🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trái Tim Cô Đơn
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Table of Contents
Cái thùng con
Guy de Maupassant
Đi ngựa
Guy de Maupassant
Bà Hermet
Guy de Maupassant
Con quỷ
Guy de Maupassant
Huyết thù
Guy de Maupassant
Tai nạn kinh hoàng
Graham Greene
Tội ác của Huân tước Arthur Savile Oskar Widle
Móng vuốt của những con rồng Michael Hartmann
Ở nơi đất khách
Boris Ekimov
Chim tuyết nhỏ
Kate Douglas Wiggin
Nụ cười của cáo
Anatoly Kim
Anh ra đòn và hụt
Nelson Algren
Tay đạo chích hào hiệp
Ryunosuke Akutagawa
Sau ngày tận thế
Alberto Banasco
https://thuviensach.vn
Trường hợp trùng tên
Eduar Dverkin
Vai kịch thành công
Alexander Vampilov
Đó là đêm trước Noel
Mary Maredante
Đồng bạc năm hào
Huangau Zhengshư (Nhật Bản) Đổi quà
Diane Rayner
Giấc mộng đàn bà
Khuyết danh
Hai người đàn ông và một người đàn bà Khuyết danh
Trái tim cô đơn
Rubem Fonseca
Tơ nhện
Ryunosuke Akutagawa
Tiếng nói trong đêm
William Hope Hodgson
Tiếng gọi đời thường
Knut Hamson
Thời gian chết
Daniel de Ronlet
Thịt
Pinera Virgilio
Buổi sáng chủ nhật
Yevgenia Kononenko
Tiếng gọi đời thường
Knut Hamson
https://thuviensach.vn
Thông Tin
TRÁI TIM CÔ ĐƠN
Tuyển Truyện Ngắn Nước Ngoài Đặc Sắc Tập hợp, làm Ebook: Cuibap
Cover: derby
Nguồn: vanhocxitrum.net
https://thuviensach.vn
Cái thùng con
GuydeMaupassant
Chủ quán Si-cô, bán hàng ăn ở Ê - prơ - vin, dừng xe trước trại của mụ
Magloarơ. Đó là một gã cao lớn trạc bốn mươi tuổi, đỏ đắn, bụng phệ, nghe đồn là ranh ma. Gã buộc ngựa vào cọc hàng rào, rồi vào trong sân. Gã có chút tài sản giáp với mảnh đất của bà lão, mà gã thèm muốn từ lâu. Có đến hai chục lần gã dạm mua, nhưng mụ Magloarơ khăng khăng từ chối. Mụ bảo:
- Tôi sinh ra ở đây, tôi chết ở đây.
Gã thấy mụ đang gọt khoai trước cửa nhà. Bảy mươi tuổi, mụ khô đét, răn reo, lưng còng, nhưng làm lụng dẻo dai như con gái. Si-cô thân thiện vỗ vào lưng mụ, rồi ngồi xuống chiếc ghế đẩu cạnh mụ.
- Thế nào? Bà lão, vẫn khỏe chứ?
- Không đến nỗi, còn bác, bác Prô - xpê?
- Ấy! Ấy! Đau nhì nhằng, không thì cũng khá.
- À, tốt đấy!
Rồi mụ chẳng nói gì nữa. Si-cô nhìn mụ làm. Những ngón tay khoằm khoằm, khẳng khiu, cứng tựa càng cua, nhặt như quắp lấy các củ màu xám nhờ trong giỏ, và xoay xoay rất nhanh, gọt ra từng khoanh vỏ dài bằng con dao cũ mụ cầm trong bàn tay kia. Rồi khi khoai đã vàng nõn, mụ liền ném vào xô nước. Ba con gà mái dạn người, từng con xán vào tận bên váy mụ nhặt vỏ, rồi cun cút chạy đi, mỏ ngậm mồi. Si-cô ra vẻ bứt rứt, ngần ngại, lo lắng, có cái gì ở cửa miệng mà không thốt ra được. Cuối cùng, gã quyết định:
- Này, mụ Magloarơ…
- Bác cần gì hử?
- Cái trại này ấy mà, mụ vẫn không muốn bán cho tôi hả? - Chuyện ấy thì không. Không được đâu. Dứt khoát rồi, dứt khoát, bác đừng nói lại nữa.
- Chả là tôi tìm được cách thu xếp ổn thỏa cho cả hai đằng.
https://thuviensach.vn
- Gì vậy?
- Thế này nhé. Mụ bán nó cho tôi, ấy rồi mà mụ vẫn cứ giữ lấy nó. Mụ không hiểu à? Mụ nghe tôi bảo đây.
Bà lão ngừng gọt khoai, cặp mắt tinh nhanh dưới đôi mi nhăn nheo nhìn gã chủ quán chằm chằm. Gã tiếp:
- Tôi nói rõ nhé. Tôi cho mụ, mỗi tháng trăm rưởi quan. Mụ nghe rành chứ? Mỗi tháng tôi đi xe ngựa, đem đến đây cho mụ ba chục đồng ê - quy loại năm quan. Và rồi chẳng có gì khác cả, chẳng có gì hết. Mụ vẫn ở nhà mụ, mụ không bận tâm gì về tôi, mụ chả nợ nần gì tôi sất. Mụ chỉ có việc lấy tiền của tôi thôi. Mụ thấy thế được không?
Gã nhìn mụ với bộ dạng tươi cười, với bộ dạng vui vẻ. Bà lão ngắm gã một cách nghi ngại, tìm xem cái bẫy ở chỗ nào. Mụ hỏi:
- Thế món ấy, là phần tôi; nhưng phần bác, cái trại này, món ấy không đem trại cho bác chứ?
Gã tiếp:
- Mụ đừng lo chuyện ấy. Trời cho mụ sống được chừng nào thì mụ vẫn ở đây. Đây là nhà mụ. Có điều mụ làm cho tôi cái giấy ở chỗ ông công chứng để rồi sau này tôi được hưởng. Mụ không con cái, chỉ có cháu họ mà mụ chả thiết mấy. Mụ thấy thế được không? Mụ còn sống thì mụ cứ giữ gìn lấy tài sản của mụ, còn tôi cho mụ mỗi tháng ba chục đồng năm quan. Phần mụ rất có lợi thôi.
Bà lão vẫn ngạc nhiên, lo ngại, nhưng bị hấp dẫn. Mụ đáp: - Tôi chả bảo là không. Có điều, tôi muốn ngẫm xem thế nào đã. Tuần sau bác đến bàn lại. Ý tôi muốn sao tôi sẽ bảo bác.
Thế là chủ quan Si-cô ra về, hài lòng như ông vua vừa chinh phục được một vương quốc. Mụ Magloarơ đâm nghĩ ngợi. Đêm sau mụ không ngủ. Bốn ngày trời mụ như bị sốt vì băn khoăn do dự. Mụ cảm thấy rõ trong ấy có cái gì không hay cho mình, nhưng nghĩ đến ba chục ê - quy hàng tháng, đến những đồng bạc thật cứ dốc vào tạp dề của mình, từ trên trời rơi xuống cho mình như thế, chẳng phải làm gì, mụ bồn chồn thèm muốn.
Mụ bèn đến gặp ông công chứng và kể lại câu chuyện. Ông ta khuyên mụ nhận lời Si-cô, nhưng đòi năm mươi đồng ê - quy chứ không phải ba mươi, vì trại của mụ rẻ ra cũng đáng sáu ngàn quan. Viên công chứng bảo:
https://thuviensach.vn
- Nếu bà sống mười lăm năm nữa, thì như thế gã cũng chỉ phải trả có bốn mươi lăm ngàn quan.
Bà lão run lên khi nghĩ đến năm chục đồng ê - quy hàng tháng, nhưng vẫn còn nghi ngại, sợ trăm ngàn điều bất ngờ, sợ những mưu ngầm, và mụ ngồi lại hỏi han đến tối, không dứt ra về được. Cuối cùng, mụ bảo viên công chứng thảo giấy tờ, rồi ra về bồi hồi rối loạn như thể vừa uống bốn bình rượu táo mới.
Khi Si-cô đến xem mụ trả lời ra sao, mụ để cho gã nài nỉ thật lâu, tuyên bố mình không ưng, song rất sợ gã không thuận đưa năm chục ê - quy. Cuối cùng, thấy gã nằn nì, mụ nói ra ý mụ. Gã giật nảy mình vì thất vọng và gã không chịu. Thế là, để thuyết phục gã, mụ bèn bàn luận về tuổi thọ của mình:
- Chắc là tôi chỉ dăm sáu năm nữa là cùng. Bảy mươi ba rồi, mà có khỏe khoắn gì cho cam. Tối hôm nọ, tôi đã tưởng mình đứt. Người cứ như rỗng ra, họ phải khiêng tôi vào giường đấy.
Nhưng Si-cô không mắc mưu.
- Thôi, thôi, bà lão, bà vững như gác chuông nhà thờ ấy. Xoàng ra bà cũng sống đến trăm linh mười tuổi. Bà sẽ đưa ma tôi, dám chắc như thế. Mất cả một ngày bàn cãi. Song vì bà lão không nhượng bộ, gã chủ quán, cuối cùng thuận đưa năm mươi ê - quy.
Hôm sau họ lý giấy. Và mụ Magloarơ đòi mười ê - quy lót tay. Ba năm trôi qua. Bà cụ khỏe mạnh như có bùa phép. Dường như mụ không già đi lấy một ngày, và Si-cô tuyệt vọng. Gã tưởng chừng gã đã trả món phụ cấp ấy từ nửa thế kỷ nay, gã đã bị lừa, bị bịp, bị phá sản. Thỉnh thoảng gã lại đến thăm mụ chủ trại, như người ta thăm đồng vào tháng bảy, xem lúa đã chín hay chưa cho lưỡi hái. Mụ tiếp gã với cái nhìn ranh mãnh. Cứ như thể mụ khoái chí vì đã chơi cho gã một vố, và gã leo ngay lên xe, mồm lẩm bẩm:
- Thế là mày chẳng ngoẻo đâu, của nợ!
Gã không biết làm thế nào. Nhìn mụ, gã những muốn bóp chết mụ. Gã ghét mụ với niềm căm ghét dữ tợn, nham hiểm, niềm căm ghét của anh nông dân bị mất cắp. Gã bèn tìm kế.
https://thuviensach.vn
Thế rồi, một hôm, gã đến thăm mụ, xoa xoa hai bàn tay như cái lần đầu tiên, khi gã ướm chuyện mua bán với mụ. Và sau khi gã đã trò chuyện vài phút:
- Này, bà già, sao mụ không đến nhà tôi dùng bữa, khi mụ đi qua Ê - prơ - vin? Họ bàn tán đấy, họ bảo thế là mình không bạn bè với nhau, chuyện ấy làm tôi buồn lắm. Mụ biết đấy, ở nhà tôi, mụ không phải trả tiền đâu. Tôi chẳng so sẻn gì một bữa ăn. Mụ ưng thì mụ cứ đến tự nhiên, cho tôi vui lòng.
Mụ Magloarơ chẳng để phải được mời lại, và ngày hôm sau nữa, nhân đi chợ bằng xe ngựa do anh đầy tớ Xê - lê - xtanh cầm cương, mụ không nề hà gì, cho luôn ngựa vào chuồng nhà Si-cô, và đòi bữa ăn gã hứa. Tay chủ quán tươi roi rói, tiếp đãi mụ như bà lớn, thết mụ gà giò, đùi cừu quay, thịt mỡ nấu bắp cải. Nhưng mụ hầu như chẳng ăn gì, quen thanh đạm từ thuở bé, suốt đời chỉ dùng ít súp với một mẩu bánh mì phết bơ.
Si-cô nài nỉ, thất vọng. Mụ cũng chẳng uống gì. Mụ từ chối cà phê. Gã bảo:
- Thế bà dùng tí rượu nhé!
- À! Cái ấy thì được.
Thế là gã gọi váng lên, từ đầu này đến đầu kia quán:
- Rô - da - li, đem rượu đây, loại cực ngon, thượng hảo hạng ấy. Và chị hầu gái bước ra, tay cầm cái chai thon dài có trang trí một lá nho bằng giấy. Gã rót đầy hai cốc.
- Bà lão, nếm thử này, loại trứ danh đấy.
Bà già uống từ từ, nhấm nháp, kéo dài niềm thích thú. Khi cốc đã cạn, mụ dốc cho hết rồi tuyên bố:
- Ừ phải, rượu ngon thật!
Mụ chưa nói xong, Si-cô đã rót luôn cho mụ đợt nữa. Mụ toan từ chối, nhưng không kịp, và mụ lại nếm náp rất lâu, như cốc trước. Thế là gã muốn mời cốc thứ ba, nhưng mụ không chịu. Gã nài nỉ:
- Cái này, như sữa ấy mà, mụ thấy đấy, tôi à, tôi uống mươi, mười hai cốc êm ru. Nó trôi tuột đi như đường. Bụng chả sao hết, đầu chả sao hết, như thể vào đến lưỡi là bốc hơi luôn. Lợi cho sức khỏe nhất hạng đấy!
https://thuviensach.vn
Bởi muốn uống quá nên mụ nhận lời, nhưng chỉ nửa cốc thôi. Thế là Si cô, trong cơn hào hiệp, reo lên:
- Này, vì mụ thích, tôi sẽ cho mụ một thùng con để mụ thấy rằng chúng ta bao giờ cũng là bạn bè với nhau.
Bà lão không từ chối và ra về, hơi chếnh choáng.
Hôm sau, gã chủ quán vào sân nhà mụ Magloarơ rồi lôi trong đáy xe ra một cái thùng con có đai sắt. Rồi gã muốn mụ nếm thử để chứng tỏ là đúng thứ rượu ấy, và sau khi mỗi người đã uống ba cốc, gã tuyên bố lúc ra về:
- Mụ biết đấy, khi nào không còn, thì lại có nữa. Mụ đừng ngại, tôi không so sẻn đâu. Càng hết mau tôi càng vui bụng.
Rồi gã trèo lên xe.
Bốn ngày sau gã trở lại. Bà già ngồi trước cửa đang cắt bánh để nấu súp. Gã đến gần, chào mụ, nói sát vào mặt mụ cốt để ngửi hơi thở mụ. Và gã thoảng thấy mùi rượu. Thế là mặt gã rạng lên. Gã bảo:
- Mụ mời tôi một cốc chứ?
Và họ chạm cốc hai ba lượt.
Nhưng chẳng bao lâu sau trong vùng có tiếng đồn là mụ Magloarơ nghiện ngập say sưa một mình. Người ta nhặt được mụ khi ở trong bếp, khi trong sân, khi trên những nẻo đường quanh đấy, và phải khiêng mụ về, sõng sượt như xác chết.
Si-cô không đến nhà mụ nữa, và khi người ta nói với gã về bà già, thì gã khẽ bảo với bộ mặt buồn rầu:
- Vào tuổi mụ mà mắc chứng ấy thì cũng gay đấy nhỉ? Già rồi thì vô phương cứu chữa. Rồi ra chẳng hay cho mụ đâu!
Quả là chẳng hay cho mụ thật. Mùa đông năm sau mụ chết, quãng gần lễ Nô - en, vì quá say, ngã trong tuyết
Còn Si-cô thừa hưởng trại, và bảo rằng:
- Cái nhà mụ này mà không rượu chè ấy à, còn là đậu được chục năm nữa.
Lê Hồng Sâm dịch
https://thuviensach.vn
Đi ngựa
GuydeMaupassant
Nhà nghèo sống chật vật nhờ vào đồng lương ít ỏi của người chồng.
Từ khi họ lấy nhau đến giờ, hai đứa con ra đời, và sự túng bấn ban đầu đã trở thành một nỗi nghèo hèn âm thầm, che đậy, tủi hổ, một nỗi nghèo hèn của gia đình quý phái dù sao vẫn muốn giữ địa vị của mình.
Hécto đơ Gribơlanh được nuôi dạy ở tỉnh nhỏ, tại trang viên bên nội, do một vị mục sư già làm gia sư. Nhà chàng không giàu nhưng vẫn sống lần hồi và gìn giữ mẽ ngoài. Rồi năm chàng hai mươi tuổi, gia đình tìm công ăn việc làm cho chàng, và chàng vào làm nhân viên hưởng lương một ngàn năm trăm quan ở Bộ Hàng Hải. Chàng đã dạt vào tảng đá ngầm ấy như hết thảy những kẻ không sớm được chuẩn bị cho sự chiến đấu gay go với cuộc sống, tất cả những kẻ nhìn đời qua một áng mây mờ, không biết phương sách và lực đề kháng, những kẻ không được phát triển từ nhỏ những năng khiếu đặc thù, những khả năng riêng, một nghị lực gắt gao để đấu tranh, tất cả những kẻ không được giao cho một vũ khí hay một dụng cụ trong tay.
Ba năm đầu chàng làm việc ở sở thật kinh khủng. Chàng đã gặp lại được dăm người bạn của gia đình, những người già nua lận đận và cũng không giàu có gì, họ ở những khu phố quý phái, những khu phố buồn tẻ tại ngoại ô Xanh Giecmanh, và chàng đã tạo cho mình một nhóm giao du thân cận. Xa lạ với cuộc sống tân tiến, hèn mọn và kiêu hãnh, các vị quý tộc quẫn bách này ở những tần nhà cao trong các ngôi nhà thiếp chủ. Người ở các tòa nhà đó từ trên chí dưới đều có chức tước, nhưng tiền nong dường như khan hiếm, ở tầng một cũng như ở tầng sáu. Những thành kiến cố hữu muôn đời, những băn khoăn về địa vị, mối lo toan làm sao cho khỏi lụn bại luôn ám ảnh những gia đình xưa kia hào hoa rực rỡ và sa sút đi vì sự ăn không ngồi rồi của nam giới. Hécto đơ Gribơlanh gặp gỡ trong giới này một thiếu nữ quý phái mà nghèo giống chàng, và lấy nàng làm vợ.
Trong bốn năm trời họ sinh hai đứa con. Ròng rã bốn năm sau nữa, cái gia đình luôn túng thiếu nheo nhóc này không được hưởng niềm vui giải trí
https://thuviensach.vn
nào khác ngoài buổi dạo chơi ngày chủ nhật ở Săng Êlidơ và dăm tối xem hát, mỗi mùa đông được một, hai lần, nhờ có một bạn đồng nghiệp tặng vé mời. Nhưng vào mùa xuân năm nay, anh nhân viên được ông sếp giao cho việc làm thêm và được lĩnh món tiền thưởng kỳ lạ là ba trăm quan. Đem số tiền đó về, chàng bảo vợ:
- Em Henriette thân yêu, chúng ta phải hưởng một cái gì đó, một cuộc vui cho con chẳng hạn.
Và sau khi bàn cãi rất lâu, họ quyết định sẽ về dạo chơi và ăn trưa ở vùng quê.
- Thực đấy! – Hecto kêu lên – một lần chẳng thành lệ quen được, chúng ta sẽ thuê một cỗ xe cho các con, cho em và chị vú, anh sẽ lấy một con ngựa ở nơi tập ngựa. Đi như vậy có lợi cho anh.
Và suốt tuần, họ chỉ nói về cuộc du ngoạn sắp tới. Mỗi tối, ở sở về, Hecto lại ôm lấy đứa con lớn, đặt nó cưỡi lên chân mình, vừa dùng hết sức lực nhún cho nó nhảy lên nhảy xuống, vừa bảo nó:
- Chủ nhật tới, đi dạo chơi, bố sẽ phi ngựa như thế này này. Và thằng bé, suốt ngày, cưỡi lên ghế, lôi ghế vòng quanh phòng mà kêu: “Đây là bố đi ngựa đấy! ”.
Và cả chị vú cũng nhìn ông chủ bằng cặp mắt thán phục, mà nghĩ rằng ông sẽ cưỡi ngựa đi kèm bên xe, và trong bữa ăn, chị nghe ông nói về thuật cưỡi ngựa, nghe ông kể lại các thành tích xưa kia, khi còn ở nhà bố. Ồ! Ông đã được tập luyện chu đáo, và một khi đã cưỡi lên con vật, ông chẳng sợ gì hết.
Hecto vừa xoa xoa hai bàn tay vừa lặp lại với vợ:
- Nếu họ cho anh được một con hơi khó nết thì anh sẽ thấy rất thú vị. Rồi em xem anh cưỡi như thế nào, và nếu em muốn, khi ở rừng về, ta sẽ về lối Săng Êlidơ. Vì trông chúng mình tươm tất, anh sẽ lấy làm hài lòng nếu gặp ai đó ở Bộ. Muốn cấp trên nể mình, chỉ cần có vậy thôi.
Vào ngày đã định, xe và ngựa tới trước cửa cùng một lúc. Chàng xuống nhà ngay để xem xét con vật minh cưỡi. Chàng đã cho đính những miếng đệm vào quần, và sử dụng chiếc roi ngựa vừa, mua hôm trước. Chàng nhấc lên và sờ từng chân một, đủ cả bốn cẳng chân con vật, nắn cổ, sườn, kheo, lấy tay gõ thử dưới lưng, mở mõm xem răng, công bố tuổi của con vật, rồi
https://thuviensach.vn
thấy cả nhà đã xuống, chàng diễn giải một bài lý thuyết và thực hành nho nhỏ về ngựa nói chung và đặc biệt con này mà chàng công nhận là hảo hạng. Khi hết thảy mọi người đã yên vị trong xe, chàng kiểm tra lại đai yên rồi nhún bổng một bên bàn đạp, chàng rơi xuống mình ngựa, con vật nhảy lên dưới sức nặng và suýt hất người cưỡi. Hecto xúc động, cố vỗ về nó.
- Nào, ngoan nào, anh bạn, ngoan nào.
Rồi, khi kẻ bị cưỡi đã bình tĩnh lại được, và kẻ cưỡi đã vững chãi lại được, anh này nói: “Xong cả chưa? ”. Ai nấy đều trả lời: “Rồi ạ”. Chàng bèn ra lệnh: “Lên đường! ”. Và đoàn người ngựa ra đi.
Ai nấy đều nhìn chàng chăm chú. Chàng phi nước kiệu theo kiểu Anh, cường điệu những lúc nảy lên nảy xuống. Vừa rơi mình xuống yên, chàng đã bật dậy như muốn vút lên không trung. Chốc chốc chàng lại như sắp rạp xuống mình ngựa, và chàng nhìn đăm đăm về phía trước, mặt tái đi, co rúm lại. Vợ chàng bế một đứa trẻ trên lòng, và chị vú bế đứa kia, cứ luôn mồm nhắc đi nhắc lại: “Nhìn bố kìa, nhìn bố kìa! ”.
Và hai thằng bé say sưa vì sự vận động, vì vui thích, vì khí trời tươi mát, kêu lên the thé. Con ngựa, hoảng sợ vì những tiếng hò la ấy, cuối cùng, phi nước đại và trong khi chàng kỵ mã cố kìm nó dừng lại thì cái mũ lăn xuống đất. Anh đánh xe phải nhảy xuống nhặt và khi Hecto nhận mũ anh ta đưa cho, chàng nói với lại từ xa bảo vợ:
- Đừng cho lũ trẻ kêu lên như thế, em làm anh bị cuốn đi đấy! Họ ăn bữa trưa tren bãi cỏ, trong rừng Vêxinê, dùng lương thực mang theo trong hòm. Mặc dù anh lái xe đã chăm sóc ba con ngựa, Hecto cứ chốc chốc lại đứng dậy ra xem con của mình có đầy đủ mọi thứ không, và chàng vuốt ve cổ nó, cho nó ăn bánh mì, bánh ngọt, đường. Chàng tuyên bố: - Con này phi khá lắm. Lúc đầu nó còn hơi lắc làm anh bị sóc nảy lên, nhưng em thấy anh tĩnh trí trở lại rất nhanh, nó đã nhận ra chủ nó rồi, bây giờ nó không cựa quậy nữa đâu.
Như đã quy định trước, họ trở về theo lối Săng Êlidơ. Đại lộ thênh thang nghìn nghịt những xe cộ. Và hai bên đường, người đi dạo đông đến nỗi tưởng như hai dải băng đen dài buông từ Khai Hoàn Môn đến tận quảng trường Côngcooc. Nắng dội xuống tất cả đám người đó, làm ánh ngời lên làn véc ni sơn đen, nước thép của yên cương, những quả nắm ở cửa xe. Một
https://thuviensach.vn
cơn mê cuồng vận động, một nỗi say đời dường như khuấy đảo đám đông người, vật, xe này. Và đằng kia, tháp Ôbêlixcơ vươn lên trong một áng sương vàng.
Con ngựa của Hecto, vừa vượt qua Khải Hoàn Môn, đột nhiên lại hăng lên, và nó phóng nước kiệu lớn qua các phố, về phía chuồng ngựa, mặc dù người cưỡi cố tìm cách làm nó dịu lại. Bây giờ cỗ xe đã ở xa, xa mãi đằng sau, và đến trước Nhà triển lãm công nghiệp, con vật thấy địa thế rộng, bèn rẽ sang phải và phi nước đại. Một bà già khoác tạp dề bình thản đi ngang qua đường, bà ta ở đúng vào lối Hecto đang vùn vụt tới. Bất lực không kìm nổi ngựa, chàng lấy hết hơi sức thét lên: “Này! Ấy! Này! Đằng kia này! ”.
