🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tôi Từng Là Phi Công Tiêm Kích Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn Lời nói đầu Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn vô bờ bến đến bố mẹ tôi những người sinh thành, dưỡng dục tôi, đã tạo cho tôi những bước đi ban đầu trong cuộc đời và dạy cho tôi học Làm người. Tôi biết ơn và vô cùng cảm ơn các thầy cô- những người đã trang bị cho tôi những kiến thức quý báu, đặc biệt là các thầy dạy bay đã truyền đạt cho tôi những kỹ thuật bay, đã nhen nhóm cho tôi ngọn lửa tình yêu bầu trời, dạy cho tôi những thuật cơ bản để thoát khỏi mọi hiểm nguy trong chiến trận, trở về với cuộc sống. Tôi biết ơn và cảm ơn vợ tôi- người bạn đời của tôi đã dám gắn bó đời mình với một phi công tiêm kích, đã gánh chịu mọi gian nan vất vả trong cuộc sống, đồng thời cũng là nơi neo đậu yên tĩnh cho tâm hồn tôi khi tôi gặp những bão giông của cuộc đời và luôn bên cạnh tôi để cùng vượt qua những thăng trầm. Xin cảm ơn các thế hệ phi công đàn anh- những người đi trước đã cho chúng tôi tiếp thu những kinh nghiệm trong các trận không chiến, trong cuộc sống thường ngày và đã dìu dắt tôi qua những ngày ác liệt của đạn bom, giành lấy chiến thắng. Xin cảm ơn các đồng đội của tôi- những người luôn kề vai sát cánh trong đội hình, những người cùng chia lửa, cùng chia sẻ cho nhau mọi nỗi vui buồn, luôn coi nhau như anh em ruột thịt và đã cùng tôi vượt qua được cổ họng của chiến tranh. Xin cảm ơn và luôn tưởng niệm đến những đồng đội đã xếp lại những đôi cánh của mình trong các trận không chiến- những người đã góp phần không nhỏ giúp cho bầu trời được yên lành, thanh bình. Xin cảm ơn nhân dân các vùng, miền- nơi tôi từng đóng quân, từng cơ động, từng tham gia chiến đấu ở các mặt trận- những người đã quan tâm, chăm chút, nuôi nấng, động viên tôi trong suốt chặng đường chiến tranh, https://thuviensach.vn những người đã giúp cho tôi thấu hiểu thêm nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc, với đồng bào. Xin cảm ơn những người bạn, những người tôi yêu quý đã giúp tôi cho ra đời cuốn sách này. https://thuviensach.vn Chương I - Thuở thiếu thời Tôi sinh ra ở một làng quê nghèo, nhỏ bé, cách sông Hồng chừng hơn một cây số đường chim bay. Lớp chúng tôi trong thôn cả trai lẫn gái có đến gần ba chục đồng niên. Cái tuổi Đinh Hợi là phải xa xứ “ly tổ lập thân”, nhất là những người đẻ vào tháng 5 (tháng Ngọ) như tôi, cứ đi hết chân trời này đến góc biển nọ, chả mấy khi dừng. Tôi nhớ, hồi còn đang học cấp 2, có lần bác tôi bảo tôi rằng, sau này tôi phải đi xa, đi nhiều. Quả thực “cái số” của tôi đúng là bắt tôi phải như thế, mười phương trời, dễ đi đến tám, chín. Anh em của tôi, không ai được ở gần ai. Mang tiếng có 6 anh em mà sau này chẳng khi nào tụ hội đủ, chỉ giai đoạn còn trẻ con là ở cùng nhau mà thôi. Tôi sinh ra được một thời gian thì Tây càn. Mẹ tôi gồng gánh tôi và gia sản chạy loạn. Gọi là gia sản cho oai, chứ thực ra chỉ vài ba bộ quần áo, bao tượng gạo ở một bên thúng, còn thúng bên kia là tôi ngồi cho vừa đủ gánh. Thôi thì, hết chạy xuôi, lại chạy ngang, chạy ngược, ăn nhờ, ở đậu khắp nơi, nghe ngóng yên hàn lại trở lại làng quê tiếp tục cày cấy. Rồi bố mẹ tôi tản cư ra Hà Nội kiếm ăn. Tôi còn nhớ, dễ chuyển nhà đến mấy đận: từ chùa Sét lên Bạch Mai rồi chợ Đuổi, Vân Hồ... tôi cũng cứ lếch thếch bám theo bố mẹ suốt. Năm 1955, sau khi giải phóng Thủ đô, bố mẹ tôi quyết định trở về quê hương bản quán: làng Đào Xá, tổng Vũ Lăng, sau này còn có một lần chuyển ra Hà Nội nữa, nhưng rồi lại về lại làng. Tuổi thơ của tôi chịu ảnh hưởng nhiều của làng quê. Ngày đầu về làng, cái gì cũng lạ lẫm, nhà làm tạm, lợp mái rạ, vách trát rơm còn nồng mùi bùn mẹ con tôi đã phải vào ở. Bố tôi vẫn làm trên Hà Nội. Những năm ấy đói lắm, thường ăn su hào trừ bữa (vì nhà trồng được vườn su hào ngay trước cửa), thi thoảng mới loáng thoáng vài ba hạt gạo, gọi là để đỡ xót ruột. Đã có lần vào mùa nước to, nghe hô vỡ đê, mấy mẹ con tôi bỏ nồi cháo ở chõng tre để dắt díu nhau https://thuviensach.vn chạy đến nhờ một nhà có nền cao hơn, sau mới biết là tin nhảm, về lại nhà thì mấy mẹ con con chó đã tranh thủ giải quyết hết nồi cháo kia rồi. Vậy là mẹ con tôi đành nhịn đói ngày hôm ấy. Mấy đứa em tôi ra đời cách nhau 3-4 năm một. Tôi vừa giúp mẹ các công việc đồng áng, vườn tược, vừa phải bế ẵm em. Nhà tôi được chia 3 sào đất sau cải cách, tôi lại là con lớn nên phải lặn lội, học các lão nông tri điền cách thức làm ruộng. Tính hiếu động và siêng năng đã giúp tôi nhanh chóng nắm bắt được mọi việc: từ cày bừa, nhổ mạ, xay lúa, sàng sảy... đến các bài hát, làn điệu hát ru. Cũng vì tính hiếu động mà tôi thường xuyên bị ăn đòn, có trận đến nhừ tử. Tính bình quân ra, hầu như cứ mỗi ngày một trận. Thôi thì đủ thứ, từ cầm đầu lũ trẻ con đi ăn trộm hoa quả đến lôi nhau đi bơi, trèo cây bắt tổ chim, tổ chức đánh nhau với trẻ con các làng bên để tranh cánh đồng cỏ chăn bò, bắt cá làm nát lúa hợp tác, trêu chòng con người khác... nhiều lắm chả thế nào kể hết ra đây được. Những trận đòn như cơm bữa ấy chẳng làm tôi sợ, chừng như chúng làm tôi dạn dĩ thêm, nghịch ngợm thêm thì phải. Bố tôi đi vắng, mẹ tôi tối mặt tối mũi ở nhà với công việc đồng áng, lại gặp những trò của tôi bày ra thì đúng là không thể chịu nổi. Tôi nhớ có lần mưa to, thóc phơi ở sân tôi chỉ cào đống lại, lấy nong, nia che lên, vào bếp xúc tro đổ xung quanh chân đống thóc cho nước mưa đỡ ngấm vào đấy, xong lấy bùn đắp lỗ cống thoát nước ở sân lại, lột hết quần áo mấy đứa em ra, bắt chúng nó tập bơi ở sân, đứa nào đứa đấy ngấm lạnh, mặt mũi tái mét. Mẹ tôi về người mệt mỏi bơ phờ, lại ngấm lạnh nước mưa đã như muốn lên cơn sốt rồi, thấy cảnh ấy thì “ba máu, sáu cơn” bùng lên, tôi được một trận đòn nhừ tử. Mấy đứa em tôi đứng dúm vào xó nhà, vừa sợ vừa thương anh, có lẽ cả vừa mừng nữa, vì chỉ có mẹ mới trị được anh thôi. Được cái, từ tôi đến mấy đứa em tôi, khi bị bố mẹ đánh, không đứa nào dám chạy như con người khác. Biết tội mình, nên chỉ im lặng nhận đòn roi. Sau này lớn lên, vào bộ đội, xa nhà, lắm lúc cứ nghĩ về quê hương, về bố mẹ, về các em là nước mắt tôi cứ tự ứa ra không sao ngăn nổi vì nhớ đến những trận đòn roi xưa mà ân hận vì mình từng làm khổ mẹ mình quá. https://thuviensach.vn Ý thức phải giúp bố mẹ và trách nhiệm đối với gia đình cũng lớn dần lên theo năm tháng của tôi. Khi mẹ tôi sinh em thứ tư, ba anh em tôi còn bé lắm. Tôi học xay lúa, sàng, sẩy từ đó. Đội thúng gạo đi giã mà ba anh em đứng không dận bổng cối, tôi phải ra nâng đầu chày đếm nhịp, giã nháo nhào rồi về giần gạo mới có thứ thổi cơm. Đi chợ, chăn bò, cắt cỏ, mò cua, bắt ốc... tôi làm luôn tay, nhưng cũng thấy được cái thú vui đồng áng. Tóc tôi phơi nắng nhiều nên đỏ quạch như lông bò và luôn khét mùi nắng. Khổ nhất là những ngày rét. Đó là những ngày đồng cỏ già lụi, kiếm được sọt cỏ khó vô cùng, chân đất đầu trần, dầm mưa giữa trời mưa bụi nên đám trẻ chăn bò chúng tôi đứa nào đứa ấy cứ run như rẽ. Sau rồi, chúng tôi cũng nghĩ cách lấy đất cày đắp xung quanh như xây lô cốt, chỉ có một lối vào, lấy áo tơi phủ lên làm mái, nhổ gốc rạ và nhặt phân bò khô vào trong đó để đốt sưởi. Cũng chính vì vậy mà mẹ tôi luôn thắc mắc tại sao quần áo tôi luôn có mùi phân bò, mặc dù vừa mới giặt xong, chỉ mãi về sau này, tình cờ mẹ tôi phát hiện ra và có lẽ Người thương chúng tôi lắm, nhưng nền kinh tế bấy giờ và hoàn cảnh gia đình tôi như vậy, bố mẹ tôi chẳng thể nào cố thêm được. Lũ trẻ chúng tôi lứa tuổi ấy, cả trai lẫn gái, đứa nào cũng nghịch như nhau, không cái gì là không dám làm. Thôi thì từ đầu làng đến cuối ngõ, khi thì trêu cho người khác chửi mình nghe cho “khoái”, khi lại trêu nhau, khi thì rủ choảng nhau với lũ làng bên... đủ các kiểu. Tôi nhớ đầu làng tôi có bà già ở một thân một mình, vườn tược rộng, tre trúc nhiều. Chúng tôi thi thoảng lại đến đấy cưa trộm trúc về làm cần câu và cũng có dịp trêu chọc bà để bà chửi, vì bà chửi rất bài bản, nghe như hát. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ dược những đoạn như: “Tao lôi từ thằng nằm chiếu ngang, thằng mang chiếu dọc, thằng đọc văn tế, thằng bế cây đài, thằng nhai sỏ lợn nhà mày lên...”. Chúng tôi chỉ thấy bà chửi có vần như vậy thì trêu, chứ không có ác ý gì. Mà cũng chẳng dám trộm gì lớn của bà, thi thoảng cần câu bị gãy thì mới lẻn lên cưa rút một cây trúc mà thôi. Mang tiếng là tôi nghịch ngợm vậy, nhưng chúng tôi cũng làm được khối việc ra trò. Sau khi thành lập Đội Thiếu niên Tiền phong xong (hồi đó tôi làm Liên đội trưởng), chúng tôi phát động phong trào giữ vệ sinh làng https://thuviensach.vn xóm sạch đẹp- sống có lễ phép, cảnh giác với kẻ gian. Lũ chúng tôi hàng tuần quét ngõ xóm, đốt rác, lấy mùn bón cây, kẻ khẩu hiệu, trống phách cổ động cũng om sòm một thời. Các cụ, các bác khen lắm. Bọn tôi còn được cấp đất để tăng gia lập quỹ Đội, giúp cho các hoạt động được sôi nổi hơn. Sau này, lũ cùng tuổi với tôi cứ bỏ học dần, còn mỗi mình tôi lẽo đẽo đến trường. Có chút chữ nghĩa, xã còn lấy tôi vào ban viết lịch sử cho xã nữa. Hồi ấy thấy thế là thích lắm. Tôi chẳng năm nào được đi học gần. Ngay từ khi từ Hà Nội trở về đã phải đi sang xã khác cách khoảng 2 km để học rồi. Từ đó, ngày càng phải đi xa hơn, đến năm học lên cấp 3 là trường cách nhà đã 6 km. Hàng ngày, tôi cứ lủi thủi một mình với bộ quần áo nâu, vai đeo túi dết, đi chân đất đến trường. Bạn bè gọi tôi là thằng lái trâu. Gọi vậy chứ họ rất quý vì tôi quan tâm, sống chan hoà với mọi người, tham gia nhiệt tình vào các phong trào của trường, lớp và học cũng không đến nỗi nào, nghịch cũng chẳng kém ai nữa. Có lẽ duy nhất, tôi là đứa học sinh của trường thường mặc quần áo nâu, đi chân đất cho đến tận ngày tốt nghiệp lớp 10. Suốt cả đời học sinh, tôi cứ đi học buổi sáng thì buổi chiều lại về chăn bò, cắt cỏ, cày bừa, nhổ mạ, gánh phân lợn, gà, cám bã, tất bật phụ giúp mẹ tôi. Rỗi lúc nào thì học, đọc sách lúc ấy, vừa chăn bò, vừa đọc. Tôi cảm thấy học cũng nhàn nhã, mà đọc được khá nhiều truyện. Gần như tôi là một trong những thành viên tích cực nhất của thư viện trường. Các hiệu sách thì khỏi nói, tôi chẳng có tiền mua sách, nhưng mấy chị bán sách thấy tôi ham đọc, cũng đồng ý cho tôi mỗi ngày đứng ở đó mấy chục phút đọc tại quầy. Dần dà, tôi cũng đọc hết khối quyển ở cửa hàng. Bọn bạn chăn bò cùng lứa thường bắt tôi kể mọi chuyện tôi đọc trong sách vở. Tôi cũng có cảm hứng phải đọc nhiều hơn. Và tôi cũng học được rất nhiều qua những cuốn sách tôi từng nghiến ngấu vì không có thời gian. Những cuốn sách hay dạy mình nhiều lắm và chẳng phản bội mình bao giờ. Cũng qua sách vở mà hồi đó chúng tôi đã chiến thắng trong những trận chiến với bọn trẻ mục đồng ở làng bên để giành giật cánh đồng cỏ. Chẳng là đọc “Tam quốc diễn nghĩa” và “Thuỷ hử” xong, tôi cũng áp dụng chia những cánh quân ra sao cho hợp lý, dùng cờ gậy (chẳng qua là những https://thuviensach.vn miếng giẻ buộc ở đầu roi bò) để chỉ huy, cũng tiền quân, hậu quân, tả phù, hữu bật hẳn hoi. Bọn trẻ làng bên rối loạn, bị chúng tôi “tẩn” cho mấy trận đành phải rút vĩnh viễn, nhường lại cánh đồng cỏ cho bọn tôi chiếm lĩnh. Mãi sau này khi học ở Học viện Quân sự mang tên Gagarin (Liên Xô) nhớ lại thời đó, mới biết rằng mình đã từng áp dụng chiến thuật đánh “vu hồi”, “trực diện”, sử dụng “thê đội một”, “thê đội hai”..., chứ thuở ấy chỉ biết rằng “oánh” xong một trận, thấy đám mục đồng kia chạy, về bàn nhau mai sẽ “oánh” kiểu khác, không lặp lại kiểu cũ nữa mà thôi. Mấy đứa em tôi thì không phải “tham chiến” như tôi, có lẽ bởi “chiến trường” đã được chúng tôi chiếm lĩnh cho rồi, có lẽ cũng bởi lứa chúng nó sống hoà bình hơn. Và sau này, bố mẹ tôi cũng bán bò đi mất, nên những khái niệm tranh giành “thị trường đồng cỏ” chắc không hình thành ở mấy đứa em tôi, đụng độ như lứa tuổi của chúng tôi mà làm gì. Cho đến năm tôi vào học cấp 3 thì cả làng tôi chỉ còn có mỗi mình tôi đeo đuổi sự nghiệp “mài đũng quần ở ghế nhà trường”. Dù nghèo khó đến mấy đi chăng nữa, bố mẹ tôi vẫn cố để “dành cái chữ cho con”. Vì thế mà anh em tôi, đứa nào cũng được học hành đến nơi đến chốn. Mấy đứa em tôi còn tốt nghiệp được đại học. Chúng tôi biết ơn bố mẹ chúng tôi lắm. Vốn liếng kiến thức mà bố mẹ chúng tôi để lại cho chúng tôi là những tài sản vô giá. Từ hồi còn trẻ con, tôi cứ ước mơ khi lớn lên sẽ trở thành bác sỹ nhãn khoa. Bác tôi (chị gái của mẹ tôi) chỉ có một thân một mình, mắt thì loà, đi đâu cứ lò dò, lẫm dẫm, luôn mong rằng tôi học giỏi để chữa mắt cho bà được sáng, được nhìn thấy mọi thứ trên đời này. Người hay đi chùa và thường khấn vậy. Mọi bài kinh kệ, tôi phải chép và dạy lại bác tôi theo kiểu truyền khẩu, giả dụ như chẳng có chiến tranh thì có lẽ tôi đã thực hiện được ước mơ của tôi và lời khẩn mong của bác tôi rồi. Vậy mà sự việc lại đột ngột chuyển hẳn sang một hướng khác, hướng chẳng bao giờ tôi ngờ tới. Cổng làng tôi là nơi mà bọn chúng tôi hay trèo lên (mặc dù trần đã bị sập, cầu thang lên bị sập, mái cũng không còn nữa), ngồi ngắm những cánh dồng làng, rồi chỉ trỏ tranh luận nhau những chuyện không đâu cũng là kỷ niệm khó quên. Bất kể sau này khi ngắm một bức tranh, bức ảnh nào thấy https://thuviensach.vn hình cổng làng là tôi lại nhớ quê đến da diết. Từ ngày tôi nhập ngũ tới giờ, tôi ít có dịp về làng, nhưng những gì về làng quê khắc hoạ trong tôi đậm nét lắm, không dễ gì phai mờ được. Chùa làng tôi gọi là Chùa “Vân La Tự”. Theo như lời kể thì sự tích Thị Kính, Thị Mầu xảy ra ở làng tôi. Bằng chứng là từ Tam Quan, giếng nước, sân đình đúng hệt như chuyện kể, và chùa làng tôi không thờ được bà Thị Kính vì bà không cho thờ. Các chùa của các thôn khác đều có tượng thờ bà ngồi khâu, tay bế đứa con, trên vai là con vẹt (tương truyền là chồng bà chết rồi hoá thành). Thực, hư chẳng rõ thế nào, nhưng đình chùa làng tôi nghiêm linh lắm, bấy nhiêu năm chiến tranh chống Pháp rồi chống Mỹ, mà đình chùa làng tôi không bị mảnh bom, mảnh đạn nào rơi vào. Cũng lạ là bao nhiêu năm nay không sư nào trụ trì được (chỉ một thời gian lại phá giới, chẳng lẽ do Thị Mầu quấy quả chăng?). Những ngày cuối năm giáp tết Nguyên đán thì vui lắm. Lũ lứa tuổi tôi phải đến giếng đình gánh nước về ăn. Nồi đồng, thùng tôn được huy động gánh kẽo kẹt cả. Đấy cũng là lúc tranh thủ huých nhau, trêu nhau nhất trong năm mà không ai giận ai. Đường làng ướt đẫm vì nước sánh ra. Lũ tôi cười nói oang oang, chí choé, rạo rực niềm vui khi Xuân về. Sau này, khi làng quê “ngói hoá” rồi thì nhà nào cũng xây bể chứa nước mưa, chẳng còn cảnh gánh nước ầm ĩ như thời của chúng tôi nữa. Cũng nhiều năm sau, Giao thừa tôi vẫn lên giếng làng gánh nước đầy về để “lấy lộc”. Cái lệ ấy tôi giữ mãi tới giờ, dù không đi gánh nước thì cũng xách lấy một xô nước từ vòi nước vào để sớm mồng một rửa mặt cầu may. Âu cũng là niềm tin của cõi tâm linh, chẳng phương hại gì. Cua cá ở đồng làng tôi rất sẵn, tháng Năm đi bắt cua nắng, tháng Chạp đi bắt cá giá. Điều ấy gần như là quy luật. Lũ trẻ chúng tôi cứ í ới gọi nhau đi. Bùn đất lấm đầy người, cua cá đầy giỏ. Tháng Năm nắng về mặt đỏ như gấc, tháng Chạp lạnh về mặt xám như chàm. Tát ao, tát chuôm, hôi cá bị ném, bùn cứ từ đầu đến chân như bị ma vùi, nhưng mà vui lạ. Cuộc sống cứ lặng lẽ trôi như thế, không bon chen, không lường gạt... cái tình nghĩa người làng quê sao mà sâu nặng. https://thuviensach.vn Lũ trẻ bọn tôi hết đánh đáo, chơi khăng lại bày trò nhảy dây, rồi thi nhau nhảy cao. Cũng chính cái trò nhảy cao ấy mà đã làm tôi mang tật đến suốt đời. Số là cứ cắm hai cây gậy hai đầu chặt xuống ruộng, dây thừng bò buộc vào gậy làm chuẩn cao, nhảy qua một mức lại nút lên cao hơn. Ớ mức cao (chẳng biết bao nhiêu) tôi nhảy không qua, chân vướng vào dây ngã xuống, thấy tay kêu cái “khục” rồi ngất luôn. Bạn bè sợ quá giật tóc mai rồi “hú ba hồn bẩy vía” một lúc tôi mới tỉnh. Tay phải không co không duỗi được nữa. Kể ra, tôi về nói ngay thì chẳng sao, nhưng vì sợ mẹ tôi mắng nên cứ ngậm tăm, vẫn làm mọi việc chỉ bằng tay trái, trong khi tay kia ngày càng sưng to. Mãi đến lúc không thể cầm bút được, tôi mới dám kể với mẹ tôi, mẹ tôi hốt hoảng đưa tôi ra bác tôi (anh trai mẹ tôi) để bác chữa cho. Đến lúc ấy tôi mới thực sự biết bác tôi là ông lang chữa gẫy tay, trẹo chân, xương, khớp. Bác tôi rút lại khớp cho tôi, bó thuốc lại, vài ngày sau tôi di học bình thường, nhưng tay thì vẹo lệch hẳn. Khi tôi đi khám tuyển phi công, các bác sỹ ngoại khoa cứ đắn đo mãi về cái “tay khèo” của tôi. Ơn trời, mọi việc rồi cũng cứ qua đi theo năm tháng, tay tôi hoạt động không có gì trở ngại, mỗi tội trông nó cong queo mà thôi. Dẫu sao cũng là dấu ấn đậm nét của tuổi thơ. Rồi cũng theo quy luật của tự nhiên, giọng tôi ngày càng ồ ồ, khàn như giọng vịt đực. Bỗng dưng thấy thích bay nhảy, muốn đi xa hơn khỏi làng quê mình xem chân trời góc biển kia có gì mới lạ. Những chiều chăn bò thả diều lại ước mơ viển vông khi ngắm nhìn những đám mây trắng lững thững trôi giữa trời xanh trong nắng chiều vàng óng, cứ rạo rực, cứ ao ước muốn thấy được những gì ở tít chân trời mờ xa kia, chân cẳng bỗng thấy bị tù túng ở quanh luỹ tre làng. Đã có lần, tôi xung phong lên Hà Nội mượn máy bơm cho trường, chúng tôi kéo xe bò, đi bộ hơn 40 cây số cả đi lẫn về, háo hức lắm. Càng gần thành phố, không khí càng ồn ã, dù rằng tôi đã từng sống ở thành phố, nhưng về quê một thời gian rồi khi tiếp cận lại, vẫn thấy lạ lẫm như thường. Anh em tôi càng lớn lên, càng ít được gặp nhau hơn. Đứa học sáng, đứa học chiều, tối về đứa vớt bèo nấu cám, nấu cơm, đứa chúi đầu vào học bài, đứa bé thì ngủ say tít từ tối, nên có lẽ mỗi tuần chỉ có được một ngày https://thuviensach.vn chủ nhật là còn chọc ghẹo nhau được. Cũng chính vì thế mà có lẽ đòn roi đối với tôi cũng bớt đi. Bố tôi thì ngày đạp xe đi làm, tối khuya mới về. Mẹ tôi cũng hầu như suốt ngày ngoài đồng. Những ngày mưa dầm là những ngày mẹ con tôi ru rú ở nhà. Lại bày trò rang ngô, rồi quanh sàng ngô lại trêu nhau. Thuở ấy vô tư, vô tâm đến nỗi không để ý đến những nếp nhăn ngày càng nhiều trên mặt bố mẹ tôi nữa. Sau này, khi đi xa mới mường tượng lại, tôi mới thương bố mẹ tôi đến cháy lòng. Bạn bè tôi ở lớp ngày càng vơi dần đi vì số lớn đến tuổi đi bộ đội là tòng quân nhập ngũ hết. Tôi còn nhớ hồi học lớp 8B, sỹ số ở lớp là 65, lên lớp 9B còn 32, đến khi lên lớp 10B còn có 28. Nhà trường phải “điều” bớt một số từ lớp 10A sang lớp tôi cho đông thêm. Lớp tôi là lớp nghịch có tiếng trong trường từ hồi mới vào 8. Càng ngày thì càng tinh quái hơn, đến nỗi số học sinh từ lớp A sang lớp tôi, giai đoạn đầu trong