🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trần Trụi Với Văn Chương Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Table of Contents Lời người dịch Thành phố thủy tinh Những bóng ma Căn phòng khóa kín https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn NHÀ XUẤT BẢN PHỤ NỮ & CÔNG TY VĂN HÓA PHƯƠNG NAM PHỐI HỢP THỰC HIỆN https://thuviensach.vn Lời người dịch Giới phê bình phương Tây gọi New York Trilogy là “tiểu thuyết trinh thám siêu hình”, là “giả tưởng phản trinh thám”, là “một biến tấu lạ lùng của thể loại trinh thám”, “một hỗn hợp của trinh thám và tân lãng mạn”, “một trò chơi chắp hình bằng thủy tinh”. Tất cả những cái đó khiến Paul Auster được liệt vào hàng văn sĩ hậu hiện đại. Tuy nhiên, khác với những văn phẩm hậu hiện đại điển hình vốn mang nặng phẩm chất “giả tưởng siêu hình” cùng các “yếu tố phản kháng”, New York Trilogy vẫn nhất quán trong lối kể chuyện, có cách nhìn tân hiện thực, và bộc lộ nỗi ưu tư đầy trách nhiệm của tác giả đối với những vấn đề xã hội và đạo đức. Có thể nói New York Trilogy là một dạng đặc biệt của tiểu thuyết trinh thám hậu hiện đại, vẫn dùng đến những yếu tố quen thuộc của tiểu thuyết trinh thám cổ điển, nhưng lại sáng tạo được một hình thức mới kết nối các đặc tính của thể loại này với các phẩm chất thử nghiệm, siêu hình và châm biếm mỉa mai của văn phong hậu hiện đại. Đó là ý kiến của giới phê bình Âu - Mỹ mà tôi chắt lọc từ nhiều nguồn khác nhau để bạn đọc biết New York Trilogy đã được đánh giá như thế nào, chứ còn ngay từ năm 1987, khi mới chân ướt chân ráo đến New York và đọc ấn bản đầu tiên của nó, tôi đã thấy nó rất hay, mà đã biết tí gì về văn chương hậu hiện đại đâu. Nhưng nói New York Trilogy hay như thế nào với bạn đọc ở đây thì thành chủ quan. Mà tóm tắt cốt truyện thì lại vô duyên, vì làm thế thì có khác gì mời bạn đi xem phim trinh thám rồi dọc đường đến rạp lại bô bô kể luôn ai bị giết ai bị bắt ai bị oan với những màn bất ngờ như thế nào mà https://thuviensach.vn cho đến giờ mình vẫn còn hồi hộp. Cho nên tôi chỉ xin phép nói mấy chuyện sau đây: Vừa rồi tôi có đọc cuốn Đường Kách mệnh , in trong tập 1 của bộ Văn kiện Đảng toàn tập ra năm 2005, và thực sự kinh ngạc và khâm phục ngôn ngữ sáng rõ của nó. Vấn đề gì cũng được nói đến một cách giản dị, sáng sủa, không thể ngờ vực gì được, như thể từ ngữ chính là linh hồn của cái mà chúng nói đến. Thế rồi tôi nghĩ đến hệ thống văn bản hiện nay, cái nào cũng cần hàng loạt những tài liệu hướng dẫn, những văn bản dưới luật, mà vẫn khó tìm thấy những tương đương của các câu chữ nọ trong thực tế. Và tôi tự hỏi: Ấy là vấn đề ngôn ngữ hay là vấn đề con người? Tại sao ngôn ngữ ngày càng mất tính chân xác và trở thành rối rắm như hiện nay? Làm thế nào để lại có thể ăn nói rõ ràng sáng sủa như trong Đường Kách mệnh ? Chuyện đi tìm lại thứ ngôn ngữ chân xác này của con người này, lạ lùng thay, lại là một chủ đề cốt lõi của New York Trilogy. Dạo hè vừa rồi tôi có dịch cuốn Tham vọng Bá quyền , bàn về tình hình thế giới sau sự kiện 11/9 – tức là sau khi tòa tháp đôi vĩ đại ở New York bị khủng bố phá sập. Hôm nọ lại đọc tin bên Dubai đang xây dựng một tòa tháp lớn nhất thế giới cao đến gần một cây số, bèn liên tưởng đến tòa tháp Babel huyền thoại, rồi ngẫm đến lịch sử loài người, rồi bỗng nhận ra rằng cái hệ lụy bi thảm trong ngôn ngữ và văn chương của tham vọng loài người cũng lại là một chủ đề của New York Trilogy. Tháng trước thì đọc thấy trên mạng một loạt những bài viết và ý kiến nhân hội nghị lí luận phê bình của Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức ở Đồ Sơn. Hình như ai cũng cố đề cập đến công việc và nội tâm của những người sống bằng ngôn ngữ và nghề viết. Lúc ấy tôi đang dịch đến đúng đoạn giai thoại về cái bô đầy cứt trong phòng ngủ của nhà thơ Mỹ vĩ đại Walt Whitman và bộ óc của ông bị đánh rơi tung tóe xuống sàn phòng thí nghiệm (sau khi ông chết), rồi nhận xét của một nhân vật về hình thức tương tự https://thuviensach.vn giữa cái bô cứt và bộ óc của con người phi thường ấy. Nhân vật ấy kết luận rằng: “Chúng ta luôn nói đến chuyện cố thâm nhập vào bên trong một nhà văn để hiểu rõ hơn công việc của ông ta. Nhưng khi vào thẳng trong đó rồi thì lại chẳng thấy gì nhiều – nghĩa là nội tạng ai thì cũng vậy thôi, chẳng khác nhau là mấy”. Than ôi, đúng là chẳng khác nhau là mấy về hình thức, nhưng cái thế giới nội tâm của người sinh ra để viết văn vẫn cứ là một bí hiểm khôn lường. Và lạ lùng thay, hình như cái bí hiểm khôn lường ấy mới là chủ đề xuyên suốt của tập trinh thám siêu hình hậu hiện đại này. Thế rồi tôi chợt nhận ra rằng cả ba cái chủ đề trong New York Trilogy thực ra chỉ là triển khai của một ý niệm cơ bản duy nhất, ấy là tấn kịch bi tráng của giấc mộng và sự nghiệp văn chương khi người cầm bút phải loại bỏ mọi giả hình để trực giao trần trụi với bản thân và thế giới trên con đường đi tìm ngôn ngữ đích thực để diễn ngôn sự thật. Cái giá phải trả cho văn chương thật là ghê gớm! Lạ thay, đúng lúc ấy thì tôi nhận được email của biên tập, nói liệu có nên dịch cái đầu đề New York Trilogy là Bộ ba truyện New York hay không? Có thể đại đa số bạn đọc Việt Nam sẽ hiểu Bộ ba truyện New York là ba câu chuyện gì đó về thành phố hoặc tiểu bang New York ở bên Mỹ. Mà hiểu nhầm như vậy thì rất thiệt cho độc giả. Sau khi thảo luận tới 9 phương án khác nhau, chúng tôi mới quyết định đặt tên cho bản dịch tiếng Việt này của New York Trilogy là TRẦN TRỤI VỚI VĂN CHƯƠNG. Chúng tôi tin rằng đây là tên gọi gần gụi nhất với tấn kịch bi tráng mà Paul Auster đã mô tả rất lạ lùng trong ba câu chuyện hoàn toàn độc lập mà lại quan hệ chặt chẽ với nhau này. Để câu chuyện đậm đặc các vấn nạn hiện sinh của mình được chân xác, Paul Auster, cũng như các nhân vật của ông, đã viện đến nhiều giai thoại lịch sử về những số phận khác nhau, và cách viết này, cộng với cấu trúc nhiều nguồn của các câu chuyện, đã khiến cho Trần trụi với văn chương trở https://thuviensach.vn thành một văn phẩm mà người đọc cảm thấy không biết ai thực sự là tác giả. Chính Paul Auster cũng xuất hiện trong truyện, với tên thật của mình, tên vợ tên con thật của mình (Siri là vợ hiện nay của ông, và hai người con là Daniel và Sophie). Nhân vật xưng tôi trong Căn phòng khóa kín thì lại xưng là tác giả của cả Thành phố thủy tinh lẫn Những bóng ma ; và còn nói rằng cả ba truyện trong tập này thực ra chỉ là một câu chuyện, diễn biến theo ba giai đoạn. Bạn cứ đọc đi đã rồi sẽ tự tìm ra được câu chuyện ấy. Phải chăng đó cũng là một đặc tính của văn chương hậu hiện đại: Đặc tính interactive – tương tác : Người đọc phải tham gia và tự tìm thấy câu chuyện cùng nghĩa lí của nó. Trần trụi với văn chương là một văn bản mở. Với một văn bản như thế này, bạn đọc nên coi mình cũng là tác giả, và nếu tác giả đã viết nó ý tứ và thận trọng như thế nào thì ta cũng nên đọc nó ý tứ và thận trọng như vậy, rồi sẽ ngộ được cái khoái cảm đặc biệt mà loại văn chương này mang lại. Để giúp bạn đọc thưởng thức tối đa cái khoái cảm đã hứa hẹn ấy, tôi có dùng một số giải pháp dịch thuật theo lí thuyết Skopos – đặt mục tiêu phục vụ người đọc lên hàng đầu – để vừa chuyển tải được hết ý vừa giữ được liền mạch văn của tác giả cũng như mạch đọc của độc giả; đồng thời cũng cố gắng chú thích hết những chi tiết mà tôi cho là bạn đọc có thể chưa biết, mà lại rất nên biết để thưởng thức câu chuyện đặc biệt này. Thành phố New York là nơi tôi đã trải qua những chuyện lạ lùng nhất trong đời mình. Có lẽ vì vậy mà từ lâu tôi đã muốn dịch New York Trilogy . Tôi xin có lời cảm ơn Công Ty Văn Hóa Phương Nam đã tin rằng công việc có động cơ cá nhân này sẽ giúp bạn đọc mở thêm một cửa sổ nhỏ nữa vào thế giới kì thú của văn chương Mỹ đương đại. Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Carol Mann và Paul Auster đã không ngại trả lời nhiều câu hỏi của tôi trong khi dịch cuốn sách này. https://thuviensach.vn Bây giờ thì mời bạn đọc hãy bước vào thế giới của Paul Auster như một thám tử văn chương, rồi thể nào bạn cũng phát hiện ra những điều kì thú. Trịnh Lữ Hà Nội, cuối Thu 2006. https://thuviensach.vn THÀNH PHỐ THỦY TINH 1 Tất cả bắt đầu từ một cú gọi nhầm số, chuông điện thoại reo ba lần giữa đêm khuya tịch mịch, và giọng nói ở đầu dây bên kia hỏi gặp một ai đó không phải là hắn. Mãi sau này, khi đã có thể suy nghĩ về những chuyện đã xẩy đến với mình, hắn mới kết luận được rằng chẳng có gì là thực cả, trừ chuyện ngẫu nhiên. Nhưng đấy là mãi về sau này. Còn lúc mới đầu thì chỉ có sự kiện ấy và những hậu quả của nó. Liệu những hậu quả ấy có thể khác đi được không, hay tất cả đã được quyết định trước bằng lời nói đầu tiên của kẻ lạ mặt kia, đấy không phải là câu cần hỏi. Cái ta muốn biết là bản thân câu chuyện cơ, nhưng liệu nó có ý nghĩa gì hay không thì chính nó lại không nói được. Với Quinn thì ta cũng chẳng cần phải mất nhiều thì giờ. Hắn là ai, hắn ở đâu ra, và hắn đã làm gì đều không mấy quan trọng. Ví dụ như ta biết rằng hắn 35 tuổi. Ta biết rằng hắn đã từng một lần lấy vợ, đã từng là một người cha, và rằng cả vợ và con trai hắn lúc bấy giờ đều đã chết cả rồi. Ta cũng biết rằng hắn viết sách. Nói chính xác, ta biết hắn vẫn viết tiểu thuyết trinh thám. Những tác phẩm ấy được viết dưới cái tên William Wilson, và hắn sản xuất chúng với tốc độ khoảng mỗi năm một cuốn, do vậy cũng đủ tiền sống tiềm tiệm trong một căn hộ nhỏ ở New York. Vì hắn chỉ cần từ năm đến sáu tháng để viết một cuốn tiểu thuyết, nên thời gian còn lại trong năm hắn tha hồ muốn làm gì thì làm. Hắn đọc nhiều sách, hắn xem tranh, xem phim. Mùa hè thì hắn xem bóng chày trên tivi; mùa đông thì hắn đi xem ca kịch. Tuy nhiên, cái mà hắn thích làm nhất, hơn hết cả mọi chuyện, là đi bộ. https://thuviensach.vn Hầu như ngày nào cũng vậy, nắng hay mưa, nóng hay lạnh, hắn cũng rời khỏi căn hộ của mình để đi bộ khắp thành phố, chẳng bao giờ thực sự đến một nơi nào, nhưng cứ chân bước đến đâu thì đi đến đó thế thôi. New York là một chốn không cùng, một mê cung vô tận, và dù hắn có đi xa đến mấy, có quen thuộc những con đường và các khu phố đến mấy, hắn vẫn luôn luôn có cảm giác bị lạc. Không những lạc trong cái thành phố ấy, mà còn lạc ngay trong bản thân mình. Lần nào bước ra đường, hắn cũng cảm thấy như đang bỏ bản thân mình lại phía sau, và khi thả mình theo sự chuyển động của các con phố, thu mình lại chỉ còn là một con mắt nhìn, hắn mới có thể trốn khỏi cái nghĩa vụ suy nghĩ, và điều đó, hơn hết mọi việc khác, mới mang lại cho hắn một liều bình an, một trạng thái hư tâm thỏa lòng mong đợi. Thế giới ở bên ngoài hắn, xung quanh hắn, trước mặt hắn, và tốc độ mà nó đang biến đổi đã khiến cho hắn không thể trú ngụ lâu vào bất kỳ thứ gì. Chuyển động là thiết yếu, cái việc đưa bàn chân này lên trước bàn chân kia và thả cho mình trôi theo cơ thể của chính mình. Hễ đã lang thang vô định thì nơi nào cũng như nơi nào và có ở đâu thì cũng chẳng thành vấn đề gì. Trong những chuyến cuốc bộ thành công nhất của mình, hắn mới có thể cảm thấy đúng là mình đang ở nơi vô định. Và rốt cuộc thì đó là tất cả những gì hắn mong đợi: Được ở nơi vô định. New York là một chốn vô định hắn đã xây cất được xung quanh mình, và hắn nhận ra rằng hắn sẽ không bao giờ có ý định rời bỏ nó một lần nữa. Ngày trước thì Quinn nhiều tham vọng hơn bây giờ. Hồi trẻ hắn đã cho xuất bản nhiều tập thơ, đã viết nhiều vở kịch, nhiều bài phê bình, và đã bỏ công dịch một số tác phẩm dài. Nhưng rồi hắn đã bỏ hết những việc ấy, một cách khá đột ngột. Hắn nói với bạn bè rằng một phần con người hắn đã chết, và hắn không muốn nó trở lại ám ảnh mình. Và sau đó hắn đã lấy cái tên William Wilson. Quinn không còn là cái phần của hắn có khả năng viết https://thuviensach.vn sách nữa, mặc dù Quinn vẫn tiếp tục tồn tại trên nhiều phương diện, hắn không còn tồn tại vì bất kỳ ai nữa ngoại trừ chính hắn. Hắn đã tiếp tục viết vì cảm thấy đó là việc duy nhất hắn có thể làm. Tiểu thuyết trinh thám có vẻ là một giải pháp hợp lý. Hắn có thể dễ dàng dựng nên những câu chuyện phức tạp mà thể loại này đòi hỏi, và hắn viết tốt, thường không ngờ mình có thể viết được như vậy, cứ như là không phải nỗ lực gì. Vì không tự coi là tác giả của những gì mình viết ra, nên hắn không thấy có trách nhiệm gì với việc ấy và do vậy cũng chẳng thấy buộc lòng phải biện hộ cho nó. Suy cho cùng thì William Wilson chỉ là một hư cấu, mặc dù thằng cha này đã do chính Quinn sinh ra, nhưng bây giờ thì gã lại có một cuộc sống độc lập thật rồi. Quinn rất tôn trọng gã, nhiều khi còn khâm phục nữa, nhưng không bao giờ sa đà đến mức tin rằng hắn và William Wilson chỉ là một người mà thôi. Chính vì thế mà hắn không bao giờ ló ra khỏi cái mặt nạ bút danh ấy. Hắn có một người làm đại diện cho mình, nhưng không bao giờ gặp mặt. Họ chỉ tiếp xúc qua thư từ, mà để làm việc này Quinn chỉ dùng địa chỉ là số hộp thư thuê ở một nhà bưu điện. Với nhà xuất bản cũng vậy, họ phải trả đủ mọi thứ phí tổn, tiền công và nhuận bút cho Quinn thông qua đại diện của hắn. Sách của William Wilson không bao giờ có thông tin giới thiệu hoặc ảnh chụp tác giả. William Wilson không có tên trong danh mục các tác giả, không bao giờ trả lời phỏng vấn, và tất cả thư từ gửi cho gã đều do thư ký của đại diện trả lời hộ. Theo Quinn thì không có ai biết bí mật này của hắn. Lúc đầu, khi bạn bè biết tin hắn đã bỏ nghiệp văn chương, họ thường hỏi hắn sẽ định sống thế nào. Với ai hắn cũng nói rằng hắn vừa được thừa hưởng một cái quỹ bảo trợ của vợ. Nhưng sự thật là vợ hắn đã chẳng bao giờ có tiền nong gì. Và sự thật là hắn cũng chẳng còn bạn bè gì nữa. Từ bấy đến nay đã hơn năm năm trời. Hắn không còn nghĩ đến đứa con trai nhiều lắm nữa, và mới đây đã tháo bức ảnh vợ vẫn treo ở trên tường https://thuviensach.vn xuống. Thỉnh thoảng hắn vẫn đột nhiên nhớ lại cái cảm giác đang ôm thằng bé lên ba ấy trong tay – nhưng thực ra đó không phải là nhớ lại trong ý nghĩ, mà là một cảm giác nhục thể hẳn hoi, một lưu dấu của quá khứ vẫn hằn sâu trong thân xác mà hắn không thể kiểm soát nổi. Nhưng giờ thì những khoảnh khắc ấy cũng đã thưa dần, và có vẻ như hầu hết mọi chuyện đã đang bắt đầu đổi khác. Hắn không còn muốn chết nữa. Nhưng cũng không thể bảo là hắn đã thấy vui vì còn sống. Nhưng ít nhất thì hắn cũng không còn ghét sống nữa. Hắn còn sống, và sự ương bướng của sự thật ấy đã bắt đầu làm cho hắn kinh ngạc, từng tí một, như thể hắn đã sống dai hơn chính bản thân mình, như đang sống một cuộc đời hậu sự vậy. Hắn không còn phải để đèn lúc ngủ nữa, và đã nhiều tháng rồi hắn chẳng nhớ được bất kỳ một giấc mơ nào của mình. Lúc ấy là ban đêm. Quinn nằm hút thuốc lá trên giường, nghe tiếng mưa đập vào kính cửa sổ, không biết lúc nào trời mới tạnh và sáng mai liệu có nên làm một cuốc đi dài hoặc ngắn nữa hay không. Một cuốn Du ký của Marco Polo mở úp trên gối ngay cạnh hắn. Sau khi viết xong cuốn tiểu thuyết mới nhất của William Wilson hai tuần trước đó, hắn đã tự cho mình được nhàn hạ chưa phải bắt tay vào việc gì. Nhân vật thám tử của hắn, Max Work, đã phá xong một loạt những vụ án phức tạp, đã phải nhiều phen bị đánh đập và tưởng chừng mất mạng, và không hiểu sao Quinn cũng cảm thấy kiệt sức thay cho gã. Năm tháng trôi qua, và Work đã thành ra rất thân thiết với Quinn. Trong lúc William Wilson chỉ tồn tại như một nhân vật trừu tượng thì Work đã ngày càng sống động như một con người có thật. Trong mối quan hệ bản ngã tay ba mà Quinn đã hình thành cho mình thì Wilson chỉ có vai trò của một anh kể chuyện mà miệng không động đậy, như người nói tiếng bụng, bản thân Quinn cũng chỉ là hình nhân, và chỉ có Work mới là cái giọng sinh động mang lại lẽ sống cho cả ba. Nhưng cho dù Wilson chỉ là một ảo ảnh đi nữa thì gã vẫn là lý do tồn tại của cả hai người kia. Có không tồn tại đi nữa thì Wilson vẫn cứ là cây cầu để Quinn đi từ bản thân https://thuviensach.vn mình sang với Work. Và dần dần từng tí một, Work đã trở thành một hiện diện trong cuộc sống của Quinn, một người anh em nội tại, một đồng chí trong cõi cô liêu của hắn. Quinn nhặt cuốn sách của Marco Polo lên và bắt đầu đọc lại trang thứ nhất. “Chúng tôi sẽ ghi lại đúng những gì đã thấy và đã nghe, đặng cho cuốn sách của chúng tôi có thể là một tài liệu chính xác, không có bất kỳ một thứ bịa tạc nào. Và tất cả những ai đọc và nghe cuốn sách này có thể hoàn toàn tin tưởng nó, bởi nó chỉ chứa đựng duy nhất có sự thật mà thôi”. Đúng lúc Quinn bắt đầu ngẫm nghĩ về ý nghĩa của mấy câu ấy, bắt đầu lật đi lật lại những đoạn chắc rắn rỏi của chúng trong tâm trí, thì chuông điện thoại reo. Mãi về sau này, khi hắn đã có thể tái hiện những sự kiện của đêm ấy, hắn mới nhớ là có nhìn sang chiếc đồng hồ để bàn, thấy đã quá 12 giờ đêm, và thắc mắc không biết vì sao lại có người gọi hắn vào giờ ấy. Hắn đã nghĩ chắc lại có tin gì xấu đây. Hắn trèo ra khỏi giường, cứ trần truồng đi ra chỗ để điện thoại, và nhấc ống nghe lên sau hồi chuông thứ hai. - “Tôi nghe đây”. Đầu dây bên kia im lặng một hồi lâu, đến nỗi Quinn tưởng là người gọi đã gác máy. Nhưng rồi, như thể từ một nơi nào xa lắm, một giọng nói vọng đến, không giống bất kỳ một giọng nói nào mà hắn đã từng nghe. Nó vừa máy móc vừa đầy ắp cảm xúc, chỉ như một tiếng thầm thì mà lại hoàn toàn rõ ràng, và đều đều đến nỗi hắn không thể đoán ngay được là giọng đàn ông hay đàn bà. - “Alô?”, cái giọng ấy nói. - “Thưa ai gọi đó ạ?”, Quinn hỏi. - “Alô?”, giọng nói lại cất lên. https://thuviensach.vn - “Tôi đang nghe đây”, Quinn đáp. “Ai gọi đấy ạ?”