🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tội Lỗi Của Người Cha - Jeffrey Archer Ebooks Nhóm Zalo Sir Tommy MacPherson CBE, MC, TD, DL Huân chương Bắc đấu bội tinh Hạng Năm Chữ thập Chiến tranh với hai lá cọ và một Ngôi sao Huân chương Bạc và Huân chương Kháng chiến, Italia Hiệp sĩ Thánh Mary xứ Bethlehem Lời cám ơn của tôi xin gửi tới những người dưới đây vì những lời khuyên và nghiên cứu vô giá của họ: Simon Bainbridge, Eleanor Dryden, tiến sĩ Robert Lyman FRHistS, Alison Prince, Mari Robert và Susan Watt “Vì ta, Thượng Đế, Chúa của ngươi, là một vị Chúa đầy ghen ghét, và sẽ trừng phạt tội lỗi của những người cha lên con cái cho đến tận thế hệ thứ ba và thứ tư...” Sách Kinh cầu nguyện Harry Clifton 1939 - 1941 1 “T ên tôi là Harry Clifton.” “Hẳn rồi, còn tôi là Babe Ruth,” thám tử Kolowski vừa nói vừa châm một điếu thuốc. “Không,” Harry nói, “ông không hiểu rồi, có một sự nhầm lẫn khủng khiếp ở đây. Tôi là Harry Clifton, một người Anh đến từ Bristol. Tôi phục vụ trên cùng một con tàu với Tom Bradshaw.” “Hãy dành chuyện đó cho luật sư của anh,” người thám tử nói, phả là một hơi thật dài làm cả căn phòng chìm trong một đám mây khói. “Tôi không có luật sư,” Harry phản đối. “Nếu tôi dính vào rắc rối như cậu đang gặp phải, nhóc con ạ, tôi sẽ cân nhắc việc có Sefton Jelks ở bên mình vì đó sẽ là hy vọng duy nhất của tôi.” “Sefton Jelks là ai vậy?” “Có thể cậu chưa biết đến tay luật sư sắc sảo nhất New York,” viên thám tử nói trong khi ông ta phả ra thêm một bụm khói nữa, “nhưng ông ta lại có hẹn gặp cậu vào lúc chín giờ sáng mai, và Jelks không bao giờ chịu nhấc mông rời văn phòng của ông ta trừ khi hóa đơn của ông ta đã được thanh toán trước.” “Nhưng...” Harry vừa định lên tiếng thì Kolowski đập lòng bàn tay ông ta lên cánh cửa phòng. “Vậy nên khi Jelks xuất hiện vào sáng mai,” Kolowski nói tiếp, tảng lờ lời chen ngang của Harry, “tốt hơn là cậu hãy đưa ra được một câu chuyện thuyết phục hơn là câu chuyện chúng tôi đã bắt nhầm người. Cậu đã nói với nhân viên nhập cư rằng cậu là Tom Bradshaw, và nếu với ông ta chừng đó là đủ, thì với thẩm phán cũng thế.” Cửa phòng giam mở vung ra, nhưng chỉ sau khi viên thám tử đã phả ra một bụm khói nữa làm Harry ho sặc sụa. Kolowski bước ra ngoài hành lang mà không nói thêm lời nào và đóng sập cửa lại sau lưng ông ta. Harry ngồi sụp xuống cái giường ngủ được gắn vào tường, tựa đầu vào cái gối cứng như gạch. Anh ngước mắt nhìn lên trần và bắt đầu nghĩ về việc bằng cách nào mà anh đã bị rơi vào hoàn cảnh bị nhốt trong một phòng giam của cảnh sát ở phía bên kia quả địa cầu với tội danh giết người. -o Cánh cửa đã mở từ rất lâu trước khi ánh nắng sáng sớm có thể lách vào qua các song sắt cửa sổ và rọi sáng bên trong phòng giam. Dù cho vẫn còn sớm, Harry đã tỉnh ngủ hẳn. Một giám thị bước vào, mang theo một khay thức ăn mà ngay cả Salvation Army cũng không dám mang ra cho một kẻ vô gia cư không xu dính túi. Sau khi đặt khay lên cái bàn gỗ nhỏ, anh ta quay ra không nói một lời. Harry đưa mắt nhìn một lần về phía khay thức ăn rồi bắt đầu đi đi lại lại. Theo từng bước đi, anh càng thêm tự tin hơn rằng một khi anh giải thích với luật sư Jelks lý do anh đổi tên với Tom Bradshaw, vấn đề sẽ nhanh chóng được giải quyết. Chắc chắn hình phạt nặng nhất họ có thể đưa ra