🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Totem Sói
Ebooks
Nhóm Zalo
Mục lục:
LỜI TỰA:
LỜI NGƯỜI BIÊN TẬP
Chúng ta là truyền nhân của Rồng hay của Sói? Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9
Chương 10
Chương 11
Chương 12
Chương 13
Chương 14
Chương 15
Chương 16
Chương 17
Chương 18
Chương 19
Chương 20
Chương 21
Chương 22
Chương 23
Chương 24
Chương 25
Chương 26
Chương 27
Chương 28
Chương 29
Chương 30
Chương 31
Chương 32
Chương 33
Chương 34
Chương 35
Vĩ thanh
Khai quật bằng lý tính
LỜI TỰA:
Mấy năm gần đây, các nhà xuất bản Việt Nam đã cho ra mắt bản dịch nhiều tác phẩm gây tiếng vang lớn trong đời sống tinh thần quốc tế: Sự va chạm giữa các nền văn minh của Samuel Huntington; Chiếc Lexus và cây ôliu, Thế giới phẳng của Thomas Friedman, Súng, vì trùng và thép - định mệnh của các xã hội loài người, Loài tinh tinh thứ ba, Sụp đổ của Jared Diamond, Mỏ chim sẻ đảo của Jonathan Weiner, Trí tuệ đám đông của James Surowiecki… [1] Những cuốn sách này không phải những sản phẩm hàn lâm thuần tuý, vốn chỉ dành cho một giới chuyên môn hẹp. Tác giả của chúng đều là những nhà nghiên cứu hoặc những nhà báo hàng đầu. Và hầu như tất cả những cuốn sách này đều được viết bằng tiếng Anh. Có vẻ như toàn cầu hoá, ít nhất là trong lĩnh vực tư tưởng-học thuật, đã và đang ngày càng đồng nghĩa với với Anh-Mỹ hoá. Anh-Mỹ là trung tâm phát ra các ý tưởng, các khuynh hướng, các quan niệm và toàn cầu chỉ còn có một việc là sao chép, diễn dịch hoặc, nếu có khả năng - và thường là trong phạm vi quốc gia - "phản biện hoặc bàn luận trong nhà". Trái với kì vọng của các nhà hậu hiện đại về một thế giới đa cực, nơi các ngôn ngữ có cùng cơ hội đóng góp vào tư tưởng-học thuật thế giới, ngày nay một học giả không phải Anh-Mỹ hoặc không viết bằng tiếng Anh có rất ít khả năng và cơ hội để gây được ảnh hưởng rộng, và nếu ta xem ngôn ngữ là phần cốt tuỷ của văn hoá thì cái thế giới toàn cầu hoá hôm nay tuy có thể không còn “dĩ Âu vi trung”, nhưng lại “dĩ Mỹ vi trung” hơn bao giờ hết.
Trong bối cảnh đó, một cuốn sách như Tôtem sói của Khương Nhung (Jiang Rong) cần được xem là một ngoại lệ hiếm hoi và là "câu trả lời của Trung Quốc" đặt trong tương quan nói trên. Tôtem sói được thai nghén trong vòng 30 năm, với tham vọng lật ngược toàn bộ lịch sử Trung Hoa. Đây là một cuộc đại phẫu thuật nguồn gốc và tính cách dân tộc Hoa Hạ ở phần cốt tuỷ nhất của nó: Hoa Hạ là truyền nhân của Sói hay Rồng? Đối với độc giả Việt Nam, cuốn sách chắc chắn sẽ đặc biệt hấp dẫn bởi nó cho một cái nhìn mới mẻ và đầy tính phát hiện về tính cách của người hàng xóm gần gũi nhất, thân thuộc nhất nhưng cũng nhiều duyên nợ nhất của chúng ta: Trung Hoa.
Tôtem sói là tiểu thuyết, nhưng nó có thể được đọc như một tác phẩm nghiên cứu. Tác phẩm có 35 chương, một chương "Vĩ thanh" và một chương kết có tên là "Khai quật bằng lý tính", có thể coi như một tiểu luận tổng kết toàn bộ triết lý của tác phẩm.
LỜI NGƯỜI BIÊN TẬP Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Chúng ta là truyền nhân của Rồng hay của Sói?
Mã Ba Thuấn
Đây là một bộ sách lạ - một kỳ thư duy nhất trên thế giới, mô tả nghiên cứu về sói thảo nguyên Mông Cổ. Đọc sách này, chúng ta được thưởng thức một món ăn tinh thần vô tận về tôtem sói. Bởi lẽ nó vô cùng phong phú, bởi lẽ nó không thể tái hiện. Vì rằng những đoàn thiết kị Mông Cổ và sói Mông Cổ tự do tung hoành trên thảo nguyên đang hoặc đã biến mất, tất cả những truyền thuyết, những câu chuyện về sói đang mất dần trong ký ức chúng ta, và chỉ lưu lại trong ta và trong các thế hệ mai sau những ký hiệu ngôn ngữ của lời nguyền rủa và chửi bới cay độc. Nếu như không có sách này thì sói, đặc biệt là sói thảo nguyên Mông Cổ - bộ máy phát lực của sùng bái vật tổ và sự tiến hoá tự nhiên cuả nền văn minh cổ đại Trung Quốc, chẳng khác những vật không phát sáng trong vũ trụ, rời xa quả đất và nhân loại, lênh đênh trong cõi vô cùng tận bất khả tri, lạnh nhạt trước sự dốt nát ngu xuẩn của chúng ta.
Vậy mà giờ đây, trong tình trạng thiên nhiên rệu rã, các loài vật giảm đi nhanh chóng, tinh thần và tính cách nhân loại ngày càng tồi tệ, đọc Lang đồ đằng một tác phẩm có tính sử thi mà sói là đối tượng miêu tả, thì quả thật là dịp may cho độc giả. Hàng ngàn năm nay, hồng học cự nho chiếm địa vị chủ đạo chính thống, sợ sói như sợ hổ, cho rằng sói gieo tai hoạ mà ghét bỏ, trong nền văn hoá Hán tồn tại bao nhiêu là sự hiểu lầm và thiên kiến đối với sói, vậy mà có một cuốn sách hay như vậy về sói, coi sói như đồng đội, như bè bạn.
Cảm ơn tác giả Khương Nhung! Cách đây hơn ba mươi năm, là thanh niên trí thức Bắc Kinh, ông tình nguyện về lao động ở thảo nguyên Ơlôn Mông Cổ mười một năm, tính đến năm 1979 thi đỗ nghiên cứu sinh Viện Khoa học xã hội Trung Quốc. Ở thảo nguyên, ông từng chui vào hang sói, từng đào bắt sói con, từng nuôi sói nhỏ, từng chiến đấu với sói, cũng từng sống chung với sói. Thậm chí đã từng chung hoạn nạn với sói con, trải qua cuộc sống tinh thần “du mục” cực khổ thời trai trẻ. Bầy sói Mông Cổ dẫn ông đi xuyên suốt mê lộ ngàn năm, tới trung tâm của những câu hỏi lớn. Chính là sự khôn ngoan và trí tuệ của sói, tài năng quân sự và tính cách ngoan cường của sói, tình yêu và hờn giận của người thảo nguyên đối với sói, sức hấp dẫn ma mị của sói, khiến Khương Nhung gắn bó với sói như một mối lương duyên. Sói là ông tổ, là tổ sư, là thần chiến tranh và là tấm gương sáng của người thảo nguyên; tinh thần đồng đội và trách nhiệm đối với dòng họ của sói, trí tuệ của sói, tính cách ngoan cường và nghiêm cẩn của sói, công việc huấn luyện đội thiết kị và bảo vệ môi trường thảo nguyên
của sói, sự sùng bái tột đỉnh của dân thảo nguyên đối với sói, nghi thức thiên táng thần bí cổ xưa của người Mông Cổ. Lại nữa, tiếng hú của sói, tai sói, mắt sói, thức ăn của sói, khói sói, cờ sói… Hàng nghìn chi tiết liên quan đến sói đều làm cho tác giả mê mẩn, từ đó tiến hành hơn ba mươi năm nghiên cứu và suy ngẫm để viết một tiểu thuyết trường thiên về quan hệ giữa con người và thiên nhiên, nhân tính và sói tính, đạo của sói và đạo của trời. Ngày nay, giữa lúc xã hội Trung Quốc đang chuyển đổi mô hình, tính cách quốc dân hình thành từ nền văn minh nông canh đang níu chân mọi người tiến tới, học giả Khương Nhung đã đánh dấu son lên tác phẩm đồ sộ mà ông tâm huyết cả nửa cuộc đời, để rồi hoàn thành sứ mạng tái hiện “Lang đồ đằng” (tôtem sói), trở thành người đúc kết chân lý về sói.
Cuốn truyện tập hợp mấy chục chuyện về sói, tình tiết gay cấn, quyết liệt mà lạ lùng thần bí. Mỗi chương, mỗi tính tiết đều đem lại khoái cảm cho độc giả, đã đọc là không thể dừng lại nửa chừng. Giống như thần linh, những con sói Mông Cổ bất thình lình từ trong sách nhảy ra mà cất tiếng tru, chiến thuật cao siêu của sói mỗi cuộc trinh sát, cách bày binh bố trận, phục kích, tập kích, sự lợi dụng tài tình về khí tượng, địa hình; khí phách coi cái chết nhẹ như lông hồng và tinh thần bất khuất; tình thân ái trong cộng đồng; mối quan hệ giữa sói và muôn vật trên thảo nguyên; quá trình trưởng thành đầy khó khăn của sói con, sự ngang ngạnh đáng yêu một khi đã mất tự do, chuyện nào cũng khiến ta liên tưởng tới con người, từ đó mà suy ngẫm về những câu hỏi lớn cho đến nay vẫn chưa được giải đáp trong lịch sử nhân loại: Năm xưa chỉ vẻn vẹn hơn chục vạn quân kị mà sao Mông Cổ tung hoành ngang dọc từ Á sang Âu? Đất đai Trung Hoa rộng lớn như ngày nay, nguyên nhân sâu xa vì đâu mà được như vậy? Rốt cuộc trong lịch sử, văn minh Hoa Hạ chinh phục các dân tộc du mục, hay là các dân tộc du mục đợt này kế tiếp đợt khác không ngừng tiếp máu cho văn minh Trung Hoa. Vì sao dân tộc sống trên lưng ngựa ở Trung Quốc không thờ tôtem ngựa mà lại thờ tôtem sói? Văn minh Trung Hoa không đứt đoạn, phải chăng đó là do có nền văn hoá sùng bái sói tồn tại ở Trung Quốc? Vậy là, ta không thể không suy xét ngọn nguồn, không thể không đặt câu hỏi trước những thăng trầm của đất nước. Chúng ta luôn miệng thừa nhận là con cháu của Viêm Hoàng, nhưng rất có thể “tôtem rồng” là diễn biến từ “tôtem sói”. Tấm màn bí mật “sùng bái rồng” của dân tộc Hoa Hạ từ đó được vén lên. Vậy thì rốt cuộc chúng ta là truyền nhân của Rồng hay của Sói?
Chương 1
"Tộc Khuyển Nhung tự nhận tổ tiên của họ là hai con chó trắng, tôtem của họ là chó."
(Phạm Văn Lan - Trung Quốc thông sử giản biên, tập I) "Chu Mục Vương chinh phạt Khuyển Nhung, đem về bốn sói trắng, bốn hươu trắng."
(Hán thư - Hung Nô truyện)
Khi Trần Trận phục trong hố tuyết dùng ống nhòm đơn chộp được một con sói gộc vào trong ống kính, cậu thấy ánh mắt con sói Mông Cổ nhọn như mũi dùi thép. Khắp người cậu nổi da gà, áo sơ mi bị đội lên, gần như không dính vào da thịt. Có ông già Pilich ở bên, lần này Trần Trận không đến nỗi hồn vía lên mây, nhưng mồ hôi lạnh cứ túa ra từ lỗ chân lông, áo ướt đẫm. Tuy lên thảo nguyên đã hai năm, nhưng cậu vẫn sợ sói gộc và sói đàn. Trong núi sâu, xa lều trại, gặp đàn sói đông đến như thế, hơi thở của cậu cũng run. Trần Trận và ông già Pilich lúc này trong tay không súng, không mác, không thòng lọng bắt ngựa, thậm chí ngay cả chiếc bàn đạp bằng sắt cũng không. Hai người chỉ mỗi hai cây roi, lỡ ra bọn sói ngửi thấy hơi người, chắc chắn cả hai chầu trời sớm.
Trần Trận thở hổn hển, ngoảnh sang nhìn ông già. Ông đang quan sát vòng vây của bọn sói bằng chiếc ống nhòm đơn. Ông kìm giọng, nói khẽ: Cậu nhát như thỏ đế, chẳng khác lũ cừu tí nào! Người Hán các cậu sợ sói từ trong máu, nếu không, sao cứ vào đến thảo nguyên là bại trận? Thấy Trần Trận không nói gì, ông khẽ nạt: Lần này thì đừng có cuống lên, phải quan sát động tĩnh, bọn sói không rửng mỡ đùa nghịch cho vui đâu. Trần Trận gật đầu, cậu bốc một nắm tuyết nắm chặt, tuyết trong tay cậu đóng thành băng.
Dốc núi chênh chếch phía trước mặt, đàn dê vàng đông đúc trong khi tranh thủ bứt cỏ vẫn đề cao cảnh giác, nhưng hình như chúng chưa phát hiện ra âm mưu của sói. Một đầu của vòng cung bao vây ngày càng tới gần chỗ nấp của hai người. Trần Trận không dám cử động, cậu cảm thấy như bị đóng băng.
Đây là lần thứ hai Trần Trận gặp đàn sói lớn như thế trên thảo nguyên. Lúc này, nỗi kinh hoàng khi lần thứ nhất gặp đàn sói khiến toàn thân cậu run rẩy. Câu tin rằng, bất cứ người Hán nào gặp cảnh ngộ như cậu mà gan mật không bị tổn thương thì chớ kể.
Cách đây hai năm, khi Trần Trận từ Bắc Kinh về lao động ở mục trường vùng biên này đã là cuối tháng 11, đây đó tuyết trắng mênh mông. Chưa có lều cấp cho thanh niên trí thức, Trần Trận đến ở cùng gia đình ông già Pilich,
đảm nhiệm công việc chăn cừu. Hơn tháng sau, một hôm cậu cùng ông già lên Ban Quản lý mục trường xa hơn tám mươi cây số nhận tài liệu học tập, nhân tiện mua sắm ít đồ nhật dụng. Lúc sắp ra về, ông già là uỷ viên Uỷ ban cách mạng mục trường phải ở lại họp đột xuất, nhưng tài liệu thì mục trường chỉ thị phải đem về ngay, không được để chậm. Trần Trận đành ra về một mình. Ông già đổi cho cậu con ngựa ô cao lớn của ông, nó vừa chạy nhanh vừa thuộc đường. Ông dặn đi dặn lại đừng đi đường tắt, cứ đường lớn mà đi, dọc đường hai ba mươi dặm lại có một lều dân, sẽ không xảy ra chuyện gì.
Trần Trận lên yên, lập tức cảm thấy sức mạnh tràn trề của con ngựa Mông Cổ thượng thặng, liền nảy ra cái ý muốn phóng thật nhanh. Vừa lên đầu dốc, ngó thấy đỉnh Sacanôla, nơi trú ngụ của đại đội, cậu liền quên béng lời dặn của ông già, bỏ con đường vòng dài hai mươi cây số, chạy theo đường tắt về thẳng đại đội cho nhanh.
Trời mỗi lúc mỗi lạnh, đi được nửa đường thì có lẽ vì rét, mặt trời run rẩy lẩn xuống dưới đường chân trời. Hơi lạnh từ mặt tuyết dâng lên, vạt áo da cứng ngắc. Trần Trận co duỗi cánh tay, khuỷu tay và kích áo kêu sột soạt. Một lớp trắng như sương muối phủ kín mình con ngựa ô, chân lún trong tuyết dày, con ngựa chạy chậm dần. Đồi núi nhấp nhô, cái nọ tiếp cái kia, nhìn khắp không thấy một sợi khói bếp. Con ngựa vẫn chạy nước kiệu, nó chưa mệt, nước chạy ổn định, người cưỡi không bị lắc. Trần Trận buông lỏng dây cương, mặc cho con ngựa tự điều chỉnh tốc độ và hướng chạy. Cậu bỗng chột dạ mà không rõ nguyên nhân cụ thể. Cậu sợ con ngựa lạc đường, sợ trời trở chứng, sợ bão tuyết, sợ chết cóng trong thảo nguyên, nhưng còn một nỗi sợ nữa mà cậu quên: Sợ sói.
Sắp tới một cái khe. Con ngựa ô dọc đường hoạt bát nhanh nhẹn, tai đảo bốn phía dò động tĩnh bỗng dừng phắt. Nó nhìn như đóng đinh về phía sau khe và bắt đầu khịt mũi, bước chân rối loạn. Đây là lần đầu Trần Trận một mình một ngựa chạy đường trường trên thảo nguyên, cậu không biết sự nguy hiểm đang rình rập phía trước. Con ngựa ô nở to cánh mũi, mắt trợn tròn, tự động đổi hướng. Nó định tránh đường, nhưng Trần Trận không hiểu con ngựa, cậu gò cương bắt nó chạy theo hướng cũ. Nước kiệu con ngựa càng rối, trở thành nửa chạy nửa lắc, vậy mà tiếng vó thì lại rất khoẻ, có thể chuyển sang nước đại bất cứ lúc nào. Trần Trận hiểu rằng mùa đông phải giữ sức cho ngựa nên gò cương không cho nó chạy vụt lên.
Con ngựa thấy hàng loạt cảnh báo mà không có tác dụng, bèn quay lại ngoạm ủng da trên chân cậu. Nhìn vào ánh mắt sợ hãi của con ngựa, Trần Trận chợt cảm thấy hình như có chuyện nguy hiểm. Nhưng lúc này thì đã muộn, con ngựa đã run rẩy bước vào cửa khe thăm thẳm hình phễu.
Khi nhìn thẳng vào bên trong khe, Trần Trận suýt ngã ngựa. Trong ánh hoàng hôn, một đàn sói Mông Cổ lông vàng rực, sát khí đằng đằng đang
đứng trên một đồi tuyết cách khoảng bốn mươi mét. Tất cả đều nhìn thẳng hoặc nhìn nghiêng, tia mắt như những chùm lông nhím bay về phía cậu. Phía gần nhất là mấy con sói gộc, lớn như báo gấm, to gấp đôi, cao gấp rưỡi, dài bằng một thân rưỡi những con sói trong vườn thú Bắc Kinh. Lúc này những con đang ngồi đứng vụt cả dậy, đuôi duỗi thẳng như lưỡi lê tuốt khỏi vỏ, như cánh cung từ trên cao chĩa xuống, chuẩn bị một cuộc xung sát. Những con sói gộc vây quanh con sói chúa lông trắng, nhưng cổ, ức và dưới bụng thì lại màu xám tro sáng như bạch kim, đầy vẻ dữ dằn. Đàn sói không dưới bốn chục con. Sau này, khi Trần Trận kể lại chi tiết cách bài binh bố trận của bầy sói cho ông Pilich nghe, ông dùng ngón tay trỏ gạt mồ hôi trán rồi bảo, có đến tám phần là đàn sói đang họp, chúng đang phân công tập kích một đàn ngựa sau núi. May mà đàn sói khi ấy không đói. Sói đói thì lông không phát sáng.
Trong một thoáng, Trần Trận mất sạch cảm giác. Cái dấu hiệu cuối cùng mà cậu nhận biết được là một tiếng động rủn người như hai đồng bạc trắng đập vào nhau, chắc chắn đó là tiếng va chạm của hồn vía cậu đập vào thiên linh cái khi thoát ra khỏi đầu. Cậu cảm thấy dễ đến mười mấy giây sinh mạng của cậu đã đứt đoạn, chỉ còn là cái xác không hồn. Cậu sở dĩ không ngã bởi vì con ngựa mà cậu cưỡi không phải con ngựa thường. Nó là một con ngựa săn nổi tiếng, trưởng thành qua hàng trăm trận chiến đấu với sói.
Giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc, con ngựa trở lại bình tĩnh đến ngạc nhiên. Nó làm ra vẻ không trông thấy đàn sói, hoặc ra cái điều ngẫu nhiên bắt gặp bầy sói đang tụ tập, tiếp tục chậm rãi bước tới như một khách qua đường. Nó tỏ ra gan lì, bước chân đĩnh đạc, không dụt dè, cũng không cướp đường mà chạy, mà như một diễn viên thượng thặng đội giàn cốc pha lê trên đầu, nó điều chỉnh nhịp đi sao cho uyển chuyển để người cưỡi trên lưng khỏi ngã xuống làm mồi cho sói.
Có lẽ do dũng khí và sự thông minh của con ngựa mà hồn vía Trần Trận lại trở về với cậu. Cũng có thể Trần Trận được trời rủ lòng thương, trả lại linh hồn và thổi vào đấy lòng tin và nghị lực. Khi thể xác nhận lại hồn vía, cậu coi như từ cõi chết trở về, điềm tĩnh đến ngạc nhiên.
Trần Trận ngồi thẳng đuỗn trên yên. Cậu tự dưng bắt chước con ngựa làm ra vẻ phớt đời, không thèm nhìn lũ sói, chỉ vội vàng liếc xéo một cái và có cảm giác chúng ở ngay bên cạnh. Cậu biết tốc độ của sói thảo nguyên, chỉ vài giây là đã vọt tới trước mặt con mồi. Người ngựa ngày càng gần lũ sói phía bên. Trần Trận rất hiểu không được mảy may tỏ ra sợ sệt, phải như Khổng Minh bày không thành kế, làm như trong tay nắm hàng triệu quân, sau lưng có hàng vạn quân thiết kỵ. Chỉ có như vậy mới có thể bình tĩnh trước sói Mông Cổ - sát thủ hung hãn và đa nghi trên thảo nguyên.
Cậu cảm thấy con sói chúa vươn cổ nhìn phía sau lưng cậu. Đàn sói như
một dàn rađa, nhất loạt vểnh tai về hướng nhìn của con sói chúa. Các sát thủ im lặng đợi sói chúa ta lệnh. Cặp người ngựa tay không tấc sắt này mà dám ngang nhiên diễu qua trước mặt, khiến sói chúa sinh nghi.
Hoàng hôn sẫm dần, người ngựa càng tới gần lũ sói. Giờ đây chỉ mấy chục bước chân nhưng là nguy hiểm nhất trong đời Trần Trận, và cũng là quãng đường dài nhất đối với cậu. Con ngựa lại tiến thêm mấy bước, Trần Trận bỗng cảm thấy có một con sói chạy lên đầu dốc sau lưng, cậu đoan chắc đó là con sói trinh sát theo lệnh sói chúa, xem phía sau có quân mai phục không? Cậu lại cảm thấy hồn xiêu phách lạc lần nữa.
Con ngựa hình như cũng bối rối. Cặp đùi Trần Trận và thân ngựa đều run, rồi thì do cộng hưởng, cái run nhanh chóng chuyển sang sợ hãi. Con ngựa vểnh tai về phía sau, sốt ruột nghe ngóng con sói do thám. Khi con sói phát hiện ra sự thật là không có gì, cũng là lúc cả người lẫn ngựa đã đến chỗ gần đàn sói nhất. Trần Trận tưởng như cậu đang chui vào một cái miệng sói khổng lồ, phía trên là những răng sắc nhọn, phía dưới cũng là những răng sắc nhọn, biết đâu khi vào đến giữa hai hàm răng, con sói sẽ bập miệng một phát. Con ngựa ô nhún thấp khuỷu chân sau chuẩn bị lấy đà xung trận. Nhưng do tải nặng, nó khó mà thoát hiểm.
Đột nhiên, Trần Trận kêu trời y hệt dân du mục những lúc nguy cấp: Trời ơi, trời cao đất dày ơi, xin Người hãy giúp con! Rồi cậu lại gọi ông già Pilich. Tiếng Mông Cổ, Pilich có nghĩa là khôn ngoan. Cậu hi vọng ông già sẽ nhét vào đầu cậu sự khôn ngoan của dân thảo nguyên Mông Cổ. Thảo nguyên im lặng, không một hồi âm. Cậu tuyệt vọng ngước nhìn trời, cậu muốn nhìn lần cuối màu trắng xanh của bầu trời băng giá.
Đột nhiên, lòi ông già như tiếng sấm ngang tai: Sói sợ nhất là súng, thòng lọng và đồ vật bằng sắt. Súng và thòng lọng, cậu không có. Đồ vật bằng sắt thì sao? Bàn chân cậu nóng ran, có đấy! Dưới chân cậu là hai bàn đạp to tướng. Cậu mừng đến nỗi chân run bắn.
Ông già Pilich đổi ngựa cho cậu nhưng không đổi yên. Thảo nào ngay từ đầu, ông đã lựa cho cậu một cặp bàn đạp to bự, hình như ông tính có lúc phải dùng đến chúng như hôm nay. Nhưng khi đó ông bảo, mới tập cưỡi ngựa, bàn đạp không to thì ngồi không vững, rủi bị hất ngã, rút chân cũng dễ, tránh được trọng thương hoặc chết vì ngựa đá. Cặp bàn đạp này miệng rộng gót tròn, so với cặp bàn đạp bình thường, to gấp đôi, nặng gấp ba.
Đàn sói đang đợi con sói trinh sát. người và ngựa đã mặt đối mặt với chúng. Trần Trận rút chân khỏi bàn đạp rồi cúi xuống mỗi tay cầm một chiếc. Sống chết là ở phút này đây. Cậu vận sức lên đôi tay, ngoảnh mặt về phía đàn sói quát lên một tiếng rồi giơ bàn đạp ra trước ngực đập vào nhau “keng”một tiếng!
Keng! Keng! Keng!
Tiếng “keng” trên thảo nguyên chát chúa như búa tạ đập đường ray, xoáy vào tai lũ sói khiến chúng giật thót. Với loài sói, tiếng va đập của kim loại còn kinh khủng hơn tiếng sét trên trời, tiếng bẫy sập trên đồng cỏ. Trần Trận gõ tiếng thứ nhất, đàn sói run bắn. Gõ mạnh mấy tiếng nữa, đàn sói cụp tai, rụt cổ, lặng lẽ bỏ chạy theo sói chúa, thoắt cái đã mất dạng. Con sói trinh sát cũng bỏ luôn nhiệm vụ, chạy theo đàn.
Trần Trận quả thực không dám tin vào mắt cậu, đàn sói đông là thế mà bị hai chiếc bàn đạp đuổi toé khói. Phấn khởi quá, cậu đập liên hồi cặp bàn đạp, vừa khoát tay về phía sau như dân du mục, vừa quát lớn: Khơlơtâng! Khơlơtâng! (Mau lên, mau lên!) ở đây rất nhiều sói.
Có thể những con sói Mông Cổ nghe hiểu tiếng Mông Cổ, hiểu cái khoát tay của cánh thợ săn Mông Cổ. Chúng tưởng bị bao vây nên nhanh chóng rút lui, nhanh nhưng vẫn rất trật tự, chạy như gió nhưng vẫn giữ được đội hình muôn thuở: Sói khoẻ đi đầu, sói chúa phía trước, sói gộc đoạn hậu, không tán loạn như loài cầm thú khác. Trần Trận đứng ngây ra nhìn.
Đàn sói thoáng cái đã mất dạng, trong khe chỉ còn lại bụi tuyết. Trời tối sẩm, Trần Trận chưa kịp nhìn lại bàn đạp thì con ngựa đã nhằm cụm lều mà nó quen thuộc, lao đi như mũi tên. Gió lạnh lùa vào ống tay áo, vào cổ, mồ hôi trong người Trần Trận gần như đóng băng. Thoát khỏi miệng sói trở về, Trần Trận từ đó tin là có trời như dân du mục. Hơn nữa, cũng từ đó cậu đâm sợ, kính nể và say mê sói. Với Trần Trận, sói Mông Cổ không những đụng vào tâm linh cậu, mà còn từ tâm linh hiện ra những cơ thể sống. Làm sao trong mình con sói tiềm ẩn sức hấp dẫn mạnh mẽ nhường ấy! Cái vật nhìn không thấy, sờ không được, hư vô mà hiện hữu này, có lẽ nó là sự sùng bái vật trong tâm linh, còn gọi là tôtem. Trần Trận mang máng cảm thấy hình như cậu đã tiếp cận lĩnh vực tinh thần của dân tộc thảo nguyên, tuy cánh cửa mới mở hé, nhưng cậu đã nhìn được vào bên trong với một tâm trạng hứng khởi.
Hai năm sau đó, Trần Trận chưa lần nào gặp một đàn sói lớn như thế. Ban ngày chăn cừu, cậu chỉ trông thấy từ xa một hai con, mà dù có đi xa vài chục, thậm chí hàng trăm cây số, cũng chỉ gặp nhiều nhất là hai ba con, bốn năm con sói. Nhưng cậu thường thấy bò dê cừu bị sói ăn thịt, ít là một hai con, nhiều là hai ba con cừu, ba bốn con ngựa, nhiều thì xác nằm ngổn ngang. Đến thăm các gia đình có thể thấy tấm da sau khi ăn thịt sói. Nó được treo lên ở đầu sào, bay phất phới như lá cờ phướn.
0O0
Ông già Pilich nằm yên trong hố tuyết, nheo mắt nhìn chăm chú đàn dê trên sườn dốc và đàn sói ngày càng tiến lại gần, bảo Trần Trận: Ráng đợi
chút nữa, học săn bắt, trước hết phải học tính kiên nhẫn của sói. Có ông già bên cạnh, Trần Trận vững tâm hơn. Cậu gạt băng đọng trên lông mi, chớp chớp mắt nhìn ông già, giơ ống nhòm quan sát đàn dê vàng trên sườn dốc chênh chếch trước mặt và vòng vây của bầy sói. Bầy sói chưa hành động.
Từ sau lần con ngựa ô chạm trán với bầy sói, cậu hiểu con người trên thảo nguyên thực tế luôn bị sói bao vây rất gần. Ban ngày chăn cừu, ra khỏi lều không xa là đã trông thấy hàng loạt dấu chân còn mới, trên dốc dưới bãi dấu chân càng nhiều hơn, có cả những bãi phân sói màu xám nhạt. Đêm đêm cậu gần như trông thấy bóng sói vật vờ như trong cõi u linh, nhất là trong những đêm đông rét buốt, những cặp mắt sáng xanh như đom đóm chỉ cách đàn cừu vài chục mét, ít là hai ba cặp, năm sáu cặp, nhiều là mười mấy cặp, nhiều nhất là cái lần cậu dùng đèn pin của con trai ông già, đếm được hai mươi lăm cặp. Du mục nguyên thuỷ cũng như du kích hành quân, càng gọn nhẹ càng tốt. Chuồng cừu mùa đông chỉ là xe cũ, rào lưu động và những tấm thảm lớn quây thành một vòng bán nguyệt, chỉ chắn gió, không ngăn được sói. Khoảng trống rất lớn ở phía nam hoàn toàn dựa vào đàn chó và đám phụ nữ gác đêm. Đôi khi sói lọt vào trong chuồng, sói và chó cắn nhau văng vào vách lều, đụng phải người ngủ sát bên trong. Trần Trận từng hai lần bị đánh thức kiểu ấy, nếu không có bức vách, con sói rơi trúng người cậu. Du mục nguyên thuỷ, người và sói thảo nguyên chỉ cách nhau hai lớp thảm. Có điều cho đến bây giờ, Trần Trận chưa có dịp nào quần nhau với sói. Những con sói Mông Cổ thiện chiến xuất quỷ nhập thần hơn du kích đồng bằng Hoa Bắc. Những đêm bị sói quấy nhiễu, Trần Trận buộc phải tỉnh ngủ, cậu dặn Caxưmai trực đêm thấy sói vào chuồng nhớ đánh thức, cậu sẽ giúp một tay. Ông già Pilich thường vê vê bọ râu dê mà cười mỉm, ông bảo ông chưa thấy người Hán nào hăng hái như cậu. Hình như ông già rất bằng lòng về chàng thanh niên trí thức Bắc Kinh đầy nhiệt huyết này.
Rồi thì Trần Trận cũng được chứng kiến một cuộc ác chiến giữa người và sói dưới ánh đèn pin trong một đêm giông bão cuối năm. "Trần Tận (Trận)! Trần Tận (Trận)!"
Trần Trận bị tiếng gọi giật giọng của Caxưmai và tiếng chó sủa điên cuồng đánh thức. Đêm đã khuya. Cậu xỏ vội đôi ủng và chiếc áo khoác ngoài, cầm đèn pin và roi ngựa bước ra khỏi lều, hai chân run bắn. Trong quầng sáng đèn pin có tuyết bay lất phất, cậu trong thấy Caxưmai đang túm chặt cái đuôi rất dài một con sói gộc. Con sói có chiều dài suýt soát một thân người trưởng thành. Caxưmai định lôi nó ra khỏi đàn cừu dày đặc. Con sói muốn quay lại cắn ngưòi, nhưng đàn cừu vì sợ gió, sợ lạnh nên đỏ xô về phía bức tường chắn gió, ken chặt đến nỗi nửa thân trước của con sói bị kẹt cứng không cựa quậy được, chi còn mỗi cách cắn văng mạng những con cừu hai
bên và hai chân trước bám đất chơi trò kéo co với Caxưmai để thoát ra khỏi đàn cừu, quay lại cắn trả. Trần Trận loạng choạng chạy về phía Caxưmai, nhất thời chưa biết xử lý ra sao. Hai con chó to lớn sau lưng Caxưmai cũng bị đàn cừu che chắn, không thể tiếp cận con sói, chỉ quáng quàng bên ngoài mà sủa uy hiếp con sói. Năm sáu con chó nhà ông Pilich và toàn bộ chó của những nhà lân cận đang quần nhau với bầy sói tại phía đông chuồng cừu. Tiến sủa, tiếng rú, tiếng gào kinh thiên động địa. Trần Trận rát muốn giúp Caxưmai một tay, nhưng cậu run quá, không nhích nổi nửa bước. Cậu vốn rất muốn chạm tay vào con sói, giờ đây ý tưởng đó tan như bọt xà phòng. Nhưng Caxưmai thì cứ tưởng cậu định đến giúp, vội hét: Đừng lại gần kẻo bị sói cắn! Đuổi đàn cừu để lấy chỗ cho chó vào!
