🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trang Tử Và Nam Hoa Kinh Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn TRANG TỬ và NAM HOA KINH Giới thiệu và chú dịch: Nguyễn Hiến Lê Nhà xuất bản: Văn hoá – Thông tin Năm xuất bản: 1994 Số trang: 559 Giá bìa: 35 đ Đánh máy: Goldfish Sửa lỗi: Vvn, QuocSan Chuyển sang ebook: QuocSan Ngày hoàn thành: 31/12/2011 http://www.e-thuvien.com Lần đầu tiên Nam Hoa kinh được dịch trọn bộ ra tiếng Việt và được phân tích kĩ từng chương một để giữ cho Trang tử những cái gì của Trang tử mà trả lại cho người trước và người sau những cái gì của người trước và người sau; có vậy mới đánh giá được sự cống hiến của Trang tử cho tư tưởng Trung Hoa. Những đoạn nào tối nghĩa thì được dịch giả thận trọng ghi cả hai ba cách giải của người trước và tuỳ chỗ, đưa ra ý kiến của mình. https://thuviensach.vn MỤC LỤC: Vài lời thưa trước I. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ v à TÁC PHẨM II. NỘI THIÊN III. NGOẠI THIÊN IV. TẠP THIÊN PHỤ LỤC https://thuviensach.vn Vài lời thưa trước Trước ngày 30-04-1975, cụ Nguyễn Hiến Lê đã có một trăm tác phẩm được xuất bản và mười tác phẩm khác chưa in: Tôi tập viết tiếng Việt, Đời nghệ sĩ, Con đường thiên lí, Một mùa hè vắng bóng chim, Những quần đảo thần tiên, Gogol, Tourguéniev, Tchékhov, Lịch sử văn minh Trung Quốc, Trang tử và Nam Hoa kinh. Mười tác phẩm đó được cụ đã giới thiệu sơ lược trong Hồi kí (Phần VI: Từ ngày giải phóng (1975-81), chương XXXIII: Lại tiếp tục viết, mục Sửa lại bản thảo chưa in); riêng cuốn Trang tử và Nam Hoa kinh[1] (về sau gọi tắt là TT&NHK) cụ viết như sau: “Trang tử có địa vị rất lớn trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc, ngang với Mạnh tử, hơn Tuân tử, hơn cả Mặc tử nữa. Nhờ ông một phần lớn mà tư tưởng của Lão tử mới được phổ biến mạnh: chỉ giới trí thức mới quí những cách ngôn trong Đạo Đức kinh, còn giới bình dân thì ai cũng biết ít nhiều những ngụ ngôn của Trang tử. Tên ông gắn liền với tên của Lão tử và cả hai có công làm cho dân tộc Trung Hoa bớt thực tiễn, yêu thiên nhiên, tự do hơn, khoan dung hơn, khoáng đạt hơn… thơ văn cũng như hội hoạ từ Lục triều trở đi, nhất là dưới đời Tống đều mang dấu vết của Trang[2]. Ở nước ta ông Nguyễn Duy Cần đã giới thiệu học thuyết của Trang, nhưng chỉ dịch ít chương trong Nội thiên, Ngoại thiên và Tạp thiên[3]; lại không đặt chân nguỵ của những thiên đó, cho nên gán cho ông vài tư tưởng không thực của ông. Ông nhằm mục đích phổ thông hơn khảo cứu. Người đầu tiên nêu ra vấn đề chân nguỵ trong bộ Trang tử (cũng có tên là Nam Hoa Kinh[4]) là Tô Đông Pha đời Tống. Sau ông, số học giả nghi ngờ sự nguỵ tác trong Trang tử càng ngày càng nhiều. Đại khái ngày nay ai cũng nhận rằng Nội thiên là của Trang tử (trừ một số bài), còn Ngoại thiên và Tạp thiên là của người đời sau. Tôi kiếm được năm bản Trang tử, quan trọng nhất là Trang tử toản tiên của Tiền Mục, Tân dịch Trang tử độc bản của Hoàng Cẩm Hoành (1974) và L’œuvre complète de Tchouang-tseu của Liou Kia – hway (1969); dịch tất cả các chương trong Nội thiên, Ngoại thiên, Tạp thiên, không bỏ một bài nào; cuối mỗi chương đưa ra nhận định của các học giả gần đây, và một số nhận định của tôi về chân, nguỵ; nếu là nguỵ tác thì người viết thuộc về phái nào: chẳng hạn phái quá khích của Lão giáo, phái ôn hoà của Lão giáo, phái theo Trang, phái theo Khổng, phái theo Đạo gia (tu tiên) hay Pháp gia… Tôi chỉ dùng những chương chắc chắn của Trang để phân tích tư tưởng của Trang, rán không gán cho Trang những tư tưởng của người sau. Cuối cùng tôi chỉ cách nên đọc Trang ra sao. Tác phẩm khá dày: trên 500 trang (riêng phần giới thiệu trên 300 trang)[5]. Và có thể coi là công trình đầy đủ nhất về Trang tử từ trước tới nay, tiếc là chưa in được” (Hồi kí Nguyễn Hiến Lê, Nxb Văn học, 1993, trang 537-538). Tuy bảo là “dịch tất cả các chương trong Nội thiên, Ngoại thiên, Tạp thiên, không bỏ một bài nào”, điều này cũng được nói đến trong lời giới thiệu ngắn ở đầu bộ Trang tử; nhưng vẫn còn hai đoạn cụ Nguyễn Hiến Lê phải lược bỏ như lời của cụ bảo trong tiết “Chúng tôi dịch ra sao” (phần nhì: Nội thiên): “Tuy nhiên, có hai đoạn trong bài XXIII.3 và 4, mỗi đoạn độ mười hàng, đọc kĩ năm bản tôi có trong tay (coi chương III) tôi vẫn không hiểu tác giả muốn nói gì, nên tôi dịch không nổi, phải bỏ”. Ngoài ra, vì trong Ngoại thiên và Tạp thiên có nhiều bài như Đạt sinh 3, Đạt sinh 9, Sơn mộc 9, Trí Bắc du 4, Từ Vô Quỉ 7, Ngụ ngôn 7, Nhượng vương 6 cũng chép trong bộ Liệt tử. Bảy bài đó cụ đã dịch trong bộ Liệt tử và Dương tử (LT&DT) và cho xuất bản trước đó rồi (năm 1972, Nxb Lá Bối), nên trong bộ TT&NHK này cụ đã không dịch lại mà cũng không chép lại. Cũng có bài, như bài Liệt Ngự Khấu 1, cụ đã dịch trong LT&DT (bài II.14: Đừng làm cho người ta biết mình) nhưng ở đây cụ dịch lại để “sửa vài chữ”. Ngược lại, có bài cụ không dịch trong LT&DT nhưng được cụ dịch trong bộ TT&NHK như truyện người say rượu té xe (tức bài Đạt sinh 2), truyện luyện gà đá (bài Đạt sinh 8)… Như vậy, người đọc muốn đọc được các bài hoặc các đoạn bị lược bỏ trong bộ này thì phải tìm trong bộ kia và ngược lại. Cũng về việc dịch lại, tuy cụ Nguyễn Hiến Lê không nói ra, nhưng tôi thấy có nhiều câu trong TT&NHK không giống với những câu tương ứng đã được cụ và cụ Giản Chi dịch trong bộ Đại cương triết học Trung Quốc (ĐCTHTQ) từ năm 1962-63[6]. Ví dụ hai câu: 1.- Sát sinh dã bất tử. Sinh sinh giả bất sinh 殺生者 不死。生生者不生, trong ĐCTHTQ dịch là: “Cái giết được cái sống thì cái đó không chết. Cái sinh ra được cái sinh ra thì cái đó chính nó không từ đâu sinh ra” (bản của Nxb Thanh Niên, 1994, Tập 1, trang 181), trong TT&NHK, bài Đại Tôn sư 2 dịch là: Bậc chủ tể giết sinh mệnh thì không chết, bậc đó sinh ra sinh mệnh mà cũng lại không sinh (nghĩa là không có cái gì sinh ra cả)”; 2.- Chiêu ư minh minh, hữu luân sinh ư vô hình” 昭昭生於冥冥,有倫生於無形, trước dịch là: “Cái sáng láng sinh ra từ cái mịt mờ, cái có loại (tức vật hữu hình) sinh ra từ cái vô hình” (Sđd, Tập 1, trang 183); sau dịch https://thuviensach.vn là: “Cái sáng sủa phát sinh từ cái tối tăm; cái hữu hình phát sinh từ cái vô hình” (Trí Bắc du 5); 3.- Phù tri hữu sở đãi nhi hậu đáng, kì sở đãi giả đặc vị định dã 夫知有所待而後當,其所待者特未定也, trước dịch là: “Sự biết phải trông chờ nhờ cậy vào cái gì đó mà sau mới được chính xác. Nhưng cái mà cái biết trông chờ nhờ cậy đó lại chưa biết nhất định đích thật là cái gì” (Sđd, Tập 1, tr.695), sau dịch là: “Tri thức nào cũng phải có đối tượng [rồi mới biết được là đúng hay sai], mà đối tượng lại không xác định được” (Đại tôn sư 1). Trong TT&NHK, phần Nội thiên, Ngoại thiên và Tạp thiên, cụ Nguyễn Hiến Lê không chép nguyên tác chữ Hán lẫn phiên âm; và trong phần chú thích, cụ cho biết: “nếu thấy cần, sẽ chép thêm nguyên văn phiên âm (chứ không có chữ Hán vì công việc ấn loát lúc này khó khăn và tốn kém)”[7]. Do không có chữ Hán, nên trong quá trình gõ, khi gặp những chỗ ngờ in sai, hoặc có sự khác biệt với bản Nguyễn Duy Cần, tôi phải tra cứu các trang web chữ Hán để, nếu sai thì sửa lại, và nếu thấy cần tôi chép thêm chữ Hán vào để chúng ta cùng tham khảo. Và cũng để tiện tham khảo, trong phần Phụ lục, tôi chép lại bảy bài cụ Nguyễn Hiến Lê đã dịch trong bộ LT&DT mà cụ không chép vào bộ TT&NHK, tôi cũng chép thêm bảng niên biểu Những biến cố lớn xảy ra trong đời Trang tử (trích trong cuốn Mạnh tử của cụ Nguyễn Hiến Lê). Trong số các triết gia thời Tiên Tần, Trang tử của lẽ là người duy dùng của ba thể: kí ngôn, lí luận và ngụ ngôn để trình bày học thuyết của mình. Trong cuốn Hàn Phi Tử, cụ Nguyễn Hiến Lê bảo: “Mới đầu là bộ Luận ngữ chỉ dùng một thể đơn giản nhất là kí ngôn; môn sinh của Khổng Tử ghi những lời của thầy. Rồi tới các cuốn Trung Dung, Đại học cũng vẫn là kí ngôn thêm những đoạn nghị luận ngăn ngắn. Bộ Mặc tử mở đầu cho thể nghị luận – hay biện luận – nhưng lí luận lắm chỗ ngây thơ và rườm. Bộ Mạnh Tử cũng là kí ngôn như Luận ngữ, đúng ra là ghi những đối thoại giữa Mạnh Tử và một số vua chư hầu hoặc một số học giả đương thời. Trang tử dùng ba lối: kí ngôn, lí luận vắn tắt và ngụ ngôn. Tới Tuân tử mới bỏ hẳn lối kí ngôn mà dùng thể lí luận theo đề tài. Sau cùng là Hàn Phi dùng hết các thể của người trước”. Riêng về thể ngụ ngôn, Trang tử là có tài nhất, như lời cụ Nguyễn Hiến Lê trong bộ Sử Trung Quốc: “Ông là một triết gia tư tưởng độc đáo, một nghệ sĩ đa tài, văn ông vừa lãng mạn, nên thơ, vừa trào phúng, cay độc, ông sử dụng thuật ngụ ngôn không ai bằng”. Đọc bộ Cổ học tinh hoa của hai cụ Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân, ta bắt gặp nhiều truyện ngụ ngôn trích trong bộ Trang tử như: Bắt chước nhăn mặt (trích trong bài Thiên vận 4), Trọng thân hơn làm vua (Nhượng vương 3), Người bán thịt dê (Nhượng vương 7)[8], Nuôi gà chọi (Đạt sinh 8), Chiếc thuyền dụng chiếc đò (trích trong Sơn mộc 2), Nhường thiên hạ (Tiêu dao du 2)… Cụ Nguyễn Duy Cần cũng chọn một số bài trong sách Trang tử cho vào cuốn Cái cười của thánh nhân, mặc dù cụ không ghi nguồn, như: Nước thu, Chim biển, Mộng hồ điệp. Các bài đó lần lượt tương ứng với các bài Thu thủy 1, Chí lạc 5, một phần của bài Tề vật luận 15. Trong bộ Cổ học tinh hoa có chép khá nhiều danh ngôn, nhưng tôi không thấy chép câu nào trích trong bộ Trang tử, trong cuốn Tôi tự học của cụ Nguyễn Duy Cần cũng không chép. Dưới đây tôi xin được chép 3 danh ngôn trong số 84 danh ngôn đăng trên trang http://lizi.blogbus.com/logs/10224066.html, tạm phiên âm, chép thêm lời dịch của cụ Nguyễn Hiến Lê[9]: 1. 夫相收之與相棄亦遠矣,且君子之交淡若水,小人之交甘若醴。君子淡以親,小人甘以絕。 《山木》 Phù tương thu chi dữ tương khí diệc viễn hĩ, thả quân tử chi giao đạm nhược thủy, tiểu nhân chi giao cam nhược lễ. Quân tử đạm dĩ thân, tiểu nhân cam dĩ tuyệt. (Sơn mộc). Nâng đỡ nhau và bỏ nhau, hai cái đó khác nhau rất xa. Người quân tử giao du với nhau, tình như nước lã; kẻ tiểu nhân giao du với nhau nồng như rượu. Tình người quân tử nhạt mà càng thân, tình kẻ tiểu nhân nồng mà sẽ tới sự tuyệt giao. (Sơn mộc). 2. 人生天地之間,若白駒過隙,忽然而已。《知北游》 Nhân sinh thiên địa chi gian, nhược bạch câu quá khích, hốt nhiên nhi dĩ. (Trí bắc du). Con người ở trong khoảng trời đất cũng như con ngựa trắng, vụt qua cái khe hở, một nháy mắt rồi biến mất. (Trí bắc du). https://thuviensach.vn 3. 毛嬙麗姬,人之所美也;魚見之深入,鳥見之高飛,麋鹿見之決驟,四者孰知天下之正色 哉?《齊物論》 Mao Tường Lệ Cơ, nhân chi sở mĩ dã; ngư kiến chi thâm nhập, điểu kiến chi cao phi, mi lộc kiến chi quyết sậu, tứ giả thục tri thiên hạ chi chính sắc tai? (Tề vật luận). Nàng Mao Tường và nàng Lệ Cơ được mọi người khen là đẹp, vậy mà thấy họ tới thì cá lặn sâu, chim bay cao, hươu nai chạy dài. Cái đẹp theo bốn loài đó, cái đẹp nào là lí tưởng (chính sắc)? (Tề vật luận). Tôi chọn ba danh ngôn trên là vì danh ngôn 1 có liên quan ít nhiều đến câu sau đây trong Hồi kí Nguyễn Hiến Lê: “Bốn anh em tôi (tức các cụ: Nguyễn Hiến Lê, Đông Hồ, Hư Chu, Giản Chi) giao du với nhau, tình “đạm nhục thuỷ” tuy thắm thiết mà không vồn vã, ồn ào”. Hai danh ngôn 2 và 3 liên quan đến hai điển tích: “bóng câu qua cửa sổ” và “chim sa cá lặn”. Điển tích trước do bốn chữ “bạch câu quá khích”, được dùng trong câu: “Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi” (Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều), hay “Thấm thoát xem bằng bóng ngựa qua” (Tự thuật của Nguyễn Bỉnh Khiêm). Điển tích sau, cũng được gọi là “trầm ngư lạc nhạn”, không được dùng với ý nghĩa là không có cái đẹp nào được xem là “chính sắc” cho mọi loài, mà được dùng để chỉ người đàn bà cực đẹp, như trong các câu: “Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn, Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa” (Cung oán ngâm khúc), “Mặn mà chìm cá rơi chim” (Hoa tiên truyện của Nguyễn Huy Tự). Điển tích “Mộng hồ điệp” hay “Trang Chu mộng hồ điệp” được dùng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: “Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh” cũng có xuất xứ từ sách Trang tử, thiên Tề vật luận. Các thành ngữ sau đây cũng có xuất xứ từ sách Trang tử: Ếch ngồi đáy giếng (Thu thuỷ 1), Lết đuôi trong bùn (Thu thuỷ 1), Lấy lửa cứu lửa (Nhân gian thế 1), Được cá quên nôm (Ngoại vật 13), Thân như cây khô (Điền Tử Phương 4), Không biết trời cao đất dày (Nhượng vương 12) … Trong thời gian chỉnh sửa và bổ sung chữ Hán cho bản đánh máy tác phẩm Trang Tử – Nam Hoa Kinh (Phần Thượng) của Nguyễn Duy Cần (bản đánh máy do bạn Fatman1702 cung cấp); và thực hiện ebook TT&NHK của cụ Nguyễn Hiến Lê, bác Vvn đã nhiệt tình giải đáp giúp tôi rất nhiều nghi vấn; một phần nhỏ những giải đáp đó, tôi có ghi lại trong chú thích. Ngoài ra, bác Vvn còn giúp tôi sửa lỗi nữa[10]. Xin chân thành cảm ơn bác Vvn. Nhờ sửa lỗi, rồi sau đó bổ sung phần chữ Hán cho bản đánh máy do bạn Fatman1702 cung cấp, như đã nói ở trên, tôi mới có dịp đọc lại bộ TT&NHK của cụ Nguyễn Hiến Lê mà tôi đã đọc từ năm 1996; và nhân đó tôi gõ phần II: Nội thiên để chúng ta có thể so sánh hai bản dịch của hai cụ Nguyễn, mà theo lời cụ Nguyễn Hiến Lê thì: “Trước chúng tôi đã có hai bản Tuyển dịch Trang tử (tức một của Nhượng Tống và một của Nguyễn Duy Cần). Sau chúng tôi chắc sẽ còn nhiều người dịch nữa, mà bản dịch nào cũng sẽ có nhiều chỗ không giống các bản khác… Tôi mong độc giả hiểu cho lẽ đó mà coi bản của chúng tôi may mắn lắm là có giá trị ngang các bản khác thôi”. Ban đầu tôi chỉ mong gõ xong phần II thôi, nhưng rồi lần hồi tôi cũng gõ được trọn bộ TT&NHK của cụ Nguyễn Hiến Lê. Xin cảm ơn bạn Fatman1702, và xin hân hạnh được chia sẻ cùng các bạn ebook này. Goldfish – Mùa hè 2009 Sửa chữa và bổ sung tháng 12 năm 2011. https://thuviensach.vn PHẦN I GIỚI THIỆU TÁC GIẢ và TÁC PHẨM 1. Thời đại v à cuộc sống Thời đại Đời sống Tác phẩm Xuất hiện từ thời nào? Nội thiên Ngoại thiên v à tạp thiên Văn bộ Trang Tử Ưu điểm Nhược điểm Một số nhà chú giải Cách đọc trang tử Học thuy ết của Trang Uy ên nguy ên từ đâu? Vũ trụ luận v à căn bản luận Tri thức luận Chính trị luận Nhân sinh quan Lí tưởng của Trang tử Dưỡng sinh Xử thế Kết https://thuviensach.vn CHƯƠNG I THỜI ĐẠI VÀ CUỘC SỐNG THỜI ĐẠI Trang tử kém Mạnh tử khoảng mười tuổi, sống ở giữa thời Chiến Quốc (-403 – -221). Ông sanh vào khoảng -360, trên 40 năm sau khi thời đại loạn đó bắt đầu, và 60 năm sau ông mất, nó cũng chấm dứt. Vậy ông chứng kiến được hầu hết những biến chuyển lớn của thời đó: Tần dùng Vệ Ưởng để biến pháp mà hùng cường lên, xưng bá (-343) rồi xưng vương (-325); sáu nước kia (Yên, Triệu, Hàn, Nguỵ, Tề, Sở) bèn hợp tung để chống Tần (-333), nhưng phe hợp tung mau tan (-332), Trương Nghi đề nghị thuyết liên hoành (-331) để liên hiệp lục quốc mà tôn Tần, do đó mà Tần lại càng mạnh thêm, thắng được Nguỵ, Hàn, Sở, rồi xưng đế (-288), diệt Tống, ức hiếp Triệu. Trước khi mất, chắc Trang tử đã đoán được xu thế của thời đại; thế nào rồi Tần cũng sẽ thay Chu, làm thiên tử mà thống nhất Trung Quốc. Như trong Chiến Quốc Sách[11]trang 10, chúng tôi đã nói, sự dùng năm -403 để phân chia hai thời Xuân Thu và Chiến Quốc không dựa trên một biến cố nào quan trọng (năm đó chỉ là năm lên ngôi của Uy Liệt vương nhà Chu), mà lịch sử và xã hội Trung Hoa suốt hai thời kì Xuân Thu và Chiến Quốc biến chuyển liên tục, không hề gián đoạn, từ chế độ phong kiến tới chế độ quân chủ chuyên chế, từ tình trạng phân li tới tình trạng thống nhất. Tuy nhiên, xét chung, chúng ta vẫn thấy hai thời đó có nhiều điểm khác nhau: 1. Xuân Thu là thời các vị bá chủ (như vua Hoàn công nước Tề) mượn uy danh của Thiên tử, tức vua Chu mà ra lệnh các chư hầu; Thiên tử thời đó tuy không có quyền, nhưng còn danh phận, các vị bá chủ chưa dám khinh; thời Chiến Quốc, trái lại, các vua nước lớn như Tần, Tề, Nguỵ, Sở… đều xưng vương, chẳng coi Thiên tử ra gì cả; 2. Thời Xuân Thu, chế độ chính trị chỉ biến chuyển lần lần thôi, vì các vua chúa còn trọng dư luận ít nhiều; qua thời Chiến Quốc, vua các cường quốc không đoái gì tới cổ pháp, cổ lễ, can đảm làm những cuộc cách mạng về pháp độ, như cuộc biến pháp của Vệ Ưởng năm -359 đời Tần Hiếu công; 3. Thời Xuân Thu giới quý tộc còn nắm được nhiều quyền lớn, cha truyền con nối, qua thời Chiến Quốc, đặc quyền đó gần như hoàn toàn bị diệt, và rất nhiều người trong giới bình dân lên làm khanh tướng, như Tô Tần, Trương Nghi…; 4. Chiến tranh trong thời Xuân Thu tuy nhiều nhưng không kịch liệt, còn giữ được cái luật “quân tử” không giết kẻ bại; thời Chiến Quốc, chiến tranh tàn khốc hơn nhiều, có trận chết hàng vạn người (sát nhân doanh dã, sát nhân doanh thành), cho nên dân tình cực kì điêu đứng; 5. Phép “tỉnh điền” không rõ bị phế bỏ lần lần từ thời nào, nhưng chắc chắn là cuộc biến pháp của Vệ Ưởng, thời Chiến Quốc, được nhiều nước khác theo, Mạnh tử hô hào tái lập nó mà không được; 6. Thời Xuân Thu, trọng tâm của kinh tế là nông nghiệp; qua thời Chiến Quốc, công và thương phát đạt mạnh, địa vị mỗi ngày một quan trọng hơn, mà các thị trấn như Hàm Dương (Tần), Lâm Tri https://thuviensach.vn (Tề), Hàm Đan (Triệu) rất phồn thịnh; và bọn cự thương như Lã Bất Vi có thể dùng thế lực đồng tiền xâm nhập chính trị; 7. Quan trọng nhất là sự phát triển về tư tưởng. Trong thời Xuân Thu, từ khi Khổng tử sanh (-551) tới khi Liệt tử mất (-349), suốt hai trăm năm chỉ có mươi triết gia: Khổng tử, Tử Tư, Mặc tử, Dương tử, Lão Đam, Quan Doãn, Liệt Ngự Khấu; qua thời Chiến Quốc, số triết gia có tiếng tăm lên tới trên hai chục nhà, ấy là chưa kể các chính trị gia, biện sĩ, thuật sĩ. Theo Sử kí của Tư Mã Thiên, bọn du thuyết được Tề Tuyên vương tặng chức thượng đại phu, chỉ bàn suông chứ không dự vào việc chính trị, như Trâu Diễn, Thuần Vu Khôn, Tiếp tử, Hoàn Uyên… tới 76 người, còn số học sĩ ở Tề có tới mấy trăm ngàn người (chương 46: Điền Hoàn thế gia). Nguyên nhân chính là thời đó đại loạn, người nào cũng có tư tưởng cũng muốn đưa ra một thuyết để cứu đời; mà các vua chúa nào muốn làm bá chủ Trung Quốc cũng tôn trọng kẻ sĩ, mời họ làm cố vấn. Do đó, ngôn luận được hoàn toàn tự do. Đúng là thời “trăm hoa đua nở”; cho tới nay, trên hai ngàn năm sau, Trung Hoa không còn được thấy lại cảnh phồn thịnh đó nữa. Dĩ nhiên, mỗi triết gia chỉ nắm được một phần chân lí, như tác giả chương Thiên hạ, phần Tạp thiên của Nam Hoa kinh đã nhận định: “… học phái hoặc kĩ thuật của trăm nhà đều có sở trường, thời cơ thích hợp thì đều có chỗ dùng được đấy, nhưng không bao quát được hết: họ chỉ là những nhà thiên kiến… Họ mổ xẻ cái thuần mĩ của trời đất, phân tích cái lí của vạn vật, cái nhất quán của cổ nhân… lập ra những phương thuật riêng. Buồn thay! Học phái của bách gia cứ phân tán ra trăm ngả tới cực đoan mà không trở về cái gốc… Đạo thuật trong thiên hạ sắp bị chẻ nhỏ ra rồi”. (đoạn 3). Bất kì về vấn đề nào: vũ trụ, Đạo và tính, chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, võ bị, danh và thực… họ cũng đưa ra được hai ba lí thuyết để chống đối nhau, phủ nhận nhau, không khí thật kích thích, tạo nên một hoàng kim thời đại của triết học Trung Hoa. Dưới đây tôi chỉ ghi tên một số triết gia đồng thời với Trang Chu, hoặc được nhắc tới trong Trang tử (cũng gọi là Nam Hoa kinh) để độc giả đỡ phải tìm kiếm mà dễ nhận định được thời đại. Những năm sinh và mất của mỗi nhà đều theo Vũ Đồng trong Trung Quốc triết học đại cương (Thương vụ ấn thư quán – 1958), và đều phỏng chừng, có thể sai vài ba chục năm. sanh năm mất năm Mặc tử -480 -397 Dương Chu -440 -380 Quan Doãn -440 -360 Lão tử -430 -340 Liệt tử -430 -349 Hoàn Uyên -390 -300 Tống Kiên -382 -300 Bành Mông -382 -300 Mạnh tử -372 -289 Huệ Thi -370 -300 Điền Biền -370 -290 Thận Đáo -370 -290 https://thuviensach.vn Doãn Văn -360 -280 Trần Trọng -360 -260 Trang tử -360 -280 Trâu Diễn -340 -260 Công Tôn Long -330 -242 Tuân tử -330 -227 Hàn Phi -280 -233 Xét bảng trên[12], chúng ta thấy khi Lão tử và Liệt tử chết, Trang tử hãy còn nhỏ; những triết gia đồng thời với Trang và lớn hơn Trang từ 10 đến 20 tuổi là Tống Kiên, Bành Mông, Mạnh tử, Huệ Thi, Điền Biền, Thận Đáo… Công Tôn Long và Tuân tử đều nhỏ hơn Trang khoảng 30 tuổi. Sau cùng khi Trang mất thì Hàn Phi mới ra đời. Tóm lại Trang sống vào giữa thời phát triển mạnh mẽ nhất của triết học Trung Quốc và mặc dầu không hề nhắc tới Tuân tử, ông có thể được biết tất cả các triết thuyết thời Chiến Quốc, trừ học thuyết Hàn Phi. https://thuviensach.vn ĐỜI SỐNG Trong số các triết gia lớn thời Tiên Tần, chỉ có Khổng tử và Mạnh tử là ta biết được tạm đủ và khá chắc chắn về đời sống: Khổng tử nhờ làm quan ở Lỗ và nhờ bộ Luận ngữ do môn sinh chép; Mạnh nhờ làm khách khanh cho Lương, Tề, Đằng, Tống, nhất là nhờ bộ Mạnh tử do môn sinh chép (ông duyệt lại) ngay khi ông còn sống[13]. Còn những nhà khác như Dương tử, Lão tử, Trang tử một phần vì ẩn dật, một phần vì không dạy học hoặc dạy ít học trò nên đời sống không được ghi chép lại. Về Trang tử ta chỉ có mỗi một tài liệu gồm khoảng hai trăm chữ trong chương 63 bộ Sử kí. Không hiểu tại sao Tư Mã Thiên lại sắp chung Lão tử, Trang tử với Thân Bất Hại và Hàn Phi. Ông cho chúng ta biết: Trang tử tên là Chu, người đất Mông, đồng thời với Lương Huệ vương (-370 – -319), Tề Tuyên vương (-319 – -301), và có làm một chức lại trong một xưởng chế tạo sơn ở đất Mông. Trang học rộng, viết một bộ sách gồm trên 10 vạn chữ, đại để là ngụ ngôn; có những chương Ngư phủ, Đạo chích, Khư khiếp[14] chỉ trích Khổng Mặc và làm sáng tỏ học thuật của Lão tử. Văn ông hay, lời lẽ có thứ tự, khéo chỉ việc tả tình, tuy hạng túc học đương thời cũng khó tự gỡ cho mình được khi bị ông bài bác, tư tưởng của ông đặc biệt quá, nên các vương công thời đó không dùng. Sở Uy vương nghe tiếng ông hiền, vời ông làm tướng quốc, ông từ chối, muốn được sống thoả ý, không chịu bị trói buộc. Tư Mã Thiên không cho biết Trang tử tên tự là gì, sanh năm nào, mất năm nào, và đất Mông thuộc nước nào. Về tên tự, có sách bảo là Tử Hưu, có sách chép là Tử Mộc (Hưu 休 và Mộc 木 viết hơi giống nhau), trong Mạnh tử lại gọi là Tử Mạc (Mạc 莫 và Mộc đọc hơi giống nhau)”. Về năm sanh và năm tử, cũng có rất nhiều thuyết khác nhau khoảng năm chục năm. Thuyết xa nhất là sanh năm -398, thuyết gần nhất là sanh năm -350, cách nhau: 48 năm. Đa số, như Lương Khải Siêu, Trương Thành Thu, Trang Văn Thọ, Mã Di Sơ… đoán khoảng -370. Năm tử: xa nhất là -317, gần nhất là -270, cách nhau: 47 năm. Đa số đoán vào khoảng -290 hay -295. Trong bảng ở trang 13, tôi theo thuyết mới nhất của Vũ Đồng: -369, -280. Vũ Đồng bảo Trang chịu ảnh hưởng của Điền Biền và Thận Đáo, chắc phải nhỏ hơn hai nhà này. Tuy nhiên đó cũng chỉ là một giả thuyết[15] có thể gần đúng, chứ không đáng tin hẳn. Về nơi sanh, các học giả đều bảo là đất Mông, nhưng đất Mông ở đâu, thuộc nước nào thì ý kiến cũng phân vân. Người thì bảo đất Mông tức Mông Trạch, người thì bảo là Mông huyện hoặc Mông thành. Bùi Nhân trong Tập giải[16], dẫn bộ Địa lí chí bảo: “Huyện Mông thuộc nước Lương”; Tư Mã Trinh trong Sách ẩn, dẫn lời Lưu Hướng trong Biệt lục, bảo Trang tử là người đất Mông nước Tống; Cao Dụ chú giải bộ Lữ Thị Xuân Thu cùng ý kiến với Tư Mã Trinh. Chu tử đời Tống lại cho Trang tử là người nước Sở. Hoàng Cẩm Hoành trong Trang tử độc bản (Tam dân thư cục – 1974) sau khi nghiên cứu kĩ lưỡng các thuyết, kết luận rằng đất Mông đó là thành Mông thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay; khi Trang tử ra đời, đất đó vốn là của nước Tống, sau khi Trang mất, Tống bị diệt, ba nước Sở, Nguỵ, Tề chia nhau đất đai của Tống và đất Mông từ đó thuộc về Nguỵ (tức Lương), vì vậy mà bảo Mông thuộc về Nguỵ hoặc Tống cũng được. Tóm lại về đời của Trang tử chỉ có mấy điểm này là chắc chắn: Ông sinh ở đất Mông thời đó thuộc Tống (Tống giáp biên giới phía bắc của Sở), sống vào thế kỉ thứ 4 trước T.L., đồng thời với Lương Huệ vương và Tề Tuyên vương (tức đồng thời với Mạnh tử), hồi trẻ làm một chức quan nhỏ, coi một xưởng chế tạo sơn, sau ở ẩn, viết một bộ sách, người đời sau gọi là Trang tử, tư tưởng chịu ảnh hưởng của Lão tử. https://thuviensach.vn Muốn biết thêm về tình cảnh cùng cá tính của ông, ta phải tìm trong bộ Trang tử. Chúng tôi đếm được trên dưới ba chục bài chép cố sự về Trang. Trừ một số bài hoặc chương chúng ta biết chắc là sai vì vô lí, chẳng hạn bài XXI.5[17] cho Trang tử lại yết kiến Lỗ Ai công, mà Lỗ Ai công mất trước khi Trang tử sanh khoảng trăm năm, hoặc chương XXX bàn về thuật đánh kiếm, đem những tư tưởng không có chỗ nào hợp với Trang đặt vào miệng của Trang…; trừ những bài đó không sao tin được, chỉ có thể coi là ngụ ngôn, còn những bài khác, tuy không hoàn toàn đáng tin hẳn, nhưng có thể tạm dùng để hiểu về Trang. Những bài này chia làm hai loại: - những bài dẫn lời Trang bàn về đạo lí, như bài XXII.6 Trang giảng về Đạo cho Đông Quách tử, bài XIV.2 Trang giảng về đức nhân cho viên Thái tể Đãng…; những bài trong loại này nếu tư tưởng có thật của Trang thì tôi cũng không dẫn trong chương về tiểu sử này mà sẽ dành lại cho chương về học thuyết của Trang. - những bài có tính cách cố sự, như bài XVII.5, Trang từ chối lời vua Sở mời ra làm quan; bài XVIII.2, Trang gõ nhịp vào cái vò mà hát khi vợ chết; bài XXIV.6, Trang tỏ ý tiếc nhớ Huệ Thi vì Huệ Thi mất rồi, không còn ai để đàm luận nữa…; những bài trong loại này khá nhiều, tôi sẽ trích dẫn một số cho ta đoán được đời sống và tính tình của Trang. Chúng ta không biết được chút gì về tuổi thơ của Trang cả: Gia đình ra sao? Thuộc giới nào trong xã hội? Hồi nhỏ học ai? Lớn lên lập gia đình vào thời nào? Sau khi goá vợ có tục huyền không? Có bao nhiêu con? Dạy con ra sao?… Theo Tư Mã Thiên, ông làm một chức lại nhỏ ở quê nhà. Sau ông ở ẩn, không chịu ra làm quan, chắc chắn có dạy học vì có một số bài chép những lời ông nói với môn sinh, chẳng hạn bài XX.1, ông đáp môn sinh về hữu dụng và vô dụng sau khi chủ nhà ông ghé thăm, sai gia nhân giết ngỗng để đãi ông, hoặc bài XXXII.13, kể chuyện khi ông hấp hối, ngăn môn sinh không cho hậu táng. Môn sinh chắc không đông, ông dạy họ những gì, họ đối với ông ra sao, ta cũng không biết. Có lẽ là một số người đã lớn thích học thuyết của ông, trọng tư cách ông, ở gần ông để nghe ông tuỳ hứng bàn về Đạo, về cách xử thế. Còn Thi, Thư, Lễ, Nhạc thì nhất định là ông không giảng tới. Ông ít đi đâu, cũng như Lão tử, Liệt tử, và trái hẳn với Mạnh tử, Mặc tử. Ông giao du cũng ít, cơ hồ chỉ thân với mỗi một người là Huệ Thi, một triết gia lớn hơn ông độ mươi tuổi, học rộng (theo chương XXXIII, có đến năm cỗ xe đầy sách), thuộc phái Mặc, làm tướng quốc cho Lương Huệ vương. Có hai bài chép rằng Trang tử nghèo. Bài XXVI.2: “Trang tử nghèo phải hỏi mượn lúa của Giám Hà Hầu [tức Nguỵ Văn Hầu]. Giám Hà Hầu bảo: - Được. Đợi tôi thu được tiền thuế của một ấp rồi tôi sẽ cho mượn ba trăm đồng. Được không? Trang Chu giận đỏ mặt lên, đáp: - Hôm qua tôi đi lại đây, giữa đường nghe có tiếng gọi. Tôi ngoảnh lại thấy một con cá giếc nằm trong một vết bánh xe. Tôi hỏi nó: “Con giếc kia lại đó làm gì vậy?”. Nó đáp: “Tôi là thần sóng ở biển Đông, ông cho tôi một đấu, một thăng (phần mười đấu) nước để cứu sống tôi được không?”. Tôi bảo: “Được. Để tôi đi du thuyết vua Ngô và vua Việt đã rồi khi về sẽ dẫn nước Tây giang lại cứu anh, được chứ?”