và (3) bạn có những nguồn lực tốt hơn, những nguồn lực luôn tồn tại xung quanh bạn. Để phát huy tối đa lợi thế của những nguồn lực đó, bạn cần thường xuyên theo dõi và giám sát chúng, cũng như tôi giám sát những nguồn lực của chính mình. Nếu bạn tỉnh táo, bạn có thể mua được những cổ phiếu thành công ngoạn mục ở nơi bạn kinh doanh, hay ở khu vực thị trường lân cận, từ rất lâu trước khi phố Wall phát hiện ra những cổ phiếu này. Bạn không thể trở thành một người tiêu dùng Mỹ mang thẻ tín dụng mà không tiến hành những phân tích cơ bản về một tá các công ty trước đó - và nếu bạn làm việc trong lĩnh vực này, thì càng cần phải có nhiều phân tích hơn. Chính từ những phân tích này, bạn sẽ tìm ra những “chiếc túi mười gang”. Tôi đã thấy điều này lặp đi lặp lại trong suốt thời kỳ còn đương nhiệm ở Fidelity. Những chiếc túi mười gang thần kỳ Theo cách nói của phố Wall, một “chiếc túi mười gang” là một cổ phiếu trong đó bạn làm tăng gấp 10 lần số tiền đầu tư ban đầu của bạn. Tôi nghi ngờ thuật ngữ mang đầy tính kỹ thuật này được vay mượn từ môn bóng chày, với cú đánh “home run” đem lại số điểm tối đa, gấp 4 lần điểm số thông thường. Trong ngành kinh doanh của tôi, làm tăng gấp 4 lần số tiền của bạn đã là khá tốt, nhưng gấp 10 lần thì càng tuyệt vời hơn, vì xét về ý nghĩa tài chính, nó tương đương với 2,5 cú đánh “home run” . Nếu bạn đã từng làm tăng số tiền của mình gấp 10 lần, bạn sẽ hiểu điều đó hấp dẫn đến thế nào. Từ những ngày đầu khởi sự đầu tư, trong tôi đã hình thành và phát triển một niềm đam mê làm cho túi tiền của mình lớn gấp 10 lần. Cổ phiếu đầu tiên tôi mua, cổ phiếu của hãng hàng không Flying Tiger Airlines, đã đem lại cho tôi số tiền khổng lồ, gấp nhiều lần số vốn ban đầu, cũng nhờ thế mà tôi đủ tiền trang trải học phí đến khi tốt nghiệp. Trong thập niên trước, nhờ thường xuyên mua được những cổ phiếu tăng giá gấp 5, gấp 10 lần mà tôi đã vượt lên trong cuộc cạnh tranh khốc liệt - và hiện nay tôi đang sở hữu 1.400 cổ phiếu. Trong một danh mục đầu tư nhỏ, thậm chí chỉ cần một cổ phiếu thành công xuất sắc đã có thể xoay chuyển một kết cục thảm hại thành một kết cục mỹ mãn. Thật kỳ diệu! Hiệu ứng này càng rõ ràng hơn ở những thị trường chứng khoán yếu - đúng vậy, những cổ phiếu tăng giá gấp mười lần xuất hiện rất nhiều trên những thị trường yếu. Hãy quay lại thời kỳ năm 1980, hai năm trước khi ra đời đại thị trường đầu cơ giá lên. Giả sử bạn đã đầu tư 10.000 đô la vào 10 cổ phiếu trong bảng sau vào ngày 22/12/1980, và giữ những cổ phiếu này đến ngày 4/10/1983. Đó là chiến lược A. Còn chiến lược B cũng tương tự, chỉ khác là bạn đầu tư cả vào cổ phiếu thứ 11 - cổ phiếu Stop & Shop. Và cổ phiếu Stop & Shop đã tăng gấp 10 lần. Kết quả của chiến lược A là 10.000 đô la của bạn sẽ tăng lên 13.040 đô la, với tổng lợi nhuận 30,4% sau gần ba năm (các loại cổ phiếu S&P 500 đem lại mức tổng lợi nhuận 40.6% trong cùng thời gian). Bạn hoàn toàn có quyền nhìn vào kết quả này và nói: “Thật là một món hời! Tại sao mình lại phải nhường cơ hội đầu tư tuyệt vời này cho những người chuyên nghiệp chứ?” Nhưng nếu bạn thêm vào cổ phiếu Stop & Shop, 10.000 đô la của bạn sẽ tăng gấp hơn hai lần thành 21.000 đô la, đem lại cho bạn mức tổng lợi nhuận 110,6% và một cơ hội để kiêu hãnh trên phố Wall. Hơn thế nữa nếu bạn góp vốn vào Stop & Shop vì bạn thấy tiềm năng phát triển của công ty này ngày càng tăng, thì tổng lợi nhuận của bạn có thể sẽ còn tăng gấp đôi thêm một lần nữa. Để có được kết quả ngoạn mục này, bạn chỉ cần tìm ra một cổ phiếu sẽ thành công vượt trội trong số 11 cổ phiếu này. Bạn càng đưa ra quyết định chính xác về một loại cổ phiếu nào đó thì bạn càng dễ quyết định sai lầm về các cổ phiếu khác, nhưng bạn vẫn sẽ thành công với tư cách một nhà đầu tư. Apples và Donuts Có lẽ bạn sẽ nghĩ rằng hiện tượng túi mười gang chỉ xuất hiện với một loại cổ phiếu bất thường ở một công ty phi thường như Braino Biofeedback hay Cosmic R & D, đây là loại cổ phiếu mà những nhà đầu tư nhạy cảm thường tránh. Thực chất thì có rất nhiều loại túi mười gang ở những công ty mà bạn hẳn sẽ nhận ra, xin phép được nêu ra một vài cái tên sau: Dunkin’ Donuts, Wal-Mart, Toys “R” Us, Stop & Shop, và Subaru. Có rất nhiều công ty với những sản phẩm mà bạn rất ngưỡng mộ và yêu thích, nhưng liệu đã có ai nghi ngờ rằng nếu bạn mua cổ phiếu Subaru cùng với xe hơi Subaru thì ngày nay bạn đã là một triệu phú rồi? Vâng đúng vậy. Phép tính đầy bất ngờ này dựa trên một vài giả định: đầu tiên, bạn mua cổ phiếu ở mức giá cực thấp, 2 đô la một cổ phiếu vào năm 1977; thứ hai, bạn bán ra với một mức giá rất cao vào năm 1986, lên tới 312 đô la một cổ phiếu, và đây là mức giá chưa khớp khi chia nhỏ cổ phiếu theo tỷ lệ 1:8 (tức là 1 cổ phiếu cũ được chia nhỏ thành 8 cổ phiếu mới). Điều đó đồng nghĩa với việc bạn đã làm túi tiền của mình tăng lên 156 lần, tương đương với 39 cú “home run”. Vậy nếu bạn đầu tư 6.140 đô la vào cổ phiếu (tương đương mức giá của một chiếc xe hơi), bạn sẽ có được chính xác một triệu đô la. Thay vì liên tục phải đổi bù cổ phiếu thì giờ đây bạn đã có đủ tiền để mua một tòa lâu đài và hai chiếc Jaguars trong ga-ra của bạn. Bạn không thể tạo ra 1 triệu đô la bằng cách đầu tư vào cổ phiếu Dunkin’ Donuts với số tiền tương đương tiền bạn dành để mua bánh rán - một người bình thường có thể ăn được bao nhiêu chiếc bánh rán? Nhưng cùng với hai tá bánh rán bạn mua mỗi tuần trong suốt năm 1982 (với tổng chi tiêu là 270 đô la), bạn cũng đầu tư một lượng tiền tương tự vào cổ phiếu thì 4 năm sau đó, giá trị cổ phiếu sẽ là 1.539 đô la (tức là đã tăng gấp 6 lần). Như vậy, nếu bạn đầu tư 10.000 đô la vào cổ phiếu Dunkin’ Donuts thì sau 4 năm bạn sẽ thu về tổng số tiền lãi 47.000 đô la. Nếu vào năm 1976, bạn đã mua 10 chiếc quần bò tại The Gap với giá 180 đô la, đến nay những chiếc quần hẳn đã sờn rách, nhưng 10 cổ phiếu của Gap được mua với cùng mức giá 180 đô la (18 đô la một cổ phiếu là giá chào bán ban đầu) sẽ đáng giá 4.672,50 đô la khi thị trường lên giá năm 1987. Vậy, 10.000 đô la đầu tư vào Gap sẽ tạo ra lợi nhuận 250.000 đô la. Nếu trong suốt năm 1973, bạn đã dành 31 đêm đi công tác ở La Quinta Motor Inns (bạn phải trả 11,98 đô la cho 1 đêm thuê phòng), và bạn kết hợp hóa đơn tiền phòng 371,38 đô la với việc mua cổ phiếu của La Quinta với cùng số tiền (tương đương với 23,21 cổ phiếu), thì cổ phiếu của bạn sẽ trị giá 4.363,08 đô la sau 10 năm. Đầu tư 10.000 đô la vào cổ phiếu La Quinta sẽ đem lại cho bạn mức lợi nhuận 107.500 đô la. Nếu trong suốt năm 1969, bạn thấy mình phải trả cho một đám tang truyền thống cho một người thân (với giá 980 đô la) do một trong rất nhiều đại lý của Service Corporation International (SCI) tổ chức, và mặc dù bạn vô cùng đau khổ, bạn vẫn cố gắng đầu tư thêm 980 đô la vào cổ phiếu SCI, 70 cổ phiếu của bạn sẽ đáng giá 14.352,19 đô la vào năm 1987. Như vậy, đầu tư 10.000 đô la vào cổ phiếu SCI sẽ đem lại lợi nhuận 137.000 đô la. Nếu quay lại thời điểm năm 1982, trong cùng tuần mà bạn mua chiếc máy tính Apple đầu tiên với giá 2.000 đô la để con cái bạn học hành tiến bộ hơn và thi đỗ vào đại học, bạn cũng đầu tư 2.000 đô la vào cổ phiếu Apple thì đến năm 1987, những cổ phiếu Apple này sẽ đáng giá 11.950 đô la, một số tiền đủ để trang trải học phí cho một năm học đại học. Sức mạnh của những kiến thức phổ thông Để thu được những món lợi kếch xù này, bạn cần phải mua và bán cổ phiếu vào những thời điểm chính xác. Nhưng ngay cả khi bạn để lỡ thời điểm giá cao nhất hay thấp nhất, bạn vẫn có thể làm tốt hơn nếu đầu tư vào bất cứ công ty quen thuộc nào mà tôi đã nói ở trên, thay vì đầu tư vào những doanh nghiệp bí hiểm mà không ai trong chúng ta hiểu được. Có một câu chuyện rất nổi tiếng về một người lính cứu hoả ở New England. Rõ ràng là trở lại thời điểm những năm 1950, ông không thể nhận ra rằng một nhà máy địa phương như Tambrands (sau này trở thành công ty Tampax) đang mở rộng với một tốc độ chóng mặt. Ông cho rằng họ không thể phát triển nhanh đến vậy nếu không phải họ đang trong thời kỳ hưng thịnh. Và với giả thuyết đó, ông và gia đình đã quyết định đầu tư 2.000 đô la. Không những thế, trong năm năm tiếp theo, họ liên tục đầu tư thêm 2.000 đô la mỗi năm. Đến năm 1972, người lính cứu hỏa trên đã trở thành một triệu phú - và ông thậm chí chưa từng mua cổ phiếu của Subaru. Tôi không chắc là nhà đầu tư may mắn của chúng ta có từng hỏi ý kiến người môi giới chứng khoán hay chuyên gia chứng khoán nào khác hay không, nhưng chắc hẳn có rất nhiều người từng nói với ông rằng giả thuyết ông đưa ra là sai lầm, và rằng nếu ông biết điều gì tốt cho mình thì ông nên bám lấy những cổ phiếu mà các công ty đang mua, hoặc là những cổ phiếu ngành điện đang rất thịnh hành vào thời điểm đó. May mắn thay, người lính cứu hoả đã giữ vững lập trường của mình. Bạn có thể nghĩ rằng chính câu chuyện phức tạp và đẳng cấp của các chuyên gia xung quanh các loại máy móc Quotron đã đem lại cho chúng ta những ý tưởng đầu tư tốt nhất, nhưng tôi đã có rất nhiều ý tưởng cho riêng mình theo cách của người lính cứu hỏa đó. Tôi có hàng trăm cuộc nói chuyện với các công ty mỗi năm và dành hàng giờ trong những cuộc họp cấp cao với các CEO (giám đốc điều hành), các nhà phân tích tài chính và các đồng nghiệp của tôi trong ngành kinh doanh quỹ đầu tư, nhưng tôi đã tình cờ phát hiện ra những cổ phiếu thành công vượt trội trong những tình huống hoàn toàn ngoài giờ làm việc, và chắc hẳn bạn cũng có thể làm thế: Tôi đã thực sự ấn tượng với Taco Bell trong một chuyến đi đến California; còn La Quinta Motor Inns là do một