Hình như bà lão điếc, vì bà cứ thản nhiên đi tiếp cho đến lúc va vào ngực con ngựa đang lao đi như một đầu máy xe lửa, bà ngã lăn ra cách đó mươi bước, váy tốc lên, sau khi đã lăn ba vòng lộn nhào đầu xuống đất. Có tiếng kêu: “Bắt lấy hắn! ”. Hecto, bàng hoàng hoảng hốt, bám chặt lấy bờm ngựa mà hét:
- Cứu tôi với!
Một cái sốc nảy lên kinh hoàng hất chàng bắn tung như quả bóng qua tai con tuấn mã của chàng và rơi vào tay một viên cảnh sát vừa lao đến đón đường. Chỉ trong giây phút, một đám người giận dữ, hoa chân múa tay, gào thét om sòm, đã tụ tập quanh chàng. Nhất là một vị già cả, một vị già cả mang huy chương lớn hình tròn và bộ ria lớn bạc trắng, có vẻ rất phẫn nộ. Ông ta nhắc đi nhắc lại:
- Quái quỷ, đã vụng dại như thế thì ở nhà cho xong! Không biết điều khiển một con ngựa thì đừng có ra phố mà giết người!
Nhưng bốn người đàn ông đã khiêng bà già đến. Bà ta trông như chết rồi, với bộ mặt vàng ệch và chiếc mũ trùm xộc xệch, lấm bụi bê bết. - Đem người đàn bà này đến nhà một dược sĩ – vị già cả ra lệnh – còn ta đến sở cảnh sát.
Hecto lên đường, có hai cảnh binh đi kèm. Một cảnh binh thứ ba dắt con ngựa của chàng. Một đám đông theo sau, và bỗng nhiên, cỗ xe xuất hiện. Vợ chàng lao tới, chị vú mất tinh thần, lũ trẻ rú lên. Chàng giải thích rằng chàng sẽ về ngay, rằng chàng làm ngã một người đàn bà, rằng không sao cả. Và gia đình chàng ra về, hoảng hốt. Tại sở cảnh sát, sự trình bày cũng ngắn
https://thuviensach.vn
gọn. Chàng khai tên mình, Hécto đơ Gribơlanh, nhân viên Bộ Hàng hải, và họ chờ tin tức của người bị thương. Một cảnh binh được cử đi xem tình hình quay về. Bà đã tỉnh, nhưng đau ghê gớm ở bên trong, bà bảo thế. Đó là một bà già làm công, sáu mươi nhăm tuổi, tên là Ximông.
Khi biết bà ta không chết, Hecto lại hy vọng, và hứa sẽ chịu tiền phí tổn chữa chạy. Rồi chàng chạy đến nhà ông dược sĩ. Một đám đông nhốn nháo đứng đầy trước cửa, bà lão nằm lả trong ghế bành, rền rĩ, hai tay bất đồng, mặt ngây ra. Hai thầy thuốc vẫn đang khám nghiệm. Không chân tay nào bị gãy, nhưng họ ngại có sự tổn thương bên trong. Hecto nói với bà:
- Bà có đau lắm không?
- Ôi! Có!
- Ở đâu?
- Như thể trong bụng tôi có lửa đốt.
Một thầy thuốc tiến lại gần:
- Thưa ông, ông là người gây ra tai nạn phải không?
- Thưa ông, vâng.
- Phải gửi người đàn bà này đến nhà an dưỡng, tôi biết một nơi sẽ nhận bà ta với giá sáu quan một ngày. Ông có muốn tôi thu xếp dùm không? Hecto phấn khởi cảm ơn và trở về nhà. Vợ chàng khóc lóc đợi chàng. Chàng an ủi vợ:
- Không sao cả. Cái nhà bà Ximông ấy đỡ rồi, chỉ vài ba ngày nữa là khỏi hẳn, anh đã gửi bà ta đến một nhà an dưỡng, không sao cả! Không sao cả!
Ngày hôm sau, tan sở, chàng đến hỏi thăm bà Ximông. Chàng thấy bà đang ăn món cháo thịt một cách rất thỏa mãn
- Thế nào? – chàng hỏi.
Bà ta trả lời:
- Ôi, khốn khổ thưa ông, chả khác gì hết. Tôi gần như bại hoại. Không thấy đỡ.
Thầy thuốc tuyên bố là phải chờ đợi, e có thể xảy ra biến chứng. Chàng đợi ba ngày, rồi chàng trở lại. Bà già, khí sắc sáng sủa, mắt trong leo lẻo, vừa nhìn thấy chàng là rền rĩ:
https://thuviensach.vn
- Khốn khổ thưa ông, tôi không cựa quậy được nữa. Tôi bị thế này đến hết đời thôi.
Hecto rùng mình thấu xương. Chàng hỏi thầy thuốc. Thầy thuốc giơ tay lên trời:
- Làm thế nào được, thưa ông, về phần tôi, tôi không biết. Bà ấy cứ hét lên khi người ta định nâng dậy. Ngay như xê dịch cái ghế bành bà ấy ngồi, bà ấy cũng kêu la thê thảm. Tôi đành phải tin điều bà ấy nói với tôi, thưa ông, tôi không ở bên trong. Chưa trông thấy bà ấy đi lại thì tôi không có quyền cho là bà ấy nói dối.
Bà lão im lặng nghe, mắt nhìn thâm hiểm.
Tám ngày trôi qua, rồi mười lăm ngày, rồi một tháng. Bà Ximông không rời cái ghế bành của bà. Bà ăn từ sáng đến tối, béo ra, trò chuyện vui vẻ với các bệnh nhân khác, có vẻ quen với sự im lìm bất động, dường như đó là sự nghỉ ngơi xứng đáng cho năm mươi năm trời lên thang xuống thang, lật đật, rũ đệm, vác than từ tầng gác này đến tầng gác khác, dọn dẹp quét tước.
Hecto bàng hoàng, ngày nào cũng đến, ngày nào cũng nhìn thấy bà bình tĩnh thanh thản và tuyên bố:
- Tôi không cựa quậy được, khốn khổ thưa ông, không được nữa. Tối nào bà Gribơlanh cũng hỏi, đầy lo âu khắc khoải:
- Thế bà Ximông rao sao?
Và lần nào chàng cũng trả lời với nỗi rầu rĩ tuyệt vọng:
- Chẳng có thay đổi gì, chẳng có gì hết!
Họ cho chị vú thôi việc, vì tiền công của chị nay thành gánh nặng. Họ lại tằn tiện hơn nữa, toàn bộ món tiền thưởng hết sạch vào đó. Hecto bèn mời bốn thầy thuốc lớn tập hợp xung quanh bà lão. Bà để cho họ khám xét, sờ nắn, rờ rẫm, và nhìn họ bằng con mắt láu lỉnh. Một thầy thuốc nói:
- Phải làm cho bà ta đi lại.
Bà ta kêu to:
- Tôi không đi được, các ngài ơi, không đi được!
Họ bèn tóm lấy bà, xốc bà lên, kéo bà đi vài bước, nhưng bà tuột ra khỏi tay họ và ngã lưng xuống sàn mà gào thét kinh khủng đến nỗi họ khiêng trả bà lại ghế ngồi một cách gượng nhẹ cực kỳ. Họ phát biểu một ý kiến dè dặt,
https://thuviensach.vn
tuy nhiên vẫn kết luận là mất khả năng lao động. Và, khi Hecto báo tin này cho vợ biết, nàng để rơi mình xuống ghế, lắp bắp:
- Mang bà ấy về đây còn hơn, đỡ tốn kém cho ta.
Chàng nhảy lên:
- Về đây, về nhà chúng ta ư em?
Nhưng nàng, giờ đây đành nhẫn nhục chịu đựng hết thảy, trả lời, nước mắt lưng tròng:
- Làm thế nào được hả anh, có phải lỗi tại em đâu!...
Lê Hồng Sâm dịch
https://thuviensach.vn
Bà Hermet
GuydeMaupassant
Những người điên thường hấp dẫn tôi. Những kẻ do sống trong thế
giới bí ẩn của những giấc mơ kỳ quặc, trong áng mây mù dày đặc của sự rồ dại, tại nơi đây, mọi thứ họ đã thấy trên đời, mọi cái họ đã yêu quý, họ đã làm tái diễn trong một cuộc sống tưởng tượng, vượt ra ngoài mọi quy luật điều khiển sự vật và chi phối tư duy con người.
Đối với họ, cái không thể có không tồn tại nữa, cái huyền hoặc khó tin biến mất, cái thần tiên huyền ảo trở thành thường xuyên và cái dị thường thành thân thuộc. Logic, tấm rào chắn cũ kỹ, lý trí, bức tường lương tri, hàng lan can cũ kỹ của tư tưởng đều tan tành, ngã gục, đổ sụp dưới trí tưởng tượng được buông thả phóng khoáng, thoát vào xứ sở vô cùng tận của sự tùy hứng, nhảy nhót những bước kỳ ảo chẳng có gì ngăn trở. Đối với họ, tất cả mọi điều đều xảy ra và có thể xảy ra. Họ chẳng hề gắng gỏi để chiến thắng các biến cố, để chế ngự những kháng cự, để san bằng các trở ngại. Chỉ cần một thích thú bất thường của ý chí gây ảo giác, là họ thành vua chúa hoặc thánh thần, là họ có mọi của cải trên thế gian, có mọi điều ngon ngọt trên đời, là họ được hưởng mọi thú vui, là họ mãi mãi khỏe, đẹp, trẻ, mãi mãi được yêu dấu! Chỉ riêng họ mới hạnh phúc được trên trái đất, vì đối với họ hiện thực không tồn tại nữa. Tôi ưa nghiêng mình xuống tâm trí lang thang vớ vẩn của họ, như người ta nghiêng mình xuống một vực thẳm, tận đáy vực sục sôi một dòng thác lạ, ở đâu đều không ai biết và chảy đi đâu không ai hay.
Nhưng nghiêng mình xuống những khe sâu ấy nào có ích gì, vì chẳng bao giờ ta biết được nước ấy ở đâu đến, nước ấy chảy đi đâu. Cho đến cùng, đó cũng chỉ là nước giống như nước chảy giữa thanh thiên bạch nhật, và nhìn nó cũng chẳng giúp cho ta hiểu thêm được mấy điều.
Nghiêng mình xuống tâm trí người điên cũng chẳng ích gì, vì những ý nghĩ kỳ quặc nhất của họ chẳng qua cũng là những ý nghĩ bình thường, chỉ lạ lùng bởi chúng không bị ràng buộc bởi lý trí. Cái ngọn nguồn khó hiểu
https://thuviensach.vn
bất thường của chúng khiến ta sững sờ kinh ngạc, bởi ta không nhìn thấy nó phun ra. Có lẽ chỉ cần một hòn đá nhỏ rơi vào dòng nước đang chảy của nó là đủ gây nên những xúc động sôi sục. Tuy nhiên, những người điên vẫn luôn hấp dẫn tôi, và tôi luôn quay về với họ, bị thu hút ngoài ý muốn của mình vì sự bí ẩn tầm thường của chứng rồ dại. Vậy, một hôm, khi tôi đến thăm một bệnh xá của người điên, viên thầy thuốc hướng dẫn tôi, bảo rằng:
- À, tôi sẽ đưa ông đi xem một trường hợp lý thú.
Và ông ta mở một ngăn, trong đó một người đàn bà trạc bốn mươi tuổi, hãy còn đẹp, ngồi trên ghế bành, cứ soi mãi mặt vào một tấm gương nhỏ cầm tay. Vừa nhìn thấy chúng tôi, bà đứng phắt dậy, chạy đến cuối phòng, tìm một tấm mạng vắt trên ghế, bịt mặt hết sức cẩn thận, rồi trở lại, gật đầu đáp lễ chúng tôi. Bác sĩ nói:
- Thế nào, sáng nay bà thấy trong người ra sao?
Bà ta thở dài não ruột:
- Ôi, khó chịu, khó chịu lắm, thưa ông, ngày nào các vết sẹo cũng tăng lên.
Bác sĩ trả lời một cách tin tưởng:
- Không, không! Tôi cam đoan với bà là bà lầm đấy.
Bà ta xích lại gần ông, thì thào:
- Không, tôi chắc chắn như vậy. Tôi đã đếm thêm được chín vết, ba vết ở má bên phải, bốn vết ở má bên trái và ba vết ở trên trán. Thật gớm ghiếc! Gớm ghiếc! Tôi không dám để ai nhìn thấy nữa, cả cho đến con tôi, không, cả đến con tôi nữa! Tôi bị nguy mất rồi, mặt mày tôi bị xấu xí suốt đời rồi!
Bà ta lại để mình rơi xuống ghế và khóc nức nở. Người thầy thuốc kéo ghế, ngồi cạnh bà ta, và bằng một giọng dịu dàng, an ủi:
- Nào, bà cho tôi xem nào, tôi cam đoan với bà là chẳng sao đâu. Chỉ xoa cứu chút ít là tôi làm biến đi tất cả.
Bà ta lắc đầu, không nói một lời. Người thầy thuốc muốn sờ vào tấm mạng, nhưng bà ta tay nắm lấy nó chặt đến mức ngón tay xuyên cả vào trong mạng. Ông lại khuyến khích và dỗ dành cho bà yên lòng:
- Bà biết rõ là lần nào tôi cũng làm cho những vết sẹo xấu xí ấy biến đi mất hộ bà, và khi tôi điều trị chúng xong thì người ta không hề nhìn thấy
https://thuviensach.vn
chúng nữa. Nếu bà không cho tôi xem, thì tôi không thể chữa cho bà khỏi được.
Bà ta thì thào:
- Với ông thì còn được, nhưng tôi không quen ông khách đi cùng ông. - Đây cũng là một thầy thuốc, ông ấy sẽ điều trị cho bà còn tốt hơn tôi nhiều.
Bấy giờ bà ta mới cho hở mặt ra, nhưng sự hoảng sợ, nỗi xúc động, niềm hổ thẹn vì bị mọi người nhìn thấy khiến cả da thịt ở cổ bà ta, nơi lút sâu trong áo, cũng đỏ ửng lên. Bà nhìn xuống, quay mặt đi, lúc sang phải, lúc sang trái, để tránh những cái nhìn của chúng tôi và ấp úng:
- Ôi! Để thấy mặt mình như thế này là tôi đau đớn ghê gớm. Kinh khủng lắm, phải không các ông? Kinh khủng lắm phải không?
Tôi hết sức kinh ngạc ngắm nhìn bà ta, bởi vì bà chẳng có cái gì trên mặt hết, không có một vết, không có một điểm, không có một dấu, cũng không có một cái sẹo nào. Bà ta quay sang tôi, mắt vẫn nhìn xuống và bảo tôi:
- Thưa ông, đó là do chăm nom con mà tôi bị lây cái bệnh ghê gớm này. Tôi đã cứu được cháu, nhưng mặt mày tôi bị xấu xí. Tôi đã cho cháu nhan sắc của tôi, cho đứa con tội nghiệp của tôi. Rốt cuộc, tôi đã làm phận sự của tôi, lương tâm tôi được yên ổn. Nếu tôi đau khổ, chỉ có Chúa biết.
Bác sĩ đã rút trong túi ra một cây bút vẽ nhỏ. Ông nói:
- Bà để tôi làm, tôi sẽ sửa cho bà tất cả những cái đó.
Bà ta chìa má bên phải ra, và ông bắt đầu lướt nhẹ vào má, như thể ông điểm những chấm màu nho nhỏ trên đó. Ông cũng làm như vậ bên má trái, rồi trên trán, rồi ông reo:
- Bà nhìn xem, không còn gì, không còn gì nữa nhé!
Bà ta cầm gương, ngắm bóng mình rất lâu, hết sức chăm chú, một sự chăm chú gay go căng thẳng, gắng gỏi cực kỳ toàn tâm trí để tìm ra một vết gì, rồi bà thở dài:
- Không, không nhìn thấy rõ nữa. Đa tạ ông vô cùng.
Người thầy thuốc đứng dậy. Ông chào bà ta, dẫn tôi ra rồi đi theo tôi, và, khi cánh cửa vừa đóng lại, ông nói:
- Đây là câu chuyện khốc liệt của người đàn bà bất hạnh ấy.
https://thuviensach.vn
Bà ta tên là Hermet. Bà rất đẹp, rất làm dáng, rất được yêu chiều và lấy làm sung sướng được sống. Đó là một trong những người đàn bà mà trên đời chỉ có nhan sắc và niềm ham muốn làm duyên cho người ưa là nguồn nâng đỡ, chi phối hoặc an ủi trong cuộc sống. Mối quan tâm thường xuyên đến vẻ tươi tắn của mình, sự chăm sóc cho bộ mặt, cho bàn tay, cho hàm răng, cho hết thảy các bộ phận nhỏ của cơ thể mà bà có thể phô bày ra thu hút toàn bộ thì giờ và toàn bộ sự chú ý của bà.
Bà góa chồng, có một con trai. Bà ta có nhìn thấy trước khủng hoảng định mệnh đang đến hay chăng, tôi không hề biết. Chẳng hiểu bà có như bao người đàn bà khác, mỗi sáng lại nhìn ngắm hàng giờ làn da xưa kia hết sức mịn màng, trong suốt và tươi sáng, giờ đây hơi nheo lại dưới đuôi mắt, hơi nhăn đi vì hàng ngàn vết hãy còn lờ mờ khó thấy, nhưng cứ sâu dần xuống, từng ngày, từng tháng? Chẳng hiểu bà có thấy lớn lên không ngừng, một cách chậm rãi và chắc chắn, những vết nhăn dài trên trán, những con rắn mỏng mảnh không gì ngăn lại được? Chẳng hiểu bà có bị giày vò day dứt, nỗi giày vò day dứt tác hại của tấm gương, tấm gương nhỏ có tay cầm bằng bạc mà người ta không thể quyết tâm đặt lên bàn, rồi người ta giận dữ hẩy đi và người ta lại cầm ngay lấy, để nhìn lại, thật gần hơn nữa, cái sự tàn phá khả ố và bình thản của tuổi già đang xích lại? Chẳng hiểu bà có náu mình ngày mươi, hai mươi lần, vô duyên cớ rời phòng khách nơi bạn bè đang trò chuyện, để lên phòng riêng và nhờ cửa đóng then cài che chở, lại ngắm nhìn công trình phá hoại của da thịt hết xuân đang tàn úa, để kiểm chứng một cách tuyệt vọng bước tiến triển nhẹ nhàng của căn bệnh dường như chưa ai nhìn thấy, nhưng bà thì hiểu rất rõ? Bà biết, đâu là chỗ bệnh tấn công mạnh nhất, đâu là những vết cắn xé sâu nhất của tuổi tác. Và tấm gương tròn nhỏ xoay trong cái khung bạc chạm, bảo với bà những điều tệ hại, bởi vì nó nói, nó như cười cợt, nó nhạo báng và báo cho bà tất cả những gì sắp đến, tất cả những nỗi khốn khổ của cơ thể, và cực hình tàn khốc của tư tưởng cho đến ngày bà chết đi, đó là ngày bà được giải thoát.
Chẳng hiểu bà có bàng hoàng, khóc lóc, quỳ gối, đập đầu xuống đất, và cầu nguyện, cầu nguyện, cầu nguyện Đấng đã giết người ta như vậy và chỉ cho người ta sự trẻ trung để làm cho tuổi già thêm cay cực, và chỉ cho người ta mượn sắc đẹp để rồi lấy lại ngay tức khắc, bà có cầu xin, van nài Người
https://thuviensach.vn
hãy làm cho bà ta điều mà Người không bao giờ làm cho ai hết, hãy để lại cho bà, đến mãi ngày tận số, vẻ hấp dẫn, sự tươi thắm và duyên sắc mỹ lệ? Rồi hiểu là mình đã khẩn cầu vô hiệu Đấng vô danh khắc nghiệt cứ đẩy năm tháng qua, năm này kế tiếp năm khác, chẳng hiểu bà có vặn tay, lăn mình trên thảm trải phòng, có đập đầu vào đồ đạc và ghìm trong họng những tiếng la thét tuyệt vọng khủng khiếp?
Chắc hẳn bà đã chịu đựng những sự giày vò hành hạ ấy. Bởi vì đây là chuyện đã xảy ra.
Một hôm, bấy giờ bà ta ba mươi nhăm tuổi, cậu con trai mười lăm tuổi của bà bị ốm. Em nằm trên giường bệnh mà chưa xác định được em đau chứng gì. Một linh mục là gia sư của em, trông nom em và không mấy khi rời em, trong khi bà Hermet sớm, tối đến hỏi thăm tin tức.
Buổi sáng, bà vào, mặc áo choàng đen, tươi cười, người đã thơm phưng phức, và vừa đến cửa đã hỏi ngay:
- Thế nào, George, có đỡ không con?
Đứa trẻ đã lớn, mặt đỏ, sưng mọng và hao mòn vì sốt, trả lời: - Có, thưa mẹ, hơi đỡ.
Bà ở lại trong phòng chốc lát, nhìn các chai thuốc, chúm môi kêu khẽ: “Khiếp! ”, rồi đột nhiên kêu lên: “À! Quên mất một việc rất cần” và bà chạy ra ngoài, để lại sau mùi phấn hương trang điểm thơm tho.
Buổi tối, bà xuất hiện, mặc áo dài hở cổ hở ngực, còn vội vã hơn nữa, vì bao giờ bà cũng bị muộn, và bà chỉ vừa kịp đủ thì giờ để hỏi: - Thế nào, thấy thuốc bảo sao?
Linh mục trả lời:
- Thưa bà, ông ấy còn chưa chắc là bệnh gì.
Thế rồi, một buổi tối, linh mục trả lời: “Thưa bà, cậu nhà mắc bệnh đậu mùa”.
Bà hét lên hoảng sợ và bỏ chạy. Sáng hôm sau, khi cô hầu phòng vào buồng bà, thoạt tiên cô ngửi thấy mùi đường cháy khét lẹt, và cô thấy bà chủ nằm trong giường, mắt mở, mặt xanh xao vì mất ngủ và run lẩy bẩy vì lo âu hoảng hốt. Khi các cánh cửa đã mở, bà Hermet hỏi:
- George ra sao?
- Ồ, thưa bà, hôm nay sức khỏe cậu không khá tí nào.
https://thuviensach.vn
Mãi tới trưa bà mới dậy, ăn hai quả trứng, uống một cốc nước chè, như thể chính bà bị ốm, rồi bà ra đi, đến một dược sĩ hỏi các biện pháp phòng lây bệnh đậu mùa. Mãi đến giờ ăn chiều bà mới về, mang theo nào chai nào lọ, và đóng cửa ở luôn trong phòng, tẩm đầy người các chất sát trùng tẩy uế.
Linh mục đợi bà ở phòng ăn. Vừa thấy ông, bà ta kêu lên, giọng rất xúc động: “Thế nào? ”. Bà khóc, và không ăn uống được gì hết, vì băn khoăn dằn vặt. Ngày hôm sau, trời vừa rạng, bà đã cho hỏi tin tức, những tin tức này không hay gì hơn, và suốt ngày bà ở trong phòng riêng nghi ngút những lò than nhỏ tỏa mùi khét. Ngoài ra, cô gái ở còn quả quyết là nghe thấy bà rền rĩ suốt buổi tối. Cả một tuần trôi qua như vậy, bà không làm việc gì khác ngoài việc đi dạo một hoặc hai tiếng đồng hồ cho thoáng khí, vào khoảng giữa buổi chiều. Bây giờ thì bà cho hỏi tin tức từng giờ một, và khóc nức nở khi tin xấu đi.
Buổi sáng ngày thứ mười một, linh mục xin gặp, vào phòng bà, mặt nghiêm trang và xanh tái, ông nói mà không ngồi xuống chiếc ghế bà đưa mời:
- Thưa bà, cậu nhà mệt nặng, và cậu muốn gặp bà.
Bà ta quỳ sụp xuống mà kêu:
- Ôi! Lạy Chúa! Ôi! Lạy Chúa! Tôi không bao giờ dám đâu! Lạy Chúa! Hãy cứu vớt lấy con!
Ông linh mục nhắc lại:
- Thưa bà, bác sĩ còn tí thy vọng. George đang đợi bà.
Và ông bước ra. Hai giờ đồng hồ sau, cậu thiếu niên cảm thấy mình sắp chết, lại hỏi mẹ, linh mục bèn trở vào phòng bà ta và thấy bà vẫn quỳ, vẫn khóc và lặp đi lặp lại:
- Tôi không muốn…tôi không muốn…tôi sợ quá lắm…tôi không muốn…
Linh mục cố khuyên bà quyết định, động viên bà, lôi kéo bà. Ông chỉ làm cho bà lên một cơn thần kinh kéo dài và khiến bà la hét. Buổi chiều, viên thầy thuốc trở lại, được biết sự hèn nhát đó, và tuyên bố rằng ông sẽ dẫn bà tới, hoặc tự ý, hoặc cưỡng ép. Nhưng sau khi đã dùng thử mọi lập luận, ông bèn nhấc bà ta lên để đem đến gần con, thì bà nắm lấy cánh cửa và bám chắc đến mức không sao lôi ra được. Rồi khi người ta
https://thuviensach.vn
buông bà ra, bà sụp xuống chân ông thầy thuốc mà xin lỗi, mà tự buộc tội mình là kẻ khốn nạn. Và bà kêu lên: “Ôi! Cháu không chết đâu, ông hãy bảo với cháu là tôi yêu cháu, tôi quý cháu…”
Cậu thiếu niên hấp hối. Biết mình sắp đến lúc lâm chung, cậu khẩn khoản xin mọi người khuyên mẹ quyết định đến vĩnh biệt mình. Với thứ linh tính đôi khi có ở những người sắp qua đời, cậu đã hiểu, đoán được hết, và cậu nói: “Nếu mẹ tôi không dám vào, hãy xin mẹ tôi chỉ đi ngoài bao lơn đến cửa sổ phòng tôi để ít ra tôi được trông thấy mẹ, để tôi nhìn và vĩnh biệt mẹ vì không được ôm hôn mẹ”.