. Con giếc nổi giận, biến sắc, đáp: “Tôi vì ra khỏi nước, không có chỗ an thân, chỉ mong được một đấu, một thăng nước để sống. Ông nói như vậy thì tốt hơn, (khi trở về) ông nên lại hàng cá khô mà tìm tôi”. Nếu là truyện thực thì Trang tử quả là nhanh trí và cương trực, không sợ làm bẽ mặt một vị chúa. Lần khác (bài XX.6), Trang tử “bận áo vải thô mà vá, đi giầy thủng, cột lại bằng dây gai lại yết kiến vua Nguỵ” – có thể cũng lại là Nguỵ Văn Hầu trong bài trên. Vua Nguỵ bảo: - Sao mà tiên sinh khốn khổ như vậy? Trang tử đáp: - Nghèo chứ không khốn khổ. Kẻ sĩ không thi hành đạo đức thì mới khốn khổ. Áo vá, giầy thủng thì là https://thuviensach.vn nghèo chứ không phải khốn khổ. Như vậy là vì không gặp thời”. Giọng Trang có vẻ bực tức, gay gắt. Rồi cũng như trong bài trên, ông đem loài vật ra kể truyện để mắng vua Nguỵ: con vượn khi ở trên các ngọn cây cao thì leo nhảy, tự đắc lắm như làm chúa một cõi, nhưng khi phải len lỏi trong đám cây thấp có gai thì run sợ, ngó trước ngó sau, gân cốt co lại, chỉ vì hoàn cảnh bất lợi nên không thi thố được tài năng. Sau cùng Trang kết: “Ngày nay kẻ sĩ ở vào cái thời hôn quân loạn thần thì làm sao mà khỏi khốn khổ cho được. Chứng cớ là Tỉ Can bị moi tim đấy”. Truyện này cũng chưa chắc đã có thực, nhưng cũng giống truyện trên: Trang tử lại tỏ tài ứng đối, tính tình khí khái mà cao ngạo nữa. Hễ trêu ông thì chỉ mang nhục thôi. Ngay đối với bạn thân là Huệ Thi, ông cũng không nể mà còn đập một cách cay độc. Huệ Thi đang làm tể tướng nước Lương (tức nước Nguỵ sau khi dời đô qua Đại Lương), khi hay tin Trang tử qua Lương, sợ Trang tranh ngôi tể tướng của mình, sai người đi tìm khắp nước suốt ba ngày ba đêm. Khi tới nơi Trang thấu tâm lí đó của bạn, bảo: - “Ông có biết một con chim ở phương Nam người ta gọi là con uyên sồ (một loài chim phượng) không? Khi nó cất cánh từ Nam hải mà lên Bắc hải, không phải là cây ngô đồng thì nó không đậu, không phải là hột luyện thì nó không ăn, không phải là nước suối ngọt thì nó không uống. Một con chim cú đương rỉa xác một con chuột thấy nó bay ngang [sợ nó tranh ăn], ngửng lên nhìn nó, kêu lên một tiếng lớn doạ nó. Nay ông vì (cái ngôi tể tướng) nước Lương mà cũng muốn kêu lên để doạ tôi sao?” (XVII.6) Nếu là bịa thì truyện đó cũng hợp với tính tình ngạo mạn, khinh phú quí của Trang. Trang không chịu nhận một chức vụ lớn nhỏ nào ở triều đình. Sử kí của Tư Mã Thiên chép rằng: “Vua Sở Uy vương nghe tiếng Trang Chu là người hiền, sai sứ giả mang hậu lễ lại rước, hứa sẽ phong làm tể tướng. Trang Chu cười bảo sứ giả của Sở: - Ngàn vàng là cái lợi lớn đấy, khanh tướng là một vị tôn quí đấy. (Nhưng này) ông có thấy con bò làm vật hi sinh trong lễ tế Giao không? Người ta nuôi nó mấy năm, cho nó bận áo gấm thêu đủ màu để dắt nó vào thái miếu. Lúc đó, giá nó muốn làm một con heo con cô độc, phỏng có được chăng? Thôi, ông đi ngay đi, đừng làm ô uế ta nữa. Ta thà ngao du trong cái rãnh bẩn cho thích chí chớ không chịu trói buộc tấm thân vì việc nước. Suốt đời ta không làm quan đâu, để thoả lòng ta!”. Trong bộ Trang tử, truyện đó được chép lại hai lần. Một lần trong bài XXXII.12: “Một ông vua muốn mời Trang tử ra làm quan. Trang tử đáp sứ giả: - Ông có thấy con bò để tế đấy không? Người ta trùm cho nó tấm gấm thêu, cho nó ăn cỏ và đậu lớn, để ngày kia dắt nó lại thái miếu. Lúc đó nó có muốn làm một con bê cô độc, phỏng có được chăng?”. Bài đó gần y hệt đoạn văn trong Sử kí, chắc cùng một nguồn gốc. Còn một bài nữa, nghệ thuật cao hơn và thường được nhiều sách trích dẫn hơn, tức bài XVII.5: “Trang tử câu trên sông Bộc. Vua Sở phái hai vị đại phu lại báo trước “sẽ xin đem việc nước lại làm phiền ông”. Trang tử vẫn cầm cần câu, không ngoảnh lại, mà đáp: - Tôi nghe nước Sở có một con rùa thần, chết đã ba ngàn năm, nhà vua gói nó vào chiếc khăn, cất trong cái hộp ở trên miếu đường. Con rùa ấy chịu chết mà lưu lại bộ xương cho người ta thờ hay thích sống mà lết cái đuôi trong bùn? Hai vị đại phu đáp: - Thà sống mà lết cái đuôi trong bùn còn hơn. Trang tử bảo: - Vậy hai ông về đi! Tôi cũng thích lết cái đuôi trong bùn đây”. Ba tài liệu đó cho thấy những cố sự về Trang chép trong các sách, dù có thể tin được thì cũng chỉ đúng một phần thôi, về đại ý thôi, còn về chi tiết thì mỗi tác giả có thể thêm bớt, sửa đổi. Như ở đây, ta chỉ nên nhớ một điều là Trang không chịu làm quan mà thích sống tự do, thái độ đó rất hợp với tư tưởng của Trang trong bài I.1 và II.4. https://thuviensach.vn Bài I.1, Trang bảo: “Ông Liệt tử cưỡi gió mà bay, thật nhẹ nhàng, khoan khoái, mười lăm ngày rồi về. Có phúc lớn như ông thật hiếm ở đời, tuy khỏi phải đi, nhưng ông vẫn còn tùy thuộc một cái gì – do hữu sở đãi – (nghĩa là còn phải đợi cho gió nổi lên). Đến như hạng người làm chủ được cái chính đạo của trời đất, chế ngự được lục khí để ngao du trong vũ trụ vô biên, thì còn tùy thuộc cái gì nữa đâu”. Một người không muốn tuỳ thuộc một cái gì, thì đâu chịu giam mình trong vòng danh lợi. Đến như con trĩ ở trong chằm kia, thà chịu khó nhọc kiếm ăn (cứ mười bước lại phải mổ một thức ăn, trăm bước lại phải uống) chứ không chịu bị nhốt để người ta nuôi, (bài III.4), huống hồ là ông. Ông trọng tự do hơn hết thảy những gì ở đời, muốn được hoàn toàn tự do. Đó là nét nổi bật nhất trong cá tính của ông. Ông nghĩ sống trong một thời đại loạn, nếu lỡ có tài thì cũng nên giấu tài đi, mới mong được hưởng hết tuổi thọ của trời, như cái cây lớn cành lá sum suê vì gỗ xấu mà khỏi bị đốn trong bài XX.1. (Điểm này, tôi sẽ xét thêm trong một chương sau). Vì có tinh thần trọng tự do, tự tại, khinh phú quí đó, nên Trang cực kì cay độc mà dí dỏm với hạng vô tài mà khoe khoang khi được vua thưởng. Bài XXXII.6 chép: “Một người nước Tống tên là Tào Thương được vua Tống sai đi sứ qua Tần, khi đi chỉ có năm cỗ xe, vua Tần bằng lòng ông ta lắm, cho một trăm cỗ. Về tới Tống, ông ta gặp Trang tử, bảo: - Ở trong một đường hẻm trong một xóm nghèo khổ, quẫn bách tới nỗi phải bện dép để sống, đói tới nỗi cổ ngẳng, mặt xanh xao, đó là sở đoản của Thương tôi. Nhất đán gặp vua một nước vạn cỗ xe rồi được tặng một trăm cỗ xe, đó là sở trường của Thương tôi. Trang tử đáp: - Vua Tần bị bệnh, vời một y sĩ tới trị. Y sĩ mổ một cái nhọt lớn, vua Tần thưởng cho một cỗ xe; còn kẻ nào liếm trĩ ông thì ông thưởng cho năm cỗ xe. Việc càng đê tiện thì càng được thưởng nhiều. Phải ông trị bệnh trĩ cho vua Tần không, sao mà được thưởng nhiều xe như vậy? Thôi ông cút đi”. Truyện đó đáng cho vợ con những kẻ giàu sang trong thời loạn suy gẫm. Y như nọc rắn phun từ miệng Trang ra vậy. Ai bảo kẻ kia dám trêu ông, mỉa ông nghèo đói. Bình thường đối với hạng ham danh lợi đó, ông chỉ ôn tồn răn bảo, và luôn luôn dùng những ví dụ, những hình ảnh lạ để đập mạnh vào óc kẻ đối thoại, như trong bài XXXII.11: “Một người lại bái kiến vua Tống, được ân tứ mười cỗ xe, đánh mười cỗ xe đó lại khoe Trang tử. Trang tử bảo: - Trên bờ Hoàng Hà có một gia đình nghèo, sống nhờ nghề đan cỏ ngải. Một hôm một người con lặn xuống vực, vớt được một viên ngọc châu đáng giá ngàn vàng. Người cha bảo con: “Lấy một phiến đá đập bể nó đi! Một viên ngọc đáng giá ngàn vàng tất phải ở dưới cằm một con rồng đen trong một vực sâu chín đợt. Con lấy được nó chắc là trong khi con rồng đó ngủ; nó tỉnh dậy thì còn gì là đời con nữa!”. Nước Tống ngày nay còn sâu hơn cái vực chín đợt, mà vua Tống còn hung dữ hơn con rồng đen nữa. Chú được mười cỗ xe đó chắc là trong lúc ông ta ngủ; ông ấy mà tỉnh dậy thì tất chú bị nát thây mất”. Một điểm đáng để ý nữa trong cá tính của Trang là vui sống. Trong Nội thiên có tới năm sáu lần ông cho được “hưởng hết tuổi trời” là một hạnh phúc lớn. Bài XXVI.8 ông bảo: “Nếu tự mình tự thích ý được thì đi đâu mà không thích ý? Nếu tự mình không thích ý được thì dù đi đâu cũng không thích ý được… Chỉ bậc chí đức là vui vẻ sống với người đồng thời mà không theo thành kiến của họ…”. Bài đó do người đời sau viết, nhưng chúng ta có thể tin được là diễn đúng quan niệm của ông về nhân sinh. Về quan niệm của ông đối với sinh tử, trong một chương sau, tôi sẽ xét kĩ, đây tôi chỉ xin dẫn ít cố sự cho thấy tin thần rất khoáng đạt của ông thôi. Bài XVIII.2 rất nổi danh, được gọi là bài Trang tử cổ bồn, và tích Trang tử cổ bồn rất thường diễn trên https://thuviensach.vn sân khấu thời xưa. Bài đó như sau: “Vợ Trang tử chết, Huệ tử lại điếu, thấy Trang tử ngồi xoạc chân ra, gõ nhịp vào một cái vò[18] mà hát, bèn bảo: - Ăn ở với người ta, người ta nuôi con cho, nay người ta chết, chẳng khóc là bậy rồi, lại còn hát gõ nhịp vào cái vò, chẳng là quá tệ ư? Trang tử đáp: - Không phải vậy. Khi nhà tôi mới mất, làm sao tôi không thương xót? Nhưng rồi nghĩ lại thấy lúc đầu nhà tôi vốn không có sinh mệnh; chẳng những không có sinh mệnh mà còn không có cả hình thể nữa; chẳng những không có hình thể mà đến cái khí cũng không có nữa. Hỗn tạp ở trong cái khoảng thấp thoáng, mập mờ mà biến ra thành khí, khí biến ra thành hình, hình biến ra thành sinh mệnh, bây giờ sinh lại biến ra thành tử, có khác gì bốn mùa tuần hoàn đâu. Nay nhà tôi nghỉ yên trong cái “Nhà lớn” (tức trời đất) mà tôi còn ồn ào khóc lóc ở bên cạnh thì tôi không hiểu lẽ sống chết rồi. Vì vậy mà tôi không khóc”. Tư tưởng trong bài này hợp với tư tưởng của Trang trong Nội thiên, nhưng tác giả chắc tưởng tượng thêm, cho Trang tử ngồi xoạc chân, gõ nhịp mà hát, để câu chuyện thêm hấp dẫn. Trang vốn coi sinh tử như nhau (tề sinh tử), chỉ là những biến hoá tự nhiên như trên cái vòng tròn, không phân biệt đâu là thuỷ, là chung vì “chung” của giai đoạn này cũng “thuỷ” của giai đoạn sau, vì vậy vợ chết Trang tử không thấy làm buồn mà khóc, nhưng tất cũng không lấy đó làm vui cho vợ, tới nỗi gõ nhịp mà ca hát[19]. Thú vị hơn nữa là bài XXXII.13 tả lúc Trang tử hấp hối: môn sinh bàn với nhau sẽ hậu táng. Ông nghe được bảo: “- Đừng. Ta đã có trời đất làm quan quách, mặt trời mặt trăng làm ngọc bích, các tinh tú làm ngọc châu, vạn vật sẽ đưa ma ta, như vậy đồ táng ta chẳng đủ rồi sao? Còn phải thêm gì nữa? Môn sinh đáp: - Chúng con sợ quạ và diều hâu sẽ rỉa xác thầy. Trang tử bảo: - Tại trên mặt đất thì bị quạ và diều hâu rỉa, ở dưới đất thì bị kiến và sâu đục (đằng nào cũng vậy). Tại sao các con lại thiên vị, cướp của các loài trên mà cho các loài dưới?” Tắt thở tới nơi mà ông lão tám chục tuổi đó còn dí dỏm được như vậy! Những bài văn tả lúc chết của các triết gia lớn đều bất hủ, vì chứa những tư tưởng cao đẹp, mà lại cho ta hiểu rõ thêm chí hướng, tư cách tuyệt vời của họ. Trong bộ Hương sắc trong vườn văn[20] chương XIII, tôi đã dịch đoạn chép lúc Socrate thản nhiên đưa chén thuốc độc lên uống một hơi, thấy đám môn sinh ròng ròng nước mắt, ông rầy: ‘Khóc lóc gì kì vậy? Thầy đã đuổi đàn bà ra khỏi là để tránh cái phiền đó vì thầy muốn được chết yên ổn. Thôi, bình tĩnh mà an mệnh cả đi”. Trong cuốn Nhà giáo họ Khổng[21]tôi cũng đã thuật lại lúc Khổng tử biết mình sắp chết, than thở xã hội vẫn chưa hết loạn, rồi đây không còn ai thay mình được nữa. Tôi xin dịch thêm dưới đây hai bài 5 và 6 chương Thái bá (Luận ngữ) lúc hấp hối của Tăng tử: “Tăng tử đau nặng (sắp mất) cho gọi các đệ tử tới bảo: Dở tay ta ra xem, dở chân ta ra xem (có toàn vẹn không) nào. Kinh Thi có câu: “Phải nơm nớp, chăm chăm như xuống vực sâu, như đi trên giá mỏng”. Từ đây về sau ta mới biết chắc rằng ta giữ được (thân ta) khỏi các điều hư hỏng, tàn tật đó các trò”. Rồi khi Mạnh Kính tử (một đại phu nước Lỗ) lại thăm, ông nói: “Con chim sắp chết thì kêu lên tiếng bi thảm, con người sắp chết thì thốt ra lời đạo đức. Bậc quân tử (người trị dân, trỏ Mạnh Kính tử) nên giữ được ba điều này: dong mạo đừng bạo ngược, ngạo mạn, nét mặt phải thành tín, ngay thật; lời nói đừng nên thô bỉ, bội nghịch…” Tăng tử không buồn vì sắp chết, nhưng chỉ là một nhà đạo đức mừng rằng suốt đời không mắc tội gì, đã giữ được trọn vẹn thân thể, không làm nhục cha mẹ; và còn chút hơi thở thì khi gặp dịp, ông còn khuyên người ta thành tín, khiêm tốn, nhã nhặn. https://thuviensach.vn Khổng tử chí lớn hơn nhiều, muốn làm một nhà cải tạo xã hội, gắng sức suốt đời, nhưng xã hội vẫn loạn lạc, dân chúng vẫn điêu linh, nên ông buồn, không phải buồn cho ông mà buồn cho thiên hạ rồi đây sau khi ông mất, sẽ còn khốn khổ hơn nữa. Nhiệt tâm của ông lúc đó vẫn chưa tắt[22]. Socrate bình thản hơn; ông cũng muốn giúp nước nhưng kẻ cầm quyền không hiểu ông, bắt ông chết thì ông chết, mà ông không oán ai cả. Trang tử khoáng đạt hơn cả, vui vẻ để cho quạ, diều rỉa xác. Ông còn mắng đùa môn sinh nữa. Và con người đó nghệ sĩ làm sao khi tưởng tượng đám tang của mình có trời đất làm quan quách, trăng sao làm châu ngọc, có vạn vật tiễn đưa. Thật là hoà đồng với vũ trụ. Trong văn học sử nhân loại, chắc không có đoạn văn thứ hai nào như bài XXXII.3 đó. Trang tử vốn chủ trương không nên tranh biện, vì tranh biện thì kẻ thắng chưa nhất định là phải, kẻ thua không nhất định là trái; hơn nữa tranh biện không thuyết phục được ai cả, mà cũng không thể dùng ai làm trọng tài để phê phán ai phải ai trái được (bài II.12 – Tôi sẽ trở lại điểm này trong một chương sau). Vậy mà trong bộ Trang tử, chúng ta thấy có tới khoảng một chục chỗ Trang tranh biện với Huệ Thi. Chẳng hạn bài XXIV.5 Trang tử hỏi Huệ Thi: “- Người bắn cung vô tình bắn trúng đích thì có thể gọi là thiện xạ rồi kết luận rằng mọi người đều là Hậu Nghệ (một người bắn rất giỏi thời thượng cổ) cả không? Huệ tử đáp: - Được. Trang tử lại hỏi: - Nếu trong thiên hạ không có chân lí chung cho mọi người mà ai cũng tự cho mình là nắm được chân lí, thì có thể bảo rằng mọi người đều là minh triết như vua Nghiêu được không? Huệ tử đáp: - Được. Trang tử bảo: - Vậy thì Nho, Mặc, Dương Chu, Công Tôn Long là bốn, với ông nữa là năm, nhà nào nắm được chân lí? (…) Huệ tử đáp: - Nay các phái Nho, Mặc, Dương Chu và Công Tôn Long tranh biện với tôi, dùng lời lẽ công kích nhau, lớn tiếng áp đảo nhau, mà không ai bác bẻ được tôi, còn gì sướng cho bằng”. Bài đó cho thấy Huệ Thi chỉ là một nhà nguỵ biện như Công Tôn Long (Chương XXXIII, bài 9 có chép mấy điều nguỵ biện của ông ta). Hai lần ông ta đáp bướng: “Được” – “Được”, lần cuối mới thú thực rằng tranh biện chẳng phải để tìm chân lí gì cả, mà chỉ cốt tìm cái vui là không ai bác bẻ được mình. Rõ rằng hơn nữa là lần Trang và Huệ đấu khẩu với nhau về cái vui của cá (XVII.7): “Trang tử cùng với Huệ tử đi dạo trên cầu sông Hào, Trang tử bảo: - Đàn cá “du” (một loại cá trắng) kia thung dung bơi lội, đó là cái vui của cá. Huệ tử bẻ: - Ông không phải là cá, làm sao biết được cái vui của cá? Trang tử đáp: - Ông không phải là tôi, làm sao biết được rằng tôi không biết cái vui của cá? - Tôi không phải là ông, dĩ nhiên tôi không biết được ông, nhưng ông không phải là cá thì hiển nhiên là ông không biết cái vui của cá. Trang tử bảo: - Xin trở lại câu hỏi đầu tiên. Ông hỏi tôi làm sao biết được cái vui của cá. Như vậy tức là ông nhận rằng tôi đã biết cái vui đó rồi (nên mới hỏi làm sao tôi biết được?). Làm sao biết tôi được ư? Thì đây: tôi đứng trên cầu sông Hào này mà biết được. https://thuviensach.vn Có người giải thích bài này bảo Trang tử vì đồng hoá với vạn vật nên biết được cái vui của cá, còn Huệ tử thì không. Tôi nghĩ ai nhìn cá thung thăng bơi lội dưới dòng hoặc nghe chim ríu rít hót trên cành thì cũng thấy vui và cho rằng chúng cũng vui. Tâm lí đó rất thông thường, chẳng cần chủ trương “vật hoá” như Trang mới có ý nghĩ đó. Có thể chính Huệ tử cũng thấy cá vui, mà chỉ bắt bẻ bạn để nghe cãi lí thôi. Và Trang đã cãi lí y như các nhà trong phái nguỵ biện. Nếu chỉ có một bài này, thì tôi có thể ngờ rằng do người đời sau bịa ra; nhưng còn bài XXIV.5 đã dẫn trên, và nhiều bài khác nữa, hai nhà tranh biện về lẽ vô dụng, hữu dụng (bài I.5, XXVI.7) hoặc thế nào là hữu tình, vô tình (V.6). Nhất là bài XXIV.6, xác nhận rằng Trang rất thích tranh biện với Huệ Thi, nên khi Huệ Thi mất rồi, Trang tiếc như tiếc một người tri kỉ. Lần đó Trang đi qua ngang mộ Huệ tử, quay lại nói với người phía sau: “Một người đất Dĩnh (nước Sở) đầu mũi dính một cục đất sét trắng lớn bằng cánh con ruồi, nhờ người thợ mộc tên là Thạch dùng lưỡi rìu đẽo đi. Thợ mộc Thạch múa rìu vù vù như tiếng gió, đẽo văng cục đất sét mà không đụng tới mũi, và người kia cũng không hề thất sắc – (Sức tưởng của Trang thật dồi dào, kì dị) – Vua Tống Nguyên Quân hay truyện đó, cho vời thợ mộc Thạch lại bảo: “Thử làm lại với quả nhân xem nào”. Thạch từ chối: “Thần đã làm được việc đó, nhưng đối thủ của thần chết đã lâu rồi”. – (Ý muốn nói Tống Nguyên Quân không thể bình tĩnh, can đảm như người đất Dĩnh kia được). Rồi Trang tử kết: “Từ khi Huệ tử mất, đối thủ của tôi cũng chết rồi, tôi không còn ai để đàm luận nữa”. Nhắc lại chuyện đó, nhiều tác giả như Hoàng Cẩm Hoành chỉ khen Trang tử là một người chí tình, đa cảm, thương tiếc bạn, mà không nhận ra rằng Trang cũng ham tranh biện lắm, sở dĩ thương tiếc bạn là vì mất một đối thủ để tranh biện. Khía cạnh tính tình đó trái ngược với tư tưởng của Trang, nhưng dù là triết gia thì người ta vẫn có những nét mâu thuẫn như chúng ta – có lẽ triết gia còn có nhiều mâu thuẫn hơn chúng ta nữa – nên chúng ta không nên lấy làm lạ. Khổng tử suốt đời lo cải tạo xã hội, mà trong thâm tâm lại chỉ mong mùa xuân, dắt bọn trẻ đi tắm ở sông Nghi, rồi lên hứng mát ở đền Vũ Vu; tính tình rất nghiêm trang, đạo mạo mà có lúc lại nói đùa với môn sinh; dạy ba ngàn học trò mà có mỗi một cậu con trai thì lại không biết cậu đã học những gì. (J.J.[23] Rousseau tệ hơn nữa, viết một cuốn về giáo dục, cuốn Emile, mà con thì đã không dạy, cũng không nuôi). Tóm lại, Trang tử có một cá tính rất phong phú, đặc biệt: khoáng đạt, xuất thế, – sống bình dị, yêu tự do, nhàn tản, tiêu dao, ông cao ngạo, không coi vua chúa ra gì cả, kẻ nào làm trái ý ông, nhất là hay khoe khoang thì ông không giữ lời, mắng cho tàn nhẫn, nhưng ông cũng có giọng trào phúng, đùa cợt; tranh biện với ai thì ông rất lanh trí, hoạt bát, sức tưởng tượng của ông thiên biến vạn hoá, tạo ra những ngụ ngôn kì dị, khiến đối phương lúng túng, không sao thắng được ông, về phương diện đó ông thực là một thiên tài. Ông trái hẳn với Mạnh tử: Mạnh là một chính trị gia hơn là một triết gia, Trang là một nghệ sĩ hơn là một triết gia; Mạnh là một đại trượng phu giữ đúng nguyên tắc, Trang là một ẩn sĩ, không coi cái gì là quan trọng trừ sự tự do, sống theo sở thích của mình. Đó là chân dung của Trang theo những cố sự trong Trang tử. Những cố sự đó chỉ đáng tin một phần thôi, vì do nhiều người đời sau ghi lại – những người này không phải hết thảy là môn sinh của Trang – mãi tới đời Hán mới được thu thập thành sách lưu truyền đến nay như chương sau chúng ta sẽ thấy. https://thuviensach.vn CHƯƠNG II TÁC PHẨM XUẤT HIỆN TỪ THỜI NÀO? Theo Hoàng Cẩm Hoành thì Hán thư Nghệ văn chí (của Ban Cố 32-92) ghi rằng bộ Trang tử gồm 52 thiên chia làm: Nội thiên 7, Ngoại thiên 28, Tạp thiên 14, và Giải thuyết 3. Bản đó phải chăng là bản cổ nhất, mà nay đã thất truyền? Một thuyết khác (trong Kinh điển thuyết văn tự lục) bảo Lưu An, tức Hoài Nam vương (?–122 tr. TL), cháu Hán Cao tổ, cũng sưu tập được một bản nhờ các môn khách chú giải, không biết bao nhiêu thiên, hiện nay cũng thất truyền. Tư Mã Thiên (-145–?) sanh sau Lưu An chưa đầy một thế kỉ, là người đầu tiên sống gần Lưu An nhất và viết về Trang tử cơ hồ không biết tới bản của Lưu An đó và chỉ bảo Trang viết một bộ sách gồm trên mười vạn chữ, không cho biết gồm bao nhiêu thiên, mà những thiên quan trọng nhất: Tiêu dao du, Tề vật luận lại không nhắc tới, chỉ kể vài thiên tầm thường: Ngư phủ, Đạo chích, Khư khiếp, Canh Tang Sở… Mãi tới đời Tấn, thế kỉ thứ 3, mới xuất hiện một bản do Hướng Tú chú giải, gồm 26 thiên, Hướng Tú chú giải chưa xong mới đến chương Thu thuỷ thì mất; một người bạn là Quách Tượng sửa lại rồi chú giải tiếp, theo tôn chỉ của phái huyền học thanh đàm các đời Nguỵ, Tấn, thành một bản khác gồm 27 thiên; tức bản lưu truyền ngày nay. Như vậy, từ đời Hán đến đời Tấn, bộ Trang tử đã mấy lần thất lạc, sưu tập lại rồi thất lạc nữa, mỗi lần như vậy chắc sai đi ít nhiều. Và bản hiện nay mọi người dùng xuất hiện lần đầu tiên cách Trang tử sáu thế kỉ. Như vậy ai dám bảo rằng nó giữ đúng được tư tưởng của Trang? Bản đó chia ra làm ba phần như sau: NỘI THIÊN gồm 7 chương[24] I Tiêu dao du II Tề vật luận III Dưỡng sinh chủ IV Nhân gian thế V Đức sung phù VI Đại tôn sư VII Ứng đế vương. NGOẠI THIÊN gồm 15 chương VIII Biền mẫu IX Mã đề X Khư khiếp XI Tại hựu XII Thiên địa XIII Thiên đạo XIV Thiên vận XV Khắc ý https://thuviensach.vn XVI Thiện tính XVII Thu thuỷ XVIII Chí lạc XIX Đạt sinh XX Sơn mộc XXI Điền Tử Phương XXII Trí bắc du TẠP THIÊN gồm 11 chương XXIII Canh Tang Sở XXIV Từ Vô Quỉ XXV Tắc Dương XXVI Ngoại vật XXVII Ngụ ngôn XXVIII Nhượng vương XXIX Đạo Chích XXX Thuyết kiếm XXXI Ngư phủ XXXII Liệt Ngự Khấu XXXIII Thiên hạ Cũng theo Hoàng Cẩm Hoành, người đầu tiên nêu ra vấn đề chân nguỵ trong Trang tử là Tô Đông Pha đời Tống. Đại khái Tô bảo Trang có ý bênh vực Khổng tử mà lời văn thì lại không phải vậy. Bề ngoài thì công kích, mà bề trong là ngầm giúp đỡ (…). Như chương Thiên hạ phê bình các đạo thuật từ Mặc tử đến Bành Mông, Thận Đáo, Lão, Trang, mà không hề nhắc đến Khổng tử, như vậy là cực tôn sùng Khổng tử.[25] Nhưng lại có những chương Đạo chích, Ngư phủ thì rõ ràng công kích Khổng tử. Còn những chương Nhượng vương, Thuyết kiếm thì lời thô thiển, bỉ lậu, không hợp nghĩa lí. Vậy Tô đã nghi ngờ bốn chương đó (Đạo chích, Ngư phủ, Nhượng vương, Thuyết kiếm) do người đời sau nguỵ tác. Sau Tô, số học giả nghi ngờ sự nguỵ tác trong Trang tử càng ngày càng nhiều. Chẳng hạn như La Miễn Đạo và Tống Liêm đều đồng ý với Tô; riêng La còn ngờ hai chương Khắc ý, Thiện tính nữa, vì lời cũng nông cạn, không phải của Trang. Trịnh Viện (đời Minh) hoài nghi thêm hai chương Mã đề, Khư khiếp, và cho rằng chỉ có bảy chương trong Nội thiên là của Trang tử, còn hai mươi sáu chương kia đều do môn đồ của Trang viết rồi thêm vào. Sau đó, Vương Phu Chi, Diêu Nại, Vương Tiên Khiêm đều bảo Ngoại thiên không phải của Trang tử. Gần đây, vấn đề chân nguỵ ngày càng phân tích kĩ hơn nữa, như La Căn Trạch trong Chư tử Khảo sách (Nhân dân xuất bản xã – 1958). Hoàng Cẩm Hoành trong Trang tử độc bản đã làm một bản liệt kê ý kiến của mỗi nhà về sự chân nguỵ của mỗi thiên. Đại khái thì ai cũng nhận rằng Nội thiên của Trang tử (trừ một số bài) còn Ngoại thiên và Tạp thiên thì đại đa số của người đời sau. Nhưng tôi nhận thấy điều này: cơ hồ tất cả các học giả đều xét tổng quát từng chương để xem chương nào trong Ngoại thiên và Tạp thiên là của Trang hay của môn phái Trang, môn phái Lão; chưa ai đặt https://thuviensach.vn thành vấn đề rằng mỗi chương có thể do nhiều người viết, hỗn tạp chứ không nhất trí. Theo tôi những người đời Hán hay Lục Triều (Nguỵ, Tấn) khi thu nhập các bài để cho vào mỗi chương, đã không chú trọng tới điểm nhất trí đó, có lẽ không hề đặt ra vấn đề chân nguỵ nữa. Xung hư chân kinh (tức Liệt tử) như vậy, mà Nam Hoa kinh (tức Trang tử) cũng vậy. Đó là một lỗi chung của nhiều công trình sưu tập thời đó. Trong bộ Liệt tử (Lá Bối – 1973) tôi bảo không sao phân biệt được bài nào của Liệt Ngự Khấu viết, bài nào của người sau viết (có thể toàn thể đều do người đời sau viết), cho nên tôi chỉ sắp đặt lại theo nội dung, chia thành các chương: Vũ trụ, Sinh tử, Đạo, Huyền thoại và Truyền thuyết, Cố sự và ngụ ngôn… cho dễ kiếm. Trong bộ Trang tử này, vấn đề chân nguỵ quan trọng nhất, mà sự nhận định về chân nguỵ chỉ là những giả thuyết có thể đúng nhiều hay ít, có đúng cũng chỉ đúng về đại cương: của Trang hay của người đời sau; chứ không căn căn cứ vào đâu để quả quyết bài này của phái Trang, phái Lão, phái Khổng được. Vì vậy sắp đặt lại các bài theo phái là một việc mạo hiểm. Còn sắp đặt theo từng vấn đề (như trong Liệt tử tôi đã làm) là một việc vô ích, vì mỗi vấn đề có nhiều chủ trương khác nhau (tuỳ người viết ở trong môn phái nào), có khi trái ngược nhau nữa (chẳng hạn vấn đề Đạo, có bài hiểu Đạo theo Lão, Trang, có bài lại phân biệt ra Thiên đạo, nhân đạo; vấn đề vô vi, có bài chủ trương vô vi như Lão, Trang nghĩa là cứ thuận theo tự nhiên mà hành động, có bài bảo vua thì vô vi mà bề tôi thì hữu vi; nhất là thái độ đối với các ông thánh của đạo Nho, như Nghiêu, Thuấn… có bài mạt sát kịch liệt, có bài đề cao, có bài ôn hoà). Do đó mà tôi vẫn giữ lối trình bày của cổ nhân, giữ nhan đề và thứ tự các chương, chia mỗi chương ra nhiều bài để độc giả dễ kiếm, mỗi bài mang một số Á Rập, và không có nhan đề; sau cùng, tôi một phần dựa vào ý kiến của người trước, một phần tôi đưa ra ý kiến của riêng tôi để phỏng định chương nào hoặc bài nào là chân hay nguỵ, nếu là nguỵ thì có thể là của phái nào. https://thuviensach.vn NỘI THIÊN Trước hết chúng ta hãy xét sự phân biệt Nội thiên, Ngoại thiên, Tạp thiên có hợp lí không đã. Có điều này chắc chắn, ai cũng công nhận là Trang tử khác hẳn Lão tử (tức Đạo Đức kinh), Luận ngữ, Mạnh tử…, thành hình lần lần trong một thời gian rất dài, từ sinh thời của Trang tử tới cuối thời Chiến Quốc hay đầu đời Hán, trong khoảng hai trăm năm hay hơn nữa. Xét chung thì Nội thiên do Trang tử viết, còn hai thiên Ngoại và Tạp thiên do người sau thêm vào. Sự phân biệt Nội thiên ra một bên, Ngoại và Tạp thiên ra một bên là điều rất hữu lí và rất dễ nhận. Vì Nội thiên có nhiều đặc điểm, khác hẳn Ngoại và Tạp thiên: 1. Nội thiên có tính chất nhất quán: Chương I đưa ra một quan niệm về hạnh phúc: thảnh thơi tự tại; và cho ta biết làm sao thì có thể hoàn toàn tự do mà thảnh thơi tự tại được. Chương II bàn về lẽ mọi vật trong vũ trụ đều tuyệt đối bình đẳng, không vật nào quí, không vật nào tiện, hơn nữa không có cả thị phi, chung thuỷ, thiện ác nữa, mình và vật nữa. Chương III chỉ cho ta phép dưỡng sinh để có thể hưởng được tuổi trời (chung kì thiên niên) mà sống cuộc đời vui thú. Chương IV chỉ cho ta phép xử thế trong thời loạn. Chương V đưa ra một tiêu chuẩn về bậc chí đức: Theo thiên tính, trút bỏ hết thế tính. Chương VI luận về Đạo và sự đắc Đạo. Chương VII thuộc về chính trị luận, đại ý là các đế vương trị thiên hạ phải vô vi, nghĩa là hư tâm, thuận theo lẽ tự nhiên mà không dùng cơ trí. Như vậy trong phần Nội thiên chúng ta được thấy quan niệm của Trang về vũ trụ, tri thức, nhân sinh, chính trị, đủ thành một hệ thống triết lí. Nhiều học giả thời trước đã nhận thấy tính nhất quán đó. Chử Bá Tú[26] bảo: “Nội thiên bắt đầu chương Tiêu dao du và kết thúc bằng chương Ứng đế vương, cho thấy điều quan trọng trong đạo học là cầu ở chính mình thì gặp cảnh nào cũng vui, rồi sau quan sát vạn vật ở ngoài sẽ thấy mọi vật đều ngang nhau (tề); thấy vật ngang nhau rồi thì mình quên mình được; tự quên mình đó là chủ yếu của phép dưỡng sinh. Dưỡng sinh để cho mình sung sướng, ứng vật để cho vật phát triển tự nhiên (thiện vật), hai việc đó đều cần có đức sung mãn, đức sung mãn thì vạn vật phù hợp mà tôn lên làm thầy (?) (…) mà ở trong, mình thành thánh, thần, ở