nhân viên ở công ty cạnh tranh với nó - Holiday Inn nói với tôi; Volvo, loại xe mà gia đình tôi và nhiều bạn bè đang sử dụng; Máy tính Apple - các con tôi đã có một chiếc ở nhà và sau đó vị giám đốc hệ thống đã mua một vài chiếc để lắp đặt trong văn phòng; Service Corp. International, một nhà phân tích ngành điện tử của Fidelity (một người chẳng liên quan gì đến những nhà tang lễ, bởi vậy đây không phải là lĩnh vực của anh ta) đã có một chuyến công tác ở Texas; Dunkin’ Donuts, tôi thích cà phê của họ; và gần đây là Pier 1 Imports do vợ tôi giới thiệu. Thực tế thì Carolyn là một trong những nguồn thông tin quý giá của tôi. Chính cô ấy đã phát hiện ra L’eggs. L’eggs là một ví dụ hoàn hảo về sức mạnh của những kiến thức thông thường. L’eggs hóa ra là một trong hai sản phẩm tiêu dùng thành công nhất thập kỷ 70. Những năm đầu thập niên này, trước khi tôi tiếp quản Fidelity Magellan, tôi đang làm chuyên gia phân tích chứng khoán cho hãng này. Tôi biết về ngành dệt may nhờ đã đi khắp đất nước thăm các nhà máy dệt, thính toán lãi ròng, chỉ số giá cả/thu nhập và mức độ bền của sợi vải. Nhưng tất cả những thông tin trên đều không giá trị bằng những thông tin của Carolyn. Tôi đã không tìm thấy L’eggs trong những nghiên cứu của mình, còn cô ấy đã tìm ra nó nhờ đi mua sắm ở một cửa hàng tạp hóa. Ngay chính trên chiếc giá treo kim loại đứng một mình gần quầy thanh toán trưng bày một sản phẩm tất dài cho phụ nữ hoàn toàn mới, được đóng trong những quả trứng bằng nhựa đầy màu sắc. Công ty Hanes đang thử nghiệm sản phẩm L’eggs ở một vài địa điểm trên đất nước, gồm cả vùng ngoại ô Boston. Khi Hanes phỏng vấn hàng trăm phụ nữ sau khi họ rời khỏi các siêu thị thử nghiệm và hỏi xem họ có mua đôi tất dài nào không thì phần lớn câu trả lời mà Hanes nhận được là có. Tuy nhiên, hầu hết họ đều không nhớ được tên nhãn hiệu. Hanes quá sung sướng và ngây ngất. Nếu một sản phẩm trở thành sản phẩm bán chạy nhất mà chưa được công nhận thương hiệu, thì hãy thử tưởng tượng xem sản phẩm đó sẽ còn bán chạy đến mức nào một khi thương hiệu của nó trở nên nổi tiếng. Carolyn chẳng cần phải là một chuyên gia ngành dệt mới nhận ra được rằng L’eggs là một sản phẩm vượt trội. Tất cả những gì cô ấy phải làm là mua một đôi tất và đi thử. Những đôi tất này được đánh giá là có độ đàn hồi tốt hơn các đôi tất thông thường, nhờ đó mà sợi tất khó bị giãn hơn. Chúng cũng rất vừa vặn. Nhưng đặc điểm cuốn hút chủ yếu chính là tính tiện lợi. Bạn có thể thấy L’eggs được bày bán ngay cạnh sản phẩm kẹo cao su và dao cạo râu, và bạn chẳng cần mất một chuyến đi đặc biệt đến một siêu thị lớn. Hanes đã bán những đôi tất với nhãn hiệu thông thường của mình trong các siêu thị và các cửa hàng chuyên dụng. Tuy nhiên, công ty đã xác định rằng trung bình, phụ nữ thường đến thăm nhau 6 tuần một lần, trong khi đó họ đến cửa hàng tạp hóa hai lần một tuần, điều đó cũng đồng nghĩa họ có 12 cơ hội để mua L’eggs trên mỗi cơ hội để mua nhãn hiệu thông thường. Bán tất ở một cửa hàng tạp hóa là một ý tưởng cực kỳ phổ biến. Bạn có thể nhận thấy điều đó khi nhìn thấy số lượng phụ nữ với những quả trứng nhựa trên những chiếc xe đẩy tại quầy thanh toán. Và bạn có thể tưởng tượng bao nhiêu đôi tất L’eggs sẽ được bán ra trên khắp cả nước, sau khi tôi nói những điều này. Có bao nhiêu phụ nữ mua tất dài, bao nhiêu nhân viên bán hàng thấy phụ nữ mua tất, và bao nhiêu người chồng thấy vợ mình về nhà với những đôi tất biết về thành công của L’eggs? Câu trả lời là có hàng triệu người. Chỉ hai hay ba năm sau khi sản phẩm này được tung ra thị trường, bạn đã có thể đi vào một trong hàng ngàn siêu thị bất kỳ và nhận ra đó là mặt hàng bán chạy nhất. Từ đó, chẳng mấy khó khăn để nhận ra rằng L’eggs là sản phẩm của Hanes và Hanes đã được niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán New York. Khi Carolyn nói với tôi về Hanes, tôi đã tiến hành nghiên cứu về câu chuyện thành công của họ theo cách tôi vẫn thường làm. Và câu chuyện đó còn tuyệt vời hơn cả những gì tôi đã nghĩ, vì thế với một niềm tin mãnh liệt như người lính cứu hoả đã mua cổ phiếu Tambrands, tôi đã giới thiệu cổ phiếu Hanes đến giám đốc quản lý vốn đầu tư của Fidelity. Cổ phiếu Hanes đã tăng gấp 6 lần trước khi công ty này thuộc về Consolidated Foods, và giờ đây thuộc về Lee. L’eggs vẫn tiếp tục mang lại một núi tiền cho Sarah Lee và vẫn tiếp tục phát triển ổn định trong hơn một thập kỷ qua. Còn tôi bị thuyết phục bởi giả thiết rằng cổ phiếu Hanes hẳn đã có thể tăng gấp 50 lần nếu như công ty này không bị mua lại. Điều tuyệt vời về L’eggs là bạn không nhất thiết phải biết về sản phẩm này ngay từ đầu. Dù bạn mua cổ phiếu này một năm, hai năm, hay ba năm sau khi L’eggs trở nên phổ biến trên toàn quốc, thì ít nhất bạn cũng có thể nhân ba số tiền của mình. Nhưng rất nhiều người đã không làm thế, đặc biệt là các đức ông chồng. Những người chồng (còn được biết đến với tư cách những Nhà Đầu Tư Được Chỉ Định) có lẽ quá bận rộn để mua những cổ phiếu ngành năng lượng mặt trời hay cổ phiếu của các công ty đĩa vệ tinh, và vì thế mà họ đã đánh mất những khoản lợi nhuận đáng tiếc. Hãy xem trường hợp Harry Hounstooth - một người bạn của tôi và tôi đã thay đổi tên của ông một chút để bảo vệ con người kém may mắn này. Thực tế thì luôn luôn có một phần nhỏ bé của Hounstooth trong tất cả chúng ta. Nhà Đầu Tư Được Chỉ Định này (mỗi gia đình dường như đều có một người như thế) đã dành cả buổi sáng chỉ để đọc Tạp chí phố Wall (The Wall Street Journal) và một bản tin thị trường chứng khoán định kỳ mà ông đặt mua với giá 250 đô la một năm. Ông đang tìm kiếm một cổ phiếu lý tưởng, với mức rủi ro giới hạn, nhưng ngược lại có tiềm năng thành công lớn. Trong cả tờ tạp chí và bản tin định kỳ đều đề cập đến cổ phiếu của Winchester Disk Drives, một công ty nhỏ nhưng hoạt động rất hiệu quả và hứa hẹn một tương lai tráng lệ. Hounstooth không biết phân biệt một ổ đĩa với một chiếc đĩa mềm dễ vỡ, nhưng ông đã gọi cho nhà môi giới của mình và biết rằng Merrill Lynch đã đưa cổ phiếu Winchester vào danh sách “cổ phiếu ưu tiên mua” của mình. Hounstooth nghĩ rằng tất cả những điều này không thể là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Ông sớm bị thuyết phục rằng đầu tư 3.000 đô la mà ông đã phải chật vật mới kiếm được vào cổ phiếu Winchester là một ý tưởng khôn ngoan. Cuối cùng ông đã tiến hành nghiên cứu! Vợ của Hounstooth - hay còn gọi là Người Không Hiểu Gì Về Ngành Kinh Doanh Tiền Tệ Nghiêm Túc (vai trò của hai người có thể đảo ngược, song đây là hiện tượng cực kỳ hy hữu) - vừa trở về nhà từ khu thương mại sau khi bà phát hiện ra một cửa hàng quần áo phụ nữ mới tên là The Limited. Cửa hàng này cực kỳ đông khách. Và bà không thể đợi để kể cho chồng mình về những người bán hàng thân thiện và những mức giá rẻ bất ngờ ở đó. “Em đã mua cho Jenifer cả tủ quần áo mùa thu!” - bà reo lên. “Tất cả chỉ hết có 275 đô la mà thôi”. “Những 275 đô la cơ à?” Nhà Đầu Tư Được Chỉ Định càu nhàu. “Trong khi em mải ra ngoài phung phí tiền bạc thì anh phải ở nhà suốt ngày để tìm cách kiếm tiền. Và anh đã tìm ra câu trả lời, đó chính là Winchester Disk Drives. Em hẳn cũng thấy rằng nhất định chúng ta sẽ thành công. Vì thế chúng ta sẽ đầu tư 3.000 đô la vào cổ phiếu này”. “Em hy vọng rằng anh biết mình đang làm gì”, Người Không Hiểu Gì Về Ngành Kinh Doanh Tiền Tệ Nghiêm Túc nói. “Anh có nhớ Havalight Photo Cell không? Điều chắc chắn là 7 đô la đã biến thành 3,5 đô la, và chúng ta đã mất 500 đô la”. “Ừ nhưng mà đó là Havalight, còn đây là Winchester. Tạp chí The Wall (The Wall Street Journal) đã gọi ngành kinh doanh ổ đĩa là một trong những ngành tăng trưởng chủ yếu trong thập kỷ này. Vậy thì chẳng có lý gì mà chúng ta lại tự loại mình ra khỏi cuộc chơi phải không?” Phần kết của câu chuyện này rất dễ tưởng tượng. Winchester Disk Drives có một quý hoạt động không hiệu quả, hoặc là có một cuộc cạnh tranh bất ngờ trong lĩnh vực kinh doanh ổ đĩa, làm giá cổ phiếu của công ty giảm từ 10 đô la xuống 5 đô la. Vì Nhà Đầu Tư Được Chỉ Định không có cách nào hiểu được ý nghĩa của những sự việc trên, nên ông ta quyết định kế sách chu toàn là bán toàn bộ cổ phiếu và vẫn cảm thấy vui vì mình chỉ mất thêm 1.500 đô la - ít hơn 5 tủ quần áo của Jenifer. Trong khi đó, Hounstooth không hề biết rằng, giá cổ phiếu của The Limited, cửa hàng mà bà vợ Henrietta của ông cực kỳ ấn tượng, đã phát triển với một tốc độ ổn định, từ mức dưới 50 xu một cổ phiếu (đã điều chỉnh chia nhỏ) vào tháng 12 năm 1979 lên mức 9 đô la vào năm 1983 - và sau đó còn tiếp tục tăng lên gấp 20 đến 23 lần - và dù cho ông đã mua cổ phiếu đó với mức giá 9 đô la (và trải qua một lần tái giảm giá xuống 5 đô la), thì ông vẫn có thể tăng gấp năm lần số tiền của mình, vì sau đó giá cổ phiếu đã tăng lên 52 đô la. Như vậy, so với mức giá khởi điểm thì giá cổ phiếu đã tăng gấp 100 lần. Vì thế, nếu Hounstooth đầu tư 10.000 đô la vào cổ phiếu này ngay từ đầu thì ông ta đã có thể kiếm được hơn một triệu đô la từ cổ phiếu. Thực tế hơn, nếu bà Hounstooth kết hợp 275 đô la để mua tủ quần áo cho Jenifer với 275 đô la nữa đầu tư vào cổ phiếu thì có thể tưởng tượng được rằng chỉ một khoản đầu tư nhỏ của bà cũng đã có thể trang trải học phí một kỳ cho cô con gái. Tuy nhiên, Nhà Đầu Tư Được Chỉ Định của chúng ta, dù có đủ thời gian để mua cổ phiếu của The Limited sau khi đã bán cổ phiếu Winchester, vẫn tiếp tục bỏ lỡ cơ hội tuyệt vời này. Vào thời điểm đó, có tới 400 cửa hàng của The Limited trên cả nước và tất cả đều rất đông khách, song Hounstooth quá bận rộn để nhận ra điều đó. Ông