sẽ chỉ có thể là trục xuất anh, và vì anh vốn luôn có ý định quay trở về Anh và gia nhập hải quân, hình phạt đó sẽ tương thích hoàn toàn với kế hoạch ban đầu của anh. Vào 8 giờ 55 phút sáng, Harry đã ngồi trên mép giường, nóng lòng chờ đợi luật sư Jelks xuất hiện. Cánh cửa sắt nặng nề vẫn không chịu mở ra cho tới khi đã quá chín giờ được mười hai phút. Harry nhổm dậy khi một người gác tù đứng dẹp sang bên để cho một người đàn ông cao ráo, lịch lãm với mái tóc muối tiêu bước vào. Harry nghĩ ông ta hẳn phải cùng trạc tầm tuổi với ông ngoại anh. Luật sư Jelks mặc một bộ vét cài khuy chéo may bằng vải kẻ sọc nhỏ màu xanh sẫm, áo sơ mi trắng và đeo cà vạt kẻ sọc. Cái nhìn uể oải trên khuôn mặt ông ta cho thấy sẽ có rất ít thứ khiến ông ta ngạc nhiên. “Chào ông,” ông ta nói, dành cho Harry một nụ cười nhạt. “Tên tôi là Sefton Jelks, tôi là một thành viên cao cấp của công ty luật Jelks, Myers và Abernathy, và khách hàng của tôi, là ông bà Bradshaw, đã yêu cầu tôi bào chữa cho ông trong phiên tòa sắp tới.” Harry mời Jelks ngồi xuống cái ghế duy nhất trong phòng giam, như thể ông ta là một người bạn cũ vừa ghé qua phòng ký túc của anh tại Oxford để cùng uống một tách trà. Anh ngồi xuống giường và quan sát người luật sư trong lúc ông ta mở ca táp lấy ra một tập sổ ghi chép màu vàng và để lên bàn. Jelks lấy một cây bút từ túi trong áo vét ra và nói, “Có lẽ ông nên bắt đầu bằng việc nói cho tôi biết ông là ai, vì cả hai chúng ta đều biết ông không phải là trung úy Bradshaw.” Nếu người luật sư có bị câu chuyện của Harry kể làm cho kinh ngạc thì ông ta cũng không để lộ ra điều đó. Đầu cúi xuống, ông ta cặm cụi ghi chép liên hồi vào tập giấy ghi chép màu vàng của mình trong khi Harry giải thích bằng cách nào mà giờ đây anh phải qua đêm trong tù. Sau khi kể lại xong, Harry đoán các rắc rối của anh chắc chắn có thể coi như kết thúc, vì anh có bên mình một luật sư tiếng tăm giàu kinh nghiệm đến thế - có nghĩa là anh nghĩ vậy cho tới khi nghe thấy câu hỏi đầu tiên của Jelks. “Ông nói ông đã viết một lá thư cho mẹ mình khi còn ở trên tàu Kansas Star, giải thích lý do vì sao ông mạo nhận danh tính của Tom Bradshaw?” “Đúng vậy, thưa ông. Tôi không muốn mẹ tôi phải đau khổ một cách không cần thiết, nhưng đồng thời tôi cũng cần bà hiểu tại sao tôi lại đi đến một quyết định cực đoan như thế.” “Phải, tôi có thể hiểu tại sao ông lại nghĩ rằng việc thay đổi danh tính của mình có thể giải quyết được mọi khó khăn tức thời của ông, trong khi chẳng chịu nghĩ gì về việc nó có thể làm ông can dự vào một loạt khó khăn thậm chí còn rắc rối hơn,” Jelks nói. Câu hỏi tiếp theo của ông ta còn làm Harry ngạc nhiên hơn nữa. “Ông còn nhớ nội dung của lá thư đó không?” “Tất nhiên. Tôi đã viết đi viết lại bức thư đó nhiều lần đến mức tôi có thể chép lại gần như nguyên xi.” “Vậy hãy cho phép tôi được kiểm tra trí nhớ của ông,” Jelks nói, rồi không thêm một lời nào, ông ta xé một tờ khỏi tập giấy ghi chú màu vàng của mình rồi đưa nó cùng cây bút máy của ông ta cho Harry. Harry mất một chút thời gian để nhớ lại câu chữ chính xác trước khi anh bắt tay vào viết lại lá thư. Mẹ thân yêu nhất của con, Con đã làm mọi điều có thể trong khả năng của mình để đảm bảo mẹ sẽ nhận được lá thư này trước khi ai đó kịp nói với mẹ là con đã chết trên biển. Như