ngoài (tức trị dân) mình thực hiện được lí tưởng của đế vương”. Gần đây, Tưởng Phục Thông[27] cũng bảo chương Tiêu dao du là cái mào cho toàn thể Nội thiên, mà chương Tề vật luận quét sạch cái quan niệm thị phi, mình và vật, mở đường cho lập luận (tức lí thuyết chính trị); các chương sau hoặc bàn về phép dưỡng sinh, hay cách xử thế, cách đạt được cái đức sung mãn, đều phải lấy Đạo làm thầy; Đạo đó ứng dụng vào việc trị nước thì thành đế, vương. Cũng có thể hiểu một cách khác được, chẳng hạn: Thảnh thơi tự tại (Tiêu dao du) là mục đích của loài người cũng như của vạn vật. Muốn đạt được cảnh giới đó chúng ta phải bỏ quan niệm thị phi, mình và vật đi (Tề vật luận), phải biết phép dưỡng sinh (Dưỡng sinh chủ), cách xử thế (Nhân gian thế); cao hơn nữa, phải tu dưỡng, cho đức được sung mãn (Đức sung phù), mà lấy Đạo làm thầy (Đại tôn sư); và muốn cho mọi người trong thiên hạ được thảnh thơi tự tại thì người cầm quyền phải theo Đạo vô vi mà trị dân. Hiểu theo cách nào, chúng ta cũng thấy có một sự nhất quán trong bảy chương của Nội thiên, tính cách đó Ngoại và Tạp thiên thiếu hẳn. 2. Tư tưởng trong Nội thiên rất ít mâu thuẫn nhau; trái lại trong Ngoại và Tạp thiên, tư tưởng rất hỗn tạp, rõ ràng là của nhiều người trong nhiều phái viết; điểm này sẽ được xét kĩ trong tiết sau. https://thuviensach.vn 3. Bút pháp trong Nội thiên cao hơn Ngoại và Tạp thiên, đặc biệt là bút pháp trong hai chương đầu: Tiêu dao du và Tề vật luận. 4. Trong Nội thiên nhan đề tóm tắt được đại ý trong chương, còn trong Ngoại và Tạp thiên, người ta dùng vài chữ trong câu đầu để đặt tên chương, thành thử nhan đề không liên quan gì tới ý chính trong chương cả; nhiều chương cũng không có cả ý chính nữa. Đó là bốn đặc điểm khiến Nội thiên phải được tách rời khỏi hai thiên kia. Tuy nhiên, Nội thiên có thực do Trang tử viết không? Một số người còn nghi ngờ và đưa ra mấy lí do không vững lắm. Họ bảo: 1. Tư Mã Thiên trong Sử kí chỉ nói rằng Trang tử viết những chương Ngư phủ, Đạo chích, Khư khiếp để mạt sát Khổng tử chứ không hề bảo Trang tử viết Nội thiên. Điều đó có thể do Tư Mã Thiên không khảo sát kĩ lưỡng, không đủ chứng rằng Nội thiên không phải của Trang tử. 2. Cổ nhân thường lấy mấy chữ đầu trong chương để đặt tên cho chương, như trường hợp Luận ngữ, Mạnh tử… rồi đời sau mới lấy ý chính trong chương mà đặt tên, vậy Nội thiên phải xuất hiện sau Ngoại và Tạp thiên, tức vào khoảng đời Hán, và không thể do Trang tử viết. Lẽ đó sai. Thời Chiến Quốc, đã có nhiều nhà dùng ý chính để đặt tên chương, như Tôn tử, Công Tôn Long, Khuất Nguyên…, Mạnh tử chỉ là một ngoại lệ. 3. Lối chia tác phẩm thành Nội và Ngoại thiên bắt đầu từ đời Hán. Nhưng Quản tử cũng chia ra Ngoại ngôn, Nội ngôn; Hàn Phi tử cũng có Nội trừ thuyết, Ngoại trừ thuyết; vậy lối chia ra Nội, Ngoại đã có từ đời Chiến Quốc rồi. Vả lại, dù lối chia đó xuất hiện từ thời Hán thì cũng chỉ chứng minh được sự phân chia ra Nội, Ngoại bắt đầu từ đời Hán chứ không chứng minh được rằng Nội thiên do một người đời Hán viết, không phải của Trang tử. Nhưng xét kĩ Nội thiên, chúng ta cũng phải nhận có vài chỗ khả nghi trong hai chương Nhân gian thế và Đại tôn sư, vì những lí do dưới đây: 1. Nhân gian thế. - Có sách bảo rằng bút pháp của chương này không giống bút pháp sáu chương kia vì chép toàn cố sự. Tôi thấy lời đó không đúng: Nhân gian thế cũng có hai bài 6 và 9 dùng thể nghị luận; mà chương Đức sung phù gồm 6 bài thì 5 bài đầu là cố sự còn bài cuối là nghị luận. Vả lại, trong cố sự có thể có nghị luận, trong nghị luận có thể đưa cố sự vào. Như bài 5 và 6 Nhân gian thế, nếu gom làm một thì có thể bảo là cố sự; nếu tách ra làm hai như tôi đã làm thì bài 5 là cố sự, bài 6 là nghị luận. Bài 8 và 9 cũng vậy, nếu gom làm một thì là cố sự; tách làm hai thì 8 là cố sự, 9 là nghị luận. Mà theo ý nghĩa thì phải tách làm hai, không thể gom làm một được. - Bài 1 chép rằng xưa vua Nghiêu đánh các nước Tùng Chi và Tư Ngao, mà bài 9 Tề vật luận lại bảo vua Nghiêu muốn đánh các nước Tông, Khoái và Tư Ngao. Không lẽ một người viết chỉ cách có mấy mươi trang đã chép khác nhau như vậy. Vậy nếu Tề vật luận do Trang tử viết thì Nhân gian thế phải do người khác viết. Lẽ này có thể chấp nhận được nhưng không quan trọng lắm: có thể do người sau chép sai, cũng có thể một lần vua Nghiêu muốn đánh ba nước Tông, Khoái và Tư Ngao, lần khác muốn đánh hai nước Tùng Chi và Tư Ngao. - Bài 4 và 5 trùng ý nhau: Cả hai đều nhắc ta rằng hễ vô tài thì hưởng hết tuổi trời. Bài 5 kém bài 4 do https://thuviensach.vn người sau bắt chước Trang tử, viết rồi cho thêm vào. Rất có thể như vậy nhưng vẫn chưa đủ làm chứng cứ được. - Lí do này vững hơn: Trong bài 1, tác giả cho Khổng tử sáng suốt về Đạo, đặt vào miệng Khổng tử những tư tưởng của Trang, chẳng hạn: “Từ cái hư không của tâm thần mà phát ra ánh sáng; cái phúc ở cả trong sự hư tĩnh của tâm thần” – Bài 1. Thế mà trong bài 8, lại cho Khổng tử là người không biết cái lẽ tiến lui. Như vậy là tư tưởng mâu thuẫn. Nhất là bài 8 này rất giống bài 5 trong chương Vi tử sách Luận ngữ: “Một người cuồng nước Sở đi ngang qua Khổng tử, hát: Con phượng kia, con phượng kia, Sao mà đức suy như vậy! Việc đã lỡ rồi, không can gián người được nữa, Nhưng việc sẽ tới, (nếu ngươi tỉnh ngộ) thì còn kịp đấy: Thôi đi, thôi đi, đời nay làm chính trị là một việc nguy hiểm. Khổng tử bèn xuống xe muốn nói chuyện với người cuồng đó, nhưng ông ta đã nhanh chân đi xa rồi, Khổng tử không nói được gì cả”. Bài 8 không có câu kết, còn hai bài hát cũng bắt đầu bằng hai câu như trong Luận ngữ, mà ý nghĩa cũng vậy, tuy rườm hơn: Con phượng kia, con phượng kia, Sao mà đức suy như vậy? Không thể biết trước được tương lai, Không thể trở lui được về dĩ vãng. Khi thiên hạ thịnh trị Thì thánh nhân thực hiện sứ mệnh mình. Khi thiên hạ loạn lạc Thì thánh nhân bảo toàn thân mình. Như thời này thì chỉ nên cầu đừng bị hình phạt. Hạnh phúc nhẹ hơn cái lông Mà không biết nhận lấy nó. Tai hoạ nặng hơn trái đất Mà không ai biết tránh nó. Thôi đi, thôi đi! Đừng mong lấy đức cảm hoá người nữa. Nguy thay, nguy thay! Đừng tự làm khổ mình Gai góc, gai góc! Đừng cản ngăn bước đường của ta. Đi vòng, đi vòng, đừng để gai đâm vào chân.[28] Trang tử đâu lại bắt chước người khác như vậy. - Hơn nữa, ngay trong một bài – bài 2 – bút pháp cũng không thông. Giữa bài cho Khổng tử khuyên Diệp Tử Cao: “Con thờ cha mẹ thì phải thích ứng với hoàn cảnh, như vậy là chí hiếu; bề tôi thờ vua phải chấp nhận mọi nguy hiểm, như vậy là tận trung”. Chủ trương đó đúng là chủ trương hữu vi của Khổng giáo. Nhưng cuối bài, Khổng tử lại có giọng vô vi của Trang tử: “Nên vượt ra ngoài sự vật mà tiêu dao tự tại, thuận theo cái lẽ tất nhiên để dưỡng tâm, đó là đạt được Đạo”. 2. Đại tôn sư cũng có vài chỗ mâu thuẫn với các chương khác. - Chẳng hạn bài 1 hơi trọng lễ nghi, hình pháp và trí tuệ: “[Bậc chân nhân] coi hình pháp là thân thể, lễ nghi là cặp cánh, trí tuệ là thủ đoạn để ứng phó (…). Coi hình pháp là thân thể mình, nên khoan hồng khi trừng trị; coi lễ nghi là cặp cánh của mình, nên làm việc theo thế tục mà thành công; dùng trí tuệ để ứng phó, nên chỉ hành động khi bất đắc dĩ”. Ý đó có màu sắc Khổng giáo, trái ngược với ý trong Đức sung phù 5: “Thánh nhân tiêu dao ở chốn hư không, coi trí tuệ là mầm thừa (gây tư lự), lễ tín là thứ keo [câu thúc người ta], đức huệ như thứ để tiếp dẫn, công nghệ [cũng đáng khinh] như thương mại. Thánh nhân không mưu tính cái gì, đâu cần tới trí tuệ? Không đẽo gọt cái gì, đâu cần tới keo[29]? Không mất cái gì, đâu cần phải tiếp dẫn? Không chế tạo cái gì, đâu cần đến thương mại?”. Bài 2, Nhữ Vũ bảo mình đắc đạo là nhờ học được của con của [bút] mực; con của mực là cháu của sự đọc sách. https://thuviensach.vn Ý đó cũng đáng ngờ là không phải chủ trương của Trang. Trang trọng trực giác, hư tâm để đạt Đạo, đâu có dùng đến bút mực nhất là sách vở, cái “cặn bả của cổ nhân” đó? - Bài 4 cho chết là vui, nên khi bạn là Tử Tang Hộ chết. Mạnh Tử Phản và Tử Cầm Trương hoà đàn ca hát: Ôi anh Tang Hộ, Ôi anh Tang hộ, Anh đã trở về bản thể của anh, Mà tụi tui vẫn còn làm người. Bài này cũng như bài XVIII.2 tôi đã dẫn ở chương I, không chắc là của Trang vì Trang coi sinh tử như nhau, có lẽ nào lại cho họ ca hát mừng cho bạn được và than thở mình còn phải sống như vậy? Bài 8, Tử Tang than vì số bệnh mà phải nghèo và cực khổ. Tư tưởng đó tầm thường quá, nhất định không phải của Trang. Tóm lại, Nội thiên tư tưởng nhất quán, thành một hệ thống, chắc do Trang tử viết, nhưng hai chương Nhân gian thế và Đại tôn sư có một số bài ý nghĩa mâu thuẫn với học thuyết của Trang, có thể do người đời sau viết thêm vào[30] và khi tìm hiểu Trang tử, chúng ta nên gạt những chỗ mâu thuẫn đó ra. https://thuviensach.vn NGOẠI THIÊN VÀ TẠP THIÊN Vương Phu Chi trong Trang tử giải so sánh Nội thiên với Ngoại thiên, bảo: - Nội thiên ý liên tục và có hệ thống, Ngoại thiên ý rời rạc, - Nội thiên ý man mác mà qui về một mối, Ngoại thiên không hàm súc mà ý phồn tạp, - Nội thiên không cố chấp như Ngoại thiên, - Nội thiên tuy “nén” Khổng tử xuống, nhưng không có giọng khinh bạc, - Nội thiên tuy có điểm giống Lão giáo nhưng dựng được một thuyết riêng. Ngoại thiên nông cạn, bắt chước Lão giáo mà không phát huy được gì, kém nhất là những chương Biền mẫu, Mã đề, Khư khiếp, Thiên đạo, Thiện tính, Chí lạc. So sánh Ngoại thiên với Tạp thiên, Vương bảo Tạp thiên tuy không thuần, nhưng phát huy được ý nghĩa của Nội thiên, và hơn Ngoại thiên ở điểm đó; nhưng có mấy chương Nhượng vương, Đạo chích, Thuyết kiếm, Ngư phủ lời và ý đều bỉ lậu, tầm thường quá đỗi. Tuyên Dĩnh bảo Tạp thiên sở dĩ gọi là tạp vì mỗi bài đều tuỳ hứng mà viết, tuy nhiên đối với đạo, không nhất thiết là tạp loạn. Vương bảo “không thuần”, Tuyên bảo là “tuỳ hứng”, ý nghĩa đại khái như nhau. Tôi thấy từ Nội thiên bước qua Ngoại thiên, không khí khác hẳn, như đương ở một nơi có ngăn nắp qua một nơi hỗn độn, càng về sau, cảm giác hỗn độn đó càng tăng. - Điều ta để ý tới trước hết là nhan đề mỗi chương không còn liên quan gì với ý nghĩa của chương, như chương VIII, lấy hai chữ “biền mẫu” mà đặt tên cho chương. Biền mẫu có nghĩa là ngón chân dính nhau, còn ý cả chương là phải thuận theo cái tính của mỗi vật, đừng làm cái gì hại tới bản tính tự nhiên (bất dĩ nhân hại thiên). Tất cả các chương khác đều như vậy. - Điểm thứ nhì là tư tưởng không thuần. Trong Nội thiên, trừ mấy bài đáng ngờ của người sau thêm vào hai chương Nhân gian thế và Đại tôn sư, còn thì tư tưởng nhất quán, có hệ thống. Trong Ngoại và Tạp thiên trái lại, ta thấy có ít nhất là năm xu hướng: một xu hướng giữ đúng tư tưởng của Trang, tôi gọi là học phái Trang; một xu hướng theo Lão rõ rệt, tôi gọi là học phái Lão; trong phái này có nhà ôn hoà (La Căn Trạch gọi là hữu phái); có nhà cực đoan, muốn đạp đổ mọi tổ chức xã hội, bỏ đạo đức, nhân nghĩa, lễ nghi, “tuyệt thánh khí trí” mà trở về thời nguyên thuỷ (La Căn Trạch gọi là tả phái); lại có các nhà chủ trương ở ẩn, tu tiên, họ thuộc về phái Đạo gia ở đầu đời Hán, thờ Thái Thượng Lão Quân và Lão tử, Trương Đạo Lăng[31], nhưng không tìm hiểu triết học của Lão, chỉ lo dùng bùa, phép, luyện đan để trường sinh. lại có một số tác giả chịu ảnh hưởng cả Lão, Trang lẫn của Khổng, muốn dung hoà, phân biệt đạo Trời thì vô vi, đạo người thì hữu vi, hoặc chủ trương vua nên vô vi mà bề tôi thì hữu vi, một số khác đứng hẳn về Khổng phái, bảo phải phân biệt quí tiện, vì trời đất kia còn có tôn ti (trời cao, đất thấp) huống hồ là người, thật là trái hẳn với chủ trương của Trang. Tác giả bài đó (XIII.4) mà đứng chung với tác giả bài Tề vật luận, trong một bộ mang tên Trang tử thì thật là mỉa mai, https://thuviensach.vn lạ lùng hơn nữa là có một số chịu ảnh hưởng của Pháp gia, trọng công nghệ, dùng hình danh thưởng phạt để trị dân. Ba chương XII (Thiên địa), XIII (Thiên đạo) và XIV (Thiên vận) có thể tiêu biểu cho sự hỗn tạp về tư tưởng trong Ngoại thiên và Tạp thiên. - Điểm thứ ba là sự hỗn tạp đó chẳng những hiện trong mỗi thiên (Ngoại và Tạp) mà nhiều khi trong cả từng chương nữa. Ba chương VIII, IX, X tương đối thuần nhất; tới chương XI (Tại hựu) đã bắt đầu thấy hỗn tạp rồi: quan niệm đối với thánh nhân trong bài 6 chương đó trái ngược với quan niệm chung trong chương, rõ ràng là của người sau viết rồi thêm càng vào. Nội dung chương XXI còn phức tạp hơn (coi nhận định ở cuối chương đó, phần III). Tạp thiên lại hỗn tạp hơn Ngoại thiên nhiều: trong số 11 chương (từ XXIII đến XXXIII) có tới bốn chương: XXIV, XXV, XXVI, XXVII, gồm toàn những tạp văn ngắn không liên lạc gì xa gần với với nhau cả. Nhất là hai chương XXIV (Từ Vô Quỉ) và XXXII (Liệt Ngự Khấu) rõ ràng là do người đời sau lượm lặt ở nhiều nơi rồi tiếc rẻ, gom lại chung cho khỏi mất. (Coi nhận định về hai chương đó ở phần IV). Có thể vì tính cách hỗn tạp đó, nên người ta mới gọi thiên đó là Tạp chăng? Thiên đó còn hỗn tạp ở điểm có bài rất hay mà có những bài rất dở. Nhiều bài trong những chương Ngoại vật (XXVI), Ngụ ngôn (XXVII), nhất là trọn chương cuối (Thiên hạ) bút pháp cao, trái lại những chương Nhượng vương (XXVIII), Đạo chích (XXIX), Thuyết kiếm (XXX), Ngư phủ (XXXI), như Tô Đông Pha và Vương Phu Chi đã nhận thấy, bút pháp quá thô lậu, không xứng được đứng chung trong một bộ với những chương Tiêu dao du, Tề vật luận. Ngoại thiên cũng có mấy chương hỗn tạp, mà bút pháp cũng không đều: những chương Thu Thuỷ XVII, Sơn mộc XX, Đạt sinh XIX, nghệ thuật cao hơn Tại hựu XI, Thiên địa XII, Khư khiếp X, v.v…; nhưng sự cách biệt đó không quá nổi bật như trong Tạp thiên. - Sau cùng Ngoại thiên và Tạp thiên còn khác với Nội thiên ở vài điểm nhỏ này nữa: Như Vương Phu Chi đã nhận thấy, Nội thiên có một giọng nhã nhặn, ôn hoà đối với Nghiêu, Thuấn, Khổng tử. Ngoại và Tạp thiên có giọng quá khích, khen thì khen quá, như chương XXXIII (Thiên hạ) hoặc bài XII.9 (gọi Khổng tử là phu tử) mà mạt sát thì mạt sát kịch liệt như chương XXIX (Đạo chích). Trong Nội thiên, có chỗ cho Lão lên tiếng như bài V.3, nhưng đó chỉ là truyện tưởng tượng, tuyệt nhiên không dẫn một lời nào trong Đạo Đức kinh cả, vì kinh này thời Trang tử có lẽ chưa xuất hiện, hoặc mới xuất hiện mà Trang không được đọc; trái lại trong Ngoại thiên, chúng ta thấy chương Khư khiếp dẫn Đạo Đức kinh bốn lần, Tại hựu dẫn hai lần, Thiên địa hai lần, Thiên đạo một lần, Chí lạc ba lần, Đạt sinh một lần, Sơn mộc hai lần, Điền Tử Phương một lần, Trí bắc du ba lần; và trong Tạp thiên, Canh Tang Sở dẫn hai lần, Tắc dương một lần, Ngụ ngôn một lần, Thiên hạ một lần[32] (Coi Lão tử độc bản của Dư Bồi Lâm – Tam dân thư cục – 1973). Điều đó đủ tỏ rằng Ngoại và Tạp thiên xuất hiện sau thời Trang tử. Ngoại và Tạp thiên có nhiều bài chép trong các sách khác như Sử kí của Tư Mã Thiên, nhất là Liệt tử, còn trong Nội thiên chỉ có mỗi một bài phỏng theo Luận ngữ như trên tôi đã dẫn. Như vậy ta thấy Ngoại và Tạp do nhiều người viết vào nhiều thời đại và người sau thu thập lại mà không cân nhắc kĩ lưỡng. Về vấn đề chân nguỵ, đa số các học giả đều cho rằng xét chung, Ngoại và Tạp thiên có rất nhiều chương chắc chắn không phải của Trang tử, còn những chương khác nếu Trang có viết một phần nào thì cũng khó nhận ra được đích xác. Trong phần III và IV, khi nhận định về các chương, tôi sẽ xét về chân nguỵ của mỗi chương và tôi cho https://thuviensach.vn rằng không có chương nào hoàn toàn của Trang cả, nhưng có một số chương của môn đồ Trang. Dưới đây tôi làm một bảng[33]tóm tắt những nhận định đó để độc giả thấy được một cách tổng quát. https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn CHƯƠNG III VĂN BỘ TRANG TỬ ƯU ĐIỂM Kim Thánh Thán, một nhà phê bình đời Minh theo chủ nghĩa ấn tượng cho rằng Trung Hoa có sáu bộ hay nhất (tài tử thư): 1- Trang tử, 2- Li Tao (của Khuất Nguyên), 3- Sử kí (của Tư Mã Thiên), 4- Tập thơ luật (của Đỗ Phủ)[34], 5- Thuỷ hử (của Thị Nại Am), 6- Tây Sương kí (của Vương Thực Phủ). Kim chắc có lí do để đặt Trang tử đứng đầu lục tài tử, nhưng ai cũng phải nhận Trang Chu vừa là một triết gia vừa là một nghệ sĩ, và văn tài của ông đôi khi được người ta trọng hơn học thuyết của ông nữa. Như chương trên chúng ta nhận thấy, tư tưởng trong Ngoại và Tạp thiên hợp với tư tưởng của Lão nhiều hơn là với tư tưởng của Trang, vậy mà hai thiên đó sắp chung với Nội thiên của Trang, chứ không cho vào một cuốn riêng, có lẽ nguyên do chính là bút pháp, xét chung giống với Nội thiên. Trong số các tác phẩm lớn của các triết gia thời Tiên Tần, Liệt tử và Trang tử có một bút pháp đặc biệt, khác với giọng văn nghiêm trang đạo mạo của Khổng Mạnh, giọng văn cô đọng, đối nhau, như cách ngôn của Lão tử, và giọng văn rườm rà, lặp đi lặp lại, nhiều nhiệt tình như tuyên truyền của Mặc tử. Bài 1 chương XXVII (Ngụ ngôn) đã vạch cho ta thấy bút pháp chung của cả ba thiên Nội, Ngoại, Tạp trong Trang tử: “Trong cuốn này, ngụ ngôn chiếm chín phần mười – trọng ngôn chiếm bảy phần mười trong chín phần mười đó – một phần mười còn lại là những chi ngôn, tuỳ cơ ứng biến, mỗi ngày một khác, nhưng vẫn là hợp lí tự nhiên. Ngụ ngôn chiếm chín phần mười là mượn việc hay người ngoài để luận (…). Trọng ngôn chiếm bảy phần mười (của ngụ ngôn) vì muốn ngăn những lời tranh biện của thiên hạ, nên phải dẫn lời của bậc tiền bối. Nhưng nếu chỉ là những người lớn tuổi mà không có học thức cao để cho người sau tin thì cũng không gọi là tiền bối được. Không có học thức để người khác tin thì không phát huy được hết cái đạo làm người, như vậy là hạng người cổ hủ”.[35] Như vậy thì danh từ ngụ ngôn dùng trong bài đó có nghĩa rộng hơn nghĩa ngày nay. Nó gồm: a) Những truyện hoàn toàn tưởng tượng mà nhân vật hoặc là cây cỏ, súc vật, thần linh, như truyện con giếc xin Trang tử một đấu nước trong bài XXVI.2, truyện con cú kêu lên một tiếng lớn doạ con uyên sồ vì sợ nó tranh mồi của mình trong bài XVII.6; b) Những truyện về danh nhân nhưng chỉ có tên là đúng còn hành vi, ngôn ngữ do tác giả tưởng tượng ra như Khổng tử, Nhan Hồi trong bài IV.1, Lỗ Ai Công và Trọng Ni trong bài V.4; c) Những chuyện có thực nhưng tác giả sửa đi ít nhiều cho hợp với chủ trương của mình, như những bài chép truyện Khổng tử bị tai nạn giữa hai nước Trần và Thái, chẳng hạn bài XXVIII.12: Khổng tử quả bị vậy mà vẫn vui, nhưng Tử Lộ và Tử Cống đều là những môn sinh giỏi của ông, không khi nào lại chê thầy là vô liêm sỉ; d) Những cố sự hoặc những lời nói của danh nhân, hoàn toàn có thực. Ba loại b, c, và d đều viện dẫn những người thực hoặc truyện thực để lời của mình hoá ra “nặng cân” (trọng ngôn) hơn mà người đọc tin hơn. Còn “chi ngôn” chỉ là những lời nghị luận, giảng giải mà không dùng ngụ ngôn hay trọng ngôn. Ngày nay chúng ta chỉ dùng những truyện, hoặc là tưởng tượng hẳn mà ta gọi là ngụ ngôn (loại a), hoặc là không tưởng tượng chút nào mà ta gọi là cố sự (loại d) chứ không sửa đổi một sự kiện lịch sử hay đặt vào miệng cổ nhân những lời của chính mình – như vậy là thiếu trung thực – nhưng thời Chiến Quốc cách đó hình như phổ biến. Đó là đặc điểm nổi bật nhất trong bút pháp Trang tử. Đặc điểm thứ nhì là sức tưởng tượng của Trang rất mạnh mẽ, phong phú. Ngay từ đầu bộ ông đã tưởng tượng truyện con cá côn biến thành con chim bằng “lưng rộng không biết mấy ngàn dặm, khi tung cánh bay thì cánh nó như đám mây trên trời… khi dời xuống biển Nam, nó đập nước tung toé lên ba ngàn dặm rồi nương gió lốc cuốn lên cao chín vạn dặm”; rồi tới một con rùa https://thuviensach.vn thiêng mùa xuân của nó dài năm trăm năm, mùa thu dài năm trăm năm, tới cây “xuân” mùa xuân dài tới tám ngàn năm, mùa thu cũng dài tám ngàn năm. Ông dùng những vật cực lớn, cực thọ để so sánh với những vật rất nhỏ, như con cút chỉ bay cao được vài nhẫn, và rất yểu như cây nấm chỉ sống được một buổi sáng để sau cùng kết luận rằng dù lớn nhỏ khác nhau như vậy mà các loài đó điều “tiêu dao” như nhau cả, không ao ước được như loài khác, chỉ có loài người là không hiểu lẽ đó, buồn vì đời mình ngắn ngủi, muốn được như ông Bành Tổ nhưng ông Bành Tổ chỉ sống được có bảy trăm năm, so với rùa thiêng và cây “xuân” có thấm gì đâu. Hình ảnh thật mới mẽ, mà tư tưởng cao thâm, khoáng đạt. Gần trọn chương V kể truyện những kẻ tàn tật, gù lưng, không môi, cụt một giò, cụt ngón chân, hoặc xấu như quỉ, mà đức lại rất cao, được rất nhiều nhiều người theo học, thiếu nữ nào trông thấy cũng mê, để chứng tỏ rằng hễ có đức cảm hoá được người khác thì người ta quên hình dáng ghê tởm của mình đi, vậy tinh thần mới quan trọng chứ không phải thể chất, dong mạo. Nội thiên đầy những hình ảnh như vậy, không sao kể hết, tôi chỉ xin dẫn thêm một đoạn tuyệt diệu tả tiếng gió đầu chương Tề vật luận: “Đất thở thì thành gió. Gió không thổi thì thôi, đã thổi thì cả vạn hang lỗ đều gào thét lên. Anh có nghe gió hú bao giờ chưa? Trên rừng núi cao ghê gớm có những cây lớn chu vi được cả trăm gang tay, thân cây có hang có lỗ, như lỗ mũi, lỗ tai hoặc miệng người; lại có những lỗ (vuông) như lỗ đục trong các đà ngang, hoặc lỗ mắt cáo; có lỗ như miệng cối, như ao sâu, như vũng cạn. Gió thổi thì những lỗ ấy phát ra những tiếng khác nhau, có khi như tiếng nước chảy ào ào, có khi như tiếng tên bay vút vút; có khi như tiếng thú gầm, như tiếng thở nhẹ; có khi như tiếng người mắng mỏ, khóc lóc, than thở; có khi như tiếng chim ríu rít, như tiếng người đi trước hô, người đi sau đáp. Gió hiu hiu thổi thì nghe du dương; gió lớn nổi lên thì nghe ào ào. Gió lớn ngừng rồi, các hang lỗ lại im lặng, mà anh có thấy cành lá lúc đó chỉ hơi lay động không?”. Tôi chưa thấy một bài văn tả gió nào có thể so sánh được với đoạn trên. Có lẽ vì không có nhà nào nảy ra cái ý tả “tiếng sáo – tức âm nhạc – của đất” đó: Âu Dương Tu chỉ tả mùa thu[36], mà Tourgueniev chỉ tả tiếng gió trong rừng thôi[37]. Trang tử đã ghi cho ta trên một chục tiếng gió: ào ào, vun vút, gầm, thở nhẹ, mắng mỏ, khóc lóc, than thở, ríu rít… nhưng ông biết ngôn ngữ loài người không sao đủ để tả hết được, nên ông cho ta tưởng tượng thêm: có cả vạn hang lỗ trên rừng núi, mặt đất, to nhỏ khác nhau, sâu nông khác nhau, hình thể khác nhau, và gió thổi vào mỗi hang mỗi lỗ là tạo nên một thanh âm khác. Nghệ thuật ông hàm súc mà hùng vĩ. Điểm thứ ba: văn của Trang đột ngột, biến hoá không sao lường được. Bài đầu chương I, chẳng rào đón gì cả, ông kể ngay truyện con cá côn biến thành chim bằng; chúng ta chưa hiểu truyện đó có ý nghĩa gì thì ông tả hơi nước từ đất bốc lên, tả màu trời xanh thăm thẳm; rồi ông đột ngột nói đến việc đổ một chén nước xuống một chỗ lõm trong sân, để sau trở về truyện con chim bằng. Tới đây ta mới hiểu được ý ông: lớp không khí mà không dày thì không đỡ được con chim bằng cũng như nước không sâu không đỡ được chiếc thuyền lớn. Từ con chim bằng tới con chim cưu, ông nhảy qua truyện đi xa, rồi truyện cây nấm, con ve sầu với cây “xuân”, con rùa thiêng. Liên miên hết truyện nọ đến truyện kia, hết truyện loài vật đến truyện người: truyện ông Vinh tử, ông Liệt tử, gần như đầu Ngô mình Sở, biến hoá vô cùng, mãi tới khi hết bài, phải suy nghĩ mới thấy sự liên lạc mong manh, tế nhị giữa các truyện đó, và mới hiểu được ý của bài: muốn “tiêu dao” thì cứ theo thiên tính, bản năng của mình, đừng tuỳ thuộc một cái gì, quên mình đi, siêu thoát ra ngoài thế vật. Khi hiểu được ý Trang rồi thì ta thấy như tác giả chương XXXIII (Thiên hạ) đã nói: hư hư, thực thực, kì ảo, thú vị. Điểm thứ tư: Trang tử rất lanh trí, thường bịa ra những truyện có tính cách hoạt kê để đáp lại đối phương, chứ ít khi lí luận, chính vì vậy mà Tư Mã Thiên bảo “những kẻ túc học thời đó cũng không cải ông được”. Ông nửa đùa nửa thực thì còn bắt bẽ ông cách nào? Tinh thần hoạt kê đó chúng ta thấy trong bài 5 chương I: Huệ Thi chê học thuyết của Trang rộng lớn mà không dùng được, như cây “xư” cao lớn mà chẳng ai thèm đốn. Ông đáp: Cây xư vì vô dụng nên không bị đốn mà được hưởng hết tuổi đời. Nhưng nó có thực vô dụng không hay người ta không biết https://thuviensach.vn dùng nó? Sao không “trồng nó ở chỗ hư vô tịch mịch, trong cánh đồng mênh mông để những kẻ nhàn rỗi, thơ thẩn dạo chung quanh, thảnh thơi ngủ dưới bóng mát của nó?”. Lại như bài II.5, muốn chê tinh thần cố chấp, ông dùng ngụ ngôn con khỉ chủ cho sáng ba trái lật, chiều bốn trái thì không chịu mà lại tỏ vẻ mừng khi được phát sáng bốn trái, chiều ba trái. Đó là tôi chỉ mới dẫn vài thí dụ trong Nội thiên, nếu kể cả những cố sự về Trang trong Ngoại thiên và Tạp thiên thì còn nhiều bài hoạt kê hơn, có khi cay độc nữa, như bài XXXII.6, 13. Nhưng đó thuộc về Ngoại thiên và Tạp thiên rồi. Xét chung bút pháp trong hai thiên này kém xa bút pháp trong Nội thiên, và không có chương nào vừa nghị luận, và tỉ dụ, đã kì ảo mà lại thú vị như hai chương Tiêu dao du và Tề vật luận được. Nhưng cũng có những chương như Thu Thuỷ, Sơn mộc… mà cổ nhân rất thích và cũng dùng nhiều ngụ ngôn. Chương Thu thuỷ tuy không phát huy thêm được gì nhưng đã suy diễn đúng tư tưởng của Trang, văn sáng sủa, mạch lạc, dễ đọc, vui. Ba chương Thiên địa (XII), Thiên đạo (XIII), Thiên vận (XIV) cũng có nhiều bài thú như bài XII.9, dùng một ngụ ngôn để diễn cái ý đạo của cổ nhân không thể truyền lại được, mà sách chỉ là cặn bã của cổ nhân; bài XII.1 dùng một cố sự để chê cơ giới vì nó sinh ra cơ tâm. Nhất là bài XIV.1 có giọng siêu dật, đưa ra một loạt câu hỏi, khiến ta nhớ tới bài Thiên vấn của Khuất Nguyên hỏi trời một trăm bảy mươi hai câu; tác giả XIV.1 chỉ hỏi trên một chục câu về vũ trụ thôi: “Trời có vận chuyển không? Đất có đứng im không? Mặt trời mặt trăng có tranh chỗ với nhau không? Ai làm chủ tể cái đó? Ai duy trì cái đó? Ai vô sự mà đẩy cái đó khiến nó chạy? Hoặc giả có một cái máy bí mật bất đắc dĩ chạy hoài không? Hay là vũ trụ tự nhiên vận chuyển mà không tự ngừng được chăng? Mưa là do mây chăng? Hay mây là do mưa? Ai làm mưa đổ? Ai vô sự mà cao hứng gây ra cái đó? Gió nổi ở phương Bắc, khi thổi qua Tây, khi thổi qua Đông, có lúc lại xoáy ốc mà cuốn lên cao. Ai hô hấp mà thành như vậy? Ai vô sự mà hướng gió về phía này phía khác và làm nó ngừng?”. Một bài nữa lí thú về ý nghĩa và tài tưởng tượng: “…Nhà vua có biết con ốc sên không?