đang mải theo dõi xem Boone Pickens đang làm gì với Mesa Petroleum. Vào thời điểm gần cuối năm 1987, và có lẽ là ngay trước khi chỉ số Dow dao động nhẹ và đạt mức 508 điểm, thì cuối cùng Hounstooth cũng đã phát hiện ra rằng The Limited đã nằm trong danh sách mà công ty môi giới chứng khoán của ông quyết định mua. Hơn thế nữa, có rất nhiều bài viết đầy hứa hẹn trên ba tạp chí khác nhau, cổ phiếu này đã trở thành đối tượng yêu thích của các công ty lớn, và có tới 30 nhà phân tích đang nghiên cứu nó. Nhà Đầu Tư Được Chỉ Định thấy rằng đây thực sự là một cổ phiếu đáng mua. Một hôm, ông phàn nàn với vợ,“Thật nực cười! Em có nhớ cái cửa hàng The Limited mà em rất thích không? hóa ra đó là một công ty khá nổi tiếng đấy. Nghĩa là chúng ta có thể mua cổ phiếu của họ. Một cổ phiếu quá tuyệt, chính mục tin tức đặc biệt của PBS đã nói thế đấy. Anh còn nghe nói tạp chí Forbes đã có hẳn một phóng sự trang bìa về nó. Dù sao thì những đồng tiền khôn ngoan cũng không đủ để mua cổ phiếu này. Ít nhất chúng ta phải có được 2.000 đô la từ quỹ lương hưu”. “Chúng ta vẫn còn những 2.000 đô la ở quỹ lương hưu cơ à?” Henrietta hỏi với vẻ đầy hoài nghi. “Tất nhiên là thế rồi”, Nhà Đầu Tư Được Chỉ Định gắt lên,“Và chắc chắn là còn nhiều hơn thế, nhờ cái cửa hàng mà em thích đấy”. “Nhưng em không còn mua sắm ở The Limited nữa”, Henrietta nói. “Hàng hóa ở đó giờ đây đã trở nên đắt đỏ và không còn độc đáo nữa. Các cửa hàng khác cũng bán những thứ tương tự như thế”. “Điều đó chẳng có nghĩa lý gì cả”, Nhà Đầu Tư Được Chỉ Định của chúng ta gào lên. “Anh không định nói về chuyện mua sắm, mà anh đang nói đến đầu tư”. Hounstooth đã mua cổ phiếu ở mức giá 50 đô la, ngay sát thời điểm giá cao kỷ lục năm 1987. Nhưng sau đó, giá cổ phiếu nhanh chóng giảm xuống 16 đô la, và khi xuống khoảng một nửa, ông lại bán ra, một lần nữa cảm thấy vui vì đã giới hạn được tổn thất của mình. Đây có phải là một công ty cổ phần không? Tôi là một người tốt đã khiển trách Hounstooth về việc bỏ lỡ The Limited. Tôi cũng đã không mua một cổ phiếu đang lên giá, và vợ tôi cũng đã nhìn thấy đám đông mà vợ của Hounstooth đã thấy ở khu mua sắm. Tôi cũng đã mua cổ phiếu The Limited khi câu chuyện về công ty trở nên phổ biến, nhưng khi mà các yếu tố cơ bản bắt đầu suy giảm, tôi vẫn tiếp tục giữ cổ phiếu này và chấp nhận tạm thời chịu lỗ. Thực tế, tôi có thể nói thêm vài trang về những chiếc túi mười gang mà tôi đã để lỡ, và nhiều tấm gương đáng tiếc hơn sẽ bất ngờ xuất hiện trong cuốn sách này. Khi đã bỏ lỡ cơ hội hứa hẹn, tôi vẫn có đủ khả năng và sự sáng suốt. Khi tôi đang đứng trước một cuộc thi đấu giá trị nhất của thế kỷ, cuộc thi đấu gôn Peele Beach, thì tôi chẳng còn tâm trí đâu mà hỏi xem đó có phải là một công ty danh tiếng hay không. Bởi tôi quá bận rộn trong việc phán đoán khoảng cách từ điểm phát bóng tới lỗ ghi điểm. May mắn thay, xung quanh chúng ta có đủ những chiếc túi mười gang, nhờ thế mà chúng ta có thể nhận ra đa số và vẫn mua được những cổ phiếu mong muốn. Trong một danh mục đầu tư lớn như của tôi, tôi sẽ phải mua một số cổ phiếu trước khi chúng tạo ra một sự chênh lệch đáng kể. Nhưng với một danh mục nhỏ như của bạn thì chỉ cần một cổ phiếu mà thôi. Hơn nữa, điểm thú vị khi đầu tư vào những công ty quen thuộc như L’eggs hay Dunkin’ Donuts là khi bạn đi những đôi tất hay nhâm nhi những ly cà phê thì cũng là lúc bạn đang tiến hành những phân tích cơ sở mà những nhà phân tích phố Wall vẫn được thuê để làm. Đi thăm những cửa hàng và thử nghiệm các sản phẩm là một trong những yếu tố quan trọng trong công việc của một nhà phân tích. Trải qua cả cuộc đời với công việc mua ô tô hay máy ảnh, bạn hẳn sẽ phát triển một giác quan về cái gì tốt, cái gì xấu, và cái gì nên bán còn cái gì thì không nên. Nếu bạn không biết gì về ô tô, thì bạn biết về một thứ gì khác, và điều quan trọng nhất là, bạn biết về nó trước khi phố Wall biết được. Tại sao lại phải chờ chuyên gia nhà hàng Merrill Lynch giới thiệu Dunkin’ Donuts trong khi đã có tới 8 nhà hàng mới mở ở khu vực của bạn rồi? Nhà phân tích của nhà hàng Merrill Lynch sẽ phát hiện ra Dunkin’ Donuts (vì một vài lý do mà tôi sẽ sớm giải thích) cho đến khi giá cổ phiếu này đã tăng gấp 5 lần từ 2 đô la lên 10 đô la, còn bạn thì phát hiện ra nó khi giá của nó mới chỉ ở mức 2 đô la. Nâng tốc độ đồng hồ máy tính lên 1 tỷ héc Trong số các nhà đầu tư nghiệp dư, vì lý do nào đó mà họ cho rằng “việc lái xe quanh thành phố ăn bánh rán là giai đoạn điều tra vốn ban đầu” không phải là một thói quen quá phức tạp. Dường như có một quy luật bất thành văn ở phố Wall: Nếu bạn không hiểu gì về nó, hãy đầu tư toàn bộ khoản tiền mà bạn tiết kiệm cả đời vào nó. Hãy tránh những doanh nghiệp đang chiếm cứ một mảng thị trường, vì ít nhất chúng ta có thể quan sát chúng, và hãy tìm kiếm những doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm không ai hiểu được. Một hôm, tôi đã được nghe về một cơ hội tương tự như thế. Theo bản báo cáo mà một nhân viên đã đặt trên bàn của tôi thì có một cơ hội tuyệt vời để đầu tư vào một công ty sản xuất ra “bộ nhớ S - Ram 1 megabit, chíp CMOS (vi mạch tích hợp); máy tính với tập lệnh đơn giản hóa lưỡng cực bipolar risc, phép tính dấu phẩy động, bộ vi xử lý dữ liệu I/O, chương trình chuyển ngữ tối ưu, bộ nhớ 2 cổng 16 bytes, hệ điều hành unix, dải băng tần rộng, 6 gigahertz, giao thức truyền thông song công, tính tương thích ngược dị bộ, cấu trúc kênh thiết bị ngoại vi, bộ nhớ 4 lớp xen kẽ, khả năng đáp ứng 15 nanô giây”. Nâng tốc độ đồng hồ máy tính lên 1 tỷ hec và kích hoạt megaflop của tôi, nếu bạn không thể phân biệt được đó là một con ngựa đua hay một con chíp bộ nhớ thì tốt nhất là bạn nên tránh xa nó, dù cho người môi giới của bạn có thể gọi điện và giới thiệu với bạn rằng đây là cơ hội 10 năm có một để kiếm được hàng tỷ đô la. Tránh xa búp bê Cabbage Patch Có phải điều đó đồng nghĩa với việc tôi khuyên bạn mua cổ phiếu của mỗi công ty kinh doanh đồ ăn nhanh mới ra đời, mỗi doanh nghiệp có sản phẩm đang thịnh hành, hay mỗi doanh nghiệp công cộng mở một đại lý bán lẻ ở thị trường địa phương? Nếu mọi việc đơn giản đến thế, tôi đã chẳng đánh mất tiền vào Blidner’s hay công ty đầy tham vọng 7 - Eleven đối diện ngay văn phòng của tôi ở ngay bên kia con phố. Nếu tôi chỉ ăn bánh sandwich mà không mua cổ phiếu của họ thì 50 cổ phiếu ấy lẽ ra đã có thể mua được một con cá ngừ sốt ngũ cốc. Tôi sẽ nói thêm về thất bại này sau. Còn Coleco thì sao? Chỉ vì búp bê Cabbage Patch là đồ chơi bán chạy nhất thế kỷ, điều đó không thể cứu được một công ty xoàng xĩnh với một bảng cân đối tồi tệ, và mặc dù cổ phiếu đã tăng mạnh trong khoảng một năm nhờ sự khích lệ của các trò chơi video gia đình và lòng nhiệt thành của Cabbage Patch, cuối cùng nó cũng hạ từ mức kỷ lục 65 đô la vào năm 1983 xuống mức 13/4 đô la như gần đây, kết quả là công ty này đã tuyên bố phá sản vào năm 1998. Chúng ta sẽ đi sâu hơn vào trường hợp của Cabbage Patch trong Chương 11. Tìm ra một công ty hứa hẹn mới chỉ là bước đầu. Bước tiếp theo là tiến hành nghiên cứu. Nghiên cứu nhằm giúp bạn phân biệt Toy “R” Us với Coleco, Apple Computer với Televideo, hay Piedmont Airlines với People Express. Giờ đây sau khi đề cập đến People Express, tôi ước là mình đã nghiên cứu kỹ hơn chuyện gì xảy ra với hãng hàng không này. Nếu vậy, có thể tôi đã không mua cổ phiếu của họ. Mặc dù tôi đã vấp phải một số thất bại trong suốt 12 năm điều hành Fidelity Magellan, nhưng quỹ này vẫn tăng 20 lần nếu tính bình quân mỗi cổ phiếu - một phần là nhờ có những cổ phiếu ít ai biết đến và những cổ phiếu đã không còn được ưa chuộng mà tôi có thể phát hiện ra rồi tự mình nghiên cứu. Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng bất kỳ nhà đầu tư nào cũng đều có thể thành công nhờ những chiến lược tương tự. Không quá tốn kém để làm cho những đồng tiền khôn ngoan trở nên khôn ngoan hơn, vì như tôi đã nói, tiền khôn không phải lúc nào cũng khôn. Cuốn sách này được chia làm ba phần. Phần 1, Chuẩn bị đầu tư (từ Chương 1 đến Chương 5), giải quyết vấn đề làm thế nào để đánh giá chính mình với tư cách một nhà đầu tư cổ phiếu, làm thế nào để đo lường mức độ cạnh tranh (các giám đốc quản lý danh mục đầu tư, những nhà đầu tư của các công ty lớn, những chuyên gia phố Wall khác), làm thế nào để xác định cổ phiếu hay trái phiếu có mức độ rủi ro cao hơn, làm sao để điều tra nhu cầu tài chính của bạn, và làm sao để phát triển một thói quen đầu tư cổ phiếu thành công. Phần 2, Những nhà đầu tư thành công (từ Chương 6 đến Chương 15), giải quyết vấn đề làm thế nào để tìm ra những cơ hội hứa hẹn nhất, những gì nên tìm kiếm và nên tránh ở một công ty, cách sử dụng những nhà môi giới chứng khoán, báo cáo thường niên và các nguồn lực khác theo cách tối ưu, và các nhân tố cấu thành các chỉ số (chỉ số giá cả/thu nhập, chỉ số luồng tiền mặt) thường xuyên được đề cập trong những đánh giá kỹ thuật về các cổ phiếu. Phần 3, Tầm nhìn dài hạn (từ Chương 16 đến Chương 20) giải quyết vấn đề làm thế nào để thiết lập một danh mục vốn đầu tư, làm thế nào để theo sát các công ty mà bạn quan tâm, thời điểm mua vào và bán ra, những quyết định về hợp đồng quyền chọn và hợp đồng tương lai, và một vài quan sát chung về sức mạnh của phố Wall, doanh nghiệp Mỹ, và thị trường chứng khoán - những điều tôi rất quan tâm trong hơn 20 năm đầu tư chứng khoán. Phần 1 CHUẨN BỊ ĐẦU TƯ T rước khi bạn quyết định mua cổ phiếu, bạn nên đưa ra một số quyết định cơ bản về thị trường, về niềm tin của bạn vào nước Mỹ thống nhất, về việc bạn có cần thiết đầu tư vào cổ phiếu