lớp không dám ho he, cục cựa gì, tới giờ ra chơi là chạy ù về lớp cũ. Dễ có đến một học kỳ như thế, sau rồi mới quen. Còn thầy, cô chủ nhiệm mấy năm ấy thì đúng là cưỡi hổ vì bọn tôi là đám bất trị, mặc dù học hành không đến nỗi nào. Vườn trường (lấy tên là Vườn Cần Thơ- vì kết nghĩa với Cần Thơ) có trồng hai cây dừa. Một buổi trưa nọ, chúng tôi đố nhau: khi dừa đã mọc thành cây thì cùi dừa có còn ăn được hay không? Để “mục sở thị”, tôi đào béng một cây lên, bổ ra thì không thể nào ngửi nổi, chứ đừng nói gì ăn, sau đó thì tìm cách “thủ tiêu tang vật”. Từ đó, vườn trường chỉ còn có một cây dừa đứng bơ vơ, không ai hiểu nổi một cây nữa biến đi đâu mất. Cho đến https://thuviensach.vn tận bây giờ tôi vẫn ân hận vì cái trò nghịch “thử nghiệm” quái gở ấy của mình. Sang đến lớp 10 thì có đợt tuyển phi công do Quân chủng Không quân về tuyển. Lũ học trò bọn tôi thật là háo hức. Làm sao lại không háo hức được kia chứ. Chiến tranh đã leo thang ra miền Bắc, không quân Mỹ đã đánh phá, không quân ta cũng đã xuất trận, đã giành chiến thắng. Hình tượng của anh phi công bấy giờ là thần tượng đâu chỉ của lũ trẻ bọn tôi! Bốn ngàn năm lịch sử của cha ông dựng nước, giữ nước tới giờ mới có mặt trận trên không kia mà! Tôi cũng được “nhặt” trong đội quân học trò đi khám tuyển. Hồi đó tôi lẻo khoẻo lắm; cao l,69m nhưng nặng có 47kg, (dáng vóc học trò mà!) Vậy mà tôi qua lần lượt tất cả các vòng khám. Những anh “to con” hơn tôi thì lại bị trượt. Sau rốt, cả trường tôi chấm được có hai người, tôi và một bạn nữa. Nhưng rồi chỉ có mỗi mình tôi đi thôi vì người kia vướng “lý lịch gia đình có vấn đề”. Mùa xuân 1964- 1965 thì tôi trúng xổ số độc đắc. Thuở ấy, giải độc đắc là chiếc xe máy JAWA- 05 trị giá đâu 1600đ tiền Việt Nam. So với giá bát phở có 2 hào, 5 xu một que kem thì số tiền trên giá trị lắm chứ. Cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ số vé trúng giải là 117411. Con số rất kỳ cục vì 2 số đầu và cuối là 11, hai số giữa cộng lại cũng bằng 11, quả là độc đắc! Tôi- một thằng chân đất, quần áo nâu ở một làng quê nghèo đói chỉ có chạy đuổi theo xe ô tô khi nào nó xuất hiện ở làng để ngửi lấy mùi xăng ô tô là thấy oai rồi, bây giờ bỗng dưng lại được cả cái “bình bịch” thì run cả trong giấc ngủ. Bố con tôi ra phố Hai Bà Trưng (hình như số nhà 37 của Công ty xổ số) lĩnh thưởng, chụp ảnh. Mãi đến tận những năm 70 tôi vẫn thấy hình ảnh tôi- cậu học trò mặt búng ra sữa, ngượng nghịu đứng dắt chiếc xe máy JAWA- 05 treo ở đó. Bán lại chiếc xe cho nhà nước (ngay tại nơi phát thưởng), trích một số tiền ủng hộ đồng bào Miền Nam, ủng hộ trường, xã..., còn lại mua một chiếc xe đạp, mua gạch ngói về sửa nhà. Ngôi nhà ở quê bây giờ chính là xây từ năm ấy. Đời tôi sau này không bao giờ chơi xổ số nữa vì tôi nghĩ rằng dịp may cũng chỉ đến một lần trong đời mà thôi, không thể nào lặp lại được, “phúc bất trùng lai” mà! https://thuviensach.vn Thế là, lần đầu tiên trong đời học sinh của tôi và cũng là những tháng cuối cùng chuẩn bị rời ghế nhà trường, tôi đã có được một chiếc xe đạp để đi, chấm dứt bao nhiêu năm cuốc bộ. Phải nói rằng, tôi quý giá, giữ gìn chiếc xe ấy một cách ghê gớm, vì dẫu sao nó cũng đánh dấu một bước ngoặt trong đời học trò của mình. Cảnh đi bộ trời nắng, chân dẫm vào những đám nhựa đường chảy nhão ra vì nóng làm bàn chân rộp lên, cảnh mùa đông đi trên những vạt sương lạnh cóng đến mức phải quấn rơm rạ vào chân để đi, đến gần trường mới bỏ ra... không còn nữa. Cái hạnh phúc đơn sơ đến vậy mà sao cũng lớn lao đến vậy. Khi tôi nhập ngũ, chiếc xe ấy truyền lại cho mấy đứa em tôi sử dụng. Các em tôi cũng quý nó chẳng khác gì tôi. Kỷ vật thật đáng trân trọng! Sau khi tốt nghiệp lớp 10 xong thì lớp tôi cả gái lẫn trai nhập ngũ nhiều lắm. Cả nước lên đường, cả nước hướng về Miền Nam, số không nhập ngũ là số thanh niên “khoèo chân, hở rốn”, hoặc do lý lịch gia đình. Cuối tháng 6 năm 1965 thì tôi nhận được giấy báo nhập ngũ; ngày 5 tháng 7 phải có mặt tại nơi tập trung. Cả huyện Thường Tín lúc bấy giờ chỉ có mỗi mình tôi thôi. Cả tỉnh Hà Đông cũng chỉ được 6 người: Tôi ở Thường Tín, Soát ở Phú Xuyên, Sơn ở Đan Phượng, Thắng ở Trúc Sơn, Đức Lâm và Văn Lâm ở thị xã. Sau này Nguyễn Đức Soát trở thành anh hùng các lực lượng vũ trang, Tư lệnh Qưân chủng Không quân, Phó tổng tham mưu trướng quân đội nhân dân Việt Nam; Phạm Hồng Sơn là giáo viên của Học viện Không quân; Hoàng Thế Thắng hy sinh trong trận không chiến với F4 của không quân Mỹ vào năm 1972; Nguyễn Đức Lâm hy sinh khi bay thử máy bay IAK- 52 ở Gia Lâm; Nguyễn Văn Lâm là giáo viên của Học viện Chính trị Quốc gia. Ngày tôi nhập ngũ là ngày mưa tầm tã, mưa xối xả. Trước đó một ngày tôi chia tay với gia đình, họ hàng. Cảm động nhất là cô tôi, khi được tin tôi đi bộ đội, cô đến gặp tôi nước mắt lưng tròng nói với tôi rằng muốn đãi tôi một bữa cơm, nhưng nhà nghèo chẳng rõ tôi có chê không. Tôi cười, ôm vai cô tôi nói rằng tôi sẽ đến nhưng chỉ xin cô tôi luộc cho tôi một quả bầu để https://thuviensach.vn chấm tương ăn cho đỡ nhớ thôi. Và cô tôi đã luộc bầu cho tôi. Tôi ăn bầu chấm tương còn cô tôi thì ngồi nhìn tôi ăn mà cứ khóc hoài. Khi viết những dòng chữ này, mắt tôi cũng nhoà lệ. Thôi, cầu xin vong linh cô hãy tha thứ cho tôi, nếu tôi có mắc những lỗi lầm. Còn mẹ tôi thì khỏi phải nói, mẹ tôi đã khóc rất nhiều, nhưng dấu tôi. Nhiều đêm tôi thức giấc nghe mẹ tôi sụt sịt ở phía giường trong là tôi lại thấy lòng mình như ứa máu. Tôi biết, các em tôi còn nhỏ, bố tôi lại đi làm xa, tôi ra đi thì mọi công việc ở nhà đều trút lên vai mẹ tôi cả. Thực lòng, các đứa em tôi cũng không xốc vác với công việc đồng áng được như tôi. Mẹ tôi không muốn cho tôi thấy các lo nghĩ của Người, cốt để tôi yên tâm mà đi. Lúc tiễn tôi, mẹ tôi chỉ dặn: “Con đi phải giữ sức khoẻ, phấn đấu làm sao cho bằng anh, bằng em!”. Tôi biết, Người đã nói câu ấy trong nước mắt, vì có lẽ, thời điểm này, đứa con đã dứt ra khỏi vòng tay mẹ, lăn vào cuộc đời, vào cuộc chiến đầy cam go, chẳng rõ rồi ra đi còn có ngày trở lại! Người mẹ nào mà không khỏi lo âu! Và có lẽ tất cả những điều đó đã tạo nên trận mưa ghê gớm lúc tôi lên đường hay sao? Tôi ra đi với một tâm trạng thật khó tả, khi nặng nề, lúc bay bổng, háo lức... Lủi thủi một mình dầm trong cơn mưa, tôi đi bộ lên Thường Tín tập trung. Bác tôi thì nói rằng: “Đi đi cháu ạ! Phong vũ tất cát! Đi thôi!” Về sau này thì tôi ngẫm thấy những biến cố lớn trong đời tôi đều gắn liền với mưa giông cả. Tôi cũng là đứa rất thích dầm mưa và rất nhạy cảm với mưa. Đang ngủ nhưng tiếng mưa rơi dù rất khẽ cũng đủ đánh thức tôi rồi, cũng rõ lạ mà tôi không lý giải được. Vậy là, khăn gói quả mướp trong tiễn biệt của gió mưa, làng quê nhạt nhoà xa dần đằng sau lưng. Không người thân, không bạn bè đưa tiễn. Mình tôi lên đường để bước vào một cuộc sống mới, một thế giới mới khác hẳn những gì mình từng mường tượng, chấm dứt thời học trò, và cũng là chấm dứt tuổi ấu thơ, tuổi nghịch ngợm đầy mộng mơ hão huyền nhưng cũng rất https://thuviensach.vn trắng trong để bước vào con đường dài hun hút ở phía trước ẩn chứa đầy nguy hiểm, khó khăn và những điều bất ngờ. https://thuviensach.vn Chương II- Những năm tháng trưởng thành Chúng tôi tập trung ở Thị xã Hà Đông, sau đó về Gia Lâm, rồi về sân bay Cát Bi. Mấy ngày sau lại sơ tán về thôn Sâm Bồ của khu vực Hải Phòng. Biên chế tiểu đội, trung đội, đại đội xong, rồi chúng tôi đi lĩnh quân trang. Quần áo bộ binh lùng thùng. Quần chẽn ống, gài 6 cúc dưới cổ chân, áo thì 3 cúc mỗi bên cổ tay, giầy vải cao cổ. Quân hàm binh nhì. Chúng tôi ngắm nhìn nhau, thấy diện mạo khác hẳn ngày thường, thế là đã thành “chú bộ đội” thực sự. Chúng tôi ở nhờ nhà dân. Tiểu đội tôi sơ tán, ở nhờ nhà ông Chòm (ông và các con ông có những cái tên khá ngộ nghĩnh: Chòm, Chèm, Chùm...). Phải đào hầm tránh máy bay, sinh hoạt theo nền nếp quân đội. Nếp sống ngày thường của đời học trò bị phá vỡ. Những ngày đầu tôi thấy rất khó chịu. Nước ăn, uống, giặt giũ, vo gạo, rửa rau... đều chung ở một cái ao trước nhà. Tắm thì bọn tôi ra ngoài mương máng. Bệnh hắc lào xuất hiện. “Phi hắc lào không phải là tân binh”. Cái câu cửa miệng ấy chẳng qua để an ủi nhau khi có những cơn ngứa như điên nổi lên, hai tay “sột soạt tựa gẩy đàn”. Bôi thuốc I-ốt thì xót, xuýt xoa. Thôi thì đủ kiểu chữa: nào là bẻ quả chuối xanh để sát; nào sương mạng nhện ở lá khoai v.v... mãi rồi, rốt cục chúng tôi cũng dẹp bỏ được căn bệnh ngoài da oái oăm ấy. Đúng ngày 27/7/1965- ngày thương binh liệt sỹ thì chúng tôi rời Sâm Bồ. Trút bỏ lại quần áo bộ đội, chúng tôi được phát quần áo thường phục, va li đựng đồ đạc..., lên tàu liên vận ngược hướng Đồng Đăng- Lạng Sơn sang Liên Xô học bay. Đó là một đêm khá yên tĩnh trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân của Mỹ. Đến Đồng Đăng, chúng tôi phải xuống tàu, vác vali đi bộ một đoạn dài, lên ô tô vượt qua “Hữu nghị quan” sang ga Bằng Tường của đất Trung Quốc làm thủ tục, rồi lại lên tàu tiếp tục cuộc hành trình. Lần đầu tiên trong đời được ra nước ngoài, cũng là lần đầu tiên xa nhà biền biệt. Lần đầu tiên đi tàu liên vận với thời gian dài đằng đẵng (11 ngày 11 đêm mới tới Mátxcơva). Lòng tôi xáo trộn bao cảm xúc. Háo hức ngắm cảnh lạ nơi đất khách quê người, ngơ ngác vì phong tục khác nhau, ngôn ngữ khác nhau; xáo trộn đồng hồ sinh học của cơ thể vì thời gian ăn, ngủ thay đổi; da diết nỗi nhớ quê, nhớ nhà... Tất cả những thứ https://thuviensach.vn đó ùa lại, ứ ngập làm tôi như nghẹt thở. Dầu sao, tôi cũng chỉ là một đứa trẻ mới tới tuổi thành niên, vừa chân ướt, chân ráo rời khỏi ghế nhà trường xong, tránh sao khỏi những choáng ngợp trước những gì mà bố mẹ tôi cũng quá sức răn dạy thường ngày. Tôi ý thức được rằng từ bây giờ trở đi mới thực sự là cuộc sống tự lập, thực sự cảm nhận được cảnh xa gia đình, quê hương, không nơi nương tựa, càng về sau này, ngẫm lại thì tôi càng thấy mệnh “ốc thượng thổ” của tôi càng chính xác (đất trên nóc nhà mà) dựa vào đâu được nữa kia!. Suốt chặng đường tàu liên vận chạy qua Sibêri, tôi “mục sở thị” được đất nước Liên Xô hùng vĩ, bao la và tuyệt vời như thế nào. Bấy giờ đương là cuối mùa hạ. Rừng Bạch Dương trắng trải bạt ngàn, cỏ xanh đến nõn nà. Hoa cúc dại nở thành rừng, vô tận là hoa. Trời thì thăm thẳm, bao la. Những bản nhạc dân ca Nga réo rắt qua loa phóng thanh của tàu làm tôi đắm chìm trong nỗi nhớ Quê. Đất Nga có cái gì như thân quen, gần gũi ngay từ lần đầu tiên khi ta đến. Cảm giác này tôi còn giữ được mãi khi sau bao nhiêu năm lại trở lại, và lần nào cũng thấy như thế. Chúng tôi về trường quân sự đào tạo học viên bay mang tên Sêrốp. Trường nằm gần thành phố Primorskơ- Akhtarsk cạnh biển Adôp. Sang trước đoàn chúng tôi đã có 2 đoàn học viên bay Việt Nam và một đoàn học viên bay của Inđônêxia (hồi ấy gọi là Nam Dương). Ổn định nơi ăn, ở xong, chúng tôi được phổ biến nội quy của trường và bước vào học chương trình lý thuyết, đồng thời học ngoại ngữ, văn hoá. Các thầy, cô giảng giải rất nhiệt tình, rất yêu mến chúng tôi. Họ đối xử với chúng tôi khác hẳn với học viên của Inđônêxia. Chúng tôi cần cù, chịu khó, tìm mọi cách để nắm bắt kiến thức mới mẻ. Rất may cho đoàn tôi là trưởng đoàn, phó đoàn đã là những người bay, những phi công thực sự và nhiều anh đang học ở các trường đại học, lũ còn lại chúng tôi đều tốt nghiệp lớp 10 nên nhận thức khá nhanh. Mấy tháng học lý thuyết trôi qua vùn vụt với mức độ không ngờ. Chúng tôi thấy cứng cáp hẳn lên, vẫn học nhưng vẫn rèn luyện theo đúng điều lệ, điều lệnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam: chạy thể dục sáng, tập https://thuviensach.vn đội ngũ, chào cờ, sinh hoạt đoàn, đọc báo.v.v... Chúng tôi đã thích nghi với đời sống trong quân ngũ. Lần đầu tiên trong đời, tôi thực sự biết thế nào là tuyết rơi, tiếp xúc với tuyết, cảm nhận được cái lạnh của nó, cái thơ mộng của nó. Cũng lần đầu tiên ở đất Nga tôi mới tận mắt thấy được thế nào là “mùa thu vàng” ở xứ sở này. Những cảm xúc thật khó tả. Cảnh vật nên thơ, ngân thành nhạc trong tâm hồn tôi. Đến bây giờ ngồi viết những dòng này, nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy nó hiện ra rõ mồn một và cảm giác của tôi như đang sống đúng ở những thời điểm ấy vậy. Thi xong lý thuyết, chúng tôi học nhảy dù trước khi vào học bay. Chuyện nhảy dù biết bao nhiêu điều đáng nói, đáng kể. Tập nhảy từ bục cao xuống để học cách tiếp đất, tập điều khiển dù và tập phóng ghế dù thì không nói làm gì, nhưng khi đeo dù vào người, trèo lên máy bay để nhảy ra thì đúng là lắm chuyện. Máy bay “cõng” chúng tôi lên độ cao khoảng 800m. Bọn tôi rất hồi hộp, mặc dù biết rằng dù thế nào cũng mở nhưng vẫn thấy sợ. Sợ vì lần đầu tiên được lên máy bay, lần đầu tiên thả người rơi trong khoảng không... nhiều thứ lắm, nhưng có một điều trong chúng tôi hầu như ai cũng nghĩ như ai, đó là lòng tự trọng của dân Việt Nam. Phải nhảy, sợ hãi rồi tính sau. Khi đèn hiệu trên máy bay báo là chúng tôi đứng lên. Cửa máy bay mở, thế là chúng tôi lao ra. Anh thì lao cắm đầu xuống như nhảy ở cầu bơi, anh thì nhảy rơi 2 chân như nhảy ở đống rơm, anh thì mặt quay đằng trước, anh quay đằng sau... loạn xạ cả. Mọi động tác lý thuyết thầy dạy quên đâu mất. Một anh lao ra, thế là lao theo bao anh sau, thế thôi. Cùng nhảy với bọn tôi có cả các học viên của Inđônêxia, bọn họ nhiều anh sợ phát khóc, có anh giáo viên phải lôi ra cửa máy bay đạp xuống, chứ không thì không dám nhảy. Lao người ra khoảng không, dù mở, nhìn quanh thấy dù của các đồng đội mình tròn như những chiếc nấm trứng trong không gian, chúng tôi bắt đầu la hét vì sung sướng, gọi nhau í ới cả. Dù của chúng tôi là dù tập, không có cửa điều khiển nên gió thổi kéo chúng tôi đi tan tác mỗi người mỗi nơi. Anh nào càng nhẹ thì càng đi xa. Gấp dù xong, ôm về nơi tập trung, bọn tôi gặp nhau hân hoan như con trẻ, dẫu sao thì cũng là kỷ niệm khó quên, là https://thuviensach.vn dấu ấn đầu tiên khi chúng tôi gắn bó với bầu trời. Ai nhảy dù xong thì được phát một chiếc huy hiệu chứng nhận đã nhảy dù, thật tự hào vì mình cũng làm được một vấn đề gì đó rồi. Chúng tôi học thực hành bay khi tiết trời lạnh, máy bay mở máy, người chúng tôi run lên với bao nhiêu cảm xúc lạ. Mùi dầu cháy thải ra sau động cơ ấm nồng, và tôi giữ được cho tới tận bây giờ khi đi sau các máy bay (hoặc mở máy hoặc vừa tắt máy) cái cảm giác hệt như chuyến bay đầu tiên của ngày bay đầu tiên. Thầy dạy bay năm thứ nhất của tôi là Đại uý Vaxiliep, phi công thứ 8 của Liên Xô về nhào lộn trên máy bay thể thao. Có lẽ cả đời học bay của tôi, bay L- 29 năm thứ nhất, năm thứ hai và bay MIG-21 năm thứ ba đều gặp được những thầy dạy tuyệt vời: nhân từ, kỹ thuật bay thật điêu luyện. Tôi đã học hỏi được rất nhiều ở các thầy, và có lẽ cũng vì nắm vững kỹ thuật bay nên mới tồn tại được qua chiến tranh. Tôi còn nhớ như in chuyến bay đầu tiên và đặc biệt là chuyến bay đơn đầu tiên. Run rẩy, sờ sợ khi trong tay mình bỗng dưng có độ cao, có tốc độ. Cũng đúng thôi, bấy nhiêu năm từ khi được sinh ra, toàn đi trên mặt đất. Bầu trời thì cao tít, thăm thẳm ở trên đầu đầy bí ẩn với những đám mây đủ hình thù, màu sắc; với giông tố, sấm sét, với những vì sao lấp lánh xa vời vợi, lung linh, huyền ảo... Vậy mà bây giờ chính mình lại bay lượn trên bầu trời, từ trên trời nhìn ngó xuống dưới mặt đất, ai mà không đầy ứ những cảm xúc. Phấn khích bởi mình đã làm chủ được máy bay, biết bay... lo lắng không biết rồi mình sẽ hạ cánh ra sao, có xử lý trôi chảy các hỏng hóc bất ngờ xảy ra không... nhiều thứ lắm! Có lẽ tất cả đồng đội của tôi cũng đều có những cảm xúc ấy cả. Đoàn chúng tôi có một số bị cắt bay vì lý do sức khoẻ, vì lý do kỹ thuật- bay mãi không hạ cánh được ...nên chuyển xuống học thợ máy. Khi bay đơn ổn định rồi, vốn tính còn trẻ con, nghịch ngợm của tuổi học trò, bọn tôi mới bắt đầu quậy- nào đi bẻ trộm hoa hướng dương về lấy hạt để rang, nào đi bẻ trộm ngô về luộc, nào đi bắn chim, bắt chim về để quay, nào bứt táo, bứt mơ, đào... đủ cả. Đến mức độ phi đội phải đưa tin lên tờ báo tường trong ban bay để cảnh cáo mới hạn chế được chút nào sự “phá https://thuviensach.vn phách” của chúng tôi. Được cái, đoàn trưởng của chúng tôi- anh Đinh Tôn (sau này trong chiến tranh chống không quân Mỹ đánh phá miền Bắc anh đã được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang) vốn là một phi công kỳ cựu, xuất thân từ lính trinh sát, cũng là tay nghịch ngợm ranh mãnh, nên rất thông cảm với những trò của chúng tôi, lắm khi còn bật đèn xanh cho chúng tôi nghịch nữa kia. Đoàn chúng tôi thuộc loại bay khá, tiếp thu khoa học kỹ thuật nhanh. Nhà trường rất mến mộ đoàn của bọn tôi và cũng khá ưu ái trong mọi chuyện. Càng nhiều người được bay đơn thì đoàn tôi sống càng sôi động. Hầu như không cần phải phát động thi đua, chúng tôi tự ganh đua nhau, tự phấn đấu bay sao cho tốt hơn, khí thế lắm. Thư từ gửi đi và gửi về của chúng tôi đều bị kiểm duyệt. Hồi ấy nhà nước giữ bí mật về lực lượng nên quản lý khá chặt, không để lượng thông tin bị rò rỉ ra ngoài. Chúng tôi viết về nhà thì thư phải qua hai phong bì; phong bì phía trong là địa chỉ của gia đình, phong bì bọc ngoài là một địa chỉ nào đó thuộc đoàn quản lý lưu học sinh. Về đến nhà, tổ chức mới dán tem Việt Nam gửi đi. Thư ở nhà gửi sang cũng vậy, gửi vào địa chỉ của đoàn quản lý học sinh, sau đó họ mới đóng gói chung, gửi sang cho bọn tôi. Chỉ mấy dòng chữ mang chút tình cảm thôi mà phải qua bao nhiêu dích dắc như vậy, nên khi thư đến tay người nhận thì đúng như một ngày hội. Niềm vui riêng, nỗi vui chung thật rộn rã vì chúng tôi sông với nhau rất chan hoà, cởi mở. Phần vì đã qua thời gian làm quen, hiểu hết được nhau rồi, phần vì cùng cảnh ngộ xa nhà, xa quê, phần nữa, đều là những lính bay, mà không ai hiểu phi công bằng phi công hiểu nhau. Những nỗi vất vả, gian truân, những nỗi buồn vui cùng bầu trời, những niềm đam mê trong khoảng không, những nguy hiểm trong lúc bay thì đúng chỉ là những người bay mới hiểu nhau thật cặn kẽ và thực sự thông cảm cho nhau. Trong đời bay của bọn tôi, ngay từ thời là học viên nhiều người cũng gặp không ít thăng trầm, thầy nóng tính chửi, đánh ở trên trời cũng có, mắng mỏ ở dưới đất cũng có. Đằng sau những tiếng cười đâu phải không có những dòng nước mắt cay đắng trào tuôn. https://thuviensach.vn Qua những tháng năm mùa Đông rét mướt, tuyết rơi ngập trắng đường, trắng sân bay, lại đến mùa tuyết tan, mùa xuân tới. Mùa xuân đất Nga thật lạ lùng, cảnh vật đổi thay từng ngày đến giật mình, đến ngỡ ngàng. Ngày hôm qua cánh đồng còn tuyết, ngày nay tuyết tan hết để lại một màu đất nâu