🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trần Gian Muôn Nỗi - Văn Giá
Ebooks
Nhóm Zalo
U CHO ĐI HỌC
N
hững năm ấy, ở quê rất đói. Nhà mình, tính cả ông, cả bố và u có đến già chục miệng ăn. Có năm lũ lụt, bữa cơm chỉ toàn là sắn thôi, kèm theo một rổ rau khoai lang luộc.
Nhìn nồi cơm, chỉ thấy lơ thơ vài hạt gạo. Có ai nói tếu: “Đây không phải là cơm độn sắn mà là sắn độn cơm…”.
Ấy thế mà mấy anh chị em vẫn được đi học, ít nhất là hết cấp hai, có mấy người cấp ba, không ai bỏ giữa chừng.
Anh cả đi bộ đội chiến trường B. Ở nhà còn 7 chị em.
Một hôm nghe tin bố đi đánh bạc mất hết cả gói tiền mà u dành dụm, trong nhà không còn gì, chỉ còn mỗi cái xác nhà. Mình vừa khóc vừa nói với chị Hai hay là em bỏ học ở nhà cho u đỡ khổ. Chị bảo em học sáng dạ nhất nhà, không được bỏ, để chị ở nhà đỡ u, chị thôi không đi học sư phạm nữa. Chắc là chị Hai nói với u, u gọi hai chị em ra bảo: “Con phải đi học tiếp. Nếu bố mày không nuôi được chúng mày ăn học thì u sẽ nuôi. Dù u có chết đói cũng sẽ nuôi được chúng mày. Không được bỏ con nhé!”. Mình thút thít bảo “con thấy u khổ quá”. Nói rồi ba mẹ con ôm nhau khóc.
Mình là cái đứa nhà quê vụng thối vụng nát. Nhớ có lần đi tát nước gầu dai, mỗi khi kéo dây lên đổ nước, chị Hai lại cười, cười lăn cười lóc ngã cả ra bờ ruộng. Mình tức, vứt luôn cả gầu, không thèm tát nữa. Chị Hai bảo sao mỗi lần kéo nước lên cái mồm em lại cứ phải nhệch ra đến tận mang tai như thế chứ…
Lại có lần theo mấy đứa hàng xóm đi bắt cua ngoài đồng. Suốt cả buổi sáng. Đến gần trưa, chúng hô về. Nhìn chúng giỏ lớn giỏ bé đầy cứng. Mình mở giỏ ra đếm được cả thảy 14 con, trong đó có 3 con đã chết. Mấy đứa bảo mày bắt gì mà hèn thế. Rồi chúng thương tình, bảo nhau mỗi đứa cho mình 10 con mang về để đủ một bữa canh.
U lại kể, có lần mình đi học về, nhóm bếp nấu cơm. Mình không biết gầy củi cho cháy. Mồ hôi mồ kê mướt mát. Mình chạy ra bảo: “U ơi cái củi nó làm sao ý, nó không cháy, chỉ toàn khói thôi”. U lại chạy vào dạy cách xếp củi sao cho dễ cháy…
Thấy mình vụng, u bảo: “Con cố mà học hành, sau này đi thoát ly, kiếm cơm nhà nước, chứ bộ dạng con ở nhà thì có mà chết đói”. Nói xong u cười, cái cười thoáng chút lo âu.
Thương u, mình đi học. Rồi vào đại học. Bây giờ mình cũng đã sắp già. Thỉnh thoảng trong mâm cơm xúm xít bên con cháu, u vẫn nhắc đến mấy chuyện này, rồi cười lất ngất. Chắc bây giờ u cũng đã ít nhiều yên tâm về cái thằng con vụng đoảng nhất nhà.
Nghĩ lại, nếu mình không nghe lời u đi học, chắc bây giờ đã là một lão nông tri điền nghèo khó, bên cạnh một mụ vợ suốt ngày nghiến răng ken két than khổ, than thằng chồng vô tích sự, và một đám con sàn sàn nối đời đồng đất. Hoặc nếu giời thương, biết đâu cũng có một đời sống hạnh phúc giản đơn và bình dị ở thôn làng. Đời người chả biết thế nào.
Những năm đói khổ, giặc giã, u như một gà mẹ vững chãi che chở cho lũ gà con đỡ phải đói khát và được cắp sách đến trường.
Những ngày u nằm bệnh, 21/10/2017
U ĐI MUA ÁO CHO CON
C
ái thời học đại học ở Xuân Hoà thật là một thời khốn khổ. Trường mới thành lập xong. Thị trấn hoang sơ, thưa thớt người. Chỉ có Đại học Kiến trúc, Đại học Sư
phạm và xa xa là Cao đẳng Xây dựng. Chợ búa chỉ có sắn và mía. Hai thứ ngon bổ rẻ, vừa túi tiền sinh viên.
Mình con trai nhà quê lơ ngơ đi học. Trường học không đủ nước máy. Điện đóm phập phù, khi có khi không. Nhiều đêm phải thắp đèn dầu làm bài, đọc sách.
Cánh con trai mỗi khi muốn tắm đều phải rủ nhau ra giếng, một cái giếng chơ vơ giữa đồi. Phải kéo từng gầu, giội vào người ì oạp. Nhà tắm chả có, chỉ con trai với nhau, cứ thế tắm giữa thanh thiên bạch nhật.
Một trưa, đi tắm về tới phòng, nhìn thấy mấy thằng phơi quần áo, mình cũng nhớ ra là phải đi phơi. Quái, túi quần áo để đâu không thấy. Tìm mãi. Lúc sau mới nhớ ra, bỏ quên ngoài giếng.
Tá hoả chạy ra tới nơi. Có vài thằng con trai đang tắm. Hỏi, nó bảo không hề thấy cái túi quần áo nào. Thẫn thờ trở về phòng. Đêm ấy, ngoài sân vận động chiếu phim. Cả phòng đi xem phim hết. Riêng mình không có quần áo đủ ấm để đi, nằm ôm chăn tủi thân khóc như con trẻ. Thật chả ra làm sao.
Mấy hôm, đánh duy nhất một bộ trên người. Chờ đến chủ nhật, bắt xe về quê. Đêm ấy thầm thì với u, không dám nói to, sợ bố biết bố mắng. U bảo từ nay con phải cẩn thận, con có cái tính hay quên; nhà mình đã nghèo, mất cái gì cũng khổ. Mình bảo u cố gắng kiếm cho con ít tiền để mua một bộ, chứ không “nhất bộ” thì khổ lắm. U không nói gì.
Hôm sau, trước khi lên trường, đang trưa u ở đâu về gọi riêng ra thì thầm: “U nghĩ đồng tiền bây giờ cũng khó kiếm ngay được. U mới liều ra ngoài nhà chú S. Chú ấy mới đi bộ đội về. U nói khó, rồi chú ấy để cho bộ quần áo bộ đội. Chắc con mặc đẹp lắm. Chú ấy vẫn cho nợ. Ít nữa ở nhà u sẽ lo liệu sau. Con cứ yên tâm. Thử cho u xem có vừa không nào?”.
Mình sướng quá, thử liền. Ôi chao, bộ quân phục theo số đo của chú ấy, nên vừa rộng vừa dài. U bảo: “Con mang lên trường, ra ngoài hiệu may nhờ cắt bớt gấu chút cho nó vừa. Còn áo, bỏ trong quần thì ai biết là dài”.
Mình lên trường. Sớm hôm sau mang bộ quân phục ra mặc. Bọn con trai trố mắt. Mấy đứa con gái bảo mày mặc bộ này vào trông đỡ “bụ sữa”, ý là đỡ trẻ con. Mấy anh bộ đội học cùng lớp xem thường ra mặt, bảo mày mua ở ga Hàng Cỏ chứ gì. Với mấy anh bộ đội, quân phục phải là độc quyền. Bọn sinh viên vắt mũi chưa sạch đã chơi trèo.
Bộ quân phục ấy theo mình có lẽ suốt gần bốn năm đại học. Lần nào về, mình cũng hỏi u đã trả tiền cho chú S chưa. U bảo việc của con là đi học, sao con cứ phải hỏi kỹ thế.
Sau này mình mới biết u dành dụm tiền, chừng hai năm sau mới trả được cho chú S. Khi trả, chú lại bớt cho mấy đồng, bảo cho cháu nó đi đường uống nước.
Bây giờ, nếu không là quân nhân, chả ai mặc quân phục nữa. Ấy thế mà cả thời sinh viên, bộ quân phục ấy giúp cho mình ra bãi xem phim, giúp cho mình tự tin đến lớp…
p g p ự p
Sau này, lúc u về già, vợ chồng mình thỉnh thoảng mua cho u tấm áo manh quần, cái khăn cái dép. Lần nào mang về cho u, u cũng mắng: “Mua gì mà lắm thế, u có mặc hết đâu, phí đi”. Mỗi lần như thế, mình lại nhớ đến bộ quân phục ấy.
Giờ thì chúng con chỉ được mua áo quần hàng mã cho u thôi…. Nhân ngày giỗ đầu u, 12/10/2018
CỦ RÁY, NƯỚC VÔI TRONG
T
rong những lúc phải tống vào cổ họng bao nhiêu thứ thuốc nào hạ sốt, nào giải nhiệt dạng viên, dạng nước rồi truyền dịch hết chai nọ chai kia mà vẫn rên hừ hừ, bỗng
sực nhớ, thôi chết, đúng là cái bệnh ngày nào lại tái phát đây rồi. Nếu giờ này ở quê, u tôi chỉ sai đứa cháu ra vườn đào lấy một củ ráy, rửa sạch, thế là xong…
Còn nhớ, ngày đi công tác miền núi, được nghỉ hè về quê, tôi cũng bị lên cơn sốt kịch liệt như thế này. Khi nóng vã mồ hôi. Khi lạnh đắp mấy cái chăn vẫn run bần bật. U tôi chạy đến bên giường, đặt tay lên trán tôi hỏi: “Con thấy trong người thế nào?”. “Dạ, con mệt ạ”. “U bảo, con nhai cái hạt đỗ xanh này, thấy tanh hay không thì bảo u nhé”. “U định đánh củ ráy à?”. “Sao con biết”. “Thì từ bé u đã đánh cho con đến mấy bận còn gì”. “Ừ, thế ra mày hay bị nhỉ. Cái bệnh này gọi là đậu lào. Chả có thuốc gì chữa khỏi đâu. Chỉ có mỗi cái này là hiệu nghiệm. Con nhai hạt đậu xanh xem nào?”. “Chả thấy tanh gì u ạ”. “Thế thì đậu lào đích thị rồi”.
U tôi sai chị dâu sang vườn nhà hàng xóm xin củ ráy. Loáng cái chị về ngay. U tôi lấy ít vôi từ Ông bình vôi - đồ nghề ăn trầu hằng ngày của bà - hòa ít nước, để lúc cho lắng, chắt lấy nước trong, rồi cầm cả củ ráy, cắt lát đầu tiên, nhựa trắng của nó tứa ra, đem chấm vào nước vôi trong, cứ thế chà lần lượt vào khắp thân người tôi; chà được lúc, u tôi lại cắt đi một lớp củ ráy để lấy phần nhựa tươi của nó. Lạ thay, cứ chà đến đâu là người mát lịm
đến đấy. U tôi bảo: “Nhớ là chà vào người theo đường từ trên xuống dưới, đánh cho khắp đằng trước đằng sau, từ đầu tới chân, chỉ cần một lần, chà kỹ, thế là khỏi thôi”.
Mà quả nhiên, ngay sau đó người gần như hết ê ẩm. Đầu hết đau. Gần như khỏi hoàn toàn. Đúng là thần dược.
“Nhưng con hỏi u nhé: Tại sao cái đỗ xanh nhai sống nó tanh rùng rợn mà bị cái bệnh này nhai vào lại chả thấy gì?”. U tôi cười nhỏm nhẻm: “Thế mới gọi là bệnh. Mà cái củ ráy cũng lạ thật nhỉ. Người bình thường cầm tay dính nhựa có mà ngứa đến phát điên. Thế mà đằng này chà lên người lại cứ mát lịm nhỉ? Tài thật…”. Hai u con cứ nắc nỏm khen. U tôi bảo: “Mày là cái thằng hay bị đậu lào nhất nhà. Năm nọ u cũng thấy mày lên cơn sốt, bảo bố mày đi đào củ ráy, bố mày bảo: “Ôi dào, ráy riếc gì, lên trạm xá lấy thuốc cho con, chứ chữa xằng chữa xịt biết thế nào…Tao chả buồn cãi, lại đi đào về, lại đánh sốt cho, chả khỏi luôn”.
Ôi u, giá bây giờ con ở nhà, thể nào u cũng lại sai chị dâu đi đào củ ráy về u lại đánh sốt cho con nhỉ!
Bây giờ ở phố, chả ai người ta tin vào những thứ thuốc thảo mộc kỳ diệu ấy nữa u ạ. Mà có tin thì cũng chẳng tìm đâu ra củ ráy ở cái xứ sở toàn bê tông cốt thép này.
Một túi thuốc tây to vật đủ các kích thước, màu sắc nằm lù lù trước mặt, như đang hầm hè doạ dẫm con bệnh là tôi…
Nhưng u ơi, bỗng nhiên con nhớ, con chưa khi nào kịp hỏi: Khi u đánh sốt bằng củ ráy cho con, tay u có bị ngứa không?
Những ngày ốm nằm nhà, 6/10/2013
HÀM DƯỚI CÁ TRÊ
N
hớ ngày còn bé ở quê có lần mình bị lên sởi. Cái bệnh này bây giờ không còn đáng sợ nữa. Nhưng ngày ấy thuốc thang còn khan hiếm, nhất lại là ở nơi xa tỉnh xa huyện
thì càng hiếm, nên đứa trẻ nào mắc sởi được coi là bệnh trọng. Ở làng, chỉ có thuốc dân gian.
U mình dặn: “Con ở nhà nhớ u dặn hai điều: Thứ nhất, tuyệt đối không mở cửa ra ngoài ngộ nhỡ bị gió; thứ hai, tuyệt đối không được nghịch nước. Kiêng được hai thứ như thế chỉ vài hôm là khỏi thôi. Ở nhà, u ra đồng quàng một cái là về ngay. Ngoan rồi u mua cá trê về cho mà ăn nhé”. Mình là đứa nhát gan, biết sợ, ở nhà nghe lời răm rắp. Anh lớn đi bộ đội. Chị lớn và anh lớn nữa đến trường. Mấy em sau cũng đến trường hết lượt. Nghĩ đến phần thưởng món cá trê mà náo nức.
Ngày ấy ở nhà quê nghèo lắm. Phương tiện giải trí duy nhất chỉ là chiếc đài (radio). Cả xóm may ra mới có một hai chiếc, thường là của mấy ông cán bộ thôn, xã. Tối tối, người lớn, trẻ con tụ tập đến quanh chiếc đài nghe tin tức, nghe diễn viên trong đài hát vọng ra.
Dĩ nhiên nhà mình không có đài. Ở nhà một mình chả biết làm gì. Nhòm đến sách vở thì ngại. Truyện lèo tèo vài quyển đã đọc rồi. Ngồi trong lòng chiếc nhà gỗ cổ năm gian thấy rộng rinh. Thỉnh thoảng tiếng mấy con thạch sùng đuổi nhau trên trần nhà. Tiếng mọt nghiến gỗ ở chỗ nào đó đều đều vọng lại.
Ngoài sân, đám gà cục tác gọi đàn. Tiếng mấy chú lợn ủn ỉn ngoài chuồng. Tiếng chim sẻ, chim chìa vôi, chim sâu, chim sáo… đủ giọng ngoài vườn. Giá như được bước chân ra ngoài vườn vào giờ này thì tuyệt! Nhưng mình là một đứa nhát, lại nghĩ đến phần thưởng món cá trê, nên tự nhủ cố gắng ở yên trong nhà, khi u về, u thấy, chắc u vui lắm…
Cậu bé nhìn qua khe cửa bức bàn, ôi đã nắng khắp sân. Chắc cũng đã sắp trưa rồi. U chắc cũng sắp về rồi. Cậu bé cứ dán mắt vào khe cửa. Cái khe cửa bé tí thế này thì không lo gió lọt vào. Cậu bé cứ đứng đó, kiên nhẫn chờ u, thỉnh thoảng đổi chân cho đỡ mỏi. Thời gian trôi đi cùng tiếng mọt nghiến gỗ đều đặn, kiên nhẫn. Thỉnh thoảng trong đầu lại tưởng tượng món cá trê nướng vàng hươm, không khỏi nuốt nước miếng.
Sao u lâu về thế nhỉ? Chắc u đang đi tìm mua cá trê. Đâu dễ muốn mua là có ngay. Phải đi khắp xóm, nhằm vào mấy nhà hay kiếm cá bán may ra. Mà nếu trong xóm không có, chắc u lại phải ra xóm Chùa, xóm Trại. Nếu thế thì còn lâu u mới về…
Bỗng có tiếng gọi. Lại thấy trán mình mát rượi. Thì ra bàn tay mát của u. Mình biết là u, nhưng làm bộ, không lên tiếng. À, hoá ra mình đã ngủ từ đời nảo đời nào rồi. U bảo: “Con ngoan quá. Con cứ ngủ lúc nữa, u đi nấu quàng một tí là xong. Mà u mua được mấy con cá trê cho con rồi đấy, to to là…”. Thằng bé cảm thấy sung sướng biết bao. Nghĩ đến món cá trê thơm lừng mà hết cả mệt luôn.
Chừng tiếng sau, u mang cơm lên tận giường. Thằng bé bảo: “Cho con xuống nhà dưới ăn u nhé”. “Ấy chết”, u vội gạt đi, “Ra gió làm sao được con. Con phải kiêng gió kiêng nước vài ba ngày nữa. Chịu khó kiêng cho khỏi hẳn rồi còn đi học. Ăn nào, cá trê nướng là lành lắm đấy. Mà lạ, cái giống bệnh sởi này chỉ có ăn được cái món cá trê này thôi”. Thằng bé ngoan ngoãn ngồi trên giường ăn cơm cá trê nướng. Duy nhất chỉ có cá trê nướng chấm với nước mắm, không canh không rau, bên cạnh là bát nước ấm,
nếu khô họng thì nhấp ngụm. U gỡ cho từng miếng thịt thơm nức bỏ vào bát giục ăn. U bảo: “Trăm đám cưới không bằng hàm dưới cá trê đấy. Con chịu khó ăn đi cho mau khoẻ”. Mình ăn nhỏ nhẻ. Bất chợt mình hỏi u: “Thế nếu có đám cưới nhà ai, lại có cá trê ở nhà, thì u ở nhà ăn cá trê hay đi đám cưới?”. U cười tít bảo: “Nếu có cá trê, u thèm vào đi đám cưới. Con không thấy hàm dưới cá trê toàn những thịt nạc, không xương, béo ngậy đấy thôi”.
Thằng bé hơi nghi nghi về cái lý sự của u. Nhưng mà u đã nói thì phải đúng chứ…
Cái thằng bé ấy bây giờ đã ngoại ngũ tuần. Mỗi lần có cá trê, nó vẫn háo hức như ngày nhỏ dại. Nó vẫn nhớ như in những lần chẳng may bị ốm, nghỉ học nằm nhà, nó dán mắt vào khe cửa, chờ u đi làm đồng rồi mang cá trê về cho nó…
Hà Nội, những ngày nắng nóng 18/6/2016
TẾT NHỮNG NĂM BOM ĐẠN
N
hững năm ấy anh cả tôi đi bộ đội chiến trường miền Nam, gọi là đi B. Suốt từ năm 1968 đến 1975 anh mới trở về. Trong ngần ấy năm, nhà được nhận chỉ có vài bức
thư anh gửi từ chiến trường ra. Không phải anh lười viết. Sau này anh bảo: “Viết rất nhiều, hễ cứ có người ra Bắc là gửi, có năm gửi đến cả chục lần, nhưng chắc trên đường đi thất lạc”.