Viên thầy thuốc và vị linh mục lại trở vào gặp người đàn bà đó lần nữa. Họ cả quyết: “Bà không cần ngại điều gì cả vì có một tấm kính giữa bà và cậu ấy”. Bà ta nhận lời, choàng kín đầu, cầm một lọ thuốc ngửi, bước ba bước trên bao lơn, rồi đột nhiên ôm mặt, rền rĩ: “Không…không… tôi hổ thẹn quá… tôi sợ quá lắm… không… tôi không thể…”. Người ta muốn kéo bà đi, nhưng bà túm chặt lấy lan can và than vãn rên la đến nỗi khách đi đường bên dưới phải ngẩng lên xem.
Và người sắp chết vẫn chờ đợi, mắt hướng về khung cửa sổ ấy, chờ đợi, để chết đi còn được trông thấy lần cuối cùng khuôn mặt dịu hiền yêu dấu, khuôn mặt thiêng liêng của mẹ.
Cậu chờ đợi rất lâu, và đêm xuống. Cậu bèn quay mặt vào tường và không nói một lời nào nữa.
Khi trời sáng, cậu đã chết. Ngày hôm sau, bà ta phát điên.
https://thuviensach.vn
Con quỷ
GuydeMaupassant
Gã nông dân đứng đối diện viên thầy thuốc, trước giường người hấp
hối. Bà lão, lặng lẽ, nhẫn nhục, minh mẫn, nhìn hai người đàn ông và nghe họ trò chuyện. Bà sắp chết; bà không cưỡng lại, đời bà hết rồi, bà đã chín mươi hai tuổi.
Qua cửa sổ và cửa ra vào để ngỏ, mặt trời tháng bảy tràn vào, rọi ánh nắng nóng nực lên nền đất nâu, mấp mô, đã nện lèn dưới gót guộc của bốn thế hệ dân quê. Cả mùi vị đồng ruộng cũng thoảng vào, do cơn gió oi bức thổi tới, mùi cỏ, mùi lúa mì, mùi lá khô nỏ dưới sức nóng ban trưa. Châu chấu kêu ran ran, khiến đồng quê vang lên tiếng lách tách lao xao, giống tiếng những con cào cào gỗ bán cho trẻ em chơi trong hội chợ.
Thầy thuốc cất cao giọng, nói:
- Bác Honore, bác không thể để bà cụ bác trơ trọi một mình trong tình trạng này được. Bà cụ sẽ tắt thở bất kỳ lúc nào!
Và gã nông dân, phiền muộn, nhắc lại:
- Tôi phải gặt lúa cho xong chứ. Lúa chín rũ xuống lâu quá rồi. Vừa may tốt trời. Này, mẹ bảo sao, hử?
Và bà lão hấp hối, hãy còn bị day dứt vì thói keo kiệt của gã Norman, “ừ” bằng mắt và trán, ý bảo con đi gặt lúa và cứ để bà chết một thân một mình.
Nhưng viên thầy thuốc nổi giận và giậm chân:
- Bác chỉ là đồ súc vật thôi bác biết chưa và tôi không cho phép bác làm như thế bác biết chưa. Và nếu bác buộc phải gặt lúa về ngay ngày hôm nay, thì đi mà tìm mụ Rapet, chứ sao! Và bảo mụ ấy trông nom bà lão. Tôi muốn thế, bác biết chưa? Và nếu bác không nghe lời tôi thì khi nào đến lượt bác ốm, tôi sẽ để mặc bác chết như con chó ấy, bác biết chưa?
Gã nông dân người cao gầy, cử chỉ chậm chạp, bị dằn vặt vì do dự, vì sợ thầy thuốc và vì lòng ham chắt bóp dữ dội, ngần ngại, toan tính, ấp úng: - Thế nhà mụ Rapet, mụ ấy lấy ngần nào, để coi sóc?
https://thuviensach.vn
Viên thầy thuốc hét lên:
- Tôi biết đâu đấy? Đó là tùy theo thời gian bác nhờ mụ ấy. Bác đi mà thu xếp với mụ ấy chứ. Rõ thật! Nhưng tôi muốn một giờ đồng hồ sau, mụ ấy phải có ở đây, bác biết chưa?
Gã đàn ông quyết định:
- Tôi đi đây, tôi đi đây, ông thầy thuốc, ông đừng có bực.
Và bác sĩ ra đi, còn dặn:
- Bác phải biết, phải biết, liệu đấy, vì tôi ấy, tôi mà bực lên thì tôi không đùa đâu!
Còn lại một mình, gã nông dân quay nhìn mẹ, và bằng một giọng nhẫn nhục:
- Tôi đi tìm mụ Rapet vậy, vì cái nhà ông ấy muốn thế. Tôi chưa về, mẹ đừng có lo.
Và gã cũng ra đi.
Mụ Rapet, một mụ thợ giặt già, thường trông nom người chết, người ốm ở làng và ở các vùng lân cận. Rồi bỏ xong khách hàng vào tấm vải mà họ không bao giờ ra khỏi nữa, mụ lại quay ra cầm bàn là, là quần áo cho người sống. Răn reo như quả táo khô từ năm ngoái còn lại, tàn nhẫn, ganh ghét, keo kiệt, một sự keo kiệt đến mức kỳ quái, người cúi gập xuống như thể bị gãy xương hông vì động tác triền miên đưa bàn là trên vải, dường như mụ có một mối tình quái đản và trắng trợn với sự hấp hối. Mụ chỉ nói đến những kẻ mụ đã nhìn thấy họ chết, đến đủ loại chết khác nhau mà mụ đã tham dự; và mụ kể lại hết sức tỉ mỉ những chi tiết bao giờ cũng giống nhau, hệt như một tay săn bắn thuật lại các phát súng của y.
Khi Honore Bontemps đến nhà mụ, gã thấy mụ đang pha nước lơ để hồ cổ áo cho các bà người làng.
Gã nói:
- Chào mụ, mụ Rapet, công việc có khá không?
Mụ quay đầu về phía gã:
- Vậy thôi, vậy thôi. Còn nhà bác thế nào?
- Ồ, phần tôi thì được. Nhưng bà cụ nhà tôi không ổn.
- Bà cụ bác hử?
- Ừ bà cụ!
https://thuviensach.vn
- Bà cụ sao hử?
- Bà cụ sắp chết!
Mụ già rút tay khỏi nước, những giọt nước xanh xanh trong suốt chảy đến tận đầu ngón tay mụ rồi lại rơi xuống chậu.
Mụ hỏi, đột nhiên có thiện cảm:
- Bà lão nặng thế kia hử?
- Thầy thuốc bảo chả qua khỏi chiều nay.
- Thế thì nặng lắm rồi!
Honore ngần ngại. Cần rào đón ít nhiều trước khi bàn với mụ điều gã đã chuẩn bị. Nhưng chẳng biết nói năng thế nào, gã bỗng quyết định phắt: - Này, trông nom bà lão cho đến xong thì mụ lấy bao nhiêu? Mụ biết là tôi chả giàu có gì đâu. Mượn một người ở cũng chả đủ. Rõ khổ bà cụ nhà tôi, chính vì thế mà bà cụ đến nước này đấy, lo lắng nhiều quá, vất vả nhiều quá. Một mình làm bằng mười người ấy, mà chín mươi hai tuổi đầu rồi. Mụ Rapet nghiêm trang đáp:
- Có hai giá: người giàu thì bốn mươi xu ban ngày, ba quan ban đêm. Người khác thì hai mươi xu ban ngày, bốn mươi xu ban đêm. Bác trả tôi hai mươi, bốn mươi.
Nhưng gã nông dân còn nghĩ ngợi. Gã biết rõ bà mẹ gã lắm. Gã biết bà lão bền bỉ, tráng kiện và dai sức đến như thế nào. Mặc dù thầy thuốc nói thế chứ dễ phải kéo đến tám ngày mới xong.
Gã cả quyết nói:
- Không, tôi muốn mụ định cho tôi một giá, thế, một giá để trông cho đến xong. Tôi cũng liều may rủi xem sao. Thầy thuốc bảo là bà sắp đi ngay. Nếu thế thì hay cho mụ, thiệt cho tôi. Nhưng nếu bà lão còn đến mai hay lâu nữa thì hay cho tôi, thiệt cho mụ!
Mụ coi người ốm ngạc nhiên, nhìn gã đàn ông. Mụ chưa từng nhận khoán một cái chết nào. Mụ ngần ngừ, cũng muốn thử cầu may xem sao. Rồi mụ nghi người định bịp mình.
- Chưa nhìn thấy bà lão nhà bác thì tôi chưa nói năng gì được. – Mụ trả lời.
- Thế thì đi, đi xem.
Mụ chùi tay rồi theo gã đi luôn.
https://thuviensach.vn
Dọc đường họ chẳng nói năng gì. Mụ đi tất tưởi, trong khi gã sải đôi cẳng chân dài như thể mỗi bước đều phải bước qua một con suối. Những con bò nằm trong đồng, mệt mỏi vì nóng bức, nặng nề ngửng đầu lên và rống khe khẽ, hướng về phía hai người đi qua, để xin họ ít cỏ tươi. Gần về đến nhà, Honore Bontemps lẩm bẩm:
- Ngộ xong rồi thì sao?
Và niềm ao ước bất tự giác của gã bộc lộ ra trong giọng nói. Nhưng bà lão không hề chết. Bà nằm ngửa, trên chiếc giường nát, hai bàn tay đặt lên cái chăn vải tím, những bàn tay gầy một cách kinh khủng: gân guốc xù xì, giống như những con vật lạ lung, như những con cua, và quắp lại vì bệnh tê thấp, vì những nỗi nhọc nhằn, vì những công việc chúng đã làm gần suốt một thế kỷ.
Mụ Rapet lại bên giường, ngắm người hấp hối. Mụ xem mạch sờ ngực, nghe bà lão thở, hỏi han để nghe bà nói, rồi sau khi đã ngắm nghía bà lão thêm một hồi lâu, mụ đi ra. Honore theo đằng sau. Ý mụ đã định. Bà lão không còn được đến tối. Honore hỏi:
- Thế nào?
Mụ trả lời:
- Thế này, phải kéo đến hai ngày, có khi ba. Bác cho tôi sáu quan tất cả. Gã kêu lên:
- Sáu quan! Sáu quan! Mụ lẫn rồi à? Tôi bảo cho mụ biết là bà lão còn năm, sáu giờ đồng hồ nữa thôi, không hơn đâu!
Và họ mặc cả rất lâu, cả hai đều ráo riết hăm hở. Thấy mụ gác định ra về, thấy thời gian trôi qua, thấy lúa mì của mình không tự gặt về được, cuối cùng gã đồng ý:
- Thôi được, thế là ngã ngũ, sáu quan, tất cả, đến lúc đem đi chôn. - Thế là ngã ngũ, sáu quan.
Và gã ra đi, bước ngắn bước dài, đến với lúa mì của gã đang rạp xuống đất, dưới mặt trời nặng nề hun chín mùa màng.
Mụ Rapet quay vào trong nhà.
Mụ đã đem đồ khâu vá đến, vì bên người hấp hối và người chết, mụ vẫn làm việc không ngừng, khi thì làm cho mụ, khi thì cho gia đình thuê mụ làm cả hai việc một lúc, trả thêm tiền công.
https://thuviensach.vn
Thốt nhiên, mụ hỏi:
- Mụ Bontemps này thế đã làm lễ xức dầu cho mụ chưa?
Bà lão nông dân lắc đầu ra ý “không”, và mụ Rapet vốn người sùng đạo, hấp tấp đứng dậy:
- Lạy Chúa, ai lại thế bao giờ? Để tôi đi tìm cha xứ.
Và mụ tất tả đến nhà xứ, vội vã đến mức bọn trẻ con trông thấy mụ chạy long tong như thế, cứ tưởng có chuyện rủi ro gì xảy ra.
Linh mục đến ngay, mặc áo lễ trắng, đứa bé hầu lễ đi trước lúc lắc cái chuông con để báo hiệu có Chúa Trời đi qua đồng quê oi bức và yên tĩnh. Những người đàn ông làm lụng ở đằng xa, ngả mũ và đứng đợi cho tà áo trắng khuất sau một trang trại; những người đàn bà đang lượm lúa đứng thẳng lên để làm dấu thánh giá; những con gà mái đen, hoảng sợ, chạy trốn dọc theo đường hào, đung đưa hai chân, cho đến tận cái hố rất quen thuộc với chúng, và lỏn ngay vào đó; một con ngựa non buộc ở cánh đồng cỏ, nhìn thấy tà áo lễ đâm hoảng chạy vòng quanh đầu sợi dây, vừa chạy vừa lồng lên. Chú bé hầu lễ mặc áo đỏ, rảo bước; và linh mục, đầu ngả về một bên vai, đội mũ vuông. Vừa theo sau vừa cầu kinh còn mụ Rapet đi sau cùng cúi rạp người xuống, gập mình làm đôi như thể vừa đi vừa lạy, hai tay chắp lại như ở nhà thờ.
Từ xa, Honore nhìn thấy họ. Gã hỏi:
- Cha xứ đi đâu ấy nhỉ?
Người làm của gã tinh tế hơn, trả lời:
- Cha mang mình Chúa đến cho bà cụ nhà bác chứ còn gì nữa! Gã nông dân không ngạc nhiên:
- Ừ, cũng có khi như vậy?
Và gã lại tiếp tục làm.
Mụ Bontemps xưng tội, được rửa tội, chịu lễ; và linh mục ra về, để lại hai người đàn bà với nhau trong túp nhà tranh ngột ngạt.
Thế là mụ Rapet ngắm nhìn người hấp hối, và tự hỏi xem liệu có lâu không.
Trời ngả về chiều. Gió đã mát lùa vào mạnh hơn, làm một bức tranh Epinal cài bằng hai chiếc đinh ghim phất phới đập vào tường. Những tấm
https://thuviensach.vn
rèm che cửa sổ, xưa kia trắng, nay vàng và đầy vết ruồi bậu, có vẻ như bay lên, như giãy giụa, như muốn ra đi, cũng như linh hồn bà lão. Bà lão, yên lặng, hai mắt mở, dường như thản nhiên chờ đợi cái chết cực gần mà chậm đến. Hơi thở ngắn của bà hơi rít trong cổ họng bị se lại. Lát nữa đây, hơi thở ấy sẽ ngưng, và trên đời sẽ bớt đi một người đàn bà chẳng ai thương tiếc.
Sẩm tối, Honore về. Gã lại gần giường, thấy mẹ còn sống, và gã hỏi: - Thế nào mẹ?
Giống như trước kia vẫn hỏi khi bà lão khó ở.
Rồi gã cho mụ Rapet về, và dặn:
- Sáng mai, năm giờ, không sai nhé.
Mụ trả lời:
- Sáng mai, năm giờ.
Quả thật, trời vừa sáng là mụ đến.
Honore, trước khi ra đồng, ăn món xúp gã tự nấu lấy
Mụ Rapet hỏi:
- Thế nào, bà cụ nhà bác đi chưa?
Gã trả lời, đuôi mắt nheo lại láu lỉnh:
- Bà lão lại khá hơn thì phải.
Và gã ra đi.
Mụ Rapet, lo lắng, lại gần người hấp hối. Bà lão vẫn ở trong tình trạng cũ, khò khè tức thở và thờ ơ bình thản mắt mở, tay co quắp trên chăn. Và mụ gác hiểu rằng có thể kéo dài hai ngày, bốn ngày, tám ngày như thế này; và một nỗi kinh hoàng co thắt trái tim keo kiệt của mụ, trong khi một cơn tức tối giận dữ bừng bừng nổi lên với cái tay láu cá đã bịp mụ và với cái mụ đàn bà không chết đi này.
Tuy vậy mụ vẫn làm việc, mắt đăm đăm nhìn vào bộ mặt răn reo của mụ Bontemps.
Honore trở về ăn bữa trưa. Gã có vẻ hài long, hầu như giễu cợt rồi gã lại đi. Chắc hẳn gã gặt lúa trong những điều kiện thật mỹ mãn. Mụ Rapet nổi xung; mỗi phút trôi qua giờ đây mụ tưởng như thời gian bị ăn cắp, như tiền bạc bị ăn cắp. Mụ muốn, muốn một cách điên cuồng muốn tóm cổ cái con lừa cái già kia, cái mụ già ương ngạnh kia. Cái mụ già ngoan
https://thuviensach.vn
cố kia, và bóp lại một tị, làm ngưng cái hơi thở gấp gáp nho nhỏ kia, nó ăn cắp thời gian và tiền bạc của mụ.
Rồi mụ nghĩ tới sự nguy hiểm, và trong đầu nảy ra những ý khác, mụ lại gần giường.
Mụ hỏi:
- Mụ đã trông thấy quỷ bao giờ chưa?
Mụ Bontemps thì thào:
- Không.
Thế là mụ gác bèn nói chuyện, bèn kể cho bà lão nghe các câu chuyện để khủng bố cái linh hồn suy nhược của kẻ sắp chết.
Mụ bảo là vài phút trước khi tắt thở, quỷ thường hiện ra với tất cả những người hấp hối. Tay nó cầm cái chổi, đầu nó đội cái nồi, và nó hét rất to. Khi đã nhìn thấy nó, là xong đời đấy, chỉ còn chốc lát nữa thôi. Và mụ liệt kê tất cả những ai đã thấy quỷ hiện hình: trước mặt mụ, trong năm nay: Josephine Loisel này, Eulalie Ratier này, Sophie Padaknau này, Seraphine Grospied này.
Mụ Bontemps rốt cuộc bị xúc động, bồn chồn cựa quậy, động đậy tay, thử ngoái đầu để nhìn vào góc buồng trong cùng.
Đột nhiên mụ Rapet biến mất ở chân giường. Mụ lấy trong tủ một tấm vải trải giường, quấn vào người; mụ đội cái nồi, ba chân nồi ngắn và cong dựng lên như ba cái sừng, tay phải mụ với cái chổi, tay trái với cái xô sắt tay mà mụ bỗng tung mạnh lên để nó rơi xuống loảng xoảng.
Đụng phải mặt đất, nó khua ầm ầm dữ dội, thế là mụ trèo lên ghế vén tấm màn treo ở đầu giường và xuất hiện, tay chân vung vẩy, hét lên những tiếng the thé từ đấy chậu sắt che kín mặt và giơ chổi ra dọa dẫm bà già nông dân sắp tắt thở.
Hốt hoảng, mắt nhìn đờ dại, bà lão hấp hối gắng gỏi một cách phi thường để nhỏm dậy chạy trốn, bà đưa được cả vai và ngực ra khỏi chăn; rồi ngã xuống, thở hắt rất dài. Thế là xong.
Và mụ Rapet bình thản, xếp tất cả đồ đạc vào chỗ cũ, cái chổi vào góc tủ, vài trải giường vào trong tủ nồi đặt lên bếp lò, xô để trên tấm ván, ghế dựa vào tường. Rồi với những cử chỉ chuyên nghiệp, mụ vuốt đôi mắt to trừng trừng của người chết, đặt lên giường một cái đĩa rót nước thánh, lấy
https://thuviensach.vn
nhành dương treo trên tủ nhúng vào và quỳ xuống, nhiệt thành đọc những bài nguyện cho người qua đời mà mụ thuộc lòng, do nghề nghiệp. Và đến tối khi Honore trở về gã thấy mụ đang cầu kinh, và gã tính ngay ra rằng mụ còn được lợi của gã ba mươi xu, vì mụ chỉ mất có ba ngày một đêm, tất cả là đi năm quan, chứ không phải sáu quan như gã đã phải trả mụ. Lê Hồng Sâm dịch
https://thuviensach.vn
Huyết thù
GuydeMaupassant
Góa phụ Paolo Saverini sống một mình với đứa con trai trong một ngôi
nhà nhỏ nghèo nàn trên vành đai của Bonifacio. Một thị trấn hình thành trên đỉnh những ngọn núi, nơi những mỏm đá nhô ra biển, trông ngang qua một con kênh tua tủa những đá ngầm, đến bờ biển Sardinia ở phía dưới. Dưới chân núi, phía bên kia và gần như bao quanh thị trấn ấy là dòng kênh có vai trò như một bến cảng, cắt vào trong đá như một hành lang khổng lồ. Xuyên một vòng giữa những bức vách đá dựng đứng trong nước, con kênh mang những chiếc thuyền đánh cá của người Italia hoặc của người Sardinia, đến tận thềm của những ngôi nhà đầu tiên và cứ mỗi hai tuần, những chiếc thuyền cũ kỹ chạy bằng hơi nước đến và đi từ Ajaccio.
Bên trên vùng núi trọc ấy là cụm nhà tạo nên những mảng vá màu trắng, trông giống như những tổ chim hoang, bám trên tảng đá nổi bật trên dòng kênh nguy hiểm mà hiếm có chiếc tàu nào liều lĩnh đi qua. Những luồng gió không bao giờ ngơi nghỉ luôn khuấy động mặt biển và ăn mòn bờ biển đến trơ trụi chỉ còn những đám cỏ lơ thơ bao phủ, gió còn thổi vào khe núi và tàn phá hai bên vách núi. Ðám bọt trắng xóa dật dờ bám quanh vô số mũi đá đen nằm khắp mọi nơi chọc thủng những cơn sóng, giống những chiếc lều rách nổi bềnh bồng nhấp nhô trên mặt nước
Căn nhà của bà góa phụ Saverini cheo leo trên một rìa đá; ba cửa sổ của căn nhà đều hướng ra khung cảnh hoang vu và heo hút này. Bà sống thui thủi ở đó với con trai là Antoine và con chó cái Semillante, một con chó to và ốm với bộ lông dài bờm xờm của một giống chó chăn cừu. Người thanh niên trẻ dùng nó để đi săn.
Buổi chiều nọ, sau một trận cãi vả, Antoine Saverini đã bị giết chết một cách thảm khốc bằng một nhát dao của tên phản phúc Nicolas Ravolati, hắn đã trốn đi Sardinia ngay đêm đó.
Khi nhận thi thể con mình và nhờ người ta mang về, bà mẹ già của anh đã không khóc, nhưng bà đã ngồi bất động rất lâu, nhìn vào xác con, vòng
https://thuviensach.vn
cánh tay nhăn nheo qua xác con mình, bà thề sẽ trả mối thù này cho con. Bà không muốn có ai bên cạnh, bà nhốt mình trong nhà cùng với xác chết và với con chó buồn thảm. Con chó cứ tru lên mãi, nó đứng ở chân giường, đầu sục vào xác chủ, đuôi cụp xuống. Nó không buồn nhúc nhích, cả bà mẹ cũng thế, bà cúi xuống và nhìn sững vào xác con lặng lẽ chùi nước mắt.
Xác người thanh niên nằm ngửa, trong chiếc áo choàng dày bằng vải séc với một lỗ thủng ở phía trước, trông như đang ngủ; nhưng khắp nơi đều đầy máu; máu trên áo sơ mi bị xé phăng bởi lần cấp cứu vội vàng; trên áo choàng, trên chiếc quần chẽn, trên mặt anh, trên đôi tay. Máu bết dính đông cứng lại trên râu và tóc anh.
Bà mẹ già bắt đầu nói với anh. Con chó lặng yên trong lúc bà nói. “Rồi đây, con sẽ được báo thù, đứa con bé bỏng của mẹ, con của mẹ, đứa con đáng thương của mẹ. Hãy ngủ yên, ngủ đi, con sẽ được báo thù, con nghe đấy chứ! Mẹ của con đã thề như thế! Và mẹ của con sẽ luôn giữ lời thề; con biết như vậy mà”
Bà chậm chạp cúi xuống thi thể của anh, đặt đôi môi giá lạnh của mình lên môi của xác chết.
Khi đó Semillante bắt đầu tru lên một lần nữa. Nó tru từng hồi dài, đều đều, những tiếng kêu não nùng thảm thiết.
Người đàn bà và con chó, vẫn cùng nhau ngồi đó cho đến sáng. Antoine Saverini được chôn vào ngày hôm sau, và không bao lâu ở Bonifacio chẳng còn ai nói về anh nữa.
Anh chẳng có anh em hay bà con nào gần gũi. Không có một người đàn ông nào ở đó để báo thù. Chỉ có duy nhất mẹ anh, một bà già, đang nghiền ngẫm suy tính.