Caxưmai ngả người về phía sau, ra sức kéo đuôi con sói đến nỗi mồ hôi đầy mặt. Cô dùng cả hai tay bẻ gập đuôi khiến nó đau quá, há miệng đỏ lòm hớp gió lạnh, hận nỗi không thể quay lại cắn chết tươi con người phía sau cho hả giận. Trườn lên không ăn thua, con sói bò giật lùi thật nhanh, quay được người lại cắn Caxưmai. “Soạt”, vạt áo dài của cô bị rách toạc. Cặp mắt lá răm của cô gái Mông Cổ loé sáng như mắt con báo hoa, cô vẫn túm chặt đuôi sói, nhảy lùi một bước để kéo thẳng nó như cũ, rối ra sức lôi con sói về phía mấy con chó.
Trần Trận hoa mắt, cậu giơ cao đèn pin để Caxưmai nhìn rõ con sói, còn tay cầm gậy thì vụt lia lịa, bất kể vào đầu hay vào tai nó. Đàn cừu nhốn nháo, vì sợ con sói trong bóng tối nên tranh nhau chạy tới chỗ quầng sáng. Trần Trận đâm ra bất lực, không xua được đàn cừu theo ý muốn. Cậu nhận ra Caxưmai đang yếu thế, con sói đã dướn lên một bước.
"A má! A má!" - Có tiếng trẻ kêu thất thanh.
Bayan, đứa con trai lên chín của Caxưmai xông ra khỏi lều, trông thấy mẹ với con sói, nó kêu lạc cả giọng. Như chơi trò nhảy cừu, nó nhảy tưng tưng trên lưng những con cừu đến chỗ mẹ, cùng mẹ tóm đuôi con sói. Caxưmai hét to: Tóm cẳng nó! Bayan chuyển một tay tóm cẳng con sói rồi ra sức kéo. Sức dướn của con sói bị giảm nhiều, hai mẹ con đã ghìm được nó tại chỗ. Tiếng chó vẫn sủa râm ran phía đông. Đàn sói rõ ràng giương đông kích tây. Bộ phận chủ lực khống chế đàn chó, yểm hộ cho những con xông vào chuồng cừu. Mạn giữa và phía tây hoàn toàn do hai mẹ con Caxưmai cố thủ, không cho con sói gộc dồn một số cừu ra ngoài bằng cách chọc thủng tấm thảm chắn.
Ông già Pilich cũng ra chỗ đàn cừu. Ông vừa dồn cừu, vừa gọi: Balưa! Balưa! Balưa tiếng Mông Cổ có nghĩa là “hổ”. Đó là con chó săn sói, giống chó Tạng, to lớn nhất đàn, cực kỳ hung hãn, thân tuy không dài bằng, nhưng cao và ức nở hơn sói nhiều. Nghe tiếng gọi của chủ, Balưa lập tức rút khỏi cuộc chiến, chạy tới bên chủ, hơi thở toàn mùi máu. Ông già vội đón chiếc
đèn pin từ tay Trần Trận soi về phía con sói. Balưa lắc đầu một cái thật mạnh, buồn như vệ sĩ bị mất chức, điên cuồng nhào tới chỗ con sói, đạp cả lên đầu lũ cừu. Ông già bào Trần Trận: Dồn cừu về phía sói! Lèn chặt sói lại, không cho nó chạy thoát! Nói rồi ông nắm tay Trần Trận, hai người dồn cừu về phía con sói và mẹ con Caxưmai.
Con Balưa hung dữ miệng phì khói, cuối cùng vào tới chỗ Caxưmai, nhưng con sói bị kẹt giữa đàn cừu không một kẽ hở. Những con chó săn khôn ngoan của Mông Cổ đều không cắn vào những chỗ có thể làm hỏng bộ da sói. Con Balưa tìm không ra chỗ thích hợp để cắn, nó cuống quít rên ư ử. Thấy con Balưa,Caxưmai liền né sang bên, tì đuôi sói vào gối rồi dùng sức mạnh toàn thân mà bẻ, “rắc” một tiếng, xuơng đuôi con sói bị gãy. Con sói đau quá tru thảm thiết, bốn chân bám trụ lơi ra, mẹ con Caxưmai nhân đà giật mạnh nó ra khỏi đàn cừu. Con sói toàn thân run rẩy, ngoái lại nhìn vết thương. Balưa thừa cơ nhảy tới ngoạm trúng cổ họng con sói, rồi mặc cho nó quẫy đạp, con Balưa dùng hai chân trước chặn ức, hàm răng sắc nhọn bập trúng họng, máu sói vọt ra hai bên mép chó. Con sói giãy giụa trong vài phút rồi ngã vật, thân mềm nhũn. Caxưmai chùi máu trên mặt, thở ra một hơi. Trần Trận nhìn sắc mặt đỏ au tưởng chị dùng son làm bằng huyết sói, đẹp man rợ như phụ nữ thời tiền sử.
Mùi máu sói lan ra không khí, đàn chó im bặt, lũ sói bỏ chạy, thoáng cái đã mất hút trong đêm. Chỉ lát sau, từ những trảng cỏ phía tây bắc vọng lại tiếng hú dài thê thảm tiễn đưa viên tướng của chúng vừa trận vong.
Mình là đồ vô tích sự, dát như cừu! Trần Trận thẹn thùng tự trách. Mình không bằng những con chó thảo nguyên, không bằng phụ nữ thảo nguyên. Đứa trẻ lên chín mình cũng không bằng. Caxưmai cười, lắc đầu bảo: Không đúng, nếu không có chú đến giúp thì nó bắt mất cừu rồi. Ông già Pilich cũng cười: Học trò người Hán như cậu mà biết dồn cừu, biết soi đèn pin, tôi mới thấy là một.
Rốt cuộc Trần Trận cũng sờ được vào cái xác còn nóng của con sói. Cậu hối hận vì hồi nãy không kéo đuôi con sói cùng với Caxưmai, bỏ lỡ dịp ngàn năm có một tay không bắt sói. Sói Ơlôn quả thực to vật vã, lông lá đầy mình như hắc tinh tinh, chết rồi mà vẫn oai phong, chỉ như say rượu nằm dưới đất, có thể vọt dậy bất cứ lúc nào. Trần Trận sờ cái đầu to đùng của con sói, lấy hết can đảm ngồi xuống, giang ngón cái và ngón giữa đo chiều dài từ chóp mũi dến chót đuôi. Chín gang tay, vị chi là một mét tám, cao hơn cậu mấy phân. Trần Trận hít hà ngạc nhiên quá đỗi.
Ông già Pilich dùng đèn pin soi đàn cừu. Có ba bốn con đã bị sói cắn cụt khu đuôi béo mẫm, mỡ và máu trộn lẫn, chảy từng vệt. Ông già bảo, đổi bốn năm cái đuôi cừu lấy một con sói không lỗ vốn. Ông cùng Trần Trận kéo con
sói về lều, đề phòng lũ chó hàng xóm cắn xé bộ da cho đỡ tức. Trần Trận cảm thấy chân sói to hơn nhiều so với chân chó. Cậu xoè bàn tay ướm thử, trừ các ngón tay, bàn chân sói vừa bằng bàn tay người lớn. Thảo hèn sói chạy rất ổn định trên tuyết hoặc trên đá sỏi. Ông già bảo: Ngày mai tôi dạy cậu lột da sói làm xà cạp chân.
Caxưmai bê từ trong lều ra nửa chậu thịt vụn lẫn xương khao Balư và lũ chó. Trần Trận cũng ra theo, luôn tay vuốt ve cái đầu to bự và tấm lưng cánh phản của con Balư. Con chó vừa nhai xương rau ráu vừa vẫy đuôi tỏ vẻ biết ơn. Trần Trận không nén được, hỏi Caxưmai: Lúc nãy chị có sợ không? Cô cười: Sợ chứ, tôi sợ sói bắt mất cừu, mất công điểm. Tôi là Tổ trưởng sản xuất, để mất cừu thì xấu hổ chết! Caxưmai võ vỗ đầu con chó, luôn miệng khen: Balư sai (giỏi lắm)! Balư sai (giỏi lắm)! Con Balư nhả miếng xương, ngẩng lên đón bàn tay của cô chủ rồi rúc mõm vào ống tay áo cô, đuôi phe phẩy. Trần Trận thấy rõ con Balư nhận ra tình cảm của cô chủ đối với nó trong lúc đói lòng giữa đêm đông. Caxưmai bảo: Cậu Trận này, sau Tết, tôi sẽ cho cậu một con cún rất đẹp, chăn nuôi đúng kỹ thuật không khó, cậu nuôi tốt, nó sẽ như con Balư. Trần Trận rối rít cảm ơn.
Vào trong lều rồi, Trần Trận vẫn chưa hết sợ, nói: Hồi nãy cháu sợ quá. Ông già nói: Khi ấy tôi cũng thấy thế khi cầm tay cậu. Mà sao cậu run ghê thế? Ra trận mà tay run thế thì làm sao cầm chắc tay dao? Muốn trụ lại trên thảo nguyên, phải tài giỏi hơn sói. Từ nay tôi sẽ thường xuyên đưa cậu đi săn sói mới được. Xưa kia Thành Cát Tư Hãn tuyển quân, bao giờ cũng tuyển những thợ săn giỏi.
Trần Trận gật đầu liền mấy cái, nói: Cháu tin là như thế. Chị Caxưmai mà lên ngựa ra trận, tài giỏi hơn Hoa Mộc Lan nhiều. Hoa Mộc Lan là một nữ tướng rất nổi tiếng đời Hán.
Ông già nói: Hoa… Hoa Mộ La (Mộc Lan) của người Hán rất hiếm, còn Caxưmai của Mông Cổ thì rất nhiều, nhà nào cũng có. Ông già cất tiếng cười khà, y hệt tiếng cười của con sói chúa.
Từ ấy Trần Trận ngày càng muốn tiếp cận, quan sát, nghiên cứu lũ sói. Cậu lờ mờ cảm thấy rằng, thảo nguyên và người thảo nguyên có mối quan hệ bí ẩn. Có lẽ phải hiểu rõ sói thảo nguyên thì mới hiểu được thảo nguyên và người thảo nguyên, mà sói thảo nguyên là khâu bí ẩn nhất. Trần Trận rất muốn có thêm những cảm xúc chân thực của cậu về sói, thậm chí cậu rất muốn tự mình bắt được sói con đem về nuôi. Khi nảy ra ý nghĩ này, bản thân cậu cũng giật mình. Nhưng mùa xuân càng tới gần, ý nghĩ này càng mãnh liệt.
Tuy vậy, cậu vẫn vô cùng cảm kích về tấm lòng của ông già. Trần Trận cảm thấy ông già hích tay cậu rồi chỉ lên sườn dốc. Cậu vội
chĩa ống nhòm về phía ấy, đàn dê vàng vẫn đang hối hả gặm cỏ. Nhưng cậu trông thấy một con sói lớn tách khỏi vòng vây, nhằm hướng núi phía tây chạy đi. Cậu chột dạ, khẽ hỏi ông già: Chẳng lẽ đàn sói bỏ cuộc, hoài công mình phục cả buổi ở đây!
Ông già bảo: Đàn sói không dễ bỏ qua một dịp may. Hẳn là sói chúa thấy đàn dê quá đông, nên sai lính về điều thêm quân. Dịp may như thế này năm sáu năm chưa chắc đã gặp một lần. Xem ra đàn sói muốn vớ bẫm, khoắng một mẻ lớn. Hôm nay không uổng công khi dẫn cậu đến đây. Cậu thấy chưa, đi săn là phải kiên trì.
Chương 2
Thuyền Vu (Hung Nô) sinh hai con gái nhan sắc tuyệt trần, người trong nước gọi là thần nữ. Thuyền Vu nói, con gái ta không thể gả cho người thường, mà phải hiến cho trời. Bèn sai dựng chòi cao phía bắc đất nước, nơi không có người, rồi đưa hai con gái đến ở để trời tự đón lên. Một năm qua đi, chỉ thấy mỗi con sói lớn ngày đêm canh gác căn chòi, đào hang mà ở không đi. Cô em nói, cha bố trí chị em mình ở đây là để trời đón, giờ thì lại là sói, hay sói là thần vật trời sai đến lấy chị em mình. Cô chị cả sợ nói, lấy đồ súc sinh này thì nhục cho cha mẹ. Người em không nghe, xuống chòi làm vợ sói, sinh con. Sau sinh sôi nảy nở thành một nước. Vậy nên, người nước này tiếng hát dài như tiếng sói tru.
- Chu thư, Nhu nhu Hung Nô đồ hướng Cao Xa liệt truyện. Lại thêm sáu bảy con sói lớn lặng lẽ nhập bọn, tạo thành vòng vây ba mặt hình cánh cung. Trần Trận kéo ống tay áo da cừu che kín mũi miệng, khẽ hỏi: Bố, đàn sói bắt đầu bủa vây rồi phải không?
Ông già cũng trả lời khẽ: Phải lúc nữa, con sói đầu đàn đang đợi. Sói bao vây chặt chẽ hơn người. Trước tiên, phải phân tích sói chúa đang đợi gì? Ông già chớp chớp hàng mi cho những bông tuyết rơi xuống. Chiếc mũ lông cáo dùng để che trán, che mặt, che vai bán đầy tuyết xốp phủ kín người ông già, chỉ chừa lại đôi mắt đồng tử màu hổ phách.
Hai người phục trong hố đã hơn nửa ngày. Lúc này, họ theo dõi chặt chẽ đàn dê trên dốc núi trước mặt, gần một nghìn con. Mấy con đực trên đầu có cặp sừng rất dài, miệng nhai cỏ, mắt nhìn ra xa, mũi khịt khịt đánh hơi trong không khí. Những con khác ăn như rồng cuốn.
Đây là bãi chăn dự bị khi có thiên tai của đội Hai, dọc ngang hai ba mươi dặm, vắt ngang sườn núi, thoáng gió, cỏ thân cao, mọc dày, chất lượng tốt, bão không đổ, tuyết lớn không phủ kín.
Ông già nói nhỏ: Cậu nhìn kỹ là biết ngay bãi cỏ có vị trí đặc biệt tốt, đúng hướng gió tây bắc, tuyết càng lớn càng không đọng lại được. Năm tôi lên tám, thảo nguyên Ơlon gặp họa lớn. Tuyết ngập lút lều Mông Cổ. May mà phần lớn đàn gia súc được mấy ông già dồn đi từ lúc tuyết mới đến đầu gối. Các cụ tập trung ngựa lại, dùng sức của hàng nghìn con ngựa mở đường, tiếp theo là mấy chục đàn bò dẫm cho tuyết rắn lại, hình thành một con mương cạn. Đàn cừu và bò di chuyển ròng rã ba ngày ba đêm mới tới bãi cỏ này. Tuyết ở đây chỉ dày chừng một hai thước, ngọn cỏ nhô lên ba đốt ngón tay. Đàn bò và cừu vừa đói vừa rét, trông thấy cỏ liền be rầm lên, chạy tới. Mọi người phục xuống đất mà khóc, đập đầu lạy đến nỗi mặt mũi đầy tuyết. Đến đây, cừu và ngựa có thể bới tuyết ăn cỏ, những con chưa biết bới thì đi
phía sau mót cỏ mà ăn. Quá nửa sống sót đến khi tuyết tan. Những gia đình không kịp di chuyển thì thảm quá, tuy người thoát, nhưng gia súc thì hầu như bị vùi trong tuyết, chết sạch. Nếu không có bãi cỏ này thì người và gia súc ở thảo nguyên Ơlon không còn một mống. Từ đó, thảo nguyên Ơlon
không còn sợ tuyết lớn nữa. Hễ có tuyết lớn, chuyển về đây là thoát nạn. Ông già thở dài nhẹ: Đây là bãi chăn cứu mạng trời ban cho người và gia súc chúng ta. Trước kia, người dân năm nào cũng tế trời và sơn thần trên núi. Hai năm nay do có phong trào (cách mạng văn hóa), không ai dám cúng bái công khai, nhưng trong bụng vẫn khấn thầm. Núi này là núi thiêng, người dân Ơlon dù khô hạn đến mấy, thiếu cỏ đến mấy cũng không dám đụng vào bãi cỏ này, dù chỉ một cọng. Dân chăn ngựa mất bao tâm huyết mới giữ được đồng cỏ này. Bầy sói ngày đêm bảo vệ những quả núi. Cứ khoảng năm sáu năm chúng lại giết một lô dê vàng tế thần núi, tế trời. Những quả núi ở đây không những cứu người và gia súc, mà cứu cả sói. Sói tinh hơn người, người chưa kịp đến, sói đã đến trước. Ban ngày sói nấp sau những đống đá trên đỉnh núi hoặc chỗ tuyết rắn phía sau núi. Ban đêm bới tuyết ăn bò cừu chết vì lạnh. Chỉ cần có cái ăn là sói không quấy rầy con người. Vài đám mây trắng như bông vét quang bầu trời. Ông già ngẩn nhìn da trời xanh trong với ánh mắt thành kính. Trần Trận cảm thấy ánh mắt ấy chỉ thấy trong những tranh tôn giáo phương tây.
Năm nay thảo nguyên có tuyết sớm nên nửa thân cỏ chưa kịp vàng đã lút trong tuyết. Cỏ trong tuyết chẳng khác rau xanh đông lạnh, mùi thơm ngọt bay lên từ những cọng cỏ rỗng ruột hoặc từ những vết tuyết nứt. Đàn dê từ bên nước láng giềng bị tuyết lớn và cái đói truy đuổi, vượt biên về đây, gặp đồng cỏ Ơlon như gặp ốc đảo giữa mùa đông. Mê mẫn vì mùi cỏ thơm, chúng ở lại, không đi đâu nữa. Bụng no tròn như cái trống, chúng gần như chạy không nổi.
Chỉ sói chúa và ông già Pilich mới nhìn ra đàn dê đã phạm sai lầm lớn. Đàn dê này chưa phải đông nhất. Trần Trận còn nhớ năm đầu tiên khi về Ơlon, thi thoảng lại trông thấy một đàn đông hàng vạn con. Nghe cán bộ mục trường nói lại, thời kỳ khó khăn những năm sáu mươi, bộ đội các đại quân khu phương bắc dùng xe nhà binh và súng máy bắn chết rất nhiều dê lấy thịt cho các cơ quan quân khu. Hậu quả là đuổi sạch dê ra khỏi biên giới. Những năm gần đây biên giới căng thẳng, những cuộc săn bắt dê quy mộ lớn đã chấm dứt. Thảo nguyên Ơlon xinh tươi lại được trông thấy những đàn dê đông đúc. Trần Trận khi chăn cừu vẫn gặp những đàn dê lớn lướt qua như cơn lốc màu vàng ngay bên sườn, khiến đàn cừu của cậu giật mình dồn thành đống, nhìn những con dê tự do bay nhảy bằng ánh mắt thèm thuồng. Đàn dê vàng trên thảo nguyên Ơlon hoàn toàn coi khinh những người
trong tay không súng. Một bận, Trần Trận thúc ngựa tạt sườn, xông vào một đàn, hi vọng nhân lúc nhốn nháo tóm được một con, thưởng thức món thịt vào loại cao lương mỹ vị. Nhưng chúng chạy quá nhanh, dê vàng chạy nhanh nhất trong số loài vật bốn chân, chó săn hoặc sói không bao giờ đuổi kịp. Trần Trận mấy bận thúc ngựa xông vào giữa đàn nhưng không thể đụng tới sợi lông của chúng. Chúng tẻ sang hai bên, cậu lọt vào giữa, cách mỗi bên chừng hai mươi mét. Chúng tiếp tục phi như gió, bỏ cậu lại phía sau. Chạy xa rồi, chúng mới nhập đàn làm một, cậu chỉ còn cách giương mắt ếch mà ngó.
Đàn dê vàng trước mặt cỡ trung bình, nhưng Trần Trận thấy đàn sói chỉ mấy chục con - dù là sói gộc, thì đàn dê vẫn là quá lớn. Người ta thường nói, lòng tham của sói là lớn nhất. Trần Trận muốn biết tham vọng ấy lớn chừng nào. Cậu cũng rất muốn biết đàn sói vây ráp giỏi đến mức nào.
Đàn sói rất thận trọng khi bủa vây, động tác nhẹ nhàng, chậm rãi. Chỉ cần một vài con dê ngẩng đầu lên, là cả đàn nằm rạp xuống cỏ bất động, ngay cả hơi nước thở ra từ mũi cũng từ từ.
Đàn dê tiếp tục gặm cỏ như điên. Hai người im lặng chờ đợi. Ông già nói nhỏ: Dê vàng mới là đại họa của thảo nguyên. Chung chạy nhanh, ăn khoẻ. Cậu thấy đấy, chúng đã ăn không biết bao nhiêu là cỏ ngon. Người và gia súc gian nan vất vả mới để dành được bãi chăn này, vậy mà chỉ mấy hôm
chúng đã xực mất non nửa. Nếu về vài đàn lớn nữa là đồng cỏ đi đứt. Tuyết năm nay lớn, không khéo gặp đại họa. Không giữ được bãi chăn này là cực kỳ gay go. May mà có đàn sói, chỉ trong vài hôm là đà dê toi mạng hoặc bỏ chạy, chắc chắn là thế.
Trần Trận giật mình nhìn ông già: Thảo nào bác không giết sói! Ông già nói: Bác cũng giết sói, nhưng không giết nhiều. Sói chết sạch thì thảo nguyên cũng hết sống. Thảo nguyên mà chết, người và gia súc sống nổi không? Người Hán các cậu luôn luôn không hiểu điều này. Trần Trận nói: Đúng thế thật. Bây giờ cháu mới hiểu đôi chút. Cậu thấy trong lòng rạo rực, hình như đã mường tượng ra cái bóng của tôtem sói. Cách đây hai năm, trước khi rời Bắc Kinh, cậu đọc và thu thập rất nhiều sách báo viết về dân tộc thảo nguyên, khi ấy cậu chỉ biết tôtem của họ là sói, nhưng hình như lúc này cậu mới bắt đầu hiểu vì sao dân thảo nguyên thờ phụng sói - con vật mà người Hán với nền văn minh nông canh, thù ghét nhất.
Ông già cười mỉm liếc Trần Trận: Căn lều của đám thanh niên trí thức Bắc Kinh các cậu thảm tường quá mỏng. Dịp này ta lấy phần nhiều hơn một chút, chở dê lên trạm thu mua Hợp Cung tiêu đổi lấy thảm, bốn cậu sẽ ấm hơn trong mùa đông này. Trần Trận nói: Vậy thì hay quá! Lều chúng cháu,
thảm tường chỉ hai lớp mỏng, mực viết đóng băng vỡ cả lọ. Ông già cười: Xem này, đàn sói trước mặt sắp sửa tặng quà cho chúng ta! Ở thảo nguyên Ơlon, một con dê nguyên vẹn giá hai mươi tệ gần bằng nửa tháng công điểm cố định của người chăn ngựa. Da dê là nguyên liệu thượng hạng may áo jacket. Người ở trạm thu mua còn nói, áo bay của phi công cũng bằng da dê, nhung phi công Trung Quốc không được mặc. Hàng năm Nội Mông xuất khẩu toàn bộ da dê sang Liên Xô, Đông Âu, đổi lấy sắt thép, xe hơi và súng đạn. Thịt dê philê đóng hộp đứng đầu bảng, cũng xuất khẩu tất. Người trong nước chỉ được ăn chỗ thịt loại ra, mua bằng phiếu ở các quầy cung cấp trên huyện, kỳ (huyện tự trị), vì là mặt hàng quý hiếm. Mùa đông năm nay đàn dê vượt biên từng đàn lớn, khiến các công xã chăn nuôi vùng biên và lãnh đạo các huyện, kỳ rất mừng. Trạm thu mua các cấp đã bố trí nhà kho, chuẩn bị thu mua. Cán bộ, thợ săn và mục dân vui mừng như dân chài gặp đàn cá lớn. Thợ săn và dân chăn ngựa là chân chạy, hầu hết đã lên yên, ngựa khoẻ, đem theo chó săn, súng trường, chuẩn bị cho cuộc truy sát. Trần Trận bị đàn cừu níu chân, lại không có súng. Với lại, dân chăn cừu chỉ có bốn con ngựa thường, không như dân chăn ngựa có tới bảy tám con, mười mấy con ngựa chuyên dùng. Đám thanh niên trí thức đành giương mắt nhìn các thợ săn xuất quân. Đêm hôm kia Trần Trận đến lều anh thợ săn Lanmutrac. Đàn dê mới về có mấy hôm mà anh ta đã bắn được mười một con, trong đó có một phá xâu táo, hạ hai con. Thu nhập của vài ngày săn bắn bằng cả ba tháng lương của người chăn ngựa. Anh ta giọng hể hả, nói ràng đã kiếm đủ tiền thuốc lá trong một năm, chỉ vài hôm nữa, anh sẽ mua một đài bán dẫn Hồng Đăng và để nó ở nhà, còn cái đài cũ thì đem ra lều dã chiến. Lần đầu tiên Trần Trận được ăn thịt dê vàng tươi, ngon lạ lùng, thế mới gọi là thịt. Trên mình con dê vàng không có chỗ nào bỏ đi. Vì là loài chạy khoẻ, nên mỗi đường gân thớ thịt của nó đều là tinh hoa của cả một quá trình rèn luyện trong cuộc thi chạy với sói. Thịt dê vàng ngon không kém thịt nai.
Từ khi đàn dê vàng về thảo nguyên Ơlon, đám thanh niên trí thức Bắc Kinh bị rớt xuống công dân loại hai. Hai năm qua, đám này đã có thể chăn cừu một mình, nhưng kiến thức săn bắt thì hãy còn mít đặc. Vậy mà săn bắn chiếm vị trí rất quan trọng trong phương thức sản xuất của vùng biên Nội Mông. Tổ tiên người Mông Cổ là dân tộc săn bắn cư trú tại thượng lưu Hắc Long Giang, sau tiến dần về thảo nguyên Mông Cổ sống cuộc sống nửa săn bắt nửa chăn thả. Săn bắn là nguồn thu nhập quan trọng của mỗi gia đình, thậm chí là nguồn thu chính. Ở thảo nguyên Ơlon, dân chăn ngựa có địa vị cao hơn cả. Những thợ săn giỏi thường xuất thân từ dân chăn ngựa. Đám thanh niên trí thức rất ít người có thể trở thành dân chăn ngựa, mà nếu có thì cũng chỉ là người học việc, thân phận học trò. Vì vậy khi cái tin sắp có cuộc
săn lớn lan ra, những thanh niên trí thức Bắc Kinh những tưởng mình đã là dân du mục kiểu mới, mới biết mình nhầm to.
Trần Trận ăn no thịt dê vàng, nhận thêm một đùi - quà biếu của Lanmutrac, rồi đến luôn lều ông già Pilich.
Đám thanh niên trí thức tuy đã có lều riêng, nhưng Trần Trận vẫn thích đến lều ông già. Căn lều của ông rộng và đẹp, chắc chắn và rất ấm. Trên tường treo đầy thảm tranh đề tài tôn giáo, dưới đất trải thảm tranh có hình hươu trắng. Trên chiếc bàn vuông, bát bạc, chậu đồng, bình thiếc bày trên giá, đều được lau chùi bóng lộn. Nơi đây vùng sâu vùng xa, phong trào "phá bốn cũ" của Hồng Vệ binh chưa kịp đến để rạch nát những tấm thảm treo tường của ông già. Lều Mông Cổ của bọn Trần Trận có bốn thanh niên trí thức là bạn học cùng lớp của một trường phổ thông trung học Bắc Kinh, trong đó có ba là con em của bọn "xã hội đen đi theo con đường tư bản chủ nghĩa", bọn "độc quyền học thuật phản động". Do cảnh ngộ tương tự, nên tư tưởng hòa đồng, rất ác cảm với bọn hồng vệ binh ngu si dốt nát, nên đầu mùa đông năm 1967 cùng nhau từ biệt Bắc Kinh ồn ào, đi tìm cuộc sống yên bình trên thảo nguyên Nội Mông. Họ đối xử tốt với nhau, căn lều Mông Cổ của ông già y như đại bản doanh của một đại tù trưởng trên thảo nguyên, bọn Trần Trận được bảo ban chăm sóc, khiến các cậu cảm thấy thân thiết và yên ổn.
Hai năm nay, gia đình ông già coi Trần Trận như người trong nhà. Hai hòm sách đầy ắp đem từ Bắc Kinh về, nhất là những sách liên quan tới lịch sử Mông Cổ viết bằng tiếng Trung Quốc hay bằng tiếng nước ngoài, càng thắt chặt mối quan hệ giữa ông già và cậu thanh niên người Hán. Ông già cực kỳ hiếu khách, từng có bạn là những nghệ nhân người Mông, họ biết nhiều lịch sử và truyền thuyết Mông Cổ. Trông thấy sách, nhất là được xem tranh minh họa và bản đồ, ông già rất thích những quyển sử Mông Cổ do những nhà văn, nhà sử học người Trung Quốc, người Nga, người Ba Tư và người các nước khác viết. Biết chút ít chữ Hán, ông già tranh thủ dạy tiếng Mông Cổ cho Trần Trận, ông muốn càng sớm càng tốt giải mã những gì viết trong sách. Ông kể cho Trần Trận nghe chuyện kể Mông Cổ. Sau hai năm, cuộc đối thoại bằng hai ngữ Mông - Hán giữa một già một trẻ đã diễn ra khá trôi chảy.
Nhưng Trần Trận chúa dám kể cho ông già nghe người Trung Quốc xưa và một số nhà sư học phương tây đã nhìn Mông Cổ bằng con mắt thù địch, đầy ác ý. Về thảo nguyên, Trần Trận không bao giờ dám ngâm bài thơ "Mãn giang hồng" của Nhạc Phi, không dám nhắc đến "Tiếu đàm", "Khát ẩm". Cậu rất muốn tìm hiểu nguyên nhân vì sao trong lịch sử, dân tộc nông canh và dân tộc du mục lại thù ghét nhau và vì sao dân tộc Mông Cổ với số dân ít ỏi lại bùng nổ như phản ứng nhiệt hạch đáng sợ đến thế trong lịch sử nhân
loại.
Trần Trận vốn không muốn rời căn lều của ông già Pilich, nhưng thảo nguyên Ơlon màu mỡ, đàn gia súc ngày càng đông có đàn sau kỳ sinh nở lên tới ba ngàn con, quá tầm một người chăn, do đó phải chia đàn. Trần Trận cực chẳng đã phải rời căn lều Mông Cổ, cùng ba thanh niên trí thức dựng lều ở riêng. Có cái tốt là không xa nơi ở cũ bao nhiêu, cừu kêu chó sủa vẫn nghe thấy, sớm tối đi về vẫn gặp nhau, lều nọ sang lều kia ngồi chưa nóng yên ngựa đã tới, tiếp tục câu chuyện bà dở. Có điều lần này là chuyện dê vàng, không phải chuyện sói.
Trần Trận vén rèm cửa - tấm thảm len dệt đồ án cát tường, bước vào trong lều, ngồi uống trà sữa trên tấm thảm dày. Ông già nói: Đừng thấy người ta bắn được nhiều mà đỏ mắt lên, ngày mai tôi sẽ đưa cậu đi lấy đầy một xe dê vàng đem về. Ba bốn hôm nay, tôi đã tăm cả vùng này, đã thấy chỗ nào có thể bắt dê vàng. Thật đúng dịp, tôi cũng muốn cho cậu hiểu thêm về sói. Cậu luôn ca cẩm sói phải không? Người Hán là con cừu ăn cỏ nên dát như thỏ đế, người Mông Cổ ăn thịt nên bạo gan như sói. Mình nên có cái gan của sói.
Tinh mơ hôm sau, Trần Trận cùng ông già mai phục trên một cái dốc phía tây nam dãy Đại Sơn. Ông già không đem theo súng và chó, chỉ đem theo chiếc ống nhòm. Trần Trận mấy bận theo ông già đi săn cáo, nhưng đi tay không thế này là lần đầu. Cậu hỏi đi hỏi lại ông già, phải chăng ông bắt dê bằng ống nhòm? Ông già chỉ cười không trả lời. Ông thích để cho học trò của ông chất đầy câu hỏi trong đầu khi học ông.
Chỉ khi phát hiện đàn sói lặng lẽ bao vây đàn dê vàng, Trần Trận mới đoán ra cách săn của ông già Philich. Cậu khoái quá ông già cũng nhìn cậu mỉm cười láu lỉnh. Trần Trận thấy mình như ông lão đánh cá trong chuyện trai cò tranh ăn, nhưng cậu chỉ là ngư ông dởm, ngư ông đích thực phải là ông Pilich. Ông già túc trí đa mưu của thảo nguyên dẫn cậu đến đây để ngồi không ăn sẵn. Từ lúc trông thấy đàn sói, Trần Trận quên cả rét, máu chảy nhanh gấp đôi trong huyết quản, nỗi sợ của lần đầu gặp sói cũng tan biến.
0o0
Không một gợn gió trên bãi cỏ trong núi sâu, trời hanh khô, lạnh buốt. Hai chân gần như cứng đờ, phía dưới bụng khí lạnh ngày càng đậm, giá có tấm đệm bằng da sói thì tốt. Một câu hỏi loé lên bất chợt trong đầu, Trần Trận hỏi ông già: Bác bảo đệm da sói là ấm nhất, thợ săn và người dân ở đây săn được rất nhiều sói, mà sao cháu chẳng thấy nhà nào dùng đệm da sói? Ngay cả dân chăn ngựa ngày đêm nằm trên tuyết cũng không dùng? Cháu chỉ trông thấy ở nhà Đansai có đệm da sói, còn thấy bố Đansai có đôi bao chân bằng da sói bên ngoài chiếc quần da dê, mặt có lông bên ngoài. Ông nói
ông quần da sói rất tốt cho những người bị thấp khớp. Mặc được mấy tháng, cái chân ông trước đây luôn lạnh ngắt, bây giờ đã ra mồ hôi. Bác ơi, bác gái cũng bị thấp khớp phải không, sao bác không may cho bác gái đôi bao chân như thế?