Những năm chiến tranh ấy, gia đình tôi đón Tết mang một hương vị đặc biệt khác.
Khác nhất là lũ trẻ bọn tôi. Năm nào có thư của anh cả gửi về từ trước Tết, thể nào bố tôi cũng xoay được con lợn, dù to dù nhỏ mổ ra đón Tết. Năm ấy là dịp đón Tết tưng bừng lắm. Có năm, bố tôi bảo năm nay anh cả các con không có thư về, nhà không mổ lợn nữa. Cả bọn mấy đứa lít nhít chị em tôi được phen tưng hửng. Không mổ lợn, chúng tôi lại kéo nhau sang nhà khác xem. Ở quê có tục “đụng lợn”, nghĩa là ăn chung thịt lợn nhà người khác.
Mổ lợn ở quê có được mấy thứ vui. Vui nhất là được xem chọc tiết lợn. Mổ lợn từ rất sớm. Bọn trẻ con chúng tôi đang ngủ, bỗng nghe tiếng lợn kêu eng éc là vùng dậy. Nhìn mấy người đàn ông trong đó có bố tôi giội nước sôi làm lông lợn. Loáng một lát, con lợn đã bị phanh trên những tàu lá chuối trải giữa sân
gạch. Khói bốc lên từ những tấm thịt. Thế rồi tiếng dao chặt, thái, băm, tiếng giã giò vang động cả góc sân. Cái giống giã giò là phải giã ngay từ lúc miếng thịt đang còn bốc hơi, sờ tay vẫn còn nóng rực. Mà đã giã phải giã liền tay, không được nghỉ. Đoạn cuối, trước khi mẻ giò đã nhuyễn, đã quánh lại như cối bánh dầy, lúc đó người ta mới cho mắm nguyên chất vào thúc, sau khi thúc xong vét ra đổ trên lá chuối tươi đã hơ qua ngọn lửa rơm cho mềm rồi gói chặt.
Niềm vui thứ hai của con trẻ ở quê tôi là được cho cái bong bóng lợn để làm bóng đá. Ngày ấy nghèo khó, có được trái bóng là niềm mơ ước của bất cứ đứa trẻ nào. Mấy đứa chúng tôi đem rửa sạch cái bong bóng lợn, sau rồi thổi căng hơi lên, tròn như trái bưởi. Thế là bọn trẻ con có niềm vui đến sớm. Tất cả ùa ra sân đình tung bóng, tranh cướp bóng. Vì thành bóng mỏng, được cái dai, nhưng nhẹ quá, chỉ để tung lên rồi tranh cướp làm vui, thế thôi, chứ không đá được. Tuy thế, quả bóng làm từ bàng quang lợn đã là một mơ ước lớn của một thời con trẻ.
Niềm vui thứ ba của những nhà mổ lợn là được ăn cháo lòng. Ngoài gia đình nhà chủ, thường có mặt tất cả những thành viên các nhà ăn đụng. Nhất là trẻ con các nhà thì không thiếu đứa nào. Bữa cháo lòng bao gồm lòng lợn, tiết canh, thịt thủ luộc thái rối. Vậy thôi. Không mâm cao cỗ đầy. Còn thịt để dành đủ cho ba ngày Tết. Tuy thế, mâm cỗ ăn cũng thoải mái. Thịt thủ luộc đố ai ăn được quá nhiều, mặc dù ngày ấy có khi hàng tháng mới được ăn thịt.
Vui nhất là mâm “các cụ”. Các cụ ngồi uống rượu, bình phẩm tiết canh. Bát tiết canh lên màu đỏ chói, bên trên đặt mấy cọng rau mùi, mấy lát hành tươi chẻ mỏng, trước khi ăn lại rắc một lượt lạc rang giã dập. Các cụ nâng cốc chúc nhau đón Tết vui, nắc nỏm khen tiết canh hãm giỏi, đông đét, vị vừa. Câu chuyện trên mâm năm nảo năm nào cũng giống nhau, ấy thế mà khi được ai đó nói ra vẫn rộ lên những tràng cười khoái trá. Các cụ
tếu táo: “Tiết canh này xâu lạt xách đi biếu bố vợ chục cây số cũng không vỡ”.
Có một năm gia đình tôi đón cái Tết đầy lo âu. Chắc cũng giống như biết bao gia đình khác. Đó là năm 1968, nghe nói miền Nam đánh mạnh. Mà đánh mạnh thì thể nào cũng có thương vong. Trong năm, làng tôi đã có ba giấy báo tử. Không ai nói với ai, nhưng các gia đình có con đi bộ đội đều lo thắt ruột. Bố tôi bảo: “Năm nay nhà không mổ lợn nữa”. Ông tôi chốc chốc lại hỏi: “Mà sao không thấy thư thằng cả nhỉ… Hay là đứa nào chạy lên xã gặp người bưu tá xem thế nào”. Chúng tôi tuy còn bé nhưng cũng cảm nhận được nỗi lo âu của bố mẹ, của họ hàng làng xóm về những đứa con đang ở chiến trường mù mịt. Tự nhiên mấy anh em tôi như ngoan hơn, không dám đùa nhiều làm cho ông, bố, mẹ rức đầu. Chị gái tôi phân công đứa rửa bát, đứa quét nhà, đứa phụ giúp bố lau ban thờ, sắp đặt ban thờ đón Tết. Tất cả con cón làm công việc trong im lặng với nhiều âu lo không ai nỡ nói ra.
Còn nhớ, tôi là đứa duy nhất bao giờ cũng được ông tôi chọn để đọc thư của anh cả cho cả nhà nghe. Ông tôi bảo tôi là cái thằng đọc dõng dạc nhất, nghe rõ nhất. Mỗi lần như vậy mặt tôi nở ra hãnh diện. Không ít lần đọc đến quãng nào đó, tôi nghẹn lời lại không đọc tiếp được nữa, phải hắng giọng nhiều lần mới đọc xong thư. Vừa đọc vừa nghe tiếng thút thít của u tôi ngồi bên cạnh. Bố tôi mắng át đi: “Ơ cái bà này, làm gì phải khóc. Có im đi không. Cả nhà đang vui thì lại…”. U tôi chạy ra ngoài sân hỉ mũi rồi lại quay vào để nghe hết bức thư. Đọc xong, ông tôi lại hỏi: “Thế nó không bảo khi nào được về phép à cháu?”. Tôi hồn nhiên bảo chả thấy gì ông ạ.
Nhớ nhất một Tết. Năm ấy có thư anh cả từ chiến trường về. Bố tôi quyết định mổ lợn đón Tết. Lại bong bóng. Lại giã giò. Khi bố giã sắp xong, ông sai anh hai tôi chạy lên nhà trên lấy chai nước mắm ra để thúc giò. Ông mở chai ra rót trực tiếp độ nửa bát mắm vào cối giò. Tự nhiên ông thất thanh: “Thôi chết rồi. Dầu
ma-dút rồi. Cha bố tông môn chúng mày. Thằng kia đâu rồi. Cho mấy roi vào đít cho tao”. Cả nhà hốt hoảng. Từ bấy trở đi ông tôi vừa rên rẩm vừa loay hoay chữa cối giò để may ra vẫn còn ăn được, may ra không phải đổ đi. Ông tôi nặn giò to như cái đĩa, xong thả vào nồi nước sôi. Vớt ra vẫn nồng nặc mùi. Xong rồi ông lại đem vào rán. Vẫn nặng mùi. Ông tôi xắt giò ra bảo cả nhà nếm thử. Cắn một cái, ai cũng lắc đầu lè lưỡi. Ném cho chó nó cũng phải quay đi. Cuối cùng đành bỏ mất mấy cân giò. Suốt Tết năm ấy, thỉnh thoảng ông tôi lại rên rẩm vì xót của. Ngày ấy ai cũng nghèo. Mất giò, Tết mất vui. Bọn trẻ chúng tôi năm ấy sợ ông khiếp vía, im thin thít như rắn mùng năm, chẳng đứa nào dám đùa như mọi khi sợ ông mắng. Rõ khổ. Cái Tết có thư anh cả gửi về mà lại không được vui trọn vẹn.
Tết năm 1975 anh cả tôi mới từ chiến trường miền Nam trở về trong niềm vui háo hức. Đúng là mùa xuân đầu tiên, mùa bình thường, mùa theo chim én về (Văn Cao). Tết năm ấy ông tôi đã không còn. Cụ đã gắng sống nhưng vẫn không thể chờ được thằng cháu trai kịp trở về. Có lẽ đó là niềm tiếc nuối duy nhất trước khi ông tôi khép mắt.
Tết năm ấy bố tôi mổ con lợn rất to. Lại chọc tiết, pha thịt, giã giò, lòng lợn tiết canh. Nhắc lại cái Tết năm nọ còn ông nội, có mẻ giò dầu ma-dút “nổi tiếng” khắp làng, mọi người cười vang nhà. Sau đấy chả ai bảo ai, tất cả chìm vào im lặng. Ai cũng nhớ về ông nội theo cách của mình. Anh cả ngồi bên cạnh, tủm tỉm cười. Gương mặt bố tôi, u tôi, tất cả mấy anh chị em tôi ngời lên hạnh phúc. Đó là mùa hoà bình đầu tiên của nhà tôi, làng tôi, đất nước tôi…
Áp Tết Giáp Ngọ
TIẾNG RÁ VỖ BÊN SÔNG
L
àng tôi ở một vùng quê xa phố xá, không được hưởng (hay cũng có thể nói là không phải chịu) nền văn minh nước máy. Tạo hoá thiên địa đã phú cho làng tôi một con
sông nước trong văn vắt chảy dọc bìa làng. Định cư ở phố xá dăm bữa nửa tháng tôi lại về quê một lần. Không hẳn là việc thực hiện nghĩa vụ của một người con hiếu lễ với cha mẹ, họ hàng mà hơn thế, như thể những lần di dưỡng tinh thần, tránh xa cái ồn ào bụi bặm, căng thẳng của phố phường để tìm về cái trong xanh êm ả thanh bình tự ngàn đời của quê hương.
Mỗi khi Tết đến, không thể nào ngồi yên được, tôi lại nóng lòng thấp thỏm muốn trở về, lại bồi hồi muốn được nghe tiếng rá vỗ ven sông, tiếng cười khúc khích của các cô thôn nữ, những bắp chân trần trắng muốt của các cô đang đứng dưới bến sông để vo gạo, đãi đỗ, rửa lá chuẩn bị gói bánh chưng. Ôi chao! Chẳng phải năm nào cũng được mùa đâu, có năm tháng ba ngày tám những người dân quê tôi bữa ăn phải độn thêm củ sắn, củ khoai mới hòng no. Thế nhưng mặc lòng. “Đói giỗ cha, no ba ngày Tết”. Hễ cứ bước đi qua con đê nhỏ trên đường về làng vào chiều 28 - 29 Tết hằng năm, là thế nào cũng bắt gặp rất nhiều các mẹ, các chị, các em người làng tôi và người làng bên kia sông lúi húi dọc hai triền sông vừa làm lụng, vừa trò chuyện râm ran. Tiếng rá vỗ, tiếng cười nói lan toả âm vang cả một khúc sông, hợp vào tiếng nước lóc tóc vỗ mạn bờ như thể cùng tấu lên khúc nhạc thanh
bình, no đủ, làm ấm lòng kẻ xa quê lúc đặt chân lên mảnh đất chôn rau.
Tôi, một kẻ đoảng vị, ngoài ba chục niên vẫn chưa may mắn có được người bạn trăm năm nên không tài nào chịu đựng được cảnh ngày Tết mà lại ở phố một mình. Có năm lòng buồn vì nỗi chán mình, rắp tâm ở lại phố ăn Tết không về quê nữa. Tha thẩn suốt từ 25 Tết, đến chiều 29 Tết, nghe pháo nổ râm ran, nhìn ngắm người ta đi sắm Tết, thấy các gia đình trong xóm chồng chồng vợ vợ dắt con đi chơi chợ hoa, tôi không cầm lòng được, lập tức lên xe trở về quê. Ôi đất quê, nơi có mẹ ta ở đó. Người nhân từ che chở cho con mỗi khi lòng thấy cô đơn hay mỗi khi vấp ngã trong đời. Những lúc ấy bỗng thèm được nghe tiếng mẹ gọi về ăn cơm như thuở nào còn nhỏ. Lại nhớ năm nọ, chiều 29 Tết, đang bước trở về trên mặt đê bỗng nghe có tiếng í ới của mấy cô gái dưới mép nước gọi lên: “Anh giáo ơi, cứ tưởng anh ở ngoài Hà Nội ăn Tết với cô nào, quên cả đường về”. Lại có người gọi: “Anh giáo ơi, cứ về trước chờ em, lát nữa em về gói bánh chưng quê cho mà ăn nhé!”. Rồi bao nhiêu tiếng cười giòn tan của các cô thôn nữ âm vang mặt sông sóng sánh. Tôi biết mình đang đỏ mặt, thấy lòng tội tội, tủi cho cái thân mình nên chẳng chống chế được câu nào, cứ lầm lũi đi trên đê trong chiều vàng nắng, cười mỉm một mình như kẻ dở hơi. Thế rồi một tiếng nói khác: “Chúng mày cứ trêu anh tao mãi. Anh ơi, chờ em đưa chìa khoá cho này”. À hoá ra tiếng con em gái. Nó hổn hển chạy trên mặt đê mừng mừng tủi tủi. Năm ấy nó đã lấy chồng. Chiều cuối năm nó về biếu Tết và giúp mẹ tôi lo Tết. Ôi chao, đã lấy chồng! Sao trước kia bảo: “Khi nào lo cho anh cưới vợ xong thì em mới lấy chồng”. “Cứ chờ ông anh thì em... chết già à”. Ôi! đứa em láu lỉnh của tôi.
Dẫu vụng nhất nhà, bởi từ lúc nhỏ đến lớn theo đòi sách vở, nhưng tôi được khen là nối dây “giàng” bánh giỏi nhất cả nhà. Không đơn điệu như ở phố, chỉ có độc một loại bánh chưng vuông, quê tôi còn gói cả bánh tày, loại bánh tròn và dài như cái ống tre to. Từ nhân bánh, tới lá bánh vẫn như bánh vuông,
nhưng loại bánh này khi gói phải công phu hơn: gói bánh phải chặt tay cho bánh mịn, đầu bánh phải gấp lá hình tam giác và phẳng; vỏ ngoài phải “giàng” bánh tức là cuộn nhiều vòng dây đều nhau tăm tắp vừa giữ cho bánh lành lặn khi buộc, vừa tạo thẩm mỹ cho chiếc bánh. Bánh tày có ưu điểm là luộc xong, vớt ra thả luôn vào thùng nước lạnh, sau đó đem bánh ra lăn đều trên mâm gỗ, nhờ thế mà ruột bánh mịn màng, dẻo quánh, không bị ướt, treo lên để được rất lâu. Khi “xắt” bánh dùng ngay sợi dây giàng bánh tước nhỏ, rồi cắt từng khoanh đều đặn. Miếng bánh tròn, giữa có nhân, nom tựa như một bông hoa. Nếu xếp khéo vào đĩa, nom tựa như một bông hoa đại đoá vậy. Thứ bánh này khi nối dây giàng bánh là phải nối “rút” sao cho hai đầu dây được giấu kín vào trong nút, không để lộ ra ngoài. Khi đem bánh đi tết họ hàng bằng hữu, người ta nhìn xem lá bánh có xanh không, giàng bánh có đều và đẹp không, nút bánh có nhỏ và khéo không. Nếu đạt được những tiêu chuẩn ấy thì được khen là người khéo, là may mắn trong năm.
Ở quê tôi khi vớt nồi bánh ra, nếu bánh bị vàng hoặc có cái bánh bị vỡ, hoặc bị cháy nồi thì người ta quan niệm đó là điềm gở, báo hiệu trong năm thế nào cũng có rủi ro. Vâng, người dân quê tôi trong ba ngày Tết, bất cứ việc gì cũng vận vào “điềm”. Có thể là mê tín chăng, nhưng trong cái mê tín ấy thấy một tình cảm nâng niu, cẩn trọng đối với những sản vật mình làm ra và muốn cho ba ngày Tết cũng như trong năm đời sống được vuông tròn hạnh phúc. Đó là gì nếu không phải là lòng yêu cuộc sống, nâng niu cuộc sống của những người dân quê bình dị. Bây giờ ở phố, người ta theo xu hướng giản tiện, cơm bữa chẳng cần nấu, đem tiền ra quán bình dân, bánh Tết chẳng cần gói buộc mà đi đặt mua... Nhưng riêng tôi, tôi sẽ vô cùng vui vẻ chịu vất vả, chịu hì hụi, lục xục suốt đêm để gói, đun, trông nồi bánh, để được lăn bánh, vớt bánh, nghe lửa cháy lách tách trong bếp củi, để được lãng đãng trong âm hưởng Lang Liêu cổ tích ngàn đời... Tuyệt vời nhất là lúc bánh vừa mới được vớt ra, chọn mấy chiếc đẹp nhất đặt lên bàn thờ thắp hương, sau đó được nếm bánh lúc về khuya bụng đã ngon ngót, trước miếng bánh thơm phưng phức
tuy háo hức nhưng vẫn cẩn trọng đưa miếng bánh lên miệng, từ từ cắn từng miếng một. Ôi chao, hương vị của đất, của tấm lòng thơm thảo từ mẹ, từ em hôm sớm trên đồng. Tất cả là đây, nồng nàn tình nghĩa.
Ở quê tôi, hội hè suốt Giêng, Hai. Cả một vùng âm âm tiếng trống hội làng, những câu hát huê tình như lạc bước vào miền cổ tích... Như một viên chức cần mẫn và tẻ nhạt, chiều mồng ba Tết tôi đã lại tạm biệt quê hương ra phố kịp ngày hôm sau làm việc. Ngồi trên chuyến xe đầu năm thưa khách, lòng mang mang một nỗi buồn không xác thực. Lại một xuân qua. Lại đến bao giờ mới được nghe xôn xao tiếng cười nói lan toả mặt sông, và tiếng rá vỗ lộp bộp âm âm như dấu hiệu ngàn đời của quê hương yên bình và nhân hậu...
RƯỚC BẢY CỤ BÀ NHÀ QUÊ ĐI CHƠI PHỐ M
ột hôm, những người hàng xóm nhà cô ấy trông thấy một cảnh rất lạ: Bảy người đàn bà đã già, trong đó có hai bà lưng đã còng rạp đồng loạt diễu hành ra phố.
Các phụ nữ nhà quê thường ăn mặc rất giống nhau. Đồng loạt áo màu tím hoa cà. Đồng loạt quần lụa đen. Đồng loạt dép màu hồng. Đồng loạt chít khăn mỏ quạ. Có cụ ăn trầu để răng đen nhưng nhức.
Ra đường, gặp ai các cụ cũng chào hỏi ra điều lễ phép. “Ông đi đâu đấy?”. “Bà đã ăn cơm chưa?”…Không hỏi lại sợ bị đánh giá là khinh người.
Cô ấy là người trẻ nhất, nhanh thoăn thoắt, một tay dắt một cụ bà, một tay kia giơ ngang chỉ dọc xin đường, miệng luôn dặn các cụ phải đi nép vào lề đường kẻo xe cộ va vào.
- Đi đâu mà đông vui thế chị ơi?
- Em đưa u em với các bà đi chùa.
- Thế đi bằng gì?
- Dạ, em chờ taxi đến ạ.
- Các cụ ở quê ra à?
- Vâng, u em với các thím các dì nhà em xuống chơi. - Thế ông xã em đâu mà có mình em đưa các cụ?
- Nhà em đi công tác ạ.
Rõ khổ…
Hàng xóm bảo khổ, nhưng cô ấy có thấy khổ đâu. Cô ấy xăm xắn như con thoi. Xe đến, cô ấy dìu từng người lên xe cẩn thận như dìu em bé. Vâng, người già chính là các “em bé tuổi lớn” đó thôi.
Hôm ấy, các cụ đi chùa thắp hương khấn Phật vui lắm. Xong rồi, các cụ lại còn được đi siêu thị, thăm thú tưng bừng. Các cụ xuống cầu thang điện được một phen hú vía. Cô ấy mời các cụ mỗi người một que kem. Các cụ ăn, lạnh quá, rơi vãi tứ tung cả vào khăn áo, vừa ăn vừa cười rinh rích.
Mấy hôm sau, gặp cái tay chồng vô tích sự ngoài ngõ, một bà hàng xóm túm lấy áo bảo: “Này, chị nói cho cậu biết nhé, cậu thật là có phúc mới có được cô vợ như nó đấy nhé. Ai đời, mình nó lo toan cho bảy cụ ăn ăn uống uống, đi chùa đi phố… mà mặt mày vẫn tươi như hoa ấy. Chứ cậu mà thế í à, chả gắt hơn mắm tôm”.
Tay chồng đoảng tính bảo vâng ạ vâng ạ, rồi đánh trống lảng: “Hôm nay đỡ nắng rồi chị nhỉ. Khiếp, cứ nắng như mấy hôm vừa rồi thì đến phát ốm”.
Bà hàng xóm chưa buông tha, cố nèo một câu: “Cậu là người tốt số đấy nhé!”…
Tay chồng vừa đi vừa tủm tỉm nghĩ, “ừ mình cũng là người tốt số”. Chứ thân phận cái anh nhà quê lấy vợ phố đã có biết bao nhiêu chuyện dở mếu dở cười. Thì đấy thôi, cái cô vợ thằng ấy thấy bảo từ khi lấy nhau, nó về quê đúng có một lần sau khi cưới, sau đó tuyên bố không bao giờ thèm về nữa.
Nhà quê có nhiều cái khổ, nhiều cái phiền phức nhiêu khê lắm. Như khoai sắn mía ngô, ngọn bí ngọn bầu. Ai hiểu được lòng quê mới yêu thương được người quê…
Cứ hình dung khung cảnh: Dưới sự chỉ huy thiên tài của một người phụ nữ hiện đại thủ đô, bảy bà chít khăn mỏ quạ, áo tím hoa cà, răng đen nhưng nhức xếp thành hàng dọc vừa háo hức vừa e dè thẳng tiến vào siêu thị, chẳng phải là một bức tranh lụa Nguyễn Phan Chánh Mỹ thuật Đông Dương đó sao…
Ngày 20/10/2018
BUỒN VUI CHIẾC Ô TÔ
H
ôm nay trên đường đi làm về, mình lái xe chui tọt vào con đường hẹp một chiều. Tự nhiên thấy tiếng quát tháo, mở kính ra xem. Toàn những cặp mắt ngùn ngụt
hình viên đạn: “Đi ngược chiều thế à?”,“Mắt không nhìn biển cấm à?”,“Đi gì mà ngu thế”... Hãi quá. May mà kịp định thần lại. Mình bèn nở nụ cười hình chữ nhật, lễ độ đánh xe lùi, cổ gật gật liên tục ra chiều hối lỗi. Hú vía!
Con dâu u tôi dặn đi lại phải hết sức cẩn thận, các cụ bảo hạn áo xám mà. Một cô em ở xa nhắn tin: “Anh giữ gìn sức khoẻ nhé. Sau đám tang thường hay bị chao đảo mà mình không biết. Đi đường đừng mất tập trung…”. Ôi, lời dặn dò chu đáo biết bao.
Bụng đã bảo dạ, thế mà…
Cách đây già hai năm, sau bữa ăn, có đông đủ mấy anh chị em, u mình mới dõng dạc: “U nói với các con, có cái thằng đi học hành, công tác xa nhà từ bé, mà nó lại không nhận phần đất đai được chia như các đứa khác, nay u nghe tin chúng nó cố mua ô tô để lấy cái đi lại, u cho chúng nó ít tiền, các con hiểu cho, không đứa nào được tị nạnh nhé”…Nói xong, u trịnh trọng trao gói tiền cho con dâu của u trong sự chính đáng công lý.
Tiền bọn mình dành dụm, cộng cả tiền u cho mới được chừng cái đầu và cái thân xe, vẫn thiếu cái đuôi xe, mình đành xoay sang trả góp.
Mang xe về quê, cả nhà vui. Vui nhất là u. U bảo: “Đi đường cẩn thận con nhá. Có xe thì hay, nhưng có người có xe cũng khổ vì xe đấy con ạ”. Mỗi lần về thăm u, mình đánh xe tiến thẳng vào sân, đỗ chềnh ềnh trước cửa nhà để u từ trong nhà nhìn thấy chống gậy lần ra, ánh cười rạng rỡ: “Con đã về”.
Một hôm, đôi vợ chồng thằng bạn thân về quê mình chơi. Trong lúc mặn chuyện, u mình kể câu chuyện mà lần đầu tiên mình mới được nghe. Chuyện rằng: Chả là cái đận những năm sau 75 của thế kỷ trước, cả làng chỉ có vài cái xe máy thôi. Lúc bấy giờ, xe máy là niềm mơ ước của cả làng. Một hôm, thằng em mình thấy cái xe máy của ông anh họ để đấy, chìa khoá thì vẫn cắm ở xe, nó tò mò trèo lên bật khoá, nổ máy. Khổ, cả làng lúc ấy đã mấy ai biết xe máy là gì. Nó hốt hoảng, vặn ga thế là xe máy vọt đi, được mấy mét rồi ngã chổng vó lên trời. Ông anh họ từ đâu chạy lại, lôi thằng em lên, tát cho một cái trời giáng. Rồi ông ta chỉ tay vào mặt hầm hầm: “Tao nói cho mày biết nhá, truyền đời cả lò nhà mày đừng hòng có nổi cái xe máy mà đi đâu, biết chửa!”.
U mình bảo: “Bá ạ, nó nói thế đấy! Nhưng bá biết không, bây giờ nhà tôi không chỉ có 4-5 cái xe máy, mà lại còn mấy cái ô tô của con, của cháu nữa. Trong khi đó nhà nó vẫn chỉ cái xe máy ấy. Rủa người thì có hay ho gì bá nhỉ?”. Vừa quyệt nước cốt trầu, u bảo: “Chả có gì qua được mắt ông giời bá ạ?”. U cười hể hả. Gương mặt u hồng lên lấp lánh…
*
Bây giờ, mỗi khi gặp vợ chồng thằng bạn, chúng lại hay nhắc chuyện này theo cái cách đặc biệt thích thú, như là một phát hiện mới về những người dân quê tuy nghèo khổ mà kiêu hãnh.
Mình phải luôn luôn nhớ trong đầu lời u dặn:“Đi đường cẩn thận con nhá. Có xe thì hay, nhưng có người khổ vì xe đấy con ạ”.
Nhớ u, 1/11/2017
TÔI ĐI BUÔN RƯỢU
B
ây giờ buôn bán kinh doanh được xem như một nghề sang trọng, chứ cái thời bao cấp, làm cái công việc buôn bán lắm khi ê chề lắm. Buôn bán đồng nghĩa với buôn
gian bán lận, gian thương bất chính. Nên người ta mới phải buôn chui, bán lủi.
Rượu lúc bấy giờ là mặt hàng thuộc loại cấm không được kinh doanh, vận chuyển trái phép. Trên đường đi, công an, quản lý thị trường bắt được là tịch thu, phạt nặng. Có anh bỏ của chạy lấy người.
Ngày ấy tôi, một anh giáo viên còm đang đi học thêm ngoài Hà Nội. Sống ở một thị xã tỉnh lẻ, mỗi lượt đi về già sáu chục cây số chứ có ít đâu. Thế mà tuần nào cũng đạp xe, ngược xuôi ít nhất một lần. Mà có công to việc lớn gì cho cam. Cũng chẳng phải hiếu thảo đến mức về thăm cha mẹ chăm chỉ thế. Chả là tôi đã liều mình gia nhập vào nghề đi buôn.
Mà buôn gì to tát cho cam, tôi đi buôn… rượu, rượu làng Vân.
Tôi có thằng bạn thân trong làng Cổ Mễ. Thỉnh thoảng về nhà thằng bạn chơi. Chắc trông bộ dạng tôi hiện rõ mồn một cái nghèo cái khổ. Một hôm, bà mẹ bạn tôi hỏi: “Thế cháu học hành ngoài ấy thì sinh sống thế nào?”. “Dạ, cháu ăn cơm tập thể. Cũng tạm tạm thôi ạ”. “Thằng Giang nhà bác đi dạy dỗ suốt ngày mà chẳng khi nào thấy trong túi có tiền. Thỉnh thoảng về lại nịnh mẹ cuỗm đi vài chục”. “Bác còn có cho nó chứ nhà cháu nghèo lắm. Bố mẹ cháu chả có gì mà cho đâu ạ!”. Bà thở dài ái ngại. Lát sau bà bảo: “Hay là cháu chịu khó chở rượu Vân ra ngoài đấy mà đổ, cũng kiếm được đôi đồng tiêu. Bác thấy làng này khối người cất rượu ở Vân, chở ra Hà Nội, kiếm tiền ra phết”. Tôi nghe toát
ợ ộ p g mồ hôi. Cả đời tôi có biết buôn bán là gì. Thằng bạn tôi hùn vào. Nó bày cách: “Bây giờ về trường, thử hỏi quanh quanh mấy cái quán gần trường, nhất là quán cháo lòng cháo liếc, xem người ta có tiêu thụ rượu không, chịu khó chở ra, mỗi tuần một chuyến, mỗi chuyến ba chục lít, cũng rủng rỉnh tiền tiêu”. Rồi thằng bạn tôi làm phép tính: “Cứ 3 lít thì pha vào thêm 1 lít nước lã. Vậy 30 lít đã có tổng cộng 40 lít rồi. Không cần lãi cao. Chỉ cần cái số nước lã ấy là ra tiền. Tính sơ sơ, mỗi chuyến cũng bằng 1/4 lương. Một tháng bốn chuyến là bằng suất lương cả tháng rồi. Tôi nghe sướng rơn người. Ôi, mỗi tháng có hai suất lương thì phong lưu quá. Phen này ông quyết đi buôn rượu / Vừa nếm vừa tu vẫn lãi tràn…
Sau chừng hai tuần, tôi đạp xe trở về nhà bạn. Bà mẹ bạn tôi đi khỏi nhà khoảng chừng hơn tiếng đồng hồ, khi trở về, có một anh thanh niên theo sau. Anh ta vứt uỵch cái săm cao su y như cái dạ dày trâu, rồi bảo: “Thanh niên có chở được về Hà Nội chỗ này không? Ba mươi lít nhé”. “Dạ, em chỉ chở được hai chục thôi”. “Thích hai chục thì có săm hai chục”. Anh ta đi nhoáng một cái, trở lại với một săm hai chục. Bà mẹ bạn tôi bảo: “Cháu cho vào cái ba lô này mà chở cho nó kín đáo. Trông gọn ghẽ thế này chắc không bị hỏi đâu. Họ tưởng đám học trò chở gạo đi trọ học”. Tôi vô cùng háo hức muốn lên xe đạp ngay tắp lự về Hà Nội. Nơi đó có ít nhất ba quán đã nhận tiêu thụ thử, nếu tiêu thụ tốt, sẽ nhận đều. Bà bảo: “Cháu cứ chở về, đổ cho người ta, lấy tiền, tuần sau mang tiền lên, rồi lấy rượu về. Cứ tuần tự thế mà làm”. Thấy tôi ái ngại, bà lại bảo: “Bác tạm ứng cho. Không có phải băn khoăn gì cả. Rượu đây là của thằng cháu trong nhà chứ có phải ai đâu mà ngại. Ta thấy cháu vất vả thì bảo cách cho mà kiếm đồng ra đồng vào đỡ khổ. Thôi đi đi kẻo muộn”. Tôi lí nhí cảm ơn rồi lên xe. Suốt chặng đường dài, tôi chỉ có nhẩm tính: “3 lít thì thêm vào 1 lít. Vậy 20lít, thêm vào vị chi là… 6 lít, không, phải 6 lít rưỡi. Thế vậy, số lãi vị chi là…”. Ôi, tính ra được mấy cân thịt chứ chẳng chơi. Tiền lãi thì mua 1 cân thịt rán mỡ ăn dần, còn lại phải mua ngay một cái áo rét, nếu còn thì mua vài quyển sách, mua một quyển truyện tặng nàng. Nhưng mà
chuyện này phải giấu biệt nàng. Nàng làm sao có thể đi yêu một anh chàng buôn rượu lậu được. Mà cũng phải thay ngay cái lốp xe. Phải đầu tư thôi. Buôn bán, muốn làm ăn lâu dài cũng phải đầu tư, nâng cấp cái xe lên một tẹo. Cái pê-đan đã long hết vòng bi ra rồi, mỗi lần đạp cứ kêu ken két… Cũng chẳng mấy chốc đã về tới đầu cầu Long Biên. Ở đó có một cái trạm kiểm soát thị trường. Chẳng may mà bị tóm ở đây thì mất công toi. Hít một hơi thật mạnh, hất mái tóc lên, nhìn điềm nhiên phía trước thẳng tiến. Trống ngực như đánh nhạc rốc. Ôi, kỳ diệu thay. Chẳng một ai thèm hỏi một câu nào. Đúng là ở hiền gặp lành.
Về tới ký túc xá, tôi gọi thằng bạn thân cùng phòng bí mật đi “tác nghiệp”. Rất suôn sẻ. Pha phách vào thêm 6 lít nước lã, nếm thử, rượu vẫn còn ngon. Lấy ra 1 lít giấu kín, để dành uống dần, còn lại đem đi đổ cho các quán. Các chủ quán giao kèo khi nào hết rượu sẽ trả tiền và lấy thêm. Chờ khoảng hơn tuần, chủ quán mới bảo cấp tiếp. Nhận đủ tiền, có chút lãi, tôi lại trèo lên cái xe cà tàng mà tôi gọi đùa là “con nghẽo” cong đít đạp về Cổ Mễ. Bà mẹ bạn tôi đón tôi như đón đứa con đi xa trở về. Bà chẳng cả thèm hỏi xem tôi lời lãi thế nào. Cơm nước xong, tôi mới rón rén xin phép đưa tiền nhờ bà trả cho anh thanh niên nọ. Bấy giờ bà mới hỏi có chở rượu đi nữa hay thôi. Tôi lại xin cấp cho tôi như lần trước.
Lần này mấy ông bạn cùng phòng phát hiện ra là tôi đi buôn rượu. Lúc đầu chúng hỏi han tôi, rồi chúng xin đi tháp tùng, rồi chúng kê kích, cuối cùng thì chúng xin rượu để nếm cho biết cái mùi rượu Vân nó thế nào. Mỗi người thuyết phục một câu. Cuối cùng thì tôi phải xót ruột mà sẻ rượu cho chúng uống. Rượu vào lời ra. Lời ra rượu lại càng vào. Toàn những bọn “ngưu ẩm”. Nhưng chẳng lẽ lại ngăn không cho chúng uống. Mà thả ra thì cái săm bong bóng trâu chả mấy mà lép xẹp. Ruột xót như bào. Uống xong, cả đám lăn ra ngủ. Sớm sau tỉnh dậy. Ôi thôi, cái săm rượu nhẹ bẫng. Chết cha, phen này có mà ăn cám. Khi đem ra quán, ông chủ cho biết đã vơi đi khoảng chừng già năm lít. Đúng
là cánh “ngưu ẩm”, thế này còn lời lãi gì. Lần sau đừng hòng cho cái cánh “ngưu ẩm” ấy uống nữa, dù chỉ là một giọt.
Sau vài tuần, thu xếp đủ tiền, tôi lại về nhà bạn. Bà cụ lại đon đả chăm nom, lại gọi anh thanh niên mang rượu đến. Bà rất mừng rằng tôi đã bắt đầu biết kiếm sống, đã có đồng ra đồng vào. Tôi lại có 20 lít cộng với sáu lít rưỡi nước lã pha. Vị chi là… Cứ thế. Dần về sau thì tim tôi không đập mạnh như trước nữa mỗi khi đi qua đồn kiểm soát đầu cầu Long Biên. Trông cái bộ dạng tôi, người ta cũng không thèm sinh nghi thì phải, nên lần nào cũng trót lọt.
Lần ấy là lần thứ tư. Ông chủ quán gọi vào buồng trong, trợn trạo: “Chú đổ nước lã vào lần này hơi quá tay đấy. Khách uống nó kêu nhạt hoét. Muốn làm ăn lâu dài hay thôi?”. Tôi chống chế: “Chắc tại mẻ này nó thế chứ em…”. “Mày không phải thanh minh thanh nga. Trăm thằng chở rượu thằng nào chả đổ nước lã. Nhưng đừng có ăn dày quá. Thế thôi nhé!”. Mặt tôi vã mồ hôi hột. Cứ như là ăn trộm bị bắt quả tang. Ê chề không để đâu cho hết. Quả là lần ấy tôi pha nước lã hơi quá tay, để bù vào cái chỗ bị đám “ngưu ẩm” uống hôm trước. Bụng bảo dạ phải chỉnh đốn ngay, nếu không thì mất nghiệp.
Xác định lại lập trường như vậy, tôi lại đạp xe về Cổ Mễ. Trên đường lầm rầm tính sổ lại xem bốn chuyến lời lãi thế nào. Cũng chẳng biết lời lãi thế nào. Chỉ biết tiền gốc trả anh thanh niên nọ như thế là đủ. Còn cũng chưa có đồng nào dôi. Bảo nâng cấp cái xe đạp cũng chưa. Bảo mua mấy quyển sách cũng chưa. Bảo mua cho nàng quyển truyện cũng chưa. Mà cái đám bạn văn chương nửa mùa kia chúng nó uống khoẻ lắm. Thỉnh thoảng nó lại kéo một đám vào chơi. Nó thăm gì mình. Nó vào tán các em sinh viên là chính. Mà mình lại cứ phải hầu rượu chúng nó. Thậm vô lý. Ấy thế mà vẫn cứ không thể thoái thác được, vẫn cứ phải mời chúng uống. Bạn viết với nhau, lấy chén rượu làm vui, chứ tiền trăm bạc vạn gì mà tính toán. Về tới nhà bạn. Bà mẹ lại đon đả ân cần. Anh thanh niên lại vứt uỵch cái săm rượu 20lít. Tôi lại
trả tiền. Xong. Anh hỏi cho xin lại cái săm trâu. Tìm mãi không thấy cái ba lô đâu. Thôi chết, cái dây chun đã bị đứt. Và cái ba lô bên trong đựng cái săm trâu cũng mất luôn. Mặt tôi cứ đực ra, không biết nói thế nào. Anh thanh niên phân tích: cái vết dây chun này không phải do đứt mà là do bị cắt, thôi, chú mày bị cắt ngang đường rồi; nó tưởng mày chở vàng, cái thằng trộm hôm nay gặp chú mày cũng mạt. Nói xong, anh ấy bảo thôi không tính cái săm, coi như là chia sẻ mất mát với nhau, rồi anh lại giúp tôi buộc cái săm 20 lít lên xe.