***
Từ phía bên kia của con kênh bà đã quan sát từ sáng đến tối, một đốm nhỏ trên bờ biển. Ðó là một làng nhỏ của người Sardinia, Longosardo, nơi những tên cướp người Corse trốn chạy và trú ẩn khi bị truy lùng gắt gao. Bọn họ trở thành toàn bộ cư dân cho cái làng nhỏ hướng ra bãi biển phía trước quê nhà của họ; và ở đó họ chờ đợi thời cơ thích hợp để trở về, về lại vùng cây bụi rậm ở Corsia. Bà biết rằng Nicolas Ravolati đã trốn tránh ở chính cái làng đó.
https://thuviensach.vn
Ðơn độc một mình, suốt ngày dài ngồi bên cửa sổ, bà nhìn xa xăm nơi đó và hoạch định chuyện trả thù. Làm thế nào bà có thể thực hiện mà không có sự giúp đỡ của người khác, huống hồ là bà đã quá gầy yếu và đã gần đất xa trời? Nhưng bà đã hứa, đã thề trước xác con. Bà không thể quên, mà bà cũng không thể chờ đợi nữa. Bà sẽ làm gì đây? Ban đêm bà không thể ngủ được, bà không còn ngủ được cũng như không còn thấy thanh thản; bà miên man tìm kiếm cách giải quyết. Con chó nằm ngủ dưới chân bà thỉnh thoảng ngóc đầu dậy và tru lên. Từ khi chủ nó qua đời, nó vẫn thường tru lên như thế, như thể nó gọi anh, như thể cái tâm hồn của con vật, không nguôi thương nhớ, vẫn cứ giữ mãi những hồi ức không phai của người chủ.
Một đêm nọ, khi Semillante lại đang bắt đầu rền rĩ, bà mẹ bỗng nảy ra một ý tưởng, một ý tưởng hoàn toàn hợp lẽ với lòng hận thù sâu sắc và tàn bạo. Bà trầm tư cho đến sáng, thế rồi khi mặt trời ló dạng, bà đến nhà thờ. Bà cầu nguyện, quỳ gối trên nền đá, phủ phục trước Chúa, bà van xin Ngài giúp đỡ bà, cứu rỗi bà, ban cho cái thân hình suy sụp của bà một sức mạnh cần thiết để trả thù cho con trai.
Rồi bà trở về nhà. Trong sân có một thùng rượu cũ dùng để hứng nước mưa, bà úp lại, đổ nước đi, gắn chặt xuống đất bằng chiếc cọc và những hòn đá; kế đến bà xích Semillante vào chiếc cũi đó, rồi vào nhà.
Sau đó bà bắt đầu bước tới bước lui trong phòng, không nghỉ ngơi, mắt bà vẫn hướng ra vùng biển Sardinia. Hắn ở đó, tên sát nhân. Suốt một ngày và đêm dài con chó cứ tru. Vào buổi sáng bà già cho nó một chút nước đựng trong chén, và không cho thêm gì nữa, không súp, không bánh mì.
Một ngày nữa trôi qua. Semillante kiệt sức, lơ mơ ngủ. Ngày hôm sau hai mắt nó sáng lên, lông dựng ngược và nó liều lĩnh giật sợi xích. Một lần nữa, bà già không cho nó ăn gì. Con vật điên cuồng vì đói, sủa khàn cả giọng. Một đêm nữa trôi qua.
Lúc rạng sáng, bà mẹ Saverini đi sang hàng xóm để xin hai bó rơm. Bà lấy chiếc áo cũ đã hư của chồng nhồi rơm vào bên trong giống như một hình nhân.
Trồng một cái trụ trên sân trước chiếc cũi của Semillante, bà cột vào đó cái hình nộm mà giờ đây trông giống như một người đang đứng. Rồi bà
https://thuviensach.vn
trang trí cái đầu hình nộm với một sợi dây vải đã cũ. Con chó, ngạc nhiên nhìn người đàn ông bằng rơm, yên lặng, mặc dù bị cơn đói hành hạ. Bà già đến nhà người bán thịt lợn và mua một miếng dồi thật dài. Khi trở về nhà, bà đốt một bếp lửa nhỏ ở sân sau, đóng chiếc cũi chó lại và nướng miếng dồi lợn. Semillante, điên cuồng, lồng lộn và nước bọt sủi đầy mép, mắt nó như gắn vào món ăn, mùi thơm phức đã cào cấu bao tử nó. Với miếng dồi bốc khói bà mẹ làm thành một chiếc cổ áo cho hình nộm rơm. Phải rất lâu bà mới có thể buộc miếng dồi vòng quanh cổ sao cho nó ngập vào bên trong hình nộm. Khi công việc xong xuôi, bà thả con chó ra. Với một cú nhảy vọt, con vật lao lên cổ họng hình nộm, móng chân nó bấu trên vai hình nộm và bắt đầu cắn xé. Con vật rơi xuống với một mếng dồi trong miệng, nó lao lên lần nữa, cắn ngập răng chiếc cổ áo làm bằng dồi ấy và xé thành những mếng vụn, nó lại rơi xuống lần nữa, rồi lại lao lên, ngấu nghiến một cách bạo tàn.
Với những miếng ngoạm lớn, nó bứt khuôn mặt và xé toàn bộ phần cổ ra manh mún. Bà già theo dõi, lặng lẽ và bất động, một niềm hy vọng loé trong tâm tưởng của bà. Thế rồi bà xích con chó lại lần nữa, bỏ đói nó hai ngày nữa, và lặp lại cuộc diễn tập khác thường đó.
Ròng rã ba tháng trời bà huấn luyện cho con chó chiến đấu theo kiểu ấy, đoạt lấy bữa ăn bằng những chiếc nanh nhọn. Bà đã không còn xích con chó nữa mà chỉ cần ra dấu là nó tấn công hình nộm.
Bà đã dạy cho con chó cắn nát và nhai ngấu nghiến cái hình nộm không có thức ăn giấu bên trong cổ họng. Sau đó bà thưởng cho nó miếng dồi lợn mà bà đã làm sẵn.
Ngay khi thấy hình người, Semaillante run lên, nó hướng mắt về phía bà chủ - người sẽ ra lệnh cho nó: ”Ði” trong tiếng huýt sáo kèm cái phẩy tay. ***
Khi cảm thấy giờ phán quyết đã điểm, một sáng chủ nhật bà mẹ Saverini đi xưng tội và rước lễ với một vẻ vô cùng thành kính; thế rồi bà khoác vào người bộ trang phục đàn ông giống như một người ăn xin. Bà mặc cả với một ngư dân Sardinia, để ông ta đưa bà cùng con chó sang bên kia eo biển.
Trong chiếc túi vải bà đựng một miếng dồi lợn thật lớn. Semillante đã không được ăn uống gì hai ngày nay. Cứ mỗi phút, bà già lại cho nó ngửi
https://thuviensach.vn
thấy mùi thức ăn thơm phức, kích thích cơn đói của nó.
Họ đến Longosardo. Người đàn bà đảo Corse bước đi bằng những bước khập khiễng. Bà đến nhà một người làm bánh và hỏi thăm nhà của Nicolas Ravolati. Hắn đã trở về lại nghề cũ, làm thợ mộc. Hắn đang làm việc một mình phía sau xưởng.
Bà già đẩy cửa và gọi hắn:
“Ê! Nicolas! ”
Người đàn ông quay lại; thế là, bà thả ngay con chó và la lên: “Ði đi, cắn nó đi, cắn nó!”
Con thú điên cuồng lao tới và táp lấy cổ họng của hắn ta.
Người đàn ông chìa tay ra, túm chặt lấy con chó và lăn lộn trên nền đất. Hắn quằn quại vài phút, đập chân trên nền đất, thế rồi hắn nằm im bất động trong khi Semillante sục mõm vào cổ họng hắn và xé tơi tả.
Hai người láng giềng, ngồi trên bậu cửa thản nhiên kể lại rằng đã thấy một lão ăn mày đi ra với một con chó gầy còm vừa đi vừa ăn một thứ gì đó màu nâu mà chủ của nó cho.
Chiều hôm ấy, bà già trở về nhà. Ðêm đó bà ngủ rất ngon. Nhị Tường dịch
https://thuviensach.vn
Tai nạn kinh hoàng
Graham Greene
Jerome bị gọi vào phòng giáo viên chủ nhiệm vào thời gian nghỉ giữa
giờ học thứ hai và thứ ba trong buổi sáng thứ năm.
Jerome không sợ sẽ gặp rắc rối bởi cậu là người đứng đầu lớp, là một cái tên mà giám đốc và hiệu trưởng của ngôi trường tiểu học có học phí rất cao này thường đưa ra để làm gương cho những cậu bé lớp dưới (một lớp trưởng tiêu biểu mà khi rời trường sẽ trở nên thành viên của những trường cao giá cỡ như Marlborough và Rugby).
Thầy chủ nhiệm Wordsworth ngồi phía sau bàn với dáng vẻ lúng túng và e sợ. Khi bước vào, Jerome có cảm giác kỳ quặc rằng cậu là nguyên nhân của sự sợ hãi ấy.
- Ngồi xuống đi Jerome - ông Wordsworth nói - Môn lượng giác học ổn cả chứ?
- Thưa thầy, vâng.
- Tôi vừa nhận được một cú điện thoại, Jerome. Cô của em gọi. Tôi sợ rằng phải báo tin xấu cho em.
- Thưa thầy…?
- Cha của em gặp tai nạn.
- Ồ…
Ông Wordsworth nhìn cậu, hơi ngạc nhiên:
- Một tai nạn nghiêm trọng.
- Chuyện gì vậy, thưa thầy?
Jerome tôn thờ cha. Đúng là như vậy. Như con người lặp lại hành động của Chúa Trời, Jerome lặp lại cha cậu - từ một tác giả góa vợ rất năng động cho đến một nhà du hành bí ẩn từng đi đến nhiều nơi xa xôi: Nice, Beirut, Majorca, thậm chí cả quần đảo Canary ở tây bắc châu Phi. Vào thời điểm sinh nhật lên tám, Jerome bắt đầu tin rằng cha cậu hoặc buôn lậu súng hoặc là nhân viên của Sở Gián điệp Anh. Bây giờ thì xảy ra việc cha cậu sẽ có thể bị thương vì một tràng đạn súng máy!
https://thuviensach.vn
Ông Wordsworth vân vê cây thước trên bàn, dường như không biết phải tiếp tục bằng cách nào. Ông nói:
- Em có biết cha em đang ở Naples?
- Thưa thầy, vâng.
- Cô của em nghe được tin từ bệnh viện hôm nay.
- Ồ…
Ông Wordsworth nói với sự tuyệt vọng:
- Đó là một tai nạn giao thông.
- Vâng, thưa thầy? - Với Jerome, dường như người ta hoàn toàn có thể gọi đó là một tai nạn giao thông. Đương nhiên là cảnh sát sẽ bắn trước, cha cậu sẽ không giết người trừ phi đó là phương sách cuối cùng. - Tôi sợ rằng cha em thật sự bị thương rất nặng.
- Ồ…
- Jerome, thật ra ông ấy đã chết ngày hôm qua. Hoàn toàn không đau đớn.
- Có phải họ đã bắn vào ngực cha em?
- Xin lỗi, em nói gì, Jerome?
- Có phải họ đã bắn vào ngực ông?
- Không ai bắn ông cả, Jerome. Một con heo rơi trúng ông! Một sự rối loạn không thể giải thích được lấn áp toàn bộ nghị lực trên khuôn mặt ông Wordsworth. Trong một khoảnh khắc, trông ông gần như sắp bật cười. Ông nhắm mắt lại, kiềm chế bản thân và nói thật nhanh như thể hết sức cần thiết phải tống câu chuyện ra càng nhanh càng tốt: - Cha em đang đi bộ dọc theo một con phố ở Naples thì một con heo rơi trúng ông. Một tai nạn khủng khiếp. Hình như ở những khu phố nghèo ở Naples, người ta nuôi heo trên ban công. Con heo này ở tầng thứ năm, nó đã được nuôi vỗ quá béo. Ban công bị sụp. Con heo rơi trúng cha em. Ông Wordsworth mau lẹ rời bàn giấy và đi về phía cửa sổ, quay lưng lại phía Jerome. Ông hơi run vì xúc động.
Jerome hỏi:
- Con heo có sao không ạ?
Về phía Jerome, đó không phải là sự nhẫn tâm, như lời ông Wordsworth đã giải thích với các đồng nghiệp của ông (ông thậm chí tranh cãi với họ,
https://thuviensach.vn
liệu rằng có thể Jerome lúc ấy đã bị đóng khung vào vai trò một lớp trưởng). Jerome chỉ cố gắng hình dung ra cái cảnh tượng kỳ lạ ấy để có những chi tiết xác thực. Jerome cũng chẳng phải là một cậu trai ưa khóc lóc, đó là một học sinh hay suy tư nghiền ngẫm và một tình cảnh khôi hài như cái chết của cha cậu chưa bao giờ xảy ra trong ngôi trường tiểu học này.
Đó cũng là một phần trong sự bí mật của cuộc đời. Và sau đó, trong học kỳ thứ nhất của trường trung học công lập, khi cậu kể câu chuyện này cho người bạn thân nhất, cậu mới bắt đầu nhận ra rằng nó đã tác động đến người khác ra sao. Và đương nhiên, sau sự giãi bày tâm sự này, cậu được gọi một cách khá vô lý là “Heo”.
Không may là bà cô của cậu lại không có tính hài hước chút nào. Có một tấm ảnh chụp vội của cha cậu được phóng lớn đặt trên chiếc đàn dương cầm - một người đàn ông to lớn, buồn bã mặc một bộ quần áo màu sậm không phù hợp, chụp ở Capri, che dù (để tránh cho ông khỏi bị say nắng) với những tảng đá faraglion làm nền phía sau.
Vào tuổi 16, Jerome mới nhận thức rõ là tấm ảnh chân dung ấy trông giống tác giả của các cuốn sách Ánh nắng và bóng mát và Ngao du trong Balearics hơn là một nhân viên mật vụ. Cùng lúc với việc yêu quí những kỷ niệm về người cha của mình, cậu còn sở hữu một cuốn album đầy những tấm bưu ảnh (những con tem đã bị gỡ đi từ lâu cho một bộ sưu tập khác của cậu), và nó làm cậu đau đớn khi bà cô thuật lại cho người lạ nghe câu chuyện về cái chết của cha cậu.
“Một tai nạn kinh hoàng”, bà sẽ bắt đầu như vậy, và người lạ ấy sẽ thêm thắt những cảm nhận của riêng họ vào nội dung thực tế nhằm bày tỏ sự xót thương hay thú vị. Cả ai phản ứng ấy đương nhiên đều sai, nhưng thật là kinh khủng với Jerome khi thấy bài thuyết trình tràng giang đại hải ấy của bà cô thình lình ngắt ngang, sự quan tâm trở nên xác thực: “Tôi không hiểu sao một chuyện như thế có thể được cho phép trong một đất nước văn minh”.
Bà cô sẽ nói: “Tôi cho rằng có thể xem nước Ý là một nước văn minh. Người ta được chuẩn bị cho mọi thứ ngoài trời. Đương nhiên anh tôi là một dân du lịch ngoại hạng. Anh ấy luôn mang theo một bình nước lọc. Bạn biết đó, như thế rẻ hơn nhiều so với việc mua các chai nước khoáng. Anh tôi
https://thuviensach.vn
luôn nói cái bình lọc nước của anh đã trả tiền rượu cho bữa ăn tối. Bạn thấy đó, anh ấy cẩn thận biết bao, nhưng ai mà có thể nghĩ rằng khi anh ấy đi bộ dọc theo phố Via Dottore Manuelle Panucci để đến Bảo tàng Thủy văn học, một con heo có thể rơi trúng anh?”. Đó là lúc mà sự hứng thú trở nên vô cùng chân thực.
Cha của Jerome vốn không phải là một nhà văn xuất sắc, nhưng dường như cái thời thường tới sau cái chết của nhà văn, khi có một người nào đó nghĩ rằng ông thật xứng đáng và viết một lá thư cho phụ trang Thời Báo Văn Học để thông báo về việc chuẩn bị viết tiểu sử ông và yêu cầu bạn bè của người quá cố, ai có thư từ, tư liệu hoặc giai thoại gì hãy gửi về. Và hầu hết các tiểu sử, tất nhiên chẳng bao giờ được in ra.
Còn Jerome, giờ đã là một nhân viên kế toán được đào tạo bài bản, sống xa cách thế giới văn chương. Anh không nhận ra mối đe dọa ấy thật sự nhỏ bé biết bao, hoặc giả sự thiếu tên tuổi của cha anh đã qua rất lâu. Đôi khi, anh nhẩm lại cách thức kể lại chi tiết về cái chết của cha để giảm đến tối đa yếu tố hài hước. Sẽ không có tác dụng gì khi chối bỏ các thông tin, bởi trong trường hợp này người tìm hiểu tiểu sử chắc chắn sẽ đến gặp cô của anh, một người sống rất thọ và không hề có dấu hiệu gì là sẽ suy yếu đi.
Dường như đối với Jerome, có hai phương án khả thi - thứ nhất là cách từ từ dẫn đến tai nạn, để theo thời gian nó sẽ được diễn tả với một người nghe đã được chuẩn bị kỹ rằng cái chết của cha anh thật ra không có cao trào gì cả. Nguy cơ chủ yếu gây cười trong một câu chuyện kiểu như vậy luôn luôn đột ngột. Khi anh nhẩm lại phương án này, Jerome bắt đầu chán ngán.
“Bạn có biết Naples và những tòa nhà chung cư này không? Có người nói với tôi rằng cư dân Naples luôn cảm thấy thân thuộc khi sống ở New York, cũng như một người ở Turin cảm thấy London giống như nhà mình bởi vì ở hai thành phố này sông chảy theo cùng một kiểu như nhau. Tôi ở đâu ư? Ồ! Đương nhiên là Naples. Bạn sẽ cảm thấy ngạc nhiên, không biết họ chứa những gì trên những cái bancông của những căn nhà chọc trời tại các khu phố nghèo này. Bạn biết đấy, những thứ như thú nuôi, gà và thậm chí cả heo nữa không hề tắm rửa hoặc nghỉ ngơi gì cả. Đương nhiên những con heo chẳng được đi lại gì cả và mau chóng trở nên mập ú”.
https://thuviensach.vn
Lúc này anh có thể tưởng tượng được đôi mắt của những thính giả của anh mờ đi ra sao. “Tôi chẳng có ý kiến gì, bạn nghĩ sao về chuyện một con heo nặng tới bao nhiêu? Nhưng những tòa nhà cũ kỹ này đã quá cần phải sửa chữa. Một cái bancông trên tầng năm đã sụp xuống dưới sức nặng của một trong những con heo ấy. Trên đường rơi xuống nó đã đập vào bancông của tầng ba và nảy lên trước khi rớt xuống mặt đường. Cha tôi đang đi đến Viện bảo tàng Thủy văn học thì bị con heo rơi trúng. Với độ cao và góc rơi ấy, ông bị gãy cổ”. Đó quả là một nỗ lực bậc thầy để làm cho một đề tài hấp dẫn như vậy trở nên buồn chán.
Phương án còn lại của Jerome có ưu điểm là ngắn gọn.
- Cha tôi qua đời bởi một con heo.
- Thật không? Ở Ấn Độ à?
- Không, ở Ý.
- Lạ nhỉ, tôi chưa bao giờ tưởng tượng ra rằng ở Ý có chuyện đi săn heo rừng. Cha của anh chắc là thích chơi polo lắm?
***
Thời gian trôi đi, chẳng quá sớm cũng chẳng quá muộn, dù vậy với khả năng của một nhân viên kế toán được đào tạo bài bản, Jerome đã học được môn thống kê và tính toán đã đến lúc anh đính hôn và cưới vợ: một cô gái 25 tuổi, khuôn mặt tươi tắn dễ thương, có cha là một bác sĩ ở Pinner. Tên cô là Sally, tác giả được cô ưa thích vẫn là Hugh Walpole, và suốt từ lúc lên năm tuổi khi được tặng một con búp bê biết nhắm mắt và khóc cho đến bây giờ cô luôn yêu thích các em bé. Quan hệ giữa họ không nồng cháy lắm nhưng êm đẹp, bởi chuyện tình của một nhân viên kế toán được đào tạo bài bản sẽ không bao giờ thành nếu bị những con số ngăn trở.
Tuy nhiên có một ý nghĩ vẫn làm Jerome lo lắng. Trong vòng một năm nữa anh có thể sẽ trở thành một người cha, tình yêu thương của anh với người cha quá cố trỗi dậy; anh nhận ra cái tình cảm đã thấm vào những tấm bưu ảnh. Anh cảm thấy ao ước được bảo vệ ký ức của mình và băn khoăn tự hỏi tình yêu thầm lặng ấy của anh có còn tồn tại không nếu Sally vì quá vô tâm mà cười ầm lên khi nghe được câu chuyện về cái chết của cha anh. Chắc chắn là nàng sẽ nghe được câu chuyện ấy nếu Jerome đưa nàng đến
https://thuviensach.vn
dùng bữa với bà cô anh. Nhiều lần anh cố gắng tự kể cho nàng nghe, bởi nàng hồn nhiên tha thiết muốn biết tất cả những gì liên quan đến anh. - Chắc khi cha chết anh còn bé lắm nhỉ?
- Mới chín tuổi.
- Tội nghiệp anh.
- Anh đang ở trường. Họ báo tin cho anh.
- Anh có đau khổ lắm không?
- Anh không nhớ nữa.
- Anh chưa bao giờ kể với em chuyện xảy ra như thế nào. - Rất đột ngột. Một tai nạn trên đường phố.
- Anh sẽ không bao giờ lái xe nhanh, phải không Jemmy? (Nàng đã bắt đầu gọi anh là Jemmy).
Đã quá trễ để áp dụng phương pháp thứ hai, phương pháp về chuyện săn heo rừng.
Họ sẽ tiến hành hôn lễ một cách êm ả tại một văn phòng đăng ký hôn nhân và hưởng tuần trăng mật tại Torquay. Anh tránh đưa nàng đến gặp bà cô anh cho đến một tuần trước đám cưới, nhưng khi đêm đến anh không thể không tự vấn rằng liệu sự e sợ của anh đối với kỷ niệm về người cha nhiều hơn hay sự an toàn cho tình yêu của anh nhiều hơn.
Thời khắc ấy đến quá nhanh. “Có phải đó là cha của Jemmy không hả cô?” - Sally hỏi, cầm tấm hình người đàn ông che dù lên.
- Đúng rồi, cháu cưng. Làm sao con biết?
- Ông có đôi mắt và lông mày giống Jemmy, phải không cô? - Jerome có cho con mượn sách của ông không?
- Không.
- Cô sẽ cho con một bộ để mừng đám cưới. Ông ấy viết rất tinh tế về các chuyến du lịch.
Cuốn sách cô thích nhất là Những ngóc ngách và vết nứt. Lẽ ra ông sẽ có một tương lai rạng rỡ. Cái tai nạn khủng khiếp ấy thật quá tồi tệ. - Sao hả cô?
Jerome ao ước được rời khỏi căn phòng và không trông thấy khuôn mặt đáng yêu ấy nhăn lại vì sự hào hứng không cưỡng lại được.
https://thuviensach.vn
- Cô có rất nhiều thư độc giả của ông gửi đến sau khi con heo rơi trúng ông - cô của Jerome chưa bao giờ hấp tấp đến như vậy.
Và rồi phép lạ hiện ra. Sally không cười. Sally ngồi với đôi mắt mở to hoảng sợ trong khi bà cô anh kể chuyện, và cuối cùng nàng nói: “Khủng khiếp quá! Chuyện xảy ra như vậy thật không thể tin là có được trên đời này”.
Trái tim Jerome tưng bừng niềm vui, như thể nàng đã làm nguôi đi nỗi sợ của anh mãi mãi. Trên taxi đi về nhà, anh hôn nàng, say sưa hơn bao giờ hết và nàng đã đáp trả. Tựa như có những em bé ở trong đồng tử mắt màu xanh nhạt của nàng, những em bé chớp mắt lia lịa và biết khóc.
- Một ngày tuyệt vời - Jerome nói, và nàng siết chặt tay anh - Em đang nghĩ gì vậy, cưng?
- Em đang tự hỏi con heo tội nghiệp đó có sao không?
- Chắc chắn là họ sẽ xơi nó thôi! - Jerome đáp thật hạnh phúc và hôn cô bé đáng yêu của mình lần nữa.
Bích Giang dịch
https://thuviensach.vn
Tội ác của Huân tước Arthur Savile
Oskar Widle
-Tôi muốn anh gặp người xem tay của tôi - Phu nhân Windermere
nói.
- Người xem tay là cái gì ? - Huân tước Arthur hỏi lại.
- Người xem tay là người có thể đọc ra các điều qua bàn tay người ta - Phu nhân Windermere giải thích. Ông ta có thể nói ra hậu vận của anh qua việc xem bàn tay anh.Việc đó rất quan trọng đối với một quí ông trẻ tuổi để biết đuợc hậu vận của mình sẽ ra sao.
-Ồ, ra phu nhân nói về một tay thầy bói phải không? - Huân tước Arthur nói.