hay không và bạn kỳ vọng điều gì sau khi bán những cổ phiếu này, bạn là một nhà đầu tư dài hạn hay ngắn hạn, và về cách phản ứng của bạn trước những cú rớt giá bất ngờ, ngoài dự kiến và nghiêm trọng. Tốt hơn hết là bạn phải xác định các mục tiêu và làm rõ những quan điểm của mình (tôi có thực sự nghĩ rằng cổ phiếu rủi ro hơn trái phiếu hay không?) ngay từ đầu, bởi nếu bạn không quyết đoán và thiếu sự chắc chắn, thì bạn sẽ là nạn nhân tiềm năng của thị trường, người sẽ từ bỏ mọi hy vọng và lý lẽ vào thời khắc cam go nhất và chấp nhận bán lỗ. Đây là sự chuẩn bị cá nhân, cũng như những kiến thức và sự nghiên cứu, giúp phân biệt những người mua cổ phiếu thành công với những người luôn luôn thất bại. Cuối cùng, cả thị trường chứng khoán lẫn bản thân các công ty đều không thể quyết định số phận của một nhà đầu tư. Người duy nhất có thể làm việc đó chính là bản thân nhà đầu tư. 1. TỐ CHẤT CỦA MỘT NHÀ ĐẦU TƯ K hả năng đầu tư cổ phiếu không phải là một tố chất mang tính di truyền. Nhiều người, khi thua lỗ, thường đổ tại do họ không có gen chơi chứng khoán, và cho rằng những người khác được sinh ra là để chơi chứng khoán, nhưng bản thân cuộc đời tôi lại bác bỏ quan niệm này. Không có điều kỳ diệu nào xảy ra vào lúc tôi ra đời, và không có một dấu hiệu nào cho thấy tôi được sinh ra là để chơi chứng khoán giống như việc Pelé sinh ra là để trở thành một huyền thoại bóng đá. Theo như tôi được biết, bố tôi chưa bao giờ quan tâm đến giá cổ phiếu General Motors, hay mẹ tôi cũng chưa từng tìm hiểu về cổ tức ATT. Tôi chỉ có thể kể với một cái nhìn hài hước rằng vào ngày tôi sinh ra, ngày 19 tháng 1 năm 1944 chỉ số bình quân Dow Jones ngành công nghiệp giảm và còn sụt giảm mạnh hơn vào tuần mà tôi phải nhập viện. Mặc dù tôi không thể nghi ngờ điều này, nhưng đây là những dấu hiệu ban đầu của quy luật Lynch. Quy luật Lynch, có liên hệ chặt chẽ với nguyên lý Peter, phát biểu rằng: khi nào Lynch đi lên thì thị trường sẽ đi xuống (bằng chứng gần đây nhất là vào mùa hè năm 1987, khi tôi và bên xuất bản vừa đạt được thỏa thuận xuất bản quyển sách này, một đỉnh cao trong sự nghiệp của tôi, thì thị trường sụt mất 1.000 điểm trong vòng hai tháng. Có lẽ tôi sẽ phải suy nghĩ hai lần trước khi thử bán bản quyền bộ phim này.) Hầu hết họ hàng của tôi có lý do chính đáng để không tin tưởng vào thị trường chứng khoán. Mẹ tôi là con út trong số bảy anh chị em. Điều này có nghĩa là các bác tôi đã ở tuổi trưởng thành trong thời kỳ Đại Suy Thoái (1931 - 1933), và họ đã từng kinh qua cuộc Đại khủng hoảng phố Wall năm 1929. Xung quanh gia đình tôi, không ai đề cập đến chứng khoán. Lần mua bán chứng khoán duy nhất mà tôi được biết là khi ông Gene Grifin của tôi mua cổ phiếu của Cities Service. Ông tôi là một nhà đầu tư rất bảo thủ, và ông chọn cổ phiếu của Cities Service bởi vì ông nghĩ rằng đó là một công ty nước sạch. Nhưng trong một chuyến đi đến New York ông phát hiện ra rằng đó là một công ty dầu, và ông bán những cổ phiếu đó ngay lập tức. Sau đó, cổ phiếu của Cities Service đã tăng giá gấp 50 lần. Trong suốt những năm 1950 cho đến những năm 1960, tâm lý phổ biến của người Mỹ là không tin tưởng vào chứng khoán. Thời gian này thị trường tăng trưởng gấp ba sau đó lại tiếp tục gấp đôi. Thời thơ ấu của tôi, không phải mãi cho đến những năm 1980, đã chứng kiến thị trường lên giá ngoạn mục chưa từng thấy trong lịch sử. Nhưng nếu theo như những lời nghe được từ bác tôi thì chắc hẳn bạn sẽ nghĩ rằng đó chỉ là trò chơi bong bóng trong bể bơi. Mọi người thường cảnh báo nhau rằng: “Đừng bao giờ tham gia vào thị trường đó. Nó quá rủi ro. Bạn sẽ mất sạch cho mà xem”. Lật lại vấn đề, tôi nhận ra rằng vào những năm 50, mức độ rủi ro bị mất toàn bộ số tiền đầu tiên thấp hơn cả so với những thời kỳ trước và sau đó. Điều này đã dạy cho tôi một bài học đáng giá. Không những việc dự đoán thị trường là bài toán hóc búa mà các nhà đầu tư nhỏ thường có xu hướng lạc quan tếu hoặc bi quan không đúng thời điểm. Bởi vậy, vấn đề cốt yếu ở đây là các nhà đầu tư phải chiến thắng bản thân để quyết tâm đầu tư vào những thị trường tốt và không ngần ngại rời bỏ những thị trường đã xuống cấp. Cha tôi là một người đàn ông chăm chỉ cần mẫn, trước đây từng là giáo sư giảng dạy môn toán ở trường đại học. Sau đó ông đã rời bỏ ngành giáo dục để trở thành một kiểm toán viên cấp cao trẻ nhất ở John Han-Cock. Ông lâm bệnh vào năm tôi lên bảy tuổi và qua đời vì u não khi tôi mới mười tuổi. Điều bất hạnh xảy ra với gia đình khiến mẹ tôi phải kiếm một công việc (ở nhà máy sản xuất Lud-low, sau này được Tyco Labs mua lại) để có thu nhập. Tôi tự thấy mình cũng phải có trách nhiệm với gia đình nên đã kiếm một công việc bán thời gian. Năm tôi 11 tuổi, người ta thuê tôi làm chân phụ ở sân gôn. Đó là vào ngày 7 tháng 7 năm 1955, cái ngày mà chỉ số Dow Jones giảm từ 467 xuống còn 460 điểm. Đối với một đứa trẻ 11 tuổi vừa mới tìm hiểu xem thế nào là chơi gôn thì phụ sân gôn là một công việc lý tưởng. Họ trả tiền cho việc tôi chạy quanh sân gôn. Trong một buổi chiều, tôi có thể kiếm được một số tiền tương đương với số tiền những đứa trẻ giao báo nhận được sau bẩy ngày làm việc. Còn điều gì có thể tuyệt vời hơn thế? Ở trường trung học tôi đã bắt đầu nhận ra những lợi thế tiềm tàng và tầm quan trọng tương đối của công việc phụ sân gôn, đặc biệt ở những câu lạc bộ hạng nhất như Brae Burn, ngoại ô Boston. Khách hàng của tôi là những chủ tịch hội đồng quản trị hay tổng giám đốc của những tập đoàn sừng sỏ như: Gillette, Polaroid, và đặc biệt là Fidelity. Trong khi giúp đỡ D.George Sullivan tìm được quả bóng của ông ta, tôi đã tìm được định hướng nghề nghiệp cho chính mình. Tôi không phải là người phụ sân gôn duy nhất đã học được rằng con đường nhanh nhất để tiến thân đến phòng giám đốc là thông qua hành lang của những câu lạc bộ như Brae Burn. Nếu bạn muốn học về chứng khoán, thì sân gôn là địa điểm lý tưởng nhất mà bạn có thể nghĩ đến thay vì lên sàn giao dịch. Đặc biệt là sau khi các gôn thủ vừa thực hiện một cú đánh xoáy hay một cú gạt nhẹ sang trái, thì họ sẽ say mê miêu tả về lần đầu tư thắng đậm gần đây nhất. Trong một lượt chơi, tôi có thể bật mí cho họ năm bí quyết chơi gôn, và đổi lại tôi thu lượm được năm bí quyết chơi chứng khoán. Mặc dù tôi không có nhiều tiền để có thể thực hành những bí quyết chứng khoán học hỏi được, nhưng những câu chuyện có hậu mà tôi nghe được trên đường lăn bóng khiến tôi nghi ngờ định kiến bấy lâu của gia đình tôi rằng thị trường chứng khoán không phải là chỗ có thể kiếm tiền. Trên thực tế, rất nhiều khách hàng của tôi đã ăn nên làm ra nhờ thị trường chứng khoán, và rất nhiều những bằng chứng tích cực khác đã thực sự ngấm dần vào đầu óc của tôi. Một người phụ gôn sẽ nhanh chóng học được cách phân loại những gôn thủ của anh ta, bắt đầu với những bảng phong thần hiếm có (gôn thủ kiệt xuất, con người kiệt xuất, người mách nước kiệt xuất), sau đó dần tụt hạng xuống gôn thủ bậc trung, con người bậc trung và người mách nước bậc trung và cuối cùng là chạm đáy với gôn thủ tồi, con người tồi và người mách nước tồi - những mối liên kết thật tệ hại không thể nào tách rời nhau. Thông thường, tôi sẽ chọn làm phụ gôn cho một gôn thủ bậc trung và người chơi bậc trung. Nhưng đặt tình huống phải lựa chọn giữa một vòng chơi tẻ nhạt với một người mách nước giỏi và một vòng chơi tầm cỡ với một người mách nước tồi, tôi đã học được rằng nên lựa chọn phương án thứ nhất. Làm tốt công việc phụ gôn chắc chắn sẽ giúp bạn kiếm được nhiều tiền. Tôi tiếp tục làm người phụ gôn trong suốt thời gian học ở trường trung học và cao đẳng Boston, nơi tôi đã giành được học bổng Francis Ouimet Caddy giúp tôi trang trải được các khoản chi tiêu. Tại trường cao đẳng, tôi không chọn các môn khoa học, toán hay kế toán - những môn trang bị kiến thức phổ thông cho kinh doanh. Tôi lựa chọn một mảng khác mang nhiều tính nghệ thuật hơn. Bên cạnh lịch sử và tâm lý học, tôi còn chọn học siêu hình học, triết học nhận thức luận, logic, tôn giáo và triết học Hy Lạp cổ đại. Bây giờ khi nhìn lại vấn đề, tôi thấy rõ ràng học lịch sử và triết học là một sự chuẩn bị tốt hơn để bước vào thị trường chứng khoán so với việc học những môn như thống kê toán học. Đầu tư vào chứng khoán mang tính nghệ thuật chứ không mang tính khoa học. Những người được đào tạo ra để cứng nhắc định lượng mọi thứ thường có nhiều hạn chế. Nếu như có thể định lượng được việc đầu tư chứng khoán thì bạn nên mượn thời gian vào việc ngồi lì bên chiếc máy tính Gray gần nhất và trông chờ thu về bạc tỷ. Nhưng mọi chuyện không bao giờ diễn ra như vậy. Tất cả những kiến thức toán học cần để tham gia thị trường chứng khoán (Chrysler có một tỷ đô la tiền mặt, năm trăm triệu đô la là nợ dài hạn v.v…) thì bạn đã được học từ lớp bốn. Môn logic giúp tôi rất nhiều trong việc chọn mua cổ phiếu, bởi nó giúp tôi tư duy để nhận ra tính phi logic đặc trưng của Phố Wall. Thực chất lối suy nghĩ của Phố Wall cũng giống như của người Hy Lạp cổ đại. Thời xưa, những người Hy Lạp đã từng ngồi tranh cãi ngày này qua ngày khác xem một con ngựa có bao nhiêu cái răng. Họ cho rằng họ sẽ tìm ra câu trả lời bằng cách ngồi lỳ ở đó thay vì việc đi kiểm tra chính hàm răng của con ngựa. Ngày nay, rất nhiều nhà đầu tư ngồi lại với nhau để thảo luận xem liệu giá một cổ phiếu có tăng hay không, cứ như thể một vị thần sẽ hiện ra và cho họ câu trả lời, thay vì việc đứng lên và đi kiểm tra tình hình làm ăn của công ty đó. Trong hàng thế kỷ trước, con người nghe thấy tiếng gà gáy vào lúc mặt trời mọc và họ cho rằng tiếng gáy chính là nguyên