… Trên sừng bên trái của nó có một nước tên là Xúc, trên sừng bên phải của nó có một nước tên là Man. Hai nước đó tranh đoạt đất của nhau hoài, số tử thương tới mấy vạn, khi quân một nước bại tẩu thì quân nước kia truy kích mười lăm ngày sau mới về”. So với vũ trụ vô biên này, một quốc gia dù lớn như Nga hay Mĩ, cũng chỉ như nước Xúc hay nước Man chứ khác gì? Hai tên Xúc và Man đó cũng có ý nghĩa lắm: Xúc có nghĩa là đụng chạm, tượng trưng cho một dân tộc xâm lăng, Man có nghĩa là man di. Ngoài ra còn những bài như: XIII.9: diễn cái ý kẻ biết thì không nói, kẻ nói thì không biết, mà sách chỉ là cặn bã của cổ nhân. XIV.4: so sánh pháp độ đời xưa với con chó rơm, dùng xong rồi thì liệng đi; vậy mọi truyền thống đều vô thường. XX.8: mà các chính khách thời nào cũng nên nhớ: con ve hưởng bóng mát mà không ngờ rằng con bọ ngựa đương rình nó; con bọ ngựa mãi rình con ve mà không ngờ rằng con chim khách cũng định vồ nó; còn con chim khách bị Trang tử nhắm bắn mà không hay. Vật nào cũng mưu hại lẫn nhau. Đúng là hình ảnh các nước chư hầu thời Trang tử và các cường quốc ngày nay. Những bài đó và nhiều bài khác nữa đều dùng bút pháp của Trang, tức thể ngụ ngôn để diễn những ý thâm trầm, hàm súc, khi thì hoạt kê, khi thì có thi vị. Đó là phần cống hiến đáng kể nhất của Ngoại và Tạp thiên; còn về triết thuyết, thì như trong phần III và IV chúng ta sẽ thấy, không có gì mới mẻ, đặc sắc lắm. Có hai bài nội dung và bút pháp khác hẳn các bài kia, như ở đâu lạc vào bộ Trang tử, tức bài XXXIII (Thiên hạ) mà tôi giới thiệu ở trên và sẽ còn nhắc lại trong chương sau nữa; với bài XII.14 mà tôi xin trích dẫn lại đây đoạn cuối: “Ba người cùng đi mà có một người mê hoặc thì có thể đi tới chốn được vì số người mê hoặc ít hơn số người sáng suốt. Nếu hai người mê hoặc thì mệt nhọc mà không sao tới chốn được, vì số người mê hoặc nhiều hơn số người sáng suốt. Ngày nay cả thiên hạ mê hoặc, tôi có muốn tìm đúng đường đi thì cũng không thể được. Buồn thật (…) Biết rằng không thể được mà cứ miễn cưỡng tìm cho được, cũng lại là https://thuviensach.vn mê hoặc nữa. Không bằng bỏ mặc mà không tìm gì cả, không tìm gì cả thì ai là người cùng lo buồn với tôi?”. Thật là “thốn tâm thiên cổ”. Ai đó? Sao mà tiếng than ai oán như vậy, khiến cho trên hai ngàn năm sau, người đọc cũng phải xúc động! https://thuviensach.vn NHƯỢC ĐIỂM Tấm huy chương nào cũng có mặt trái. Vì văn của Trang tử đột ngột, biến hoá bất thường, không dùng phép chuyển, bố cục lỏng lẻo, thú thì có thú đấy, nhưng quả nhiều khi khó hiểu. Tôi lấy thí dụ bài đầu chương Tiêu dao du. Không thể đọc một lần mà hiểu ngay được. Mà sau khi đọc vài ba lần, hiểu được đại ý rồi, vẫn còn thấy vài chỗ còn tối nghĩa, tìm các sách chú giải thì mỗi nhà giảng một khác. Chẳng hạn câu nói về con chim bằng: “… khứ dĩ lục nguyệt tức giả dã”. Tôi theo Hoàng Cẩm Hoành, Liou Kia hway và Thành Huyền Anh (do Tiền Mục dẫn trong Trang tử toản tiên) mà dịch là: “nó xuống biển Nam vào tháng sáu, lúc gió nổi lên”. Nhưng Diệp Ngọc Lân lại dịch là: “nó ở biển Nam phỏng nửa năm”. Ai đúng ai sai? Đúng hay sai ở đây cũng không quan trọng vì truyện con chim bằng đó chỉ là tưởng tượng. Rồi kế đó là đoạn: “Dã mả dã, trần ai dã, sinh vật chi dĩ tức tương xuy dã. Thiên chi thương thương, kì chính sắc dã? Kì viễn nhi vô sở chí cực dã? Kì thị hạ dã, diệc nhược thị tắc dĩ hĩ”. Dịch nghĩa từng chữ: “Ngựa hoang vậy, bụi cát vậy, sinh vật dùng hơi thở mà thổi nhau vậy. Màu xanh xanh của trời kia, phải là bản sắc không? Hay là xa mà không tới chỗ cùng cực chăng? Ở trên nhìn xuống, cũng như vậy mà thôi”. Ngựa hoang là cái gì đây? Sao đương nói về con chim bằng lại nhảy qua con ngựa hoang, cùng cát bụi, rồi tới màu xanh của trời? Mỗi nhà giải thích một khác. Trong bản dịch (phần II) tôi đã theo Vương Phu Chi, cho rằng Trang tử muốn nói: Sở dĩ chim bằng bay cao được vì có hơi nước – những hơi nước này bay lên, coi tựa như những con ngựa hoang – bụi cát cùng hơi thở của các sinh vật đỡ nó ở dưới, và một lớp không khí dày ở trên và ở dưới. Chính lớp không khí dày đó làm cho màu trời hoá xanh, vì ở trên cao nhìn xuống thì cũng thấy màu xanh đó. Hiểu như vậy rất có lí, mà đoạn đó mới có liên lạc với đoạn sau; nhưng đó chỉ là một lối suy diễn, có thực đúng với tư tưởng của Trang không thì chỉ có Trang mới biết được. Thí dụ tôi mới dẫn còn tương đối dễ hiểu, mà có hiểu sai thì cũng chẳng hại gì đến đại ý cả bài, giá có bỏ hẳn đi, cũng được nữa. Còn nhiều chỗ mù mịt hơn nhiều, không sao mò ra được manh mối, tìm các chú giải thì không ai giống ai, không có lối giảng nào làm cho tôi thoả mãn cả; có nhà lại làm thinh, họ cho là sáng sủa quá rồi chẳng cần giảng chăng? Tôi không muốn dẫn thêm ít thí dụ nữa, ngại rườm, nhưng trong phần dịch các thiên, tôi đã ghi những chỗ tối nghĩa, độc giả sẽ thấy lời tôi mới nói không phải là quá. Tôi nghiệm thấy văn của Trang mà lại tương đối dễ hiểu hơn văn của một số người đời sau trong Ngoại và Tạp thiên. Ngay trong Nội thiên, một vài bài tôi ngờ rằng không phải của Trang như bài IV.1 văn cũng rất tối. Phải có đọc Trang tử rồi, chúng ta mới thấy những tác phẩm của Khổng phái, như Tứ thư, sáng sủa biết bao. Nhất là bộ Mạnh tử trong như nước suối vậy. Thói không dùng phép chuyển, có phải là thói chung của thời Chiến Quốc (trừ vài ngoại lệ như Mạnh tử) không? Ngay Tư Mã Thiên đời Hán cũng coi thường phép chuyển, như trong bài Bá Di, Thúc Tề, mà chúng tôi đã giới thiệu tại phần I – Sử kí. Hình như cổ nhân cứ diễn hết ý này đến ý khác, nếu ý dồi dào, tân kì và có liên lạc với nhau thì cách đó làm cho văn vừa gọn, vừa đột ngột, có cái thú riêng. Nếu tài kém, ý tầm thường, không khéo sắp đặt thì khổ cho người đọc. Từ đời Đường trở đi, nhờ có luật làm thơ: phá, thừa, thực, luận, kết, nên văn sĩ (thường cũng là thi sĩ) rất chú trọng tới phép chuyển cùng bố cục mà cổ văn đạt tới một nghệ thuật rất cao. Rất nhiều đoản văn (người Trung Hoa gọi là tiểu phẩm) đời Đường, Tống, Thanh mặc dù không có cái hùng khí, cái hơi dài như Trang tử hay Sử kí, không cuồn cuộn, man mác, nhưng thật là những viên ngọc không vết, vừa đẹp, vừa sáng. Tôi đã lạc ra ngoài đề rồi, xin trở lại những nhược điểm trong văn Trang tử. Ngụ ngôn của Trang tử thường rất hay, nhưng phép dùng “trọng ngôn” của ông đã đi ngược lại mục đích của ông muốn đạt. Thí dụ trong bài V.1, Trang tử cho Khổng Tử nói với Thường Quí: “Sống chết là việc lớn mà ông ấy (một người cụt chân tên là Vương Đài) coi thường, trời đất có sập ông ấy cũng không bị huỷ diệt; ông ấy xét kĩ cái chân thực, không bị cái giả tạo làm mê hoặc; ông ấy biết https://thuviensach.vn rằng vạn vật đều biến hoá, nên giữ được cái căn bản chân chính. (…) Xét chỗ dị biệt của vạn vật thì lá gan và trái mật khác nhau cũng như nước Sở và nước Việt; mà xét chỗ giống nhau thì vạn vật chỉ là một. Biết được cái lẽ ấy thì không để ý đến sự nhận thức của tai mắt nữa mà tâm linh ngao du ở chỗ hài hoà của vũ trụ. Đã thấy vạn vật là một thì không thấy cái gì mất nữa. Cho nên Vương Đài cho mình mất một chân cũng như mất một cục đất vậy thôi”. Ý đó chính là của Trang tử, khoáng đạt mà có phần đúng. Không phải đặt vào miệng của Khổng Tử mà có giá trị hơn; trái lại người hiểu biết Khổng Tử sẽ nhận ngay ra là truyện bịa, rồi coi thường. Huống hồ bài đó cho Khổng Tử là khoáng đạt, tới bài thứ ba cũng chương đó, lại cho Khổng Tử là “nông nổi”, khiến Lão tử phải chê là “không hiểu biết sống với chết chỉ là một, cái khả và cái bất khả thì cũng như nhau”. Qua bài sau, bài 4, Khổng Tử lại trở thành một bậc đạt Đạo như Trang, thấu được lẽ tử sinh, đắc thất: Khổng Tử nói với vua Ai công nước Lỗ: “Tử sinh, đắc thất, cùng đạt, giàu nghèo, hiền ngu, chê khen, đói khát, nóng lạnh, đó là những biến hoá của sự vật, sự chuyển vận của luật trời, như ngày rồi đến đêm, mà không ai biết gốc ở đâu. Ai đạt được lẽ ấy, thì tâm thần không bị hỗn loạn, ngày đêm giữ được cái khí thuần hoà, ung dung, vui vẻ như khí xuân mà thích ứng với mọi sự biến hoá”. Sao mà mâu thuẫn như vậy! Ngoại và Tạp thiên còn tệ hơn nữa. “Trọng ngôn” được dùng một cách bừa bãi, như bôi xanh bôi đỏ lên mặt các người thời trước, từ Nghiêu, Thuấn tới Khổng Tử, Nhan Hồi, Tăng Sâm, Tử Ngư, Bá Di, Thúc Tề, vân vân… gây ra hai cái hại: - người nào không hiểu Nho, Lão, không thuộc sử Trung Hoa thì không nên đọc Trang tử. - những tư tưởng của Trang dù sâu sắc mà diễn theo thể “trọng ngôn” đó hoá ra những “lộng ngôn” như chỉ muốn cho ta đọc rồi cười chơi vậy thôi. Ngay đến ngụ ngôn tôi nghĩ cũng nên dùng vừa phải, không phải bài nào cũng hay cả. Chẳng hạn bài VII.7, Trang tử cho vua Nam Hải tên là Mau lẹ, vua Bắc Hải tên là Thình lình thấy ai cũng có bảy lỗ để nghe, ăn, và thở mà vua Trung Ương là Hỗn độn không có một lỗ nào cả, bèn đục cho Hỗn độn có đủ lỗ, hậu quả là Hỗn độn chết. Trang muốn khuyên ta rằng cái gì do thiên nhiên tạo ra cũng hoàn hảo rồi, đừng xuẩn động sửa chữa thiên nhiên; chỉ tai hại thôi (bất dĩ nhân hại thiên). Nhưng dùng thể ngụ ngôn ở đây, tôi chẳng thấy có gì lợi hơn là cứ dùng sự thực làm chứng cứ như tác giả bài IX.1: “Ngựa có móng để dẫm lên sương tuyết, có lông để chống gió lạnh. Chúng ăn cỏ, uống nước, co giò lên nhảy nhót. Đó là chân tính của chúng. Chúng chẳng cần gì đến đài cao chuồng rộng đâu. Một hôm Bá Lạc bảo: “Tôi khéo nuôi ngựa”, rồi đốt, hớt lông chúng, gọt và đánh dấu móng chúng, dùng dây cương cột chúng, làm chuồng có sàn cho chúng ở. Mười con có hai ba con chết. Ông bắt chúng chịu đói chịu khát, phải chạy nước kiệu, phải phi, dùng cái ách bắt chúng đứng yên thành hàng, dùng hàm thiếc khớp mõm chúng, và ngựa chết già nửa”. Hoặc vắn tắt hơn nữa như tác giả bài VIII.2: đừng nối dài chân vịt, cắt ngắn chân hạc mà chúng sẽ đau khổ. Có người bảo vì sống vào thời loạn, Trang không dám nói thẳng mà phải dùng ngụ ngôn. Nói như vậy là không biết đọc Trang: nhiều ngụ ngôn của ông còn cay độc hơn lời nói thẳng nữa như khi ông đáp Nguỵ Văn Hầu. Vả lại như tôi đã nói, thời đó ngôn luận rất tự do. Mạnh tử còn dám chửi thẳng vào mặt các vua chúa kia mà! https://thuviensach.vn MỘT SỐ NHÀ CHÚ GIẢI Sau cùng Trang tử còn một nhược điểm nữa là dùng rất nhiều “cổ ngữ cổ chế” như La Miễn Đạo đã nhận thấy, thành thử dù thông cổ học thì cũng phải có một vài bản chú giải kĩ lưỡng mới có thể hiểu được. Từ trước tới nay có cả trăm nhà chú giải Trang tử. Bản chú giải đầu tiên còn lưu truyền đến nay là của Hướng Tú. Hướng Tú theo huyền học, tức cái học u áo của Đạo gia (thờ Hoàng, Lão) rất thịnh hành đời Lục triều, nên chú giải theo huyền học, và có người đã trách ông không chú giải Trang và trái lại dùng Trang để chú giải cho ông. Lỗi đó không phải chỉ riêng ông mắc phải; đời sau cũng rất nhiều người đem sở học của mình ra chú giải Trang: người học Nho như Lâm Hi Dật đời Tống thì đem tư tưởng Khổng Mạnh ra chú giải Trang; người theo Phật thì đem thuyết của Phật ra chú giải, như Thành Huyền Anh đời Đường. Họ toàn là xuyên tạc cả. Nhưng cũng có những bản gọi là tập giải, nghĩa là soạn giả tham khảo một số bản chú giải của ngưởi trước rồi lựa chọn, châm chước chớ không theo một khuynh hướng nào. Khi nào có vài cách chú giải khác nhau, không biết lựa ra sao thì họ ghi cả lại; trái lại nếu lựa được một cách thì họ cho biết xuất xứ. Các bản chú giải gần đây hầu hết đều theo phương pháp đó. Tôi kiếm được những bản dưới đây: 1. Trang tử giải của Vương Phu Chi – Quảng Văn thư cục – không đề năm; 2. Trang tử toản tiên của Tiền Mục – Đông Nam ấn vụ in lần thứ tư năm 1962; 3. Trang tử bạch thoại cú giải của Diệp Ngọc Lân – Hoa Liên xuất bản xã – không đề năm; 4. Tân dịch Trang tử độc bản của Hoàng Cẩm Hoành – Tam Dân thư cục – 1974; 5. L’œuvre complète de Tchouang – tseu của Liou Kia hway – Collection Unesco – Gallimard – 1969. Tôi dùng cả năm bản đó, nhiều nhất là bản 2-4-5. Ba bản này với bản 1 đều in hoặc dịch đủ cả 33 chương, riêng bản 3 của Diệp Ngọc Lân chỉ tuyển 20 chương: trọn 7 chương Nội thiên, 8 chương Ngoại thiên và 5 chương Tạp thiên. https://thuviensach.vn CÁCH ĐỌC TRANG TỬ Ai cũng nhận rằng Trang tử thật khó đọc. Ở đoạn trên tôi đã đưa ra hai điều khó: - phải hiểu Khổng, Lão và cổ sử, cổ ngữ Trung Quốc, - phải suy nghĩ nhiều để tìm mạch lạc trong văn. Còn thêm bốn điều khó này nữa: - phải tạm bỏ tinh thần lí luận của ta đi, rán dùng trực giác để tìm hiểu Trang, như Trang khuyên khi tìm hiểu đạo, - phải bỏ thành kiến của ta đi, dùng ngay lời của Trang mà giảng Trang, - phải “bất cầu thậm giải” như Đào Tiềm nói (trong Ngũ liễu tiên sinh truyện), nghĩa là đừng thâm cứu chi tiết, chỉ cốt nắm vững đại ý thôi; chẳng hạn muốn tìm hiểu quan niệm của Trang về sinh tử, ta chỉ cần nhớ rằng Trang đã “tề vật”, “tề sinh tử” thì tất coi sinh cũng như tử, tử cũng như sinh, còn sống thì hưởng hết tuổi trời, lúc nào chết thì cứ thản nhiên chấp nhận; vậy nếu trong Ngoại, Tạp thiên, ngay cả trong Nội thiên nữa, có chỗ nào khen chết là sướng, chê sống là khổ, ta có thể gạt bỏ đi, vì đó không phải là chủ trương của Trang; có thể trong một hoàn cảnh nào đó, vì một lí do nào đó Trang phải nói thế; huống hồ không phải bài nào trong Nội thiên cũng đáng tin cả, đừng nói chi tới Ngoại và Tạp thiên. - quan trọng nhất là phải nhận định đâu là chân, đâu là nguỵ trong mấy trăm bài của toàn bộ, chứ không phải chỉ nhận định tổng quát từng chương mà thôi. Công việc này rất khó như chương trên đã nói. Trong tất cả các tác phẩm lớn về triết học thời Tiên Tần, không có bộ nào như Trang tử, hỗn tạp cả về nội dung lẫn hình thức. Tôi chỉ tin ba chương đầu Nội thiên: Tiêu dao du, Tề vật luận, Dưỡng sinh chủ là hoàn toàn của Trang, chương Ứng đế vương cũng có nhiều phần chắc là của Trang, còn ba chương Nhân gian thế, Đức sung phù, Đại tôn sư, chỉ đáng tin già nửa thôi. Tuy nhiên, vì không có chứng cứ gì chắc chắc, và cũng vì bảy chương đó tư tưởng liên lạc thành một hệ thống, nên hầu hết các học giả tạm coi cả Nội thiên là của Trang. Trong chương sau, xét học thuyết của Trang tôi cũng dùng cả bảy chương đó, chỉ trừ vài ba bài trong Nhân gian thế, Đức sung phù và Đại tôn sư. Còn Ngoại và Tạp thiên, tôi sẽ cho toàn là của người đời sau hết, tôi sẽ phân tích riêng. Có lẽ như vậy là giản dị hoá vấn đề quá, nhưng tôi nghĩ không còn cách nào khác hợp lí hơn. https://thuviensach.vn CHƯƠNG IV HỌC THUYẾT CỦATRANG UYÊN NGUYÊN TỪ ĐÂU? Từ khi Tư Mã Thiên chép chung tiểu sử của Lão tử, Trang tử, Thân Bất Hại, Hàn Phi trong một chương thì hễ nhắc tới Lão, chúng ta nghĩ ngay tới Trang, tưởng đâu giữa Lão và Trang có một sự liên hệ chặt chẽ cũng như giữa Khổng và Mạnh, và Trang chỉ chịu ảnh hưởng của Lão cũng như Mạnh chỉ chịu ảnh hưởng của Khổng. Sự thực không phải vậy. Lão và Trang chỉ đại biểu cho tư tưởng lãng mạn, khoáng đạt, vô vi của phương Nam cũng như Khổng và Mạnh đại biểu cho tư tưởng thực tế của phương Bắc (tức miền ở phía Bắc sông Hoàng Hà), còn xét về ảnh hưởng thì Trang nhận di sản tinh thần của nhiều nhà, từ Dương Chu sống trước Trang khoảng một trăm năm tới Lão tử, Liệt tử, có lẽ cả Điền Biền và Thận Đáo sống cùng thời với Trang và lớn hơn Trang khoảng mười tuổi, cho nên có tác giả đã nói rằng: Trang tập đại thành các học thuyết của phương Nam. Mà di sản đó cũng là thứ di sản gián tiếp chứ không trực tiếp như Khổng để lại Tử Tư rồi Tử Tư truyền lại cho Mạnh tử hai ba thế hệ sau. Nghĩa là Mạnh tử có thể coi là môn đồ xa của Khổng tử; Trang tử thì tuyệt nhiên không phải là môn đồ của Lão tử. Hơn nữa, Mạnh tử được đọc các kinh Thi, Thư, Lễ, Xuân Thu của Khổng tử, có thể cả Luận ngữ cùng Đại học, Trung dung nữa; còn Trang chỉ nghe được học thuyết của Lão tử thôi chứ không được đọc, vì như chương I tôi đã nói, thời ông, bộ Đạo Đức kinh chưa xuất hiện[38] hoặc mới xuất hiện mà không tới tay ông, cho nên trong Nội thiên ông không dẫn một câu nào trong bộ đó cả, còn những lời ông cho Lão đáp Dương Tử Cư trong bài VII.4, có phần chắc là tư tưởng của Liệt tử hoặc của chính ông hơn là của Lão[39], vì tư tưởng trong bài đó không hợp với Lão, mà truyện chỉ là một “trọng ngôn” tức một thứ ngụ ngôn thôi. Tuy gián tiếp, ảnh hưởng của Lão tới Trang cũng rõ rệt, chẳng hạn trong quan niệm về vũ trụ (Đạo, sự biến hoá của sự vật, lẽ qui căn), về nhân sinh (vô vi); nhưng khi ứng biến với sự vật, Trang có thái độ khác Lão: Lão còn phân biệt mình và vật (tiếng vật này trỏ các ngoại vật, tức những cái gì không phải là ta, từ người cho tới vật) và trọng các đức khiêm, nhu, bất tranh, cư hạ (ở dưới người), cư hậu (ở sau người), để bảo toàn thân mình; còn Trang “tề sinh tử”, “đồng nhân ngã”, coi tử cũng như sinh, người cũng như mình, cứ theo luật tự nhiên mà biến hoá và để cho vật biến hoá, không cho cái gì là hại cả (bất dĩ hại vi hại). Đi ngược lên nữa, chúng ta thấy cả Lão và Trang đều chịu ảnh hưởng của Dương tử về điểm “quí sinh” (trọng đời sống). Dương tử bảo dù mất một sợi lông chân mà làm lợi được thiên hạ, ông cũng không chịu, như vậy là ông “quí kỉ” – quí thân ông – và quí sinh – quí đời sống – đến cực điểm, quí kỉ nên khinh vật, quí sinh nên khinh lợi (danh lợi). Lão tử cũng bảo: “Danh với thân cái nào quí hơn? Thân và của, cái nào trọng hơn? (Đạo Đức kinh – chương 44). Và nếu ta hiểu câu: “Quí dĩ thân vi thiên hạ, nhược khả kí thiên hạ” (Đạo Đức kinh chương 13) như Phùng Hữu Lan[40]là: “Người nào cho thân mình quí hơn thiên hạ thì có thể giao thiên hạ cho người đó được” thì rõ ràng Lão tử cũng “khinh vật, trọng sinh” như Dương tử. Còn Trang chỉ mong không có tài gì, không ai biết tới mình để “hưởng tận tuổi trời” thì cũng là quí sinh nữa. (Điểm này tôi sẽ xét thêm ở một đoạn sau). Nhưng tiếng “ảnh hưởng” tôi dùng ở đây có lẽ không đúng. Cái quan niệm “trọng sinh”, nhất là trong một thời loạn, thời mà sinh mạng con người có thể bị cướp bất kì lúc nào, là một quan niệm rất phổ biến, chẳng cần phải chịu ảnh hưởng của Dương Chu mà Lão và Trang cũng có thể có được. Mà chính Dương Chu cũng chẳng cần phải chịu ảnh hưởng các ẩn sĩ từ đời Khổng tử, như Sở Cuồng Tiếp Dư, Trường Thư, Kiệt Nịch (coi Luận ngữ – chương Vi tử) mới biết “vị ngã”, “vô quân”, “quí sinh”. Phùng Hữu Lan chắc cũng nghĩ vậy cho nên trong Trung Quốc triết học sử – chương 7 – chỉ coi các ẩn sĩ đó và Dương Chu là các bậc “tiền khu” (đi trước mở đường) cho Lão, Trang thôi. Một nhà nữa cũng ảnh hưởng ngang Lão tử tới Trang tử là Liệt tử. Trong bộ Liệt tử và Dương tử (Lá Bối – 1972) trang 30 tôi có dẫn lời của Trương Trầm: “(học thuyết của Liệt tử) đại khái giống với Lão, Trang, nhất là giống với Trang”, và từ trang 30 tới trang 56 tôi đã vạch ra nhiều chỗ Liệt giống Trang: https://thuviensach.vn - quan niệm tề vật – tr. 31. - quan niệm tề thị phi – tr. 33. - tinh thần hoài nghi mộng và thực – tr. 33. - không phân biệt nội ngoại – tr. 35 và 42. Đặc biệt là Liệt tử chủ trương rằng “người nào hoà đồng với vạn vật thì hoá đồng với vạn vật, vạn vật không là thương tổn, trở ngại được mình mà có thể xuyên vô kim thạch, đi trong nước lửa”. (bài II.12 – tr. 129). Trang cũng bảo các thần nhân ở núi Cô Dạ hoà đồng được với vạn vật nên không có vật gì làm hại họ được, xuống nước không chìm, vô lửa không cháy. (bài 3 chương Tiêu dao du). Chương XXXIII trong Trang tử có một tài liệu quan trọng, tóm tắt các triết thuyết từ thời Khổng Tử tới đời Trang tử: Khổng, Mặc, Tống, Kiên, Doãn Văn, Bành Mông, Điền Biền, Thận Đáo, Quan Doãn, Lão Đam, Trang Chu, Huệ Thi[41]. Tác giả có thể là một người nào trong phái Trang, đề cao Trang hơn Lão, bảo: “Đạo đức của Trang sung mãn không biết tới đâu là cùng, trên thì tiêu dao với trời đất, dưới thì làm bạn với những người vượt lên trên sự sinh tử, không phân biệt đâu là thuỷ, đâu là chung nữa. Sự nhận thức của ông về căn bản của đạo thuật đã quảng bác lại thông đạt, thâm viễn; tôn chỉ của ông là đạt được Tự nhiên và hoà hợp với Tự nhiên”. Nhưng khi đưa ra uyên nguyên của mỗi học thuyết, thì tác giả có lẽ theo một nguyên tắc nào đó, không cho biết rõ nhà nào chịu ảnh hưởng của nhà nào, mà chỉ nói một cách bao quát, mơ hồ rằng mỗi nhà đã suy diễn thêm một chủ trương đã có từ trước. Như về Trang tử, tác giả viết: “Thanh tĩnh, vô hình mà biến hoá hoài. Sống ư? Chết ư? Trời đất chỉ là một ư? Thần minh đi đâu? Người ta mang nhiên (không biết gì cả) đi về đâu? Rồi hốt nhiên tới đâu? Vạn vật bao la trong vũ trụ mà không có vật nào đáng cho ta qui về cả. Đạo thuật của cổ nhân có chủ trương đó. Trang Chu được nghe thuyết đó thấy thích rồi diễn (ra)…”. “Cổ nhân” đó là ai? Tác giả không cho biết. Còn “chủ trương” tác giả nói đó một phần có thể là của Lão, một phần có thể là của Liệt, một phần (Người ta đi về đâu? Rồi hốt nhiên tới đâu?) có thể là của những người thắc mắc về nguồn gốc cùng cứu cánh của vũ trụ, vạn vật mà những người này chắc là đã xuất hiện từ khi loài người biết suy nghĩ, trước cả Lão Trang cả vạn năm? Trái lại, đoạn 6 cũng chương XXXIII sẽ xét học thuyết của Bành Mông, Điền Biền và Thuận Đáo lại vô tình cho ta biết về uyên nguyên học thuyết của Trang. Tôi trích dưới đây ít câu trong đoạn đó: “Công chính mà không thiên vị, đảng phái; bình dị mà không ích kỉ; quyết đoán mà không có thành kiến; tuỳ theo ngoại vật mà không phân biệt mình và người; không tư lự, không dùng mưu trí; đối với sự vật, không lựa chọn mà cứ thuận theo sự diễn biến tự nhiên, đạo thuật cổ nhân có chủ trương đó. Bành Mông, Điền Biền và Thận Đáo nghe được thuyết đó mà thích. Qui tắc của họ là vạn vật ngang nhau (tề vật). Họ bảo: “Trời che được mà không chở được; đất chở được mà không che được[42]. Đạo bao dung vạn vật mà không phân biệt (vật này hơn, vật kia kém). Họ biết rằng vạn vật đều có chỗ dùng được, có chỗ không dùng được[43], cho nên bảo: “Lựa chọn thì không dùng được hết, dạy dỗ thì có chỗ không tới, chỉ thuận theo Đạo là không bỏ sót cái gì hết”. Cho nên Thận Đáo chủ trương bỏ trí tuệ, quên mình đi, cứ theo thế bất đắc dĩ mà hành động, thản nhiên thuận theo sự vật, như vậy là hợp với đạo lí. (…). Điền Biền cùng một chủ trương (với Thận Đáo) và học được cái lẽ dạy mà không dùng lời. Bành Mông bảo: “Những người đạt đạo thời xưa chỉ cốt tu dưỡng tới cái mức không cho cái gì là phải, không cho cái gì là trái nữa mà thôi. Sự giáo hoá của họ vô hình như gió thổi, làm sao có thể dùng lời mà truyền được”. Những hàng và chữ in ngã trong đoạn trích dẫn đó diễn nhiều ý giống Liệt tử và Trang tử. Vũ Đồng có lẽ căn cứ vào đó mà bảo: “Điền Biền, Thận Đáo sinh trước Trang tử, vậy Trang tử quả có chịu ảnh hưởng của họ”. (Trung Quốc triết học đại cương – trang 25). Tôi nghĩ Điền Biền và Thận Đáo chỉ hơn Trang độ mười tuổi (theo Vũ Đồng), bảo Trang chịu ảnh hưởng của họ không bằng bảo cả ba đều chịu ảnh hưởng của những người trước họ mà tác giả bài 6 gọi là “cổ nhân”. Cổ nhân đó là ai? Liệt tử chăng? Tất cả những điều tôi mới suy luận về uyên nguyên học thuyết của Trang chỉ là giả thuyết vì Điền Biền, https://thuviensach.vn Thận Đáo, Bành Mông đều không lưu lại một tác phẩm nào cả (nếu có thì cũng đã thất lạc), mà bộ Liệt tử không chắc đã phải của Liệt tử, còn tác giả chương XXXIII trong Trang tử là ai, viết vào thời nào, có đáng tin không, chúng ta cũng không biết nốt. Hiện nay chưa có hi vọng gì các học giả Trung Hoa sẽ tìm được những tài liệu đích xác để giải nỗi nghi cho ta. https://thuviensach.vn VŨ TRỤ LUẬN VÀ CĂN BẢN LUẬN Trong ba phần sau (dịch Nội thiên, Ngoại thiên và Tạp thiên), cuối mỗi chương tôi sẽ phân tích những ý chính rồi sắp đặt lại cho có liên lạc để độc giả dễ thấy nội dung của chương. Riêng về Nội thiên và Tạp thiên, tôi sẽ xét kĩ về vấn đề chân nguỵ của các bài. Ở đây tôi chỉ gom góp những ý rải rác trong mỗi chương của Nội thiên về bốn vấn đề: Vũ trụ và Căn bản luận, Tri thức lận, Chính trị luận và nhân sinh quan để độc giả thấy hệ thống tư tưởng của Trang. Ngoại và Tạp thiên cũng xét bốn vấn đề ấy nhưng không phải của Trang viết cho nên tôi chỉ lựa những bài nào của học phái Trang mà có giá trị về nội dung hay hình thức để giới thiệu phụ vào sau tư tưởng của Trang, coi như lời bàn thêm của hậu học. Những bài đó tôi sẽ tóm tắt, trích dẫn và cho in chữ nhỏ hơn mà lùi vào một chút[44]. Còn những tư tưởng của học phái Lão hoặc những nhà có khuynh hướng khác (Khổng gia, Pháp gia chẳng hạn) tôi không cho vào đây mà chỉ phân tích ở cuối mỗi chương trong phần III (Nội thiên) và IV (Tạp thiên). Tôi phải phân biệt rõ ràng như vậy để khỏi mắc cái lỗi gán cho Trang những tư tưởng mà Trang không có, nhất là cái lỗi bắt Trang mâu thuẫn với Trang. Tôi xin kể một thí dụ: bài XIII.4 trong Nội thiên chủ trương: “Có quí, có hèn, có trước, có sau, đó là trật tự của trời đất, thánh nhân theo thứ tự ấy (…). Cho nên ở trong tôn miếu thì trọng những người vào hàng ông cha mình, ở triều đình thì trọng chức tước, ở hương đảng thì trọng người già, xử sự thì trọng người hiền, đó là trật tự của Đạo”. Tác giả Tề vật luận không khi nào chủ trương như vậy. Tư tưởng đó đã phản Trang, không thể dùng bài đó để phân tích học thuyết của Trang được. Trong tiết trên tôi đã dẫn mấy hàng của đoạn 6 chương XXXIII, về uyên nguyên học thuyết của Trang. Những thắc mắc về vũ trụ: “Thanh tĩnh trời đất vô hình và biến hoá hoài chỉ là một ư?… Người ta mang nhiên đi về đâu? Rồi hốt nhiên tới đâu? Vạn vật bao la trong vũ trụ mà không có vật nào đáng cho ta qui về cả…” mà tác giả cho là của “cổ nhân” đó, cũng là thắc mắc của Trang tử. Ông đã được nghe nhiều thuyết về vấn đề khởi thuỷ của vũ trụ; bài II.6 ông ghi lại ba thuyết: “Cổ nhân có người tri thức đạt được tới cực điểm. Cực điểm đó ở đâu? Ở chỗ cho rằng thời sơ khởi vũ trụ không có vật: đó là điểm cực xa, cực cao mà tri thức đạt được, không thể thêm gì được nữa. Hạng người thấp hơn cho rằng thời sơ khởi đã có cái gì đó, nhưng cái đó không nhất định. Hạng thấp người hơn cho rằng cái đó đã nhất định nhưng nhận rằng không có thị phi (phải trái, xấu tốt)”. Đọc đoạn đó ta ngờ rằng ông cho thuyết khởi thuỷ không có gì cả – tức chủ trương “hữu” từ cái “vô” mà ra của Lão tử, và Liệt tử (coi Liệt tử trang 28-29) – là cao hơn cả, thâm thuý hơn cả, chấp nhận được. Nhưng qua bài sau, II.7, ông lại tỏ vẻ nghi ngờ: “Một người bảo rằng vũ trụ có khởi thuỷ; một người khác bảo không có khởi thuỷ, một người nữa bác thuyết người thứ nhì dùng để bảo vũ trụ không có khởi thuỷ. Nói cách khác: một người bảo mới đầu vũ trụ có cái gì đó (hữu), một người khác bảo mới đầu vũ trụ không có cái gì đó (vô); một người nữa bác cái thuyết mới đầu vũ trụ không có cái gì đó; lại một người thứ tư khác nữa bác cái thuyết người thứ ba dùng để bác cái thuyết mới đầu vũ trụ không có gì cả. Khi thì có (hữu), khi thì không (vô). Mà không biết cái “có”, cái “không” đó có thực là “có”, có thực là “không” không. Tôi mới đưa ra một ý kiến, nhưng nó có thực là ý kiến hay là không có ý kiến gì cả”. Quả là ông không có ý kiến gì cả. Ông nhận rằng không giải được vấn đề hữu vô người trước đã đặt ra. Bài II.2: ông cũng không biết được chủ tể của vũ trụ là gì, có chủ tể hay không? “Ví thử có một chủ tể thực đi thì chúng ta cũng không thấy dấu hiệu, vết tích gì của nó. Thấy tác động mà không thấy hình thể nó”. Nó không có hình thể, vậy nó là “phi vật” – không phải là vật – không phải là ông trời, là Thượng đế, nhưng quả nó có tác động. Ông theo Lão tử, gọi nó là Đạo. Nó “phi vật” còn có nghĩa nó là “tự gốc của nó”, trước khi có trời đất đã có nó rồi. Tác động của nó là “tạo ra quỉ thần, Thượng đế, nó sinh ra trời đất, vạn vật. Nó ở trên thái cực mà không cao, dưới lục cực mà không sâu, có trước trời đất mà không phải là trường cửu, có trước thời thượng cổ mà không phải là già. (VI.1) Nó không có hình trạng, nó ở khắp nơi, vì mọi vật đều từ nó mà ra rồi hợp nhất với nó (II.4). Tuy nó https://thuviensach.vn tác động khắp nơi như vậy mà nó vẫn là “vô vi”, không làm gì cả, vì nó tự nhiên mà tác động (không có ý thức, không dụng tâm), nó là “tự nhiên” (VI.5). Trang tử đặt vào miệng Hứa Do những lời dưới đây để ca tụng nó, mà ông gọi là Đại tôn sư của ông (VI.1): Hỡi đại tôn sư của tôi, đại tôn sư của tôi! Người làm cho mọi vật điêu tàn mà không phải là vì nghĩa, Người gia ân cho tới vạn đại mà không phải là vì nhân.