- Không, không đâu- Phu nhân Windermere vội nói- Ông ta không phải là thày bói. Người xem tướng tay tinh tường hơn thày bói nhiều, ngoài ra xem tuớng tay mốt hơn xem bói. Mọi người ở London đều muốn gặp nhà xem tướng tay. Người xem tuớng tay của tôi tuần nào cũng xem cho tôi đấy. -Ông ta là người ngoại quốc à?- Huân tuớc trẻ tuổi hỏi.
- Không, ông ta là người Anh - phu nhân đáp lời - Tên ông ta là Podgers. - Vâng, xin phu nhân giới thiệu tôi với ông ta - Huân tước nói - Nhưng tôi không muốn biết hậu vận của mình. Tôi đang thấy sung sướng với cuộc đời hiện tại.
Hai người đi ngang qua đám đông khách khứa. Căn phòng chặt đầy các quí bà, quí ông mặc những bộ y phục mốt và đắt giá nhất. Họ đều là khách của phu nhân Windermere. Đây là buổi tiếp tân mùa xuân của chủ nhân. Các cuộc tiếp tân của Phu nhân Windermere thường đuợc coi là những dạ yến hợp thời trang và nổi tiếng nhất của thủ đô London.
Có một số nhà quý tộc ở dạ tiệc, sáu vị Bộ truởng của Chính phủ đang trò chuyện với Hoàng tử nuớc Đức, các ngài bộ truởng đều chào Phu nhân khi bà ta đi qua.
Các nhà ngoại giao của nhiều quốc gia, các nghệ sĩ, bác sĩ và mấy nhà soạn nhạc nổi tiếng. Có cả các nhà báo thời thượng để luận bàn về chính trị
https://thuviensach.vn
và kinh tế. Ở bữa tiệc có một tay vô chính phủ người Nga, đang nói chuyện về các lọai bom. Và có ông Podgers - nhà xem tướng tay
- Ông ấy đấy - Phu nhân Windermere nói - ông ta đang nói với Nữ công tuớc Paisley.
Huân tước Arthur nhìn Podgers. Người này đang xem bàn tay của Nữ công tuớc Paisley. Đó là một người đàn ông lùn, béo với nụ cười ít gây thiện cảm. Đôi mắt của người xem tướng tay nhỏ, lấp lánh dưới cặp kính gọng vàng. Ông ta giữ bàn tay phải của Nữ công tuớc và xem rất cẩn thận..
- Tay của Phu nhân thật là đẹp, thưa Phu nhân-Podgers nói. Ông ta cười một cách khó chịu, khom lưng về phía Nữ công tước.
Huân tước Arthur nhìn bàn tay của vị nữ khách. Nó nhỏ và chẳng đẹp đẽ gì.
Nữ công tước đung đưa bàn tay trái và cười với Podgers.
- Phu nhân rất giỏi trong công việc kinh doanh - Nhà xem tướng tay nói. - Khi tôi lấy Công tuớc Paisley, tôi còn là một phụ nữ trẻ - công tước có mười một lâu đài mà chẳng có ngôi nhà nào. Tôi làm cho ông ấy bán đi các tòa lâu đài. Hiện giờ tôi có mười một ngôi nhà, nhưng chẳng còn lâu đài nào.
Mọi người cuời to với câu nói đó. Podgers cười to hơn tất cả. Sau đó từng người đều đề nghị Podgers xem tay cho mình, nhưng Huân tước Arthur chỉ chờ và đứng xem.
Ngài Thomas, nhà thám hiểm nổi danh là người tiếp theo. Ông ta đưa tay ra và Podgers mỉm cười:
- Ngài đã có rất nhiều cuộc phiêu lưu, đã trải các cuộc hành trình dài trên biển, hai lần ngài bị đắm tàu. Ngài đang dự định một hành trình mới, tới vòng Nam cực. Ngài đã có trận ốm nặng năm ngài mười bảy tuổi. Ngài sẽ trở nên giàu có vào năm ba muơi tuổi. Ngài không thích loài mèo.
- Lạ thật đấy!- Thomas thốt lên - Mọi điều đều đúng, thật là kì lạ. - Ông ta xem báo cũng giỏi như xem bàn tay - Phu nhân Windermere nói với Huân tước Arthur - Nói về hậu vận của một người nổi tiếng không phải là khó, khi anh chịu khó đọc báo.
- Thế là Phu nhân không tin vào việc đoán hậu vận - Arthur nói - Vậy sao phu nhân mời người xem tướng tay đến buổi tiếp tân?
https://thuviensach.vn
- Tôi thấy ông ta khôi hài - Phu nhân trả lời - Ông ta đang là mốt và có thể gây vui vẻ cho khách khứa.
Sáu, bảy, tám vị khách đưa tay cho Podgers xem. Người này xem và nói tương lai cho từng vị khách. Ai cũng ngạc nhiên và quan khách đều cười lớn, nói to:
- Tuyệt vời!
- Đúng cực kì!
- Kì thật đấy.
- Ông Podgers thật là kì diệu!
Nhà xem tướng tay đọc số mệnh cho tất cả những người xung quanh. Ông ta cười và tiên đoán những số phận tốt đẹp. Chỉ có ngài Đại sứ Nga không đưa tay ra và Huân tước Arthur cứ đứng chờ xem biểu diễn.
- Nào, Huân tước Arthur, giờ đến lượt anh đấy - Phu nhân Windermere nói - Tôi muốn biết tương lai của anh ta ra sao.
- Tại sao vậy? - Arthur quay sang hỏi bà.
- Vì rằng chị Sybil, vợ chưa cuới của anh sẽ đến thăm tôi vào ngày mai. Hai người sẽ cưới nhau vào tháng tới. Tôi muốn biết về hạnh phúc của anh chị. Tôi sẽ nói cho Sybil những tin tốt đẹp.
Phu nhân nói với Podgers:
-Ông Podgers này, đây là Huân tước Arthur Savile. Huân tuớc là một trong những chàng trai mà tôi quí mến, Huân tuớc sẽ kết hôn vào tháng sau. Anh hãy nói tương lai cho anh ấy biết. Hãy nói ra điều gì tốt lành xem nào! Podgers cười với Phu nhân Windermere:
- Tôi sẽ rất vui lòng khi được nói ra những lời ấy, thưa Phu nhân. Podgers cầm tay trái của huân tước. Ông ta xem rất kĩ, cặp kính gọng vàng gần như chạm vào bàn tay. Mặt của ông ta biểu lộ rằng đã đọc thấy điều gì khủng khiếp, nhưng rồi ông ta nhanh nhảu ngước lên và cười nụ cười rất khó nhìn.
- Đây là bàn tay của một quí ông trẻ tuổi, khả ái và hấp dẫn. - Tất nhiên là thế rồi.- Phu nhân Windermere nổi cáu - Nhưng ông ấy có phải là một người chồng trẻ hấp dẫn hay không? Đấy mới là điều tôi cần biết.
https://thuviensach.vn
- Mọi người đàn ông trẻ tuổi đáng mến đều là những ông chồng đáng mến, thưa phu nhân - Podgers nói.
- Ta biết điều ấy - Phu nhân nói to - Nói tuơng lai của Huân tước cho ta nghe. Điều gì sẽ xảy ra trong cuộc đời của Arthur?
- Không có điều gì đáng nói, thưa Phu nhân - nhà xem tướng đáp lời - Huân tuớc sẽ có một cuộc hành trình..
- Tất nhiên là ông ấy sẽ có chuyến đi - Phu nhân Windermere nói - tháng sau Huân tuớc sẽ kết hôn. Hai vợ chồng ông ấy sẽ đi hưởng tuần trăng mật. Ông định nói thế chứ gì? Có phải ông muốn nói tới chuyến đi trăng mật của Huân tước?
- Tôi không rõ, còn điều nữa là một trong những họ hàng của ông ta sắp mất nay mai.
- Ai? - Phu nhân yêu cầu - Có phải em gái của ông ấy?
- Không, không, không phải là thành viên gần gũi trong gia đình. Một người họ hàng, có lẽ là anh em họ xa - Nhà xem tướng tay vội đáp, sau đó ông ta im lặng, không nói gì thêm nữa.
Phu nhân Windermere tức giận. Đó là một kết thúc không hay cho một buổi tối tuyệt vời.
- Vào đi thôi, đến giờ ăn đêm rồi - Nữ chủ nhân mời các vị khách - Các món ăn đã sẵn sàng, thưa quí vị.
Phu nhân ra khỏi phòng. Mọi người đi theo tới bàn ăn, ngoại trừ Huân tước Arthur và Podgers.
Huân tuớc nhìn nhà xem tướng tay một cách tức tối. Tay này đâm hoảng. - Hãy nói cho ta thấy, ngươi nhìn thấy gì qua bàn tay - Arthur nói- Ta không phải trẻ con, ta cần biết sự thực. Nói ngay bây giờ đi. Ta sẽ trả cho ngươi một trăm bảng.
Mắt Podgers lóe sáng. Một trăm bảng là số tiền khá lớn.
- Đuợc thôi ạ - Podgers nói - Đây là thiếp ghi địa chỉ của tôi, xin ngài gửi một trăm bảng tới văn phòng tôi vào ngày mai. Giờ đây tôi sẽ nói cho ngài điều tôi nhìn thấy, nhưng ngài sẽ không thích điều đó đâu.
Huân tước Arthur cầm tờ danh thiếp, chàng trai lắng nghe khi Podgers nói về số phận của mình.
*
https://thuviensach.vn
* *
Mười phút sau Huân tuớc rời ngôi nhà của Phu nhân Windermere. Chàng không nói lời cáo từ, đang ở trạng thái lo âu, buồn và sợ.
Chàng quí tộc trẻ rời xa ngôi nhà lớn, đi khỏi những đuờng phố phồn hoa. Mọi ngôi nhà nơi đây đều của những người giàu có.
Arthur đi qua phố Oxford, chàng theo những đường phố nhỏ tới Soho. Đó là khu nghèo khổ của London. Một người ăn mày xin tiền khi chàng đi qua, hai ả đàn bà mặt bự phấn cười hi hí khi thấy chàng. Arthur thấy một đám đánh lộn trong con phố tối tăm, nghe thấy tiếng hét vọng ra từ một ngôi nhà tối và bẩn thỉu. Sau đó có viên cảnh sát giữ chàng lại.
- Một quí ngài mà đi lang thang theo những con đuờng phố này vào ban đêm là không an toàn đâu - Người cảnh sát thông báo.
Arthur cám ơn ông ta rồi tiếp tục đi. Huân tuớc thấy một người ăn mày khác, chàng đặt một đồng xu vào tay ông già. Người ăn mày rất nghèo. Huân tước Arthur rất giàu. Có phải vận số của chàng là giàu? Phải chăng vận số đã đuợc viết sẵn trên bàn tay của con người khốn khổ kia? Liệu Podgers có thể đọc rõ ràng điều đó.
Tay Podgers đã đọc ra tương lai của chàng qua lòng bàn tay. Liệu mình có thể chạy trốn khỏi vận số? Không, chàng Huân tuớc trẻ không tin rằng mình sẽ thay đổi được điều sẽ xảy ra. Nhưng liệu chàng có thể khiến nó xảy ra theo một cách nào khác đi không?
Lúc này Arthur đã đi tới Marylebone. Chàng không quen phần này của London và quay ngược về phố Oxford. Đường phố sáng rực duới những ngọn đèn đốt bằng hơi gas và sương mù đang từ dòng sông bốc lên.
Tại góc phố Rich, Huân tước nhìn thấy hai người đàn ông. Họ đang đọc một bản cáo thị của cảnh sát dán trên tường. Huân tuớc đi lại gần và thấy chữ KẺ GIẾT NGƯỜI in bằng mực đen to đậm nét. Có một vụ giết người ở Soho, thông báo nói về mức tiền thưởng cho người báo tin. Có hình kẻ giết người vẽ trên cáo thị.
Có lẽ thông báo của cảnh sát sẽ vẽ hình của mình vào một ngày nào đó, Arthur nghĩ. Số mệnh của chàng đã bắt chàng là kẻ giết người, Podgers đã nói rằng chàng sẽ giết chết một ai đó, ngay tới đây thôi.
*
https://thuviensach.vn
* *
Huân tước Arthur đi về ngôi nhà của mình ở quảng trường Belgrave. Chàng vào giường nằm ngay và ngủ cho đến mười hai giờ trưa ngày hôm sau.
Chàng nghĩ đến người vợ chưa cưới của mình, nàng Sybil. Ảnh của nàng đặt ỏ đầu giường, họ sẽ cưới nhau trong vòng một tháng nữa và Arthur rất yêu nàng.
Huân tước lại nghĩ đến những gì Podgers nói về chàng. "Ngài sẽ giết một ai đó"- Y đã nói thế
- Nhưng ta sẽ giết ai? - Arthur hỏi nhưng người xem tướng tay không trả lời.
Tại sao chàng lại tin tay xem tướng số? Điều đó thật lạ lùng. Chàng đã sợ hãi khi y nói điều đó. Huân tước tin rằng y nói ra sự thật. "Mình sẽ giết một người"- chàng thốt ra. Điều đó thật đơn giản. Nhưng là ai? Ở đâu? Khi nào? Các câu hỏi cứ chạy lòng vòng trong đầu.
Arthur quyết định hai điều. Việc thứ nhất là chàng không thể cuới Sybil - Chưa cưới đuợc lúc này. Thứ hai là "Mình sẽ tạo ra tương lai của mình, mình sẽ giết một ai đó", chàng trai lầm bầm. Có lẽ các quyết định đều lạ lùng nhưng Huân tước Arthur đã quyết định điều gì mình phải làm.
Tay Podgers còn nói thêm vài điều :
"Một trong những họ hàng của ngài sắp chết... một người họ hàng xa, có lẽ là anh em họ..." Arthur không có nhiều họ hàng. Chỉ có người chị họ là cháu của bác chàng - Phu nhân Clementina Beauchamp. Đó là một phu nhân tuổi tác, sống ở phố Curzon. Huân tước Arthur quyết định sẽ giết bà ta. "Chị ấy đã già yếu và chẳng còn sống đuợc bao lâu" - Chàng nhủ thầm - "Mình sẽ giết chị ấy. Sau đó sẽ cưới Sybil".
Arthur tới một thư viện lớn, tìm xem các cuốn sách thuốc. Một cuốn có tên "Độc duợc" đã giúp cho ý định của Huân tuớc trẻ tuổi. Có một loại độc tố mạnh tên là "phụ tử" tác động nhanh và không gây đau đớn, Arthur ghi tên độc thảo đó rồi đi tới hiệu thuốc.
Huân tuớc xin gặp dược sĩ. "Tôi có một con chó lớn - Arthur nói với ông ta - Nó đã cắn mấy người rồi. Tôi cần phải giết nó nhưng không muốn dùng súng bắn. Ông có thể giúp tôi đuợc không? Tôi nghĩ là mình cần một loại
https://thuviensach.vn
độc tố mạnh, nhưng không gây đau đớn. Bác sĩ của tôi mách rằng có một loại độc dược có tên là "phụ tử".
- Vâng, có một loại độc duợc tên như vậy - dược sĩ nói. Nhưng không thể bán cho ngài đuợc. Ngài cần phải có đơn, có chữ kí của bác sĩ. Tôi cần chứng chỉ đó truớc khi có thể bán thuốc cho ngài.
- Bác sĩ của tôi tên là Matthew Reid và tôi là Huân tuớc Arthur Savile. Liệu tôi có phải đi lấy chứng chỉ không? Tôi đang sắp ra nước ngoài và tôi rất vội.
Viên dược sĩ đã nghe tên bác sĩ Matthew Reid, đó là một bác sĩ có tên tuổi ." Thôi đuợc, thưa Huân tuớc, nếu ngài hứa rằng độc dược chỉ để giết con chó gộc đó.."
- Vâng, tất nhiên là vậy - Arthur nói - tôi xin hứa.
- Được rồi ạ. Tôi sẽ làm viên thuốc đó cho con chó của ngài - Người duợc sĩ đáp lời.
Ông ta chế viên thuốc. Trông nó giống với viên kẹo tròn, nho nhỏ. Nửa giờ sau Huân tuớc mua một hộp kẹo nhỏ ở cửa hiệu. Chàng quẳng đi các viên kẹo, đặt viên độc duợc thay vào trong hộp, sau đó tới thăm Phu nhân Clementina Beauchamp.
- Arthur! Chị rất mừng đuợc gặp cậu - Phu nhân nói - Sybil ra sao? Mọi việc cho đám cưới xong rồi phải không?
- Cám ơn chị, Sybil rất khỏe - Arthur nói - cô ấy tới thăm Phu nhân Windermere hôm nay. Lát nữa em sẽ tới thăm cô ấy.
- Cậu thật quí hóa đã đến thăm chị - Clementina nói - chị già cả ốm yếu lắm. Chị vẫn nghĩ rằng các cô cậu trẻ tuổi sẽ buồn chán khi đến thăm chị. Khách của chị chỉ có mỗi ông bác sĩ.
- Em biết chị không đuợc khỏe - Arthur nói - Em mua cho chị ít thuốc đây.
Chàng huân tước trẻ tuổi đua hộp kẹo cho Phu nhân Clementina Beauchamp. Bà chị già nhìn vào trong hộp, lấy viên thuốc ra ngắm nghía. - Trông nó giống như viên kẹo - Phu nhân nói - Cậu có biết chắc nó đúng là thuốc hay không? Có thể uống ngay đuợc không?
- Nó là thuốc, vâng, nó là thuốc chị ạ... nhưng đừng uống ngay bây giờ. Đây là thuốc của Mỹ, loại thuốc rất công hiệu. Chị dùng truớc khi đi ngủ.
https://thuviensach.vn
Nó sẽ giúp chị ngủ ngon.
- Cậu thật tốt bụng - Phu nhân Clementina nói - Chị sẽ nhớ để uống nó. Chị già rồi và hay quên lắm, nhưng chị sẽ không quên việc đến dự đám cưới của cô cậu đâu.
Huân tước Arthur chào Phu nhân Clementina, sau đó chàng đến thăm Sybil ở nhà cha nàng cạnh công viên Lane. Chàng muốn thay đổi ngày kết hôn, muốn hoãn lại đám cưới nhưng không muốn làm Sybil đau lòng. Arthur đề nghị Sybil chờ đợi:
- Chúng ta sẽ cưới nhau... nhưng chưa phải theo ngày hẹn cũ. Xin em chờ anh thêm ít lâu. Mọi chuyện đều ổn cả, em hãy tin vào anh. Sybil rất đau khổ. Nàng không hiểu tại sao Arthur muốn hoãn đám cưới. Arthur ngồi và trò chuyện cùng nàng đến khuya, sau đó lên chuyến tàu nửa đêm tới Venice, Italia.
Ở Venice Huân tước Arthur gặp em mình, huân tước Surbiton. Họ ở với nhau trong khoảng hai tuần, nhưng Arthur không hào hứng gì với cuộc thăm chơi Venice, chàng lo lắng và không yên ổn. Ngày nào cũng đọc báo từ Anh gửi tới, tìm xem tin tức về Phu nhân Clementina.
Một buổi sáng có tin nhắn từ London. Phu nhân Clementina Beauchamp đã từ trần. Bà di chúc rằng muốn để ngôi nhà lại cho Huân tuớc Arthur, nên từ nay chàng trở thành chủ nhân của ngôi nhà ấy.
Arthur cùng Sybil xem xét quanh ngôi nhà của Phu nhân Clementina. Hai người mở các ngăn tủ, ngăn kéo và thấy hộp kẹo nhỏ trong chiếc hộp gỗ lớn hơn.
Huân tước Arthur nhìn chiếc hộp. Mặt chàng nhợt ra. Đó chính là chiếc hộp chàng đưa cho Phu nhân Clementina. Viên thuốc độc vẫn còn nằm trong đó.
- Anh sẽ quẳng nó đi - Arthur nói, chàng lấy viên thuốc ném vào lò lửa. - Nhưng đừng đốt chiếc hộp - Sybil vội nói - Xin anh đừng vất nó đi. Arthur, sao trông anh rất nhợt nhạt. Có gì xảy ra thế anh?
Huân tuớc biết rằng mình đã không giết Phu nhân Clementina Beauchamp. Số phận nói rằng chàng phải giết một ai đó truớc khi kết hôn. Giờ thì chàng bắt buộc phải hoãn ngày cưới một lần nữa.
*
https://thuviensach.vn
* *
Huân tuớc Arthur Savile hoãn kết hôn lần thứ hai. Sybil vô cùng đau khổ. Cha nàng nổi giận và Arthur rơi vào tình trạng hết sức khốn khổ. Chàng phải tìm một ai đó để giết. Chàng không còn một họ hàng xa nào nữa nên quyết định phải giết ông chú họ, Truởng Tu viện Chichester. Chú của Arthur là một nhân vật quan trọng của Giáo hội.
Vị Linh mục rất thích đồng hồ, ngài có một bộ sưu tập lớn các loại nên Arthur quyết định nên gửi cho linh mục một quả bom đặt trong chiếc đồng hồ. Nhưng kiếm đâu ra bom bây giờ?
Arthur nhớ lại buổi tiếp tân của Phu nhân Windermere. Chàng đã gặp một người Nga trẻ tuổi tên là Cocent Rouvaloff. Hôm đó anh ta nói chuyện về những người Vô chính phủ và các loại bom. Thường hay có tin về đám Vô chính phủ trong các báo, họ giết một số nhân vật quan trọng bằng bom. Arthur được biết tay Concent sống ở gần Bảo tàng British nên liền đến thăm anh ta.
- Anh cần một quả bom à? - Cocent hỏi - Tôi không biết rằng anh cũng quan tâm tới chính trị.
- Tôi có một số việc riêng. Tôi không quan tâm đến chính trị đâu - Huân tuớc Arthur đáp.
Anh chàng Vô chính phủ ngạc nhiên nhìn Arthur. Anh ta vẫn nghĩ rằng chỉ có đám Vô chính phủ mới hay dùng bom, nhưng thấy Arthur yêu cầu một cách nghiêm túc nên tin rằng quả thực chàng quí tộc trẻ này cần một quả bom. Thế nên anh ta ghi cho một địa chỉ vào mảnh giấy con.
- Đây là một địa điểm bí mật - Concent nói - Anh không được kể với ai khác. Hãy đọc địa chỉ này rồi đốt nó đi.
- Tôi sẽ đốt nó mà, anh đừng lo - Arthur đáp.
Chàng bắt tay anh bạn Nga vô chính phủ rồi từ biệt. Tờ giấy cho một địa chỉ ở Soho. Đó là một khu nghèo khổ của London, nhưng của lạ gì cũng có và có nhiều người nuớc ngoài sinh sống. Arthur đi tới phố Greek, gõ cửa một ngôi nhà cũ.
Người đàn ông ra mở cửa nói tiếng Đức. Arthur đưa cho ông ta tờ giấy của Cocent Rouvaloff.
- Vào đi - Người ấy nói.
https://thuviensach.vn
Ngôi nhà là một cửa hàng trống không. Arthur chờ một vài phút, sau đó có một người khác buớc vào phòng.
- Tôi tên là Herr Wenckelkopf. Tôi có thể giúp gì cho ngài? - Người đàn ông nói.
- Tôi là Smith -Arthur đáp - Concent cử tôi tới đây. Tôi cần một quả bom - Huân tuớc nói ngắn gọn.
- Loại bom gì? - Người đối thoại nói cũng gọn như vậy.
- Bom đặt trong đồng hồ.
- A, tôi đã gửi một quả bom đồng hồ đến Thống đốc Odessa - Herr nói - Anh định cho thằng cha nào nổ tung lên?
- Tôi muốn cho Tu viện truởng Chichester văng lên trời.
- Ai chà, một lão cha xứ. Nghĩa là anh lưu tâm đến tôn giáo? - Không, đây là chuyện cá nhân.
- Tôi có một chiếc đồng hồ cực đẹp - Herr nói. Anh ta đưa nó cho Arthur xem. Có hai hình thù bằng gỗ trong đồng hồ, một người đàn bà và một con rồng. "Người đàn bà là tự do, con rồng là nền độc tài" - Herr tiếp tục nói: "Tự do phải mạnh hơn độc tài".
- Hiểu rồi - Arthur đáp - Tuy rằng tôi không thích chính trị. Ông có thể đặt bom ngay cho tôi đuợc không?
- Tôi đang có một vài việc quan trọng làm cho bạn bè tôi ở Mascơva. Nhưng vẫn có thể chế tạo quả bom cho ngài trong vài ba ngày. Khi nào ngài muốn cho nó nổ?
- Vào thứ sáu, lúc giữa trưa.
Arthur ghi địa chỉ tu viện vào một mảnh giấy: "Xin ông gửi nó tới tu viện truởng Chichester. Địa chỉ đây"
- Thứ sáu, giữa trưa - Herr nhắc lại - Tu viện trưởng Chichester. - Tôi phải thanh toán bao nhiêu tiền? - Arthur hỏi.
- Tôi không làm việc vì tiền - Herr đáp - Tôi là một người Vô chính phủ. Tôi phục vụ cho Tự Do. Xin ngài trả cho tôi năm pao.
Huân tước trẻ tuổi trả cho ông ta năm pao rồi rời ngôi nhà ở phố Greek. Chàng ngồi ở nhà cho đến ngày cuối tuần chờ đợi tin tức.