Chiều muộn. Nắng hanh hao vàng. Từng đàn muỗi bay vo ve trước mặt, chui cả vào cổ áo. Một kẻ đi buôn bị mất cắp cả đồ nghề thì… xoàng quá. Tính toán lại, lời lãi chả thấy đâu. Vị chi chuyến này là chuyến thứ 5. Có lẽ đến phải giải nghệ thôi. Mà lâu lâu chưa gặp nàng. Có hôm nàng hỏi thứ bảy chủ nhật anh đi đâu, tôi bèn chống chế rằng về thăm nhà. Hay là nàng biết mình đi buôn rượu rồi cũng nên…
Sau lần ấy, tôi lên gặp bà mẹ thằng bạn, nhờ gửi lại tiền cho anh thanh niên, gửi lời cảm ơn, và xin phép thôi không buôn rượu nữa, lấy cớ bận làm luận văn tốt nghiệp.
Mới đây thôi, về thăm lại nhà bạn. Bà cụ móm mém bảo: “Cái đận ấy thấy cậu học hành nghèo khổ, tiền chẳng có mà cho, bèn bày cho cậu cái cách đi đổ rượu. Về sau bác cũng nghĩ cháu không phải là đứa tháo vát, nghĩ lại ân hận, giá cháu không làm thì vẫn hơn”. Nghe bà cụ nói, mắt tôi hình như rân rấn ướt…
Hà Nội, những ngày áp Tết Kỷ Sửu
TRẦN GIAN CHỈ CÓ MỘT NGƯỜI T
ặng Q…
Bây giờ thì cái cổng nhà máy ấy với cái cột đồng hồ vuông vuông ấy đã bị phá đi thay bằng một toà chung cư chất ngất. Nhưng mỗi khi đi qua, lần nào cũng vậy, y phải liếc xéo vào đấy một cái. Y liếc vào cái đồng hồ vuông vuông cách đây dễ đến ngót ba chục năm trời…
Lần ấy y đang yêu. Cũng đã có vẻ như được phụ huynh xuôi xuôi, theo cái cách để im xem nó ra sao.
Chúng rủ nhau đi tham quan cùng với một đoàn sinh viên chúng quen. Tối hôm trước, theo con bài chúng tính toán, y rụt rè xin phép rằng mai chúng cháu đi sớm. Phụ huynh ừ hữ một lúc rồi cũng đồng ý cho đi kèm theo vài lời dặn dò. Y mở cờ trong bụng. Vậy thì cứ thế, mai anh vào đón em sớm nhé. Y cong đít đạp xe tức tốc ra về, định bụng sắm sửa đôi chút tư trang, rồi ngủ sớm kẻo mai dậy muộn. Lòng y hát ca cho đến lúc chìm sâu vào giấc ngủ.
Y vùng dậy. Nhòm ra cửa sổ. Trời sáng mất rồi. Y bật điện, tức tốc mặc đồ, tức tốc khoá cửa, tức tốc cong đít đạp xe vào đón nàng.
Y qua cổng nhà máy. Cái đồng hồ vuông vuông ấy với cái mặt dạ quang sáng quắc. Bỏ mẹ, đã 4 giờ 20 rồi ư? Ngủ nghê thế này còn ra thể thống gì nữa. Y lại nhổm mông guồng mạnh cái xe cà khổ lao trong ánh sáng nhờ nhờ vàng vọt của đèn đường. Đạp nhanh lên vẫn chưa phải là quá muộn.
Kính cong... Kính cong… Y khe khẽ vừa bấm chuông cổng vừa hé mắt nhòm vào trong sân. Tiếng hắng giọng của phụ huynh. Kính cong. Kính cong. Đèn trong nhà bật sáng. Giọng từ trong cửa ngó ra: “Ai đấy?”:
- Dạ thưa, cháu vào… đón ấy đi tham quan ạ.
- Ơ, đi đâu vào cái giờ này?
- Dạ, phải đi sớm chút, đến chỗ hẹn xe bác ạ.
- Ơ, bây giờ là mấy giờ? Mới già nửa đêm. Chắc anh nhầm thế nào ấy chứ?
- Dạ, rõ ràng là 4 giờ 20…
- Thế anh không có đồng hồ à? Thôi, thì vào đây ngủ với thằng cu em. Rồi mai đi sớm.
Y rón rén vào. Chưa hiểu chuyện gì xảy ra. Nằm trong đêm, bên cạnh thằng cu em, xẹp như con gián, tuyệt đối im lặng, không cả dám giở mình, hồi nhớ mọi chuyện. Thôi bỏ mẹ rồi, cái đồng hồ ấy, kim to nó chỉ số 12, kim nhỏ nó chỉ số 4. Giời ạ…
*
Chuyện thứ hai. Vẫn trong cái độ tình tang ấy. Lúc này, cả nhà nàng đã có phần quen hơi bén tiếng. Thỉnh thoảng ban tối, cơm xong là y tót vào nhà nàng. Chả làm gì, chỉ cùng cả nhà ngồi xem ti vi. Xem xong thì về. Chả dám đi đâu. Một hôm đã đến lúc về. Y kính cẩn chào phụ huynh. Y đứng dậy đưa mắt tìm dép. Quái lạ, cái đôi dép xăng-đan diện nhất của y đâu nhỉ? Y đưa mắt nhìn khắp phòng, không thấy. Y lại gò lưng cúi xuống gầm bàn gầm ghế để tìm. Nữ phụ huynh hỏi:
- Thế mày tìm gì?
- Dạ, cháu tìm đôi dép ạ.
- Lúc nãy mới vào để đâu? Hay là thằng em nó có đi của anh không? Mà thế cái gì đang đi ở chân kia?
- Ơ, dép cháu ạ.
Y đờ mặt chả nói được câu gì, lủi thẳng, không chờ nàng ra tiễn như mọi khi nữa.
Tối hôm sau y lại mò vào. Cái vụ hôm qua vẫn chưa hết ngượng. Nhưng y cứ đánh liều. Vào nhà thấy không khí khang khác mọi khi. Câu chuyện với nàng, với phụ huynh nàng, với mấy đứa em cứ rời rạc, gượng gạo thế nào. Ngồi lúc, y kiếm cớ xin phép ra về. Y ra hiệu cho nàng theo tiễn.
Đứng cổng, tần ngần y bảo hôm nay có chuyện gì sao mà cứ thấy cả nhà thế nào ý.
Nàng không nói gì. Gặng mãi. Nàng nghẹn ngào bảo: “Mẹ bảo em… hay là bảo anh đi khám bệnh xem có làm sao không?”.
- Ơ, anh có làm sao đâu mà phải đi khám bệnh?
Nàng nức nở nói trong nước mắt: “Thế cái chuyện tìm dép hôm qua là thế nào?”. Nói xong nàng quay ngoắt chạy vào nhà, để y một mình bên cổng. Lúc sau y lầm lũi chùng gối đạp cái xe cà khổ ra về.
Y lẩm bẩm: “Hay mình làm sao thật?”...
Sau đấy thì cũng nên vợ nên chồng.
Bây giờ mỗi khi đi qua cái nhà cao tầng chất ngất, nơi ngày xưa có cái cổng nhà máy với chiếc đồng hồ vuông vuông ấy, thể nào y cũng liếc vào một cái, vẫn thấy một chiếc kim chỉ vào số 4, một chiếc chỉ vào số 12, giời ạ.
Ngày 7/3/2017
U CHO TIỀN
Đ
ối với phận làm con có cha mẹ già thì người vất vả nhất là người ở cùng các cụ. Ở cùng tức là chăm sóc trực tiếp từ miếng ăn miếng uống, giấc ngủ, tắm giặt, hầu hạ sớm
hôm. Những lúc các cụ khoẻ thì còn đỡ, nhưng khi ốm đau nằm bệt vô cùng phiền toái. Nhất là khi thấy khó ở trong người, các cụ rên rẩm, than phiền, mắng mỏ đủ điều, không thấy gì là vừa ý. Ấy là mình muốn nói đến anh chị cả nhà mình. Anh chị chăm sóc các cụ một cách kiên nhẫn, phi thường.
Sướng nhất là những đứa con ở xa. Thỉnh thoảng mới về. Khi về thì đồng quà tấm bánh. Toàn nói những lời dễ nghe. Khi đi khỏi nhà lại giúi cho các cụ đôi đồng. Chả bao giờ phải hầu các cụ, chả bao giờ phải nghe các cụ bẳn gắt. Người đi xa, trong con mắt các cụ, lại là những đứa đáng thương nhất. Thương vì chúng ở xa, không được gần nhà, ngày giỗ ngày Tết có khi vắng mặt, hoặc có về cũng không được ở lại lâu. Thế thôi, chứ cũng chả phải vì chúng khổ nỗi gì. Ấy là các cụ nghĩ thế.
Hôm rồi, trước khi rời nhà về phố, cụ bà gọi con dâu vào trong buồng thì thào gì đó lâu lắm. Rồi khi vợ bước ra khỏi nhà lên xe thấy mắt đỏ hoe. Mình đâm lo, không biết có chuyện gì. Hay cụ trách mắng gì.
Trên đường về gặng hỏi, vợ mới khai rằng bà gọi vào cho tiền. Bà bảo u bây giờ già yếu rồi, không biết sống chết thế nào, u có ít
tiền dành dụm được, u cho hai cháu, để sau này chúng nó cưới vợ thì gọi là có chút quà của ông bà. U không có nhiều, chỉ có tí gọi là. Chúng nó (tức là con của các anh chị em khác trong nhà) u đều cho ít nhiều. Không đứa nào được so bì. Riêng cái thằng đích tôn u cho nhiều hơn chút, bởi vợ chồng nó ở với ông bà. Con cầm lấy, về đến nhà mới được mở ra nhé! Em thoáng có ý nghĩ không nhận, nhưng rồi em nhận luôn, nhận cho u vui.
Mình nhanh đẩu đoảng thì cứ mở ra xem u cho bao nhiêu nào! Vợ nhất quyết làm theo lời u dặn.
Khuya hôm ấy, khi công việc đã xong, chỉ còn hai vợ chồng, vợ trịnh trọng lấy ra một bọc nilon, trong bọc là một chiếc tất cũ, trong chiếc tất là một cục tiền với nhiều mệnh giá 500, 100, 200, 50, 20, 10 nghìn đủ loại. Thì ra u tích cóp từ lâu.
Vợ chồng im lặng, không ai nói câu nào. Lúc sau mình bảo: “Đây toàn là tiền con cháu cho ông bà, mừng tuổi hoặc cho vặt, ông bà tích cóp đây mà”. Vợ mình mắt lại đỏ hoe…
Lần trước về thăm ông bà, thấy các cụ yếu rồi, trước khi đi mình lại nói với ông bà rằng từ nay chúng con đưa tiền cho bác cả để bác cả chăm sóc ông bà, thôi không đưa tiền cho ông bà nữa, ông bà có tiêu gì đến tiền nữa đâu…
Bây giờ, mình thấy nói thế không được, là vô tâm, là bất nhẫn. U vẫn cần tiền chứ. Có thể chả mua gì. U cần tiền để lại dành dụm cho con cháu. Nhưng cái quan trọng nhất là khi có đồng tiền trong tay chắc u có cảm giác tự tin hơn trước con cháu, trước người khác. Và nhất là u vẫn thấy đời mình còn có ích…
Vợ mình bảo, em sẽ thêm ít tiền vào, đánh hai chỉ vàng để dành, khi nào chúng nó lớn đi lấy vợ, sẽ đưa cho chúng bảo đây là quà của ông bà nội gửi tặng các con. Đến lúc ấy, ông bà chắc gì còn nữa.
Nói đến đây mắt vợ lại đỏ hoe…
Ngày sinh nhật, 7/5/2017
TRONG MƠ BỐ VỀ
K
hác với u tôi, tôi chẳng mấy khi nằm mơ thấy bố tôi kể từ khi ông mất.
Thế mà lạ thay, đêm trước hôm vào thăm con giai mới vào làm việc tại Sài Gòn, tự nhiên tôi nghe văng vẳng bên tai: “Con vào Sài Gòn nhớ cho bố hỏi thăm cháu nhé”. Nghe xong, tôi giật mình thức dậy, mãi không ngủ được. Lòng tự dặn: Mai vào phải kể chuyện này với con.
Hôm sau, vào tới Sài Gòn, hầu như tôi quên luôn. Đến lúc ngồi ăn cơm, tôi mới sực nhớ ra, rồi nói với cháu. Cả mẹ cháu, cháu và tôi im lặng, không nói gì.
Thế mà hôm sau trở ra Hà Nội, cháu “chat” với bố mẹ rằng sáng hôm sau cháu đi chùa thắp hương cho ông bà rồi. Thật là mừng quá. Cháu đã trưởng thành thật rồi.
Nhớ lại, những ngày cu cậu còn bé, ông ra chơi, ở hẳn hai ba tháng trông cu cậu, bế bồng cu cậu, đón cậu từ nhà trẻ về.
Những chiều đi làm về muộn, một hình ảnh quen thuộc mà đến bây giờ tôi vẫn nhớ như in: Ông bế cháu vào lòng, ngồi trên bậc cửa ngóng bố mẹ cháu về. Chiều nào cũng vậy. Mẹ về tới nhà, con lao ra, mẹ lao tới ôm con vào lòng mà cưng nựng. Ông được rảnh tay nghỉ ngơi đôi chút.
Tôi là loại mải chơi, nhiều chiều về muộn quá. Có hôm lại vui chân, tụ bạ cùng bạn bè bia bọt. Một lần, bố tôi bảo: “Bây giờ con còn bé. Bố thấy mẹ nó vất vả, sấp sấp ngửa ngửa cơm cơm nước nước, rồi lại đến trường. Con cố gắng đừng có ham chơi, về sớm đỡ đần cho mẹ nó”. Tôi vâng vâng, rồi lại đâu vào đấy.
Những ngày bố tôi ra chơi trông cháu giúp, có lần tôi bảo: “Ngay đầu ngõ nhà mình có quán bia. Chiều chiều bố cứ bế cháu ra đấy chơi rồi uống một hai vại cho vui bố ạ. Con đưa cho bố ít tiền lẻ để bố tiêu nhé”. Bố tôi ậm ừ chả ra đồng ý hay không. Có hôm tôi hỏi lại rằng bố có đi uống bia không, bố tôi cười cười: “Con nên mua mang về nhà uống chứ bế cháu ra ngoài quán thì ngại lắm. Người ta uống bia nói cười ầm ĩ, lại còn hút thuốc nữa. Hại sức khoẻ cháu”. Thì ra, bố tôi không uống bia ngoài quán vì lý do như thế.
Thỉnh thoảng bố tôi làm thơ, nhưng không bao giờ khoe với tôi. Bố tôi khoe với con dâu. Cô con dâu là cô giáo dạy Văn, lại khéo động viên, nên bố tôi tin tưởng lắm. Có lần bố tôi bảo: “Ta nghe mẹ nó nói chuyện thế mà thấy dễ hiểu hơn bố nó đấy”. Tôi chỉ biết cười trừ.
Những ngày vừa rồi, sau khi ông mất, mấy anh em tôi ngồi soạn những sách vở, những ghi chép lộn xộn của ông. Có không ít trang, nhìn vào con chữ, cả những trang chữ Nho và chữ quốc ngữ, biết được đó là những gắng gỏi cuối cùng của một người đã lực bất tòng tâm. Khi tay đã run, mắt đã mờ, đường đi của ngòi bút không theo được ý muốn. Có nhiều chữ không thể luận được ra. Sinh thời, lúc khỏe, bố tôi có tiếng trong làng là người có hoa tay, chữ đẹp, cả chữ Nho lẫn chữ Quốc ngữ. Thời điểm bố tôi buông bút có lẽ chừng hai năm trước khi ông mất.
Ông mất sau bà chỉ thiếu đúng 28 ngày là tròn một năm.
Người ta vẫn bảo: Thông thường nếu bà mất trước, thì ông hay mất sớm lắm; ngược lại nếu ông mất trước, thì bà có thể sống
lâu hơn, thậm chí rất lâu. Vậy ra đàn ông mới thực là… phái yếu. Thì ra phụ nữ khi người chồng mất, họ phải tự mạnh lên để cùng một lúc cáng đáng hai vai cả mẹ lẫn cha.
Ngày mai, 100 ngày mất của ông, con giai lớn ở Sài Gòn lại đi chùa thắp hương cầu nguyện cho ông bà nhé! Ông bà sẽ phù hộ cho con gặp may mắn trong đời.
Chắc bố mẹ chẳng nhắc thì con cũng nhớ. Con là con giai lớn trong nhà mà!
Nhân 100 ngày mất của Bố, 24/12/2018
ƠI MẤY TRÁI CAU
Ở
quê mình không gọi “ăn trầu”, mà quen gọi “ăn giầu”, ăn giầu không, ăn giầu thuốc. U mình cả đời ăn giầu. Bất kể khi khoẻ khi ốm, bất kể ở đâu.
Những lần u ra nhà mình chơi lâu lâu, vợ mình sắm cho cái âu để u nhổ bã giầu vào đó. Trong căn phòng nhỏ, mùi thơm cay của miếng giầu thoang thoảng toả lan. Khi u đã quá già, không ăn được miếng giầu têm nữa, thường phải bỏ một mảnh lá giầu có quệt tẹo vôi, miếng vỏ, miếng cau, mấy sợi thuốc lào, cho vào cối giầu giã nhỏ. Chiếc cối bằng đồng, bé như một đồ chơi, dùng lâu ngày sáng bóng. Tay giã đều cho đến khi nào miếng giầu nhỏ mịn, lên màu hồng huyết, mới và vào miệng. Mình cũng đã từng giã giầu cho u. Giã không quen, không khéo cũng nhanh mỏi tay lắm nhé!
Lần nào về trước Tết, trong những thứ sắp cho con trai con dâu mang đi, thiếu gì thì thiếu chứ không bao giờ thiếu mấy chẽ cau và mấy lá giầu. Lá giầu phải chọn những lá bánh tẻ, xanh biếc, không quá già mà cũng không bị non, phải còn lành nguyên dáng lá, không khuyết rách. Cau cũng thế, phải là cau “đến hạt”, không già quá, không non quá. Những quả cau ấy, khi đưa con “dao cau” nho nhỏ chuyên dùng lách vào thân quả, nghe đường dao đi ngọt lịm. Phần hạt non được mở ra, trong mịn, thơm gây. U đếm kỹ từng lá giầu, từng chẽ cau sao cho đủ để thắp hương
trong suốt mấy ngày Tết. Tết tính từ đêm 30, sớm nhất cũng phải hết mùng Ba. U dặn: “Giầu cau để trong cái âu đồng là tươi lâu nhất. Nhưng nhà con làm gì có âu đồng, nên cứ để trên nền nhà ấy nhé, cũng tươi lâu lắm”.
