🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trật Tự Thế Giới Ebooks Nhóm Zalo TRẬT TỰ THẾ GIỚI Tác giả: Kissinger Dịch giả: Phạm Thái Sơn Hiệu đính: Võ Minh Tuấn Alphabooks phát hành NXB Thế Giới 6/2016 —★— ebook©vctvegroup Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Mục Lục BỨC TRANH ĐỊA CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI VÀ CHÂU Á QUA CÁI NHÌN CỦA KISSINGER Giới thiệu TÍNH ĐA DẠNG CỦA TRẬT TỰ THẾ GIỚI Chương 1 CHIẾN TRANH BA MƯƠI NĂM: TÍNH CHÍNH DANH LÀ GÌ? HÒA ƯỚC WESTPHALIA SỰ VẬN HÀNH CỦA HỆ THỐNG THEO HÒA ƯỚC WESTPHALIA CÁCH MẠNG PHÁP VÀ HẬU QUẢ CỦA NÓ Chương 2 BÍ ẨN NƯỚC NGA HỘI NGHỊ THÀNH VIENNA TIỀN ĐỀ CỦA TRẬT TỰ QUỐC TẾ METTERNICH VÀ BISMARCK TÌNH TRẠNG TIẾN THOÁI LƯỠNG NAN CỦA CÂN BẰNG QUYỀN LỰC TÍNH CHÍNH DANH VÀ QUYỀN LỰC GIỮA CÁC THẾ CHIẾN TRẬT TỰ CHÂU ÂU THỜI HẬU CHIẾN TƯƠNG LAI CỦA CHÂU ÂU Chương 3 TRẬT TỰ THẾ GIỚI HỒI GIÁO ĐẾ QUỐC OTTOMAN: CON BỆNH CỦA CHÂU ÂU HỆ THỐNG THEO HÒA ƯỚC WESTPHALIA VÀ THẾ GIỚI HỒI GIÁO HỒI GIÁO: THỦY TRIỀU CÁCH MẠNG – HAI LÝ GIẢI TRIẾT HỌC MÙA XUÂN Ả-RẬP VÀ BIẾN ĐỘNG SYRIA VẤN ĐỀ PALESTINE VÀ TRẬT TỰ QUỐC TẾ Ả-RẬP SAUDI SỰ SUY TÀN CỦA QUỐC GIA? Chương 4 TRUYỀN THỐNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA IRAN CUỘC CÁCH MẠNG KHOMEINI PHỔ BIẾN VŨ KHÍ HẠT NHÂN VÀ IRAN TẦM NHÌN VÀ THỰC TẾ Chương 5 CHÂU Á VÀ CHÂU ÂU: CÁC KHÁI NIỆM KHÁC NHAU VỀ CÂN BẰNG QUYỀN LỰC NHẬT BẢN ẤN ĐỘ TRẬT TỰ KHU VỰC Á CHÂU LÀ GÌ? Chương 6 TRUNG QUỐC VÀ TRẬT TỰ QUỐC TẾ Ở CHÂU Á TRUNG QUỐC VÀ TRẬT TỰ THẾ GIỚI VIỄN CẢNH DÀI HẠN Chương 7 NƯỚC MỸ TRÊN VŨ ĐÀI THẾ GIỚI THEODORE ROOSEVELT: MỸ - MỘT CƯỜNG QUỐC THẾ GIỚI WOODROW WILSON: MỸ - LƯƠNG TÂM THẾ GIỚI FRANKLIN ROOSEVELT VÀ TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI Chương 8 KHỞI ĐẦU CỦA CHIẾN TRANH LẠNH CHIẾN LƯỢC TRONG TRẬT TỰ CHIẾN TRANH LẠNH CHIẾN TRANH TRIỀU TIÊN VIỆT NAM VÀ SỰ TAN VỠ ĐỒNG THUẬN QUỐC GIA RICHARD NIXON VÀ TRẬT TỰ QUỐC TẾ RONALD REAGAN VÀ KẾT THÚC CỦA CHIẾN TRANH LẠNH CHIẾN TRANH AFGHANISTAN VÀ IRAQ MỤC TIÊU VÀ TÍNH KHẢ THI Chương 9 TRẬT TỰ THẾ GIỚI TRONG THỜI ĐẠI HẠT NHÂN THÁCH THỨC TỪ SỰ PHỔ BIẾN VŨ KHÍ HẠT NHÂN CÔNG NGHỆ ẢO VÀ TRẬT TỰ THẾ GIỚI NHÂN TỐ CON NGƯỜI CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI TRONG KỶ NGUYÊN KỸ THUẬT SỐ Kết luận TIẾN TRÌNH CỦA TRẬT TỰ QUỐC TẾ CHÚNG TA SẼ ĐI TỚI ĐÂU? BỨC TRANH ĐỊA CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI VÀ CHÂU Á QUA CÁI NHÌN CỦA KISSINGER World Order (Trật tự Thế giới) của Henry Kissinger vừa ra đời đã gây sự chú ý của nhiều độc giả, đặc biệt là các nhà khoa học và chính khách trên thế giới. Trước đó, Kissinger cũng đã xuất bản một loạt các tác phẩm khác về chính trị thế giới và khu vực như Nuclear Weapons and Foreign Policy (Vũ khí hạt nhân và chính sách đối ngoại), American Foreign Policy (Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ), Ending the Vietnam War: A History of America’s Involvement in and Extrication from the Vietnam War (Kết thúc Chiến tranh Việt Nam: Lịch sử sự tham gia của Mỹ và thoát khỏi Chiến tranh Việt Nam), On China (Luận về Trung Quốc). Lợi thế của tác giả là kết hợp được chiều sâu của một nhà nghiên cứu chính trị với một kinh nghiệm thực tiễn phong phú ở tầm ngoại giao chiến lược quốc tế trên mọi châu lục. Và World Order hiện diện như một tác phẩm tổng kết lại cách nhìn của Kissinger về bức tranh địa chính trị thế giới, cũng được một số ý kiến cho đây có thể là tác phẩm cuối cùng của ông. Trong World Order, Kissinger xuất phát từ Hòa ước Westphalia (chương 1) để phân tích về tương quan giữa các nước, chủ yếu là các cường quốc và các khu vực giữ một vai trò đặc biệt đối với bức tranh địa chính trị thế giới, với những khác biệt trong thế giới quan và vị trí địa lý đã ảnh hưởng đến chính sách ngoại giao của mỗi nước như thế nào. Tác giả dành chương cuối (chương 9) để bàn về vấn đề toàn cầu hoá trong thời đại khoa học công nghệ, đặc biệt là tin học và truyền thông đại chúng lan tràn đã tác động mạnh mẽ đến dư luận, các nhà lãnh đạo và các quyết định chính trị hiện nay. Theo cách nhìn của Kissinger thì trật tự thế giới ngày nay cần được đặt trên hai yếu tố căn bản: 1. Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của mỗi quốc gia có tính chính danh dựa trên căn bản của các hiệp ước và tổ chức quốc tế; 2. Và để đảm bảo duy trì hòa bình và ổn định trên thế giới cũng như các khu vực, cần phải dựa trên một sự cân bằng quyền lực mà chủ yếu phụ thuộc vào các cường quốc thế giới và khu vực. Điểm qua một loạt các quốc gia tiêu biểu trải dài từ châu Âu, châu Á đến Trung Đông và Bắc Mỹ, bắt đầu theo tiến trình thời gian được lấy mốc từ Hòa ước Westphalia đến tận thời điểm tác phẩm hoàn thành, và mặc dù đã lưu ý đến đặc điểm lịch sử, địa lý, tôn giáo và sắc tộc của các quốc gia và khu vực, nhưng Kissinger vẫn nghiêng về xu hướng tán đồng một kiểu trật tự thế giới do phương Tây xây dựng từ sau Thế chiến thứ Hai dựa theo khuôn mẫu của Hòa ước Westphalia và không ngừng được bổ sung bởi các hiệp ước khác sau này, cũng như bởi sự hình thành của những liên minh nhân danh việc duy trì cán cân thăng bằng trên thế giới, nhưng đằng sau đó vẫn là lợi ích quốc gia. Đây là một lối tư duy cổ điển dựa trên cơ sở áp đặt cái lý của kẻ mạnh, dù vẫn đề cao những giá trị của tính chính danh của các quốc gia có chủ quyền. Tác giả đã tự mâu thuẫn với chính mình ở cách nhìn về trật tự thế giới, bỏ qua đặc điểm thời đại về tính đa cân bằng. Tuy nhiên, nó cũng là một lời cảnh báo cho các quốc gia, nhất là các quốc gia nhỏ bé, phải tự lực tự cường đề nâng cao vị thế tương quan của mình với các cường quốc. Kissinger cũng không hề giấu diếm việc đề cao vai trò của Mỹ trong bối cảnh tương quan lực lượng của thế giới hôm nay. Dường như, giá trị Mỹ là một lập trường của tác giả khi soi chiếu vào trật tự thế giới mới hôm nay. Điều đó cũng dễ hiểu vì bên cạnh tư cách tác giả, ông còn là một cựu chính khách Mỹ dày dạn kinh nghiệm. Để hiểu được sự tự tin, phần nào ngạo nghễ của Kissinger như thấu kính phóng đại niềm tự hào Mỹ là một quốc gia dị biệt, cần phải xem xét vấn đề địa chính trị của nó. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ nằm gần như hoàn toàn trong Tây Bán cầu, hầu như tách biệt với phần còn lại của thế giới với tây giáp Thái Bình Dương, đông giáp Đại Tây Dương. Vị trí địa lý được hai đại dương che chở đã giúp Mỹ hầu như không bị tổn hại trong Thế chiến thứ Nhất, để từ đó nhanh chóng vươn lên thành một cường quốc. Cũng chính sự che chở này đã làm người Mỹ tiếp tục tự tin trong những hành động chính trị trên khắp thế giới sau này. Bên cạnh đó, lịch sử lập quốc đã trao cho họ niềm tin vào sứ mệnh thiêng liêng từ mạc khải của Chúa, với hình ảnh của một thành phố ở trên đồi tỏa ánh sáng muôn nơi trong Kinh Thánh, cùng với sức mạnh kinh tế, chính trị và quân sự, khiến các chính khách Mỹ và người dân Mỹ qua nhiều thế hệ cho rằng mình mang sứ mệnh của Chúa cũng như nghĩa vụ của con người để đem giá trị Mỹ mà chính họ coi là tiêu biểu cho toàn nhân loại đến với toàn cầu. Trong tác phẩm, Kissinger dẫn lời của cố Tổng thống Ronald Reagan trong phát biểu tại Diễn văn từ nhiệm năm 1989: Tôi đã nói về thành phố tỏa sáng trong cả cuộc đời chính trị của tôi, nhưng tôi không biết liệu mình đã bao giờ truyền đạt thành công những gì tôi thấy khi tôi nói về nó chưa. Nhưng trong tâm trí của tôi, đó là một thành phố ở trên cao đầy tự hào được xây dựng trên những tảng đá mạnh mẽ hơn những đại dương, nơi có gió thổi qua, được Chúa ban phước và đầy chật người dân thuộc mọi tầng lớp sống trong hòa hợp và an bình – một thành phố với những bến cảng tự do, ngân nga bài ca của thương mại và sáng tạo, và nếu phải có những bức tường thành phố, những bức tường sẽ có các cửa ra vào, và các cửa rộng mở cho bất kỳ ai có ý chí và trái tim có thể tới được nơi đây. Đó là cách tôi đã thấy và vẫn còn thấy nó. Bên cạnh đó, Kissinger cũng thừa nhận tính nước đôi trong quan hệ chính trị và ngoại giao quốc tế của Mỹ nhằm cân bằng quyền lực và giữ gìn trật tự thế giới: Các cuộc tranh luận trong nước Mỹ thường được miêu tả như là cuộc đối đầu giữa chủ nghĩa lý tưởng và chủ nghĩa thực tế. Nhưng đối với Mỹ và phần còn lại của thế giới, nếu Mỹ không thể hành động theo cả hai chủ nghĩa, kết cục có thể là nó sẽ không thể hiện thực hóa chủ nghĩa nào cả. Điều đó lý giải vì sao không phải lúc nào Mỹ cũng sẵn sàng can thiệp bằng hành động vào các vụ việc quốc tế, đặc biệt khi đấy là những tình huống chạm trán với một cường quốc khác có thể gây những tổn hại cho chính mình (ví dụ đối với Trung Quốc), hoặc sẽ tìm kiếm một giải pháp rút lui chứ không đi đến tận cùng (trường hợp chiến tranh Triều Tiên, Việt Nam, Afghanistan), hoặc sử dụng cách nói nước đôi không nhắm trực tiếp tới một nước thứ ba mà chỉ nhân danh luân lý và luật pháp quốc tế (trường hợp Biển Đông). Một quốc gia nào đó, nếu đặt niềm tin hoàn toàn vào sự trợ giúp từ Mỹ như những gì nước này nói, có thể sẽ nhanh chóng đi đến sự chờ đợi hoài công vì cuối cùng không nhận được những gì cụ thể mà mình đang mong muốn. Mô hình theo Hòa ước Westphalia có thể phù hợp với lịch sử và địa lý của phương Tây, và qua thời gian, nó được bồi đắp và định hình dần như là một trật tự thế giới. Tuy nhiên với các quốc gia ở Trung Đông và châu Á, vốn có một lịch sử lâu đời và vị trí riêng, lại không cho là như vậy. Các quốc gia này muốn một luật chơi riêng, hoặc ít nhất là phải được tham gia vào hình thành luật chơi chứ không phải chỉ thực hiện luật chơi do phương Tây tạo ra. Một số quốc gia trong số này, từ quá khứ đến hiện tại, ít nhiều đều tự coi mình là trung tâm của thế giới hay một phần đáng kể của thế giới, điều mà sẽ cho phép mình có quyền tạo ra hoặc tham gia tạo ra cách chơi. Trung Đông, nơi tồn tại của một thế giới Hồi giáo rộng mênh mông, tự cho rằng phần còn lại phi Hồi giáo của hành tinh này trước sau cũng gia nhập vào một vương cung thánh đường Hồi giáo nhất thể, nơi được thống trị bởi Sultan, vua của các vị vua, đấng cai trị của những kẻ cai trị, người duy nhất có quyền ban phát chức tước cho những vị vua ở các quốc gia khác. Hồi giáo chia thế giới thành hai, một bên là thế giới Hồi giáo, bên kia là phi Hồi giáo, và nhiệm vụ của thế giới Hồi giáo là biến phần còn lại thành thế giới Hồi giáo trong một sứ mệnh jihad (thánh chiến). Cách nhìn trật tự thế giới của họ coi Hồi giáo có thiên mệnh bành trướng khắp ‘vương quốc chiến tranh’ như họ gọi tất cả các vùng đất do dân vô thần cư trú, cho đến khi cả thế giới là một hệ thống đơn nhất, không thể chia tách, được lời phán truyền của Đấng tiên tri Muhammad làm cho hài hòa. Trung Quốc, một quốc gia rộng lớn với dân số đông, xung quanh là những quốc gia nhỏ bé hơn, đã tự cho mình là quốc gia nằm ở trung tâm của thế giới, vua của nó không được coi là vị vua bình thường mà là vua của các vua dưới danh xưng “hoàng đế”, được mệnh danh là “thiên tử”, có quyền cai trị mọi quốc gia khác trong “thiên hạ”, và vua các quốc gia khác, một mặt phải chịu sự sắc phong của nó, mặt khác phải tiến hành việc triều cống vốn nặng về nghi lễ thuần phục hơn là ý nghĩa kinh tế. Vì vậy, nó không dễ dàng chấp nhận một trật tự thế giới theo luật chơi do phương Tây đã định sẵn. Trung Quốc chưa bao giờ từ bỏ ý định trở thành trung tâm của thế giới. Điều đó càng làm sâu sắc thêm tham vọng bá quyền của quốc gia này hôm nay khi nó đang trỗi dậy. Kissinger cũng điểm qua Ấn Độ với tư cách một quốc gia có trọng lượng đáng kể ở khu vực này, với dân số đông và một sức mạnh quân sự đáng nể. Ấn Độ, từ lâu đã chủ trương một đối sách trong quan hệ quốc tế: không đi theo bất kỳ một bên nào. Quốc gia này đặt lợi ích của mình như là nguyên tắc trong quan hệ với các quốc gia khác, chứ không phải là vấn đề ý thức hệ hay các liên minh. Nó cố gắng tránh xung đột cũng như đứng về một bên xung đột với các quốc gia khác, trừ những cuộc đụng độ quân sự ở biên giới với Pakistan vốn dai dẳng qua các thập kỷ. Ấn Độ không tự đặt mình vào như là một cường quốc trong cán cân thăng bằng của trật tự thế giới, dù nó vẫn có những động thái hỗ trợ huấn luyện quân sự và dân sự cho các quốc gia bạn bè, trong đó có Việt Nam. Khi nhìn về Á châu, dường như trong đó Kissinger có cái nhìn ưu ái hơn với Nhật, một đất nước của những hòn đảo lớn nhỏ. Hai lần Nhật đã từng trở thành cường quốc khiến phương Tây ngạc nhiên. Sức sống bền bỉ dẻo dai, lòng quật cường và đoàn kết dân tộc đã mấy lần giúp nước này vượt qua những cơn triều dâng từ phương Tây, kể cả khi nó yếu hơn. Chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa, nhưng Nhật là nước đã kiên quyết thoát ra để tạo nên tư tưởng và tâm hồn của riêng mình. Thua trận và bị phương Tây chèn ép, Nhật đã nhún nhường nhưng không hạ mình, không đi theo phương Tây như một kẻ chư hầu nhưng cũng không đối đầu một cách thiếu cơ sở, mà đã chọn con đường hòa hợp và học hỏi phương Tây để rồi âm thầm bứt phá ngoạn mục. Từ một nước thua trận trong Thế chiến thứ Hai, Nhật đã vươn lên trở thành một cường quốc hôm nay, bắt đầu thể hiện vai trò của mình trong một trật tự thế giới mới. Kissinger cho rằng Nhật sẽ chọn lựa cách ứng xử có lợi nhất cho mình dựa trên các phân tích về tương quan chiến lược chứ không chịu bị gò bó trong một hệ thống liên minh, hay các hiệp ước với bên ngoài. Kissinger bàn về Việt Nam hoàn toàn khác. Ông không nhìn Việt Nam như một nhân tố tham gia vào trật tự thế giới, mà chỉ với tư cách là tác nhân ảnh hưởng đến một cường quốc tham gia vào trật tự thế giới: Mỹ. Tại chương 8. The United States: Ambivalent Superpower (Hoa Kỳ: Siêu cường nước đôi), ông dành một mục cho Việt Nam: Vietnam and the Breakdown of the National Consensus (Việt Nam và sự tan vỡ đồng thuận quốc gia), ngụ ý cuộc chiến tranh tại Việt Nam đã làm tan vỡ đồng thuận quốc gia của Mỹ. Trong Chiến tranh Lạnh, Mỹ đã quyết định can thiệp và ngày càng lún sâu vào cuộc chiến ở Việt Nam. Kissinger viết: Chính quyền Kennedy đã đi gần tới việc tham chiến và chính quyền Johnson đã thực sự tham chiến vì tin rằng cuộc tấn công của Bắc Việt Nam vào Nam Việt Nam là mũi nhọn của Xô-Trung nhằm tiến tới sự thống trị toàn cầu và điều này cần phải bị quân đội Mỹ ngăn chặn, không để tất cả các nước Đông Nam Á rơi vào tay cộng sản. Không đi sâu phân tích về diễn biến cuộc chiến và sự sa lầy của Mỹ trong cuộc chiến này, mà Kissinger soi chiếu từ góc độ cuộc chiến đã làm nội bộ nước Mỹ bị xáo động khủng khiếp và mâu thuẫn, các giá trị Mỹ bị nghi ngờ, và kết luận: Mỹ đã lần đầu tiên thua trận và cũng đánh mất đi mối liên hệ với khái niệm của mình về trật tự thế giới. Dưới con mắt của nhà chính trị lão luyện Kissinger, nơi một trật tự thế giới được lập ra bởi các cường quốc mà không đếm xỉa gì đến các quốc gia nhỏ bé dù đó cũng là các quốc gia độc lập có chủ quyền, thì châu Á là nạn nhân chứ không phải là người chơi trong trật tự quốc tế do chủ nghĩa thực dân phương Tây áp đặt. Qua đây, có thể thấy rằng, mặc dù Mỹ và Trung Quốc có những quan niệm khác nhau về vai trò của mình trong cán cân quyền lực thế giới, nhưng vì đây đều là hai siêu cường lớn nhất thế giới hiện nay với những quyền lợi gắn bó chặt chẽ, nên đều tự nhận thấy phải kìm chế và tránh đụng độ trực tiếp vì thiệt hại mà nó gây ra là khôn lường. Trong khi đó, mối quan hệ giữa Trung Quốc và các quốc gia Đông Á lại đang trở thành vùng nóng có thể châm ngòi bất kỳ lúc nào. Lẽ dĩ nhiên, những quan điểm mà Kissinger trình bày trong cuốn sách này, vừa xuất phát từ cách nhìn của Mỹ ít nhiều mang tính quốc gia, vừa mang tính cá nhân của một chính khách, và có giá trị tham khảo về bức tranh địa chính trị thế giới đối với chúng ta trong bối cảnh phức tạp hôm nay. • TS. Võ Minh Tuấn N Giới thiệu CÂU HỎI VỀ TRẬT TỰ THẾ GIỚI ăm 1961, khi còn là một học giả trẻ, tôi ghé thăm Tổng thống Harry S. Truman nhân dịp tôi có bài phát biểu ở thành phố Kansas. Khi tôi hỏi điều gì trong nhiệm kỳ tổng thống khiến ông tự hào nhất, Truman trả lời: “Đó là chúng ta đã đánh bại hoàn toàn kẻ thù và đưa họ trở lại với cộng đồng các quốc gia. Tôi nghĩ chỉ có Mỹ mới có thể làm được điều này.” Ý thức về sức mạnh khổng lồ của Mỹ, Truman tự hào hơn hết về các giá trị nhân đạo và dân chủ của nó. Ông muốn được mọi người nhớ đến vì những cuộc hòa giải của Mỹ hơn là vì các chiến thắng của nó. Tất cả những tổng thống kế nhiệm sau Truman đều nói tương tự như vậy cách này hay cách khác, và lấy làm tự hào về các đặc tính tương tự của nước Mỹ. Và trong hầu hết giai đoạn này, cộng đồng các quốc gia mà họ cố duy trì, phản ánh sự đồng thuận Mỹ – không ngừng mở rộng không gian trật tự mang tính hợp tác của các quốc gia trong việc tuân thủ những quy ước và chuẩn mực chung, theo đuổi hệ thống kinh tế tự do, phản đối xâm chiếm lãnh thổ, tôn trọng chủ quyền quốc gia và áp dụng hệ thống nhà nước dân chủ và có sự tham gia của người dân. Các tổng thống Mỹ của cả hai đảng, thường với sự mãnh liệt và thuật hùng biện, đã tiếp tục thúc giục các chính phủ khác duy trì và tăng cường nhân quyền. Trong nhiều trường hợp, việc Mỹ và các đồng minh bảo vệ những giá trị này đã khởi đầu những thay đổi quan trọng trong điều kiện sống của con người. Tuy nhiên, ngày nay, hệ thống “dựa trên quy tắc” này đang phải đối mặt với những thách thức. Những lời kêu gọi thường xuyên, yêu cầu các nước thực hiện “phần việc công bằng của họ” tham gia theo “quy tắc của thế kỷ 21” hay là “các bên liên quan có trách nhiệm” trong một hệ thống chung, phản ánh một thực tế rằng không có định nghĩa chung về hệ thống này hoặc sự hiểu biết về một đóng góp “công