Ngày cuối tuần đã tới. Chẳng có gì xảy ra. Arthur lại chờ thêm tuần nữa, vẫn không có chuyện gì. Sau đó chàng nhận được thư của Tu viện truởng:
https://thuviensach.vn
"Arthur thân yêu.
Chú viết cho anh để hỏi thăm xã hội thượng lưu London. Tuần truớc chú có nhận đuợc một chiếc đồng hồ nhưng không biết của ai gửi cho. Thật là một đồ chơi tuyệt diệu, nó có cụm chuông báo thức bên trong giống như cái búa con. Khi đồng hồ điểm mười hai tiếng thì thấy khói bốc ra, thật là tinh xảo. Liệu còn ai ở Londom có chiếc đồng hồ nào giống như thế không?
Chú của anh"
Như vậy là huân tước Arthur chưa giết chú mình. Quả bom đã không hoạt động. Arthur hết sức băn khoăn "Mình sẽ phải làm sao đây?" Chàng tự hỏi mình. " Sẽ rời bỏ tổ quốc chăng? Hay mình nói với Sybil rằng sẽ không kết hôn với nàng nữa?
Hôm đó chàng đi ăn tối với em trai, Huân tuớc Surbiton. Nhóm bạn của Surbiton đều trẻ trung và dớ dẩn. Chúng gây ồn ào ở cửa hàng ăn. Arthur thấy chán cuộc chuyện trò ở đó, chàng rời hiệu ăn vào lúc mười một giờ đêm và đi bộ dọc theo dòng sông.
Sương mù đang từ sông bốc lên. Những ngọn đèn đường mang vẻ của các vầng trăng màu bạc. Có rất ít người trên phố. Chàng đi từ Blacfria tới Wesminter, nghe tiếng chuông đồng hồ Big Ben- chiếc đồng hồ khổng lồ ở tháp Wesminter điểm mười hai tiếng. Chàng Huân tuớc trẻ đứng tựa tường lan can nhìn xuống dòng sông, sương mù dày đặc khiến người ta không nhìn rõ mặt nước. Ánh sáng đèn đuờng khiến dòng sông mang màu đen và long lanh như bạc. Nước đang chảy xiết, dòng sông đen làm cho Arthur nghĩ tới những chuyện tối tăm, kinh khủng.
Huân tuớc Arthur căm ghét thằng cha xem tướng tay. Chàng đang là người hạnh phúc, vui vẻ truớc khi biết số phận của mình."Ta sẽ phải giết một ai đó"-Chàng lầm bầm "Đó là số mệnh của mình. Nhưng hắn nói với ta để làm gì? Ta đang hạnh phúc. Ta không cần biết tương lai sẽ ra sao"
Arthur rời mắt khỏi dòng sông chảy xiết và thấy một người đang đi ở phía truớc. Huân tước tiếp tục đi. Có điều gì đó lạ lùng ở truớc mặt chàng: một người đàn ông đang cúi người qua tường chắn thành cầu, anh ta sắp sửa nhảy xuống sông chăng?
Arthur buớc nhanh về phía truớc. Sau đó chàng dừng lại. Vì có một ngọn đèn đuờng rọi vào mặt người đàn ông kia. Nhưng đó lại chính là Podgers,
https://thuviensach.vn
thằng cha xem tuớng tay! Arthur chợt nẩy ra một ý định khôn ngoan. Chàng nhón chân chạy nhanh về phía truớc, túm lấy ống quyển Podgers và đẩy hắn lộn qua tường chắn. Có một tiếng kêu và tiếng nuớc vỗ mạnh, sau đó hoàn toàn yên tĩnh.
Huân tuớc Arthur đứng sát tuờng chắn, cúi nhìn xuống dòng sông. Chàng không thể nhìn thấy Podgers ở đâu nữa.
- Ngài đánh rơi vật gì chăng? - Một giọng nói bất thần vang lên ở phía sau.
Arthur quay lại và thấy một người cảnh sát tay xách chiếc đèn hơi. - Không có gì đáng giá đâu, trung sĩ ạ - Arthur đáp và cố mỉm cuời. Chàng bỗng dưng cảm thấy vô cùng may mắn. Giờ thì chẳng còn điều gì làm chàng lo lắng.
Ngay hôm sau nữa chàng Huân tuớc trẻ tuổi đọc thấy tin trên tờ Times: VỤ TỰ TỬ CỦA NGƯỜI XEM TƯỚNG TAY
Thi thể của Sptimus R. Podgers được tìm thấy vào ngày hôm qua trên sông Thames. Ông Podgers là nhà xem tướng tay nổi tiếng. Cảnh sát đã thẩm vấn bạn bè của R. Podgers. Họ nói rằng Podgers làm việc rất cặm cụi trong thời gian qua, ông ta đang viết một cuốn sách về thuật xem tướng tay. Bạn ông ta nói Podgers đã bị ốm vì làm việc quá căng thẳng.
Cảnh sát tin rằng ông Podgers đã tự vẫn bằng cách nhảy qua thành cầu xuống sông Thames.
Huân tuớc Arthur chạy ra khỏi nhà mình tới nhà tiểu thư Sybil ở cạnh công viên Lane. Nàng đang nhìn qua cửa sổ. Khi thấy chàng ở ngoài phố, nàng chạy xuống cầu thang để đón.
- Sybil, mai chúng mình cuới nhau đi! - Arthur kêu lên- Không, không cần đến mai...Chúng mình cuới nhau hôm nay đi!
- Ôi, thật là anh chàng ngốc! - Sybil vừa cười vừa khóc.
Cả nàng và Arthur đều vô cùng vui suớng.
Sau đám cuới Arthur cùng Sybil đến thăm Phu nhân Windermere. - Các bạn có hạnh phúc không? - Phu nhân hỏi.
-Cả hai cùng hạnh phúc, thưa Phu nhân. Và hy vọng rằng Phu nhân cũng vui vì chúng tôi - Arthur đáp.
https://thuviensach.vn
- Tôi không có thời gian để mà vui vẻ nữa - Phu nhân than thở - Tôi luôn luôn phải tìm các nhân vật mới để mời đến dự trong các buổi tiếp tân. - Tôi đọc báo thấy tin ông Podgers, nhà xem tướng tay của Phu nhân, chết mất rồi - Arthur nói.
- Ồ, tay Podgers à...- Phu nhân đáp lời - Nhưng giờ có mốt mới rồi. Gọi là "Nhà ngoại cảm". Tôi đã có một nhà ngoại cảm, có thể đọc được suy nghĩ của mọi người. Người ta đã chán tay Podgers. Thằng cha ấy chả đọc đuợc tương lai, hắn chưa bao giờ nói cho tôi đuợc điều gì ích lợi. Tôi không tin hắn ta.
- Tôi tin hắn - Arthur đáp - Mọi điều hắn nói về tôi đều đúng. Hắn làm cho tôi hạnh phúc!
- Hắn làm thế nào để anh hạnh phúc? - Phu nhân Windermere ngạc nhiên.
Arthur nhìn thẳng vào mắt vợ mình rồi nói:
- Hắn giúp tôi kết hôn với Sybil.
- Vớ vẩn! - Phu nhân kêu lên - Tôi chưa bao giờ nghe thấy ai nói vớ vẩn như vậy!
Ngọc Châu dịch
https://thuviensach.vn
Móng vuốt của những con rồng
Michael Hartmann
Phi đội đặc biệt gồm 2 chiếc trực thăng Huey và Chinook bay về
hướng Tây Bắc Saigon, tia mặt trời ban mai chưa đánh tan được làn sương dày đặc bao phủ dãy Trường sơn, Ðại uý Don Straton ngồi cùng với toán lính biệt kích mũ xanh trong chiếc Huey dẫn đầu, theo sau là chiếc Chinook với những thùng vũ khí. Don tức giận, 2 chân run lên như đang sợ hãi, nên đặt 2 tay ghìm đầu gối để khỏi bị nhận thấy. Sáng nay khi đến làm việc tại bộ chỉ huy MACV, Don được lệnh trình diện tướng chỉ huy trưởng để nhận công tác đột xuất chở món vũ khí đặc biệt đến giao cho bộ lạc Mèo trên dãy Trường sơn nằm trong lãnh thổ Lào. Don rất đổi ngạc nhiên vì công tác quá đột ngột. Khi ra ngoài gặp Gerry Manheim, người bạn trong phòng tình báo, Don bày tỏ nỗi ngạc nhiên thì người bạn nói, "Ðây là một công tác quan trọng và mật mà chỉ mày mới được lựa chọn, không ai thay thế được. Công tác không có gì nguy hiểm. Thôi chúc mày thành công và bình yên." Khi về phòng để chuẩn bị quân trang, Don nhận được lá thư của vợ. Claudia, vợ chàng khóc lóc kể nỗi cô đơn và hối hận đã yếu đuối trước sự gạ gẩm làm tình của Gerry Manheim khi y ghé thăm nàng trong chuyến công tác về Hoa Kỳ tháng trước. Ngồi trong máy bay chẳng nghe lời đùa giỡn chung quanh, Don đang thấy một điềm gì không hay.
Don Straton và Gerry Manheim là đôi bạn thân gặp nhau ở Đại Học Harvard. Don con một nhà kinh doanh tư bản, ngược lại Gerry con một người Pháp di dân gốc Ðức làm thợ hồ. Lúc nhỏ Gerry phải đi kiếm tiền bằng rửa chén và lau sàn các khách sạn, nhưng thông minh nên được thâu nhận vào Harvard. Gerry học luật, Don học kinh tế. Ðôi bạn thường gặp nhau trên sân football hay trong các buổi đua thuyền. Khi ra trường Don làm ngân hàng và cưới Claudia, con gái một giám đốc ngân hàng; còn Gerry làm cố vấn cho một vị dân biểu, Gerry thường mơ uớc danh vọng và giàu sang. Gerry thường đến ăn cơm với vợ chồng Don vào cuối tuần, nhưng Gerry bị mê hoặc vì sắc đẹp của Claudia và của hồi môn của nàng
https://thuviensach.vn
mà không ai biết. Khi chiến tranh VN leo thang, cả hai cùng tình nguyện nhập ngũ để khỏi ra binh nhì, và được đồng hóa cấp Trung uý. Sau một thời gian cả 2 được thăng cấp Ðại uý và được gởi sang VN làm việc tại bộ chỉ huy MACV Saigon, Don thuộc phòng lực lượng Ðặc Biệt; Gerry thuộc phòng tình báo.
Chiếc đèn chớp sáng báo hiệu máy bay sắp đến mục tiêu, máy bay bay lượn trên một bãi đất trống mà theo lời thuyết trình trước khi đi công tác sẽ có người Thượng đứng chờ. Hai chiếc trực thăng từ từ đáp xuống, khi gần chạm đất, thì bỗng nhiên những tràng súng máy và B40 bắn xối xả. Bị phục kích bất thần, 2 chiếc trực thăng không kịp phản ứng, các người lính ngã gục ngay từ phút đầu. Nhờ ngồi bên trong, Don thoát khỏi. trong khi anh xạ thủ đại liên cố gắng bắn trả, nhưng rồi bị trúng đạn. Don bò tới vác anh ta và nhảy ra khỏi trực thăng. Vừa đi được vài buớc thì một quả B.40 rơi xuống cách mấy thước, Don thấy sức ép mãnh liệt và hơi nóng kinh khủng đốt cháy da mặt khiến chàng buông thả người bạn và té xuống. Nhờ người bạn hứng hết các mảnh bom, chàng thoát chết. Chàng vội bò lết vào bụi cây trước mặt. Khi tiếng súng im, trong ra chàng thấy chiếc Huey gẩy đuôi, còn chiếc Chinook gảy làm đôi, rồi một bọn Thượng khoảng 1 tiểu đội từ các chỗ ẩn úp xuất hiện, tay cầm súng M.16 tiến lại chiếc Chinook dưới sự chỉ huy của tên cầm đầu, đó là tên Tac Miên. Tên này giơ súng Colt lên cao và hô hoán toán quân trèo lên chiếc Chinook mang chiến lợi phẩm xuống. Tac Miên ra lệnh cạy một thùng ra, nó thò tay vào vốc ra không phải là vũ khí mà là những thoi vàng, nó đưa lên cao cười hả dạ đắc ý, rồi ra lệnh chất các thùng vàng lên lưng đoàn lừa và vội vàng đi vào rừng sâu. Nằm ép trong bụi cây, Don chứng kiến được tất cả, và thấy một âm mưu sâu độc và một sự phản bội không thể nói được. Cảm thấy nhức nhối, Don nằm chờ và hy vọng trực thăng sẽ đến cứu, nhưng suốt cả ngày chẳng thấy gì cả, Don thấy không thể ngồi chờ mãi, phải tìm cách thoát thân. Ðây là dãy Trường sơn thuộc Lào, muốn thoát chết, chàng không thể trở về Saigon vì quá xa, Thái Lan gần hơn. Chàng vội bò ra bụi cây và tiến lại xác 2 chiếc trực thăng, không ai sống sót, chàng cố gắng tìm kiếm thực phẩm và nhặt được một số còn sót lại, rồi lên đường nhắm hướng Tây.
https://thuviensach.vn
Sáng hôm sau, Gerry Manheim cùng trung uý Brunswick và một toán binh sĩ bay trực thăng đi tiếp cứu. Khi đến nơi, toán quân tìm thấy xác chết của toán quân trên 2 chiếc trực thăng ngộ nạn, trừ Don. Sau một hồi tìm kiếm, Gerry Manheim ra lệnh toán quân nghỉ ngơi còn tự mình và Brunswick đi tìm kiếm. Gerry đã hội ý với Tac Miên về nơi dấu phần vàng chia đôi, nhưng khi đến nơi chỉ thấy những thùng gỗ trống trơn. Gerry tức giận thấy bị lừa gạt.
Bị những vết thương làm mủ nhức nhối, Don cố gắng đi khó khăn, sức lực yếu dần, và đôi khi không còn muốn đi nữa, nhưng nghĩ đến âm mưu thâm độc của thằng bạn phản bội, Don thấy cần phải sống để trả thù. Nhìn đồng hồ đeo tay có ngày tháng, Don thấy mình đã bị bỏ rơi được hai tuần và cảm thấy kiệt sức. Một buổi sáng, thấy một ngọn suối trong vắt, chàng liền lội xuống để tắm rửa, lạ thay khi vục nước để rửa mặt, chàng thấy một khuôn mặt kinh dị khác lạ, một má phía mặt cháy đen, mủ tuơm ra và con mắt không còn nữa mà là một lỗ đen ngòm, Don tưởng là cơn sóng rợn phản xạ các hòn sỏi đen dưới khe suối, nhưng soi mặt chỗ khác Don vẫn thấy khuôn mặt dễ sợ đó. Thất vọng không muốn sống nữa, Don rút cây súng lục ở thắt lưng đưa vào màng tang định tự sát thì bỗng nghe tiếng nói đàng sau, "Anh có phải phi công Mỹ bị bắn rơi không?" Quay lại Don ngạc nhiên thấy một ông già mặc quân phục bạc màu đứng giữa 2 người sắc tộc cầm súng cười thân mật, chàng sững sờ, thì ông già nói tiếp, "Chúng tôi là bạn chớ không phải là cộng sản đâu". Don từ từ lội lên bờ cảm thấy choáng váng, và khi đến gần ông già thì té xuống mê man và không còn biết gì cả.
Chiều hôm sau khi mở mắt, Don thấy đang nằm trên chiếc nệm rơm trong căn nhà sàn cạnh chiếc lò sưởi ấm áp, chàng cảm thấy bớt nhức nhối, và các vết thương đã được băng bó lại. Ông già Á Ðông ngồi bên cạnh thấy chàng thức dậy thì an tâm và bắt chuyện, "Chúng tôi chùi rửa những vết thương, cắt bỏ những chỗ thịt thối và thay bộ đồ lính dơ bẩn mà anh chẳng hay biết gì. Tôi là Wu Peng, tướng Quốc Dân Ðảng, khi Cộng sản chiếm Trung Hoa, chúng tôi chạy về Vân Nam tổ chức lại lực lượng để chống cự, nhưng thế cô, chúng tôi phải chạy vào ẩn núp ở vùng Tam Giác Vàng. Nhờ có vũ khí, chúng tôi dẹp yên các bộ lạc chống đôi và làm chủ vùng này, và chúng tôi sống được nhờ nguồn lợi á phiện. "Don kể lại tai nạn và muốn rời
https://thuviensach.vn
gấp để đến căn cứ Hoa Kỳ ở Thái Lan. Tướng tàu cười nói, "Anh thương tích như vậy làm sao mà rời sớm được, và quân đội đâu còn dùng anh, anh nên ở lại đây một thời gian cho vết thương lành lặn, rồi hãy tính chuyện về với gia đình. Anh nên suy nghĩ kỷ, sáng mai anh hãy cho tôi biết ý kiến. "Don thấy nếu mình trở về dơn vị và gia đình, thì mọi người sẽ vui mừng trong giây lát, rồi chỉ thương hại, nên chi bằng để mọi người thương tiếc coi như mình mất tích và tìm cách trả thù thằng bạn phản bội. tướng Tàu vui mừng nghe chàng ở lại và hỏi chuyện, "Hôm qua thay áo quần anh, tôi mới hay anh là sĩ quan bộ binh chứ không phải là không quân. Anh là sĩ quan chuyên nghiệp hay sao?". "Trước khi vào quân đội, tôi là một nhà ngân hàng", Don trả lời không e dè. "Anh may mắn gặp tôi mà tôi cũng may mắn gặp anh, tôi cần người giúp tôi ráp và sử dụng một số vũ khí tối tân và huấn luyện các bộ lạc. Và nghề kinh tế của anh sẽ giúp chúng tôi điều hành kỹ nghệ á phiện". Ông già nói tiếng Anh khá thành thạo.
Vết thương ở mặt đã lành, Don mang chiếc mặt nạ một mắt và được tướng Tàu đặt tên Ðèo Ngươn Long là tên của một vị anh hùng của bộ lạc Mèo. Từ ngày được Don làm cố vấn, quân đội 3 nước Miến, Thái Lan và Lào không dám dặt chân vào vùng Tam giác vàng. Khi tướng Wu Peng mất vì bịnh ung thư, Don trở thành lãnh chúa. Don lập trường học, bịnh viện, và trả lương người trồng á phiện với giá phải chẳng, thiết lập nhà máy tinh luyện tại chỗ, tổ chức những đường dây tiêu thụ trực tiếp khỏi qua trung gian. Phụ tá của Don là Lao Su, một người Miến thuộc sắc tộc Khan gan dạ cầm đầu, có mạng lưới tình báo trên khắp các quốc gia tiêu thụ.
Tac Miên và đoàn lừa đi sâu vào rừng, khi đến một khe núi, Tac Miên kiếm một hang đá hiểm hóc để chôn cất số vàng. Vì ít học và sợ không tìm ra nơi chôn dấu sau này, y cho mời một vị sư ở ngôi chùa sát ranh giới Thái Lan đi theo để vẽ họa đồ kho tàng. Sau khi chôn số vàng xong, Tac Miên cất bản đồ cùng những tài liệu quan trọng trong một hộp thiết, còn nhà sư được cúng một số tiền và trở về chùa. Khi xuống chân núi, nhà sư bỗng nghe những tiếng nổ long trời và mặt đất rung chuyển, và nhìn lên trời nhà sư thấy những chiếc B.52 đang bay về căn cứ Udon. Quay nhìn lại rặng núi, nhà sư giật mình thấy ung khói và bụi mờ mịt. Hiếu kỳ nhà sư quay trở lại chỗ cũ thì thấy khe núi không còn nữa, rừng cây sụp đổ, và không ai sống
https://thuviensach.vn
sót, bất chợt nhà sư thấy chiếc hộp thiết chứa bản đồ mắc trên một cành cây. Nhà sư vội nhặt lấy, và khi về chùa nhà sư cất dấu trong góc chánh điện và dặn các chú tiểu không ai được đụng chạm đến hộp thiết chứa nhiều điều bí mật. Khi vị sư trụ trì sắp tịch dặn các chú tiểu chỉ giao hộp thiết cho những nhà khảo cổ có tiếng. Và tin tức chiếc hộp thiết bí mật bắt đầu được tiết lộ từ đó.
Sau khi đi VN về, Gerry Manheim giải ngũ, ra hoạt động chính trị và đắc cử thượng viện tiểu bang California. Y cưới góa phụ Don Straton, và hy vọng với tài sản của vợ sẽ tiến xa hơn trên chính trường. Thời gian trôi qua đã 10 năm, y đã làm thượng nghị sĩ gần 2 nhiệm kỳ, và đang tính ra tranh cử tổng thống, nên cần có nhiều tiền. Y nghĩ tới kho vàng của Tac Miên. Y nghe lời đồn tấm bản đồ đang cất giấu trong một ngôi chùa ở Thái Lan, nên mướn giáo sư Adirek, gốc Thái thuộc viện nghiên cứu Văn hóa Ðông phương sang tìm kiếm với lý do sưu tầm tài liệu. Không khó khăn vị giáo sư tìm ra ngôi chùa và được các vị sư giao bản đồ cùng nhiều giấy tờ khác.
Khi nghe vị giáo sư đã lấy được bản đồ, Don Straton tức Ðèo Ngươn Long ra lệnh cho Lao Su phải đánh cắp lại. Lao Su giao cho Anwar Fazal thực hiện. Anwar Fazal là một nhà ngân hàng lớn ở Mã Lai, và cũng nằm trong đường dây á phiện được Ðèo Ngươn Long tin dùng. Anwar Fazal mướn bọn Triad ở Hong kong đánh cướp bản đồ lại.
Giáo sư Adirek sau khi kiếm được chiếc bản đồ đáp máy bay về Hoa Kỳ, và trên đường ghé Ðại học Hong Kong để nói chuyện. Khi xuống phi trường Kai Tak, giáo sư Adirek cầm chiếc xách tay đang đứng chờ đợi người đến đón, thì bị 3 tên cướp Triad do Ah Fai cầm đầu đâm chết và cướp chiếc xách tay, một tên cướp bị cảnh sát bắn quỵ được đồng bọn dìu đi.
Bà Bernie Milton là y tá phụ trách thuyền nhân tỵ nạn Hong kong đang xuống xe đón người bạn thấy giáo sư Adirek té xuống máu me định la lớn lên thì bọn cướp dí dao lôi cô và đồng bọn lên chiếc xe hơi của cô và bảo lái về hướng bến tàu. Một chiếc ghe máy chờ sẵn đưa bọn cướp và cô ra chiếc tàu lớn. Tên Ah Fai thấy Bernie săn sóc tận tình em mình bị thương nặng nên không nở giết. Tên cướp bị thương nặng trút hơi thở cuối cùng và được hải táng, rồi 2 tên còn lại là Ah Fai và Sor Chai mang bà Bernie lên một thương thuyền lớn. Ba ngày sau tàu cập bến Singapore, Bernie bị giam
https://thuviensach.vn
trong một căn nhà, còn Ah Fai mang bản đồ giao cho Anwar Fazal. Anwar Fazal đang phá sản và mắc nợ hàng trăm triệu bị các chủ nợ mang ra tòa án, nên y trốn chui. Khi nhận được chiếc bản đồ, y không muốn giao lại cho Ðèo Ngươn Long mà thủ lấy để đánh đổi một mối lợi khác. Y bay sang Thụy Sĩ ẩn núp với một ý đồ không ai biết.
Lao Su được báo cáo Anwar phản bội đã rời Singapore, chận bắt Ah Fai và Sor Chai, và tìm đến khách sạn Anwar ngụ chỉ gặp người tình nhân là Sheri. Lao Su tức giận tống 2 tên Triad lên máy bay về Quảng Châu và không quên gài 2 kí á phiện vào 2 chiếc hành lý. Khi đến sân bay Quảng Châu hành lý bị khám xét, Ah Fai va Sor Chai bị bắt và kết án tử hình vì nhập cảng á phiện lậu.
Luật sư Steve Milton là chồng của bà Bernie, sau khi bà Bernie bị bắt cóc đang tìm kiếm tin tức thì 3 hôm sau cảnh sát duyên hải báo cho biết vớt được một cái xác, và sau khi lấy dấu ngón và điều tra thì biết là một tên cướp trong án mạng ở sân bay, và truy ra biết tên cầm đầu la Ah Fai mà hiện đang bị bắt và kết án tử hình ở Quảng Châu. Steve vội bay sang Quảng Châu, lấy tư cách là luật sư Hong kong xin gặp tên tử tù, Steve được Ah Fai kể hết vụ đánh cắp bản đồ, bắt cóc bà Bernie, giao bản đồ cho Anwar, và nói bà Bernie còn sống và có lẽ đang bị giữ trong Tam giác vàng, và nói có lẽ tình nhân của Anwar là Sheri còn ở Singapore biết được Anwar ở đâu. Steve trở về Hong kong, rồi bay thẳng qua Singapore đến thẳng địa chỉ của Sheri, nàng từ chối tiếp Steve và lái xe đi vội vàng. Steve lén lái xe đi sau, thì hay Sheri ghé công ty du lịch lấy vé đi Thụy Sĩ, Steve cũng lấy một vé cùng chuyến bay.