. - “Có phải Paul Auster đấy không?”, giọng nói hỏi. “Tôi muốn nói chuyện với ông Paul Auster”. - “Ở đây không có ai là Paul Auster”. - “Paul Auster. Của hãng thám tử Auster mà”. - “Xin lỗi”, Quinn nói. “Chắc là quí vị nhầm số rồi”. - “Chuyện này cực kỳ cấp bách”, giọng nói lại cất lên. - “Tôi không thể giúp gì quí vị được”, Quinn nói. “Đây không có ai là Paul Auster cả”. - “Ông không hiểu”, giọng nói lại tiếp tục. “Không còn nhiều thời gian nữa rồi”. - “Vậy quý vị phải gọi số khác thôi. Đây không phải là hãng thám tử nào cả”. Quinn gác máy. Hắn đứng đó trên sàn nhà lạnh giá, nhìn xuống hai bàn chân mình, cặp đầu gối mình, hạ bộ thõng thợt của mình. Hắn thoáng thấy tiếc đã gác máy vội đến thế, thầm nghĩ giá cứ vờ chuyện trò thêm với người kia một tí biết đâu lại hóa hay. Biết đâu hắn lại tìm ra được cái gì đó về vụ này, thậm chí còn có thể giúp một tay thế nào đó thì sao. “Mình phải tập nhanh trí hơn trong khi đứng mới được”, hắn tự nhủ thế. Cũng như hầu hết mọi người, Quinn gần như chẳng biết gì về tội phạm. Hắn chưa từng giết ai, chưa ăn cắp cái gì bao giờ, và cũng không quen ai làm những chuyện ấy. Hắn chưa từng vào bên trong một đồn cảnh sát nào, chưa từng gặp một thám tử nào, và chưa bao giờ nói chuyện với một tội https://thuviensach.vn nhân. Tất cả những gì mà hắn biết về những thứ này đều là do học được từ sách vở, phim ảnh và báo chí. Nhưng hắn không coi đó là một khiếm khuyết. Cái mà hắn quan tâm trong những câu chuyện mà hắn viết ra không phải là mối liên hệ của chúng với thế giới, mà là quan hệ của chúng với những câu chuyện khác. Trước khi hắn trở thành William Wilson, Quinn đã là một độc giả cuồng nhiệt của tiểu thuyết trinh thám. Hắn biết rằng hầu hết những tiểu thuyết này đều viết vụng, và chỉ cần xét nét một tí thôi là chúng đều vô lý cả, nhưng hắn vẫn thấy mê thể loại này, và chỉ bỏ không đọc những cuốn nào họa hoằn thảm hại lắm mà thôi. Với những sách khác thì hắn có thị hiếu rất cao, đòi hỏi gần như đến mức hẹp hòi, nhưng với truyện trinh thám thì hắn gần như chẳng phân biệt gì. Khi hứng lên, hắn có thể dễ dàng ngốn hết mươi mười hai cuốn liền một mạch, giống như lên cơn thèm một món đặc biệt nào đó và phải ngấu nghiến đến căng bụng mới thôi. Cái hắn thích ở những sách loại này là ý thức đầy đủ và tiết kiệm của chúng. Đã là một câu chuyện trinh thám hay thì không được phí phạm bất kỳ cái gì, không có câu nào, chữ nào không có ý nghĩa quan trọng. Thậm chí nếu chúng không quan trọng thì cũng phải tiềm tàng khả năng để trở thành quan trọng, nghĩa là cũng vậy thôi. Thế giới trong cuốn sách sống động, sôi nổi với những khả năng khác nhau, những bí ẩn và mâu thuẫn. Và vì tất cả những gì thấy hoặc nghe được, ngay cả những thứ nhỏ nhặt tầm thường nhất, cũng đều liên quan đến kết cục của câu chuyện, cho nên người đọc không được bỏ qua bất kỳ chi tiết nào. Mọi thứ đều trở thành thiết yếu; trọng tâm của cuốn sách dịch chuyển theo mỗi một sự kiện đang đẩy câu chuyện về phía trước. Cho nên trọng tâm là ở khắp mọi nơi, và ta không thể khoanh tròn một điểm nào cho đến lúc cuốn sách đã vào hồi chung cuộc. Thám tử là người để ý nhìn và lắng nghe, là người chuyển dịch qua những sự vật hỗn loạn để tìm cho ra cái tư tưởng, cái ý tưởng sẽ kéo tất cả những thứ đó vào với nhau và làm cho chúng có ý nghĩa. Về hiệu quả thì https://thuviensach.vn nhà văn và thám tử là có thể đổi chỗ được cho nhau. Người đọc thấy thế giới thông qua con mắt của thám tử, trải nghiệm quá trình nẩy nở của các chi tiết trong thế giới ấy như ở buổi khôi nguyên của chúng. Hắn đã thức tỉnh và nhận biết được mọi thứ xung quanh mình, như thể chúng sẽ nói với hắn, như thể, vì giờ đây hắn đang chăm chú đến chúng như vậy, chúng sẽ bắt đầu mang một ý nghĩa nào đó khác với sự thật đơn giản về sự tồn tại của chúng. Private eye – con mắt riêng tư kín đáo. Thuật ngữ này có ba ý nghĩa đối với Quinn. Không những cái âm “ai” của từ eye là trùng với âm của chữ đầu tiên trong từ “investigator” – nhà điều tra – mà nó còn là cái âm của chữ “I” viết hoa, nghĩa là “tôi”, cái nụ sống nhỏ xíu bị chôn vùi trong thân xác của bản ngã đang thở hít này. Đồng thời, con mắt riêng tư kín đáo ấy cũng là con mắt thực thể của nhà văn, con mắt của người nhìn từ trong bản thân mình ra thế giới và đòi thế giới phải lộ diện cho mình thấy. Trong năm năm qua, Quinn đã sống trong gọng kìm của cái thuật ngữ giật gân ấy. Tất nhiên, đã lâu rồi hắn không còn coi mình là có thật nữa. Nếu giờ đây hắn có sống trong thế giới nào đó, thì đó chỉ là cái cõi tồn tại trong con người tưởng tượng của Max Work. Công việc thám tử của hắn thì nhất thiết phải là thật. Bản chất của loại sách này đòi hỏi phải như vậy. Nếu Quinn đã cho phép mình được biến mất, thì Work tiếp tục sống trong thế giới của những người khác, và Quinn càng có vẻ tiêu biến đi bao nhiêu thì sự hiện diện của Work trong cái thế giới ấy lại càng vững chắc hơn bấy nhiêu. Trong khi Quinn ngày càng thấy lạc lõng dưới lần da thịt của chính mình, thì Work lại thành dạn dĩ hơn, bặt thiệp hơn, thoải mái tự tin hơn dù ở vào bất kỳ hoàn cảnh nào. Những gì mà Quinn thấy khó khăn thì Work lại cho là chuyện bình thường, và gã cứ thế thoát qua mọi hiểm nghèo trong những cuộc mạo hiểm của mình với một thái độ dễ dàng và phớt tỉnh luôn luôn làm cho kẻ hư cấu nên gã phải kinh ngạc. Cũng không phải đích xác là Quinn muốn trở thành Work, hoặc thậm chí giống như gã, nhưng hắn thấy yên trí khi giả vờ là Work trong lúc viết những cuốn sách ấy, biết rằng nếu https://thuviensach.vn muốn thì hắn có thể trở thành Work được ngay, cho dù chỉ là trong tâm tưởng. Đêm hôm đó, khi cuối cùng hắn thiếp vào giấc ngủ, Quinn đã thử tưởng tượng xem Work sẽ nói gì với kẻ lạ mặt kia qua điện thoại. Trong giấc mơ mà sau này hắn sẽ quên khuấy, hắn thấy mình đơn độc trong một căn phòng, đang bắn vào một bức tường trắng trần trụi bằng một khẩu súng lục. Đêm hôm sau, Quinn đã bị bất ngờ. Hắn đã tưởng sự việc thế là xong và không nghĩ kẻ lạ mặt kia sẽ gọi lại nữa. Chuyện là thế này, hắn đang ngồi táo bón trên bệ xí, vừa định lấy hơi rặn một lần nữa thì điện thoại reo. Lúc ấy hơi muộn hơn đêm trước một tí, có lẽ chỉ mươi mười hai phút nữa là đến một giờ sáng. Quinn vừa đọc đến chương kể về chuyến đi của Marco Polo từ Bắc Kinh đến Amoy, và cuốn sách vẫn mở để trên lòng trong lúc hắn ngồi trong cái nhà tắm nhỏ xíu. Tiếng chuông điện thoại vang lên như một phiền nhiễu nhức nhối. Hắn không muốn chưa lau chùi gì mà cứ thế tồng ngồng chạy ra chỗ để điện thoại tận đầu bên kia của căn hộ; mặt khác, nếu cứ cái đà táo bón này mà để xong rồi mới chạy ra thì thể nào cũng lỡ. Vậy mà Quinn chẳng muốn động cựa tí nào. Hắn vẫn không ưa gì cái điện thoại, và đã nhiều lần định bỏ không dùng nữa. Cái mà hắn ghét nhất là thói độc tài của nó. Không những nó có quyền quấy nhiễu hắn bất kỳ lúc nào, mà thể nào rồi hắn cũng phải nghe theo lệnh của nó. Lần này thì hắn quyết định phải chống lại. Đến hồi chuông thứ ba thì hắn đã sạch bụng. Hết hồi chuông thứ tư thì hắn đã chùi mình sạch sẽ. Hồi chuông thứ năm thì hắn đã kéo quần lên, ra khỏi buồng tắm và bình thản bước đến chỗ để điện thoại. Hắn nhấc máy ở hồi chuông thứ sáu, nhưng không có ai ở đầu dây bên kia nữa. Người gọi đã gác máy. Đêm hôm sau, hắn ngóng máy. Nằm dài trên giường, đọc hết bài này đến bài khác trên tờ tin thể thao, hắn đợi người lạ mặt gọi lại lần thứ ba. Thỉnh thoảng, khi bồn chồn không chịu nổi nữa, hắn đứng lên và đi đi lại lại trong https://thuviensach.vn căn hộ. Hắn cho chạy một cái đĩa hát – vở nhạc kịch Người trên Cung Nguyệt của Haydn – và nghe hết từ đầu đến cuối. Hắn đợi, và đợi. Đến hai rưỡi sáng thì hắn bỏ cuộc và đi ngủ. Đêm sau đó hắn cũng đợi, và cả đêm tiếp theo nữa cũng vậy. Rồi khi hắn đã định thôi không đợi nữa, cho rằng mọi giả định của mình đều sai cả rồi, thì điện thoại lại reo. Đó là ngày 19 tháng Năm. Hắn nhớ được là vì đó là ngày cưới của bố mẹ hắn – nếu còn sống thì họ vẫn kỷ niệm – và mẹ hắn đã có lần bảo hắn rằng bà đã thụ thai hắn ngay trong đêm tân hôn. Chuyện này là rất hay đối với hắn, vì hắn cho rằng mình đã biết được đích xác cái thời điểm khởi đầu cuộc sinh tồn của chính mình, và trong bao nhiêu năm trời vẫn âm thầm kỷ niệm sinh nhật của hắn vào ngày đó. Lần này thì sớm hơn hai lần trước – chưa đến 11 giờ – và khi nhấc máy hắn tưởng sẽ là một ai đó khác. - “Alô?”, hắn nói. Đầu dây bên kia lại im lặng. Quinn biết ngay đó là người lạ mặt. - “Alô?”, hắn nói tiếp. “Tôi giúp gì được quí vị đây?”. - “Có đấy ạ”, giọng nói cất lên, vẫn thầm thì máy móc như thế, vẫn âm điệu tuyệt vọng như thế. “Vâng. Ngay bây giờ. Không thể chậm được nữa”. - “Vậy quí vị cần gì?”. - “Nói. Ngay bây giờ. Tôi cần nói ngay lập tức. Vâng”. - “Quí vị muốn nói với ai?”. - “Thì vẫn là người ấy thôi - Auster. Người mang tên là Paul Auster”. https://thuviensach.vn Lần này thì Quinn không do dự nữa. Hắn đã biết hắn sẽ làm gì, và đây chính là lúc để hắn làm việc đó. - “Tôi đây”, hắn nói. “Paul Auster đang nói đây”. - “Có thế chứ. Cuối cùng thì tôi cũng tìm được ông”. Hắn có thể nhận ra vẻ giải tỏa trong cái giọng nói ấy, như thể nó vừa đột ngột hóa thành một thực thể bình thản hẳn hoi. - “Đúng vậy”, Quinn nói. “Quí vị đã tìm thấy tôi rồi”. Hắn im lặng một lát để câu nói ấy ngấm hết vào người lạ cũng như vào chính hắn. "Tôi giúp quí vị được gì đây?". - “Tôi cần ông giúp”, giọng nói tuyên bố. “Việc này nguy hiểm lắm. Họ nói chỉ có ông mới làm nổi”. “Còn tùy xem ông đang nói đến việc gì”. - “Việc chết người. Tôi đang nói đến cái chết và việc giết người”. - “Đó thực ra không phải chuyên môn của tôi”, Quinn nói. “Tôi không phải là sát thủ”. - “Không”, giọng nói có vẻ rất sốt ruột. “Ý tôi là ngược lại kia”. - “Có ai đang muốn giết quí vị ư?”. - “Vâng, giết tôi. Đúng vậy. Tôi sắp bị người ta giết”. - “Và quí vị muốn tôi bảo vệ quí vị ư?”. - “Bảo vệ tôi, vâng. Và tìm ra người đang sắp làm việc này”. - “Quí vị không biết là ai ư?”. https://thuviensach.vn - “Tôi có biết, vâng. Tất nhiên là tôi biết. Nhưng tôi không biết gã ở đâu”. - “Quí vị có thể nói rõ chuyện với tôi được không?”. - “Không phải bây giờ. Không nói qua điện thoại được. Nguy hiểm lắm. Ông phải đến đây mới được”. - “Ngày mai được chứ?”. - “Tốt. Ngày mai. Sớm mai. Buổi sáng”. - “Mười giờ được không?”. “Được. Mười giờ”. Giọng nói cho một địa chỉ ở Phố 69 Đông [1] . “Xin đừng quên, thưa ông Auster. Ông phải đến đấy”. - “Đừng lo”, Quinn nói. “Tôi sẽ có mặt ở đó”. 2 Sáng hôm sau, Quinn dậy sớm hơn thường lệ so với nhiều tuần lễ trước đó. Trong lúc uống cà-phê, phết bơ lên bánh mì nướng, và đọc qua tỉ số của các trận bóng chày trên báo (đội Mets lại thua nữa, với tỉ số một hai, vì một sai lầm trong lần ném thứ chín), hắn không hề nghĩ rằng mình sắp có cái hẹn phải đi. Ngay cả mấy chữ có cái hẹn phải đi cũng có vẻ lạ lẫm đối với hắn. Đây không phải là cái hẹn của hắn, mà là của Paul Auster. Và người ấy là ai thì hắn hoàn toàn mù tịt. Tuy nhiên, hắn thấy mình dần quen với việc bắt chước một người đang chuẩn bị đi. Hắn dọn bàn sau bữa sáng, ném tờ báo lên mặt ghế sô-pha, vào buồng tắm, xì hương sen, cạo mặt, quấn hai tấm khăn tắm đi ra phòng ngủ, mở tủ chọn quần áo. Hắn thấy mình có ý định mặc áo tây thắt cà-vạt. Quinn https://thuviensach.vn đã thôi đeo cà-vạt kể từ sau tang lễ của vợ và con trai, và thậm chí không còn nhớ là hắn có còn cái cà-vạt nào trong nhà nữa không. Nhưng nó kia rồi, treo lủng lẳng giữa đám lộn xộn trong tủ quần áo. Nhưng hắn không chọn sơ-mi trắng vì quá trịnh trọng, mà lấy một chiếc áo kẻ sọc xám và đỏ để đi với cái cà-vạt xám. Hắn đóng bộ như trong một cơn lên đồng. Mãi đến lúc đặt tay lên núm cửa, hắn mới bắt đầu nghi ngại việc mình sắp làm. “Hình như ta đang sắp ra đường”, hắn tự nhủ. “Nhưng nếu ta ra đường thì là để đi đâu nhỉ?”. Một tiếng sau, khi từ chiếc xe buýt số 4 bước xuống chỗ góc phố 70 và Đại lộ Năm, hắn vẫn không trả lời được câu hỏi ấy. Phía bên này hắn là Central Park [2] , xanh ngắt trong nắng sáng, với những bóng râm sắc nét và lay động; phía bên kia là nhà bảo tàng Frick [3] , trắng tinh và khắc khổ, như thể đã bị bỏ lại cho người chết cư ngụ. Hắn thoáng nghĩ đến bức tranh Anh lính và Thiếu nữ cười của Vermeer, cố nhớ lại vẻ mặt của cô gái, vị trí chính xác của đôi bàn tay ôm quanh chiếc cốc, tấm lưng đỏ của người đàn ông không nhìn thấy mặt. Trong tâm trí, hắn thoáng thấy tấm bản đồ xanh nước biển ở trên tường và những tia nắng đang xuyên qua cửa sổ, rất giống những tia nắng đang bao vây hắn lúc bấy giờ. Hắn đang bước đi. Hắn đang băng ngang con phố và đi về phía Đông. Đến Đại lộ Madison, hắn rẽ phải và đi về phía Nam một đoạn, sau đó rẽ trái và nhận ra mình đang ở đâu. “Hình như ta đã đến nơi rồi”, hắn tự nhủ, đứng dừng trước cửa tòa nhà. Mọi chuyện bỗng chẳng thành vấn đề gì nữa. Hắn thấy bình thản một cách lạ lùng, như thể mọi chuyện sẽ xẩy đến với hắn đều đã xẩy ra rồi. Khi mở cánh cửa sẽ dẫn hắn vào trong sảnh, hắn tự cho mình một lời khuyên cuối cùng. “Nếu chuyện này là có thật”, hắn nói, “thì ta phải cẩn thận mới được”. Mở cửa căn hộ là một người đàn bà. Không hiểu sao Quinn đã không lường trước được chuyện đó, và hắn thấy loạng choạng như tầu trật bánh. Mọi thứ đã diễn biến quá nhanh. Trước khi có cơ hội chấp nhận sự hiện https://thuviensach.vn diện của người đàn bà ấy, quan sát bà và có được một ấn tượng nào đó, thì bà ta đã đang nói với hắn rồi, buộc hắn phải đáp lời. Vì thế mà ngay ở những giây phút đầu tiên, hắn đã mất chỗ đứng của mình, bắt đầu không đuổi kịp chính mình. Sau này, khi có thời gian suy ngẫm lại về những sự kiện ấy, hắn mới có thể chắp nối lại lần sơ kiến với người đàn bà đó. Nhưng đó là tác phẩm của ký ức, và hắn biết rằng những gì được nhớ lại thường có khuynh hướng đảo lộn những gì mình muốn nhớ. Và kết quả là hắn không bao giờ chắc được là chuyện đã thực sự diễn ra như thế nào. Người đàn bà ấy khoảng ba mươi, có thể ba mươi lăm, tầm thước, hông nở hơi quá, cũng có thể gọi là ngồn ngộn quá, tùy cách nhìn; tóc sẫm, mắt sẫm, và cặp mắt ấy có một vẻ vừa tự chủ vừa hơi có ý quyến rũ. Bà mặc một bộ áo váy đen, môi tô son rất đỏ. - “Ông Auster?”