bằng” nghĩa là gì. Bên ngoài thế giới phương Tây, các khu vực – trước đây hầu như không có vai trò nào trong việc hình thành những quy tắc này – đặt câu hỏi về tính hợp lệ của chúng trong hình thức hiện tại, và thể hiện rõ rằng họ sẽ tìm cách để thay đổi chúng. Như vậy, mặc dù “cộng đồng quốc tế” có lẽ là cụm từ được kêu gọi tha thiết vào lúc này hơn bất kỳ thời đại nào khác, nó không hề cho thấy một tập hợp các mục tiêu, phương pháp hay giới hạn rõ ràng hoặc được thống nhất. Thời đại của chúng ta khăng khăng theo đuổi một khái niệm về trật tự thế giới đôi khi gần như đến mức tuyệt vọng. Sự hỗn loạn chực chờ đe dọa sự tương thuộc chưa từng có trước đây: sự phổ biến của vũ khí hủy diệt hàng loạt, sự tan rã của các quốc gia, sự ảnh hưởng của môi trường bị phá hoại, sự tồn tại dai dẳng của những hành động mang tính diệt chủng, và sự lan tràn của những công nghệ mới có nguy cơ gây ra xung đột ngoài tầm kiểm soát hay nhận thức của con người. Những phương pháp mới trong việc tiếp cận và truyền đạt thông tin liên kết các khu vực lại với nhau hơn bao giờ hết và phóng chiếu những sự kiện trên quy mô toàn cầu – nhưng bằng cái cách không để người ta có thời gian suy ngẫm, đòi hỏi các nhà lãnh đạo phải thể hiện những phản ứng tức thời qua các khẩu hiệu. Liệu chúng ta có đang phải đối mặt với một giai đoạn mà các lực lượng quyết định tương lai là những lực lượng vượt ngoài tầm kiểm soát của bất kỳ trật tự nào? TÍNH ĐA DẠNG CỦA TRẬT TỰ THẾ GIỚI K hông một “trật tự thế giới” mang tính toàn cầu đích thực nào đã từng tồn tại. Những gì tạo nên trật tự trong thời đại chúng ta đã được lập ra ở Tây Âu gần bốn thế kỷ trước đây ở Westphalia của Đức, tại một hội nghị hòa bình được tổ chức mà hầu hết các châu lục hoặc các nền văn minh khác đã không được tham gia hay thậm chí là không biết gì về nó. Một thế kỷ xung đột giáo phái và biến động chính trị trên khắp Trung Âu đã lên đến đỉnh điểm với cuộc Chiến tranh Ba mươi năm[1](1618-1948) – một đại họa trong đó có cả những tranh chấp chính trị và tôn giáo, các bên tham chiến phải viện đến “chiến tranh tổng lực” để chống lại những trung tâm dân số; gần một phần tư dân số của Trung Âu chết vì chiến tranh, bệnh tật hoặc nạn đói. Các bên tham chiến kiệt quệ, gặp nhau để xác định một loạt các thỏa thuận nhằm ngăn chặn sự đổ máu. Sự thống nhất tôn giáo đã bị rạn nứt với việc Tin Lành sống sót và lan rộng; đa nguyên chính trị trở thành thuộc tính của một số thực thể chính trị độc lập đã chiến đấu tới kỳ cùng. Vì vậy, ngay tại châu Âu, những tình trạng của thế giới đương đại là gần như tương đồng: nhiều thực thể chính trị khác nhau cùng tồn tại, không cái nào đủ mạnh để đánh bại tất cả những cái khác, nhiều thực thể tuân theo những triết lý và thông lệ mâu thuẫn, tìm kiếm những quy tắc trung lập để điều chỉnh hành vi của họ và giảm thiểu xung đột. Hòa ước Westphalia[2] phản ánh một quá trình điều chỉnh thực dụng theo sát với thực tế, chứ chẳng phải một sự thấu thị về đạo đức đặc biệt nào. Nó dựa trên một hệ thống các quốc gia độc lập cố gắng hạn chế can thiệp vào công việc nội bộ lẫn nhau và kiểm soát tham vọng của nhau thông qua một trạng thái cân bằng chung về quyền lực. Trước đó, trong các trận giao tranh ở châu Âu, chưa hề có bất kỳ tuyên bố khẳng định chân lý hay quy luật phổ quát nào... Thay vào đó, mỗi quốc gia được giao quyền chủ quyền trên lãnh thổ của mình. Mỗi quốc gia sẽ thừa nhận những cơ cấu nội bộ và thiên hướng tôn giáo của những quốc gia khác như hiện tồn và kiềm chế thách thức sự tồn tại của những quốc gia này. Bằng sự cân bằng quyền lực hiện được coi là hợp theo quy luật tự nhiên và đáng mong muốn, tham vọng của những người trị vì là họ sẽ được đặt trong thế đối trọng với nhau, từ đó giới hạn phạm vi của các cuộc xung đột ít nhất là về mặt lý thuyết. Phân chia và đa dạng, một sự ngẫu nhiên trong lịch sử của châu Âu, đã trở thành điểm nổi bật của một hệ thống trật tự quốc tế mới với quan điểm triết học riêng biệt. Trong ý nghĩa này, nỗ lực của châu Âu nhằm chấm dứt đại họa của nó đã định hình và báo trước một cảm giác hiện đại: nó dè dặt trong việc phán đoán về tính tuyệt đối để ủng hộ cái thực tiễn và Đại kết[3]; nó tìm cách đúc kết trật tự từ sự đa dạng và kiềm chế. Những nhà đàm phán thế kỷ 17 lập nên Hòa ước Westphalia không hề nghĩ rằng họ đã đặt nền móng cho một hệ thống được áp dụng toàn cầu. Họ không hề có ý định mời Nga láng giềng, khi đó đang củng cố lại trật tự riêng của mình sau “Thời kỳ Rối ren”[4] ác mộng bằng cách theo đuổi các nguyên tắc hoàn toàn mâu thuẫn với sự cân bằng theo Hòa ước Westphalia: một nhà cai trị tuyệt đối duy nhất, một tôn giáo chính thống thống nhất và một kế hoạch bành trướng lãnh thổ về mọi hướng. Và những trung tâm quyền lực lớn khác cũng không coi các dàn xếp trong Hòa ước Westphalia (nếu họ biết đến nó) có liên quan đến các khu vực riêng của họ. Ý tưởng về trật tự thế giới đã được các chính khách thời đó áp dụng trong phạm vi địa lý mà họ biết tới – một mô hình lặp đi lặp lại ở những khu vực khác. Điều này phần lớn là do công nghệ thịnh hành lúc đó không khuyến khích hoặc thậm chí không cho phép một hệ thống toàn cầu duy nhất hoạt động. Không có những phương tiện để tương tác với nhau thường xuyên, không có khuôn mẫu để đo lường sức mạnh của một khu vực này so với khu vực khác, mỗi khu vực coi trật tự riêng của mình là vô song và coi những khu vực khác là “man di,” những khu vực bị cai trị theo cách thức khó hiểu đối với hệ thống đã được thiết lập từ trước, chẳng liên quan gì đến thiết kế của hệ thống này ngoài việc là một mối đe dọa đối với nó. Mỗi khu vực tự coi mình như khuôn mẫu cho mô hình chính danh của cả nhân loại, và tưởng tượng rằng bằng việc cai quản những gì bày ra trước mặt, nó đang sắp đặt trật tự thế giới. Đối lập với châu Âu, ở đại lục Âu-Á, Trung Quốc là trung tâm theo khái niệm tôn ti trật tự và phổ quát về mặt lý thuyết của riêng mình. Kể từ khi Đế quốc La Mã cai trị toàn bộ châu Âu, hệ thống này đã hoạt động hàng thiên niên kỷ và không dựa trên sự bình đẳng chủ quyền của các quốc gia, mà dựa trên sự mở rộng lãnh thổ được coi là vô biên của Hoàng đế. Trong khái niệm này, chủ quyền theo nghĩa châu Âu không tồn tại, bởi Hoàng đế nắm quyền thống trị đối với “Thiên hạ.” Hoàng đế ở trên đỉnh của hệ thống tôn ti trật tự về chính trị và văn hóa, riêng biệt và phổ quát, từ trung tâm thế giới là kinh đô của Trung Quốc tỏa chiếu tới tất cả phần còn lại của nhân loại. Phần còn lại này được phân loại theo những mức độ “man di” khác nhau, tùy thuộc một phần vào sự thông thạo của họ đối với chữ viết và phong tục văn hóa Trung Quốc (một thế giới quan đã kéo dài trọn vẹn tới kỷ nguyên hiện đại.) Theo quan điểm này, Trung Quốc sẽ sắp đặt trật tự thế giới chủ yếu bằng cách dùng nền văn hóa vĩ đại và kinh tế dồi dào của mình để làm cho những xã hội khác khiếp sợ, đưa họ vào cái thế của những kẻ có thể bị cai trị nhằm mục tiêu “nhất thống thiên hạ.” Trong phần lớn khu vực nằm giữa châu Âu và Trung Quốc, khái niệm phổ quát khác về trật tự thế giới của Hồi giáo đang thống trị, với quan điểm riêng về sự cai trị duy nhất được Thượng đế ban cho để thống nhất và bình định thế giới. Trong thế kỷ 7, Hồi giáo đã bành trướng qua ba châu lục trong một làn sóng vô tiền khoáng hậu nhằm xiển dương tôn giáo và bành trướng đế chế. Sau khi thống nhất thế giới Ả-rập, tiếp quản tàn dư của Đế quốc La Mã và hợp nhất Đế quốc Ba Tư, Hồi giáo tiến tới cai trị Trung Đông, Bắc Phi, nhiều dải đất lớn ở châu Á, và một phần châu Âu. Dưới cách nhìn của mình về trật tự thế giới, Hồi giáo có thiên mệnh là phải bành trướng khắp “vương quốc chiến tranh”, cách mà họ gọi tất cả các vùng đất do dân vô thần cư trú, cho đến khi cả thế giới là một hệ thống đơn nhất, không thể chia tách, được lời phán truyền của Đấng Tiên tri Mohammed làm cho hài hòa. Khi châu Âu xây dựng một trật tự đa quốc gia của mình, Đế quốc Ottoman ở Thổ Nhĩ Kỳ đã khôi phục lại tuyên bố này thành sự cai trị chính danh duy nhất và bành trướng uy quyền tối thượng của mình trên toàn khu vực trung tâm thế giới Ả-rập, Địa Trung Hải, các quốc gia vùng Balkan và Đông Âu. Đế quốc này nhận thức được trật tự giữa các quốc gia mới hình thành của châu Âu, và coi đây không phải là một mô hình mà là một nguồn cơn gây chia rẽ sẽ bị Đế quốc Ottoman khai thác để mở rộng lãnh thổ về phía tây. Như Sultan (Vua Hồi giáo) Mehmed-Kẻ Chinh phạt đã phủ dụ các thành bang của Ý khi họ đang thực hành phiên bản đầu tiên của sự đa cực vào thế kỷ 17, “Các ngươi có hai mươi bang… các ngươi bất đồng với nhau… Chỉ nên có một đế chế, một đức tin và một chủ quyền trên thế giới.” Trong khi đó, ở bên kia Đại Tây Dương, một tầm nhìn khác biệt về trật tự thế giới đang được đặt nền móng ở “Tân Thế giới.” Khi những xung đột chính trị và giáo phái ở châu Âu nổ ra vào thế kỷ 17, những người Thanh giáo đã lên đường để vãn hồi kế hoạch của Thiên Chúa với một “chuyến đi sứ mệnh tới vùng hoang dã,” thứ sẽ giải thoát họ khỏi việc phải tuân thủ những cấu trúc uy quyền mà họ cho là đồi bại. Như Thống đốc John Winthrop giảng giải trên một con tàu tới định cư ở Massachusetts vào năm 1630, họ sẽ xây dựng ở đó một “thành phố trên đồi,” truyền cảm hứng cho thế giới thông qua sự công bằng trong các nguyên tắc và sức mạnh từ điển hình của thành phố này. Theo quan điểm của Mỹ về trật tự thế giới, hòa bình và cân bằng sẽ diễn ra tự nhiên, những hận thù xa xưa sẽ được gạt qua một bên một khi các quốc gia khác được trao quyền phát ngôn theo nguyên tắc tương tự như người Mỹ trong việc cai quản riêng của họ. Do đó, nhiệm vụ của chính sách đối ngoại không thiên về theo đuổi một lợi ích Mỹ đặc biệt nào mà thiên về sự gây dựng những nguyên tắc chung. Theo thời gian, Mỹ trở thành nước bảo vệ không thể thiếu cho trật tự mà châu Âu đã thiết kế. Tuy nhiên, ngay cả khi Mỹ gia tăng ảnh hưởng trong nỗ lực này thì một mâu thuẫn vẫn cứ tồn tại dai dẳng, bởi tầm nhìn của Mỹ không dựa trên việc tiếp thu hệ thống cân-bằng-quyền-lực của châu Âu mà dựa trên việc đạt được hòa bình thông qua truyền bá những nguyên tắc dân chủ. Khi cuốn sách này được viết, trong số tất cả những khái niệm về trật tự trên, các nguyên tắc của Hòa ước Westphalia là cơ sở chung duy nhất được thừa nhận của một trật tự thế giới đang tồn tại. Hệ thống theo Hòa ước Westphalia lan rộng trên toàn thế giới như là khuôn mẫu cho một trật tự quốc tế dựa trên nền tảng các quốc gia có chủ quyền trải dài qua nhiều nền văn minh và khu vực, vì khi các quốc gia châu Âu mở rộng, họ mang theo bản thiết kế trật tự quốc tế của mình. Trong khi các quốc gia châu Âu đó thường phớt lờ việc áp dụng khái niệm chủ quyền đối với các thuộc địa và các dân tộc thuộc địa, thì các dân tộc này bắt đầu đấu tranh giành lại nền độc lập, dưới danh nghĩa các khái niệm trong Hòa ước Westphalia. Các nguyên tắc độc lập dân tộc, vị thế quốc gia độc lập có chủ quyền, lợi ích quốc gia, không can thiệp [vào công việc nội bộ của nhau] tỏ ra là những lập luận hiệu quả chống lại các nước thực dân trong những cuộc đấu tranh giành độc lập và bảo vệ cho các quốc gia mới được thành lập của họ từ đó về sau. Hệ thống theo Hòa ước Westphalia toàn cầu hiện nay – theo thông lệ được gọi là cộng đồng thế giới – đã nỗ lực hạn chế tính chất vô chính phủ của thế giới bằng một mạng lưới rộng lớn các cơ cấu pháp lý và tổ chức quốc tế được thiết kế nhằm thúc đẩy thương mại mở cửa và một hệ thống tài chính quốc tế ổn định, thiết lập những nguyên tắc được chấp nhận về giải quyết các tranh chấp quốc tế và đặt ra giới hạn đối với việc tiến hành chiến tranh khi chúng xảy ra trên thực tế. Hệ thống những quốc gia này hiện nay bao gồm tất cả các khu vực và nền văn hóa. Các thể chế của nó đã mang lại khuôn mẫu trung lập cho sự tương tác giữa các xã hội đa dạng, hầu như độc lập với các giá trị tương ứng của chúng. Tuy nhiên, các nguyên tắc của Hòa ước Westphalia đang bị thách thức trên tất cả các phương diện, đôi khi cũng dưới chính danh nghĩa trật tự thế giới. Châu Âu đã bắt đầu từ bỏ hệ thống quốc gia có chủ quyền mà nó thiết kế và vượt qua các giới hạn của hệ thống này bằng khái niệm chủ quyền chung. Và nghịch lý thay, mặc dù châu Âu đã thiết kế khái niệm cân-bằng-quyền-lực, nhưng nó đã chủ tâm và quyết liệt hạn chế yếu tố quyền lực trong các tổ chức mới của mình. Do đã hạ cấp năng lực quân sự của mình, châu Âu có rất ít cơ hội để ứng phó khi những chuẩn mực phổ quát bị coi thường. Ở Trung Đông, các chiến binh thánh chiến (jihad) ở cả hai bên của sự chia rẽ hệ phái Sunni-Shia xâu xé xã hội và hủy diệt các quốc gia trong quá trình tìm kiếm viễn cảnh cách mạng toàn cầu dựa trên trào lưu tôn giáo chính thống của họ. Bản thân quốc gia độc lập – cũng như hệ thống khu vực dựa vào nó – lâm vào tình trạng nguy hiểm, bị tấn công bởi những ý thức hệ không thừa nhận các điều cấm của mình là bất hợp pháp và bởi phiến quân khủng bố mà ở một số nước còn mạnh hơn cả lực lượng vũ trang của chính phủ. Trên một số phương diện, châu Á là khu vực thành công nhất trong các khu vực áp dụng khái niệm vị thế quốc gia độc lập có chủ quyền, nhưng nó vẫn hoài niệm các khái niệm trật tự khác và chao đảo vì những sự kình địch và yêu sách lịch sử giống như những gì đã từng khuấy đảo trật tự châu Âu ở thế kỷ trước. Gần như tất cả các nước đều coi mình “đang lên,” đẩy bất đồng tới nguy cơ đối đầu. Mỹ đã đi từ việc bảo vệ hệ thống theo Hòa ước Westphalia đến chỗ khiển trách các tiền đề của nó về cân-bằng-quyền-lực và không can thiệp vào công việc nội bộ [của nhau] là trái luân lý và lỗi thời, và đôi khi lại vừa bảo vệ vừa trách cứ. Mỹ tiếp tục khẳng định các chuẩn mực của mình có mối liên quan chung trong việc xây dựng một trật tự thế giới hòa bình và nắm giữ quyền hậu thuẫn các chuẩn mực đó trên toàn cầu. Tuy nhiên, sau khi rút khỏi ba cuộc chiến tranh trong hai thế hệ – mỗi cuộc bắt đầu với khát vọng lý tưởng và sự ủng hộ rộng rãi của công chúng nhưng đều kết thúc trong chấn thương tâm lý quốc gia – Mỹ nỗ lực xác định mối quan hệ giữa quyền lực (vẫn rộng lớn) và các nguyên tắc của nó. Tất cả các trung tâm quyền lực lớn đều vận dụng các yếu tố của trật tự theo Hòa ước Westphalia đến mức độ nào đó, nhưng không nước nào coi mình là người bảo vệ đương nhiên của hệ thống. Tất cả đều đang trải qua những thay đổi nội bộ quan trọng. Liệu các khu vực với những nền văn hóa, lịch sử và lý thuyết truyền thống về trật tự khác nhau như vậy có thể bảo vệ tính chính danh của bất kỳ hệ thống chung nào? Thành công trong một nỗ lực như vậy sẽ đòi hỏi một cách tiếp cận tôn trọng về cả sự đa dạng trong điều kiện sống lẫn cuộc tìm kiếm tự do muôn đời của con người. Trật tự theo nghĩa này phải được gây dựng chứ không thể bị áp đặt. Điều này đặc biệt đúng trong thời đại của truyền thông tức thời và dòng chảy chính trị cách mạng liên tục. Bất kỳ hệ thống trật tự thế giới nào muốn bền vững cần phải được chấp nhận là chính đáng – không chỉ bởi các nhà lãnh đạo, mà còn bởi các công dân. Nó phải phản ánh hai sự thật: trật tự mà không có tự do, dù được duy trì trong sự vui sướng trong khoảng thời gian ngắn ngủi, cuối cùng sẽ tạo ra đối trọng riêng của chính nó; và tự do không thể được bảo đảm hay duy trì nếu thiếu một khuôn khổ để gìn giữ hòa bình. Thay vì đôi khi được miêu tả như là các cực đối lập trên phổ kiến thức, trật tự và tự do nên được hiểu là phụ thuộc lẫn nhau. Liệu các nhà lãnh đạo ngày nay có thể vượt lên trên tính cấp thiết của các sự vụ hằng ngày để đạt được sự cân bằng này? Tính chính danh và quyền lực Một câu trả lời cho những câu hỏi trên phải giải quyết được ba cấp độ trật tự. Trật tự thế giới mô tả khái niệm được một khu vực hay một nền văn minh hiểu về bản chất của những sắp xếp chính đáng và sự phân chia quyền lực được cho là có thể áp dụng với toàn thế giới. Trật tự quốc tế là việc ứng dụng trong thực tế những khái niệm này trên một vùng rộng lớn của thế giới – đủ lớn để ảnh hưởng đến sự cân bằng quyền lực toàn cầu. Trật tự khu vực liên quan đến những nguyên tắc tương tự áp dụng cho một khu vực địa lý xác định. Bất kỳ một hệ thống nào trong những hệ thống trật tự này đều dựa trên hai thành phần: một bộ quy tắc được chấp nhận chung, xác định những giới hạn của hành động được phép làm và sự cân bằng quyền lực bảo đảm sự kiềm chế khi những quy tắc này bị phá vỡ, ngăn ngừa một thực thể chính trị này khuất phục tất cả các thực thể chính trị khác. Một sự đồng thuận về tính chính danh của các thỏa thuận hiện tại – hiện nay hay trong quá khứ – dù không loại trừ cạnh tranh hay đối đầu, nhưng sẽ góp phần đảm bảo nếu chúng xảy ra sẽ chỉ như những điều chỉnh nằm trong trật tự hiện tại chứ không trở thành những thách thức căn bản đối với trật tự này. Một sự cân bằng giữa các lực lượng không tự nó bảo đảm hòa bình, nhưng nếu được xây dựng và áp dụng triệt để, có thể giới hạn phạm vi và tần suất của những thách thức căn bản và hạn chế cơ hội thành công của những thách thức này khi chúng thực sự xảy ra. Không một cuốn sách nào có thể hy vọng đề cập mọi cách tiếp cận lịch sử đối với trật tự quốc tế hay mọi quốc gia hiện đang chủ động định hình các vấn đề thế giới. Cuốn sách này chỉ cố gắng đề cập những khu vực mà khái niệm trật tự của chúng đã định hình hầu hết quá trình phát triển của kỷ nguyên hiện đại. Sự cân bằng giữa tính chính danh và quyền lực là vô cùng phức tạp; khu vực địa lý mà sự cân bằng này được áp dụng càng nhỏ và niềm tin văn hóa bên trong khu vực địa lý đó càng gắn kết, thì càng dễ dàng đạt được một sự đồng thuận hoàn toàn khả thi. Nhưng trong