Khi trốn qua Thụy Sĩ, Anwar vừa lo sợ cảnh sát Interpol, vừa lo sợ gián điệp của Ðèo Ngươn Long theo đuổi, nên y nóng lòng muốn qua Mỹ. Y biết nghị sĩ Gerry Manhein, người đã mướn GS. Adirek tìm kiếm bản đồ không phải để nghiên cứu mà vì một lý do quan trọng hơn, là một nghị sĩ uy tín có thể giúp y qua Mỹ, nên liên lạc và ra điều kiện đổi bản đồ để lấy chiếc Visa nhập cảnh Hoa Kỳ. trong hồ sơ của CIA, Anwar là một nhà ngân hàng đại bịp, nợ hàng trăm triệu đô đang bị các quốc gia Hong kong, Singapore va Mã Lai nhờ Interpol truy nả, Anwar còn bắt tay với các tên Triad để buôn á phiện, mà trong đó có lãnh chúa Đèo Ngươn Long. Gerry hứa sẽ giúp đỡ,
https://thuviensach.vn
nhưng Anwar năn nỉ phải làm gấp, bởi vì y đang bi Interpol và CIA săn đuổi, và nhất là Đèo Ngươn Long đang hăm dọa tính mạng. Gerry hỏi y Ðèo Nguơn Long có phải là người Mỹ không, thì y nói không biết rõ, nhưng là một người da trắng mà y đã được tiếp xúc một lần ở biên giới Thái Lan, còn dân chúng Thái Lan đồn miệng Đèo Ngươn Long là một phi công Mỹ bị bắn rơi mang thương tích nặng muốn lánh đời, hay một tên cướp ở Mỹ trốn pháp luật chạy sang ẩn náu. Gerry Manheim cảm thấy lạnh người và không còn nghi ngờ gì nữa DNL chính là Don Straton.
Steve bám theo Sheri đến Chalet của Anwar ở ngoại ô Genève, Steve lén vào Chalet, cầm dao hăm dọa Anwar phải cho biết vợ ở đâu, không may lúc đó người gác dan mang củi vào trong thấy, phang một cây củi vào đầu, Steve té ngất. Sợ liên lụy, Anwar cùng Sheri lên xe và lôi Steve theo đặt trong ghế sau, và định vất xác Steve giữa rừng. Gián diệp của Đèo Ngươn Long ở Âu châu đuổi xe theo kịp, Anwar lạc tay lái đâm xe xuống hố, Steve bị thương nhẹ bò ra khỏi xe thấy Sheri chết, còn Anwar bị thương nặng. Anwar năn nỉ Steve giúp y chạy trốn vì phe Ðèo Ngươn Long đang đuổi theo. Steve hỏi tấm bản đồ ở đâu, thì chỉ trong chiếc xách tay. Steve nhặt lấy vừa lúc thấy 2 bóng người đang tiến lại, Steve vội vàng leo lên bờ đường và được cảnh sát cứu và chở về nhà thương cấp cứu.
Gerry Manheim đang sửng sốt khi nghe tin GS Adirek bị đâm chết, chiếc bản đồ bị đánh cắp, thì vài hôm sau Anwar liên lạc muốn gặp gấp. Gerry phái Brunswick, người tay chân bay sang Thuỵ Sĩ để nói chuyện. Khi Brunswick vừa đến Thụy sĩ thì cảnh sát cho biết Anwar và tình nhân đã tử nạn xe hơi, người còn sống sót là Steve hiện đang nằm nhà thương. Brunswick tìm đến nơi thì hay Steve vừa mới rời tức thì. Nhờ thấy hình trên báo, Bruswick nhận ra ngay và thấy Steve đi đến bưu điện. trước khi trở về Singapore, Steve gởi chiếc bản đồ cho người bạn ở Nam Phi cất dùm, và chỉ giữ lại những tài liệu. Brunswick đi theo và chen đứng sau Steve, y thấy Steve gởi một phòng bì lớn qua Nam Phi, y vói người qua xem và nhớ địa chỉ và số hộp thơ trên phong bì mà Steve chẳng hay, y giả vờ mua tem va hỏi nhân viên bưu điện thời gian thơ đi Nam Phi bao lâu, thì y biết là cần 3 ngày.Thế là y đi thẳng đến công ty du lịch lấy vé đi Nam Phi 2 hôm sau. Y
https://thuviensach.vn
đến hộp thơ của bạn Steve cạy hộp thơ và lấy được phong bì chứa tấm bản đồ và bay về London.
Sau khi Ah Fai và Sor Chai bị tống về về Quảng Châu, Lao Su nhận được lệnh của ÐNL bảo vệ bà Bernie và mang bà vào Tam giác vàng. Chiếc Cessna chở Lao Su và bà Bernie bay về hướng bắc Thái lướt qua những khu rừng dày đặc, khi đến một bãi trống, máy bay hạ xuống, một chiếc xe hàng cũ kỷ đã chờ sẵn, Lao Su cùng Bernie leo lên, xe chạy theo đường mòn trong khu rừng âm u, lát sau xe chạy ra khỏi rừng và men theo những ngọn đồi trọc mọc đầy một thứ hoa gì đã tàn, khi nhìn kỷ thấy trên ngọn cây nặng trĩu những trái cây giống như như quả sung. Một số người sắc tộc mặc áo quần như mọi da đỏ, cổ mang vòng bạc đang cầm chiếc dao con xẻ trái cây để mũ chảy ra. "Ðó là ruộng á phiến đang mùa thu hoạch", Lao Su nói.
Bà Bernie được dẫn tới một căn nhà sàn có cô gái thượng hầu hạ. Sau khi tắm rửa khoan khoái, cô gái nói, ông Khun sẽ đến thăm bà. Bernie ngơ ngác thì cô gái nói đó là lãnh chúa Đèo Ngươn Long. Một lát sau một người da trắng khỏang 40 tuổi, mặc bộ đồ khaki bạc màu, mặt đầy vết thẹo và mang chiếc mặt nạ một mắt xuất hiện tự xưng la Đèo Ngươn Long. Bernie mạnh dạn hỏi, "Ông là người Hoa Kỳ phải không, và tên thật của ông là gì?"
"Vâng, tôi là người Hoa Kỳ, hãy gọi tôi là Don." Tuy mặt mày mang vết thương nặng trong dễ sợ, nhưng giọng nói êm dịu mang âm hưởng của sinh viên Ðai học Harvard.
"Tôi mời bà dùng cơm chiều", Don nói lễ độ. Thấy Don lũ con nít chạy theo nói líu lo, còn các người thượng tỏ vẻ kính sợ. Don dẫn Bernie vào một cái hầm, chung quanh có hệ thống phòng thủ, có ụ súng máy. Giữa phòng chiếc bàn ăn thắp đèn cầy và một chai ruợu Chardonnay, và trong góc kê một giá sách và một máy HiFi.
"Ðây là phòng làm việc của tôi, tôi không ở một chỗ cố dịnh nào cả, nên thiếu tiện nghi để tiếp bà. Tôi thấy hình bà trên các báo, nhưng tất cả không bằng người thật của bà," Don khen ngợi. "Tôi bị bắt cóc không lý do, tại sao không để tôi về?" Bernie hỏi gắt gỏng. "Bà sẽ được về với gia đình, nhưng cần một thời gian," Don ôn tồn trả lời. "Phải chăng ông muốn tiền chuộc," Bernie hỏi tức bực. "Không có vấn đề đó," Don trả lời chân thật. "Vậy thì
https://thuviensach.vn
khi nào ông thả tôi?" "Chừng nào còn cần thiết," Don trả lời không nóng nảy. "Có gì cản trở hay hăm dọa ông?" Don kể lại âm mưu Gerry Manheim cấu kết vối Tac Miên để chia số vàng và nhẩn tâm tàn sát hết toán biệt kích, chỉ một mình chàng may mắn sống sót. "Cho nên tôi ráng sống để trả thù và mang kẻ phản bội ra pháp luật."
"Chuyện đó đã xẩy ra trên 10 năm, và biết đâu là một tai nạn. Nếu như không có bằng chứng thì anh nên trở về với gia đình, chớ ích gì chôn vùi cuộc đời trong chốn rừng sâu. Tôi thấy trẻ con ở đây thương mến anh, tôi cũng là một người mến anh, thì chắc chắn sẽ có một người đàn bà khác thương anh." Bernie thấy Don là một người dễ mến. "Tôi tật nguyền thế này khiến mọi người lánh xa," Don nói buồn bã chua cay vừa kéo chiếc mặt nạ để lộ hố mắt sâu hỏm và những vết thẹo chằn chịt như vòi con bạch tuột. "Ở đây không có TV, nhưng một khi dân chúng ở đây được xem TV thấy những khuôn mặt đẹp thì họ sẽ đâm ra sợ tôi. Nhưng điều này không phải là một quan tâm lớn, tôi muốn công lý, và nhất là muốn ngăn cản một kẻ phản bội đang có mưu đồ lãnh đạo thế giới tự do. Nếu bà về sớm, những lời khai của bà sẽ giúp cảnh sát hay CIA ngưng lại được âm mưu, và kẻ gian ác sẽ tìm cách thủ tiêu những tang chứng. Dù bà bị bắt vô cớ, nhưng vô tình bà vướng trong cái móng vuốt của những con rồng "A Web Of Dragons.""
Từ hôm gặp Bernie, Don thấy tâm hồn mình như sống lại. Không cầm lòng được, Don ghé lại túp lều Bernie, Don kể lại cuộc đời thơ mộng thời xưa, những ngày hạnh phúc, những ước mơ tan vở và sự cô đơn trong chốn rừng sâu khiến Bernie không khỏi cảm động, và khi đứng dậy ra về, Don không kìm chế được ôm Bernie chặc và hôn hít như diên dại. Bernie đẩy Don ra và nói: "Rất tiếc tôi là người đàn bà có chồng". Don biết mình đi quá trớn, xin lỗi.
Sau vụ săn đuổi Anwar từ Sigapore sang Thụy Sĩ, Steve được báo chí Âu Châu tuờng thuật cuộc mạo hiểm phi thường, hình ảnh Steve được đăng tải trên các nhật báo, Don không khỏi phục Steve là một gián điệp tài tử bậc thầy. Khi máy bay hạ cánh ở Singapore, Steve liên lạc vơi cảnh sát Hông Kong yêu cầu giới thiệu cho một đường dây bạch phiến ở Singapore, Steve tiếp xúc Lao Su ngỏ ý muốn vào Tam giác vàng có chuyện quan trọng. Đèo
https://thuviensach.vn
Ngươn Long ra lệnh Lao Su phải giúp đỡ Steve mọi cách để bay vào khu Tam giác Vàng khẩn cấp.
Steve bay vào khu Tam giác vàng đúng một hôm trước ngày khai mạc Hội nghị quốc tế chống ma túy ở Bangkok. Khi chiếc Cessna của Steve hạ xuống một bãi đất trống thì đã có người chờ sẵn, chiếc máy bay được che dấu. Một chiếc xe hàng chở Steve chạy quanh co một hồi lâu, rồi xe ngừng lại một khu nhà sàn, Steve xuống xe thấy một người cao lớn độc nhản đến chào, "Anh là Đèo Ngươn Long phải không? Tôi có thể gặp vợ tôi ngay không?" Steve nóng nảy hỏi, "Lẽ tất nhiên, nhưng bản đồ đâu?" Don kiên nhẩn hỏi lại, "Tôi không dám mang theo, bạn thân tôi sẽ gởi tới sau," Steve nóng nảy nói, "Tôi cần bản đồ gấp không thể chậm trể được, vậy khi nào tôi nhận được?" Don tỏ vẻ tức bực. "Khoảng 3 ngày." Don tỏ vẻ thất vọng và chua chát nói, "Anh chơi gác tôi sao?" "Tuy không mang theo bản đồ, tôi có mang theo đây tập tài liệu này để chứng minh cam kết của tôi," Steve đáp lại và lấy trong mình ra một phong bì lớn. Phong bì chứa một quyển nhật ký đã vàng ố. Lướt qua một vài trang, Don tỏ vẻ sung sướng, và bỗng đưa 2 tay lên cao hét lớn, "Ta đã có bằng chứng hiển nhiên tên phản bội sau bao năm chờ đợi," rồi vội nói với Steve, "Bây giờ tôi chẳng cần tấm bản đồ nữa, anh muốn tặng ai hay xé bỏ tùy ý." Ðồng thời quay nói với Lao Su đứng bên cạnh, "Hãy đưa ông Steve Milton đến gặp bà Bernie liền, và chuẩn bị ngày mai để 2 ông bà bay về Bangkok."
Don về lều chong đèn suốt đêm để đọc quyển nhật ký của Tac Miên. Tac Miên ghi những công tác khi bằng tiếng Anh, khi tiếng Lào mà Don có thể đọc dễ dàng, nhưng đến phần những cuộc điện đàm với Gerry, Tac Miên dùng mật mã, và nhờ có bản mật mã đính theo, Don mất nhiều thì giờ để dịch ra tiếng Anh. Vừa dịch, Don toát mồ hôi và rợn người vì âm mưu gian ác của tên phản bội. Tac Miên ghi lại: Gerry lãnh nhiệm vụ tiếp xúc với y nhiều lần, khi đích thân, khi điện đàm, Tac Miên yêu cầu viện trợ vũ khí, sĩ quan cố vấn và vàng vì người Mèo không biết xài đô la. Tac Miên không thích Gerry lắm vì hách dịch. Lần sau cùng Gerry đưa ra một đề nghi lạ lùng là khuyên Tac Miên nhận vàng và đừng có đánh địch, vì đánh địch thế nào cũng có lúc bị giết, cho nên hãy trốn ra vùng biên giới Thái Lan. Tac Miên trả lời nhận vàng của Hoa Kỳ mà không đánh địch sẽ bị giết. Gerry
https://thuviensach.vn
nói sẽ che chở và ngăn cản những vụ lùng bắt. Số vàng sẽ chia đôi, phần của Gerry được cất dấu trong cái hang gần chỗ trực thăng đổ. Kế hoạch của MACV là đưa toán cố vấn đến trước, và số vàng sẽ được chở tiếp theo sau. Nhưng 2 ngày trước công tác, Tac Miên nhận được điện thoại là 2 máy bay sẽ đến một lần. Tac Miên liên lạc với Gerry, thì Gerry trả lời vỏn vẹn: Tango Dance. Don bóp trán suy nghĩ vẫn không hiểu được, Don đọc đi đọc lại từ đầu đến cuối nhiều lần, khi gần sáng, Don chợt thấy ở trang cuối hàng chú thích Tango Dance nghĩa là tàn sát tất cả. Ðó là lý do vì sao toán biệt kích của chàng bị bắn chết.
Gerry Manheim hiện nay là nghị sĩ thượng viện chủ tịch Ủy Ban bài trừ ma túy. Những cuộc điều tra của Ủy Ban đã phát giác được những đường dây bạch phiến quốc tế quan trọng được báo chí khen ngợi. Cuộc thăm dò của viện Gallup tiên đoán Gerry hy vọng được Ðảng Dân chủ đề ra tranh cử Tổng thống. Gerry đang sửa soạn chương trình tranh cử, nhưng mối lo âu của Gerry là cần có môt ngân quỹ lớn ngoài số tiền do ủy ban tranh cử lạc quyên, nên Gerry nghĩ đến chiếc bản đồ kho vàng của Tac Miên. Nên Gerry nhờ GS Direk sang Thái Lan tìm kiếm thác lý do cần tài liệu nghiên cứu. Một mặt khác, để có thành tích lớn, Gerry vận động chính phủ Thái tổ chức một hội nghị chống ma tuý gồm 3 nước Thái, Miến và Lào họp tại Bangkok với sự tham dự của Hoa Kỳ và một số nước Âu châu, và đồng thời một cuộc hành binh phối hợp của 3 nước với sự yểm trợ không lực của Hoa kỳ vào vùng Tam giác Vàng. Gerry đại diện Hoa Kỳ sẽ tham dự.
Gerry cùng vợ Claudia bay sang Thailan dể dự hội nghị và ngụ trong một khách sạn sang trọng giữa thủ đô Bangkok thì nhận được điện thoại của Brunswick báo tin mừng đã đánh cắp lại được tấm bản đồ của Anwar, Gerry mừng trong bụng, ván cờ sắp đến tay, hội nghị bài trừ ma túy không những mang lại danh vọng mà cuộc hành binh vùng Tam giác vàng sẽ giết được Don Straton và hủy hoại được tất cả tang chứng.
Ðoàn xe chờ sẵn để đưa Steve và Bernie trở lại chiếc Cessna, Đèo Ngươn Long va Lao Su đã có mặt. Bỗng một người Thượng ở chòi canh hớt hải chạy đến báo nghe thấy tiếng máy bay, Đèo Ngươn Long hơi giật mình, một lát sau những chiếc phản lực xuất hiện rõ ràng, DNL ra lệnh tất cả ẩn
https://thuviensach.vn
núp, đồng thời ra lệnh cho Lao Su điện thoại ban ám sát ơ Bangkok thi hành kế hoạch đặt bom khẩn cấp.
Gerry cùng Claudia rời khách sạn trên chiếc Mercedes có quân cảnh hộ tống để đến dự Hội nghị lúc 8 giờ sáng, khi sắp đến nơi thì được cơ quan an ninh loan báo Hội nghị đình hoản lại 2 tiếng vì có tin phòng hội nghị bị đặt bom, đoàn xe quay trở về. Claudia có vẻ lo sợ, thì Gerry cười nói, "Chính khách quan trọng khi nào cũng có nhiều kẻ thù, cưng hãy an tâm." Khi Gerry vừa mở cửa phòng khách sạn thì một tiếng nổ long trời, Gerry va Claudia chết tức khắc nằm ôm lấy nhau.
Don và mọi người vừa chạy xuống chỗ ẩn núp thì 3 chiếc phản lực mang dấu hiệu không lực Hoa Kỳ nhả bom và bắn hỏa tiển xuống phá tan tất cả các căn chòi, Don hướng dẫn mọi người chạy theo những đường mòn, trong khi đó các phi đội khác lần lượt bay đến dội bom không nương tay, đồng thời những trực thăng đổ quân đốt phá tất cả các cánh đồng á phiện. Tam giác vàng trở thành một biển lửa. Don điều khiển mọi người một cách bình tĩnh và gan dạ. Khi đã ra khỏi vùng bom đạn, Don nói vơi Steve và Bernie, "người sắc tộc tẩu tán dễ dàng qua biên giới Trung Hoa, còn 2 ông bà phải rời chỗ nguy hiểm này tức khắc". Khi đến một cái hang chứa 2 chiếc xe Jeep, Don và toán lính hộ vệ đưa vợ chồng Steve đến bãi trống, nơi chiếc máy bay chở Steve đã hạ cánh hôm qua, chiếc Cessna được kéo ra. Trước khi từ giả 2 người, Don rút phong bì dấu trong ngực ra đưa cho Bernie và nói, "Xin ông bà vui lòng giao tận tay một nhà báo lớn khi đến Bangkok và chúc ông bà bình an." Steve và Bernie hạ cánh xuống phi trường Bangkok được báo chi xúm lại phỏng vấn, 2 người kể lại mọi chi tiết những ngày trong khu Tam giác vàng và cuộc đời lãnh chúa Đèo Ngươn Long, nhưng nhất thiết không tiết lộ tên thật Don Straton. Sau đó Steve và Bernie liên lạc gặp một ký giả nổi tiếng của tờ Le Monde đang có mặt ở Bangkok và trao tất cả tập tài liêu của Don Straton.
Sau vụ đặt bom giết chết vợ chồng thượng nghị sĩ Gerry Manheim, tất cả báo chí ơ Bangkok và các nước trên thế giới ca ngợi không hết lời và tỏ lòng thương tiếc. Quan tài Gerry Manheim và Claudia phủ lá cờ Hoa Kỳ được chở về nước và quàng ở toà Quốc Hội để chờ làm lễ quốc táng, thì hôm sau nhật báo Washington Post đăng lại nhật ký Tac Miên trên tờ Le
https://thuviensach.vn
Monde và cuộc phỏng vấn Steve và Bernie. Đám tang của vợ chồng Gerry Manheim được chôn âm thầm chẳng còn ai nhắc đến.
Nhật báo Washington Post sau khi bình luận kết thúc, "Nhờ thượng đế phù hộ, không tý nữa chúng ta đã chọn lầm một kẻ phản bội lãnh đạo quốc gia." Brunswick ở London nghe tin vợ chồng Gerry Manheim bị khủng bố đặt bom giết chết chẳng chút xúc động, trái lại mừng thầm sẽ chiếm được kho vàng. Khi y xuống sân bay ở Washington thì bị FBI tống giam và thú hết tội lỗi. Hoa Kỳ liên lạc với chính phủ Lào thâu hồi lại được số vàng. Dân chúng Thái Lan không còn nghe tới Đèo Ngươn Long nữa, Lao su trở thành lãnh chúa vùng Tam giác vàng.
Steve va Bernie trở về Hong kong mở văn phòng luật sư và sinh được một đứa con trai. Nhưng hàng năm vào mùa Giáng Sinh, hai vợ chồng đều nhận được một món quà gởi từ Bahamas với tấm thiếp ghi: Cám ơn và chúc mừng hạnh phúc. Ký tên: Don Straton.
Nguyên tác: A Web Of Dragons
Dịch giả: Trần Xuân Hiển
https://thuviensach.vn
Ở nơi đất khách
Boris Ekimov
Cuối tháng 11, Vacia Kolun xuất hiện ở trong làng. Anh ta bao giờ
cũng về nhà vào dịp lễ: Lễ giáng sinh, lễ tống tiễn mùa đông, lễ phục sinh, lễ ba ngôi, khi mà thượng đế cho phép tất cả mọi người được vui chơi thoả thích. Mấy năm này, Vacia làm việc ở thành phố: Lái xe, buôn bán cái gì đó (tất nhiên không phải thứ mình làm ra), sửa chữa xe cộ. Nói tóm lại là thử đủ mọi nghề. Mà Vacia Kolun mới có 30 tuổi. Bỏ vợ. Tự làm chủ mình. Sống nay đây mai đó; thỉnh thoảng anh ta có ghé về quê thăm mẹ dăm bữa nửa tháng rồi lại đi mất. Thỉnh thoảng kiếm được anh ta rất hào phóng. Nhưng thường thì phải lục ví tiền của mẹ để trả cho những bữa nhậu nhà quê.
Lần này Vacia xuất hiện vào dịp cuối năm, giáp Tết, mặc bảnh choẹ: áo da cừu thuộc xanh rêu, đội mũ có tai bịt cũng bằng da cừu thuộc, chân đi đôi bốt da cao cổ. Còn cái mặt thì giống như mặt mèo, tròn xoe, rõ ra người no đủ. Xe buýt chở Vacia từ trung tâm huyện đỗ sát ngay bên xưởng cơ khí của đội sản xuất và gara ôtô. ở chỗ đó bao giờ cũng đông người.
- Ở đâu về đấy, Vasek (Vacia gọi thân mật)? - Mọi người hỏi anh ta - Trông mặt mũi đầy đặn thế kia chắc ăn nhiều, hay là ở nhà nghỉ về? - Từ nhà tù ra.
Lập tức những câu đùa ào theo.
- Cho tớ địa chỉ nhà tù với. Chúng tớ cũng sẽ tới đấy. Tù cả đám cho vui. - Tù cả đám không được đâu, người ta chia ra từng nhóm đấy. - Vacia cảnh cáo, nhưng vẫn cho địa chỉ: -Svarsenpumpe.
- Đấy là đâu vậy hả? - Cả bọn ngạc nhiên.
- Cộng hoà Liên bang Đức.
Đám đông im bặt. Gã mugic có vẻ như nói đùa. Nhưng nét mặt thì chẳng có vẻ gì là đùa cợt cả. Lấy từ trong túi ra cái chai nửa lít đựng rượu, hắn chiêu đãi mọi người, gọi là chào mừng ngày trở về quê hương, theo lệ.
https://thuviensach.vn
Mọi người chia đều rượu, đồng loạt uống cạn. Thế rồi người ta cũng hiểu được đôi chút sự việc. Hoá ra có một bọn người Chechen hay người Gruzin làm thuê cho Vacia chuyển xe ôtô từ Đức sang Nga. Họ sang bên đó bằng máy bay. ở đấy người ta giao xe cho họ. Cứ thế mà lái về. Đến Bạch Nga sẽ có người tiếp nhận những chiếc xe đó. Vacia đã chuyển được ba chiếc. Đến cái thứ tư thì bị người Đức giữ lại ở biên giới. Trong máy vi tính có tên của hắn. Hãy bỏ tiền ra mà nộp phạt, 300 mác. Cũng chẳng hiểu vì sao lại bị phạt. Mà tiền thì không có. Thế là người ta bắt hắn ngồi tù hai tháng. Hắn mãn hạn ở cái nhà tù có tên Svarsenpumpe ấy. Đại thể, mọi người đều tin hắn. Tin cả việc hắn đã ở Đức, cả việc hắn bị tù.
Nhưng khi hắn nói đến đoạn tiếp theo thì người ta buộc phải dừng hẳn lại.
- Trong mỗi phòng giam đều có tivi màu mười một chương trình nhé. Có thể xem suốt ngày đêm. Mỗi phòng giam có từ hai đến ba người. Mỗi phòng đều có buồng tắm nóng lạnh, buồng vệ sinh.