Sau mấy ngày Tết, những lá giầu đã thắp hương ngày một héo dần. Không dám bỏ chung vào thùng rác, những người kỹ tính thường bỏ chúng vào một túi riêng. Chỉ còn những quả cau là tươi lâu.
Mọi năm, nếu kịp về quê sau Tết, mình thường lại mang những quả cau đã thắp hương đó về cho u têm giầu. Nếu không kịp về, nhà mình đem biếu cụ già đầu ngõ. Cau lộc, nên mỗi lần nhận, cụ mừng lắm, hóm hém cười. U mình dặn: “Cau lộc đừng có vứt đi, phải tội”.
Năm nay u không còn nữa. Đã vào cữ cuối Giêng, những quả cau cũng chẳng còn tươi mãi được. Nhưng mình cứ để đấy. Cụ bà đầu ngõ cũng đã về cõi Phật được mấy năm. Chẳng gặp ai mà cho. Ở phố, bây giờ gặp được người ăn giầu cũng hiếm.
Mấy quả cau trên đĩa cứ ngày một héo vàng.
Đĩa cau cứ để trên bàn. Con giai con dâu của u không một lần nhắc tới, mặc dù cả hai vẫn nhìn nó hàng ngày. Không ai lên tiếng. Con biết, con dâu u không dám nhắc đến đâu. Mỗi lần nhắc đến u, mắt con dâu u vẫn ngân ngấn nước.
Con cũng chỉ biết lặng im.
Và nhớ…
Ơi những trái cau con hái vườn nhà.
Ngày 8/3/2018
GẶP BẠN CẤP BA
N
ói ra nghe thật kỳ, chứ bọn bạn cấp ba chúng mình rất ít khi gặp được nhau đông đủ, trừ những khi nhà bạn nào đó có... đám hiếu. Vâng, tuổi chúng mình bây giờ đều
đến lúc cha già mẹ héo rồi. Cho nên lâu lâu lại nhận được tin nhắn bố thằng nọ mẹ đứa kia bỏ cõi trần về cõi Phật. Thế là lại í ới gọi nhau. Lại hò hẹn lên đường.
Dĩ nhiên không chỉ có đám ma. Cũng có cả đám cưới nữa. Cưới các con của bạn mình. Nhưng đám cưới có mặt thì quý, không có mặt cũng không sao. Bởi đám cưới là ngày vui. Ngày vui thì ít người vẫn cứ vui, cũng chả thấy mình cần thiết lắm. Chứ ngày buồn, mới cần có bạn bè bên cạnh. Có bạn bè về, lòng đỡ tủi hơn.
Hẹn hò rồng rắn vào dâng lễ thắp hương cho các cụ xong, bắt tay thật chặt đứa bạn đang đứng chịu tang, chả phải nói gì, ngồi một lúc nghe đoạn nhạc hiếu ò e rồi chào tang chủ ra về. Trên đường về chả ai nói với ai. Nghĩ về kiếp người hữu hạn. Các cụ chính là hình ảnh tương lai của mỗi chúng ta. Thôi, cụ đi như thế cũng là nhẹ kiếp. Thấy bảo cụ nằm một chỗ đến 5, 6 năm rồi, không còn nhận biết gì được nữa rồi. Sống thế thật tội, vừa khổ mình, vừa khổ cho con cháu.
Ngồi trên xe, một thằng lên tiếng: “Chúng mày ạ, nước mình chưa có cái luật cho phép cái chết nhân đạo nhỉ. Tao nghĩ như thế là quá văn minh. Chứ chúng mày bảo sống quặt quẹo lê thê
mãi thì sống làm gì”. Nghe xong, tất cả mới nhao nhao lên phải quá hay quá, cái nước nào áp dụng chứng tỏ nó văn minh, nó tôn trọng quyền con người cho đến lúc chết; thế thì người ta mới bảo: “Sống khoẻ chết nhanh, không của để dành” là sướng nhất; câu ấy còn một vế nữa: “Nhiều em thương mến!”. Ha ha. Thế là lại nhao nhao chuyện. Sắp chia tay một số bạn rồi. Hay là chúng mình tạt vào cái quán nào làm đôi chén rồi chia tay, chứ giờ biệt luôn buồn lắm. Mới có ngang chiều, tất cả lại dạt vào quán. Lại ăn ăn uống uống, lại dăm ba chén, lại vui như Tết. Trong câu chuyện không đầu không cuối, lại biết thêm được đứa ấy làm ăn vỡ nợ may mà chuồn sang Úc ở với con rồi; lại biết thêm đứa ấy nghe đâu vừa chết vì K; thấy bảo thằng ấy bây giờ về hưu chả đi đâu chả chơi với ai, suốt ngày chỉ tổ tôm với mấy ông trong xóm; lại bảo cái thằng ấy vào tận Tây Nguyên sống với con giai, nó làm rẫy trồng cà phê trong đó.
Hỏi thăm đứa bạn ngồi cạnh về một bạn gái mà ngày xưa mình thinh thích, nó bảo bạn ấy bây giờ khổ lắm. Khổ là sao? Đang yên đang lành một chồng hai con đề huề, mà thế nào lại bỏ đi theo một thằng khác, rồi có thêm với một đứa con với cái thằng khác đấy, nhưng ở với nhau đâu được hơn năm, rồi nó bỏ đi đâu mất; bấy giờ trơ khấc một mình, giở đi mắc núi giở lại mắc sông; hai đứa con với chồng trước chúng nó cũng không đi lại với bạn ấy nữa.
Thật là hồng nhan bạc phận nhỉ… Bạn ấy ngày cấp ba cũng thuộc hàng hoa khôi của khoá. Khối thằng mê. “Tao cũng mê”, “Tao cũng! Nhưng mê thì mê thế thôi chứ chả dám nói gì nhỉ”. “Ngày ấy cầm tay cũng còn chưa dám”.
Mình nhớ nhất một lần mình với bạn ấy đi học ban tối, gọi là tổ học tập. Một cái bàn, mỗi đứa ngồi một bên hướng vào nhau. Hai cái đèn dầu. Im lặng đến tiếng ngòi bút chạy trên giấy cũng nghe thấy. Tiếng muỗi vo ve. Chả biết bạn ấy có thích mình tẹo nào không, nhưng mình thì nhiều cảm xúc lắm. Mình nhìn bạn ấy nhưng bạn ấy có thèm nhìn mình đâu. Không thể không gì,
mình đánh liều đưa chân sang tìm chân bạn ấy, mình đặt bàn chân thô kệch của mình lên bàn chân nhỏ nhắn ấm mềm của bạn ấy. Một luồng điện vọt lên óc. Bạn ấy để yên một lúc rồi lặng lẽ rút chân về, đưa mắt nhìn mình một cái như hắt lửa.
Thế rồi thôi, chả dám gì hơn nữa. Mùa hè năm ấy trôi qua mau. Thi tốt nghiệp. Thi đại học. Đứa đỗ đứa trượt. Đứa đi học, đứa ở nhà. Đứa đi bộ đội. Có bạn gái lấy chồng ngay. Cuộc đời đẩy đưa mỗi đứa mỗi phận. Ngày trẻ ít có điều kiện để gặp nhau. Bây giờ già rồi, cuộc sống đa phần bạn bè cũng đỡ gieo neo hơn. Có vài ba bạn công việc đã nhàn, con cái đề huề, không phải trông cháu cho con, tình nguyện làm thành viên trong Ban liên lạc. Thế là ít nhất mỗi năm gặp nhau một lần. Thường vào dịp tháng 11, tháng có ngày 20. Nếu tiện gặp được thầy cô cũ nào thì mời thầy cô đến dự.
Những lần họp lớp thường quá lắm cũng chỉ được một nửa, già nửa lớp là cùng.
Thế nhưng mỗi lần đám ma nhà bạn, thể nào cũng gần như đủ.
Ôi đám bạn cấp ba. Chúng mình mang theo cả một thời thơ trẻ, lòng bao cảm xúc yêu yêu tuổi học trò, trong veo và thơ mộng, cứ thế dắt díu nhau đi giữa cuộc đời, ngay cả lúc tất cả không còn trẻ nữa.
Chúng mình lại có tuổi 17 mỗi khi ở bên nhau, bạn nhỉ. Ngày 14/4/2018
MỘT THỜI ĐỒI CỐC
T
heo con đường đi về Chũ, từ phủ Lạng Thương, ngược Bắc khoảng chừng 5 cây số, bên trái đường có một ngọn đồi không cao lắm, được gọi là Đồi Cốc. Ngọn đồi ấy đã
từng có đến gần 20 năm là cơ ngơi của trường Cao đẳng Sư phạm Hà Bắc trước đây. Đầu năm 2000, khi chia tách tỉnh, trường lại chuyển về Quế Nham, cạnh đường lên huyện lị Tân Yên. Bây giờ, Đồi Cốc chuyển cho Sở Điện lực quản lý thì phải. Đồi Cốc, với bao thế hệ thầy trò trường Cao đẳng, đã gói ghém cả một quãng đời. Và có khi liên quan đến sự chìm nổi của cả một đời người…
1. Ngày ấy tôi còn trẻ lắm. Vừa mới hoàn thành nghĩa vụ lên dạy học miền núi 6 năm, giờ được về trường Đồi Cốc. Yêu đương đã từng. Vợ con chưa có. Nghèo vô kể. Tôi lại không thuộc loại người cơ chí, biết tính toán, nên thiếu đói liên miên. Gạo nước hằng tháng 13 cân bao giờ cũng hết sớm trước một tuần. Tuần cuối cùng làm sao đây. Thế là đành chịu khó cuối chiều, lui cui đạp xe về nhà mẹ đẻ cách chừng 15 cây số để ghé miệng nhờ. Rồi lại liều mạng vào chum gạo của u muối mặt xúc lấy mươi bò. Việc xúc mươi bò gạo mỗi lần là cả một sự dũng cảm. Day dứt lắm. Cho tới tận bây giờ vẫn cảm thấy da mặt còn cồm cộm.
Dạy dỗ thì không nhiều giờ. Chiều chiều, cánh tập thể rủ nhau đánh cầu lông, bóng chuyền cho thời giờ chóng qua. Tôi và thằng bạn kém tôi vài tuổi, vốn lười bóng banh, cứ chiều tối, vác bát xuống nhà ăn tập thể ăn uống cho xong bữa rồi xách xe đạp đi lòng vòng thị xã. Cứ miễn là đi xuống thị xã thôi chứ cũng chẳng biết đến cụ thể nơi nào. Đạp xe lòng vòng chán rồi lại rủ
nhau vào quán cóc bên đường làm ngụm chén trà nóng, ăn cái kẹo dồi, kẹo vừng gì đấy, xong lại ơ hờ đạp xe về trường. Đường về, xa hơn lúc đi. Có hôm trời lạnh, hai hàm răng va nhau lập cập. Thằng bạn tếu táo bảo: “Lạnh đến rụng cả tóc ông anh ạ!”. Lúc trở về, qua chỗ đám đông ngồi xem ti vi đen trắng đầu hồi căn nhà tập thể cạnh sân trường, tôi và anh bạn cứ men men tránh cho xa, sợ kinh động mọi người đang chăm chú. Ấy thế mà người ấy vẫn biết chúng tôi về. Nói đích xác ra là biết thằng bạn tôi về. Lúc sau, từ tầng dưới, nơi người ấy ở, tiếng gọi vóng lên tầng trên: “Này, đằng ấy có ăn mì không thì xuống nhé!”. “Ô, em đấy à? Có thật không?”. “Lại không thật à?”. Thằng bạn và người ấy cứ trao đi đổi lại với cái giọng… “mẹ mìn” như thế. “Rủ cả anh ấy xuống nhé”. Nghe được câu ấy, tôi thấy mát cả dạ. Rồi thì tôi cùng thằng bạn xuống ăn. Lúc ấy cả hai đứa chưa có chuyện gì, mới đang ben bén,“tình trong như đã, mặt ngoài còn e…”. Trời về khuya lạnh co ro, được bát mì nấu đưa vào, ấm áp làm sao.
Lại có một hôm tôi đi đâu đó về muộn. Lúc ấy chừng 10 giờ đêm chứ chẳng chơi. Đói kinh khủng. Cũng lại qua sân trường nơi đầu nhà có cái ti vi tập thể. Phen này chắc chết. Bây giờ có thể kiếm cái gì ăn được đây. Nấu nướng thì lỉnh kỉnh. Mà chỉ có độc gạo chứ không có thức ăn, nuốt sao trôi. Định ra cổng trường xem cái quán duy nhất ngoài ấy còn bán chác gì không, mua chịu cái bánh đa Kế về ăn tạm, uống nước vào là lưng lửng, cũng qua được một đêm. Nghĩ thế. Lại quay ra. Vừa bước chân xuống cầu thang, người ấy bỗng nhiên lên tiếng: “Anh đi đâu về mà muộn thế?”. “Chào em, anh… anh ra ngoài này một tẹo”. “Anh chưa ăn cơm chứ gì?” “Anh… định đi mua cái bánh gì đấy ăn tạm”. “Anh vào phòng chúng em ngồi chơi. Em nấu mì cho anh ăn”. “Thôi, em …”. “Thôi nữa mà…”. Một chuỗi cười giòn tan. Tôi ngồi đọc báo. Người ấy nấu mì. Một bát tố lô nhánh mỡ, hành (dĩ nhiên là không có thịt) bốc khói nghi ngút. Tôi nhận bát mì lập cập ăn như người bị bỏ đói mấy ngày. Vừa ngước mắt lên bỗng chạm vào mắt người ấy. Tôi dừng đũa. Cổ họng bị nghẹn đứ. Tự
nhiên mắt tôi rân rấn. Người ấy nhìn tôi như chị nhìn em. Và có thể còn hơn thế nữa, như… mẹ nhìn con.
Người ấy yêu thằng bạn tôi chứ không yêu tôi đâu nhé. May mà tôi cũng sớm nhận ra. Sau này, khi tôi rời trường ra đi, chúng cưới nhau. Vào một chiều đông hanh hao vàng, tôi lầm lũi một mình lên xe, ngược Bắc về ăn cưới. Tôi là kẻ muộn mằn…
2. Nhớ lại cái ngày đầu tiên đến trường Đồi Cốc xin việc. Chả quen biết ai. Cầm cái hồ sơ với hành trang tốt nghiệp đại học loại trung bình, cùng với 6 năm miền núi và một cơ thể dơ xương 49 cân. Tóc quăn, mắt sáng. Cứ liều mạng xông vào. Cho xin gặp ông trưởng phòng tổ chức ạ! Có việc gì. Tôi có việc riêng, xin chỉ chỗ giúp. Chào… chú! Cháu muốn xin vào làm việc tại đây. Mong chú lưu tâm giúp đỡ. Ông trưởng phòng tổ chức gỡ cặp kính ra, nhìn chằm chằm vào mặt tôi như nhìn một kẻ rồ. Ông cười cười bảo: “Tốt nghiệp loại gì? Ở đâu về?”. Ông vẫn cười cười bảo: “Ở đây không cần người dạy văn nữa. Cậu tìm chỗ khác nhé!”. Tôi chưng hửng. Lòng trống hoác. Lững thững ra cổng trường, tạt vào quán uống ngụm nước trà, định thần lại. Kinh nghiệm 6 năm dạy trên miền núi cho tôi vỡ ra một điều: cái trò xin việc cứ phải gặp ông thủ trưởng cao nhất mới may chăng, chứ các ông phòng ban là dễ công toi. Trong lòng vang lên tiếng nói: “Sao không vào gặp hẳn cái ông Hiệu trưởng xem sao”. Thế là bụng bảo dạ hãy vững tâm, liều mình như chẳng có, gõ cửa vào phòng Hiệu trưởng. Cũng lại nhấc kính ra. Cũng lại nhìn tôi như một kẻ rồ. Hỏi. Đáp. Hỏi. Đáp. Ông bảo: “Cậu dân văn, cậu thử nghe bài thơ này của tớ xem nhé?”. Bỏ mẹ, cái ông này chắc cũng dở hơi không kém gì mình. Tôi đi xin việc chứ có phải vào để nghe thơ ông đâu. Ừ thì nghe. Ô, không đến nỗi nào. Thầy dân toán mà làm thơ thế thì dân văn chúng em thất nghiệp hết. Ông cười phớ lớ. Thế thì tớ đọc bài nữa. Ngoài trời bỗng nhiên nổi cơn giông. Mưa như trút nước. Vâng, thì nghe. Chu cha, bài thứ hai khá hơn cả bài đầu. Lòng thoáng nghĩ đến một câu thơ cổ: “Vũ vô kiềm toả năng lưu khách…”. Cơn mưa khéo phù hộ mình, giữ chân mình ở lại. Ông tâm sự, vừa rồi đọc một số bài
thơ ở Câu lạc bộ thơ Sông Thương, chính mấy cái bài vừa đọc cho cậu nghe, có người phê phán, tung tin là tiêu cực, là cạnh khoé cán bộ, là mất ý chí chiến đấu. Cậu bảo, đọc thơ như thế có bằngtích phân thơ à? Hà hà, kệ nó, cây ngay không sợ. Hà hà, thế cậu vợ con thế nào? Dạ, em chưa gì. Thế thì tốt. Về đây tớ sẽ gả cho. Còn khối cô giáo ở đây xinh đẹp trẻ trung lắm! Ô, thế nghĩa là thầy có ý… nhận em về. Ừ, thì tớ sẽ giúp cậu. Cậu về làm ngay hồ sơ. Ô, em đã có sẵn hồ sơ đây rồi ạ. Chỉ vỏn vẹn sau chưa đầy một tháng, tôi có giấy tiếp nhận về Đồi Cốc. Ôi, cái ông Hiệu trưởng dạy toán mà rất nghệ sĩ này. Lãnh đạo mà nghệ sĩ thế này dễ lâm nạn lắm! Khi xong việc, nhân tiện lên cơ quan cũ miền rừng làm thủ tục về xuôi, tôi mua cân măng khô miền rừng biếu ông. Ông lại bảo cậu vẽ vời quá, các cậu đã miền núi về thì có gì. Ở đời, gặp được một người như ông khiến ta phải gắng sống tử tế hơn.
3. Sau đó một năm, ông Hiệu trưởng về hưu. Một năm sau tôi cũng nhận ra mình chông chênh quá. Yêu đương chẳng đâu vào đâu. Nghèo vẫn hoàn nghèo. Học hành chưa đến nơi đến chốn. Mang tiếng dạy cao đẳng mà chỉ có cái bằng đại học, nghĩa là cơm chấm… cháo. Chả lẽ cứ ở Đồi Cốc mãi như thế này ư? Sau nhiều đêm mông lung, tôi bèn quyết định xin đi thi học Cao học. Xin mãi. Được đồng ý với điều kiện cam đoan sau khi học xong trở lại trường. Thế là thi đỗ. Thế là lại hai năm Hà Nội. Thế là ở lại Hà Nội rồi vợ rồi con rồi công việc, ở hẳn không về. Thỉnh thoảng vẫn cứ áy náy như là mình đánh lừa nhà trường vậy. Nhưng mà ngày ấy chuyện đi ở chưa phải là nghiêm trọng lắm. Giữ người ở lại chứ ai giữ người nằng nặc ra đi.