thế giới hiện đại hôm nay, cần có một trật tự thế giới toàn cầu. Việc sắp xếp các chủ thể không liên quan về lịch sử hay các giá trị (ngoại trừ việc các chủ thể này chỉ gần nhau về mặt địa lý) và về căn bản tự xác định bởi giới hạn năng lực của mình có nguy cơ sẽ gây ra xung đột chứ không phải trật tự. Năm 1971, trong chuyến thăm Bắc Kinh đầu tiên của tôi nhằm tái lập quan hệ với Trung Quốc sau hai thập kỷ thù địch, tôi đã đề cập vấn đề này, rằng với phái đoàn Mỹ, Trung Quốc là một “vùng đất bí ẩn.” Thủ tướng Chu Ân Lai trả lời: “Các anh sẽ thấy Trung Quốc không hề bí ẩn. Khi các anh đã trở nên quen thuộc với nó, nó sẽ không có vẻ rất bí ẩn như trước.” Theo quan sát của ông, có 900 triệu người Trung Quốc và họ dường như có cuộc sống bình thường như ai. Trong thời đại chúng ta, cuộc tìm kiếm trật tự thế giới sẽ đòi hỏi phải đưa tới nhận thức về những xã hội mà trên thực tế phần lớn bị khép kín. Bí ẩn cần giải mã ở đây là bí ẩn mà mọi dân tộc cùng chia sẻ: những kinh nghiệm và giá trị lịch sử đa dạng có thể được định hình trong một trật tự chung như thế nào. Chương 1 CHÂU ÂU: TRẬT TỰ QUỐC TẾ ĐA NGUYÊN TÍNH ĐỘC ĐÁO CỦA TRẬT TỰ CHÂU ÂU L ịch sử của hầu hết mọi nền văn minh là câu chuyện về sự thăng trầm của các đế chế. Trật tự được thiết lập bởi sự cai trị nội bộ của các đế chế này chứ không phải bởi trạng thái cân bằng giữa các quốc gia: Trật tự vững chắc khi chính quyền trung ương cố kết, trật tự lỏng lẻo khi nhà cai trị yếu. Trong các hệ thống đế quốc, chiến tranh thường nổ ra ở những vùng giáp ranh biên giới của đế quốc này hoặc các cuộc nội chiến sâu trong nội địa. Hòa bình được xác định trong phạm vi quyền lực đế quốc có thể vươn tới. Ở Trung Quốc và thế giới Hồi giáo, các tranh chấp chính trị nổ ra nhằm kiểm soát một khuôn khổ trật tự được thiết lập. Các triều đại thay đổi, nhưng mỗi nhóm cai trị mới lại tô vẽ mình như là người khôi phục một hệ thống chính danh đã đổ nát. Ở châu Âu đã không diễn ra quá trình tiến triển nào như vậy. Khi sự thống trị của Đế quốc La Mã[5] kết thúc, tính đa nguyên đã trở thành đặc điểm xác định của trật tự châu Âu. Ý tưởng về một châu Âu hiện ra lờ mờ như là chỉ dấu về vị trí địa lý, như là biểu tượng của Kitô giáo hay của tầng lớp quý tộc, như là trung tâm khai sáng của một cộng đồng những người có học thức và hiện đại. Tuy nhiên, dù được hiểu như là một nền văn minh duy nhất, châu Âu chưa bao giờ có một chủ thể cai quản duy nhất, hay một bản sắc thống nhất cố định. Lục địa này thay đổi các nguyên tắc mà nhân danh các nguyên tắc đó, các thực thể khác nhau ở lục địa này thường luân phiên tự trị, và thử nghiệm một khái niệm mới về tính chính danh chính trị hay trật tự quốc tế. Ở những khu vực khác trên thế giới, một giai đoạn mà những người trị vì tranh giành quyền lực, vốn được hậu thế coi là “thời kỳ rối ren,” thời kỳ nội chiến, hay “thời đại lãnh chúa” – là giai đoạn tan rã được thương tiếc quá mức. Châu Âu phát triển mạnh mẽ trên sự tan rã ấy và bao bọc lấy những phần bị phân tranh đó của mình. Các triều đại và dân tộc khác nhau tranh giành quyền lực không bị coi là một hình thức “hỗn loạn” phải bị xóa bỏ, mà theo quan điểm lý tưởng hóa của các chính khách châu Âu, lúc có chủ ý lúc không, lại được coi là một cơ chế phức tạp có xu hướng hướng tới sự cân bằng để bảo đảm, gìn giữ quyền lợi, tính toàn vẹn và tự chủ của mỗi dân tộc. Trải qua hơn một nghìn năm, trong xu thế chủ đạo về nghệ thuật quản lý nhà nước ở châu Âu hiện đại, trật tự bắt nguồn từ trạng thái cân bằng và bản sắc bắt nguồn từ sự kháng cự đối với sự cai trị phổ quát. Về lý thuyết, đó không phải là do các vị vua châu Âu không còn ham muốn vinh quang chiến trận và chinh phạt như các vị vua ở những nền văn minh khác, cũng không phải là do họ hướng tới một lý tưởng về sự đa dạng, mà đó là do không vị vua nào đủ mạnh để dứt khoát áp đặt ý chí của mình lên các vị vua khác. Theo thời gian, tính đa nguyên khoác cho mình những đặc tính của một mô hình về trật tự thế giới. Liệu châu Âu trong thời đại chúng ta đã vượt qua xu hướng đa nguyên này, hay những cuộc tranh đấu nội bộ ở Liên minh châu Âu khẳng định xu hướng đó? Trong khoảng thời gian 500 năm, sự thống trị của Đế chế La Mã đã đảm bảo cho sự tồn tại của một bộ luật duy nhất, một hệ thống phòng thủ chung và một trình độ văn minh ưu trội. Khi La Mã sụp đổ, như vẫn quy ước là vào năm 476, đế chế này tan rã. Trong thời kỳ mà các sử gia gọi là Thời kỳ Tăm tối, nỗi luyến tiếc về sự hợp nhất toàn thể đã lắng đi bỗng lại rộ lên. Viễn cảnh về sự hòa hợp và thống nhất ngày càng tập trung vào Giáo hội. Trong thế giới quan đó, những nước theo Ki-tô giáo là xã hội đơn nhất được quản lý bởi hai chính quyền bổ trợ lẫn nhau: chính phủ dân sự, những “người kế vị của Caesār”[6] duy trì trật tự trong phạm vi thế tục; và Giáo hội, những người kế vị Thánh Peter[7] hướng tới những nguyên tắc cứu rỗi phổ quát và tuyệt đối. Khi La Mã sụp đổ, Thánh Augustine thành Hippo[8], khi đó đang ở Bắc Phi, kết luận về mặt thần học rằng chính quyền thế tục là chính danh chừng nào nó còn tiếp tục thúc đẩy sự mưu cầu một cuộc sống kính sợ Thiên Chúa và cùng với đó là sự cứu rỗi con người. Năm 494, Giáo hoàng Gelasius I viết thư cho Hoàng đế Anastasius của Đế quốc Đông La Mã[9]: “Thế giới này được cai trị bởi hai hệ thống, quyền lực thần thánh của các linh mục và quyền lực hoàng gia. Trong hai hệ thống này, sức nặng lớn hơn nằm trên vai các linh mục vì họ sẽ phải trả lời trước Chúa, thậm chí về cả các vị vua, trong Ngày Phán xét Cuối cùng.” Theo nghĩa đó, trật tự thế giới thực sự không phải là ở thế giới này. Khái niệm bao quát trên về trật tự thế giới đã vấp phải sự bất thường ngay từ đầu: ở châu Âu thời kỳ hậu La Mã, hàng chục nhà cai trị thế tục thực thi quyền độc lập tối cao mà không có tôn ti cấp bậc rõ ràng giữa họ; tất cả đều viện dẫn sự trung thành với Chúa Ki-tô, nhưng liên kết giữa họ với Giáo hội và thẩm quyền của Giáo hội là mơ hồ, không rõ ràng. Những cuộc tranh luận gay gắt tập trung vào việc phân định thẩm quyền của Giáo hội, trong khi các vương quốc với quân đội riêng và chính sách độc lập điều khiển quan đội để giành lợi thế của mình mà không quan tâm tới Thành phố Thần thánh của Augustine. Nguyện vọng thống nhất trở thành hiện thực trong khoảng thời gian ngắn vào Ngày Giáng sinh năm 800, khi Giáo hoàng Leo III[10]làm lễ đăng quang cho Charlemagne[11]– vị vua của tộc người Frank[12] và là người chinh phục phần lớn lãnh thổ mà ngày nay là Pháp và Đức, Imperator Romanorum (Hoàng đế La Mã) – và ban cho ông tước vị danh nghĩa đối với nửa phía đông của Đế quốc La Mã trước đây, vào thời điểm đó là vùng đất Byzantium[13]. Hoàng đế cam kết với Đức Giáo hoàng “về mọi mặt sẽ bảo vệ nhà thờ thánh của Chúa Ki-tô khỏi sự xâm nhập ngoại giáo và sự tàn phá của những kẻ không theo đạo ở nước ngoài, cũng như ở trong nước để tăng thêm sức mạnh cho đức tin bằng cách thừa nhận nó.” Nhưng đế chế của Hoàng đế Charlemagne đã không hoàn thành được những ước nguyện đó: trên thực tế nó đã bắt đầu sụp đổ gần như ngay khi vừa được khởi đầu. Charlemagne, bộn bề với những công việc xung quanh nước mình, chưa bao giờ cố gắng trị vì vùng đất Đế quốc Đông La Mã mà trước kia Giáo hoàng Leo III đã phân phó cho ông. Ở phía Tây, ông hầu như không đạt được tiến bộ nào trong việc giành lại Tây Ban Nha từ những kẻ chinh phạt Morroco. Sau cái chết của Charlemagne, người kế nhiệm ông tìm cách củng cố địa vị theo kiểu truyền thống bằng cách đặt tên toàn bộ thuộc địa của mình là Đế quốc La Mã Thần thánh[14]. Nhưng chưa tới một thế kỷ sau khi thành lập, đế chế của Charlemagne bị suy tàn bởi nội chiến với tư cách một thực thể chính trị cố kết đã biến mất (dù tên của nó vẫn được dùng trong suốt hàng loạt các lần chuyển giao vùng lãnh thổ cho đến năm 1806). Trung Quốc có Hoàng đế; Hồi giáo có Caliph[15]– lãnh tụ được công nhận trong các vùng đất của Hồi giáo; châu Âu có Hoàng đế La Mã Thần thánh. Nhưng Hoàng đế La Mã Thần thánh cai quản một nền tảng yếu hơn nhiều so với các đồng nhiệm của ông ở những nền văn minh khác. Ông không có bộ máy hoàng gia để tùy nghi sử dụng trong việc cai trị. Quyền lực của ông phụ thuộc vào sức mạnh của ông tại những vùng ông cai quản trong khả năng vương triều của mình, về cơ bản là thuộc dòng họ của ông. Địa vị của ông không được chính thức cha truyền con nối, mà do bảy và sau này là chín vị hoàng thân bầu lên; những cuộc bầu cử này nói chung thường ngã ngũ sau hàng loạt những thủ đoạn chính trị, những đánh giá về lòng mộ đạo và nhiều khoản đút lót kếch xù. Về lý thuyết, Hoàng đế có thẩm quyền khi được Giáo hoàng phong chức, nhưng những cân nhắc chính trị và tổ chức thường loại bỏ yếu tố này, để ông trị vì trong nhiều năm như một “Hoàng đế được bầu mà chưa được tấn phong.” Tôn giáo và chính trị chưa bao giờ hợp thành một cấu trúc duy nhất, khiến Voltaire[16] phải chế giễu không ngoa rằng Đế quốc La Mã Thần thánh “không phải Thần thánh, chẳng phải La Mã và cũng chẳng là một đế quốc.” Khái niệm trật tự quốc tế của châu Âu thời Trung cổ phản ánh một quá trình điều chỉnh từng trường hợp cụ thể giữa Giáo hoàng và Hoàng đế và một loạt những kẻ trị vì phong kiến khác. Một trật tự phổ quát dựa trên triển vọng về một triều đại duy nhất và một bộ nguyên tắc duy nhất được hợp pháp hóa ngày càng trở nên thiếu thực tế. Khái niệm trật tự thế giới thời Trung cổ chỉ thật sự “đơm hoa kết trái” trong một thời gian ngắn, khi nó hiển hiện cùng với sự lên ngôi của Hoàng tử Charles thuộc hoàng tộc Habsburg[17] vào thế kỷ 16 (1500-1558); sự trị vì của ông cũng dẫn đến sự tan rã không thể vãn hồi của nó. Hoàng tử người xứ Flanders[18] nghiêm khắc và mộ đạo này được sinh ra để cai trị; ngoại trừ sở thích các món ăn nêm gia vị được nhiều người biết đến, nhìn chung ông được coi là không có tật xấu nào và không dễ bị phân tâm. Ông thừa kế ngôi báu của Hà Lan khi còn nhỏ và ngôi báu của Tây Ban Nha cùng với một loạt thuộc địa rộng lớn, không ngừng mở rộng của nước này ở châu Á và châu Mỹ vào năm 16 tuổi. Không lâu sau đó, năm 1519, ông thắng thế trong cuộc bầu cử vào ngôi vị Hoàng đế La Mã Thần thánh, trở thành người kế nhiệm chính thức của Charlemagne. Sự trùng hợp của những tước vị này có nghĩa rằng viễn cảnh thời Trung cổ dường như sắp thành hiện thực. Một người trị vì mộ đạo duy nhất cai trị vùng lãnh thổ tương đương với các nước Áo, Đức, miền Bắc Italy, Cộng hòa Séc, Slovakia, Hungary, miền Đông Pháp, Bỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha, và phần lớn các nước châu Mỹ ngày nay. (Sự tích tụ quyền lực chính trị hàng loạt này được thực hiện hầu như hoàn toàn thông qua những cuộc hôn nhân chiến lược và đã dẫn đến châm ngôn của hoàng tộc Habsburg “Bella gerant Alii; tu, felix Austria, nube!” – “Hãy để việc gây chiến cho những kẻ khác; ngươi, nước Áo hạnh phúc, hãy kết hôn!”) Những nhà thám hiểm và chinh phạt người Tây Ban Nha – Magellan[19] và Cortés[20] giong buồm dưới sự bảo trợ của Charles – lúc bấy giờ đang trong quá trình tiêu diệt những đế chế cổ xưa ở châu Mỹ và mang theo các bí tích Ki-tô giáo cùng với quyền lực chính trị châu Âu đến khắp Tân Thế giới. Quân đội và hải quân của Charles tham gia vào việc bảo vệ Ki-tô giáo chống lại một làn sóng xâm lược mới của người Turk[21]thuộc Đế quốc Ottoman[22] và những kẻ đại diện của họ ở Đông nam châu Âu và Bắc Phi. Charles thân chinh cầm quân tiến hành một cuộc phản công ở Tunisia, với một hạm đội được gầy dựng bằng vàng từ Tân Thế giới. Bị cuốn vào những cuộc tấn công ác liệt này, Charles được những người đương thời ca ngợi là “hoàng đế vĩ đại nhất kể từ khi đế chế bị phân chia vào năm 843” với định mệnh đưa thế giới về [dưới sự cai trị của] “một người chăn chiên[23] duy nhất.” Theo truyền thống của Charlemagne, trong lễ đăng quang của mình, Charles thề sẽ là “người bảo hộ và bảo vệ Giáo hội La Mã Thần thánh” và dân chúng xưng tụng ông là “Caesār” và “Hoàng đế”; Giáo hoàng Clement quả quyết Charles là sức mạnh thế tục để “đảm bảo hòa bình và trật tự được tái lập” trong Ki-tô giáo. Một du khách Trung Quốc hay Thổ Nhĩ Kỳ đến châu Âu vào thời điểm đó có lẽ cũng nhận thấy một hệ thống chính trị dường như quen thuộc: một lục địa do một triều đại duy nhất, thấm nhuần ý thức thiên mệnh, trị vì. Giá như Charles đã có thể củng cố quyền lực của mình và điều khiển được việc kế vị tuần tự trong khối lãnh thổ rộng lớn thuộc hoàng tộc Habsburg, thì châu Âu đã có thể được định hình bởi một chính quyền trung ương thống trị như Đế quốc Trung Quốc hay các vương triều Hồi giáo[24]. Điều đó đã không xảy ra; hay Charles cũng không cố gắng thử làm. Cuối cùng, ông hài lòng với việc đặt trật tự dựa trên cơ sở trạng thái cân bằng. Quyền bá chủ có thể là thừa kế nhưng không phải mục tiêu của ông, như ông đã chứng minh khi thả Vua Pháp Francis I – đối thủ chính trị thế tục của ông, người đã bị ông bắt giữ trong Trận Pavia năm 1525 – trả tự do cho Pháp để tiếp tục một chính sách ngoại giao riêng biệt và đối lập ngay giữa trung tâm châu Âu. Vua Pháp khước từ cử chỉ cao quý của Charles bằng việc đi một nước cờ khác thường, đầy mâu thuẫn với khái niệm trị nước thời Trung cổ của Ki-tô giáo khi đề xuất hợp tác quân sự với Suleiman – vị Sultan của Đế quốc Ottoman – người khi đó đang xâm lược Đông Âu và thách thức sức mạnh của hoàng tộc Habsburg từ phía đông. Tính nhất thống của Giáo hội mà Charles tìm cách chứng minh đã không tồn tại. Ông cho thấy không thể ngăn chặn được học thuyết mới về Tin Lành lan qua các vùng đất là cơ sở quyền lực chính của mình. Cả sự thống nhất tôn giáo và thống nhất chính trị đều đang đứt gãy. Nỗ lực thực hiện nguyện vọng vốn gắn liền với ngôi vua của ông đã vượt ra ngoài khả năng của một cá nhân đơn lẻ. Bức chân dung đầy ám ảnh do Titian[25] vẽ từ năm 1548 được treo tại Bảo tàng Mỹ thuật Alte Pinakothek ở Munich cho thấy sự đau khổ của một người ở ngôi cao đã không thể đạt tới sự hoàn thiện tâm linh hoặc vận dụng những đòn bẩy bá quyền căn bản thiết yếu đối với mình. Charles quyết định từ bỏ các ngôi vị của mình và chia nhỏ đế chế rộng lớn của ông ra, và ông thực hiện việc đó theo cách chỉ trích cái tính đa mang kiêm nhiều ngôi vị đã khiến mưu cầu hợp nhất của ông thất bại. Ông truyền lại Vương quốc Napoli và Sicily và sau đó là ngôi vua Tây Ban Nha cùng đế chế toàn cầu của nước này cho con trai là Philip. Năm 1555, trong một buổi lễ xúc động ở Brussels, ông điểm lại thành tích của mình, khẳng định rằng nhờ sự siêng năng mà ông đã hoàn thành nhiệm vụ và trao Nghị viện Hà Lan[26] cho Philip. Cùng năm đó, Charles ký một hiệp ước mang tính bước ngoặt là Hòa ước Augsburg[27], công nhận đạo Tin Lành trong Đế quốc La Mã Thần thánh. Từ bỏ nền tảng tâm linh của đế chế của mình, Charles đã cho các hoàng tử quyền lựa chọn định hướng giải tội trong lãnh thổ của họ. Không lâu sau đó, ông từ bỏ ngôi vị Hoàng đế La Mã Thần thánh, chuyển giao đế quốc cho em trai của ông là Ferdinand cùng với những biến động và thách thức bên ngoài của nó. Charles lui về sống ẩn dật trong một tu viện ở vùng nông thôn Tây Ban Nha. Ông trải qua những ngày cuối đời bên đức cha xưng tội của mình và một nhà chế tạo đồng hồ người Italy, người có những tuyệt tác treo đầy tường mà Charles cố gắng theo học nghề. Khi Charles qua đời năm 1558, trong di chúc của mình, ông tỏ ra tiếc nuối về sự rạn vỡ của đức tin đã diễn ra trong thời ông trị vì và buộc tội con trai mình vì đã tăng gấp đôi số tòa án dị giáo[28]. Ba sự kiện đã làm tan rã hoàn toàn lý tưởng cũ về một sự hợp nhất. Khi Charles V qua đời, những thay đổi mang tính cách mạng đã nâng viễn cảnh của châu Âu từ một liên minh khu vực lên thành liên minh toàn cầu và đồng thời làm phân rã trật tự tôn giáo và chính trị thời Trung cổ: khởi đầu kỷ nguyên khám phá, phát minh về in ấn và phong trào ly khai trong Giáo hội. Theo cách hiểu của những người châu Âu có học thức thời Trung cổ, một bản đồ miêu tả vũ trụ sẽ cho thấy Bắc và Nam Bán cầu trải dài từ Ấn Độ ở phía đông đến Bán đảo Iberia và các đảo của Vương quốc liên hiệp Anh ở phía tây, ở giữa là Jerusalem. Theo cách nhìn nhận thời Trung cổ, đây không phải một bản đồ cho du khách mà là một sân khấu thần thánh cho vở kịch về sự cứu rỗi con người. Kinh Thánh cho rằng thế giới có 6/7 là đất và 1/7 là nước. Do các nguyên tắc cứu rỗi là cố định và có thể được áp dụng bằng những nỗ lực ở các vùng đất quen thuộc của Ki-tô giáo, không có sự tưởng thưởng nào cho việc mạo hiểm vượt qua những lằn ranh của nền văn minh. Trong cuốn Địa ngục, Dante miêu tả sự kiện Ulysses giong buồm qua các Cột trụ trời của Hercules[29](Mỏm Gibraltar và những đỉnh cao gần đó ở Bắc Phi, mép phía tây của Địa Trung Hải) để tìm kiếm tri thức, đã bị trừng phạt vì phạm tội chống lại kế hoạch của thần linh bởi một cơn gió xoáy làm đắm con tàu của ông cùng tất cả thủy thủ đoàn. Thời hiện đại xuất hiện khi các xã hội mạnh dạn khám phá đại dương và bất kỳ điều gì phía xa sau chúng để tìm kiếm vinh quang và giàu có. Vào thế kỷ 15, châu Âu và Trung Quốc đã gần như cùng lúc mạo hiểm tiến về phía trước. Những con tàu Trung Quốc, khi đó là lớn nhất và tiên tiến nhất thế giới về mặt công nghệ, đã thực hiện những chuyến hải trình thám hiểm tới Đông Nam Á, Ấn Độ và bờ biển phía đông châu Phi. Họ trao đổi tặng phẩm với các chức sắc địa phương, ghi danh các hoàng thân vào “hệ thống triều cống” cho đế quốc này, mang về nước những tập quán văn hóa khác lạ và động vật quý hiếm. Tuy nhiên, sau cái chết của nhà thám hiểm hàng hải Trịnh Hòa[30] vào năm 1433, Hoàng đế Trung Quốc chấm dứt