Ông già nói: Nhà Đansai thuộc dòng Mông Cổ đông bắc, quê cũ làm ruộng, có chăn nuôi tí chút. Vùng đó người Hán đông nên theo phong tục Hán. Đám dân ngụ cư này đã quên thần linh của người Mông Cổ, mất gốc rồi. Họ cho người chét vào quan tài gỗ đem chôn, không để sói ăn, dĩ nhiên là họ dám ngủ đệm da sói, mặc quần da sói. Trên thảo nguyên chỉ da sói lông sói là dày nhất, rậm nhất, chống rét tốt nhất, hai tầm da cừu chồng lên nhau không ấm bằng một tấm da sói. Ông trời ưu ái loài sói, ban cho bộ lông chống rét. Nhưng người Mông Cổ xưa nay không dùng da sói làm đệm vì kính trọng sói, không kính trọng sói không phải người Mông Cổ đích thực. Người Mông Cổ thà chịu rét chứ không nằm đệm lông sói. Nằm đệm lông sói là miệt thị thần linh Mông Cổ, mà như vậy thì linh hồn họ làm sao lên trời? Cháu thử đoán xem, vì sao ông trời bảo vệ loài sói?
Trần Trận đáp: Bác có nói sói là hộ thần của đồng cỏ mà!
Ông già nheo mắt cười: Đúng! Trời là cha, đồng cỏ là mẹ. Sói ăn thịt những sinh vật làm hại đồng cỏ, trời không bảo vệ sói sao được? Đàn sói lại có những động thái mới. Hai người vội chĩa ống nhòm về phía những con sói ngẩng cao đầu, nhưng chúng đã lại cúi xuống, nằm yên. Trần Trận quan sát thật kỹ những co sói trong đá cỏ cao, nhưng không nhìn rõ chúng đang làm gì.
Ông già đưa chiếc ông nhòm đơn cho Trần Trận để cậu ghép chúng lại, quan sát nguyên chiếc. Chiếc ông nhòm quân dụng này là của Liên Xô, bội số cao, ông già nhặt được nơi xảy ra cuộc chiến Xô - Nhật cách đây hơn hai mươi năm. Thảo nguyên Ơlon nằm ở vị trí phía tây nam dãy Đại Hưng Yên, chính bắc Bắc Kinh, tiếp giáp với Mông Cổ, là chiến trường cũ giữa các dân tộc, các bộ tộc du mục, và cũng là nơi tranh chấp giữa các dân tộc du mục với dân tộc nông canh. Trong thế chiến thứ hai, cách biên giới không xa, nơi đây từng xảy ra trận kịch chiến trên quy mô lớn giữa hồng quân Liên Xô và quân đội Nhật. Cuối thế chiến thứ hai, nơi đây cũng là con đường tiến quân của quân đội Xô - Mông đi đông bắc. Đến nay, ở Ơlon vẫn còn vết xe tăng như một con mương cạn, và những xác xe tăng, xe bọc thép Liên Xô. Người dân ở đây hầu như đều có một vài thứ của Liên Xô như lưỡi lê, bi đông, xẻng quân dụng, mũ sắt, ống nhòm. Chiếc xích dài Caxumai dùng để xích bê con là xích chống lầy của xe com măng ca Liên Xô. Trong các đồ quân dụng đó, người Mông Cổ yêu thích nhất là ống nhòm, nay đã trở thành công cụ sản xuất chủ yếu trên thảo nguyên.
Dân du mục Ơlon thích tách ống nhòm đôi thành hai ống đơn, vừa thu gọn thể tích, vừa tiện mang xách và sử dụng bền gấp đôi. Họ rất quý những gì họ chưa làm được. Dân du mục Mông Cổ mắt tinh lắm, nhưng không tinh bằng sói. Chỉ cần ống nhòm đơn cũng nhìn xa hơn sói rồi. Ông già Pilich nói, từ khi có ống nhòm, người ta săn được nhiều hơn, ngựa lạc tìm thấy cũng dễ. Nhưng ông già lại nói, ông cảm thấy ánh mắt sói cũng sắc sảo hơn trước kia. Nếu mình dùng ống nhòm quan sát sói từ xa, có khi nhìn thấy con sói cũng đang nhìn mình không chớp.
Trần Trận ở với ông già được nửa năm, một hôm ông lấy từ đáy hòm một chiếc ống nhòm đơn cho cậu. Chuyện này khiến con trai ông hơi bực, vì chiếc ống nhòm của Batu là hàng nội. Cái ông nhòm Liên Xô này tuy rất cũ nhưng độ phóng đại lớn, ống kính vẫn tốt nguyên tuy vỏ ngoài đã rỗ lấm tấm. Trần Trận thích mê, dùng vải điều bọc cẩn thận, cất kỹ, chỉ khi đi tìm bò lạc giúp bạn, cậu mới đem theo.
Trần Trận dùng ống nhòm sục sạo bãi sân. Được vũ trang bằng cặp mắt người đi săn này, máu săn tiềm ẩn trong người cậu được dịp trỗi dậy. Tổ tiên của tất cả mọi người là thợ săn. Đó là vai diễn đầu tiên của nhân loại trên thế giới, và cũng là vai diễn lâu đời nhất. Trần Trận nghĩ, mình từ cái nơi phát triển nhất là Bắc Kinh về nơi thảo nguyên hoang dã nhất này, sao mình không tiếp tục sống cuộc sống hoang dã để nếm lại cái thi vị được sắm vai diễn nguyên thuỷ của nhân loại. cậu thấy đến bây giờ thuộc tính săn bắn của cậu mới được đánh thức thì quá muộn. Cậu rất buồn khi thấy mình là hậu duệ của bộ tộc nông canh. Các tộc nông danh trong khoảng thời gian mấy chục đời, thậm chí hàng trăm đời ăn rau ăn cỏ, trở nên nhát như cừu, mất đi từ lâu dòng máu du mục Viêm Hoàng, không những máu săn không còn, trái lại, trở thành đối tượng săn đuổi của các cường quốc.
Đàn sói chưa có dấu hiệu hành động. Trần Trận gần như hết kiên nhẫn trước tính nhẫn nại của đàn sói. Cậu hỏi ông già: Đàn sói hôm nay có ý định bủa vây hay thôi hả bác? Phải chăng chúng đợi đến tối mới hành động?
Ông già nói khẽ: Đánh trận mà không kiên nhẫn thì làm sao thắng? Thành Cát Tư Hãn chỉ một dúm kỵ binh làm sao đánh bại trăm vạn quân Kim, chiếm mấy chục nước? Con sói không chỉ dựa vào sức mạnh, mà còn phải biết kiên nhẫn. Kẻ thủ đông đến mấy, mạnh đến mấy cũng có lúc hớ hênh. Con ngựa to đùng mà hớ hênh thì cũng bị con sói con ăn thịt. Không kiên nhẫn thì không phải sói, muốn hiểu Thành Cát Tư Hãn thì trước hết phải kiên trì mai phục ở đây.
Thấy ông già có vẻ không bằng lòng, Trần Trận không dám hỏi gì thêm, cố rèn cho mình tính kiên nhẫn. Cậu chĩa ống nhòm vào một con sói mà cậu đã quan sát nhiều lần. Nó nằm im một chỗ, rất lâu không đổi tư thế.
Giọng ông già đã dịu đi: Cậu đã đoán ra sói đang đợi cái gì chưa? Trần Trận lắc đầu. Ông già nói: Sói đang đợi dê vàng ngủ gật sau khi ăn no. Trần Trận sững người, vội hỏi: Sói thông minh đến thế hở bác? Nó biết đợi dê vàng không chạy được mới ra tay?
Ông già nói: Người Hán các cậu không hiểu gì về sói, sói tinh vi hơn con người. Tôi hỏi cậu: Một mình con sói gộc có bắt được một con dê gộc không?
Trần Trận nghĩ một thoáng, trả lời: Phải ba con. Hai con đuổi, một con đón đầu thì mới bắt được. Một chọi một thì bắt không nổi. Ông già lắc đầu: Cậu tin không, một con sói lợi hại, có thể một mình bắt dê vàng ngon ơ.
Trần Trận ngạc nhiên nhìn ông già: Bắt kiểu nào hở bác, cháu nghĩ không ra.
Ông già nói: Sói có một tuyệt chiêu để bắt dê vàng. Ban ngày, con sói chỉ canh chừng một con dê vàng, chưa đụng vội. Đêm đến, con dê tìm một chỗ khuất gió có cỏ dày nằm ngủ. Lúc này sói chưa bắt nổi dê vì khi ngủ, mũi và tai dê không ngủ, hễ có động là dê chạy liền, sói đuổi không kịp. Cả đêm sói không động thủ, phục một quãng xa mà đợi. Sáng ra, sau một đêm bàng quang dê đầy căng nước tiểu, đúng khi ấy, sói xông lên. khi chạy dê không đái được, chỉ một quãng là bọng đái bị vỡ, chân sau lập tức bị chuột rút, không chạy được nữa. Cậu xem, dê vàng chạy nhanh là thế mà cũng có lúc chạy không được. Những con sói dày kinh nghiệm biết đó là lúc có thể vồ được dê. Chỉ những con dê tinh khôn nửa đêm rời chỗ nằm rất ấm đái bớt đi một nửa thì lúc này mới chạy kịp. Dân Ơlon thường dậy rất sớm cướp lấy con dê từ miệng sói. Mổ ra, bụng dê đầy nước đái.
Trần Trận nói: Trời ạ, có đánh chết cháu cũng không nghĩ ra lại có chuyện ấy. Quả là kiên trì! Mà người Mông Cổ quả ranh ma! Ông già cười khà: Thì đã hẳn, học trò của sói mà lại!
Phần lớn những con dê vàng đã ngẩng đầu lên, cái bụng lại càng to vì cả đêm không đái. Có con no quá phải choãi chân mà đứng. Ông già dùng ống nhòm quan sát hồi lâu, nói: Dê không hoạt động nữa. Sói sắp ra tay rồi!
Trần Trận cuống lên. Đàn sói đã lặng lẽ khép vòng vây. Ba mặt đông, bắc, tây là sói, còn mặt nam thì là một cái dốc. Trần Trận đoán phỏng bên kia dốc hẳn có một số sói đợi sẵn. Khi đàn sói tổng công kích, đám sói này đón lõng, cùng với những con trên tuyến bao vây hạ sát đàn dê. Cậu thường nghe mục dân nói những con sói thường vây bắt dê bằng cách này. Cậu hỏi: Đàn sói đón lõng phía sau có bao nhiêu con, hả bác? Nếu ít quá chẳng bắt được mấy con.
Ông già cười hóm: Phía sau dốc không có con sói nào hết. Sói chúa không sai một con nào ra phía ấy.
Trần Trận vô cùng băn khoăn: Vậy thì chúng bao vây kiểu gì? Ông già cười khẽ: Thời tiết này, địa hình này, vây ba mặt bắt được nhiều hơn bốn mặt.
Trần Trận nói: Cháu vẫn chưa hiểu sói còn mánh khoé gì nữa. Ông già nói: Phía sau dốc là một hồ tuyết khổng lồ. Cái đèo chênh chếch trước mặt kia rất hút gió. Khi bạch mao phong thổi tới, tuyết trên đèo bị thổi bay xuống chỗ đất trũng đó, tạo thành cái hồ, không phải hồ nước, mà là hồ tuyết, rất kín gió, tuyết rất sâu, ven bờ cũng đã ngang thắt lưng, vào giữa lút con sào. Lát nữa, sói từ ba phía dồn dê vàng qua dốc, cậu sẽ biết sói bao vây kiểu gì.
Trần Trận mắt tối sầm như rớt xuống một cái hang sâu đầy tuyết. Cậu nghĩ, giả sử mình là kỵ binh Hán xâm nhập thảo nguyên, mười mươi là không nhìn ra âm mưu và cái bẫy này. Cậu lờ mờ hiểu ra nguyên nhân vì sao đại tướng Từ Đạt triều Minh bên này cửa quan thì đánh đâu thắng đó, nhưng khi đánh sang thảo nguyên thì quân sĩ không còn một mống. Còn một vị đại tướng triều Minh nữa, họ Khưu tên Phúc dẫn mười vạn đại quân đánh sang thảo nguyên Mông Cổ, đến tận sông Khơluluan, nhưng cuối cùng thân cô thế cô, trúng kế mà chết, quân sĩ của ông ta rối loạn, bị kỵ binh Mông Cổ bắt sống.
Ông già nói, đánh trận thì sói thông minh hơn người. Người Mông Cổ săn bắt, bủa vây, đánh trận đều học từ sói. Bên đất người Hán không có những đàn sói lớn, nên người Hán không giỏi trận mạc. Đánh giặc mà chỉ dựa vào đất rộng người đông thì không ăn thua. Thắng hay bại còn phải xem anh là sói hay là cừu...
Đột nhiên, đàn sói bắt đầu tổng công kích. Hai con sói gộc phục mãi tận cùng phía tây dưới sự chỉ huy của con sói chúa ức trắng, nhanh như chớp chạy lên chiếm lĩnh mỏm đồi gần đàn dê vàng nhất, rõ ràng đây là khoảng đất trống cuối cùng, chiếm được mỏm đồi, vòng vây hình thành. Hành động của nhóm sói này như phát súng lệnh cho cả ba mặt xuất kích, những con sói nấp sau những bụi cỏ vọt lên, tấn công đàn dê từ ba phía đông, tây, bắc. Trần Trận chưa bao giờ trông thấy một cuộc tiến công hãi hùng đến thế. Đội quân của người khi tiến công thì hò hét trợ oai, đàn chó khi xung phong thì sủa ăng ẳng để tăng thanh thế. Nhưng đó chẳng qua là sự biểu hiện của sự thiếu tự tin. Còn sói thì cứ lì lợm tiến tới, không một tiếng sủa, không một tiếng gầm gừ, và nỗi kinh hoàng hiện lên trong mắt, trong tim, trong gan người và động vật do sự xuất hiện của sói vì nó đi đôi với những gì tàn nhẫn nhất.
Mấy chục con sói chạy băng băng trên đồng cỏ như những quả ngư lôi có
hàm răng sói nhọn hoắt, rẽ nước xông tới đàn dê.
Những con dê bụng lặc lè, đứng không vững. Tốc độ là thứ vũ khí mà dê dùng để đối phó với sói. Một khi không còn tốc độ, dê chẳng khác con cừu hoặc một súc thịt cừu. Trần Trận nghĩ, đàn dê sợ sói hơn cậu lần đầu gặp sói. Phần lớn đàn dê đã sợ vỡ mật, hồn vía lên mây. Một số đứng đực ra, run lẩy bẩy. Một số ngã lăn, thè lưỡi, cái đuôi ngắn tũn giật giật.
Trần Trận quả được một bài học thế nào là trí tuệ, sự kiên trì, tính tổ chức kỷ luật của sói thảo nguyên. Nhịn đói nhịn khát, kiên nhẫn đợi một trận chiến dễ gì đã gặp, đàn sói đã nhẹ nhàng tước vũ khí của lũ dê.
Một ý nghĩ loé trong đầu Trần Trận: Nhà quân sư vĩ đại Thành Cát Tư Hãn một chữ bẻ làm đôi không biết, và những tướng lĩnh Khuyển Nhung, Hung Nô, Khiết Đan, Đột Quyết, Mông Cổ mù chữ hoặc mù chữ một nửa, mà lại giỏi hơn cả cường quốc Hoa Hạ có trong tay "binh pháp Tôn Tử" lừng danh thế giới, đánh cho cường quốc này điên đảo càn khôn. Thì ra họ có người thầy vĩ đại, một huấn luyện viên tài ba về quân sự là sói. Họ được kiến tập những trận chiến đấu trên thực tế, họ có thực tiễn chiến đấu lâu đời với đàn sói. Trần Trận cảm thấy chỉ vài giờ quan sát mà thu lượm được nhiều hơn mấy năm học binh pháp Tôn Tử và Clausowist. Nó tác động rất nhiều đến tính cách và linh hồn người đọc. Từ nhỏ, cậu đã mê lịch sử, những muốn làm rõ một trong những vấn đề tồn nghi của lịch sử: Một dân tộc Mông Cổ bé nhỏ nhưng đã dựng nên một đế quốc vĩ đại trải dài từ Á sang Âu trong lịch sử nhân loại. Vậy tài năng quân sự của họ từ đâu mà có? Cậu không chỉ một lần hỏi ông già Pilich. Ông già tuy không bằng cấp, nhưng hiểu nhiều biết rộng, ông dùng phương thức giảng dạy rất nguyên thủy mà cũng rất hiện đại, giải đáp cho cậu. Trần Trận đâm ra kính nể sói thảo nguyên và các dân tộc thảo nguyên sùng bái tôtem sói.
Cuộc chiến và kiến tập vẫn tiếp tục.
0O0
Cuối cùng, đàn dê buộc phải khởi động. Chỉ những con dê già nhiều kinh nghiệm trận mạc và con dê đầu đàn là cưỡng lại được mùi thơm hấp dẫn của cỏ tươi mùa đông mà chỉ ăn lửng dạ, giờ đây theo bản năng chạy về phía con dốc không có sói, cuốn theo gần như cả đàn. Bụng lặc lè, chân đạp tuyết, lại leo dốc, số phận những con dê thật thê thảm. Đúng là một cuộc tàn sát, và cũng là sự trừng phạt của trí tuệ đối với ngu xuẩn. Theo quan điểm của ông già Pilich, sói đang thay trời hành đạo, đang làm một việc thiện cho thảo nguyên.
Đàn sói không thèm để ý những con dê no vỡ bụng, không đánh mà tự thương. Sói xông thẳng vào những con to nhất cắn đứt họng, máu tươi vọt lên trời, tung toé trên mặt cỏ. Không khí lạnh ngắt đẫm mùi máu. Đàn dê thị
giác, khứu giác cực kỳ mẫn cảm, trông thấy cái trò giết gà dọa khỉ sợ quá cố sống cố chết chạy lên dốc. Vài con đực dẫn đầu một số con lên đến đỉnh dốc đột nhiên dừng lại, xoay tròn như đèn kéo quân, không con nào dám nhảy xuống. Rõ ràng là chúng đã cảm thấy mối nguy hiểm đang chờ đợi trên mặt tuyết phẳng lì, không một ngọn cỏ nhô lên. Cũng vậy, những con dê già lập tức nhận ra quỉ kế của đàn sói.
Đột nhiên, đàn dê dày đặc trên đỉnh dốc bỗng chạy ngược trở lại, ầm ầm như đá chạy cát bay. Mười mấy con đực linh cảm thấy mối nguy rình rập cả hai phía, chúng chọn phía ít nguy hiểm hơn để phá vây. Chúng nổi khùng bất kể sống chết, quyết đối đầu với lũ sói. Tốp năm tốp ba, vai ken vai, bụng ken bụng, cắm đầu chĩa những cặp sừng nhọn hoắt như mũi xà mâu, nhằm đàn sói xông tới. Những con dê còn khả năng chạy vội vàng theo sau. Trần Trận biết cặp sừng của dê vàng rất lợi hại. Mục dân dùng nó làm dùi khâu đồ da, đột lỗ, dày như da bò cũng xuyên thủng chứ nói gì da sói. Những cặp sừng nhọn hoắt của dê vàng lập tức tỏ ra công hiệu, vòng vây của đàn sói bị vỡ, một làn sóng màu vàng ùa ra chỗ đó như vỡ đê. Trần Trận cuống lên, chỉ sợ đàn sói mất công toi. Nhưng cậu nhìn thấy con sói chúa đã đứng ngay bên cửa khẩu, tư thế đĩnh đạc y hệt người gác đập mở cửa xả bớt nước khi thấy cơn lũ quá lớn, con đập chứa không hết. Khi những con dê có sừng và còn có sức chạy ra ngoài vòng vây, sói chúa cùng lũ sói lập tức bị chặt cửa khẩu. Lúc này, trong vòng vây chỉ còn lại một lũ đần độn không còn khả năng chạy, không vũ khí, không đầu óc. Trước sự tấn công của đàn sói, đám dê ô hợp đã mất con đầu đàn, hoảng sợ chạy trở lại đầu dốc và tất cả nhào xuống hồ tuyết. Trần Trận hoàn toàn có thể hình dung những con dê chân mảnh bụng lặc lè, kết cục sẽ như thế nào.
Đàn dê vàng và đàn sói đều mất hút tại đường chân trời, nơi tiếp giáp giữa trời và núi. Chiến trường rầm rập hàng ngàn tiếng chân chạy và máu me vung vãi, bỗng lặng ngắt. Trên bãi cỏ bảy tám xác chết, mấy con bị thương đang giãy giụa. Trận đánh từ lúc phát lệnh tổng công kích đến khi kết thúc, chỉ diễn ra trong vòng mươi phút đồng hồ. Trần Trận nín thở theo dõi, nhiều lúc thót tim.
Ông già đứng dậy vươn vai rồi ngồi xếp bằng tròn sau đám cỏ rậm, lấy trong túi Mông Cổ chiếc tẩu chạm ngọc lục, nhồi thuốc, châm lửa, nén tàn thuốc bằng cái nắp làm từ đồng bạc trắng, rồi rít một hơi dài. Trần Trận biết bộ đồ hút này ông già đã đổi bằng hai mươi tấm da cáo cho một thương lái người Hán chuyên đánh hàng sang Mông Cổ. Các thanh niên trí thức kêu đổi vậy quá đắt, nhưng ông già mê chiếc tẩu, không kể đắt rẻ. Ông còn bảo, người đi buôn cũng lắm gian nan, đường xa dặm thẳm, lỡ gặp cướp thì ngay cả tính mạng chưa chắc đã còn, kì kèo với người ta làm gì.
Rít liền mấy hơi, ông già nói: Hút xong tẩu thuốc này ta về.
Trần Trận đang cao hứng, vội nài: Sao không sang bên kia dốc xem sói đã dồn được bao nhiêu con mồi xuống đó?
Chỉ có hai người mà cậu dám sang đó? Ông già nói: Hỏi vậy thôi, không sang cũng biết. Tối thiểu vài trăm con. Ngoài những con còn nhỏ, gầy gò, những con may mắn chạy thoát, số còn lại đều chầu trời. Cậu đừng sốt ruột, đàn sói ăn không hết bao nhiêu, cả tổ mình đến lấy vẫn không hết.
Vì sao những con nhỏ hoặc gầy lại thoát hả bác? Trần Trận hỏi. Ông già hấp háy mắt: Nhỏ và gầy thì nhẹ, mặt băng không vỡ nên chạy thoát. Sói cũng không dám đuổi theo. Ông lại cười: Bây giờ cậu đã thấy sói lợi hại chưa? Sói không những canh gác đồng cỏ, mà còn tặng quà Tết cho ta. Năm nay thì ta có cái Tết tươm rồi. Trước đây, moi lên được bao nhiêu dê vàng đều phải nộp cho mục chủ. Sau ngày giải phóng, dân được hưởng tất. Ơlon có quy định, ai trông thấy thì người ấy được lấy. Ngày mai các cậu nên lấy nhiều nhiều một tí, bọn mình trông thấy đầu tiên mà! Người Mông Cổ rất coi trọng tình nghĩa, từ nay các cậu và những người Hán khác chớ có nằng nặc đòi giết hết sói nữa nhé.
Trần Trận sướng quá, những muốn chắt đầy ngay một xe dê vàng kéo về. Cậu nói: Về thảo nguyên đã hai năm khổ vì sói, không ngờ bây giờ lại có lộc do sói đem lại.
Ông già Pilich nói: Người Mông Cổ kiếm được từ sói nhiều thứ. Cầm roi chỉ ngọn núi xa xa, ông nói tiếp: Dãy núi đó vẫn thuộc địa phận mục trường ta, rất nổi tiếng. Nghe người già kể lại, một tướng của Thành Cát Tư Hãn là Muhoali đã lừ được mấy nghìn quân kỵ của Đại Kim sa xuống trũng tuyết ở đó. Mùa xuân năm sau, Khan cho người đi thu nhặt chiến lợi phẩm, đao thương cung kiếm, giáp trụ yên cương chất cao như núi. Chẳng phải học từ sói đó sao? Cậu đếm thử mấy chục trận đại thắng của người Mông Cổ mà xem, trong đó quá nửa là học cách đánh của sói.
Trần Trận gật đầu lia lịa: Quả vậy. Con trai út Thành Cát Tư Hãn là Thác Lôi chỉ huy chiến dịch Tam Đảo ở Hà Nam, chỉ dùng hơn ba vạn kỵ binh mà tiêu diệt hai mươi vạn kỵ binh Đại Kim. Sau trận đó, nhà Kim diệt vong. Thác Lôi lúc đầu thấy quân Kim mạnh, không ra ứng chiến. Cũng như sói, ông ta đợi khi tuyết xuống liền dẫn quân đi ẩn nơi ấm áp, đợi miết cho đến khi quân Kim người ngựa ốm đau quá nửa mới kéo quân tới bao vây. Thác Lôi cũng như đàn sói này, không dùng gươm đao, mà dùng bão tuyết diệt địch. Mưu mẹo ấy, đức kiên trì ấy, đởm lược ấy y như sói. Thực ra, kỵ binh Nữ Chân của Đại Kim đâu phải đồ bị thịt, họ đã tiêu diệt Đại Liêu và Bắc Tống, chiếm được một nửa Trung Quốc, bắt sống hai Hoàng Đế Trung Quốc! Thác Lôi chỉ vài vạn kỵ binh mà dám đánh một trận bao vây lớn như thế. Binh thư Trung Quốc có nói, vây đánh thì quân số phải đông gấp mười.
Kỵ binh Mông Cổ lợi hại như sói, một chọi trăm. Cháu quả thực phục sát đất. Đương thời cả thế giới cũng rất khâm phục...
Ông già gõ gõ cái tẩu, cười: Cậu cũng biết trận ấy hả? Nhưng đoán chắc là cậu không biết chuyện trận ấy tuyết rơi ba ngày ba đêm là vì sao? Đó là trời ủng hộ. Pháp sư Bồ Man của quân Mông Cổ cầu trời cho tuyết rơi xuống. Kim là kẻ thù lớn của Thành Cát Tư Hãn, vua nhà Kim cùng với kẻ đồng lõa là Tháp Tháp giết Éucai, bố đẻ Thành Cát Tư Hãn, giết cả chú ruột Thành Cát Tư Hãn Anbacai. Họ chết rất thảm. Đánh thắng trận này, người Mông Cổ mới hả dạ. Cậu xem, chẳng phải ông trời luôn luôn đứng về phía sói đấy ư. Ông già cười khà, như nếp nhăn hằn rõ trên mặt nhưng dính nhưng sợi lông cừu.
Hai người đi về khe núi phía sau, con ngựa ô trông thấy chủ gục gặc đầu mừng rỡ. Mỗi lần gặp con ngựa đã cứu sống mình, Trần Trận lại xoa đầu nó tỏ ý cảm ơn. Nhưng chính lúc đó Trần Trận lại nảy ra một ý muốn khó cưỡng là xoa đầu con sói.
Hai người cởi thừng buộc chân ngựa, lên yên, chạy nước kiệu về nhà. Ông già ngẩng đầu nhìn trời, nói: Đúng là trời phù hộ chúng ta, ngày mai không có bão tuyết. Nếu đêm nay bạch mao phong tràn về thì một con cũng không còn.
Chương 3
Y Tôn, vương hiệu Cônmo. Cha Cônmo, trị vì một nước ở phía tây Hung Nô. Hung Nô giết cha Cônmo khi Cônmo mới sinh vứt ngoài đồng, được sói cho bú sữa. Thuyền Vu lấy làm lạ, cho là thần, bèn đem về nuôi, lớn lên cho cầm quân, lập nhiều chiến công...
Tư Mã Thiên, Đại Uyển liệt truyện.
Sớm hôm sau quả nhiên lặng gió, tuyết cũng ngừng rơi. Khói bếp trên nóc lều thẳng tắp như cây bạch hoa chĩa thẳng lên trời. Bò, cừu còn đang nhai lại. Ánh nắng xua tan khí lạnh ban đêm, lớp sương đọng trên mình chúng biến thành hơi nước rồi nhanh chóng thành lớp băng mỏng.
Trần Trận nhờ anh hàng xóm Quanbu chăn cừu hộ một hôm. Quanbu thành phần mục chủ, đang bị quản chế, đã bị tước quyền chăn dắt, nhưng bốn thanh niên trí thức khi cần vẫn nhờ chăn hộ gia súc, Caxumai tính đầy đủ công điểm cho anh ta. Trần Trận và một thanh niên chăn cừu tên Dương Khắc, lên cỗ xe bò trục sắt gọn nhẹn, đến nhà ông già Pilich.
Dương Khắc ở chung lều với Trần Trận là con trai một giáo sư nổi tiếng của một trường đại học nổi tiếng Bắc Kinh. Tủ sách nhà cậu ta tương đương một thư viện nhỏ. Hồi học cao trung (cấp 3), Trần Trận và Dương Khắc thường trao đổi sách, giao lưu cảm tưởng, thường là ý hợp tâm đầu. Hồi còn ở Bắc Kinh, Dương Khắc tính khí điềm đạm, gặp người lạ còn đỏ mặt. Chẳng ngờ lên thảo nguyên Mông Cổ mới hai năm ăn thịt cừu, uống sữa bò, ăn đậu phụ, bốn mùa đội tia tử ngoại trong cái nắng trên thảo nguyên, cậu đã trở thành một thanh niên cường tráng, mặt và chây tay đỏ au như dân du mục, tính cách cũng không còn vẻ thư sinh. Lúc này, Dương Khắc còn hăng hơn Trần Trận. Cậu ngồi trên xe dùng gậy gỗ gõ sống lưng con bò, miệng nói: Đêm qua mình ngủ không ngon giấc. Từ nay bố Pilich có đi săn thì cậu nhớ gọi mình đi với, dù nằm phục hai ngày hai đêm mình cũng chịu được. Mình chưa từng nghe sói làm điều tốt đến như thế cho người. Hôm nay phải chính tay tớ đào lên một con dê vàng thì tớ mới tin... Có thật là chúng mình được lấy đầy một xe không?
Sao lại không thật? Trần Trận cười: Bố Pilich đã nói, dù khó bới đến mấy cũng bảo đảm chúng mình lấy đầy xe để đổi lấy các thứ cần dùng, sắm một ít thảm dày...
Dương Khắc thích quá, giơ gậy vụt lia lịa. Trần Trận nói: Xem ra hai năm nay cậu mê sói không uổng công. Từ rày tới phải học bính thư của sói, biết đâu sau này chẳng có lúc dùng. Hình như điều cậu nói là một quy luật, dân tộc nào sống cuộc sống du mục nguyên thủy trên thảo nguyên, cuối cùng cũng sùng bái sói, tôn sói làm thầy như các dân tộc Hung Nô, U Xôn, Đột
Quyết, Mông Cổ vẫn làm. Sách chép như thế. Nhưng tộc Hán thì ngoại lệ. Tớ dám khẳng định là người Hán chúng ta có ở đến vài thế kỷ trên thảo nguyên cũng không sùng bái tôtem sói.
Chưa chắc - Trần Trận nói - Như tớ chẳng hạn, tớ đã bị sói thuyết phục. Vậy mà tớ mới ở có hơn hai năm.
Dương Khắc hỏi vặn: Nhưng mà Trung Quốc đại đa số là nông dân, hoặc xuất thân nông dân, ý thức tiểu nông của người Hán chai lì như thép không gỉ. Họ đến thảo nguyên mà không bắt hết sói để lột da thì chớ kể. Tộc Hán ở Trung Quốc là tộc nông canh, ăn rau cỏ, sợ sói từ trong máu, làm sao có chuyện sùng bái sói? Người Hán ở Trung Quốc sùng bái Rồng chủ quản công nghiệp. Trông thấy tôtem Rồng chỉ dập đầu lạy, bảo gì nghe nấy. Đâu dám như người Mông Cổ học tập sói, bảo vệ sói, sùng bái sói nhưng vẫn giết sói. Tôtem của họ trực tiếp tác động đến tinh thần, tính cách của họ. Có sự khác biệt rất lớn giữa dân tộc nông canh và dân tộc du mục. Khi xưa tính cách nông canh tệ hại ẩn trong cái biển mênh mông của tính cách Hán nên chưa thấy, nhưng lên thảo nguyên lập tức bị bóc trần. Cậu chỉ thấy bố tớ là một giáo sư nổi tiếng, chứ cậu chưa biết ông nội tớ, bà ngoại tớ đều là nông dân...
Trần Trận tiếp lời: Đặc biệt là thời kỳ cổ đại, dân tộc Mông Cổ chỉ bằng 1% dân số người Hán mà ảnh hưởng đối với thế giới vượt xa người Hán. Đến bây giờ, phương tây vẫn coi Trung Quốc thuộc giống Mông Cổ, bản thân người Hán cũng tiếp nhận cách gọi đó. Vậy mà khi Tần Hán thống nhất Trung Quốc, tổ tiên người Mông Cổ còn chưa có tên, thế mới sầu đời!
Người Trung Quốc thích xây trường thành tự nhốt mình lại mà huênh hoang khoe mẽ là trung tâm thế giới, là đế quốc trung tâm. Nhưng trong con mắt người phương tây cổ đại, Trung Quốc chẳng qua là "nước tơ lụa", "nước gốm sứ", "nước trà", thậm chí nước Nga còn gọi các nước Khiết Đan bé tí là Trung Quốc, đến nay vẫn không sửa, vẫn gọi Trung Quốc là "Kitai"!
Xem ra, sói rất đáng hâm mộ. Dương Khắc nói, tớ cũng bị lây cậu rồi, thành thử mở sách sử ra là tới cứ dò theo hướng Tây Nhung, Đông Di, Bắc Địch, Nam Man. Tớ ngày càng muốn giao lưu với sói, học hỏi cái hay của sói.
Trần Trận nói: Xem kìa, cậu sắp biến thành người Mông Cổ rồi. Tiếp ít máu sói vào, giống lai mới ưu việt!
Dương Khắc nói: Tớ phải cảm ơn cậu về chuyện rủ tớ về thảo nguyên. Cậu có biết, tớ bị câu gì của cậu điểm trúng huyệt không? Quên rồi hả? Đó là câu: Thảo nguyên tha hồ tự do.
Trần Trận thả lỏng dây cương, nói: Tớ nói như thế bao giờ? Cậu lại xuyên tạc rồi.
Hai người cười thoải mái, cỗ xe tiếp tục lăn, để lại hai vệt bánh xe trên tuyết.
0O0
Người, chó và xe cộ nhộn nhịp, như lễ hộ của người Chiphuchai trên thảo nguyên.