. Một nụ cười e ấp; một cái nghiêng đầu đầy dò hỏi. - “Đúng vậy”, Quinn nói. “Paul Auster”. - “Tôi là Virginia Stillman”, người đàn bà lên tiếng. “Vợ của Peter. Anh ấy đã ngóng ông từ 8 giờ sáng đến giờ”. - “Chúng tôi đã hẹn nhau mười giờ”, Quinn nói, liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Vừa vặn đúng mười giờ. - “Anh ấy bồn chồn lắm”, người đàn bà giải thích. “Trước đây tôi chưa thấy anh ấy như thế này bao giờ. Anh ấy không đợi được nữa”. Bà mở cửa cho Quinn. Khi bước qua ngưỡng cửa vào trong căn hộ, hắn có thể cảm thấy mình đang trống rỗng đi, như thể bộ não hắn bỗng dưng tắt phụt. Hắn đã muốn ghi nhớ những chi tiết của những gì đang nhìn thấy, nhưng không hiểu sao lúc ấy hắn không thể làm nổi. Căn hộ bao trùm khắp xung quanh hắn như một thứ nhạt nhòa. Hắn vẫn biết là nó rất rộng, có lẽ https://thuviensach.vn đến năm hoặc sáu phòng, và bài trí rất phong phú, với rất nhiều đồ nghệ thuật, gạt tàn bằng bạc, và những bức tranh đóng khung rất cầu kỳ trên tường. Nhưng chỉ thế thôi. Không hơn một ấn tượng chung chung, mặc dù hắn đã ở đó và đang tận mắt nhìn ngó những thứ ấy. Hắn thấy mình ngồi trên một cái sô-pha, một mình trong phòng khách. Giờ thì hắn nhớ ra rằng bà Stillman đã bảo hắn đợi ở đó để bà vào gọi chồng. Hắn không thể biết đã ngồi đó bao lâu rồi. Chắc hẳn cũng chỉ một hai phút là cùng. Nhưng nhìn những tia nắng đang rọi vào qua cửa sổ thì có vẻ cũng gần trưa rồi. Tuy nhiên, hắn cũng chẳng nghĩ đến chuyện xem đồng hồ. Mùi nước hoa của Virginia Stillman vẫn lẩn quất quanh hắn, và hắn bắt đầu tưởng tượng xem bà ta ra sao khi không có mảnh vải nào trên người. Rồi hắn nghĩ đến chuyện Max Work có thể sẽ nghĩ gì nếu gã ở đó. Hắn quyết định châm một điếu thuốc lá. Hắn nhả khói vào phòng, khoái trá nhìn từng cụm rời khỏi miệng, tản ra, và khác hẳn đi khi bắt nắng. Nghe có tiếng ai đang vào phòng từ phía sau, Quinn đứng dậy và quay lại, tưởng sẽ thấy bà Stillman. Nhưng đó là một người đàn ông còn trẻ, mặc toàn đồ trắng, với bộ tóc vàng nhạt của một chú bé. Ma quái làm sao, ngay giây phút đầu tiên ấy, Quinn chợt nghĩ đến đứa con trai đã chết của mình. Rồi cũng bất chợt như vậy, cái ý nghĩ ấy lại biến đi. Peter Stillman bước vào phòng và ngồi xuống một chiếc ghế bành bọc nhung đỏ kê đối diện với Quinn. Ông không nói một lời nào, làm như không hề biết có Quinn ở đó. Hình như việc đi từ chỗ này đến chỗ kia đã đòi hỏi toàn bộ sự chú ý của ông, như thể nếu không nghĩ đến chuyện đó thì ông sẽ thành bất động. Quinn chưa thấy ai đi lại kiểu ấy bao giờ, và hắn biết ngay đây chính là người đã nói chuyện với hắn qua điện thoại. Tấm thân kia hành động giống hệt cái giọng nói nọ: Rất máy móc, giật cục, hết chậm lại nhanh, cứng nhắc mà vẫn biểu cảm, như thể toàn bộ hoạt động ấy là không kiểm soát được, không hoàn toàn nghe theo cái ý chí nằm đằng sau nó. https://thuviensach.vn Quinn thấy hình như cơ thể của Stillman đã không được sử dụng rất lâu rồi và mọi chức năng của nó đang phải tự học lại hết, cho nên chuyển động cũng trở thành một quá trình có ý thức, mỗi một chuyển động đều phải chia ra thành nhiều động tác cấu thành, cho nên tất cả những gì luôn mềm mại và tức thời đều không còn nữa. Giống như ta nhìn một con rối đang cố bước đi mà không cần giây điều khiển vậy. Mọi thứ ở Peter Stillman đều trắng. Sơ-mi trắng, cổ mở; quần trắng, giầy trắng, bí-tất trắng. Cộng với nước da nhợt nhạt và mái tóc thưa mỏng như lanh của ông, tất cả thành ra gần như trong suốt, tưởng chừng như có thể nhìn thấu đến cả những tĩnh mạch xanh xanh dưới làn da mặt của ông ta. Cái màu xanh ấy cũng gần hệt như màu xanh của mắt ông: Một thứ xanh da trời lờ lờ như sữa hình như sắp tan thành hỗn chất của trời và mây. Quinn không thể hình dung nổi mình sẽ nói được một lời nào với con người này. Hình như sự hiện diện của Stillman tự nó là một mệnh lệnh bắt phải im lặng. Stillman chậm rãi ổn định chỗ ngồi và cuối cùng chuyển sự chú ý của mình sang Quinn. Khi bốn mắt gặp nhau, Quinn đột nhiên cảm thấy Stillman đã trở thành vô hình. Hắn vẫn thấy ông ta đang ngồi trên chiếc ghế đối diện mình, mà hình như lại không có ở đó. Quinn chợt nghĩ có lẽ Stillman bị mù. Nhưng không, không thể thế được. Người đàn ông kia đang nhìn hắn, thậm chí đang dò xét hắn rất kỹ, và cho dù gương mặt ấy không có tí biểu lộ nhận biết nào, nó vẫn có một cái gì đó hơn hẳn một cái nhìn trống rỗng. Quinn không biết phải làm gì. Hắn ngồi đờ ở đó, nguyên tại chỗ, nhìn lại Stillman. Cứ thế một lúc lâu. - “Xin đừng hỏi gì hết”, người đàn ông còn trẻ cuối cùng lên tiếng. “Vâng. Đừng. Cám ơn”. Ông ta dừng lại một lúc. “Tôi là Peter Stillman”. Tôi nói hoàn toàn theo ý nguyện riêng của mình. Vâng. Đó không phải là tên thật của tôi. Đúng vậy. Tất nhiên, tâm trí tôi không được hoàn toàn như https://thuviensach.vn nó muốn. Nhưng chẳng làm sao được. Không làm gì được. Về chuyện ấy. Không được, không được. Không còn được nữa. Anh ngồi đó và nghĩ: Người đang nói với ta đây là ai? Hắn đang thốt ra những lời lẽ gì vậy? Tôi sẽ nói cho anh rõ. Còn nếu không thì tôi sẽ không nói cho anh đâu. Sẽ hoặc không. Tâm trí tôi không được hoàn toàn như nó muốn. Tôi nói hoàn toàn theo ý nguyện riêng của mình. Nhưng tôi sẽ cố. Sẽ hoặc không. Tôi sẽ cố nói cho anh biết, cho dù tâm trí tôi khiến cho việc này rất khó khăn. Cám ơn anh. - Tên tôi là Peter Stillman. Có thể anh đã nghe về tôi, nhưng có lẽ chưa thì đúng hơn. Không sao. Đó không phải là tên thật của tôi. Tên thật của tôi thì tôi không thể nhớ ra được. Xin lỗi. Mà có nhớ thì cũng chẳng khác gì. Nghĩa là bây giờ thì cũng chẳng khác gì nữa rồi. - Đây là cái người ta gọi là nói. Chắc là thế đấy. Khi lời theo nhau ra, bay vào không trung, sống được một lúc, rồi chết. Lạ, phải không nào? Tôi thì chẳng có ý kiến gì. Không có và không có. Ấy thế mà có những lời ta sẽ phải cần đến. Nhiều lắm. Chắc phải nhiều triệu. Cũng có thể chỉ ba hoặc bốn triệu. Xin lỗi. Nhưng hôm nay tôi khá đấy. Khá hơn nhiều so với mọi khi. Nếu tôi có thể cho anh những lời anh cần, đó sẽ là một thắng lợi vĩ đại. Cám ơn. Cám ơn anh hàng triệu lần. Trước đây lâu rồi thì có mẹ và bố. Tôi chẳng nhớ ai cả. Họ bảo: Mẹ chết rồi. Họ là ai thì tôi không biết. Xin lỗi. Nhưng họ nói vậy đấy. Thế là không có mẹ. Ha ha. Bây giờ tôi cười như thế đấy, bụng cứ nổ ra những tiếng hỗn loạn. Ha ha ha. Bố to lớn bảo: Có khác gì đâu. Với tôi ấy. Nghĩa là với ông ấy nữa. Bố to lớn của những bắp thịt to lớn và những cú đấm thùm thụp thùm thụp thùm thụp. Đừng hỏi gì vội, làm ơn nhé. https://thuviensach.vn Tôi nói những gì họ nói bởi vì tôi có biết gì đâu. Tôi chỉ là Peter Stillman tội nghiệp, thằng bé không thể nhớ được chuyện gì. Ô hô. Có làm gì được đâu. Một thằng ngốc. Xin lỗi. Họ nói, họ nói. Nhưng Peter nhỏ bé tội nghiệp thì nói gì? Không gì cả, không gì cả. Không gì cả nữa rồi. Có cái này. Bóng tối. Rất tối. Tối thật là tối. Họ bảo đó là căn phòng. Cứ như tôi có thể nói về nó vậy. Bóng tối ấy mà. Cám ơn. Tối, tối. Họ nói trong chín năm. Không có đến một cái cửa sổ. Tội nghiệp Peter Stillman. Và những cú thùm thụp thùm thụp thùm thụp. Cứt chất thành đống. Nước đái đọng thành hồ. Những cơn chóng mặt. Xin lỗi. Tê dại và trần truồng. Xin lỗi. Không còn vậy nữa rồi. Vậy là có bóng tối. Tôi nói để anh biết. Có đồ ăn trong bóng tối, vâng, đồ ăn bê bết trong căn phòng tối im lìm. Nó ăn bằng hai tay. Xin lỗi. Nghĩa là Peter ăn bằng hai tay. Và nếu đúng tôi là Peter thì còn khá hơn nhiều. Nghĩa là tệ hơn nhiều. Xin lỗi. Tôi là Peter Stillman. Đó không phải là tên thật của tôi. Cám ơn. Peter Stillman tội nghiệp. Nó là một đứa trẻ bé nhỏ. Chỉ có vài ba lời của riêng nó. Rồi thì không còn lời nào nữa, rồi không còn ai nữa, và sau đó là không, không, không tất cả. Hết cả rồi. Hãy tha thứ cho tôi, thưa ông Auster. Tôi biết mình đang làm cho ông buồn. Xin đừng hỏi gì cả. Tên tôi là Peter Stillman. Đó không phải là tên thật của tôi. Tên thật của tôi là ông Buồn. Tên ông là gì, ông Auster? Có lẽ ông mới là Ông Buồn thật, còn tôi chẳng là ai cả. Ô hô. Xin lỗi. Tôi khóc than như thế đấy. Ô hô, thút thít. Peter đã làm gì trong căn phòng ấy? Chẳng ai biết. Một vài người chẳng nói gì. Còn với tôi, tôi nghĩ rằng Peter không nghĩ ngợi gì được. Nó có chớp mắt không? Có https://thuviensach.vn uống không? Có hôi thối không? Ha ha ha. Xin lỗi nhé. Đôi khi tôi buồn cười thế đấy. “ Wimble click crumblechaw beloo. Clack clack bedrack. Numb noise, flacklemuch, chewmanna. Ya, ya, ya”. Xin lỗi nhé. Chỉ có tôi mới hiểu được những lời ấy mà thôi. Sau này và sau này và sau này. Họ nói vậy. Nó kéo dài quá và đầu óc Peter không còn ngay ngắn được nữa. Không bao giờ nữa. Không, không, không. Họ nói có ai đó tìm thấy tôi. Tôi không nhớ. Phải, tôi không nhớ chuyện gì đã xảy ra khi họ mở cửa và ánh sáng lọt vào. Không, không, không. Tôi không thể nói gì về chuyện ấy nữa. Không bao giờ nữa. Một thời gian dài tôi đeo kính râm. Tôi mười hai tuổi. Hoặc là họ bảo thế. Tôi sống trong một bệnh viện. Dần dần từng tí một, họ dạy tôi làm Peter Stillman như thế nào. Họ nói: Cậu là Peter Stillman. Cám ơn, tôi nói. Ya, ya, ya. Cám ơn và cám ơn. Tôi nói. Peter mới là một đứa trẻ. Họ phải dạy nó mọi thứ. Đi như thế nào, anh biết đấy. Ăn ra làm sao. Đi ỉa đi đái vào toa-lét như thế nào. Cũng không tệ. Ngay cả khi tôi cắn họ, họ cũng không thùm thụp tôi. Sau này, thậm chí tôi cũng thôi không xé quần xé áo nữa. Peter là một đứa bé ngoan. Nhưng dạy nó nói rất khó. Mồm miệng nó làm việc không đúng cách. Và tất nhiên còn vì đầu óc nó có hoàn chỉnh gì đâu. Ba ba ba, nó nói. Và đa đa đa. Rồi wa wa wa. Xin lỗi. Mất nhiều năm và nhiều năm. Và bấy giờ thì họ bảo Peter: Anh có thể đi được rồi, chúng tôi không giúp gì được anh nữa. Peter Stillman, anh là một con người, họ nói thế. Tin được lời bác sĩ thì tốt lắm. Cám ơn. Cám ơn thật nhiều. Tôi là Peter Stillman. Đó không phải là tên thật của tôi. Tên thật của tôi là Peter Thỏ. Vào mùa đông tôi là ông Trắng, đến mùa hè tôi là ông Xanh. https://thuviensach.vn Nghĩ xem anh thích gì ở câu chuyện này. Tôi kể nó với ý nguyện riêng của mình. Wimble click crumblechaw beloo . Đẹp chứ, phải không nào? Tôi bịa ra những lời như thế suốt ấy mà. Chẳng biết làm sao được. Chúng cứ tự ý tuôn ra từ miệng tôi. Không thể dịch chúng thành cái gì được. Hỏi và hỏi thì chẳng ăn thua gì. Nhưng tôi sẽ kể cho ông biết. Tôi không muốn ông buồn, thưa ông Auster. Ông có một gương mặt phúc hậu thế kia. Ông làm tôi nhớ đến một cái gì đó hoặc là một tiếng rên, chẳng biết là cái nào đây. Và mắt ông thì đang nhìn tôi. Vâng, vâng, tôi thấy chúng mà. Thế là tốt lắm. Cám ơn ông. Vì vậy mà tôi sẽ kể cho ông biết. Xin đừng hỏi gì cả. Ông đang thắc mắc về mọi thứ khác. Nghĩa là về ông bố. Ông bố khủng khiếp đã làm đủ mọi trò ấy với Peter nhỏ bé. Yên trí đi. Họ đã đưa ông ta đến một nơi tăm tối. Họ nhốt ông ta ở đó. Ha ha ha. Xin lỗi nhé. Đôi khi tôi buồn cười thế đấy. Mười ba năm, họ nói thế. Đó có thể là một thời gian dài. Nhưng tôi không biết gì về thời gian. Tôi đổi mới hàng ngày. Tôi ra đời khi thức giấc vào buổi sáng, già đi trong ngày, và chết vào ban đêm khi tôi đi ngủ. Đó không phải lỗi tại tôi. Hôm nay tôi sống rất khá đấy chứ. Khá hơn nhiều so với những gì tôi đã làm trước đây. Mười ba năm ông bố không có đây. Tên ông ta cũng là Peter Stillman. Lạ chứ, phải không nào? Hai người mà lại có cùng một tên được ư? Tôi không biết đó có phải là tên thật của ông ta không. Nhưng tôi nghĩ ông ấy không phải là tôi. Chúng tôi đều là Peter Stillman. Nhưng Peter Stillman không phải là tên thật của tôi. Thế cho nên có lẽ rốt cuộc tôi không phải là Peter Stillman. Tôi nói mười ba năm. Hoặc là họ nói thế. Có khác gì đâu. Tôi không biết tí gì về thời gian. Nhưng mà họ bảo tôi thế này. Ngày mai là kết thúc mười https://thuviensach.vn ba năm. Thế mới tệ. Mặc dù họ bảo là không, nhưng quả thực là tệ đấy. Nhẽ ra tôi đừng nhớ. Nhưng thỉnh thoảng tôi lại nhớ, dù tôi có nói gì đi nữa. Ông ta sẽ đến. Nghĩa là ông bố ấy sẽ đến. Và ông ta sẽ cố giết tôi. Cám ơn. Nhưng tôi không muốn thế. Không, không. Không như vậy được nữa. Peter đang sống rồi. Vâng. Mọi thứ chẳng ngay ngắn gì trong đầu nó, nhưng mà nó vẫn sống. Cũng nên chuyện chứ, phải không nào? Đánh cuộc với ông đấy. Ha ha ha. Bây giờ thì tôi gần thành một thi sĩ rồi. Ngày nào tôi cũng ngồi trong phòng mình và viết một bài thơ nữa. Tôi tự bịa ra tất cả từ ngữ của bài thơ, hệt như lúc còn sống trong bóng tối. Tôi bắt đầu nhớ lại mọi thứ bằng cách ấy, giả vờ như mình đang trở lại bóng tối một lần nữa. Tôi là người duy nhất biết những từ ngữ ấy có nghĩa gì. Chúng không thể dịch được. Những bài thơ này sẽ làm cho tôi nổi tiếng. Trúng đích rồi. Ya, ya, ya. Những bài thơ đẹp. Đẹp đến nỗi cả thế giới sẽ phải khóc. Có lẽ sau này tôi sẽ làm cái gì đó khác. Sau khi đã làm thi sĩ. Rồi sẽ đến lúc tôi cạn hết từ ngữ, ông biết đấy. Người nào cũng chỉ có ngần ấy từ ngữ trong mình. Và lúc ấy thì tôi sẽ ở đâu? Có lẽ sau đó tôi sẽ muốn làm lính cứu hỏa. Và sau đó nữa thì làm bác sĩ. Có khác gì nhau đâu. Và cuối cùng thì tôi sẽ làm một người đi trên dây. Lúc tôi đã rất già và ít nhất cũng đã học đi đứng được hệt như mọi người. Lúc ấy tôi sẽ nhảy múa trên dây, và mọi người sẽ tha hồ mà kinh ngạc. Cả bọn trẻ con cũng thế. Tôi thích như vậy đấy. Nhẩy múa trên dây cho đến lúc chết. Nhưng không sao. Có khác gì đâu. Với tôi. Có thể ông đã thấy, tôi là một người giầu có. Tôi không cần phải lo. Không, không. Không phải về chuyện ấy. Xin cược với ông đến đồng xu cuối cùng. Ông bố giầu lắm, và Peter bé nhỏ đã vớ được tất cả tiền bạc của ông ta sau khi họ nhốt ông ta https://thuviensach.vn vào bóng tối. Ha ha ha. Xin lỗi vì tôi đang cười. Đôi khi tôi buồn cười như vậy đấy. Tôi là người cuối cùng trong giòng họ Stillman. Đã từng là một giòng họ ra trò lắm, là họ nói thế. Gốc gác ở Boston ngày xưa, có khi ông cũng nghe nói đến rồi. Tôi là người cuối cùng. Không còn ai khác. Tôi là kết cục của tất cả, người cuối cùng. Thế mới hay, tôi nghĩ vậy. Tất cả có chấm dứt bây giờ thì cũng chẳng đáng thương tí nào. Mọi người đều phải chết cả và thế mới hay. Có lẽ ông bố này cũng không thực sự tồi tệ. Ít nhất là tôi nói thế bây giờ. Ông ta có một cái đầu to. To thật là to, nghĩa là quá thênh thang trong đó. Nhiều tư tưởng đến thế trong cái đầu to ấy của ông. Nhưng Peter thì tội nghiệp, có phải không nào? Và còn bị o ép thật kinh khủng. Peter, người không thể nhìn thấy hoặc nói năng, người không thể nghĩ hoặc làm gì cả. Peter, người không thể. Không. Không thể bất kỳ gì. Tất cả những chuyện này tôi không biết gì cả. Cũng chẳng hiểu gì cả. Vợ tôi là người nói những chuyện ấy cho tôi biết. Cô ấy bảo điều quan trọng là tôi phải biết, cho dù không hiểu cũng được. Nhưng ngay chuyện ấy tôi cũng không hiểu nốt. Để biết, thì ta phải hiểu đã. Có phải không nào? Nhưng tôi không biết gì hết. Có thể tôi là Peter Stillman, mà cũng có thể là không. Tên thật của tôi là Peter Không Ai Hết. Cám ơn. Mà ông nghĩ sao về chuyện này? Vậy là tôi đang kể cho ông nghe về người bố. Chuyện hay đấy, cho dù tôi có không hiểu nó cũng vậy. Tôi có thể kể cho ông nghe bởi vì tôi biết những từ ngữ ấy. Cũng oách chứ, phải không nào. Biết được những từ ngữ mà tôi định nói. Đôi khi tôi thật tự hào vì bản thân mình! Xin lỗi nhé. Còn vợ tôi thì nói thế này. Cô ấy bảo ông bố đã nói về God , tức là Thượng đế. Với tôi thì đó là một từ rất buồn cười. Đọc ngược lại thì nó thành dog , tức https://thuviensach.vn là chó. Mà chó thì chẳng có gì giống Thượng đế cả, phải không nào? Chỉ có gâu gâu với gừ gừ. Đó là từ ngữ của chó. Tôi nghĩ chúng đẹp. Thật xinh và thật xác thực. Giống như những từ ngữ mà tôi tự đặt ra vậy. Thôi được rồi. Tôi đang nói gì nhỉ. Ông bố đã nói về Thượng đế. Ông ấy muốn biết liệu Thượng đế có một ngôn ngữ nào không. Đừng hỏi tôi điều này có nghĩa gì. Tôi chỉ kể với ông bởi vì tôi biết những từ ngữ này. Ông bố nghĩ một đứa trẻ có thể nói được thứ ngôn ngữ ấy nếu nó không thấy một ai hết. Nhưng có đứa trẻ nào như thế không? A... Bây giờ thì ông bắt đầu thấy rồi đấy. Ông không cần phải mua đứa trẻ ấy. Tất nhiên, Peter đã biết một số từ ngữ của người rồi. Không tránh được. Nhưng ông bố nghĩ có thể Peter sẽ quên hết chúng. Sau một thời gian. Thành ra mới có nhiều thùm thụp thùm thụp thùm thụp đến thế. Cứ mỗi lần Peter nói ra một lời, bố nó sẽ thùm thụp nó luôn. Cuối cùng thì Peter đã học được cách không nói gì cả. Ya ya ya. Cám ơn. Peter giữ những từ ngữ ấy ở trong mình. Suốt những ngày, những tháng, những năm ấy. Ở đó trong bóng tối, Peter bé bỏng chỉ có một mình, và những từ ngữ đó ồn ào trong đầu nó và làm bạn với nó. Vì thế mà mồm miệng nó không hoạt động gì được. Tội nghiệp Peter. Ô hô. Nước mắt nó khóc như vậy đấy. Một thằng nhỏ không bao giờ được lớn. Bây giờ Peter có thể nói như mọi người rồi. Nhưng nó vẫn có những từ ngữ kia ở trong đầu. Chúng là ngôn ngữ của Thượng đế, và không ai khác có thể nói được chúng. Chúng không thể dịch được. Vì thế mà Peter sống rất gần với Thượng đế. Vì thế mà nó là một thi sĩ nổi tiếng. Với tôi thì bây giờ mọi thứ đều tốt cả rồi. Tôi có thể tha hồ làm cái gì mình thích. Bất kỳ lúc nào, bất kỳ ở đâu. Thậm chí tôi còn có một người vợ. Ông thấy rồi đấy. Lúc nẫy tôi đã nhắc đến cô ấy. Có thể ông cũng đã gặp cô https://thuviensach.vn ấy rồi. Cô ấy đẹp chứ, phải không nào? Tên cô ấy là Virginia. Đó không phải là tên thật của cô ấy. Nhưng có khác gì đâu. Với tôi. Bất kỳ lúc nào tôi đòi hỏi, vợ tôi lại kiếm một cô gái cho tôi. Họ là điếm cả. Tôi cấy sâu của mình vào người họ và họ rên rỉ. Nhiều lắm rồi. Ha ha. Họ lên đây và tôi fắc họ fằng fặc . Fắc thích lắm. [4] Virginia cho họ tiền và ai cũng vui vẻ cả. Xin cược với ông đấy. Ha ha. Khổ thân Virginia. Cô ấy không thích fắc . Nghĩa