[45] Người có trước thời thượng cổ mà không phải là già, Người che chở trời đất, đục đẽo mọi hình thể mà không phải là khéo (…) Nó “vô vi nhi vô bất vi” (vô vi mà không gì là không làm). Nó tự nhiên nên sinh thành, gia ân cho vạn vật mà không phải là vì nhân, rồi nó làm cho vạn vật điêu tàn mà không phải là bất nhân, không phải là vì nghĩa – chữ “nghĩa” ở đây nên hiểu là điều gì nên làm thì làm. Phùng Hữu Lan gọi nó là “tổng nguyên lí” của trời đất vạn vật (Trung Quốc triết học sử – trang 280). Như vậy ta có thể bảo rằng Trang tử vô thần không, vì quan niệm của ông giống quan niệm các nhà khoa học vô thần ngày nay? Thực là khó trả lời. Cho vũ trụ được tạo theo một nguyên lí tự nhiên thì có vẻ là vô thần; nhưng cái nguyên lí cũng tạo ra quỉ thần, Thượng đế thì lại như tin là có thần. Còn Trang tử có thờ thần hay không thì đọc trong bộ Trang tử ta không thấy chỗ nào nói tới cả, cũng không có chỗ nào ông cầu khấn thần linh cả. Đạo sinh ra vạn vật mà ta là một trong những vạn vật đó, nên không biết được nó, nhưng dùng kinh nghiệm và trực giác, chúng ta có thể nhận xét tác động của nó để thích ứng với nó. Tác động của Đạo là biến hoá. Từ khi mới biết suy nghĩ, loài người tất đã thấy sự biến hoá trong thiên nhiên rồi, chẳng những biến hoá mà còn tuần hoàn nữa, hết một vòng rồi trở về nguyên thuỷ: hết ngày rồi tới đêm, hết đêm lại trở lại ngày; hết xuân tới hạ, tới thu, đông, hết đông lại trở về xuân. Lão tử có lẽ là người đầu tiên coi luật đó là một biểu hiện của Đạo, khi ông bảo: “Phản giả, Đạo chi động” (chương 40). “Động đó tức là biến hoá. Liệt tử trong bài 1.10 nhận thấy rằng vạn vật cứ sinh sinh hoá hoá, vận chuyển hoài không ngừng, giảm ở phía này thì tăng ở phía khác, đầy ở kia thì vơi ở đây, cứ chầm chậm mỗi ngày một chút. Không đột nhiên tăng lên, không đột nhiên giảm đi”. Còn Trang tử thì nói: “Hình thể của con người chỉ là một hình thức của hàng vạn sự biến hoá của vũ trụ” (VI.1). Chắc ông cũng nghĩ như Liệt tử rằng người và vạn vật, đều từ cái hỗn luân mà biến thành “khí”, “khí” lại biến thành “hình”, “hình” biến thành “chất”, cho nên trong bài VI.4, ông cho sinh tử là sự tuần hoàn của cái “khí”. Lúc đó ông buồn về sự biến hoá hoài không ngừng đó, như trong bài II.2: “Khi ta đã nhận được cái hình hài của ta rồi thì ta giữ nó cho tới khi chết. Nó với những vật khác đâm nhau, mài cọ vào nhau, cùng bôn tẩu như những con ngựa, mà không có gì làm cho ngừng được. Buồn thay! Suốt đời khó nhọc mà không thành công gì cả; tân khổ, mệt mỏi mà không biết để đi tới đâu. Đáng thương thay! Như vậy mà bảo là sống, thử hỏi có ích gì không? Hình hài mà biến hoá thì tinh thần cũng biến hoá. Đó chẳng phải là điều rất thương tâm ư?” Lần đó ông chán đời, ba lần thở dài: “Buồn thay!” “Đáng thương ư?” “Chẳng phải là điều đáng thương tâm ư?” Chứ bình thường ông vui hơn như trong bài VI.1: “Có hình thể con người cũng đủ cho ta mừng rồi. Mà hình thể con người chỉ là một hình thức của hàng vạn sự biến hoá của vũ trụ. Vậy thì ngắm những biến hoá vô cùng của vũ trụ còn thích đến đâu! Cho nên thánh nhân muốn trở về cái gốc chung của vạn vật (tức Đạo)”. Ông nghĩ rằng vạn vật vì đều là con của Đạo cả, cho nên tuy khác nhau mà cũng chỉ là một: “Xét chỗ dị biệt của vạn vật thì lá gan và trái mật khác nhau cũng như nước Sở và nước Việt; xét chỗ giống nhau thì vạn vật chỉ là một”. (V.1). Cũng như khi gió thổi thì cả vạn hang lỗ đều gào thét, mỗi hang, mỗi lỗ thành một thanh âm khác nhau, nhưng hết thảy đều là “tiếng thở của đất cả” (II.1). Cho nên “vật nào cũng là chính nó mà đồng thời cũng là vật khác. Phân biệt vật và mình thì không thấy được lẽ đó, hoà đồng với vật thì thấy được” (II.3). Quan niệm hoà đồng với vạn vật này, Trang mượn của Liệt tử. Liệt tử có bốn bài ngụ ngôn diễn cái ý hễ hoà đồng với vạn vật thì vạn vật không hại được, mà còn giúp ta nữa, ta có thể vô lửa mà không bị cháy, vô nước mà không bị chìm, ta có thể để cho không khí nâng ta, gió đưa ta đi, có thể bay được, trường sinh được. https://thuviensach.vn Trang tử có lẽ cũng nghĩ như vậy (coi bài I.1, VI.1), nhưng thái độ ông “triết” hơn. Ông hoà đồng với vạn vật để coi vạn vật như mình chứ không cầu trường sinh bất tử, vì ông đã “tề sinh tử”. Có lần ông nằm mê thấy mình hoá bướm, tỉnh dậy ông tự hỏi ông mộng thấy hoá bướm hay bướm mộng thấy hoá ông. Giá ông không hoá bướm mà hoá cục đá, cành cây hay con bọ hung đi nữa thì ông cũng cho là thường, vì vật nào cũng là con của Đạo. Bài III.6 chỉ có một hàng: “Chỉ cùng vi ư tân, hoả truyền dã, bất trị kì tận dã” mà tôi dịch thoát là hết thanh củi này tới thanh củi khác, nhưng lửa vẫn lan tới vô cùng. Câu đó có nhiều cách hiểu. Liou Kia hway hiểu là “lửa (do gió) mà lan rộng ra thì không sao dập được”. Diệp Ngọc Lân cho rằng củi trỏ hình thể, ngọn lửa trỏ tinh thần, hình thể mất mà tinh thần không. Tôi cho rằng lửa ở đây trỏ sự sống: chết là bỏ cái thể xác hiện thời của ta mà lấy một thể xác khác. Sự sống cứ truyền như vậy tới khi nào ta trở về với Đạo, như trong bài II.4 Trang đã nói: “Không vật nào có sinh thành huỷ diệt cả vì rốt cuộc đều hợp nhất ở Đạo”. Đọc bài VI.3, tôi càng tin cách giải thích của tôi không phải là võ đoán. Tử Du vì “âm dương thác loạn” mà lưng hoá cong, xương sống thì lòi ra, ngũ tạng đảo lộn, cằm đưa xuống tới rốn, vai đưa lên khỏi đầu (Óc tưởng tượng của Trang lạ thật!); Tử Tự là bạn của Tử Du, hỏi Tử Du thấy thân thể của mình như vậy có gớm không. Tử Du đáp: “Không, tại sao lại thấy gớm? Nếu tạo hoá muốn biến cánh tay trái tôi thành con gà thì tôi nhân đó mà gáy sáng; nếu biến tay phải tôi thành cây cung thì tôi sẽ nhân đó mà bắn con chim “hào” đem về quay; nếu biến đít tôi thành bánh xe, tinh thần tôi thành ngựa thì tôi sẽ nhân đó mà thắng xe. (…) Tại sao tôi lại gớm?” Phải, cái gì cũng trở về bản căn hết. Các nhà khoa học đã nhận thấy từ lâu trong vũ trụ không có cái gì mất đi, cái gì tạo ra; chỉ có biến đổi từ thể này qua thể khác, từ hình này qua hình khác… Trang tử không phải là nhà khoa học, mà thời ông sống, đạo Phật chưa truyền qua Trung Hoa, ông không biết các luật khoa học, và luân hồi, nhưng ông đã cảm thấy một cách sâu sắc luật biến hoá trong vũ trụ. Ông nghĩ rằng chúng ta chết rồi có thể biến thành bất kì một vật nào khác như đổi căn nhà (VI.6) mà vật cũng vậy, cũng có thể biến thành người, và dù biến thành gì thì vật và ta rốt cuộc cũng trở về Đạo, “qui căn”, hợp nhất với Đạo[46]. Đó là một tư tưởng đặc sắc của ông, làm căn cho thuyết không phân biệt ta và vật, trọng thiên tính và sự tự do của vạn vật. Biến hoá như vậy có theo một trình tự nào không? Không, ông không tin rằng có một trình tự nào cả, chẳng hạn như từ con kiến thành con sâu, con chim, con ngựa, con khỉ, rồi người, thánh, thần, vân vân… Vì vạn vật đều ngang nhau, đều là một cả, sao lại có trên có dưới được. Có thể ông cho rằng cái đó thuộc về “quyền của Đạo”, “Đạo” muốn sao thì muốn – không: “Đạo” đã là tự nhiên thì không “muốn” gì cả – phải nói: Cái đó xảy ra sao thì xảy, ông không quan tâm tới. Vậy thuyết của Trang chỉ là thuyết biến hoá, không phải là thuyết tiến hoá: Qua Ngoại thiên, chương XVIII, bài 7, ta sẽ thấy một tác giả gần như chủ trương thuyết tiến hoá của Darwin, đại ý bảo: Phôi chủng có một bộ phận nhỏ là cái “cơ”. Cái cơ gặp nước thì thành một thứ cỏ, gặp chỗ giáp mí nước thì thành rêu xanh, gặp chỗ gò cao thì thành xa tiền thảo. Rồi xa tiền thảo lần lần hoá thành con bọ, con bướm, con sâu, con ve, con chim… con ngựa và sau cùng ngựa thành con người. Tác giả đó giống Trang tử (và khác Darwin) ở điểm cho con người lại trở về cái “cơ”, như vậy vạn vật, đều là cái “cơ”, đều “qui căn”; nhưng lại khác Trang ở điểm chỉ có vật biến thành người, chứ người không biến thành vật được. Trang thấy hoá bướm thì chỉ là một giấc mộng[47]. Vậy cả vũ trụ chỉ là một sự biến hoá không ngừng và do luật biến hoá đó mà không biết đâu là thuỷ là chung, là sinh là tử, như trên một bánh xe quay tròn. “Người ta phân biệt sống và chết. Sự thực sống cũng là chết” (II.3) vì chết thì chỉ như đổi nhà, chỉ là sống một đời sống khác ở trong một thể xác khác; xét về kiếp trước thì là tử, mà xét về kiếp sau thì là sinh. “Cái kia tự cái này mà ra, cái này cũng tự cái kia mà ra”, chung từ thuỷ mà ra, thuỷ lại từ chung mà ra, chung cũng là thuỷ, mà thuỷ cũng là chung. Không có cả thị phi nữa, vì thị hay phi là tương đối. Cái “phải” (thị) biến hoá hoài mà cái “không phải” (phi) cũng biến hoá hoài. Biến hoá tuỳ theo thời đại. Ở thời đại săn mồi, hái trái chẳng hạn, hiếu chiến là một đức tốt vì người ta phải tranh nhau con mồi; qua thời đại nông nghiệp, hiếu hoà mới là đức tốt vì có yên ổn mới có trồng trọt được. Rồi trong thời đại kĩ nghệ của chúng ta, nhiều giá trị thời nông nghiệp đã https://thuviensach.vn suy tàn, như chế độ gia đình, quan niệm hiếu và trinh… và chúng ta lại có những giá trị khác: Ganh đua để thành công, nghĩa là để kiếm được nhiều tiền, sản xuất cho mạnh mà tiêu thụ được nhiều. (Coi “Bốn thời đại của nhân loại” trong Những vấn đề của thời đại – Mặt đất – 1974). Quan niệm thị phi còn thay đổi tuỳ nơi, như Liệt tử đã nói: “Người nước Viêm khi cha mẹ mất thì cắt lấy thịt liệng đi”[48], còn xương thì đem chôn, “người nước Cừ, cha mẹ chết thì chất củi mà thiêu, khói bốc lên cao, bảo cha mẹ lên cõi xa”; hành động khác nhau như vậy mà người các nước đó đều cho là báo hiếu cả. Hiện nay ở nước ta – ít nhất là ở thôn quê – người ta ông bà ở với con cháu là một cái vui trong gia đình, một cái phước, mà ở Âu Mĩ, người ta cho như vậy là làm phiền con cháu. Ngày nay chúng ta còn trọng trinh tiết một chút, nhưng ở Âu Mĩ, thanh niên nam nữ nào mà đem trinh tiết ra đề cao thì tất bị bạn bè cười là người “thời trung cổ”. Vậy thì thị và phi cũng xoay trên vòng bánh xe, ở đây là thị, xoay qua chỗ khác là phi, không có gì quyết định được là thị hay phi cả. Tốt hay xấu cũng vậy, không có “chính xứ”, “chính vị”, “chính sắc”, như Vương Nghê nói với Niết Khuyết trong bài 10 Tề vật luận: “Chẳng hạn một người nằm chỗ ẩm thấp (trong bùn) mà đau lưng tê liệt nửa người, nhưng một con lươn thì có sao không? Một người ngồi trên ngọn cây thì run rẩy sợ sệt, nhưng con khỉ có vậy không? Chỗ ở của người và hai con vật ấy, chỗ nào là lí tưởng (chính xứ)? Người ta ăn thịt dê, bò, chó, lợn; hươu nai ăn cỏ; rết thích ăn rắn con; cú mèo và quạ thích ăn chuột. Khẩu vị của bốn loài đó, khẩu vị nào là lí tưởng (chính vị)? Khỉ đực sống với vượn cái; nai đực sống với hươu cái; lươn sống chung với cá; nàng Mao Tường và nàng Lệ Cơ được mọi người khen là đẹp, vậy mà thấy họ tới thì cá lặn sâu, chim bay cao, hươu nai chạy dài. Cái đẹp theo bốn loài đó, cái đẹp nào là lí tưởng (chính sắc)?” Cũng không biết được đâu là hoạ, đâu là phúc: “Nàng Lệ Cơ con gái viên quan giữ biên giới ở đất Ngãi. Khi vua Hiến Tông nước Tấn đón nàng về cung, nàng khóc tới ướt đẫm vạt áo, nhưng về tới hoàng cung, cùng vua đồng sàng, nếm cao lương mĩ vị, nàng hối hận giọt lệ ngày xưa. Vậy làm sao tôi biết được khi chết rồi, người ta lại không ân hận rằng trước kia ham sống?” (II.11). Mà làm sao biết vật nào hữu dụng, vô dụng? Chương Tiêu dao du có hai bài – 4 và 5 – xét lẽ đó. Một người nước Tống chế được một thứ thuốc bôi ngón tay cho khỏi nứt nẻ (chắc là cùng loại với vaseline ngày nay). Gia đình người đó làm công việc đập lụa, chỉ biết dùng thuốc để bôi ngón tay cho mùa đông khỏi nứt nẻ mà đập lụa được. Một người mua lại phương thuốc, đem bán cho vua Ngô. Mùa đông, Ngô thuỷ chiến với Việt, nhờ có thuốc đó mà thuỷ quân Ngô không nứt nẻ ngón tay, thắng được Việt. Vua Ngô đem đất phong cho người bán thuốc để thưởng công (bài 4). Vậy thứ thuốc gần như vô dụng, đã thành rất hữu dụng. Không có vật gì hoàn toàn vô dụng cả. Cây “xư” là một thứ cây lớn, gỗ xấu, nổi u, chỗ lồi chỗ lõm, cành cong queo, nên không người nào đốn để xẻ làm đồ dùng. Trang bảo: “Sao không trồng nó ở chỗ hư vô, tịch mịch, trong cánh đồng mênh mông, để những kẻ nhàn rỗi thơ thẩn dạo chung quanh thảnh thơi ngủ dưới bóng mát của nó?”. Vậy Trang chủ trương cái gì cũng tương đối hết và có nhà đã khen ông tìm ra được luật tương đối trên hai ngàn năm trước Einstein. Lời khen đó chắc Trang không dám và cũng không muốn nhận. Không dám vì lẽ tương đối về xấu đẹp, lớn nhỏ, thọ yểu… loài người đã nhận ra được từ lâu, không phải đợi tới ông rồi mới nhận thấy. Không muốn vì ông là một triết gia suy tư về xã hội, đâu phải là một khoa học gia muốn phát minh về vật lí, mà đem so sánh với Einstein. Ông đáng khen không phải vì tìm ra được luật đó mà vì đã diễn ra một cách rất sâu sắc và rút ra được một nhân sinh quan nhân từ, khoáng đạt. Tuy nhiên ta không thể bảo Trang tử theo hoài nghi chủ nghĩa. Không có thị phi, thị phi quay hoài trên một vòng tròn, nhưng vòng tròn đó có trung tâm, cái chốt (cái chốt đó ông gọi là “Đạo xu” – chốt của Đạo), ứng với các biến hoá vô cùng (II.3); thánh nhân dung hoà, đứng ở cái chốt đó, coi thị phi là một, mà theo luật quân bình, tự nhiên, như vậy là “lưỡng hành”, nghĩa là biết thích nghi, dùng được cả hai, tuỳ theo hoàn cảnh. Thái độ “lưỡng hành” đó chính là cái “thị”, cái phải tuyệt đối, cũng có thể gọi nó là siêu thị phi được. Không có gì là hoạ, là phúc, nhưng có một thái độ thảnh thơi tự tại, thuận thiên tính, sống theo khả https://thuviensach.vn năng của mình mà hưởng hết tuổi trời, không ganh tị, so sánh với ai, hoàn toàn tự do, không tuỳ thuộc một cái gì, không trọng sinh khinh tử, coi sinh tử như nhau; thái độ tiêu dao đó, theo ông là hạnh phúc tuyệt đối. Do luật tương đối đó và do lẽ muôn vật đều từ Đạo mà ra, rồi biến hoá không ngừng để cuối cùng lại hợp nhất với Đạo, cho nên mọi vật đều ngang nhau, không có vật nào quí, vật nào tiện. Gió thổi vào cả vạn hang lỗ, tạo ra hàng vạn âm thanh khác nhau, nhưng hết thảy đều là “tiếng thở của Đất” (II.1), có thanh âm nào quí hơn thanh âm nào? Sinh tử, thị phi, lớn nhỏ… cũng vậy, chỉ là những biến hoá của Đạo, cho nên sinh không đáng trọng hơn tử, thị cũng không hơn gì phi, mà lớn (ngọn núi) cũng như nhỏ (đầu sợi lông) chứ không hơn gì… Ý “vật tề” (mọi vật ngang nhau) này chúng ta đã thấy trong một ngụ ngôn của Liệt tử. Trong một bữa tiệc, họ Điền nước Tề nhìn các món cá và chim nhạn người ta dâng lên, bảo: “Trời hậu đãi loài người quá, sinh ra ngũ cốc, cá chim cho chúng ta ăn”. Một em bé đứng lên phản đối: “Không đúng như lời ngài nói. Vạn vật trong trời đất với chúng ta đều là sinh vật cả, không loài nào quí, không loài nào hèn (…) Không loài sinh vật nào sinh ra để cho loài khác ăn thịt. Loài người thấy cái gì ăn được thì ăn, trời đâu có vì người mà sinh ra các loài đó. Muỗi mòng kia đốt da ta, hổ lang kia ăn thịt ta, có thể nói là trời vì chúng mà sinh ra chúng ta không?” (Liệt tử – VIII.28). Chủ trương đó trái với hết thảy các triết gia khác, nhất là Mạnh tử. Mạnh cho rằng bản chất của mọi vật là không đều nhau, có vật đáng giá gấp hai hoặc gấp năm vật khác, có vật đáng giá gấp mười, gấp trăm, hoặc gấp ngàn gấp vạn vật khác. (Đằng Văn Công, thượng – 4). Ngay trong thân thể người ta cũng có phần cao quí, phần đê tiện, có phần to tát, có phần nhỏ nhen (Cáo tử, thượng – 14). Mà trong xã hội có hai hạng người: Hạng “quân tử” có tài đức lo việc trị dân, và hạng “tiểu nhân” tài đức kém, phải lo cấp dưỡng cho hạng trên. Thuyết bất đồng, bất tề đó làm cơ sở cho chính sách tôn ti trong tổ chức xã hội. Trang tử cho rằng xét bề ngoài thì quả như Mạnh tử nói. Có con chim bằng “lưng rộng không biết mấy ngàn dặm, tung cánh bay thì cánh nó như đám cỏ bồng cỏ cảo,[49] “có hạng trí lực nhỏ không thể so sánh được với hạng trí lực lớn”, “có người tài trí đủ làm một chức quan, có người làm gương được cho một làng, có người đức đáng làm vua mà được cả nước phục” (I.1), nhưng xét sâu hơn thì vật nào cũng do luật biến hoá của Đạo mà ra cả, đều có một phận riêng trong một giai đoạn nào đó, hết giai đoạn đó lại biến thành một vật khác, cho nên không có vật nào không có công dụng, công dụng nào cũng quan trọng như nhau, không có quí, có tiện. Huống hồ dù thuộc hạng nào thì hết thảy cũng có bản tính, khả năng riêng do Đạo phú cho, đều có thể thảnh thơi tự tại như nhau, cho nên con chim cút không ước ao được như con chim bằng mà còn mỉa nó nữa: “Tôi lên cao vài nhẫn rồi xuống, như vậy đủ rồi, con chim bằng kia bay đi đâu vậy kìa”. Chủ trương “tề vật” đó thật nhân từ mà khoáng đạt. Ngoại thiên có một bài dài và hay – bài Thu thuỷ 1 – dùng một ngụ ngôn để khai triển thêm ý “tề vật” đại ý như sau: Hà Bá (thần sông Hoàng Hà) xin thụ giáo thần Bắc Hải (thần biển Bắc). Bắc Hải giảng rằng trong vũ trụ không có gì lớn, không có gì nhỏ. Như chính Bắc Hải rộng mênh mông, không bao giờ đầy, không bao giờ vơi, vậy mà so với vũ trụ thì không khác gì hòn cuội. Trung Quốc tuy lớn mà so với bốn biển không khác gì hạt lúa trong kho lớn. Vậy mà ngũ đế, tam vương tranh giành nhau vì Trung Quốc thì thật là không sáng suốt. Trời đất không phải là lớn, nhưng sợi lông cũng không phải là nhỏ, “vì cái lượng của vật thì vô cùng mà thời gian thì không ngừng, nó biến đổi hoài, không biết đâu là thuỷ, là chung”. “Cái ta biết ít hơn cái ta không biết, cuộc đời ta sống không dài bằng thời gian trước khi ta sanh ra. Lấy cái cực nhỏ (tức trí tuệ và đời sống của ta) mà muốn hiểu đến cái cực lớn (tức tất cả những cái ta không biết và cả thời gian trước khi ta sanh ra) như vậy là mê loạn. Đã vậy rồi thì làm sao biết được đầu sợi lông làm tiêu chuẩn cho cái cực nhỏ mà trời đất làm tiêu chuẩn cho cái cực lớn?”. (…) “Lấy con mắt sai biệt mà xét, muốn nhấn vào chỗ lớn thì không vật nào là không lớn, muốn nhấn vào chỗ nhỏ thì không vật nào là không nhỏ”. “Cũng không có quí, có tiện theo lập trường “Đạo”. Mà xét theo lập trường của vạn vật thì vật nào cũng tự cho mình là quí, vật khác là tiện. Theo thế tục mà xét thì quí tiện không tuỳ thuộc chính mình” (mà tuỳ thuộc ý kiến của người khác về mình). Hữu dụng hay vô dụng, thị hay phi cũng là do chủ quan của mỗi người cả, chứ theo Đạo, thì vật nào cũng ngang nhau về công dụng và chẳng có gì thị hay phi. Cuối cùng, thần Bắc Hải bảo Hà Bá: “Anh hỏi tôi nên làm gì, không nên làm gì ư? Thì cứ để cho bản thân của anh tự nhiên biến hoá”, và “đừng đem cái người làm mà diệt cái thiên nhiên” (bất dĩ nhân hại https://thuviensach.vn thiên – ý này đã diễn trong bài VII.7). Tóm lại, Trang tử tìm hiểu tác động của Đạo, thấy nó sinh ra vạn vật, vạn vật biến hoá rồi qui căn, do đó ông rút ra được mấy luật này: vạn vật với ta là một, không phân biệt ta và vật; không có gì là quí tiện, vạn vật đều ngang nhau hết, không có gì là thị phi. và sau cùng đưa ra chủ trương dưới đây để mong cứu vớt xã hội: chúng ta phải có thái độ “lưỡng hành”, theo luật biến hoá tự nhiên; phải “tề vật”, coi vạn vật hoàn toàn bình đẳng, phải “tiêu dao” và để cho vạn vật hoàn toàn tự do cũng như ta. Chúng ta nhận thấy rằng Trang chỉ bàn về Đạo và quan niệm về Đạo của ông giống quan niệm của Lão; còn về Đức thì ông không hề nhắc tới. Ông để cả một chương, chương Đức sung phù, đưa ra một số người có đức sung mãn, nhưng chữ đức ông dùng trong chương đó chỉ là chữ đức của Khổng, Mặc hiểu theo nghĩa như: nhân, nghĩa, lễ, trí… chứ không phải chữ Đức của Lão, tức cái nguyên lí ở trong mỗi vật, cái tác dụng của Đạo ở mỗi vật, cái biểu hiện của Đạo ở mỗi vật. Trang cũng không nói đến “tính”[50], chỉ khuyên ta theo tự nhiên và để cho vạn vật thuận theo tự nhiên (như trong bài IV.4, nuôi cọp thì thuận theo cọp). Ông nói thuận theo tự nhiên, chúng ta có thể hiểu rằng thuận theo bản tính của mỗi vật. Ông phân biệt thị phi thì tất không phân biệt tính thiện ác; nhưng ông cho tự nhiên, phác tố[51]là biểu hiện của Đạo thì cũng cho nó là siêu thiện ác. Vì vậy mà các học giả cho rằng ông chủ trương tính siêu thiện ác, thực ra ông không hề đem vấn đề đó ra bàn như Mạnh tử, người đương thời với ông, và Tuân tử sinh sau ông. https://thuviensach.vn TRI THỨC LUẬN Một lần nữa, ta lại thấy Liệt tử và Trang tử có nhiều điểm giống nhau. Cả hai đều chủ trương có những điều mình không biết được. Liệt tử hỏi: Trời đất có tận cùng không? có huỷ hoại không? rồi ông tự đáp: Điều đó ông không biết được. (Liệt tử và Dương tử – trang 32). Ông lại ngờ thực với mộng như trong ngụ ngôn một người kiếm củi bắt được con hươu, đập chết, giấu trong cái hào cạn, phủ cành lá lên, rồi quên mất chỗ giấu, tưởng mình nằm mê. Còn Trang tử thì tự hỏi chủ tể của vũ trụ là gì? Và than thở không biết bao giờ loài người mới hiểu được lẽ sinh hoá trong vũ trụ (II.2). Hai lần ông thắc mắc về cái “ta”: bài II.5 tỉnh mộng rồi ông không biết mình hoá bướm, hay bướm hoá mình; bài VI.5, Trang lại cho Trọng Ni bảo Nhan Hồi: “Người ta cho cái hình hài tạm thời của mình là cái “ta”, nhưng làm sao biết được cái “ta” đó có thực là ta không?” Trang tử cơ hồ đề cao tinh thần “bất khả tri” mà thành thực đó. Câu: “Biết rằng có những điều mình không thể biết được, đó là đạt được cực điểm của tri” của ông nghĩa cũng tựa như câu: “Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã” của Khổng tử (Luận ngữ – Vi chính – 17). Nhưng Trang còn tiến xa hơn Khổng, cho rằng ngay đến thị phi, thiện ác, cũng không biết được vì cái thiện lúc này thì hoá ác lúc khác, cái phải ở đây thì không phải ở kia. Cơ hồ ông cho không có gì là chân lí cả. Cũng như Lão tử, Trang không coi trọng trí tuệ. Lão chủ trương “khí trí” (bỏ trí tuệ đi), tuyệt xảo (dứt bỏ sự khéo léo đi) – Đạo Đức kinh – 18 –; Trang cũng coi sự rời hình thể, bỏ trí tuệ, hợp nhất với đại Đạo (li hình, khứ trí, đồng ư Đại thông[52]) là đạt được mức tối cao của sự tu dưỡng (VI.7). Bài V.5, ông coi trí tuệ là mầm thừa, vì không mưu tính cái gì thì đâu cần tới trí tuệ. Chữ trí tuệ có nghĩa cũng gần như trí xảo, mà trí xảo thì ông rất ghét vì nó là “nhân vị”, làm hại thiên nhiên, như ngụ ngôn VII.7 về việc vua Nam Hải và vua Bắc Hải đục lỗ cho vua Trung Ương làm cho vua Trung Ương chết. Đầu chương Dưỡng sinh chủ có một câu bất hủ, môn đồ Lão Trang rất thích, thường đem ra mỉa mai hạng người hiếu học. Câu đó như sau: “Ngô sinh dã hữu nhai nhi tri dã vô nhai, dĩ hữu nhai tuỳ vô nhai, đãi dĩ…”: Đời người có hạn mà chạy theo cái vô cùng. Đem cái vô hạn mà chạy theo cái vô cùng thì tinh thần phải mệt mỏi. Mệt mỏi mà không ngừng thì sẽ nguy mất. Vả lại, “cái mức cao nhất của tri thức là biết được thiên đạo và nhân sự. Biết được thiên đạo là biết rằng vạn vật do tự nhiên sinh ra, vậy thì phải theo tự nhiên. Biết được nhân sự là dùng cái mà trí tuệ có thể biết được để bảo hộ cái mà trí tuệ không thể biết được – tức cái sinh mệnh – hầu hưởng hết tuổi trời, khỏi chết yểu” (VI.1). Nghĩa là mục đích của chúng ta là tìm hiểu lẽ tự nhiên (Đạo) rồi sống theo tự nhiên để “hưởng hết tuổi trời”. Công việc tìm hiểu đó chỉ dùng trực giác mà thực hiện được. Dùng trực giác nghĩa là đứng ở cái chốt của Đạo (Đạo xu), tức cái trung tâm để ứng với cái biến hoá vô cùng trên cái vòng bánh xe (thiên quân) xoay hoài chung quanh. Dùng trực giác thì đâu cần tới sách vở. Trông thấy năm xe sách của Huệ tử, chắc Trang phải mỉm cười cho bạn là hạng “tiểu trí”, đứng trên cái vòng bánh xe mà phân biệt những cái nhỏ nhặt, chứ không phải là đại trí, đứng ở trung tâm để bao quát được hết thảy. Về điểm đó Trang tử cũng giống Liệt tử. Liệt tử bảo: “Cơ thể hoà hợp với tâm, tâm hoà hợp với khí, khí hoà hợp với thần, thần hoà hợp với cái “vô” mà hễ có một hình thể rất nhỏ nào xuất hiện, một thanh âm rất nhỏ nào thoảng qua dù ở xa hay ở gần tôi cũng biết liền. Nhưng tôi không hiểu là do cảm giác của ngũ quan hay của các bộ phận trong người, chỉ biết rằng cái biết đó tự nhiên phát ra vậy thôi”. Cái biết đó chính là trực giác, trái với sự suy luận. Còn Trang thì bảo “đừng suy luận gì hết sẽ thấy được Đạo”. Càng suy luận chỉ càng thêm rối mù. Ông đưa ra một thí dụ: “… một người bảo mới đầu vũ trụ có cái gì đó (hữu); một người khác bảo mới đầu vũ trụ không có gì cả (vô); một người nữa bác cái thuyết mới đầu vũ trụ không có gì cả; lại một người thứ tư khác nữa bác cái thuyết người thứ ba dùng để bác cái thuyết mới đầu vũ trụ không có gì cả. Khi thì có, khi thì không. Mà không biết cái có, cái không đó có thực là có, có thực là không không. Tôi (Trang tử) mới đưa ra một ý kiến, nhưng nó có thực là ý kiến hay là không có ý kiến gì cả… Vũ trụ hợp nhất, (như vậy là một rồi); cái “nhất” đó thêm cái ta nói về nó, thế là hai cái rồi; hai cái đó với cái “nhất” https://thuviensach.vn (nguyên thuỷ) thành ra ba. Cứ như vậy mà tính tiếp thì người giỏi tính cũng đành chịu; huống hồ là người thường. Như vậy là từ “không” tới “có” đã có ba ý khác nhau rồi; huống hồ từ “có” tới “có”, sẽ có cơ man nào là ý (II.7). Không nên suy luận, mà tranh biện lại càng không nên, vì “ngôn ngữ không chắc chắn” – nó thay đổi theo hoàn cảnh, không diễn được Đạo –; tranh luận chỉ thấy cái phiến diện vì người nào cũng chấp nhất, mà càng chấp nhất, càng có thành kiến thì Đạo càng bị che lấp: “Đạo bị thành kiến nhỏ nhen che lấp; lời bị sự hoa mĩ phù phiếm che lấp. Do đó mà phái Nho, phái Mặc tranh biện[53] với nhau. Cái gì phái này cho là phải thì phái kia cho là trái; cái gì phái này cho là trái thì phái kia cho là phải. Muốn thấy điểm phải trong chỗ họ cho là trái, thấy điểm trái trong chỗ họ cho là phải thì không gì bằng dùng trực giác” (II.3). Tranh biện chỉ phí sức, mất thì giờ, vô ích, vì không có kẻ thắng người bại; rốt cuộc chẳng giải quyết được gì cả: “Giả sử tôi tranh biện với anh mà anh thắng tôi thì có nhất định là anh phải, tôi trái không? Nếu tôi thắng anh thì có nhất định là tôi phải, anh trái không? Trong chúng ta có một người phải, một người trái? Hay cả hai chúng ta đều phải cả hoặc đều trái cả? Anh và tôi làm sao biết được điều đó? Mà một người thứ ba nào khác thì cũng hồ đồ không biết được, lựa ai sáng suốt làm trọng tài đây? Hỏi một người cùng một ý kiến với anh, thì người đó do lẽ cùng ý kiến với anh, làm sao có thể phê phán được? Nếu là một người cùng ý kiến với tôi thì người này do lẽ cùng ý kiến với tôi, làm sao có thể phê phán được? Nếu là một người ý kiến khác cả tôi lẫn anh, hoặc giống cả tôi lẫn anh thì cũng làm sao phán đoán được? Vậy anh, tôi và người thứ ba đó đều không quyết được ai phải, ai trái. Có nên đợi một người thứ tư nữa không?” (II.12) Và ông tỏ thái độ trong bài II.8: Đại Đạo không có tên, đại biện luận thì không nói (…) Cái Đạo mà minh thị ra rồi thì không phải là Đạo; biện luận mà phải dùng lời nói thì không đạt được chân lí. Ngoại thiên có bài Trí Bắc du 1 và Tạp thiên có bài Tác Dương 12 cũng diễn lại ý đó: Tác Dương 12: Nếu dùng lời nói mà đủ thì chỉ cần nói về Đạo suốt ngày là hiểu hết về nó; nếu dùng lời nói mà không đủ thì có nói suốt ngày cũng chỉ quanh quẩn nói về vật, (làm sao mà hiểu về Đạo được). Cái cảnh giới tối cao của Đạo (…) ngôn ngữ và trầm tư đều không thể “chở” nó được. Không nói gì cả, cũng không trầm tư, đó là cái mức tối cao của