Người và xe của các tổ viên tổ sản xuất Caxumai, của bốn Haotho (một cặp gồm hai lều Mông Cổ là một "Haotho"), và của tám lều Mông Cổ đều được huy động. Tám chín cổ xe lớn chở thảm dày, dây thừng, xẻng gỗ, củi và câu liêm. Mọi người đều mặc áo da cũ, bẩn và đen mốc, khuy đồng màu vàng xỉn. Nhưng người và chó thì rất vui, như bộ lạc Mông Cổ thời xưa đi theo các chiến binh thu dọn chiến lợi phẩm, dọc đường vừa uống rượu vừa ca hát, bình rượu hình mật lợn bên ngoài bọc nỉ được chuyển từ đầu hàng đến cuối hàng, từ tay phụ nữ chuyển sang tay đàn ông. Đã hát là hát dân ca, tán ca, tình ca Mông Cổ, đã hát là ào ạt tuôn ra như vỡ đập nước. Bốn năm con chó Mông Cổ lông dày được tham dự cuộc hành trình hi hữu, sướng như điên, nô dỡn lăn lộn trên tuyết trắng.
Trần Trận cùng hai mã quan (người chăn ngựa) Batu, Lanmutrac, và năm sáu tay chăn bò, chăn cừu, xúm quanh ông già Pilich như dân thiểu số xúm quanh tù trưởng. Lanmutrac mặt vuông mũi thẳng mắt to - đặc điểm người Đột Quyết, nói: Cháu có bắn giỏi đến mấy cũng không kiếm được bằng ông. Ông không tốn một viên đạn mà cả tổ sống sung túc. Ông đã có đồ đệ người Hán, nhưng xin đừng quên học trò cũ người Mông này, ông nhá. Làm sao cháu không nghĩ ra hôm qua đàn sói có thể vây bắt bọn dê vàng kia chứ?
Ông già liếc xéo anh ta, nói: Từ rày cậu đi săn về hãy nhớ đến người già và mấy cậu thanh niên trí thức trong tổ, đừng để họ ngửi suông, không cho họ được miếng thịt nào. Trần Trận đến nhà, cậu mới cho cậu ta một đùi dê, người Mông Cổ đãi khách như thế đấy hả? Hồi trẻ chúng tôi biếu người già và khách khứa hẳn một con dê vàng đầu tiên của mùa săn. Các bạn trẻ đã quên hết nếp sống của người Mông rồi! Tôi hỏi cậu, thiếu mấy con nữa thì cậu bằng Buho, dũng sĩ săn sói của công xã Bayincaoti? Cậu định lên báo lên đài lĩnh thưởng chăng? Cậu bắn hết sói thì sau khi chết cậu về đâu? Chẳng lẽ cậu làm như người Hán, khi chết bứng cỏ đào huyệt chôn dưới đất cho giòi bọ ăn? Linh hồn cậu không lên trời được rồi - Ông già thở dài - Hôm tôi họp trên Kỳ (huyện), người già của mấy công xã mạn Nam đều rất buồn. Họ bảo, đã nửa năm nay chưa trông thấy sói. Họ định chuyển về Ơlon ở.
Lanmutrac hất vành mũ phía sau gáy, nói: Batu là con trai ông, ông không tin cháu thì thôi, nhưng ông có tin Batu không? Ông hỏi cậu ấy xem cháu có định trở thành dũng sĩ không? Hôm ông nhà báo phỏng vấn cháu ở
chỗ đàn ngựa, Batu cũng có mặt ở đấy. Cháu giấu bớt một nửa số sói không kể, ông hỏi Batu xem có đúng không.
Ông già quay lại hỏi Batu: Có chuyện ấy hả?
Batu nói: Đúng thế ạ. Nhưng mà người ta không tin. Họ lấy số liệu từ Hợp Cung tiêu, biết Lanmatrac bán bao nhiêu bộ da sói. Bố cũng biết, mỗi bộ da sau khi phân loại định giá trả tiền, trạm thu mua còn thưởng 20 viên đạn. Người ta tra sổ là biết. Nhà báo đưa tin trên đài phát thanh, nói Lanmutrac đã đuổi kịp Buho. Lanmutrac hoảng quá, phải nhờ người khác bán hộ.
Ông già nhíu mày: Các cậu bắn dữ quá, hai cậu bắn nhiều nhất mục trường đấy!
Batu phân trần: Bãi chăn của chúng cháu liền kề Ngoại Mông, phải coi là nơi nhiều sói nhất, không bắn thì chúng sang càng nhiều, đến nỗi ngựa choai chẳng còn được mấy con.
Ông già lại hỏi: Đi cả hai, chỉ còn mỗi Trương Kế Nguyên ở lại trông nom đàn ngựa?
Batu nói: Đêm mới nhiều sói. Chúng con sẽ gác đêm. Cậu ấy chưa quen bắt dê bằng chúng con.
Mặt trời mùa đông trên cao nguyên không lên cao, trái lại, đi ngang đường chân trời. Trời xanh chuyển sang trắng, cỏ vàng cũng chuyển màu trắng. Tuyết tan lớp trên mặt, long lanh như kính phản quang. Dưới nắng gắt, người, chó và xe cộ biến thành ảo ảnh. Mấy người chăn ngựa bị bệnh mù dở do tuyết, vội nhắm tịt mắt nhưng nước mắt vẫn ứa ra. Cánh đàn ông vội đeo kính râm. Phụ nữ và trẻ em lấy ống tay áo che mặt. Vậy mà những con chó gộc mắt vẫn mở trừng trừng, quan sát đàn thỏ nhảy nhót phía xa, hoặc cúi xuống đánh hơi hàng dãy dấu chân cáo còn mới trên tuyết.
Đến gần bãi vây, đàn chó nhanh chóng phát hiện ra mùi lạ liền xông tới, sủa ẳng ẳng. Một vài con chó bụng còn đói, tranh nhau ăn chỗ thịt thừa đàn sói bỏ lại. Con Balua và mấy con chó săn của tổ lông gáy dựng đứng, sục sạo dấu vết của đàn sói trên tuyết, mắt đảo tròng, thận trọng dò tìm số lượng và thực lực đàn sói và con sói chúa. Ông già nói: Balua biết hầu hết những con sói vùng Ơlon. Quá nửa số sói cũng biết Balua. Lông gáy Balua dựng đứng, chứng tỏ đàn sói này đáng gờm.
Mọi người cưỡi ngựa tiến vào bãi vây theo hàng dọc, cúi xuống quan sát kỹ mặt đất. Trên dốc, con dê chỉ còn lại cái sọ và những khúc xương dóng. Ông già Pilich chỉ vào những dấu chân sói trên tuyết, nói: Đêm qua có mấy đàn sói khác về đây. Ông còn chỉ những sợi lông màu xám rụng trên tuyết, nói tiếp: Chúng cắn nhau. Có thể là đàn sói bên kia biên giới lần theo dấu vết đàn dê đến đây. Bên ấy thiếu cái ăn, sói rất dữ.
Rồi thì tốp ngựa lên dốc. Như tìm ra kho báu, mọi người hò reo ầm ĩ, khua mũ báo cho đoàn xe phía sau. Caxumai là người đầu tiên xuống xe, dắt bò chạy gằn. Đám phụ nữ làm theo Caxumai, nhất loạt xuống xe, thúc bò chạy. Bò khoẻ xe nhẹ, đoàn xe chạy nhanh.
Lanmutrac nhìn xuống chân núi, con ngươi như muốn bật ra: Eo ơi, dồn được bấy nhiêu dê xuống trũng, lũ sói quả không vừa. Năm xưa, hơn hai chục thợ săn giục ngựa chạy đứt hơi mà chỉ dồn được hơn ba chục con.
Ông già Pilich dừng ngựa, dùng ống nhòm quan sát dưới trũng và các mỏm núi xung quanh. Mọi người gò cương nhìn bốn phía, đợi lệnh. Trần Trận cũng nâng ống nhòm lên. Dưới trũng là mồ chôn rất nhiều dê, có thể đây cũng là nơi chôn vùi biết bao dũng sĩ thời cổ đại. Giữa lòng trũng, mặt đất bằng phẳng, như một cái hồ tuyết lớn trên núi cao. Bên mép hồ, mấy chục bộ xương dê vàng vung vãi trên đầu dốc. Hãi nhất là giữa lòng hồ có đến mấy chục chấm vàng đang cựa quậy. Trần Trận nhận ra đó là những con dê rớt xuống chỗ nông, chưa bị chìm nghỉm trong tuyết. Mặt hồ những chỗ gần có mấy chục hố tuyết to nhỏ, càng gần bờ càng nhiều. Đó là dấu vết lưu lại của lũ dê xấu số. Khác với hồ nước, tất cả những vật thể rớt xuống lòng hồ tuyết đều để lại dấu vết trên mặt.
Ông già Pilich bảo Batu: Các cậu ở lại xúc tuyết mở đường cho xe áp sát mép hồ. Nói rồi, ông, Trần Trận và Lanmutrac đi rất chậm vào trong hồ. Ông bảo Trần Trận: Phải nhìn cho rõ rồi đặt chân lên dấu chân dê hoặc dấu chân sói, tuyệt đối không được dẫn lên chỗ không, có cỏ ló lên.
Ba người thận trọng cho ngựa xuống dốc, tuyết ngày càng dày, cỏ ngày càng ít. Đi thêm khoảng chục bước. Mặt tuyết dày đặc những lỗ nhỏ bằng đầu đũa. Những ngọn cỏ màu vàng cứng đơ từ những lỗ nhỏ ló lên, gió lay mà thành cái lỗ. Ông già nói: Những cái lỗ đó là do trời tạo nên để ban cho sói, nếu không thì tuyết sâu như thế, sói làm sao ngửi thấy mùi gia súc bị vùi sâu phía dưới. Trần Trận mỉm cười tán thưởng.
Lỗ nhỏ và ngọn cỏ là dấu hiệu an toàn. Đi thêm hơn chục bước nữa, mặt tuyết phẳng lì, không còn lỗ và cỏ nhô lên nữa, nhưng dấu chân dê vàng và sói thì vẫn rất rõ. Những con ngựa Mông Cổ khoẻ mạnh dùng vó đập vỡ tuyết cứng, rồi chân lún sâu trong tuyết, từng bước lần ra giữa hồ, nơi có những xác dê vàng. Cuối cùng, ngựa không bước nổi nữa. Ba người xuống ngựa, lập tức lún sâu trong tuyết. Họ ra sức dò dẫm tìm một chỗ đứng chân. Ngay bên cạnh Trần Trận là một con dê bị ăn dở, thịt xương vung vãi trong tuyết, có cả cỏ văng ra từ bao tử. Khoảng ba bốn chục con dê trưởng thành bị sói bắt đi hoặc ăn thịt, còn đàn sói cùng dừng lại ở đây.
Nhìn ra, Trần Trận chưa bao giờ trông thấy một cảnh kỳ lạ và bi thảm đến thế: Cách khoảng trăm mét, bảy tám con dê vàng cả lớn lẫn bé đứng run
lẩy bẩy trên dốc và giữa hồ tuyết. Xung quanh chúng là những hố tuyết, phía dưới là mồ chôn những con dê. Những con còn sống sợ đến nỗi không dám nhúc nhích vì mảng tuyết dưới chân chúng có thể vỡ vụn bất cứ lúc nào. Có mấy con bụng mắc lại trên tuyết cứng, còn bốn chân thì chơi vơi phía dưới. Những con mắc kẹt trên mặt tuyết tuy còn sống nhưng không cựa quậy được. Những sinh linh tự do chạy như gió trên đồng cỏ, giờ đây vừa đói vừa rét, không nhích nổi nửa bước, bị thần chết dày vò tàn nhẫn. Kinh khủng nhất là mấy cái đầu vẫn ló trên mặt tuyết, còn từ cổ trở xuống thì đã vùi rất sâu. Trần Trận nhìn qua ống nhòm, vẫn thấy chúng đang há miệng kêu nhưng không có tiếng. Có thể những con dê đó đã chết cóng, thân thể bất động như những pho tượng.
Tuyết trên dốc và trong hồ ánh lên những tia trắng tuyệt đẹp nhưng nham hiểm. Đó cũng là ám khí và vũ khí lạnh đầy uy lực, sức sát thương lớn mà trời ban cho sói và người thảo nguyên để bảo vệ đồng cỏ. Váng tuyết mùa đông trên thảo nguyên Ơlon, là kiệt tác của bạch mao phong và ánh nắng. Từng đợt bạch mao phong thổi bay lớp tuyết xốp, để lại tuyết hòn như những viên bi dày đặc. Tuyết hòn rơi xuống phủ một lớp rắn trên mặt tuyết. Những buổi sáng hoặc giữa trưa nắng gắt và lặng gió, lớp tuyết mặt tan thành nước, quá trưa có gió lạnh, chúng đóng lại thành băng. Sau vài trận bạch mao phong thì hình thành lớp váng tuyết dày ba đốt ngón tay, trong váng tuyết có băng, trong băng có tuyết, chúng cứng hơn tuyết, phẳng lì trơn tuột, dày mỏng không đều, chỗ rắn nhất người khoẻ mạnh dẫm không vỡ, còn hầu hết là đỡ không nổi sức nặng của bầy dê.
Chỗ gần nhất lại càng kinh hoàng: Những con dê vàng mà sói có thể với tới đều bị lôi lên khỏi hố, kéo đi, vết tích còn lại là mặt tuyết hằn sâu từng rãnh. Cuối các rãnh là bàn tiệc dã ngoại của lũ sát sinh. Chúng cực kỳ lãng phí, chỉ ăn tim gan và thịt bắp. Hiển nhiên là lũ sói thấy động, vừa mới bỏ đi, tuyết hòn vướng chân sói vẫn đang lăn, đám tuyết dưới bãi phân sói chưa kịp đóng băng.
Sói Mông Cổ là bậc thầy về nghệ thuật đánh cơ động trên tuyết. Chúng biết lui biết tới trong cuộc chiến. Với những con dê càng sâu bên trong thì dù ló đầu lên hay chìm nghỉm trong tuyết, chúng cũng không màng, ngay cả thăm dò cũng không. Chúng chỉ lấy đủ ăn. Số dê còn lại như để trong tủ lạnh, mùa xuân sang năm sẽ là món ăn khoái khẩu, khi tuyết tan. Một vùng hồ mênh mông trở thành kho đông lạnh của lũ sói. Ông già Pilich nói: Ở Ơlon, chỗ nào cũng có hầm lạnh của sói, hồ tuyết chẳng qua là cái kho lớn nhất mà thôi. Lũ sói thi thoảng lại bổ sung một ít thịt vào những cái kho này, đề phòng sang xuân thiếu ăn. Đàn dê vàng béo mẫn này là thực phẩm cứu sinh của đàn sói gầy khi sang xuân. Chúng nhiều mỡ hơn những con dê sống đến mùa xuân. Ông già chỉ cái hầm lạnh, cười: Sói thảo nguyên rất giỏi thu
xếp cuộc sống. Đầu đông hàng năm, mục dân giết thịt những gia súc béo rồi đem đông lạnh để dự trữ. Cách này cũng học từ sói.
Balua và lũ chó gộc đánh hơi thấy mùi dê sống, máu săn nổi lên. Chúng sủa ầm ĩ, lội ào ra, nhưng đến chỗ sói dừng thì chúng cũng dừng lại, không dám tiến nửa bước, chỉ vươn cổ ra mà sủa. Vài con dê sợ quá lội bừa vào bên trong, nhưng chỉ được mấy bước, mặt tuyết vỡ, chúng chìm xuống như bị lún trong cát, cố sức giãy giụa mà không thoát. Hố tuyết chuyển mình, tuyết chảy xuống phía dưới như cát lún, càng chảy càng sâu, cuối cùng thành hình cái phễu. Một con dê lúc tuyết vỡ, hai chân trước còn móc được vào một chỗ chắc chắn còn thân thì rơi xuống, coi như mới được cứu sống một nửa.
Cái rãnh để cho xe vào đã hình thành. Đoàn xe xuống dốc. Khi không thể nhích thêm tí nào nữa, các xe dàn ngang thành hình chữ nhất, dọn tuyết xung quanh lấy chỗ chất hàng.
Cánh đàn ông đi lại chỗ ông Pilich. Ông già nói: Trông này, mạn tây tuyết rắn, hố tuyết chẳng được mấy cái, dấu chân cũng rất ít, chứng tỏ đàn dê chạy thoát khá nhiều.
Tay chăn cừu Tang Kiệt nói: Cháu thấy lũ sói cũng có chỗ tính chưa hết. Giá như sói chúa điều thêm quân bịt con đường này lại, thì đàn dê không con nào chạy thoát.
Ông già hừ một tiếng, nói giọng mũi: Cậu mà là sói chúa chắc chết đói. Bắt một lần hết sạch thì sang năm kiếm đâu ra dê? Sói không tham như người, sói biết tính toán, sói tính giỏi hơn người.
Tang Kiệt cười: Năm nay dê nhiều, bắt thêm vài nghìn con cũng không ăn nhằm gì. Cháu muốn kiếm thêm ít tiền sắm căn lều, cưới vợ. Ông già trợn mắt quát: Vậy khi con cháu cậu lớn lên thì đà dê đã bị giết không còn một con. Thanh niên các cậu lạ thật, ngày càng như dân ngụ cư ấy!
Ông già thấy đám phụ nữ đã dỡ các thứ trên xe xuống và cho xe xuống rãnh, liền bước lên một mô tuyết, ngửa mặt lên trời, miệng lầm rầm khấn. Trần Trận đoán ông đang cầu trời cho phép kéo dê vàng lên. Ông nhắm cả hai mắt, lát sau mở ra, bảo mọi người: Dê chìm dưới đáy nhiều lắm, đừng tham quá, hãy thả hết những con còn sống rồi thu hoạch những con đã chết. Trời đã không bắt chúng chết thì ta nên để chúng sống. Ông già cúi bảo Trần Trận và Dương Khắc: Thành Cát Tư Hãn mỗi lần vây bắt dề đều thả bớt non nửa. Người Mông Cổ đánh vây đã mấy trăm năm, vậy mà năm nào cũng có dê để bắt, chính là học từ sói, không bắt hết.
Ông già Pilich phân chia địa bàn hoạt động cho các gia đình. Theo quy ước mọi người nhường đoạn gần và có nhiều hố cho ông già Pilich và thanh niên trí thức Trần Trận.
Ông già dẫn Trần Trận và Dương Khắc đến bên xe nhà, dỡ xuống hai tấm thảm dày, mỗi tấm rộng hai mét, dài bốn mét. Hình như trước đó thảm được phu nước, cứng queo. Trần Trận và Dương Khắc mỗi người lôi một tấm, tiến lên. Ông già vác chiếc sào gỗ dài, đầu sào lồng móc sắt. Vợ chồng Batu cũng mỗi người xách một tấm thảm dày đi tới chỗ tuyết sâu. Bé Bayan vác chiếc câu liêm, đứng sau lưng bố mẹ.
Đến bên một hố sâu, ông già bảo hai cậu thanh niên trước hết trải một tấm thảm xuống tuyết rồi bảo Dương Khắc vốn nặng cân, nhảy lên nhún thử. Tấm thảm vừa dày vừa cứng như một ván trượt, tuyết phía dưới chỉ lạo xạo chứ không bị lún. Dương Khắc phát huy sáng kiến, nhảy lên mấy cái, thảm chỉ lõm xuống một chút. Ông già vội ngăn lại, nói: Vào sâu bên trong thì không được làm thế nữa, thảm rách là người bị chìm luôn, không phải chuyện đùa. Thế này nhé, Trần Trận nhẹ người hơn, tôi dẫn Trận vào lấy hay con. Lần sau thì hai cậu vào lấy. Dương Khắc đành nhảy ra, đỡ ông già trèo lên tấm thảm lớn. Trần Trận cũng lên theo. Tấm thảm dư sức chở hai người, chất thêm hai con dê lên cũng không hề hấn gì.
Đứng vững chân, hai người kéo tấm thảm thứ hai lên phía trước tấm thảm thứ nhất, cắn mép ở chỗ tiếp giáp của hai tấm, rồi sải chân bước sang tấm thảm thứ hai, lần này đem theo câu liêm. Tiếp theo, lặp lại động tác cũ, kéo tấm thảm phía sau lên phía trước, hai tấm luân phiên đổi chỗ cho nhau. Hai người như lái xe trượt tuyết, nhích dần đến chỗ một con dê phía xa.
Vậy là Trần Trận đã được ngồi lên con thuyền kỳ lạ của thảo nguyên Mông Cổ. Nó là loại công cụ giao thông do người Mông Cổ tạo ra để đối phó với tuyết lớn. Hàng nghìn năm nay, nhờ có loại thuyền này mà biết bao người đã thoát chết trong gang tấc, nhờ có loại thuyền này mà cứu được bao nhiêu là cừu và chó. Và cũng nhờ loại thuyền này mà vớt từ đáy hồ lên bao nhiêu là chiến lợi phẩm bị sói, người đi săn và kỵ binh dồn xuống. Ông già Pilich không hề giấu giếm người đồ đệ ngoại tộc những bí mật của người Mông Cổ, trái lại, còn giúp Trần Trận nắm vững thứ vũ khí này. Trần Trận là học sinh người Hán đầu tiên học được cách thao tác con thuyền Mông Cổ nguyên thủy.
Thảm thuyền càng trôi càng nhanh, có thể nghe thấy tuyết lạo xạo phía dưới. Trần Trận có cảm giác như ngồi trên tấm thảm thần kỳ, nhẹ nhàng, phấn kích, lâng lâng như đi vào cõi tiên. Cậu vô cùng cảm ơn sói và người thảo nguyên đã đem đến cho cậu một cuộc sống nguyên thủy như trong thần thoại. Trên mặt hồ, tám con thuyền, mười sáu tấm thảm bay vuông vức hè nhau cùng tiến làm bắn lên từng đám bụi tuyết. Chó sủa, người reo, ông trời cười mỉm. Một đám mấy dày bay tới phả khí lạnh xuống, tuyết trên mặt vừa tan lại đóng băng ngay lập tức, tăng hệ số rắn chắc trên bề mặt lên gấp ba lần, đảm bảo an toàn khi lôi dê lên. Mọi người nhất loạt bỏ kính râm, ngửa
mặt nhìn trời mà gọi tên vị chúa tể, động tác đẩy thuyền càng nhanh càng chững chạc. Trong một thoáng Trần Trận cảm nhận được sự tồn tại của đấng Cao Xanh của người Mông Cổ, và linh hồn cậu, một lần nữa, được Người che chở.
Bỗng từ đầu dốc vọng lại tiếng hoan hô của Dương Khắc và Bayan. Trần Trận ngoảnh lại nhìn, Dương Khắc và Bayan la to: Được một con rồi! Được một con rồi! Trần Trận giơ ống nhòm lên nhìn, thấy Bayan bày cách gì mà Dương Khắc đã bới được một co dê gộc. Hai người nắm chân dê lôi lên bờ. Những người còn ở trên bờ cầm lấy xẻng, tranh nhau lôi ra chỗ tuyết sâu.
Chiếc thảm - thuyền rời xa khu vực an toàn, tiếp cận một con dê gộc. Đây là một con cái, ánh mắt thất thần cầu cứu. Xung quanh toàn những hố sâu, mảnh đất dưới chân nó chỉ bằng mặt bàn, sụt lở bất cứ lúc nào. Ông già bảo: Cho thảm - thuyền lướt bên cạnh, đừng chậm quá khiến nó hoảng sợ. Có thể nó đang chửa, mở cho nó con đường sống.
Trần Trận gật đầu, cúi xuống khẽ đẩy thảm trước qua miệng hố đến chân con dê mà tuyết rắn trên mặt không bị vỡ. Con dê có thể đã từng được cứu hoặc biết chớp thời cơ cho đứa con trong bụng, nó nhảy luôn lên tấm thảm rồi nằm phục xuống run như cầy sấy, mắt đờ đẫn vì sợ. Trần Trận thở phào, cùng ông già bước sang tấm thảm, thận trọng kéo tấm sau vòng qua miệng hố lên chỗ tuyết cứng phía tây, đổi chỗ hơn chục bận mới đến một chỗ không có hố nhưng đầy dấu chân và phân dê.
Trần Trận chậm rãi đến bên con dê. Trong con mắt cậu, nó đâu phải con dê, mà như một con nai cái, mắt nó đúng là mắt nai, rất đáng yêu. Trần Trận xoa đầu nó. Nó gương cặp mắt sợ hãi xin cậu tha mạng. Trần Trận vuốt ve con dê yếu đuối không nơi nương tựa, mà cảm thấy trong lòng bất nhẫn: Sao mình không bảo vệ loài động vật ăn cỏ hiền lành xinh đẹp này, mà lại đứng về phía bọn sói hiếu sát? Xưa nay chỉ nghe kể "Cô bé quàng khăn đỏ", "Đông Quách tiên sinh và con sói", toàn những chuyện căm thù sói, Trần Trận buột miệng: Thương lũ dê quá. Bọn sói thật đáng ghét, giết hại kẻ vô tội, coi sinh mạng như cỏ rác, đáng đem ra tùng xẻo...
Ông già giận đỏ mặt. Trần Trận căm bặt, biết là mình đã xúc phạm tới điều thiêng liêng nhất trong lòng ông già, xúc phạm linh vật của các dân tộc thảo nguyên. Nhưng đã lỡ miệng mất rồi.
Ông già trừng mắt, nói như quát: Thế cỏ có phải sinh mạng không? Thảo nguyên có phải sinh mạng không? Cỏ và thảo nguyên là sinh mạng lớn, tất cả những thứ khác là sinh mạng nhỏ. Sinh mạng nhỏ sống nhờ sinh mạng lớn. Sói và người đều là sinh mạng nhỏ. Những con ăn cỏ đáng ghét hơn những con ăn thịt. Cậu thương lũ dê vàng, thế cậu có thương cỏ không? Dê có bốn chân, chạy rất nhanh. Nó mà chạy, sói rượt đứt hơi cũng không
kịp. Dê khát thì ra sông uống nước, rét thì lên đầu dốc mà sưởi nắng. Còn cỏ thì sao? Cỏ tuy mạng lớn nhưng phận quá mỏng, quá khổ! Rễ thì nông, đất thì mỏng, sống trong đất, có chạy cũng không quá nửa thước, có bò cũng không quá ba phân, ai cũng có thể giẫm, có thể đạp, có thể ăn, có thể gặm, có thể hành hạ, một bãi nước đái ngựa cũng đủ chết cả một mảng! Cỏ mọc trên cát hoặc trong kẽ đá mới đáng thương làm sao, không nở được hoa, không gieo được hạt. Trên thảo nguyên đáng thương nhất là cỏ. Người Mông Cổ thương yêu nhất, đắm đuối nhất là cỏ thảo nguyên. Nếu bảo là sát sinh, dê tàn sát cỏ còn dữ hơn máy cắt cỏ. Dê ăn trụi cỏ thì là gì nếu không phải là sát sinh, là sát hại sinh mạng lớn thảo nguyên? Trên thảo nguyên, sinh mạng lớn bị giết thì các sinh mạng nhỏ cũng chết sạch. Khi đã thành cái họa thì dê vàng đáng sợ hơn sói. Thảo nguyên có hoạ trắng, họa đen, còn có hoạ vàng. Xảy ra họa dê vàng có khác gì dê ăn thịt người!
Chòm râu lơ thơ của ông già run lên, run hơn con dê trước mắt. Trần Trận xúc động sâu sắc, mỗi lời ông già như tiếng trống xung trận, khiến cậu choáng váng, tim đập thình thịch. Cậu cảm thấy dân tộc thảo nguyên không những hơn hẳn dân tộc nông canh về tri thức quân sự, về tính cách kiên cường dũng cảm, mà về một số quan điểm cũng hơn hẳn. Cái lô gíc cổ xưa của thảo nguyên đã bó chặt tộc ăn thịt và tộc ăn cỏ, là nguyên nhân sâu xa của những trận chém giết khốc liệt hàng ngàng năm nay. Lời ông già chính xác và sâu sắc đến nỗi giỏi biện luận như Trần Trận cũng cứng lưỡi, không cãi lại được câu nào. Ông như thảo nguyên Mông Cổ so với đồng bằng Hoa Bắc, trình độ chênh lệch rõ rệt. Trần Trận với những quan điểm về sinh mạng, sinh tồn, về cuộc đời của loại văn hóa nông canh, bỗng chốc tiêu tan quá nửa khi đụng phải lôgic của thảo nguyên. Cậu phải thừa nhận rằng, đạo trời nên đứng về phía dân du mục. Dân tộc thảo nguyên bảo vệ "sinh mạng lớn" - sinh mạng của thảo nguyên và của thiên nhiên, quý hơn sinh mạng con người. Còn tộc nông canh thì bảo vệ "sinh mạng nhỏ" - sinh mạng con người và cuộc đời, coi là quý giá nhất. Nhưng "sinh mạng lớn không còn, thì các sinh mạng nhỏ cũng mất tiêu". Trần Trận lẩm bẩm nhắc lại câu trên với ý nghĩ chua xót. Cậu càng cảm thấy nghi ngờ nhận thức của mình về những cuộc tàn sát của tộc thảo nguyên đối với tộc nông canh trong lịch sử, và những hành động san ủi ruộng động khôi phục lại thảo nguyên của họ. Trước kia cậu cho rằng hành động đó là kéo lùi lịch sử, là dã man. Nhưng qua lý lẽ ông già, đặt nó trong mối quan hệ giữa sinh mạng lớn và sinh mạng nhỏ mà đánh giá sự việc, cậu thấy không thể gọi hành động đó là dã man, vì rằng trong cái dã man đó lại bao hàm ý nghĩa bảo vệ nền văn minh của nhân loại. Nếu như đứng trên lập trường sinh mạng lớn mà xét, tộc nông canh ra sức đốt rẫy khẩy hoang vùng biên, phá hoại thảo nguyên và thiên nhiên - sinh mạng lớn khiến sinh mạng nhỏ là con người bị vạ lây, dã
man hơn cả dã man ấy chứ? Phương Đông và phương Tây đều nói trái đất là bà mẹ của nhân loại, chẳng lẽ giết mẹ lại được coi là văn minh? Trần Trận rụt rè hỏi: Vậy sao bác lại thả những con dê còn sống? Ông già nói: Để chúng phân tán bớt đàn sói. Sói bắt dê, bò cừu của chúng ta cũng đỡ thiệt hại. Săn dê là nghề phụ có thu nhập đáng kể của chúng ta. Rất nhiều người Mông Cổ nhờ săn bắt dê mà mua được lều, cưới vợ, nuôi con. Một nửa dân Mông Cổ là thợ săn. Không đi săn thì khác gì ăn thịt không muối, cơ bắp sẽ nhão ra, đầu óc sẽ ngu đi. Người Mông Cổ săn bắn cũng là để bảo vệ sinh mạng lớn thảo nguyên. Họ săn bắt con vật ăn cỏ gần gấp đôi con vật ăn thịt.
Ông già thở dài: Người Hán các cậu còn rất nhiều điều chưa biết. Cậu đọc nhiều sách, nhưng trong những sách ấy có bao nhiêu điều không đúng. Người Hán viết sách toàn nói hay cho người Hán, cái thiệt của người Mông Cổ là không biết viết sách. Nếu như cậu trở thành người Mông Cổ để viết sách cho người Mông Cổ thì hay biết mấy.
Trần Trận gật đầu. Cậu bỗng nhớ lại rất nhiều chuyện đồng thoại mà cậu đọc hồi nhỏ, con "sói xám" trong truyện hầu hết là ngu xuẩn, tham lam và tàn nhẫn, còn con cáo thì thông minh, nhanh nhẹn đáng yêu. Về thảo nguyên, Trần Trận mới phát hiện ra rằng, trong thiên nhiên không có con vật nào hoàn hảo hơn sói, thế mới biết sách vở cũng có nhiều chỗ sai, đồng thoại lại càng sai
Ông già dựng con dê cho nó đứng dậy rồi khẽ đẩy nó ra ngoài thảm. Trên mặt tuyết ló lên mấy ngọn cỏ lau. Con dê đang đói liền bước tới đớp luôn. Trần Trận nhanh nhẹn rút tấm thảm vuông. Con dê lẩy bẩy đi vài bước, chợt trông thấy hàng dãy dấu chân đồng loại, nó phóng một mạch lên dốc rồi mất hút sau triền núi.
Batu và Caxumai cũng kéo một con dê choai lên bờ, chỗ đất cứng. Caxumai vừa kéo vừa lầm bẩm: Đáng thương quá! Miệng nói tay vỗ lưng con vật, thúc nó chạy lên dốc. Trần Trận giơ ngón cái về phía Caxumai tỏ ý khen. Caxumai cười, bảo cậu: Mẹ nó sa xuống hố tuyết, nó cứ chạy quanh không chịu bỏ đi, bọn tôi phải dùng thòng lọng mới bắt được đấy.
Những thảm - thuyền lần lượt cập bờ. Những con dê được cứu sống tập hợp thành một đàn nhỏ, trèo sang bên kia dốc. Ông già nói: Lũ dê này khôn ra rồi đấy. Từ nay sói đừng hòng bắt được chúng.
Chương 4
Đột Quyết là một tộc khác Hung Nô, họ Asưna thị, có bộ lạc riêng. Sau bọ nước láng giềng giết sạch. Tộc này có người con trai mười tuổi, quân lính thấy còn bé, không nỡ giết, bèn chặt hai chân vứt trong đầm cỏ, được sói cái cho ăn thịt. Lớn lên lấy sói cái và có chửa. Vua nước đối địch nghe tin người con trai còn sống bèn cho quân truy sát. Sứ giả thấy con sói đứng bên người con trai, định giết cả sói cái. Sói cái bỏ chạy lên núi Bắc nước Xương, trên núi có hang… Sói cái ẩn trong hang, sau đó sinh 10 con trai. 10 con trai lấy vợ ra ở riêng, sau đó mỗi người một họ, tức là nước Asưna…
“Chu thư. Đột quyết”
Cuối cùng mọi người có thể nhận phần quà mà mình được hưởng. mặt hồ mỗi lúc một lạnh. Ông già bào đám thợ săn: Trời đang giục chúng mình đấy, nhanh tay lên! Mọi người lướt như tên về địa bàn mình, một cảnh tượng ồn ào, phấn chấn trùm lên bãi săn.