là với tôi. Có thể cô ấy fắc một người khác. Ai biết được. Tôi không biết tí gì cả. Mà có khác gì đâu. Nhưng có thể nếu ông tử tế với Virginia thì cô ấy sẽ cho ông fắc cô ấy đấy. Tôi sẽ mừng. Là mừng cho ông ấy. Cám ơn. Vậy là. Có lắm chuyện thật. Tôi đang cố kể hết với ông. Tôi biết mọi thứ trong đầu tôi đều lung tung cả. Thật thế, vâng, và tôi nói điều này là theo ý nguyện riêng của mình, rằng đôi khi tôi chỉ biết gào thét và gào thét mà thôi. Chẳng có lý do chính đáng nào cả. Như thể phải có một lý do nào đó. Nhưng tôi chẳng biết là vì ai. Hoặc ai khác nữa. Không. Và rồi cũng có những khi tôi chẳng nói gì hết. Ngày này qua ngày khác. Không gì hết, không gì hết, không gì hết. Tôi quên mất cách làm cho từ ngữ chui ra khỏi miệng mình. Rồi cử động cũng thành khó nhọc. Ya ya. Hoặc nhìn thôi cũng vậy. Đó là những lúc tôi trở thành ông Buồn. Tôi vẫn thích ở trong bóng tối. Dù chỉ là thi thoảng thôi. Nó có lợi cho tôi, chắc thế. Trong bóng tối, tôi nói ngôn ngữ của Thượng đế và không ai có thể nghe được tôi. Xin đừng nổi giận. Tôi không thể cưỡng lại được. Hay nhất là vẫn có không khí. Vâng. Và dần dần từng tí một, tôi đã học được cách sống trong không khí. Không khí và ánh sáng, vâng, cả cái đó nữa, cái ánh sáng ngời lên trên mọi vật và đặt chúng ở đó cho tôi nhìn. Có không khí và ánh sáng và đó là điều tốt hơn hết thảy. Xin lỗi. Không khí và https://thuviensach.vn ánh sáng. Vâng. Khi trời đẹp, tôi thích ngồi bên cửa sổ để mở. Đôi khi tôi nhìn ra ngoài và quan sát mọi thứ bên dưới. Đường phố và tất cả người, chó, xe cộ, những viên gạch của tòa nhà đối diện. Rồi cũng có những khi tôi nhắm mắt lại và ngồi đó, gió mơn man trên mặt, và ánh sáng trong không khí, tất cả xung quanh tôi và ngay sát mắt tôi, và thế giới thành màu đỏ tất cả, một màu đỏ đẹp đẽ bên trong mắt tôi, với mặt trời đang rọi thẳng vào tôi và cặp mắt tôi. Đúng là tôi ít khi ra ngoài. Tôi thấy khó nhọc, và thất thường lắm. Đôi khi tôi gào thét. Xin đừng giận tôi nhé. Tôi không cưỡng lại được. Virginia nói tôi phải học cách cư xử nơi công cộng. Nhưng đôi khi tôi không cưỡng lại được và những gào thét ấy cứ thế ùa ra. Nhưng quả thật là tôi thích được ra công viên. Có cây, và không khí, và ánh sáng. Tất cả chúng đều tốt lành, phải không nào? Vâng, từng tí một, tôi đang khá dần lên từ tâm can mình. Tôi có thể cảm thấy được điều đó. Ngay cả bác sĩ Wyshnegradsky cũng nói thế. Tôi biết mình vẫn còn là một thằng cu con rối. Cái đó thì không thể làm gì được. Không, không. Không thể được nữa rồi. Nhưng đôi khi tôi nghĩ cuối cùng tôi sẽ lớn lên và thành một con người thật. Còn bây giờ thì tôi vẫn là Peter Stillman. Đó không phải là tên thật của tôi. Tôi không biết ngày mai mình sẽ là ai. Ngày nào cũng mới, và ngày nào tôi cũng lại ra đời. Tôi thấy hy vọng ở khắp nơi, ngay cả trong bóng tối, và khi chết có thể tôi sẽ trở thành Thượng đế. Còn nhiều từ ngữ nữa để nói. Nhưng tôi không nghĩ là mình sẽ nói chúng. Không. Không phải hôm nay. Mồm miệng tôi mỏi mệt rồi, và có lẽ đã đến lúc tôi phải đi. Tất nhiên, tôi chẳng biết gì về thời gian. Nhưng cũng có khác gì đâu. Với tôi. Cám ơn ông rất nhiều. Tôi biết ông sẽ cứu mạng tôi, thưa ông Auster. Tôi trông mong ở ông đấy. Cuộc đời có thể kéo dài https://thuviensach.vn lắm, ông hiểu mà. Mọi thứ khác đều ở trong phòng, với bóng tối, với ngôn ngữ của Thượng đế, với những tiếng gào thét. Tôi ở đây, như không khí, một thứ đẹp đẽ để ánh sáng rọi vào. Có thể ông sẽ nhớ điều đó. Tôi là Peter Stillman. Đó không phải là tên thật của tôi. Cám ơn rất nhiều. 3 Cuộc diễn thuyết đã kết thúc. Nó đã kéo dài bao lâu, Quinn không thể biết được. Bởi chỉ đến lúc này, sau khi những lời lẽ ấy đã ngưng, hắn mới nhận ra rằng họ đang cùng ngồi trong bóng tối. Rõ ràng là cả ngày hôm ấy đã trôi qua. Đã có một lúc nào đó trong bài độc thoại của Stillman, mặt trời đã rọi hẳn vào phòng, nhưng Quinn đã không biết gì hết. Giờ thì hắn có thể cảm thấy bóng tối và im lặng, và đầu hắn ong ong theo chúng. Nhiều phút trôi qua. Quinn nghĩ có lẽ đã đến lúc hắn phải nói cái gì đó, nhưng không chắc có cần như vậy không. Hắn có thể nghe tiếng Peter Stillman thở nặng nhọc ở phía bên kia gian phòng. Ngoài ra, không có một tiếng động nào. Quinn không thể quyết định phải làm gì. Hắn nghĩ đến nhiều khả năng, nhưng rồi lại gạt bỏ từng cái một trong tâm trí mình. Hắn ngồi nguyên tại chỗ, chờ xem sẽ có chuyện gì. Tiếng chân đeo nịt vớ chuyển động sột soạt ngang gian phòng cuối cùng đã phá vỡ sự im lặng. Có tiếng tách sắc lẹm của một cái công tắc đèn, và gian phòng bỗng chan hòa ánh sáng. Quinn bất giác đưa mắt về phía nguồn sáng và ở đó, đang đứng cạnh một cây đèn bàn về phía trái của chiếc ghế Peter đang ngồi, hắn thấy Virginia Stillman. Người đàn ông trẻ tuổi đang mơ màng nhìn thẳng về phía trước, như thể đang ngủ mà vẫn mở mắt. Bà Stillman cúi xuống, quàng tay quanh vai Peter và nhẹ nhàng nói sát bên tai ông ta. - “Đến giờ rồi, Peter”, bà nói. “Bà Saavedra đang đợi anh đấy”. https://thuviensach.vn Peter ngẩng nhìn bà và mỉm cười. “Tôi chan chứa hy vọng”, ông nói. Virginia Stillman dịu dàng hôn lên má chồng. “Anh chào tạm biệt ông Auster đi nào”, bà nói. Peter đứng dậy. Hoặc nói đúng hơn thì ông bắt đầu chuyến mạo hiểm chậm chạp và buồn rầu để nhấc mình ra khỏi ghế và tìm cách đứng lên. Mỗi một công đoạn đều có những lặp lại, lẩy bẩy, lập cập, đi liền với những cơn bất động, những lời cằn nhằn mà Quinn không thể đoán được ý nghĩa. Cuối cùng, Peter đã đứng thẳng lên. Ông đứng trước chiếc ghế bành của mình với một vẻ mặt đầy chiến thắng và nhìn thẳng vào mắt Quinn. Rồi ông mỉm cười, rạng rỡ và không hề làm bộ. - “Tạm biệt”, ông nói. - “Tạm biệt Peter”, Quinn đáp lại. Peter hơi giật khục vẫy tay một cái rồi chậm chạp xoay người bước đi. Ông bước chập choạng, nghiêng bên phải, nghiêng bên trái, hai chân lẩy bẩy vướng víu nhau. Phía cuối phòng, đang đứng chỗ lối vào có đèn sáng, là một người đàn bà trung niên mặc bộ đồng phục hộ lý trắng tinh. Quinn đoán đó là bà Saavedra. Hắn đưa mắt nhìn theo Peter Stillman cho đến khi ông ta khuất dạng sau cánh cửa. Virginia Stillman ngồi xuống, đối diện Quinn, trên chiếc ghế bành mà chồng bà vừa ngồi. - “Nhẽ ra tôi đã không để ông phải chịu trận như vậy”, bà nói, “nhưng tôi nghĩ tốt nhất là ông phải tận mắt chứng kiến thì hơn”. - “Tôi hiểu”, Quinn nói. https://thuviensach.vn - “Không, tôi nghĩ ông không hiểu được đâu”, người đàn bà cay đắng nói. “Có lẽ chẳng ai hiểu được cả”. Quinn kín đáo mỉm cười, rồi tự nhủ phải nói thẳng vào vấn đề thôi. “Tôi có hiểu hay không hiểu bất kỳ điều gì đi nữa”, hắn lên tiếng, “có lẽ cũng không phải là mối quan tâm của chúng ta. Bà đã thuê tôi làm một việc, và tôi phải vào việc càng sớm càng tốt. Theo những gì tôi thu nhận được thì vụ này là khẩn cấp. Tôi không dám đòi hỏi phải hiểu Peter hoặc những gì mà bà đã phải chịu đựng. Điều quan trọng là tôi đã sẵn sàng giúp đỡ bà. Tôi nghĩ bà nên nhận thức hết giá trị của việc đó”. Hắn đang khởi động rồi đây. Có cái gì đó khiến hắn biết rằng mình đã lên đúng giọng cho việc này, và một cảm giác khoái lạc đột ngột dâng lên trong người hắn, như thể hắn vừa vượt được một lằn ranh nội tại của chính mình. - “Ông nói phải”, Virginia Stillman nói. “Dĩ nhiên là ông nói phải”. Người đàn bà ngừng lời, hít một hơi thật sâu, rồi lại im lặng, như muốn tập dượt trong óc những điều mà bà sắp nói ra. Quinn để ý thấy đôi bàn tay bà đang nắm chặt xuống tay ghế. - “Tôi biết”, bà nói tiếp, “hầu hết những gì Peter nói là rất hỗn độn, nhất là khi mới nghe lần đầu. Tôi đứng ở phòng bên cạnh và nghe hết những gì anh ấy đã nói với ông. Ông phải biết rằng không phải lúc nào Peter cũng nói thật. Nhưng mặt khác, nghĩ rằng anh ấy nói dối cũng là sai”. - “Bà muốn nói rằng tôi nên tin một số điều anh ấy nói và đừng tin những điều khác”. - “Chính xác là như vậy”. - “Những thói quen tính dục của bà, hoặc sự thiếu vắng chúng, không phải là chuyện tôi quan tâm, thưa bà Stillman”, Quinn nói. “Thậm chí nếu https://thuviensach.vn những điều Peter nói là thật thì cũng có khác gì đâu. Trong nghề này, tôi phải gặp đủ mọi chuyện trên đời, và nếu không học cách đừng phán xét thì chẳng bao giờ tôi đi được đến đâu. Tôi đã quen với việc nghe được bí mật của mọi người, và cũng quen với việc giữ mồm giữ miệng. Nếu một dữ kiện không có liên can trực tiếp gì đến vụ việc thì tôi chẳng dùng nó làm gì cả”. Bà Stillman đỏ bừng mặt. “Tôi chỉ muốn ông biết rằng điều Peter nói ấy là không đúng sự thật”. Quinn nhún vai, rút một điếu thuốc và châm lửa. “Đúng hay không”, hắn nói, “điều đó không quan trọng. Cái tôi quan tâm là những chuyện khác mà Peter đã nói kia. Tôi cứ cho chúng là có thật đi, và nếu vậy thì tôi muốn được nghe bà nói gì về chúng”. - “Vâng, chúng là chuyện thật cả”. Virginia Stillman không nắm chặt hai tay ghế nữa và đưa bàn tay phải lên chống cằm. Vẻ tư lự. Như thể đang tìm kiếm một thái độ trung thực không thể lay chuyển được. “Peter có lối kể kiểu trẻ con. Nhưng những gì anh ấy nói đều là thật”. - “Bà hãy nói về người cha. Bất kỳ những gì mà bà cho là có ý nghĩa trong việc này”. - “Cha của Peter là người trong giòng họ Stillman ở Boston. Chắc ông đã có nghe về giòng họ này. Họ có nhiều người từng làm thống đốc hồi thế kỷ 19, nhiều người làm giám mục tân giáo, nhiều vị đại sứ, một chủ tịch trường Harvard. Đồng thời, gia đình ấy cũng kiếm được rất nhiều tiền từ doanh nghiệp vải vóc, vận tải, và nhiều thứ khác nữa có trời mà biết. Chi tiết không quan trọng. Cốt sao để ông biết đôi chút về hoàn cảnh như vậy. Cha Peter học ở Harvard, như tất cả mọi người khác trong gia đình ấy. Ông ta nghiên cứu triết học và tôn giáo, và xuất sắc về mọi mặt. Ông ta viết luận văn tốt nghiệp với chủ đề diễn giải thần học về Tân Thế giới thời thế https://thuviensach.vn kỷ 16 và 17, sau đó nhận làm việc cho khoa tôn giáo của đại học Columbia. Không lâu sau đó, ông cưới mẹ của Peter. Tôi không biết nhiều về bà ấy. Trong ảnh thì bà ấy rất đẹp. Nhưng mỏng mảnh – gần giống như Peter, cũng có cặp mắt xanh nhạt và nước da trắng như thế. Khi Peter ra đời một vài năm sau đó, gia đình đang sống trong một căn hộ rộng rãi ở Riverside Drive [5] . Sự nghiệp học thuật của Stillman đang nở rộ. Ông ta viết lại luận văn của mình thành một cuốn sách – rất thành công – và trở thành giáo sư chính thức lúc mới băm tư hoặc băm lăm tuổi. Sau đó thì mẹ Peter mất. Mọi chuyện về cái chết ấy đều không rõ ràng. Stillman nói rằng bà đã chết trong lúc ngủ, nhưng bằng chứng thì lại làm người ta nghĩ đó là tự sát. Cái gì đó liên quan đến dùng thuốc quá liều, nhưng tất nhiên không có gì có thể chứng minh được cả. Có người còn bảo rằng ông ta đã giết vợ. Nhưng cũng chỉ là đồn đại thôi chứ chẳng có gì cụ thể. Toàn bộ vụ ấy được giữ rất im ắng. Lúc đó Peter mới có hai tuổi đầu, một đứa trẻ hoàn toàn bình thường. Sau cái chết của vợ, Stillman rõ ràng đã không mấy ngó ngàng đến con. Một cô vú được thuê về nhà và trong sáu tháng gì đó hoàn toàn lãnh trách nhiệm trông nom Peter. Thế rồi, hoàn toàn bất ngờ, Stillman đuổi việc cô ta. Tôi quên mất tên cô ta rồi – một cô Barber gì đó, hình như thế – cô ta có ra làm chứng tại tòa. Hình như Stillman một hôm bỗng về nhà và bảo cô ta rằng ông ta sẽ hoàn toàn lo việc giáo dưỡng Peter. Ông ta làm đơn xin nghỉ việc ở Columbia và nói với họ rằng ông ta bỏ đại học để giành toàn bộ thời gian cho con trai mình. Tất nhiên, tiền nong không phải là vấn đề, và không ai có thể làm gì được trước nguyện vọng ấy của ông ta. Sau đó thì ông ta bắt đầu lẩn khuất dần. Vẫn tiếp tục ở căn hộ cũ, nhưng ông ta hầu như không ra đến ngoài nữa. Không ai thực sự biết chuyện gì đã xẩy ra. Tôi cho rằng ông ta đã bắt đầu tin theo mấy ý tưởng tôn giáo cực đoan mà ông ta đã viết. Điều đó đã khiến ông ta phát điên, hoàn toàn mất https://thuviensach.vn trí. Chỉ có cách giải thích như vậy mà thôi. Ông ta khóa Peter trong một cái buồng trong căn hộ, che kín hết các cửa sổ, và giữ anh ấy ở đó trong chín năm. Thử tưởng tượng xem, ông Auster. Chín năm trời. Toàn bộ tuổi ấu thơ trong bóng tối, cách biệt với thế giới, không tiếp xúc gì với con người ngoại trừ những trận đòn lúc này lúc khác. Tôi sống với những hậu quả của cuộc thí nghiệm ấy, và tôi có thể nói với ông rằng sự tàn hại của nó thật quái đản. Cái mà ông thấy hôm nay là Peter trong trạng thái tốt nhất của anh ấy. Phải mất mười ba năm mới làm cho anh ấy được như vậy, và tôi thà chết chứ không để bất kỳ ai làm anh ấy phải đau đớn một lần nữa. Bà Stillman ngừng lời để lấy hơi. Quinn cảm thấy rằng bà cũng sắp tá hỏa tam tinh đến nơi và chỉ cần nói thêm một lời nữa là bà sẽ hoàn toàn mất bình tĩnh. Hắn phải nói cái gì đó ngay, nếu không thì cuộc đối thoại sẽ vuột khỏi tầm kiểm soát của hắn. - “Cuối cùng thì người ta phát hiện ra Peter như thế nào?”, hắn hỏi. Người đàn bà có vẻ đỡ căng thẳng hơn. Có thể nghe thấy hơi thở đang trút ra của bà khi bà nhìn thẳng vào mắt Quinn. - “Nhờ một vụ hỏa hoạn”, bà nói. - “Tai nạn hay là có người đốt?”. - “Chẳng ai biết thế nào”. - “Nhưng bà nghĩ sao?”. - “Tôi nghĩ Stillman đang ở trong phòng làm việc của ông ta. Ông ấy giữ hồ sơ của cuộc thí nghiệm ở đó, và có lẽ cuối cùng ông ấy đã nhận ra rằng công trình ấy là một thất bại của mình. Tôi không nói rằng ông ấy hối tiếc bất kỳ điều gì ông ấy đã làm. Nhưng ngay với những tiêu chuẩn riêng của mình có lẽ ông ta cũng biết rằng mình đã thất bại. Tôi cho rằng đêm hôm đó https://thuviensach.vn ông ta đã rơi vào tâm trạng tự kinh tởm bản thân không cứu vãn được nữa và đã quyết định đốt hết các giấy tờ của mình. Nhưng ngọn lửa đã bùng lên và đốt cháy gần hết căn hộ. May mà cái buồng của Peter ở tận đầu bên kia và lính cứu hỏa đã đến đó kịp thời”. - “Sau đó thì sao?”. - “Phải nhiều tháng sau người ta mới thu xếp được mọi chuyện. Giấy tờ của Stillman đã bị tiêu hủy hết, nghĩa là chẳng còn một bằng chứng cụ thể nào. Nhưng còn có tình trạng của Peter, cái buồng anh ấy đã bị nhốt, những tấm ván bịt cửa sổ khủng khiếp, và cuối cùng thì cảnh sát cũng chắp nối vụ việc được với nhau. Rốt cuộc là Stillman bị ra tòa”. - “Chuyện gì đã diễn ra ở tòa?”. - “Stillman bị xử là mất trí và bị đem đi nơi khác”. - “Còn Peter?”. - “Anh ấy cũng phải đi bệnh viện. Và ở đó cho mãi đến tận hai năm trước đây”. - “Bà đã gặp ông ấy ở đó ư?”. - “Vâng. Ở bệnh viện ấy”. - “Như thế nào?”. - “Tôi là người điều trị tiếng nói của anh ấy. Ngày nào tôi cũng làm việc với Peter, trong suốt năm năm liền”. - “Tôi không định tọc mạch đâu. Nhưng chính xác thì việc ấy dẫn đến hôn nhân như thế nào?”. https://thuviensach.vn - “Chuyện cũng phức tạp”. - “Bà kể cho tôi biết được chứ?”. - “Vâng, có sao đâu. Nhưng tôi nghĩ ông sẽ không hiểu đâu”. - “Thì tôi phải nghe chuyện đã chứ”. - “Thôi được. Nói cho đơn giản thì đó là cách tốt nhất để đưa Peter ra khỏi bệnh viện và cho anh ấy cơ hội sống một cuộc đời bình thường hơn”. - “Nhưng bà vẫn có thể làm việc đó với tư cách một người bảo trợ hợp pháp kia mà?”. - “Thủ tục của việc ấy rất rầy rà. Hơn nữa, Peter không còn là một thiếu niên nữa”. - “Có phải đó là một hy sinh lớn lao về phần bà không?”. - “Cũng không hẳn thế. Tôi đã từng có chồng – một cuộc hôn nhân thảm hại. Tôi không muốn thế một tí nào nữa. Nhưng với Peter thì ít nhất tôi cũng tìm thấy một mục đích sống cho mình”. - “Có đúng là Stillman sắp được thả không?”. - "Ngày mai. Ông ấy sẽ về đến nhà ga Grand Central vào tối mai". - “Và bà cho rằng ông ta sẽ truy tìm Peter. Chỉ là cảm giác thế thôi, hay bà có bằng chứng hẳn hoi?”. - “Mỗi thứ một ít. Hai năm trước đây, họ đã định thả Stillman. Nhưng ông ta viết cho Peter một bức thư, và tôi đưa nó cho các nhà chức trách xem. Họ lại quyết định chưa thể thả ông ta ra được. - “Bức thư đó ra làm sao?”. https://thuviensach.vn - “Một bức thư điên khùng. Ông ta gọi Peter là một thằng bé ma quỉ và nói rằng sẽ có ngày tính sổ mọi c-chuyện”. - “Bà có còn giữ bức thư ấy không?”. - “Không. Tôi đã đưa nó cho cảnh sát hai năm trước”. - “Có bản sao nào không?”. - “Rất tiếc là không có. Ông nghĩ nó quan trọng sao?”. - “Có thể vậy”. - “Tôi có thể cố xin một bản sao nếu ông muốn”. - “Có lẽ không còn bức thư nào khác ngoài cái đó”. - “Không có thư từ gì khác nữa. Và bây giờ họ lại cho rằng Stillman đã đủ điều kiện để được phóng thích rồi. Dù sao thì đó cũng là quan điểm chính thức, và tôi không thể làm gì để ngăn họ được. Nhưng tôi nghĩ rằng Stillman đã khôn khéo rút kinh nghiệm đó thôi. Ông ta biết rằng thư từ và dọa nạt sẽ chỉ khóa chân ông ta ở đó mãi mà thôi”. - “Và vì vậy mà bà vẫn lo lắng”. - “Đúng thế”. - “Nhưng bà cũng chẳng có ý tưởng gì rõ rệt về những dự định có thể có của Stillman”. - “Đúng là như vậy”. - “Vậy bà muốn tôi làm gì?”