nghị luận”. Nghĩa là đừng nói cũng đừng suy nghĩ gì cả. Trí Bắc du 1 dùng một ngụ ngôn: Trí đi chơi phương Bắc, gặp Vô Vi Vị (tượng trưng người không làm không nói) hỏi: “Muốn hiểu Đạo thì phải suy nghĩ những gì, ra sao?” Vô Vi Vị không đáp. Trí trở về phương Nam, gặp Cuồng Khuất (tượng trưng người hơi hiểu Đạo) cũng hỏi câu đó; Cuồng Khuất vừa định đáp thì quên mất mình muốn nói gì. Sau cùng Trí yết kiến Hoàng Đế, lại hỏi câu đó. Hoàng Đế đáp: “Đừng suy nghĩ gì cả thì mới biết được Đạo”. Nhưng Hoàng Đế lại nhận rằng Vô Vi Vị, mới thật là đạt Đạo, vì không nói gì hết, Cuồng Khuất mới tựa như đạt Đạo vì còn định nói, còn chính mình (Hoàng Đế) thì chưa gần được Đạo, vì đã nói về Đạo. Hoàng Đế kết: “Vì người biết thì không nói mà kẻ nói thì không biết”. (Tác giả bài này có thể thuộc phái Lão vì ở đoạn dưới dẫn nhiều câu trong Đạo Đức kinh, nhưng riêng về đoạn trên, đã diễn đúng ý của Trang). Trang đã chỉ trích thói tranh luận của các chư tử đương thời, đặc biệt là Khổng và Mặc, với bọn nguỵ biện Huệ Thi và Công Tôn Long. Ông có lí: tranh biện không thuyết phục được đối phương khi hai bên khăng khăng giữ ý kiến của mình. Trong trường hợp đó, dùng trọng tài nào cũng vô ích. Các cuộc hội nghị ở Liên Hiệp quốc về vấn đề hoà bình của thế giới, chứng minh lời của ông: Tất cả chỉ là những đàm thoại giữa người điếc. Tuy nhiên họ cứ đấu khẩu với nhau, như vậy vẫn còn hơn là đấu súng. Vì chủ trương dùng trực giác chứ không suy luận, nên phái Lão, Liệt. Trang không cống hiến gì nhiều cho Tri thức luận của Trung Hoa, không bằng Khổng, Mặc và Danh gia. Như vậy có lợi hay có hại cho dân tộc Trung Hoa, cái đó tuỳ quan niệm của từng người. https://thuviensach.vn CHÍNH TRỊ LUẬN Phần chính trị luận chiếm trọn chương VII (Ứng đế vương) và dăm ba đoạn trong vài chương khác. Tuy nhiên, cũng như Lão và Liệt, Trang chỉ đưa ra ít nguyên tắc, không đi vào chi tiết (cách tổ chức xã hội, trách nhiệm của vua, quan, giáo dục, kinh tế, võ bị…) như Khổng phái, vì chủ trương của ông rất giản dị: vô vi, trái hẳn với chủ trương của Khổng, Mặc, Pháp. Ta còn nhớ vua Sở muốn giao chức tướng quốc cho ông, ông từ chối. Chắc ông đã gai mắt khi thấy bọn “sĩ” đương thời bôn ba từ Tống qua Tề, từ Tần qua Sở để mong được các vua chư hầu thu dụng, chê họ là tham danh lợi, bị ngoại vật chi phối mà đánh mất cái thiên chân. Cho nên ông khen Hứa Do đã trả lời như sau khi vua Nghiêu kính cẩn “xin giao thiên hạ cho”: “Nhà vua trị nước mà nước bình trị. Bây giờ tôi lên thay, thế là cầu danh ư? Danh là khách của cái thực, tôi đóng cái vai khách sao? Con chim tiêu liêu (một loài chim nhỏ), làm ổ trong rừng, chiếm bất quá một cành cây; con “yển thử” (con mạch – tapir) uống nước sông, bất quá đầy bụng thì thôi. Xin nhà vua cứ giữ ngôi. Tôi có biết dùng thiên hạ làm gì đâu” (I.2). Trong bài VII.3, Trang tử còn cho Người-không-tên nổi giận khi Thiên căn (một tên tưởng tượng) hỏi cách trị thiên hạ. “- Cút đi! Quân thô lỗ! Hỏi gì mà thấy ghét! Ta giao du với tạo vật, chán rồi thì cưỡi con chim “phiếu điểu” để bay ra ngoài vũ trụ và tiêu dao ở chỗ hư vô tịch mịch, trong cõi khoáng đãng, sao anh lại đem cái việc trị thiên hạ ra làm bận lòng ta! Thiên Căn gặn hỏi nữa. Người-không-tên đáp: - Anh rán tập cho lòng anh điềm đạm, thần khí anh điềm tĩnh, cứ thuận theo tính tự nhiên của vật, đừng có một chút tư ý, như vậy thiên hạ sẽ thái bình”. Người-không-tên đó chính là Trang. Ông muốn tiêu dao, không chịu cảnh bó buộc, luồn cúi ở triều đình, nhưng ông cũng chỉ cách trị thiên hạ cho các vua chúa đương thời vì ông cho rằng chủ trương hữu vi của họ hỏng bét. “Điềm tĩnh, cứ thuận theo tính tự nhiên của vật, đừng có tư ý”, hàng chữ đó tóm tắt được hết tư tưởng chính trị của ông. Tư tưởng đó, ông chịu ảnh hưởng của Lão và của Liệt. Lão là người đầu tiên đưa ra chính sách vô vi. Trong Đạo Đức kinh chúng ta thấy hai chữ “vô vi” được lặp đi lặp lại trên chục lần: Theo thái độ vô vi thì không việc gì là không tốt đẹp (Vô vi tắc vô bất trị – chương 3). Thánh nhân theo thói vô vi mà xử sự (Thánh nhân xử vô vi chi sự – chương 2). Đạo thường vô vi mà không gì là không làm (Đạo thường vô vi nhi vô bất vi – chương 37). Dân sở dĩ khó trị là vì người cầm quyền theo thái độ hữu vi (Dân chi nan trị, dĩ kì thượng chi hữu vi – chương 75). Ta vô vi mà dân tự cải hoá (Ngã vô vi nhi dân tự hoá – chương 57). vân vân… Còn Liệt tử thì dùng một ngụ ngôn: Hoàng Đế trị dân mười năm, được dân chúng tôn thờ; trị dân thêm https://thuviensach.vn mười năm nữa thì nước lại muốn loạn, chính ông cũng hoá mê loạn. Ông bèn bỏ việc nước, bỏ hết cơ mưu, trai tâm ba tháng, một hôm nằm mộng thấy lại chơi nước Hoa Tư Thị, “nước đó không có vua, tự nhiên mà trị, dân không có thị dục, tự nhiên mà sống”; tỉnh dậy ông giác ngộ, theo đạo vô vi, giữ ngôi thêm hai mươi tám năm nữa, thiên hạ thật bình trị. Quan niệm vô vi của Trang tử cũng không có gì khác. Nhà cầm quyền phải sửa mình cho ngay để cảm hoá dân, thuận theo tính của dân, chứ không dùng pháp độ. “Con chim biết bay cao để tránh cái lưới và mũi tên; con chuột đồng biết đào hang sâu ở dưới cái gò thờ thần để tránh cái hoạ bị hun khói, bị đào hang. Lẽ nào người không khôn bằng hai con vật ấy?” (VII.2). Nghĩa là dân do thiên tính – ngày nay ta gọi là bản năng – biết tránh cái hại, tìm cái lợi cho mình, không cần giáo hoá họ – không giáo hoá, chỉ cảm hoá họ thôi, – đó cũng là một cách giáo hoá, giáo hoá mà không dùng lời: “bất ngôn chi giáo”. Nếu lại dùng pháp độ, bắt họ vào khuôn vào phép theo ý riêng, thành kiến của mình thì tất thất bại, như “đào kinh trong biển, bắt muỗi đội núi” thôi. Chẳng những không có kết quả mà còn có hại cho dân nữa, như vua Nam Hải vả vua Bắc Hải đục thêm lỗ cho vua Trung Ương mà hoá ra giết vua Trung Ương (bài VII.7). Giúp cho thiên nhiên (trợ thiên) tức là làm hại thiên nhiên (hại thiên). Ý này được diễn lại trong bài 2 chương VIII (ngoại thiên): “chân vịt tuy ngắn, nối cho dài ra thì vịt sẽ đau; chân hạc tuy dài, cắt ngắn lại thì hạc sẽ khổ”. Trời sinh ra sao thì cứ để như vậy là thuận thiên. Vậy phải để cho dân hoàn toàn tự do, có tự do sống theo bản năng của họ: đói thì kiếm ăn, no rồi thì vỗ bụng đi chơi…, như vậy dân mới thảnh thơi tự tại, mới tiêu dao, mới thoả mãn hưởng hết tuổi trời. Muốn được tự do, phải có bình đẳng. Trong vũ trụ không có vật nào quí, vật nào tiện thì trong xã hội cũng không có người sang kẻ hèn, không có quân tử, tiểu nhân như Khổng giáo phân biệt: quân tử thì trị dân, tiểu nhân thì bị trị. Tôi không hiểu Trang có chủ trương “quân thần tịnh canh” (vua tôi đều cày cấy) như Hứa Hành, một triết gia đồng thời với ông bị Mạnh tử mạt sát kịch liệt trong “Đằng Văn công, thượng” không. Đối với các dân tộc khác, cũng phải coi họ bình đẳng với mình và để họ tự do, không được viện một lẽ gì mà xâm lăng họ. Trang tử diễn ý đó bằng một “trọng ngôn” – bài II.9: “Xưa vua Nghiêu hỏi ông Thuấn: - Tôi muốn đánh các nước Tông, Khoái và Tư Ngao, nhưng mỗi khi lâm triều, tôi thấy lòng không yên. Tại sao vậy? Ông Thuấn đáp: - Vua ba nước đó ở chỗ hoang vu đầy lau sậy. Lòng nhà vua không yên là vì đâu ư? Xưa mười mặt trời cùng xuất hiện, chiếu sáng vạn vật. Đạo đức há chẳng chiếu sáng hơn mặt trời ư?” Theo tôi câu cuối đó, nguyên văn là: “nhi huống đức chi tiến hồ nhật giả hồ”, có vẻ lạc lỏng, không liên lạc gì với câu trên: Muốn để câu cuối đó thì câu trên cần viết: “Mặt trời chiếu sáng vạn vật” là đủ rồi, thêm “mười” và “cùng xuất hiện” để làm chi? Tôi đoán ông Thuấn – tức Trang – chỉ muốn nói: Cứ để yên ba ông vua đó, xưa mười mặt trời cùng chiếu sáng vạn vật thì nay tại sao lại không thể có bốn ông vua (ba ông vua đó và vua Nghiêu) cùng cai trị thiên hạ. Không dùng pháp độ thì tất không dùng lễ tín (nó là thứ keo câu thúc người ta khiến người ta mất hết tự do), không dùng đức huệ (nó là thứ để “tiếp dẫn”, để thu phục người khác), không dùng nhân nghĩa. Lão tử cho rằng Đại Đạo bị bỏ, rồi mới có nhân nghĩa (chương 18) nên ông chủ trương “tuyệt nhân khí nghĩa” (chương 19) để trở về Đạo. Trang không bàn nhiều về điểm đó, chỉ hé cho ta thấy một chút thôi. Bài VII.1 ông bảo: “Vua Hữu Ngu còn dùng lòng nhân để kết nhân tâm… chứ chưa thoát ra khỏi sự vật” và trong bài VI.6, ông cho Ý Nhi tử lại thăm Hứa Do. Hứa Do hỏi: “- Vua Nghiêu dạy anh điều gì? Ý Nhi tử đáp: - Vua Nghiêu khuyên tôi trau giồi nhân nghĩa, biện biệt thị phi. Hứa Do bảo: - Vậy thì anh tới đây làm gì nữa? Vua Nghiêu đã đem nhân nghĩa xâm vào mặt anh, dùng thị phi cắt mũi anh, thì làm sao anh còn đạt được cảnh giới tiêu dao, thuận ứng mọi sự biến hoá được nữa?” Trang chỉ có hai lần đó là chê nhân nghĩa và trách nhẹ vua Thuấn và vua Nghiêu, các chỗ khác ông rất ôn hoà với các ông thánh của đạo Nho; trọng Khổng tử – nếu không thì ít nhất cũng coi Khổng là một nhân vật quan trọng được thiên hạ tin, nên đem tư tưởng của mình đặt vào miệng Khổng tử để lời của https://thuviensach.vn mình thêm giá trị (như các bài V.1, VI.1[54]…; có chỗ Trang còn đề cao Nghiêu, Thuấn nữa: “Những người thụ mệnh ở trời chỉ duy có Nghiêu, Thuấn là giữ được chính khí, nên đứng đầu mọi vật” (V.1). Liệt tử cũng có thái độ như Trang, còn Lão tử thì không phục Nghiêu, Thuấn, nhưng cũng không hề gọi đích danh hai ông ấy ra chỉ trích. Ông ấy chỉ bảo phải “tuyệt thánh” thôi. Chữ “thánh” đó phải hiểu là thánh của đạo Nho (còn thánh của đạo Lão thì Lão, Liệt, Trang đều trọng, dĩ nhiên). Tới đời sau, trong Ngoại và Tạp thiên chúng ta mới nghe thấy những lời mạt sát kịch liệt Nghiêu, Thuấn… cho họ là giúp kẻ cướp, có tội với xã hội (coi các chương Mã đề, Khư khiếp). Sau cùng vô vi còn có nghĩa là “khí trí”: “Thánh nhân không mưu tính cái gì, đâu cần tới trí tuệ?” (V.5). Trí xảo càng đáng ghét hơn nữa: Nó giết chết thiên tính (VII.7); ngay như công nghệ cũng đáng khinh như thương mại, không chế tạo cái gì thì đâu cần đến thương mại? (V.5). Trang không nói ra, nhưng ta phải hiểu ngầm rằng trong xã hội lí tưởng của Trang chỉ có nông nghiệp là cần thiết: Dân phải ăn cho no rồi mới vỗ bụng đi chơi được; còn về mặc thì chẳng phải nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa cho mất công (cái đó thuộc về công nghệ rồi), có thể dùng vỏ cây như loài người nguyên thuỷ; và chỗ ở thì đã có hang đá và cành lá trong rừng. Xã hội lí tưởng đó chắc không khác xã hội Lão tử tả trong chương 80 là bao nhiêu.[55] Theo Trang, vô vi là một chính sách cực tốt, “gồm được các kế hoạch”; “làm cho công việc hoá giản dị”, “hướng dẫn trí tuệ” (VII.6), mà kết quả “thần diệu”. Bài VII.4, ông khen công của bậc minh vương “vô vi nhi trị”: “Minh vương vị thiên hạ thì công trùm thiên hạ mà cơ hồ không phải là công của mình (ý nghĩa như câu: Vô vi nhi vô bất vi); vạn vật đều được cảm hoá mà không thấy là nhờ đức của mình; công đức ấy có đấy mà không ai chỉ ra được, vạn vật đều thoả mãn. Hành động của thánh nhân thần diệu không ai đoán được; họ đồng hoá với sự hư vô”. Cho nên mới bảo rằng: “Bậc chí nhân thì quên mình, bậc thần nhân thì không lập công, bậc thánh nhân thì không lưu danh” (I.1). Câu này đại ý cũng như câu: “Vi nhi bất thị, công thành nhi phất cư” (làm mà không trông, thành công mà không cho là công của mình), của Lão tử (chương 2). Quên mình là “cứ điềm tĩnh, cứ thuận tính tự nhiên của vật đừng có một chút tư ý” (VII.3), nhất là đừng phân biệt mình và người. Không lập công vì họ không có chủ ý lập công, cứ thuận thiên nhiên, tuy hành động mà không phải là hành động, tuy vô bất vi mà chỉ là vô vi, cho nên làm cho vạn vật thoả mãn mà không cho là công của họ. Họ không lưu danh vì không ai thấy cái công của họ, nên không biết họ, đời sau không nhắc tới họ. Họ đồng hoá với Đạo rồi. Đó, thánh nhân của Lão, Trang như vậy, khác xa thánh nhân của Khổng, Mạnh. https://thuviensach.vn NHÂN SINH QUAN Lí tưởng của Trang tử Một số học giả như Phùng Hữu Lan cho Trang tử chịu ảnh hưởng của Dương tử. Điều đó có lí. Trong tất cả các triết gia Tiên tần, tôi chỉ thấy Dương và Trang là đặt vấn đề hạnh phúc của con người. Trong bài “Nên hưởng đời” (VII.2) – mà tôi đã trích dịch trong cuốn Liệt tử và Dương tử, trang 265-67 – Dương bảo đời người ngắn ngủi, trừ những lúc bé nhỏ, già nua, ốm đau, buồn khổ…, chỉ còn khoảng mười năm có thể “sống ung dung vui vẻ” được nếu không phải lo lắng việc này việc khác. Đã vậy mà xã hội lại còn “dùng cách thưởng phạt khuyên ngăn, dùng danh vọng và pháp luật để cấm đoán” thành thử con người không được “thoả thuê phóng túng” hưởng lạc một lúc nào cả. “Người thời thái cổ biết rằng đời sống chỉ là tạm, chẳng bao lâu rồi chết, cho nên hành động theo lòng mình, không trái những thị hiếu tự nhiên (…) theo bản tính của họ, không làm trái với xu hướng của vạn vật (…). Danh tiếng hơn hay kém, tuổi thọ nhiều hay ít họ không quan tâm tới”. Những chữ tôi cho in ngã là những ý chúng ta thấy lại trong học thuyết của Trang, Sống ung dung vui vẻ, thoả thuê, không để cho xã hội bó buộc mình, theo bản tính của mình và thuận theo tính của vạn vật, cứ sống hết tuổi trời, không quan tâm tới sinh tử, đó là quan niệm “tiêu dao”, thảnh thơi tự tại của Trang và Trang không phải là vô cớ đã đặt ngay lên đầu tác phẩm của mình. Muốn tiêu dao thì phải: - Thuận thiên: Trời cho mình làm con chim bằng tung cánh bay được hàng vạn dặm, thì mình cứ đập nước cho tung toé mà lên cao tới trời xanh; nhưng nếu trời cho mình là con chim cút chỉ lên cao được vài nhẫn thì cứ bay liệng trong đám cỏ bồng cỏ cảo, cũng sướng như con chim bằng vậy, ước ao được như nó làm chi?[56] Trời cho mình thọ trăm năm thì cứ hưởng trọn trăm năm, đừng than thở làm sao không được như ông Bành Tổ sống bảy trăm năm, vì có tinh thần không “tự tại” thì dẫu có thọ được như ông Bành Tổ, cũng vẫn chưa thoả mãn, sẽ ganh tị với con rùa thần sống mấy ngàn năm hoặc cây xuân sống mấy vạn năm. Trời cho mình có tài mà gặp thời, được giàu sang tột bậc thì cứ hưởng cảnh giàu sang; có tài mà không gặp thời thì bện dép sống trong căn nhà lá cũng có cái vui riêng của cuộc đời bình dị, tự do. Thuận thiên còn có nghĩa là tiếp vật theo bản tính của mọi vật, theo luật thiên nhiên. Như tên bếp của vua Văn Huệ mổ bò “biết cơ cấu thiên nhiên của con bò, chỉ lách lưỡi dao vào những chỗ kẽ trong thân thể nó, không đụng tới kinh lạc, gân, bắp thịt của nó, (…) chầm chậm đưa lưỡi dao thật nhẹ tay, (như vậy) khớp xương rời ra dễ dàng như bùn rơi xuống đất”. (III.2). Chủ trương thuận thiên là chủ trương của Khổng Mạnh, Lão Trang, có thể nói là xu hướng của dân tộc Trung Hoa nữa, trái hẳn với chủ trương “chế thiên” của Ki tô giáo và các dân tộc phương Tây, vì trong triết học Trung Hoa cho tới đời Thanh chỉ có một mình Tuân tử là muốn “chế thiên” nhưng học thuyết của ông chỉ thịnh từ cuối Chiến Quốc tới Tần Hán, rồi sau không được nhắc tới. Thuận thiên thì đời người ung dung thư thái, xã hội ổn định nhưng kinh tế, kĩ nghệ không phát đạt; chế thiên thì con người hoá có tinh thần chiến đấu, nhưng ham lợi, xã hội không ổn định, nhưng kinh tế, khoa học, kĩ nghệ phát đạt. Trong hai ba thế kỉ nay phương Tây nhờ chế thiên mà làm chủ thế giới, bây giờ đã lên được cung trăng, nhưng khi họ lên được cung trăng là lúc họ thấy hậu quả tai hại của sự chế thiên (do sự phát triển hỗn độn của kĩ nghệ mà thế giới đông dân quá, đất đai không đủ nuôi, không khí, nước sông, nước biển, mặt đất bị nhiễm độc tới mức – theo một số nhà khoa học – hai chục năm nữa loài người không sống được nữa[57]) và họ hô hào trở lại triết lí phương Đông, đặc biệt là của Lão Trang: Tiết dục để bớt hưởng thụ (do đó sản xuất ít đi) bớt sinh con đẻ cái đi, phải tuân theo luật thiên nhiên trong mọi công việc khoa học và kĩ nghệ[58]. - Bất đãi: không chờ đợi, tức không tuỳ thuộc một cái gì. Phải như Vinh tử nước Tống, coi thuờng danh lợi, vinh nhục: Dù được cả nước khen, ông cũng không mừng, bị cả nước chê ông cũng không buồn, vì ông không để cho ngoại vật làm chủ mình; nhưng như vậy chưa đủ vì ông chưa biết thích nghi với vật. Thích nghi với vật như Liệt tử: Cưỡi gió mà bay, thật nhẹ nhàng khoan khoái, cũng vẫn chưa đủ, vì Liệt vẫn còn phải tuỳ thuộc gió. Chỉ khi nào “làm chủ được” (ta nên hiểu là đạt được) cái chính đạo của trời đất, chế ngự được lục khí (ta nên hiểu là hoà đồng với lục khí, chứ không phải chế ngự như phương Tây: chế ngự thiên nhiên) thì con người mới thật “tiêu dao”. https://thuviensach.vn Đây là điểm huyền bí trong triết học của Trang. Ông cho rằng người nào đạt được mức đó thì “không có vật gì làm hại được nữa: Nước có dâng lên tới trời, họ cũng không bị chết đuối; trời có đại hạn tới nỗi kim thạch chảy ra, cháy cả rừng núi, đồng ruộng, họ cũng không thấy nóng” (I.3). “Bậc chí nhân (đạt Đạo) là thần rồi. Đồng cỏ có cháy cũng không làm cho họ thấy nóng, sông rạch đóng băng cũng không làm họ thấy lạnh, sét đánh đổ núi, gió làm dậy sóng cũng không khiến cho họ lo sợ. Họ chế ngự gió mây, cưỡi mặt trời mặt trăng mà đi chơi ngoài bốn bể…” (II.10). Tư tưởng hoà đồng với vạn vật có từ thời Dương tử (coi Liệt tử VII.5 – trang 280 bộ Liệt tử và Dương tử của nhà Lá Bối); nhưng tư tưởng hoà đồng để rồi hoá đồng với vạn vật thì tôi chỉ thấy ở Liệt tử và Trang tử. Liệt tử có bốn bài ngụ ngôn diễn ý hoà đồng với vạn vật thì vạn vật không hại mình được, cả khi vô lửa, vô nước, mà còn giúp mình bay được nữa, và mình sẽ trường sinh bất tử (Liệt tử – trang 44). Chúng ta không biết chắc được Trang có tin những phép thần thông đó không, nhưng lập luận của ông không có chỗ nào bẻ được: Đã hoà đồng và hoá đồng với vạn vật, với lửa và nước; thì đồng thể với lửa và nước, lửa và nước hại làm sao được nữa; đồng thể với gió thì tất bay được như gió; sau cùng hoá đồng với Đạo thì tất cũng trường sinh bất tử với Đạo. Ngoại thiên đưa ra hai lối giảng nữa. Bài Đạt sinh 2, Quan Doãn bảo: “Sinh vật khác nhau ở đâu?[59] Chỉ là nhờ không có hình sắc mà thôi. Nhưng vật nào không có hình sắc thì đạt được cảnh giới không biến hoá. Đạt được cùng cực của cảnh giới ấy thì không còn bị các vật khác khống chế nữa. Như vậy là đạt được cái trung độ, cái cương kỉ vô thuỷ vô chung mà tiêu dao ở cảnh giới sơ thuỷ của vạn vật, hợp nhất với bản tính, hàm dưỡng nguyên khí, trở về với cái Đức nguyên thuỷ mà cảm thông với tự nhiên. Một người như vậy bảo toàn được thiên tính, tinh thần không suy tổn, ngoại vật làm sao xâm nhập mà làm hại được?” Ý đó hơi giống ý của Trang. Tác giả bài Thu Thuỷ 1 không rõ có chịu ảnh hưởng của Khổng giáo không, cho rằng hạng chí đức vô lửa mà không nóng, xuống nước mà không chìm, cầm thú không làm hại được, chỉ vì họ xét rõ an và nguy, bình tĩnh trước hoạ và phúc, thận trọng tiến lui, thế thôi. Ta cũng không biết Trang có tu luyện để đạt cảnh giới đó không, ta chỉ thấy bài IV.1, có nói đến sự tâm trai (tập trung tinh thần, không nghe bằng tai mà nghe bằng tâm, không nghe bằng tâm mà nghe bằng khí), nhưng bài này nhiều người ngờ rằng không phải của Trang; rồi trong bài VI.7, có nói cách tu của Nhan Hồi (dĩ nhiên là tưởng tượng) đạt được tới mức “toạ vong” (ngồi mà quên hết thảy: quên nhân nghĩa, quên lễ nhạc, sau cùng cởi bỏ thân thể, trừ tuyệt thông minh, hợp nhất với đại Đạo); cả hai bài đó đều chẳng giúp ta hiểu được gì. Duy có bài VI.2 là tả sơ sơ các giai đoạn tu luyện. Nhữ Vũ bảo Nam Bá Tử Quì: “Đây là kinh nghiệm của tôi. Sau ba ngày, tôi coi thiên hạ như hư không. Đã coi thiên hạ như hư không rồi, tôi lại tập bảy ngày nữa, lúc đó coi vạn vật như hư không. Tiếp tục chín ngày nữa thì tôi coi sinh tử là hư không. Rồi tôi bỗng nhiên giác ngộ như thấy cảnh bình minh. Có cảm giác đó rồi mới thấy vạn vật chỉ là một. (Tới đây ta có thể hiểu được, nhưng rồi:) Thấy vạn vật chỉ là một rồi, sau mới vượt được cổ kim; vượt cổ kim rồi sau đó mới vô được cõi không có sống có chết”. Cách tu luyện đó có vẻ có hiệu quả hơn cách trong Liệt tử nhiều. Bài II.3, Liệt tử cho hay rằng, Liệt tử hồi học Lão Thương sau ba năm đầu lòng không dám cân nhắc phải trái, miệng không dám nói đến lợi hại, lúc đó mới được thầy liếc mắt nhìn; lại hai năm nữa, lòng lại cân nhắc phải trái, miệng lại nói đến lợi hại, lúc đó mới được thầy ban cho một nụ cười; lại hai năm nữa là bảy năm, không thấy gì là phải trái, lợi hại nữa, lúc đó mới được phép cùng ngồi một chiếu với thầy, lại hai năm nữa là chín năm mới “giải thoát được ý nghĩ trong lòng với lời nói ngoài miệng, đã không phân biệt được cái phải trái lợi hại của ta ở đâu, mà cũng không phân biệt được cái phải trái lợi hại của người ở đâu, cũng không phân biệt được thầy ta là thầy, bạn ta là bạn nữa, nghĩa là hết phân biệt nội và ngoại” (mình và vật). Dĩ nhiên, ta không nên so sánh số ngày số năm trong hai bài, toàn là những số tượng trưng; nhưng ta cũng thấy rằng Liệt chưa đắc Đạo như Nhữ Vũ: Liệt mới hết phân biệt nội, ngoại; Nhữ Vũ đã vượt được cổ kim mà vô được cõi không có sống chết, tức hợp nhất với Đạo. Được như Nhữ Vũ thì gọi là thần nhân (bài I.3) hay chí nhân (bài II.10) hay thánh nhân (bài VI.2). Còn chân nhân thì bài VI.1 đã tả kỉ lưỡng như sau: “Chân nhân thời cổ không ham sống, không sợ chết, sinh ra không thấy làm vui, chết đi không thấy làm buồn, hốt nhiên tới rồi hốt nhiên đi (…) cũng không cầu được chết, vui vẻ tiếp nhận cái gì tới, rồi khi mất cái đó thì cho là nó trở về với tự nhiên. Như vậy là không đem cái tâm của mình làm tổn thương Đạo, không dùng sức người giúp sức trời (…) vui hay giận đều vô tâm, tự nhiên như bốn mùa https://thuviensach.vn chuyển vần, thích nghi với vạn vật mà không ai biết được dấu vết”. “Chân nhân thời cổ có vẻ uy nghi mà không kiêu căng, khiêm tốn mà độc lập; nhân cách khác người mà không cố chấp; chí khí hơn người mà lòng thì hư tĩnh, không thích khoe khoang; lâng lâng như cực kì vui vẻ, bất đắc dĩ mới xử sự; nét mặt hoà nhã nên ai cũng muốn được thân cận; khoan dung đại độ nên ai cũng muốn qui phục; tự do nên không ai áp chế được; trầm mặc như ở sau một cánh cửa đóng; vô tâm với thế sự như người quên mất ngôn ngữ. Một người như vậy coi hình pháp là thân thể, lễ nghi là cặp cánh, trí tuệ là thủ đoạn để ứng phó, đạo đức là thuận thiên tính. Coi hình pháp là thân thể mình, nên khoan hồng khi trừng trị; coi lễ nghi là cặp cánh của mình, nên làm việc theo thế tục mà thành công; dùng trí tuệ để ứng phó, nên chỉ hành động khi bất đắc dĩ; coi đạo đức là thuận thiên tính nên dễ dàng đạt được mục đích (…) không khó nhọc mà được mọi người coi là rất hoạt động”. Hạng chân nhân đó không khác hạng quân tử hay thánh nhân của Khổng giáo là bao, không có gì là thần thông như hạng thần nhân, thánh nhân vào nước không chìm, vào lửa không cháy, biết bay và bất tử; mà cũng thấp hơn hạng chí đức (đức rất cao) trong chương V: Đức sung phù nữa. Hạng chí đức, tâm như tấm gương sáng, bụi không đóng vào được (V.2), như làn nước phẳng lặng, có thể làm tiêu chuẩn được (V.5), trút bỏ được hết thế tình, không dùng đến trí tuệ, lễ tin, ân huệ, cũng không chế tạo, sản xuất một cái gì (V.5), tuy có hình thể con người mà không có tình cảm con người, tuy nhỏ xíu vì vẫn thuộc về loài người nhưng lại vĩ đại như trời vì đồng thể với trời (V.5). Xét những đoạn tôi vừa dẫn ở trên thì ta có thể sắp: cao nhất là thần nhân hay chí nhân, rồi tới chí đức, sau cùng tới chân nhân. Nhưng tôi ngờ rằng Trang tử không phân biệt như vậy, ông dùng nhiều danh từ quá nên khó mà chính xác. https://thuviensach.vn Dưỡng sinh Ngoài cách tu dưỡng để đạt Đạo mà hợp nhất với Đạo, Trang còn chỉ ta cách dưỡng sinh để vui hưởng hết tuổi trời; đây là một phần độc đáo trong học thuyết của ông, ai cũng có thể áp dụng được. Chương Dưỡng sinh chủ tuy ngắn mà giá trị cũng gần hai chương Tiêu dao du và Tề vật luận. Chương đó được chương Đạt sinh (XIX) ở phần Ngoại thiên bổ túc, nhưng vì tôi đã cho Ngoại thiên không phải do Trang viết, nên dưới đây chỉ xin dẫn những lời trong Dưỡng sinh chủ thôi. Chương mở đầu bằng bốn chữ “Đời người có hạn”, làm ta nhớ đến mấy chữ: “Thọ nhiều lắm là trăm tuổi” của Dương tử trong bài Liệt tử VII.2. Trang tử cũng quí sinh như Dương tử; vì quí sinh nên phải dưỡng sinh. - Qui tắc đầu tiên của dưỡng sinh là thuận thiên. Một phần lớn triết học của Trang dựng trên hai chữ thuận thiên đó. Ở trên tôi đã dẫn bài III.2 kể cách mổ bò của người bếp vua Văn Huệ. Người đó hiểu cơ cấu thiên nhiên của con bò, tránh những gân, xương, chỉ lách lưỡi dao vào những kẽ, nhờ vậy mà không tốn sức, không mòn dao. Cách đó là cách tiếp vật mà cũng là cách dưỡng sinh, vì cơ thể của ta cũng là “vật”. Ta phải hiểu cơ cấu của nó, hiểu các bộ phận cần những gì, hoạt động ra sao để điều khiển nó cho hợp với tự nhiên, chứ không mù quáng chống đối nó. Chẳng hạn bị nóng, hoặc khi đi tả nhiều lần, khát nước thì cứ uống; khi không thèm ăn thì cứ nhịn ăn, khi làm việc mệt mỏi thì phải tịnh dưỡng, đừng cố sức làm tới kiệt quệ. Khi đau ốm thì tốt nhất là nghỉ ngơi, ăn ít, để cơ thể tự chống với bệnh, thuốc chỉ giúp cơ thể thôi, không nên dùng nhiều. Bài học đó của Trang thời nào cũng nên nhắc lại, nhất là thời nay người ta bắt thể xác và tinh thần làm việc nhiều quá, dùng thuốc cũng nhiều quá. Thuận thiên cũng có nghĩa là sống gần thiên nhiên, ăn những thức ăn thiên nhiên, đừng làm trái thiên nhiên: chúng ta ngày nay sống chen chúc trong các thành phố thiếu không khí và nước trong sạch, ăn những thực phẩm bón bằng phân hoá học, phun bằng những thuốc sát trùng, cũng trái với thiên nhiên nữa. Âu, Mĩ, hiện đã thấy cái hại của văn minh cơ giới làm cho không khí, nước, đất đều nhiễm độc và một mặt lập những cơ quan nghiên cứu cách giảm những cái độc đó đi, một mặt khuyến khích mọi người sống gần thiên nhiên, ăn những thực phẩm thiên nhiên. Thuận thiên còn có nghĩa thứ ba nữa là an thời xử thuận để cho rầu, lo, nghĩ, giận ghét không xâm nhập tâm hồn, làm thương tổn tính tình, như vậy mới thảnh thơi tiêu dao được. Lo nghĩ làm gì khi ta không biết được hoạ ở đâu, phúc ở đâu, có khi phúc đó mà là hoạ, hoạ đó mà là phúc, như nàng Lệ Cơ trong bài II.11, hoặc truyện Tái Ông thất mã trong Hoài Nam tử. Vả lại: “tử sinh, đắc thất, cùng đạt, giàu nghèo, hiền ngu, chê khen, đói khát, nóng lạnh, đó là những biến hoá của sự vật, sự chuyển vận của luật trời như ngày rồi đến đêm, không ai biết gốc ở đâu. Ai đạt được lẽ ấy, thì tâm thần không bị hỗn loạn, ngày đêm giữ được cái khí thuần hoà, ung dung, vui vẻ như khí xuân mà thích ứng với mọi sự biến hoá”. (V.5). Những việc xảy ra mà ta không biết nguyên do ở đâu thì bảo đó là số mạng. Trang tử rất tin ở số mạng: nghèo là do số mạng (bài VI.8, Tử Tang than: Tôi tới nỗi cực khổ như vầy là do số mạng chăng?), mà làm điều bậy, bị xử tội chặt mất một chân, như viên hữu sư trong bài III.3, cũng là do số mạng nữa: số mạng đã xui khiến cho viên hữu sư đó làm bậy; vậy con người không có chút gì là ý chí tự do cả, không chịu một trách nhiệm, (cũng như chẳng có một chút công gì) với xã hội cả. Thuyết đó cũng hơi quá, nhưng vẫn hợp với cách lập luận của Trang: ông cho rằng Đạo sinh ra vạn vật, cho vạn vật biến hoá hoài, để cuối cùng lại qui căn, hợp nhất với Đạo. Vậy con người hoàn toàn bị Đạo chi phối, đâu có ý chí tự do được nữa; ông