Ở Hà Nội được mấy năm, lại nghe tách tỉnh tách trường. Rồi ít năm sau lại nghe nhập với trường trung học sư phạm. Lại nghe bỏ Đồi Cốc, di dời lên Quế Nham. Lại nghe bây giờ tạm thôi không đào tạo hệ cao đẳng chính quy nữa do bội thực thầy cô giáo cấp hai rồi. Lại nghe… Ôi, bao nhiêu là chuyện, chuyện vui xen lẫn với chuyện buồn…
Sướng nhất là thỉnh thoảng được về ăn cỗ cưới của con cái một đồng nghiệp cũ tổ chức tại Bắc Ninh, Bắc Giang. Thế là lại bầu đoàn xe xe cộ cộ ngược Bắc trở về. Gặp lại bao người thân yêu cũ. Gặp lại cả người thương yêu cũ. Toàn ôn nghèo kể khổ. Toàn chuyện vui. Nhớ nhất cái chuyện thỉnh thoảng chiều chiều hò nhau khép cửa phòng lại truy lùng và săn bắt… chuột. Chuột đâu mà nhiều quá thể. Lắm hôm cứ rình rịch trong phòng. Có cô bạn đang đêm rú lên. Cả dãy nhà nháo nhác. Thần hồn nát thần tính. Lúc sau thấy đau nhói nhói ở dưới chân, hoá ra vừa bị lũ chuột gặm gót chân vẹt cả lớp da ngoài... Lại nhớ cái hôm mới về trường, một đàn anh trong tổ gọi với: “Vào đây, vào đây, chú mày”. Rón rén bước vào. Anh đang ngồi đấu hót cùng với mấy cô bạn gái. Thấy trên bàn bày chục cái bánh đa. Lại có chai rượu. Anh bảo: “Sao mày cứ bẽn lẽn như con gái về nhà chồng thế? Các em đây có ăn thịt mày đâu mà sợ”. Nói xong, anh nghiêng bàn tay chém một nhát vào giữa chồng bánh đa. Cả chồng bánh vỡ làm ba làm bốn miếng mà không bị nát. Anh cười vang. Chuỗi cười khỏe khoắn, đôn hậu, có cái ngang tàng của người kẻ trại. Anh bảo uống đi. Ở đây chỉ có hai món đặc sản thôi, chú mày biết không, RBĐ và RTC? Em chưa biết ạ. Mày cứ đưa dăm chục đây rồi tao khai sáng cho. Rượu - bánh - đa và rượu - thịt - chó. Thế mà không biết. Con trai Bắc Giang mà không biết thì kém. À ra thế. Rờ - bê - đê với rờ - tê - xê. Tôi nhớ liền. Trận rượu RBĐ hôm ấy anh say đứ đừ. Tôi cũng chuếnh choáng. Các bạn gái tủm tỉm nhìn chúng tôi say. Anh ấy bảo tôi: “Tao trông cái mặt chú mày chơi được!”. Thế mà, chỉ sau đó dăm năm chứ mấy, anh ấy bị căn bệnh ung thư quật ngã. Lúc ấy anh mới ngoài năm mươi. Sinh tử bất kỳ, ghê gớm thế!...
Hôm vừa rồi lại gặp nhau ở Bắc Giang, đám cưới con một người Đồi Cốc. Cánh phụ nữ gặp nhau là cười như nắc nẻ. Toàn chuyện cũ. Năm nào gặp nhau cũng kể ngần ấy chuyện. Năm nào cũng vẫn cứ buồn cười. Có ông anh uống rượu vào rồi chỉ tay vào mặt tôi sừng sộ: “Thằng này, tao đọc không bỏ sót thứ gì của mày. Thấy cái mặt mày trên ti vi, tao gọi con tao xuống mau lên mà xem chú ấy đây này. Nó chạy xuống tới nơi, thì mày đã trèo mẹ
nó xuống khỏi ti vi rồi còn đâu!”. Ôi, ông anh. Chữ nghĩa của em một dúm có gì đâu mà ông anh lại dành cho em nhiều thương quý thế. Em xấu hổ lắm. Hôm nào về, thể nào em cũng tặng anh quyển sách em vừa mới in xong”…Anh ấy đề nghị: Có lẽ sắp tới đây anh ấy sẽ đứng ra tổ chức một đêm gặp gỡ tại Phủ Lạng Thương mang tên: MỘT THỜI ĐỒI CỐC. Nghe thấy thế, tất cả giơ cao cốc rượu đồng lòng, tôn vinh anh ấy làm “đầu lĩnh”. Vâng, một thời Đồi Cốc. Giờ thì thầy hiệu trưởng thi sĩ ấy cũng đã về tiên tổ. Mỗi người mỗi phương trời. Có người đã kịp lên ông bà. Con cái nó “mót” cưới, thành ra nó bắt lên ông bà sớm quá. Chứ còn người ấy vẫn còn… yêu tốt!
Đồi Cốc. Vẫn nghe đâu đây tiếng sáo ngang trời đêm đêm dìu dặt, đưa ta về những vui buồn nào không xác thực. Cái tiếng cười như tiếng vỡ bánh đa những khi đuổi chuột trong phòng vẫn về lại trong mơ khiến nhiều đêm ta thức giấc. Và cái bát mì nấu đêm khuya của người năm ấy…
Hà Nội, ngày 20/11/2009
XUÂN HOÀ MỘT THUỞ
N
gày mình học ở Xuân Hoà, suốt 4 năm, cả một thời trai trẻ chứ có ít đâu.
Mình thuộc diện ít tuổi nhất lớp, do ngày bé đi học sớm nên phải khai tăng một tuổi. Lớp học có đến hơn một nửa là các anh/chị bộ đội vừa bước ra khỏi chiến tranh rồi về học, hoặc thêm một vài anh/chị giáo viên dạy cấp hai cũng theo lên.
Ngày ấy lớp mình được cô Hoà chủ nhiệm. Cô dạy ngôn ngữ học. Khổ, khu ký túc xá thường xuyên mất điện. Đã mất điện ai lại ngồi học bao giờ. Thế mà có hôm buổi tối cô lên ký túc xá kiểm tra. Hôm sau cô cho gọi lên bảo đề nghị anh phải sắm cái đèn dầu, phòng khi mất điện còn có cái để học nhé. Cô lại còn bảo cậu lên tôi cho cái đèn về mà dùng, chứ không chịu học rồi thi cử thế nào. Mình cung cúc mua cái đèn dầu về. Những hôm mất điện, ngồi trong giường, buông màn xuống tránh muỗi, thắp đèn lên đọc. Sáng hôm sau rửa mặt, ôi chao, cái khăn mặt đen kịt. Thì ra muội đèn bám vào hai lỗ mũi, hai mắt, cả áo cả quần khét lẹt. Đứa nào cũng vậy.
Ở Xuân Hoà chả có gì đáng kể, chỉ có tình người và... sắn thôi.
Ra chợ cơ man là sắn. Có cả mía nữa. Ai ít tiền thì mua sắn. Ai khá khá hơn thì mua mía. Mình thuộc loại con nhà nghèo, ít khi ra chợ, nếu có đi chợ chỉ dám mua chút sắn về luộc. Đối với cái bụng kinh niên lép kẹp của sinh viên thì sắn luôn luôn được coi là một món sơn hào hải vị. Trong ký ức của nhiều người, bây giờ
nhớ về Xuân Hoà, có khi chỉ còn là... sắn. Sắn như một ám ảnh thân thương và buồn tủi.
Ngày ấy, những năm 76, ngoài các thầy cô rất trẻ mới tốt nghiệp Sư phạm Hà Nội (SPHN) lên cắm chốt, còn hàng loạt các thầy cô từ khoa Văn SPHN lên thỉnh giảng. Cái sự dạy này hình như là nhiệm vụ phân công thì phải. Hà Nội1 phải dìu dắt Hà Nội 2 đàn em non trẻ mới có một tuổi mà. Bọn mình được học thầy “Hoàng Dung vừa dạy vừa quát”. Khiếp, trông thầy cứ như vị tướng Kutudov trong Chiến tranh và Hoà bình. Việc đầu tiên vào lớp, cụ lấy ra cái phích nước nhỏ, rót một cốc, nhấp một ngụm, rồi bắt đầu “chửi”. Hết chửi cái chủ trương đưa ngôi trường này lên nơi đèo heo hút gió này, rồi chửi sang điện, nước, phòng ở, nơi tắm giặt... Chửi chán, chưa đủ, cụ lại chửi văn chương thời nay nó bạc, nó nghèo, nó khổ... Cả đám ngồi nghe vừa hãi vừa thích thú. Ghê thế, phải là cụ mới dám chửi, chứ cánh giáo viên trẻ trên này đố dám. Cụ cứ ca đi ca lại mấy câu phỏng thơ Tố Hữu: “Đời dạy học Xuân Hoà từ khi tôi mới hiểu/Dấn thân vô là phải chịu tù đầy/Dù gươm không kề cổ súng chẳng kề tai/Nhưng thân sống chỉ coi còn một nửa”...
Lúc bấy giờ các thầy dưới SPHN lên dạy gồm những thầy Trần Đức Ngôn môn Văn học dân gian; thầy Đinh Trọng Lạc môn Ngôn ngữ; thầy Nguyễn Văn Hậu, thầy Thành Thế Thái Bình môn Lý luận văn học; thầy Nguyễn Văn Long, thầy Nguyễn Đăng Mạnh môn Văn học Việt Nam hiện đại, thầy Phùng Văn Tửu môn Văn học phương Tây; thầy Lương Duy Thứ, thầy Nguyễn Khắc Phi môn Văn học Trung Quốc, cô Diệu môn Ngôn ngữ... Trên Xuân Hoà tác chiến thiện nghệ có những thầy Tiến, thầy Tựu, thầy Quang, thầy Lan, thầy Duy Đức, thầy Lê Hữu Tỉnh, cô Hoà, cô Thức, thầy Thi, thầy Bùi Quang Thanh, thầy Trần Hoà Bình... (Mình là loại chúa hay quên tên, có khi gương mặt thì nhớ mà tên thì quên tiệt, thật chả ra làm sao).
Ngày ấy, Trần Hoà Bình đã nổi tiếng với Thêm một, Mùa thu ở ngoại thành, Khi mùa mưa đến, Sơn Tây một phía... Bài thơ Với
dòng sông ấy của thi sĩ họ Trần khiến dân Xuân Hoà chúng tôi thêm yêu thêm thương mảnh đất này nhiều lắm: “Cái tên âm âm một thời Việt cổ/Cà Lồ ơi sông chảy trước nhà tôi/Bờ cỏ ấy một con thuyền ngủ đỗ/Phố lên đèn, tôi hát tiễn sông trôi…”. Đi đâu Trần thi sĩ cũng cặp kè với thầy Bùi Quang Thanh. Các em sinh viên chết mê chết mệt. Những lòng yêu viết, theo đuổi nghề viết sau này của mình có một phần lớn được gợi hứng, tiếp sức từ ông thầy/ông anh Trần Hoà Bình này đấy.
Bây giờ Xuân Hoà thật sầm uất. Cách đó vài cây số là Đại Lải sinh thái Đảo Ngọc, Flamingo, bơi thuyền, bãi tắm, và cả nhà nghỉ miên man. Sầm uất thì vui, nhưng kèm theo nó cũng nhiều phiền toái. Xuân Hoà cũng góp phần biến con sông Cà Lồ “chảy trước nhà tôi” xanh trong là thế, thơm tho là thế thành một con sông chết. Một cái thị trấn chưa phải đã to mà có lúc cũng tắc đường…
Nhưng bất chấp tất cả, ngôi trường của tôi, khoa Ngữ văn của tôi vẫn ngày càng đông lên, mạnh lên và giỏi lên trông thấy.
Bây giờ, các thầy cô độ ấy tuổi đã cao cao, nhưng chưa hẳn đã già. Trên “phây”, vẫn thấy các thầy cô gặp gỡ nhau, rủ nhau đi vui chơi đây đó, có bức ảnh toàn đội còn đồng phục vàng tươi, trông vẫn còn xoan lắm. Cũng có một vài thầy đã thành người thiên cổ. Đời người như nước mây trôi...
Nhà văn Phạm Duy Nghĩa cũng học từ đây ra. Gã học sau mình đến chừng dăm bảy khoá, có thể còn hơn. Thấy bảo ngày ấy gã học thì ít chơi thì nhiều, anh hùng hảo hớn. Đã từng vướng vào chuyện oánh nhau chí tử cũng chỉ vì “Giữa đường thấy chuyện bất bằng mà tha”, rồi lĩnh án kỷ luật lưu ban. Thấy bảo gã tình tang cũng lắm (chả bù cho bây giờ!). Thỉnh thoảng cái chất liệu Xuân Hoà, cái sinh thái Xuân Hoà một thuở vẫn nghèn nghẹn trong những trang văn họ Phạm.
Hôm nọ đã hẹn dời non lấp biển với “hào kiệt Xuân Hoà” Phùng Gia Thế rằng sẽ hội quân bên rìa nước cùng nâng chén rượu đoàn viên. Hôm nay Phạm Duy Nghĩa nhắn tin mai có lên Xuân Hoà kỷ niệm 50 năm khoa không? Bạn mình cùng lớp gọi điện bảo mày có đi thì tao mới đi..
Giời ạ, hội ngày nào chẳng hội, lại hội đúng vào cái ngày mình phải đi công tác miền Nam, tiếc ơi là tiếc...
Hà Nội một ngày rét mướt, 15/12/2017
PHẬT ĐỘ
Đ
ời sống của mình tạp nham, bụi bặm, chả được ngăn nắp như ai. Thế mà trong những lúc hiểm nghèo, Phật thường hiện lên che chở.
Lần thứ nhất, trong cơn mơ, mình thấy Phật Bà, rõ ràng là Phật Bà ngồi trên toà sen bay bay trước mặt. Một vầng hào quang toả sáng. Phật Bà giơ tay ra vẫy vẫy, không rõ gọi mình đi theo hay như một ban phước. Mình liền giơ tay chới với, muốn tiến lại gần mà không được. Lát sau, Phật Bà mỉm cười bay vút vào cõi thinh không, để lại một vầng sáng nhân từ. Tỉnh dậy, mình cứ tiếc ngẩn ngơ.
Lần thứ hai, khi u mình nằm ốm đã ngót chục ngày không tỉnh. Trong đêm, nằm ở giường bên cạnh, thấy rõ mồn một Phật về bảo rằng ta về đón u con đi. Mình muốn hỏi xem đón đi là thế nào mà không sao hỏi được. Phật báo thế rồi đi luôn. Sáng sau, chả biết hỏi ai, bèn hỏi bác PLV, kể lại xem bác ấy có giải đoán được gì không. Bác ấy bảo tốt tốt, rằng chắc cụ sắp đi rồi đây, rằng quý lắm, không dễ gì được Phật về đón đâu, phải là người thế nào mới được Phật về đón đấy. Nghe thế, lòng mình yên tĩnh lại. Đúng ba hôm sau, u mình đã nhẹ nhàng về cõi Phật.
Lần mới cách đây mấy hôm thôi. Mình đi công tác. Ngủ mình một phòng. Đêm thấy có hai người hùa nhau đè mình xuống, kẻ đè bụng, kẻ xiết chân. Mình cố sức giãy đạp, gào lên kêu cứu. Nhưng không thể nào vùng thoát được những bàn tay sắt đen đúa đó. Mình đã khóc. Tự nhiên, mình nhớ câu niệm. Thế là trong đầu vang lên: “Nam mô A Di Dà Phật/Nam mô A Di Đà Phật...”. Thoắt cái, mình tung người vùng thoát được. Giữa đêm ngơ ngác. Định thần lại, hoá ra một giấc mơ.
Vậy là trong những chiêm bao, đã ba lần Phật về cứu độ. Chả biết thế nào, nhưng từ bấy, mình cứ hằng tin đã có Đức Phật vô lượng chở che, nhất là trong những lúc buồn khổ, hay chẳng may cùng đường tuyệt lộ.
Lòng tự nhủ phải biết tu nhân tích đức trên cõi sống này, mới có thể được Phật thương.
Ngày Vu Lan, 2018
CÂU CHUYỆN NGÔN TỪ
N
gôn từ nói riêng và ngôn ngữ nói chung bao giờ cũng mang tính lịch sử. Nghĩa là mỗi thời đều có những dấu chỉ ngôn ngữ riêng ở tất cả các cấp độ như ngữ âm, từ
vựng, cú pháp, phong cách... Và qua đó, phần nào thấy được nội dung lịch sử, xã hội, văn hoá phản chiếu, kết tinh trong đó.
Quan sát mấy năm vừa qua, trong các diễn ngôn thấy xuất hiện những từ rất đáng chú ý và hàm chứa nhiều ý nghĩa.
Thí dụ, có lẽ trong báo chí truyền thông cách đây một vài năm, từ “nhạy cảm” được dùng với một mật độ khá dày. Ta vẫn thường nghe nói: “Đó là chỗ/vấn đề nhạy cảm”,“Những chuyện nhạy cảm như thế tốt nhất là nên tránh, chớ có đụng vào”,“Hãy hiểu và thông cảm cho tôi, đấy là khu vực nhạy cảm, tôi không thể can thiệp”. Như vậy, từ “nhạy cảm” được sử dụng trong các trường hợp này đều chứa đựng một thông điệp: nhằm để chỉ những vụ việc/vấn đề/con người/trường hợp có tính phức tạp, dễ đụng chạm (quyền lợi, chức vị, danh tiếng), khó giải quyết, nếu cố giải quyết sẽ dễ bị đối đầu, dễ thất bại; thôi đành kệ nó, tránh xa nó ra cho lành, rồi sau hãy hay. Không chỉ trong đời sống dân sự hằng ngày, mà ngay cả trong những diễn đàn chính thống, cao cấp, vẫn nghe một số cách nói như vậy. Hiện nay, trên một tinh thần đấu tranh chống tiêu cực quyết liệt,“không có vùng cấm”, từ “nhạy cảm” đang dần dần bị yếu thế, bớt tác oai tác quái phần nào.
Như vậy, bản thân từ “nhạy cảm” với nghĩa gốc của nó chỉ là “Có khả năng nhận biết nhanh và tinh bằng các giác quan, bằng cảm tính” (Từ điển Tiếng Việt), khi đi qua thực tiễn đời sống đã bị biến nghĩa. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, về cơ bản, nó đã mang nét nghĩa tiêu cực, đặc biệt khi dùng để chỉ những sự nể nang, né tránh, trốn tránh trách nhiệm.
Gần đây, công chúng truyền thông lại chứng kiến một cụm từ được dùng khá phổ biến nữa: “đúng quy trình”. Nào là “bổ nhiệm đúng quy trình”,“xử phạt đúng quy trình”,“xét duyệt đúng quy trình, vận hành đúng quy trình”... Có những chuyện quy hoạch cán bộ, bổ nhiệm theo lối cánh hẩu, mua quan bán chức, đốt cháy giai đoạn theo kiểu “thần tốc”, khi bị vỡ lở lại được giải thích “đúng quy trình”. Thì ra, cái gọi là “đúng quy trình” chỉ là một cách giải thích quanh co, thiếu minh bạch, dối trá, che đậy những việc làm bất minh, bất chính. Trong giao tiếp hằng ngày, cụm từ “đúng quy trình” đang mang một sắc thái nghĩa giễu cợt, trào tiếu.
Bản thân những từ/ngữ như vậy vốn không có tội gì cả, mà do chính người sử dụng đã cấp cho chúng những nét nghĩa mới, mang tính tiêu cực, gây phản cảm đối với công chúng tiếp nhận.