Ông già dẫn Trần Trận đến bên một cái hố vừa phải, không to không nhỏ thì dừng lại. Ông bào: Đừng chọn những hố to. Hố to thì có qua nhiều dê ở dưới đáy. Bảy tám con dê gộc chất đống lên nhau, hơi nóng toả ra khiến tuyết trong hố không đủ độ để đông lạnh. Những con dê ủ trong hơi nóng gần một ngày một đêm, bụng chướng lên, chân cẳng sưng to, da tím ngắt, thịt ôi đến non nửa. Lúc này thì chúng đã đông lạnh nhưng đông lạnh của thịt ôi. Những con như vậy bán cho Trạm thu mua, may lắm được nữa tiền. người ta chỉ cần xem bụng con vật là đánh tụt hạng, chỉ trả tiền da, còn thịt thì một xu cũng không trả. Nhưng sói thì rất mê thịt ôi. Chắc chắn đàn sói Ơlôn không quên đàn dê bị vùi ở đây. Mình hãy để lại cho chúng những con chúng thích nhất.
Ông già thọc câu liêm xuống, hố sâu vừa đúng hai mét. Ông dò từng tấc một, chỉ lát sau là ghìm chặt cán câu liêm, bảo Trần Trận: Móc được một con rồi, nào cùng lôi lên! Hai người vừa lôi vừa dùng chân lùa tuyết hòng lấp đầy khoảng trống dưới chân con dê, cho đến khi đầu nó ló lên. Lưỡi câu liêm móc đúng yết hầu, không làm rách da trên người. Trần Trận cúi xuống ôm đầu con dê, dùng sức lôi nó lên tấm thảm. con dê đã đông cứng nhưng bụng không chướng, da không tím chứng tỏ nó bị chết tức thì do nghẹt thở. Ông già bảo: Con này bán được loại Một, giá cao nhất.
Ông già thở ra một hơi, nói: Dưới hố vẫn còn, cậu móc đi! Cứ làm như móc thùng dưới giếng ấy, móc đúng chỗ hãy kéo lên, đừng để rách da. Da rách là bị cấn giá, chẳng được mấy đồng. Trần Trận vâng dạ luôn miệng, đón lấy câu liềm lùa xuống hố, thấy hình như còn hai con. Thăm dò hồi lâu mới lần ra hình thù con dê, sau đó mới dò thấy yết hầu để móc câu liềm vào. Thế
là lần đầu tiên Trần Trận câu được một con “cá kình”, con mồi nặng năm sáu mươi cân, dù có cưỡi ngựa xích thố cũng không đuổi kịp. Cậu vui vẻ gọi Dương Khắc: Xem này, mình cũng câu được một con đực. Khoái quá! Dương Khắc sốt ruột: Cậu quay lại mau, để mình thế chân bố Pilich!
Mặt hồ đây đó vang tiếng hò reo, từng con dê nguyên vẹn, béo mẫm được lôi lên. Từng chiếc bè trượt băng băng vào bờ. những người tháo vát đã được chuyến thứ hai, Batu, Caxưmai và Lanmutrăc móc giỏi nhất, vừa chính xác, vừa nhanh, lại toàn là dê lớn dê béo. Nếu móc phải những con to hoặc nhỏ nhưng bụng trương phềnh hoặc tím tái, có nghĩa là không bán được tiền, liền quăng trả xuống hố. Thảo nguyên tĩnh mịch rộn lên cảnh tượng ngày mùa. Lũ sói đứng trên đỉnh núi xa xa nhìn về, chắc tức lắm. Kẻ cướp trên thảo nguyên lại bị kẻ khác trấn lột! Nghĩ vậy, Trần Trận không nhịn được cười.
Ông già và Trần Trận chở hai con dê vào bờ. Dương Khắc và Banyan đỡ ông già bước ra. Trần Trận vần hai con dê ra ngoài thảm, bốn người lôi chúng đến bên xe bò. Trần Trận thấy trên xe đã có mấy con dê lớn, liền hỏi đầu đuôi. Dương Khắc nói: Mình và Bayan chỉ móc được mỗi con, mấy con kia người ta biếu. Họ bảo lệ là như thế. Dương Khắc cười: Chúng mình theo chân bác Pilich đúng là vớ bở. Ông già cũng cười: Các cậu cũng là người của tháo nguyên, từ rày phải nhớ luật lệ của thảo nguyên!
Ông già đã thấm mệt, ngồi xếp bằng tròn trên xe bò, hút thuốc. Ông bảo: Hai cậu xuống đi. Phải hết sức cẩn thận, nếu thấy lún thì phải lập tức giang rộng chân tay, nín hơi thì có lún cũng không sâu. Người trên thảm phải thò ngay câu liêm cho người kia nắm lấy. Nhớ là không được móc vào mặt kẻo sau này khó lấy vợ. Ông bị sặc, vừa ho vừa sai Bayan chụm củi đốt bếp, chuẩn bị bữa trưa.
Trần Trận cùng Dương Khắc hăng hái bước lên thảm – thuyền. Ở chỗ tuyết sâu Trần Trận phát hiện ra một đường hầm trong tuyết dẫn đến một nơi sâu hơn. Dương Khắc cười, nói: Hồi nãy có mặt ông già mình không dám kể. Đây là cái hốc do mình và Bayan đào. Chính chỗ này đào được con dê gộc. Bayan quả là gan cóc tía. Thấy cậu và bác Pilich đi rồi, nó cậy nhẹ cân, trải áo khoác làm bàn trượt, trườn ra hồ. Tuyết chịu được, không lún. Nó phát hiện ra cách năm mét có một cái hốc, liền quay lại cùng mình đào một đường hầm, chỉ một lúc là xong. Nó chui vào, lấy thừng xích chân con dê rồi quay trở lại, cùng mình ra sức kéo con dê vào bờ. Bayan đúng là to gan, mình cứ sợ tuyết sẽ vùi nó dưới hố.
Trần Trận nói: Chuyện to gan thì mình đã chứng kiến. Dám tay không túm cẳng sói thì cái hang này nhằm gì! Trẻ con Mông Cổ còn bé mà đã gan cóc tía, lớn lên chắc dũng mãnh phải biết! Dương Khắc nói: Mình bảo Bayan đừng chui vào. Nó bảo: Đã dám chui vào hang sói thì sợ gì hang tuyết?
Thằng nhỏ kể hồi lên bảy, nó chui vào hang bắt cả một ổ sói con. Con chẳng phải rất thích đi bắt sói con đó sao? Khi nào đi, cho nó đi cùng. Trần Trận vội thoái thác: Mình thích thì có thích nhưng không dám. Còn chuyện tính cách của người Mông Cổ thì mình xin bái phục!
Dương Khắc và Trần Trận trèo lên bè. Dương Khắc cười vui, mặt hằn những nếp nhăn. Cậu bảo: Đi săn trên đồng cỏ quả thật thú vị. Ban ngày chăn cừu, tối đến trực đêm, đơn điệu dễ chán. Mình thấy đánh bạn với muông thú thì cuộc sống sẽ phong phú hơn.
Trần Trận nói: Thào nguyên đất rộng người thưa, mươi dặm mới thấy một chiếc lều, không đánh bạn với sói, không săn bắn thì buồn chết. Cách đây ít lâu, mình có đọc một cuốn sách viết về Mông Cỗ, thì ra họ sùng bái tôtem sói hàng ngàn năm nay.
Bữa sáng hai người ăn thịt bò nướng, lúc này sức lực đang sung mãn, hai người luôn chân luôn tay đổi chỗ cho nhau, chiếc bè chạy băng băng trên tuyết như xe gắn máy. Rồi thì Dương Khắc cũng móc được một con dê bự. Cậu nhảy cẫng suýt lật bè, may mà Trần Trận vội ấn xuống. Dương Khắc vỗ vỗ đầu con dê, gào lên: vừa nãy xem người ta móc dê lên tưởng mình nằm mơ. Giờ thì như đang mơ chợt tỉnh. Quả thật có chuyện mê li đến thế này sao? Cảm ơn, cảm ơn sói nhiều lắm!
Dương Khắc giữ chặt câu liềm không nhường cho Trần Trận. Trần Trận sợ lật bè, không dám giằng lấy câu liềm, đành phải gò lưng mà kéo. Dương Khắc móc một hồi được ba con dê bự, thoả thuê rồi, cậu ta mới bàn: Móc hết lên rồi hãy chuyển vào bờ thì năng suất cao hơn. Nói rồi, cậu ta xếp những con dê ngay ngắn trên mặt tuyết rắn.
Trên bờ, hút xong tẩu thuốc, ông già Pilich bảo mọi người dọn quang một chỗ bên đoàn xe. Đám phụ nữ nhặt nhạnh vàn gãy, trục xe hỏng chất thành hai đống giữa bãi trống; trải đệm cũ ra, xếp lên những bình trà sữa đầy, những hồ rượu, bát gỗ và lọ nước. Tang Kiệt và một chú chó làm thịt hai con dê bị lạnh cóng nhưng chưa chết, dùng cho bữa trưa. Lũ chó đã no nê sau khi thừa hưởng chỗ thịt thừa của đàn sói bỏ lại, không thèm ngó hai con dê đã lột da, móc ruột, đang bốc hơi. Một đống lửa được đốt lên, ông già Pilich cùng lũ trẻ cầm xiên sắt hoặc xiên gỗ xâu thịt, rắc muối lên rồi vừa nướng vừa ăn bên bếp lửa. Mùi trà sữa, mùi thịt nướng thơm lừng bay xuống hồ như mời gọi cánh thợ săn lên ăn trưa.
Gần trưa, các thảm- thuyền đã chở được hai ba chuyến. Trên mỗi cỗ xe đã có bảy tám con dê vàng. Lúc này đám đàn ông được đổi phiên để ăn trưa. Phụ nữ vả lũ trẻ thay họ xuống hồ tuyết, tiếp tục đưa dê lên bờ.
Thịt dê vàng là món ăn khoái khẩu trên thảo nguyên Mông Cổ, nhất là khi cuộc đi săn kết thúc, một đống lửa được dốt lên, tay nướng miệng ăn tại
bãi săn. Đó là niềm đam mê của các Khan và tầng lớp vương công quý tộc Mông Cổ, và cũng là niềm vui của người dân thường khi có dịp. Vậy là Trần Trận và Dương Khắc đã dự một bữa ăn thình soạn với tư cách là thợ săn. Hai cậu quên luôn món thịt quay Bắc Kinh. Sự hưng phấn và lao động chân tay khiến cho mọi người ăn rất ngon miệng. Trần Trận cảm thấy mình vui hơn các Khan Mông Cổ, vì được ăn ngay bên cạnh những mẫu xương dê của lũ sói bỏ lại. Các cậu ăn như rồng cuốn, như sói tranh mồi, ăn với một khoái cảm đặc biệt.
Trần Trận và Dương Khắc bỗng lây tính cách hào phóng của người Mông Cổ không hẹn mà cùng giơ tay giằng lấy hồ rượu của người ngồi bên, tu ừng ực.
Ông già Pilich cười khà: Chỉ một năm nữa là ta không dám đi Bắc Kinh gặp phụ huynh của các cậu đâu. Các cậu đã thành dân du mục thực thụ rồi. Dương Khắc miệng sặc hơi rượu, nói: Người Hán cần cái khí phách của người Mông Cổ, lái đại xa vượt Cư Dung Quan hộp nhập cùng thế giới.
Trần Trận gọi liền ba tiếng: Bố, bố, bố! Rồi nâng hồ rượu lên ngang mày mời “đại tù trưởng”. Ông già Pilich uống liền ba ngụm, cũng vui vẻ gọi to ba lần: Milihu (con ta), milihu (con ta), milsaihu (con trai của ta)!
Batu rượu ngà ngà, xéo bàn tay gấu vỗ mạnh lưng Trần Trận, lắp bắp: Cậu… cậu mới Mông Cổ một nửa. Khi nào lấy vợ Mông Cổ, đẻ một đứa con trong lều Mông Cổ, thì mới được coi là người Mông Cổ thực thụ. Cậu ẻo lả quá, không ổn. Gái Mông Cổ trong chăn dữ hơn sói cái! Trai Mông Cổ sợ vợ như cừu sợ sói.
Tang Kiệt cười: Ban đêm đàn ông như cừu, đàn bà như sói. Caxưmai lợi hại số một!
Đám thợ săn cười rú.
Lanmutrăc hào hứng bốc Dương Khắc quẳng xuống một hố tuyết dày. Anh nói: Khi nào cậu quật ngã được tôi, khi đó cậu mới được gọi là người Mông Cổ. Dương Khắc cố sứ quật lại, nhưng chính cậu lại bị ngã lộn ba vòng. Lanmutrắc cười: Người hán ăn cỏ yếu như cừu. Người Mông ăn thịt khoẻ như sói.
Dương Khắc rũ tuyết trên người, nói: Hãy đợi đấy! Sang năm tôi sẽ mua hẳn một con bê, ăn bằng hết, và tôi sẽ cao hơn anh một cái đầu, khi ấy anh sẽ yếu như cừu cho mà xem!
Đám thợ săn vỗ tay tán thưởng: Hay lắm!
Người thảo nguyên Mông Cổ uống nhiều hơn ăn. Bảy tám hồ rượu lớn thoắt cái cạn tới đáy. Thấy rượu đã hết, Dương Khắc tưởng bở, thách Lanmutrắc: Đấu vật không thắng, giờ xin đấu rượu với anh. Lanmutrắc cười
hóm: Cậu ranh như cáo ấy! Nhưng trên thảo nguyên cáo không khôn bằng sói. Đợi tí, tớ vẫn còn rượu. Nói rồi, anh đến bên con ngựa của mình, lôi từ đây vài hồ rượu trắng to tướng và hai chiếc cốc. Mọi người la: Phạt rượu, đáng phạt rượu!
Dương Khắc cười gượng: Đúng là cáo không bằng sói, tôi xin chịu phạt. Lanmutrắc nói: Cậu… cậu nghe đây! Theo quy định, phạt bao nhiêu phải uống bấy nhiêu. Có lần tôi nói sai một câu, bị ông phóng viên người Han thông thạo cả tiếng Trung Quốc lẫn Mông Cổ, đổ rượu say bí tỉ. Giờ thì cho cậu nếm mùi… Nói rồi, anh ta rót đầy một cốc giơ lên, nói bằng thứ tiếng Hán bập bõm: Bách linh bay từng đôi, mỗi cánh đèo hai cốc! Dương Khắc tái mặt: Bốn cánh, mỗi cánh hai cốc, vị chi tám cốc. Nhiều quá, xin bớt cho một chén mỗi cánh. Lanmutrắc nói: Nếu cậu không giữ lời, tôi tăng mỗi cánh thêm một cốc bây giờ.
Mọi người, kể cả Trần Trận la to: Uống, phải uống thôi!
Dương Khắc đành phải uống một mạch tám cốc rượu. Ông già Pilich cười: Ở thảo nguyên này mà láu cá thì thiệt đấy!
Trần Trận và Dương Khắc đón xiên thịt đã nướng chín từ tay ông già, ăn luôn, nước thịt hồng hồng ứa ra hai bên mép. Hai cậu đã ăn được thịt lòng đào.
Trần Trận nói: Bố, đây là lần đầu tiên con ăn thức ăn của sói. Từ bé đến giờ mới có món thịt ngon đến thế. Giờ con đã hiểu vì sao các vua chúa và con cái của họ lại thích săn bắn đến thế.
Đường Thái Tôn là ông vua kiệt xuất đời Đường. Ông ta mê săn bắn. Thái tử, là người sẽ nối ngôi vua cũng thường dẫn vệ binh Đột Quyết săn bắn trên thảo nguyên. Thái tử còn dựng lều giữa sân điện, rồi cũng như chúng ta ở đây, làm thịt cừu, quay chín, dùng dao xẻo thịt ăn. Ông ta mê thảo nguyên đến nỗi không muốn làm vua, chỉ thích giương ngọn cờ đầu sói của Đột Quyết rong ruổi trên đồng cỏ, sống cuộc sống du mục. Về sau, quả nhiên ông không được làm vua, Đường Thái Tôn không truyền ngôi cho ông ta. Cuộc sống trên thảo nguyên quả thực hấp dẫn, đến nỗi có người bỏ cả ngôi vua.
Ông già trố mắt ngạc nhiên: Chuyện này chưa nghe cậu kể. Hay lắm, rất có ý nghĩa. Nếu như người Hán ai cũng yêu thích thảo nguyên như ông vua kia thì hay biết mấy. Và nếu ông ta không mất ngôi lại càng hay. Các vua nhà Thanh đều thích thảo nguyên Mông Cổ, thích lấy phụ nữ Mông Cổ, lại cấm người Hán đến Mông Cổ khai hoang. Thời ấy, người Hán, người Mông không đánh nhau, thảo nguyên sống trong hoà bình.
Ông già Pilich rất mê Trần Trận kể chuyện lịch sử. Mỗi lần nghe, ông
đều tặng lại Trần Trận một vài chuyện kể Mông Cổ. Ông bảo, ở thảo nguyên mà chưa ăn thức ăn của sói, thì chưa phải là người Mông Cổ. Không có thức ăn của sói, có lẽ không có người Mông Cổ. Xưa kia, người Mông Cổ bị dồn đến bước đường cùng, phải sống nhờ vào sói. Ông tổ của Thành Cát Tư Hãn bị dạt vào rừng sâu với hai bàn tay trắng, suýt chết đói. Không còn cách nào khác, ông bí mật theo dõi con sói. Sói bắt được mồi, ông đợi. Sói bỏ đi, ông ăn thức ăn thừa của sói bỏ lại. Vậy mà cầm cự được mấy năm, cho đến khi anh trai tìm thấy, đón ông về. Sói là ân nhân cứu mạng của người Mông Cổ, không có sói thì không có Thành Cát Tư Hãn, không có người Mông Cổ. Thức ăn của sói ngon tuyệt! Cậu xem, sói đem đến cho chúng ta là quà tặng theo mùa. Có điều thức ăn của sói không phải lúc nào cũng dễ kiếm, sau này cậu sẽ rõ.
Ăn sạch hai con dê, không còn một mẩu. Bếp lửa lụi dần, nhưng ông già Pilich vẫn cẩn thận sai người xúc đất lấp kín đống tro.
Mây đen tích tụ ngày càng dày. Trên đỉnh núi, tuyết bị gió hất lên như những dãi lụa trắng. Đám trai tráng lại leo lên bè, tiến ra hồ, tranh thủ lấy đầy xe trước khi tuyết lấp đầy các hố. thêm một con dê vàng là thêm bảy bánh trà gối Tứ Xuyên, hoặc hơn chục tút thuốc lá thơm Hải Hà (Thiên Tân), hoặc mười lăm mười sáu bình rượu trắng Nội Mông. Dưới sự chỉ đạo của ông già Pilich, đám thợ săn chuyển hết bè từ chỗ sâu đến chỗ nông, tranh thủ lấy hết số dê vàng ở những chỗ dễ móc lên. Ông gài còn chia nhóm, những ai giỏi móc thì chuyên móc, những ai giỏi chuyên chở thì vận chuyển. Bè khá gần bờ, những sợi thừng dài bắt đầu phát huy tác dụng. Vài người khoẻ mành đứng trên bờ ném thừng lên bè, người trên bè buộc một đầu thừng vào bè rồi ném trả vào bờ. Trên bờ kéo chiếc bè vào rồi ném trả rồi ném trả người dưới hồ để họ kéo chiếc bè ra. Hiệp đồng kiểu này, tiến độ nhanh trông thấy.
Rồi thì những người trên hồ bị bóng núi nuốt chửng, các xe đều đầy ắp. Vậy mà một số thợ săn vẫn muốn đốt lửa làm thêm vào ban đêm. Xếp đống những con phải để lại, cử người mang súng canh gác, hôm sau chở nốt. Nhưng ông già Pilich lớn tiếng bào thôi. Trời đã cho ta một ngày lộc thì chỉ nên thu hoạch một ngày. Ông Trời đã rất công bằng. Sói ăn thịt cừu và ngựa của ta thì Trời bắt sói phải trả nợ cho ta. Giờ gió đã nổi, nghĩa là Trời muốn dành cho sói số dê còn lại, không nên cưỡng lại ý Trời. Ai dám ở lại vùng gió xoáy này? Nếu đêm nay bạch mao phong cùng đàn sói tràn về, thì sự thể sẽ ra sao?
Không ai nói một câu. Ông già lệnh cho cả tổ rút. Đoàn người mệt mỏi nhưng hân hoan đẩy những cổ xe nặng lên dốc, rồi người lên xe, kẻ lên ngựa trở về nhà.
Trần Trận đàm địa mồ hôi, cậu phát sốt, run cầm cập. Trong hồ ngoài hồ,
trên dốc dưới dốc, chỗ nào cũng lưu lại dấu vết của con người: bếp tro, cuống thuốc là, vỏ chai rượu và vết bánh xe. Gay nhất là vết bánh xe dẫn đến khu lều trại. Trần Trận thúc ngựa chạy tới bên ông già, hỏi: Bố, bị vố đau thế này, liệu sói có trả thù không? Bố vẫn nói rằng sói nhớ dai mà!
Ông già nói: Ta lấy không nhiều, quá nửa vẫn để lại cho sói, ta không tham. Muốn lấy nữa chỉ việc neo sào trên những hố, bạch mao phong có thể lấp bằng các hố tuyết, nhưng không vứt được sào đi, ta có thể lấy nốt số dê còn lại. Nhưng mà làm như vậy thì Trời không nhận linh hồn ta. Ta phải vì mục trường. Sang xuân, sói có thịt đông lạnh ăn, sẽ không bắt gia súc. Sói làm nhiều việc tốt cho con người, ta không nên uống nước cả cặn! Yên tâm đi. Sói chúa biết suy xét đâu ra đấy.
Chiều tối, bạch mao phong lồng lộn trên thảo nguyên. Trong căn lều của đám thanh niên trí thức, bếp lò cháy rực. Trần Trận gấp cuốn “Mông Cổ bí sử”, bảo Dương Khắc: Cái ông ăn thức ăn thừa của sói ấy là ông tổ tám đời của Thành Cát Tư Hãn, tên là Hao Đan Sa Nhi. Dòng họ Thành Cát Tư Hãn có tên Hao Nhi Chi Cân, bước lên vũ đài lịch sử từ đời Hao Đan Sa Nhi. Đương nhiên mấy đời sau đó cũng có nhiều thăng trầm.
Dương Khắc nói: Nói vậy là, nếu không có sói tức không có vị quân sư và vị huấn luyện viên sói ấy thì hẳn là không có Thành Cát Tư Hãn và dòng họ của ông ta, không có kỵ binh Mông Cổ trí dũng song toàn. Sói thảo nguyên quả thật thiêng liêng với dân tộc Mông Cổ.
Trần Trận nói: Phải nói rằng, với Trung Quốc ảnh hưởng càng lớn hơn. Từ khi có Thành Cát Tư Hãn và kỵ binh Mông Cổ, lịch sử Trung Quốc từ nhà Kim đến nam Tống về sau phải viết lại hoàn toàn. Lịch sử châu Á, Ba Tư, Nga La Tư, Ấn Độ… phải viết lại tất. Thuốc súng của Trung Quốc được đưa sang phương tây theo con đường Á – Âu làm kỵ binh Mông Cổ mở ra, phá huỷ thành luỹ phong kiến phương Tây, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Rồi sau đó, hoả pháo ấy của phương Tây công phá cổ ngõ Trung Quốc, bắn nát kỵ binh Mông Cổ, thế giới chao đảo… Vậy mà vai trò của sói trong lịch sử bị lờ đi trong những bộ sử do con người ghi chép. Nếu ông Trời chép sử, chắc chắn sói có vai trò xứng đáng.
Anh chàng chăn ngựa Cao Kiên Trung còn đang phấn khích vì được một xe Trời cho, vội nói: Các cậu toàn nói những chuyện viễn vông ở đâu ấy. Công việc cấp bách bây giờ là tìm cách lấy hết số dê còn lại. Phát tài to! Trần Trận nói: Ông Trời ưu ái sói mà cho ta một xe đầy thế này là tốt rồi. Bạch mao phong ngắn nhất cũng ba ngày ba đêm, hố tuyết sẽ dầy thêm nửa thước, không còn trông thấy một hố nào nửa. Khi ấy mò dê chẳng khác nào đáy biển mò kim! Cao Kiện Trung bước ra bên ngoài nhìn trời, quay vào bảo: Đúng là phải ba ngày ba đem mới tạnh. Giá hôm nay mình đi thì hay quá, mình sẽ cắm nêu ở những hố to nhất. Dương Khắc nói: nếu vậy, cậu
đừng hòng ăn phù chúc của Caxưmai. Cao Kiện Trung thở dài: Đành để sang xuân vậy. Khi ấy mình sẽ lấy đầy một xe đem lêm Trạm thu mua Bayancaobi. Nếu hai cậu không nói, chắc không ai biết chuyện này.
Nửa cuối mùa đông, quả nhiên đàn gia sức không xảy ra chuyện gì đáng kể. Đàn sói Ơlôn rượt theo đàn dê vàng ở đâu không rõ. Cuộc khủng bố trắng đã không diễn ra.
Mùa đông im ắng, Trần Trận ban ngày chăn cừu hoặc ban tối trực đêm, hễ rảnh rỗi cậu lại sưu tầm những mẩu chuyện về sói. Mất nhiều thì giờ nhất là chuyện “sói bay”. Truyền thuyết “sói bay” lưu hành khắp vùng Ơlôn, chuyện xảy ra chưa lâu, địa điểm thì hình như ở ngay đại đội của cậu. Trần Trận quyết tâm làm rõ chuyện, giải mã cho bằng được vì sao sói có thể bay trên thảo nguyên Ơlôn.
Đám thanh niên trí thức vừa về Ơlôn đã nghe rằng, sói Ơlôn do trời sai xuống, nên biết bay. Hàng ngàn năm nay, mục dân Ơlôn khi chết, thi thể được đưa tới bãi thiên táng cho sói xử lý. Nếu sói ăn hết thì coi như ”thiên táng” thuận lợi. Căn cứ để nói “thiên táng” là sói biết bay. Sói bay lên trời, đem theo linh hồn của người đã chết, như kiểu thần ưng của phương Tây. Đám thanh niên trí thức coi đó là mê tín dị đoan thì dân Mông Cổ khẳng định như đinh đóng cột là có thật. Xa xôi ở đâu không biết, chuyện gần đây thôi, trước cách mạng văn hoá ba năm, một số sói bay vào chuồng cừu của đại đội Hai, ăn thịt hơn chục con, cắn chết hơn hai trăm con. Ăn no rồi, lũ sói bay ra khỏi chuồng. Cổng đóng, tường cao sáu bảy thước, người không thể trèo qua, lũ sói vào bằng cách nào? Bức tường nay vẫn còn, không tin, các cậu đi mà xem. Hôm ấy, trường bãi Ulichi dân chức sắc đến tận nơi, đồn trưởng Công an Halapala cũng có mặt. Nào chụp ảnh, nào đo đạc tính toán. Tường vây rất cao, không lỗ thủng, sói vào ra bằng cách nào. Điều tra mấy ngày liền nhưng không ai biết được. Mục dân biết, nhưng để bụng không nói ra.
Câu chuyện trên ám ảnh Trần Trận một thời gian. Khi sưu tầm truyền thuyết đã thành niềm đam mê, cậu liền nhớ lại. Thế là cậu lập tức lên ngựa, phi một mạch trên mười dăm đến căn chuồng xây bằng đá xem xét rất kỹ mà vẫn không hiểu sói vào bằng cách nào. Cậu đã tìm gặp ông già Xưlangđaochi. Ông già nói: Không hiểu thằng con trời đánh thánh vật của tôi đã làm cái gì đắc tội với trời, mà cho đến bây giờ gia đình tôi vẫn bị người ta nguyền rủa. Nhưng người con đã học xong Trung học của ông thì lại bảo chuyện này là lỗi tại Ban Quản Lỳ bãi chăn. HỒi ấy, vùng Ơlôn chưa có tường vây bằng đá, Ban Quản Lý muốn giảm bớt công điểm trực đêm, lại nghĩ có thể bảo đảm an toàn cho đàn cừu, bèn xây mấy căn chuồng đá cho cừu đẻ. Họ bảo, chuồng đó sói không vào được, do đó không cần trực đêm. Đêm hôm ấy tôi nghe chó sủa rất lạ, hình như sói về nhiều, nhưng vì Ban
Quản Lý nói không cần trực đêm nên tôi cũng cho qua, không ra xem có chuyện gì. Ai dè sáng ra mở cửa chuồng bước vào, đã thấy cừu chết la liệt, cả nhà chết sững. Nền chuồng máu chảy thành vũng, dầy đến hai đốt ngón tay, trên tường cũng vấy đầy máu. Những con cừu đều chết bởi bốn vết thương trên cổ. Máu tràn ra ngoài chuồng. Có cả bãi phân sói… Ban Quản Lý quy định lại, những gia đình gần chuồng lại phải cử người trực đêm, được tính công. Những năm đó, loại chuồng đá cho cừu đẻ ngày càng nhiều, có trực đêm, không còn chuyện sói bay vào trong ăn thịt cừu.
Trần Trận vẫn không chịu tin, lại hỏi rất nhiều người, ai cũng bào sói biết bay. Họ còn bảo sói chết nhưng hồn sói thì bay lên trời.
Về sau, đồn trường Ha được “giải phóng”(1), trả về từ Uỷ Ban Kiểm Tra cán bộ cũ, phục nguyên chức. Trần Trận đem theo vài bao thuốc lá ngon Bắc Kinh đến thăm ông, mới hiểu sói “bay” kiểu gì vào chuồng cừu? Đồn trường tốt nghiệp trường nghiệp vụ Công an, nói tiếng Hán trôi chảy. Ông nói, vụ này đã kết luận, tiếc rằng những lý lẽ rất khoa học của ông đã không được chấp thuận, phần đông mục dân không tin, họ vẫn cho rằng sói biết bay. Chỉ một số thợ săn có văn hoá, có kinh nghiệm là bị ông thuyết phục. Đồn trưởng ha cười, nói: Nếu có ý tôn trọng tín ngưỡng và tập quán dân tộc, thì bảo sói bay vào trong chuồng cũng không hoàn toàn sai, vì rằng tối thiểu một đoạn sói bay trong không trung..
Ông nói tiếp: Hôm ấy mọi người sợ lắm, nghĩ rằng trời giáng hoạ xuống đầu dân Ơlôn. Đám chăn ngựa bỏ cả ngựa trên núi chạy về. Người già và phụ nữ phủ phục dưới đất vái lia lịa. Trẻ con sợ đến nỗi bị đánh không dám khóc. Trưởng bãi Ulichi sợ ảnh hưởng đến sản xuất, lệnh cho nội ttrong hai ngày phải phá án. Tôi tập trung cán bộ mục trường lại, phân công bảo vệ hiện trường. nhưng hiện trường đã bị xoá. Tất cả những dấu vết bên ngoài chuồng đều bị gia súc hoặc dấu chân người xoá sạch. Tôi đành dùng kích lúp soi từng xăngtimét trên tường, cuối cùng tìm ra hai vết chân sói dính máu mờ mờ trên mặt tường góc đông bắc, mới kết thúc vụ án. Cậu thử đoán xem, sói vào chuồng bằng cách nào?
Trần Trận lắc đầu.
Đồn trưởng Ha nói: Tôi đoán chắc rằng đã có một con sói cực lớn chồm hai chân trước lên mặt tường, hai chân sau trụ đất, dùng thân làm cầu cho đàn sói trèo qua. Những con sói từ khoảng cách vài chục mét chạy lên lưng con sói bắc cầu, dùng nó làm bàn đạp nhảy vào trong. Nếu từ bên trong nhìn ra, chẳng phải đàn sói bay vào là gì?
Trần Trận ngẩn người hồi lâu, nói: Sói Ơlôn thông minh đến thế là cùng. Chuồng đá vừa ra đời, chúng đã có cách đối phó. Chúng quả đã thành tinh! Người dân nói sói bay cũng không sai. Đoạn đường di chuyển từ mặt tường
vào bên trong đúng là bay. Thấy sói từ trên cao rớt xuống giữa đàn, gì mà cừu chẳng chết khiếp! Đàn sói vờ bẫm, ăn no, giết thả giàn. Chỉ mỗi con sói bên ngoài là thiệt, chẳng được miếng nào. Chắc hẳn nó là con đầu đàn, phong cách cao thượng, tất cả vì bầy đàn.
Đồn trưởng Ha cười: Không hẳn! Theo tôi thì con sói này cũng bay vào ăn đủ. Cậu không biết, sói thảo nguyên ý thức bầy đàn rất cao, không bao giờ bỏ rơi đồng loại. Những con bên trong sau khi ăn no, liền bắc cầu cho một con nhảy ra ngoài. Sau đó, con này làm cầu cho con thứ nhất nhảy vào. Máu trên tường chính là con sói từ trong nhảy ra. Nếu không, nó từ đâu ra? Vì rằng, con thứ nhất khi làm cầu, chân nó chưa dính máu, đúng không? Cậu thử tưởng tượng tình hình khi ấy, đúng là đàn sói trêu ngươi con người, đồng loạt nhảy vào tàn sát. Con người xây chuồng đá để ngăn sói, giờ thì ngược lại, tường đá chặn đứng lũ chó ở bên ngoài. Ông Xưlengđaonhichi chắc tức điên! Chó săn không dám bắt chước sói bay và trong chuồng quần nhau với sói. Chó nhà không khôn bằng sói.
Trần Trận nói: Cháu cũng không bằng sói. Nhưng còn vấn đề này nữa: Sói làm thế nào ra hết bên ngoài? Ý cháu là, con sói cuối cùng ra bằng cách nào?
Đồn trưởng Ha vui hẳn lên, nói: Đúng là người không khôn bằng sói. Khi ấy ai cũng thắc mắc. Cuối cùng, Trưởng bãi lội vào quan sát, mới vỡ lẽ. Tại góc đông bắc có một đống xác cừu, chí ít bảy tám con. Mọi người cho rằng, con sói cuối cùng chắc rất có bản lĩnh và sức khỏe. Nó tha những con cừu chết chất thành đống sát tường rồi trèo lên, nhảy ra. Có người lại bảo, chất đống xác cừu là công việc tốn sức, không chỉ một con mà mấy con cùng làm, rồi lần lượt nhảy ra. Sau đó, Trưởng bãi triệu tập các đội trưởng, tổ trưởng đến hiện trường phân tích cặn kẽ, diễn tập các thao tác của lũ sói, mục trưởng mới thôi xôn xao. Ban Quản lý cũng không phê bình hoặc trách phạt Xưlengđaonhichi. Trưởng bản làm bản tự kiểm điểm, tự nhận chủ quan khinh địch, có thái độ lơ là đối với sói.