những cuộc phiêu lưu ở nước ngoài, và các đội tàu bị bỏ hoang phế. Trung Quốc tiếp tục nhấn mạnh sự thích hợp chung trong các nguyên tắc của nước này về trật tự thế giới, nhưng từ đó về sau chỉ áp dụng ở trong nước và với các dân tộc dọc theo biên giới của nó. Kể từ đó, nước này chưa bao giờ cố gắng lặp lại một nỗ lực hàng hải tương tự, có lẽ cho đến tận thời đại của chúng ta. 60 năm sau đó, các cường quốc châu Âu đã khởi hành từ một lục địa, nơi các thế lực đang tranh giành chủ quyền; mỗi vị vua tài trợ thám hiểm hàng hải chủ yếu vì hy vọng giành được lợi thế về mặt thương mại hay chiến lược so với các đối thủ của mình. Những con tàu của Bồ Đào Nha, Hà Lan và Anh mạo hiểm đến Ấn Độ; tàu Tây Ban Nha và Anh khởi hành tới Tây Bán cầu. Cả hai [hướng đi này] bắt đầu thay thế những độc quyền thương mại và cơ cấu chính trị hiện hữu. Thời đại mà ảnh hưởng thống trị của châu Âu đối với các vấn đề thế giới kéo dài ba thế kỷ đã bắt đầu. Các mối quan hệ quốc tế từng gói gọn trong mỗi khu vực, từ đó về sau trở thành vấn đề toàn cầu với trọng tâm ở châu Âu, nơi khái niệm trật tự thế giới được xác định và việc thực thi khái niệm này được quyết định. Tiếp theo đó là một cuộc cách mạng tư duy về bản chất của thế giới quan chính trị. Người ta làm thế nào mà hình dung ra được sự tồn tại của các cư dân ở những vùng chưa ai từng biết đến? Làm thế nào để họ phù hợp với thế giới quan thời Trung cổ về Đế quốc và Giáo hoàng? Một hội đồng các nhà thần học do Vua Charles V triệu tập vào các năm 1550-1551 ở thành phố Valladolid, Tây Ban Nha đã kết luận rằng những người sống ở Tây Bán cầu là những con người có linh hồn và do đó đủ điều kiện để được cứu rỗi. Tất nhiên, kết luận thần học này cũng là một cách biện minh cho việc chinh phạt và cải đạo. Các nước châu Âu được phép gia tăng của cải và xoa dịu lương tâm của họ cùng lúc. Sự tranh giành kiểm soát lãnh thổ trên toàn cầu của họ làm thay đổi bản chất của trật tự quốc tế. Viễn cảnh của châu Âu được mở rộng cho đến khi các nước châu Âu khác nhau lần lượt nỗ lực thực dân hóa thành công hầu hết mọi nơi trên địa cầu và các khái niệm về trật tự thế giới hợp nhất với sự vận hành cán cân quyền lực ở châu Âu. Sự kiện thứ hai có ảnh hưởng sâu xa về sau là sự phát minh kỹ thuật in di động vào giữa thế kỷ 15, giúp việc truyền bá kiến thức được thực hiện ở quy mô lớn tới mức bấy giờ không thể tưởng tượng được. Xã hội thời Trung cổ lưu giữ kiến thức bằng cách ghi nhớ hay tỉ mẩn chép tay các văn bản tôn giáo, hoặc biết về lịch sử qua sử thi. Trong thời đại khám phá này, những gì được phát hiện cần để cho người ta biết đến, và in ấn cho phép các tài liệu được phổ biến. Sự khám phá những thế giới mới cũng truyền cảm hứng để tìm kiếm và tái khám phá thế giới cổ đại và những sự thực cơ bản về nó, đặc biệt nhấn mạnh vào tính trung tâm của từng cá nhân. Việc người ta ngày càng sử dụng lý luận như một nguồn lực khách quan để soi sáng và lý giải đã bắt đầu làm rung chuyển những thể chế hiện hành, bao gồm cả Giáo hội Thiên Chúa giáo mà cho đến bấy giờ là không thể bị công kích. Sự kiện có tính cách mạng thứ ba là cuộc Cải cách Tin Lành[31], được khởi xướng vào năm 1517 khi Martin Luther – giáo sư thần học, nhà cải cách tôn giáo người Đức – niêm yết 95 luận đề nơi cửa Nhà thờ Lâu đài Wittenberg, nhấn mạnh vào mối quan hệ trực tiếp của từng cá nhân với Thiên Chúa và do đó lương tâm của từng cá nhân – chứ không phải tính chính thống vốn đã được củng cố chắc chắn – được đưa ra như là chìa khóa của sự cứu rỗi. Một số nhà cai trị phong kiến chớp lấy cơ hội này để củng cố quyền cai trị của họ bằng cách tiếp nhận Tin Lành, áp đặt nó lên người dân và tịch thu đất đai của Giáo hội để gia tăng của cải cho bản thân. Mỗi bên coi bên kia như dị giáo, và những bất đồng biến thành những cuộc chiến đấu sống còn khi tranh chấp chính trị xen lẫn với tranh chấp giáo phái. Rào cản ngăn cách tranh chấp trong nước và nước ngoài không còn khi các quốc vương hậu thuẫn những phe phái đối địch trong các cuộc chiến tôn giáo nội bộ thường là đẫm máu ở các nước láng giềng của họ. Cải cách Tin Lành phá bỏ khái niệm về một trật tự thế giới được duy trì bởi “hai thanh kiếm” là Giáo hoàng và đế chế. Ki-tô giáo bị chia rẽ và thù địch với chính nó. CHIẾN TRANH BA MƯƠI NĂM: TÍNH CHÍNH DANH LÀ GÌ? M ột thế kỷ những cuộc chiến tranh liên miên chứng kiến sự nổi lên và truyền bá sự phê phán của người theo Tin Lành đối với uy quyền của Giáo hội: cả Đế quốc Habsburg và Giáo hoàng đều tìm cách dập tắt sự thách thức này đối với quyền lực của mình, khiến những người theo đạo Tin Lành phản kháng nhằm bảo vệ đức tin mới của họ. Sự hỗn loạn này lên tới đỉnh điểm trong giai đoạn mà sau này được gọi là cuộc Chiến tranh Ba mươi năm (1618-1648). Khi Ferdinand – vị vua Thiên Chúa giáo thuộc triều đại Habsburg của Bohemia – nổi lên như ứng viên sáng giá nhất trong cuộc truyền ngôi sắp tới, giới quý tộc theo đạo Tin Lành ở Bohemia đã gắng thử hành động “thay đổi chế độ,” trao vương miện và quyền bỏ phiếu quyết định của họ cho một hoàng tử Đức theo đạo Tin Lành, một kết quả làm cho Đế quốc La Mã Thần thánh sẽ không còn là một tổ chức Thiên Chúa giáo. Các thế lực hoàng gia đã hành động để đè bẹp cuộc nổi loạn ở Bohemia và sau đó tranh thủ lợi thế này để trấn áp đạo Tin Lành nói chung, châm ngòi cho một cuộc chiến tranh tàn phá cả Trung Âu. (Các hoàng tử theo đạo Tin Lành thường ở phía bắc nước Đức, thời đó bao gồm nước Phổ tương đối nhỏ bé; khu trung tâm Thiên Chúa giáo là phía nam của Đức và Áo.) Về lý thuyết, các hoàng thân Thiên Chúa giáo của Hoàng đế có nghĩa vụ phải đoàn kết để chống lại những dị giáo mới này. Tuy nhiên, khi phải đối mặt với lựa chọn giữa tinh thần hợp nhất và lợi thế chiến lược, không ít người đã lựa chọn vế thứ hai. Đứng đầu trong số họ là Pháp. Thông thường trong giai đoạn biến động, một lãnh địa vẫn duy trì quyền cai trị sẽ ở vào vị thế lợi dụng tình trạng hỗn loạn tại các quốc gia lân cận cho những mục tiêu quốc tế lớn hơn. Một nhóm nhỏ những giáo sĩ Pháp thức thời và nhẫn tâm đã nhận thấy cơ hội của mình và quyết định hành động dứt khoát. Vương quốc Pháp tạo cho riêng mình một mô hình cai trị mới để bắt đầu quá trình hành động này. Trong những chế độ phong kiến, quyền cai trị là cá nhân; sự cai trị phản ánh ý chí của người cai trị nhưng cũng bị giới hạn bởi truyền thống, hạn chế các nguồn lực sẵn có cho những hành động quốc gia hoặc quốc tế của một đất nước. Tể tướng Pháp trong giai đoạn 1624-1642, Armand-Jean du Plessis – Hồng y Richelieu[32]– là chính khách đầu tiên khắc phục được những hạn chế này. Là người trong giới tăng lữ chìm đắm trong những mưu đồ triều chính, Richelieu đã thích nghi hoàn toàn với giai đoạn biến động tôn giáo và những thể chế được thiết lập từ lâu đang dần sụp đổ. Là con út trong ba người con trai của một gia đình quý tộc nhỏ, ban đầu ông theo đuổi binh nghiệp, nhưng sau khi anh trai ông bất ngờ từ chức giám mục Luçon[33] vốn được coi là quyền lợi căn bản của gia đình, ông chuyển sang thần học. Tương truyền rằng Richelieu hoàn thành nghiên cứu tôn giáo của mình sớm tới mức ông ít tuổi hơn độ tuổi tối thiểu thông thường để được bổ nhiệm linh mục; và ông đã vượt qua rào cản này bằng cách đến La Mã và tự mình nói dối Đức Giáo hoàng về độ tuổi của mình. Khi đã có được ủy nhiệm thư, ông lao vào chính trị phe phái trong triều đình hoàng gia Pháp, ban đầu trở thành phụ tá thân cận cho Thái hậu Marie de Medici, và sau đó là cố vấn đáng tin cậy cho đối thủ chính trị chính, và cũng là con trai còn nhỏ của bà là Vua Louis XIII. Cả hai tỏ ra rất không tin tưởng vào Richelieu, nhưng do bị điêu đứng bởi những cuộc xung đột nội bộ với các tín đồ Tin Lành Huguenot[34] của Pháp, họ không thể chối bỏ tài năng thiên bẩm về chính trị và nghệ thuật cai trị của ông ta. Mưu đồ của giáo sĩ trẻ này giữa vị ấu vương và thái hậu đã mang lại cho ông sự tiến cử với La Mã để được trao chiếc mũ hồng y; và khi được ban chức ấy, ông trở thành thành viên cao cấp nhất trong Hội đồng Cơ mật của Nhà vua. Nắm vị trí này trong gần hai thập niên,“Đức Hồng y” (được gọi như vậy vì chiếc áo choàng màu đỏ dài lướt thướt của ông) đã trở thành tể tướng của Pháp – quyền lực chỉ sau ngai vàng – và là thiên tài nổi bật của một khái niệm mới về thuật trị quốc tập quyền và chính sách đối ngoại dựa trên sự cân bằng quyền lực. Khi Richelieu thực hiện các chính sách trên đất nước mình, luận thuyết của Machiavelli[35] về thuật trị quốc đang được truyền bá. Không biết liệu Richelieu có thông thuộc luận thuyết về quyền lực trên quan điểm chính trị này hay không, nhưng chắc chắn ông đã thực hành các nguyên tắc căn bản của chúng. Richelieu xây dựng một phương pháp tiếp cận cấp tiến về trật tự quốc tế. Ông phát minh ra ý tưởng rằng nhà nước là một chủ thể trừu tượng và vĩnh viễn tồn tại theo đúng nghĩa của nó. Những yêu cầu của nhà nước được xác định không phải bởi nhân cách của người cai trị, lợi ích của gia tộc hay nhu cầu chung của tôn giáo. Kim chỉ nam của nó là lợi ích quốc gia theo những nguyên tắc đo đếm được, sau này được biết đến như là raison d’état[36]. Do đó nó phải là đơn vị cơ bản của các quan hệ quốc tế. Richelieu trưng dụng nhà nước non trẻ này làm một công cụ của chính sách đối ngoại. Ông tập trung quyền lực ở Paris, đặt ra những vị trí gọi là tham biện hay ủy viên quản trị chuyên nghiệp để phóng chiếu thẩm quyền của chính phủ tới từng địa hạt của vương quốc, khiến việc thu các loại thuế trở nên hiệu quả, và quyết liệt thách thức chính quyền địa phương truyền thống của giới quý tộc cũ. Các vị vua vẫn tiếp tục thực thi vương quyền như biểu tượng của quốc gia có chủ quyền và là một biểu hiện của lợi ích quốc gia. Richelieu nhận thấy tình trạng hỗn loạn ở Trung Âu không phải là lời hiệu triệu vũ trang để bảo vệ Giáo hội mà là một phương tiện để kiềm chế sự ưu trội của đế chế Habsburg. Mặc dù Vua Pháp đã được gọi là Rex Catholicissimus hay “Vua Thiên Chúa giáo Tối cao,” từ thế kỷ 14, Pháp ban đầu âm thầm sau đó công khai chuyển sang ủng hộ liên minh Tin Lành (của các hoàng thân Thụy Điển, Phổ và miền Bắc Đức) trên cơ sở lạnh lùng tính toán các lợi ích quốc gia. Đối với những lời chỉ trích giận dữ rằng, là một hồng y, ông có bổn phận đối với Giáo hội Thiên Chúa giáo phổ quát và vĩnh cửu, ngụ ý một sự liên kết chống lại các hoàng thân theo đạo Tin Lành nổi loạn ở miền Bắc và Trung Âu, Richelieu nhắc đến bổn phận của mình là một bộ trưởng trong một thực thể chính trị thế tục dễ bị tổn thương. Sự cứu rỗi có thể là mục tiêu cá nhân của ông, nhưng là một chính khách ông chịu trách nhiệm đối với một thực thể chính trị không có linh hồn vĩnh cửu để mà cứu rỗi. Ông nói,“Con người là bất tử, sự cứu rỗi của anh ta đến sau đó. Nhà nước không bất tử, sự cứu rỗi của nó là bây giờ hoặc không bao giờ.” Sự tan rã ở Trung Âu được Richelieu nhìn nhận như là điều cần thiết về chính trị và quân sự. Mối đe dọa cơ bản đối với Pháp mang tính chiến lược, mà chẳng phải siêu hình hay tôn giáo: một Trung Âu thống nhất sẽ ở vị thế thống trị phần còn lại của lục địa châu Âu. Vì vậy, lợi ích quốc gia của Pháp là phải ngăn chặn sự hợp nhất của Trung Âu: “Nếu phe [Tin Lành] đó bị tiêu diệt hoàn toàn, sức mạnh chủ lực của hoàng tộc Habsburg sẽ tấn công Pháp.” Bằng việc trợ giúp rất nhiều các quốc gia nhỏ ở Trung Âu và làm suy yếu nước Áo, Pháp đã đạt được mục tiêu chiến lược của mình. Mưu đồ của Richelieu kéo dài suốt quá trình với những biến động lớn sau đó. Trong vòng hai thế kỷ rưỡi, từ khi Richelieu xuất hiện vào năm 1624 đến khi Thủ tướng Bismarck[37]tuyên bố thành lập Đế quốc Đức vào năm 1871, mục tiêu giữ cho Trung Âu (gồm các lãnh thổ của Đức, Áo và miền Bắc Italy thời đó) chia rẽ vẫn là nguyên tắc chỉ đạo trong chính sách đối ngoại của Pháp. Cho tới chừng nào khái niệm này còn là bản chất của trật tự châu Âu, Pháp vẫn là ưu việt ở lục địa này. Khi khái niệm này sụp đổ, vai trò thống trị của Pháp đã cùng chung số phận. Ba kết luận có thể rút ra từ sự nghiệp của Richelieu. Thứ nhất, yếu tố không thể thiếu của một chính sách đối ngoại thành công là một khái niệm chiến lược dài hạn dựa trên sự phân tích cẩn thận tất cả các yếu tố liên quan. Thứ hai, chính khách phải cô đọng tầm nhìn đó bằng việc phân tích và định hình một chuỗi những áp lực mơ hồ, thường mâu thuẫn lẫn nhau thành một hướng đi mạch lạc, có mục đích. Ông ta phải biết chiến lược này sẽ dẫn đến đâu và vì sao. Và thứ ba, ông ta phải hành động bên ngoài giới hạn của điều có thể, thu hẹp khoảng cách giữa kinh nghiệm và tham vọng của xã hội mà ông ta sống. Bởi sự quen thuộc lặp đi lặp lại sẽ dẫn đến trì trệ và hầu như không cần đến một sự táo bạo nào. HÒA ƯỚC WESTPHALIA T rong thời đại chúng ta, Hòa ước Westphalia đã tạo ra một tiếng vang đặc biệt như sự mở đường cho một khái niệm mới về trật tự quốc tế mà đã lan rộng trên toàn thế giới. Thời điểm đó, các đại biểu nhóm họp để đàm phán, tập trung nhiều vào những cân nhắc về vị thế và nghi thức ngoại giao. Khi các đại diện của Đế quốc La Mã Thần thánh và hai đối thủ chính của nó là Pháp và Thụy Điển đồng ý về nguyên tắc để triệu tập một hội nghị hòa bình, cuộc xung đột đã kéo dài hơn 23 năm. Giao tranh còn diễn ra thêm hai năm nữa, các phái đoàn đàm phán mới thực sự gặp gỡ nhau; trong thời gian đó, mỗi bên đều cố gắng củng cố đồng minh và các khu vực bầu cử trong nước. Không giống các hiệp định lịch sử khác như Hội nghị thành Vienna[38]trong giai đoạn 1814-1815 hay Hòa ước Versailles[39] năm 1919, Hòa ước Westphalia không phải là kết quả của một cuộc họp duy nhất, và bối cảnh không phải như ta thường hình dung về việc nhóm họp của các chính khách suy ngẫm từng câu hỏi siêu nghiệm về trật tự thế giới. Do có nhiều địch thủ giao tranh trong một cuộc chiến trải dài từ Tây Ban Nha đến Thụy Điển, nên hòa bình đạt được thông qua một loạt thỏa thuận riêng rẽ diễn ra ở hai thị trấn khác nhau thuộc Westphalia. Các cường quốc Thiên Chúa giáo, trong đó có 178 đại biểu riêng biệt từ các quốc gia khác nhau trong Đế quốc La Mã Thần thánh, nhóm họp ở thành phố Thiên Chúa giáo Münster. Các cường quốc Tin Lành tập trung ở thành phố Osnabrück nơi mà theo cả Giáo hội Luther và Thiên Chúa giáo, cách đó khoảng 48 km. 235 phái viên chính thức và đội ngũ nhân viên của họ đã trú ở bất kỳ phòng nào họ có thể tìm thấy ở hai thị trấn nhỏ này, nơi chưa từng được coi là thích hợp cho một sự kiện quy mô lớn chứ chưa nói gì đến một hội nghị của tất cả các cường quốc châu Âu. Phái viên Thụy Sĩ “trú ngụ ở cửa hàng của một thợ dệt len, trong một căn phòng nồng nặc mùi xúc xích và dầu cá,” trong khi phái đoàn xứ Bavaria chỉ có 18 giường cho 29 thành viên của họ. Không có chủ tọa hay người điều phối hội nghị chính thức và không có những phiên họp toàn thể, các đại diện nhóm họp đột xuất và đi lại trong vùng trung lập giữa hai thị trấn để tìm kiếm thỏa hiệp, đôi khi gặp gỡ không chính thức tại các địa điểm ở giữa hai thị trấn này. Một số cường quốc cử đại diện có mặt ở cả hai thị trấn. Giao tranh vẫn tiếp tục ở những vùng khác nhau của châu Âu trong suốt các cuộc đàm phán, với tình hình chiến sự liên tục thay đổi tác động đến quá trình đàm phán. Hầu hết các đại biểu đến dự đều mang theo những chỉ thị rất thực tế dựa trên lợi ích chiến lược. Trong khi họ sử dụng những cụm từ cao thượng gần như giống hệt nhau về việc đạt được một “nền hòa bình cho Ki-tô giáo,” quá nhiều máu đã đổ để thai nghén việc đạt được mục tiêu cao cả này thông qua sự thống nhất về tín lý hay chính trị. Giờ đây ai cũng cho là đương nhiên, hòa bình (nếu có) sẽ được xây dựng thông qua sự cân bằng các lực lượng đối địch. Có lẽ Hòa ước Westphalia nổi lên từ những thảo luận phức tạp này là tài liệu ngoại giao được trích dẫn nhiều nhất trong lịch sử châu Âu, dù trên thực tế không hề có hiệp ước duy nhất nào để thể hiện các điều khoản của nó. Và các đại biểu cũng chưa từng nhóm họp trong một phiên họp toàn thể để phê chuẩn nó. Trên thực tế, Hòa ước là kết hợp của ba hiệp định bổ sung lẫn nhau được ký kết riêng biệt tại những thời điểm khác nhau ở các thị trấn khác nhau. Trong Hòa ước Münster tháng Một năm 1648, Tây Ban Nha công nhận nền độc lập của Cộng hòa Hà Lan, khép lại cuộc nổi dậy kéo dài 80 năm của người Hà Lan, cuộc nổi dậy đã hợp nhất với cuộc Chiến tranh Ba mươi năm. Tháng Mười năm 1648, các nhóm riêng biệt của các cường quốc đã ký Hòa ước Münster và Hòa ước Osnabrück, với những điều kiện tương tự nhau cũng như tham chiếu và hợp nhất những điều khoản chủ yếu. Cả hai hòa ước quốc tế đa phương quan trọng này tuyên bố ý định là “một nền hòa bình và tình bằng hữu Ki-tô giáo, phổ quát, bất diệt, đích thực và chân thành” cho “vinh quang của Thiên Chúa và an ninh của Ki-tô giáo.” Các điều kiện có hiệu lực không khác biệt đáng kể so với những văn kiện khác của thời kỳ này. Tuy nhiên, những cách thức để đạt được hai hòa ước này là chưa từng có. Cuộc chiến tranh đã làm tan vỡ những kỳ vọng về tính phổ quát hay sự đoàn kết giải tội. Bắt đầu như là một cuộc đấu tranh của tín đồ Thiên Chúa giáo chống lại Tin Lành, nhất là sau khi Pháp đối đầu với Đế quốc La Mã Thần thánh theo Thiên Chúa giáo, cuộc chiến đã trở thành một cuộc hỗn chiến của những liên minh thường xuyên thay đổi và đối lập nhau. Cũng giống như những cuộc xung đột lớn ở Trung Đông trong thời đại chúng ta, những liên kết giáo phái được viện dẫn để đoàn kết và làm động lực trong trận chiến nhưng thường xuyên bị gạt bỏ bởi các xung đột lợi ích địa chính trị hoặc đơn giản là tham vọng của những nhân vật tên tuổi. Mỗi bên đã bị