Trên kia là hai ví dụ có tính tiêu cực. Dưới đây là một ví dụ khác, có sắc thái sáng sủa hơn, lạc quan hơn. Cách đây ít năm, nền bóng đá nước nhà nhiều phen rơi vào tình cảnh khốn đốn. Mỗi lần trực tiếp xem trên sân cỏ, hoặc theo dõi trên ti vi, dân mình thấy các cầu thủ, mặc dù cố gắng hết mức, nhưng kết quả vẫn chả đâu vào đâu. Nhìn các cầu thủ trên sân, nhiều lúc phát thương. Thế là chả biết từ khi nào, dân mình đều hô vang những câu, đại loại như: “Cố lên! Cố lên!”,“Việt Nam cố lên!”, “Hoàng ơi cố lên!”… Cách hô như thế chứa đựng rất nhiều cảm xúc, tình cảm của người hô. Tuy nhiên, nó mang một nét nghĩa: bộc lộ tiếng hô của kẻ yếu, do yếu mới phải “cố lên”!
Kể từ khoảng một năm trở lại đây, nền bóng đá nước ta đã khởi sắc. Nhất là đội tuyển vừa qua đã đạt chiếc Cup vô địch AFF. Hàng triệu người yêu bóng đá Việt Nam đều hân hoan vui mừng chiến thắng. Chúng ta đã có một đội ngũ các cầu thủ giỏi về chuyên môn, khoẻ về thể lực, có kỷ luật, có khát vọng, lại được dẫn dắt bởi một HLV tài năng Park Hang Seo. Tôi còn nhớ, trên một trang mạng xã hội, ai đó đã có một đề nghị thật dễ thương: Thay vì hô “Cố lên!” hãy hô “Tiến lên!”, tiến lên là tư thế của kẻ mạnh, tự tin vào sức mạnh của mình. Thế là từ bấy trở đi, mỗi lần đội tuyển ra sân, trên khán đài, trước màn hình, đã thấy đồng loạt phát động hô vang: “Việt Nam tiến lên! Việt Nam chiến thắng” một cách dõng dạc, dũng mãnh, tự hào. Một sự thay đổi ngôn từ, hoá ra không chỉ là câu chuyện ngôn từ, mà chứa trong đó một nhận thức mới, một tâm thế mới, một tư thế mới của mỗi người dân nước Việt. Từ chuyện “cố lên” đến chuyện “tiến lên” là cả một khoảng cách lớn!
Câu chuyện nhỏ về ngôn từ này chẳng phải là câu chuyện của báo chí - truyền thông hiện đại đó sao!
Ngày áp Tết Kỷ Hợi
CHỜ TIN
L
úc này đã xế trưa. Y đang trên đường trở về nhà, thấy điện thoại giãy đành đạch trong túi vội dừng xe lại ven đường. Đúng là giọng cô ấy.
Thế nào em?
Dạ, anh à, em bảo này, em vừa nhờ được. Nhưng chưa chính xác đâu. Em cứ báo nhé. Có thể nhầm. Rồi chiều em sẽ chếc (check) lại.
Thế nào?
Dạ, chiều em sẽ chếc lại. Hừm, môn 1: 3,5; môn 2: 3,25; còn môn 3: 6. Hơi thấp. Nhưng mà để em nhờ người chếc lại nhé. Chốc nữa thôi.
Ừ…
Anh nghe rõ không?
Ừ…
Đầu giờ chiều em chếc lại. Thế cháu nó tự chấm nó bảo thế nào?
Nó bảo khá hơn kia. Toán nó phải 7,5. Văn 6. Còn tiếng Anh phải 9, hơn 9.
Vâng, chiều em chếc lại rồi em sẽ báo ngay.
Chếc chếc gì nữa. Chết bỏ mẹ rồi. Sao lại thế được nhỉ. Thằng cu thi về nó bảo riêng môn Văn không khá lắm. Toán tàm tạm, 7,5 , nếu trừ hao đi còn 7. Còn Tiếng Anh chắc chắn là 9 trở lên.
Y bảo: “Con cứ phải trừ hao. 9 chắc còn 8 là vừa”.
Cu cậu gắt lên: “9 là 9 chứ sao lại 8. Máy nó chấm chứ có phải người chấm mà muốn cho thế nào thì cho đâu”. “Vâng, anh tự tin thế thì tốt”.
Thế mà hôm nay… Có thể nhầm thật. Có thể biết đâu ông con lại có câu gì đại ngớ ngẩn, hoặc…phản động, thế là điểm kém. Chả biết thế nào cái tuổi dở ngô dở ngọng này. Nếu điểm này mà đúng thì đẹp mặt. Cả bố cả mẹ cả con cả ông cả bà cả họ hàng hang hốc lâu nay kỳ vọng vào nó, động viên nó, cưng nựng nó tất tần tật chui xuống đất. Thì nhục.
Buổi trưa mẹ đi vắng, hai bố con ngồi ăn cơm. Y tức lắm, mà đã tức thì phải nói câu gì cho bõ tức. Thi cử thế này thì toi cơm. Tinh tướng cho lắm vào. Lỗi này chỉ tại mẹ, cái gì cũng chiều. Bố nói thì lại cho là bố nghiệt…Đại loại vậy. Nhưng y không dám nói. Tại sao từ 9 điểm nó tự chấm mà bây giờ chỉ có 6. Chắc là nhầm rồi. Mà nhầm gì nhầm kinh thế. Nhưng có thể thật thì sao. Phải bình tĩnh. Nếu mà nói ra, mắng mỏ ra, chửi bới ra… nghĩ dại, nó làm sao thì khốn. Chả khối đứa bố mẹ sỉ vả mà sinh dại đấy thôi.
Thôi tìm nguyện vọng 2. Mà nguyện vọng 2 cũng chả ai nó rước cái điểm lùn tịt như thế. Thôi thì cho đi học nghề rồi sang năm thi tiếp. Tự nhiên y thấy bải hoải cả người.
Y buột miệng hỏi thằng con: “Thế có đứa nào bạn con thi cùng không? Nó biết điểm chưa?”. Thằng bé xị mặt buông thõng một câu: “Không”.
Y nốc chén rượu vào rồi lấy điện thoại ra nhắn: “Em ơi, liệu có đúng điểm của cháu như vậy không? Thằng cu nhà anh cũng
cẩu thả, tinh tướng lắm”. Tin nhắn lại: “Anh bình tĩnh, em đã nói ngay từ đầu là có thể bị nhầm mà, để đầu giờ chiều em chếc lại”. Y đã nóng tiết định nhắn lại: “Thế biết có thể nhầm thì nhắn cho tôi làm gì!”. Nhưng y lại thôi. Y bảo thằng con: “Chấm chiếc bây giờ sợ lắm. Đôi khi nó cẩu thả một cái, trượt oan con người ta như bỡn”. Thằng bé thủng thẳng như trêu ngươi: “Trượt thì phúc tra”. Thế là y vằn mắt: “Chờ đấy mà phúc tra. Con tưởng phúc tra mà được à. Bố đã hàng trăm lần đi chấm phúc tra. Giữ nguyên hết. Người ta còn giữ thể diện cho giáo viên chứ. Phúc tra mà được thì chẳng hoá ra thừa nhận giáo viên trước chấm sai chấm dốt à”. Từ bấy, hai bố con y ngồi ăn cơm, không ai nói với ai. Y nuốt ực nốt ngụm rượu rồi xới miếng cơm, chan miếng canh, húp soạt cái xong đứng dậy. Y tặc lưỡi, rồi ra sao thì ra. Mà có lần vợ y đi xem bói ở đâu đấy bảo là năm nay nhà có đại hỉ đăng khoa. Hỉ gì mà hỉ…
Trưa ấy, y không chợp mắt. Mà đã không chợp mắt thì lại hay nghĩ quẩn. Mệt quá. Thôi thì y đi ra phố cho nó đỡ ngạt. Y tạt vào quán café. Vào café nhưng y lại gọi chai bia. Y ngồi uống bia suông. Một giai điệu gì không rõ dìu dịu từ một góc nào vẳng lại. Bàn bên, đôi trai gái mắt xanh mỏ đỏ ngồi ríu vào nhau ngả ngớn. Xung quanh tường toàn những bức tranh ký cùng một kiểu chữ, nghĩa là cùng tác giả. Toàn tranh phong cảnh làng quê loè loẹt rẻ tiền. Bia bọt đắng ngăn ngắt. Ngồi chưa hết chai bia, y trả tiền ra về.
Tới nhà, y lại ngồi thừ trước ti vi. Chả có gì đáng xem. Y chuyển hết kênh này sang kênh khác. Trong mấy bà vợ các nguyên thủ hiện giờ, vợ của tay thủ tướng Tàu thuộc diện xinh hơn cả. Vợ Obama da màu, không thể gọi là xinh theo cái gu của người Việt mình, nhưng có lẽ được xem là thông minh hơn cả. Không thông minh mà lại có những bài phát biểu xuất sắc đến như vậy để tranh cử cho chồng. Chợt nhạc hiệu điện thoại vang lên. Y vồ lấy. “Chào em. Thế nào?”. “Hí hí?”. “Thế nào?”. “Điểm cao lắm anh ơi? Môn 1: 7,5, môn 2: 6,5, môn 3: 9,25”. “Em đọc lại. Đọc từ từ để anh ghi: Ừ… ừ… ừ… Vị chi là bao nhiêu nhỉ: 23,5. Hai
Ố
mươi ba rưỡi. Ha ha ha… Ối giời ơi, từ trưa tới giờ anh choáng, lo đến bạc tóc”. “Anh phải khao em đấy nhé”. “Vâng, chào cô, tôi sẽ khao to”. “Thôi, bây giờ tạm biệt em đã nhé”.
Y gọi vóng lên tầng. Vừa gọi đã thấy thằng cu ở bên cạnh rồi. Hoá ra nó cũng đang nghe hóng. Rồi. Thắng rồi con. Hút chết. Nó cười cười: “Có thế chứ!”.
Y gọi điện báo tin vui cho họ hàng một lượt. Sau rồi y ngồi thừ ra. Y bâng khuâng. Y lại gọi lại. “Em ơi, em so hết các thông số: tên, ngày tháng năm sinh, SBD, ngành thi rồi chứ. Hí hí”… Em đảm bảo. Em nhờ người ta so hết rồi. Khao được rồi. Vâng, em nói thế thì anh yên tâm. Vậy bai bai em đã nhé. Hẹn gặp lại!
Khuya. Vui quá cũng không ngủ được. Tự nhiên trong đầu y một câu hỏi cứ vẩn lên: “Giả dụ là mình, khi biết tin con bạn thi điểm kém như vậy, mà lại mới biết tào phào như vậy thì có nên báo tin cho bạn mình không nhỉ?”.
Ngày chờ điểm thi đại học của con, 26/7/2013
CHUYỆN BÚT DANH
B
út danh là tên tác giả ghi kèm vào tác phẩm nhằm xác định tác quyền của người sáng tạo ra nó. Những tưởng lấy bút danh thế nào là thuộc quyền tối cao của mỗi người cầm bút. Nhưng hoá ra không hẳn như vậy.
Gần đây, thấy xuất hiện trên báo chí một số bài viết ký bút danh Lê Quý Đôn, Hoài Thanh, Đào Duy Anh, Trần Dần liền khấp khởi đọc, bụng bảo dạ lâu nay sợ chưa đọc hết của các cụ, bây giờ có người sưu tầm, giới thiệu ra thì không thể không đọc. Đọc được mươi dòng thấy hơi ngờ ngợ. Bèn nhìn xuống cuối bài thấy lù lù dòng chữ ghi ngày tháng năm, thậm chí cả địa danh nữa. Hoá ra suýt bé cái nhầm.
Hôm vừa rồi mở trang website vannghesongcuulong.org ra xem thấy bài thơ của tác giả Hoàng Lộc, bèn đọc. Lại bé cái nhầm lần nữa. Không phải Hoàng Lộc nổi tiếng với bài Viếng bạn, mà là Hoàng Lộc của thời @.
Liệu có phải người ta quan niệm theo cách Tây phương, nghĩa là kính trọng ai, mang ơn ai thì lấy tên người ấy đặt cho con, hay cho chính bản thân mình?
Người Việt mình không quen như thế, không có tục như thế. Trong họ nội ngoại hai ba đời, thậm chí bốn đời, các bậc cao niên trong họ cấm chỉ con cháu đặt tên đứa trẻ trùng với tên cô bác, ông bà, cụ kỵ đã khuất. Làm như thế là phạm huý, là bất hiếu với tổ tiên.
Còn đối với những người cầm bút hôm nay, nếu chẳng may cha mẹ không biết trong chốn chữ nghĩa tiền nhân đã có những cái tên lừng danh như thế mà đặt tên trùng thì cũng còn có thể thể
tất được, nhưng đến lượt mình khi cầm bút thì cũng nên tự nguyện mà đổi đi. Như thế mới là cách ứng xử đẹp, vừa tỏ ra kính trọng các bậc hiền tài đất nước, vừa chứng tỏ mình đọc rộng biết nhiều.
Ngày nhà văn Bão Vũ bây giờ ở Hải Phòng có tên thật là Vũ Bão, khi mới xuất hiện cũng lấy bút danh là tên thật luôn, sau đó đọc rộng ra mới giật mình trong làng văn đang lù lù một ông nhà văn Vũ Bão nổi tiếng với tiểu thuyết Sắp cưới và nhiều tác phẩm khác. Thế là anh liền mau chóng đổi thành Bão Vũ. Nghe nói ông Vũ Bão thấy thế lấy làm cảm kích lắm, rồi tìm đến kết thân, thành ra đôi bạn văn vong niên tri kỷ.
Thế mới là cách ứng xử của các bậc văn nhân chứ!
Tôi đem chuyện này than phiền với một ông bạn nhà văn. Ông cười cười mà bảo rằng: “Những cái thằng ấy thậm chí nó cũng không thèm biết các ông Hoài Thanh, Đào Duy Anh, Trần Dần, Hoàng Lộc…là ai ấy chứ”.
Liệu có thật thế không? Thế thì đi vào văn chương làm sao đây?
ĐÂU PHẢI HỄ MUỐN LÀ ĐƯỢC
Ô
ng bạn ạ, xin kể ông bạn nghe chuyện thằng cu nhà mình hôm nay, ngày khai giảng. Lẽ ra giờ này cháu đang tung tăng ở sân trường, hoặc đang đắm chìm vào những
cảm xúc thiêng liêng trong bài Quốc ca, trong niềm vui đón chào năm học mới. Nhưng ông bạn có biết không, cháu đang nằm khoèo trên giường đánh giấc tì tì.
Số là mấy hôm trước cháu ở trường về, vứt cặp đánh uỵch cái, cháu bảo: “Đi khai giảng cũng phải gắp thăm. Không đi càng khoái. Đỡ nắng. Đỡ phải đi tập!”. “Ơ, ý con là con bỏ không đi khai giảng à?” - Mình hỏi. “Đâu có, trường con đi khai giảng là phải gắp thăm. Mỗi lớp chỉ được 10 bạn thôi”. À ra thế. Mình hỏi tiếp: “Bố cứ tưởng các con là lớp đầu cấp thì phải được đi cả chứ”. “Ôi giời, con cũng chả hiểu thế nào…”.
Thế đấy ông bạn ạ. Bảo lớp 11, 12 đi khai giảng đại diện cũng được, vì chúng nó cũng đã dự các khai giảng những năm trước rồi. Nhưng đằng này các con đầu cấp mới vào, lòng đang tự hào được vào trường, với chúng nó tất cả đều mới mẻ, đều bỡ ngỡ. Nó háo hức được dịp kiêu hãnh với bạn bè của nó. Thế mà niềm vui thơ trẻ và chính đáng ấy cũng bị tước đoạt.
Mà bảo trường nghèo nàn, chật chội gì cho cam. Một ngôi trường lớn, rộng mênh mông; phòng ốc, hội trường khang trang vào loại khá của Hà Nội chứ đâu phải trường thường.
Nói đến đây thì ông bạn biết ngay cái trường nào. Nó là một trường chuyên cũng có tiếng của Hà Nội đóng tại cửa ngõ phía Tây thành phố.
Sáng nay, mình gọi điện cho một anh bạn, đang là thầy giáo của ngôi trường này, định trách một câu cho bõ tức. Nhưng khi a lô câu hỏi câu chào, thấy giọng của anh bạn đang vui quá; lại thấy tiếng loa, tiếng trẻ đang ồn ào nô đùa vọng vào trong máy, thế là mình lại thôi không dám trách nữa. Mình chỉ thông báo rằng thằng giai bé nhà anh cũng mới vào trường chú đấy và chúc mừng khai giảng, rồi hẹn gặp lại.
Thế đấy ông bạn ạ.
Hiện giờ thằng cu vẫn ngủ khì khì. Có thể nó chẳng nghĩ sâu xa gì đâu. Chuyện không được đi khai giảng chắc nó cũng quên rồi. Nhưng mình thấy có điều gì không ổn ở đây ông bạn ạ…
Sáng mùng 5/9/2015
ĐẦU GỐI VÀNG
T
hói xu nịnh lấy lòng cấp trên là một căn bệnh thâm căn cố đế của người Việt ta tuy thời nào cũng bị lên án nhưng vẫn không ít người mắc phải. Mục đích của việc này chủ
yếu nhằm để tiến thân trên con đường công danh hoạn lộ, hoặc để thu lợi lộc về mình; hoặc cả hai cùng lúc. Bất chấp liêm sỉ, bất chấp lời đồn đại, bất chấp quyền lợi của người khác, những kẻ xu nịnh này tìm mọi cách lân la đến đối tượng miễn là đạt được mục đích. Thay vì họ đầu tư vào chuyên môn, chăm lo chuyên môn, chăm lo học vấn, họ đi bằng đầu gối. Đó là những chiếc… đầu gối vàng chân chính!!!.
Căn nguyên sâu xa của những hiện tượng này bắt nguồn từ một nền văn hoá quá coi trọng đẳng cấp. Người ta quan tâm đến chức tước hơn là học vấn. Cái giá trị để đánh giá một con người thường chú mục đến việc anh ta làm chức tước gì chứ không xem anh ta học vấn như thế nào. Bạn bè xa nhau lâu ngày gặp lại thường hỏi là làm đến chức tước gì rồi, chứ không hỏi xem đã đỗ cao học, nghiên cứu sinh chưa, đã phát minh sáng chế ra các công trình như thế nào, đã viết ra được mấy đầu sách, đã sáng tạo bao nhiêu tác phẩm… Một anh cán bộ ăn cơm nhà nước lâu lâu về thăm quê, cả họ hàng, cả dân làng nhìn anh, và ngay lập tức đặt ra câu hỏi: Anh đã làm đến chức gì rồi? Nếu anh ta rời làng ra đi, mà sau bao nhiêu năm vẫn chân trắng, nghĩa là không chức tước gì, không đại úy, thiếu tá, không trưởng phòng,
phó giám đốc, không chủ nhiệm khoa, phó hiệu trưởng gì ư? Xoàng quá. Tưởng mày ra ngoài đời, mày chả được ông quan bà lớn thì mày cũng phải có chức quan nhỏ, để cả nhà cả họ mát mặt, thơm lây một tí chứ. Nghe đâu mày lại làm cái anh tiến sĩ tiến seo gì đấy. Tiến sĩ mà về làng phải đi cái xe máy cọc cạch thì cũng vứt. Tiến sĩ mà vẫn làm cái anh nhân viên phọt phẹt càng vứt!