ngày tháng trên lá thư này đã cho thấy rõ, con không hề chết khi chiếc Devonian bị bắn chìm hôm mồng 4 tháng Chín. Trên thực tế, con được một tàu Mỹ vớt lên và vẫn còn sống khỏe mạnh. Tuy nhiên, một cơ hội xuất hiện cho phép con mượn lấy danh tính của một người khác, và con đã tình nguyện làm thế với hy vọng nó sẽ giải thoát Emma khỏi tất cả những rắc rối mà con đã vô tình gây ra cho cô ấy và gia đình Barrington trong suốt bấy nhiêu năm. Điều quan trọng là con muốn mẹ hiểu rằng tình yêu con dành cho Emma không hề giảm đi; ngược lại là khác. Con không thể tin rằng con sẽ không bao giờ có thể có được một tình yêu như thế nữa. Nhưng con không cảm thấy mình có quyền mong đợi cô ấy dành cả phần đời còn lại bám lấy một hy vọng mong manh rằng đến một lúc nào đó trong tương lai con có thể chứng minh được là Hugo Barrington không phải là bố con, và con, đích thực đúng là con trai của Arthur Clifton. Như thế, ít nhất cô ấy có thể nghĩ đến một tương lai bên cạnh một ai đó. Con thấy ghen tỵ với người đàn ông ấy. Con dự định trở về Anh trên con tàu đầu tiên quay về. Vì thế nên như mẹ nhận được bất cứ thư tín nào từ một người có tên là Tom Bradshaw, thì đó chính là con. Con sẽ liên lạc với mẹ ngay khi con đặt chân lên đất Anh, nhưng cho tới lúc ấy, con mong mẹ hãy giữ kín bí mật này như mẹ đã giữ kín bí mật của chính mình trong suốt bấy nhiêu năm. Con trai yêu quý của mẹ, Harry Khi Jelks đọc xong lá thư, thêm một lần nữa ông ta lại làm Harry phải ngạc nhiên. “Ông đã tự gửi lá thư, ông Clifton,” ông ta hỏi, “hay ông đã ủy thác lại trách nhiệm đó cho ai khác?” Lần đầu tiên Harry bắt đầu cảm thấy nghi ngờ, và quyết định không đả động đến chuyện anh đã nhờ bác sĩ Wallace gửi lá thư cho mẹ mình khi ông này quay trở lại Bristol sau hai tuần nữa. Anh sợ rằng Jelks có thể sẽ thuyết phục bác sĩ Wallace đưa lại lá thư cho ông ta, và khi đó mẹ anh sẽ không có cách nào biết được anh vẫn còn sống. “Tôi đã gửi lá thư ngay khi lên bờ,” anh nói. Người luật sư lớn tuổi ngẫm nghĩ một rồi mới hỏi tiếp. “Ông có bằng chứng nào chứng tỏ ông là Harry Clifton, chứ không phải là Thomas Bradshaw không?” “Không, thưa ông, tôi không có,” Harry đáp không chút do dự, đau đớn ý thức được rằng không một ai trên tàu Kansas Star có bất cứ lý do nào để tin rằng anh không phải là Tom Bradshaw, và những người duy nhất có thể xác nhận câu chuyện của anh đều đang ở bờ bên kia đại dương, và chẳng mấy chốc nữa tất cả bọn họ sẽ được thông báo rằng Harry Clifton đã được an táng ngoài biển. “Vậy thì có thể tôi sẽ giúp được ông, ông Clifton. Giả định rằng ông vẫn muốn cô Emma Barrington tin rằng ông đã chết. Nếu ông vẫn muốn thế,” Jelks nói, trên khuôn mặt nở một nụ cười ranh mãnh, “có lẽ tôi có thể đưa ra một giải pháp cho rắc rối của ông.” “Một giải pháp ư?” Harry thốt lên, lần đầu tiên có vẻ hy vọng. “Nhưng chỉ trong trường hợp ông cảm thấy có thể giữ lại danh tính của Thomas Bradshaw.” Harry giữ im lặng. “Văn phòng công tố quận đã chấp nhận rằng lời buộc tội Bradshaw cũng chỉ là dựa trên phỏng đoán, và bằng chứng thực sự duy nhất mà họ đang bám vào tình tiết anh ta đã rời khỏi đất nước ngay hôm sau ngày xảy ra án mạng. Ý thức được sự yếu ớt trong lời buộc tội của vụ này, họ đã đồng ý bãi bỏ tội giết người nếu ông cảm thấy có thể thừa nhận có tội với