những đồng minh “đương nhiên” bỏ rơi tại một số thời điểm trong cuộc chiến; không bên nào ký vào những văn bản này mà không ảo tưởng rằng nó chẳng làm được bất kỳ điều gì ngoài việc thúc đẩy lợi ích và uy tín của họ. Nghịch lý thay, sự mệt mỏi và yếm thế chung này cho phép các bên tham gia biến đổi những phương tiện thực tế để kết thúc một cuộc chiến tranh cụ thể thành những khái niệm chung về trật tự thế giới. Với hàng chục các bên dày dạn trận mạc nhóm họp để bảo vệ những lợi ích phải rất khó khăn mới giành được, những hình thức xưa cũ về quan hệ tôn ti cấp bậc bị lặng lẽ vứt bỏ. Sự bình đẳng vốn có giữa các quốc gia có chủ quyền được xây dựng, bất kể quyền lực hay hệ thống trong nước của các quốc gia này ra sao. Những cường quốc mới xuất hiện, chẳng hạn như Thụy Điển và Cộng hòa Hà Lan, đã được trao nghi thức ngoại giao ngang bằng với các siêu cường đã được thiết lập từ lâu như Pháp và Áo. Tất cả các vị vua được xưng tụng là “hoàng thượng” và tất cả các đại sứ là “quý ngài.” Khái niệm mới lạ này được đẩy đến mức mà các đoàn đại biểu khi yêu cầu sự bình đẳng tuyệt đối đã nghĩ ra một quy trình tiến đến địa điểm đàm phán qua các cửa ra vào riêng biệt (dẫn đến nhiều lối vào phải được xây dựng) và cùng tiến tới chỗ ngồi của mình ở tốc độ ngang nhau để không ai sẽ phải chịu đựng nỗi nhục chờ đợi người khác thong dong đến chỗ của họ. Hòa ước Westphalia đã trở thành một bước ngoặt trong lịch sử của các quốc gia, vì những điều khoản mà hòa ước này thiết lập vừa đơn giản vừa có ảnh hưởng sâu rộng. Các quốc gia – chứ không phải đế chế, triều đại hay cộng đoàn tôn giáo – đã được xác định như một khối trật tự châu Âu đang hình thành. Khái niệm chủ quyền quốc gia được thiết lập. Quyền của mỗi bên ký kết về việc lựa chọn cấu trúc trong nước và định hướng tôn giáo mà không bị can thiệp đã được khẳng định, trong khi những điều khoản mới đảm bảo rằng các giáo phái thiểu số có thể thực hành đức tin của họ trong hòa bình và không còn ám ảnh về sự cải đạo bằng vũ lực. Vượt xa những nhu cầu trước mắt của thời điểm đó, các nguyên tắc của một hệ thống “quan hệ quốc tế” đang được định hình, được thúc đẩy bởi mong muốn chung nhằm tránh một sự tái diễn của chiến tranh tổng lực trên lục địa châu Âu. Trao đổi ngoại giao, bao gồm cả việc đồn trú của các đại diện thường trú ở các thủ đô của những quốc gia đồng cấp (một thông lệ mới chỉ được các bang thành Venice áp dụng thời đó), được thiết kế để điều chỉnh các mối quan hệ và thúc đẩy nghệ thuật hòa bình. Các bên tham gia ký kết đã hình dung về việc những hội nghị và tham vấn trong tương lai trên mô hình Hòa ước Westphalia sẽ là diễn đàn để giải quyết tranh chấp trước khi dẫn đến xung đột. Luật pháp quốc tế, được những nhà du thuyết như Hugo de Groot[40](Grotius) xây dựng trong chiến tranh, được coi như phần mở rộng của học thuyết đã được đồng thuận nhắm tới việc gieo trồng sự hòa hợp, với trọng tâm là các hòa ước Westphalia. Sự tài tình của hệ thống này và lý do nó lan ra toàn thế giới nằm ở chỗ các điều khoản của nó chỉ là hình thức chứ không phải thực chất. Nếu một quốc gia chấp nhận những yêu cầu cơ bản này, nó có thể được công nhận là một công dân quốc tế có thể duy trì văn hóa, chính trị, tôn giáo và chính sách nội bộ riêng của mình, được hệ thống quốc tế bảo vệ khỏi sự can thiệp từ bên ngoài. Lý tưởng về sự thống nhất đế quốc hay tôn giáo – tiền đề đang có hiệu lực của các trật tự lịch sử ở châu Âu và hầu hết các vùng khác – đã ngụ ý rằng, về mặt lý thuyết, chỉ có một trung tâm quyền lực mới có thể là hoàn toàn chính danh. Khái niệm của Hòa ước Westphalia lấy sự đa dạng như là điểm khởi đầu của nó và đã thu hút nhiều xã hội (mỗi xã hội được chấp nhận như hiện tồn) vào công cuộc tìm kiếm chung về trật tự. Cho tới giữa thế kỷ 20, hệ thống quốc tế này đã xuất hiện trên mọi lục địa; nó vẫn là rường cột của trật tự quốc tế như đang tồn tại hiện nay. Hòa ước Westphalia không ủy nhiệm một sự sắp xếp cụ thể các liên minh hay một cơ cấu chính trị châu Âu lâu dài nào. Với sự chấm dứt của Giáo hội phổ quát như là nguồn tối thượng về tính chính danh và sự suy yếu của Hoàng đế La Mã Thần thánh, khái niệm trật tự châu Âu đã trở thành sự cân bằng quyền lực, mà theo định nghĩa bao gồm tính chất trung lập về tư tưởng và điều chỉnh đối với những hoàn cảnh đang tiến triển. Lord Palmerston[41]– chính khách thế kỷ 19 của Anh – trình bày nguyên tắc căn bản của nó như sau: “Chúng ta không có đồng minh vĩnh viễn và không có kẻ thù vĩnh viễn. Lợi ích của chúng ta là vĩnh viễn và bất diệt và những lợi ích này là nhiệm vụ chúng ta theo đuổi.” Khi được hỏi về việc xác định những lợi ích này theo cách cụ thể hơn dưới hình thức của một “chính sách ngoại giao” chính thức, người lèo lái được ca tụng của cường quốc Anh thú nhận,“Khi mọi người hỏi tôi… những gì được gọi là một chính sách, câu trả lời duy nhất là chúng tôi sẽ làm những gì có lẽ là tốt nhất dựa trên tình huống nó phát sinh, với lợi ích quốc gia là nguyên tắc chỉ đạo.” (Tất nhiên khái niệm tưởng như đơn giản này phù hợp với Anh một phần vì giai cấp cầm quyền của nước này đã được đào tạo trong một nhận thức chung, gần như trực giác về những gì là lợi ích vững bền của đất nước.) Ngày nay, những khái niệm này của Hòa ước Westphalia thường bị bêu xấu như là một hệ thống thao túng quyền lực yếm thế, không hề quan tâm đến các yêu cầu về đạo đức. Tuy nhiên, cơ cấu được thiết lập trong Hòa ước Westphalia đại diện cho nỗ lực đầu tiên để thể chế hóa một trật tự quốc tế trên cơ sở các quy tắc và giới hạn được đồng thuận, căn cứ trên số đông các cường quốc hơn là sự thống trị của một quốc gia duy nhất. Những khái niệm về raison d’état (lợi ích quốc gia) lần đầu tiên xuất hiện, thể hiện không phải là một sự đề cao sức mạnh mà là nỗ lực để hợp lý hóa và hạn chế sử dụng nó. Quân đội đã tuần hành trên khắp châu Âu trong nhiều thế hệ dưới ngọn cờ của những tuyên bố đạo đức phổ quát (và mâu thuẫn nhau); các nhà tiên tri và những kẻ chinh phạt đã gây ra chiến tranh tổng lực trong việc theo đuổi những tham vọng cá nhân xen lẫn những tham vọng về triều đại, đế chế và tôn giáo. Sự ăn khớp có tính logic về mặt lý thuyết và có thể tiên liệu được về những lợi ích quốc gia được dự kiến khắc phục những hỗn loạn đang diễn ra khắp nơi trên lục địa châu Âu. Những cuộc chiến tranh có giới hạn trên các vấn đề có thể tính toán được sẽ thay thế thời đại của những thuyết phổ độ mâu thuẫn nhau, với sự trục xuất và cải đạo bắt buộc của nó và cuộc chiến tranh không giới hạn làm thiệt hại vô số nhân mạng. Với tất cả sự mơ hồ của nó, cân bằng quyền lực được cho là bước tiến bộ so với những đòi hỏi khắt khe của các cuộc chiến tranh tôn giáo. Nhưng cân bằng quyền lực sẽ được thiết lập như thế nào? Về lý thuyết, nó được dựa trên thực tiễn; do đó mỗi bên tham gia sẽ nhìn nhận nó tương tự nhau. Nhưng nhận thức của mỗi xã hội đều bị ảnh hưởng bởi cấu trúc trong nước, văn hóa và lịch sử của nó và bởi thực tế quan trọng rằng các yếu tố của quyền lực dù khách quan đến đâu vẫn luôn thay đổi liên tục không ngừng. Do đó cân bằng quyền lực cần phải được hiệu chỉnh lại theo thời gian. Nó dẫn đến những cuộc chiến tranh mà quy mô của chúng cũng bị nó giới hạn. SỰ VẬN HÀNH CỦA HỆ THỐNG THEO HÒA ƯỚC WESTPHALIA V ới Hòa ước Westphalia, Giáo hoàng đã bị giới hạn trong các chức năng thuộc về Giáo hội và học thuyết về bình đẳng chủ quyền trở nên thịnh hành. Khi đó, lý thuyết chính trị nào có thể giải thích được nguồn gốc và biện minh cho các chức năng của trật tự chính trị thế tục? Nhà triết học nổi tiếng người Anh Thomas Hobbes[42] đã đưa ra một lý thuyết như thế trong cuốn Leviathan của ông được xuất bản năm 1651, ba năm sau Hòa ước Westphalia. Ông hình dung một “trạng thái tự nhiên” trong quá khứ khi chưa có chính quyền đã dẫn đến một “cuộc chiến tranh của tất cả chống lại tất cả.” Để thoát khỏi sự bất an không thể chấp nhận như vậy, ông đưa ra giả thuyết rằng mọi người sẽ giao quyền của họ cho một quyền lực tối cao để đổi lấy sự an toàn do người cầm quyền tối cao mang lại cho tất cả những ai bên trong biên giới quốc gia. Độc quyền về quyền lực của nhà nước có chủ quyền được thiết lập như là cách duy nhất để vượt qua nỗi sợ không ngừng về chết chóc, bạo lực và chiến tranh. Khế ước xã hội này trong phân tích của Hobbes không áp dụng ở bên ngoài biên giới các quốc gia, vì không có chủ thể siêu quốc gia nào tồn tại để áp đặt trật tự. Do đó: Liên quan đến nhiệm vụ của một thực thể quốc gia đối với thực thể khác được bao hàm trong luật mà thường được gọi là luật quốc tế, tôi không cần phải nói bất kỳ điều gì ở đây bởi vì luật quốc tế và luật tự nhiên là như nhau. Và mỗi thực thể quốc gia đều có quyền như nhau trong hành động theo đuổi sự an toàn cho người dân của mình, mà bất kỳ cá nhân nào cũng có thể có, trong việc mua sự an toàn của chính bản thân mình. Đấu trường quốc tế vẫn ở trong trạng thái tự nhiên và hỗn loạn bởi không có một chủ quyền tầm cỡ thế giới nào tồn tại để đảm bảo cho sự an toàn của nó, và cũng không có chủ quyền nào như vậy có thể được hình thành trên thực tế. Vì vậy, mỗi nhà nước sẽ phải đặt lợi ích quốc gia của mình lên trên hết trong một thế giới mà quyền lực là yếu tố tối quan trọng. Hồng y Richelieu có lẽ cũng sẽ rất tán đồng điều này. Hòa ước Westphalia trong những ngày đầu được áp dụng đã hàm ý về một thế giới theo triết lý chính trị của Hobbes. Sự cân bằng quyền lực mới này sẽ được hiệu chuẩn như thế nào? Cần có sự phân biệt giữa cân bằng quyền lực như là một thực tế và cân bằng quyền lực như là một hệ thống. Bất kỳ trật tự quốc tế nào để được xứng đáng với cái tên này không sớm thì muộn phải đạt được một trạng thái cân bằng, nếu không nó sẽ rơi vào trạng thái chiến tranh liên miên. Do thế giới thời Trung cổ gồm hàng chục công quốc, nên đúng là có một sự cân bằng quyền lực thường xuyên tồn tại trên thực tế. Sau Hòa ước Westphalia, sự cân bằng quyền lực này xuất hiện như là một hệ thống; nghĩa là, các quyền lực được cân bằng được chấp nhận như là một trong những mục đích chính trong chính sách đối ngoại; phá vỡ sự cân bằng này sẽ dẫn đến hình thành một liên minh nhân danh trạng thái cân bằng. Đầu thế kỷ 18, sự nổi lên của Anh như là một đại cường quốc hải quân khiến nước này có thể biến các dữ kiện thực tế của sự cân bằng quyền lực này thành một hệ thống. Việc nắm quyền kiểm soát các vùng biển cho phép Anh tính toán thời điểm và quy mô của mình khi đóng vai trò ở lục địa châu Âu như là trọng tài của cán cân quyền lực, và thực sự là nước bảo đảm rằng châu Âu hẳn phải có một sự cân bằng quyền lực. Do đó, chừng nào mà Anh còn đánh giá chính xác các yêu cầu chiến lược của mình, nó sẽ vẫn có thể bảo vệ bên yếu hơn ở lục địa châu Âu chống lại bên mạnh hơn, ngăn ngừa bất kỳ quốc gia duy nhất nào đạt được vị thế bá quyền ở châu Âu, và từ đó huy động các nguồn lực của lục địa châu Âu để thách thức quyền kiểm soát các vùng biển của Anh. Cho đến khi Thế chiến I bùng nổ, nước Anh đã hành động như nước tạo thế cân bằng của trạng thái cân bằng. Họ phải chiến đấu trong các cuộc chiến ở châu Âu nhưng với những liên minh khác nhau, không vì theo đuổi những mục tiêu quốc gia cụ thể thuần túy mà bằng cách xác định lợi ích quốc gia đó là duy trì sự cân bằng quyền lực. Nhiều trong số những nguyên tắc này cũng áp dụng đối với vai trò của Mỹ trong thế giới đương đại, như sẽ được thảo luận về sau. Trên thực tế có hai sự cân bằng quyền lực diễn ra ở châu Âu sau dàn xếp của Hòa ước Westphalia: Cân bằng tổng thể, trong đó nước Anh hành động như một người giám hộ và là người bảo vệ sự ổn định chung. Cân bằng Trung Âu về cơ bản do Pháp kiểm soát nhằm ngăn chặn sự nổi lên của một nước Đức thống nhất ở vị thế quốc gia hùng mạnh nhất trên lục địa châu Âu. Trong hơn 200 năm, những cân bằng quyền lực này giữ châu Âu không bị xé thành nhiều mảnh như thời kỳ Chiến tranh Ba mươi năm; chúng không thể ngăn cản chiến tranh nhưng đã hạn chế tác động của nó, vì mục tiêu là trạng thái cân bằng chứ hoàn toàn không phải sự chinh phục. Sự cân bằng quyền lực này có thể bị thử thách ít nhất là theo hai cách: Cách thứ nhất là khi một nước lớn củng cố sức mạnh của mình tới một ngưỡng đe dọa đoạt bá quyền. Cách thứ hai xảy ra khi một nước từ trước đến nay vẫn là thứ yếu tìm cách được đứng vào hàng ngũ của những đại cường quốc và bắt đầu yêu cầu các cường quốc khác phải thi hành một loạt những điều chỉnh bù trừ với các quốc gia khác cho đến khi một cân bằng mới được thiết lập, hoặc một xung đột lớn diễn ra. Trong thế kỷ 18, hệ thống theo Hòa ước Westphalia vượt qua được cả hai thách thức này, đầu tiên bằng việc ngăn cản cuộc tấn công để đoạt bá quyền của Vua Louis XIV[43] của Pháp, và sau đó bằng việc điều chỉnh hệ thống theo sự nhất quyết đòi vị thế bình đẳng của Friederick Đại đế[44] ở nước Phổ. Năm 1661, Vua Louis XIV đã kiểm soát toàn bộ hoàng gia Pháp và khai triển khái niệm trị quốc của Richelieu tới mức chưa từng thấy. Trong quá khứ, vị vua Pháp này đã cai trị thông qua các lãnh chúa phong kiến với quyền tự trị riêng của họ theo chế độ “cha truyền con nối.” Louis cai trị thông qua một bộ máy hành chính hoàng gia phụ thuộc hoàn toàn vào ông ta. Ông hạ cấp những cận thần có dòng máu cao quý và nâng cấp quý tộc cho các viên chức triều đình. Điều được xét đến ở đây là công lao phụng sự nhà vua chứ không phải dòng dõi xuất thân. Bộ trưởng Tài chính xuất sắc Jean-Baptiste Colbert – con trai của một người bán vải tỉnh lị – được trao quyền thống nhất hệ thống quản lý thuế và tài trợ chiến tranh liên miên. Trong hồi ký của Saint Simon – một công tước cha truyền con nối và là một bậc văn sĩ – có chứa đựng những lời cay đắng về sự biến đổi xã hội này: Ông ta [Louis] nhận thức rõ rằng: dù khi không hài lòng, ông ta có thể nghiền nát một nhà quý tộc nhưng không thể tiêu diệt người đó hay dòng dõi của người đó, trong khi một ngoại trưởng hay các bộ trưởng khác tương tự có thể bị hạ cấp cùng với toàn bộ gia đình xuống tới sự vô giá trị tận cùng mà ông ta đã nâng họ lên từ đó. Khi đó, bất kỳ sự giàu có hay lượng của cải nào cũng không thể giúp ích gì được họ. Đó cũng là một lý do vì sao ông ta thường trao quyền cho các bộ trưởng hơn là cho những người dòng dõi nhất ở vương quốc và thậm chí kể cả các hoàng tử hay hoàng thân. Năm 1680, Louis nâng bản chất sự cai trị rộng lớn của mình thành biểu tượng khi đặt danh hiệu “Đại đế” đi cùng với danh hiệu tự xưng trước đó của ông là “Vua Mặt trời.” Năm 1682, các lãnh thổ khu vực Bắc Mỹ của Pháp được đặt tên là “Louisiana.” Cùng năm đó, triều đình của Vua Louis chuyển đến điện Versailles, nơi nhà vua giám sát kỹ lưỡng việc xây dựng một “rạp hát hoàng gia” mà trên hết dành riêng cho việc thể hiện sự uy nghiêm của ông. Với một vương quốc thống nhất không bị tàn phá bởi nội chiến, sở hữu một bộ máy hành chính chuyên nghiệp và một quân đội vượt trội hơn bất kỳ nước láng giềng nào, trong một giai đoạn ngắn ngủi, Pháp ở vị thế có thể kiếm tìm sự thống trị ở châu Âu. Triều đại của Vua Louis kiên quyết tiến hành một loạt các cuộc chiến tranh gần như liên tục. Cuối cùng, như với trường hợp của tất cả những nước sau này có tham vọng trở thành bá chủ châu Âu, mỗi cuộc chinh phục mới lại dẫn đến sự liên kết hình thành một liên minh các quốc gia đối lập. Ban đầu, các tướng của Vua Louis thắng trận ở khắp nơi; nhưng rốt cuộc, họ bị đánh bại hoặc khống chế ở khắp nơi, đáng chú ý nhất là trong 10 năm đầu tiên của thế kỷ 18 bởi John Churchill[45], người sau này là Công tước xứ Marlborough và là ông tổ mấy đời của vị Thủ tướng vĩ đại thế kỷ 20 Winston Churchill. Quân đoàn của Vua Louis đã không thể vượt qua sự kháng cự cơ bản của hệ thống theo Hòa ước Westphalia. Nhiều thập kỷ sau cái chết của Richelieu, tính hiệu quả được chứng minh về một quốc gia thống nhất và tập quyền khi theo đuổi một chính sách ngoại giao thế tục cùng sự cai trị tập trung đã truyền cảm hứng cho nhiều nước cùng noi theo để đối trọng với cường quốc Pháp. Anh, Hà Lan, và Áo hình thành Đại Liên minh, sau này có thêm sự tham gia của Tây Ban Nha, Phổ, Đan Mạch và một vài công quốc Đức. Theo bản chất, sự đối lập với Vua Louis không phải là ý thức hệ hay tôn giáo: tiếng Pháp vẫn là ngôn ngữ của ngoại giao và văn hóa đẳng cấp trên hầu hết châu Âu, và sự chia rẽ giữa Thiên Chúa giáo và Tin Lành diễn ra hầu khắp trong phe đồng minh. Thay vào đó, sự đối lập này là cố hữu trong hệ thống theo Hòa ước Westphalia và không thể thiếu để duy trì tính đa nguyên trong trật tự châu Âu. Bản chất của nó được xác định bằng cái tên mà các nhà quan sát thời đó đặt ra: Đại Ổn định. Vua Louis kiếm tìm những điều chẳng khác gì bá quyền dưới danh nghĩa vinh quang của Pháp. Ông đã bị đánh bại bởi một châu Âu tìm kiếm một trật tự trong tính đa dạng. Nửa đầu thế kỷ 18 đã bị thống trị bởi khát khao kiềm tỏa Pháp; nửa sau thế kỷ này được định hình bởi nỗ lực của nước Phổ nhằm tìm kiếm một vị trí giữa các đại cường quốc. Bất kỳ nơi nào Vua Louis đã chiến đấu để chuyển quyền lực thành bá quyền, thì nơi đó Vua Frederick II của nước Phổ cũng chiến đấu để chuyển biến điểm yếu tiềm tàng thành vị thế đại cường quốc. Nằm trên đồng bằng miền Bắc Đức khắc nghiệt và trải dài từ sông Vistula[46]ra toàn nước Đức, nước Phổ gây dựng, khai thác tính kỷ luật và dịch vụ công để thay thế cho dân số và nguồn lực lớn hơn của những nước được trời phú. Chia thành hai phần không liền kề nhau, nước này lao đao khi rơi vào vùng ảnh hưởng của Áo, Thụy Điển, Nga, và Ba Lan. Dân cư tương đối thưa thớt; sức mạnh của nước này là tính kỷ luật mà nhờ đó nó có thể huy động nguồn lực hạn chế của mình. Tài sản lớn nhất của nước này là ý thức công dân, một bộ máy hành chính hiệu quả và một đội quân được huấn luyện tốt. Khi Frederick II lên ngôi năm 1740, ông dường như là ứng viên không ngờ đối với sự vĩ đại mà lịch sử đã ban cho ông. Nhận thấy địa vị thái tử phải tuân thủ kỷ luật quá khắt khe, ông đã cố chạy trốn sang Anh cùng với một người bạn tên là Hans Hermann von Katte. Hai người bị bắt. Nhà vua ra lệnh chặt đầu von Katte ngay trước mặt Frederick, sau khi đưa ra một tòa án quân sự do chính Nhà vua đứng đầu. Nhà vua chất vấn con trai mình bằng 178 câu hỏi mà Frederick đã trả lời khôn khéo tới mức được vua cha phục chức. Frederick sống sót qua lần trải nghiệm sinh tử này chỉ có thể bằng cách áp dụng tinh thần trách nhiệm khắc khổ của vua cha và hình thành một thái độ bất tín xã hội nói chung đối với đồng loại. Frederick cho rằng quyền cá nhân của mình là tuyệt đối, nhưng các chính sách của ông bị bó cứng trong khuôn khổ các nguyên tắc raison d’état (lợi ích quốc gia) mà Richelieu đã đề ra từ một thế kỷ trước đó. Cương lĩnh của ông cho rằng “Những người cai trị là nô lệ cho các nguồn lực của họ, lợi ích quốc gia là luật của họ và luật này bất khả xâm phạm.” Dũng cảm và lãng tử (Frederick nói và viết bằng tiếng Pháp, sáng tác những bài thơ tình lãng mạn bằng tiếng Pháp ngay cả khi đang trong các chiến dịch quân sự, đặt phụ đề cho một trong những tác phẩm văn chương của mình là “Pas mal trop pour la veille d’une grande bataille” (Không quá tệ trước một trận đấu lớn), ông là hiện thân cho thời đại mới về quản lý nhà nước Khai sáng qua chế độ độc tài nhân từ, có được sự chính danh nhờ tính hiệu quả của nó chứ không phải do ý thức hệ. Frederick kết luận rằng vị thế đại cường quốc đòi hỏi sự liên tục về lãnh thổ đối với nước Phổ và sau đó là bành trướng. Không cần thiết phải có bất kỳ biện minh chính trị hay đạo đức nào khác. “Tính ưu việt của quân đội của chúng ta, tính sẵn sàng hành động mà nhờ đó chúng ta có thể đưa quân vào chiến đấu ngay, nói tóm lại, lợi thế hiển nhiên mà chúng ta hơn hẳn các nước láng giềng của chúng ta” là tất cả sự biện minh mà Frederick cần đến để thôn tính tỉnh Silesia giàu có và giàu truyền thống của nước Áo vào năm 1740. Xử lý vấn đề này như một vấn đề địa chính trị chứ không phải vấn đề hợp pháp hay đạo đức, Frederick tự sánh mình với Pháp (quốc gia coi Phổ như một đối trọng với Áo) và giữ lại Silesia trong đàm phán hòa bình năm 1742, tăng gần gấp đôi lãnh thổ và dân số của nước Phổ. Trong quá trình này, Frederick đã mang khói lửa chiến tranh trở lại hệ thống Âu châu vốn vẫn tồn tại trong hòa bình kể từ năm 1713 khi Hiệp ước Utrecht đặt dấu chấm hết cho tham vọng của Vua Louis XIV. Thách thức này đối với sự cân bằng quyền lực được thiết lập từ lâu khiến hệ thống theo Hòa ước Westphalia phải bắt đầu hoạt động. Cái giá để được thừa nhận là một thành viên mới vào trật tự Âu châu hóa ra là bảy năm chiến tranh thảm khốc. Giờ đây các liên minh bị đảo ngược, khi mà các đồng minh trước đây của Frederick tìm cách dập tắt các chiến dịch của ông ta, còn các địch thủ của họ thì nỗ lực khai thác lực lượng chiến đấu kỷ luật của nước Phổ cho mục đích riêng của mình. Xa xôi và bí ẩn, Nga lần đầu tiên bước vào một cuộc chiến vì sự cân bằng quyền lực ở châu Âu. Khi quân đội Nga đã ở ngay trước cửa ngõ của Berlin, Frederick đang mấp mé bên bờ chiến bại đã được cứu thoát vì Nữ Sa hoàng Elizabeth của Nga đột ngột băng hà. Là người hâm mộ Frederick từ lâu, vị Sa hoàng mới lên ngôi đã rút khỏi cuộc chiến. (Khi bị vây hãm ở Berlin tháng Tư năm 1945, Hitler mong đợi một sự kiện tương tự có thể so với cái gọi là Phép màu của Gia tộc Brandenburg[47], và được Joseph Goebbels[48]thông báo rằng điều đó đã xảy ra bởi Tổng thống Franklin D. Roosevelt từ trần.) Đế quốc La Mã Thần thánh chỉ còn là cái mã bên ngoài, không một quốc gia kình địch nào ở châu Âu đứng lên đòi quyền lực tối thượng. Hầu như tất cả những người trị vì khẳng định rằng họ cai trị bởi quyền thần thánh, một tuyên bố không bị bất kỳ đại cường quốc nào thách thức, nhưng họ chấp nhận rằng Thiên Chúa cũng ban cho nhiều vị vua khác điều tương tự. Do đó, các cuộc chiến tranh chỉ xảy ra vì những mục tiêu lãnh thổ hạn chế, không nhằm lật đổ những chính phủ và tổ chức hiện có và cũng không phải để áp đặt một hệ thống mới trong quan hệ giữa các quốc gia. Truyền thống đã ngăn cản những người trị vì cưỡng ép thần dân của họ đi lính cũng như hạn chế việc tăng thuế. Tác động của những cuộc chiến này lên dân số không là gì khi so với nỗi kinh hoàng của cuộc Chiến tranh Ba mươi năm hay những gì mà công nghệ và ý thức hệ gây ra hai thế kỷ sau đó. Trong thế kỷ 18, sự cân bằng quyền lực vận hành như một sân khấu mà ở đó “cuộc sống và giá trị được phô bày giữa những nét tráng lệ, tao nhã, hào hoa và khuếch trương lòng tự tin tuyệt đối.” Sự vận hành quyền lực đó bị kiềm chế bởi nhận thức rằng hệ thống này sẽ không dung tha cho những khát vọng bá quyền. Những trật tự quốc tế ổn định nhất có lợi thế về nhận thức đồng nhất. Các chính khách điều hành trật tự Âu châu ở thế kỷ 18 là những nhà quý tộc diễn giải những khái niệm trừu tượng như danh dự và nghĩa vụ theo cùng một cách và nhất trí về những điều căn bản. Họ đại diện cho một xã hội tinh hoa duy nhất nói cùng một ngôn ngữ (tiếng Pháp), thường đến các salon[49] và theo đuổi những mối quan hệ lãng mạn ở các thủ đô của nhau. Tất nhiên, các lợi ích quốc gia là khác nhau, nhưng trong một thế giới mà một ngoại trưởng có thể phục vụ một quốc vương khác quốc tịch (cho đến năm 1820, tất cả các ngoại trưởng của Nga đều được tuyển dụng từ nước ngoài), hoặc khi một lãnh thổ có thể thay đổi liên minh quốc gia của nó vì một hiệp ước hôn nhân hoặc một sự thừa kế ngẫu nhiên, sẽ luôn có một cảm giác giống nhau bao trùm. Những tính toán quyền lực trong thế kỷ 18 diễn ra trong bối cảnh tốt đẹp này của một ý thức chung về tính chính danh và những quy tắc bất thành văn trong ứng xử quốc tế. Sự đồng thuận này không chỉ là vấn đề xã giao; nó phản ánh những niềm tin tinh thần vững chắc về một triển vọng chung châu Âu. Châu Âu chưa bao giờ từng đoàn kết hay tự giác hơn trong giai đoạn được nhìn nhận là Thời kỳ Khai sáng này. Những thành tựu mới về khoa học và triết học bắt đầu thay thế những điều từng được đoan chắc về truyền thống và đức tin đang bị rạn nứt của châu Âu. Sự tiến bộ nhanh chóng về trí tuệ trên nhiều lĩnh vực – vật lý, hóa học, thiên văn học, lịch sử, khảo cổ học, vẽ bản đồ, lý luận – thúc đẩy một tinh thần khai sáng thế tục mới cho rằng sự khám phá tất cả các cơ chế tiềm tàng trong tự nhiên sẽ chỉ còn là vấn đề thời gian. “Hệ thống thực sự của thế giới này đã được công nhận, phát triển và hoàn thiện,” nhà bác học xuất chúng người Pháp Jean Le Rond d’Alembert đã thể hiện tinh thần của thời đại khi viết những dòng sau vào năm 1759: Tóm lại, từ Trái đất tới sao Thổ, từ lịch sử các thiên thể tới lịch sử các loài côn trùng, triết học tự nhiên đã được cách mạng hóa; và gần như tất cả các lĩnh vực kiến thức khác đã khoác lên mình những hình thức mới… Sự phát hiện và ứng dụng một phương pháp lập luận triết học mới, kiểu nhiệt tình đi cùng với những khám phá, niềm vui sướng với những ý tưởng mà cảnh tượng vũ trụ bao la tạo ra trong chúng ta, tất cả những nguyên nhân này đã mang đến một sự sục sôi tâm trí sống động. Như một dòng sông bị vỡ đập, nước tràn về mọi hướng, sự sục sôi này đã cuốn đi tất cả mọi thứ cản đường nó với chút bạo lực. Bản thân sự “sục sôi” này dựa trên một tinh thần phân tích mới và sự kiểm nghiệm chặt chẽ tất cả các giả thuyết. Trong một nỗ lực được biến thành biểu tượng bởi 28 tập Bách khoa Toàn thư mà d’Alembert đồng chủ biên trong khoảng thời gian từ năm 1751 đến năm 1772, việc thăm dò và hệ thống hóa tất cả các kiến thức cho thấy một vũ trụ phi thần thánh hóa mà con người có thể nhận thức được với tư cách nhân vật trung tâm và là người diễn giải vũ trụ. Denis Diderot – đồng nghiệp của d’Alembert – viết rằng kiến thức phi thường sẽ được kết hợp với “nhiệt huyết vì lợi ích cao nhất của loài người.” Sự hữu lý sẽ đối đầu với sự giả dối bằng những “nguyên tắc cứng rắn [để] làm nền tảng cho những sự thật hoàn toàn ngược lại,” theo đó “chúng ta sẽ có thể làm sụp đổ toàn bộ kiến trúc bảo thủ, lạc hậu và vứt bỏ đống bụi vu vơ, không căn cứ” và thay vào đó là “đưa con người đi đúng hướng.” Chắc chắn, cách tư duy và phân tích mới này được áp dụng cho các khái niệm về quản lý nhà nước, tính chính danh chính trị và trật tự quốc tế. Nam tước xứ Montesquieu[50] và là nhà triết học chính trị Charles-Louis de Secondat áp dụng các nguyên tắc của sự cân bằng quyền lực vào chính sách đối nội bằng cách miêu tả một khái niệm kiểm soát và cân bằng mà sau này được thể chế hóa trong Hiến pháp Mỹ. Ông tiếp tục phát triển quan điểm đó thành một triết lý về lịch sử và về các cơ chế thay đổi xã hội. Nghiên cứu lịch sử của nhiều xã hội khác nhau, Montesquieu kết luận rằng các sự kiện không bao giờ diễn ra ngẫu nhiên. Luôn luôn có một căn nguyên sâu xa mà sự hữu lý có thể tìm ra và sau đó định hình thành lợi ích chung: Không phải là sự giàu có cai trị thế giới… Có những nguyên nhân dễ hiểu mang tính quy luật tự nhiên trong mọi chế độ quân chủ dẫn đến sự trỗi dậy, duy trì và sụp đổ của nó. Tất cả những điều [có vẻ] ngẫu nhiên tuân theo những nguyên nhân này, và bất kỳ khi nào một trận chiến xảy ra ngẫu nhiên, nghĩa là một nguyên nhân cụ thể, xóa sổ một quốc gia, đồng thời một nguyên nhân chung cũng tồn tại dẫn đến sự sụp đổ của quốc gia đó như là hậu quả của một trận chiến duy nhất. Tóm lại, chính nhịp độ tiến triển chung của mọi thứ đã kéo theo tất cả các sự kiện đặc biệt cùng với nó. Là nhà triết học vĩ đại nhất của thời kỳ Khai sáng, Immanuel Kant[51] đã đi xa hơn Montesquieu một bước nữa khi phát triển khái niệm về một trật tự thế giới hòa bình mãi mãi. Từ cố đô Königsberg của nước Phổ, ông suy ngẫm về thế giới, chú tâm vào những giai đoạn cuộc Chiến tranh Bảy năm, Chiến tranh Cách mạng Mỹ và cuộc Cách mạng Pháp, để nhìn thấy trong cuộc biến động chung những khởi đầu mong manh của một trật tự quốc tế mới, hòa bình hơn. Kant lý luận: nhân loại được đặc trưng bởi một “tính hòa đồng phi xã hội”,“tuy nhiên, xu hướng đến với nhau trong cùng một xã hội luôn đi kèm với nó là một sự kháng cự liên tục luôn đe dọa phá tung xã hội này.” Vấn đề về trật tự, nhất là trật tự quốc tế, là vấn đề “khó khăn nhất và có thể được loài người giải đáp sau cùng.” Con người thành lập các nhà nước để giới hạn những cảm xúc mạnh mẽ của họ, nhưng cũng giống như các cá thể trong trạng thái tự nhiên, mỗi nhà nước tìm cách bảo vệ tình trạng tự do tuyệt đối của nó, thậm chí phải trả cái giá bị mang danh “một nhà nước tàn bạo, vô luật.” Nhưng “sự tàn phá, biến động, và thậm chí tình trạng kiệt sức hoàn toàn bên trong của các cường quốc” nảy sinh từ những cuộc đụng độ giữa các nước theo thời gian sẽ bắt buộc con người suy ngẫm về một giải pháp thay thế. Nhân loại phải đối mặt với hoặc nền hòa bình của “một nghĩa địa khổng lồ của loài người” hoặc nền hòa bình dựa trên bản thiết kế hữu lý. Kant kết luận: Câu trả lời là một liên bang tự nguyện của các nền cộng hòa cam kết về hành vi nội bộ và quốc tế minh bạch, không thù địch. Không giống như những kẻ cai trị chuyên chế, các công dân của họ sẽ vun đắp hòa bình, vì khi xem xét hành động chiến tranh, họ sẽ cân nhắc về “việc bản thân mình phải gánh chịu tất cả những khổ đau của chiến tranh.” Qua thời gian, những điểm hấp dẫn của khế ước này sẽ trở nên rõ ràng, mở đường hướng tới sự mở rộng dần dần của nó thành một trật tự thế giới hòa bình. Mục đích của Tự nhiên là nhân loại theo lý trí rốt cuộc sẽ hướng về “một hệ thống quyền lực thống nhất, do đó là một hệ thống quốc tế về an ninh chính trị chung” và “một kết hợp dân sự hoàn hảo của nhân loại.” Sự tự tin gần như xấc xược vào quyền năng của lý trí phần nào phản ánh một hình thái mà người Hy Lạp gọi là ngạo mạn, một kiểu tinh thần tự hào mang sẵn trong mình những hạt giống của sự hủy diệt. Các nhà triết học thời kỳ Khai sáng bỏ qua một vấn đề chính: Liệu những trật tự chính phủ được các nhà tư tưởng thiết kế từ con số không, hay là một phạm vi lựa chọn bị những thực tại và văn hóa căn bản hạn chế (quan điểm của Burke)? Liệu có một khái niệm và cơ chế duy nhất thống nhất logic tất cả mọi thứ, theo cách mà có thể được phát hiện và diễn giải (như d’Alembert và Montesquieu đã lập luận), hay là thế giới quá phức tạp và nhân loại quá đa dạng tới mức không thể chỉ tiếp cận logic những câu hỏi này mà phải cần đến một kiểu trực giác và một yếu tố gần như bí truyền về thuật trị quốc? Các nhà triết học Khai sáng ở lục địa châu Âu thường chọn chủ nghĩa duy lý hơn là quan điểm hữu cơ của tiến trình chính trị. Trong tiến trình đó, một cách không chủ ý và trên thực tế ngược hẳn với chủ định của mình, họ đã góp phần tạo ra một biến động đã giằng xé châu Âu trong nhiều thập kỷ và hậu quả của nó vẫn còn cho đến ngày nay. CÁCH MẠNG PHÁP VÀ HẬU QUẢ CỦA NÓ C ác cuộc cách mạng là đáng lo ngại nhất khi gần như là không thể được đoán trước. Tương tự như vậy với cuộc Cách mạng Pháp, cuộc cách mạng tuyên bố một trật tự trong nước và thế giới khác với hệ thống theo Hòa ước Westphalia như nó đáng lẽ phải vậy. Từ bỏ sự tách biệt giữa chính sách đối nội và đối ngoại, nó làm sống lại – và có lẽ phóng đại lên – những cảm xúc mạnh mẽ của cuộc Chiến tranh Ba mươi năm, một cuộc thập tự chinh thế tục thay cho sự thôi thúc tôn giáo của thế kỷ 17. Nó cho thấy những thay đổi nội bộ trong các xã hội có thể làm rung chuyển trạng thái cân bằng quốc tế sâu sắc hơn một cuộc xâm lược từ nước ngoài như thế nào, một bài học có thể được rút ra từ những biến động của thế kỷ 20, nhiều trong số đó được rút ra rõ ràng từ những khái niệm mà thoạt đầu đã được Cách mạng Pháp thúc đẩy. Những cuộc cách mạng nổ ra khi hàng loạt những nỗi oán hận thường là khác nhau hợp nhất lại để tấn công một chế độ không phòng bị. Liên minh cách mạng càng rộng lớn, khả năng phá hủy các mô hình quyền lực hiện có của nó càng lớn. Nhưng thay đổi càng sâu rộng càng cần nhiều bạo lực để tái thiết quyền lực mà thiếu nó xã hội sẽ tan rã. Sự ngự trị của nỗi khiếp sợ không phải là ngẫu nhiên mà là cố hữu trong phạm trù cách mạng. Cuộc Cách mạng Pháp xảy ra ở quốc gia giàu có nhất của châu Âu, dù chính phủ nước này lúc đó đang tạm thời bị phá sản. Sự thúc đẩy ban đầu của nó có thể truy nguyên tới những người lãnh đạo cách mạng – chủ yếu là những nhà quý tộc và giai cấp tư sản thượng lưu – những người tìm cách đưa việc cai quản đất nước của họ vào khuôn khổ các nguyên tắc của thời kỳ Khai sáng. Nó đạt được đà thắng thế mà những nhà cách mạng không lường trước được và tầng lớp tinh hoa cầm quyền thịnh hành khi đó cũng không thể hình dung được. Tại trung tâm của nó là sự sắp xếp lại trật tự trên một quy mô chưa từng có ở châu Âu kể từ khi chấm dứt những cuộc chiến tranh tôn giáo. Đối với những nhà cách mạng, trật tự của con người không phản ánh kế hoạch thần thánh trong thế giới Trung cổ, cũng không phản ánh những lợi ích ăn khớp nhau của các triều đại lớn ở thế kỷ 18. Giống như hậu duệ của họ trong các phong trào độc tài toàn trị ở thế kỷ 20, những nhà triết học của Cách mạng Pháp đánh đồng cơ chế lịch sử với sự vận hành trọn vẹn của ý chí nguyện vọng chung của dân chúng, mà theo định nghĩa không thể chấp nhận một giới hạn cố hữu hay theo hiến pháp nào và họ tự dành cho bản thân sự độc quyền xác định (ý chí nguyện vọng chung đó). Ý chí nguyện vọng chung của dân chúng được hình thành theo cách này hoàn toàn khác biệt với khái niệm về nguyên tắc đa số phổ biến ở nước Anh, hoặc khái niệm về kiểm soát và cân bằng trong một bản hiến pháp thành văn như ở Mỹ. Những tuyên bố của các nhà cách mạng Pháp vượt xa khái niệm của Richelieu về thẩm quyền của nhà nước bằng cách trao quyền lãnh đạo tối cao cho một khái niệm trừu tượng – không phải một cá nhân nào mà là toàn thể nhân dân như những chủ thể không thể tách rời đòi hỏi tính thống nhất về tư tưởng và hành động – và sau đó tự chỉ định mình là người phát ngôn và trên thực tế là hiện thân của nhân dân. Jean-Jacques Rousseau[52]– lãnh đạo tinh thần của cuộc Cách mạng – trình bày tuyên bố chung này một cách hệ thống trong một loạt tác phẩm với sự uyên bác và hấp dẫn làm lu mờ những tác động sâu rộng của chúng. Dẫn dắt người đọc từng bước đi qua một phân tích “hợp lý” về xã hội loài người, Rousseau lên án tất cả những thể chế hiện có – quyền sở hữu, tôn giáo, các giai tầng xã hội, cơ quan chính phủ, xã hội dân sự – là hão huyền và gian lận. Thay thế chúng sẽ là một “nguyên tắc quản lý mới trong trật tự xã hội.” Quần chúng hoàn toàn tuân theo nguyên tắc này bằng sự phục tùng mà không một người trị vì nhân danh quyền thần thánh nào có thể hình dung được, ngoại trừ Sa hoàng Nga, đối với ông ta thì toàn dân không thuộc giới quý tộc và những cộng đồng ở biên giới khắc nghiệt ngoài dãy Urals đều là nông nô. Những lý thuyết này báo trước chế độ độc tài toàn trị hiện đại, trong đó ý chí nguyện vọng chung của dân chúng sẽ chuẩn thuận các quyết định đã được loan báo từ trước bằng các hình thức biểu tình do quần chúng tạo dựng nên. Theo đuổi ý thức hệ này, tất cả các chế độ quân chủ đúng nghĩa bị coi như kẻ thù; vì họ sẽ không từ bỏ quyền lực mà không kháng cự lại, do đó để thắng thế, cách mạng phải tự biến nó thành một phong trào quốc tế có sự vận động lớn để đạt được hòa bình thế giới thông qua việc