sẫm, ngày mai thấy hơi phớt xanh, ngày kia đã xanh rờn cả cánh đồng vì lúa mì chồi lên. Cây cối hôm nay còn khẳng khiu, gầy guộc, ngày mai thấy mầm cựa mình, chui qua làn vỏ, ngày kia bật lá xanh, ngày sau nữa đã xanh ngút mắt, tuần sau đó đã là bạt ngàn hoa. Mới biết, sức sống bị kìm nén qua mùa dông đến lúc bung ra nó mới ghê gớm như thế nào. Đầu mùa hè, khi cả sân bay nở vàng một màu hoa cải, hoa bồ công anh thì là lúc chúng tôi chuẩn bị thi tốt nghiệp, thật căng thẳng, thật háo hức. Rồi cuối cùng việc gì đến cũng phải đến, chúng tôi kết thúc kỳ thi tốt nghiệp, được phát bằng chứng nhận tốt nghiệp loại máy bay huấn luyện phản lực L-29. Chúng tôi thấy mình chững chạc hẳn và so với những ngày mới nhập ngũ thì già dặn nhiều hơn, ra dáng nhiều hơn. Trường chọn trong số gần trăm anh em chúng tôi lấy 24 người để đi học bay chuyển loại thẳng lên MIG-21, số còn lại chuyển đi học bay MIG 17. Số 24 người được chọn có: 1. Đinh Tôn- Đoàn trưởng 2. Đào Minh Châu- Đoàn phó 3. Nguyễn Văn Khánh 4. Lương Thế Phúc 5. Hà Quang Hưng 6. Phạm Phú Thái 7. Nguyễn Ngọc Hưng 8. Nguyễn Văn Quang 9. Vũ Đình Rạng 10. Lê Toàn Thắng 11. Nguyễn Tuấn Ngòi 12. Nguyễn Tiến Sâm 13. Nguyễn Ngọc Hải 14. Lê Thanh Đạo https://thuviensach.vn 15. Nguyễn Đức Soát 16. Nguyễn Văn Nghĩa 17. Võ Xuân Quang 18. Nguyễn Hồng Mỹ 19. Đặng Xây 20. Bùi Văn Long 21. Vũ Như Ngữ 22. Trần Việt 23. Phạm Thành Nam 24. Nguyễn Công Huy. Cảnh chia tay nhau tại trường thật là bịn rịn, bùi ngùi, kẻ ở, người đi. Cùng một bầu trời, nhưng rồi khác không vực bay, khác chủng loại máy bay, căn cứ sân bay cũng khác, người học ở hệ máy bay cao hơn (MIG-21) người ở hệ thấp hơn (MIG-17). Ngậm ngùi lắm! Có cuộc chia tay nào ở trên đời này mà lại không thế!. https://thuviensach.vn Nhà trường tổ chức cho mấy anh em bọn tôi đi nghỉ hè ở bờ biển Hắc Hải, tại thành phố Gagra (gần Xô tri). Gọi là Biển đen thật không ngoa vì nước ở đây xanh thẳm gần như đen. Bầu trời thì xanh ngằn ngặt, không sợi mây, nắng vàng chảy chan hoà. Biển đen sẫm, mông mênh, không gian yên bình, không khí trong lành hít thở thấy như lượng ôxy ngấm vào từng phế nang quá dễ dàng và quá nhiều. Chúng tôi lặn ngụp trong nước biển Hắc Hải, nô đùa để quên đi chuỗi ngày lao động nặng nhọc vừa qua. Biển gột rửa cho chúng tôi mọi lỗi lầm, tăng cho chúng tôi thêm sức lực, nuôi cho chúng tôi bao ước mơ. Cũng ở biển Hắc Hải này, tôi đã học được thuật nằm nghỉ trên mặt biển- tay chân giang ra, bất động và người nổi như một tấm ván, mặc cho sóng đánh trôi dạt đi đâu thì đi. Quả là “đi một ngày đàng học một sàng khôn” là thế. Một tuần từ biển về, da chúng tôi anh nào anh đấy cứ như màu đồng hun. Các thầy cô trông thấy trầm trồ lắm, vì Châu Âu họ rất thích tắm nắng, dự trữ cái sắc da cho mùa Đông giá lạnh. Chúng tôi được chuyển đến trường Krasnôdar học lý thuyết MIG-21. Lại cặm cụi bài vở, bút sách với hàng đống số liệu, lại làm quen với những thầy cô mới, môi trường mới. Cùng học với chúng tôi có học viên của rất nhiều nước như Hungari, Tiệp Khắc, Mông cổ v.v... Thành phố Krasnodar https://thuviensach.vn là thành phố có khá nhiều công nhân Việt Nam mình sang học tập. Chúng tôi gặp nhau mừng rỡ lắm. Ở nước ngoài, thấy được người của quê hương mình hoặc người biết tiếng mình thì vui vô cùng. Sau khi thi xong phần lý thuyết của MIG-21 thì anh em chúng tôi lại trở lại trường cũ- trường Akhtari- bay lại loại máy bay L-29 nhưng với những chương trình nâng cao hơn. Chúng tôi được huấn luyện những bài bay nhào lộn kỹ thuật phức tạp, bay chặn kích, bay đánh chặn các loại máy bay có tốc độ nhỏ, trực thăng, bay công kích các mục tiêu mặt đất, bay những bài bay tự tìm và tiêu diệt mục tiêu trên không V.V.... Năm thứ hai bay ở loại này (L-29), khi chúng tôi đã quen máy bay, điều khiển được chúng, đã nắm được kỹ thuật rồi, chúng tôi mới sinh sự ra những trò nghịch ngợm mà nhà trường dùng cái từ là “lưu manh trên không” ví như: bay thấp để đuổi bò ở nông trường, bay sạt thật thấp qua bãi tắm ở bờ biển, tự nghĩ thêm các động tác nhào lộn không có trong bài bay v.v... Nhà trường phải cảnh báo nhiều lần, nhưng chẳng ăn thua gì. Sau rồi, có một phát minh ghi lại các tham số của chuyến bay (dù rất ít) như độ cao, tốc độ, quá tải, thời gian bay được ra đời và được lắp vào tất cả các máy bay thì nó cũng hạn chế phần nào những hành động ngỗ ngược của chúng tôi. Kết thúc chương trình bay đề cao, chúng tôi tạm biệt thành phố Akhtari (có lẽ là vĩnh biệt thì đúng hơn vì từ bấy giờ, tôi chưa có lần nào trở lại đấy cả). Thành phố, mái trường gắn với chúng tôi bao nhiêu là kỷ niệm. Nơi đầu tiên trong đời dắt chúng tôi vào bầu trời với những bước đi chập chững. Các thầy bay đã ví chúng tôi hệt như những con sẻ non, mới tập chuyền, cứ thấy đất là đáp xuống, chẳng cần chống gió, chống máy gì hết, mặc cho trượt, cho ngã. Vậy mà sau 2 năm, chúng tôi đã ra dáng một phi công. Công lao của các thầy cô dạy lý thuyết rất lớn. Công lao và ân đức của các thầy dạy bay rất dày; năm thứ nhất thầy Vaxiliep; năm thứ hai thầy Tikhônốp. Các thầy rất hiền từ, thông thái, kỹ thuật bay rất điêu luyện. Các thầy đã truyền cho tôi bao điều để nắm được thuật bay, để điều khiển máy bay hoạt động, cơ động theo ý của mình. Sau này, khi tôi trở thành giáo viên bay thì tôi lại càng quý trọng những thầy dạy bay của tôi xưa kia. https://thuviensach.vn Thành phố, nhà trường đã nuôi chúng tôi qua những năm tháng xa nhà, xa quê rất tận tình, đã bỏ quá cho chúng tôi biết bao nhiêu là trò nghịch ngợm, phá phách đầy tính con trẻ. Thành phố cũng là nơi cho tôi những người bạn Nga chân tình, uốn nắn cho tôi từng câu sai ngữ pháp, từng cách phát âm, cho tôi hiểu được phong tục, cách sống của người Nga, tính cách Nga. Xin cảm ơn, cảm ơn ngàn vạn lần mảnh đất này để rồi chúng tôi dứt áo ra đi đến ngôi trường mới, hoàn cảnh mới, thử thách mới. Chúng tôi sẽ vượt qua như đã từng vượt qua ở nơi đây. Chúng tôi lên tàu để đến Krasnôdar. Tàu chuyển bánh và chúng tôi bùi ngùi, cổ họng nghèn nghẹn và mắt rưng rưng. Chia tay, tạm biệt và những khó khăn lại đang chờ chúng tôi ở phía trước. Đến Krasnodar, chờ đoàn chúng tôi đã có một đoàn bay tốt nghiệp MIG-17 cùng chuyển sang bay MIG-21. Vậy là quân số của đoàn tăng thêm. Chuyển sang bay MIG-21 thẳng từ L-29 lên thì đoàn tôi là đoàn bay thí điểm đầu tiên. Máy bay chiến đấu hiện đại, tốc độ lớn, vũ khí tối tân... các thao tác phải rất nhanh, tính bằng giây, không thể bằng phút được. Có lẽ tốc độ hạ cánh của MIG- 21 là lớn nhất so với tất cả các loại máy bay phản lực chiến đấu, cho đến giờ vẫn vậy. Đó là điều khó khăn lớn nhất cho phi công, đặc biệt đối với những học viên như bọn tôi. Thầy dạy bay của tôi ở loại MIG-21- thiếu tá Bôgđanôp hay đùa: ở loại L-29 thì sau khi đối chuẩn đường băng xong, pha trà uống tàn ấm trà, máy bay cũng vẫn chưa đến điểm kéo bằng, MIG- 21 thì cái rẹt đã tiếp đất rồi- thế mới là máy bay chứ! Bọn tôi rất lo lắng và cũng quyết tâm hết mức để phải bay được trên loại MIG-21, vì biết rằng đây là loại vũ khí để mình bước vào trận chiến nay mai, không nắm vững nó, thì không bao giờ mình giành được thắng lợi trước kẻ thù. Dù quyết tâm lớn như thế, nhưng rồi đoàn tôi cũng không giữ được nguyên vẹn, vẫn phải rớt 3 anh xuống bay MIG- 17. Đó là các anh: Đào Minh Châu, Nguyễn Học Hải và Võ Xuân Quang. Ngày chia tay các anh để https://thuviensach.vn các anh về bay ở sân bay Cusốp là ngày buồn và nặng nề hết mức. Tôi có linh cảm là rồi rất khó gặp lại nhau, mà đúng như thế thật; Võ Xuân Quang đã hy sinh tại sân bay Cusốp, khi cất cánh lên, máy bay bị cháy và nổ ngay trên đầu đường băng. Quang là học sinh miền Nam tập kết ra Bắc học. Bấy nhiêu năm không được gặp ba, má và các em. Đêm chia tay với tôi để đi Cusốp, Quang tâm sự với tôi biết bao điều mà từ trước tới giờ chưa hề nói cho ai. Quang là người ít nói, nhưng hôm ấy lại nói rất nhiều, tôi chỉ là người nghe, không nói chen vào được tí nào. Vậy là đã ra đi, người trong số bạn bè đồng đội với cái chết rất vô lý. Tôi ngơ ngẩn, buồn bã như người mất hồn mất một thời gian vì nhớ bạn đến xót xa. Đến giai đoạn chúng tôi tốt nghiệp MIG-21, gộp chung cả đoàn MIG 17 lên bay có các anh: Phạm Đình Tuân Trần Thông Hào Nguyễn Phú Đức Trần Nhuận Trần Cung Nguyễn Cát A Vũ Xuân Thiều Ngô Văn Phú Phạm Văn Mạo Hoàng Quốc Dũng Trần Hoá Nguyễn Ngọc Thiên. Tổng cộng cả thảy là 33 anh em. Chúng tôi lại không được về nước cùng nhau, mà chia làm 2 đợt. Đợt đầu về có Đinh Tôn, Lương Thế Phúc, Phạm Phú Thái, Hà Quang Hưng. Chúng tôi ở lại huấn luyện thêm khoa mục bay thời tiết phức tạp và giới thiệu về bay đêm. https://thuviensach.vn Những ngày học bay MIG-21, chúng tôi nghịch cũng chẳng kém gì khi bay L-29. Cũng đủ trò; săn bắt chim, trộm cắp hoa quả, đánh nhau.. Thú vị nhất có lẽ là trò đi ăn trộm dưa hấu. Cứ cơm chiều về, nhá nhem tối là mấy đứa bọn tôi mang bao tải, dây buộc rồi lẳng lặng ra khỏi khu ở. Đi vượt qua cánh đồng ngô, cánh đồng hoa hướng dương là đến cánh đồng dưa. Sau khi qua khu vực trồng hướng dương là chúng tôi phải bò, vì địa hình rất trống trải. Trời càng tối thì hành sự càng dễ dàng. Một đầu dây buộc vào cổ chân, một đầu dây buộc vào mép túi hay bao tải, bò ở luống dưa, lấy tay sờ thấy quả nào cuống bé tức là quả đã già, bứt lấy, co chân kéo túi lên, cho dưa vào túi, vào bao, lại bò sờ tiếp. Khi nào thấy chân không kéo nổi nữa, tức là nặng quá rồi thì đình chỉ hoạt động, chuồn về cùng với chiến lợi phẩm. Chúng tôi gọi trò này là trò “đi gỡ bom”. Thật là quá đáng! Bao nhiêu năm sau, khi học ở Học viện Quân sự mang tên Gagarin có dịp tôi trở lại trường, ra lại cánh đồng, tình cờ gặp lại đúng ông già gác dưa vẫn còn sống, tôi ngồi hàn huyên, nói chuyện cũ rồi ôm nhau cười chảy nước mắt. Không ngờ trò nghịch ấy, mấy chục năm sau mới được giãi bày. https://thuviensach.vn Chúng tôi còn phát hiện được một cái ao giữa cánh đồng, có biết cơ man nào là ếch, và ao đó được đặt tên là “ao một triệu con ếch”. Cách vài chủ nhật, chúng tôi lại phái mấy tên “đồ tể” ra đó tiêu diệt các sinh linh loài lưỡng cư này một lần. Lột da chỉ chặt lấy đùi, tổng cộng khoảng 1- 2 kg là xách về xào nấu um hết cả lên. Tìm cách bắt cả chó để thịt, bồ câu để nấu cháo, rồi đến mức quạ cũng không từ. Đứng hạng nhất, nhì là ma quỷ thì chẳng thấy đâu, chỉ thấy các tướng ở hạng thứ ba này quấy phá cũng đã ghê sợ rồi. Trước khi về nước, nhà trường cho chúng tôi đi tham quan, giao lưu với một nông trường ở Brukhôvétskaia. Brukhôvétskaia là tâm không vực số 4 trong các không vực bay của chúng tôi. Chúng tôi bay vào không vực, lấy Brukhôvétskaia- một khu dân cư như một thành phố nhỏ làm chuẩn và tiến hành các động tác nhào lộn của bài bay với các độ cao quy định. Đã có lần ở trong không vực này, một phi công trong đoàn bay của tôi khi bay đã để tốc độ vượt tiếng động ở độ cao dưới quy định. Một số cửa kính của nhà cao tầng bị vỡ hết. Ngay sau đó còn có điện của nông trường gửi đến trường phàn nàn rằng ngoài việc cửa kính bị vỡ ra, bò còn không cho sữa và gà cũng không đẻ được. Và bây giờ thì chúng tôi đến thăm Brukhôvétskaia thực sự, không phải là cảnh ở trên trời nhìn xuống nữa, mà rõ ràng là đi trên mặt đất của nông trường. Thật là một ngày đáng nhớ. Xe chúng tôi đến cách nông trường khoảng 5 km đã thấy bà Chủ tịch và đoàn kỵ mã đứng đón. Những người Côdắc vùng sông Đông này quý khách vô cùng. Lần đầu tiên trong đời tôi được dự bữa tiệc ngoài trời trên đất Nga đầy nghi lễ truyền thống và tính cách Nga. Khi biết được chúng tôi là những phi công sắp tốt nghiệp để về nước tham gia chiến tranh thì không khí bữa tiệc bỗng chùng hẳn xuống. Một bà mẹ Nga ngồi cạnh tôi oà khóc, ôm lấy tôi và nói rằng: “Con ơi! mẹ đã hiểu thế nào là chiến tranh. Mẹ đã từng tham gia cứu thương. Chồng mẹ, con trai của mẹ đã hy sinh hết trong chiến tranh Vệ quốc vĩ đại rồi, mẹ chỉ còn mỗi một mình. Con còn trẻ quá, mà bọn phi công Mỹ thì chúng nó như những https://thuviensach.vn con sói già. Con làm sao thoát khỏi nanh vuốt của chúng nó được! Con ở đây với mẹ đi, mẹ nuôi con được mà!” Tôi đã trả lời: “Không! con phải về, con rất cám ơn mẹ, nhưng Tổ quốc con đang rất cần chúng con!” Nhiều bà mẹ khóc lắm! Nhiều người khóc lắm! Tôi cũng khóc! Quả thực, chúng tôi dẫu sao cũng vần còn là trẻ con, tuổi đời mới 20, thoát khỏi đời học sinh lại tiếp đến đời học viên, lấy đâu ra kinh nghiệm ngoài đời, lấy đâu ra sự va chạm ngoài cuộc sống. Vậy mà nay mai đây thôi, chúng tôi phải qua cổ họng của chiến tranh, phải lăn vào sự tàn khốc đến khắc nghiệt, gian nan đến tột cùng, sự hy sinh hết mình, sự gắn liền với máu lửa, chết chóc, mất mát, đau thương, sự tàn phá đến kinh khủng... Trong chúng tôi đây, những khuôn mặt còn hồng hào, mịn lông tơ... ai sẽ còn, ai sẽ mất! Bữa tiệc thành thử diễn ra trong không khí nặng nề. Chúng tôi sớm chia tay. Trước lúc lên xe, các mẹ, các chị còn ôm chúng tôi nói qua nước mắt, nghẹn ngào: “Phải sống nhé! Các con phải sống nhé!”. Chúng tôi cũng oà lên, hứa rằng: “Sẽ sống! Chúng con sẽ sống”. Và có lẽ đấy cũng là lời thề của chúng tôi, lời thề của những phi công mới tốt nghiệp, đứng trước ngưỡng cửa của chiến tranh! Nhà trường làm lễ tốt nghiệp cho chúng tôi. Cùng đoàn bay 33 anh em chúng tôi, còn có 300 anh em thợ máy, những người nay mai phục vụ đảm bảo cho các máy bay luôn sẵn sàng ở vị trí tốt nhất, chờ xuất kích, những người sẽ gắn bó với chúng tôi ở các tuyến trực chiến, ở các cuộc bay huấn luyện, ở sân bay căn cứ hay sân bay dã chiến, những người sẽ cùng chịu gian nan vất vả cùng chúng tôi, cùng chia sẻ vui buồn với chúng tôi suốt chặng đường bay sau này. Tạm biệt trường. Tạm biệt thầy cô, bạn bè. Ơn của thầy cô, của bạn bè, chúng tôi sẽ đền đáp lại bằng những chiến công của những lần xuất kích, trong những trận không chiến. Thầy cô, bạn bè chắc sẽ không phải thất vọng về học trò, về bạn hữu của mình. Chúng tôi sẽ sống như đã sống, sẽ chiến đấu dũng mãnh như các phi công mới ra trường cùng ở lứa tuổi chúng https://thuviensach.vn tôi thời chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Chúng tôi sẽ chiến đấu ngoan cường như các phi công lớp đàn anh của chúng tôi đang chiến đấu. Dẫu sao thì chúng tôi cũng thừa hưởng được truyền thống anh hùng, cũng học hỏi được ít nhiều kinh nghiệm của các lớp cha anh trong chiến tranh. Chúng tôi sẽ xứng đáng với niềm tin của các thầy cô, bạn bè. Và đúng thật, sau này khi tổng kết chiến tranh, đoàn tôi đã không phải tủi hổ bởi những năm tháng sống và chiến đấu của mình. 6 người được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng các lực lượng vũ trang, rất nhiều người bắn rơi máy bay của Không quân Mỹ, trong đó có tôi, cũng đáng tự hào lắm chứ!. Chúng tôi tạm biệt trường Krasnôdar với tâm trạng vừa bịn rịn, quyến luyến, vừa háo hức mong muốn nhanh trở về quê hương tham gia chiến đấu. Tất cả xáo trộn hết. Và chúng tôi, những đứa trẻ mới 20 tuổi đã phải gánh nặng tất cả những thứ ấy vào cuộc chiến, làm sao mà không già trước tuổi!. Trung tuần tháng 4 năm 1968, sau 10 ngày 11 đêm nằm trên tàu liên vận thì chúng tôi về đến quê nhà. Ngay những phút giây đầu tiên ở biên giới Tổ quốc, chúng tôi đã hiểu thực sự thế nào là chiến tranh, thế nào là sự tàn khốc, khắc nghiệt... mà ngay mai đây thôi, chúng tôi phải đối mặt với chúng. Chúng tôi được tranh thủ về nhà mấy ngày. Sự gặp gỡ với những người thân sau 3 năm biền biệt nơi đất khách quê người, mà mình thì ở trong khung cảnh yên bình, nhưng người thân lại nằm trong khung cảnh đạn bom sống nay, chết mai diễn ra trong nỗi hân hoan đến tột cùng, chẳng sao tả nổi. Bất kỳ lần gặp gỡ nào khi ra đi, tôi lại cứ lo sợ rằng đấy là lần gặp cuối cùng của tôi. Trong chiến tranh, cái gì cũng có thể xảy ra cả!. Chúng tôi trở lại đơn vị, được biên chế vào các đại đội bay của Trung đoàn 921. Lúc bấy giờ Trung đoàn có 2 Đại đội (Đại đội 1 và Đại đội 2). Đoàn chúng tôi được phân chia ra để biên chế về 2 đại đội. Đại đội 1 gồm các anh: Phạm Thanh Ngân https://thuviensach.vn Mai Cương Nguyễn Văn Cốc Nguyễn Văn Lý Đặng Ngọc Ngự Hoàng Biển Nguyễn Văn Minh Là các anh cán bộ Đại đội, Trung đội và các phi công lớp đàn anh. Đoàn tôi thì gồm: Hà Quang Hưng Phạm Phú Thái Nguyễn Văn Khánh Phạm Thành Nam Trần Hoá Hoàng Quốc Dũng Nguyễn Phú Đức Bùi Văn Long Nguyễn Ngọc Thiên Lê Thanh Đạo Nguyễn Hồng Mỹ Nguyễn Văn Quang Đặng Xây Phạm Văn Mạo Vũ Đình Rạng Đại đội 2 có các cán bộ đại đội, Trung đội và các phi công đàn anh là: Lê Trọng Huyên Vũ Ngọc Đỉnh Đồng Văn Song Bùi Đức Nhu Nguyễn Văn Lung Nguyễn Đăng Kính Nguyễn Văn Thuận https://thuviensach.vn Và lớp trẻ chúng tôi có: Đinh Tôn Lương Thế Phúc Nguyễn Đức Soát Nguyễn Tiến Sâm Nguyễn Văn Nghĩa Trần Việt Ngô Văn Phú Nguyễn Ngọc Hưng Trần Nhuận Phạm Đình Tuân Nguyễn Tuấn Ngòi Lê Toàn Thắng Nguyễn Công Huy Nguyễn Cát A Trần Cung Vũ Xuân Thiều Trần Thông Hào Vũ Như Ngữ Khoảng cuối năm 1968 thì Trung đoàn biên chế thêm Đại đội 3 (sau này là Đại đội 5). Các phi công của Đại đội được lấy từ 2 đại đội kia sang. Biên chế của Đại đội 3 gồm các anh: Đinh Tôn- Đại đội trưởng Nguyễn Đăng Kính- Đại đội phó Và 3 trung đội bay Hoàng Biểu- Trung đội trưởng Phạm Văn Mạo Đặng Xây Nguyễn Văn Quang Nguyễn Văn Minh- Trung đội trưởng Trần Cung Vũ Đình Rạng https://thuviensach.vn Trần Thông Hào Nguyễn Hồng Mỹ Nguyễn Văn Thuận- Trung đội trưởng Vũ Xuân Thiều Nguyễn Công Huy Nguyễn Cát A Trần Nhuận Đại đội chúng tôi là đại đội hoạt động chiến đấu ban đêm, tuy nhiên vẫn nhận nhiệm vụ trực chiến ban ngày, nhưng nhiệm vụ chính là đánh đêm. Anh em tôi gọi đùa nhau là thân phận con nhà vạc. Và thế là cuộc đời của chúng tôi nói chung, của tôi nói riêng bắt đầu lật sang trang- cuộc đời của một chiến sỹ lái máy bay thực sự bước vào cuộc chiến!. https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn Chương III- Thử lửa Chúng tôi về Trung đoàn cuối tháng 4/1968 thì đầu tháng 5/1968 tôi đã cơ động vào sân bay Sao Vàng Thọ Xuân (Thanh Hoá) để trực chiến. Sân bay được mang mật danh B1. Hồi đó, bọn tôi chỉ được đánh nhau trên vùng trời phía Bắc Sông Lam trở ra. Mọi tiêu chuẩn thì lại được hưởng như những người đánh Nam Sông Lam. Tôi bay số 2 cho anh Đinh Tôn, tham gia bay ra Hòn Mê, Hòn Mát, dẫn đi dẫn về nhưng không gặp địch. Nhân dân rất quý chúng tôi. Các bà, các mẹ, các chị, các em đến thăm hỏi tíu tít, liên tục. Con gái Thanh Hoá lại bạo dạn, tôi thì mới ở tuổi thanh niên, lắm phen cứ ngượng đến chín cả người vì sự chăm sóc hơi thái quá của các o xứ Thanh. Chúng tôi phải tập bay thấp, rồi bay cực thấp, tôi gọi những bài bay này là bài “mò cua, bắt ốc”. Không bay thật