tội trạng thứ yếu là đào ngũ trong khi đang phục vụ trong lực lượng vũ trang.” “Nhưng sao tôi lại phải đồng ý làm thế?” Harry hỏi. “Tôi có thể nghĩ tới ba lý do rất tốt,” Jelks trả lời. “Trước hết, nếu ông không đồng ý, nhiều khả năng ông sẽ phải ngồi tù sáu năm vì nhập cư vào Hợp chủng quốc dưới danh tính giả. Thứ hai, ông có thể giữ kín danh tính thật của mình, và gia đình Barrington sẽ không có lý do nào để tin rằng ông vẫn còn sống. Và thứ ba, nhà Bradshaw sẵn lòng trả cho ông mười nghìn đô la nếu ông chấp nhận thế chỗ con trai họ.” Harry lập tức nhận ra đây có thể là một cơ hội để anh báo đáp lại tất cả những hy sinh của mẹ anh trong suốt bao năm qua. Một khoản tiền lớn như thế sẽ làm thay đổi cuộc đời bà, giúp mẹ anh có thể thoát khỏi ngôi nhà xập xệ ở Still House Lane, cùng với tiếng gõ cửa đều đặn hàng tuần của người đi thu tiền nhà. Thậm chí mẹ anh còn có thể nghĩ đến chuyện từ bỏ công việc làm nhân viên phục vụ ở khách sạn Grand của bà và bắt đầu một cuộc sống thoải mái hơn, cho dù Harry nghĩ khó lòng có chuyện đó. Nhưng trước khi anh đồng ý ngả theo kế hoạch của Jelks, anh còn có vài câu hỏi của chính mình. “Tại sao nhà Bradshaw lại sẵn sàng chấp nhận một sự lừa dối như thế, khi chắc chắn là đến giờ thì họ phải biết con trai họ đã chết ngoài biển?” “Bà Bradshaw rất mong mỏi rằng tên của Thomas được rửa sạch bằng mọi giá. Bà ấy sẽ không bao giờ chấp nhận chuyện một trong các con trai bà lại có thể giết người kia.” “Vậy đó là tội mà Tom bị truy tố - giết anh trai anh ta?” “Phải, nhưng như tôi đã nói, bằng chứng rất mơ hồ và chỉ mang tính phỏng đoán, và chắc chắn sẽ không thể đứng vững trước tòa, đó là lý do văn phòng công tố quận sẵn sàng thôi truy tố tội này, nhưng chỉ trong trường hợp chúng ta đồng ý thừa nhận có tội với tội danh đào ngũ.” “Và nếu tôi đồng ý thì mức án của tôi sẽ dài bao lâu?” “Ủy viên công tố quận đã đồng ý rằng sẽ gợi ý cho thẩm phán rằng ông sẽ bị kết án một năm tù, như vậy với thái độ cải tạo tốt ông sẽ được tự do sau sáu tháng; một cải thiện đáng kể so với mức sáu năm tù ông có thể nhận nếu tiếp tục khăng khăng khẳng định ông là Harry Clifton.” “Nhưng khi tôi bước chân ra trước tòa, chắc chắn sẽ có người nhận ra tôi không phải là Bradshaw.” “Khó có khả năng đó,” Jelks nói. “Gia đình Bradshaw sống ở Seattle, ở bờ tây, và dù rất giàu có, họ cũng hiếm khi tới New York. Thomas gia nhập hải quân khi anh ta mười bảy tuổi, và như ông đã phải trả giá để biết, anh ta đã không đặt chân lên đất Mỹ trong suốt bốn năm vừa qua. Và nếu ông thừa nhận có tội, ông sẽ chỉ phải có mặt trong phòng xử án hai mươi phút.” “Nhưng khi tôi mở miệng, chẳng phải tất cả mọi người đều biết ngay tôi không phải là người Mỹ sao?” “Đó là lý do tại sao ông không mở miệng, ông Clifton.” Tay luật sư sành sỏi của chốn đô thị dường như luôn có câu trả lời cho mọi thứ. Harry thử ném một mồi nhử nữa. “Ở Anh, các phiên tòa xử án mạng luôn đông chật phóng viên, và công chúng thường xếp hàng dài bên ngoài phòng xử án từ sáng sớm với hy vọng có thể nhìn thấy mặt bị cáo.” “Ông Clifton, hiện đang có mười bốn phiên tòa xử án mạng đang diễn ra tại New York, bao gồm vụ án “kẻ đâm người bằng kéo” nổi tiếng. Tôi ngờ rằng có khi ngay cả đến một phóng viên tập sự cũng không được phân công đưa tin phiên tòa của ông.” “Tôi