nhân làm cho mặt trời mọc. Ngày nay điều này nghe có vẻ ngớ ngẩn. Vậy mà vẫn có nhiều chuyên gia phân tích Phố Wall cũng thường lẫn lộn những nguyên nhân và ảnh hưởng trong việc đưa ra những lý giải mới mẻ cho sự tăng trưởng của thị trường: người Nhật đang bất an, đội tuyển Brazil đã giành được cúp vàng, đảng Cộng Hòa sẽ chiến thắng trong chiến dịch bầu cử, v.v… Khi tôi nghe những lý thuyết như vậy, tôi lại liên tưởng đến chuyện con gà trống gáy. Vào năm 1963, năm thứ hai ở trường cao đẳng Boston, tôi mua cổ phiếu đầu tiên cho mình - cổ phiếu của Hãng hàng không Flying Tiger với giá 7 đô la. Nhờ có học bổng và tiền lương từ việc làm phụ gôn, tôi trang trải được học phí, sống cùng gia đình giúp tôi tiết kiệm được một số chi phí khác, và tôi vừa tậu một chiếc xe hơi 150 đô la thay cho chiếc 85 đô la cũ kỹ. Phớt lờ mọi cám dỗ khác, cuối cùng tôi cũng đủ dư dả để đầu tư. Flying Tiger không phải là một sự lựa chọn ngông cuồng. Tôi chọn mua nó dựa trên cơ ở nghiên cứu hàng loạt những thất bại thường thấy. Trong giờ học tình cờ tôi đọc một bài báo bàn về tương lai đầy hứa hẹn của ngành vận tải hàng không, trong đó cũng nói Flying Tiger là một công ty vận tải hàng không. Chính vì vậy tôi mua cổ phiếu này, nhưng đó không phải là lý do làm cho cổ phiếu này tăng giá. Nó tăng giá bởi chúng tôi đã tham gia vào cuộc chiến tranh Việt Nam và Flying Tiger đã ăn nên làm ra nhờ việc chuyên chở binh lính và hàng hóa qua lại Thái Bình Dương. Trong vòng chưa đầy hai năm, cổ phiếu Flying Tiger đạt mức 32,75 đô la, và tôi được lời gấp năm lần. Tôi bán dần nó đi để chi trả học phí cho đến khi tốt nghiệp. Sau đó tôi đến Wharton theo học bổng ưu tiên của Flying Tiger. Nếu cổ phiếu đầu tiên có ý nghĩa đối với tương lai tài chính của bạn như ý nghĩa của tình yêu đầu tiên đối với tâm hồn lãng mạn của bạn, thì việc lựa chọn Flying Tiger quả là một điềm may mắn với tôi. Nó chứng minh cho tôi thấy tồn tại những mức lợi nhuận lớn hơn, và tôi chắc chắn rằng có nhiều nguồn để tiếp cận được chúng. Trong năm học cuối tại trường cao đẳng Boston, tôi nộp hồ sơ xin việc làm thêm hè ở Fidelity theo lời khuyên của ông Sullivan, chủ tịch hội đồng quản trị - một tay gôn kém may mắn nhưng là một người thành công trong sự nghiệp. Fidelity là thành viên của New York Yatch, National Augusta, Carnegie Hall và Kentucky Derby. Fidelity có một đại bản doanh hoành tráng trông giống như một tu viện nguy nga thời trung cổ và mọi tu sĩ đều lấy làm hãnh diện. Được tiếp xúc với những bảng cân đối kế toán ở đây quả là một công việc đáng mơ ước. Có đến một trăm hồ sơ đăng ký cho ba vị trí làm việc hè. Các quỹ đầu tư của Fidelity hoạt động rất thành công, đến nỗi mẹ tôi đã đầu tư 100 đô la một tháng vào quỹ Fidelity Capital. Quỹ này do Gerry Tsai quản lý, là một trong hai quỹ tăng trưởng danh tiếng trong thời đại tăng trưởng này. Quỹ còn lại là Fidelity Trend nằm dưới quyền quản lý của Edward C.Johnson III, còn được biết đến với cái tên Ned. Ned Johnson là con trai của Edward C. Johnson II, hay Mister Johnson, người sáng lập ra công ty. Quỹ Fidelity của Ned Jonson và quỹ Fidelity Capital của Gerry Tsai là hai quỹ cạnh tranh nhau nhưng cùng hoạt động rất hiệu quả với mức lợi nhuận kếch xù, là niềm ao ước của những đối thủ cùng ngành trong thời kỳ từ 1958 đến 1965. Được đào tạo và ủng hộ bởi hai con người kiệt xuất này, tôi cảm tưởng như mình đã thấu hiểu phần nhiều câu nói của Issac Newton: “nếu tôi có thể nhìn xa hơn, cao hơn… chính là nhờ tôi đã đứng trên vai những người khổng lồ”. Từ rất lâu, trước khi Ned đạt được những thành công vang dội thì cha của ông, Mister Johnson đã làm thay đổi quan niệm của người Mỹ đối với việc đầu tư chứng khoán. Mister Johnson cho rằng đầu tư vào chứng khoán không phải để bảo toàn vốn mà là để sinh lời. Rồi từ lợi nhuận kiếm được đầu tư vào nhiều cổ phiếu hơn, để thu được nhiều tiền hơn. Mister Johnson nổi tiếng với câu nói: “Những cổ phiếu mà bạn đầu tư, đó chính là những bà vợ mà bạn gắn bó sắt son”. Ông không hề giành được giải thưởng nào của tạp chí Ms. Tôi rất đỗi vui mừng khi được nhận vào Fidelity và làm việc tại văn phòng trước đây của Tsai, sau khi ông chuyển sang quỹ Manhattan ở New York. Tất nhiên, chỉ số bình quân Dow Jones ngành công nghiệp đang ở mức 925 khi tôi nhận công việc vào tuần đầu tháng 5 năm 1966 đã tụt xuống dưới mức 800 khi tôi tốt nghiệp vào tháng 9, đúng như quy luật Lynch đã dự đoán. Động thái ngẫu nhiên và nhà máy Maine Sugar Những thực tập sinh mùa hè như tôi, không chút kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính doanh nghiệp hay kế toán, được giao nhiệm vụ nghiên cứu công ty và viết báo cáo, như một nhà phân tích thông thường. Tất cả những vấn đề kinh doanh khúc mắc nhất đều được làm sáng tỏ - thậm chí một cử nhân xã hội học cũng có thể phân tích chứng khoán. Công việc của tôi liên quan nhiều đến lĩnh vực giấy tờ và xuất bản. Tôi đi khắp đất nước gặp gỡ các công ty như Sorg Paper và International Textbook. Vì đình công trong ngành hàng không nên tôi đi lại bằng xe buýt. Vào cuối mùa hè thì công ty mà tôi nắm rõ nhất là Greybound. Sau thời gian thực tập hè tại Fidelity, tôi trở lại Wharton để tiếp tục năm thứ hai đại học, chưa bao giờ tôi hoài nghi vào giá trị của những lý thuyết học thuật về thị trường chứng khoán như lúc này. Dường như tất cả những kiến thức tôi học được ở Wharton, được xem là sẽ giúp tôi thành công trong sự nghiệp đầu tư, thì thực tế chỉ đưa tôi đến thất bại. Tôi học thống kê, toán cao cấp, và phân tích lượng. Nếu theo những kiến thức mà môn phân tích lượng dạy tôi thì tất cả những việc tôi chứng kiến ở Fidelity thực sự sẽ không bao giờ xảy ra. Tôi cảm thấy rất khó khăn để có thể tích hợp giả thuyết về thị trường hiệu quả (giả thuyết này cho rằng mọi thứ trong thị trường chứng khoán đều “rõ ràng” và giá cả là “hữu tỷ”) với giả thuyết về động thái ngẫu nhiên (cho rằng xu hướng lên xuống của thị trường là vô tỷ và hoàn toàn không thể dự đoán được). Tôi đã quan sát đủ những biến động bất thường để nghi ngờ về tính hữu tỷ, và thành công của những nhà quản lý quỹ Fidelity là rất khó có thể dự đoán. Một điều rõ ràng là những giáo sư ở Wharton, những người tin vào phân tích lượng và động thái ngẫu nhiên, thậm chí không giỏi bằng những đồng nghiệp mới của tôi tại Fidelity. Do đó giữa lý thuyết và thực tiễn, tôi ủng hộ những người làm việc thực tế. Làm sao mà bạn có thể tán thành lý thuyết học thuật phổ biến cho rằng thị trường là vô tỷ khi mà bạn biết một ai đó vừa mới thu lời gần 20 lần từ cổ phiếu Gà rán Kentucky (Kentucky Fried Chicken - KFC), hoặc thậm chí ai đưa ra những lý giải ban đầu cho việc một cổ phiếu đang tăng giá. Mối nghi ngại của tôi đối với những nhà lập thuyết và những chuyên gia dự đoán vẫn còn tiếp tục cho đến ngày hôm nay. Một số môn học ở Wharton cũng có ích, nhưng thậm chí nếu tất cả các môn đều vô nghĩa thì vẫn còn một thứ đáng giá, đó chính là những trải nghiệm. Bởi vì tại khuôn viên này, tôi đã gặp Carolyn (Chúng tôi cưới nhau khi tôi đang ở trong quân đội, vào ngày 11 tháng 5 năm 1968, một ngày chủ nhật khi thị trường đóng cửa. Và trong khi chúng tôi tận hưởng tuần trăng mật ngọt ngào thì chỉ số Dow Jones sụt 13,93 điểm - lúc đó tôi không hề chú ý đến điều này, mà là sau này khi tôi lục lại trí nhớ của mình.) Sau khi kết thúc năm học thứ hai tại Wharton, tôi ghi danh vào quân ngũ để phục vụ hai năm theo yêu cầu của chương trình ROCT. Từ năm 1967 đến 1969, tôi là trung úy pháo binh ban đầu ở Texas sau đó là Hàn Quốc, một thay thế đáng cân nhắc. Bởi hầu hết trung úy pháo binh đều bị trọng thương trong chiến tranh Việt Nam. Hạn chế duy nhất của Hàn Quốc là nước này còn quá lạ lẫm đối với giao dịch chứng khoán và theo như tôi được biết, ở Seoul không tồn tại thị trường chứng khoán. Vào thời gian này tôi không được tiếp cận với Phố Wall. Trong những dịp về phép không thường xuyên, tôi tranh thủ mua những cổ phiếu đang sốt theo lời khuyên của bạn bè và đồng nghiệp để bù đắp lại khoảng thời gian đã mất. Trong khi họ đang mua những chứng chỉ nóng có xu hướng đi lên, thì họ lại gợi ý tôi mua những chứng chỉ ổn định hơn và đang có xu hướng đi xuống. Trên thực tế, tôi thu được chút đỉnh với Ranger Oil, nhưng lại mất nhiều hơn cho Maine Sugar. Những người ở Maine Sugar đi gặp tất cả những nông dân trồng khoai tây ở Maine để thuyết phục họ trồng củ cải đường trái vụ. Điều này hứa hẹn mang lại vô số lợi nhuận cho Maine Sugar, chưa kể đến những nông dân ở Maine. Người nông dân cùng một lúc sẽ kiếm thêm thu nhập và tái tạo đất nhờ việc trồng xen canh củ cải đường và khoai tây. Hơn nữa, Maine Sugar sẽ thanh toán mọi chi phí cho việc trồng củ cải đường. Tất cả những việc mà người nông dân phải làm là vận chuyển chúng đến nhà máy tinh chế rộng lớn mà Maine Sugar vừa mới xây dựng. Điều không ngờ là đây là những người nông dân Maine và họ rất thận trọng. Thay vì trồng hàng trăm hecta củ cải đường thì trong năm đầu họ chỉ trồng thử nghiệm 1/4 hecta. Khi thấy có hiệu quả, họ mở rộng ra nửa hecta, và dần dần họ trồng hết cả hecta. Nhà máy tinh chế phải đóng cửa vì thiếu đầu vào và Maine Sugar phá sản. Cổ phiếu sụt xuống mức 6 xu, do đó với một cổ tức bạn chỉ mua được 6 quả bóng cao su từ máy bán hàng của Lion Club. Sau thất bại thảm hại với Maine Sugar tôi thề không bao giờ mua một cổ phiếu nào khác có dính dáng tới những những người nông dân ở Maine. Vào năm 1969, tôi trở về từ Hàn Quốc, tiếp tục tham gia Fidelity với tư cách là nhân viên dài hạn và chuyên gia phân tích nghiên cứu, thị trường chứng khoán ngay