thấp như thế, thì các tàu rada của Mỹ ở ngoài biển Đông phát hiện ra chúng tôi ngay và tên lửa Talos từ hạm đội sẽ choảng vào lưng chúng tôi liền. Tổng số giờ bay của tôi khi học ở trường, cả hai loại L-29 và MIG-21 mới chưa được 200 giờ. Đội bav gọi chúng tôi bấy giờ là những con cừu non, còn ngơ ngác, ngỡ ngàng trước mọi việc thì đã được quẳng vào lò lửa chiến tranh rồi. Trong chiến tranh, tất cả đều phải tôi luyện, bản lĩnh của một con người dần hình thành và củng cố, phát triển. Nhân phẩm từng người được bộc lộ rõ rệt. Mọi thứ giả tạo, hào nhoáng không còn, tất cả như đều trần trụi, đanh cứng trong khói lửa, trong hiểm nguy. Mọi hèn nhát, kể cả trong ý nghĩ cũng không có chỗ đứng. Tôi đã được chứng kiến và đã được tôi luyện qua thời kỳ ác liệt như vậy. Bay thấp, đấy gần như là cái thú sở trường của tôi từ hồi còn là học viên của trường, về đến nhà, ở vào hoàn cảnh cơ động trong chiến tranh, nó càng được phát huy. Bọn tôi đã mở những cuộc “quân sự dân chủ” bàn về cách bay thấp. Sau đó một thời đua nhau bay thấp, đến mức có anh bay quệt cả vào bụi tre, giắt theo một cành tre vào bệ tên lửa về hạ cánh, lăn vào sân đỗ trông máy bay cứ như con bò vừa đi vừa nhai lá. Có trường hợp, sau này https://thuviensach.vn bay quệt cả vào đường dây cao thế, phải nhảy dù vứt máy bay, chịu kỷ luật. Nhìn chung, cái gì thái quá cũng đều không hay. Nhưng suy cho cùng, nếu trong giai đoạn chiến tranh, chúng tôi không bay thấp lọ mọ như vậy, thì chắc cũng khó hoàn thành được nhiệm vụ. Tôi bay quen với địa hình miền trong rồi, nên rất được tín nhiệm chuyển máy bay vào, ra. Máy bay trong đó có gì trục trặc, nếu tôi đang ở trong đó thì bay ra lấy máy bay tốt vào, còn nếu tôi đang ở ngoài này (ý tôi muốn nói là căn cứ của Trung đoàn- sân bay Đa Phúc) thì tôi bay chiếc tốt vào, chuyển chiếc trục trặc ra. Chỉ mấy tháng trong năm 1968 thôi, mà tôi cũng đã được cất, hạ cánh và trực chiến đủ ở các sân bay trên miền Bắc: Đa Phúc (nay gọi là Nội Bài), Yên Bái, Kép, Kiến An, Gia Lâm, Thọ Xuân... Chúng tôi chưa được phong quân hàm sỹ quan, Học ở trường, tôi đeo quân hàm hạ sỹ thì bây giờ cũng vẫn vậy. Có anh còn đeo quân hàm binh nhất, tới tận lúc nhảy dù vì có sự cố trong chiến tranh khi tiếp đất, dân quân “tóm được” khai là: binh nhất, chiến sỹ lái mà chẳng một ai tin. Cuộc sống thời chiến cuốn hút chúng tôi, chẳng ai nghĩ gì cho riêng mình, thậm chí có đồng đội hy sinh cho đến tận bây giờ tìm một chiếc ảnh ra hồn để đặt trên bàn thờ mà cũng không có nữa kia. Suốt năm 1968, tuy xuất kích nhiều, cơ động và trực ở lắm sân bay, lặn lội như thế nhưng tôi chưa lần nào tiếp địch, chưa lần nào không chiến. Có lẽ, mức độ hoạt động của Không quân Mỹ thời điểm đó ở Bắc vĩ tuyến 20 còn ít, và cũng có lẽ cấp trên cho chúng tôi cứng cáp thêm, dạn dĩ thêm trước khi giáp mặt thật sự với lũ giặc trời dày dạn kinh nghiệm như những con sói già trên không. Tổn thất trong chiến tranh là sự thường tình. Thắng lợi của bên này, nghiễm nhiên là thất bại của phía bên kia, không một ai muốn phía mình bị tổn thương, bị thiệt hại, biết rằng điều ấy không bao giờ là hiện thực, nhưng vẫn cứ mong là như vậy. Lực lượng của chúng tôi so với Không quân Mỹ thì không lấy hệ số tương quan nào để có thế áp dụng được, vì chúng tôi quá mỏng, bản thân một máy bay F.4 (Con Ma) của Mỹ cũng đã có 2 giặc https://thuviensach.vn lái, MIG-21 chúng tôi lại chỉ có một lái. Chúng tôi xuất kích nhiều nhất chỉ là biên đội 4 chiếc- 4 anh em, còn Không quân Mỹ thì bao giờ cũng rầm rộ với đủ các nhiệm vụ trong đội hình: trinh sát, gây nhiễu, chế áp các lực lượng phòng không, quét sạch bầu trời, tốp đánh chính, tốp đánh phụ, lực lượng tiếp viện v.v... mà mỗi máy bay bình quân cứ nhân với 2 giặc lái thì đủ biết có bao nhiêu tên giặc ở trên trời mà mấy anh em chúng tôi phải đối đầu. Chiến trường trên không không có chiến hào, máy bay chỉ bay tiến, không biết dừng, không biết lùi. Bầu trời mênh mông không có nơi ẩn nấp. Dầu liệu có hạn, không thể bay từ sáng tới chiều, từ ngày này sang ngày khác được. Pháo ở mặt đất, các loại súng phòng không, các loại tên lửa phòng không bắn lên nhằng nhịt như những bức tường lửa. Hòn tên, mũi đạn bấy giờ đâu phân biệt được địch, ta. Đồng đội chỉ một vài người, có khi không có ai. Vào trận rồi, nháo nhào không sao liên lạc với nhau qua đối không được vì nhiễu. Dẫn đường ở mặt đất chỉ dẫn mình đến khi mình phát hiện dược địch. Còn đánh ra sao, rút ra sao, về đâu hạ cánh, đi đứng thế nào, thì càng về sau này càng khó chỉ huy, khó liên lạc, vì thường khi xáp trận cũng là lúc bị gây nhiễu đến kinh khủng, nói không ai nghe, cũng chẳng ai nghe được ai. Đấy! Mọi khó khăn của phi công chiến đấu trong chiến trận là như thế. Những năm cuối của chiến tranh, đặc biệt năm 1972, rất nhiều lần tôi phải xuất kích một mình, làm nhiệm vụ một mình, không những ở bầu trời đất nước mình, mà sang cả nước bạn, tôi sẽ kể sau. Cũng vì lực lượng anh em tôi ít như thế, nên chúng tôi luôn phải giữ gìn. Lịch sử của cha ông để lại thì đất nước mình trong quá trình giữ nước cũng luôn phải lấy ít địch nhiều, nhu chế cương... vẫn phải tìm mọi cách bảo toàn lực lượng của mình. Chúng tôi cũng cố gắng như vậy, nhưng như tôi đã nói ở trên, cuộc chiến nào mà chẳng có người phải ngã xuống. Tổn thất đầu tiên đến với đoàn tôi là vào năm 1969, biên đội của Trần Hoá (tức Hai Đỏ) xuất kích bay đuổi địch tít ra ngoài biển. Hoá bị bắn rơi, nhảy dù xuống biển, nhưng hôm ấy gió to, sóng lớn, lùng nhùng những dù, thuyền phao trôi mất, rồi còn những gì nữa tôi không rõ... Hoá đã hy sinh ngoài https://thuviensach.vn biển. Mấy ngày sau, xác dạt vào một bãi sú ở Thái Bình. Hôm ấy tôi đang trực ở sân bay Yên Bái, nghe tin mà tất cả anh em chúng tôi lặng đi. Thương tiếc đồng đội vô hạn, thế là đã ngã xuống người đầu tiên. Hoá là học sinh miền Nam tập kết ra Bắc học, rất có nhiều tài vặt trong lĩnh vực văn nghệ, thể thao như đàn hát, thủ môn bóng đá, nhào lộn trên lưới, xà v.v... Chúng tôi có mấy người kết nghĩa với nhau, theo lứa tuổi mà định anh, em. Trần Hoá cao tuổi hơn cả, nên được làm anh, gọi theo phong tục miền Nam là anh Hai. Da rất đen nên anh em gọi chệch đi một tý cho có vẻ thi vị là Hai Đỏ. Tôi đứng thứ chín. Vì hồi đó tôi có thế ghé vai vào đầu máy bay MIG-21 nâng được cho càng trước máy bay thẳng được ra nên anh em gọi tôi là Chín Kích. Sau này, tôi còn rất nhiều tên huý nữa tuỳ thuộc vào từng thời điểm, từng “chiến tích” của tôi lập ra, ví như khi tôi bị nhảy dù trong một trận không chiến lưng tôi không bị xẹp đốt sống nào, cũng chẳng thấy đau đớn gì thì anh em gọi là Huy “bê tông”, hoặc khi bay sang vùng trời của đất nước Lào, quần nhau với F.4 ở bên ấy, bị bắn túi bụi, tôi vẫn về được, thì anh em lại gọi là “thằng chọc tổ ong”, “thợ không chiến”, “thợ tránh tên lửa”, “Huy hiệp sỹ”, Huy “Tắc giăng”, khi mắt tôi bị kém (bị cận) thì lại còn có thêm cái tên là Huy “loà” nữa. Nhưng đại đa số đều gọi nhau bằng thứ bậc: ví như gọi “Chín ơi” là tôi phải thưa liền. Cho đến tận lúc này, điểm lại thì chỉ còn có 3 anh em “Bảy Việt (trước là Sư trưởng Sư đoàn 371, rồi Tham mưu trưởng Quân chủng Không quân), Tám Soát (Tư lệnh Quân chủng Không quân) và tôi. Gặp nhau, chúng tôi vẫn gọi nhau theo thứ bậc mà thôi. Anh Hai Đỏ đã hy sinh, chúng tôi, chất nặng thêm mối thù và mong muốn đi trả thù. Đối với tôi, bầu trời chất dày nợ nần; có thể, với người khác thì duyên nhiều nợ ít, nhưng với tôi thì duyên vô cùng ít, mà nợ thì quá nhiều. Nợ cho tới tận bây giờ, cho đến tận lúc tôi nhắm mắt xuôi tay tôi cũng không sao trả hết nợ. Thậm chí, có lúc nghĩ lẩn thẩn, tôi cho rằng có khi lúc tôi chết, mắt tôi vẫn mở trừng nhìn lên bầu trời mà không nhắm nổi. Sang năm 1970 thì chúng tôi lại mất thêm 2 người nữa: Phạm Đình Tuân và Phạm Thành Nam. Anh Tuân thuộc lớp lớn tuổi, đã có vợ con. Biên đội của anh, anh bay số 2 cho anh Vũ Ngọc Đĩnh sang đánh ở phía https://thuviensach.vn Tây Trường Sơn, khu vực bầu trời tỉnh Nghệ An. Trận này, anh Đỉnh bắn rơi một chiếc, còn anh Tuân không về. Anh đã mãi mãi xếp lại đôi cánh của mình ở dải Trường Sơn. Khi nghe bài hát “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” thì lòng tôi bao giờ cũng trĩu nặng, nước mắt dâng đầy cứ muốn trào ra vì nhớ đến anh. Một điều ân hận lớn nhất của anh em chúng tôi trong đoàn là không biết anh rơi ở đâu để có thể tìm được hài cốt của anh, đưa về quê nhà. Mãi tận sau này, đến tận năm 2007, nhờ vào thần giao cách cảm của nhà ngoại cảm, gia đình mới đưa được anh về. Phạm Thành Nam cũng là học sinh miền Nam tập kết ra Bắc, đẹp trai, rất có tài trong lĩnh vực hội hoạ, cùng lứa tuổi tôi. Nam đi với Phạm Phú Thái (Tham mưu trưởng Quân chủng Không quân, sau là Tư lệnh phó Quân chủng Phòng không- Không quân) vào quần nhau với lũ F4, bị bắn rơi và hy sinh. Không có mất mát nào là không nặng nề. Lòng chúng tôi ngày càng trĩu những nhớ thương, càng đanh lại... Các anh em thợ máy, các anh chị em nuôi quân là những người gần gũi chúng tôi hàng ngày, thương xót chúng tôi lắm. Cảnh thợ máy cầm cần dắt đứng đợi máy bay của mình ở sân bay mà mãi không thấy về, ngậm ngùi vào hầm trực, lúc sau lại ra ngóng... Cảnh các chị nuôi thấy cuối ngày trực, chỉ thấy xách thùng bay không, mà chẳng thấy người về theo là oà khóc hàng loạt... Tôi cho rằng, phải sống với nhau qua thời đạn bom, thật thông cảm cho nhau, quý nhau có thể còn hơn anh em ruột thịt thì mới có được như vậy. Và những điều ấy càng làm tăng thêm trách nhiệm của anh em phi công chúng tôi, quyết ra đi là đánh thắng, ra đi là phải trở về. Và không ít anh em chúng tôi đã làm được như vậy, kể cả lập được những kỳ tích nữa. Để tung được một máy bay lên trời cần mấy chục thành phần dưới mặt đất phục vụ: từ thợ các ngành: cơ giới, đặc thiết, quân giới... từ các kíp trực ở sở chỉ huy: tác chiến, dẫn đường, tiêu đồ xa, tiêu đồ gần, thông tin, khí tượng, quân báo, cơ yếu... đến quân y, nuôi quân.v.v... nhiều lắm! Tất cả những thành phần đảm bảo ấy cũng tựa như những đám mây tích điện, còn chúng tôi- những phi công chiến đấu chỉ như tia chớp giữa trời, tạo bởi các đám mây tích điện kia mà thôi. Hồi ấy, chăm sóc cho chúng tôi ăn uống thì khổ nhất là anh chị em nuôi quân. Bom rơi, đạn nổ đến mấy cũng vẫn phải https://thuviensach.vn gánh cơm cho chúng tôi đang ở tuyến trực, ngày cũng thế, đêm cũng vậy, anh em tôi đã phải thốt lên: Mai ngày bắn máy bay rơi Chiến công một nửa, tặng người nuôi quân. Cũng đủ để biết rằng công lao của ngành hậu cần trong những giai đoạn ấy lớn đến chừng nào. Gần giữa năm 1970 thì tôi được đào tạo gấp một khoá bay thử máy bay để sang sân bay Tường Vân (Trung Quốc) bay thử và chuyển máy bay về nước. Vì năm 1969, chúng tôi phải sơ tán bớt những máy bay mới lắp ráp sang đó, bảo tồn lực lượng. Kíp của tôi có anh Vũ Ngọc Đỉnh, Nguyễn Đăng Kính, Nguyễn Ngọc Thiên, Nguyễn Tiến Sâm và tôi, được phi công nhà máy của Liên Xô với kinh nghiệm dày dặn, lão luyện trong nghề truyền cho những bài bay thử. Phải nói rằng, sau khoá ấy, trình độ bay, thuật bay của tôi trội lên hẳn. Cho mãi tận sau này, khi tôi là giáo viên bay, tôi dạy lại cho các học viên của mình những động tác trong bài bay thử mà có một số anh còn sợ không dám áp dụng. Ví dụ như sau khi cất cánh, thu càng xong, để nguyên cánh tà, giữ tốc độ chỉ khoảng 350- 360 km/h, kéo lên góc theo Agd là 32°, đến đầu đường bay thì độ cao đã đạt được khoảng 2500- 2800m rồi, hoặc vòng mặt bằng- thả cánh tà 25°, bật tăng lực và kéo máy bay sao cho có độ rung (tôi vẫn đùa nói là run bần bật) để đạt được bán kính vòng nhỏ nhất... chẳng hạn. Không phải ai cũng dám làm và không phải ai cũng làm được chính xác. Năm anh em chúng tôi cùng mấy tổ thợ máy được chở bằng máy bay IL-14 bay qua Nam Ninh rồi đến Tường Vân. Sân bay Tường Vân là sân bay ở độ cao 2500m so với mực nước biển, cách sân bay Đa Phúc chừng 700km đường chim bay, dọc thẳng Sông Hồng lên. Khí hậu ở đấy khắc nghiệt vô cùng. Ngay hôm đầu tiên sang, khi ngủ dậy tôi phát hoảng vì. thấy gối đầy máu, sờ mặt mình cũng đầy máu. Các anh em khác đều thế cả. Ra là vì rất khô hanh, các mao mạch ở mũi vỡ, thành thử bị chảy máu cam luôn. Chúng tôi cứ phải đặt một chậu nước đầy dưới gầm giường của mình để tăng thêm độ ẩm. Nước thì lạnh như nước đá, muốn giặt quần áo lại phải https://thuviensach.vn đun một thùng nước để pha cho bớt lạnh thì mới giặt được, chỉ được cái quần áo khô nhanh, vừa mới phơi, quay ra quay vào là khô ngay rồi. Mỗi tuần chúng tôi tắm có một lần. Đi bộ khoảng 3km ra suối nước nóng, ở đó có suối nước nóng như suối Kênh Gà của nước mình. Tắm ở đó chẳng sợ gì bệnh ngoài da thâm nhập cả. Chết cười là hôm đầu tiên đi tắm, ú ớ thế nào, tôi đi lạc lối, xông vào nhà tắm nữ (vì mình đâu có biết chữ, biết tiếng Trung Quốc). Khoảng 30 vị trần như nhộng ở trong phòng tắm chung la hét loạn lên, cái cảnh hoảng loạn còn hơn cả cáo vào chuồng gà. Tôi cũng hoảng, chạy ra loanh quanh một lúc mới chui được vào nhà tắm nam, tim đập như trống ngũ liên hộ đê. Khiếp quá! Bảo vệ sục đi hỏi nhưng chẳng ai biết ai, vì nhà tắm chung lúc nào cũng có khoảng 20- 30 người trần trụi hết, té nước, kỳ cọ, ào ào như chợ vỡ ấy, biết đâu mà lần. Tôi bị phen hú vía ấy, mấy ngày sau mới dám kể cho các anh em khác nghe, đâm hoá dại mồm, dại miệng, cứ bị trêu suốt. Tốp bay thử của chúng tôi cũng gặp khá nhiều gian nan. Máy bay để lâu một số khí tài hỏng, lại phải đợi ở nhà mang sang mới có cái thay. Bay chuyến nào, lo chuyến ấy. Gió cạnh rất to và gió suốt ngày đêm, bụi thốc mịt mù ngoài sân bay, đi ngược gió không mở mắt được vì như bị ném cát vào mặt vậy. Tôi nhớ, có một chuyến tôi bay thử một máy bay bị mất lý lịch động cơ. Tâm trạng đầy lo âu, luôn phải sẵn sàng xử lý các bất trắc xảy ra. Tăng lực không có độ giật, chỉ nghe đánh phào một tiếng mà thôi. Lết mãi đến cuối đường băng mới tách được đất. Các động tác ở trên trời tôi không dám kéo cho hết tính năng. Anh em ở dưới đất thì lo ngại, Nguyễn Ngọc Thiên (mấy anh em kết nghĩa với nhau, anh đứng thứ sáu với biệt danh Sáu Cơ bởi người toàn cơ bắp) kết cho tôi một vòng hoa dại với ý đồ, nếu chuyến ấy tôi bị làm sao thì vòng hoa ấy sẽ đặt lên mộ tôi, còn tôi không sao thì sẽ đeo vào cổ tôi thành vòng hoa chiến thắng. Rất chật vật, tôi mới đưa được máy bay vào đầu đường băng và cho tiếp đất. Tôi lăn về sân đỗ, thì Sáu Thiên ào lên, nhảy vào buồng lái, đeo vòng hoa vào cổ tôi và hôn lên khuôn mặt đỏ bừng, đẫm mồ hôi của tôi mà rằng: “Tao chúc mừng thằng Chín, cứ ngỡ phải đặt vòng hoa này ở mồ mày kia!”. Tôi cười và nhại giọng miền https://thuviensach.vn Nam (vì Thiên là học sinh miền Nam tập kết): “Em về em méc tía cho coi. Anh muốn em hổng méc thì phải ghé lưng cõng em, chịu hôn?”. Tất cả cười vui lắm, có anh thợ máy còn rân rấn nước mắt làm tôi cũng cảm động. Thế mới biết rằng, lúc dạy chúng tôi- thầy Ivanốp- phi công bay thử của nhà máy luôn nói rằng, cuộc đời của phi công bay thử luôn gắn với lưỡi hái của thần chết và mỗi một dòng trong “sổ tay người lái” đều được tính bằng máu, bằng tính mạng của bao phi công... quả không ngoa chút nào. Chúng tôi bay kiểm tra được khoảng chục chiếc thì lại điện về cử người sang bay về. Đợt đầu chuyển về có anh Đỉnh và anh Sâm cùng tham gia chuyển, sau đó hai anh không sang nữa, còn lại mỗi 3 anh em tôi kẽo kẹt bay, vất vả vô cùng. Ba anh em tôi là người rút sau cùng, bay 3 máy bay loại MIG- 21f13, đi đội hình 3 chiếc, tôi số 1 anh Kính số 2, Sáu Thiên số 3. Chúng tôi không hạ cánh ở Mông Tự (sân bay ở Trung Quốc nằm khoảng giữa Tường Vân và Đa Phúc) mà dự kiến sẽ về hạ ở Yên Bái. Chúng tôi bay ở độ cao 10 km. Đến sân Yên Bái, tôi thấy dầu liệu có thể đủ cho về Đa Phúc, nên xin về Đa Phúc hạ và được chấp nhận. Chúng tôi giảm vòng quay động cơ, từ từ giảm độ cao, thông trường qua sân bay và vào hạ cánh sau khi bay một hành trình khoảng 700km liên tục và cũng là sau 4 tháng xa Trung đoàn. Đó là một buổi chiều đầu mùa thu, một chiều yên ả lạ lùng trong chiến tranh. Trời đầy mây trắng trôi bồng bềnh. Nắng vàng nhạt nhoà, sương giăng nhè nhẹ, gió se se lạnh, khói lam chiều toả quanh các luỹ tre làng. Lòng tôi xốn xang như đứa trẻ xa quê giờ được về gặp mẹ. Thật vui biết bao nhiêu khi đồng đội mình ùa ra đón mình như đón người thắng trận trở về. Thật ấm áp biết bao nhiêu những vòng tay đồng đội, chan hoà cởi mở, thật đẹp biết bao những khuôn mặt rạng rỡ nụ cười... Tôi báo cáo trung đoàn kết quả của đợt đi công tác xong thì được phép tranh thủ mấy ngày về quê và cũng thật buồn cho chuyện riêng của tôi chuyến đi ấy tôi đã không giữ được người yêu của mình. Bao nhiêu năm nay tôi cũng chưa gặp lại, lỗi tại ai và ở đâu thì sau này tôi sẽ kể sau. Kết thúc mấy ngày tranh thủ, tôi về Trung đoàn với tâm trạng nặng trĩu, u sầu. Tôi sống lặng lẽ hẳn. Vốn bản tính hiếu động của tôi như thế mà https://thuviensach.vn giờ phải u uất như vậy thì bạn hữu lo lắm. Anh em động viên tôi rất nhiều và ngay sau đó tôi lại được giao nhiệm vụ vào các sân bay trong khu Bốn trực chiến với bao trạng thái, bao tình huống căng thẳng khác trong chiến tranh, tôi không còn lúc nào nghĩ đến chuyện ấy nữa. Nó tĩnh lặng lại, nhưng cũng vẫn cứ như cái dằm nằm trong thịt mình, không lấy ra được, thi thoảng lại gây nỗi nhói đau. Suốt năm 1971, chúng tôi gặp địch cũng nhiều, có một số anh đã kịp bắn rơi được máy bay của lực lượng Không quân Mỹ. Tôi thì không. Dịp may chưa hề đến với tôi, mặc dù tôi cũng là kẻ “lặn lội” đủ ở các sân bay, đón lõng đủ các ngả đường. Hình như bọn chúng sợ vía của tôi thì phải. Có một điều rõ ràng, chẳng biết vía van thế nào chứ bọn Mỹ có hẳn hơn chục tàu đỗ ngoài Biển Đông mở rada, dò sóng đối không liên tục, mặt chúng tôi thì bọn chúng không tường, chứ giọng nói thì chắc bọn chúng quá quen. Chúng tôi đi đâu là chúng dò theo đấy, gây nhiễu, phá phách, choảng bom vào căn cứ bọn tôi. Thực sự tham gia chiến tranh thì mới thấy hết được sự ác liệt, sự tàn khốc của nó, mới thấy được sự hy sinh, tinh thần quật khởi của dân mình. Cả nước bấy giờ hừng hực khí thế, chỉ biết có chiến đấu, giành giật lấy chiến thắng. Mất mát, tổn thất vậy nhưng ai cũng nén chịu đau thương, lo cho những cái lớn lao của cả một dân tộc. Càng nắng hạn thì đất đai càng khô cứng lại. Lòng người khi sống gặp lắm khó khăn, gian truân có lẽ cũng vậy, ngày càng sắt đá hơn. https://thuviensach.vn Mỗi lần chúng tôi hạ cánh xuống sân bay là thợ máy kéo dắt máy bay đi sơ tán luôn. Địch lại đánh đường băng. Dân, quân lại sửa. Chúng tôi lại có thể cất cánh được. Những năm tháng chiến tranh, tôi đã sử dụng khá nhiều