cần chút thời gian để suy nghĩ về chuyện đó.” Jelks đưa mắt nhìn đồng hồ của ông ta. “Chúng ta phải trình diện trước thẩm phán Atkins vào lúc giữa trưa, vì thế ông sẽ chỉ có hơn một giờ đồng hồ để đưa ra quyết định thôi, ông Clifton.” Ông luật sư gọi một người gác tù đến mở cửa phòng giam. “Nếu như ông quyết định không cần đến dịch vụ của tôi, tôi xin chúc ông may mắn, vì chúng ta sẽ không gặp lại nhau nữa,” ông ta nói thêm trước khi rời khỏi phòng giam. Harry ngồi ở mép giường, cân nhắc về lời đề nghị của Sefton Jelks. Cho dù anh không nghi ngờ tay luật sư tóc muối tiêu kia có dụng ý riêng của ông ta, sáu tháng nghe vẫn có vẻ dễ chịu hơn sáu năm rất nhiều, và anh còn biết trông cậy vào ai ngoài tay luật sư già đời này đây? Harry ước gì anh có thể tạt qua văn phòng của Sir Walter Barrington một lát để tìm kiếm lời khuyên từ ông. -o Một giờ sau, Harry, mặc một bộ vét màu xanh sẫm, áo sơ mi màu kem, cổ cồn hồ bột và đeo một chiếc cà vạt kẻ sọc, bị còng tay, giải ra khỏi phòng giam của anh ra một xe chở tù và được đưa đến tòa án dưới sự giám sát của lính canh có vũ khí. “Không ai được tin rằng ông có thể gây ra án mạng,” Jelks tuyên bố sau khi một thợ may ghé thăm buồng giam của Harry, mang theo một tá bộ vét cùng áo sơ mi và cả một bộ sưu tập cà vạt để anh lựa chọn. “Tôi không hề làm chuyện đó,” Harry nhắc ông ta. Harry gặp lại Jelks ngoài hành lang. Tay luật sư lại dành cho anh một nụ cười y như lần trước rồi mới đẩy cánh cửa xoay và bước xuống theo lối đi chính giữa phòng xử án, chỉ dừng chân khi đã tới chỗ hai ghế ngồi trống tại bàn bào chữa. Sau khi Harry đã được đưa vào chỗ của anh và còng tay được tháo ra, anh nhìn quanh phòng xử án gần như vắng tanh. Jelks đã đúng về chuyện này. Dường như chỉ có rất ít thành viên của công chúng, và chắc chắn là không có đại diện nào của báo chí là quan tâm đến vụ án của anh. Với họ, chắc hẳn đây chỉ lại là một vụ án mạng gia đình nữa, với nhiều khả năng bị cáo sẽ được trắng án; sẽ không có hàng tít “Cain và Abel” khi không thể có khả năng ghế điện được viện tới tại phòng xử án số bốn. Khi những tiếng chuông đầu tiên reo lên báo hiệu giữa trưa, một cách cửa mở ra ở phía xa của phòng xử án, và thẩm phán Atkins xuất hiện. Ông thong thả bước qua phòng, leo lên các bậc cấp và ngồi vào chỗ sau một chiếc bàn kê trên bục cao. Sau đó, ông thẩm phán gật đầu ra hiệu về phía ủy viên công tố, như thể đã biết chính xác ông này định nói gì. Một luật sư trẻ đứng lên từ sau bàn công tố viên và giải thích rằng tiểu bang sẽ bãi bỏ tội trạng giết người, nhưng vẫn truy tố Thomas Bradshaw về tội danh đào ngũ khỏi Hải quân Mỹ. Ông thẩm phán gật đầu, sau đó chuyển sự chú ý sang ông Jelks, lúc này đến lượt chuẩn bị đứng lên để biện hộ. “Về tội trạng thứ hai, tội đào ngũ, thân chủ của ông biện hộ thế nào?” “Có tội,” Jelks nói. “Tôi hy vọng quý tòa sẽ khoan dung với thân chủ của tôi trong trường hợp này, vì như tôi không cần phải nhắc lại với ngài, thưa quý tòa, rằng đây là lần đầu thân chủ của tôi vi phạm pháp luật, và trước sai lầm không hề có tính điển hình này, thân chủ của tôi có tiền sử tư pháp hoàn toàn trong sạch.” Thẩm phán Atkins gằn giọng. “Ông Jelks,” ông nói, “có một số người rất có thể sẽ coi việc một sĩ quan đào nhiệm khỏi vị trí của anh ta trong khi phụng sự đất nước