- Thôi được rồi - người ta nói với hắn, Vacia, cậu đã bươn chải rồi. Xéo về với mẹ mà nghỉ ngơi đi.
Bọn khoác lác trong vùng không thiếu. Nhưng chẳng có ai như hắn. Nhất là hắn lại ca ngợi nhà tù nữa chứ. Gì thì gì chứ người ta cũng nghe chán về nhà tù rồi. Gã Kostia chẳng đã ở tù ba năm vì bà nhạc, còn Ivan Bưkov, như người ta đồn, ở tù vì say mê những vật dụng gia đình kỹ thuật phức tạp. Hắn thuổng có đến ba cái tủ lạnh ở cửa hàng trên huyện. Nikolai Mazaev ngồi tù những tám năm. Vì công việc, -gã giải thích ngắn gọn. Vì thế cho nên nói đến nhà tù, trại cải tạo, kỷ luật trong tù là họ cũng hiểu biết ít nhiều, đừng có tưởng dễ mà bịp đưnh kỹ
- Tivi màu... hai người một phòng giam... tắm nóng lạnh... buồng vệ sinh... Dân gian có câu một tấc đến trời, nhưng cũng phải có mức độ chứ. Nhà quê thật đấy nhưng đây không phải chỉ rặt bọn óc bã đậu đâu nhé. Đây cũng có đôi chút hiểu biết đấy. Nói tóm lại, họ đuổi Vacia về nhàu
Đuổi người ta về thì họ cũng đã đuổi rồi, hắn cũng đã đi rồi. Với lại thằng cha này đi đứng vẫn còn đàng hoàng lắm, rõ ra người chưa say. ấy vậy mà sau khi hắn đi rồi tự dưng lại có vài người đâm ra nghi hoặc:
https://thuviensach.vn
- Dù sao thì cũng là ở ngoại quốc... chủ nghĩa tư bản... phát rồ hết cả rồi... cứ xem tivi thì biết...
- Tivi thì nói làm gì, ở đấy muốn cái gì người ta chiếu cái đó. Tuyên truyền mà lại! Thì bây giờ ở đấy người ta cũng tuyên truyền về chúng ta cho mà xem.
- Cậu Khachinsev người thôn Vikhliaevski đi thăm gia đình nhà vợ ở bên Đức cũng có kể...
Đến đây bỗng dưng Nikolai Mazaev chen ngang:
- Tất cả những thứ đó đều là bịa tất! - hắn la lên. - Bốc phét tổ trời! Chỉ khoẻ doạ! Vải trải giường ư! Tivi ư! Mỗ đây đã từng nếm trải cả rồi nhá, nhà tù, trại cải tạo đủ kiểu rồi! Vậy thế mà nó cứ khơi khơi làm như nhà tù là nhà văn hoá, giải trí không bằng. Thường thì gã mugic này ít lời. Thế mà bây giờ cứ nhảy chồm chồm lên, rõ ràng gã bị chạm nọc mạnh. Cứ để cho nó hót, thằng chọi con. Thề có các cụ chứng giám, tớ phải bóc mẽ nó mới được.
Thế là từ hôm ấy mọi chuyện đã bắt đầu. Trong thôn chỗ nào cũng chỉ thấy người ta nói tới cái nhà tù ở Đức ấy. Cả tuần người ta kéo Vacia đi hết nhà này đến nhà khác. Tất cả mọi người đều thích nghe câu chuyện của hắn, cho dù cũng chẳng tin, là vì nó cứ như truyện cổ tích vậy.
- Phòng giam có loại cho một người, có loại cho bốn người, còn phòng của tớ có hai người. Chỗ vệ sinh, lavabô, nhà tắm, nước nóng suốt ngày đêm...
- Gớm quá nhỉ! Còn chỗ chúng ta thì họ lại đóng cửa nhà tắm công cộng. - Trong mỗi phòng giam đều có tivi màu. Chiếu cả mười một chương trình.
- Bao nhiêu? - Mười một. - Sướng nhỉ... - Có ai đó thở dài - Nhà tù gì mà sướng thế.
- Nếu thích xem hoạt hình, có riêng một chương trình. Muốn xem đá bóng có đá bóng, muốn khúc côn cầu có khúc côn cầu. Còn phim hình sự thì thôi rồi, cứ gọi là thoải mái suốt ngày đêm. Mỗi phòng lại còn có cả tủ lạnh nữa chứ.
- Thế có cái gì ở trong ấy?
https://thuviensach.vn
- Những thứ mua ở cửa hàng chứ còn cái gì. Cửa hàng làm việc hàng ngày mà cái gì cũng có chứ chẳng như cửa hàng ở thôn ta đâu. Nếu không có cái gì thì cứ việc đặt, người ta khắc mang tới vào ngay ngày hôm sau.
Những buổi nói chuyện như vậy thường diễn ra trong bếp, nơi người ta uống hết chai này tới chai khác, nhắm rượu với dưa chuột muối, bắp cải muối, mỡ muối hay đồ nguội. Còn hút thuốc thì phải ra ngoài không thì khói thuốc khéo mà làm tốc cả mái nhà mất.
- Ban ngày nhà giam khoá cửa. Nếu muốn đi dạo thì đi dạo ở các tầng. Muốn chơi thể thao hả, cứ việc đến phòng tập luyện, ở đấy có đủ mọi loại dụng cụ. Có cả máy chạy, chạy hoài ở trên đó mà cứ như đứng nguyên tại chỗ. Có cả xe đạp, bàn bóng bàn. Nếu không thích chơi thể thao thì vào thư viện. ở đấy đầy sách đủ các thứ tiếng. Có cả tiếng Nga. Tớ cũng đã mượn.
Vacia ngồi ở chỗ trang trọng nhất, thong thả nhắm rượu với đồ nguội. - Nhưng đồ nguội ở đó lại cóc có, cái gì đã không có là không có. Các thứ còn lại thì cứ việc ních căng bụng. Buổi sáng dứt khoát phải có yogurt. - Cái gì, cái gì?...
- Yogurt. Một dạng sữa chua, nhưng ngọt và có thêm mùi trái cây. Cứ việc ăn thả sức, căng bụng. Bữa trưa, hôm thì người ta cho ăn thứ súp đặc nấu với khoai tây nghiền, hôm thì súp đậu, hôm súp rau, giống như súp củ cải đỏ nhà mình ấy.
- Thế có sampan không đấy? - Mazaev không nhịn được.
- Người ta tổ chức khiêu vũ một vài lần, có nhạc sống kèm theo. Đàn ông đàn bà đều được thả cả ra để nhảy với nhau. Khi đó thì có cả rượu và bia.
- Mày không bốc phét đấy chứ? - Trong nhà tù còn có cả khiêu vũ nữa... - Mazaev không còn giữ được bình tĩnh. - Nikolai! Người ta cảnh cáo hắn - đi hút thuốc đi. Mazaev ngoan ngoãn bước ra ngoài. Gặp ai ở hành lang hắn cũng giận dữ chứng minh:
- Rõ ràng là nó nói dối! Chính bản thân tớ đi hết nhà tù nọ đến nhà tù kia... Cả trong các trại cải tạo kiểu mẫu cũng đã từng, có những nơi giam giữ những người ngoại quốc, mà kể cả đấy cũng không phải nhà nghỉ, cũng không phải nhà trẻ! Đấy là nhà tù có chấn song sắt! Hắn nói dối! Gầy gò, rúm ró, Nikolai bổ nhào hết người nọ sang người kia, hai mắt đỏ kè.
https://thuviensach.vn
- Nếu như không làm việc người ta vẫn cho năm mươi mác một tháng để tiêu vặt. Cũng đủ... Còn nếu như làm việc thì được ba trăm mác - đó là lương tối thiểu ở nước người ta, ít hơn không có. Đó là lương cho người quét dọn, làm vườn, trồng cây trong nhà kính, chăn thỏ, giặt giũ. Cũng có thể nhận được tới năm trăm, thậm chí bảy trăm mác.
- Nếu tính ra tiền ta thì chỗ đó là bao nhiêu?
- Thì cứ tính đi... Một mác ăn mười hay mười hai rúp. Năm trăm mác - vị chi là hơn năm trăm nghìn, khoảng sáu bảy trăm nghìn gì đó. Những tiếng kêu, tiếng tranh cãi nổ ra ầm ầm. Là bởi vì người ta chẳng bao giờ được nhìn thấy số tiền lớn đến như vậy. Lương hai ba trăm rúp nhận được còn là khướt. Thôi thì đủ các loại giấy tờ, rồi ký nhận, cuối cùng thì cả năm cũng còn không nhận được.
- Đồ dối trá khốn nạn! - Nikolai mất giọng, khào khào nói. - Tao gặt lúa có đến cả tháng rưỡi trời... không rời khỏi máy gặt... làm cả ngày lẫn đêm mà cũng chỉ được có nghìn rưởi... mà số tiền đó cũng đã nhận được đâu... Nói dối! - Và không chịu được, hắn vùng bỏ ra ngoài phố để băng tuyết làm dịu bớt cái đầu.
Vacia bình thản nhìn cảnh om sòm. Hắn thong thả làm một tợp rượu nhắm với đồ nguội chấm tương ớt. Hắn khen:
- Chỗ ấy thế mà không có đồ nguội. Cái gì đã không có là không có. khi đám đông trật tự trở lại, hắn lại tiếp tục hót:
- Xàphòng, nước gội đầu, kem đánh răng, bàn chải, dao cạo và các thứ khác người ta cho không. Mặc thì quần áo của họ. Khăn trải giường, khăn tắm, khăn mặt, đồ lót thay hàng ngày. Người ta vừa đẩy chiếc xe đựng đồ dọc theo ban công vừa kêu: Có ai cần giặt không!. Chỉ việc vất quần áo bẩn vào đó, rồi nhận lấy quần áu: Cu:
- Thế mới là sống chứ... - Có ai đó ghen tức. - Hệt như đi nghỉ biển vậy. Giá mà được đến đấy nhỉ...
- Thì cứ việc, - Vacia thông báo. - Cứ đi đến Berlin, ở đó có ga SO ngay trong thành phố. Đi một vòng quanh ga sẽ tìm thấy một văn phòng. ở đó người ta sẽ phát cho cái vé ngủ không mất tiền, rồi hướng dẫn tiếp đến chỗ đó như thế nào.
- Còn gì nữa, phải mau mau mà tới đó thôi!
https://thuviensach.vn
Cứ như vậy các buổi chiều trôi nhanh: Hết chai rượu nọ đến chai rượu kia được đặt lên bàn. Các thứ đồ muối, đồ mặn, mỡ muối nhà làm. Vacia Kolun ngồi ở chỗ trang trọng: Trong phòng giam nào là tủ lạnh, tivi màu, tủ đựng quần áo, tủ nhỏ để đầu giường, bàn... Ngày hôm nay hắn ca bài ca này ở một nhà, ngày mai nhà khác lại gọi hắn tới.
ở nhà Vacia bị mẹ mắng: - Đừng có mà lê la các nhà như vậy. Mày không biết xấu hổ hả con? Cả thôn cứ ầm ĩ cả lên... Xóm giềng người ta chê cười cho... mày còn trẻ, còn phải sống chứ con. Trong họ nhà mình từ trước tới nay chưa có ai bị tù đày bao giờ.
- A - a... - Vacia phẩy tay.
Mẹ chẳng hiểu gì cả, có giải thích cho bà ấy cũng bằng thừa. Như mọi lần, Vacia sống ở nhà độ hai tuần, chờ cho tới khi bà mẹ lĩnh được lương hưu mới đi khỏi. Người ta nhìn thấy hắn lên xe buýt. Trên người diện áo da cừu thuộc màu xanh, đội mũ cũng bằng da cừu thuộc có tai bịt, chân mang đôi bốt da cao cổ - tất cả đều còn mới toanh. Hắn đi khỏi, dần dần người ta cũng quên hắn, quên cái nhà tù ở Đức. Cuộc sống hiện tại đâu có đơn giản: ở nông trang mọi thứ đều nát bét, không có lương, máy cày máy kéo không có phụ tùng thay thế. Mà máy kéo thì cần phải sửa chữa gấp, mùa xuân tới nơi rồi. Cần phải gieo hạt, lại còn cả đống ruộng chưa kịp cày vỡ từ hồi mùa thu.
Từ sáng sớm đội trưởng đi tới văn phòng, từ đấy ra anh ta dữ như quỷ, cứ hét toáng lên:
- Còn chờ cái gì nữa đây?! Phải làm bằng sức của mình ấy!!! - Làm thế nào?! Ông không nhìn thấy chắc?!...
Cuộc cãi cọ chửi bới bắt đầu. Sau đó đội trưởng thở dài nói: - Hoặc là chúng ta bỏ tất cả rồi mang vợ con cuốn xéo khỏi đây, đi đến cái... nhà tù nơi mà Kolun ngồi trên cái bệ xí ấm ấy. Ai có địa chỉ cái nhà tù ấy không? Hắn ta đã cho rồi cơ mà. Có ai ghi lại không?
Hoá ra chẳng có ai ghi lại cả.
- Thế thì tiến lên phía trước và hát lên. Chẳng ai khổ hộ cho mình đâu. Và cũng chẳng ai nuôi chúng ta cả. Không nên chờ đợi nữa. Thời gian chẳng có chờ ai đâu.
https://thuviensach.vn
Thời gian, quả vậy đang trôi nhanh đến mùa xuân. Tính mà xem, đã là cuối tháng giêng mất rồi. Tháng hai đang ở ngay trước mặt. Cần phải chuẩn bị gấp. Tiếp theo là việc nọ nối tiếp việc kia: Nào bừa đất, gieo hạt, cày... cứ thế, cứ thế cho đến tận mùa thu.
Đang là cuối giêng. Băng giá. Tuyết rơi chất đống. Nhưng ban ngày mặt trời sưởi ấm - đâu đó băng bắt đầu tan chảy từ nóc nhà, làm thành những que nhũ rủ xuống: Káp - káp... káp - káp... Nghe rõ mồn một. Những con chim khuyên thử giọng: Dzen - dzen! Lũ trẻ từ trong trường ùa ra, cả thôn ngập trong tiếng cười lanh lảnh của con trẻ. Đó là dấu hiệu. Công việc của mùa xuân đã bắt đầu.
Đào Tuấn dịch
https://thuviensach.vn
Chim tuyết nhỏ
Kate Douglas Wiggin
Vào buổi sáng sớm Giáng Sinh, trong sự im lặng của một ngày vừa lên,
những bụi tuyết rơi nhẹ nhàng trên những mái nhà, một đứa bé tý hon vừa chào đời trong một gia đình chim. Cả nhà chim đã có ý định từ trước là đặt tên cho bé là Lucy, nếu em bé là con gái, nhưng họ không nghĩ rằng bé gái lại được sinh ra đúng vào buổi sáng ngày lễ Giáng Sinh, và một đứa bé của ngày Giáng Sinh không thể nào lại có một cái tên quá nhẹ như vậy được - tất cả mọi người trong nhà đều đồng ý về điều này.
Thế là một cuộc tham khảo ý kiến đã diễn ra ngay trong khu vườn. Ông Cầm, cha của bé mới vừa chào đời, đã nói rằng chính ông ta là người đã đặt tên cho 3 đứa con trai nên ông ấy để dành phần danh dự này cho bà Cầm; Cậu bé Đô thì lại muốn đứa bé tên là "Thy", vì nó xinh xắn với những sợi tóc con gái xoăn tít sẽ ngồi bên cạnh cậu bé trong lớp học; Cậu Bôn thì chọn cái tên là "Liên" vì Liên là một nữ y tá đã từng theo học lớp âm thanh với cậu lúc cậu còn nhỏ cho đến lúc cậu biết mặc quần dài và đó là cái tên gợi đến tất cả những gì thoải mái, an toàn nhất theo cậu. Chú Dắc thì nói rằng tên của một đứa bé gái thứ nhất trong nhà phải là tên của chính mẹ nó bất kể cái tên đó đẹp hay xấu.
Phần bà nội thì bảo là bà không muốn tham dự vào chuyện bàn cãi này. Việc này làm cho tất cả mọi người đều sực nhớ lại rằng bà Cầm đã chọn tên Lucy, một tên đầy may mắn trong cuộc sống, tên của chính mẹ bà, bà nội, và chính bởi thế nên nếu bà can dự vào việc chọn tên thì có vẻ thiếu tế nhị nếu bà đề nghị với người khác cái tên mà bà ao ước một cách rất tự nhiên: Lucy.
Huy, bé nhất nhà cho đến lúc mà bé gái chưa ra đời, đang ngồi thu mình trong một góc, không nói năng gì, nhưng cũng thầm nghĩ rằng bây giờ lại có một đứa bé mới trong nhà nhất lại là con gái, rất có thể nó sẽ không còn được qúy mến chiều chuộng như trước nữa. Huy cảm thấy trong lòng cậu là một sự ghen tỵ. Nhưng đây là một vấn đề quan trọng cần phải được giải
https://thuviensach.vn
quyết, giải quyết ngay tại chỗ, nhất là mẹ đã yêu cầu, và mọi người nhận thấy rằng đó là một sự khó khăn để cùng đưa đến một quyết định một cách hoàn toàn khôn ngoan, đúng đắn và hoàn hảo.
Lý do mà vấn đề được mọi người bắt buộc phải thảo luận ngay trong buổi sáng nay vì bà Cầm đã tuyên bố chắc nịch rằng bà không thể tự cho phép bé gái vừa ra đời của bà không có tên vào buổi tối hôm đó. Mọi người trong nhà ai cũng biết rằng bà Cầm là một người đàn bà đầy cá tính nhất là mỗi khi phải quyết định một việc gì, bà bảo rằng nếu để em bé không có tên thì việc này sẽ làm cho bà phải phiền não từng giờ từng phút. Bà còn nói thêm là nếu mọi người không thể làm cho đầu óc mình sáng tỏ trong vòng 24 tiếng đồng hồ thì đó là điềm ứng trước rằng... - (ở đây tôi không dám nói rõ thêm vì sợ rằng bạn sẽ nghĩ xấu về bà mẹ đáng yêu nhất thế giới này).
Cũng chính vì để suy nghĩ nên Đô đã lôi chiếc xe đầy bằng chân có ba bánh mới toanh và ra khỏi nhà chạy lên chạy xuống trên vỉa hè đá làm vướng chân người qua đường trong lúc đó thì trên một bậc thềm cao vì vừa nghĩ lại vưà hát mà Bôn đang mệt lừ cả người.
Nhưng Huy thì vẫn không rời khỏi cảnh tượng đầy huyên náo này. Cậu ta đang ngồi trên cao của chiếc cầu thang tại hành lang, thỉnh thoảng đập đầu vào thành tay vịn, như một cách để giải toả sự bực bội của cậu rồi sau đó cậu cố nén lại trong lúc chờ đợi "tuyên chiến" nếu " đứa bé gái đầu tiên này "đẩy" cả gia đình vào sự tranh cãi vì một chuyện chẳng có gì gọi là quan trọng.
Trong khi đó thì bà Cầm ở trong phòng, tuy có vẻ hơi yếu nhưng rất sung sướng với bé gái sơ sinh bên cạnh và cái chức năng làm mẹ rộng mở trước mặt bà.
Người nữ y tá đang nấu cháo trong bếp, cả gian phòng tối nhưng thật yên tĩnh. Lửa trong chiếc lò sưởi đang như reo vui. Nếu những cánh cửa cái đóng kín thì những chiếc cửa sổ ở mé bên, nghiêng về mé nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, ở gần đó, đều mở hé.
Bỗng dưng, một thanh âm vang đi trong bầu không trung sáng rực và cuốn vào trong căn phòng. Một đội nam đồng ca thiếu niên đang hát thánh ca Giáng Sinh. Càng lúc càng rực lên một màu hồng trong suốt, giọng thật êm, đầy hy vọng và niềm vui, như giọng của những đứa trẻ bao giờ cũng
https://thuviensach.vn
có. Càng lúc càng phong phú nổ bùng giai điệu du dương như một sự sung sướng đang căng thẳng vụt rơi trên nhau trong niềm hoan hỉ thật hài hoà: "Cùng hát mừng, các anh em, cùng hát mừng,
Hát mừng niềm vui tràn trề,
Hát mừng những tin vui,
Hát mừng niềm vui!,
Và nguyện cầu một Giáng Sinh bình an hạnh phúc,
Cho tất cả nhân loại.
Cùng hát mừng, các anh em, cùng hát mừng,
Cho ngày Giáng sinh trở lại."
Một tiết khác tiếp theo vẫn với điệp khúc đầy niềm vui:
"Và nguyện cầu một Giáng Sinh bình an hạnh phúc,
Cho tất cả nhân loại.
Cùng hát mừng, các anh em, cùng hát mừng,
Cho ngày Giáng sinh trở lại."
Bà Cầm có cảm tưởng rằng âm nhạc đang lững lờ trôi trong giấc ngủ nhẹ nhàng của bà. Bà và bé vừa chào đời đã cùng dạt trôi vào thiên đàng và các thiên thần đã đón mừng họ.
Bà mở mắt và kéo em bé lại gần bà hơn. Trông nó giống như một bông hồng thấm trong sữa, bà ngẫm nghĩ, màu hồng này và bông hoa trắng của con gái, hay giống như màu hồng của bé gái ngây thơ, với hào quang của mái tóc vàng nhạt, mịm màng còn hơn những sợi tơ tầm nữa.
"Cùng hát mừng, các anh em, cùng hát mừng,
Hát mừng niềm vui tràn trề,
Hát mừng những tin vui,
Hát mừng niềm vui!"
Giọng hát ngập tràn niềm vui.
- Tại sao lại như vậy được nhỉ! con gái bé của mẹ! - bà Cầm thì thầm với một giọng êm dịu đến ngạc nhiên - Tại sao mà mẹ lại có thể quên mất hôm nay là ngày gì nhỉ? Con là một hài nhi Giáng Sinh, như thế từ nay trở đi chúng ta sẽ gọi con là Carol - Mẹ là mẹ của bé Christmas Carol!
- Cái gì chứ?. Ông Cầm, từ ngoài bước vào thật nhẹ và khép cửa lại sau lưng ông, hỏi.
https://thuviensach.vn
- Tại sao? anh Cầm, anh cứ nghĩ xem, "Carol" là cái tên thật êm dịu cho một em bé sinh vào ngày Giáng sinh có phải đúng không anh? - Tên này đến với em vào lúc nghe tiếng hát trong khi em đang nửa thức nửa ngủ. Bà Cầm nói tiếp.
- Anh cũng thấy đó là một cái tên thực đễ thương em ạ, hình như cũng giống như em và anh nghĩ rằng cô bé tý hon của chúng ta sẽ có cái may mắn trở nên đẹp đẽ như mẹ nó về sau này...
Thế là Carol trở thành tên của cô bé.
Lẽ tất nhiên, cái tên này cũng làm cho một vài người trong nhà cho là quá giản dị, còn cho chú Dắc thì vừa cười vừa tuyên bố rằng một số người trong gia đình nhà Cầm có thể không thoả mãn lắm chỉ vì tên Carol quá ngắn nhưng về phần bà nội, một người rất yêu qúy trẻ em, thì lại nghĩ rằng cái tên không hay bằng tên Lucy nhưng bà cũng hoan hỉ vì mọi người sẽ cho rằng đó là tên gọi tắt của tên Caroline.
Rất có thể vì được sinh ra vào thời gian nghỉ lễ nên Carol là một em bé hoàn toàn hạnh phúc.
Lẽ dĩ nhiên, em còn quá nhỏ để hiểu được sự vui sướng của thời kỳ Giáng Sinh song theo như lời mọi người vẫn thường nói thì tất cả đều tùy thuộc vào sự khởi đầu may mắn và Carol mặc dù đang hít thở một cách vô ý thức mùi hương ngát của nhửng món đồ trang hoàng xanh tươi và mùi bữa ăn thịnh soạn của ngày lễ trong khi đó những hồi nhạc ngựa kéo xe trượt tuyết chạy ngang qua nhà cùng tiếng cười sung sướng của trẻ em có thể lọt vào đôi tai nhỏ tý của em bé để làm em tỉnh thức với niềm ngạc nhiên thích thú cùng cái thế giới vui tươi mà em vừa đến sống.
Đôi gò má và đôi môi cô bé đỏ ửng như trái cây nhựa ruồi (houx), màu tóc bé là cả một thế giới màu lửa bừng của ngọn nến Giáng sinh; đôi mắt bé ngời sáng như sao, tiếng cười của bé là tiếng chuông reo của chuông Giáng Sinh và hai bàn tay nhỏ tý của bé luôn rộng mở như để tặng biếu.
Đúng đấy là một sinh vật nhỏ bé nhưng lại thật rộng lượng như chưa bao giờ người ta được trông thấy! Một muỗng súp bánh mì trôn sữa đều được bé chia xẻ với mẹ hay cô y tá lúc hai người này nếm thử trước khi cho bé ăn. Một chút bánh ngọt hay một mẩu kẹo mứt trong những ngón tay nhỏ xíu của bé cũng đã được bẻ ra làm hai, làm ba để chia cho ông Cầm, Bôn hoặc
https://thuviensach.vn