áp đặt những nguyên tắc của nó. Nhằm thúc đẩy hệ thống trật tự mới này trên khắp châu Âu, toàn bộ nam giới trưởng thành của Pháp phải thực hiện nghĩa vụ quân sự. Cách mạng dựa trên một đề xuất tương tự như đề xuất của Hồi giáo một thiên niên kỷ trước và của chủ nghĩa cộng sản trong thế kỷ 20: Việc không thể chung sống lâu dài giữa các quốc gia có những quan niệm chân lý tôn giáo hay chính trị khác nhau và sự biến các vấn đề quốc tế thành một cuộc đối đầu ý thức hệ toàn cầu được chiến đấu bằng bất kỳ phương tiện sẵn có nào và huy động tất cả các yếu tố của xã hội. Bằng cách như vậy, một lần nữa cách mạng hợp nhất chính sách đối nội và đối ngoại, tính chính danh và quyền lực, mà sự phân tách rõ ràng các yếu tố này trong dàn xếp của Hòa ước Westphalia đã hạn chế quy mô và cường độ của các cuộc chiến tranh ở châu Âu. Khái niệm về một trật tự quốc tế với những giới hạn quy định hành động của nhà nước đã bị vứt bỏ và bị thay thế bằng một cuộc cách mạng trường kỳ hoặc thắng lợi hoặc thất bại hoàn toàn. Tháng Mười một năm 1792, Nghị viện Pháp thách thức châu Âu bằng hai nghị quyết bất thường. Nghị quyết đầu tiên thể hiện một cam kết không giới hạn để mở rộng sự hỗ trợ quân sự của Pháp đối với cách mạng quần chúng ở bất kỳ nơi nào. Nghị quyết tuyên bố: Sau khi đã tự giải phóng, Pháp “sẽ mang tình huynh đệ và sự hỗ trợ tới tất cả các dân tộc muốn khôi phục tự do của họ.” Nghị viện đã tăng tầm quan trọng cho nghị quyết này bằng điều khoản rằng văn kiện đó sẽ được “dịch và phát hành bằng mọi ngôn ngữ.” Nghị viện đoạn tuyệt với trật tự thế kỷ 18 này theo cách không thể vãn hồi khi đưa nhà vua bị phế truất của Pháp lên máy chém vài tuần sau đó. Nó cũng tuyên chiến với Áo và xâm lược Hà Lan. Tháng Mười hai năm 1792, một nghị quyết thậm chí cấp tiến hơn được ban hành với phạm vi áp dụng còn rộng khắp hơn nhiều. Bất kỳ phong trào cách mạng nào cho rằng nghị quyết này có thể áp dụng được đối với nó sẽ được mời “điền vào chỗ trống” của một văn kiện ghi “Nhân dân Pháp gửi Nhân dân...”, văn kiện này tán thành cuộc cách mạng tình hữu nghị anh em sắp tới và cam kết hỗ trợ cho “việc trấn áp tất cả những chính quyền dân sự và quân sự đã cai trị các bạn cho tới ngày hôm nay.” Ngụ ý có phạm vi vô hạn, quá trình này là không thể đảo ngược: “Quốc gia Pháp tuyên bố sẽ coi như kẻ thù những ai chối bỏ quyền tự do và quyền bình đẳng hoặc không chấp nhận những quyền này, những kẻ mong muốn giữ, gợi nhớ lại, hoặc thương lượng với hoàng tử và những giai cấp đặc quyền.” Rousseau đã viết rằng “bất kỳ ai từ chối tuân theo ý chí nguyện vọng chung của dân chúng thì sẽ bị buộc phải (toàn tâm toàn ý) làm như vậy… Anh ta sẽ bị ép buộc (bằng vũ lực) trước khi được tự do.” Cách mạng mở rộng định nghĩa về tính chính danh này cho tất cả nhân loại. Để đạt được những mục tiêu rộng lớn và phổ quát như vậy, các nhà lãnh đạo của cuộc Cách mạng Pháp cố gắng thanh trừng mọi khả năng đối lập trong nước. “Triều đại Khủng bố” đã giết hàng nghìn người thuộc tầng lớp cai trị cũ và tất cả các đối thủ tình nghi trong nước, thậm chí cả những người ủng hộ mục tiêu của Cách mạng nhưng hoài nghi một số phương pháp của nó. Hai thế kỷ sau, những động cơ tương tự là cơ sở cho các cuộc thanh trừng ở Nga vào những năm 1930 và cuộc Cách mạng Văn hóa Trung Quốc trong những năm 1960 và 1970. Cuối cùng, trật tự đã được vãn hồi, như nó phải vậy nếu một quốc gia không bị tan rã. Một lần nữa, mô hình này lại bắt nguồn từ “nhà lập pháp vĩ đại” Rousseau. Vua Louis XIV đã trưng dụng nhà nước này phục vụ cho quyền lực hoàng gia; Cách mạng cưỡng bức người dân ủng hộ thiết kế của nó. Napoleon, người tự xưng là “Tổng tài Đệ nhất suốt đời” sau đó là Hoàng đế, đại diện cho một kiểu mới: “Đại đế” làm lay chuyển thế giới bằng sức mạnh ý chí của mình, tự cho mình sự chính danh bằng sức quyến rũ lôi cuốn và thành công cá nhân trong chỉ huy quân sự. Điều cốt yếu của vị Đại đế này là việc ông từ chối thừa nhận những giới hạn truyền thống và nhất quyết sắp xếp lại trật tự thế giới bằng thẩm quyền riêng của mình. Năm 1804, vào thời điểm cao trào trong lễ đăng quang Hoàng đế của mình, không như Charlemagne, Napoleon khi từ chối được chính danh hóa bởi một quyền lực khác hơn là chính mình, đã giật lấy vương miện từ tay Giáo hoàng, tự đội lên đầu và xưng Hoàng đế. Cách mạng không còn làm nên người lãnh đạo; mà chính người lãnh đạo định nghĩa Cách mạng. Khi chế ngự Cách mạng, Napoleon cũng đã tự biến mình thành người bảo đảm cho nó. Tuy nhiên, ông cũng thấy mình – mà không phải là vô cớ – là đỉnh cao của Thời kỳ Khai sáng. Ông hợp lý hóa hệ thống chính quyền Pháp, thiết lập hệ thống các tỉnh mà thông qua đó hệ thống hành chính của Pháp vận hành, và vẫn đang vận hành ngay cả khi những dòng chữ này đang được viết. Ông tạo ra Bộ luật Napoleon, mà các bộ luật thịnh hành ở Pháp và các nước châu Âu khác đều dựa trên đó. Ông chấp nhận tính đa dạng tôn giáo và khuyến khích chủ nghĩa duy lý trong chính phủ, nhằm mục đích cải thiện số phận người dân Pháp. Nó như thể vừa là hiện thân của Cách mạng, vừa là biểu hiện của Thời kỳ Khai sáng mà Napoleon khởi đầu để giành được địa vị thống trị và thống nhất châu Âu. Cho tới năm 1809, dưới sự lãnh đạo quân sự tài tình của ông, quân đội của Napoleon đã nghiền nát tất cả những đối thủ ở Tây và Trung Âu, cho phép ông vẽ lại bản đồ lục địa châu Âu như một bản thiết kế địa chính trị. Ông sáp nhập những lãnh thổ quan trọng vào Pháp và thành lập những nền cộng hòa vệ tinh ở những nơi khác, nhiều trong số đó do người thân của ông hay các tướng lĩnh Pháp cai trị. Một bộ luật thống nhất được đưa vào sử dụng ở khắp châu Âu. Hàng ngàn chỉ thị về các vấn đề kinh tế và xã hội đã được ban hành. Liệu Napoleon có trở thành người thống nhất một lục địa bị chia cắt kể từ khi La Mã sụp đổ? Hai trở ngại vẫn còn đó: Anh và Nga. Thống trị các vùng biển kể từ sau đại thắng của Phó Đô đốc Nelson[53] ở trận hải chiến Trafalgar[54] năm 1805, lúc bấy giờ Anh là bất khả xâm phạm nhưng không đủ mạnh để phát động một cuộc xâm lược đáng kể qua Eo biển Anh. Cũng như một thế kỷ rưỡi sau đó, nước Anh đơn độc ở Tây Âu, nhận thức được rằng một hiệp ước hòa bình với kẻ chinh phạt sẽ tạo điều kiện cho một cường quốc duy nhất hợp nhất các nguồn lực trên toàn lục địa và sớm hay muộn sẽ áp đảo sự thống trị của nước này trên các đại dương. Núp sau eo biển này, nước Anh chờ đợi Napoleon (và một thế kỷ rưỡi sau là Hitler) mắc một sai lầm mà sẽ cho phép nó tái xuất trên lục địa châu Âu về mặt quân sự như người bảo vệ sự cân bằng quyền lực. (Trong Thế chiến II, Anh cũng chờ Mỹ tham gia vào danh sách này.) Napoleon đã lớn lên dưới hệ thống triều đại ở thế kỷ 18, và thật kỳ lạ, chấp nhận tính chính danh của nó. Theo đó, là một người đảo Corse có địa vị nhỏ bé nơi quê nhà, theo định nghĩa thì ông không chính danh, điều đó có nghĩa rằng ít nhất trong tâm trí ông, sự trị vì của ông có chính danh hay không phụ thuộc vào sự trường kỳ, và trên thực tế là quy mô, của những cuộc chinh phục của ông. Khi nào vẫn còn một người không lệ thuộc vào ý chí của ông, Napoleon còn cảm thấy bắt buộc phải truy đuổi người đó. Không bị khái niệm, tính khí hay kinh nghiệm kiềm chế, ông tung quân vào Tây Ban Nha và Nga, dù không nước nào cần thiết cho một bản thiết kế địa chính trị. Napoleon không thể chấp nhận một trật tự quốc tế; tham vọng của ông là một đế chế rộng lớn ít nhất bằng cả lục địa châu Âu và vì thế ông cho rằng quyền lực của mình vẫn chưa đủ. Với những cuộc chiến tranh Cách mạng và chiến tranh Napoleon, thời đại chiến tranh tổng lực – huy động toàn bộ nguồn lực của một quốc gia – đã đến. Cảnh máu chảy, đầu rơi và quy mô tàn phá tương tự như cuộc Chiến tranh Ba mươi năm. Quân đội chủ lực của Napoleon (Grande Armée) giờ đây được huy động bằng cách cưỡng bức tòng quân, kể cả từ những vùng lãnh thổ bị sáp nhập, tự cung tự cấp và duy trì dựa trên những tài sản của kẻ thù và người dân bị chinh phục, bao gồm cả những khoản “cống nạp” tiền bạc khổng lồ. Kết quả là một sự gia tăng rất lớn quy mô đội quân này và sự khuất phục của toàn bộ khu vực. Không phải đến tận khi Napoleon không cưỡng nổi sự cám dỗ xâm nhập những vùng lãnh thổ có nguồn lực tại chỗ không đủ để cung cấp cho một đội quân khổng lồ (Tây Ban Nha và Nga) thì ông mới phải đối mặt với thất bại; ông từng thất bại lần đầu tiên do không lượng sức mình ở Nga vào năm 1812, và sau đó là khi phần còn lại của châu Âu liên kết để chống lại ông trong sự xác minh muộn màng của những nguyên tắc của Hòa ước Westphalia. Năm 1813, trong Chiến tranh Liên minh thứ sáu ở Leipzig[55], quân đội chung của các nước châu Âu còn tồn tại đã giáng cho Napoleon thất bại lớn đầu tiên và mang tính quyết định trong một trận đánh. (Thất bại ở Nga là do bị tiêu hao binh lực.) Sau Chiến tranh Liên minh thứ sáu, Napoleon cự tuyệt những dàn xếp mà lẽ ra đã cho phép ông giữ lại một số đất đai mà ông đã chinh phục được. Ông lo ngại rằng bất kỳ sự chấp nhận chính thức nào về những giới hạn sẽ triệt tiêu tuyên bố chính danh duy nhất của ông. Như thế, ông đã bị lật đổ bởi chính sự bất an của mình cũng như bởi các nguyên tắc của Hòa ước Westphalia. Kẻ chinh phạt hùng mạnh nhất châu Âu kể từ Charlemagne đã bị đánh bại không chỉ bởi một trật tự quốc tế nổi dậy chống lại ông mà bởi cả chính ông ta. Giai đoạn Napoleon đánh dấu đỉnh cao của thời kỳ Khai sáng. Lấy cảm hứng từ những ví dụ của Hy Lạp và La Mã, các nhà tư tưởng thời kỳ này đã đánh đồng sự khai sáng với sức mạnh của lý trí, ngụ ý một sự phân tán uy quyền từ Giáo hội cho giới tinh hoa thế tục. Giờ đây những khát vọng này đã được cô đọng hơn nữa và tập trung vào một lãnh đạo như là biểu trưng của quyền lực toàn cầu. Một câu chuyện minh họa cho ảnh hưởng của Napoleon xảy ra vào ngày 13 tháng Mười năm 1806, một ngày trước trận Jena, nơi quân Phổ bị đánh bại. Khi ông đi trinh sát trận địa với vị tướng tham mưu của mình, Georg Wilhelm Friedrich Hegel khi đó còn là một giảng viên đại học (người sau này viết cuốn Triết học Lịch sử, truyền cảm hứng cho học thuyết của Marx), đã miêu tả cảnh tượng này với những lời tán dương khi nghe tiếng vó ngựa vang trên đường: Tôi thấy Hoàng đế – linh hồn thế giới này – cưỡi ngựa ra khỏi thành phố đi trinh sát. Thật tuyệt vời khi được thấy một cá nhân xuất chúng đến dường này, người có mặt ở đây tại một thời khắc duy nhất, cưỡi ngựa đi khắp thế gian và làm chủ thế giới. Nhưng rốt cuộc, linh hồn thế giới này đã kéo theo vào châu Âu một cường quốc mới rộng vô biên ở châu Âu nhưng có tới ba phần tư lãnh thổ bao la ở châu Á là nước Nga đế quốc; quân đội của nước này đã truy đuổi lực lượng bị tổn thất nặng nề của Napoleon trở lại lục địa châu Âu và chiếm đóng Paris khi cuộc chiến tranh này kết thúc. Sức mạnh của cường quốc này làm dấy lên những vấn đề cơ bản về sự cân bằng quyền lực ở châu Âu và những tham vọng lớn của nó khiến cho sự quay trở lại với trạng thái cân bằng trước cách mạng là điều dường như không thể. Chương 2 HỆ THỐNG CÂN BẰNG QUYỀN LỰC Ở CHÂU ÂU VÀ KẾT THÚC CỦA NÓ BÍ ẨN NƯỚC NGA K hi kỷ nguyên của Cách mạng Pháp và Napoleon chấm dứt, quân đội Nga đang chiếm đóng Paris trong một sự đảo chiều lịch sử đáng kinh ngạc. Nửa thế kỷ trước, Nga mới lần đầu tiên bước vào cán cân quyền lực ở Tây Âu khi tham gia cuộc Chiến tranh Bảy năm[56] và đã cho thấy bản chất cai trị độc đoán của Sa hoàng khi đột nhiên tuyên bố trung lập và rút khỏi cuộc chiến, vì Sa hoàng mới đăng quang ngưỡng mộ Frederick Đại đế. Cuối thời kỳ Napoleon, một Sa hoàng khác là Alexander tiếp tục quyết định tương lai châu Âu. Tự do của châu Âu và hệ thống trật tự đi cùng với nó đòi hỏi sự tham gia của một đế quốc lớn hơn nhiều so với toàn bộ phần còn lại của châu Âu và chuyên quyền đến mức độ chưa từng có trong lịch sử châu Âu. Kể từ đó, Nga đã đóng một vai trò độc nhất trong các vấn đề quốc tế: là một phần của cán cân quyền lực ở cả châu Âu và châu Á nhưng lại chỉ đóng góp thất thường vào trạng thái cân bằng của trật tự quốc tế. Nước này đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh hơn so với bất kỳ cường quốc lớn đương thời nào khác, điều đã ngăn cản khả năng một cường quốc duy nhất thống trị châu Âu, kiên định chống lại Charles XII[57] của Thụy Điển, Napoleon và Hitler khi các yếu tố chủ chốt đảm bảo cân bằng ở lục địa bị phá vỡ. Chính sách của nước này đã theo đuổi một nhịp điệu đặc biệt của riêng mình qua nhiều thế kỷ, mở rộng trên một khu vực rộng lớn trải dài gần như mọi miền khí hậu và nền văn minh, đôi khi bị gián đoạn do nhu cầu cần phải điều chỉnh cơ cấu nội bộ theo tham vọng to lớn của kế hoạch đó, chỉ để quay lại như cơn thủy triều rút vào bờ. Từ Peter Đại đế[58] cho đến Vladimir Putin, dù hoàn cảnh thay đổi nhưng nhịp điệu đó vẫn đặc biệt nhất quán. Nổi lên từ những biến động của thời kỳ Napoleon, các nước Tây Âu kính nể và lo sợ khi chứng kiến một đất nước có lãnh thổ và lực lượng quân đội vượt trội lãnh thổ và quân đội của cả lục địa châu Âu, một đất nước mà tầng lớp tinh hoa của nước này dù có khéo léo, biết ngoại giao nhưng dường như khó có thể che giấu một thế lực nguyên thủy trước nền văn minh phương Tây và xa hơn thế. Từ góc nhìn của một nước Pháp bị kiềm chế và một châu Âu bị cường quốc Nga định hình lại, lữ hành người Pháp Marquis de Custine[59]tuyên bố năm 1843: Nga là một sự lai tạp mang sức sống của thảo nguyên đến trung tâm châu Âu: Một sự pha trộn kỳ quái giữa sự tao nhã lặt vặt của Byzantium và sự tàn bạo của bộ lạc du cư miền sa mạc, một cuộc đấu tranh giữa phép xã giao của Đế quốc Hạ vùng [Byzantine] và sự hoang dại của châu Á, đã sản sinh ra một nhà nước hùng mạnh mà châu Âu hiện chứng kiến và tạo ra những ảnh hưởng mà từ nay trở về sau lục địa này có lẽ sẽ cảm thấy nhưng không thể nào hiểu được sự vận hành của nó. Tất cả mọi điều về Nga – sự chuyên chế, diện tích, những tham vọng trải dài địa cầu và sự bất an của nước này – rõ ràng là sự thách thức đối với quan niệm truyền thống về trật tự quốc tế của châu Âu vốn được xây dựng trên sự cân bằng và kiềm chế. Vị thế của Nga ở trong và đối với châu Âu từ lâu đã mơ hồ. Trong khi đế chế của Charlemagne đã tan vỡ trong thế kỷ 9 thành những vùng sau này trở thành các quốc gia hiện đại là Pháp và Đức, các bộ tộc Slav cách đó hơn một ngàn dặm về phía đông đã liên kết thành một liên bang ở xung quanh thành phố Kiev (hiện là thủ đô và trung tâm địa lý của Ukraine, dù hầu hết người Nga đều nhận thức đó là một hợp phần không thể tách rời trong đất đai của cha ông họ). Miền “đất của người Nga” này là nơi giao nhau của rất nhiều nền văn minh và những tuyến đường thương mại. Với người Viking[60] ở phía bắc, Đế quốc Ả rập đang bành trướng ở phía nam và các bộ tộc người Thổ Nhĩ Kỳ cướp bóc ở phía đông, Nga thường xuyên chịu sự chi phối của những cám dỗ và nỗi sợ hãi trộn lẫn. Ở phía đông, quá xa để có trải nghiệm với Đế quốc La Mã (mặc dù các Sa hoàng tuyên bố những “Caesar” là tổ tiên chính trị và nguồn gốc từ “czar” của họ), người Ki-tô giáo tìm thấy quyền lực tôn giáo nơi Nhà thờ Chính Thống ở Constantinople chứ không phải ở La Mã, Nga đủ gần với châu Âu hơn để có cùng một vốn từ văn hóa chung nhưng lại luôn lệch pha với những xu hướng lịch sử của lục địa này. Kinh nghiệm này khiến Nga trở thành một cường quốc “Âu Á” độc nhất, trải dài trên hai lục địa nhưng chưa bao giờ hoàn toàn coi lục địa nào là nhà. Sự phân tách sâu sắc nhất xuất hiện cùng với các cuộc xâm lược của người Mông Cổ vào thế kỷ 13, những cuộc xâm lược đã khuất phục một nước Nga bị chia rẽ về chính trị và san bằng Kiev. Hai thế kỷ rưỡi dưới ách thống trị của người Mông Cổ (1237-1480) và cuộc đấu tranh sau đó nhằm khôi phục một nhà nước cố kết dựa trên Công quốc Moscow, đã áp đặt lên Nga một định hướng về phương Đông, cũng như Tây Âu đang vạch ra những viễn cảnh công nghệ và tri thức mới mà sẽ hình thành nên kỷ nguyên hiện đại. Trong kỷ nguyên châu Âu khám phá đường biển, Nga rất vất vả để tái thiết thành một quốc gia độc lập và củng cố biên giới chống lại những mối đe dọa từ mọi hướng. Khi cuộc Cải cách Tin Lành thúc đẩy sự đa dạng chính trị và tôn giáo ở châu Âu, Nga đã biến sự sụp đổ của ngôi sao dẫn đường về tôn giáo của mình (Constantinople và Đế quốc Đông La Mã bị sụp đổ trước sự xâm lược của người Hồi giáo năm 1453) thành một niềm tin gần như thần bí rằng (như giáo sĩ Filofei viết cho Ivan III[61] vào khoảng năm 1500) Sa hoàng giờ đây là “Hoàng đế duy nhất của tất cả những người theo Ki-tô giáo trong toàn vũ trụ” với lời kêu gọi của Chúa cứu thế để giành lại thủ đô Byzantine cho đạo Ki-tô. Châu Âu đang đi đến việc chấp nhận sự đa cực của nó như là một cơ chế nhằm đảm bảo cân bằng, nhưng Nga đang học được ý nghĩa của địa chính trị từ trường đời khắc nghiệt của thảo nguyên, nơi vô số bộ lạc du mục tranh giành các nguồn tài nguyên trên một địa hình mở với rất ít biên giới cố định. Ở đó những cuộc cướp bóc và bắt người của bộ lạc khác làm nô lệ diễn ra định kỳ, điều mà đối với một số người đó là lẽ sống; ở đây, độc lập đồng nghĩa với lãnh thổ mà một dân tộc có thể bảo vệ được mình. Nga khẳng định mối liên hệ của nó với văn hóa phương Tây, nhưng ngay cả khi bành trướng theo cấp số nhân, nước này tự coi là một tiền đồn của nền văn minh đang bị vây hãm mà chỉ có thể đảm bảo được bằng cách áp đặt ý chí chuyên chế của nó lên các nước láng giềng. Trong khái niệm trật tự theo Hòa ước Westphalia, các chính khách châu Âu định nghĩa an ninh là sự cân bằng quyền lực và kiềm chế sử dụng quyền lực. Theo kinh nghiệm lịch sử của Nga, kiềm chế sử dụng quyền lực