Điều thật buồn là không hiểu tại sao cái thói nịnh bợ trục lợi lại xuất hiện ngay trong một số không ít người trẻ tuổi thuộc thế hệ 8X. Họ “khôn” sớm quá. Thậm chí họ rất nhanh vượt lớp anh chị đi trước về cái khoản này. Tại sao còn trẻ tuổi thế không chăm chút vào chuyên môn, học vấn để đi bằng cái trí tuệ của mình mà đã phải vội khom lưng uốn gối thế? Ôi những “cái đầu gối vàng” khốn khổ!
KÉM MIẾNG, TRÊN PHÂN N
gày xưa, khi đang còn “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp” việc được ăn giữa chốn đình chung khẳng định cái vị thế của mình trong làng, được chia phần đều
nhau mang về là những chuyện hệ trọng. Ngay cả đi ăn cỗ nhà ai đó, các cụ có khi chỉ dám ăn qua loa rau miến nhì nhằng, còn bao nhiêu xôi thịt chia nhau mang về nhà cho cháu. Trông thì bệ rạc, nhếch nhác đấy, nhưng cũng thấy tấm lòng thương con trẻ, chúng ở nhà chả mấy khi có miếng xôi miếng thịt mà ăn. Cho nên khi chia phần nhất thiết phải đều nhau. “Mời nhau ăn cỗ, đánh nhau chia phần” là vì vậy.
Trong những trường hợp khác, kém miếng kém phần lại được phát triển thành “Con gà tức nhau tiếng gáy”. Thấy người khác hơn, trong lòng nảy sinh ghen tị, tức tối.
Trong đời sống hiện đại, kém miếng được chuyển hoá thành muôn hình vạn trạng. Vì không chịu kém miếng nên cứ phải “trên phân” bằng mọi giá. Thấy người ta mặc áo đắt tiền, xách chiếc bóp đắt tiền, cái nhẫn cái lắc đắt tiền…trông ngứa mắt không chịu được. Đã thế bà mày cho mày biết mặt, bà đi sắm một cái trên phân. Mày khoe cả nhà mày đi du lịch Thái ư? Vớ vẩn. Tao sẽ đi du lịch châu Âu cho mà coi. Châu Âu đã là cái thá gì? Tao đi du lịch Mỹ cho mày tức… Ấy là chuyện đàn bà. Còn chuyện đàn ông cũng ham trên phân không kém. Mày mua con xe “nháp” làm gì, mua hẳn con tử tế mà đi, mèng ra cũng phải như con của tao ấy chứ. Ôi dào, xe thằng này mùi mẽ gì. Tao chơi con 4 chấm cho nó đừng tinh tướng. Mày có uống hết chai bảy nhăm này không. Chuyện nhỏ như con thỏ. Hẳn chai một trăm kia. Mày có bồ trẻ đến cỡ nào? Tưởng gì, 30 mà cũng khoe, đây 20 nhé! Thói thích trên phân là kết quả của một tình trạng
tâm lý tiểu nông của xã hội truyền thống Việt Nam, mà gọi nôm na là bệnh sĩ. Trong xã hội tiểu nông, không có tâm lý cạnh tranh lành mạnh, không muốn cho ai hơn, và dùng mọi trò láu cá, tháu cáy, đi tắt để mong trội hơn người khác; chứ không chú trọng hơn người khác bằng tài năng, trí tuệ và sự trung thực của mình.
Nhìn vào nạn tắc đường, kẹt xe hôm nay, ngoài những nguyên nhân khác như cơ sở hạ tầng, mật độ xe cộ… thì còn một nguyên nhân nữa: thói thích trên phân, không chịu kém miếng ai. Tại sao mình lại phải đứng sau họ nhỉ? Thế là bằng mọi cách lách lên trên cho hơn nửa vành xe. Tại sao thằng kia lách tài thế nhỉ? Mày đã là cái thá gì. Thế là bèn chen lấn, lách lên vượt hẳn một bánh xe. Cứ thế. Đường đã tắc lại càng tắc. Kém miếng không chịu được. Khốn thay!
KIẾP HOA
K
hu tập thể ấy liền trường, đại đa số là gia đình các thầy cô giáo. Mà nghề thầy tính ra trong năm có mấy ngày trọng đại. Đầu bảng là ngày 20 tháng 11. Sau nữa là ngày
tết, tết lại có Tết ta, Tết tây. Với các cô giáo còn có ngày mùng 8 tháng3, trước đó lại còn có ngày 20 tháng 10 nữa chứ. Liền trường là khu ký túc xá, lại cũng liền khu học xá. Xuân thu nhị kỳ, mỗi dịp lễ lạt, Tết nhất, các trò thường hay đem quà đến tặng. Rủng rỉnh thì có phong bao phong bì. Bét ra cũng là một bó hoa. Gặp nhau, thầy trò toàn nói những lời có cánh. Chia tay, ai cũng hỉ hả ra về…
Khốn nỗi, vừa hôm trước là ngày chính lễ, sáng hôm sau thấy biết bao nhiêu bó hoa còn tươi roi rói đã bị quẳng ra đường. Có khi xe rác của các cô bác lao công đã thấy chất đầy những bó hoa vẫn đang còn chưa chịu rũ cánh. Hỏi: “Sao vội bỏ hoa đi sớm thế?”. Trả lời: “Ối dào, trong nhà còn hàng mấy xô mấy chậu chất đống trong toa-lét kia kìa. Chỉ tổ rác nhà!”.
Chao ôi, nếu có quá nhiều hoa, không còn chỗ bày nữa, sao không đem chia cho hàng xóm cắm hộ cho vui? Hàng xóm cũng nhiều hoa ư? Tại sao không chịu khó đem đi phân phát, tặng lại bạn bè, tặng lại những người thân quen loanh quanh địa bàn mình đang ở?
Hôm nọ, chứng kiến cảnh một cô giáo trẻ đã có cử chỉ thật đáng trọng. Chắc cô ấy cũng được tặng nhiều hoa. Cô ấy mang một bó
hoa đẹp đem cho chị bán rau hàng ngày vẫn ngồi trong khu tập thể. “Chị ơi, chị mang bó hoa này về cắm giúp em cho vui. Học trò nó tặng em hơi nhiều. Chị nhé!”. “Quý hoá quá. Chị cảm ơn em”. Thế là cô giáo trẻ ấy đã san sẻ niềm vui cho chị hàng rau. Niềm vui ấy được nhân lên nhiều lắm.
Lại nghe có người bảo: “Hoa hoét gì chỉ tổ lãng phí. Cứ hoa “đồng tiền” là tốt nhất”. Cái thói quen phong bao phong bì nó đã ăn sâu vào trong óc người ấy mất rồi.
Xuân Diệu có một câu thơ thật hay: “Ờ nhỉ, sao hoa lại phải rơi?”. Người ta xót tiếc những cánh hoa tàn rụng, người ta thương một kiếp hoa. Hoa đẹp thế sao không chịu thắm lâu để làm đẹp cho đời?
Biết làm sao được. Ở đời vẫn cứ chung sống giữa những người văn nhân và những người phàm tục. Biết làm sao được. Đó chính là gương mặt chân thực nhất của cuộc sống.
MỘT BẦY… DÉP CỤT
Đ
ã lâu lâu không xa nhà. Nay có dịp hành phương Nam, trú tại một khách sạn loại bình dân, bỗng nhiên thấy trong phòng có hai đôi dép cụt mõm nằm chờ khách.
Không rõ loại dép cụt mõm ở các nhà hàng, khách sạn có từ bao giờ. Có lẽ đã khá lâu rồi, từ những năm cuối thế kỷ 20. Người ta sợ khách đến ở, rồi lấy dép mang đi, nên người ta đè các đôi dép mới sắm ra chặt cụt luôn mõm dép.
Cái sáng kiến kỳ dị ấy có thể lý giải được từ một thực tế các nhà hàng khách sạn đã từng mất nhiều dép, do khách sử dụng xong tiện cầm luôn làm của riêng. Đã thế, tức mình, ông chặt mõm đi cho mày khỏi ăn cắp. Nhưng mà, nhìn từ phía chủ nhà, cũng… không thương được. Bảo là mấy đôi dép sang trọng hàng hiệu gì cho cam, đằng này toàn dép tổ ong, dép tông, dép nhựa rẻ tiền. Mình cứ trang bị đàng hoàng, vui vẻ nhắc khách bằng một tấm biển con con rằng nhớ đừng quên trả dép… thì dần dà cũng chẳng ai thèm lấy.
Dẹp cụt mõm có nhiều nhất ở các khách sạn, nhà nghỉ bên bãi biển. Hầu như nhất loạt từ Bắc chí Nam, họ sợ khách mang đi tắm, rồi bỏ quên, hoặc bị người khác lấy mất.
Các khách sạn, nhà nghỉ bình dân cũng thường sợ mất dép, cũng theo thói xử trảm dép, biến dép thành cụt mõm.
Mới đây, kẻ viết bài này tham dự lớp tập bơi tại một trung tâm ở giữa thủ đô có cái tên rất mỹ miều nửa Anh nửa Việt... Vào trong phòng thay đồ, chao ôi, la liệt các đôi dép cũng đã bị chặt mõm xếp hàng ngăn nắp trên kệ. Thoạt trông như một bầy ngan trắng nhất loạt bị chém cụt đầu.
Khốn nạn, mấy chục đôi dép so với cái cơ ngơi mênh mông nào là bể bơi, nào là phòng Yoga, nào là phòng Gym…thì có nghĩa lý gì. Ấy thế mà cứ nhất thiết phải chặt dép mới thỏa cơn.
Không biết cái tay chủ là người thế nào? Liệu có phải cái đói khát lam lũ tuổi thơ ám ảnh y để đến bây giờ lúc nào cũng sợ… mất dép? Hay có phải y tìm được cái thú vui hiếu sát mỗi khi hành quyết những chiếc dép vô tội kia không?...
Đố các bạn có dịp đi du lịch các nước, kể cả Ai Lao, Cam Bốt, tìm ra được những nhà hàng khách sạn có những đôi dép cụt mõm như thế đấy. Việt Nam mình cái gì cũng chơi một kiểu riêng, từ những cái lớn lao thuộc kế quốc dân sinh đến những cái dị mọn nhất.
Tôi mong sẽ sớm đến một ngày, ở tất cả các khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng, trung tâm thể dục thể thao, những nơi công cộng (có trang bị dép cho khách) trên đất Việt… người ta không thảm sát những chiếc dép để ra nông nỗi cụt mõm thảm thương như thế nữa.
9/12/2016
NGƯỜI GIÀU… BỊ XƯNG
Đ
ang ngồi uống rượu với mấy thằng bạn lúc cuối chiều, bỗng thấy điện thoại giãy đành đạch trong túi quần. Bèn bốc máy.
- A lô… Vâng, em định như vậy. Anh nhất trí chứ để em còn đưa vào trong danh sách?
- Ừ, ừ… Chú đã tính thế thì anh cũng quyết theo chứ còn gì nữa.
- Vâng, mấy anh em mình làm quả cho hoành anh ạ. Mang danh thành đạt nhất làng…
- Thôi được rồi, cứ ý chú mà làm!
Cuộc rượu rồi cũng đến lúc tàn. Tối về chìm vào giấc ngủ sâu. Sáng mai tỉnh dậy. Hừ, bỏ mẹ, nó bảo bao nhiêu nhỉ? À, ra thế. Nếu đúng thế thì toi hai tháng lương của bố mày rồi chứ còn gì nữa. Không được. Các chú nên tính toán lại, chứ thế này thì anh móm.
Y người làng nhưng rời làng đã lâu ra làm ăn ngoài phố. Y chả biết làm gì ngoài cái nghề được đào tạo ngay ngắn dưới mái trường xã hội chủ nghĩa ngày nào. Những năm tháng bao cấp, y cũng đã theo mấy đứa bạn buôn bán nhì nhằng từ chỗ nọ sang chỗ kia bằng xe đạp. Tính y bóc ngắn cắn dài. Lãi được 5 hào y
tiêu hết 7 hào. Đã thế lại ham chơi. Thế rồi cái mộng kiếm tiền mau chóng tan tành như mây khói.
Sau này, nương theo sự đời nước chảy bèo trôi. Y dạy học. Y viết báo. Y làm sách. Dạy là chính. Sống ở cái thời trường đua nhau mọc, đại học đua nhau mở, thiếu người đứng lớp. Họ mời y đứng lớp. Công sá cũng chả ra gì, nhưng y tặc lưỡi có việc còn hơn không. Thế là y đem cái món “cháo phổi” đi giãi khắp nơi. Có một thời người ta coi nghề dạy học là nghề lao động nhẹ. Nhầm to. Cái giống bán “cháo phổi” này vừa bại não vừa bại thân. Phải đọc, phải chuẩn bị mới có chữ mà dạy người ta chứ. Có hôm đi dạy về, ngồi vào mâm cơm đã nguội, y chỉ cầm bát canh rau lên húp soạt cái cho mát ruột, ngồi thở chứ chả còn sức mà nhai cơm nữa…
Rồi qua ngày đoạn tháng, vợ chồng y cũng tích cóp, vay giật, cũng xây được cái nhà nho nhỏ, gọi là có chỗ chui ra chui vào.
Chưa hết. Y cũng phục y lắm. Bây giờ các con y đã nhớn. Mỗi khi có công có việc về quê, không thể ngồi bốn mạng trên xe máy được nữa. Mà thuê xe thì tiền nào cho xuể. Y lại bàn với vợ, thôi thì bóp mồm bóp miệng, vay giật, trả góp cố mua lấy cái ô tô nho nhỏ mà đi. Cuối cùng, việc cũng thành.
Một ngôi nhà ở phố, lại có ô tô, lại mỗi lần về làng quần là áo lượt, ăn trắng mặc trơn, ra người sung sướng. Hỏi: “Cái xe này mua hết bao nhiêu cháu?”. Trả lời: “Dạ, cháu mua cũng ngót nghét bảy trăm đấy ạ”. “Mày giỏi”. “Dạ, giỏi gì đâu chú. Chúng cháu phải mua trả góp đấy chú ạ”. Ông chú vằn mắt lên: “Mày không nói trả góp thì ông cũng không thèm vay chúng mày nhé”.
Hôm nay cái thằng gọi điện chính là thằng em họ mới về hưu. Trước khi hạ cánh an toàn, người nó nho nhỏ mà nó làm cái chức to to, cái chức to to nó lại đi cái xe nho nhỏ, trong cái xe nho nhỏ nó lại có những cái phong bì to to. Đại loại thế. Ừ thì nó
cũng có cái tính hào phóng với công việc của dân làng. Mỗi khi làng tu sửa đình chùa, hay góp công góp của làm nhà văn hoá, làm nghĩa trang này nọ, nó đều giúp giập, có khi hậu hĩ. Dân làng cứ gọi là phục nó sát đất. Mình biết thân biết phận, mỗi lần về làng, hễ nghe ai nói dự định tu bổ này công đức kia là mình lờ lớ lơ, tịnh không dám góp chuyện.
Nay nó lại bảo làng mình chỉ có ba anh em họ nhà mình: em với anh với anh ấy được coi là danh giá nhất làng, nên em đưa ra ý kiến quyết luôn ba anh em đóng góp ngần ấy, chia đều, vị chi là… Anh đưa sớm cho em nhé! Nói xong, mình chưa kịp giả nhời, nó đã ngắt máy cái rụp.
Ơ, ông em, anh đây còn “Vợ… khôn con thơ”, nợ vẫn đầm đìa, anh theo các chú thế nào được. Rõ là...
Mấy hôm sau về thăm u, gặp một ông bạn thời chăn trâu cắt cỏ, bèn đem băn khoăn ra tâm sự. Ông bạn hạ ngay một câu trắng phớ: “Ông nói bây giờ ông vẫn phải đi vay có mà… chó nó tin!”.
Ngày 9/1/2017
MẤT MỘT NGÀY VUI
Đ
ứng chờ ở cổng cơ quan định bắt taxi đi có việc, y nhìn thấy một chiếc phong bì liệng từ xe máy một người nào đó rơi xuống đất, cạnh chỗ y đứng. Y định gọi, nhưng anh ta phóng nhanh quá, đành thôi.
Y lấy chân kều. Cảm thấy phong bì cồm cộm. Y nhặt lên. Lùi vào chỗ đứng an toàn, y nhìn trên phong bì, thấy ghi tên người. Mở phong bì ra xem. Hoá ra là tiền. Cùng với một biên lai thanh toán. Người mất tiền làm nghề lái xe. Anh ta đi lĩnh lương giữa tháng…
Số tiền cũng không nhiều nhặn gì cho lắm. Trên 2 triệu VND. Chắc anh ta lĩnh nửa số lương của tháng. Đây đúng là lương của người lao động. Người nghèo.
Phen này thằng cha này về đố dám khai báo với vợ. Thế là những đứa con của cha này hôm nay cụt hứng không có món quà bố đã hứa mua trước lúc đi làm. Ấy là y nghĩ thế.
May mà trên phong bì có địa chỉ, số điện thoại doanh nghiệp của người lái xe. Y quay trở lại cơ quan gọi điện. Nhiều lần. Lần nào cũng tút tút. Chắc là sắp trưa, cánh trực văn phòng cũng đã chuồn rồi.
Khi trở về cơ quan lúc đầu chiều, y lại gọi. Cũng lại như lúc ban trưa. Hay là cái số này nó bỏ từ đời tám hoánh nào.
Y nghĩ ra cách tra trên mạng, xem doanh nghiệp này có thật không. Quả nhiên ra ngay. Quả nhiên số điện thoại đã đổi khác so với số ghi trên phong bì. Y gọi. Đầu dây bên kia giọng một người đàn ông. Y hỏi cơ quan anh có cái tên nào như thế không? Có chuyện gì không? Giọng ông ta hơi hốt hoảng. Chả có gì nghiêm trọng đâu, chuyện chỉ là như thế như thế, nhờ anh thông báo với anh ấy đến chỗ tôi nhận tiền…
Lúc sau, chuông điện thoại rung lên. Hoá ra là giọng của người mất tiền. Anh ta bảo vừa đi lĩnh lương xong, đang trên đường vào bệnh viện thăm đứa cháu bị ốm, rồi thì đánh rơi…
Lúc sau nữa, anh ta đến cơ quan gặp y. Trò chuyện, được biết anh ta đúng là lái xe, đúng là có đứa cháu đang nằm bệnh viện. Anh ta cảm ơn rồi lại giúi vào tay y hộp bánh Trung thu bảo nhất thiết phải nhận, bởi vì chả biết cảm ơn cái gì, bởi cũng sắp đến Trung thu rồi…
Khi về phòng làm việc, kể cho mấy đồng nghiệp nghe chuyện này như một niềm vui nho nhỏ. Một cô đồng nghiệp bảo: “Anh trả người ta là phải. Tháng này là tháng cô hồn. Đến bắt được vàng người ta còn trả lại nữa là”. Một cô khác lại bảo: “Giả như số tiền trong cái phong bì ấy gấp 5 gấp 10 lần số đó liệu anh có trả không?”.
Y suýt định cáu. May mà trấn tĩnh lại. Rồi y cũng lại lẩn thẩn nghĩ: “Ừ, nếu số tiền gấp năm gấp mười hoặc hơn thế nữa liệu y có hào hiệp đem trả như thế này không?”…
Ngày bão, 19/8/2016