là một tội trạng cũng nghiêm trọng không kém gì tội giết người. Tôi tin chắc tôi không phải nhắc lại với ông rằng cho tới gần đây thôi, một hành vi phạm tội như vậy rất có thể dẫn đến việc thân chủ của ông phải đối diện với đội xử bắn rồi.” Harry cảm thấy buồn nôn khi anh ngước mắt nhìn Jelks, lúc này vẫn không hề rời mắt khỏi ông thẩm phán. “Với tiêu chí đó,” Atkins nói tiếp, “tôi tuyên án trung úy Thomas Bradshaw sáu năm tù giam.” Ông ta đập búa và nói. “Vụ tiếp theo,” trước khi Harry kịp có cơ hội phản đối. “Ông đã nói với tôi...” Harry vừa định nói, nhưng Jelks đã quay lưng lại với cựu thân chủ của ông ta và bước đi. Harry vừa định đuổi theo ông ta thì hai lính canh tóm lấy hai cánh tay anh, bẻ quặt chúng ra sau lưng và nhanh chóng còng tay kẻ tội phạm đã bị kết án lại, trước khi giải anh qua phòng xử án về phía một cánh cửa Harry không hề để ý tới lúc trước. Anh quay lại và nhìn thấy Sefton Jelks đang bắt tay một người đàn ông trung niên rõ ràng đang chúc mừng ông ta vì đã hoàn thành tốt công việc. Harry đã nhìn thấy khuôn mặt đó ở đâu rồi nhỉ? Thế rồi anh vỡ lẽ - đó hẳn chính là bố của Tom Bradshaw. H 2 arry bị điệu đi một cách mạnh bạo theo một hành lang dài với đèn sáng lờ mờ, ra ngoài qua một cánh cửa không đánh dấu tới một khoảng sân trống trơn. Ở giữa sân đậu sẵn một chiếc xe màu vàng không hề có số hay bất cứ dấu hiệu nào cho biết điểm đến của nó. Một nhân viên áp giải cơ bắp vạm vỡ lăm lăm súng trường đứng bên cửa, gật đầu ra hiệu Harry cần phải leo lên xe. Hai người lính canh đẩy anh ta như để giúp một tay, để phòng trường hợp anh có ý nghĩ khác. Harry ngồi xuống ghế và lầm lì nhìn chăm chăm ra cửa sổ trong khi một toán tù nhân bị kết án đang bị giải ra xe, một số cúi gằm mặt, trong khi một số khác, hiển nhiên đã từng trải qua con đường này trước đây, tỏ vẻ nghênh ngang vui vẻ. Anh đoán không mấy chốc nữa chiếc xe sẽ khởi hành tới đích của nó, cho dù nơi ấy có là đâu đi chăng nữa, thì anh cũng sắp được học bài học đau đớn đầu tiên trong vị thế của một người tù: một khi đã bị kết án, chẳng ai có gì để phải vội vã cả. Harry nghĩ tới chuyện hỏi một trong mấy tên lính gác xem họ sắp đi đâu, nhưng không ai trong bọn họ có vẻ giống như các hướng dẫn viên du lịch đầy hữu ích. Anh quay sang đầy lo ngại khi một thân hình gieo phịch xuống chỗ ngồi bên cạnh mình. Anh không muốn nhìn chằm chằm vào người bạn đồng hành mới, nhưng vì người kia lập tức giới thiệu bản thân, Harry bèn nhân dịp đó quan sát anh ta kỹ hơn. “Tên tôi là Pat Quinn,” anh ta lên tiếng với chất giọng Ai-len nhè nhẹ. “Tom Bradshaw,” Harry nói, và đáng ra anh đã bắt tay người bạn đồng hành mới nếu không phải cả hai đều đã bị còng tay. Quinn trông không giống như một tên tội phạm. Hai bàn chân anh ta hầu như không chạm được xuống sàn xe, vậy nên anh chàng này chắc cũng không cao hơn năm foot được đến một inch, và trong khi phần lớn các tù nhân khác trên xe nếu không cơ bắp cuồn cuộn thì chí ít cũng to béo quá khổ, Quinn lại có một thân hình nom như thể gió thổi cũng bay. Mái tóc đỏ lưa thưa của anh ta bắt đầu ngả muối tiêu, cho dù anh ta không thể quá bốn mươi tuổi. “Cậu là lần đầu phải không?” Quinn hỏi đầy tự tin. “Chẳng lẽ trông rõ ràng đến thế sao?” Harry hỏi. “Ghi rõ mồn một trên mặt cậu.” “Cái gì được ghi rõ trên mặt tôi