Trần Trận nghe mà sởn gai ốc. Cậu tuy rất tin những kết luận khoa học của đồn trưởng Ha, nhưng từ đó hình ảnh những con sói bay luôn xuất hiện trong giấc mơ của cậu. Cậu thường tỉnh dậy mồ hôi đầm đìa. Cậu không dám nhìn nhận những truyền thuyết trên thảo nguyên bằng con mắt của thợ săn thuần túy. Cậu bắt đầu hiểu vì sao một số nhà khoa học phương Tây lại chăm đi lễ nhà thờ.
Sau một thời gia, Trần Trận bắt đầu khảo sát hai bãi “thiên táng” của đại đội, một ở phía bắc núi Đaolơcai, một ở đông bắc Đá Đen. Nhìn bên ngoài, hai bãi này không khác mấy so với bãi cỏ thông thường. Nhưng quan sát kỹ, có sự khác biệt. Hai bãi này cách rất xa con đường di chuyển truyền thống của mục trường, nằm ở vị trí phía bắc – một góc chết vắng vẻ, gần đàn sói,
gần Trời, tiện cho linh hồn lên Trời. Hơn nữa, địa hình gồ ghề, rất thích hợp cho phương thức “thiên táng” bằng xe bò.
Hàng ngàn năm nay ở Ơlôn khi có người chết, người ta cởi bỏ quần áo người quá cố rồi dùng thảm cuộn lại, buột chặt, cũng có người để nguyên quần áo đang mặc rồi dựng đứng trên xe bò, buộc ngang hai đầu càng xe một thanh gỗ. Vào giờ Dần, hai bậc đàn anh của người chết mỗi người cầm một thanh gỗ rồi lên ngựa phi tới bãi thiên táng, cái xác rớt xuống chỗ nào thì chỗ ấy là địa điểm thiên táng, kết thúc cuộc đời gian truân của một thành viên bộ tộc trên lưng ngựa. Nếu thi thể cuộn trong tấm thảm, thì hai vi huynh trưởng xuống ngựa mở tấm thảm ra, đặt người chết trên bãi cỏ, tênh hênh như lọt lòng mẹ. Từ lúc này trở đi, người chết thuộc về sói, về Thần linh. Còn như người chết có về Trời được không, còn phải xem sinh thời người ấy thiện hay ác. Nói chung, chỉ sau ba ngày là biết. Nếu sau ba ngày, cái xác chỉ còn lại ít xương thì có nghĩa là người chết đã lên trời; nếu sau ba ngày người chết vẫn còn nguyên thì đúng là thảm họa. Nói vậy thôi, Ơlôn nhiều sói, Trần Trận nghe nói, chưa có người nào chết không được lên Trời.
Trần Trận có biết tục thiên táng của Tây Tạng, còn của Mông Cổ thì trước khi đến thảo nguyên Ơlôn cậu chưa nghe nói do sói đảm nhiệm, mà vẫn tưởng do chim kền kền. Do vậy cậu càng tò mò. Từ miệng ông già chở vật tư cho đội, cậu biết ang áng địa điểm thiên tán và đã bí mật đến đó hai lần, nhưng vì tuyết quá dày, cậu không xem được những gì muốn xem.
Cho đến một hôm mùa đông sắp kết thúc, cậu nhìn thấy những vệt bánh xe và những dấu chân người chân ngựa trên đường dẫn vào bãi thiên táng. Cậu trông thấy xác một người chết vì bệnh tật hình như vừa đưa đến. Vết chân người ngựa và bánh xe còn rất mới, chưa bị tuyết xóa. Người ấy nằm ngửa trên tuyết trắng, nét mặt thanh thản, lớp tuyết phủ trên người như một tấm khăn mỏng.
Trần Trận ngạc nhiên sững sờ. Tâm trạng thấp thỏm dọc đường dần được thay thế bằng một tình cảm chân thành thiêng liêng. Đâu phải người chết này “rơi vào cõi chết”, mà như lên Trời dự yến tiệc, rồi nhận một kiếp sống mới cho mình. Thêm một lần Trần Trận tin rằng tôtem sói của người Mông Cổ là có thực. Một con người đế phút cuối cùng của cuộc đời dùng hình thức lõa thể làm cống phẩm để đi đến tận cùng của sự giải thoát cho bản thân, thì không ai còn có thể hoài nghi vào đức tin của người Mông Cổ với Trời và thảo nguyên.
Trần Trận không dám dừng lại lâu ở nơi thiêng liêng này. Cậu chỉ sợ quấy quả linh hồn người quá cố, sợ bị coi là không tôn trọng tín ngưỡng thiêng liêng của dân tộc thảo nguyên, bèn cung kính lạy từ biệt người chết, dắt ngựa rút khỏi nơi thiên táng. Nhìn những vết xe ngoằn ngoèo trên đoạn đường cuối cùng, trước mắt cậu như hiện ra cỗ xe bò lắc lư. Cậu dùng chân
đo đoạn đường, khoảng bốn mươi mét. Cả một cuộc đời thăng trầm rút gọn lại trong quãng đường có bấy nhiêu! Đời người sao mà ngăn ngủi, còn ông Trời thì vĩnh hằng! Từ Thành Cát Tư Hãn đến người dân thường cũng chỉ một câu: Trời ơi, ông Trời bất tử! Còn sói là chiếc thang cho linh hồn của dân thảo nguyên lên Trời.
Sau ba hôm không thấy gia đình người chết có hiện tượng bất thường, Trần Trận mới yên tâm. Vì rằng qua thời gian đó, gia đình người chết phải đến bãi thiên táng kiểm tra, có thể họ đã nhìn thấy dấu chân của cậu và ngựa, nhưng họ không trách cứ cậu. Nhưng nếu như linh hồn người chết không được lên Trời thì sự thể sẽ khác. Và vậy là sự hiếu kỳ của cậu bắt đầu vấp phải những điều cấm kỵ của thảo nguyên. Cậu càng phải chăm nom đàn cừu tốt hơn, gần gũi hơn với những người mà cậu cảm thấy lạ lùng, bí ẩn và rất đáng kính nể.
Mùa xuân năm nay đến rất sớm, trước một tháng. Sau vài cơn gió ấm, thảo nguyên đã phủ một màu vàng rạng rỡ. Cỏ thu bị tuyết phủ kín, giờ ló ra tua tủa, thậm chí đã nảy mầm trên những sườn núi ngoảnh về phía mặt trời. Tiếp thao là trời ấm nắng hanh. Đến với các đội đang chuẩn bị cho mùa sinh sản, chỗ nào cũng thấy mọi người bận rộn với công việc phòng cháy, chống hạn và bảo vệ cừu non.
Cao Kiện Trung đã chậm một bước. Một số hộ ngụ cư đến cùng đội xây dựng cơ bản đã chứng kiến cảnh tấp nập của đội sản xuất Caxưmai tại Trạm thu mua mùa đông vừa rồi. Họ bám dính cánh thợ săn dò hỏi về bãi săn, cánh thợ săn nói dê lấy hết rồi. Họ lại dùng kẹo Quan Đông dụ dỗ Bayan, thằng nhỏ chỉ cho họ một thung lũng chẳng có gì hết. Cuối cùng, những người Mông Cổ mà đa số thuộc vùng nông nghiệp này đã tìm ra điểm yếu chết người của dân Mông Cổ thảo nguyên: Rượu. Họ đem rượu mạnh nấy bằng cao lương đổ cho Tang Kiệt say bí tỉ, do đó biết chính xác địa điểm đông lạnh dê vàng. Thế là họ ra tay trước, ngay trước mũi bầy sói và Cao Kiện Trung. Khi những con dê vừa mới lộ ra, họ đã cắm lều kín xung quanh, vét sạch dê trong một ngày bất kể tốt xấu to nhỏ, và ngay đêm hôm đó chất lên xe tải hạng nặng chở lên Trạm thu mua của công xã Bayincaoti.
Cánh chăn ngựa của đội Hai mấy đêm liền nghe tiếng gào thét phẫn nộ của bầy sói đói phía sau núi. Họ hoảng hốt thật sự, ngày đêm không rời đàn ngựa nửa bước, khiến các cô bồ rải rác ở các túp lều Mông Cổ tha hồ mà than vãn trách móc.
Ít hôm sau, Ban Quản Lý chính thức thông báo về việc phục hồi hoạt động đào bắt sói con mỗi năm một đợt. Theo đề nghị của đại diện quân đội BaoThiện Quý, tiền thưởng nhiều hơn năm trước. Nghe nói giá thu mua da sói con đặc biết cao. Da sói con mềm mại, là nguyên liệu cao cấp may áo khoác nữ, giờ đây đang là mốt của các phu nhân hàng tỉnh. Nó cũng là cống
phẩm cao giá trong giao dịch “đi cửa sau”.
Ông già Pilich không nói gì, liên tục rít tẩu. Trận Trận chỉ nghe một lần ông lẩm bẩm: Đàn sói nổi giận rồi!
Chú thích:
(1) Những cán bộ cũ sau khi bị đấu tố, được ra làm việc lại trong Cách mạng văn hoá (ND)
Chương 5
"Chuyện rằng, tổ tiên người Đột Quyết ở Sách quốc, phía bắc Hung Nô. Bộ lạc này người lớn thì gọi là Abangpu. Trong mười bảy người lớn, có một người tên Doanchiniixưtu do sói sinh ra. Các Bangpu đều đần độn, nên mất nước. Chỉ mỗi Nixưtu tư chất khác người, biết hú gió gọi mưa. Lấy hai vợ, con gái của thần mùa Hạ và thần mùa Đông, sinh liền bốn trai… Chuyện tuy lạ, nhưng đúng họ thuộc giống sói."
(Chu thư. Đột Quyết)
Mây đen dầy đặc từ chân trời phương bắc cuồn cuộn đổ về, hung hãn chiếm lĩnh trời xanh. Loáng cái, bóng mây nuốt chửng bóng núi, chụp bàn tay khổng lồ lên mục trường. Phía tây, mặt trời màu da cam chưa khuất hẳn. Đồng hành với gió bắc là tuyết dày càn quét vùng Ơlôn. Những bông tuyết bay ngang dưới ánh nắng chênh chếch trông như hàng tỉ con châu chấu đói giương đôi cánh màu vàng đua nhau xông tới mục trường phì nhiêu.
Ngạn ngữ Mông Cổ: Hoạ sói về cùng gió. Đàn sói Ơlôn mấy chục năm nay di chuyển như du kích hai bên biên giới, lợi dụng đợt rét muộn hi hữu vượt mốc giới, băng qua dải phòng cháy, tràn qua đường tuần tra biên phòng, tiến vào thảo nguyên Ơlôn cận vùng biên. Bên kia biên giới rét buốt, đất đai nghèo xác, sói đói không có cái ăn. Năm nay, vùng biên bên này, thực phẩm dự trữ của sói bị cướp sạch, bên kia càng khó khăn. Đàn sói khó mà bắt những con dê vàng chạy như bay như biến. Hầu hết sói đói tập kết trên đường biên. Vượt biên lần này, đàn sói mắt đỏ ngầu, háu ăn khủng khiếp, thủ đoạn tàn nhẫn, hoạt động liều lĩnh, mỗi con mang theo tâm trạng phục thù, sẵn sàng đổi mạng lấy cái ăn. Vậy mà Ơlôn đang là lúc đào bắt sói con, lơ là cảnh giác.
Những năm giữa và cuối thập kỷ 60, trình độ dự báo thời tiết cho vùng Ơlôn: báo mưa không thấy nước, báo nắng không thấy mặt trời. Trưởng bãi Ulichi bảo, khí tượng rặt một lũ nói bậy! Ngoài ông già Pilich và mấy bô lão khác tỏ ra lo lắng khi Ban Quản lý điều động quá nhiều lao động đi đào bắt sói con, những người khác không ai dự đoán được trận rét muộn khủng khiếp và tai hoạ do sói gây ra. Ngay cả sĩ quan và lính biên phòng là những người rất quan tâm đến dân du mục và công việc chăn nuôi cũng không có dự báo hoặc nhắc nhở. Trước kia mỗi khi phát hiện đàn sói vượt đường tuần tra, họ đều báo ngay cho mục trường và người dân. Vùng biên Ơlôn núi đồi thấp bé không vật cản che chắn, bạch mao phong bất thình lình tràn về nhanh như chớp, và đàn sói thiện chiến lợi dụng bão tuyết tổ chức những cuộc tấn công chớp nhoáng.
Tại bãi chăn tốt nhất ở tây bắc Ơlôn, có một đàn ngựa mới tập kết mấy hôm nay. Đó là những con ngựa thượng thặng do trung đoàn X thuộc sư X kỵ binh dân quân tuyển từ hơn chục đàn ngựa trên thảo nguyên Ơlôn. Khoảng bảy tám mươi con ngựa đang đợi bản kết quả kiểm tra sức khoẻ, chỉ cần không có bệnh lở mồm là lập tức lên đường. Công việc chuẩn bị chiến tranh rất khẩn trương, trách nhiệm trên vai những mã quan (người chăn ngựa) rất nặng nề. Đại diện quân đội và Uỷ ban cách mạng mục trường đã chọn ra bốn mã quan tinh thần trách nhiệm cao, cảnh giác tốt, can đảm và kỹ thuật chăn nuôi giỏi, chia hai ca, luân phiên trực 24/24 giờ trong ngày. Batu - Đại đội trưởng dân quân của đội II, được cử làm Tổ trưởng. Đề phòng ngựa nhớ đàn bỏ về, Batu đã cho di chuyển các đàn ngựa lùi xa mấy chục dặm. Mấy hôm trước thời tiết thuận, ăn uống đầy đủ, lại được một bữa mầm cỏ ngon miệng, những con ngựa chiến không nhớ nhà, đàn ngựa yên ổn. Bốn chàng mã quan cũng làm hết sức mình, mấy ngày trôi qua bình yên…
Thoạt tiên, gió lạnh tạm ngừng, và bạch mao phong thảo nguyên cường độ trên cấp 10 quét ngang, nước hồ tràn lên bãi cỏ như lũ lụt, đàn gia súc phá rào bỏ chạy. Những căn lều giữa luồng gió vặn như chão, xoắn lại rồi đổ sập. Những cỗ xe bị giật mui tung lên trời. Tuyết dày đến nỗi người ngồi trên yên không nhìn thấy đầu và đuôi ngựa. Tuyết hòn bay mù trời, rào rào như đạn ghém bắn ra từ súng săn, kéo theo ngàn vạn sợi trắng như bạc.
Người già bảo, ngày xưa một pháp sư Mông Cổ có tên Xaman từng nói: Bạch mao phong là con yêu tóc trắng (bạch mao). Do đó có tên bạch mao phong. Nghe nói đến bạch mao phong, người và gia súc sợ mất vía. Người la, ngựa hí, chó sủa, cừu kêu, trộn tất cả những âm thanh ấy lại là tiếng rú điên cuồng ma quái của bạch mao phong!
Những thợ săn sói con đang chuẩn bị cho cuộc đào bắt ban đêm thì bị kẹt trong núi, về cũng dở, ở lại cũng dở. Người nào ra về thì giữa đường bị lạc. Những người ở nhà trông nom gia súc thì cùng với trẻ già lớn bé liều chết dồn đàn gia súc về. Trên thảo nguyên, thường chỉ một ngày hay một đêm là còn hay mất tiêu những gì tích cóp trong nhiều năm.
Mục tiêu công kích số một của đàn sói vượt biên là đàn ngựa béo. Hôm ấy, ông già Pilich tưởng đàn ngựa chiến đã được gửi đi đúng thời gian qui định. Khi bạch mao phong tràn về, ông đã mừng, nhưng sau mới biết, đàn ngựa phải lùi lại một hôm vì chưa có báo cáo kết quả kiểm tra sức khoẻ, mà người nhận báo cáo thì hôm ấy cùng đại diện quân đội Bao Thuận Quí lên núi đào bắt sói con. Sói con năm nay bắt được nhiều, không dưới mười mấy ổ, tổng cộng hơn một trăm con. Những con sói mẹ mất con gào thảm thiết, khiến đàn sói càng điên cuồng hung hãn.
Người già bảo: Đây là cơ hội ông Trời tạo ra cho sói chúa. Dứt khoát đó là con sói trắng trên thảo nguyên Ơlôn sau khi quan sát kỹ, đã chọn đúng mục tiêu trả thù.
Gió vừa nổi, Batu đã chui ra khỏi chiếc lều dã chiến. Ban ngày anh nghỉ vì đã trực liền mấy đêm, nhưng anh vẫn không sao chợp mắt được. Lớn lên giữa đàn ngựa, Batu đã nhiều phen chịu trận những gì bạch mao phong đã gây ra. Liên tiếp mấy ngày bình yên một cách đáng ngờ khiến thần kinh căng thẳng như sợi dây đàn, thoảng chút gíó là rung lên thành tiếng. Dân chăn ngựa đều nhớ nằm lòng câu châm ngôn bằng máu: Trên thảo nguyên Mông Cổ, phía sau bình yên không bình yên, đằng sau nguy hiểm vẫn còn nguy hiểm.
Batu vừa ra khỏi lều, liền ngửi thấy mùi bạch mao phong. Ngước nhìn hướng gió từ phương bắc tới, sắc mặt anh đang đỏ au bỗng xám ngoét, con ngươi màu hổ phách loé sáng. Anh lập tức trở vào lều đạp một phát cho anh bạn chăn Xaxưleng tỉnh dậy, rôi cầm lấy đèn pin, lên cò súng, lồng roi ngựa vào cổ tay, khoác áo da, dập lửa bếp, không quên đem theo hai áo khoác da cho hai người trực. Hai người khoác súng lên vai, cầm đèn pin dài hai thước, lên yên, nhằm phía đàn ngựa phóng đi.
Mặt trời vừa khuất sau dãy núi phía tây, thảo nguyên Ơlôn đã một màu xám xịt. Hai con ngựa vừa phi xuống dốc liền gặp bạch mao phong, người ngựa lập tức bị nuốt chửng, gíó cà rát mặt, mắt không mở được vì tuyết hòn, ngựa liêu xiêu không vững.
Hai con ngựa như ngửi thấy mùi gì đó, đầu lắc liên hồi, chỉ rình chạy tháo thân. Hai người vẫn sát bên nhau nhưng Batu giơ tay nhìn không thấy ngón, sốt ruột gào toáng lên vẫn không thấy Xaxưleng đáp lại. Bão tuyết gào rú, nhận chìm tất cả. Batu gò cương lau mồ hôi và tuyết trên trán, định thần lại, rồi đổi tay cầm roi, cầm chắc đèn pin, bật công tắc. Bình thường đèn của anh sáng như đèn pha, ngoài trăm mét nhìn rõ ngựa, giờ chỉ nhìn được hơn chục mét, tuyết lông chim bay dày đặc trong quầng sáng. Lát sau, cặp người ngựa trắng như tuyết quét đèn lại phía anh, ánh đèn nhợt nhạt thảm hại. Hai người khua đèn một vòng tròn, tìm cách cho hai con ngựa đang kinh hoảng xáp lại gần nhau.
Batu kéo Xaxưleng lại gần, lột bao che tai của cậu ta, nói như quát: Dừng ở đây! Cho ngựa rẽ hướng đông, tránh hồ lớn! Không thì chết hết!
Xaxưleng cũng hét vào mặt Batu: Ngựa tôi sợ, e có sói. Bốn người làm sao chống lại?
Batu cũng hét: Phải chống thôi, chết bỏ!
Nói rồi, hai người giơ cao đèn pin rọi theo hướng bắc và liên tục khua tròn, phát tín hiệu cho hai mã quan và đàn ngựa.
Một con ngựa bờm và lông màu xám lao vào trong quầng sáng đèn pin rồi dừng lại đột ngột bên cạnh Batu như gặp được cứu tinh. Con ngựa chưa hoàn hồn, thở phì phì, dưới cổ có vết cắn máu chảy đầy ức, miệng vết thương bốc hơi, máu rỏ giọt. Con ngựa của Xaxưleng hoảng sợ chồm hai chân trước rồi đầu cúi gằm, cổ vươn dài, nó bất chấp tất cả, phóng như điên theo chiều gió. Batu vội thúc ngựa bám sát Xaxưleng. Con ngựa xám cũng biến mất.
Loay hoay một lúc lâu, Batu mới tóm được cương con ngựa của Xaxưleng. Lúc này, đàn ngựa cũng đã chạy tới bên anh. Dưới ánh đèn pin loang loáng, những con ngựa mà anh nhìn thấy đều tỏ ra sợ hãi tột độ, hồn vía bay đâu mất, chẳng khác con ngựa xám lúc nãy. Đàn ngựa hí dài theo gió, vừa chạy vừa đá lung tung, hàng trăm cặp vó hất tuyết bay lên như sóng bạc đầu, trong tiếng gầm rú điên cuồng của bạch mao phong. Khi Batu và Xaxưleng rọi đèn xuống thấp, cả hai giật nảy người. Xaxưleng vội ghì chặt cổ ngựa để khỏi bị ngã. Tuy chỉ thoáng qua, nhưng với con mắt tinh tường của dân chăn ngựa, hai người đã nhìn thấy sói trong đàn ngựa. Những con ngựa ở vòng ngoài, gần như con nào cũng bị hai ba con sói đeo bám, những con sói trắng toát do bạch mao phong cài tuyết đầy người. Eo ngựa lớn hơn rất nhiều so với lúc thường, trắng lốp. Bầy sói như hung thần ác quỉ khiến cánh mã quan chết khiếp. Những con sói lúc thường thấy ánh đèn pin là bỏ chạy, lúc này chúng chẳng sợ gì cả, chúng đang nổi cơn điên vì căm thù.
Batu toát mồ hôi, chạm trán với bầy sói, anh cảm thấy như bị Trời trừng phạt. Tuy nhiên, là mục dân Ơlôn, ai mà chẳng chôn trong bụng sói, khi chết vẫn được sói xử lý gọn ghẽ để linh hồn được về với Trời. Nghìn năm qua là thế, nghìn năm nữa vẫn vậy. Nhưng người ta dù khoẻ mạnh hay đau yếu vẫn sợ sói, không muốn bị sói ăn thịt khi chưa hết tuổi trời.
Batu và Xaxưleng không nhìn thấy hai mã quan kia. Anh đoán hai người hoặc đã bị thương vì bạch mao phong, hoặc ngựa của họ khiếp đảm chạy bạt mạng. Hai người trực ban ngày, không súng, không đèn pin, không áo khoác dày. Batu đành phó mặc cho may rủi, bảo Xaxưleng: Kệ họ, cứu đàn ngựa đã!
Đàn ngựa vẫn chạy theo ánh đèn của Batu. Bảy tám mươi con ngựa này là tinh hoa của các đàn ngựa trên thảo nguyên Ơlôn và là tâm huyết của mấy chục mã quan, toàn là ngựa thuần chủng, rất quí, giống ngựa Uchumuxin nổi tiếng thế giới, sách gọi là ngựa Đột Quyết. Chúng có thân hình tuyệt đẹp, sức chịu đựng tốt, giỏi nhịn đói nhịn khát, chịu mưa chịu nắng, chạy nhanh và
dai sức. Thường ngày, người cưỡi chúng là mã quan và những người đứng đầu cơ quan quản lý mục trường. Giờ phải điều cho sư đoàn kỵ binh dân quân để chuẩn bị cho cuộc chiến, mục trường rất khổ tâm mà không nói ra. Đàn ngựa này mà bị sói ăn thịt, hoặc chết đuối dưới đầm lầy, thì đám mã quan sẽ xé xác anh ra! Batu điên đầu khi nghĩ đến những mã phu ngày thường vốn không phục anh.
Thấy Xaxưleng còn chần chừ, Batu thúc ngựa vọt lên, gõ roi vào đầu anh ta, cho ngựa ép anh ta về phía đàn ngựa. Anh huơ đèn pin mấy vòng trên đầu làm hiệu, quát: Cậu mà bỏ chạy, tôi bắn chết! Xaxưleng la to: Tôi không sợ, nhưng ngựa tôi sợ! Xaxưleng cầm cương vụt liền mấy cái lên đầu con ngựa của cậu ta, nó mới chịu áp sát đàn ngựa. Hai người dùng ánh đèn pin chỉ huy đàn ngựa, vụt thẳng cánh những con không tuân lệnh và những con vẫn chạy theo chiều gió, cố lái đàn ngựa chạy chếch về hướng đông. Batu đoán hồ lớn ngày càng gần, chỉ khoảng hai chục dặm. Những con ngựa chiến này đều là ngựa thiến, cổ cao ức nở, không lấn bấn vợ con như những con ngựa khác nên di chuyển nhanh, với tốc độ này thì chỉ sau nửa giờ là cả đàn tới đầm lầy. Cái đầm này nguy hiểm ở chỗ chiều bắc nam hẹp, đông tây rộng, án ngữ ngay trên đường chạy. Nếu gió không đổi chiều thì khó thoát. Batu hình dung cái đầm như miệng con quái vật há hốc, đang chờ thần gió và thần sói dẫn đàn ngựa tới.
Bạch mao phong không đổi hướng, tiếp tục lồng lộn từ bắc xuống nam. Trong đêm tối, Batu có thể qua tiếng chân ngựa chạm đất mà đoán được địa hình cao thấp, chất đất mịn thô, để biết mình đang ở đâu và gió chiều nào. Giờ đây lòng như lửa đốt, anh cảm thấy những con sói mẹ mất con còn điên cuồng hơn sói chúa. Bất chấp đang bị đàn sói bao vây, bất chấp con ngựa anh cưỡi có thể bị cắn chết, bị té, quẳng anh xuống đất cho đàn sói xé xác, anh chỉ một ý nghĩ: Phải lái đàn ngựa rời hướng bắc nam, chạy vòng hồ lớn để tập kết chúng tại khu lều Mông Cổ rồi huy động đàn chó và mọi người ra đối phó với đàn sói.
Đàn ngựa chạy theo sánh sáng đền pin, hai mã quan bám sát, luôn miệng gào thét và quất roi tới tấp. Chúng hình như đã có con đầu đàn: Một con ngựa bạch cao lớn tách ra, vươn cổ hí dài, tỏ ý tự nguyện đảm nhiệm vai trò của người hướng đạo. Batu và Xaxưleng vội rọi đèn về phía con ngựa bạch. Có ngựa đầu đàn, đàn ngựa tỏ ra phấn khởi, tinh thần bầy đàn lập tức được khôi phục, thế trận truyền thống tự ngàn đời lập tức được tổ chức để đối phó với bầy sói. Con đầu đàn bỗng phát tiếng hí lệnh, đàn ngựa đang bị sói phá tan đội hình, lập tức co cụm về phía con đầu đàn, vai ken vai, bụng ken bụng đến mức gió thổi không lọt. Hàng trăm cặp vó đồng loạt nện mạnh xuống phía dưới. Lũ sói trở tay không kịp, mất lợi thế, đã có những con bị què
chân, gãy xương sống, vỡ đầu chảy máu. Giờ thì tiếng rú tiếng kêu thảm thiết của sói át cả tiếng gầm gào của bạch mao phong. Batu nhẹ cả người. Anh thấy chí ít có bốn con sói bị chết hoặc bị thương. Anh nhớ nơi này, đợi khi gió tạnh trời quang, anh sẽ trở lại lột lấy da. Đàn ngựa sau khi làm cuộc đại sát giới, nhanh chóng chỉnh đốn đội hình, con yếu vòng trong, con khoẻ vòng ngoài, hình thành cụm phòng ngự với những cú đá hậu như trời giáng bởi những cặp vó đóng cá sắt.
Khoảng cách với hồ lớn không còn xa. Batu rất bằng lòng về đội hình chính qui của đàn ngựa vừa được tổ chức lại. Đó là đội hình có thể hành động theo chỉ huy, chỉ cần điều khiển được con đầu đàn là trong khoảng thời gian ngắn có thể lái đàn ngựa chạy về phía đông của hồ lớn. Nhưng Batu vẫn còn một mối lo: Đàn sói này không bình thường. Không nên đả thương những con sói khùng, vì càng bị đánh chúng càng dữ. Ai cũng biết sói thảo nguyên trả thù ghê gớm như thế nào. chắc chắn đàn sói nghe thấy tiếng kêu thảm thiết của những con sói bị thương ban nãy, đoạn đường sắp qua sẽ đầy nguy hiểm. Batu nhìn lướt đàn ngựa, nhiều con đã bị thương. Đàn ngựa này toàn ngựa tốt, ngựa chiến, vừa đánh nhau với sói, dù bị thương sẽ vẫn chạy theo đàn, không chịu rớt lại để sói có dịp tấn công.
Nhưng đàn ngựa cũng có chỗ yếu chí mạng: Là ngựa thiến nên chúng thiếu tính dũng mãnh chủ động tấn công của con đực. Thảo nguyên Mông Cổ có hơn chục dòng ngựa lớn nhỏ, mỗi dòng có một con đầu đàn, vó bằng, bờm chấm đất, cao hơn những con khác một cái đầu, tướng mạo khôi ngô hùng vĩ. Đó là con đầu đàn, dìu dắt cả đàn và là sát thủ thực thụ. Gặp sói, dưới sự chỉ huy của con đầu đàn, đàn ngựa lập tức quây thành vòng tròn, ngựa cái và ngựa con bên trong, ngựa khoẻ bên ngoài. Con đầu đàn đứng riêng, tấn công trực diện kẻ thù. Nó lắc bờm, khịt mũi, hí vang, hai chân trước chồm lên, đứng bằng hai chân sau sừng sững như quả núi nhỏ trên đầu sói, rồi bổ cặp vó xuống đầu sói bằng cả sức nặng của cơ thể. Nếu sói bỏ chạy, ngựa đầu đàn đuổi theo, đầu cúi gằm, vừa cào vừa cắn. Những con đầu đàn to lớn còn biết ngoạm sói tung lên trời, quật xuống đất rồi giẫm chết. Trên thảo nguyên, sói dữ đến mấy cũng không phải là đối thủ của ngựa đầu đàn. Ngựa dầu đàn bảo vệ đàn ngựa không kể ngày đêm. Khi gặp sói đàn, gặp sấm sét, cháy đồng, ngựa đầu đàn tận tâm bảo vệ dòng họ, biết cách giảm thiểu thương vong, đưa bầy đàn đến nơi an toàn.
Lúc này Batu rất nhớ con ngựa đầu đàn của anh. Con ngựa bạch và đàn ngựa đều là ngựa thiến, khoẻ đấy, nhưng đã mất nam tính, chiến đấu không hăng. Batu nghĩ mà buồn. Mấy năm liền bộ đội chính qui không về tuyển ngựa chiến, mọi người đã quên khuấy sự tai hại của một đàn ngựa chiến mà không có con đầu đàn. Có người đã nghĩ tới, nhưng lại thấy không cần, vì
chỉ vài hôm là đàn ngựa sẽ chuyển đi., mà đã chuyển đi thì chẳng còn chuyện gì liên quan tới mục trường. Tưởng không thể sinh chuyện, ai đè đó chính là điểm yếu cho sói lợi dụng. Batu càng nghĩ càng phục con sói chúa. Có thể nó phát hiện rất sớm đàn ngựa chiến không có con đầu đàn. Batu áp sát tận nơi mới vụt cho con đầu đàn một roi thật mạnh, bắt nó rẽ sang hướng đông, đồng thời xoay khẩu bán tự động ra trước ngực, mở chốt an toàn, nhưng nếu không thật cần thiết thì anh cũng không nổ súng. Đàn ngựa hãy còn là tân binh, nổ súng không những không doạ được sói, mà còn khiến ngựa vỡ đàn. Xaxưleng cũng làm mọi công việc chuẩn bị như Batu. Bạch mao phong ngày càng mạnh, hai người tay đã mỏi dừ, giơ không nổi chiếc thòng lọng dài thượt. Hồ lớn cũng ngày càng gần, bình thường đã có thể ngửi thấy mùi muối. Batu cáu tiết bèn lấy độc trị độc. Anh vụt con ngựa đầu đàn một roi thật mạnh, tiếp theo là tiếng huýt sáo gọi đàn đi uống nước. Con đầu đàn và đàn ngựa rất hiểu ý chủ, hướng nam chính là hồ lớn mà cứ hai ngày một lần chúng đến đó uống nước. Mùa xuân năm nay hạn liên tiếp, nước đã rút xuống giữa hồ, xung quanh là bãi lầy, chỉ còn đôi chỗ đất cứng vì là lối đi của gia súc nên tương đối an toàn, những nơi khác đều nguy hiểm. Từ đầu xuân đến giờ rất nhiều gia súc đã bị sa lầy mà chết. Đàn ngựa đi uống nước, dù là theo chân mã quan, chúng vẫn hết sức dè dặt. Ngay dù ban ngày, không một con ngựa nào dám chạy ào ra đầm lầy.
Tiếng huýt sáo lệnh của Batu quả nhiên linh nghiệm. Đàn ngựa vốn quen thuộc bãi chăn, nhận ra ngay mối nguy đang chờ đợi ở phía nam. Chúng hí vang, cả đàn chỉ dừng lại trong một thoáng rồi tất cả chuyển hướng, liều chết rẽ sang hướng đông nam, mặc cho bão tuyết tạt sườn với sức mạnh khủng khiếp. Phía nam là đầm lầy, phía bắc ngược gió, chỉ còn mỗi phía đông nam là con đường sống, Lũ ngựa mở to cặp mắt thất thần, cắm đầu chạy, thở hồng hộc, không hí lấy một tiếng. Đàn ngựa chạy đua với thần chết trong một tâm trạng kinh hoàng.
Đàn ngựa vừa đổi hướng, tình hình đã đổi khác. Khi chuyển sang hướng đông nam, đội hình ngựa bị hở sườn cho sói công kích. Không còn đội hình ken dày, đá hậu là môn võ sở trường không còn phát huy tác dụng. Gió tạt sườn làm chậm tốc độ - vũ khí chống lại sói của đàn ngựa. Nhưng gió tạt sườn lại giúp sói, như hổ mọc thêm cánh. Thông thường, tốc độ của sói dù xuôi gió hay ngược gió đều nhanh hơn tốc độ của ngựa. Thuận gió, sói chạy nhanh, nhưng ngựa cũng không chậm. Nhưng sói không dám nhảy lên lưng ngựa từ phía sau, vì gặp phải con ngựa tinh khôn tăng tốc đột ngột, sói sẽ rơi vào chân sau của ngựa, không chết cũng bị thương. Muốn đạt kết quả, sói chỉ có thể nhảy tạt ngang, nhưng nếu tạt ngang thì tốc độ của sói bị ảnh hưởng, vồ trúng cũng hoá trượt, giỏi lắm cũng chỉ cào rách da, tỉ lệ cắn chết không đáng kể. Lúc đàn ngựa đổi hướng, tốc độ chựng lại, đã tạo cho sói một cơ
hội vàng, sói nhanh vồ ngựa chậm, sói không cần tạt ngang mà chỉ cần bổ nhào từ trên không xuống lưng ngựa, hàm răng rắn như thép bập một phát vào chỗ chí mạng rồi nhảy trái ra. Ngựa dùng cách lăn đất để rũ sói trên người, nếu là sói độc, một chọi một còn khả dĩ, nếu là sói đàn thi khi ngựa lăn đất, đàn sói bu lại xé tan xác.