lập tức rớt giá mạnh (theo ghi nhận của Quy luật Lynch). Vào tháng 7 năm 1974, tôi được bổ nhiệm từ trợ lý giám đốc nghiên cứu lên chức giám đốc nghiên cứu, và chỉ số Dow Jones giảm 250 điểm trong vòng 3 tháng tiếp theo. Vào tháng 5 năm 1977 tôi tiếp quản quỹ Fidelity Magellan. Thị trường chững lại ở mức 899 và ngay sau đó bắt đầu thời kỳ đóng băng kéo dài 5 tháng ở mức 801. Tổng giá trị tài sản của Fidelity Magellan lên tới 20 triệu đô la. Trong danh mục đầu chỉ có 40 cổ phiếu. Ned Johnson, người đứng đầu quỹ khuyến cáo tôi nên giảm con số đó xuống 25. Tôi lịch sự lắng nghe và sau đó lẳng lặng nâng con số lên 60 cổ phiếu, sáu tháng sau lên 100 cổ phiếu và không lâu sau là 150 cổ phiếu. Tôi có lý do để hành động như vậy bởi khi tôi nhìn thấy một món hời thì tôi không thể bỏ qua mà không mua nó. Và vào những ngày đó thì những món hời nhan nhản khắp nơi. Nedson luôn quan sát tôi từ xa và ủng hộ tôi. Phương pháp của chúng tôi khác nhau nhưng điều này không làm ông ấy phản đối tôi, ít nhất là cho đến khi công việc của tôi vẫn đem lại những kết quả tốt. Danh mục đầu tư của tôi tiếp tục tăng lên, tới mức đã có lúc một mình tôi từng sở hữu tới 150 cổ phiếu S&L. Thay vì việc bằng lòng với một vài cổ phiếu, tôi đã mua thêm thông qua ban giám đốc (tất nhiên sau khi nhận định rằng tất cả chúng đều là những khoản đầu tư đầy đứa hẹn). Đầu tư vào một cửa hàng tiện lợi là không đủ. Cùng với Southland, công ty mẹ có trụ sở ở 7-Elevens, tôi không thể không mua Circle K, National Convenience, Shop and Go, Hop-In Food, Fairmont Foods, và Sunshine Junior, đây chỉ là một vài tên tuổi được nêu ra. Mua hàng trăm cổ phiếu tất nhiên không phải là triết lý của Ned Johnson trong việc quản lý một quỹ đầu tư chứng khoán, nhưng tôi vẫn được chấp nhận. Ngay sau đó, tôi được biết đến giống như ông trùm cổ phiếu Will Rogger, người đàn ông không bao giờ biết chán bất cứ cổ phiếu nào. Họ luôn có những câu chuyện cười về điều này trên Barron’s - bạn có thể kể tên một cổ phiếu mà Lynch không sở hữu. Bởi vì hiện tại tôi sở hữu 1.400 cổ phiếu nên tôi cho rằng họ có cơ sở để nói vậy. Tất nhiên tôi có thể kể tên một vài cổ phiếu mà tôi không sở hữu. Hiện tại tài sản của Fidelity Magellan đã tăng lên đến 9 tỷ đô la, bằng một nửa tổng thu nhập quốc dân của Hy Lạp. Mặc dù 2500 năm trước Hy Lạp từng phát triển rực rỡ, nhưng nếu nói về thành quả thu được từ đầu tư thì Fidelity Magellan đã làm tốt hơn Hy Lạp rất nhiều trong vòng 11 năm. Về phía Will Roger, có lẽ ông đã đưa ra những lời khuyên quý báu chưa từng thấy về đầu tư chứng khoán: “Đừng mạo hiểm; hãy dùng tiền tiết kiệm của bạn để mua một cổ phiếu tốt và giữ nó cho đến khi nó tăng giá, sau đó bán nó đi. Nếu nó không tăng giá, đừng mua nó”. 2. NHỮNG NGHỊCH LÝ PHỐ WALL N ếu trong ngôn ngữ học tồn tại “phép nghịch hợp” - ví dụ như trong các từ “trí tuệ quân đội”,“vị giáo sư uyên bác”, “sự im lặng chói tai”, hay “tôm khổng lồ” - thì trong lĩnh vực chứng khoán cũng tồn tại một nghịch lý - đó chính là đầu tư chuyên nghiệp. Do đó, những người chơi chứng khoán nghiệp dư cần có cái nhìn thật sự nghiêm túc và thận trọng đối với lĩnh vực công việc này. Chí ít, anh ta cũng phải nhận thức được những người mà anh ta sẽ phải tiếp xúc. Hiện nay, khoảng 70% thị phần nằm trong tay những công ty lớn. Những công ty này giành quyền kiểm soát và chi phối thị trường. Điều đó cũng đồng nghĩa những người chơi chứng khoán nghiệp dư sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn hơn khi mua hay bán cổ phiếu. Tuy nhiên nếu tính đến cả vô số những rào cản về văn hóa, pháp luật và xã hội đối với những nhà đầu tư chuyên nghiệp, thì tất cả những gì mà chúng ta đã làm được đến hôm nay quả thật đã là một kỳ tích. Tất nhiên không phải mọi chuyên gia đều là những thiên tài. Có những nhà đầu tư vĩ đại, xuất chúng và độc đáo chỉ làm việc theo ý thích của mình. Một trong những người xuất sắc nhất không thể không kể đến John Tepleton - một người tiên phong của thị trường toàn cầu, cũng là một trong những người đầu tiên có thể kiếm tiền khắp thế giới. Những cổ đông của ông đã tránh được ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng sụt giá ở Mỹ những năm 1972 - 1974, do ông đã khôn khéo chuyển phần lớn tài sản của mình vào các cổ phiếu ở Canada và Nhật Bản trước đó. Không những thế, ông còn khai thác được thực tế rằng chỉ số Dow Jones ở Nhật (hay còn gọi là chỉ số bình quân Nikkei) tăng gấp 17 lần trong khoảng thời gian 2 năm từ 1966 đến 1968, trong khi ở Mỹ chỉ số này chỉ tăng gấp đôi. Max Heine (giờ đây đã qua đời) của quỹ Mutual Shares cũng là một ví dụ điển hình về một người độc lập và mưu trí trong suy nghĩ. Hậu duệ của ông, Micheal Price, đã thay ông tiếp quản mọi công việc sau khi ông qua đời. Price đã học tập được nhiều điều từ Heine, ví như việc tiếp tục mua các công ty giàu có với mức giá “50 xu cho mỗi đô la” và chờ thời cơ để thị trường thanh toán nốt phần còn lại. Và Price đã làm việc thật sự xuất sắc. Ngoài ra không thể không kể đến những ông vua đầu tư cổ phiếu đóng băng, như John Neff hay Ken Heebner. Họ tin tưởng vào quyết định của mình và kiên trì chờ thời cơ đến. Và kết quả là họ đã đạt được những thành công đáng nể. Peter deRoeth cũng là một nhân vật khá thành công trong lĩnh vực đầu tư các cổ phiếu ngắn hạn. Ông tốt nghiệp Ngành luật của Đại học Havard và mang trong mình một niềm đam mê vô hạn đối với cổ phiếu. Cũng chính ông đã tặng cho tôi Toys “R” Us. Bí quyết thành công của ông chính là ông chẳng học trường kinh doanh nào cả. Hãy thử đặt mình vào vị trí của ông - phải từ bỏ tất cả những kiến thức tiếp nhận trong trường đại học. George Soros và Jimmy Rogers đã kiếm được hàng triệu đô la bằng những cách thức riêng như đầu tư vào các tài sản ngắn hạn hay trái phiếu Úc. Và Warren Buffet, nhà đầu tư vĩ đại nhất mọi thời đại, cũng có điểm chung với các nhà đầu tư khác trong cách thức tìm kiếm thời cơ, có điều ông đã bạo dạn hơn khi quyết định mua trọn một công ty. Tuy nhiên, họ chỉ là những ngoại lệ ít ỏi giữa một biển những nhà đầu tư ngốc nghếch, mù quáng hay rụt rè, thiếu quyết đoán; những kẻ bợ đỡ, hủ lậu, hay những người bắt chước máy móc - bị trói buộc bởi hàng mớ quy tắc rườm rà. Để thành công, chúng ta cần phải hiểu biết sâu sắc trí tuệ của những nhân vật xuất chúng trong lĩnh vực của mình. Thành thật mà nói thì mọi người đều đồng nhất về cơ hội tiếp xúc với những kiến thức phong phú từ môi trường. Ví dụ như: Chúng ta được đọc những sách báo giống nhau, và cùng được nghe phát ngôn của các nhà kinh tế học. Nếu có ai đó nằm ngoài quỹ đạo này thì chắc hẳn đó cũng chỉ là những ngoại lệ hiếm hoi. Để có thể thành công trong bất kỳ lĩnh vực gì, nhất thiết không thể thiếu kiến thức. Một học sinh cấp ba bỏ học giữa chừng chẳng dễ gì thành lập hay điều hành một quỹ cổ phiếu. Ngay cả những vận động viên lướt ván hay những người lái xe tải cũng cần hiểu biết về lĩnh vực của mình. Rất hiếm người trẻ tuổi thành công trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán này. Có lần vợ tôi đã tiến hành một số nghiên cứu về lý thuyết cho rằng hầu hết mọi phát kiến hay ý tưởng vĩ đại đều xuất hiện ở con người trước độ tuổi 30. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm của chính mình, tôi thấy đầu tư không phải là lĩnh vực dành cho những người trẻ tuổi. Bản thân tôi hiện nay đã 45 tuổi và tôi đang điều hành Fidelity Magellan. Tôi cho rằng những nhà đầu tư tuổi trung niên với nhiều trải nghiệm ở những thị trường khác nhau có những lợi thế vượt trội so với những người trẻ tuổi còn quá non nớt hay thiếu nhiều kinh nghiệm. Nói tóm lại, với số lượng khổng lồ các nhà đầu tư trung niên, có thể khẳng định rằng cơ hội thành công cho những người trẻ tuổi là quá nhỏ nhoi và mơ hồ. Sự dè dặt của Phố Wall (Street lag) Với bất cứ một cổ phiếu hứa hẹn nào, tôi dám cá là có tới chín trên mười chuyên gia sẽ đầu tư vào nó, nếu họ được quyền chọn lựa. Tuy nhiên, trên thực tế, có nhiều lý do khác buộc họ phải cân nhắc quyết định của mình. Nói cách khác, có quá nhiều trở ngại ngăn cách họ với “chiếc túi mười gang”. Tôi sẽ làm rõ quan điểm của mình bằng những phân tích dưới đây. Trong những điều kiện hiện nay, một cổ phiếu chỉ thực sự trở nên hấp dẫn khi một số lượng đáng kể các công ty lớn mạnh nhận thấy tính hợp thời của nó. Đồng thời, phải có một số lượng tương đương các nhà phân tích hàng đầu của phố Wall (những nhà nghiên cứu theo dõi hoạt động của các công ty và các ngành khác nhau) xếp nó vào danh sách ưu tiên. Do có quá nhiều người chờ đợi đối thủ của mình đưa ra động thái đầu tiên, nên điều dễ hiểu là khó có cổ phiếu nào sẽ được mua. Một ví dụ điển hình của “Street lag” là công ty The Limited. Khi công ty này tiến hành cổ phần hóa vào năm 1969, thì vẫn chưa có công ty lớn hay nhà phân tích hàng đầu nào biết đến tên tuổi của nó. Sau đó, công ty này nhận được lời đền nghị từ Verco & Co., một công ty nhỏ ở Columbus Ohio, cũng là nơi đặt trụ sở chính của The Limited. Giám đốc bán hàng của Verco vào thời điểm đó là Peter Halliday, chính là bạn học phổ thông của Leslie Wexner - chủ tịch hội đồng quản trị của Limited. Halliday cho rằng sự thiếu chú ý của phố Wall đối với Columbus, Ohio vào thời điểm đó đơn giản do đây chưa phải là một địa điểm đủ hấp dẫn như thánh địa Mecca của Đạo Hồi. Susie Holmes của White Weld - một nhà phân tích độc lập đã quan sát The Limited từ năm 1972. Hai năm sau đó, Maggie Gilliam của First Boston đã thực sự chú ý đến công ty này. Nhưng có lẽ nếu không nhờ tình cờ vấp ngã trước một cửa hàng của The Limited ở phố mua bán