cơ?” “Cậu chẳng hề biết chuyện gì sẽ xảy đến tiếp theo.” “Vậy thì hiển nhiên ông không phải là dân lần đầu?” “Đây là lần thứ mười một tôi ngồi trên cái xe này, hay cũng có thể là lần thứ mười hai.” Lần đầu tiên trong nhiều ngày qua Harry bật cười. “Cậu ngồi tù vì tội gì thế?” Quinn hỏi anh. “Đào ngũ,” Harry trả lời, mà không giải thích gì thêm. “Chưa bao giờ nghe tới loại tội danh này trước đây,” Quinn nói. “Tôi từng bỏ rơi* ba bà vợ, nhưng bọn họ chưa bao giờ tống tôi sau song sắt vì chuyện đó.” “Tôi có bỏ rơi bà vợ nào đâu,” Harry nói, đồng thời nghĩ tới Emma. “Tôi đã đào ngũ khỏi Hải quân Hoàng gia - ý tôi là hải quân.” “Cậu lĩnh bao lâu vì tội đó?” “Sáu năm.” Quinn huýt sáo qua hai cái răng còn lại của anh ta. “Nghe có vẻ hơi rắn nhỉ. Thẩm phán là ai vậy?” “Atkins,” Harry nói đầy tâm trạng. “Arnie Atkins á? Cậu vớ phải nhầm thẩm phán rồi. Nếu cậu phải ra tòa lần sau, hãy đảm bảo cậu chọn đúng thẩm phán.” “Tôi không biết là người ta có thể chọn thẩm phán xử mình cơ đấy.” “Cậu không thể,” Quinn nói, “nhưng luôn có cách để tránh những tay tệ hại nhất.” Harry nhìn người bạn đồng hành của anh kỹ lưỡng hơn, song vẫn không ngắt lời. “Có bảy thẩm phán thay nhau xử án, và có hai người trong bọn họ cậu cần phải né bằng mọi giá. Một người là Arnie Atkins. Với ông ta, tính hài hước thì ngắn mà án tuyên thì dài.” “Nhưng làm thế nào tôi có thể né được ông ta?” Harry hỏi. “Atkins đã ngự ở phòng xử án số bốn suốt mười một năm qua, vì thế nếu tôi bị điệu đi theo hướng đó, tôi sẽ lên cơn động kinh và đám cảnh sát áp giải sẽ buộc phải đưa tôi đi gặp bác sĩ của tòa.” “Ông bị động kinh sao?” “Không phải,” Quinn nói, “cậu chẳng chú ý gì cả.” Anh ta có vẻ ngán ngẩm tột bậc, và Harry liền im lặng. “Đến khi tôi làm bộ hồi phục thì người ta đã xếp vụ của tôi sang một phòng xử án khác rồi.” Harry bật cười lần thứ hai. “Và ông thành công với cách đó?” “Không, không phải lúc nào cũng thành công, nhưng nếu gặp được hai tay áp giải đều là lính mới vào nghề, tôi sẽ có cơ hội, cho dù diễn đi diễn lại mãi một mánh sẽ ngày càng khó hơn. Lần này tôi không cần phải bận tâm vì tôi được đưa ngay tới phòng xử án số hai, vốn là lãnh địa của thẩm phán Regan. Ông ta là dân Ai-len - giống tôi, nếu như cậu vẫn chưa nhận ra - vì thế nhiều khả năng ông ta sẽ dành cho đồng bào của mình một bản án tối thiểu.” “Vậy ông đã phạm tội gì?” Harry hỏi. “Tôi là một tay móc túi,” Quinn thản nhiên tuyên bố, như thể anh ta vừa nói mình là một kiến trúc sư hay bác sĩ vậy. “Tôi chuyên ra tay tại các trường đua ngựa vào mùa hè và tại các sàn đấu quyền Anh vào mùa đông. Luôn dễ làm ăn hơn khi các đối tượng đang đứng,” anh ta giải thích. “Nhưng gần đây vận may của tôi có vẻ đang cạn dần vì có quá nhiều nhân viên làm việc tại những chỗ đó đã nhẵn mặt tôi, vậy là tôi phải chuyển sang làm ăn dưới tàu điện ngầm và các trạm xe buýt đầu mối, nơi cơ hội ra tay thì hiếm mà nguy cơ bị tóm lại cao hơn nhiều.” Harry có quá nhiều điều để hỏi từ sư phụ mới của anh, và như một sinh viên đầy tinh thần học hỏi, anh tập trung vào những câu hỏi sẽ cho phép anh vượt qua được kỳ thi đầu vào, đồng thời lấy làm mừng vì Quinn không vặn vẹo gì về khẩu âm của anh. “Ông có biết chúng ta đang tới đâu không?” anh hỏi. “Lavenham hoặc Pierpoint,” Quinn nói. “Tất cả phụ thuộc vào việc