loại tên lửa bổ trợ cho cất cánh, loại ấy có mật danh K.9. Khi có nó thì bọn tôi chỉ cần chiều dài khoảng 300m là có thể cất cánh được. Mà cũng vì nó có lần tôi suýt chết ngay trên đường bằng. Hôm đó có phái đoàn của các cán bộ miền Nam bí mật ra thăm miền Bắc, tôi phải bay biểu diễn cho đoàn xem. Động tác của bài bay là cất cánh với tên lửa bổ trợ, vòng độ cao thấp, cực thấp trên đầu phái đoàn, bật tăng lực kéo thẳng lên, nhào lộn các động tác theo phương thẳng đứng, thông trường cực thấp, kéo lên khoan đứng, hạ cánh theo hàng tuyến hẹp, thả dù trên không (trước lúc tiếp đất) để sử dụng đường băng ngắn nhất và lăn về, báo cáo phái đoàn. https://thuviensach.vn Khi bật tăng lực ở đầu đường băng xong, tôi nhả phanh, máy bay bắt đầu chạy đà, tôi ấn nút khởi động tên lửa bổ trợ. Máy bay lập tức tách đất. Vì xung lượng của 2 quả tên lửa bố trợ lệch nhau nên máy bay vừa tách đất xong là mang độ nghiêng rất lớn, đến mức độ gần như quay ngang. Cánh gần như chạm đất. Các cánh lái liệng ở tốc độ nhỏ không có tác dụng gì. Tôi gần như bất lực, thoáng nghĩ trong đầu là chuyến này là chuyến cuối cùng của đời mình, chắc hẳn máy bay chạm đất ngay ở tích tắc này đây, và một tiếng nổ sẽ phát ra, một cụm khói bốc cao và vĩnh viễn không còn Huy nữa!. Chỉ huy bay hôm ấy là anh Hoàng Biểu. Anh cũng hoảng, chỉ kịp hô “cần lái trung lập” rồi không còn ra được một khẩu lệnh nào nữa! May sao, phúc đức nhà tôi còn lớn, số phận tôi chưa bị Nam tào, Bắc đẩu gạch xoá tên, nên sau hơn chục giây đồng hồ, tên lửa bổ trợ cháy hết thuốc, máy bay trở lại trạng thái cân bằng bình thường. Tôi ấn nút vứt 2 thùng rỗng, lại tí tẹo tèo teo nữa thì rơi đúng trận địa pháo Phòng không ở đầu sân bay, thật hú vía, đúng là trong hoạ vẫn có phúc thật!. Tôi kết thúc tất cả các động tác biểu diễn trong vòng 20 phút. Mồ hồi ra như tắm, áo quần ướt đẫm như vừa ở dưới ao lên. Tôi lăn vào sân đỗ, tắt máy, ra báo cáo đoàn. Trưởng đoàn là chị Ba Định (Nguyễn Thị Định), chị thấy tôi mồ hồi mồ kê nhễ nhại vậy thì thương lắm, ôm lấy tôi mà nước mắt chị rưng rưng. Chiều hôm ấy, chị vào trung đoàn tôi, nói chuyện cùng cán bộ, chiến sỹ của Trung đoàn, chị toàn xưng chị và gọi các em, thân mật như người chị cả trong gia đình, không khí đầm ấm lắm. Chị thương chúng tôi vất vả, chúng tôi thương chị, thương đồng bào miền Nam chịu lắm gian nan, hy sinh quá lớn. Sau này, tôi còn bay biểu diễn, bay chào mừng nhiều đoàn của miền Nam ra nữa và càng về sau này, thì tôi càng củng cố niềm tin vào sự nghiệp giải phóng: dân tộc Việt Nam phải là một- Đất nước Việt Nam phải là một! https://thuviensach.vn Cuối năm 1971 thì đoàn chúng tôi chịu một tổn thất nữa. Hôm tôi vừa xuất kích ở sân bay Thọ Xuân (Thanh Hoá) lên, địch phong toả sân bay, tôi phải về hạ cánh ở sân bay Đa Phúc. Vừa hạ cánh xong thì biên đội của Nguyễn Văn Khánh- Lê Minh Dương vào cấp và xuất kích. Chúng tôi đứng tại sân đỗ nhìn theo. Biên đội vòng trái bay lên hướng Thái Nguyên. Mấy phút sau thì thấy một bùng lửa ở trên không, anh Khánh bị bắn rơi, mà là tên lửa phòng không ta bắn nhầm. Anh hy sinh, một cái chết thật vô lý, thật không đáng có. Vậy mà trong chiến tranh nó vẫn cứ xảy ra, ngay cả trước mắt mình nữa mới đau đớn, mới tệ hại. Anh Khánh rơi ở huyện Phú Bình, xã Đạo Đức. Mộ anh mãi tận sau này mới đưa được về chôn cất ở Nghĩa trang Quỳnh Côi, Thái Bình. Tôi cũng đã kịp có dịp về thắp nhang cho anh ở nghĩa trang quê anh vào những ngày Thái Bình sôi động trong biểu tình chống nạn tham nhũng và về thăm mẹ anh, vợ con anh. Cho tới giai đoạn này thì có thể nói, anh em lứa chúng tôi đã cứng cáp lên rất nhiều, già dặn rất nhiều. Chúng tôi không còn là những chú cừu non như cách đây mấy năm nữa, mà đã thực sự trở thành những tráng sỹ trong https://thuviensach.vn chiến trận. Bản lĩnh, kinh nghiệm chiến đấu của chúng tôi đã hình thành, đã được củng cố cho ngày càng vững chắc thêm. Kỹ thuật bay của chúng tôi ngày được tôi luyện. Chúng tôi điều khiển máy bay ngày càng thuần thục, ngày càng nghệ thuật hơn, điêu luyện hơn. Hình thái chiến thuật, nghệ thuật quân sự, mức độ tinh ranh trong trận chiến đã có, đã được phát triển. Mỗi người đã có những sắc thái riêng của mình, vững vàng hơn nhiều khi tung hoành trên bầu trời. Các cấp chỉ huy cũng hiểu chúng tôi nhiều hơn, định hướng sử dụng chúng tôi vào từng trận rõ rệt hơn... Kẻ thù của chúng tôi cũng gờm chúng tôi hơn. Và chúng tôi cũng biết chắc chắn rằng, càng về sau này thì mức độ căng thẳng, ác liệt càng tăng. Chúng tôi không hề sợ hy sinh gian khổ, duy nhất trong đầu chỉ tâm niệm hai chữ chiến thắng! Bằng mọi giá phải chiến thắng! Chúng tôi đã như mũi tên đặt trên dây cung mà cánh cung đang giương căng, sẵn sàng lao đến địch bất kể lúc nào. Và năm 1972 đến, một năm đầy gian truân, ác liệt, căng thẳng, hy sinh mất mát nhiều, nhưng cũng là năm rực rỡ, huy hoàng với những hoạt động của đoàn bay MIG-21 khoá 3 chúng tôi. Đầu năm 1972, khi chúng tôi cơ động và trực chiến ở sân bay Thọ Xuân (Thanh Hoá) thì bên phía đất Lào, khu vực Long Chẹng- thủ phủ của tên tướng phỉ tự xưng là vua Lào- tên Vàng Pao, đang bị các lực lượng của Pa thét Lào cùng quân tình nguyện của ta bao vây với ý định lần này dứt khoát phải bắt được Vàng Pao. Không phải phiên trực chiến của tôi, nên tôi ở nhà định vác súng đi bắn chim thì nhận được lệnh gặp điện thoại với sở chỉ huy. Tôi nhận lệnh một mình bay sang đó gây thanh thế cho bộ đội ta đang bao vây địch và nếu thời tiết tốt, thấy rõ mục tiêu thì cho phép công kích bắn hết cơ số đạn và tên lửa trên máy bay. Chẳng là, trước chiến dịch này, tôi cũng đã được nằm trong lực lượng của biên đội đánh Long Chẹng bằng không quân, nên cũng hiểu được đường đi lối lại qua nghiên cứu trên sa bàn. Dọc đường từ khu sơ tán ra sân bay, tôi mở bản đồ bay ra kiểm tra lại hướng bay, các vật chuẩn, soát lại các phương án sử dụng vũ khí, các https://thuviensach.vn phương án hiệp đồng, xử lý bất trắc, và thế là một mình tôi cất cánh, vòng thẳng hướng qua biên giới Việt- Lào, nhằm Long Chẹng lao tới. Đến mường Lầm thì tôi vứt thùng dầu phụ, kéo cao lên 10 km. Hôm ấy, mây đầy trời, lên đến độ cao hơn 6km tôi mới ra khỏi mây. Tính toán theo thời gian thì tôi đã đến khu Long Chẹng. Tôi báo với sở chỉ huy về vị trí của tôi, về tình hình thời tiết trên đường đi và tại khu vực tác chiến. Ngay dó, tôi nhận được thông báo có địch- 4 chiếc F.4 bay từ phía Nam lên, ở độ cao 8 km. Sau lần thông báo thứ hai thì tôi phát hiện được địch. Tính toán thấy mình ở thế chiến thuật hoàn toàn có lợi, tôi xin phép công kích. Sở chỉ huy đồng ý, tôi lượn trái lật xuống để chiếm vị. Bọn F.4 quay gấp ngay lại. Tôi đã từng được biết tính năng của F4 rất lợi thế khi vòng mặt bằng, nhưng giờ thì mới thấy tường tận, tận mắt chứng kiến ở mặt phẳng ngang, chúng lợi hại như thế nào. Vèo một cái, hai thằng F.4 đã kéo vào phía sau khoảng 140- 150° so với máy bay tôi. Tôi ráng kéo cũng bám được vào phía sau thằng khác tương tự như vậy. Bọn chúng phóng tên lửa tới tấp. Mỗi máy bay F.4 mang được 6 đến 8 quả tên lửa không đối không. Bốn thằng, vậy là có từ 24 tới 32 quả. Tôi thì lại chỉ có một thân một mình. Máy bay của tôi hồi đó chưa được cải tiến, chỉ đeo có 2 quả tên lửa không đối không mà thôi. Ngu gì mà chúng nó không tranh nhau quật túi bụi vào máy bay tôi. Tôi bằng mọi cách vừa giữ lấy chút thế chủ động, vừa né, tránh tên lửa địch. Hôm ấy rada của mình dưới mặt đất bắt cũng khá chuẩn xác nên giúp tôi cũng được nhiều phen. Hỗn chiến một hồi, tôi cảm thấy mình càng quần lâu càng bất lợi vì ở quá xa căn cứ, rồi dầu liệu có hạn, tính năng cơ động mặt bằng của máy bay mình lại kém, kéo theo phương thẳng đứng thì không đủ tốc độ nên máy bay không “nghe” mình. Tôi xin thoát li khỏi không chiến. Sở chỉ huy đồng ý. Tôi làm một động tác giả, làm một nửa động tác lộn xuống, sau đó nhanh chóng đổi hướng, chui vào mây luôn. Trong mây, tôi đảo hướng bay kiểu “đánh võng” mấy lần liền để đề phòng nếu có thằng nào kịp lao theo tôi cũng sẽ không còn thấy mục tiêu để bám. Lấy hướng quay ngược trở lại. Khi rađa dẫn đường dưới mặt đất thông báo tôi ở trên biên giới Việt- Lào thì đèn báo dầu sáng: chỉ còn có 450 lít! Còn hơn trăm cây số nữa mới về tới “nhà”. Cực chẳng đã, tôi đành phải bay ở tốc độ tiết kiệm nhất, đạt được đường bay dài nhất. Lò dò bay ở tốc độ 450- 480 km/h máy bay chòng https://thuviensach.vn chành, chao đảo như chỉ muốn rơi. Tâm trạng tôi không khác gì ngồi trên đò đầy mà nước đã mấp mé khoang. Lo lắng vô cùng, tầm nhìn dưới mây lại kém. Hầu như đi đến đâu nhìn thẳng xuống thì biết đến đấy thôi, chứ nhìn xiên thì chẳng thấy được gì. Còn cách sân bay ước chừng mấy chục cây số nữa thì kim chỉ dầu trên máy bay chỉ về con số 0. Tôi báo về sở chỉ huy và thấy dưới đó lặng đi một lúc rồi mới tiếp tục thông báo cho tôi vị trí sân bay. Lần này thì lại thông báo sai. Lẽ ra sân bay ở bên trái thì lại thông báo ở bên phải. Tôi nghi hoặc hỏi lại thì bấy giờ mới khẳng định ở bên trái. Để tự trấn an tinh thần của mình, tôi mạnh dạn vặn kim đồng hồ chỉ dầu lên con số 100 lít, mặc dù biết rằng khi kim chỉ dầu chỉ về số 0, mình bật tất cả các bơm dầu lên cho làm việc thì cũng vét được thêm khoảng 70 lít nữa, nhưng phàm từ xưa tới giờ, luôn xảy ra chuyện là cái gì mình hơi lo lắng một chút thì lại hay để mắt vào đó. Khi bay dầu còn nhiều thì mấy phút mới liếc kiểm tra đồng hồ dầu một lần, còn khi nó đã ở vị trí cạn kiệt rồi thì cứ mấy giây lại dán mắt vào đấy, chừng như muốn thôi miên cho kim nó chạy ngược lên. Vậy là để “chắc ăn”, tôi cứ cho nó còn kha khá một chút cho đỡ phải nhìn. Máy bay tôi bay cứ ngật ngưỡng như thằng say. Dò mãi mà chẳng thấy địa tiêu nào quen thuộc cả. Tôi cũng hơi hoảng, nhưng lại nghĩ: có vấn đề gì thì mình chủ động nhảy dù, dẫu sao cũng là đất của mình. Mãi rồi cơ may cũng phải đến. Tôi nhìn thấy “hòn củ khoai” (ngọn núi trông như củ khoai lang, phía Nam núi Nưa) và reo lên “tôi đang ở trên hòn củ khoai!” giọng sở chỉ huy cũng đầy lạc quan: “Chú ý, sân bay ở phía trái anh!”. Tôi bay đến núi Nưa, đối chuẩn đài và quyết định xin hạ cánh ngược chiều. Đối chuẩn sau vòng 4 xong xuôi xong, tôi mới thả càng, không thả cánh tà, vì nếu thả cả càng, cả cánh tà sợ phải sử dụng vòng quay động cơ nhiều. Càng thả xong thì cũng gần đến điểm kéo bằng, máy bay tiếp đất xong thì nghe một tiếng oà rồi lịm luôn: vừa vặn tiêu đến giọt dầu cuối cùng! Tôi trượt đà vào trong ụ, xuống máy bay người ướt đẫm mồ hôi và toàn bộ các dây thần kinh căng đến mức muốn đứt hết. https://thuviensach.vn Tôi lại còn thấy căng thêm nữa khi thợ máy kiểm tra máy bay xong báo cho tôi biết rằng máy bay tôi bị bắn quăn hết ống phản lực kéo dài, gãy 1/3 của một bên bánh lái lên xuống. Tôi không tin, nói rằng tôi vẫn điều khiển bình thường kia mà. Nhưng khi ra tận nơi thì thấy cũng ghê thật: ống phản lực bằng thép chịu nhiệt, cứng như thế mà quăn như vỏ đỗ, bánh lái lên xuống bên trái thì cụt mất 1/3. “Ái chà! Cái lũ F.4 láo toét này đã đập vào đít ngựa của tao rồi! Chúng mày giờ hồn! Tao không tha cho chúng mày đâu”! Tôi báo về sở chỉ huy mọi diễn biến và sở chỉ huy cứ hỏi đi hỏi lại xem tôi có kịp bắn quả tên lửa nào không. Nhưng tôi không kịp bắn. Con nhà nghèo, chỉ có 2 quả nên phải chắc ăn thì mới xài. Trận này có một chiếc F.4 rơi phía Tây khu vực Yên Thành- Nghệ An. Ra lũ chúng nó bắn vào nhau. Đúng ra thì phải ghi nhận thành tích ấy cho tôi, vì không có tôi thì làm sao mà chúng nó bắn vào nhau được. Nhưng rồi tôi không có duyên hưởng cái hên ấy. Sau trận tôi ở Long Chẹng về, bạn hữu gọi tôi là thằng “chọc tổ ong” và tôi lại có thêm cái tên huý nữa từ đấy. Sau này, Chính phủ, nhân dân và các bộ tộc Lào tặng tôi Huân chương chiến công- Huân chương SAMALƠT để ghi nhận sự cống hiến của tôi trong chiến dịch ấy. Tôi vô cùng cám ơn Đảng, Chính phủ, nhân dân và các bộ tộc Lào đã quan tâm đến cá nhân tôi, và tôi hiểu mình phải làm tốt nghĩa vụ Quốc tế hơn nữa, nhất là với các bạn Lào. Tháng 3 năm 1972, đoàn tôi chịu tổn thất vô cùng vô lý với lực lượng ở miền Trung và ngoài Bắc. Máy bay Li-2 chở toàn bộ bộ khung của Trung đoàn tiền phương vào sân bay Gát thì bị tên lửa đất đối không SAM-2 của ta bắn rơi ở khu vực Vinh- Nghệ An. Tất cả số người đi trên máy bay đó hy sinh hết. Đoàn bay của chúng tôi có anh Phạm Văn Mạo và một số thợ máy cùng bay trên chuyến đó. Anh Mạo lấy vợ đến hơn 10 năm, trước đó vài tháng mới sinh được cháu gái, chẳng rõ khi anh mất, anh có kịp về thăm vợ con anh được hay không nữa. https://thuviensach.vn Những năm gần đây, chúng tôi mới có điều kiện về thăm được con anh (ở Thái Bình). Cháu giống anh như tạc, đã xây dựng gia đình. Gia đình của chồng cháu cũng là gia đình Liệt sỹ nên thông cảm và thương quý cháu lắm. Anh Mạo chẳng có tấm ảnh nào để lại, tìm mãi mới tách được anh ở trong ảnh chụp chung cả đoàn hồi còn học viên để trên bài vị thờ anh. Tội nghiệp như vậy đấy!. Chuyến bay của Li-2 vào Nghệ An trước đó có hạ cánh ở Sân bay Thọ Xuân- Thanh Hoá. Hôm ấy, tôi đang trực chiến ở sân bay, còn kịp bắt tay, chúc tụng các anh trước lúc lên đường. Vậy mà ai ngờ, khi kíp trực của tôi đang được giao nhiệm vụ đánh B.52 thì nhận được điện thoại báo về sự cố kia. Tôi nhớ, thủ trưởng Trần Mạnh sau là Tư lệnh Quân chủng PK- KQ và từng giữ chức Cục trưởng cục HK dân dụng Việt Nam nghe điện xong, lặng người đi mấy phút, rồi lại quay lại sở chỉ huy hỏi máy bay bay vào hay bay ra? Nếu máy bay bay ra thì chỉ chở có mình anh Đinh Tôn thôi, còn bay vào thì... thế đấy! Chúng tôi sững sờ và câm lặng trong nỗi buồn thương. Nghe rõ cả tiếng rơi của những giọt nước mắt tiếc thương đồng đội mình. Tôi chẳng rõ kíp trực của trận địa tên lửa kia có bị kỷ luật không, bị ra sao và họ rút kinh nghiệm như thế nào. Nhưng có lẽ từ giây phút ấy trở đi, tôi rất hoài nghi về công tác hiệp đồng và luôn phải đề phòng “mấy ông” này. Về sau, chính sự đề phòng ấy đã cứu tôi ra khỏi bàn tay của tử thần mà suýt nữa thì “mấy ông tên lửa” nộp không tôi vào lưỡi hái của thần chết. Cùng ngày 3/3 ấy, ở sân bay Đa Phúc, Bùi Văn Long sau khi xuất kích về, khi hạ cánh chỉ thả được 2 càng, chiếc càng chính bên phải không ra, không rõ vì nguyên nhân gì. Chỉ huy bay không giúp được Long. Máy bay sau khi tiếp đất, chạy xoay đâm vào ụ pháo và báo hại thay, khi hạ cánh, Long lại không ghì chặt dây dù bảo hiểm người vào ghế, chính vì vậy, khi máy bay đâm vào ụ, Long bị lao người về phía trước, đầu đập vào kính ngắm, kính ngắm bị vỡ, một mảnh thuỷ tinh đâm thủng hộp sọ. Lôi được Long ra khỏi buồng lái thì thấy trán có một lỗ bằng ngón tay sâu hoắm vào trong, óc từ đó rỉ ra. Thôi! thế là thôi rồi! Cái chết sao mà rõ nhanh, sao mà rõ vô lý! Ai đời, tung hoành mãi trong chiến tranh chẳng sao, lại bị trong https://thuviensach.vn trường hợp rất ngớ ngẩn thế này thì đúng là đất trời đối với chúng tôi nhẫn tâm quá!. Long được chôn cất ở nghĩa trang Trần Hưng Đạo trên Hương Canh. Hàng năm, cứ ngày 27/07 và trước Tết, thế nào tôi cũng đến đấy thắp nhang tưởng niệm anh em. Cùng nằm với Bùi Văn Long ở đó còn có anh hùng Đặng Ngọc Ngự, anh Tiếp phi công MIG-19, út Hải (út trong đám anh em kết nghĩa với tôi) bay trên L-29... và mấy anh em khác nữa... Cũng đầu năm 1972 này, do nhu cầu phát triển lực lượng, Không quân được biên chế thêm một trung đoàn nữa- Trung đoàn 927 (gọi là Trung đoàn Lam Sơn) ra đời ngày 3/02/1972. Đoàn bay của tôi san ra như ong chia đàn. Người đi, kẻ ở, cũng lắm ý kiến lắm. Trung đoàn trưởng 927 là anh hùng Nguyễn Hồng Nhị. Trung đoàn trưởng Trung đoàn 921 là anh hùng Nguyễn Ngọc Độ. Các anh Đạo, Sâm, Soát, Nghĩa... thì sang 927. Tôi, Việt, Thái... và số đánh đêm thì ở lại với Trung đoàn 921. Vậy là từ đây, chúng tôi phải xa nhau, mỗi người mỗi nhiệm vụ, cùng ở trên trời đấy, nhưng mỗi người ở một rãnh sóng khác nhau, chẳng nghe được tiếng của nhau nữa, nói chi thấy mặt. Và cũng là từ đây, chúng tôi ngầm ganh đua nhau xuất kích, ganh đua nhau bắn rơi máy bay trong các trận không chiến, ganh đua nhau nhận các nhiệm vụ.. Cả hai trung đoàn chúng tôi về sau đều được tuyên dương anh hùng và ở cả hai trung đoàn, một số anh trong đoàn bay của tôi cũng được tuyên dương anh hùng các lực lượng vũ trang. Càng về sau này thì địch càng tích cực thay đổi thủ đoạn chiến thuật để đánh phá. Cũng bởi lực lượng phòng không của ta lớn mạnh hơn, cũng bởi lực lượng không quân dù là non trẻ nhưng chúng không thể coi thường như thời gian đầu coi là những con muỗi mắt nữa. Cũng bởi vũ khí sử dụng trong chiến tranh Việt Nam ngày càng được cải tiến hơn. Cũng bởi cách đánh của chúng tôi cũng đa dạng hơn v.v... Nếu như mấy năm trước đây, lực lượng cường kích (đeo bom) trong đội hình của chúng nhiều, tiêm kích (đánh chặn) ít hơn thì nay thay đổi ngược lại. Trong đội hình 32 chiếc vào đánh phá mục tiêu, có khi chỉ 4-8 chiếc đeo bom laze, 2 chiếc chiếu lade, còn đâu là tiêm kích đơn thuần làm nhiệm vụ quét sạch bầu trời, yểm hộ https://thuviensach.vn trực tiếp, yểm hộ khu vực cho số ném bom kia. Phải công nhận rằng, sự ra đời của vũ khí laze quả là lợi hại. Có cây cầu hàng bao nhiêu năm trời, đánh phá tốn hàng ngàn tấn bom đạn, bị rơi hàng trăm máy bay nhưng cầu vẫn đứng trơ trơ, nhưng khi xuất hiện bom lade thì 4 chiếc của chúng đeo bom với 2 chiếc chiếu tia laze đã đánh sập cây cầu. “Vỏ quýt dày cũng có móng tay nhọn”. Các mục tiêu mặt đất của mình khi cần bảo vệ khỏi sự đánh phá bởi loại vũ khí laze này là đốt khói để khói trùm kín mục tiêu. Tia laze mất tác dụng, bom rơi chệch mục tiêu hết. Cũng sang năm 1972, địch hầu như chỉ sử dụng độc một loại máy bay là F.4 (Con Ma) có cải tiến thành F.4E- mang vũ khí nhiều hơn, bắn được khi đang bay đối đầu, góc bắn lớn, tính năng tốt hơn, và như vậy, chúng tôi càng vất vả, chật vật hơn khi phải không chiến với chúng. Ngày 10/05/1972, tôi và Cao Sơn Khảo (bay số 2 cho tôi) xuất kích từ sân bay Đa Phúc, bay về hướng Tuyên Quang, Lấy độ cao đến 6 km thì chúng tôi được thông báo có địch. Tôi phát hiện thấy một tốp bay ngược chiều. Ngay lập tức cánh máy bay của chúng nó có những điểm chớp sáng. Tôi biết là chúng bắn tên lửa đối đầu, hô cho Khảo cơ động. Lại phát hiện luôn một tốp đã ở phía sau, tiếp tục hô khẩu lệnh vứt thùng dầu phụ, tăng lực cơ động. Nhưng trong trận này, địch dò được tần số sóng đối không của mình, gây nhiễu liên tục, tôi hô chắc Khảo cũng chẳng nghe thấy, mà Khảo báo cáo tôi cũng chẳng nghe được. Sở chỉ huy cũng chẳng chỉ huy được chúng tôi nữa, mặc dù mấy lần chuyển sang rãnh sóng dự bị rồi. Biên đội chúng tôi mất nhau, chỉ biết vẫn ở trong khu chiến ấy thôi, chứ mọi mối liên lạc bị đứt hết, đành phải chiến đấu đơn độc vậy. Bọn chúng bắn tôi rất nhiều. Cơ động thấy chúng hơi khuất đằng sau là lại phải kéo tiếp, lại thấy đôi quả tên lửa trượt qua dưới cánh mình. Thằng F.4 chuyên đời phóng 2 quả một. Có lúc không thấy máy bay, nhưng linh tính mách bảo phải cơ động, vừa kéo cần lái thì đã thấy tên lửa chúng bắn mình vèo qua. Tôi vừa cơ động vừa nghĩ, sao chúng nó bắn lắm thế. Khi về rút kinh nghiệm thì mới biết rằng chúng tôi đã xông vào ổ tiêm kích với đội hình 24 chiếc F.4 mà anh em tôi chỉ có 2, vào trận lại mất nhau nữa thì gian nan là chuyện đương nhiên. Vụt qua tít trên đầu tôi là đường tên lửa bay, trước đó là một https://thuviensach.vn máy bay. Vì ở xa, tôi không rõ đấy là MIG-21 hay F.4 (bởi hai loại máy bay này đều cánh tam giác, trông xa thì đều như vỉ ruồi cả). Tôi chưa kịp hô “cơ động gấp” thì tên lửa đã đâm thẳng vào máy bay, bốc cháy đùng đùng. Lại hô “nhảy dù” thì thấy chiếc vừa bắn chiếc kia xong bị bắn cháy ngay tắp lự. Tôi lại hô nhảy dù tiếp. Hô đến khản cổ chẳng thấy chiếc dù nào ra hết. Tôi đoán chắc rằng: Khảo đã bắn một chiếc và chiếc khác bắn Khảo. Sau đúng như thế thật. Bây giờ thì còn mỗi một mình tôi thôi, bọn chúng quây vào như ruồi bâu. Tôi phải cơ động liên tục. Rẹt, một thằng vượt qua mặt, tôi ghé đầu máy bay của tôi vào, ngắm sơ bộ và phóng luôn một quả tên lửa, xong cơ động luôn. Lại thấy mình bị thằng sau bắn nhưng không trúng. Tôi quyết định thoát ly khỏi cuộc chiến. Lật úp máy bay xuống và kéo cho bay sát ngọn cây trên rừng Tam Đảo, lấy dãy Tam Đảo che cho tôi ở một phía, tôi chỉ còn phải cảnh giới một phía thôi, tôi bay về sân bay. Đến khoảng hồ Đại Lải thì lại nghe được thông báo có một tốp địch bay từ Hoà Lạc sang. Bọn chúng về sau này hay sử dụng cái bài phong toả sân bay, săn lùng các máy bay đi chiến đấu về hoặc mới cất cánh lên để bắn và cũng đã có vài lần thành công trong chiến thuật ấy. Những thằng phi công bay ở những tốp này là bọn rất kỳ cựu trong nghề bay, tôi gọi là “những thằng du mục” rất nguy hiểm khi gặp chúng. Tôi sẽ kể về chúng sau. Còn bấy giờ, tôi bắt buộc phải cắt lấy hướng về sân bay Kép. Dầu liệu thì sắp cạn, lại bay thấp nên càng tốn dầu. Phát hiện thấy sân bay Kép, tôi thông qua thật thấp, thấy yên ổn thì làm hàng tuyến hẹp vào hạ cánh luôn. Đến trước đài gần thì thấy một chiếc MIG-17 ở đâu bay tạt vào cũng hạ cánh mà đang ở độ cao kéo bằng rồi . Máy bay tôi thì tốc độ lớn, MIG-17 thì tốc độ nhỏ, đâm vào nhau như chơi, nhưng không còn đủ dầu để bay lại nữa. Tôi hạ cánh ở một bên mép đường băng, ngang MIG-17 là tôi đạp phanh đưa máy bay tôi ra cỏ, tắt máy. Thợ máy kéo máy bay tôi vào trong ụ và anh nào anh ấy mắt mũi đều trợn ngược lên vì máy bay tôi bị mấy chục lỗ đạn suốt từ đuôi máy bay lên hai cánh, đến cả thân, chóp nón cũng bị, chỉ chừa có mỗi buồng lái tôi ngồi là vô sự. Lỗ to nhất là bằng ấm pha trà. Lỗ vừa thì bằng quả trứng gà, còn các lỗ nhỏ như hạt ngô. Tổng https://thuviensach.vn cộng hơn 30 lỗ cả thảy. Anh em phán đoán tôi bị súng Vuncal 6 nòng của F.4 bắn, nhưng tôi cãi là không có thằng nào tiếp cận được gần tôi để sử dụng súng. Kiểm tra chính xác là các mảnh nổ của tên lửa. Máy bay tôi sơn màu nguỵ trang vằn vện, nhưng vì bị thủng nhiều nơi nên phải thay cánh, thay bánh lái lên xuống... màu trắng (không sơn kịp), trông như quần áo hề trong rạp xiếc vậy. Tôi có thêm tên gọi “thợ tránh tên lửa” sau trận này. Lại nói về Cao Sơn Khảo. Sau khi Khảo bắn rơi một chiếc thì Khảo cũng bị bắn. Khảo rơi ở chân dãy Tam Đảo đằng mạn Tuyên Quang. Mấy năm sau mới tìm thấy xác. Dù có mở, tức là có nhảy dù, nhưng sao lại hy sinh thì đến giờ cũng vẫn còn lại câu hỏi với những sự phán đoán. Mộ của Cao Sơn Khảo ở nghĩa trang liệt sỹ huyện Yên Bình- Yên Bái. Chàng trai Ý Yên- Nam Hà đánh bóng bàn bằng vợt dọc đã gửi lại xương cốt mình nơi rừng núi. Tôi đau buồn vô hạn, tôi đã cắt trọc đầu mình, thề với trời đất rằng tôi sẽ không bao giờ để mất thêm một số 2 nào nữa, và lời thề ấy chừng cũng linh nghiệm. Suốt chiến tranh, nhiều anh bay số 2 cho tôi như Đỗ Văn Lanh, Lê Văn Hoàn, Bùi Thanh Liêm, Trần Sang... chỉ có thể tạm lạc nhau trong chiến trận thôi chứ không mất như Khảo nữa. Cũng chính từ ngày ấy, năm nào đến tháng 5, tôi cũng cắt trọc đầu mình. Mấy cô chị nuôi cho tới giờ gặp tôi vẫn gọi tôi là ông sư! Tôi giữ lệ này đến tận khi tôi làm cán bộ đại đội bay mới thôi. Tháng 6 năm 1972 có lẽ là tháng chúng tôi giành thắng lợi ròn rã. Lứa của tôi hầu như ai cũng lập công. Tháng 6 là tháng chúng tôi bị tổn thất ít nhất. Tôi cũng bắn rơi một chiếc F.4E vào những ngày cuối tháng 6 này trên vùng trời Hoà Bình. Hôm ấy, tôi với Trần Sang (bay số 2 cho tôi) xuất kích từ Sân bay Đa Phúc. Mây dầy đặc, nhiều tầng, nhiều lớp. Xuyên lên khỏi mây thì Sang không thấy tôi, còn tôi đã lấy hướng vào khu vực chiến đấu và tình hình rõ ràng là khá khẩn trương (qua giọng thông báo của trạm dẫn đường mặt đất). Tôi đề nghị dẫn Sang về hạ cánh, còn mình tôi tham chiến. Sở chỉ huy đồng ý, cho Sang về và dẫn tôi đi. Đến vùng trời Hoà Bình, tôi phát hiện thấy một tốp 24 chiếc, xin vào công kích, được phép và tôi “đơn thương, độc https://thuviensach.vn mã” xông vào cái đám ấy. Đội hình của chúng rối loạn. Chúng áp dụng chiến thuật “đan chéo” kiểu cắt kéo để tránh bị công kích, tôi đợi đúng lúc một thằng vừa làm động tác đảo lại, thời điểm quá tải nhỏ nhất là tôi phóng tên lửa và thoát ly. Đến giai đoạn này thì đúng là bọn giặc trời gờm chúng tôi một cách thực sự. Nếu như chúng không nắm được chủ động về thế chiến thuật thì đội hình chúng chủ yếu xé lẻ, tan tác để tháo chạy, tránh bị công kích là chính. Số lượng máy bay Mỹ rơi quá nhiều, số giặc lái bị bắt, bị đưa vào nhà giam mà bọn chúng thường gọi là “khách sạn Hintơn” cũng quá đông. Thằng nào cũng sợ, cũng nằm trong tâm trạng nơm nớp khi bay vào không phận Bắc Việt. Còn đối với chúng tôi thì chúng tiêu diệt mãi sao mà không thấy hết, vẫn thấy chúng tôi hoạt động khắp nơi, đánh nhau liên tục cả ngày lẫn đêm... thì có lẽ chúng không sao hiểu nổi. Tôi còn có trận đi cùng anh Thái, gặp địch ở vùng trời Hoà Bình lần nữa. Cả hai anh em cùng bắn, nhưng chúng cơ động ghê quá, chúng tôi để lỡ mất cơ may, về cứ tiếc mãi. Lại nói về bọn “du mục” mà tôi từng đề cập đến ở những trang trước. Chúng là những tên lái giàu kinh nghiệm, sành sỏi trong chiến tranh, dày dạn trong không chiến, kỹ thuật bay. Chúng cũng áp dụng kinh nghiệm của các lực lượng không quân trong chiến tranh thế giới thứ hai. Chúng thường bay thấp, với đội hình 4 chiếc, lập các không vực tự tìm kiếm để tiêu diệt mục tiêu trên không, chủ yếu ở hai đầu loa cất hạ cánh, “rình” những máy bay cất cánh lên hoặc về giảm tốc độ vào hạ cánh. Đấy là thời điểm dễ “làm ăn” nhất của bọn chúng vì máy bay ta lúc đó tốc độ thường nhỏ, cơ động kém, lại sơ hở vì gần ngay căn cứ mình rồi, ít tăng cường quan sát. Đã mấy lần chúng tôi bị chúng “vồ” trong những trường hợp như vậy và chúng tôi cũng đã bị tổn thất. Qua những lần như vậy, chúng tôi phải cảnh giác hơn rất nhiều. Cũng từ đó mà chúng tôi sinh ra chiến thuật lập hàng tuyến thật hẹp để vào hạ cánh, độ cao chỉ 20- 30m. Kéo lập xong vòng 4 là đến độ cao kéo bằng. Thời gian ở trên không rất ngắn, bọn chúng đành bó tay. https://thuviensach.vn Một lần, anh Thái và tôi bay tuần tiễu về khu vực Tuyên Quang (sau khi anh Thái mất số 2 là Võ Sỹ Giáp, tôi mất Cao Sơn Khảo, thì hai chúng tôi cũng hay đi với nhau, cũng “sáng tác” được một số động tác riêng cho biên đội như “cắt chéo”, “cơ động phản kích đối đầu”... rất có tác dụng đối với chúng tôi trong không chiến). Mây ở khu vực ấy khoảng 5- 6 phần. Tôi quan sát quanh quẩn, nhìn xuống dưới bụng máy bay mình thì chợt thấy 4 thằng đang bay thấp cắt từ phải qua trái. Tôi hô cho anh Thái biết: “Bốn thằng “du mục” đi từ phải sang, ngay dưới bụng mình đấy!” Anh Thái cũng phát hiện và lập tức chúng tôi vứt thùng dầu phụ, lật úp máy bay để chiếm vị công kích. Anh Thái lao vào bắn một quả tên lửa, một thằng bùng cháy giữa trời. Tôi lao theo 3 thằng thì bọn chúng quay gập vào bụng tôi tháo chạy. Máy bay của anh Thái không hiểu sao bị gẫy ống không tốc. Mọi đồng hồ trong buồng lái không làm việc nữa vì hỏng hết cả hai hệ thống khí áp tĩnh và động. Anh ấy la như cháy nhà. Tôi phải bỏ mục tiêu, nhào lên bay cạnh anh ấy, khống chế tốc độ cho phù hợp và dẫn về hạ cánh. Dọc đường bay, anh ấy hò la rất nhiều, phần vì phấn khích, phần vì lo lắng cho chuyến bay. Thôi thì đủ cả lời nói vui, nỗi lo âu, câu chửi thề tục tĩu. Không ai có thể xen vào được, chỉ đến lúc hạ cánh xong anh mới chịu lặng im thôi! Hầu như những tháng cuối năm 1972, bọn tôi xuất kích rất “âm thầm”, “người ngựa ngậm tăm” lủi theo độ cao thấp đi đến một điểm nào đấy mới tăng lực kéo cao, mới liên lạc, bởi nếu không như thế, thì bọn tôi bị gây nhiễu đối không ngay lập tức và không ai chỉ huy được ai hết. Tôi còn nhớ, dễ có đến gần 20 phương án. Khi nhận lệnh báo động vào cấp là nhận phương án luồn, đi đứng ra sao, bọn tôi phải thuộc như lòng bàn tay mình, ấy thế mà bọn Mỹ dò ra sóng đối không rất nhanh, phá sóng rất dữ, gây không ít khó khăn cho chúng tôi trong chiến trận. Mặc dù những ngày chiến đấu căng thẳng, ác liệt diễn ra như vậy, nhưng “máu học trò” của tôi lựa có thời điểm nào có đất hoạt động là lại sống lại. Chúng tôi đi trực chiến thường rất sớm, khoảng 3 giờ sáng là phải dậy rồi. Có một lần khi xuống xe trực, qua nhà bếp, vì còn sớm quá, lái xe chưa ra, chị nuôi thì ngồi ngủ gục tại bếp, tôi liếc thấy bên cạnh có bộ áo mưa, liền xâu que treo lên xà bếp, kiếm được đôi giày hỏng buộc ở dưới áo, https://thuviensach.vn trông tựa người treo cổ. Xong rồi, tôi đến ngồi cạnh chị nuôi hừ một tiếng. Cô chị nuôi giật mình choàng dậy, mắt nhắm mắt mở, chống tay vào đúng cái đầu trọc lốc của tôi, rú lên, chạy nhào ra cửa, chưa định thần được thì lại thấy người treo cổ ở trước mặt. Rú tiếp một tiếng nữa và không thể chạy nổi, khuỵu xuống, vừa bò vừa la. Tôi lỉnh cửa sau, đi ngược đường coi như chẳng có chuyện gì xảy ra hết. Toàn bộ khu bếp báo động, súng ống lên đạn lách cách. Cô chị nuôi nói hụt hơi là bếp có ma. Mọi người chạy xuống bếp thì thấy áo mưa treo, oà lên cười. Bấy giờ thì cô chị nuôi mới lấy lại tinh thần oà lên khóc... Chuyện cứ làm tôi ân hận mãi tới tận bây giờ vì những trò nghịch ngợm không đâu của mình. Để động viên kịp thời những anh bắn rơi máy bay Mỹ, chúng tôi hay bày trò tạo một cái gì đó bất ngờ. Hôm anh Đỗ Văn Lanh (sau này được phong danh hiệu anh hùng các lực lượng vũ trang) bắn rơi một chiếc F.4, tôi ở nhà (ở trong hầm thì đúng hơn) hì hụi lôi một chiếc bảng đen ra, vẽ một phi công mắm môi mắm lợi bóp cò súng, phía trước, một thằng F.4 cháy cắm đầu xuống, cánh vỡ ra từng mảnh, cạnh bảng là dòng chữ to: “Hoan hô thằng Lanh”. Xong, tôi đem bảng ra treo trước hầm, cốt khi Lanh về thấy để mừng. Ai dè, tôi bị vạ vì cái trò này. Số là Lanh chưa về thì chính uỷ đã đến trước giờ để báo tin, nhìn thấy tấm bảng, ông đứng sững lại, ngắm nghĩa gật gù, mắt nhấp nháy rồi hỏi: “Vẽ đẹp đấy, nhưng ai vẽ?”. Tôi đứng ra nhận thì lại được hỏi một câu tiếp: “Sao lại đề là thằng Lanh mà không là đồng chí Lanh?”. Tôi trả lời: “Bạn bè vẫn gọi nhau mày tao thì đề bằng thằng cũng có sao đâu ạ!” Thế là tôi được thuyết trình một hồi về nhận thức, về quan điểm. Rồi rốt cục đưa cả ra chi bộ nói về chuyện ấy nữa. Tháng ấy, tôi mất danh hiệu “Đảng viên 4 tốt”. Tôi còn bị mấy lần mất “4 tốt” nữa vì những chuyện không đâu. Ví như mắng số 2 ở trên trời là “Cú đỉn”. Quả tình, bốn ngàn năm lịch sử yên hàn, bỗng giữa trời vang lên tiếng “cú đỉn” thì nghe cũng không sao lọt tai thật. Rồi những trò đùa vô bổ trong những phút yên lặng giữa những lần xuất kích, những chuyện tào lao, những trò bay nghịch ngợm....tôi đều bị “riềng”. Hồi ấy, người ta quản lý chúng tôi ngặt nghèo đến mức hơi bị thái quá. Có gì cũng nâng lên thành quan điểm hết, sợ thật! https://thuviensach.vn Tôi là thằng “sáng tác” ra trò bay “báo cơm”. Có nghĩa là đi cơ động ở sân bay khác về, hoặc đi đánh nhau về, sẽ hạ cánh ở Đa Phúc thì thế nào cũng bay kéo dài vòng một một chút, lách qua núi Đôi, ngắm vào mấy cửa hầm chúng tôi ở, bay thật thấp dưới chân đồi có hầm ấy, dưới đó là bếp ăn của bọn tôi. Rẹt qua ở độ cao 5- 10 m thôi, lắc cánh rồi kéo lên, lượn vào vòng 3, thả càng, hạ cánh. Chị nuôi khắc biết bổ sung thêm một xuất cơm ra sân bay. Tai hại là ở chỗ mọi người giật mình, kinh hoảng, may mà chưa có ai bị ngất vì tiếng động và sóng kích của máy bay gây ra. Đã có lần, bay thấp quá, mái bếp suýt sập, vung nồi cơm văng cả xuống bếp, bụi mù lên cơ mà! Thật thà mà nói, đến bọn tôi là những thằng bay, nhưng khi nằm ở trong nhà trực, bị ai đó rẹt qua cũng phải bật ngay dậy, không chịu nổi, chứ nói gì đến người thường! Sau chúng tôi phải ra một “đạo luật” cấm bay thông qua khu trực chiến ở độ cao thấp. Anh nào vi phạm thì lập tức bị trùm chăn và bị đánh luôn, ấy thế mà khối anh bị đánh đấy. Tôi cũng có lần quên mất quy định kia, hạ cánh xong rồi, ra khỏi buồng lái, thấy một bóng người cầm chăn nấp ở cánh cửa nhà trực, mới sực nhớ ra, không dám vào nhà nữa, mặc dù khát nước tới muốn chết vẫn đành chịu. Dại gì xông vào để bị chúng nó trùm chăn, nó ục cho! Mấy tháng gần cuối năm là mấy tháng tệ hại đối với chúng tôi. Vào tháng 7, có ngày còn rất xấu nữa. Ngày 08/07, ngày đó là ngày chúng tôi mất 3 chiếc liền, mất cả của lẫn người. Anh Đặng Ngọc Ngự (Đại đội trưởng đại đội bay của chúng tôi, sau được truy tặng danh hiệu anh hùng các lực lượng vũ trang) anh Nguyễn Ngọc Hưng, anh Vũ Văn Hợp đều bị rơi ở khu vực vùng trời Hoà Bình. Hồi tháng 4 (ngày 16.04), chúng tôi cũng bị rơi 3 chiếc trong một ngày, nhưng Nguyễn Hồng Mỹ, Lê Khương và Dương Đình Nghi còn nhảy dù ra được. Sau hơn một tháng nằm viện lại đi chiến đấu được ngay. Đằng này thì cả 3 anh em chẳng ai trở về cả! Thật quá nặng nề đối với chúng tôi! Muốn khóc mà không sao khóc được. Tất cả dâng ứ đầy tưởng chừng nghẹt thở. Căn hầm trống vắng hẳn. Tang tóc! Đau thương! Nhìn nhau thấy mắt ai cũng mọng đỏ, sưng húp mà chẳng ai nói được với ai câu nào! Còn lời nào để mà nói nữa!. https://thuviensach.vn Chúng tôi phải sinh hoạt tư tưởng, xác định lại quyết tâm, chúng tôi không nao núng, không sợ chết đâu, nhưng cấp trên lo rằng chúng tôi nôn nóng, muốn trả thù cho đồng đội, liều mình, mất bình tĩnh, mất sáng suốt gây thêm những thiệt hại không đáng có nữa, nên xác định cho chúng tôi kìm chế lại, lấy lại tỉnh táo để bước vào những trận chiến mới vững tin hơn. Giai đoạn này, biết chúng tôi không phải là những tay vừa, nên địch dùng cả những thủ đoạn đê tiện như bắn cho thủng dù khi chúng tôi nhảy dù ra. Ném bom, bắn pháo xuống vị trí chúng tôi tiếp đất, cốt để tiêu diệt bằng được cái mạng sống của chúng tôi, vì chúng tôi còn thì chúng lại phải đương đầu tiếp trong những trận không chiến. Một vài anh em chúng tôi suýt mất mạng vì cái trò ấy của chúng. Những năm gần đây thì anh em đoàn bay chúng tôi mới đưa được mộ anh Hưng về quê anh ở Bắc Ninh. Anh Ngự thì nằm ở nghĩa trang Trần Hưng Đạo- Hương Canh. Chúng tôi vẫn có ý nguyện là chuyển hết anh em về chân tượng đài ở Sư đoàn bộ 371 cho anh em được chăm sóc thường xuyên mà rồi chắc chẳng bao giờ thực hiện được! Ngày 10/08/1972 thì Nguyễn Ngọc Thiên (Sáu Cơ) hy sinh ở vùng núi Bá Thước- Thanh Hóa. Sáu Thiên đánh đêm, máy bay bị thương khi quay về, lao vào đám mây giông. Nhiễu động trong mây giông quá lớn đã làm cho máy bay không điều khiển được. Sáu Thiên bị quật xuống vùng núi đá lởm chởm. Mấy anh em kết nghĩa tới thời điểm này còn có 4 người: Bảy Việt, Tám Soát, tôi và út Mười (út Hải). Hải thì đang ở bên trường 910, bên sân bay Tường Vân- Trung Quốc, sự sống rõ ràng nặng hơn cái chết. Còn 3 anh em tôi: Bảy Việt và tôi ở Trung đoàn 921, Tám Soát ở Trung đoàn 927, sống nay chết mai chẳng ai lường, mà cũng có thể vừa gặp nhau đấy, rồi lại vĩnh viễn mất nhau ngay sau đấy thôi, không ai dám định trước một vấn đề gì trong chiến tranh cả. Thế nhưng cuộc đời vẫn có những điều bất ngờ xảy ra đến khủng khiếp! út Hải khi kết thúc chiến tranh, từ bên trường 910 về thì lại bị tai nạn bay, rơi ở khu vực cạnh hồ Đại Lải và mộ chí được đặt cùng dãy với anh Đặng Ngọc Ngự, Bùi Văn Long... tại nghĩa trang Trần Hưng Đạo- Hương Canh- Mê Linh- Vĩnh Phúc https://thuviensach.vn Nuốt nước mắt, tôi và Bảy Việt móc tay nhau thề còn sống thì còn phải trả thù cho anh em, cho đồng đội, mối thù khắc cốt, ghi xương này, sống để bụng, chết mang theo, chứ không bao giờ phai mờ. Hai ngày sau đó (ngày 12.08) thì tôi lại bị mắc nạn. Đêm trước đó, tôi phải đi từ Đa Phúc về Gia Lâm để thay trực cho một anh đi viện. Dọc đường đi, bom đạn nổ ầm ầm. Xe không đèn đóm, chạy rù rì, chậm như sên bò. Tôi tưởng tôi bị mất mạng khi ở cầu phao Đông Trù, vì đến đó thì bị một trận oanh kích. Là một thằng bay, vùng vẫy ở trên trời, bây giờ rúc vào hầm trú ẩn, nhìn thằng khác lao từ trời xuống nện mình thì tức đến phát điên lên được. Chúng tôi tiếp thu máy bay từ rất sớm. Tôi đi với anh Lương Thế Phúc (nay là Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Hàng không Dân dụng Việt Nam). Chưa đầy 5 giờ sáng, biên đội của chúng tôi đã vào cấp. Tôi biết, ngày nay sẽ là ngày rất căng thẳng. Xuống cấp chưa được mấy phút thì lại chuyến cấp tiếp. Pháo phòng không bắn ran xung quanh sân bay, mảnh đạn rơi cả gần máy bay. Chúng tôi nhận lệnh nổ máy, xuất kích. Rời Gia Lâm chúng tôi lấy hướng về Tuyên Quang, xong lại ngược vùng Yên Bái. Ở độ cao 5km, chúng tôi được thông báo có biên đội 4 chiếc F.4 bay với đội hình kéo dài. Thông báo đến lần thứ hai thì tôi phát hiện, nhưng chỉ thấy 2 chiếc. Chúng phóng tên lửa đối đầu. Chúng tôi cơ động tránh. Đến khi chúng ngang góc khoảng 600, tôi giục anh Phúc “vòng trái công kích đi”. Nghĩ rằng mình thường gặp số lượng đông hơn gấp bội lần, địch còn chẳng làm gì được, nay mình có hai anh em, nó lại chỉ có 2 chiếc, lực lượng tương đương nhau, mình lại đang ở thế chủ động, góc chiếm vị công kích có lợi thì ngon ăn rồi! Chúng tôi vứt thùng dầu phụ, tăng lực, vòng trái. Vừa áp độ nghiêng xong thì tôi nghe cái “rầm!”