. https://thuviensach.vn - “Tôi muốn ông theo dõi ông ta thật cẩn thận. Tôi muốn ông tìm ra những dự tính của ông ta. Tôi muốn ông giữ không cho ông ta đến gần Peter”. - “Nói cách khác, một công việc bám đuôi đầy vinh quang”. - “Có lẽ thế”. - “Tôi nghĩ bà phải hiểu rằng tôi không thể ngăn Stillman đến tòa nhà này. Cái mà tôi có thể làm là báo trước cho bà biết. Và tôi có thể cho mình có trách nhiệm theo ông ta đến đây”. - “Tôi hiểu. Làm sao để chúng tôi được bảo vệ là được”. - “Tốt rồi. Bà muốn tôi liên lạc với bà thường xuyên đến mức nào?”. - “Tôi muốn ông báo cáo với tôi hàng ngày. Chỉ cần một cú điện thoại vào buổi tối, quãng mười hoặc mười một giờ”. - “Không có vấn đề gì”. - “Còn có việc gì nữa không ạ?”. - “Chỉ vài câu hỏi nữa thôi. Ví dụ, tôi muốn biết làm thế nào mà bà biết được rằng Stillman sẽ về đến ga Grand Central tối ngày mai?”. - "Tôi buộc mình phải biết chuyện đó, thưa ông Auster. Có quá nhiều nguy hiểm trong chuyện này nếu tôi phó mặc mọi thứ cho may rủi. Và nếu Stillman không bị theo dõi ngay từ lúc mới về, ông ta có thể sẽ biến mất không còn tung tích gì. Tôi không muốn để xẩy ra chuyện đó". - “Ông ấy sẽ đi tầu nào?”. - “Tầu 641, từ Poughkeepsie về”. https://thuviensach.vn - “Tôi đoán bà vẫn có một tấm ảnh của Stillman?”. - “Vâng, tất nhiên”. - “Còn về Peter nữa. Tôi muốn biết trước hết tại sao bà lại kể cho ông ấy tất cả những chuyện này. Cứ im lặng có phải là tốt hơn không?”. - “Tôi đã muốn vậy. Nhưng Peter ngẫu nhiên nghe được từ cái phôn khác khi tôi nhận được tin bố anh ấy sẽ được thả. Tôi không còn cách nào khác. Peter có thể rất ương ngạnh, và tôi đã hiểu rằng tốt nhất là không nói dối anh ấy”. - “Câu hỏi cuối cùng. Ai là người đã giới thiệu tôi với bà?”. - “Chồng của bà Saavedra, Michael. Ông ấy từng là một cảnh sát, và đã tìm hiểu việc này. Ông ấy phát hiện ra ông là người giỏi nhất ở New York trong những việc như thế này”. - “Thật vinh hạnh cho tôi quá”. - “Với những gì tôi đã thấy ở ông cho đến giờ phút này, thưa ông Auster, tôi tin rằng chúng tôi đã tìm được đúng người”. Quinn coi câu nói ấy là dấu hiệu cho mình đứng dậy. Thật dễ chịu khi cuối cùng hắn được vươn người duỗi chân lên như thế. Mọi chuyện đã diễn ra tốt đẹp, hơn mong đợi của hắn nhiều, nhưng bấy giờ thì đầu hắn đau, và thân thể nhức nhối trong một cảm giác kiệt lực mà đã nhiều năm rồi hắn không biết tới. Nếu cứ tiếp tục câu chuyện, hắn biết thể nào hắn cũng lộ tung tích. “Tiền công của tôi là một trăm đôla một ngày, cộng với mọi chi phí”, hắn nói. “Nếu bà có thể trả trước cho tôi một ít, đó sẽ là bằng chứng cho việc tôi đang làm việc cho bà – và cũng đảm bảo cho quan hệ đặc biệt giữa điều tra https://thuviensach.vn viên và khách hàng của chúng ta. Có nghĩa là tất cả mọi chuyện giữa chúng ta đều tuyệt đối chỉ có chúng ta biết mà thôi”. Virginia Stillman mỉm cười, như thể bà đang thú vị với một câu nói đùa bí mật của riêng mình. Hoặc giả bà chỉ đơn thuần đáp lại cái nghĩa có thể hiểu nước đôi trong câu nói cuối cùng của hắn. Cũng như bao nhiêu thứ sẽ xẩy đến với hắn trong những ngày và tuần lễ tiếp theo đó, Quinn không thể tin chắc được bất kỳ điều gì. - “Ông muốn bao nhiêu?”, bà hỏi. - “Không quan trọng chuyện ấy. Tùy bà quyết định”. - “Năm trăm nhé?”. - “Vậy là quá đủ rồi”. - “Tốt quá. Để tôi đi lấy quyển sổ séc”. Virginia Stillman đứng dậy và lại mỉm cười với Quinn. “Tôi sẽ lấy cả tấm ảnh chụp người cha của Peter. Hình như tôi vẫn nhớ đã để nó ở chỗ nào”. Quinn cảm ơn và nói hắn sẽ đợi. Hắn nhìn bà rời khỏi phòng và một lần nữa lại thấy mình đang tưởng tượng xem trông bà ra sao khi không có mảnh vải nào trên người. Liệu có phải bà ta đang có ý ấy với hắn không, hay đó chỉ là chính đầu óc hắn đang phá hoại hắn một lần nữa? Hắn quyết định hoãn những chiêm nghiệm ấy lại và để sau này đã rồi mới nghĩ đến chuyện đó. Virginia Stillman bước trở lại phòng khách và nói, “Đây là tấm séc. Hy vọng là tôi viết đúng cả”. Vâng, vâng, Quinn nghĩ bụng khi kiểm tra tấm séc, tất cả đều đâu vào đấy rồi. Hắn hài lòng với sự khôn khéo của mình. Tất nhiên là tấm séc được https://thuviensach.vn viết cho Paul Auster, có nghĩa là Quinn sẽ không bao giờ bị bắt tội đã đội lốt một thám tử tư nhân mà không có giấy phép hành nghề. Hắn cảm thấy yên tâm khi biết rằng mình đã chọn được một vị trí an toàn. Việc hắn không thể rút tiền bằng tấm séc ấy không hề làm hắn phiền lòng. Hắn hiểu, thậm chí ngay lúc bấy giờ, rằng hắn đang làm tất cả những việc đó không phải vì tiền. Hắn đút tấm séc vào túi ngực của chiếc áo tây. “Tôi rất tiếc chẳng có cái ảnh nào gần đây”, Virginia Stillman nói. “Cái này chụp đã hơn hai mươi năm rồi. Tôi e rằng mình chỉ có vậy thôi”. Quinn nhìn bức ảnh chụp gương mặt của Stillman, hy vọng gặp được một phát ngộ bất ngờ, một cơn dâng trào đột ngột của tri thức tiềm ẩn có thể giúp hắn hiểu được người đàn ông trong ảnh. Nhưng bức ảnh chẳng nói gì với hắn cả. Không hơn gì một bức ảnh chụp một người đàn ông. Hắn nhìn kỹ nó thêm một chút và kết luận rằng đó có thể là ảnh của bất kỳ một người nào. - “Tôi sẽ xem nó kỹ hơn khi về nhà”, hắn nói, nhét bức ảnh vào cùng một túi ngực với tấm séc. “Xét cả yếu tố thời gian, tôi tin là sẽ nhận ra được ông ta ở nhà ga ngày mai”. - “Tôi cũng hy vọng thế”, Virginia Stillman nói. “Việc này quan trọng khủng khiếp, và tôi xin trông cậy cả ở ông”. - “Xin bà đừng lo”, Quinn nói. “Tôi chưa từng phụ lòng ai bao giờ”. Bà đưa hắn ra cửa. Trong nhiều giây đồng hồ họ yên lặng đứng đó, không biết có còn phải nói thêm gì không hay đã đến lúc nói lời tạm biệt. Và trong cái khoảng khắc nhỏ nhoi ấy, Virginia Stillman đột nhiên ôm chầm lấy Quinn, môi tìm lên môi hắn và hôn hắn thật cuồng nhiệt, đẩy lưỡi thật sâu vào miệng hắn. Quinn bị bất ngờ đến nỗi suýt nữa thì hắn không thể thưởng thức được cái hôn ấy. https://thuviensach.vn Khi hắn đã thở lại được, bà Stillman đẩy hắn ra nhưng vẫn giữ chặt hắn bằng hai cánh tay duỗi thẳng và nói, “Đó là để chứng minh rằng Peter không nói sự thật với ông. Điều rất quan trọng là ông phải tin tôi”. - “Tôi tin bà”, Quinn nói. “Và cho dù tôi có không tin bà thì cũng chẳng sao”. - “Tôi chỉ muốn cho ông biết tôi có thể làm được những chuyện gì”. - “Tôi nghĩ mình đã biết khá rõ rồi”. Bà nắm lấy bàn tay phải của hắn bằng cả hai bàn tay mình và hôn lên đó. “Cám ơn ông, ông Auster. Tôi thực sự nghĩ rằng ông là giải đáp của việc này”. Hắn hứa sẽ gọi bà đêm hôm sau, và sau đó hắn thấy mình bước ra khỏi cửa, lấy thang máy xuống nhà, và rời khỏi đó. Khi hắn ra đến ngoài phố thì đã quá nửa đêm. 4 Trước đây Quinn đã nghe có nhiều vụ giống như của Peter Stillman. Từ những ngày trong cuộc đời trước của hắn, không lâu sau khi con trai hắn ra đời, Quinn đã viết một bài về cuốn sách kể chuyện thằng bé hoang dại ở Aveyron, và đã nghiên cứu đôi chút về chủ đề này. Theo như hắn nhớ được thì những ghi chép sớm nhất về một thí nghiệm kiểu này là của Herodotus: Hoàng đế Ai-cập Psamtik từ thế kỷ 7 trước công lịch đã cô lập hai đứa trẻ và lệnh cho người tùy tùng trông nom chúng không được nói một lời nào trước mặt chúng. Theo Herodotus, một tác giả biên niên bị tiếng là hay bịa tạc, hai đứa trẻ ấy đã học cách nói được, và lời đầu tiên chúng nói là một từ chỉ bánh mỳ trong ngôn ngữ Phrygian. Trong thời Trung Cổ, Hoàng đế La- https://thuviensach.vn mã Linh thiêng Frederick đệ nhị đã làm lại thí nghiệm đó, hy vọng tìm thấy thứ “ngôn ngữ tự nhiên” đích thực của con người bằng những phương pháp tương tự, nhưng chưa nói được lời nào thì bọn trẻ thí nghiệm đã đều chết mất cả. Cuối cùng, trong một vụ rõ ràng là lừa bịp, vua James đệ tứ của Scotland hồi đầu thế kỷ 16 đã loan báo rằng trẻ con xứ ấy mà nuôi trong cô lập theo kiểu các thí nghiệm kia sau này đều nói tiếng Hebrew rất giỏi. Nhưng không phải chỉ có đám điên khùng và những nhà tư tưởng cực đoan mới quan tâm đến chủ đề này. Ngay đến một người tỉnh táo và hoài nghi như Montaigne [6] cũng đã từng xem xét vấn đề này rất cẩn thận, và trong tiểu luận quan trọng nhất của mình là bài Tạ lỗi cùng Raymond Sebond, ông đã viết như sau: “Tôi tin rằng một đứa trẻ nuôi dạy trong cô đơn tuyệt đối, xa lánh mọi liên hệ (một điều kiện rất khó thí nghiệm), sẽ vẫn có một thứ lời nào đó để diễn đạt những ý tưởng của nó. Ta không thể tin rằng thiên nhiên đã lấy của chúng ta cái khả năng này, vốn đã được ban tặng cho biết bao nhiêu loài vật khác... Điều chúng ta vẫn chưa biết là đứa trẻ ấy sẽ nói thứ ngôn ngữ nào; và những gì đã được nói đến về chuyện này theo lối đoán định đều chẳng có vẻ gì là sự thật”. Ngoài trường hợp của những thí nghiệm như vậy còn có những vụ bị cô lập vì tai nạn – trẻ em lạc trong rừng, thủy thủ mắc kẹt ngoài hải đảo, con nít được chó sói nuôi – cũng như các vụ bố mẹ bệnh hoạn nhẫn tâm nhốt tù con cái trong nhà, xích chúng vào giường, đánh đập chúng trong nhà tắm, tra tấn chúng mà lý do chỉ là những cơn điên khôn cưỡng của chính họ – và Quinn đã đọc rất nhiều tài liệu về những chuyện như vậy. Một thủy thủ người Scotland là Alexander Selkirk (nhiều người cho rằng anh này là nguyên mẫu của nhân vật Robinson Crusoe) đã sống một mình bốn năm liền trên một hòn đảo ngoài khơi bờ biển Chile, và theo lời người thuyền trưởng đã cứu anh ta năm 1708 thì anh ta “đã quên mất nhiều lời nói của mình vì không dùng đến, và chúng tôi hầu như không thể hiểu được anh ta”. https://thuviensach.vn Chưa đầy hai chục năm sau, Peter người Hanover, một đứa trẻ hoang dại khoảng 14 tuổi, được người ta tìm thấy trong một khu rừng bên ngoài thành phố Hamelin của nước Đức trong tình trạng trần truồng và câm lặng, đã được mang sang triều đình Anh dưới sự bảo trợ đặc biệt của nhà vua George đệ nhất. Cả Swift và Defoe [7] đều được vời đến gặp đứa bé này, và Defoe đã viết một cuốn sách nhỏ in năm 1726 nhan đề Hiện thân của Tự nhiên Thuần túy. Peter không thể học nói được, và sau nhiều tháng trời người ta đưa nó về nông thôn, nơi nó sống đến tận tuổi 70, không hề quan tâm gì đến tình dục, tiền bạc hoặc những nôm na thế tục khác. Rồi còn có trường hợp của Victor, thằng bé hoang dại ở Aveyron, được tìm thấy vào năm 1800. Dưới sự chăm sóc rất chu đáo và kiên nhẫn của bác sĩ Itard, Victor học được vài thuật cơ bản của ngôn ngữ, nhưng không thể vượt quá mức độ của một trẻ nhỏ. Và nổi tiếng hơn cả Victor là Kaspar Hauser, người xuất hiện ở thành Nuremberg vào một buổi chiều trong năm 1828, ăn mặc rất lố lăng kỳ lạ và hầu như không nói được một lời có nghĩa nào. Anh này có thể viết ra tên mình, nhưng trong mọi phương diện khác thì có hành vi hệt như một hài nhi. Được thành phố bảo trợ và giao phó cho một giáo viên địa phương chăm sóc, anh ta chỉ suốt ngày ngồi dưới sàn nghịch những con ngựa đồ chơi, và chỉ ăn bánh mì với nước lã. Tuy nhiên, Kaspar đã phát triển. Anh trở thành một tay cưỡi ngựa tuyệt vời, ăn ở cực kỳ sạch sẽ gọn gàng, có một niềm say mê đối với màu đỏ và màu trắng, và chứng tỏ một trí nhớ phi thường, nhất là với tên và mặt người. Nhưng anh vẫn thích ở trong nhà, rất ngại ra nắng, và cũng như Peter người Hanover, không bao giờ tỏ ra quan tâm đến tình dục hoặc tiền bạc. Khi ký ức dần trở lại với anh, Kaspar đã có thể nhớ lại rằng mình đã phải sống nhiều năm dưới sàn của một căn buồng tối, có một người đàn ông cho mình ăn nhưng không bao giờ nói một lời nào và không bao giờ cho gặp một ai. Không lâu sau khi tiết lộ câu chuyện ấy, Kaspar bị một người lạ đâm chết bằng dao găm trong một công viên. https://thuviensach.vn Đã nhiều năm rồi Quinn mới lại cho phép mình nghĩ đến những câu chuyện ấy. Chủ đề trẻ em bao giờ cũng quá đau đớn đối với hắn, đặc biệt là chuyện những đứa trẻ bị hành hạ, bị đối xử tàn tệ, bị chết trước lúc trưởng thành. Nếu Stillman là người mang theo con dao găm ấy, trở về để trút mối hận đời vào đứa trẻ mà lão đã hủy hoại cuộc đời, thì Quinn sẽ phải có mặt ở đó để ngăn lão. Hắn biết hắn không thể làm cho con trai mình sống lại, nhưng ít nhất hắn cũng có thể ngăn không để cho một đứa nữa phải chết. Hắn đã bỗng nhiên có thể làm được chuyện này, và giờ đây khi đang đứng ngoài phố, ý tưởng về những gì đang chờ hắn bỗng lan tỏa như một giấc mơ khủng khiếp. Hắn nghĩ đến chiếc quan tài nhỏ xíu đựng thân xác của đứa con trai và quang cảnh hạ huyệt trong ngày tang lễ. Đó chính là cô lập, hắn tự nhủ. Đó chính là im lặng. Tên đứa con hắn cũng là Peter. Nhưng chuyện ấy cũng chẳng ăn nhằm gì. Có lẽ thế. 5 Tại góc Phố 72 và Đại lộ Madison, hắn vẫy một chiếc tắc-xi. Trong lúc xe lọc xọc chạy xuyên công viên sang khu Tây thành phố, Quinn nhìn qua cửa sổ và tự hỏi không biết kia có phải là những hàng cây mà Peter Stillman đã thấy khi anh ta bước ra không khí và ánh sáng hay không. Hắn cứ nghĩ không biết Peter có nhìn thấy cùng những thứ mà hắn thấy hay không, hay thế giới là một nơi nào khác đối với anh ta. Và nếu một cái cây lại không phải là một cái cây, thì không biết thực sự nó là cái gì. Sau khi xe đã thả hắn xuống trước cửa nhà, Quinn nhận ra là mình đang đói. Hắn đã chưa ăn gì từ sau bữa điểm tâm lúc sáng sớm. Cũng lạ, hắn nghĩ bụng, thời gian trong căn hộ của Stillman trôi mới nhanh làm sao. Nếu tính đúng thì hắn đã ở trên đó đến hơn mười bốn tiếng đồng hồ. Nhưng trong nội tâm hắn chỉ cảm thấy như đã ở đó độ ba bốn tiếng là cùng. Hắn https://thuviensach.vn nhún vai cho qua sự khác biệt ấy và tự nhủ, “Mình phải tập nhìn đồng hồ thường xuyên hơn mới được”. Hắn bước ngược lại con đường dọc Phố 107, rẽ trái vào Broadway, và bắt đầu đi lên phía Bắc, tìm một chỗ ăn thích hợp. Đêm nay hắn không thích vào một quán bar – ăn trong bóng tối, chen chúc ồn ào, những lời tán gẫu sặc mùi rượu – mặc dù bình thường thì hắn vẫn có thể vui vẻ ăn như vậy được. Khi vượt qua Phố 112, hắn thấy quán Heights Luncheonette vẫn còn mở cửa và quyết định vào đó. Một nơi sáng sủa mà vẫn buồn thảm, với một cái giá lớn đầy tạp chí tươi mát kê sát một bên tường, có một chỗ là văn phòng phẩm, một chỗ nữa là báo các loại, nhiều bàn cho khách ăn, và một cái quầy dán formica dài với một dãy ghế xoay. Một người đàn ông Puerto Rico cao lớn đội mũ đầu bếp bằng bìa trắng đứng sau quầy, làm thức ăn ngay tại chỗ, chủ yếu là những món bánh nhồi thịt vẫn lác đác sụn, các loại bánh kẹp nhạt nhẽo với những lát cà chua nhợt nhạt và xà-lách ôi ai, các món uống lạnh đánh với sữa, kem trứng, và bánh ngọt. Phía bên phải ông ta, chúi sau bàn tính tiền, là chủ quán, một người đàn ông nhỏ nhắn tóc quăn đã hói có một hàng số tù của trại tập trung xăm trên cánh tay, đang ngự giữa lãnh địa đầy thuốc lá, tẩu và xì-gà. Ông ta ngồi lì ở đó, đọc bản in đêm của tờ Tin hàng ngày sáng hôm sau. Quán hầu như chẳng còn khách nào vào giờ đó. Bàn trong cùng có hai ông già rách rưới, một ông rất béo và ông kia thì rất gầy, đang chăm chú xem mấy cái biểu đánh cá ngựa. Giữa bàn là hai cốc cà-phê đã uống hết. Cận cảnh, đối diện với giá tạp chí, một cậu sinh viên đứng với một tờ tạp chí mở trên tay, đang chú mục vào bức ảnh một phụ nữ khỏa thân. Quinn ngồi ở quầy và gọi một bánh kẹp thịt với một cà-phê. Khi xoay người vào việc, tay bếp ngoái đầu lại hỏi Quinn. - “Anh bạn có xem trận tối nay không đấy?”. https://thuviensach.vn - “Tôi bị lỡ mất nó. Có gì hay không?”