Đàn ngựa hí thảm thiết, từng con bị thương một bên eo hoặc một bên ức, máu me vung vãi, thịt da tơi tả, cuộc tàn sát đẫm máu khiến đàn sói càng hung hăng lạ thường. Chúng không kịp ăn, mà chỉ điên cuồng cắn xé. Ngựa bị thương ngày càng nhiều, còn sói thì liên tục tấn công, đợt này tiếp đợt khác. Sói chúa và sói đầu đàn vượt lên trước, chồm lên mình ngựa cắn một miếng ngập răng rồi hai chân sau làm điểm tựa, hai chân trước làm điểm tì, mình cong như cánh cung, dùng sức bật khủng khiếp bứt miếng thịt trên mình ngựa. Con sói nhả miếng thịt còn cả lông ra, lộn ba vòng, rồi nhảy lên, cắn tiếp. Đàn sói theo sau, tranh nhau bắt chước sói chúa và con sói đầu đàn, phát huy đến tận cùng bản năng săn mồi trong huyết quản.
Đàn ngựa thương vong nhiều, máu me vung vãi, tuyết lạnh lại phủ lên, xoá sạch dấu vết. Cảnh tàn khốc tái diễn trên thảo nguyên tàn khốc. Đàn sói ngốn ngấu biết bao sinh linh của thảo nguyên, đời này sang đời khác lưu lại dấu ấn bằng máu.
Dưới ánh đèn pin loang loáng, Batu và Xaxưleng thêm một lần mục kích cảnh tàn sát trên thảo nguyên, nhưng lần này thì lại càng không chịu đựng nổi, vì đây là số ngựa được tuyển mộ cho quân đội. Chúng là những con ngựa chiến nổi tiếng làm vẻ vang cho thảo nguyên Ơlôn, đã bao lần thoát hiểm từ miệng sói, những đứa con cưng được mã quan trong nhiều năm ra công chăm chút. Giương mắt mà nhìn lũ sói cắn xé đàn ngựa, Batu và Xaxưleng khóc không ra tiếng, lửa giận bừng bừng nhưng phải cố nén để đủ tĩnh trí bảo về cho số còn lại. Batu mỗi lúc mỗi lo, bằng vào kinh nghiệm bản thân, anh thấy đàn sói này không bình thường, kẻ cầm đầu của chúng rất mưu mẹo, tính toán, thông thạo vùng Ơlôn. Đó là con sói trắng. Đàn sói này, những con sói đực thì căm thù vì bị cướp mất miếng ăn, những con sói cái thì điên dại vì mất con. Nhưng con sói chúa thì không điên. Nhìn đàn sói ép đàn ngựa chạy về hướng nam, có thể đoán sói chúa định giở trò gì? Nó định dồn đàn ngựa xuống đầm lấy! Đây là chiêu thức quen dùng của sói chúa trên thảo nguyên. Batu càng nghĩ càng hãi. Trước đây anh có lần chứng kiến sói chúa dồn dê vàng xuống đầm lầy, cũng từng thấy sói dồn bò, ngựa xuống đầm lầy, nhưng số lượng không nhiều. Còn như dồn cả một đàn ngựa thì anh chỉ được nghe người già kể lại. Chẳng lẽ đàn sói hôm nay cũng làm thế? Chẳng lẽ chúng ăn gỏi cả một đàn ngựa? Batu không dám nghĩ tiếp.
Batu huơ đèn gọi Xaxưleng. Hai người liều mạng chạy vòng từ tây sang
đông, trực tiếp cản đàn sói, dùng thòng lọng, đèn pin để doạ sói. Sói vốn sợ thòng lọng, sợ ánh đèn chói mắt. Hai người hai ngựa tả xung hữu đột dưới ánh đèn, tạm thời bảo vệ được mạn sườn phía đông của đàn ngựa. Đàn ngựa từ trạng thái kinh hoảng, dần trấn tĩnh lại, nhanh nhẹn điều chỉnh bước chân, tranh thủ chạy về phía đông của đầm lầy. Chúng biết rằng, chỉ cần vòng qua đầm lầy từ phía đông, thuận gió chạy về khu lều nuôi cừu mới đẻ, nơi có rất nhiều căn lều, có nhiều người quen, có nhiều tiếng hò, nhiều ánh sáng chói mắt, lại có những người bạn thân - đàn chó săn. Đàn chó trông thấy sói là choảng liền, cùng với những chủ chó cứu đàn ngựa.
Nhưng sói là thần chiến tranh kiên trì tìm kiếm cơ hội và biết chờ đợi cơ hội trên thảo nguyên. Mỗi khi chộp được một cơ hội, sói quyết không buông, chưa vắt kiệt sức chưa bỏ cuộc. Đang nổi khùng mà có cơ hội như thế này, sói lập tức ăn sống nuốt tươi, không cho con ngựa nào chạy thoát. Đàn ngựa đã chạy đến bãi cỏ ven đầm, vó ngựa cày tuyết trên mặt và cả đất phèn phía dưới, mùi cay xộc lên mắt lên mũi người và ngựa, họ hiểu rằng, đang trên bờ vực thẳm. Xung quanh một màu đen kịt, không nhìn thấy nhưng vẫn cảm nhận được mùi vị của đầm lầy. Người và ngựa bất chấp mắt mũi cay xè tiếp tục chạy. Khi nào không thấy mùi cay bốc lên từ vó ngựa, có nghĩa là đã tới con dốc thoai thoải phía đông đầm lầy. Khi ấy đàn ngựa sẽ tự động chuyển hướng, men theo bờ phía đông, xuôi gió chạy về nam.
Người, ngựa, sói cùng chạy. Sói tạm ngừng tấn công, nhưng Batu vẫn căng thẳng tới mức bàn tay cầm súng ướt đẫm mồ hôi. Kinh nghiệm mười máy năm chăn ngựa đã mách anh, đàn sói sắp sửa phát động cuộc tổng công kích lần cuối, nếu không, sẽ chẳng còn dịp nào khác. Đàn sói quyết không bỏ lỡ một dịp trả thù. Chịu đựng hơi phèn đỏ mặt mũi, chúng chạy mò cùng ngựa một đoạn đường. Chỉ cần đàn ngựa chạy lên dốc là Batu nổ súng, vừa giục ngựa chay nhanh vào đường rẽ, vựa giết sói doạ sói, vừa báo động cho mọi người đến cứu. Batu cố kìm cho tay bớt run, nhằm chỗ sói đông nhất lẩy cò. Xaxưleng cũng làm như anh.
Batu chưa kịp trở tay, đàn ngựa bỗng hí vang, kinh hoảng tột độ. Con ngựa anh cưỡi hình như bị vướng chân. Anh dụi mắt soi đèn lên phía trước. Dưới ánh đèn, mấy con sói gộc chụm vào nhau chạy tới trước ngựa anh. Chúng không sợ ngựa xéo để cản mũi anh. Batu ngoảnh lại nhìn, Xaxưleng cũng đang bị sói chặn hậu. Lũ sói bắt đầu tấn công con ngựa của Xaxưleng. Batu hươ đèn ra hiệu cho Xaxưleng chạy tới bên anh, nhưng con ngựa của cậu ta không nhích nổi một bước. Những con sói luân phiên xốc tới, con ngựa của Xaxưleng mình đầy những vết cào cấu, áo khoác của cậu cũng bị đóp mất vạt dưới. Xaxưleng vứt bỏ thòng lọng giờ đã trở thành vô dụng, dùng đèn pin làm vũ khí vụt ngang vụt dọc, đèn bẹp gí, đầu sói toé khói vẫn
không chặn được chiến thuật luân xa của bầy sói. Một con ngoạm đứt miếng thịt mông con ngựa Xaxưleng đang cưỡi. Con ngựa bất chấp mối hiểm nguy sẽ gây ra cho chủ, cố hí lên một tiếng thảm thiết rồi cắn chặt hàm thiết, chạy tháo thân về hướng tây nam. Xaxưleng không cản nổi con ngựa chưa lâm trận đã bỏ chạy. Lũ sói thấy đã tống khứ được một đối tượng kỳ đà cản mũi, liền quay lại tấn công đàn ngựa.
Lúc này chỉ còn lại Batu và đàn ngựa. Nhóm sói gộc lập tức nhằm vào anh và con ngựa ô của anh. Con ngựa thở phì phì, mắt mở to, giẫm đạp, đá hậu… liều chết chống cự. Batu lâm vào tình trạng vô cùng nguy hiểm. Anh biết có chạy cũng không thoát, chỉ còn cách chống lại. Quẳng cây thòng lọng, anh nhổm người trên cọc yên, rút cây gậy thép giắt dưới đệm, lông dây da ở đầu gậy vào cổ tay, thay hình đổi dạng từ người chăn ngựa thành dũng sĩ Mông Cổ, quyết một trận sống mái với sói. Cây gậy thép dài như thanh đao, là vật báu gia truyền của tổ tiên, một vũ khí dùng để đối phó với sói, do ông Pilich truyền lại cho anh. Thân gậy và chỗ tay cầm to bằng nhau, phần chót nẹp toàn sợi thép dẻo, các kẽ có nhiều vết ố. Đó là máu sói. Lũ sói luân phiên vồ ngựa từ hai bên, do đó anh ở vị trí dễ đánh trúng nhất, vấn đề quan trọng là phải can đảm và độ chính xác đến đâu.
Batu ý đã quyết, anh bặm môi, khẽ chuyển dịch ánh đèn sang bên phải, rồi giơ cây gậy cao quá đầu, nhằm đúng con sói lúc nó đang chững lại, anh giáng một gậy vào răng, bộ phận rắn nhất nhưng cũng yếu nhất, chí mạng nhất của con sói. Con sói nhe nanh múa vuốt nhảy lên đón trúng cây gậy từ trên quật xuống, gãy liền bốn chiếc răng cửa. Nó đã bị Batu giáng cho một đòn choáng váng và về tổn thất thì không gì có thể bù đắp.
Con sói ngã bổ chửng, há cái miệng đầy máu mà gào thảm thiết, giá như nó chết còn đỡ khổ hơn. Trên thảo nguyên mông cổ, hàm răng chính là sinh mạng của sói. Vũ khí lợi hại nhất của sói là bốn chiếc răng cửa của hàm trên hàm dưới, không còn răng thì tất cả những phẩm chất ưu việt và không ưu việt như dũng cảm, kiên cường, tinh khôn, ranh mãnh, tàn bạo, tham lam, tham vọng, dã tâm, chí lớn, sự kiên nhẫn, tính linh hoạt, tính cảnh giác, sức mạnh, dẻo dai đều bằng số không. Trong thế giới của sói, nếu chột một mắt, què một chân, mất hai tai vẫn có thể tồn tại. Nhưng nếu khuyết răng thì về cơ bản đã bị tước đoạt quyền sinh sát - cái quyền đưa nó lên vị trí chúa tể trên thảo nguyên, đẩy sói vào tình cảnh coi miếng ăn bằng trời chứ không phải quyền sinh sát bằng trời. Sói không còn răng coi như sói không có trời, không còn cái thú lớn nhất của loài sói là săn bắt gia súc lớn, không còn đủ sức phòng vệ cuộc tấn công của chó săn và tranh cướp của đồng loại, không còn khả năng xâu xé, ngoạm những miếng to, uống từng ngụm lớn máu tươi con mồi; không còn khả năng bổ sung kịp thời năng lượng cho mình trên
thảo nguyên khốc liệt. Sói sẽ trắng tay, mất sạch nét kiêu hùng và chí lớn, mất sạch địa vị trong bầy sói và sự kính nể của đồng loại, nó chỉ có thể sống một cuộc sống tạm bợ, đắp đổi qua ngày. Cuộc sống có miệng mà không có ăn, giương mắt nhìn đồng loại tàn sát và yến ẩm, thu vào mắt tất cả những gì mà nó không muốn nhìn. Sau đó nó chỉ còn một con đường: cái chết. Chết gầy, chết cóng, chết vì tức giận, chết ấm ức.
Nhìn đàn ngựa bị hạ sát hết con này đến con khác, Batu những muốn dùng phương thức cực độc, cho chúng nếm mùi tàn nhẫn của con người thảo nguyên. Anh nhân lúc chúng chưa kịp có phản ứng, lại nhắm một con quật mạnh cây gậy, nhưng lần này không trúng răng mà đập trúng mũi con sói. Lá mía nát bét, con sói ngã lăn, co rúm như một quả cầu bông. Tuyệt kỹ giết sói của Batu, tiếng rú của hai con sói lớn, khiến lũ sói bâu quanh anh sững lại vì kinh hãi. Chúng không dám chồm lên, nhưng vẫn dám dàn hàng ngang trước đầu ngựa, ngăn anh tiếp cận đàn ngựa.
Batu đánh lui đợt tấn công của lũ sói nhằm vào anh. Nhìn ra anh thấy những con sói lớn đều tập trung phía đông đàn ngựa. Chúng cảm thấy thì giờ gấp gáp, đồng thời cũng thấy đồng bọn phía sau đang núng thế. Cả đàn cất tiếng hú như tiếng gió lướt trên dây điện, đậm mùi chết chóc và kích động. Dưới sự chỉ huy của sói chúa, đàn sói điên khùng đánh canh bạc dốc túi. Chúng sử dụng cách đánh tàn bạo nhất, đẫm máu nhất, không bút mực nào có thể diễn tả là tấn công tự sát, đồng loạt công kích đàn ngựa. Từng con từng con, nhất là những sói cái mất con chồm lên nhằm thóp bụng ngựa là chỗ da mỏng nhất mà đớp, bất kể cái giá phải trả cho nửa thân sau treo lủng lẳng dưới mình ngựa, dùng sức nặng nửa dưới cơ thể xé toạc mình ngựa. Đó là một tư thế nguy hiểm cho cả sói lẫn ngựa. Với sói, treo dưới bụng ngựa cầm bằng treo cổ dưới cây thập giá, ngựa chạy, nửa mình sói rơi vào nửa thân sau của ngựa, con ngựa muốn thoát thân cứ thế mà đá hậu như điên, trúng một cú là tan xương nát thịt. Chỉ những con sói lớn, răng sắc mới không cần mượn sức. Răng sắc, cơ thể nặng, chúng cắn rách bụng ngựa rồi nhảy xuống để bảo toàn mạng sống. Tuyệt chiêu này rất nguy hiểm cho ngựa, không rũ được sói thì ngựa rớt đàn vì đeo nặng rồi chết vì bị sói bổ vây; nếu đá trúng con sói thì hoá ra giúp sói giật mạnh vết cắn, rách bụng tự dẫn đến tử vong.
Đàn ngựa bị giết và đàn sói tự sát đều trong trạng thái tuyệt vọng, chúng run như giẽ.
Những con sói bị thương hoặc bị đá văng ra từ chân ngựa, hầu hết là sói cái. Chúng nhẹ hơn sói đực. Nếu chỉ trông vào sức nặng cơ thể thì khó mà xé rách bụng ngựa, chỉ còn cách liều mạng mượn sức ngựa. Những con sói cái đúng là liều mạng chỉ nghĩ đến trả thù, coi cái chết như không, can đảm đến
thế là cùng. Chúng sẵn sàng tan xương nát thịt, chết cùng đàn ngựa.
Một con sói đói bị đá văng khỏi mình ngựa, bụng rách toác, gào thảm thiết. Vậy mà nó còn nhổm dậy lết bằng hai chân trước tới bên con ngựa ngã xuống nhưng chưa chết, ngoạm luôn một miếng. Nó không bỏ qua cơ hội cuối cùng. Chỉ cần còn miệng, còn răng thì dù không còn cái bụng con sói vẫn ăn, miếng thịt ngựa trôi qua họng rồi truồi ra ngoài, con sói không còn bụng làm cữ là con sói tham ăn nhất, ăn nhiều nhất, và chắc chắn nó là con sói ăn nhiều thịt ngựa nhất trong một bữa ăn tàn bạo cuối cùng của cuộc đời. Những con ngựa bị sói xé rách bụng vốn no căng, dạ dày chứa toàn cỏ non năm nay và cỏ thu năm ngoái, thuỷ phần đầy đủ nên rất nặng, một khi bụng rách, dạ dày và ruột lập tức văng ra ngoài, lòng thòng trên tuyết. Hai chân sau của ngựa vẫn chạy theo quán tính giẫm rách dạ dày, cuốn ruột vào chân, chỉ nháy mắt dạ dày vỡ toạc, thức ăn tung toé, ruột gan nát bét. Vậy mà con ngựa sợ đến mất trí vẫn lồng lên, cuốn vào chân sau tất cả nội tạng: dạ dày và ruột, cuối cùng đến tim phổi, khí quản đều bị lôi hết ra. Con ngựa chết vì chính nó giẫm lên gan ruột của nó, có thể tự giẫm phải mật, chết vì vỡ mật; có thể tự dẫm phải tim, chết vì vỡ tim; có thể tự dẫm bẹp phổi, chết vì nghẹt thở. Tự sát của sói vô cùng đau đớn và tàn khốc, do vậy sói không cho đối thủ được chết thanh thản, bắt đối thủ nếm trải nỗi kinh hoàng của tự sát Ngựa bị sói giết, nhưng một nửa cái chết của ngựa là tự sát. Cái chết của ngựa càng đau đớn càng oan khuất càng thê thảm.
Cuộc tấn công tự sát cuối cùng của đàn sói, đập tan sự chống trả có tổ chức của đàn ngựa, thảo nguyên trở thành chiến trường, những con ngựa tự dẫm lên gan ruột đang giẫy chết, khoang bụng khoang ngực vẫn nóng hôi hổi, chỉ một thoáng đã lạnh ngắt vì tuyết lọt vào. Những con khác lần lượt ngã xuống, không ngừng co giật, máu phun có vòi, nhuốm đỏ những bông tuyết bay qua. Hàng triệu viên tuyết hòn nhuốm đỏ đuổi theo những con ngựa kinh hoàng thất thố mà bỏ chạy. Bão tuyết càng mạnh lên, tiếp tục rượt theo đàn ngựa đến hơi thở cuối cùng.
Batu đứng như trời trồng trước cảnh báo thù tự sát của bầy sói, chân tay run bắn, mồ hôi trên người cũng đã đóng băng. Anh biết đại sự đã hỏng, không thể cứu vãn, nhưng anh vẫn muốn cố giữ lại vài con đầu đàn, bèn gò cương cho ngựa lấy đà rồi thúc ngựa bằng gót ủng, nhả cương cho con ngựa ô vọt qua đầu lũ sói chặn đường, lướt tới con ngựa đầu đàn. Nhưng đàn ngựa đã bị sói quần cho tơi tả, binh bại như núi lở, toàn bộ số ngựa còn lại chạy xuôi gió tháo thân, nhanh như tên bắn, quên phắt phía nam là đầm lầy.
Con dốc xuôi về phía đầm lầy, thành ra đàn ngựa tăng tốc tự nhiên, bạch mao phong càng mạnh, đẩy sau lưng với sức mạnh khủng khiếp, đàn ngựa như vừa bay vừa chạy, ào ào núi lở đá lăn, lao tuột xuống đầm lầy. Tức thì
băng mỏng vỡ vụn, bùn lầy tung toé, đàn ngựa đã sa xuống đầm. Chúng tuyệt vọng hí vang, giãy giụa điên cuồng mong thoát hiểm. Ngựa khiếp đảm trước hành động phục thù mang tính khủng bố của bầy sói, do dự một lát, rồi ra sức trườn vào nơi sâu hơn, thà chết đuối còn hơn rơi vào miệng sói, không cho kẻ thù truyền kiếp vớ bở. Những con ngựa đã bị con người diệt mất nam tính này khi cận kề cái chết đã vùng lên phản kháng lần cuối, lấy tự sát tập thể đối phó với tấn công tự sát của bầy sói. Chúng là những sinh mệnh mạnh mẽ nhất trên thảo nguyên.
Nhưng thảo nguyên tàn nhẫn coi khinh và không hề thương xót kẻ yếu. Khí ôn về đêm đã mau chóng kết thành một lớp băng mỏng trên mặt đầm, ven đầm tuy đông cứng, nhưng bên trong đầm vẫn lút một phần chiều cao của ngựa. Khi đàn ngựa lao xuống đã đụng lớp bùn đặc quánh so với lúc thường, bão tuyết và giá lạnh càng làm cho bùn đặc như keo níu chân đàn ngựa. Đàn ngựa ra sức trườn, miết, gồng mình lên mà bò, nhưng sau mỗi cử động, gió lại lùa tuyết vào khe hở giữa thân ngựa và đất bùn nhiều hơn, cuối cùng đàn ngựa kiệt sức, không cử động gì nữa. Con ngựa đầu tiên xông vào vẫn hở đầu, hở cổ, hở lưng, không lún sâu thêm. Những con phía sau thì mới lút bốn chân, mình vẫn trên mặt bùn. Lúc này đàn ngựa y hệt những tử tù trên pháp trường, băng tuyết trên mình như trói kiểu ngũ hoa, muốn chết mà không chết cho, hí thảm thiết, hơi phả ra như sương bám trên mặt lông. Đàn ngựa hiểu giờ đây không ai cứu nổi chúng, không ai cản được cuộc tàn sát tập thể đối với chúng.
Batu điều khiển con ngựa ô thận trọng tiến vào ven đầm. Chân vừa chạm bùn, con ngựa khịt khịt mũi, cúi thấp nhìn mặt đầm băng tuyết, không dám bước tiếp. Batu rọi đèn vào bên trong, trong tíc tắc tuyết ngừng rơi, anh nhìn thấy bóng dáng đàn ngựa. Vài con cố lúc lắc cái đầu kêu cứu về phía chủ. Batu thúc ngựa tiến lên, con ngựa dụt dè bước lên năm sáu bước rồi hoảng hốt nhảy giật lùi cho đến khi gặp đất cứng mới dừng lại. Batu vụt con ngựa một roi vào mông, nó vẫn ỳ ra không chịu tiến. Anh định bỏ ngựa, tiếp cận đàn ngựa rồi bảo vệ chúng bằng súng. Nhưng nếu không cưỡi ngựa mà gặp sói thì mất lợi thế từ trên đánh xuống, đàn sói sẽ không sợ anh, cả người lẫn ngựa sẽ bị xé xác. Với lại, anh chỉ có mười viên đạn, bản lĩnh bằng trời thì cũng chỉ mỗi phát một con, không thể bắn chết hết. Mà dù anh có đuổi được đàn sói đi, thì chỉ qua nửa đêm bạch mao phong càng lạnh, sẽ đóng băng toàn bộ đàn ngựa dưới đầm lầy. Còn nếu như anh chạy về đại đội bộ cầu cứu thì đang lúc bão to như thế này, nhà nhà đang dốc sức bảo vệ đàn cừu, đại đội không thể điều lao động và xe đi cứu. Batu băng bám trên mặt, anh ngoảnh về phía đông, khấn: Lạy trời, lạy ông trời trường sinh bất tử! Hãy cho con trí tuệ, hãy cho con sức khoẻ như thần, hãy giúp con cứu lấy đàn sói! Nhưng ông Trời phồng mang mà thổi cho bạch mao phong át đi lời
thỉnh cầu của anh.
Batu dùng bao tay bằng da cừu non lau nước mắt, lồng dây gậy vào cổ tay, sau đó anh gỡ quai, cầm súng trong tay cùng đèn pin, đứng đợi đàn sói. Lúc này, trong đầu anh chỉ một ý nghĩ: phải giết thêm mấy con nữa!
Sau đó một lúc Batu rét đến nỗi không thể ngồi vững trên yên. Bất chợt đàn sói lướt bên anh mà xuống đầm như một làn khói đen, chúng dừng lại ở rìa phía đông, làm tung lên một đám tuyết trắng. Một con sói nhỏ dáng thanh mảnh tách ra, thận trọng bò về phía đàn ngựa, thăm dò độ cứng của đất dưới chân. Batu thấy con sói nhỏ, không bắn. Con sói bò một quãng ngắn rồi chạy gằn về phía đàn ngựa, nó chưa đến nơi thì một cơn lốc hình thành từ mép đầm di chuyển về phía nó, đất trời nhập làm một, trắng xoá, cảnh tượng như bộ tộc bán khai tóc tai bù xù nhảy múa quanh đống lửa, người và gia súc bị làm vật hiến tế.
Batu không mở được mắt vì tuyết hòn. Anh cảm thấy rất lạnh, run cầm cập. Con ngựa ô khứu giác cực nhậy của anh đã bị nhiễm lạnh, run lẩy bẩy, cất tiếng hí đứt quãng. Đêm đen nặng nề, tuyết đầy trời, lại một lần nữa xoá sạch dấu vết cuộc thảm sát trên thảo nguyên.
Batu lạnh cứng người, anh lóng ngóng tắt đèn pin để bản thân anh chìm hẳn trong bóng tối, rối chĩa súng rất thấp về phía đầm lầy, nhưng sau đó đột nhiên anh nâng đầu nòng cao hơn nửa mét, lẩy ba phát: đoàng, đoàng, đoàng!
Chương 6
Vũ khí của Đột Quyết có cung tên, minh đích tiên bắn đi phát ra tiếng kêu gặp thương đao kiếm. Chốp cán có gắn đầu sói bằng vàng. Lính thị vệ gọi là Phụ Ly, tiếng Đột Quyết nghĩa là sói. Do sói sinh ra nên không quên gốc.
"Chu Thư. Đột Quyết"
Batu được Saxuleng tìm thấy trong một cái chuồng cừu cũ ở phía nam đầm lầy sau khi bão về một đêm và sáng hôm sau. Khi ấy anh đã bị thương đi không nổi, sắp chết vì lạnh. Saxuleng vực Batu lên con ngựa bị thương của cậu, đưa Batu về nhà. Để tổ điều tra nắm được đầu đuôi sự việc, Batu gượng đau cùng đến hiện trường. Hai mã quan kia tuy thương tích đầy mình, vẫn bị tạm giam để điều tra.
Trần Trận đi sau ông Pilich, cuối đoàn. Cậu hỏi nhỏ: Bố, trên sẽ xử lý thế nào về anh Batu?
Ông già dùng bao tay gạt sương trên bộ râu dê lưa thưa, cặp mắt đồng tử màu hổ phách ẩn chứa một tình cảm phức tạp. Ông không ngoảnh lại, mắt vẫn nhìn ra dãy núi xa xa, nói: Thanh niên trí thức các cậu thấy cần kỷ luật nó hay sao? - Quay lại, ông bổ sung một câu - ban quản lý mục trường và đại diện quân đội rất coi trọng ý kiến của các cậu. Mời các cậu đi cùng là để các cậu cho ý kiến.
Trần Trận nói: Batu là một hảo hán, anh ấy vì đàn ngựa mà suýt mất mạng, tiếc rằng anh không gặp may. Con thấy cứu được đàn ngựa hay không thì anh Batu vẫn là anh hùng thảo nguyên. Con ở với bố một năm, Batu là anh cả của con. Con hiểu thái độ của Bao Thuận Quý, ý kiến của con chẳng có ý nghĩa gì, sẽ không được coi trọng. Với lại các thanh niên trí thức cũng không thống nhất ý kiến. Con nghĩ, bố là đại biểu mục dân nghèo, lại là Ủy Viên Ủy ban cách mạng, mọi người đều nghe bố, bố nói thế nào, chúng con sẽ nói như thế.
- Những thanh niên trí thức khác nói gì? - Ông già hỏi.
- Các thanh niên trí thức đội con đều nhận xét tốt về anh Batu. Đợt bão tuyết sói này khủng khiếp quá, ai rơi vào hoàn cảnh ấy cũng thế thôi. Không thể kỷ luật anh Batu! Vậy mà có người bảo, có kẻ lợi dụng thiên tai để phá hoại, chống quân đội, chống cách mạng, nhất định phải điều tra thành phần xuất thân bốn mã quan!
Sắc mặt ông già càng u ám, ông không hỏi nữa.
Đoàn người vòng qua phía đông đầm lấy tới địa điểm Batu nổ súng lần cuối. Trần Trận cố trấn tĩnh, cậu chuẩn bị tinh thần mục kích cảnh tàn sát
đẫm máu.
Vậy mà không trông thấy giọt máu nào. Tuyết dày hơn thước đã phủ kín tất cả những gì đêm trước đã diễn ra, chí ít là đầu những con ngựa mà cũng không thấy. Mặt đầm lổn nhổn những mô tuyết, giữa các mô là tuyết dày, sau mỗi mô là một đuôi tuyết dài do gió tạo nên, giấu đi những xác ngựa lẽ ra rất nổi bật. Mọi người lặng nhìn, không ai xuống ngựa, không người nào muốn vén tấm chăn tuyết, chỉ đứng đó tưởng tượng sự việc đã diễn ra.
Tiếc quá - Ông Pilich mở miệng đầu tiên. Ông giơ roi chỉ bờ đầm phía đông - Các vị xem, chỉ chạy thêm một quãng ngắn nửa là không việc gì. Batu dẫn được đàn ngựa từ Bãi Bắc về đây quả không dễ. Bão to sói đông cứ cho là người không sợ, nhưng con ngựa có sợ không? Batu từ đầu chí cuối bám đàn ngựa quyết tử với lũ sói. Nó đã làm tròn trách nhiệm.
Ông già không câu nệ, thanh mình cho con trai.
Trần Trận lại gần Bao Thuận Quý, nói: Vì tài sản của tập thể mà Batu đã chiến đấu suốt đêm với sói. Nên báo cáo lên trên sự tích anh hùng này. Bao Thuận Quý trừng mắt quát: Gì mà anh hùng! Anh ta bảo vệ được đàn ngựa thì mới là anh hùng - Quay lại, ông ta giận dữ bảo Batu - Tại sao hôm ấy cho ngựa ăn cỏ ở Bãi Bắc? Chăn ngựa bấy nhiêu năm, chẳng lẽ anh không biết hể nổi gió bắc là đàn ngựa chạy xuống đầm lầy? Trách nhiệm lớn nhất của anh là ở điểm này.
Saxuleng dập đầu vào bụng ngựa, ngẩng lên cãi: Đó là bãi chăn do bản quản lý chỉ định, còn nói rằng ở đó còn nhiều cỏ thu và cỏ xuân thì đã mọc mầm. Những con ngựa chiến đi xa, cần được ăn uống tốt, béo lên một chút để các kỵ binh dân quân vui vẻ tiếp nhận. Tôi còn nhớ anh Batu hôm ấy nói tại hội nghị "Năm khâu cách mạng, đẩy mạnh sản xuất", rằng chăn ở Bãi Bắc không an toàn. Nhưng ban quản lý bảo, mùa xuân phần lớn là gió tây bắc. Ai ngờ lại có gió bắc? Ông cũng đồng ý với ban quản lý, vậy sao khi sinh chuyện ông lại đổ hết cho Batu?
Mấy ông trong ban quản lý không nói gì. Trưởng bãi Ulichi đằng hắng một tiếng, nói: Saxuleng nói đúng, quả là có chuyện ấy. Mọi người ai cũng có tâm, muốn đàn ngựa béo khoẻ, góp chút công sức cho cuộc chiến. Ai ngờ lại xảy ra cơn bão, lại là bạch mao phong, lại thêm đàn sói, trăm năm mới gặp một lần. Tôi là người nắm sản xuất, tôi xin chịu trách nhiệm trong chuyện này.
Bao Thuận Quý giơ roi chỉ vào mũi Saxuleng, nói: Trách nhiệm của anh cũng không nhỏ. Ông Pilich nói đúng, chỉ chạy một quãng nữa là thoát nạn, nếu ba anh không bỏ chạy mà cùng Batu dồn đàn ngựa thì không đến nỗi sinh chuyện.
Ông Pilich dùng cây gậy dằn cây roi của Bao Thuận Quý xuống thấp,
nghiêm mặt nói: Thưa ông đại diện quân đội, ông tuy là người Mông nông nghiệp, nhưng cũng nên hiểu phong tục của người Mông du mục. Trên thảo nguyên chúng tôi, không cho phép chỉ roi vào mũi người khác khi nói. Chỉ có bọn vua chúa, bọn Đaichi, bọn chủ bãi chăn thả mới làm như thế. Không tin, ông đi hỏi thủ trưởng phân khu. Đợt kiểm tra sắp tới ông ấy về đây, tôi và ông sẽ hỏi.
Bao Thuận Quý chuyển roi ngựa sang tay trái, chỉ ngón trỏ vào mặt Saxuleng, quát: Còn anh nữa, sao không xuống ngựa xúc tuyết? Xúc đi chứ! Tôi cần kiểm tra từng cái xác, để xem sói lợi hại đến mức nào mà tất cả đều đổ lên đầu chúng? Mao Chủ Tịch đã dạy: Nhân tố con người quyết định tất cả!
Mọi người xuống ngựa, cầm lấy xẻng gỗ, xẻng sắt và chổi tre, bắt đầu dọn tuyết. Bao Thuận Quý vẫn ngồi trên yên, lấy máy ảnh Hải Âu ra chụp làm tư liệu, miệng sa sả: Dọn sạch, dọn hết! Vài hôm nữa, tổ điều tra quân sự Minh và Kỳ (cấp huyện) cũng về điều tra tiếp.
Trần Trận cùng các ông Ulichi, Pilich và Batu lội sâu vào tận trong cùng, băng phía dưới chưa tan, tuyết phía trên kêu lạo xạo dưới chân. Ông già Pilich nói, chỉ cần xem con ngựa trong cùng có bị sói ăn thịt không, sẽ biết đàn sói lợi hại đến mức nào!
Trần Trận vội hỏi vì sao.
Ông Ulichi nói: Cậu thử nghĩ mà xem, vì rằng càng vào sâu bên trong càng nguy hiểm, sói cũng biết thế. Vậy nếu con ngựa này cũng bị cắn chết, thì đúng là đàn sói vô cùng nguy hiểm.