có tu dưỡng thành chân nhân hay thánh nhân, mà chúng ta có nghe lời khuyên dưỡng sinh của ông để hưởng hết tuổi trời, cũng là do sự biến hoá của Đạo cả. Về điểm đó học thuyết của Trang quả là tiêu cực. Ở đoạn trên tôi đã trình bày quan niệm tề sinh của Trang; chết cũng như sống chỉ là những sự biến hoá, như ngọn lửa từ thanh củi này truyền qua thanh củi khác, hoặc như ở căn nhà này đổi sang căn nhà khác, không phân biệt được đâu là sinh, đâu là tử, vì đối với giai đoạn trước là tử, mà đối với giai đoạn sau là sinh. Ở đây tôi chỉ sinh dẫn thêm bài III.5: Lão Đam chết, Tần Dật là bạn, lại điếu, chỉ khóc ba tiếng rồi ra, môn sinh của Lão chê như vậy là vô tình, Tần Dật bảo Lão sinh ra là ứng với thời, chết đi là thuận với lẽ trời. Hiểu lẽ đó thì không bị vui buồn làm cho động trong lòng nữa, là “được trời giải phóng cho”. - Qui tắc thứ nhì để là bỏ hết dục vọng, ngay cả lòng ham học hỏi hoặc làm điều thiện cũng vậy. Bài III.1, Trang tử viết: “Đời người có hạn mà tri thức thì vô cùng. Đem cái có hạn mà chạy theo cái vô cùng thì tinh thần https://thuviensach.vn phải mệt mỏi; đã mệt mỏi mà vẫn không ngừng thì sẽ chết mất. Làm điều thiện thì bị luỵ vì danh tiếng, làm điều ác thì chịu khổ vì hình phạt. Chỉ người nào giữ cái đạo trung là bảo toàn được thân, mệnh, mà phụng dưỡng được cha mẹ, sống được trọn tuổi trời”. Cái danh ông không còn muốn bị luỵ vì nó, huống hồ là cái lợi. Ông khen Hứa Do đã không chịu nhận ngôi do vua Nghiêu truyền cho, và ông cũng đã theo Hứa Do, không nhận chức tướng quốc do vua Sở giao phó. Không ham danh lợi để sống được an nhàn. Trong chương Đại tôn sư có hai chỗ chép câu này mà chẳng riêng môn đồ Lão, Trang, ngay môn đồ Khổng Mạnh thời sau cũng thuộc lòng: “Đại khốn[60]tải ngã dĩ hình, lao ngã dĩ sinh, dật ngã dĩ lao, tức ngã dĩ tử, cố thiện ngô sinh giả, nãi sở dĩ thiện ngô tử dã” (bài V.1 và V.3): Vũ trụ cho ta cái hình hài, cho ta sống để ta lao khổ, cho ta già để ta an nhàn, cho ta chết để ta nghỉ ngơi; vậy coi sống là cái phúc thì cũng phải coi chết là cái phúc”. Nếu chỉ chú ý tới bốn chữ “lao ngã dĩ sinh” thì có thể hiểu lầm rằng ông cho sống là cực khổ, mà muốn mau chết. Không, ông chủ trương “tề sinh tử”, “chung kì thiên niên” thì đâu lại muốn chết. Câu đó cũng diễn cái ý: sống chết ngang nhau; và gián tiếp cho ta thấy ông không muốn lao khổ mà muốn được an nhàn. An nhàn quí thật, nhưng tự do còn quí hơn: con trĩ ở trong chằm tuy phải khó nhọc kiếm thức ăn (cứ mười bước lại mổ, trăm bước lại uống) mà không chịu bị nhốt để người ta nuôi vì như vậy tuy được an nhàn nhưng mất tự do. Trong số các vấn đề Trang tử nêu ra, vấn đề dưỡng sinh được người sau khai triển kĩ hơn cả. Chương Đạt sinh ở Ngoại thiên bổ túc chương Dưỡng sinh chủ trong Nội thiên và giá trị hai chương ngang nhau. Dưới đây tôi tóm tắt những ý trong chương Đạt sinh. Bài 1 tác giả khuyên ta đừng quan tâm tới những cái không tuỳ thuộc ta, như vận mạng (có kẻ săn sóc thân thể rất kĩ mà vẫn chết yểu) và thế tục, để khỏi lao tổn thể xác và tinh thần. Bài 4 bảo phải khinh ngoại vật để tâm hồn khỏi mê loạn: “Đánh bạc mà ăn thua bằng viên ngói thì ai đánh cũng cao hết; nếu ăn thua bằng cái móc dây lưng thì con bạc đã ngại ngại rồi; nếu ăn thua bằng vàng thì con bạc sẽ mê loạn”. Tài cao thấp của con bạc trước sau vẫn vậy, chỉ vì trọng ngoại vật, sinh ra xúc động mà hoá vụng. Vậy ta phải thản nhiên, coi đắc thất như nhau. Bài 6 nhắc ta đừng ham phú quí, danh lợi. (Hai bài Sơn mộc 4 và 5, cũng xét cái hại của sự ham danh lợi; nổi danh nhất là bài Sơn Mộc 8, tác giả dùng một ngụ ngôn (con ve đương hưởng bóng mát mà không ngờ con bọ ngựa núp sau lá rình nó; con bọ ngựa rình con ve mà không ngờ con chim khách muốn mổ nó) để diễn ý vật nào cũng vì cái lợi, cái hình hài mà quên cái chân thân). Bài 2 đưa ra thí dụ người say rượu mà té xe thì không bị thương nặng tới chết, là vì giữ được cái khí thuần hoà, không lo sợ. “Kẻ nhờ rượu giữ cái thần mà còn như vậy, huống hồ là người tự nhiên vô tâm”. Nếu lại hoá hợp với tự nhiên thì không vật gì làm hại nổi, (ý này đúng là ý Trang) như người lội nước trong bài 9. Bài 8 cũng khuyên ta đừng lo sợ, lo sợ thì sinh bệnh, như Tề Hoàn Công thấy một hồn quỉ mà đau, và khi Cáo Ngao vô thăm bảo hễ thấy con quỉ đó thì sẽ thành bá vương, Hoàn Công mừng rỡ, hết bệnh liền. Bài 8, phải tập cho bình tĩnh, không xúc động như con gà đá. Bài 5 tóm tắt được phép dưỡng sinh: phải vừa tu dưỡng nội tâm, vừa săn sóc ngoại hình, đừng quá trọng cái này mà khinh cái kia, nghĩa là phải giữ mức trung. Muốn vậy thì nên điều độ trong việc ăn uống, chăn gối, và đừng làm quá sức (bài 11). https://thuviensach.vn Xử thế Phép xử thế của Trang rất đặc sắc và ảnh hưởng rất lớn đến thời sau, nhất là trong những thời loạn cho nên có người đã nhận thấy rằng trong các thời loạn như thời Lục Triều, thời Nam Tống mới có nhiều người nghiên cứu Trang. Mà các môn đệ của Trang thời Chiến Quốc – một thời cực loạn – cũng thích tư tưởng xử thế của Trang, nên phát huy thêm trong các chương Đạt sinh, Sơn mộc ở Ngoại thiên. Học thuyết của Trang rất có hệ thống và những qui tắc xử thế chỉ là qui kết vũ trụ luận của ông. Chúng ta còn nhớ bài II.3 ông bảo: “Vật nào cũng là vật khác mà cũng là chính nó. Phân biệt vật và mình thì không thấy được lẽ đó, hoà đồng với vật thì thấy được”. - Không phân biệt người và ta, tức là “hư kỉ” hay “vô kỉ”, đó là qui tắc đầu trong phép xử thế. Coi người nào cũng bình đẳng, và để cho mọi người được tự do, như vậy không xích mích với ai cả, không làm thiệt hại cho ai cả, và mọi người sẽ vui vẻ với mình, như người nước Vệ tên là Đà trong bài V.4. Ai cũng gọi hắn là thằng quỉ Đà vì hắn xấu như quỉ. Vậy mà: “Người đàn ông nào ở chung với hắn, hễ xa hắn là nhớ. Thiếu nữ nào đã trông thấy hắn rồi thì về thưa với cha mẹ thà làm vợ bé hắn còn hơn là vợ cả một người nào khác”. Vua Ai Công nước Lỗ nghe người ta đồn như vậy, triệu hắn tới xem, quả thực hắn xấu phát sợ. Hắn ở với vua, chưa đầy một tháng vua đã để ý đến hắn, chưa đầy một năm thì tin hắn, sau giao cho hắn chức tướng quốc. Bí quyết của hắn là không xướng xuất điều gì, chỉ phụ hoạ thôi, nghĩa là chỉ khen người chứ không chê ai, nên hắn được lòng người. Hắn đã bỏ được tật chủ quan, không nghĩ tới mình nữa, không phân biệt người và mình, không phân biệt thị phi, cho nên không tranh luận với ai cả, không chống đối với ai cả, giữ được cái chốt của Đạo (Đạo xu) và có thái độ “lưỡng hành” (coi Tác động của Đạo ở trên). Bài Sơn mộc 2 diễn thêm cái ý hư kỉ và đưa ra một thí dụ hay: Một chiếc đò đương qua sông bị một chiếc thuyền không người lái đụng phải, người lái đò bụng dạ hẹp hòi tới mấy cũng không giận. Trái lại nếu thuyền có người lái thì chủ đò đã chửi rủa ầm ĩ rồi. Người hư tâm mà xử sự thế, cũng như chiếc thuyền không người đó, không bị ai ghét, nên sống ở đời mà không bị hại. Bài Sơn mộc 9 còn chỉ một cách nữa khỏi bị thiên hạ ghét, là có đức tốt hay làm điều thiện thì đừng khoe khoang. Không khoe khoang tức là nhũn, mà hình thức cao của sự nhũn nhặn là hồn nhiên, vô tâm, không nhận thấy mình khác người, hơn người. - Qui tắc thứ nhì để xử thế cũng là thuận “thiên”, tức thiên tính của mỗi người, hoà hợp với người. Tôi không dẫn những thí dụ trong IV.1 và 2 (về cách can gián vua, và cách đi sứ) vì tôi ngờ những bài đó không phải của Trang; chỉ xin dẫn bài IV.3 về cách dạy người. Nhan Hạp được vời làm sư phó cho thái tử của Vệ Linh Công, một thanh niên tàn bạo, ngại nếu ngăn cản nó thì nguy cho tánh mạng mình, mà không ngăn cản nó thì không làm tròn nhiệm vụ sư phó, nên lại vấn kế Cừ Bá Ngọc. Cừ Bá Ngọc khuyên phải nhã nhặn, thân mật: “Học trò ông còn là một đứa con nít thì ông cũng làm ra vẻ con nít với nó; nó hành động không có phép tắc, ông cũng làm bộ không giữ phép tắc với nó; nó phóng đãng, ông cũng làm bộ phóng đãng với nó; như vậy ông lần lần sửa đổi được nó”. Nghĩa là phải theo thiên tính của nó mà uốn nắn mỗi ngày một chút, chứ nếu cương quyết, nóng nảy, xúc phạm nó thì sẽ như con bọ ngựa đưa càng lên mà mong cản được xe. Rồi Cừ Bá Ngọc kể cách nuôi cọp cho Nhan Hạp nghe: “Người ta không dám cho cọp ăn một con vật còn sống hoặc ăn trọn một con vật chết, sợ như vậy sẽ kích thích bản tính hung dữ hiếu sát của nó. Phải cho nó ăn đúng giờ, tuỳ theo nó vui vẻ hay hung dữ mà thuần phục nó. Hổ không cùng một loài với người, nhưng biết thuận theo tính tình nó thì nó cũng tỏ vẻ làm vui lòng người nuôi nó. Nó vồ người nuôi nó chỉ vì người này làm trái tính nó”. Ngoại thiên có ba bài diễn thêm ý thuận “nhân”: Bài Đạt sinh 13 khuyên ta đừng xem điều cao xa giảng cho hạng người tầm thường, như vậy không khác gì “dùng xe ngựa để chở một con chuột nhỏ; hoặc nổi trống mà tấu nhạc cho một con chim nghe, làm cho nó thêm hoảng”. Bài Chí lạc 5 kể truyện vua Lỗ bắt được một con chim biển, đặt tiệc mừng nó, làm lễ thái lao đãi nó, tấu nhạc cho nó nghe. Con chim dớn dát, âu sầu, không ăn uống gì cả, ba ngày sau chết. Đó là lấy cách phụng dưỡng người mà nuôi chim. Muốn nuôi chim thì phải theo nhu cầu cùng sở thích của chim, nghĩa là phải thuận theo chim. https://thuviensach.vn Bài Sơn mộc 3 chỉ cách làm sao cho dân vui vẻ làm theo ý nhà cầm quyền. Bắc Cung Xa được Vệ Linh Công giao cho việc thu thuế để đúc chuông, bèn sai dựng một đàn tế ở ngoài cửa thành rồi để mặc cho dân tụ họp lại, “ai ương ngạnh không đóng thuế cũng được, ai mềm mỏng đóng thuế cũng được, tuỳ theo sức mỗi người, nên dân không thấy khó chịu chút nào, và kết quả thật bất ngờ; ba tháng sau “trên đàn đã thấy treo cả chuông trên chuông dưới”. Trong Nội thiên có tới bốn năm ngụ ngôn diễn ý đó, đủ biết Trang tử cho qui tắc này quan trọng ra sao. Bài I.5 mà tôi đã dẫn ở trên, bảo cây “xư” to lớn mà không bị đốn vì gỗ nó vô dụng; mà con li tinh (một loại cầy) có tài rình mồi nên chết vì bẫy, vì lưới. Rồi liên tiếp bốn bài: 4, 5, 6, 7 trong Nhân gian thế, ông trở lại vấn đề đó nữa. Bài 4 ông dùng cây “lịch” cao như núi, tàn lá che được cả ngàn con bò, vòng thân nó có cả ngàn trượng”, có tới chục cành khoét làm thuyền được mà cũng không ai thèm đốn vì không dùng vào việc gì cả. Chính nhờ vô dụng nên nó mới được thọ như vậy. Còn cây tra, cây lê, cây quất, cây bưởi khi có trái chín là bị tàn phá, cành lớn bị bẻ gãy, cành nhỏ bị vặt trụi. Bài 5, bài 6 cũng lấy loài cây làm thí dụ. Bài 7 kể truyện một người hình thù kì quái: “cằm thòng xuống tới dưới bụng, vai nhô lên khỏi đỉnh đầu, xương sống đưa lên trời; ngũ tạng nằm lộn ngược lên phía trên, hai đùi đưa lên tới ngang sườn; khi có lệnh trưng binh, hắn khoanh tay mà đi thong dong trong đám đông, khi có lệnh bắt xâu, hắn được miễn vì tàn tật”. Điều đó, các bạn sắp tới tuổi quân dịch[61]thời này đã hiểu quá rõ rồi. Bài 9, ông kết luận: “Ai cũng biết chỗ dùng được của vật hữu dụng, mà không biết chỗ dùng được của cái vô dụng”. Chỗ dùng được đó là giúp cho ta được sống yên ổn như con người kì quái trong bài 7. Tuy nhiên, ở cuối bài 4, Trang cũng hé cho ta thấy rằng vô dụng chưa nhất định là được yên ổn, và cây “lịch” trong bài đó phải tạm gởi thân vào chỗ thần (vì mọc trên nền xã, nơi tế thổ thần) để khỏi bị chê là vô dụng, nếu không thì cũng bị đốn rồi. Rốt cuộc, hữu dụng đã không yên mà vô dụng cũng chưa chắc được yên, vậy phải ra sao? Trong Nội thiên, không thấy ông đáp câu đó. Trong Ngoại thiên, bài 1 chương Sơn mộc, chúng ta thấy cách giải: Bài đó kể chuyện Trang tử đi trong núi thấy một cây lớn gỗ không dùng vào được việc gì nên người thợ rừng không muốn đốn, nhờ vậy cây đó được “hưởng hết tuổi trời”. Ra khỏi núi, Trang tử ghé thăm một người bạn cũ. Ông ta mừng rỡ, sai giết ngỗng đãi và bảo người nhà giết con ngỗng không biết kêu, còn con biết kêu thì để nuôi. Môn đệ Trang tử hỏi thầy: cây trong núi nhờ vô dụng mà được sống, con ngỗng vì vô dụng mà bị giết. Thế thì nên ở vào cảnh nào. Trang tử đáp: “Thầy ở giữa hữu dụng và vô dụng, nhưng ở vào trung gian như vậy chỉ mới gần Đạo chứ chưa phải là Đạo, cho nên chưa tránh khỏi luỵ… Muốn khỏi luỵ thì chỉ nên tiêu dao ở cảnh giới Đạo Đức thôi”. Tiêu dao ở cảnh giới Đạo Đức là hoá hợp với Đạo, cùng biến hoá với thời, không cố chấp theo một thái độ nào, sai khiến vật mà không bị vật sai khiến (vật vật nhi bất vật ư vật). Sau cùng, chúng ta cũng nên biết dùng vật của Trang rất sáng suốt. Cây “xư” trong bài I.5, tuy gỗ không dùng được việc gì, nhưng nếu biết trồng nó ở trong một cánh đồng mênh mông thì nó cũng rất có ích cho những người nhàn rỗi thơ thẩn dạo chung quanh nó hoặc thảnh thơi ngủ dưới bóng mát của nó. Có lần Huệ tử phàn nàn với Trang rằng có một trái bầu rất lớn, chứa được tới năm chục đấu, để nguyên mà chứa nước thì nó không đủ cứng để chịu được, khiêng đi sẽ bể; xẻ nó thành nhiều phần thì lại nông quá, không chứa được bao nhiêu. Trang tử bảo sao không nghĩ cách dùng nó làm trái nổi để qua sông, hồ? Vậy thì, thực ra không có vật nào là hoàn toàn vô dụng cả. Đó cũng là một chứng cứ nữa rằng không vật nào quí, không vật nào tiện. https://thuviensach.vn KẾT - Trang tử chịu ảnh hưởng của Dương tử, Lão tử, Liệt tử nhưng có điểm khác với ba nhà đó. Nhân sinh quan của Trang giống của Dương, nhưng Dương vị ngã, Trang vô ngã, coi mình và vạn vật là một. Về vũ trụ luận, tri thức luận và chính trị luận, Trang mượn tư tưởng của Lão, nhưng khi tiếp xúc với người khác, Lão trọng đức khiêm nhu, Trang chủ trương thuận thiên tính. Trang theo Liệt ở hai điểm tề vật và hoà đồng với vạn vật, nhưng Liệt quí “hư” mà Trang quí tự do. Cả bốn nhà đều là ẩn sĩ, nhưng Dương là một nhà hưởng thụ, Lão là một nhà tư tưởng lớn, Liệt có vẻ một nhà tu hành[62], Trang là một nghệ sĩ. Ba chương Tiêu dao du, Tề vật luận, Dưỡng sinh chủ là phần cống hiến quan trọng của Trang cả trong triết học sử lẫn văn học sử Trung Quốc. - Học thuyết của Trang có tiêu cực không? Có mà không. Khi ông chủ trương bỏ nhân nghĩa, lễ nghi, trí tuệ, nhất là ông tin số mạng tới mức phủ nhận ý chí tự do của con người thì ông quả là tiêu cực. Nhưng khi ông khuyên ta tu luyện để khỏi bị luỵ vì ngoại vật, khuyên ta tự chủ trong cách dưỡng sinh, xử thế, thì ông lại tích cực. - Có phản tiến hoá không? Chúng ta cho tiến hoá là từ xã hội du mục chuyển qua xã hội nông nghiệp, rồi xã hội kĩ nghệ, hậu kĩ nghệ, và chúng ta có lí: lái một chiếc xe hơi vượt một trăm cây số một giờ nhất định là tiến bộ hơn nằm trong cái cáng bắt hai người đồng loại của ta khiêng, mồ hôi nhễ nhại dưới ánh nắng để tiến được bốn cây số một giờ. Nhưng chúng ta cũng không thể bảo là Trang tử vô lí khi ông cho tiến bộ là sống đời bình dị, tự do, hợp với thiên nhiên, coi mọi người bình đẳng với mình, hơn nữa hoà đồng với họ, không đả kích, không đâm chém nhau, không ức hiếp lẫn nhau, bóc lột nhau. - Trang muốn cứu cái tệ của một xã hội loạn lạc, tàn bạo, bất quân nên có thái độ cực đoan. Thuyết thiên nhiên hoàn hảo rồi, con người cứ thuận thiên nhiên, đừng nên sửa đổi thiên nhiên, tất nhiên là không luôn luôn đúng; mà tư tưởng chính trị của ông (bỏ pháp luật, lễ nghi, bỏ trí xảo, công nghệ, thương mại) cũng không thực hiện được – chúng ta không thể ngược dòng lịch sử mà trở về xã hội nguyên thuỷ. Trang cũng như Lão, không muốn làm chính trị, một phần vì muốn được tự do, tiêu dao, một phần cũng vì ông nghĩ rằng tư tưởng của ông không thể nào áp dụng được dù có gặp một ông vua hoàn toàn tin ông nữa, như Đằng Văn Công tin Mạnh tử. - Sự cống hiến của Trang về nhân sinh quan đáng kể hơn cả; nhưng ngay cả phần này, tư tưởng của ông chỉ kì đặc, có khi thâm thuý chứ thực ra không phong phú, so với Tuân tử chẳng hạn thì kém xa. Vì Trang chủ trương vô vi và vô ngôn, nên có gì đâu mà nói nhiều. - Tuy nhiên địa vị của ông rất lớn trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc, ngang với Mạnh tử, hơn Tuân tử, hơn cả Mặc tử nữa. Nhờ ông một phần lớn mà tư tưởng của Lão tử mới được phổ biến mạnh: chỉ giới trí thức mới quí những cách ngôn trong Đạo Đức kinh, còn giới bình dân thì ai cũng biết ít nhiều những ngụ ngôn của Trang tử. Do đó tên ông gắn liền với tên của Lão tử và cả hai có công làm cho dân tộc Trung Hoa bớt thực tế, yêu thiên nhiên hơn, khoan dung, khoáng đạt hơn, yêu tự do và bình đẳng. Không một triết gia nào kể cả Lão tử đề cao tự do và bình đẳng một cách sâu sắc và nghệ thuật của Trang trong hai bài bất hủ Tiêu dao du và Tề vật luận; vì vậy mà nhiều nhà thích Trang hơn Lão và thơ văn cùng hội hoạ của Trung Hoa từ đời Lục triều trở đi, nhất là dưới đời Tống đều mang dấu vết của Trang ngang với Lão. Không có Lão, Trang, chỉ có Khổng, Mạnh thì dân tộc Trung Hoa không khác dân tộc La Mã thời thượng cổ bao nhiêu. Thực vậy, chúng ta không thấy làm lạ rằng, sau một thế kĩ phát triển hỗn độn về kĩ nghệ, ngày nay các dân tộc thừa hưởng văn minh Hi La, muốn tìm hiểu Lão, Trang: chẳng những bọn híp-pi thích đọc Đạo Đức kinh mà ngay một số nhà khoa học của họ như Victor C. Ferkiss trong cuốn Technological Man (Victor C. Ferkiss 1969), Lynton K. Caldwell trong cuốn In defense of Earth (India University Press 1972) cũng đề nghị trở về đời sống thiên nhiên như Lão Trang nữa. https://thuviensach.vn PHẦN II NỘI THIÊN Chúng tôi dịch ra sao 1. Thảnh thơi tự tại (Tiêu dao du) 1, 2, 3, 4, 5 Nhận định Mọi v ật ngang nhau (Tề v ật luận) 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15 Nhận định Phép dưỡng sinh (Dưỡng sinh chủ) 1, 2, 3, 4, 5, 6 Nhận định Thế gian (Nhân gian thế) 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 Nhận định Đức sung mãn v à tự nhiên (Đức sung phù) 1, 2, 3, 4, 5, 6 Nhận định Đạo là đại tôn sư của ta (Đại tôn sư) 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 Nhận định Lí tưởng của đế vương (Ứng đế vương) 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 Nhận định https://thuviensach.vn CHÚNG TÔI DỊCH RASAO Trước khi vào phần dịch, tôi xin có ít điều thưa trước: - Ngoại thiên và Tạp thiên có nhiều bài tư tưởng nông cạn, bút pháp tầm thường, nhưng tôi cũng dịch hết, vì nghĩ rằng Trang tử là một tác phẩm quan trọng, nên có bản dịch trọn bộ để độc giả thấy rõ nó ra sao rồi mới nhận định đúng về nó được; nếu chỉ căn cứ vào một số bài hay thì không sao tránh được lầm lẫn. Tuy nhiên, có hai đoạn trong bài XXIII.3 và 4, mỗi đoạn độ mười hàng, đọc kĩ năm bản tôi có trong tay (coi chương III) tôi vẫn không hiểu tác giả muốn nói gì, nên tôi dịch không nổi, phải bỏ. - Trước khi dịch, tôi chia mỗi chương thành nhiều bài (hoặc đoạn) cho dễ kiếm. Nhưng tôi không đặt tên cho mỗi bài như tôi đã làm trong bộ Liệt tử và Dương tử, vì số bài quá nhiều, trên dưới ba trăm, mà nhiều bài rất khó đặt tên cho gọn và diễn được hết ý. - Khi dịch, tôi không theo lời chú giải của riêng một bản nào. Nếu có nhiều cách chú giải khác nhau thì tôi sẽ lựa một và nếu cần, sẽ chép thêm nguyên văn phiên âm (chứ không có chữ Hán vì công việc ấn loát lúc này khó khăn và tốn kém)[63] với một hoặc hai cách giảng mà tôi đã bỏ, không theo. - Tôi lựa theo những qui tắc dưới đây: Cách hiểu nào tôi cho là hữu lí hơn cả. Ví dụ câu đầu bài XXVII.1. nguyên văn là: “Ngụ ngôn thập cửu, trọng ngôn thập thất, chi ngôn nhật xuất, hoà dĩ thiên nghê”. Liou Kia hway dịch là “ngụ ngôn chứa chín phần mười chân lí, còn chi ngôn thì xuất hiện mỗi ngày, theo luật tự nhiên”. Tôi không hiểu tại sao ngụ ngôn lại đúng hơn trọng ngôn (mà Liou Kia hway dịch là paroles de poids). Mà như vậy thì chi ngôn (paroles de circonstance) chứa bao nhiêu phần chân lí, sao không thấy nói. Theo phép làm văn, như vậy không ổn; đã so sánh thì phải so sánh cả ba. Tôi đã theo cách hiểu của Vương Phu Chi: “Ngụ ngôn chiếm chín phần mười, trọng ngôn chiếm bảy phần mười trong chín phần mười đó – một phần còn lại là chi ngôn…”, vì trong bộ Trang tử, tôi thấy ngụ ngôn (gồm cả trọng ngôn) chiếm đại đa số, có thể tới 8, 9 phần 10 thật. có khi tôi lựa một cách giảng ra sao để cho đoạn văn khỏi mất liên lạc với đoạn sau, như tôi đã trình bày trong chương III về đoạn “Dã mã dã, trần ai dã, sinh vật chi dĩ, tức tương xuy dã…” ở đầu chương Tiêu dao du (I.1). Một thí dụ nữa: bài XI.1, tôi đã theo ý tôi mà dịch câu “phi Đức dã nhi khả trường cửu dã giả, thiên hạ vô chi” là “Không giữ cái Đức mà sống lâu được, là điều không hề thấy” để chuyển xuống đoạn dưới. có khi có hai cách dịch đều chấp nhận được, tôi lựa cách nào mà tôi cho là có ý nghĩa sâu sắc hơn, như câu cuối bài XI.5, nguyên văn là: “Đổ hữu giả, tích chi quân tử, đổ vô giả, thiên địa chi hữu”. Hoàng Cẩm Hoành dịch là “Bậc quân tử thời xưa nhận rằng vật tồn tại; còn bạn của trời đất thì nhận rằng không có vật nào tồn tại”. Tôi tiếp theo ý ở câu trên câu đó “Cái gì đã đại đồng thì “vô kỉ” không có cái “ta” riêng, đã vô kỉ thì làm gì còn tồn tại (riêng) nữa”. Mà theo Liou Kia hway dịch là: “Những người mà ta thấy còn tồn tại (riêng) đó chỉ là bậc quân tử thời xưa, những người ta không thấy tồn tại (riêng) nữa (nghĩa là vô danh), đó mới là bạn của trời đất (tức hạng trở về bản căn, đạt Đạo, hoà đồng với vũ trụ rồi)”. sau cùng có trường hợp nghĩa rất tối, ba nhà hiểu ba cách, cách nào cũng được thì tôi lựa cách dễ nhất, chứ chẳng vì một lí do gì khác, như câu “Phù sung nhất thượng khả, viết dũ quí, đạo cơ hĩ” https://thuviensach.vn ở cuối chương XXXIII (Thiên hạ). Trước chúng tôi đã có hai bản Tuyển dịch[64] Trang tử. Sau chúng tôi chắc sẽ còn nhiều người dịch nữa, mà bản dịch nào cũng sẽ có nhiều chỗ không giống các bản khác. Trang tử không như Mạnh tử, chỉ có thể hiểu được một cách, trừ vài ba chữ không quan trọng. Tôi mong độc giả hiểu cho lẽ đó mà coi bản của chúng tôi may mắn lắm là có giá trị ngang các bản khác thôi. Những chữ viết tắt trong phần dịch: V.P.C. Vương Phu Chi (Thuyền Sơn) D.N.L. Diệp Ngọc Lân H.C.H. Hoàng Cẩm Hoành L.K.h. Liou Kia hway https://thuviensach.vn CHƯƠNG I THẢNH THƠI TỰ TẠI (Tiêu dao du) 1 Biển Bắc có con cá gọi là cá côn, mình dài không biết mấy ngàn dặm. Nó biến thành con chim gọi là chim bằng[65], lưng rộng không biết mấy ngàn dặm, khi tung cánh bay thì cánh nó như đám mây trên trời. Biển (Bắc) động thì nó dời về biển Nam, biển Nam là Ao trời. Tề Hải là sách[66] ghi những chuyện quái dị. Sách đó bảo khi con chim bằng dời xuống biển Nam, nó đập nước tung tóe lên ba ngàn dặm rồi nương gió lốc cuốn lên cao chín vạn dặm. Nó xuống biển Nam vào tháng 6, lúc gió nổi lên.[67] (Ở dưới nó là) Hơi nước bốc lên – coi tựa như những con ngựa hoang – và bụi cát, cùng hơi thở các sinh vật. (Mà ở trên nó) màu thanh thiên kia phải là bản sắc của trời không hay là vì trời xa thăm thẳm mà ta nhìn thấy như vậy? Vì từ trên cao nhìn xuống thì cũng thấy một màu đó.[68] Nước không sâu thì không chở được thuyền lớn. Đổ một chén nước xuống một chỗ lõm ở trước sân thì thả một cọng cỏ xuống làm thuyền được; nếu thả cái chén đó xuống thì chén chạm đất, không nổi được, vì nước nông mà thuyền lớn. Lớp không khí mà không dày thì không đỡ được những cánh chim lớn. Cho nên con chim bằng phải bay lên cao chín vạn dặm để có lớp không khí dày đỡ nó ở dưới, rồi lưng nó mới đội trời xanh, không hề bị cản trở, mà bay xuống biển Nam được. Con ve sầu và con chim cưu[69] cười con chim bằng rằng: “Chúng tao bay vù lên cây du, cây phương[70], có lúc bay không tới mà rớt xuống đất. Hà tất phải bay cao chín vạn dặm để xuống phương Nam?” Người nào muốn tới một chỗ gần ở ngoài thành thì chỉ cần mang theo lương thực cho đủ ba bữa, mà khi về bụng hãy còn no[71]. Kẻ nào muốn đi một trăm dặm thì phải chuẩn bị lương thực để nghỉ đêm[72]; muốn đi một ngàn dặm thì phải chuẩn bị lương thực cho ba tháng. Hai con vật nhỏ kia (tức con ve sầu và con chim cưu) biết đâu lẽ đó. Trí lực nhỏ không thể so sánh với trí lực lớn; cuộc đời ngắn không thể so sánh được với cuộc đời dài. Làm sao biết được điều ấy? Như cây nấm chỉ sống một buổi sáng thì không biết được trọn một ngày[73], con huệ cô (một loại ve sầu, sinh mùa xuân thì mùa hè chết, sinh mùa hè thì mùa thu chết), không biết được trọn một năm; đó là những loài cuộc đời ngắn ngủi. Ở miền Nam nước Sở, có một con rùa thiêng[74], mùa xuân của nó dài năm trăm năm; mùa thu dài năm trăm năm; đời thượng cổ có một cây “xuân” lớn, mà mùa xuân dài tới tám ngàn năm, mùa thu dài cũng tám ngàn năm, đó là những loài cuộc đời lâu dài. Ông Bành Tổ (chỉ sống bảy trăm năm) mà ngày nay hễ nói tới thọ, ai cũng cho ông bậc nhất, chẳng đáng buồn ư?[75] Trong cuộc đàm thoại giữa ông Thang và ông Cách[76] cũng có một đoạn như vầy: Ở phương Bắc hoang dã có một cái biển gọi là “Ao trời”, trong biển có một con cá chiều ngang rộng mấy ngàn dặm, không biết chiều dài là bao nhiêu, gọi là cá côn; có một con chim gọi là chim bằng, lưng lớn như núi Thái Sơn, cánh như đám mây rủ ở trên trời, nó nương ngọn gió lốc, xoắn như sừng cừu, bay lên cao chín vạn dặm, vượt lên khỏi các đám mây, lưng đội trời xanh mà bay về biển Nam. Một con chim cút ở trong cái đầm nhỏ cười nó: “Con đó bay đi đâu vậy? Tôi lên cao độ vài nhẫn[77] rồi xuống, bay liệng trong đám cỏ bồng cỏ cảo, cho bay như vậy là đủ rồi. Con đó bay đi đâu vậy kìa?”