. - “Anh thử đoán xem”. Quinn đã trò chuyện hệt như vậy với người này trong nhiều năm rồi, và vẫn không biết tên anh ta. Đã có một lần, khi hắn ở trong quán, họ đã nói chuyện về bóng chày, và từ đó hễ Quinn đến quán là họ lại tiếp tục câu chuyện ấy. Mùa đông thì họ còn bàn đến chuyện buôn bán, chuyện mai sau cũng như chuyện đã qua. Nhưng đang mùa giải thì lúc nào cũng chỉ là chuyện trận bóng vừa xong. Cả hai đều là cổ động viên của đội Mets, và niềm say mê bất trị ấy đã khiến họ khăng khít với nhau. Anh bếp lắc đầu. “Ngay đầu tiên, Kingman đã trúng liền hai cú”, anh ta nói. “Bùm, bùm. Ối mẹ ơi – cứ gọi là bay thẳng lên cung trăng. Jones ném cũng được một lần khá và mọi chuyện không đến nỗi tệ lắm. Tỉ số là hai một vào cuối hiệp chín. Pittsburgh bắt được bóng trong lần ném thứ hai và thứ ba, thế là bên Mets mất lượt, cả bọn ra gọi bầu Allen. Ông ta cho một tay vào củng cố. Bên Mets quây mấy góc để phòng thủ và đề phòng bóng vào giữa sân. Pena ra sân và bắt hụt ngay quả đầu tiên, để bóng chui qua chân Kingman. Thế là xong, chào thua New York”. - “Dave Kingman là đồ mạt hạng”, Quinn vừa nói vừa ngoạm miếng bánh của mình. - “Nhưng còn có Foster chứ”, anh bếp đáp. - “Foster cũng trôi rồi. Hết thời rồi. Một thằng mặt đểu”. Quinn nhai cẩn thận, dùng lưỡi dò những mẩu sụn. “Họ nên tống nó về Cincinnati bằng đường chuyển phát nhanh”. - “Ờ”, anh bếp nói. “Nhưng cả đội thì cũng cứng đấy. Dù sao thì cũng khá hơn năm ngoái”. https://thuviensach.vn - “Chẳng biết được”, Quinn nói, ngoạm thêm một miếng nữa. “Trên giấy tờ thì trông khá thế thôi chứ thực tế thì lấy đâu ra? Stearns thì lúc nào cũng chấn thương. Dự bị thì toàn loại hạng nhì mà vẫn còn thiếu nữa. Brooks thì vào trận mà đầu óc cứ ở tận đẩu tận đâu. Mookie thì khá, nhưng lại sống sít quá không biết cặp với ai cho vừa. Ừ thì còn có Rusty, nhưng gã béo ị rồi có chạy được nữa đâu. Còn tay ném thì thôi quên đi. Anh với tôi ngày mai có thể đến Shea luôn và sẽ được họ thuê ngay với lương khởi điểm hạng nhất”. - “Có thể tôi sẽ làm cho anh thành bầu đội", anh bếp nói. "Anh sẽ bảo cho bọn khốn ấy biết chúng nên cuốn xéo đi đâu". - “Chứ còn gì nữa”, Quinn nói. Sau khi ăn xong, Quinn đi vơ vẩn ra chỗ văn phòng phẩm. Một đợt hàng vở viết mới về, chất thành đống, từng chồng mầu xanh nước biển, xanh lá cây, đỏ, vàng, trông rất ấn tượng. Hắn nhặt một cuốn lên và thấy trang viết là loại giòng kẻ mau mà hắn vẫn thích. Quinn toàn viết bằng bút mực, chỉ đánh máy bản nháp cuối cùng, và lúc nào cũng cần những cuốn vở gáy xoắn loại tốt. Giờ đây khi đã bắt tay vào vụ Stillman, hắn cảm thấy cần phải có một cuốn vở mới. Sẽ rất tiện có một cuốn riêng để ghi lại những ý nghĩ, quan sát và câu hỏi của hắn. Như thế có lẽ mọi thứ mới không lộn xộn. Hắn nhìn qua khắp đống vở, cố quyết định xem nên lấy cuốn nào. Với những lý do không bao giờ hắn hiểu rõ, Quinn bỗng thấy nhất định phải mua một cuốn bìa đỏ nằm ở tận dưới cùng đống vở. Hắn rút cuốn ấy ra xem, cẩn thận bật mép trang bằng ngón tay cái. Hắn không thể lý giải tại sao hắn lại thích nó đến thế. Chỉ là một cuốn vở trăm trang thường, khổ tiêu chuẩn. Thế mà hắn thấy nó có cái gì đó thật lạ, như thể số phận duy nhất của nó là lưu giữ những gì mà ngòi bút hắn sẽ viết ra. Gần như lúng túng vì https://thuviensach.vn chính những xúc cảm mạnh mẽ ấy của mình, Quinn cắp cuốn vở vào nách, bước ra quầy thu tiền và mua nó. Mười lăm phút sau, khi đã về đến nhà, Quinn lấy cái ảnh Stillman và tấm séc ra khỏi túi áo và cẩn thận đặt chúng lên bàn viết. Hắn dọn sạch mặt bàn – những que diêm đã cháy, đầu mẩu thuốc lá, từng lớp tàn thuốc, những ống mực đã dùng hết, mấy đồng xu, cuống vé, những sợi mỳ, một chiếc khăn tay bẩn – rồi đặt cuốn vở bìa đỏ vào giữa. Sau đó hắn hạ hết rèm, cởi hết quần áo và ngồi xuống bên bàn. Hắn chưa bao giờ làm vậy, nhưng không hiểu sao lúc ấy hắn thấy trần truồng là thích hợp nhất. Hắn ngồi đó trong hai ba mươi giây, cố gắng không động đậy, không làm gì hết ngoài thở. Rồi hắn mở cuốn vở bìa đỏ, cầm lấy bút, và viết hai chữ DQ, hai chữ đầu của tên hắn – Daniel Quinn – vào trang đầu tiên. Đấy là lần đầu tiên sau năm năm hắn viết tên mình vào một trong những cuốn vở ghi chép như vậy. Hắn suy nghĩ về việc ấy một lúc nhưng rồi lại gạt đi, cho là không có liên quan gì cả. Hắn lật trang, rồi nghiên cứu cái trống vắng của trang giấy một lúc, không biết mình có phải là một công cụ đẫm máu hay không. Sau đó, hắn hạ bút xuống giòng kẻ trên cùng và viết đoạn đầu tiên vào cuốn vở đỏ. Gương mặt của Stillman. Hoặc: Mặt Stillman hai mươi năm trước. Không thể biết liệu gương mặt ngày mai có giống nó không. Nhưng chắc chắn đây không phải là mặt người điên. Hay nói vậy là sai? Trong mắt tôi, ít nhất, nó có vẻ lành, nếu không muốn nói là hoàn toàn dễ chịu. Thậm chí cái miệng còn có vẻ dịu dàng nữa. Có nhiều khả năng là mắt xanh, mà hay ướt át. Thời ấy mà tóc đã mỏng thế, thì bây giờ chắc chẳng còn sợi nào, mà có còn thì cũng hoa râm hoặc bạc trắng cả rồi. Ông ta có cái vẻ quen thuộc là lạ: Kiểu người hay nghĩ ngợi, chắc chắn là căng thẳng, loại người có thể nói lắp, và phải chiến đấu với chính mình để chặn đứng cơn lũ từ ngữ không cho trào ra khỏi miệng. https://thuviensach.vn Bé Peter. Mình có cần phải tưởng tượng không, hay cứ tin và chấp nhận chuyện đó. Bóng tối. Cứ nghĩ mình ở trong căn phòng ấy, gào thét. Ngại thật. Thậm chí không muốn hiểu chuyện này. Để làm gì chứ? Rốt cuộc thì đây đâu có phải là một câu chuyện. Đây là một sự thật, một cái gì đó đang xảy ra trong thế giới này, và người ta mong mình làm một việc, một việc nhỏ thôi, và mình đã vừa đồng ý rồi. Nếu mọi thứ suôn sẻ thì cũng rất đơn giản. Mình được thuê không phải để hiểu, mà chỉ để hành động. Đây mới là cái mới. Hãy nhớ lấy điều này, bằng bất kỳ giá nào. Virginia mới thật là không biết thế nào đây. Không phải chỉ vì cái hôn ấy, có thể còn giải thích được bằng nhiều lý do; cũng không phải những gì Peter đã nói về bà ta, vốn cũng không quan trọng. Là cuộc hôn nhân của bà ta ư? Có thể lắm. Cái cộc lệch hoàn toàn của nó. Liệu có phải bà ta làm vậy vì tiền? Hoặc giả là một âm mưu hợp tác với lão Stillman? Nếu thế thì mọi thứ thay đổi hết. Nhưng đồng thời lại rất vô lý. Bởi vì tại sao bà ta lại thuê mình? Chỉ để làm nhân chứng cho những thiện chí đã rõ ràng của bà ta ư? Cũng có thể. Nhưng như thế thì có vẻ phức tạp quá. Vậy thì tại sao mình vẫn cảm thấy không nên tin tưởng ở bà ta? Lại cái mặt Stillman. Mấy phút vừa qua mình đang nghĩ hình như đã thấy nó trước đây rồi. Có lẽ nhiều năm trước, ở ngay quanh đây, trước khi lão bị bắt. Nhớ xem khi mặc quần áo người khác thì như thế nào. Có lẽ phải bắt đầu như vậy. Chắc là phải thế thôi. Trở lại ngày xưa, mười tám, hai mươi năm về trước, lúc mình còn chưa có tiền nong gì và bạn bè còn đưa áo quần cho mình mặc. Như cái áo khoác của J hồi đại học chẳng hạn. Và cái cảm giác lạ lùng khi mình phải trèo vào bộ da của hắn. Có lẽ phải bắt đầu từ đó. Và rồi, quan trọng hơn cả, là phải nhớ mình là ai. Nhớ là mình phải là ai. Đừng nghĩ đây là một trò chơi. Mặt khác, chẳng có gì rõ ràng cả. Ví dụ: Quí https://thuviensach.vn vị là ai? Và nếu quí vị nghĩ là quí vị biết thì tại sao quí vị lại vẫn cứ nói dối thế? Tôi không trả lời được câu hỏi này. Tôi chỉ có thể nói rằng: Hãy nghe tôi. Tên tôi là Paul Auster. Đó không phải là tên thật của tôi. 6 Quinn dành cả sáng hôm sau để đọc cuốn sách của Stillman trong thư viện trường Columbia. Hắn đến sớm, là người đầu tiên ở đó khi cửa mở, và cái im ắng của những sảnh lớn toàn đá hoa cương làm hắn dễ chịu, như thể hắn vừa được phép vào bên trong một ẩn phòng lãng quên nào đó. Sau khi giơ tấm thẻ cựu sinh viên ra trước mặt một thủ thư đang còn ngái ngủ ở sau bàn, hắn lấy cuốn sách từ trên giá xuống, quay lại tầng ba, rồi yên vị trên một chiếc ghế bành bọc da màu xanh lá cây trong một phòng hút thuốc. Sáng tháng Năm tưng bừng lấp ló bên ngoài như một cám dỗ, một tiếng gọi hãy lang thang vô định trong khí trời, nhưng Quinn cương quyết cưỡng lại. Hắn xoay ghế quay lưng lại phía cửa sổ, rồi mở cuốn sách. Khu Vườn và tòa Tháp: Nhỡn ảnh ban đầu của Tân Thế giới có hai phần tương đối dài bằng nhau, “Huyền thoại Thiên đường” và “Huyền thoại Babel”. Phần đầu tập trung vào những phát hiện của các nhà thám hiểm, bắt đầu với Columbus [8] và tiếp tục đến tận Raleigh [9] . Lập luận của Stillman là những người đầu tiên đặt chân đến châu Mỹ đã tin rằng họ vừa tình cờ tìm thấy chốn địa đàng, một Vườn Eden thứ hai. Ví dụ, Columbus đã viết về chuyến đi thứ ba của ông như sau: “Bởi tôi tin rằng cõi Thiên đàng nơi trần thế là đây, nơi không ai có thể đặt chân vào nếu không có quyền phép của Thượng đế”. Về con người ở xứ sở ấy thì Peter Martyr [10] đã viết từ năm 1505 như sau: “Họ dường như đang sống trong chốn bồng lai mà các bậc thức giả ngày xưa đã từng nói đến rất nhiều, trong đó con người sống giản dị và trong trắng, không cần đến luật pháp, không có tranh giành, phán xét, kiện tụng, mà chỉ biết thảnh thơi chiều đãi thiên nhiên”. https://thuviensach.vn Đến hơn nửa thế kỷ sau đó thì Montaigne bất tử còn viết thế này: “Theo tôi, những gì mà chúng ta thực sự nhìn thấy ở các dân tộc này không những đã vượt quá tất cả những hình ảnh mà các thi hào đã vẽ nên về một thời bồng lai rực rỡ, tất cả những hư cấu của họ về một đời hạnh phúc của nhân loại, mà còn vượt quá cả quan niệm và ước vọng của bản thân triết học nữa”. Ngay từ buổi ban đầu, theo Stillman, cuộc phát hiện ra Tân Thế giới đã nhanh chóng làm nẩy sinh tư tưởng Utopia , cái tia lửa đã nuôi dưỡng hy vọng về một cõi nhân thế hoàn hảo – từ cuốn sách viết năm 1516 của Thomas More [11] đến những tiên tri của Gerónimo de Mendieta vài năm sau đó, rằng lục địa Mỹ sẽ trở thành một nhà nước thần quyền lý tưởng, một đô thành chân chính của Thượng đế. Tuy nhiên, còn có một quan điểm ngược lại. Nếu có người nhìn dân da đỏ như đang sống trong ngây thơ sơ khoáng, thì lại có người coi họ là cục súc man rợ, là những con quỉ đội lốt người. Việc phát hiện các bộ tộc ăn thịt người ở vùng biển Caribbean càng khích lệ quan điểm sau này hơn. Người Tây Ban Nha đã dùng nó để biện hộ cho những hành vi bóc lột tàn nhẫn dân bản xứ vì những mục đích thương mại ích kỷ của mình. Vì có chuyện không coi ai đó là người, thì ta mới tha hồ tệ bạc với họ mà không bị lương tri câu thúc. Mãi đến năm 1537, với lệnh chỉ của Giáo hoàng Paul đệ tam, dân da đỏ châu Mỹ mới được công nhận là con người có linh hồn. Nhưng cuộc tranh biện vẫn tiếp tục qua nhiều thế kỷ sau đó, lên tới đỉnh điểm với một phe theo tư tưởng của Locke [12] và Rousseau [13] coi dân da đỏ là những “người man dại cao thượng” – nền tảng lí thuyết của nền dân chủ ở một châu Mỹ độc lập – và một phe cương quyết vận động đòi tiêu diệt hết người da đỏ, với một xác tín bất diệt rằng chỉ có người da đỏ chết mới là người da đỏ tốt. Phần hai của cuốn sách bắt đầu bằng một cách nhìn mới về sự sa ngã của loài người. Dựa rất nhiều vào Milton [14] và câu chuyện của ông trong https://thuviensach.vn cuốn Lỡ mất Thiên đàng – đại diện cho quan điểm Thanh giáo chính thống – Stillman cho rằng chỉ sau khi loài người sa ngã thì cõi nhân thế như chúng ta biết mới ra đời. Bởi lẽ nếu đã không có cái ác trong Vườn địa đàng, thì ở đó cũng đã chẳng có cái thiện. Như chính Milton đã viết trong Areopagitica [15] , “Chính là từ trong trái táo bị nếm ấy mà thiện và ác đã nhẩy vào thế giới này, như một cặp song sinh vẫn nêm lấy nhau”. Stillman đã bàn luận không sót một khía cạnh nào về câu này. Cho rằng văn cảo ấy chỗ nào cũng là chơi chữ thâm thúy cả, ông ta giảng giải rằng từ “nếm” thực ra là lấy từ chữ “sapere” trong tiếng La-tinh, vừa có nghĩa là “nếm” vừa có nghĩa là “biết” và do vậy có ý nghĩa nhắc nhở một cách rất thanh cao đến cái cây tri thức: Cội nguồn của trái táo mà hương vị của nó đã đem tri thức vào cõi đời này, cũng tức là cái thiện và cái ác. Stillman cũng bàn luận về cái nghịch nghĩa của từ “nêm”, vừa có nghĩa là “gắn chặt lại với nhau”, vừa có nghĩa là “bị chẻ ra làm đôi”, và vì vậy mà trở thành hiện thân của hai tín hiệu bình đẳng mà đối nghịch nhau, cũng tức là hiện thân của một quan điểm về ngôn ngữ mà Stillman thấy hiện diện trong tất cả các tác phẩm của Milton. Ví dụ như trong Lỡ mất Thiên đàng , từ chủ chốt nào cũng có hai nghĩa – một nghĩa trước sa ngã và một nghĩa sau sa ngã. Để minh họa luận điểm này, Stillman đã dẫn ra nhiều từ như thế, như tăm tối, rắn rết, khoái lạc , và phân tích rằng trước sa ngã chúng không hề có hàm ý đạo đức gì, còn sau sa ngã thì chúng đều trở thành mập mờ và mang nặng dấu ấn của cái ác. Một nhiệm vụ của Adam trong Vườn Địa đàng là sáng tạo ra ngôn ngữ, đặt tên cho từng sinh linh và vật thể. Trong trạng thái ngây thơ lúc bấy giờ, ngôi lời của ông thâm nhập thẳng vào hồn vía của thiên hạ. Từ ngữ của ông không phải là những cái nhãn hiệu móc thêm vào những gì ông nhìn thấy, mà chúng làm lộ diện cái tinh chất của muôn vật, khiến cho chúng sống dậy hẳn hoi. Một vật và cái tên của nó là hoán vị được cho nhau. Sau khi sa ngã, điều đó không còn đúng nữa. Tên gọi bị tách biệt khỏi sự vật; từ ngữ thoái hóa thành một mớ tín hiệu giả tạo; ngôn ngữ đã bị cắt đứt khỏi Thượng đế. https://thuviensach.vn Vì vậy mà câu chuyện Vườn Địa đàng không những là câu chuyện về sự sa ngã của loài người, mà còn là câu chuyện về sự sa ngã của ngôn ngữ. Sau này, sách Sáng thế kí còn có một câu chuyện khác nữa về ngôn ngữ. Theo Stillman, giai thoại về Tháp Babel đã nhắc lại chính xác những gì từng xảy ra trong Vườn Địa đàng – có điều được phát triển thêm, khái quát về ý nghĩa cho toàn bộ nhân loại. Câu chuyện ấy mang một ý nghĩa đặc biệt khi xét đến vị trí của nó trong sách: Chương 11 của Sáng thế kí , từ đoạn 1 đến đoạn 9. Đây chính là sự kiện cuối cùng của thời tiền sử trong Kinh Thánh. Sau đó, Cựu Ước chỉ còn đơn thuần là biên niên sử của người Do Thái [16] . Nói cách khác, Tháp Babel sừng sững như hình ảnh cuối cùng trước thời điểm khởi thủy đích thực của thế giới. Stillman tiếp tục bàn luận trong nhiều trang tiếp theo. Ông ta bắt đầu bằng cách điểm lại lịch sử của những cách lý giải khác nhau về câu chuyện này, đi sâu vào nhiều ngộ nhận đã nẩy sinh xung quanh nó, và kết thúc với một vựng tập dài những truyền thuyết lấy từ các sách Aggadah (phần giảng nghĩa các vấn đề lịch sử và thế sự không liên quan gì đến giáo lý luật pháp trong kinh Talmud của Do Thái giáo). Nói chung, Stillman viết, mọi người đều đồng ý rằng loài người đã xây dựng tòa Tháp cộng đồng của mình sau khi Thượng đế tạo nên thế giới đã được 1996 năm, tức là chỉ 340 năm sau trận Đại Hồng thủy, “đặng cho chúng ta được sinh sôi đầy rẫy khắp mặt đất”. Sự trừng phạt của Thượng đế là để đáp lại thèm muốn này, mâu thuẫn với mệnh lệnh của Ngài đã được ghi lại trước đó trong Sáng thế kí , rằng "Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy rẫy đất và thành người cai quản nó". Thành thử Thượng đế đã kết án loài người vì đã nghe lệnh Ngài bằng cách phá hủy tòa Tháp. Tuy nhiên, cũng có cách hiểu khác, rằng tòa Tháp là một thách thức chống lại Thượng đế. Nimrod, thủ lĩnh đầu tiên của cả thiên hạ, là người được cử làm kiến trúc sư của tòa Tháp, và nó phải là một miếu đường tượng trưng cho quyền lực thống lãnh của ông ta. Đây là quan điểm https://thuviensach.vn anh hùng kiểu Promethe [17] về câu chuyện này, xuất phát từ hai câu “chúng ta hãy xây một cái thành, dựng nên một tòa tháp chót cao đến tận trời”, và “chúng ta hãy tạo dựng danh tiếng cho mình”. Việc xây Tháp đã thành một ám ảnh, một đam mê át hết mọi thứ khác của loài người, rốt cuộc còn quan trọng hơn cả bản thân cuộc sống. Gạch hóa ra quí hơn người. Thậm chí đàn bà làm việc bất kể cả sinh nở; họ quấn hài nhi chặt vào người và lại tiếp tục lao động. Rõ ràng có ba nhóm khác nhau cùng tham gia vào công trình xây dựng này: Những người muốn được sống trên Thiên đàng, những người muốn khởi chiến chống lại Thượng đế, và những người muốn thờ phụng thần tượng. Đồng thời, họ lại chung lưng đấu cật với nhau – “Và cả thiên hạ chỉ có một ngôn ngữ chung, đều nói cùng một thứ tiếng” – và sức mạnh tiềm tàng của một nhân loại thống nhất đã khiến Thượng đế nổi giận. Và Ngài phán rằng “Này, chỉ có một thứ dân, cùng đồng một thứ tiếng, và kìa là công việc chúng nó đương khởi làm, và giờ thì chẳng còn chi ngăn chúng làm những gì chúng muốn được nữa”. Câu phán ấy là một tiếng vọng hữu thức của những lời Thượng đế đã nói khi đuổi Adam và Eva ra khỏi Vườn Địa đàng: “Này, về sự phân biệt điều thiện và điều ác, loài người đã thành một bậc như chúng ta; vậy bây giờ, ta hãy coi chừng, e loài người cũng giơ tay lên hái trái cây sự sống mà ăn và được sống đời đời chăng. Đức Chúa trời bèn đuổi loài người ra khỏi vườn Eden...”