đồng nghĩa với thảm họa: theo quan điểm này, việc Nga không thống trị được những vùng xung quanh mình đã khiến nước này bị Mông Cổ xâm lược và rơi vào “Thời kỳ Rối ren” ác mộng (khoảng thời gian 15 năm trong tình trạng vô chính phủ trước khi triều đại Romanov[62] được thành lập vào năm 1613, khi đó những cuộc xâm lược, nội chiến và nạn đói đã làm thiệt mạng một phần ba dân số của Nga). Hòa ước Westphalia coi trật tự quốc tế như một cơ chế cân bằng phức tạp; Nga coi trật tự quốc tế là cuộc chiến ý chí vĩnh viễn, trong cuộc chiến đó Nga bành trướng lãnh thổ của mình ở từng giai đoạn tới giới hạn tuyệt đối các nguồn lực vật chất của nó. Vì thế, khi được hỏi về chính sách đối ngoại của Nga, Bộ trưởng Nashchokin dưới thời Sa hoàng Alexei[63] vào giữa thế kỷ 17 đã miêu tả thẳng thắn,“Mở rộng nhà nước về mọi hướng và đây là công việc của Bộ Ngoại giao.” Quá trình này phát triển thành một quan điểm quốc gia và thúc đẩy Công quốc Moscow một thời mở rộng trên khắp châu Âu và châu Á để trở thành đế quốc có diện tích lớn nhất trên thế giới, trong sự thôi thúc bành trướng chậm rãi nhưng dường như không thể cưỡng lại được, và sẽ vẫn không hề suy giảm cho tới tận năm 1917. Do đó, năm 1903, học giả người Mỹ Henry Adams[64] ghi lại quan điểm của đại sứ Nga ở Washington (thời điểm đó Nga đã vươn tới Triều Tiên): Triết lý chính trị của ông ta, giống như của tất cả người Nga, dường như cố định trên ý tưởng duy nhất rằng Nga phải lăn – với quán tính không thể cưỡng lại được, nghiền nát bất kỳ cái gì ngăn cản nó… Khi Nga cán qua một dân tộc láng giềng, nước này đã hấp thụ năng lượng của họ vào xu hướng phong tục và chủng tộc của riêng nó mà cả Sa hoàng lẫn người nông dân không thể chuyển đổi, hay muốn chuyển đổi, thành bất kỳ điều gì tương đương với phương Tây. Không có biên giới tự nhiên nào ngoại trừ Bắc cực và Thái Bình Dương, Nga ở vị thế phải hài lòng với sự thôi thúc này trong nhiều thế kỷ, liên tục tiến vào Trung Á, sau đó là vùng Caucasus, rồi đến khu vực Balkan, Đông Âu, Scandinavia và Biển Baltic, cho tới Thái Bình Dương và các vùng biên giới của Trung Quốc và Nhật Bản (và trong một khoảng thời gian giữa thế kỷ 18 và thế kỷ 19 băng qua Thái Bình Dương tiến vào các khu định cư ở Alaska và California). Mỗi năm, nước này mở rộng một diện tích lớn hơn toàn bộ lãnh thổ của nhiều quốc gia châu Âu (trung bình 100.000 km2 mỗi năm từ năm 1552 đến năm 1917). Khi hùng mạnh, Nga hành xử với sự chắc chắn độc đoán của một siêu cường và nhất quyết yêu cầu các nước khác phải chính thức bày tỏ lòng tôn kính đối với vị thế của nó. Khi suy yếu, nước này che giấu sự dễ bị tổn thương của mình thông qua việc viện dẫn đến nguồn lực dự trữ to lớn ở trong nước. Trong cả hai trường hợp, đó là một thách thức đặc biệt đối với các thủ đô phương Tây vốn quen ứng phó với một phong cách có phần lịch sự hơn. Đồng thời, những chiến công bành trướng đáng sợ của Nga diễn ra trên một cơ sở nhân khẩu học và kinh tế mà nếu theo tiêu chuẩn phương Tây là không tiên tiến, với nhiều khu vực dân cư thưa thớt và dường như không được tiếp cận với văn hóa và công nghệ hiện đại. Vì vậy, đế quốc chinh phục thế giới này vẫn bị gắn liền với một cảm giác dễ bị tổn thương đầy nghịch lý, như thể hành quân nửa vòng Trái Đất đã tạo thêm nhiều kẻ thù tiềm năng hơn là có thêm sự đảm bảo an ninh. Từ quan điểm đó, đế chế của Sa hoàng có thể được cho là đã mở rộng bởi vì việc bành trướng có vẻ dễ tiếp tục hơn là ngừng lại. Trong bối cảnh này, một khái niệm riêng biệt của Nga về tính chính danh chính trị được định hình. Trong khi châu Âu ở thời kỳ Phục hưng tái khám phá quá khứ nhân văn cổ điển của nó và gọt giũa những khái niệm mới của chủ nghĩa cá nhân và tự do, Nga tìm kiếm sự trỗi dậy của nó trong đức tin thuần khiết và trong sự gắn kết của một quyền lực thần thánh duy nhất chế ngự tất cả những sự chia rẽ, Sa hoàng là “biểu tượng sống của Thiên Chúa,” những mệnh lệnh của ông là không thể chống lại và đương nhiên là chính đáng. Một đức tin Ki-tô và một ngôn ngữ tinh hoa chung (tiếng Pháp) nhấn mạnh sự tương đồng quan điểm với phương Tây. Tuy nhiên, những du khách châu Âu đầu tiên tới nước Nga của Sa hoàng thấy mình như đang ở một vùng đất của những thái cực gần như siêu thực và nghĩ rằng đằng sau vẻ ngoài của một chế độ quân chủ phương Tây hiện đại, họ đã thấy một chế độ chuyên quyền theo tập quán của người Mông Cổ và Tartar – “kỷ luật châu Âu hỗ trợ cho sự độc tài của châu Á” – theo nhận xét khắt khe của Marquis de Custine. Nga đã gia nhập hệ thống quốc gia châu Âu hiện đại dưới thời Peter Đại đế theo cách không giống như bất kỳ xã hội nào khác. Ở cả hai bên, sự gia nhập này là sự chấp nhận thận trọng. Peter sinh năm 1672 khi Nga về cơ bản vẫn ở thời Trung cổ. Vào lúc đó, Tây Âu đã phát triển qua thời kỳ Khám phá, Phục hưng và Cải cách; và đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc cách mạng khoa học và thời kỳ Khai sáng. Là người cao lớn (tới 2m03) và tràn đầy sinh lực, vị Sa hoàng trẻ tuổi bắt đầu biến đổi đế chế của mình trong một triều đại thể hiện cực đoan rất nhiều đặc điểm và khát vọng của Nga. Quyết tâm khám phá những thành quả của hiện đại và so sánh chúng với những thành tựu của Nga, Peter thường xuyên ghé thăm các cửa hàng và nhà máy trong khu vực của người Đức lưu vong ở Moscow. Là một vị vương trẻ, ông đi khắp thủ đô các nước phương Tây để đích thân thử nghiệm các kỹ thuật hiện đại và các môn học chuyên ngành. Khi thấy Nga lạc hậu so với phương Tây, Peter tuyên bố mục tiêu của mình,“cắt đứt người dân khỏi những phong tục châu Á trước đây và hướng dẫn họ theo cách xử sự của tất cả những người Ki-tô giáo ở châu Âu.” Một loạt sắc chỉ được ban hành: Nga sẽ áp dụng cách xử sự và kiểu tóc phương Tây, tìm kiếm công nghệ nước ngoài, xây dựng quân đội và hải quân hiện đại, mở rộng biên giới bằng các cuộc chiến với hầu hết các nước láng giềng, vượt qua Biển Baltic và xây dựng một thủ đô mới ở St. Petersburg. Cuối cùng,“cửa sổ ra phương Tây” của Nga được một lực lượng lao động cưỡng bức, bị lính đánh đập và chịu nhiều thương vong, xây dựng bằng tay không trên một vùng đầm lầy hoang dã do đích thân Peter chọn, khi ông đâm thanh kiếm của mình xuống đất và tuyên bố: “Nơi này sẽ là một thành phố.” Khi những người theo chủ nghĩa truyền thống nổi loạn, Peter đã dẹp tan họ và ít nhất là theo các câu chuyện đến được với thế giới phương Tây, ông đã đích thân tra tấn và chặt đầu những người lãnh đạo cuộc nổi loạn. Thành tựu xuất sắc của Peter đã biến đổi xã hội Nga và đưa đế chế của ông lên hàng đầu các cường quốc ở phương Tây. Tuy nhiên, sự biến đổi đột ngột này để lại cho Nga những bất an của một “gã nhà giàu mới nổi.” Không ở một đế quốc nào mà người trị vì tuyệt đối cảm thấy cần phải nhắc nhở thần dân của mình bằng văn bản rằng “Nga là một quốc gia châu Âu. Điều này được chứng minh rõ ràng bởi những nhận định sau” như người kế vị Peter là Catherine Đại đế[65] đã làm vậy ở nửa thế kỷ sau đó. Những cải cách của Nga luôn được những nhà chuyên chế tàn nhẫn thực hiện trên những người dân dễ sai khiến, với ước muốn vượt qua quá khứ của nó hơn là được thúc đẩy bởi niềm tin vào tương lai. Tuy nhiên, như những nhà cải cách và nhà cách mạng kế vị của mình, khi triều đại của ông ta đã qua, thần dân của ông và con cháu của họ ghi công ông vì đã thúc đẩy họ, dù tàn nhẫn đến đâu, để đạt được những thành tựu mà bản thân họ đã hầu như không kiếm tìm. (Theo các cuộc thăm dò gần đây, Stalin cũng được ghi công như vậy trong suy nghĩ của người Nga đương đại.) Catherine Đại đế – nhà cải cách chuyên chế của Nga từ năm 1762 đến năm 1796 và là người giám sát một thời kỳ lịch sử của thành tựu văn hóa và mở rộng lãnh thổ (bao gồm cả cuộc chinh phục Hãn quốc Crimea của Nga và khuất phục Zaporizhian Host, vương quốc Cossack tự trị xưa kia ở vùng ngày nay là miền Trung Ukraine) – biện minh cho chế độ chuyên chế cực đoan của Nga như là hệ thống chính quyền duy nhất có thể đảm bảo sự thống nhất của một vùng lãnh thổ rộng lớn đến vậy: Quy mô của lãnh thổ tự trị đòi hỏi một quyền lực tuyệt đối được trao cho người cai trị nó. Điều này là thích hợp khi các công văn dù được nhanh chóng gửi đi từ những miền xa xôi, có thể phải sửa đổi rất nhiều do đến chậm vì khoảng cách quá xa. Bất kỳ hình mẫu chính quyền nào khác sẽ không chỉ gây phương hại tới Nga mà thậm chí còn dẫn đến sự sụp đổ toàn diện. Do đó, những gì phương Tây coi là độc tài chuyên chế được Nga coi như một điều cần thiết căn bản, điều kiện tiên quyết cho sự cai trị thành công. Như Hoàng đế Trung Hoa, Sa hoàng là người cai trị tuyệt đối theo truyền thống, được trao những quyền năng huyền bí và giám sát một lãnh thổ rộng lớn cấp châu lục. Tuy nhiên, vị trí của Sa hoàng khác với Hoàng đế Trung Hoa ở một khía cạnh quan trọng. Theo quan điểm của Trung Quốc, Hoàng đế trị vì khắp thiên hạ thông qua sự cai trị anh minh; theo quan điểm của Nga, sự lãnh đạo của Sa hoàng chủ yếu thông qua khả năng áp đặt ý chí của mình thông qua việc khẳng định quyền lực không thể bị thách thức và gây ấn tượng với tất cả mọi người về sức mạnh áp đảo của nhà nước Nga. Hoàng đế Trung Hoa được coi là hiện thân về tính ưu việt của nền văn minh Trung Hoa, truyền cảm hứng cho những người khác “hãy đến và được thay đổi.” Sa hoàng được coi là hiện thân của việc bảo vệ Nga trước kẻ thù xung quanh nó từ mọi hướng. Do đó, trong khi các hoàng đế được ca tụng vì lòng nhân từ không thiên vị của bậc bề trên, nhà sử học thế kỷ 19 Nikolai Karamzin[66]thấy trong sự hà khắc của Sa hoàng một dấu hiệu thể hiện ông đang thực thi sứ mệnh đích thực của mình: Ở Nga, người cầm quyền tối cao là luật pháp sống. Ông ưu ái người tốt và trừng phạt kẻ xấu… [Một] trái tim nhân từ ở một quốc vương chỉ được coi là đức tính tốt khi nó được tôi luyện với trách nhiệm sử dụng sự nghiêm khắc một cách hợp lý. Không như Mỹ trong quá trình mở rộng về phía tây, Nga luôn biện minh về mặt đạo đức cho những cuộc chinh phạt của mình, rằng nước này đang mở rộng trật tự và khai sáng tới những vùng đất ngoại đạo (trong đó, việc buôn bán lông thú và khoáng chất sinh lợi béo bở là lợi ích phụ). Tuy nhiên, trong khi tầm nhìn của Mỹ truyền cảm hứng lạc quan vô bờ bến, kinh nghiệm của Nga rốt cuộc dựa trên sự chịu đựng khắc kỷ. Mắc kẹt “tại điểm giao của hai thế giới rộng lớn và không thể hòa hợp,” Nga thấy bản thân mình có sứ mệnh đặc biệt là kết nối hai thế giới này, nhưng lại phải đối phó ở khắp mọi hướng với những lực lượng chống đối mà đã không hiểu được sứ mệnh này. Nhà văn vĩ đại và nhà dân tộc chủ nghĩa nhiệt thành người Nga Fyodor Dostoevsky[67] viện dẫn “luôn cố hữu trong người dân Nga một niềm khao khát không ngừng về một nhà thờ chung vĩ đại trên Trái Đất.” Sự tán dương về việc Nga tổng hợp các nền văn minh trên toàn thế giới gợi lên một sự tuyệt vọng tương ứng về vị thế của Nga (theo lời của một bài phê bình có ảnh hưởng vào thế kỷ 19) một “đứa trẻ mồ côi bị tách rời khỏi gia đình nhân loại… Để mọi người chú ý đến chúng ta, chúng ta đã phải trải rộng từ Eo biển Bering[68]tới sông Oder[69].” Trong “tâm hồn Nga” bành trướng và khổ đau (như các nhà tư tưởng Nga có lẽ gọi như vậy), vẫn tồn tại một niềm tin rằng một ngày nào đó tất cả những nỗ lực lớn lao và mâu thuẫn của Nga sẽ gặt hái kết quả, cuộc hành trình của nước này sẽ được minh oan; những thành tựu của nó sẽ được khen ngợi và sự khinh thị của phương Tây sẽ biến thành nỗi kính sợ và lòng ngưỡng mộ; Nga sẽ kết hợp sức mạnh và sự rộng lớn của phương Đông với sự tinh tế của phương Tây và với cả sức mạnh tinh thần của tôn giáo đích thực; kết hợp Moscow – “La Mã thứ ba” kế thừa vai trò quan trọng của thành Byzantium sụp đổ – với Sa hoàng là “người kế nhiệm của những vị caesars của (đế quốc) Đông La Mã, của những người tổ chức Giáo hội và các hội đồng của nó mà đã định hình chính tín ngưỡng của đức tin Ki-tô” sẽ đóng vai trò quyết định trong việc mở ra một kỷ nguyên mới của công lý và tình huynh đệ toàn cầu. Ở châu Âu nhưng không hoàn toàn thuộc về lục địa này, chính Nga với sự bao la rộng lớn và bí ẩn của nó đã khiến Napoleon thèm muốn; và chính sự thảm bại của ông ta (giống như của Hitler một thế kỷ rưỡi sau đó) khi nhân dân Nga, được tôi luyện trong gian nan thử thách, đã chứng minh khả năng chịu đựng sự thiếu thốn hơn quân đội chủ lực của Napoleon (hay quân đoàn của Hitler). Khi những người dân Nga thiêu rụi bốn phần năm Moscow để ngăn Napoleon chinh phạt thành công và quân đội của ông ta mất nguồn lương thực, Napoleon, với chiến lược vĩ đại giờ đã thất bại, được kể là đã phải thốt lên,“Thật là một dân tộc! Những người Scythia[70]! Thật cương quyết! Lũ người man rợ!” Giờ đây, khi những kỵ binh Cossack uống rượu sâm banh ở Paris, nhà nước độc tài khổng lồ này hiện ra trước một châu Âu cố gắng hiểu tham vọng và phương pháp vận hành của nó. Khi Hội nghị thành Vienna diễn ra, Nga có lẽ là quốc gia hùng mạnh nhất trên lục địa châu Âu. Đích thân đại diện Nga tại hội nghị hòa bình Vienna, Sa hoàng Alexander rõ ràng là người trị vì chuyên chế nhất của nước này. Là người có niềm tin sâu sắc và nếu có thay đổi thì do chẳng qua ông vừa làm mới đức tin tôn giáo của mình sau khi đọc rất nhiều tài liệu về Kinh Thánh và có những tham vấn tâm linh. Như ông đã viết cho một người bạn tâm giao vào năm 1812, ông tin rằng chiến thắng trước Napoleon sẽ mở ra một thế giới mới và hài hòa dựa trên các nguyên tắc tôn giáo, và ông thề: “Tôi nguyện hiến dâng tất cả vinh quang của mình trên thế giới này để đẩy nhanh sự ngự trị đích thực của Chúa Jesus.” Tự coi mình là một công cụ của thánh ý, Sa hoàng đến thành Vienna năm 1814 với một bản thiết kế cho một trật tự thế giới mới xét trên một số khía cạnh còn triệt để hơn so với của Napoleon về độ phổ quát: Một “Liên minh Thần thánh” của các hoàng thân che giấu những lợi ích quốc gia của mình thành việc cùng kiếm tìm hòa bình và công lý, thề từ bỏ cân bằng quyền lực để đổi lấy các nguyên tắc về tình huynh đệ của Thiên Chúa giáo. Như Alexander nói với nhà trí thức và cũng là nhà ngoại giao hoàng gia Pháp Chateaubriand[71]: “Không còn tồn tại một chính sách của người Anh, một chính sách của Pháp, Nga, Phổ hay Áo nữa; hiện giờ chỉ có một chính sách chung duy nhất, đó là vì phúc lợi của tất cả, và chính sách này phải được tất cả các quốc gia và dân tộc thực thi.” Đó là tư tưởng đi trước khái niệm của Tổng thống Mỹ Wilson về bản chất của trật tự thế giới, dù nhân danh các nguyên tắc đi ngược lại tầm nhìn của Wilson. Khỏi phải nói rằng, một thiết kế như vậy, được thúc đẩy bằng sức mạnh quân sự của kẻ chiến thắng mà các binh đoàn giờ đang sải bước trên lục địa châu Âu, đã đặt ra một thách thức đối với khái niệm của châu Âu về trạng thái cân bằng giữa các quốc gia có chủ quyền theo Hòa ước Westphalia ra sao. Do nhân danh tầm nhìn mới của nước này về tính chính danh, Nga đã mang đến sức mạnh quá mức cần thiết. Sa hoàng Alexander chấm dứt các cuộc Chiến tranh Napoleon bằng việc dẫn đầu đoàn quân của mình tiến vào Paris, và trong lễ kỷ niệm chiến thắng ông đã duyệt binh một lực lượng lớn chưa từng có tới 160.000 binh lính Nga trên vùng đồng bằng bên ngoài thủ đô Pháp, một sự phô trương không thể không khiến cho các nước lo ngại, kể cả các quốc gia đồng minh. Sau khi tham khảo ý kiến của cố vấn tôn giáo, Alexander đề xuất một dự thảo tuyên bố chung trong đó các nước thắng trận sẽ tuyên bố rằng “tiến trình quan hệ giữa các cường quốc trước đây cần phải thay đổi một cách căn bản, và điều cấp bách hiện nay là phải thay thế nó bằng một trật tự dựa trên những chân lý được ca tụng của tôn giáo vĩnh cửu của Đấng Cứu thế của chúng ta.” Nhiệm vụ của các nhà đàm phán tại thành Vienna là biến tầm nhìn cứu tinh của Alexander thành một thứ tương thích với sự tiếp tục tồn tại độc lập của các quốc gia của họ và chào đón Nga vào trật tự quốc tế này mà không bị nó nghiền nát. HỘI NGHỊ THÀNH VIENNA C ác chính khách tề tựu tại Vienna để thảo luận cách thức thiết kế một trật tự hòa bình đã trải qua một cơn lốc những biến động trong gần như từng giai đoạn thiết lập cấu trúc quyền lực. Trong khoảng thời gian 25 năm, họ đã chứng kiến sự hữu lý của thời kỳ Khai sáng bị thay thế bởi những cảm xúc mạnh mẽ của thời kỳ Khủng bố; tinh thần truyền giáo của Cách mạng Pháp bị biến đổi bởi kỷ luật của đế chế Bonaparte xâm lược. Quyền lực Pháp thịnh rồi suy. Nó đã tràn qua biên giới xa xưa của Pháp, chinh phục gần như tất cả lục địa châu Âu, rồi chỉ để gần như bị tiêu vong trong sự rộng lớn của Nga. Bản thân công sứ Pháp tại Hội nghị thành Vienna là hiện thân cho những biến động dường như vô bờ của thời đại. Charles Maurice de Talleyrand-Périgord (thường được biết đến dưới cái tên Talleyrand) dường như có mặt ở khắp nơi. Ban đầu, ông là Tổng Giám mục Autun, sau đó ông rời Giáo hội để ủng hộ Cách mạng, rồi từ bỏ Cách mạng để giữ chức ngoại trưởng cho Napoleon, rồi ông từ bỏ Napoleon để đàm phán về việc khôi phục lại vương triều Bourbons và xuất hiện ở thành Vienna trên cương vị ngoại trưởng của Vua Louis XVIII. Nhiều người gọi Talleyrand là một kẻ cơ hội. Talleyrand biện luận rằng mục tiêu của ông là sự ổn định trong lòng nước Pháp và hòa bình ở châu Âu, và rằng ông đã nắm lấy bất kỳ cơ hội sẵn có nào để đạt được những mục tiêu này. Ông chắc chắn đã nỗ lực giành được những vị trí có thể nghiên cứu những yếu tố khác nhau của quyền lực và tính chính danh trong phạm vi của mình mà không bị quá ràng buộc bởi bất cứ vị trí nào. Chỉ có một tính cách rất mạnh mẽ mới có thể đưa ông vào trung tâm của rất nhiều sự kiện lớn, đầy