. Máy bay tôi khựng lại, mắt nảy đom đóm, đúng là thấy 36 ông mặt trời. Tôi biết tôi đã “bị” rồi, cố kéo máy bay vòng tiếp (bởi nhiều trường hợp cải ra bay bằng là bị bắn quả thứ hai liền, đứt luôn, không kịp nhảy dù nữa). Máy bay không “nghe” theo tôi mà quay tít, khói đen ào ạt tuôn vào buồng lái. Tôi đành phải lần đến cần nhảy dù khẩn cấp và giật. Đạn ghế phóng đưa tôi ra khỏi máy bay. Tôi hoàn toàn tỉnh táo. https://thuviensach.vn Sau khi dù mở, tôi nghe thấy tiếng F.4 lượn qua. Nghĩ đến trường hợp chúng bắn dù trước đó, tôi kéo cho dù chao qua một bên, xoắn rơi cho nhanh để thoát khỏi hiểm họa kia. Rơi đến độ cao khoảng hơn 100 m thì nghe thấy tiếng trống, chiêng khua rộn rã, người ở khắp các ngả đường, hẻm núi kéo ra sao mà lắm. Sau này nói chuyện với bà con, mới biết bà con chắc mẩm thế nào cũng phải bắt được thằng phi công ít cũng cấp thiếu tá trở lên vì dù múi trắng, múi màu da cam (dù của phi công Mỹ màu càng sặc sỡ thì cấp càng cao). Tôi kéo vượt qua được một đồi cọ thì tiếp đất xuống một ruộng lúa nước. Người đầy bùn, chui ra khỏi dù thì đã thấy 3- 4 họng súng ở trên bờ chĩa xuống. Người thì hô: “Giơ tay lên!”, bằng tiếng Việt, người hô: “Hen xơ ấp!” bằng tiếng Anh. Tôi trả lời tôi là phi công Việt Nam. Họ không tin, sợ rằng phi công ngụy Sài Gòn lừa, Họ bắt tôi cởi giầy, đi chân đất. May quá! Giày tôi đầy bùn, có người xách hộ thì mừng nào bằng! Tôi bỏ giày, đi chân đất nhoay nhoáy. Tôi rơi ở gần trại tù nên được đón vào nhà của Ban Quản giáo. Tôi lấy thẻ ra và nhờ báo hộ về Quân chủng rằng có một phi công mang số hiệu B.305 nhảy dù xuống đây, nhân dân đã đón được rồi. Sau khi cầm thẻ của tôi xong, bấy giờ bà con mới tin, vội vã lo cho tôi tắm táp, mượn quần áo cho tôi mặc, giặt hộ quần áo bẩn cho tôi, lo cơm nước... tất bật lắm. Tắm rửa xong, tôi đứng nói chuyện với bà con đến “bắt” tôi, về các hoạt động của Không quân Việt Nam, về những trận đánh của anh em bọn tôi, về những khó khăn mà chúng tôi gặp phải; cảm ơn sự cưu mang, đùm bọc của nhân dân và đề nghị bà con giải tán sợ bọn giặc trời quay lại đánh phá, gây những tổn thất không đáng có. Chia tay tôi, nhiều mẹ, nhiều chị sụt sùi. Tôi cũng ngậm ngùi chẳng kém. Ơn dày, nghĩa nặng của nhân dân đối với chúng tôi, biết bao giờ chúng tôi mới trả nổi. Có lẽ chẳng bao giờ trả được. Càng ngày tôi càng hiểu ra rằng trách nhiệm, nghĩa vụ của chúng tôi với dân, với nước càng nặng... phải làm việc, phải chiến đấu hét sức mình để đền đáp lại công ơn của nhân dân, để xứng đáng với lòng tin của nhân dân. https://thuviensach.vn Xã tôi “tiếp đất” là xã Liên Hoa, thuộc huyện Phù Ninh- Phú Thọ. Lần đầu tiên trong đời, ở đây tôi phải ăn đũa hai đầu. Thật lúng túng, vụng về vô cùng khi phải sử dụng “loại vũ khí” như thế trong bữa ăn. Máy bay Mi-4 lên đón tôi lại đỗ ở sân bóng đá của tỉnh Phú Thọ nên xe ô tô của Trung đoàn 925 “bắt cóc” tôi về Yên Bái. Về đến Trung đoàn 925 (trung đoàn bay loại máy bay MIG-19) gặp lại các bạn hữu cùng nhập ngũ, họ dứt khoát không cho tôi đi bằng đôi chân của tôi, mà họ ghé lưng vào cõng, kiệu, bắt tôi nằm cố định, sợ bị xẹp đốt sống. Tôi càng cãi thì lại càng bị giữ chặt, sau chán chẳng muốn cãi vã nữa, ngẫm nghĩ mới thấy tình đồng đội trong chiến tranh khi thường xuyên va vấp với lửa đạn, luôn bị cái chết rình rập... con người đối xử với nhau thật chân tình, lo cho nhau đến hết mình, không chút bon chen, không giả tạo. Quý báu biết bao! Tôi càng sống thì càng chất thêm những món nợ vào đời mình. Tình nghĩa anh em, bạn bè, đồng đội trong chiến tranh ngày càng bền chặt, sẵn sàng chia lửa cho nhau, nhận cái chết cho nhau... bao nhiêu nghĩa cử, bao hành động cao thượng, viết làm sao cho hết được!. Hôm sau thì Mi-4 bay lên Yên Bái chở tôi về Gia Lâm rút kinh nghiệm. Tôi đòi đi trực chiến ngay nhưng Quân y bắt tôi đi viện để giám định. Tôi đi viện giám định, nghỉ an dưỡng mấy ngày, sau lại về đơn vị chiến đấu, lại lăn lộn tiếp vào vòng xoáy của cuộc chiến tranh cùng đồng đội của tôi, giành giật bằng được sự yên tĩnh của bầu trời, trả lại cho nó màu xanh êm đềm và thanh bình vĩnh hằng. Cũng trong những ngày an dưỡng sau nhảy dù này, cuộc sống riêng của tôi xáo trộn một lần nữa và lần này số phận của tôi chừng như được sắp đặt đâu vào đấy để đời riêng an bài, tôi sẽ kể sau. Dịp tôi nhảy dù là dịp khắp miền Bắc rộ lên đợt bắn chiếc máy bay thứ 4000 của giặc Mỹ. Tỉnh Vĩnh Phúc treo giải một con bò cho đơn vị nào bắn được chiếc ấy. Tôi suốt ngày nói với bạn bè rằng: “Con bò ấy là của tao, để tao dắt về cho Trung đoàn”. Thế mà bò không dắt được, lại để cho quân y “chăn” mình mấy ngày thì vô cùng điên tiết. Tôi “hưởng” trận bom B.52 của Mỹ rải đầu tiên là ở Thanh Hoá từ 13/4/1972. Đêm đó tôi trực chỉ huy bay, cho Bùi Doãn Độ trực chiến. Báo https://thuviensach.vn động vào cấp, rồi lại xuống cấp và báo động sơ tán. Chúng tôi chưa kịp chui vào hầm thì suổt dọc đường băng của sân bay Thọ Xuân đã nháng lửa và tiếng bom rền như xay lúa, mãi không dứt. Mọi đường liên lạc hữu tuyến về sở chỉ huy bị đứt hết, đối không cũng chẳng nghe được, lại rất nhiễu (sau mới phát hiện là các cột ăng ten bị gạt gãy hết, các đường dây bị bom băm nát cả). Tôi rất sốt ruột không biết tình hình ra sao nữa. Đài chỉ huy nằm ở phía Bắc đường băng. Lực lượng trực chính lại ở phía Nam đường băng. Thật như ngồi trên đống lửa. Tôi trồi lên hầm để ngó xem thì lại bị anh Vũ Trọng Tân (trực Quân báo) lôi xuống, không cho lên, nhỡ tôi “vướng” mảnh thì xong. Đợt đánh này khá dài. Tiếng máy bay nghe rất nặng và rền. Dứt đợt đánh, tôi vọt lên khỏi hầm, hét gọi phía bên trực xem tình hình bên đó thế nào thì thấy một bóng đen chạy phía đường băng lên nói với tôi là đường băng bị đánh hỏng hết rồi, lại đưa cho tôi hai chú gà gô nói là bắt được ở bên lề bảo hiểm đường băng. Hai chú chim bị sóng kích của bom làm cho nghễnh ngãng, quay quay như người bị động kinh. Tôi cũng chẳng còn bụng dạ nào nghĩ cách xử lý chúng nữa, lại thả ra rồi cùng với đồng chí công binh kia đi kiểm tra đường băng. Trong ánh sáng mờ mờ của trời đêm, cúi sát mặt đất nhìn thì thấy mọi tấm ghi lát trên đường cất hạ cánh đều bị đánh cong, bật lên khỏi mặt đất tựa như những dẻ xương sườn của một con vật nào cực kỳ khổng lồ được dóc hết thịt giành cho đám nhậu rồi vứt hỗn độn ra đấy. Bãi chiến trường ngổn ngang thế này thì bao giờ mới sửa được, mới lại bay, lại trực được? Tôi vừa uất hận, vừa ngao ngán quay về hầm trực để thông báo cho số phi công và thợ máy trực chiến biết tình hình. Khu chúng tôi sơ tán và sở chỉ huy thì nghĩ rằng chúng tôi bị “làm cỏ” không còn một mống nào rồi. Gần sáng thì chúng tôi mò được về nhà. Cả khu vực ấy râm ran, hân hoan náo nhiệt hẳn lên. Đúng là chúng tôi từ cõi chết trở về thật, chẳng ai dám nghĩ là chúng tôi lại còn đủ như thế sau những đợt rải thảm hàng mấy trăm tấn bom của B.52 xuống khu trực. Sự may rủi, sống chết trong chiến tranh đúng là lạ lùng, không ai lường được. Chúng tôi phải đi đường bộ ngược ra Đa Phúc. Một tuần sau, sân bay sửa xong, tôi lại bay vào trực. Từ trên trời nhìn xuống mới ngại: một vệt https://thuviensach.vn chiều ngang khoảng hơn 2 km, chiều dài khoảng chục cây số chi chít hố bom, chỉ thấy hố bom là hố bom trong cái diện tích ấy, tưởng tượng như mình nhìn vào tổ ong bỏ không, không có ong thế nào thì đúng như vậy. Hôm ấy, nếu bọn lái đi lệch chỉ cần 01 độ sang phía đầu Tây sân bay thôi thì chắc số anh em chúng tôi trực chiến hôm ấy xương thịt, đất cát sẽ được băm nhừ nhào vào nhau thành một hỗn hợp mà chẳng hề tìm được tên gọi của cái hỗn hợp ấy trong từ điển của loài người. Rồi một nỗi căm giận bùng lên trong tôi. Đất trời này là của dân mình, sao lại có bọn ngoại bang láo xược dám đến đây gây ra bao thảm hoạ, bao mất mát, đau thương cho dân tộc mình? Suốt cuộc chiến tranh, biết bao lần chúng tôi phải căm giận đến bầm gan, tím ruột, bao lần máu như sôi lên trong cái huyết quản, bao lần phải đặt ra câu hỏi kia. Chúng tôi hiểu, những điều đó tạo cho chúng tôi thêm sức mạnh. Ngọn súng của chúng tôi không bao giờ chệch hướng. Cái chết nhẹ cũng tựa lông hồng. Chúng tôi vượt được mọi gian nan, hiểm nguy có lẽ cũng nhờ từ lòng yêu quê hương, yêu đất nước vô bờ. Rất nhiều sân bay dã chiến, ngắn hẹp, mà chỉ nói ra thôi chắc bây giờ không ai tưởng tượng nổi đấy lại gọi là sân bay, càng không dám nghĩ rằng chúng tôi đã trực chiến ở những nơi ấy. Chúng tôi cất hạ cánh cả trên đường lăn, có lệnh cất cánh là xuất kích, đánh nhau không tìm được nơi hạ cánh nữa thì nhảy dù, chỉ tâm niệm một điều duy nhất: phải đánh, phải chiến thắng. Những năm tháng chiến tranh, đời tôi gắn chặt với cuộc sống cơ động. Sáng cất cánh từ sân bay Đa Phúc, đánh một trận, về Yên Bái hạ cánh, ăn trưa ở đó, lại xuất kích, có khi lại hạ cánh tại Thọ Xuân- Thanh Hoá hoặc Kép, hoặc Kiến An. Ngoài súng đạn đeo theo người , tôi còn nhét trong túi áo một chiếc quần đùi, một khăn mặt, một dao dù, bút và quyển sổ nhật ký. Gia tài của phi công chiến đấu có vậy mà lăn lộn khắp nơi. Các mái nhà trực chiến ở các sân bay đều giắt đầy bàn chải đánh răng, bay đến đâu trực thì sử dụng đến đấy. Cuộc sống đơn giản là thế. Có một điều chúng tôi rất cần là nước. Suốt một ngày trực căng thẳng, vất vả, quần áo kháng áp bó chặt lấy người, mồ hôi nhễ nhại bao nhiêu tiếng đồng hồ, nhất là giai đoạn gặp gió Lào khi trực ở các sân bay miền Trung thì khổ cực vô cùng. Vậy mà https://thuviensach.vn đâu có được tắm rửa thoải mái như hiện nay. Chắc khó có người tin nổi tiêu chuẩn mỗi người đi trực về chỉ được một chậu thau nước (nhiều khi còn toàn mùi bùn vì phải gạn nước ở hố bom), mà chúng tôi gội đầu, tắm và cả giặt nữa. Đầu tiên múc một ca nước, thấm cho ướt hết đầu, hứng nước ấy vào một chậu thau khác, xát xà phòng, gội đầu chỉ được phép hai ca nước là cùng. Số nước hứng được khi gội đầu, té cho ướt khắp người, kỳ cọ bằng xà phòng, chỉ được dùng khoảng 3- 4 ca nước, vẫn hứng nước ấy để giặt sơ bộ quần lót. Tráng nước sạch khoảng 3 ca, còn lại vài ca cuối là giặt khăn mặt và quần. Xong cuộc tắm! Cũng may anh em tôi suốt giai đoạn chiến tranh không ai bị bệnh ngoài da. Khổ nhất là mấy “vị” trực trong sở chỉ huy, suốt cả ngày không ra khỏi vị trí trực, phát minh ra sáng kiến: tắm khô! Tôi đùa nói rằng các vị viên từng viên ghét lại như viên thuốc tễ ấy, cho vào lọ nút kín, sau này có khi dùng làm thuốc chữa được khá nhiều bệnh hiểm nghèo cũng nên!. Giai đoạn cuối năm 1972, giai đoạn căng thẳng, ác liệt nhất trong những năm chiến tranh đánh phá bằng không quân của Đế quốc Mỹ ra miền Bắc. Càng gần thắng lợi càng nhiều gian nan. Đúng như thế! Mỹ không từ một thủ đoạn đê hèn nào không áp dụng. Như con thú bị thương nặng, bước đường cùng quẫy cắn lung tung, chúng đánh phá khắp nơi. “Thăng Long phi chiến địa!” Câu sấm trạng ấy không còn đúng với đất Hà Thành ở những ngày này. Lần nào cất cánh lên cũng thấy dưới cánh mình những cột lửa khói của đạn bom bốc lên khắp nơi, chí căm thù cũng dâng theo ngùn ngụt. Tôi luôn xác định là tôi không thể sống qua chiến tranh. Nhưng như vậy vào trận lại rất thanh thản. Đêm 18/12/1972, khi địch đánh bom bằng B.52 vào Hà Nội thì tôi đang ở Gia Lâm. Suốt đêm phải ngồi bó gối tránh bom dưới hầm, hai chân tê dại như không phải chân của mình nữa. Sáng ra gặp ngay cảnh hoang tàn trên mặt đất. Nhà chúng tôi bị đánh sập, chúng tôi phải bới mãi trong đống gạch ngói đổ nát mới lôi được thùng bay ra để đi trực. Đường băng Gia Lâm bị đánh nát khu phía Bắc. Tôi đi kiểm tra, xác định xem có thể cất cánh được hay không thì gặp hai cô chị nuôi. Chị Viên và chị Dũng tóc tai bết bùn đất, áo quần rách bươm, mếu máo với tôi: “Nó đánh tan bếp rồi anh https://thuviensach.vn ạ! Chúng em theo xe về Thạch Bàn (khu sơ tán của bọn tôi) đây!” thương cảm vô cùng, mà cũng hận thù giặc Mỹ vô cùng! Sau tôi, ai đó bỗng vụt ra câu chửi thề rất tục mà tôi không dám ghi lại đây. Bấy giờ mà xuất hiện tên giặc nào thì chắc bị băm vằm nát như bùn. Chúng tôi tìm mọi cách tháo hai thùng dầu phụ cánh để làm giảm trọng lượng cất cánh, phù hợp với đoạn đường băng lành lặn còn lại. Ít dầu hơn, thời gian tham chiến sẽ ngắn hơn, nhưng không sao!, “Liệu cơm gắp mắm”... “Bấc đến đâu dầu đến đấy”, sợ gì. Suốt hơn một ngày trời trực ở sân bay Gia Lâm, chúng tôi không có gì ăn. Đường từ khu sơ tán ra bị đánh đứt, bếp bị đánh sập, xung quanh đạn bom, khói lửa tơi bời, chúng tôi lúc nào cũng chờ xuất kích, chẳng ai nghĩ đến ăn nữa. Sang ngày hôm sau thì chính trị viên Thường đi theo kíp trực của bọn tôi đến mãi trận địa pháo phòng không xin được xoong cơm ngô, một bát dưa muối mang về. Anh em chúng tôi chia nhau mỗi người lưng bát. Không ai có cảm giác đói, có lẽ sự căng thẳng, tinh thần sẵn sàng cảnh giác ở tuyến trực... làm chúng tôi quên đi những nhu cầu tối thiểu thường ngày. Tôi cũng mắc chứng mất ngủ từ ngày ấy. May lắm giờ mỗi đêm ngủ được 3-4 tiếng là cùng. Trưa thì không chợp mắt rồi, cũng là di chứng của chiến tranh. Tôi đi đâu là bị bom đạn đuổi theo lằng nhằng đến đấy. Một ngày phải cơ động không biết bao nhiêu sân bay mà kể. Bạn bè tôi cũng vậy, hạ cánh khi lúc địch vừa đánh xong, hạ cánh cả lúc chúng đang đánh, rồi hạ cánh xong thì chúng đánh. Thấy có thời điểm có thể hạ cánh được là chúng tôi phải xuống luôn. Chỉ cần một phút đắn đo thôi, thời điểm đó qua đi là “bị” ngay. Mọi xử lý phải thật nhanh, thật chuẩn. Cũng khá nhiều anh hạ cánh xong, trên đường chạy đà lao xuống hố bom, trồng chuối ở đấy, rồi lao cả xuống ao, rồi lật ngửa, lật nghiêng máy bay... đủ cả. Cười nhất là hôm anh Lanh hạ cánh ở Gia Lâm. Dù giảm tốc bị đứt, máy bay cứ lao ào ào (mặc cho đã tắt máy rồi,đã phanh hết cỡ rồi) nhằm ao phía trước thẳng tiến. Phút chốc, trong chớp mắt nghe cái “ùm”. Nước ao bắn tung toé, từ xa trông tới chỉ còn thấy mỗi đuôi đứng máy bay nhô lên tựa như vây con cá mập ở ngoài biển. Mọi người hốt hoảng tìm xe ứng cấp https://thuviensach.vn để đến cứu phi công. Lâu sau mới có xe. Đến khi xe chạy tới bờ ao, nhìn ra chẳng thấy phi công đâu. Gọi chẳng ai trả lời! Xăm xoi quanh các bụi lau sậy ở bờ ao chẳng vết tích gì! Ngơ ngác không sao hiểu nổi! Trong khi đó thì Lanh đang ngồi luộc ốc ở nhà gần đó. Số là sau khi “lăn tùm” xuống ao, Lanh mở buồng lái, cởi giầy, cởi quần bay đeo hết lên cổ, nhảy ra cánh máy bay, lội ngay lên bờ. Ngoái lại xung quanh thấy có rất nhiều ốc nhồi (các ao ở quanh sân bay Gia Lâm sẵn khoản này lắm) liền bắt mấy chục con, cho vào ống quần bay, túm lại xách về để “chiêu đãi” bọn tôi. Đoàn đi cấp cứu phi công bị nạn dò về đến nơi thì thấy mấy thằng bọn tôi đang nhể ốc ăn. Ba hòn gạch chụm lại, một ống bơ sắt tây bắc lên, nhóm lửa mấy phút là có thể “chiến đấu” được với đám đặc sản ấy rồi. Thôi thì, tiếng cười, tiếng quát, tiếng chửi, tiếng khóc... văng ra đủ cả! Đúng là chiến tranh! Cái gì cũng có thể xảy ra bất kể lúc nào, và bất kể lúc nào cũng có thể xảy ra cái gì! Cảm động nhất là hôm tôi xuống hạ cánh ở sân bay Miếu Môn, phải vào tít bản trong núi sơ tán ở nhà dân, rét vô cùng. Chủ nhà cho mượn chăn bông đắp. Chăn bông của đôi vợ chồng mới cưới nhau. Chồng vừa đi B (đi vào Nam chiến đấu). Chăn nồng mùi lạ, tôi không sao ngủ nổi. Ngoài kia, khi có một cơn gió thốc lại thì toàn mùi thịt người- mùi thịt của bọn giặc lái Mỹ cháy cùng máy bay rơi hồi tối xông đến nồng nặc, gây, khét, thối đến buồn nôn! Tôi chỉ mong cho chóng sáng mà sao đêm lại dài đến vậy, dài như vô tận. Thời gian bò chậm chạp tưởng như không nhúc nhích nữa. Sáng ra, tới nơi ăn sáng thì thấy 6 bát mỳ hãm để trên bàn ăn. Tôi nghĩ thầm: chắc đêm qua có số cơ động bằng đường bộ đến bổ sung. Ngồi đợi chẳng thấy ai xuất hiện. Hỏi thì được trả lời: Đấy là tiêu chuẩn của tôi! Trời đất quỷ thần ơi! Ra bếp ở đây chưa hề nấu cho phi công ăn bao giờ, nên chẳng có gì cả ngoài mì và tiêu chuẩn thông báo là sáng ăn 2,5đ tương ứng với 6 bát mì tôm là thẳng thừng phục vụ tôi liền! Tội đến thế là cùng!. https://thuviensach.vn Tôi cứ “lang thang”, “lông bông” tứ xứ như thế, chẳng mấy khi về căn cứ chính của Trung đoàn. Quần áo còn lại không mặc đến thì hôi rình, có thể thu hoạch mộc nhĩ mọc ra từ quần áo được. Bọn tôi phải ở trong hầm liên tục nên nhiều anh bị mắc bệnh, tôi gọi là bệnh “hươu”. Thực chất là bị lang ben, nhưng trông cứ như những con hươu sao ấy thôi. Mãi sau này, khi chúng tôi không ở hầm nữa thì mới điều trị khỏi. Đêm 28/12, Vũ Xuân Thiều xuất kích từ sân bay XB 90 (sân bay ở Cẩm Thuỷ) lên vùng trời Sơn La. Tại đây, Thiều đã bắn vào B52, nhưng chắc bắn gần quá, các mảnh nổ của “pháo đài bay” văng ra làm máy bay Thiều cũng bị thương và Thiều hy sinh trên vùng trời Sơn La này. Tối hôm đó, tôi ở sân bay Gia Lâm. Sáng hôm 29 hạ cánh ở Đa Phúc nhận tin trên, tôi oà khóc. Tôi và Thiều rất quý nhau đã đành, nhưng ngay hôm trước đó, tôi vừa nhận được thư Thiều gửi tôi, thông báo Yên (sau này là vợ tôi) từ Tam Đảo xuống, rất muốn tới thăm tôi mà không được. Thiều cũng gửi tôi chiếc áo len hôm cho Thiều mượn. Cứ lo cho tôi bị rét, rồi còn nhắn gửi lời chúc cho đám cưới của Việt- Nga... Mới đây thôi mà nay đã cách biệt âm dương không sao gặp được nhau nữa. Tôi đau đớn đến rỉ máu trong lòng. Chiều chiều mây phủ Sơn La https://thuviensach.vn Nhớ thương bạn, nước mắt và lộn cơm. Cuộc chiến này sẽ còn tiếp tục cướp đi những người bạn nào thân thiết của tôi nữa? Và bao giờ sẽ đến lượt tôi ra đi? Mỗi một lần vào cấp, ngồi vào buồng lái, tôi lại hít một hơi dài, nén trong lồng ngực, thầm nhủ: Đây cũng là lần cuối của mỉnh! Khi đã nổ máy thì ý nghĩ ấy tiêu tan ngay. Biết bao việc phải làm dồn dập ngay sau khi ấn nút khởi động. Xuất kích, săn lùng, không chiến, xử lý các tình huống bất trắc, tìm đường về hạ cánh., luôn luôn ở tột đỉnh của sự căng thẳng... Hạ cánh xong, ra khỏi buồng lái mới thở phào: ta vẫn còn sống! Và chuẩn bị tiếp cho lần xuất kích mới... Cứ thế, chúng tôi ở trong vòng xoáy đến chóng mặt. Râu ria có lúc chẳng kịp cạo. Ngày đánh nhau, đêm lại họp bàn, rút kinh nghiệm, quân sự dân chủ tìm cách đánh đến khuya. Rồi báo động trú ẩn., chợp mắt một chút thì đã gọi đi trực. Đã trực thì không có lúc nào rỗi cả. Có ngày, tôi có đến 11 lần chuyển cấp, 6 lần mở máy, 4 lần xuất kích. Lần báo động chuyển cấp cuối cùng trời hơi nhá nhem tối, tôi không còn đủ sức để chạy ra máy bay nữa. Vào máy bay ngồi, tôi nói với thợ máy: “chắc lần này cất cánh thì tao đi tong mất vì mệt lắm rồi!” Tổ trưởng thợ máy mắng lại tôi: “Phỉ thui cái mồm mày, chỉ được cái nói gở là không ai bằng! Ngậm ngay miệng lại”. Quả thực, ngày đó tôi mệt đến muốn ngất. Hầu như suốt ngày không có mấy hạt cơm vào bụng vì vừa bưng bát cơm và được một miếng là đã báo động. Tay xách mũ bay vừa chạy vừa nhổ cơm trong mồm ra, lau miệng vào ống tay áo, cất cánh, hạ xuống sân bay khác. Uống được hớp nước, lại báo động, lại cất cánh, lại hạ tiếp ở một sân bay khác nữa. Quay hơn đèn kéo quân như vậy thì đến đá cũng phải đổ mồ hôi. Kết thúc chiến tranh, tôi