. Lại còn một cách hiểu nữa cho rằng câu chuyện này chỉ đơn thuần là một cách giải thích sự đa dạng của các giống người và ngôn ngữ loài người. Bởi nếu nhân loại đều là con cháu của Noah [18] thì làm sao có thể lý giải được những khác biệt lớn lao giữa các nền văn hóa? Một cách hiểu nữa thì lại cho rằng câu chuyện là một cách lý giải cho sự tồn tại của các tín ngưỡng khác nhau và tục thờ thần tượng – vì trước câu chuyện này thì tất cả loài người đều được mô tả là chỉ tín ngưỡng một vị thần mà thôi. Còn về bản thân tòa Tháp thì tục truyền là một phần ba đã chìm sâu xuống đất, một phần ba bị lửa thiêu trụi, và một phần ba thì được tha cho vẫn còn đó. Thượng đế đã tấn https://thuviensach.vn công nó theo hai kiểu như vậy để cho loài người phải tin rằng sự phá hủy ấy là một hình phạt của thánh thần chứ không phải là tai nạn ngẫu nhiên. Vậy mà cái phần còn lại ấy vẫn cao đến mức từ trên đỉnh nhìn xuống thì thấy cây cọ chỉ to chưa bằng con châu chấu. Tục truyền rằng bóng đổ của tháp dài đến độ có đi bộ ba ngày liền cũng không ra khỏi được nó. Cuối cùng – và Stillman bàn về chi tiết này rất kỹ – người ta tin rằng bất kỳ ai đã nhìn thấy tòa Tháp hoang phế ấy cũng sẽ quên hết những gì mình đã biết. Quinn không thể biết được tất cả những chuyện này có can hệ gì đến Tân Thế giới. Nhưng sau đó lại thấy có một chương mới, và bỗng nhiên Stillman bàn đến cuộc đời của Henry Dark, một giáo sỹ ở Boston, ra đời tại Luân Đôn năm 1649 (đúng vào ngày xử tử nhà vua Charles đệ nhất), đến Mỹ năm 1675, và chết trong một trận hỏa hoạn ở Cambridge, Massachusetts, năm 1691. Theo Stillman, hồi còn trẻ Henry Dark đã làm thư ký riêng cho John Milton – từ năm 1669 cho đến lúc nhà thơ từ trần 5 năm sau đó. Chuyện này là mới đối với Quinn, vì hắn vẫn nhớ đã đọc được ở đâu đó rằng Milton mù lòa vẫn đọc cho một trong số các con gái của ông chép các tác phẩm của mình. Giờ thì hắn biết rằng Dark là một tín đồ Thanh giáo cuồng nhiệt, một sinh viên thần học, và là một người theo sát các tác phẩm của Milton. Sau khi được bệ kiến vị anh hùng của mình trong một dịp hội họp nho nhỏ, gã được mời đến chơi trong tuần lễ sau đó. Dịp này kéo theo dịp khác, và cuối cùng Milton bắt đầu giao cho Dark nhiều việc vặt vãnh: Chép lời đọc, dẫn ông đi phố trong kinh thành Luân Đôn, đọc cho ông nghe những tác phẩm của cổ nhân. Trong một bức thư mà Dark viết cho em gái ở Boston năm 1672, gã có nhắc đến những buổi bàn luận kéo dài với Milton về những luận điểm tinh tế trong những lý giải về Kinh Thánh. Rồi Milton qua đời, và Dark thành kẻ bơ vơ không nơi nương tựa. Sáu tháng sau đó, thấy nước https://thuviensach.vn Anh chỉ là một hoang mạc, một mảnh đất không có gì dành cho mình, gã quyết định di cư sang Mỹ. Gã đến Boston vào mùa hè năm 1675. Người ta biết rất ít về những năm đầu của gã ở Tân Thế giới. Stillman đồ rằng có thể gã đã đi sang miền Tây, sục sạo vùng đất chưa khai phá, nhưng không thể tìm thấy một bằng chứng cụ thể nào cho giả định này. Mặt khác, có nhiều điều được Dark nhắc tới trong di cảo của mình lại cho thấy một hiểu biết khá sâu sắc về phong tục tập quán của dân da đỏ, khiến cho Stillman có giả thuyết rằng có thể Dark đã sống với một bộ lạc da đỏ trong một thời gian. Cứ cho là như vậy đi, nhưng cái tên Henry Dark mãi đến năm 1682 mới xuất hiện chính thức trong sổ giá thú của thành phố Boston khi gã đăng kí kết hôn với một cô Lucy Fitts nào đó. Hai năm sau, hắn được vào sổ là mục sư của một hội đoàn Thanh giáo nhỏ ở ngoại ô thành phố. Vợ chồng gã sinh nhiều con, nhưng đều chết yểu. Chỉ có một con trai là John, sinh năm 1686, là sống sót. Nhưng đến năm 1691 thì thằng bé lại bị tai nạn ngã từ cửa sổ gác hai xuống và chết nốt. Chỉ một tháng sau đó, toàn bộ ngôi nhà bị lửa cháy rụi, và cả Dark lẫn vợ gã đều chết trong hỏa hoạn ấy. Henry Dark chắc chắn sẽ bị quên lãng và phôi pha cùng cuộc sống ban đầu của nước Mỹ nếu không có chuyện này: Việc xuất bản một cuốn sách nhỏ vào năm 1690 với nhan đề Tân Babel luận . Theo Stillman, cuốn sách nhỏ 64 trang này là viễn ảnh sắc sảo nhất về tân lục địa kể đến thời điểm ấy. Nếu Dark đã không chết sớm như vậy sau khi ra cuốn sách này, chắc chắn là hiệu quả của nó sẽ lớn lao hơn nhiều. Bởi vì, hóa ra là cuộc hỏa hoạn đã giết chết Dark kia cũng đã thiêu hủy hầu như toàn bộ các ấn bản của cuốn sách. Bản thân Stillman đã chỉ có thể tìm thấy độc một bản – và đó là do tình cờ thấy nó trên tầng áp mái ngay tại nhà mình ở Cambridge. Sau nhiều năm kín đáo truy tìm, ông ta đã kết luận rằng đây là bản duy nhất còn lại. Tân Babel luận , được viết theo lối văn xuôi hào sảng của Milton, trình bày trường hợp đi tìm Thiên đàng ở châu Mỹ. Không như những tác giả https://thuviensach.vn khác đã viết về chủ đề này, Dark không giả định Thiên đàng là một nơi chốn có thể tìm thấy được. Không có bản đồ nào có thể đưa con người đến đó, không có dụng cụ chỉ đường nào có thể dẫn con người đến bến bờ của nó. Thiên đàng nằm ngay trong nội tại của chính con người như một ý tưởng về một chốn bên kia mà một ngày nào đó con người có thể tạo tác nên, ngay đây, ngay bây giờ. Bởi vì Utopia là không nơi nào hết – thậm chí, như Dark giải thích, nó không ngụ ngay cả trong những lời lẽ nói về mình. Và nếu con người có thể làm nên cái nơi chốn hằng mơ ước của mình, thì cách duy nhất là phải xây dựng nó bằng chính đôi tay của mình vậy. Những kết luận của Dark là dựa trên cách hiểu câu chuyện tháp Babel như một sấm truyền. Sử dụng rất nhiều các lý giải của Milton về sự sa ngã của loài người, gã noi theo thầy mình trong việc gán cho ngôn ngữ một vai trò quan trọng quá đáng. Nhưng gã còn đẩy những ý tưởng của nhà thơ đi thêm một bước nữa. Nếu sự sa ngã của con người dẫn đến sự sa ngã của ngôn ngữ, thì liệu có logic không khi giả định rằng sẽ có thể giải cứu bước sa ngã ấy, đảo ngược những hiệu ứng của nó bằng cách giải cứu sự sa ngã của ngôn ngữ, bằng cách nỗ lực tái tạo thứ ngôn ngữ từng được nói trong Vườn Địa đàng? Nếu loài người có thể học nói thứ ngôn ngữ ngây thơ nguyên ủy này, liệu sau đó nó có khôi phục được trạng thái ngây thơ nội tại của mình chăng? Dark nói rằng có, và lập luận rằng đấng Christ là một ví dụ. Chẳng phải Ngài cũng là một con người bằng xương bằng thịt đó sao? Và chẳng phải là Ngài nói thứ ngôn ngữ của thời tiền sa ngã đó sao? Trong cuốn Thiên đàng Tìm lại , quỉ Satan nói một thứ tiếng “bịp bợm nước đôi”, còn “những hành động của đấng Christ thì đều xứng hợp với lời nói của Ngài. Lời Ngài là chân ngữ cất lên từ tấm lòng bao la của Ngài; và tấm lòng Ngài là một bao dung hoàn hảo của điều thiện, trí thông sáng, và công lý”. Cũng chẳng phải là Thượng đế “giờ đây đã sai Đấng tiên tri là con mình xuống hạ giới để rao giảng ý nguyện của Ngài; và Ngài cũng cho cả Thánh Linh của mình xuống đó, ngự trong những con tim ngoan đạo như một https://thuviensach.vn Đấng tiên tri nội tại để ta tìm kiếm mọi Chân lý” đó hay sao? Và cũng chẳng phải là vì có đấng Christ mà bước sa ngã ấy lại có kết cục hoan hỷ đó hay sao, chẳng phải đó chính là một felix culpa , phước lành của cuộc cứu chuộc, khi giáo lý đã vì vậy mà được rao giảng rốt ráo đó hay sao? Chính vì vậy, Dark lập luận, chắc hẳn là con người có thể nói thứ ngôn ngữ ngây thơ nguyên thủy kia và vãn hồi nguyên vẹn chân lý ngay trong nội tại mình. Quay sang câu chuyện tháp Babel, Dark phát triển dự định của mình và tuyên bố viễn ảnh của gã về những gì sẽ tới. Dẫn lại câu số 2 của chương 11 Sáng thế kí : “Rồi khi rời bỏ phương Đông mà đi, họ gặp một đồng bằng trong xứ Shi-nar và ở lại đó” – Dark tuyên bố rằng đoạn này đã chứng minh cho cuộc dịch chuyển của văn minh nhân loại về phía Tây. Bởi thành Babel – hoặc Babylon – là nằm ở đất Mesopotamia, về phía viễn Đông vùng đất của người Do Thái. Nếu Babel có nằm ở phía Tây của một nơi nào đó thì nơi ấy chỉ có thể là Vườn Eden, địa điểm khởi thủy của loài người. Nghĩa vụ của con người phải đầy rẫy mặt đất – theo lệnh của Thượng đế là “hãy sinh sôi... và đầy rẫy mặt đất” – sẽ tất yếu phải được thi hành theo hướng đi về phía Tây. Và Dark hỏi rằng còn có vùng đất nào Tây phương hơn châu Mỹ nữa trong tất thảy lãnh địa của Đức Chúa trời? Vì vậy mà cuộc di chuyển của người Anh sang định cư tại Tân Thế giới có thể được hiểu là công cuộc thi hành cái mệnh lệnh cổ xưa kia. Châu Mỹ là chặng cuối cùng của tiến trình ấy. Một khi lục địa này đã đầy rẫy loài người, đó sẽ là thời điểm chín muồi cho một đổi thay trong vận hội của nhân loại. Cái trở ngại cho việc xây dựng tháp Babel – tức là loài người phải đầy rẫy mặt đất đã – sẽ không còn nữa. Lúc ấy, thiên hạ lại có thể cùng chung một ngôn ngữ và nói chung một thứ tiếng. Và nếu điều đó diễn ra được thì Thiên đàng cũng chẳng còn xa xôi nữa. Cũng hệt như tháp Babel đã được xây sau Đại Hồng thủy 340 năm, Dark tiên đoán rằng đúng 340 năm sau khi tầu Mayflower cập bến Plymouth [19] https://thuviensach.vn , mệnh lệnh kia sẽ được hoàn thành. Bởi chắc chắn là những tín đồ Thanh giáo, con dân mới được Thượng đế lựa chọn, sẽ nắm giữ số phận của nhân loại trong tay mình. Không như người Do Thái đã phản lại Thượng đế khi chối bỏ con trai Ngài, những người Anh được cấy lại trên mảnh đất này sẽ viết nên chương cuối cùng của lịch sử trước lúc trời và đất cuối cùng sẽ lại hợp nhất. Giống như Noah trên con thuyền của ông ta, họ đã vượt qua vùng nước lụt đại dương mênh mông để thi hành sứ mạng thiêng liêng của mình. Theo tính toán của Dark, 340 năm có nghĩa là đến năm 1960 thì những người định cư sẽ hoàn tất phần đầu sự nghiệp của mình. Đến thời điểm ấy, người ta sẽ đặt xong những nền móng cho công trình thực sự tiếp theo là xây dựng một tháp Babel mới. Dark viết rằng đã có thể thấy những dấu hiệu đáng khích lệ ở ngay thành phố Boston, bởi ở đó, không như bất kỳ nơi nào khác trên thế giới, vật liệu xây dựng chính là gạch nung – thứ được gọi là vật liệu xây dựng của tháp Babel trong câu thứ 3, chương 11 Sáng thế kí . Trong năm 1960, Dark tuyên bố rất tự tin, tháp Babel mới sẽ bắt đầu mọc lên, có dáng dấp vươn tới các tầng trời, một biểu tượng phục sinh của ý trí nhân loại. Lịch sử sẽ được viết ngược lại. Cái gì đã sa ngã nay sẽ vươn lên; cái gì đã đổ vỡ nay sẽ lành lặn lại. Khi hoàn tất, tòa Tháp sẽ đủ chỗ cho tất cả cư dân của Tân Thế giới. Mỗi người sẽ có một phòng riêng, và khi bước vào căn phòng ấy, người ta sẽ quên hết những gì mình đã biết. Sau 40 ngày và 40 đêm, người ấy sẽ ra khỏi phòng thành một con người mới, nói tiếng nói của Thượng đế, sẵn sàng cư ngụ nơi Thiên đàng thứ hai và vĩnh cửu. Thế là hết phần tóm tắt của Stillman về cuốn sách nhỏ của Dark ra ngày 20 tháng 12 năm 1960, đúng vào dịp kỷ niệm lần thứ 70 ngày cập bến của tầu Mayflower. Quinn buông một tiếng thở dài nhè nhẹ và gập lại cuốn sách. Phòng đọc chẳng còn ai. Hắn cúi về phía trước, hai tay ôm đầu, và nhắm mắt lại. “1960”, hắn nói to. Hắn cố mường tượng ra hình ảnh Henry Dark, nhưng https://thuviensach.vn không thấy gì cả. Trong tâm trí hắn chỉ thấy lửa cháy, những lưỡi lửa bốc lên từ nhiều cuốn sách đang cháy. Rồi khi không còn biết là mình đang nghĩ gì và đã nghĩ đến đâu nữa, hắn bỗng sực nhớ rằng 1960 là năm mà Stillman đã khóa nhốt đứa con trai của mình. Hắn mở cuốn vở bìa đỏ và đặt nó ngay ngắn trên lòng. Tuy nhiên, đúng lúc định viết thì hắn lại quyết định thôi, thế là đủ rồi. Hắn gập vở lại, đứng lên, và mang cuốn sách của Stillman ra trả tại bàn thủ thư. Xuống đến chân cầu thang, hắn châm một điếu thuốc lá, rời khỏi thư viện và bước vào nắng chiều tháng Năm ở bên ngoài. 7 Hắn đến ga Grand Central từ rất sớm. Chuyến tầu của Stillman mãi 6 giờ 41 phút mới về đến ga, nhưng Quinn muốn có thời gian nghiên cứu kỹ địa hình để đảm bảo Stillman sẽ không thể tuột khỏi tay mình. Khi từ dưới tầu điện ngầm đi lên sảnh lớn, hắn thấy đồng hồ ở đó vừa nhích khỏi bốn giờ. Nhưng nhà ga cũng đã bắt đầu đầy những khách đi vào giờ cao điểm. Len qua đám đông, Quinn làm một vòng qua các cửa ke có đánh số, tìm những chỗ có cầu thang khuất nẻo, những lối ra không đề biển, những ngóc ngách tối. Hắn kết luận rằng hễ ai đã quyết tâm lẩn trốn thì đều có thể làm vậy chẳng mấy khó khăn. Hắn chỉ còn biết hy vọng là Stillman đã không bị cảnh báo là hắn sẽ có mặt ở đó. Nếu đúng là như vậy, và Stillman mà tránh được mặt hắn, thì chỉ tại Virginia Stillman mà thôi. Không còn ai khác. Hắn yên tâm vì biết mình đã có phương án cho trường hợp hỏng việc. Nếu Stillman không xuất hiện, Quinn sẽ đến Phố 69 và gặp thẳng Virginia Stillman để nói hết chuyện này. Trong lúc lang thang khắp nhà ga, hắn tự nhắc nhở mình đang là ai, và bắt đầu thấy việc sắm vai Paul Auster cũng không phải là hoàn toàn khó https://thuviensach.vn chịu. Mặc dù vẫn thân xác ấy, tâm trí ấy, những ý nghĩ ấy của mình, nhưng hắn cảm thấy như đang tách ra khỏi chính mình, như thể hắn không còn đi quanh với gánh nặng lương tri của chính mình nữa. Chỉ cần một thủ thuật đơn giản của trí khôn, một cú đổi tên khéo léo nho nhỏ, hắn đã thấy nhẹ nhõm và tự do hơn rất nhiều. Vẫn biết rằng đó chỉ là ảo giác, nhưng rõ ràng hắn thấy dễ chịu trong cái ảo giác ấy. Hắn không thực sự đánh mất mình; hắn chỉ giả vờ mà thôi, và có thể trở lại làm Quinn bất kỳ lúc nào hắn muốn. Có điều giờ đây việc hắn đang là Paul Auster lại là có mục đích hẳn hoi – một mục đích đang mỗi lúc một quan trọng hơn đối với hắn – và sự thật ấy là một biện hộ đạo lý cho trò đánh đố này và còn miễn cho hắn cả cái tội phải bảo vệ lời dối trá của mình nữa. Bởi vì việc tưởng tượng mình là Auster đã trở thành đồng nghĩa với việc hắn đang làm điều thiện cho thiên hạ, hắn nghĩ vậy. Cho nên hắn lang thang khắp nhà ga cứ như đang núp trong thân thể của Paul Auster, chờ đến lúc Stillman xuất hiện. Hắn ngước lên vòm trần của sảnh lớn và nhìn kỹ bức bích họa vẽ các chòm sao ở đó. Có những bóng đèn sáng ở vị trí các vì sao và những hình vẽ nét mô tả các nhân vật trên thượng giới. Quinn chưa bao giờ nhận ra mối quan hệ giữa các chòm sao và tên gọi của chúng. Khi còn nhỏ, hắn từng ngồi hàng giờ liền dưới vòm trời đêm, cố liên hệ những chấm sáng li ti túm tụm với nhau kia với hình thù của con gấu, con bò, người bắn cung, và gầu múc nước. Nhưng hắn chẳng bao giờ nhìn thấy chúng, và cảm thấy mình thật ngu ngốc, như thể có một điểm mù ở ngay giữa não vậy. Hắn tự hỏi không biết thằng cha Auster hồi nhỏ có khá hơn mình tí nào không. Phía đối diện, chiếm một phần lớn mảng tường phía đông của nhà ga, là một tấm ảnh trưng bày của hãng Kodak màu sắc rực rỡ xa lạ. Cảnh trưng bày trong tháng ấy là một đường phố trong một làng chài nào đó ở vùng New England, có thể là Nantucket. Ánh sáng mùa xuân đẹp đẽ lấp lánh trên https://thuviensach.vn những hòn đá lát đường, hoa nở nhiều màu sắc trong những bồn hộp dưới cửa sổ mặt tiền nhà, và mãi cuối phố là đại dương, với những ngọn sóng trắng và mặt nước xanh, xanh ngắt. Quinn nhớ đã đến Nantucket cùng với vợ từ lâu lắm rồi, hồi nàng mới mang thai được một tháng, khi con trai hắn còn chưa bằng một hạt hạnh nhân tí xíu trong bụng mẹ. Giờ đây hắn thấy đau lòng khi nghĩ lại lúc ấy, và cố dẹp những hình ảnh đang hình thành trong đầu mình. “Hãy nhìn nó bằng con mắt của Auster”, hắn tự nhủ, “và đừng nghĩ đến chuyện gì khác nữa”. Hắn quay lại chú ý nhìn tấm ảnh một lần nữa và nhẹ người khi thấy đầu óc mình đang vơ vẩn với ý nghĩ về cá voi, về những cuộc thám hiểm xuất phát từ Nantucket hồi thế kỷ trước, về Melville và những trang mở đầu của cuốn Moby Dick [20] . Từ đó, tâm trí hắn bập bềnh sang những câu chuyện mà hắn đã đọc được về những năm cuối đời của Melville – một ông già lầm lì làm trong sở hải quan New York, không có ai đọc sách của mình, bị tất cả lãng quên. Rồi bỗng nhiên, rất rõ ràng và chính xác, hắn thấy cái cửa sổ của Bartleby [21] và bức tường gạch trần trụi ở ngay trước mắt. Có người gõ gõ lên cánh tay hắn, và khi Quinn xoay người phản ứng, hắn thấy một người đàn ông lùn tịt im lặng đang giơ ra cho hắn một cây bút bi xanh đỏ. Gài vào cây bút là một mẩu cờ bằng giấy trắng, một mặt có chữ: “Món đồ tốt đẹp này là hảo ý của một người CÂM ĐIẾC. Xin trả bao nhiêu cũng được. Xin đa tạ”. Mặt cờ bên kia là một biểu đồ các chữ cái làm hiệu bằng tay – HỌC NÓI VỚI BẠN BÈ – chỉ rõ tư thế bàn tay của 26 chữ cái. Quinn móc túi cho người ấy một đôla. Người câm điếc gật đầu vội một cái rồi đi mất, để Quinn đứng đó với cây bút bi trong tay. Đã quá năm giờ. Quinn quyết định chọn một vị trí ít lộ liễu hơn và cất bước về phía phòng chờ. Thường thì chỗ ấy rất buồn thảm, đầy bụi và những người chẳng biết đi đâu, nhưng bấy giờ đang là giữa giờ cao điểm và nó chật ních đàn ông đàn bà với lỉnh kỉnh những vali và sách báo. Quinn https://thuviensach.vn chưa thấy có chỗ nào để ngồi. Sau hai ba phút tìm kiếm, cuối cùng hắn có được chỗ trên một chiếc ghế dài, kẹp giữa một ông mặc com-lê xanh nước biển và một chị mũm mĩm trẻ tuổi. Ông này đang đọc mục thể thao của tờ Thời báo, và Quinn liếc sang đọc trộm phần viết về trận thua của đội Mets đêm hôm trước. Hắn đọc được ba bốn đoạn thì ông này từ từ quay sang phía hắn, ném cho hắn một cái nhìn nanh nọc, và giật tờ báo ra khỏi tầm nhìn của hắn. Sau đó thì một sự lạ xẩy ra. Quinn chuyển sự chú ý sang phía cô gái phía bên phải mình, xem có cái gì đọc được ở phía ấy không. Quinn đoán tuổi cô này chỉ khoảng đôi mươi. Trên má trái của cô có nhiều nốt trứng cá, mờ mờ dưới lớp phấn hồng quệt cẩu thả từ một hộp phấn rẻ tiền, miệng cô đang nhóp nhép một mẩu kẹo cao-su. Tuy vậy, cô gái lại đang đọc sách, một cuốn bìa mềm in lòe loẹt, Quinn hơi nghiêng sang phải một tí để liếc xem đầu đề cuốn sách ấy là gì. Hắn không thể ngờ được đó lại là một cuốn sách của chính hắn – cuốn Ép uổng tự sát của William Wilson, tập đầu tiên trong bộ truyện trinh thám của nhân vật Max Work. Quinn vẫn thường tưởng tượng ra tình huống này: Cái khoái lạc đột ngột bất ngờ của việc bắt gặp một độc giả của mình. Thậm chí hắn còn tưởng tượng thấy cuộc hội thoại tiếp theo đó: hắn, ra bộ dửng dưng khi người lạ ca ngợi cuốn sách, và rồi, với thái độ miễn cưỡng và khiêm nhường nhất mực, đồng ý ký vào trang tiêu đề, “nếu quí vị vẫn muốn vậy”. Nhưng giờ đây khi cái cảnh ấy đang diễn ra thật, hắn lại thấy thất vọng hẳn hoi, thậm chí giận dữ. Hắn không ưa cô gái ngồi bên cạnh, và thấy bị xúc phạm khi cô đọc lướt một cách rất vô tình những trang sách đã tốn của hắn biết bao sức lực. Hắn chỉ muốn giằng cuốn sách ra khỏi tay cô gái và cầm nó chạy ù ra khỏi ga. Hắn nhìn lại mặt cô gái, cố lắng nghe những lời đang vang lên trong đầu cô ta, theo dõi cặp mắt khi chúng đảo qua đảo lại thật nhanh trên trang sách. https://thuviensach.vn Chắc hắn nhìn chăm chú quá, nên một lúc sau cô gái quay sang hắn với vẻ mặt khó chịu và nói, “Ông làm sao thế, thưa ông?”