. [78] Lớn với nhỏ khác nhau như vậy đó. Có người tài trí đủ để làm một chức quan, có người hạnh làm gương được cho một làng, có người đức đáng làm vua mà được cả nước phục[79], nhưng dù thuộc hạng nào thì cũng đều tự đắc như con chim cút kia vậy. Ông Vinh tử nước Tống[80] cười họ. Dù cả nước khen ông, ông cũng không mừng, cả nước chê ông, ông cũng không buồn, vì ông biết phân biệt nội và ngoại[81], vinh và nhục. Người như ông thật hiếm ở đời, nhưng ông chỉ biết tự thủ (tự giữ mình) thôi, chứ chưa tự thích nghi với vật mà thành bậc đại[82]. Ông Liệt tử[83] cưỡi gió mà bay, thật nhẹ nhàng, khoan khoái, mười lăm ngày rồi về. Có phúc lớn như https://thuviensach.vn ông thật hiếm ở đời, tuy khỏi phải đi, nhưng ông vẫn còn tùy thuộc một cái gì (tức đợi cho gió nổi lên). Đến như hạng người làm chủ được cái chính đạo của trời đất, chế ngự được lục khí[84] để ngao du trong vũ trụ vô biên, thì còn tùy thuộc cái gì nữa đâu? Cho nên người ta bảo “Bậc chí nhân (có đức tuyệt cao) thì quên mình, bậc thần nhân thì không lập công, bậc thánh nhân thì không lưu danh”[85]. https://thuviensach.vn 2 Vua Nghiêu muốn nhường ngôi cho Hứa Do[86], bảo: - Mặt trời, mặt trăng đã xuất hiện, đuốc làm sao còn sáng được nữa mà không tắt đi? Mưa đã đổ mà còn tưới ruộng làm gì cho phí sức? Phu tử[87] mà lên ngôi thì nước sẽ trị; tôi còn giữ hư vị này (như người đại diện cho người chết trong tang lễ), tự lấy làm xấu hổ. Tôi xin giao thiên hạ cho phu tử. Hứa Do đáp: - Nhà vua trị nước, mà nước được bình trị. Bây giờ tôi lên thay, thế là cầu danh ư? Danh là khách của cái thực[88], tôi đóng cái vai khách sao? Con chim tiêu liêu (một loài chim nhỏ), làm tổ trong rừng, chiếm bất quá một cành cây; con “yển thử”[89] uống nước sông, bất quá đầy bụng thì thôi. Xin nhà vua cứ giữ ngôi. Tôi có biết dùng thiên hạ làm gì đâu. Nếu người bếp mà không biết nấu nướng thì người đại diện cho người chết[90] và người chủ tế cũng không bỏ chức vụ của mình mà thay người bếp được. https://thuviensach.vn 3 Kiên Ngô hỏi Liên Thúc: - Tôi thấy Tiếp Dư[91] nói những lời khoa đại và không xác thực, đi mà không trở về[92], tôi sợ rằng những lời đó không biết đâu là cùng như dải Ngân hà, quái đản, bất cận nhân tình. Liên Thúc hỏi: - Ông ấy nói gì? - Trên núi Cô Dạ xa xôi, có thần nhân ở, da họ trong trắng như băng tuyết, họ đẹp đẽ, mềm mại như gái trinh. Họ không ăn ngũ cốc, chỉ hít gió uống sương mà sống; họ cưỡi mây và rồng bay mà đi chơi khắp ngoài cõi bốn bể. Họ định thần mà làm cho vạn vật không bị bệnh tật, mùa màng năm nào cũng trúng. Tôi cho là nói bậy, không tin. Liên Thúc bảo: - Đúng vậy! Kẻ đui không thấy được những màu sắc, đường nét đẹp đẽ, kẻ điếc không nghe được tiếng chuông, tiếng trống. Nào phải chỉ hình hài mới đui điếc, trí tuệ cũng đui điếc nữa. Lời đó là nói về anh đấy. Những thần nhân đó có đức cao nên hòa đồng được với vạn vật. Người đời có cầu họ trị nước, họ cũng không thèm chịu khó nhọc về việc cõi tục này. Không có vật gì có thể làm hại họ được; nước có dâng lên tới trời, họ cũng không bị chết đuối; trời có đại hạn tới nỗi kim thạch chảy ra, cháy cả rừng núi, đồng ruộng, họ cũng không thấy nóng. Dùng những trần cấu, cặn bã của họ có thể tạo thành những người như Nghiêu, Thuấn. Họ đâu có chịu lo những việc trần tục của chúng ta. Một người nước Tống đem mũ lễ qua nước Việt bán. Nhưng người nước Việt cắt tóc, xâm mình, đâu có dùng những mũ ấy. Vua Nghiêu trị dân, bình định hải nội rồi, bèn lên núi Cô Dạ ra mắt bốn hiền nhân [là Hứa Do, Niết Khuyết, Vương Nghê, Bị Y]. Khi trở về tới phía Bắc sông Phần[93], ông không biết gì nữa, quên mất thiên hạ của ông[94]. https://thuviensach.vn 4 Huệ tử[95] bảo Trang tử: - Vua Ngụy cho tôi một hột giống bầu lớn, tôi đem trồng được những trái chứa được năm thạch[96]. Dùng cả một trái để chứa nước thì nó không đủ cứng để chịu được, khiêng đi sẽ bể; nếu xẻ nó thành nhiều phần thì lại nông quá, không chứa được bao nhiêu. Thành thử tuy nó lớn mà vô dụng, cho nên tôi đã đập bỏ. Trang tử bảo: - Vậy là ông vụng sử dụng những vật lớn rồi. Một người nước Tống chế được một thứ thuốc bôi ngón tay cho khỏi nứt nẻ. Gia đình người đó đời đời làm công việc đập lụa. Một người lạ hay tin, lại trả một trăm đồng tiền vàng để mua phương thuốc. Người đó họp cả họ lại, bảo: “Chúng ta đời đời đập lụa, chỉ kiếm được vài đồng tiền vàng. Bây giờ chỉ trong một buổi có thể thu được một trăm đồng. Nên bán cho họ đi”. Người lạ kia được phương thuốc rồi, lại thuyết vua Ngô. Lúc đó nước Việt đang gây chiến với Ngô, vua Ngô bèn phong người đó làm tướng. Mùa đông, hai bên thủy chiến với nhau, Việt đại bại[97] phải cắt đất[98] cho Ngô, vua Ngô đem đất đó phong cho ông ta. Cùng dùng một thứ thuốc mà người thì được phong đất, kẻ vẫn phải đập lụa, chỉ vì cách dùng khác nhau. Nay ông có trái bầu chứa được năm thạch, sao không nghĩ cách dùng nó làm một trái nổi để qua sông, hở? Phàn nàn rằng xẻ ra thì nó nông quá, không chứa gì được, chính là vì lòng của ông không thông đạt[99] đấy. https://thuviensach.vn 5 Huệ tử bảo Trang tử: - Có một cây lớn gọi là cây xư[100]. Thân nó nổi u, chỗ lồi chỗ lõm, không dùng dây mực của thợ mộc mà vạch đường được; cành nhỏ của nó cong queo không dùng cái qui[101] và thước vuông để xẻ được. Nó mọc ở ngay bên đường mà không một người thợ mộc nào thèm ngó tới. Thuyết của ông cũng vậy, rộng lớn mà không dùng được, nên không ai theo. Trang tử đáp: - Ông có thấy con li tinh[102] không? Nó nép mình để rình mồi, nó nhảy qua đông qua tây, chẳng kể cao thấp, nhưng có ngày nó cũng chết vì bẫy, vì lưới. Còn con thai ngưu[103]thân lớn như đám mây trên trời mà không bắt nổi một con chuột. Ông có một cây lớn mà lo rằng nó vô dụng. Sao không trồng nó ở chỗ hư vô tịch mịch, trong cánh đồng mênh mông, để những kẻ nhàn rỗi thơ thẩn dạo chung quanh thảnh thơi ngủ dưới bóng mát của nó? Nó không sợ bị búa rìu đốn, hoặc bị ngoại vật làm hại. Nó không dùng được vào việc gì, thì tai họa làm sao mà đến?[104] https://thuviensach.vn NHẬN ĐỊNH Lão tử và Trang tử là hai triết gia làm tốn giấy mực cho đời sau nhiều nhất: mỗi nhà ít gì cũng được cả trăm người khác chú giải. Một phần là vì triết thuyết của họ rất sâu sắc, ảnh hưởng tới tư tưởng và đời sống Trung Hoa. Nhưng nguyên nhân chính là văn của họ cô động quá, hàm súc quá, có thể hiểu được nhiều cách, nhiều chỗ không ai biết chắc được họ muốn nói gì, đành phải suy đoán. Hai bộ Đạo Đức kinh và Trang tử (Nam Hoa kinh) so với hai bộ Luận ngữ và Mạnh tử về phương diện sáng sủa thực khác nhau xa quá: một bên mù mờ bao nhiêu, một bên sáng sủa bấy nhiêu. Tóm tắt ý chính trong chương này Diệp Ngọc Lân dẫn lời của Vương Tiên Khiêm (tức Vương Ích Ngô, một triết gia đời Thanh), cho “tiêu dao tự tại là siêu thoát ra ngoài thế vật, theo lý thiên nhiên”. Ý đó giống ý của Quách Tượng (học giả đời Tấn, tự là Tử Huyền, cùng với Hướng Tú là những người đầu tiên chú giải Trang tử) trong câu này: “Vật tuy lớn nhỏ khác nhau (…) nhưng mỗi loài cứ theo thiên tính của mình, làm theo khả năng của mình…” thì là tiêu dao. “Theo lý thiên nhiên” hay “theo thiên tính” thì cũng vậy. Nhưng theo Hoàng Cẩm Hoành lại bác ý của Quách Tượng, cho tiêu dao là “vô vi”, vì Hoàng căn cứ vào câu “Bậc chí nhân thì quên mình, bậc thần nhân thì không lập công, bậc thánh nhân thì không lưu danh” ở cuối bài 1. (Chí nhân vô kỉ, thần nhân vô công, thánh nhân vô danh). Vương Phu Chi (tức Vương Thuyền Sơn, một triết gia danh tiếng đời nhà Thanh) cũng cho rằng phải theo thiên tính của mình (như con chim cưu chỉ bay lên ngọn cây, có khi còn không tới, mà không vì vậy ganh tị với con chim bằng, bay cao được tới chín vạn dặm), nhưng lại chú trọng tới điều kiện này là không phải tùy thuộc cái gì (vô sở đãi) thì mới thực thảnh thơi. Con chim bằng phải tùy thuộc lớp không khí dầy ở dưới nó; Liệt tử cưỡi gió mà bay thật nhẹ nhàng, khoan khoái, nhưng vẫn phải tùy gió nổi lên mới bay được, như vậy chưa thực là tiêu dao. Hễ còn tùy thuộc một cái gì thì chưa được hoàn toàn tự do, làm sao mà thảnh thơi được? Liou Kia hway chắc cũng nghĩ như Vương Phu Chi nên dịch “Tiêu dao du” là “liberté naturelle” (sự tự do thiên nhiên). Như vậy chúng ta đã có ba điều kiện của sự tiêu dao tự tại rồi: - Phải thuận thiên tính. - Không tuỳ thuộc một cái gì (phải được hoàn toàn tự do). - Vô vi (không lập công, không cầu danh, quên mình đi, tức siêu thoát ra ngoài thế vật để khỏi tuỳ thuộc thế vật); như Hứa Do trong bài 2 là đã tiêu dao; vua Nghiêu trong bài đó chưa tiêu dao, nhưng trong bài 3, khi ở núi Cô Dạ về, chịu ảnh hưởng của bốn vị thần nhân mà quên mất thiên hạ của mình, lúc đó mới được tiêu dao. Quan niệm vô vi này Trang đã mượn của Lão mà còn tiến xa hơn Lão nữa. Theo tôi còn thêm một điều kiện nữa. - Muốn được tuyệt đối tiêu dao thì phải hoà đồng với vạn vật, như các thần nhân trên núi Cô Dạ (bài 3), lúc đó sẽ chế ngự được lục khí để ngao du trong vũ trụ vô biên (bài 1), nước lửa đều không làm hại mình được (bài 3). Tôi ngờ rằng Trang tử ở đây đã chịu ảnh hưởng của Liệt tử. Bốn điều kiện kể trên là ý chính trong chương này. Ngoài ra còn vài ý phụ nữa như là “vô tài thì toàn mệnh được, như cây xư (bài 5), “tiểu trí không hiểu được đại trí, như con ve sầu, con chim cưu, con cút cười con chim bằng (bài 1)”, “khéo dùng vật thì không vật nào là vô dụng (bài 4, 5); mà chỉ hạng đại trí mới biết dùng những vật tầm thường vào những việc lớn (bài 4). https://thuviensach.vn CHƯƠNG II MỌI VẬT NGANG NHAU (Tề vật luận) 1 Nam Quách Tử Kì[105] ngồi tựa cái bàn con, ngước mắt lên trời, thở dài, như người mất hồn. Nhan Thành Tử Du[106] đứng hầu một bên, hỏi: - Sao thầy tới nỗi như vậy? Hình hài như một cây khô mà tinh thần thì như tro tàn? Người tựa vào bàn lúc này với người tựa vào bàn lúc nãy, không phải là cùng một người sao? Tử Kì đáp: - Anh Yển, anh hỏi như vậy là phải? Thầy đã tự quên thầy, anh biết không? Anh đã được nghe tiếng sáo của người mà chưa được nghe tiếng sáo của đất; hoặc đã được nghe tiếng sáo của đất mà chưa được nghe tiếng sáo của trời (thiên lại). - Xin thầy giảng cho con thế nào là nghĩa làm sao? - Đất thở thì thành gió. Gió không thổi thì thôi, đã thổi thì cả vạn hang lỗ đều gào thét lên. Anh có nghe gió hú bao giờ chưa? Trên rừng núi cao ghê gớm có những cây lớn chu vi được cả trăm gang tay[107], thân cây có hang có lỗ, như lỗ mũi, lỗ tai hoặc miệng người; lại có những lỗ (vuông) như lỗ đục trong các đà ngang, hoặc lỗ mắt cáo; có lỗ như miệng cối, như ao sâu, như vũng cạn. Gió thổi thì những lỗ ấy phát ra những tiếng khác nhau, có khi như tiếng nước chảy ào ào, có khi như tiếng tên bay vút vút; có khi như tiếng thú gầm, như tiếng thở nhẹ; có khi như tiếng người mắng mỏ, khóc lóc, than thở; có khi như tiếng chim ríu rít, như tiếng người đi trước hô, người đi sau đáp. Gió hiu hiu thổi thì nghe du dương; gió lớn nổi lên thì nghe ào ào. Gió lớn ngừng rồi, các hang lỗ lại im lặng, mà anh có thấy cành lá lúc đó chỉ hơi lay động không?[108] Tử Du thưa: - Vậy tiếng sáo của đất (tức âm nhạc của đất) là do các hang lỗ cả, cũng như tiếng sáo của người là do các ống trúc. Thế còn tiếng sáo của trời, xin thầy giảng cho con. Tử Kỳ đáp: - Tiếng sáo của trời gồm những thanh âm biến hóa cả vạn cách mà mỗi thanh âm chỉ tự nó phát ra mà thôi. Nhưng ai khiến cho các thanh âm đó tự nhiên phát ra như vậy?[109] https://thuviensach.vn 2 Đại trí thì bao quát, tiểu trí thì phân biệt những cái nhỏ nhặt; lời nói sâu sắc thì sáng rõ, lời nói thô thiển thì rườm, tế toái. Khi ngủ thì tinh thần hôn mê, khi tỉnh dậy thì thân thể cử động. Tiếp xúc với người khác thì tự nhiên dụng tâm mưu mô. Do đó mà sinh ra do dự, giả dối, ẩn ý. Hơi lo sợ thì sinh ra xao xuyến, ưu tư; quá lo sợ thì sinh ra trì độn, mất hồn. Khi ta hành động thì nhắm người khác như bắn con mồi, rồi thì bất động để nhận định thắng lợi của mình. Do đó khí lực mỗi ngày suy đi như sinh vật vào mùa thu, mùa đông; chìm đắm trong thói xấu, ngột ngạt, càng già càng tệ; hậu quả là tinh thần như chết lần, không sao lấy lại được sinh khí nữa. Mừng giận, vui buồn, lo lắng, ân hận, phản phúc, sợ sệt, phóng túng, biếng nhác, khinh cuồng, ngạo mạn, tất cả những cái đó tự chúng phát sinh ra như âm nhạc phát từ một ống rỗng (ống sáo) hoặc như nấm từ hơi đất (ẩm ướt) mà ra. Ngày, đêm nối tiếp nhau, ai biết được từ đâu mà có? Hỡi ơi, hỡi ơi; bao giờ chúng ta mới hiểu được lẽ sinh hoá trong vũ trụ? Không có cái không phải là ta thì không có ta. Nhưng không có ta thì không thể hiện được sự biến hoá của tự nhiên. Như vậy ta với tự nhiên thật mật thiết với nhau. Nhưng không ai biết được chủ thể của vũ trụ là gì.[110] Ví thử có một chủ tể thực đi thì chúng ta cũng không thấy có dấu hiệu, vết tích gì của nó. Thấy tác động mà không thấy hình thể của nó. Chẳng hạn thân thể con người gồm một trăm cái xương, chín cái lỗ[111] và sáu bộ phận ở trong (lục tạng[112]). Chúng ta quí cái nào? Hay quí hết? Hay quí vài cái? Chúng đều phục dịch ta? Chúng đều bị động hết? Cái gì làm chủ tể chi phối chúng? Chúng chi phối và phục vụ lẫn nhau? Nếu có một cái thực là chủ tể chúng thì dù ta hiểu biết hay không hiểu biết nó, cũng không làm tăng hay giảm cái chân thực của nó. Khi ta đã nhận được cái hình hài của ta rồi thì ta giữ nó cho tới khi chết. Nó với những vật khác đâm nhau, mài cọ vào nhau, cùng bôn tẩu như những con ngựa, mà không có gì làm cho ngừng được. Buồn thay! Suốt đời khó nhọc mà không thành công gì cả; tân khổ, mệt mỏi mà không biết để đi tới đâu. Đáng thương thay! Như vậy mà bảo là sống, thử hỏi có ích gì không? Hình hài mà biến hoá thì tinh thần cũng biến hoá. Đó chẳng phải là điều rất thương tâm ư? Người đời mê muội như vậy ư? Chỉ riêng tôi mê muội, còn người khác không mê muội chăng? Để cho thành kiến của mình làm thay mình, sai khiến mình, như vậy thì ai cũng có thầy hết, còn cần gì nhận người khác làm thầy nữa? Vì tinh thần của mình làm thầy mình, cho nên người ngu cũng có thầy rồi. Kẻ nào muốn vượt thành kiến của mình để phân biệt thị phi thì cũng không khác gì bảo rằng hôm nay đi qua nước Việt mà đã tới đó từ hôm qua rồi, nghĩa là coi cái không có là có. Về điểm đó, thần minh như ông Vũ[113] cũng không thể biết được. Tôi làm sao mà biết được? https://thuviensach.vn 3 Nói không phải chỉ là phát hơi ra thành tiếng. Nó là để diễn một cái gì. Nhưng cái ý muốn diễn ấy không hoàn toàn do lời nói định được [nghĩa là lời không sao diễn hết được ý], vậy thì có lời nói không [nghĩa là lời nói có ý nghĩa không], hay không có lời nói [nghĩa là lời nói vô nghĩa, chỉ như hơi phát từ miệng ra thôi]. Lời nói khác với tiếng chim con chíp chíp, nhưng vì lời nói không hẳn diễn được ý nghĩa, như vậy thì rốt cuộc có phân biệt được hai cái đó không? Đạo bị cái gì che lấp tới nỗi phải phân biệt chân với nguỵ? Lời nói bị cái gì che lấp tới nỗi phải phân biệt phải với trái? Khi nào thì đạo không còn, khi nào thì lời không chấp nhận được? Đạo bị thành kiến nhỏ nhen che lấp; lời nói bị sự hoa mĩ phù phiếm che lấp. Do đó mà phái Nho, phái Mặc tranh luận với nhau. Cái gì phái này cho là phải thì phái kia cho là trái; cái gì phái này cho là trái thì phái kia cho là phải. Muốn thấy điểm phải trong chỗ họ cho là trái, thấy điểm trái trong chỗ họ cho là phải, [nghĩa là muốn thấy phái nào cũng có lí một phần, mà không phái nào hoàn toàn có lí], thì không gì bằng dùng trực giác [đừng lí luận, tranh biện].[114] Vật nào cũng là vật khác mà cũng là chính nó. Phân biệt vật và mình thì không thấy được lẽ đó, hoà đồng với vật thì thấy được. Cho nên mới bảo cái kia là tự cái này mà ra, mà cái này cũng tự cái kia mà có. Chẳng hạn người ta phân biệt sống và chết, sự thực sống cũng là chết, chết cũng là sống. Cái có thể được cũng là không thể được, cái không thể được cũng là cái có thể được. Xác nhận cũng là phủ nhận, phủ nhận cũng là xác nhận. Thánh nhân không chấp nhất nên mới rực rỡ ở trên trời. Mình là người khác, người khác cũng là mình. Người kia có quan niệm của họ về thị, phi. Mình cũng có quan niệm của mình về thị, phi. Có sự khu biệt thực nào giữa mình và người kia không? Mình và người đừng chống đối nhau nữa, cái chốt [tức cái cốt yếu] của Đạo ở đó. Cái chốt đó ở trung tâm cho nên ứng với các biến hoá vô cùng. Cái “thị” (phải) biến hoá vô cùng, mà cái “phi” (không phải) cũng biến hoá vô cùng. Cho nên mới bảo: Không gì bằng dùng trực giác. Muốn dùng cái ý niệm độc lập, tuyệt đối để chứng rằng những biểu hiện của ý đó trong sự vật không phải là ý niệm độc lập, tuyệt đối, thì sao bằng dùng cái phi ý niệm[115] để chứng rằng những ý niệm biểu hiện trong sự vật không phải là ý độc lập, tuyệt đối. Muốn chứng rằng con ngựa trắng không phải con ngựa thì sao bằng dùng ý niệm “phi mã” (không phải con ngựa) để chứng rằng ngựa trắng không phải là ngựa[116]. Sự thực vũ trụ chỉ là một ý niệm, mà mọi vật chỉ là một con ngựa[117]. https://thuviensach.vn 4 Có đi rồi mới thành đường; có đặt tên rồi mới phân biệt vật này vật khác. Làm sao bảo một vật là nó như vậy? Vì nó như vậy nên bảo nó như vậy. Làm sao bảo một vật không phải như vậy[118]? Vì nó không như vậy nên bảo nó không như vậy. Làm sao bảo một vật là “có thể”. Bảo một vật là có thể vì nó có thể. Làm sao bảo một vật là không có thể. Bảo một vật là không có thể là vì nó không có thể. Vật nào cũng có cái “như vậy” của nó, vật nào cũng có cái “có thể” của nó[119]. Cho nên một cọng cỏ nhỏ với một cây cột lớn, một người đàn bà xấu với nàng Tây Thi, với tất cả các cái bậy bạ, dối trá, quái dị đều hợp nhất ở trong Đạo hết. Cái nhất đó phân chia ra thành vạn vật, phân chia ra rồi thì không còn cái trước nữa mà cái này sẽ mất đi. [nghĩa là có sinh thì có diệt, có diệt thì có sinh]. Nhưng không vật nào có sinh thành, có huỷ diệt vì rốt cuộc lại hợp nhất ở trong Đạo. Chỉ có hạng đạt Đạo mới hiểu được sự hợp nhất đó mà bỏ thành kiến đi để theo lẽ trung dung (bình thường). Trung dung thì thực hành được, thực hành được thì thông [có kết quả, không tắt nghẽn], thông thì “được việc”[120] [thành công]. Được việc là gần tới Đạo [vì phải hiểu Đạo rồi mới được việc]. Phải xác nhận sự kiện. Thực hiện mà không hiểu tại sao, đó là Đạo[121]. https://thuviensach.vn 5 Cứ cố chấp tin vào một điều thôi mà không biết rằng điều ấy cũng y hệt các điều khác, như vậy là có tinh thần “sáng ba”. Câu chuyện “sáng ba” như vầy: Xưa có một ông già nuôi khỉ, bảo chúng: “Tao cho chúng bây sáng ba [trái lật[122]], chiều bốn [trái]. Chúng bây chịu không?”. Chúng đều bất bình. Ông già bèn bảo: “Thế thì sáng bốn [trái], chiều ba. Chịu không?”. Chúng đều mừng. Sự thực có gì thay đổi đâu mà lần trước chúng nổi giận, lần sau mừng. Ông già đó đã khéo thuận theo bản tính của loài khỉ. Cho nên thánh nhân dung hoà, coi thị phi là một, mà theo luật quân bình tự nhiên. Như vậy gọi là “lưỡng hành”[123]. https://thuviensach.vn 6 Cổ nhân có người tri thức đạt được tới cực điểm. Cực điểm đó ở đâu? Ở chỗ cho rằng thời sơ khởi vũ trụ chưa có vật: đó là điểm cực xa, cực cao mà tri thức đạt được, không thể thêm gì được nữa. Hạng người thấp hơn cho rằng thời sơ khởi đã có cái gì đó, nhưng cái đó không nhất định[124]. Hạng thấp hơn cho rằng cái đó đã nhất định nhưng bảo không có thị phi (phải trái, xấu tốt). Từ khi có quan niệm thị phi, ý niệm về Đạo mới suy. Ý niệm về Đạo suy rồi mới có lòng tự ái (lòng yêu ích kỉ). Thật ra có gì là thành và bại không? Hay là không có? Như trường hợp Chiêu Văn[125] chơi đàn cầm, chứng là có thành và bại; Chiêu Văn không chơi đàn cầm thì không chứng được là có thành có bại. Chiêu Văn chơi đàn cầm, Sư Khoáng[126] gõ nhịp; Huệ tử dựa một cây ngô đồng [mà biện thuyết]; ba bậc đó tài trí cực cao, giữ được danh tiếng cho hết đời. Sở thích của họ khác với của mọi người. Họ đều muốn cho người khác hiểu cái mà người ta không hiểu nổi, nên Huệ Thi mới làm hỏng đời ông bằng thuyết “kiên bạch” (cứng và trắng)[127], mà con Chiêu Văn muốn nối nghiệp cha đến nỗi suốt đời không thành công. Nếu như vậy [tức xét riêng từng người một] mà gọi là thành công thì bất tài như tôi cũng thành công. Nếu như vậy không gọi là thành công được [tức xét chung cả mọi người, mà không phải ai cũng giỏi, thành công như ba nhà đó được], thì tôi và người khác, chẳng ai thành công cả[128]. Thánh nhân chê cái thói làm cho người đời mê loạn, nghi ngờ, nên bỏ hết thành kiến, theo lẽ trung dung tầm thường thôi, như vậy là dùng đến trực giác[129]. https://thuviensach.vn 7 Nay có người đưa ra một phán đoán. Không biết nó có giống với những phán đoán của người khác hay không. Giống hay không thì chúng cũng là một loại với nhau cả, vậy có khác gì nhau đâu[130]. Tôi xin đưa ra một thí dụ. Một người bảo rằng vũ trụ có khởi thuỷ; một người khác bảo không có khởi thuỷ, một người nữa bác thuyết người thứ nhì dùng để bảo vũ trụ không có khởi thuỷ. Nói cách khác: một người bảo mới đầu vũ trụ có cái gì đó (hữu)[131], một người khác bảo mới đầu vũ trụ không có cái gì đó (vô); một người nữa bác cái thuyết mới đầu vũ trụ không có cái gì đó; lại một người thứ tư khác nữa bác cái thuyết người thứ ba dùng để bác cái thuyết mới đầu vũ trụ không có gì cả. Khi thì có (hữu), khi thì không (vô). Mà không biết cái “có”, cái “không” đó có thực là “có”, có thực là “không” không. Tôi mới đưa ra một ý kiến, nhưng nó có thực là ý kiến hay là không có ý kiến gì cả. Trên đời không có gì lớn bằng đầu chiếc lông mùa thu[132], mà núi Thái Sơn[133]thì nhỏ. Không ai thọ bằng đứa trẻ chết yểu, mà không ai yểu bằng ông Bành Tổ. Trời đất cùng sinh ra với tôi; vạn vật và tôi hợp nhất, chỉ là một. Vũ trụ đã hợp nhất thì làm sao còn nói về nó được nữa[134]. Vũ trụ đã hợp nhất thì làm sao lại không nói về nó được[135]. Cái “nhất” đó thêm cái ta nói về nó, thế là hai cái rồi; hai cái đó với cái “nhất” (nguyên thuỷ) thành ra ba. Cứ như vậy mà tính tiếp thì người giỏi tính cũng đành chịu[136]; huống hồ là người thường. Như vậy là từ “không” (vô) tới “có” (hữu) đã có ba ý khác nhau rồi; huống hồ từ “có” tới “có”, sẽ có cơ man nào là ý. Đừng suy luận gì hết [nghĩa là quên ngôn ngữ, ý tưởng đi] thì thấy được đạo. https://thuviensach.vn 8 Đạo không có giới hạn, mà ngôn ngữ thì không chắc chắn[137]. Do ngôn ngữ mới có những sự phân biệt này nọ. Chẳng hạn chúng ta phân biệt bên phải bên trái, thứ tự và sai đẳng[138], phân và biện[139], cạnh và tranh[140]: đó là tám loại biểu hiện. Mà cái gì ở ngoài vũ trụ thì thánh nhân không cho là có, không nói tới; cái gì ở trong vũ trụ thì thánh nhân nói tới mà không phê bình. Bộ sử Xuân Thu và chuyện chép về các tiên vương, thánh nhân đem ra bàn mà không tranh biện. Sau mỗi cái phân biệt có một cái gì không phân biệt được; sau mỗi cái biện luận có một cái gì không biện luận được. Tại sao vậy? Vì thánh nhân thấu triệt được toàn diện, còn người thường chấp nhất cãi nhau để thắng người khác. Cho nên bảo: “Hễ biện luận là chỉ thấy được phiến diện”. Đại Đạo không có tên, đại biện luận thì không nói; đại nhân (nhân từ) thì không yêu riêng ai; đại liêm khiết thì không có hình tích; đại dũng thì không hung hăng. Cái Đạo mà minh thị ra rồi thì không phải là Đạo; biện mà phải dùng lời nói thì không đạt được chân lí; nhân (từ) mà cố định[141]thì không hoàn toàn là nhân; liêm khiết mà phô trương thì không được người ta tin; dũng mà tranh đấu (hoặc tới tàn bạo) thì không thành công. Như vậy là năm cái đó vốn hồn nhiên, viên thông mà hoá ra có cạnh góc. Biết rằng có những điều mình không thể biết được, đó là đạt được cực điểm của “trí”. Người nào biết biện luận mà không dùng lời, biết rằng Đạo thì không có tên, là có được cái kho của trời (thiên phủ), đổ vô mà không bao giờ đầy, múc ra mà không bao giờ cạn, mà không biết tại sao. Như vậy gọi là “che ánh sáng đi” [đừng cho nó chiếu ra ngoài, mà ở trong sẽ sáng hơn]. https://thuviensach.vn 9 Xưa vua Nghiêu hỏi ông Thuấn: - Tôi muốn đánh các nước Tông, Khoái và Tư Ngao[142], nhưng mỗi khi lâm triều, tôi thấy lòng không yên. Tại sao vậy? - Vua ba nước đó ở chỗ hoang vu đầy lau sậy. Lòng nhà vua không yên là vì đâu ư? Xưa mười mặt trời cùng xuất hiện, chiếu sáng vạn vật. Đạo đức há chẳng chiếu sáng hơn mặt trời ư[143]? https://thuviensach.vn 10 Niết Khuyết hỏi (môn đệ là) Vương Nghê[144]: - Anh có biết một chân lí tuyệt đối không? [nghĩa là được mọi vật chấp nhận]. Vương Nghê đáp: - Làm sao con biết được? - Anh có biết rằng anh không biết chân lí đó không?[145] - Làm sao con biết được? - Vậy ra vạn vật không biết gì cả sao? Vương Nghê đáp: - Làm sao con biết được? Nhưng con thử rán đưa ra ý kiến của con. Làm sao người ta có thể biết được cái mà con bảo là “biết” lại không phải là “không biết”; mà cái con bảo là “không biết” lại không phải là “biết”? Chẳng hạn một người nằm chỗ ẩm thấp (trong bùn) mà đau lưng tê liệt nửa người, nhưng một con lươn thì có sao không? Một người ngồi trên ngọn cây thì run rẩy sợ sệt, nhưng con khỉ có vậy không? Chỗ ở của người và hai con vật ấy, chỗ nào là lí tưởng (chính xứ)? Người ta ăn thịt dê, bò, chó, lợn; hươu nai ăn cỏ; rết thích ăn rắn con; cú mèo và quạ thích ăn chuột. Khẩu vị của bốn loài đó, khẩu vị nào là lí tưởng (chính vị)? Khỉ đực sống với vượn cái; nai đực sống với hươu cái; lươn sống chung với cá; nàng Mao Tường và nàng Lệ Cơ[146] được mọi người khen là đẹp, vậy mà thấy họ tới thì cá lặn sâu, chim bay cao, hươu nai chạy dài. Cái đẹp theo bốn loài đó, cái đẹp nào là lí tưởng (chính sắc)? Theo con thì phân biệt nhân, nghĩa, thiện, ác chỉ là rối mù thôi. Làm sao mà phân biệt được? Niết Khuyết lại hỏi: - Anh không biết được lợi hại, nhưng bậc “chí nhân” [đức tuyệt cao] có biết lợi hại không? - Thưa, bậc chí nhân là thần rồi. Đồng cỏ có cháy cũng không làm cho họ thấy nóng, sông rạch đóng băng cũng không làm cho họ thấy lạnh, sét đánh đổ núi, gió làm dậy sóng cũng không khiến cho họ sợ. Họ chế ngự gió mây, cưỡi mặt trời mặt trăng mà đi chơi ngoài bốn bể, không quan tâm tới sống, chết, huống hồ là tới lợi hại? https://thuviensach.vn 11 Cồ Thước tử hỏi Trường Ngô tử[147]: - Tôi nghe Khổng tử[148] bảo: Thánh nhân không dự vào việc đời, không mưu đồ cái lợi, tránh né cái hại, được người ta vời cũng không mừng, không theo thói đời[149]. Thánh nhân không nói tức là nói đấy, mà nói tức là không nói đấy. Nhờ vậy mà siêu thoát ra ngoài cõi trần tục. Thầy chúng ta cho đó là những lời vu khoát mơ hồ. Nhưng tôi cho là những lời phát hiện được cái đạo kì diệu. Còn anh, anh nghĩ sao? Trường Ngô tử đáp: - Ngay Hoàng Đế[150] cũng hoang mang về điều đó, thì làm sao mà [Khổng] Khâu biết được? Tính anh vội vàng quá. Mới thấy cái trứng anh đã muốn nghe gà gáy sáng rồi, mới thấy viên đạn đã muốn có thịt chim “hào”[151] quay rồi. Để tôi giảng bậy chơi, mà anh cũng nghe bậy chơi nhé. Có phải là thánh nhân theo mặt trời mặt trăng, ôm vũ trụ, hợp nhất với vạn vật, bỏ hết cả mọi sự hỗn độn, u ám, coi các sự tôn ti, quí tiện là một không? Người phàm lao khổ vì sự thị phi, tranh luận, thì thánh nhân thì có vẻ như ngu muội vô tri, đạt được cái thuần khiết của cái “nhất”[152] nó bao quát mọi biến hoá của mọi thời và mọi vật. Làm sao tôi biết được ham sống không phải là một thái độ lầm lẫn? Làm sao tôi biết được kẻ sợ chết không giống như một em nhỏ lạc lối, quên mất đường về nhà? Nàng Lệ Cơ là con gái viên quan giữ biên giới ở đất Ngải. Khi vua Hiến Tông nước Tấn đón nàng về cung, nàng khóc tới ướt đẫm vạt áo, nhưng về tới hoàng cung, cùng vua đồng sàng, nếm cao lương mĩ vị, nàng hối hận giọt lệ ngày xưa. Vậy làm sao tôi biết được khi chết rồi, người ta lại không ân hận rằng trước kia ham sống? Có người nằm mộng thấy được uống rượu ăn tiệc, tỉnh dậy tiếc mà khóc; lại có người nằm mộng thấy mình khóc rồi thức vậy vui như đi săn. Mà hai hạng người đó trong khi nằm mộng không biết rằng mình nằm mộng, đôi khi nằm mộng thấy rằng mình nằm mộng, tới khi tỉnh mới biết rằng mình nằm mộng. Và chỉ khi nào đại giác (tỉnh lớn) mới biết rằng đã qua một “đại mộng” (giấc mộng lớn). Bọn ngu tự cho mình là tỉnh khi coi vua là quí, còn kẻ chăn trâu là hèn. Thật là cố chấp! Khổng Khâu với anh đều là nằm mộng hết. Mà tôi bảo anh là nằm mộng, thì chính tôi cũng nằm mộng nữa. Những lời đó người thường cho là quái dị, nhưng một vạn năm về sau sẽ có một đại thánh nhân hiểu được. Thời gian đó không dài gì chỉ như từ sáng tới chiều thôi. https://thuviensach.vn 12 Giả sử tôi tranh biện với anh mà anh thắng tôi thì có nhất định là anh phải, tôi trái không? Nếu tôi thắng anh thì có nhất định là tôi phải, anh trái không? Trong chúng ta có một người phải, một người trái?[153] Hay cả hai chúng ta đều phải cả hoặc đều trái cả? Anh và tôi làm sao biết được điều đó? Mà một người thứ ba nào khác thì cũng hồ đồ không biết được, lựa ai sáng suốt làm trọng tài đây? Hỏi một người cùng một ý kiến với anh, thì người đó do lẽ cùng ý kiến với anh, làm sao có thể phê phán được? Nếu là một người cùng ý kiến với tôi thì người này do lẽ cùng ý kiến với tôi, làm sao có thể phê phán được? Nếu là một người ý kiến khác cả tôi lẫn anh, hoặc giống cả tôi lẫn anh thì cũng làm sao phán đoán được? Vậy anh, tôi và người thứ ba đó đều không quyết được ai phải, ai trái. Có nên đợi một người thứ tư nữa không? https://thuviensach.vn