Ông già ngoảnh lại bảo Batu: Có bắn cũng chẳng ăn thua!
Batu nhăn nhó khổ sở: Con đem theo có mười viên đạn, chỉ một lúc là hết nhẵn. Bạch mao phong át hết tiếng súng. Sói sợ bỏ chạy, nhưng khi thấy hết đạn, chúng liền quay lại. Trời tối, đèn lại sắp hết pin, con nâng tầm bắn cao lên một thước.
- Khi ấy đâu có nghĩ dài dòng - Batu dùng ngón tay ấn nhệ vết thương trên mặt, nói - Trời tối mà tuyết thì lớn, chỉ sợ bắn phải ngựa. Con cầu trời tạnh gió, đầm không đóng băng, sói không ra được, ngựa sẽ sống sót một số. Con nhớ là đã nâng đầu nòng lên một thước.
Ông già Pilich và Ulichi thở dài nhẹ nhõm.
Đến bên mô tuyết trong cùng, Batu do dự một thoáng, rồi nhanh nhẹn xúc sạch tuyết ở chỗ đầu con ngựa. Mội người lập tức bị sốc. Con ngựa bạch to lớn bị cắn đứt một nửa cổ, đầu ngật ra phía lưng, mắt lồi hẳn ra ngoài như quả trứng muối bóc vỏ, trong suốt. Sự sợ hãi tột độ còn hằn trên khuôn mặt ngựa. Thật kinh khủng! Tuyết dưới đầu ngựa đã đóng băng, thấm máu tươi, xẻng xúc không vỡ. Mọi người hì hục xúc và quét, hai thân ngựa lộ ra. Trần
Trận có cảm giác đây không phải là những vết cắn, mà như một quả tạc đạn nổ trong bụng, hai bên sườn vỡ toạc, ruột gan văng ra ngoài xa vài mét, một nửa mông không còn, xương lộ ra trắng hếu. Rải rác trên tuyết những đoạn xương, những mảnh da và lông. Sói chỉ ăn tim gan và một ít thịt bắp. Con ngựa chỉ là đối tác cho sót trút cơn giận. Trần Trận nghĩ, hình phạt phanh thây đối với con người phải chăng học từ sói? Hay là phần thú tính của nhân tính cùng một nguồn gốc với chất sói trong thú tính? Trong các cuộc đấu tranh trong lịch sử nhân loại, quả thật người ta đã áp dụng luật sói đối với nhau. Mục kích cuộc tàn sát quy mô lớn của sói, thú tính trong con người Trần Trận cũng nổi dậy, cậu tiếc không chộp ngay được một con sói để lột da, cắt gân cho hả giận! Chẳng lẽ người đánh bạn với sói lâu ngày sẽ biến thành sói? Hoặc con người ngày càng nhiễm chất thú!
Mọi người lặng nhìn. Trần Trận cảm thấy chân tay lạnh thấy xương! Ông già Pilich hai tay tì lên cán xẻng, vẻ đăm chiêu, nói: Có lẽ đây là đàn sói nếu không đông nhất nhì thì cũng đông thứ ba tôi thấy trong đời. Con đầu đàn mà bị cắn xé đến như thế này, thì những con khác tôi không cần xem nữa, đảm bảo không còn con nào nguyên vẹn.
Ulichi mặt sa sầm, thở dài: Con ngựa này tôi cưỡi hai năm, bắt được ba con sói. Nó chạy nhanh nhất nhì trong đàn. Năm xưa tôi là đại đội trưởng kỵ binh đem quân đi tiễu phi, chưa khi nào được cưỡi con ngựa nào hay như nó. Chiến lược chiến thuật của đàn sói này còn hay hơn cả bọn phỉ họ Mã năm xưa. Chúng triệt để lợi dụng bạch mao phong và đầm lầy khiến ta cảm thấy con ngựa lười suy nghĩ. Nếu tôi thông minh hơn sói một chút thì con ngựa này không chết. Để xảy ra chuyện này, tôi xin chịu trách nhiệm, giá khi ấy tôi khuyên lão Bao một câu thì đâu đến nỗi!
Trần Trận vừa nghe chuyện hai ông già, vừa nghĩ chuyện của mình ở Trung Quốc, người ta thường coi hổ bảo sài lang là mãnh thú. Nhưng hổ báo là loại thú hiếm, không sống theo bầy đàn, chuyện về chúng không nhiều. Còn sài lang (sói) thì tương đối phổ biến, đâu cũng có. Chúng sống thành đàn, có nhiều chuyện động trời. Sói là loại thú dữ uy hiếp con người lớn nhất, nhiều nhất, lập lại nhiều lần nhất. Trên thảo nguyên, sói là thiên địch lớn nhất của người, ngựa, bò, cừu. Vậy vì lẽ gì các tộc trên thảo nguyên lại sùng bái sói? Trần Trận rút lại lập trường mà gần đây cậu mới xác lập.
Bãi tha ma đã dọn được quá nửa, mặt đầm thây ngựa ngổn ngang, máu loang tuyết trắng đỏ ngầu, chẳng khác mặt trăn bị bom đạn cày đi xới lại. Những sinh mệnh đầy sức sống chuẩn bị ra trận bị phạt ngang, biến thành mồi cho pháo đạn. Cảnh tượng thê thảm của từng con, cùng một dạng với con ngựa bạch. Xác ngựa dầy đặc, xương cốt chân cẳng lẫn lộn, chỉ căn cứ vào cái đầu và màu lông để đếm. Hai mã quan ngồi xổm trên băng, dùng bao tay và cả vạt áo khoác lau mặt ngựa, vừa lau vừa khóc. Mọi người thẩn thờ
vì thảm cảnh trước mặt. Trần Trận và mấy thanh niên trí thức Bắc Kinh chưa bao giờ mục kích cảnh tàn sát tập thể dã man kiểu này, nên cứ đứng nhìn nhau, không thốt được lời nào. Phản ứng đầu tiên của đám thanh niên trí thức là, người nào trong chúng ta gặp đàn sói này, thì có bị phanh thây như đàn ngựa không?
Trước mắt Trần Trận hiện ra cảnh thảm sát Nam Kinh, qua tính cách của sói, cậu nhìn thấy tính chất phát xít của bọn giặt Nhật. Cơ thể cậu phản ứng dữ dội: Kinh tởm, phẫn nộ, buồn nôn, muốn nguyền rủa, muốn giết hết lũ sói. Một lần nữa, cậu buột miệng nói trước mặt ông già Pilich: Loài sói dã man quá! Dã man hơn cả bọn phát xít Nhật! Phải xé xác chúng mới hả giận!
Ông già nhìn Trần Trận, mặt như chằm đổ nhưng giọng nói thì chắc nịch: Tính phát xít của Nhật Bản là có từ trong máu, không phải học từ sói. Tôi đã đánh Nhật tôi biết, Nhật không có thảo nguyên lớn, không có đàn sói lớn. Người Nhật thấy sói bao giờ chưa? Vậy mà chúng giết người như ngoé? Tôi dẫn đường cho Hồng quân Liên Xô, đã từng thấy những việc lầm của người Nhật. Đường Thạch Tử là con đường từ mục trường ta đi Cát Lâm, Đông Bắc, riêng sửa đường đã chết bao nhiêu người? Xương trắng đầy hai bên đường, mỗi hố to chất đống mười mấy sinh mạng, một nửa là người Hán, một nửa là người Mông.
Ulichi nói: Chuyện này cũng không nên chỉ quy tội cho sói. Con người cướp hết lương thực cứu đói của sói, bắt đi bao nhiêu sói con, làm sao nó không trả thủ? Có trách là trách chúng ta không trông nom đàn ngựa cẩn thận. Sói rất ham sống, nếu không cùng đường, sói không cắn người. Người có chó, có súng, có thòng lọng. Trên thảo nguyên sói sợ người, đa phần sói bị người giết. Còn giặc Nhật thì sao? Trung Quốc chúng ta chưa bao giờ xâm lược họ, còn giúp họ nhiều chuyện, vậy mà họ giết người Trung Quốc như ngoé!
Ông già Pilich rõ ràng là không bằng lòng, lườm Trần Trận, nói: Người Hán ngồi không vững trên yên ngựa, ngồi đã không vững thì khi bị vấp dễ lộn cổ xuống đất.
Trần Trận rất ít khi bị ông già mắng. Lời ông khiến đầu óc cậu sáng ra. Cậu hiểu ý tứ trong câu nói của ông. Cậu nhận thấy tôtem sói ngự trong ông già vững vàng hơn kỵ sĩ Mông Cổ ngồi trên lưng ngựa. Các dân tộc thảo nguyên qua ngàn năm vật đổi sao dời, nhưng tôtem sói thì nghiễm nhiên tồn tại cho đến bây giờ, không dao động mảy may vì cái chết của bảy tám chục con ngựa chiến. Trần Trận chợt nhớ lại những câu: Hoàng Hà trăm hai, không lai một giầu", "Hoàng Hà vỡ đê, người biến thành cá", "Hoàng Hà sông Mẹ", "Hoàng Hà - cái nôi của dân tộc Trung Hoa". Dân tộc Trung Hoa không vì Hoàng Hà gây trăm hại mà không gọi bằng "Mẹ". Thì ra, trăm họa
có thể song hành với Mẹ. Tôtem sói của dân Mông Cổ cũng được coi trọng như "sông Mẹ" của dân tộc Trung Hoa.
Bao Thuận Quý cũng không nhăn nhó nữa. Ông ta vẫn ngồi trên mình ngựa để quan sát hiện trường rõ ràng hơn. Ông ta không hề nghĩ rằng sói Mông Cổ lại tàn bạo đến như vậy, cũng không nghĩ rằng đàn ngựa đông như thế mà vẫn bị sói xơi tái. Ông ta ngạc nhiên từ đầu đến cuối. Trần Trận trông thấy ông ta run run khi cầm máy ảnh, ông ta liên tục đổi cách cầm mới không bị rơi.
Ông già Pilich và ông Ulichi xúc tuyết bên một lô xác ngựa ở giữa đầm, hai ông đào bới như đang tìm cái gì ở đó. Trần Trận vội đến đào giúp. Cậu hỏi ông già Pilich: Bố tìm cái gì thế? Ông già trả lời: Tìm đường đi của sói. Kìa cậu, xúc nhẹ thôi! Trần Trận cẩn thận lựa chỗ đặt chân rồi cúi xuống quan sát. Lát sau ba người đã tìm ra con đường của sói - con đường tuyết dày bốn lóng tay, rất rắn, được hình thành trên mặt bùn nhão. Quét sạch lớp tuyết xốp mới phủ bên trên thì thấy dấu chân sói, to thì như chân bê, nhỏ như chân chó gộc. Mỗi dấu để lại vết lõm, có vết còn vương máu ngựa.
Ông Ulichi và ông già Pilich gọi mọi người lại, tập trung quét sạch con đường sói. Ông bảo, quét sạch tuyết sẽ đoán được đàn sói lớn hay nhỏ. Quét được một lúc, mọi người nhận thấy đường sói không thẳng mà cong, quét tiếp lại thấy đó là đường cánh cung, quét hơn một giờ, thì ra nó là một đường tròn, một đường tròn bằng tuyết rắn, trong tuyết có máu, mặt đường cao hơn mặt bùn một cạnh bàn tay, băng thấm máu tươi khiến người kinh hãi, y như con đường dẫn xuống âm phủ, như một đồ thị đầy những ký hiệu quái quỉ. Đường rộng hơn mét, chu vi năm sáu chục mét, bên trong tập trung rất nhiều xác ngựa. Mặt đường dày đặc những dấu chân sói vấy máu. Mọi người sợ run, bàn tán sôi nổi:
- Tôi ngần này tuổi đầu chưa bao giờ thấy dấu chân sói to như thế? - Đâu phải sói, yêu quái thì có!
- Đông khiếp!
- Ít nhất cũng bốn năm chục con. Batu bợm thật! Một mình mà dám chơi đàn sói này. Phải tôi thì đã ngã ngựa, làm mồi cho sói rồi!
- Đêm ấy tối trời mà tuyết thì lớn, cháu chẳng nhìn thấy gì, đâu biết đàn sói đông như thế.
- Rồi ta sẽ gặp nhiều rắc rối đây!
- Đám con gái còn dám đi đêm nữa không?
- Các ông trên mục trường bộ thiển cận quá, cướp sạch thức ăn dự trữ cứu đói của sói, khiến chúng nổi khùng. Tôi mà là sói, tôi chén sạch gà lợn của các vị ấy.
- Ông nào dở thế không biết. Đào bắt bao nhiêu là sói con, hèn gì chúng chẳng nổi điên? Những năm trước bắt ít, đàn ngựa có sao đâu! - Ban quản lý cũng nên làm vài việc nghiêm chỉnh. Phải tố chức diệt sói. Cứ đà này, sói sẽ ăn thịt người!
- Bớt họp đi, tập trung vào những việc thiết thực.
- Tình hình này thì đàn gia súc không đủ cho sói tráng miệng. - Lãnh đạo mục trường có một số xuất thân nông nghiệp, làm toàn những chuyện thất đức nên Trời sai sói xuống cho một bài học.
- Đừng có phát ngôn bừa bãi! Có muốn đấu tố không?
.......
Bao Thuận Quý cùng Ulichi và ông già Pilich quan sát, chụp ảnh con đường của sói, chốc chốc lại trao đổi ý kiến. Nét mặt cau cau của ông, Bao Thuận Quý bắt đầu giãn ra. Trần Trận đoán ông già đã tác động được vào "nhân tố con người quan trọng nhất" của ông ta. Tai họa cỡ này, con người làm sao chống lại? Tổ nào về điều tra cũng vậy thôi, nhìn hiện trường là thấy sức người khó mà đối phó, nhất là với bầy sói ranh ma quỷ quyệt lợi dụng bạch mao phong tấn công về đêm.
Trần Trận thấy đỡ lo cho ông già Pilich và ông Ulichi.
Trần Trận bắt đầu suy nghĩ về con đường của sói, một đường tròn ma quái khiến người rợn tóc gáy. Nó như xiết từng vòng quanh ngực cậu, vòng sau chặt hơn vòng trước, khiến cậu tức thở. Vì sao lũ sói chạy một đường tròn như vậy? Động cơ nào? Mục đích gì? Hành vi của sói thảo nguyên người ta không hiểu. Mỗi dấu vết của sói để lại thường là câu hỏi hóc búa.
Chống lạnh ư? Để cho nóng người lên? Có thể như thế. Bởi vì đêm ấy có bạch mao phong, lạnh ghê gớm. Đàn sói đang chạy đường dài mà đột ngột dừng lại, chắc không chịu nổi rét, nên sau khi ăn no, chúng chạy cho nóng người lên.
Giúp tiêu hóa chăng? Tiêu hao năng lượng để có thể ăn thêm. Cũng có thể. Bởi vì sói không phải loài chuột. Chuột biết tích trữ lương thực trong hang. Sói không biết để dành, muốn sử dụng thức ăn được nhiều hơn, sói chỉ mỗi cách nhồi nhét, sau đó chạy để tiêu hóa nhanh thức ăn, tăng nội dưỡng, tạo ra chỗ trống trong dạ dày để rồi nhồi tiếp. Nhưng đó phải là loại dạ dày sắt thép, đàn hồi, cao su, hoặc là không có manh tràng (ruột thừa) nên không sợ viêm. Nếu vậy thì đáng sợ.
Hay là chúng duyệt binh, chuẩn bị cho trận đánh tiếp? Hay là chúng điểm quân? Cũng có thể. Xem dấu chân ta thấy sói rất có ý thức tổ chức kỷ luật. Con đường chỗ nào cũng rộng hơn mét, rất ít bước ra ngoài. Không phải là duyệt binh thì làm sao đội ngũ chỉnh tề như thế? Nói chung, sói độc
lập tác chiến, hoặc hành động theo nhóm, một nhóm bốn năm con, tổ chức vây ráp thì chỉ một gia đình bảy tám con, còn tác chiến với quy mộ binh đoàn thì rất hiếm. Trần Trận không thể hiểu, sói vốn quen độc lập tác chiến, vì sao bỗng dưng chuyển sang vận động chiến với quy mô binh đoàn? Năm xưa Bát lộ quân và Tân tứ quân tốn bao công sức mới nâng cấp được như thế. Chẳng lẽ sói có tài năng quân sự bẩm sinh? Hay tổ tiên nhà sói rút kinh nghiệm từ những cuộc tàn sát đẫm máu, truyền lại cho sói con cháu? Nhưng sói không biết nói thì truyền bằng cách nào? Quả là khó hiểu.
Vậy thì, hay là sói ăn mừng chiến thắng? Hay là một nghi thức trước hay sau khi ăn? Khả năng này cực lớn. Cuộc truy kích thắng đậm, đàn ngựa không sót một con, sói đã bảo thủ tuyết hận, có thể coi là toàn thắng. Đàn sói đói hạ gục một đàn ngựa béo, ai bảo không sướng? Hẳn là khi đó sói sướng như điên, diễu hành rất lâu xung quanh những xác ngựa đến nỗi thành con đường.
Trần Trận lấy cái bụng của con người để hiểu sói, cắt nghĩa một số hành động của sói. Chó hiểu tính người, người hiểu tính sói hoặc sói hiểu tính người. Thiên địa nhân là một. Sói, người, chó không thể không liên quan với nhau. Có lẽ nghiên cứu về người nên bắt đầu nghiên cứu từ sói, hoặc nghiên cứu sói nên bắt đầu nghiên cứu từ người, khoa sói học liên quan mật thiết với nhân học - một bộ môn khoa học vĩ đại.
Một đoàn người theo sau Batu, lần ngược con đường dẫn đến sự cố, lên phía bắc. Trần Trận lại gần ông Pilich, hỏi: Bố, vì sao sói chạy thành một con đường như thế? Ông già nhìn quanh, cố ý buông lỏng dây cương cho ngựa đi chậm lại, nói khẽ: Tôi sống ở Ơlon đã 60 năm, chưa bao giờ thấy đàn sói lớn như thế! Hồi nhỏ tôi cũng từ hỏi ông thân sinh ra tôi. Ông bảo, sói là do Trời sai xuống bảo vệ quả núi thiêng Bayinoloa và thảo nguyên Ơlon. Kẻ nào phá hoại, Trời nổi giận, sai sói xuống cắn chết rồi thưởng luôn cho sói ăn thịt. Mỗi khi được thưởng, sói vui sướng chạy quanh phần thưởng nhiều vòng, tròn như mặt trời mặt trăng. Vòng tròn này là hồi âm của sói, giống như thư cảm ơn bây giờ. Sau khi trời nhận được hồi âm, sói ăn thoải mái. Sói thích ngửa mặt nhìn trăng, hếch mũi lên trời mà hú dài, nếu như trăng có quầng, chắc chắn đêm ấy nổi gió, sói không đi săn mồi. Sói dự đoán thời tiết giỏi hơn người, sói biết khi nào trăng tròn, biết vẽ hình tròn, chính là sói có khả năng thông thiên.
Trần Trận như mê đi, cậu vốn thích thần thoại. Giải thích về đường tròn của sói, bản thân nó đã đầy đủ xét từ góc độ văn học. Vả lại, không thể nói thuyết này không khoa học. Trong quá trình săn bắt lâu dài, người ta đã biết đá đổ mồ hôi thì mưa, trăng có quầng thì gió. Trần Trận tấm tắc: Hay thật! Những quy luật của tự nhiên trên thảo nguyên, mặt trời có quầng, mặt trăng cũng có quầng. Mục dân ra hiệu cho người khác đi tới thì giơ tay vẽ một
vòng tròn. Cái vòng tròn đúng là một tín hiệu ma quái! Chuyện của bố làm con tỉnh người, sói thảo nguyên quá giỏi, biết vẽ vòng tròn, biết phát tín hiệu, sợ thật! Ông già Pilich nói: Sói thảo nguyên rất tinh quái! Tôi cả đời đối mặt với chúng mà không khi nào thắng. Tôi không lường trước được sự cố tai hại này. Sói luôn hành đọng đúng lúc, đúng chỗ mà ta không ngờ, đã đến thì cả bầy. Cậu bảo nếu không có Trời giúp thì làm sao sói lợi hại đến như thế!
Đoàn người ngựa phía trước dừng lại, có người xuống ngựa, bới tuyết. Trần Trận thúc ngựa chạy theo ông già lên chỗ đó. Đã phát hiện những xác ngựa, nhưng không tập trung, mà bốn năm con rải thành một vệt. Ở một chỗ xa hơn, có người kêu: Có xác sói! Trần Trận nghĩ, chắc đây là nơi sói tấn công tự sát như Batu đã kể. Và cũng là bước ngoặt dẫn đàn ngựa đến tử vong. Cậu thót tim, trống ngực đập thình thịch.
Bao Thuận Quý vẫn ngồi trên yên, vung cây roi quá đầu quát: Không được lộn xộn! Tất cả quay lại, trước hết bới hai con ngựa, sau đó mới đến sói. Mọi người chú ý kỷ luật chiến trường. Tất cả xung công! Ai vi phạm sẽ bị đưa đi học tập cải tạo.
Mọi người nhanh nhẹn tập họp xung quanh hai con ngựa, bắt đầu gạt tuyết.
Hai con ngựa đã lộ ra. Ruột gan tim phổi của từng con đều bị chính nó giẫm nát, vương vãi đến mấy chục mét. Hai con này không bị sói xé xác sau khi chết. Có lẽ chúng đã ăn no ở chỗ đầm lầy nên bỏ qua. Tuy vậy, Trần Trận vừa bới vừa nghĩ, con ngựa này tuy không bị xé xác, nhưng cái chết của chúng thê thảm hơn, đáng sợ hơn cái chết của đồng loại ở đầm lầy, cặp mắt thất thần khi chết gây một ấn tượng hãi hùng.
Bao Thuận Quý giận giữ gầm lên. Lũ sói này tàn bạo như giặc Nhật! Làm sao chúng nghĩ ra cái cách cắn rách bụng để ngựa tự lôi ruột ra mà chết cơ chứ! Độc ác quá đi mất! Bọn này đúng là tinh thần võ vĩ đạo của bọn Nhật, dám tấn công tự sát. Sói Mông Cổ thật đáng sợ. Tôi mà không giết sạch chúng thì chớ kể.
Trần Trận không nhịn được, xen vào: Không nên coi tự sát là tinh thần võ sĩ đạo của bọn Nhật. Đổng Tồn Thụy, Hoàng Kế Quang, Dương Văn Tư dám cùng chết với kẻ thù, nhưng đó không phải võ sĩ đạo. Một con người, một dân tộc nếu không có tinh thần thà chết chứ không chịu khuất phục, không dám chết cùng kẻ thù thì chỉ có làm nô lệ, bị người khác thống trị. Tinh thần tự sát của sói vận dụng đúng chỗ thì là anh hùng, đáng ca ngợi, không đúng chỗ thì là võ sĩ đạo của chủ nghĩa phát xít. Nhưng nếu không tinh thần quyết tử thì cầm chắc không thể thắng tinh thần võ sĩ đạo.
Bao Thuận Quý im lặng hồi lâu, hừm một tiếng: Cái đó thì đã hẳn.
Ulichi nét mặt đăm chiêu, nói với Thuận Quý: Kiểu tấn công tàn bạo này thì Batu và đàn ngựa làm sao chống lại? Batu quần nhau với sói từ Bãi Bắc về đến đây quả không đơn giản. Không chết người là may rồi. Cứ để tổ điều tra về đây, tôi tin là họ sẽ có kết luận chính xác.
Bao Thuận Quý gật đầu, ông ta bắt đầu dịu giọng, hỏi Batu: Khi ấy cậu có sợ lũ sói ăn thịt con ngựa cậu đang cưỡi không?
Batu ngượng nghịu trả lời: Cháu căng thẳng đến mức chẳng còn nghĩ gì khác. Tiếc quá, chỉ chút nữa là thoát đầm lầy!
Bao Thuận Quý lại hỏi: Thế sói không vồ cậu à?
Batu chìa cây gậy thép ra trước mặt Bao Thuận Quý: Cháu đập gãy răng cửa một con, đánh giập mũi một con khác bằng chiếc gậy này, nếu không, chắc là bị chúng xé xác. Các cậu Saxuleng không được trang bị súng, gậy, nên không có phương tiện phòng thân. Đừng kết tội họ đào ngũ.
Bao Thuận Quý cầm cây gậy nắn thử, khen: Gậy này thì hay rồi. Cậu cũng tàn bạo đấy chứ! Tốt, với sói thì càng tàn bạo càng tốt. Cậu can đảm, có bản lĩnh, khi cấp trên về điều tra, nhớ kể tường tận chuyện đánh nhau với sói.
Nói xong, Bao Thuận Quý trả lại cây gậy cho Batu rồi ngoảnh lại nói với Ulichi: Tôi thấy sói Mông Cổ khủng khiếp quá, đầu óc hơn con người. Tôi đã hiểu cách đánh của chúng. Chúng có mục tiêu cụ thể, đó là bằng mọi giá dồn đàn ngựa xuống đầm lầy. Anh xem này - Ông ta xoè bàn tay - Sói biết thời tiết, biết đánh gần, biết chọn thời cơ, biết địch biết ta, biết chiến lược chiến thuật, biết đánh đêm, biết đánh du kích, biết đánh cơ động, biết đánh lén, biết tập trung ưu thế binh lực đánh tiêu diệt, lại còn xây dựng kế hoạch tác chiến, từng bước tiêu diệt đàn ngựa. Binh pháp này có thể đưa vào sách giáo khoa quân sự! Hai ta xuất thân bộ đội, tôi thấy trừ trận địa chiến, đánh lấn bằng giao thông hào là sói chưa biết, còn thì toàn bộ chiến lược chiến thuật của du kích, của Bát lộ quân, sói biết hết. Không ngờ sói thảo nguyên tài tình đến thế, cứ tưởng chúng hữu dũng vô mưu, chỉ biết trộm gà bắt chó...
Ulichi nói: Kể từ khi tôi chuyển ngành về đây, chưa thấy mình đã xa chiến trường. Quanh năm chiến đấu với sói, súng bất li thân, giờ đây tôi bắn còn chuẩn hơn lúc ở bộ đội. Đúng như anh nói, sói rất giỏi binh pháp, chí ít biết vận dụng hữu hiệu những nguyên tắc quan trọng trong binh pháp. Đối mặt với sói mấy chục năm, tôi đã học được nhiều điều. Giờ mà cho tôi đi tiễu phỉ, bảo đảm là tôi làm tốt.
Trần Trận càng nghe chuyện càng mê, vội hỏi: Vậy binh pháp của người là học từ sói?
Ulichi mắt sáng lên, nói với Trần Trận: Đúng, rất nhiều điều trong binh pháp con người học từ sói. Trước kia dân thảo nguyên vận dụng binh pháp
của sói đánh nhau với dân tộc nông nghiệp bên quan nội. Người Hán không chỉ học dân du mục mặc áo ngắn, quần đi ngựa, cưỡi ngựa bắn cung mà dân sách vở gọi là "Hồ phục kị xạ", còn học binh pháp của sói từ dân du mục. Năm học bổ túc chuyên ngành chăn nuôi ở Hồi Hột, tôi đọc khá nhiều binh thư, thấy binh pháp Tôn Tử không khá mấy binh pháp của sói. Thí dụ: "Biết mình biết người, binh quý ở thần tốc, ra quân khi địch không ngờ, tiến đánh khi địch chưa kịp chuẩn bị"... sói thuộc lòng từng khoản.
Trần Trận nói: Vậy mà binh thư Trung Quốc không hề nhắc đến dân tộc và sói thảo nguyên, quả không công bằng chút nào!
Ulichi nói: Sự thua thiệt của người Mông Cổ là lạc hậu về văn hóa, ngoại trừ cuốn "Mông Cổ bí sử" là có giá trị, còn những sách khác chẳng có ảnh hưởng gì đáng kể.
Bao Thuận Quý bảo Ulichi: Xem ra, ngành chăn nuôi trên thảo nguyên phải nghiên cứu kỹ về sói, phải nghiên cứu binh pháp, nếu không sẽ thiệt. Muộn rồi, ta đi xem mấy con sói chết, tôi cần chụp mấy phô ảnh.
Hai ông đầu ngành đi rồi, Trần Trận đứng thần người. Chuyến khảo sát thực địa này khiến cậu càng mê những kỳ tích của mục dân thảo nguyên và Thành Cát Tư Hãn. Chỉ vẻn vẹn hơn một vạn quân kỵ mà Thành Cát Tư Hãn và các con cháu ông ta tung hoành từ Á sang Âu, tiêu diệt mấy chục vạn thiết kỵ Tây Hạ, một triệu quan của nhà Đại Kim, hơn một triệu thủy quân và kỵ binh Nam Tống. Làm thế nào chiếm được Trung Á, Hungari, Ba Lan, toàn bộ nước Nga, Iran, Ấn Độ, lại còn bắt Hoàng Đế Đông La Mã thực hiện chính sách hòa thân của Trung Quốc, gả công chú Mali cho chắt của Thành Cát Tư Hãn, dựng nên một đế quốc lớn nhất trong lịch sử thế giới? Một dân tộc bé nhỏ khi khởi nghiệp ngay cả chữ viết và mũi tên bằng sắt chưa có, vẫn phải dùng xương thú làm mũi tên, lấy đâu ra sức mạnh và tri thức quân sự lớn lao đến thế? Đây là một câu đố chưa có lời giải. Hơn nữa, kỳ tích của Thành Cát Tư Hãn và các con cháu không phải ở chỗ lấy thịt đè người, lấy mạnh thắng yếu, mà ngược lại, lấy ít thắng nhiều, thắng bằng mưu trí. Phải chăng họ dựa vào trí tuệ của sói và tốc độ của ngựa? Dựa vào tố chất và tính cách của sói? Và tinh thần dân tộc được nuôi dưỡng bằng Tôtem sói?
Hai năm nay Trần Trận đối mặt với sói, kinh nghiệm và những câu chuyện thu thập cùng với những điều mắt thấy trong khi đi thực địa sói bắt dê vàng, tính kinh điển trong trận sói tận diệt đàn ngựa, khiến Trần Trận càng tin rằng những kỳ tích của Thành Cát Tư Hãn có khả năng từ sói.
Chiến tranh là hành vi vũ lực giữa quần thể này với quần thể khác. Chiến tranh khác về bản chất với săn bắn. Chiến tranh có tiến công, có phòng ngự, hai bên tham chiến đều vũ trang đến trận răng. Còn săn bắn thì con người chủ động hoàn toàn, hầu hết con mồi ở vào thế bị động, bị săn đuổi. Săn thỏ,
rái cá trên cạn, dê vàng đều là săn bắn, nhưng là lấy thịt đè người, quyết không phải chiến tranh. Tuy rằng săn bắn có thể học được một số kỹ năng quân sự, nhưng chỉ có chiến tranh thật sự mới cung cấp cho người ta kiến thức toàn diện về quân sự.
Trần Trận lật lại vấn đề: Trên thảo nguyên không có những đàn hổ, đàn báo, đàn gấu, đàn sư tử, đàn voi. Chúng không thể tồn tại trên thảo nguyên Mông Cổ khắc nghiệt. Cho dù chúng thích ứng với điều kiện tự nhiên, cũng không thể thích ứng với những cuộc chiến tranh sinh tồn tàn khốc trên thảo nguyên, không thể chống lại những cuộc vây ráp của sói và người trên thảo nguyên. Chỉ người và sói là cặp đối thủ hạt giống trong cuộc quyết đấu trên thảo nguyên Mông Cổ. Các sách giáo khoa quân sự trước kia cho rằng, kỹ năng quân sự trác việt của dân du mục có nguồn gốc từ săn bắn. Ta không phủ nhận ý kiến này. Nhưng kết luận chính xác phải là, tài năng trác việt của dân du mục bắt nguồn từ cuộc đấu tranh sinh tồn dai dẳng và tàn khốc giữa dân du mục và đàn sói. Đó là một cuộc chiến cân sức, kéo dài hàng vạn năm. Qua thực tiễn lâu dài đó, con người và sói đã rút ra những kinh nghiệm mà sau này các binh thư coi là những nguyên tắc và tín điều cơ bản, tỉ như biết mình biết người, binh quý ở thần tốc, binh không ngại trí trá, trên thông thiên văn dưới tường địa lý, chuẩn bị sẵn sàng, tránh đụng tinh nhuệ, ra quân bất ngờ, đánh địch lúc chúng chưa kịp chuẩn bị, chắc thắng mới đánh, không chắc không đánh, đả thương mười ngón không bằng chặt đứt một ngón, địch đến ta rút, địch ở ta quấy, địch mệt ta đánh, địch chạy ta đuổi... Sói tuy phân bố khắp địa cầu, tuy thảo nguyên Mông Cổ không có tường cao hào sâu như những vùng văn minh nông nghiệp, nhưng đây vẫn là chiến trường chính trong những cuộc quyết đấu - đấu trí và đấu lực, giữa người và sói.
Theo dòng suy nghĩ đó, Trần Trận cảm thấy mình như đang đứng trước cửa đường hầm năm nghìn năm lịch sử văn minh Hoa Hạ. Trên cao nguyên Mông Cổ, cuộc chiến giữa người và sói lúc ban ngày, lúc ban đêm, chạm trán như cơm bữa, đôi khi lại một trận lớn, xảy ra nhiều hơn tất cả những cuộc chiến tranh giữa sói và người, giữa người và người ở khu vực nông nghiệp cộng lại. Thậm chí về tần suất còn cao hơn các cuộc chiến giữa các bộ tộc du mục phương Tây ngoài chiến trường chính là chiến trường giữa sói và người. Thêm vào đó cuộc chiến dai dẳng, tàn khốc giữa các bộ tộc du mục, những cuộc chiến tranh dân tộc, chiến tranh xâm lược, khiến tài năng quân sự được rèn luyện không ngừng.
Do đó, dân tộc thảo nguyên Mông Cổ thiện chiến hơn, hiểu chiến trận hơn, kiến thức quân sự bẩm sinh ưu việt hơn tất cả các dân tộc nông nghiệp và du mục khác. Từ nhà Chu, Xuân Thu Chiến Quốc, Tần Hán Đường Tống toàn là những nước văn minh nông nghiệp, có ưu thế tuyệt đối, đất rộng người đông, vậy mà luôn bị một dân tộc du mục bé nhỏ trên thảo nguyên