. Quinn mỉm cười yếu ớt. “Không sao cả”, hắn nói. “Tôi chỉ đang tự hỏi không biết cô có thích cuốn sách ấy không”. Cô gái nhún vai. “Tôi đã từng đọc những cuốn hay hơn và những cuốn dở hơn”. Quinn muốn thôi ngay lúc ấy, nhưng có cái gì đó trong người hắn vẫn không chịu. Trước khi hắn kịp đứng lên và bỏ đi, miệng hắn đã buột ra rồi. “Cô thấy nó có hấp dẫn không?”. Cô gái lại nhún vai và cắn vỡ cái bong bóng kẹo cao-su đến tách một cái. “Cũng tàm tạm. Có cái chỗ tay thám tử bị lạc cũng được coi là hồi hộp”. “Tay thám tử có thông minh không?”. “Có, hắn thông minh, nhưng lắm lời quá”. “Cô thích câu chuyện có thêm nhiều hành động à?”. “Có lẽ vậy”. “Nếu không thích, sao cô còn đọc tiếp làm gì?”. “Tôi không biết”. Cô gái lại nhún vai nữa. “Cho qua thời giờ thôi, chắc thế. Nhưng có gì quan trọng đâu. Chỉ là một cuốn sách thôi mà”. Vừa định bảo cho cô ta biết mình là ai thì hắn nhận ra rằng làm vậy cũng chẳng được gì. Cô gái này hết hy vọng rồi. Năm năm qua hắn đã giữ kín được tông tích của William Wilson, và giờ đây hắn sẽ không tiết lộ nó làm gì, nhất là với một người lạ đần độn như thế. Dù sao, hắn cũng đau và mãi https://thuviensach.vn mới thấy đỡ tự ái. Không thể đấm vào mặt cô gái, hắn đột ngột vùng đứng lên và đi ra chỗ khác. Đúng sáu giờ rưỡi, hắn ra đứng trước cửa ke số 24. Chuyến tầu sẽ về đúng giờ, và từ vị trí thuận lợi ở giữa lối ra ấy, Quinn cho rằng cơ hội để hắn nhìn thấy Stillman là tốt. Hắn lấy bức ảnh từ trong túi áo ra và xem lại một lần nữa, chú ý đặc biệt đến đôi mắt. Hắn nhớ đã đọc ở đâu đó rằng đôi mắt là một bộ phận không bao giờ thay đổi trên gương mặt người. Từ tuổi ấu thơ cho đến tuổi già vẫn như vậy, và về lý thuyết thì một người có đầu óc nhận xét có thể nhìn cặp mắt của một đứa bé trong ảnh và sẽ vẫn nhận ra đôi mắt ấy khi nó đã thành một ông già. Quinn không tin lắm chuyện này, nhưng đó là tất cả những gì hắn có, cái cầu nối duy nhất với hiện tại. Tuy nhiên, một lần nữa, gương mặt của Stillman chẳng nói gì với hắn cả. Đoàn tầu đang từ từ vào ga, và Quinn cảm thấy tiếng động của nó đâm xuyên qua người mình: Một thứ tiếng ồn ngẫu nhiên và náo loạn hình như đang xen vào mạch đập của hắn, bơm máu hắn phụt thành từng tia ràn rạt. Rồi đầu óc hắn tràn ngập giọng nói của Peter Stillman, như một tràng liên thanh những từ vô nghĩa bắn rào rào vào vỏ hộp sọ. Hắn tự nhủ phải bình tĩnh. Nhưng chẳng ăn thua gì. Mặc cho hắn đã xác định thái độ cho mình vào giây phút ấy, hắn vẫn bị kích động như thường. Tầu đông khách, và khi hành khách bắt đầu tràn ngập lối ra và bước cả về phía hắn, họ nhanh chóng trở thành một đám đông lộn xộn. Quinn bồn chồn đập đập cuốn vở đỏ vào đùi bên phải, kiễng chân nhìn đám đông. Chẳng mấy chốc mọi người đã đang xô nhau đi tới quanh hắn. Đàn ông đàn bà, người già người trẻ, tụi choai choai và tụi còn bé tí, người giầu kẻ nghèo, tây đen đầm trắng, tây trắng đầm đen, da vàng và Arập, đàn ông thì nâu xám lơ xanh, đàn bà thì đỏ trắng vàng hồng, trẻ con đi giầy vải thể thao, trẻ con đi giầy da, trẻ con đi ủng cao-bồi, người béo kẻ gầy, người cao kẻ thấp, không ai giống ai, mỗi người là chính mình ở tận cùng tối giản. Quinn quan https://thuviensach.vn sát khắp mọi người, cắm neo tại chỗ, như thể toàn bộ con người hắn đã lưu vong lên hết cặp mắt. Mỗi lần có một người lớn tuổi đến gần, hắn lại gồng mình mong đó là Stillman. Họ đến và đi quá nhanh không kịp để hắn thất vọng, nhưng trên mỗi gương mặt già nua kia hình như hắn có thấy một điềm báo về gương mặt thật của Stillman, và hắn nhanh chóng chuyển những mong đợi của mình theo từng gương mặt mới, như thể sự tích tụ của các ông già ấy đang loan báo sự xuất hiện sắp tới của chính Stillman. Trong giây lát Quinn đã nghĩ rằng “Thì ra làm thám tử là như thế này đây”. Nhưng ngoài ra thì hắn không nghĩ gì khác nữa. Hắn quan sát. Bất động giữa giòng người đông đúc, hắn đứng đó và quan sát. Khi chừng một nửa số khách đã ra ngoài thì Quinn nhìn thấy Stillman. Vẻ mặt giống như trong ảnh là không thể nhầm lẫn được. Không, lão không hói như Quinn đã tưởng. Tóc lão trắng, không chải, đâm tua tủa từng đám trên đầu. Lão cao, gầy, rõ ra người đã ngoại lục tuần, và đã hơi có dáng gù. Lão mặc một cái áo khoác dài màu nâu rất trái mùa, đã sờn hết cả, và đi với dáng hơi lê lết. Mặt lão có vẻ đờ đẫn, nửa nghĩ ngợi nửa ngẩn ngơ. Lão không nhìn một thứ gì ở xung quanh, mà chúng cũng có vẻ chẳng quan tâm gì đến lão. Lão chỉ có một thứ hành lý, một chiếc vali da đã có thời đẹp đẽ nhưng giờ đây đã bầm dập phong trần với một cái đai quấn xung quanh. Một hoặc hai lần, khi bước lên đoạn đường dốc dẫn ra ngoài, lão đặt vali xuống và nghỉ một lúc. Lão có vẻ phải gắng sức mới đi được, một phần bị đám đông chen lấn, mà cũng không biết có nên theo kịp mọi người hay cứ để họ vượt mình. Quinn lùi lại nhiều bước, chọn một vị trí để có thể nhanh chóng chuyển sang trái hoặc phải cũng được, tùy theo tình hình. Đồng thời, hắn cũng muốn giữ khoảng cách đủ xa để Stillman không cảm thấy lão bị bám đuôi. Khi Stillman đã đến ngưỡng cửa nhà ga, lão lại đặt vali xuống và dừng lại. Đến lúc ấy Quinn mới cho phép mình được liếc qua bên phải của https://thuviensach.vn Stillman, nhìn khắp phần còn lại của đám đông để đảm bảo một lần nữa rằng mình đã không lầm. Những gì xẩy ra sau đó thì không thể giải thích được. Ngay sau lưng Stillman, nhô lên chỉ cách vai phải của lão chừng một gang tay, một người đàn ông cũng dừng lại, lấy từ trong túi quần ra một chiếc bật lửa, và châm một điếu thuốc lá. Mặt ông ta giống hệt mặt Stillman, như anh em sinh đôi. Trong giây lát Quinn đinh ninh đó là một ảo giác, một kiểu hào quang phóng ra từ những giòng điện từ trong cơ thể của Stillman. Nhưng không, lão Stillman khác này cử động, hít thở, chớp mắt; những hành động của lão rõ ràng là độc lập với lão Stillman đầu tiên kia. Stillman thứ hai trông rất phong lưu. Lão vận một bộ com-lê xanh nước biển đắt tiền; giầy lão bóng loáng; mái tóc trắng của lão chải chuốt cẩn thận; trong mắt lão có một vẻ tinh quái của một kẻ rất thạo đời. Lão cũng chỉ có một thứ hành lí duy nhất: Một chiếc vali đen, cũng cùng cỡ với cái vali của Stillman. Quinn cứng đờ người. Bây giờ thì có làm gì hắn cũng có thể phạm sai lầm. Bất kỳ một lựa chọn nào – mà hắn sẽ phải quyết định thôi – cũng chỉ là chủ quan, một sự đầu hàng may rủi. Hoang mang sẽ ám ảnh hắn suốt đời. Lúc ấy, cả hai Stillman bắt đầu ai đi đường người nấy. Stillman một đi sang phải, Stillman hai đi sang trái. Quinn ước gì mình có cơ thể của trùng amíp, những muốn tự tách làm đôi để chạy theo cả hai. "Phải làm gì đi chứ", hắn tự nhủ, "làm gì đi chứ, đồ ngốc". Chẳng có lý do gì, hắn đi sang trái, theo gót Stillman hai. Sau chín mười bước thì hắn đứng lại. Có cái gì đó bảo hắn rằng hắn sẽ phải hối hận suốt đời nếu làm như vậy. Hắn chỉ đang hành động tự phát, chỉ muốn trừng phạt Stillman hai vì đã làm hắn bị lẫn lộn. Hắn quay lại và thấy Stillman một đang lê bước về phía kia. Chắc chắn đó là người hắn phải theo. Cái kẻ rách rưới ấy, tàn tạ và xa lạ đến thế với môi trường xung quanh – chắc chắn đó là Stillman điên khùng. Quinn hít một hơi thật sâu, thở ra với một lồng ngực https://thuviensach.vn run rẩy, rồi lại lấy hơi một lần nữa. Không có cách nào để biết được thực hư, không phải cách này, không có cách nào cả. Hắn đi theo Stillman một, bước chậm lại để cùng tốc độ với lão, và theo lão đến trạm tầu điện ngầm. Lúc ấy đã sắp bảy giờ, và đám đông đã thưa dần. Mặc dù Stillman có vẻ như đang trong sương mù, lão vẫn biết lão đang đi đâu. Giáo sư Stillman đi thẳng xuống thang vào tàu điện ngầm, trả tiền ở quầy mua vé xu [22] ở bên dưới, rồi bình thản đứng đợi tầu con thoi đi Times Square [23] . Quinn bắt đầu hết sợ bị để ý. Hắn chưa thấy ai chìm đắm trong ý nghĩ của mình đến thế bao giờ. Thậm chí nếu hắn đứng ngay trước mặt lão, chưa chắc Stillman đã nhìn thấy hắn. Họ cùng đi tàu con thoi về Khu Tây, đi bộ qua những đoạn hầm ẩm ướt của trạm tầu điện ở Phố 42, rồi xuống một chặng cầu thang nữa để lên tàu tốc hành. Bảy tám phút sau họ lên tàu nhanh Broadway, chạy lên phía Bắc hai chặng dài, và ra ở trạm Phố 96. Chậm chạp leo chặng cầu thang cuối cùng với nhiều lần dừng nghỉ khi Stillman đặt vali xuống để thở, cuối cùng họ đến một góc phố và bước vào màn đêm màu lam. Stillman không hề lưỡng lự. Không cần dừng lại lấy phương hướng, lão bắt đầu bước dọc đường Broadway theo bờ hè phía Đông. Trong nhiều phút đồng hồ Quinn thấy lởn vởn một ý nghĩ rất vô lý là Stillman đang đi về phía nhà hắn ở Phố 107. Nhưng trước khi hắn kịp thả cho mình hốt hoảng thực sự với ý nghĩ đó, Stillman đã dừng lại ở góc Phố 99, đợi đèn đường chuyển từ đỏ sang xanh, rồi vượt sang bên này đường Broadway. Nửa đường về phía trên dãy phố ấy có một nhà trọ nhỏ giành cho đám cầu bơ cầu bất gọi là Hotel Harmony. Quinn đã đi qua chỗ đó nhiều lần, và cũng quen mặt cả đám nghiện rượu lẫn bọn du thủ du thực vẫn thường xuyên quanh quẩn ở đó. Hắn ngạc nhiên thấy Stillman đẩy cổng bước vào chỗ quầy tiếp tân. Không hiểu sao hắn đã nghĩ rằng ông già Stillman sẽ tìm đến một chỗ trọ tiện nghi hơn thế nhiều. Nhưng khi Quinn đứng bên ngoài cánh cửa kính nguyên tấm https://thuviensach.vn và thấy vị giáo sư bước đến quầy, viết cái gì đó chắc là họ tên mình vào sổ đăng ký khách trọ, nhấc vali lên và biến mất vào thang máy, hắn mới thực sự tin rằng Stillman đã vào đây là để trọ lại đó thật. Quinn đợi bên ngoài hai tiếng đồng hồ nữa, đi đi lại lại trong dãy phố đó, nghĩ rằng Stillman có thể sẽ ra ngoài tìm chỗ ăn tối ở một tiệm cà-phê nào ở gần đó. Nhưng lão không xuất hiện, và cuối cùng Quinn quyết định là hắn phải về đi ngủ. Hắn gọi cho Virginia Stillman từ một trạm điện thoại công cộng ở góc phố, báo cáo đầy đủ những chuyện đã diễn ra, rồi về nhà mình ở Phố 107. 8 Sáng hôm sau, và nhiều buổi sáng tiếp theo nữa, Quinn cắm chốt trên một chiếc ghế dài trong mảnh vườn nhỏ giữa phân luồng của đường Broadway và Phố 99. Hắn đến sớm, luôn trước 7 giờ, và ngồi đó với một cốc giấy cà-phê có nắp đậy, một cái bánh bơ tròn, một tờ báo mở trên lòng, theo dõi tấm cửa kính của khách sạn. Và cứ đến 8 giờ thì Stillman xuất hiện, lúc nào cũng khoác cái áo choàng dài màu nâu, tay xách một cái bị rộng miệng cổ lỗ. Cứ hệt như vậy trong suốt hai tuần lễ. Lão sẽ lang thang qua các phố xung quanh đó, đi rất chậm, nhiều lúc chỉ nhích từng tí một, ngừng rồi lại bước, bước rồi lại ngừng, như thể mỗi bước đều phải được cân đo đong đếm rồi mới được chấp nhận vào tổng số bước chân đi của lão. Đi đứng kiểu ấy là khó nhọc đối với Quinn. Hắn đã quen đi nhanh bước tháu, thành thử tất cả những ngập ngừng lê lết này đã bắt đầu làm cho hắn bị căng thẳng, như thể cái nhịp điệu tự nhiên của cơ thể hắn đang bị đảo lộn vậy. Hắn là con thỏ đuổi theo con rùa, và cứ phải tự nhắc mình chậm lại không biết bao nhiêu lần. https://thuviensach.vn Những việc mà Stillman làm trong những cuốc đi ấy vẫn là một bí ẩn đối với Quinn. Tất nhiên, hắn vẫn thấy rõ những việc ấy, và đều ghi chép cẩn thận hết vào cuốn vở bìa đỏ. Nhưng chúng có nghĩa lý gì không thì hắn chịu. Stillman có vẻ như không có ý định đến một nơi nào đó bao giờ, và hình như cũng chẳng biết là mình đang ở đâu. Nhưng lão lại chỉ quanh quẩn trong một khu phố hẹp hạn định bởi Phố 110 về phía Bắc, Phố 72 ở phía Nam, công viên Riverside ở phía Tây, và Đại lộ Amsterdam ở phía Đông, như thể có ý đồ hẳn hoi. Bất kể lão đi lung tung kiểu gì – mà lộ trình của lão mỗi ngày mỗi khác – Stillman cũng không bao giờ vượt ra khỏi những đường biên này. Sự chính xác ấy làm Quinn rất thắc mắc, vì về mọi phương diện khác Stillman đều có vẻ rất vô mục đích. Trong lúc lão đi, Stillman không ngẩng lên nhìn bao giờ. Mắt lão dán chặt xuống vỉa hè như thể đang tìm kiếm cái gì. Và quả thật là thỉnh thoảng lão lại cúi xuống nhặt lên một thứ gì đó, xem xét nó rất kỹ, lật đi lật lại trên tay. Cảnh ấy khiến Quinn nghĩ đến một nhà địa chất đang kiểm tra một mảnh vỡ phế tích tiền sử nào đó. Có những lần, sau khi đã mân mê xem xét mãi như thế, Stillman lại ném cái vật ấy xuống lề đường. Nhưng phần nhiều là lão mở cái bị ra rồi nhẹ nhàng đặt nó vào trong. Sau đó, thò tay vào một bên túi áo khoác, lão lấy ra một cuốn vở bìa đỏ – tương tự như của Quinn nhưng nhỏ hơn – và chăm chú ghi chép chừng một hai phút. Xong xuôi, lão cất cuốn vở vào túi áo, nhặt cái bị lên, và tiếp tục đi. Theo như Quinn nhận xét thì những thứ mà Stillman nhặt nhạnh đều chẳng có giá trị gì. Có vẻ chúng chỉ là những đồ gẫy vỡ, đã bị người ta vất đi, những thứ vớ vẩn. Trong những ngày vừa qua, Quinn đã ghi nhận có một cái ô gập chỉ còn trơ bộ gọng, một cái đầu rời của một con búp-bê bằng cao-su, một chiếc găng tay đen, đui của một chiếc bóng đèn vỡ, nhiều mẩu giấy in (tạp chí sũng nước, nhật báo rách), một tấm ảnh đã bị xé, những bộ phận máy móc vô danh, và những thứ vất đi khác mà hắn không biết gọi là https://thuviensach.vn gì. Việc Stillman nhặt nhạnh những thứ rác rưởi ấy khiến Quinn rất tò mò và thắc mắc, nhưng hắn đành chỉ biết cứ theo dõi và biên chép vào cuốn vở bìa đỏ thế thôi, cảm thấy mình đang lượn lờ một cách ngu xuẩn bên mẽ ngoài của sự việc. Nhưng đồng thời hắn cũng thấy vui khi thấy Stillman cũng có một cuốn vở bìa đỏ, như thể nó là một mắt xích bí mật giữa hai người. Quinn cho rằng cuốn vở đỏ của Stillman chứa đựng lời giải đáp cho tất cả những câu hỏi đang tích tụ trong tâm trí hắn, và bắt đầu vạch ra nhiều chiến thuật để lấy cắp nó. Nhưng vẫn chưa đến lúc để đi một nước cờ như vậy. Ngoài việc nhặt nhạnh trên phố, Stillman có vẻ chẳng làm gì khác. Thi thoảng lão cũng dừng chân ở một chỗ nào đó để ăn. Có lúc lão vấp cả vào người ta và lúng búng xin lỗi. Có một lần lão suýt bị xe cán phải khi đang đi ngang qua đường. Stillman không nói chuyện với ai, không vào một cửa hàng nào, không mỉm cười. Lão có vẻ không vui mà cũng chẳng buồn. Có hai lần, khi cái bị nhặt nhạnh của lão đã quá nặng, lão trở lại khách sạn vào buổi trưa nhưng chỉ mấy phút sau đã lại quay ra với cái bị rỗng. Hầu hết mọi ngày lão đều vào công viên Riverside và ở đó nhiều tiếng đồng hồ, bước dọc theo những lối đi trải đá một cách rất nền nếp hoặc đi loạn qua các bụi cỏ với một cái gậy trong tay. Cuộc tìm kiếm nhặt nhạnh của lão không hề suy giảm giữa cỏ cây. Sỏi đá, lá lẩu, cành củi, tất cả đều tìm đường chui vào bị của lão. Một lần, Quinn đã thấy lão còn cúi xuống xem xét một cục cứt chó, ngửi hít hẳn hoi, rồi cho vào bị. Stillman cũng nghỉ ngơi ngay trong công viên ấy. Buổi chiều, thường là sau bữa trưa, lão hay ngồi trên một chiếc ghế dài và mơ màng nhìn ra sông Hudson. Có lần vào một ngày đặc biệt ấm áp, Quinn đã thấy lão nằm dài ngủ ngay trên cỏ. Tối đến, Stillman thường ăn ở quán Apollo Coffee ở góc Phố 97 với Broadway rồi mới về khách sạn. Lão chưa thử liên lạc với con trai một lần nào. Virginia Stillman đã khẳng định chuyện đó. Đêm nào Quinn cũng gọi cho bà trước khi trở về nhà. https://thuviensach.vn