cân được 57 cân mặt đen xạm, đầy nếp nhăn, râu ria tua tủa... tiếc là không giữ được chiếc ảnh nào vào thời điểm đó để làm kỷ niệm. Trước ngày Thiều mất một ngày thì Trần Việt bắn rơi một chiếc F.4 ờ vùng trời Sơn Tây khi cất cánh từ Miếu Môn lên. Đây là chiếc máy F.4 cuối cùng bị bắn rơi ban ngày trong chiến tranh xâm lược ra miền Bắc bằng không quân của Đê quốc Mỹ. Còn Thiều là phi công hy sinh trước khi chiến https://thuviensach.vn tranh kết thúc. Sự mất mát cuối cùng của đoàn bay MIG- 21 khoá 3 của tôi trong suốt từng ấy năm lăn lộn thực sự trong khói lửa đạn bom. Ngày 31 tháng 12 năm 1972, tôi trực ở sân bay Gia Lâm, biết rằng chiến tranh xâm lược của Đế quốc Mỹ đã chấm dứt. Tôi ra ngồi ở đầu đường băng, không gian yên tĩnh và tôi thấy trống trải lạ thường. Bầu trời tĩnh lặng, sâu thẳm đến khôn cùng. Tôi nhìn lên đó rồi bật khóc như đứa trẻ, khóc như chưa bao giờ được khóc. Trước mắt tôi hiện lên rõ rệt đầy đủ các khuôn mặt của các anh, em, bạn bè, tôi như còn được nghe thấy cả giọng nói, tiếng cười của họ nữa. Rồi những khuôn mặt ấy bị nhoà dần theo thứ tự thời gian: Trần Hoá (04.02.1969), Phạm Thành Nam (28.03.1970), Phạm Đình Tuân (28.01.1971), Nguyễn Văn Khánh (18.12.1971), Bùi Văn Long (03.03.1972), Phạm Văn Mạo (03.03.1972), Nguyễn Ngọc Hưng (08.07.1972), Nguyễn Ngọc Thiên (12.08.1972), Vũ Xuân Thiều (28.12.1972) Tôi cứ ngỡ mình còn đang chiêm bao. Mới đây thôi mà sao các anh đã thành người thiên cổ. Cõi vĩnh hằng. Khi các anh nằm ấm chỗ. Kiếp luân hồi- các anh có quay lại bay không? Chốn trần ai bao người nhớ, người mong. Mắt đẫm lệ, nhạt nhoà sương khói. Trời xanh thẳm, mung lung, cao vời vợi. Duyên nợ nào chắp mãi những cánh bay! Tôi ngồi rất lâu, lòng không làm sao tĩnh nổi, không lấy gì cân đo cho được những mất mát, đau thương. Không lấy gì so sánh được những tháng ngày gian nan. Chỉ tính năm 1972, hai trung đoàn chúng tôi có 44 trường hợp phải nhảy dù bỏ máy bay trong chiến đấu (trong đó có tôi một lần), 16 phi công hy sinh. Riêng đoàn bay của tôi suốt thời gian chiến tranh, chúng https://thuviensach.vn tôi để mất 9 anh em, 6 anh được tuyên dương danh hiệu anh hùng các lực lượng vũ trang: Đinh Tôn, Lê Thanh Đạo, Nguyễn Đức Soát, Nguyễn Tiến Sâm, Nguyễn Văn Nghĩa, Vũ Xuân Thiều (truy tặng)... Hai lăm, hai sáu tuổi đầu, chúng tôi cũng đã kịp xông pha, lăn lộn, vượt qua được lò lửa chiến tranh để cứng cáp, già dặn. Tôi biết rằng đời mình phải gắn chặt duyên nợ với bầu trời. Nhìn lên đó, tôi ngỡ rằng, đời tôi thử lửa với cuộc chiến thế là đã đủ. Từ nay tôi có thể thoát được nó, sống yên bình, không còn nghe thấy tiếng bom rơi, đạn nổ; không còn thấy những cột khói lửa bốc cao không còn thấy những cảnh đổ nát, hoang tàn; không còn thấy tiếng khóc gào; không còn thấy cảnh xác chết vương vãi khắp nơi nữa... Nhưng tôi đã lầm! Năm 1979, sau khi tôi tốt nghiệp Học viện quân sự được mấy tháng thì tôi lại lên vùng Lạng Sơn nhận nhiệm vụ, và lần này tôi tham gia với tư cách đại diện không quân. Trong đợt công tác này, đồng đội đi cùng tôi không bị “rơi vãi” mất một ai, may mắn thật lớn lao. Rồi tôi được lệnh rút về trung đoàn để đồng chí khác thay thế vào vị trí của tôi. Tôi nghỉ ngơi mấy ngày kịp lại sức và lại trở lại với bầu trời với những bài bay mới, những khoa mục mới và rồi cả cương vị mới nữa. Vùng biên ải của tổ quốc đã đóng dấu ấn tiếp theo vào trang sử của cuộc đời tôi, ghi nhận công sức của tôi đã bỏ ra. Tôi không hổ thẹn với những tháng năm qua khi từ giã tuổi ấu thơ, tuổi học trò cho tới giờ, tôi đã đóng góp được phần rất nhỏ bé của mình đối với quê hương, đất nước. Tôi ý thức được rằng, đời tôi rồi sẽ còn gặp nhiều gian nan, và tôi cũng tin tưởng sắt đá rằng tôi sẽ vượt qua hết được mọi trở ngại trên đường tôi đi. Những cuộc chiến tranh, những trận chiến ở mọi nơi đã kịp tôi luyện, hun đúc cho tôi đủ cứng cáp, nuôi dưỡng cho tôi đủ ý chí để đương đầu với mọi khó khăn; cho tôi những bài học, những kinh nghiệm để tôi có thể lăn lộn trong cuộc sống, đứng vững được và cơ bản nhất, đó là dạy cho tôi biết LÀM NGƯỜI!. https://thuviensach.vn Chương IV- Đoạn đường sau chiến tranh Cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Đế quốc Mỹ ra miền Bắc chấm dứt, chúng tôi rút kinh nghiệm, ổn định lại tổ chức, củng cố lực lượng, tu bổ lại doanh trại, sửa chữa các cơ sở hạ tầng của căn cứ không quân, nhanh chóng lập kế hoạch bay bồi dưỡng tiếp số phi công mới của trung đoàn. Sự hàn gắn “vết thương chiến tranh” còn kéo dài mãi về sau này chứ không thể nói ngày một ngày hai được. Sân bay Đa Phúc phải đại tu, bom đạn cày xới, khoét nát đường hạ cất cánh lẫn đường lăn, không thể không sửa. Tôi dẫn quân về Kép “sơ tán” và tổ chức bay ở trên đó. Mấy năm sau chiến tranh sao mà đói kém. Có dịp tôi được ghé về quê, đúng đợt ấy nhà tôi không còn hạt gạo nào. Mẹ tôi vác rá đi vay gạo. Nhưng vay ở đâu được! Quanh hàng xóm cảnh ngộ đâu khá hơn gì nhà mình. Tôi khóc suốt dọc đường từ nhà về đến đơn vị. Tôi có viết cho Thiện- đứa em gái tôi bài “Đường cũ, quê nghèo”. Viết mà không dám gửi, sợ em tôi quá buồn vì đa cảm. Cho tới giờ thi thoảng về quê, tôi lại đi lại nẻo đường năm xưa mà nhớ lại những ngày đói năm nao, lại thấy lòng mình rộn lên niềm thương cảm. Biết bao nỗi buồn vui, bao kỷ niệm tuổi ấu thơ... chất nặng trong lòng tôi mỗi khi tôi nhớ về quê. Tôi càng hiểu rằng, càng về già thì người ta nhớ về quê càng da diết hơn. “Lá rụng về cội! Không có quê hương thì “không lớn nổi thành người” được! Lòng yêu đất nước, yêu đồng bào bắt nguồn từ yêu làng quê của mình, yêu những người thân của mình, yêu từ những thứ rất tầm thường trong cuộc sống hàng ngày của mình. Không có tình yêu sâu đậm ấy thì không thể nói đến chuyện bảo vệ Tổ quốc. Nếu cuộc sống hàng ngày sống hời hợt thì khi cầm súng trong tay, sớm muộn cũng sẽ trở thành kẻ đào ngũ, sẽ trở thành kẻ phản bội, đúng với cái nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Tháng 7 năm 1974, tôi có tên trong danh sách đi học Học viện Không quân mang tên Gagarin bên Liên Xô. Cũng là điều bất ngờ đối với tôi vì cách đấy mấy tháng, số được đi học đã tập trung ở Lạng Sơn đế ôn văn hoá, https://thuviensach.vn còn tôi, vẫn lụi cụi bay đào tạo số phi công mới ngày ngày, có dấu hiệu gì về học hành đâu! Vậy là tôi lại phải chuẩn bị tinh thần cho mình đế ngồi “mài đũng quần” mấy năm ở nơi đất khách quê người. Tôi biết, vào học ở Học viện đó không đơn giản vì họ chọn tiêu chuẩn rất cao, đào tạo xong, có thể giao cho chức cán bộ sư đoàn trở lên và có thể phong hàm cấp tướng được. Bảy năm tham gia chiến đấu, chữ nghĩa đâu còn! Trong đầu suốt ngày đêm chỉ hằn những đường bay, những điểm nổ, những động tác cơ động nhằng nhịt, những niềm hân hoan trong chiến trận, những mất mát thương đau sau chiến đấu... đủ cho óc muốn vỡ tung ra rồi. Ai mơ màng đến chuyện bút nghiên! Năm 1974 trở đi là năm bố tôi rất yếu. Người bị bệnh hen xuyễn, lại đi làm xa. Đạp xe đạp từ nhà tôi lên đến Hà Nội khoảng 25 km, tối lại đạp xe về. Tôi thương và lo cho bố tôi lắm. Tôi cương quyết đề nghị bố tôi nghỉ hưu, sau rồi bố tôi cũng chấp nhận. Giữa tháng 8/1974 thì tôi lên tàu liên vận để đi học. Lại lênh đênh 11 ngày 11 đêm. Lần thứ hai trở lại đất Nga, trong tôi có cảm giác háo hức như đứa trẻ xa nhà lâu ngày nay được trở về. Cảnh vật, con người... tôi đều thấy thân quen như quê hương mình, người thân của mình. Chúng tôi được nghỉ mấy ngày, chuẩn bị mọi mặt để bước vào khai giảng. Cũng hồi hộp như thuở học trò. Mà đúng thế, mình chỉ khác tên gọi không là học sinh mà là học viên thôi. Lớp đào tạo “chỉ huy tham mưu cấp chiến thuật, chiến dịch” của tôi gồm có 5 phi công: Nguyễn Tiến Sâm, Ngô Duy Thư, Bùi Thanh Liêm, Trương Tôn và Tôi (cả 5 đều tham gia chiến tranh, đều lập được chiến công trong chiến trận. Anh Nguyễn Tiến Sâm là Anh hùng lực lượng vũ trang. Bùi Thanh Liêm sau này trở thành phi công vũ trụ được đào tạo cùng với Phạm Tuân. Khi về nước thì Ngô Duy Thư hy sinh trong tai nạn bay MIG- 21 ở ngay Phủ Lỗ. Bùi Thanh Liêm hy sinh trong một tai nạn bay biển ở Đồ Sơn- Hải Phòng. Kể cả thời chiến, lẫn thời bình đều có những cái chết cực kỳ vô lý và đáng tiếc biết bao!). https://thuviensach.vn Vì chúng tôi đã biết tiếng Nga nên không phải học dự khoá, mà học thẳng vào năm thứ nhất. Phải nói rằng mất gần một năm trời tôi phải đánh vật với sách vở. Nếp sinh hoạt bị đảo lộn đã đành, mang tiếng là người biết tiếng Nga nhưng bao năm chiến tranh bị bào mòn đi nhiều lắm (chỉ những câu chửi tục thì làm sao lại không quên đi cho), gần như phải ôn một cách ác liệt. Tôi tự bắt tôi mỗi ngày phải học 30 từ sau nâng lên 50 từ... Tích cực bắt chuyện, chơi với bọn trẻ con, tích cực ghi từ mới, tra từ điển, học cách nói trong dân chúng... hầu như không có thời gian nghỉ. Tôi đọc sách rất miệt mài, có hôm đến 3 giờ sáng mới đi nằm, 6 giờ sáng lại dậy. Đói kiến thức quá bây giờ muốn nhồi nhét, bù lại cho nhanh. Mắt tôi bị giảm thị lực ghê gớm, chỉ còn 3/10. Thị lực mắt lại khác nhau nên đặt mua kính cũng phức tạp. Tôi hoạt động công tác xã hội ở trường cũng khá hăng. Tham gia vào đội văn nghệ, đội bóng chuyền, trượt tuyết, tham gia vào hội nghiên cứu khoa học quân sự. Tôi đã có bản báo cáo khoa học, được thưởng 15 rúp. Hồi đó một tháng chúng tôi được 85 rúp gói trọn cả ăn, ở, sinh hoạt phí. Số tiền thưởng thế là to chứ. Tôi khao anh em một trận bia thoải mái. Sau chính đề tài ấy tôi phát triển lên thành luận văn tốt nghiệp của tôi và đã bảo vệ thành công. https://thuviensach.vn Giảng dạy cho chúng tôi là những thầy cô đã từng tham gia chiến tranh thế giới thứ hai, là những người có học hàm học vị cao, truyền đạt cho chúng tôi rất nhiều điều bổ ích. Chúng tôi tất bật, vất vả vô cùng trong suốt những năm học ở Học viện. Sau này, mấy anh em tôi không đến nỗi nào. Anh Sâm thì giữ chức Phó Tổng Giám đốc Trung tâm Quản lý bay Dân dụng Việt Nam, rồi sau này đến tận chức Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải- Cục trưởng Cục Hàng không Việt Nam. Anh Liêm và anh Thư thì giữ chức Trung đoàn phó Trung đoàn bay, và hy sinh khi đang bay huấn luyện. Anh Tôn giữ chức Phó Giám đốc Học viện Không quân- Bộ Tư lệnh Không quân. Hàng năm chúng tôi chỉ nghỉ hè mươi ngày, sau đó trở lại trường cũ trường Kranôdar để bay hồi phục kỹ thuật. Mấy năm học Học viện, mắt tôi bị “mù dở” nên không được bay. Tôi ngán ngẩm lắm, nghĩ đời mình chấm dứt ở đây, nhưng lại nghĩ, không thể ăn không ngồi rồi thế này được. Tôi bắt đầu dịch sách. Tôi dịch quyển “Tiêm kích sống bằng chiến trận” của Nguyên soái Không quân Xcômôrôkhôp. Sau này dẫu không được xuất bản thì cũng là kỷ niệm đẹp, đáng nhớ trong những năm học ở Học viện, nhưng nhà xuất bản Quân đội nhân dân đã cấp phép cho xuất bản, in xong tháng 9 năm 2002 tại Nhà máy in Quân đội. Tôi còn tiếp tục dịch quyển “Những phi đội bay về phía Tây”, được Nhà xuất bản Quân đội nhân dân cấp phép và in xong nộp lưu chiếu tháng 3 năm 2003. Năm 2004 tôi biên dịch quyển “Nghịch lý thế kỷ 20” được Cục xuất bản cấp phép, in xong và nộp lưu chiểu quý IV- 2004. Giữa khoá học, nghỉ hè chúng tôi được về nước. Quả thực, sau hai năm xa, đất nước có nhiều nét đổi thay. Về nước được hơn một tháng, chúng tôi lại sang học tiếp. Lần sang sau này thì thật nặng nề vì thấy thời gian trôi quá chậm. Nỗi nhớ nhà, nhớ quê, nhớ vợ cứ rộn lên (tôi cưới vợ dịp về nghỉ hè). Kết thúc năm học thứ 3 thì tôi cũng hoàn tất bản luận văn tốt nghiệp của tôi. Vì tôi viết phần lý thuyết, lại đăng ký đề tài trước nên hoàn toàn chủ động. Đến năm thứ 4, thời gian một tháng rưỡi nhà trường giành cho làm luận văn tốt nghiệp thì tôi quá nhàn hạ, nếu không giúp anh em khác thì đi chơi khắp nơi, nghĩ rằng sẽ không bao giờ trở lại đất Nga nữa, lần này là lần cuối cùng https://thuviensach.vn rồi. Thế nhưng tôi vẫn còn có dịp quay lại Học viện, quay lại nước Nga vài lần nữa về sau này. Tháng chuẩn bị tốt nghiệp, chuẩn bị về nước, đối với tôi là tháng dài đến vô tận. Tôi cắt một dải băng, vạch 31 ngày thành 31 đốt treo ở đầu giường, qua một ngày lại lấy kéo cắt đi một đốt. Ngày cuối cùng, đốt cuối cùng, tôi đốt ra thành than hoà vào rượu uống. Tạm biệt trường, tạm biệt đất Nga! Đối với tôi, tôi mang ơn sâu nặng với đất nước Nga. Lần sang trước, tôi đã học bay, nắm vững được thuật bay để tồn tại được trong chiến tranh. Lần này tôi được trang bị lý luận, kinh nghiệm đế chỉ huy quân đội. Tôi trưởng thành như vậy, làm sao lại không kể đến chuyện ơn nghĩa. Biết bao thầy cô dạy tôi tận tình, biết bao người coi tôi như con. Biết bao người coi tôi như người thân, ruột thịt. Lần nào về nước tôi cũng đi trong nước mắt của sự tiễn đưa, những giọt nước mắt chân tình, những tấm lòng nhân hậu... Suốt đời tôi, tôi không bao giờ quên được! Ôi nước Nga! Nước Nga! Tôi coi đấy cũng như một phần máu thịt của tôi!. Chúng tôi về nước và được phân công công tác ngay. Tôi được bổ nhiệm làm Tham mưu Phó tác chiến của Trung đoàn 927 ở Kép. Tôi kéo quân vào Đà Nẵng bay hồi phục. Rồi tháng 9 năm 1979, do nhu cầu phát triển lực lượng, một Trung đoàn Không quân tiêm kích MIG- 21 nữa được thành lập. Tôi được giao nhiệm vụ làm Trung đoàn trưởng trung đoàn này đóng đô tận Yên Bái. Ngày tôi từ Kép lên Sư đoàn nhận nhiệm vụ cũng là ngày tôi phải về Trung đoàn luôn, chẳng kịp đem theo đồ đạc, quần áo sinh hoạt gì hết. Sẩm tối thì tôi đến trung đoàn. Thời đó, đường lên Yên Bái rừng còn âm u, tre nứa xoè kín hai bên đường chứ đâu quang đãng như bây giờ. Tôi đứng giữa sân trung đoàn, nhìn cảnh tượng mà ngao ngán. Trước đấy 2 ngày, có một cơn lốc đi qua đúng khu vực trung đoàn đóng quân. Nhà thì đổ ngổn ngang kèo cột, vách liếp, nhà thì tốc mái giơ đòn tay khẳng khiu, cây gãy, cây xiêu, cây bật gốc... cám cảnh vô cùng. Thật chẳng khác gì qua một trận càn của Pháp. Tôi cắn chặt hai hàm răng, đứng trầm ngâm suy tính. Anh em trong trung đoàn toàn những người tứ xứ ở đủ mọi đơn vị dồn chia cho. Số bị vi phạm kỷ luật dạng để đưa lên Yên Bái “cải tạo” không phải là ít. Tất cả len https://thuviensach.vn lén nhìn tôi, dò xét phản ứng của tôi. Tôi không nói gì, ngay tối đó triệu tập cán bộ, nói rõ yêu cầu, phân công nhiệm vụ cụ thể, động viên anh em bắt tay vào công việc ngay từ sáng hôm sau. Tôi cũng xoay trần lao động cật lực cùng anh em. Một tuần lễ sau thì trung đoàn đã ra dáng một doanh trại quân đội. Cũng sau đó một tuần, sau khi thành lập trung đoàn, chúng tôi tố chức trực chiến và bay ban bay huấn luyện đầu tiên. Tuy vùng biên giới phía Lạng Sơn đã yên ổn, nhưng phía Tây Bắc này: vùng Thanh Thuỷ, Mường Khương, Xín Mần vẫn còn rất căng thẳng. Người dân biên giới vẫn phải đi sơ tán. Chúng tôi vẫn phải tổ chức bay tuần tiễu trên không. Dưới đất thì tuần tra canh gác nghiêm ngặt... nghĩa là không khí sẵn sàng chiến đấu vẫn phải ở mức độ cao nhất. Chúng tôi ở đã khổ sở: Nhà lá vách nứa, điện lại không có, đêm đến chỉ lù mù chai dầu nhét giẻ vào làm bấc, khói um nhà, lỗ mũi anh nào sáng rửa mặt ngoáy cũng đen sì muội than... Vậy nhưng ăn lại còn khổ hơn: Thuần một giống hạt bo bo, nuốt không nổi. Bọn tôi có “sáng kiến tối tăm” là lấy bo bo đem nấu rượu, lên đồi nhổ sắn luộc thế vào chỗ bo bo kia. Trung đoàn phát động phong trào tăng gia trồng sắn. Tôi cũng sắm dao quắm, lên đồi phát cây làm nương như mọi anh em khác. Rồi đào ao thả cá, nuôi bò, chăn lợn... đủ cả. Tôi liên hệ được với Ty thuỷ sản ở Thác Bà, khoảng 1- 2 tháng lại ra đó xin vài tạ cá. Cá ở đó rất to. Loại mè hoa cứ 60- 65kg một con, cá măng có con tới 80kg, chỉ có ở Thác Bà tôi mới biết thế nào là món dồi cá. Tôi tổ chức cho số anh em phi công không trực- ngày Chủ nhật xuống tàu theo đi đánh cá, vui lắm! Hồ Thác Bà dài hơn 100 km, rộng cũng 50- 60 km, đảo rất nhiều. Bọn hải tặc cũng có hoạt động cướp các thuyền đánh cá nhỏ. Cá nhiều và to. Những lần xuống tàu là những lần thay đổi không khí cho anh em, về anh em phấn khởi hẳn. Cũng ở Yên Bái, tôi được ăn khá nhiều loại thịt thú rừng. Trung đoàn có mấy tay thợ săn đi cùng đội săn nên hay được chia phần. Cứ hì hụi cả đêm. Nghĩ lại đúng thật buồn cười. Đời bộ đội xa nhà chẳng còn thú vui nào hơn, nhất là lại ở chốn rừng rú nữa. Mang tiếng là Trung đoàn trưởng, nhưng ô tô chẳng có, mãi sau mới được một chiếc “Bắc Kinh” ọc ạch. Về sư đoàn họp quân chính toàn phải đi https://thuviensach.vn tàu hoả, lắm phen còn trốn vé, tới ga Đông Anh xuống đi bộ ngược theo đường sắt, ra gặp Quốc lộ 3 là đi bộ về sư đoàn. Thường tàu đến Đông Anh là hơn l giờ sáng. Cuốc bộ tới sư đoàn là hơn 4 giờ. Cơ cực lắm chẳng được như cán bộ trung đoàn thời bây giờ đâu. Tôi nhớ có lần họp quân chính xong trên đường về thì xe hỏng, vừa đi vừa đẩy, trong xe khói um (vì hở vòng găng dầu) phải tháo hết mui xe. Cả tôi, cả chính uỷ, lẫn lái xe đều cởi trần, chỉ mặc độc mỗi người một chiếc quần đùi đẩy xe. Xe nổ máy là phải mắm môi mắm lợi chạy, vì hễ phanh là chết máy liền. Đến cổng trung đoàn, cảnh vệ sợ không hiểu là loại xe gì không có mui, khói như quạt chả, lại 3 ông cởi trần ngồi ở trên, nên không dám mở cổng. Tôi phải quát mãi, khi nhận ra tiếng tôi, cảnh vệ chạy ra để mở cổng thì xe lại chết máy. Vậy là lại phải đẩy vào sân trung đoàn, ai nấy đều bã người. Đã đói ăn thì chớ, lại đẩy xe, hò la suốt dọc đường rừng gần 200km thì ai mà chịu cho nổi! Hồi đó, để đủ củi cho nhà bếp nấu ăn, trừ số phi công ra, còn lại tất thảy cán bộ, chiến sỹ của trung đoàn, mỗi người phải kiếm được 40 kg củi mỗi ngày. Thôi thì đủ loại, cây nhỏ cây lớn phải khuân về hết. Bộ đội hầu hết ở miền xuôi đâu đã biết các cây trên rừng là thế nào, cứ thấy là chặt thôi. Thế là sung, ngái cũng phang, cây sơn cũng băm, đến bứa của dân trồng cũng đẵn... Tôi phải giải quyết đủ chuyện; nào là người bị lở sơn; nào dân kiện lính đẵn mất bứa, mất trẩu, mất bồ đề, mất xoan... ầm ĩ lên hết. Quả là những ngày thật gian nan! Các sân bay khác vấn đề chất đốt không khó khăn gì lắm vì đun bằng than. Riêng sân bay Yên bái thì không thể vận chuyển than lên nổi (vì giá thành lên rất cao) chỉ trông chờ vào củi thôi, mà chuyện củi thì... thế đấy! Đầu năm 1980, Trung đoàn tôi bị tai nạn cấp I (mất cả phi công lẫn máy bay). Ngày ấy là ngày kèm kiểm tra để phê chuẩn chỉ huy bay cho một cán bộ phi đội. Lê Văn Hoàn và Trần Tuấn Việt bay trinh sát khí tượng. Một trong những sự khác nhau giữa máy bay huấn luyện UMIG- 21 cũ và mới là hệ thống không tốc PBD-11 và PBD-16. Một đằng thì phải cộng thêm AH vào đồng hồ độ cao, một đằng là độ cao chỉ ở đồng hồ bao nhiêu thì thực tế cũng là bấy nhiêu. Đáy mây ở hàng tuyến hôm ấy là 600m, nhưng “các https://thuviensach.vn