Chicago’s Woodfield trong một chuyến bay bị hoãn vì tuyết, thì chưa chắc Maggie Gilliam đã biết đến The Limited. Và với niềm tin vào phán đoán của mình, bà đã dành hết sự quan tâm cho The Limited, với hi vọng công ty này sẽ đem đến cho bà những món lợi kếch xù trong tương lai. Công ty đầu tiên mua cổ phiếu của The Limited là T. Rowe Price New Horizons Fund. Sự kiện này xảy ra vào mùa hè năm 1975. Vào thời điểm đó, chỉ có 100 cửa hàng của The Limited hoạt động kinh doanh trong cả nước. Trong suốt giai đoạn này, hàng ngàn nhân viên khảo giá nhạy bén đã có thể công bố những tin tức đã thu lượm được của mình. Tuy nhiên, cho đến năm 1979, chỉ có hai công ty sở hữu cổ phiếu của The Limited, chiếm 0,6% cổ phiếu ngoài doanh nghiệp. Các nhân viên và các nhà lãnh đạo sở hữu phần lớn cổ phiếu. Đây thông thường là một dấu hiệu tốt, và chúng ta sẽ thảo luận vấn đề này kỹ hơn ở phần sau. Vào năm 1981, có đến 400 cửa hàng của The Limited làm ăn phát đạt, trong khi chỉ có 6 nhà phân tích kiên trì theo dõi cổ phiếu của công ty. Đó là bảy năm sau ngày bà Gilliam khám phá ra The Limited. Đến năm 1983, khi mà cổ phiếu đạt mức giá kỷ lục 9 đô la sau nhiều biến động thăng trầm, thì số lượng các nhà đầu tư dài hạn đã tăng gấp 17 lần tính từ năm 1979 - thời điểm mà mức giá cổ phiếu trung bình chỉ có 50 xu. Tôi cũng biết rằng vào năm 1984, giá cổ phiếu của công ty đã giảm gần một nửa, song nhờ duy trì hoạt động hiệu quả, nên công ty vẫn hứa hẹn nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư mua vào. (Tôi sẽ giải thích điều này kỹ hơn ở những chương sau, đó là, khi giá cổ phiếu tạm thời giảm nhưng những yếu tố cơ bản khác có xu hướng tăng, thì quyết định khôn ngoan là tiếp tục đầu tư và tốt hơn nữa là gia tăng lượng cổ phiếu mua vào). Đến tận năm 1985, khi giá cổ phiếu tăng trở lại lên 15 đô la, thì các nhà phân tích mới chính thức quan tâm và tham gia vào hoạt động đầu tư nhiều tiềm năng này. Thực tế, họ phải cạnh tranh nhau để có thể mua cổ phiếu của The Limited, và sự cạnh tranh trong sức mua của các công ty đẩy giá cổ phiếu lên mức 52 đô la - còn xa hơn nhiều so với khả năng gia tăng của các nhân tố cơ bản. Đến thời điểm đó, có hơn 30 nhà phân tích tham gia vào cuộc chạy đua này (trong cuốn sách này sẽ đề cập đến 37 người), và nhiều người trong số họ đã đến kịp lúc để thấy được lợi nhuận mà The Limited đem lại. Service Coporate International (SCI) là một công ty gia đình hoạt động trong lĩnh vực tổ chức tang lễ mà tôi khá ưa thích. Công ty này chính thức cổ phần hóa vào năm 1969. Trong vòng 10 năm tiếp đó vẫn không có một nhà phân tích nào mảy may quan tâm đến công ty. SCI đã nỗ lực hết mình để thu hút sự quan tâm của phố Wall, và cuối cùng thì những nỗ lực ấy cũng được đền đáp khi một công ty đầu tư nhỏ có tên gọi Underwood Neuhaus bắt đầu chú ý đến công ty này. Đến năm 1982, lần đầu tiên, SCI thu hút được sự quan tâm của một công ty chứng khoán lớn, đó chính là Shearson. Lúc đó giá mỗi cổ phiếu tăng gấp năm lần. Thành thật mà nói, bạn có thể thu được lợi nhuận gấp hơn hai lần nếu đầu tư mua cổ phiếu SCI vào năm 1983 với mức giá 12 đô la và bán ra với mức giá 30 đô la vào năm 1987. Tuy nhiên, điều đó cũng chẳng nhằm nhò gì so với chiếc “túi bốn mươi gang” nếu bạn quay lại thời điểm năm 1978 để đầu tư. Tuy nhiên, chỉ có hàng nghìn người đã từng tham dự các đám tang là biết đến tên tuổi của SCI và ngay từ đầu họ đều có cái nhìn tốt về SCI. Tuy nhiên có vẻ như những nghịch lý phố Wall đã bỏ qua SCI, đơn giản bởi vì dịch vụ tang lễ không thuộc danh mục của bất kỳ ngành kinh doanh tiêu chuẩn nào. Nó không hẳn là một ngành kinh doanh bình thường, cũng không phải cung cấp thứ dịch vụ có giá trị sử dụng lâu dài với khách hàng. Trong suốt thập niên 70, khi Subaru tiến hành những bước đi quyết định của mình, thì mới chỉ có ba hay bốn nhà phân tích lớn dõi theo hoạt động của công ty. Trong khoảng thời gian từ 1977 đến 1986, Dunkin’ Donuts đã trở thành một chiếc “túi hai mươi lăm gang”, nhưng cũng chỉ có hai hãng lớn kiên trì với công ty này, tính đến tận ngày nay. Và nếu xét khoảng thời gian năm năm trước đó thì thậm chí còn không có bất kỳ hãng nào quan tâm đến nó. Chỉ có một số ít các nhà đầu tư chứng khoán địa phương như Adams, Harkness, và Hill ở Boston, là những người đã thành công trong lĩnh vực đầu tư này. Nhưng qua những phân tích trên đây, hi vọng bạn đọc đã có thể tự đưa ra những nhận định của riêng mình. Pep Boys, một cổ phiếu mà tôi sẽ tiếp tục đề cập đến ở phần sau, đã bán ra với mức giá dưới một đô la vào năm 1981, và đã tăng lên mức giá 9 đô la vào năm 1985, trước khi thu hút được sự chú ý của ba nhà phân tích lớn. Stop & Shop tăng gấp mười lần từ 5 đô la lên 50 đô la, cùng lúc số lượng các nhà phân tích tăng từ một lên bốn. Tôi có thể đưa ra vô vàn ví dụ khác nữa, song tôi tin là mọi độc giả cũng như tôi đều đã hiểu cốt lõi vấn đề. Hãy thử so sánh những con số trên với số lượng 60 nhà phân tích chứng khoán của IBM hay 44 nhà phân tích của Exxon để thấy sự đối lập. Điều tra bốn bên Ai đó có thể tượng tượng một chuyên gia chứng khoán phố Wall bình thường tìm kiếm lý do để mua những cổ phiếu khó dự đoán lại không phải dành nhiều thời gian ở phố Wall. Nếu vậy thì nhà quản lý vốn đang tìm lý do để không mua những cổ phiếu khó dự đoán ấy, để anh ta có thể đưa ra lời biện giải thuyết phục nếu như giá cổ phiếu đột ngột tăng cao. Nào là,“giá trị của nó quá nhỏ, không đáng để tôi đầu tư”, nào là “công ty đó chẳng có thành tích gì xuất sắc trong quá khứ”, nào là “ngành công nghiệp đó không tăng trưởng”,“ban giám đốc còn thiếu kinh nghiệm”,“công nhân thuộc sự chỉ đạo của công đoàn”. Ngoài ra còn có “đối thủ của họ sẽ tiêu diệt họ”, ví dụ như “Stop & Shop sẽ không thể hoạt động, 7 - Elevens sẽ tiêu diệt họ” hay “Pic ‘N’ Save sẽ thất bại, Sears sẽ đánh bại họ”, hoặc là “Agency Rent - A - Car không có cơ hội nào trong cuộc cạnh tranh với Hertz and Avis”. Đây có vẻ là những mối lo ngại hợp lý và đáng được quan tâm nghiên cứu, nhưng thông thuờng, mục đích của chúng chỉ là củng cố những lập luận tức thời và hàng mớ quy tắc cấm kỵ rườm rà của họ mà thôi. Với quan điểm sống sót trong tình huống hiểm nghèo, thì hiếm có chuyên gia nào lại dấn thân đầu tư vào một công ty không tên tuổi như La Quinta. Trên thực tế, nếu phải lựa chọn giữa lợi nhuận lớn khác thường khi đầu tư vào một công ty mới với việc mất đi một khoản tiền nhỏ khi đầu tư vào một công ty tên tuổi, thì một nhà quản lý vốn đóng góp, quản lý quỹ tiền lương hay quản lý vốn đầu tư chứng khoán thông thường sẽ đều lựa chọn cách thứ hai. Thành công là điều quan trọng, nhưng quan trọng hơn là bạn không trở nên quá thê thảm nếu không may thất bại. Có một quy luật bất thành văn ở phố Wall, đó là: “Bạn sẽ không bao giờ mất việc dù bạn làm mất tiền của khách hàng, nếu bạn là nhân viên của IBM”. Nếu IBM thua lỗ và bạn mua cổ phiếu của họ, thì khách hàng và ông chủ của bạn sẽ hỏi: “Dạo này IBM làm cái quái gì thế nhỉ?” Nhưng nếu La Quinta sa sút, họ sẽ hỏi: “Anh làm cái quái gì vậy?” Đó là lý do tại sao những nhà quản lý vốn đầu tư chứng khoán đề cao nguyên tắc an toàn lại không mua cổ phiếu của La Quinta Motor Inns trong khi hai nhà phân tích khác đã đầu tư vào cổ phiếu này và mua với giá 3 đô la một cổ phiếu. Họ cũng không mua cổ phiếu Wal-Mart với giá chỉ 4 đô la, bởi lúc đó nó chỉ là một cửa hàng nhỏ trong một thị trấn nhỏ ở Arkansas, nhưng cửa hàng này sẽ sớm phát triển. Họ chỉ mua cổ phiếu Wal-Mart khi công ty này đã phát triển với một hệ thống bán lẻ trải khắp các trung tâm dân số lớn của Mỹ. Sau đó đã có 50 nhà phân tích theo đuổi công ty này. Và chủ tịch hội đồng quản trị của Wal-Mart được tạp chí People gán cho danh hiệu nhà tỷ phú lập dị lái chiếc xe tải không mui đến công sở. Thời điểm đó, giá cổ phiếu của Wal-Mart là 40 đô la. Những hoạt động ăn theo tệ hại nhất diễn ra ở các phòng quản lý quỹ tiền lương của các ngân hàng và các công ty bảo hiểm, khi mà cổ phiếu chỉ được mua và bán trong những người đã được lên danh sách từ trước. Chín trong mười giám đốc quản lý quỹ lương thuộc danh sách này. Đây thực chất là một hình thức tự bảo hộ gián tiếp nhằm ngăn chặn nguy cơ của “sự đa dạng trong hình thức biểu hiện”. “Sự đa dạng trong hình thức biểu hiện” có thể đem lại nhiều phiền toái, và dưới đây sẽ là một vài ví dụ minh họa cho ý kiến này. Hai vị chủ tịch Smith và Jones đều gửi tiền lương của mình trong tài khoản ở ngân hàng quốc gia River City, và họ đang cùng nhau chơi gôn như thường lệ. Trong khi chờ đợi để đánh bóng, họ đã nói chuyện với nhau về rất nhiều vấn đề, trong đó có tiền lương. Và họ sớm nhận ra một điều là trong khi tài khoản của Smith tăng 40% mỗi năm thì tài khoản của Jones chỉ tăng thêm 28%. Cả hai người đều có thể hài lòng về điều đó, song Jones thì cảm thấy vô cùng tức giận. Sáng sớm ngày thứ hai, Jones gọi điện cho một nhân viên ngân hàng đề nghị giải thích lý do tại sao tài khoản của mình lại hưởng mức lãi suất thấp hơn hẳn tài khoản của Smith. Cuối cùng thì cả hai tài khoản đều được quản lý bởi cùng một phòng lương và hưởng lãi tương đương. Jones còn đe dọa rằng, “nếu sự việc này còn tái diễn, cả hai chúng tôi sẽ rút hết tiền khỏi ngân hàng”. Thực chất, phòng lương có thể tránh được vấn đề phiền toái này sớm, nếu hai nhà quản lý tài sản khác nhau này mua cổ phiếu cùng thời điểm. Như vậy, có thể cả Smith và Jones đều sẽ hài lòng vì kết quả như nhau, hay ít nhất là sự chênh lệch cũng không quá lớn để khiến bất cứ ai trong số họ phải tức giận. Thà ấn định trước một mức lãi suất thấp, nhưng ở mức độ có thể chấp nhận được, còn dễ chịu hơn phải chấp nhận sự chênh lệch kết quả quá lớn. Mọi thứ sẽ trở nên dễ dàng nếu ấn định trước một danh sách. Nếu danh sách đã ấn định này được quyết định từ 30 lựa chọn khéo léo, mỗi lựa chọn đều dựa vào suy nghĩ của những nhà phân tích hay nhà quản lý tài chính khác nhau, thì có lẽ bạn sẽ có một bản danh sách cực kỳ linh hoạt. Tuy nhiên thực tế lại không như vậy. Mỗi cái tên xuất hiện trong danh sách đều phải có sự chấp thuận của 30 nhà quản lý. Cũng giống như một quyển sách hay hay một bản giao hưởng tuyệt vời chẳng bao giờ do một hội đồng sáng tác, thì một bản danh sách hoàn hảo không thể nào lại là kết quả lựa chọn của một cá nhân. Ở Ở đây tôi muốn hồi tưởng lại câu chuyện ngắn Vonnegut, ở đó những người tài giỏi thường cố tình giấu giếm tài năng của mình (như người vũ công giỏi đi đôi giầy nặng, người họa sĩ giỏi tự trói tay mình, v.v…) để những người kém hơn khỏi thấy phiền lòng. Tôi cũng nhớ lại mảnh giấy nhỏ kẹt trong chiếc áo sơ mi mới với dòng chữ “kiểm tra bốn bên”. Phương pháp kiểm tra bốn bên cũng chính là nguyên tắc lựa chọn các cổ phiếu trong danh sách. Những nhà ra quyết định tương lai không biết họ đang chứng tỏ điều gì. Họ không đến thăm các công ty hay nghiên cứu những sản phẩm mới, họ chỉ làm theo những gì họ cho là đúng. Tôi luôn nghĩ đến điều này mỗi lần mua áo sơ mi. Không có gì phải băn khoăn khi những nhà quản lý vốn đầu tư chứng khoán hay quản lý tài chính đều có xu hướng cân nhắc kỹ lưỡng mỗi lựa chọn chứng khoán của mình. Nguyên tắc an toàn không chỉ quan trọng trong quản lý vốn đầu tư chứng khoán, mà cả trong tập luyện khiêu vũ hay huấn luyện bóng đá, đây cũng là nhân tố không thể thiếu được. Các huấn luyện viên ít nhất còn có thể nghỉ ngơi sau mỗi mùa thi đấu. Còn các nhà quản lý vốn thì thậm chí chẳng có thời gian nghỉ ngơi bởi trò chơi mà anh ta tham dự diễn ra quanh năm suốt tháng. Kết quả thắng bại được các khách hàng và cấp trên theo dõi và đánh giá ba tháng một lần. Và những người này thì luôn luôn đòi hỏi phải có kết quả tức thì. May mắn hơn những nhà quản lý vốn đầu tư chứng khoán phải quyết định vì các chuyên gia cùng hội cùng thuyền của họ, tôi làm việc cho công chúng nói chung nên có phần thoải mái hơn. Những cổ đông ở Fidelity Magellan có xu hướng trở thành các nhà đầu tư nhỏ, luôn luôn sẵn sàng bán ra bất cứ lúc nào, nhưng họ không hề xem xét chi tiết kỹ lưỡng danh mục đầu tư chứng khoán của tôi để có thể dự đoán tốt hơn những lựa chọn của tôi. Tuy nhiên, điều gì phải đến sẽ đến. Và ngài Boon Doggle vẫn đặt niềm tin vào ngân hàng Blind Trust, nơi uỷ thác tài khoản lương cho tập đoàn White Bread, Inc. Boon Doggle hiểu rõ về các chứng khoán của mình. Ông đã giữ chức giám đốc quản lý vốn chứng khoán cho Blind Trust 7 năm trước đó, và đã đưa ra nhiều quyết định khôn ngoan. Tất cả những gì ông muốn là được một mình làm việc. Nhưng mặt khác, Sam Flint, phó chủ tịch White Bread cũng tin rằng ông hiểu rõ các chứng khoán của mình hơn ai hết. Và cứ ba tháng một lần ông lại thay mặt White Bread kiểm tra kỹ càng những lựa chọn của Boon Doggle. Trong các cuộc kiểm tra định kỳ ba tháng căng thẳng này, Flint yêu cầu Doggle lên gặp mình hai lần một ngày để cập nhật thông tin mới. Doggle cảm thấy phát ốm với Flint và ông đã ước giá như không bao giờ phải nghe đến tên của Flint hay White Bread. Ông tốn quá nhiều thời gian để giải thích cho Flint lý do ông lựa chọn mua những chứng khoán có lợi, và vì thế ông chẳng còn thời gian để làm công việc của chính mình. Nhìn chung, các nhà quản lý vốn phải tốn đến một phần tư thời gian làm việc của họ để lý giải những quyết định của mình, trước tiên là những quản trị viên cấp trung trực tiếp điều hành phòng ban của họ, tiếp đó là những quản trị viên cấp tối cao, những khách hàng, cũng giống như trường hợp Flint ở White Bread. Có một quy luật bất thành văn là nếu khách hàng càng có tầm quan trọng lớn thì nhà quản lý vốn càng phải tốn kém nhiều thời gian và công sức để làm vừa lòng họ. Tuy vẫn có một số ngoại lệ đáng chú ý, như trường hợp của Ford Motor, Eastman Kodak, và Eaton, song nhìn chung quy luật này tương đối đúng với số đông. Hãy thử tượng tượng nếu Flint bảo thủ và kiêu ngạo, trong khi kiểm tra những kết quả mà Doggle đã làm được gần đây, lại phát hiện thấy tên của Xerox trong danh mục vốn. Giá cổ phiếu hiện tại của Xerox là 52 đô la một cổ phiếu. Flint lại tiếp tục nhìn vào cột giá cả, và nhận thấy cổ phiếu của Xerox đã được mua với mức giá 32 đô la. Chắc hẳn ông ta sẽ reo lên đầy phấn khích “Thật tuyệt vời, có lẽ chính tôi cũng không thể làm tốt hơn Doggle!” Cổ phiếu tiếp theo mà Flint nhìn thấy là của Sears. Giá hiện tại của cổ phiếu này là 347/8 đô la và giá mua vào là 25 đô la. Ông ta hẳn sẽ khen ngợi Doggle “Anh thật là xuất sắc”. Tuy nhiên, Doggle đã không may mắn như vậy vì chưa ngày nào ông mua được những cổ phiếu như thế, nên Flint cũng không thể nhận ra rằng Xerox và Sears đã nằm trong bản danh mục từ năm 1967, khi chiếc quần ống loe đang là mốt thịnh hành. Căn cứ vào thời gian Xerox nằm trong bản danh mục, thì lãi cổ phần mà nó tạo ra sẽ lớn vô cùng, nếu trên thực tế, nó được mua bán trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, Flint đã không thấy được điều đó. Sau đó, Flint chuyển đến làm việc cho Seven Oaks International, và có lẽ đây là một trong những công ty mà tôi ngưỡng mộ nhất mọi thời đại. Đã bao giờ bạn băn khoăn về số phận của những phiếu giảm giá như - giảm 10 xu cho nước sốt cà chua Heinz, giảm 20 xu cho Windex - sau khi bạn cắt chúng từ các tờ báo và đến thanh toán ở các siêu thị hay chưa? Siêu thị nơi bạn thanh toán sẽ gói chúng lại và gửi về nhà máy của Seven Oaks ở Mexico. Ở đó, người ta kiểm tra và đối chiếu các phiếu giảm giá này, xử lý và tiến hành chuyển tiền thanh toán, cũng không khác mấy so với việc chuyển séc của ngân hàng dự trữ liên bang. Seven Oaks đã kiếm được rất nhiều tiền từ công việc nhàm chán này, và các cổ đông của họ đã được thưởng công xứng đáng. Đó chính xác là một công ty không tiếng tăm, nhàm chán nhưng lại có lợi nhuận khổng lồ. Công ty ấy mang một cái tên đầy bí hiểm mà tôi thực sự muốn sở hữu. Flint chưa từng nghe nói đến Seven Oaks, và điều duy nhất mà ông biết về cổ phiếu này là những gì ông nhìn thấy trong sổ sách - cổ phiếu Oaks được mua ở giá 10 đô la, vậy mà giờ đây chỉ bán ở mức giá 6 đô la một cổ phiếu. Flint tự hỏi “ Chuyện quái quỉ gì thế này?” “Tại sao giá của nó lại giảm đến tận 40%” Và Doggle phải mất cả buổi họp để bảo vệ cho quyết định mua cổ phiếu Oaks của mình. Và sau hai ba hồi diễn giải, ông đã phải thề rằng sẽ không bao giờ mua cổ phiếu của một công ty vô danh nữa, và phải gắn chặt vào Xerox hay Sears. Ông thậm chí còn quyết định sẽ bán cổ phiếu Seven Oaks ngay khi có cơ hội để mọi ký ức về nó sẽ biến mất mãi mãi khỏi bản danh sách của ông. Trở lại với vấn đề “suy nghĩ tập thể”, và tự nhắc bản thân mình rằng sẽ an toàn hơn nếu lựa chọn các công ty giữa số đông, ông bỏ ngoài tai những lời nói khôn ngoan của nhà viết kịch Aeschylus, nhà văn Goeth, hay ngôi sao truyền hình Alf từ vũ trụ: Hai là một công ty, ba là một đám đông Bốn là hai công ty Năm là một công ty và một đám đông Sáu là hai đám đông Bảy là một đám đông và hai công ty Tám là bốn công ty hoặc hai đám đông và một công ty Chín là ba đám đông Mười là năm công ty hoặc hai công ty và hai đám đông. Thậm chí nếu có chuyện gì không ổn xảy ra với các nhân tố chính của Seven Oaks (tuy nhiên tôi không nghĩ là điều đó sẽ xảy ra bởi hiện nay tôi cũng đang sở hữu một lượng cổ phiếu của công ty này), và sau đó khi giá cổ phiếu tăng lên 10 lần, nó sẽ được bán ra từ tài khoản của White Bread, bởi một điều chắc chắn là Flint không thích nó. Trong lĩnh vực của chúng ta, hành động bán cổ phiếu bừa bãi của những người đang thua lỗ được gọi là “bán tháo cổ phiếu”. Trong những nhà quản lý vốn đầu tư cổ phiếu dày dạn kinh nghiệm, việc bán tháo cổ phiếu được thực hiện nhanh chóng và hiệu quả khiến tôi hồ nghi liệu có phải nó đã trở thành một cách thức sinh tồn, hay liệu nó có di truyền đến các thế hệ tương lai không. Liệu những thế hệ này có thể làm việc đó không do dự, giống như loài đà điểu châu Phi phải học cách chúi đầu vào cát để tránh bão cát trên sa mạc hay không. Điều gì phải đến rồi sẽ đến. Nếu như Boon Doggle không tự mình bán tháo cổ phiếu của Seven Oaks khi có cơ hội, ông ta sẽ bị sa thải. Sau đó, toàn bộ danh mục đầu tư sẽ được chuyển cho một người kế nhiệm, nếu anh ta sẵn sàng bán tháo chúng. Một người kế nhiệm luôn muốn khởi đầu với một cảm giác tích cực, do vậy anh ta sẽ không ngần ngại bán hết cổ phiếu của Seven Oaks và chuyển sang đầu tư vào Xerox. Tuy nhiên, trước khi rất nhiều đồng nghiệp của tôi gào lên “thật tồi tệ”, tôi xin được nhắc lại rằng vẫn luôn có những ngoại lệ đáng chú ý. Các phòng quản lý vốn của nhiều ngân hàng khu vực ngoài thành phố New York đã rất xuất sắc trong việc đầu tư vào các cổ phiếu dài hạn. Rất nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp cỡ trung bình, đã tạo ra nét riêng cho mình nhờ cách thức họ quản lý tiền lương. Nếu có một cuộc khảo sát trong cả nước, hẳn chúng ta sẽ phát hiện ra một tá các nhà đầu tư chứng khoán trứ danh đang làm việc cho các quỹ bảo hiểm, quỹ trợ cấp, và quỹ tín dụng. Oysters Rockefeller Bất cứ khi nào những nhà quản lý vốn quyết định mua thứ gì đó lý thú (và họ đã vượt qua mọi rào cản về chính trị và xã hội), thì họ cũng có thể bị chùn bước trước hàng tá quy tắc hay luật lệ đã thành văn khác nhau. Một số phòng tín dụng ngân hàng không