chúng ta rời khỏi xa lộ ở lối ra mười hai hay mười bốn.” “Ông đã bao giờ đến chỗ nào trong hai nơi đó chưa?” “Cả hai luôn, vài lần rồi,” Quinn đáp tỉnh bơ. “Và trước khi cậu hỏi, nếu có một quyển sách hướng dẫn du lịch nào cho các nhà tù, Lavenham hẳn sẽ được một sao và Pierpoint sẽ bị đóng cửa.” “Tại sao chúng ta không thử hỏi nhân viên áp giải xem chúng ta sẽ tới nơi nào?” Harry hỏi, muốn được kéo dứt ra khỏi tâm trạng khổ sở của anh. “Vì hắn sẽ trả lời láo, chỉ để hành chúng ta một mẻ. Nếu là Lavenham, điều duy nhất cậu phải lo lắng là họ sẽ tống cậu vào khu nào. Vì cậu là tù lần đầu, nhiều khả năng cậu sẽ bị đưa về khu A, tại đó cuộc sống dễ thở hơn nhiều. Những tay đã vào có tuổi, như tôi chẳng hạn, thường bị đưa tới khu D, nơi không có tay nào dưới ba mươi tuổi và không ai có tiền sử bạo lực, thế nên đó sẽ là địa điểm lý tưởng nếu cậu chỉ muốn cúi đầu xuống và ngoan ngoãn thụ án. Hãy cố mà tránh các khu B và C - cả hai chỗ đó đều đầy rẫy bọn nghiện ma túy và những gã tâm thần bệnh hoạn.” “Vậy tôi phải làm gì nếu muốn đảm bảo chắc chắn mình được đưa về khu A?” “Hãy nói với viên quản giáo nhận tù rằng cậu là một người Ki tô giáo ngoan đạo, không hút thuốc và không uống rượu.” “Tôi không biết là người ta lại được phép uống rượu trong tù đấy,” Harry nói. “Cậu làm gì được phép, đồ ngốc kia,” Quinn nói, “nhưng nếu cậu có thể nhả đủ tờ xanh ra,” anh ta nói thêm, đưa ngón cái lên gại gại vào đầu ngón trỏ, “đám giám thị nhà tù sẽ lập tức biến thành nhân viên quầy bar ngay. Kể cả luật cấm rượu cũng chẳng làm bọn họ chậm tay chậm chân đi.” “Điều quan trọng nhất tôi cần để tâm đến trong ngày đầu tiên là gì vậy?” “Đảm bảo cậu kiếm được đúng việc làm.” “Có những lựa chọn nào vậy?” “Lau nhà, làm bếp, bệnh xá, xưởng giặt, thư viện, làm vườn và phục vụ ở nhà nguyện.” “Tôi cần phải làm gì để được làm ở thư viện?” “Bảo với bọn họ cậu biết đọc.” “Thế ông đã nói gì với họ?” Harry hỏi. “Rằng tôi đã được học để làm đầu bếp.” “Việc đó hẳn phải rất thú vị.” “Cậu vẫn chưa hiểu đầu cua tai nheo gì, đúng không nào?” Quinn nói. “Tôi chưa bao giờ được học để làm đầu bếp, nhưng như thế có nghĩa là tôi luôn được làm việc trong bếp, và chỗ đó là công việc hay ho nhất trong bất cứ nhà tù nào.” “Sao lại thế?” “Cậu sẽ được ra khỏi buồng giam trước giờ ăn sáng, và cậu sẽ không phải quay trở lại đó cho tới tận sau bữa tối. Trong bếp luôn ấm áp, và cậu luôn có lựa chọn tốt nhất về đồ ăn. À, chúng ta sẽ tới Lavenham,” Quinn nói khi chiếc xe rẽ khỏi xa lộ ở lối ra 12. “Tốt lắm, vì bây giờ tôi sẽ không phải trả lời bất cứ câu hỏi ngớ ngẩn nào về Pierpoint nữa.” “Còn điều gì khác tôi cần phải biết về Lavenham không?” Harry hỏi, không chút nao núng trước lời mỉa mai của Quinn, vì anh ngờ rằng anh chàng tù cựu trào này đang rất khoái vào vai giáo sư lên lớp cho một đệ tử chăm chú lắng nghe. “Có quá nhiều thứ để nói với cậu,” anh ta thở dài. “Chỉ nhớ là hãy bám sát lấy tôi sau khi bọn ta đã được vào sở quản lý.” “Nhưng chẳng phải bọn họ sẽ tự động phân ông về khu D hay sao?” “Nếu vào ca trực của ông Mason thì không.” Quinn nói mà không giải thích gì thêm. Harry cố gắng đưa ra được thêm vài câu hỏi nữa trước khi chiếc xe cuối cùng cũng dừng lại bên ngoài nhà tù. Kỳ thực, anh cảm thấy chỉ trong vài giờ qua anh đã học được từ Quinn nhiều hơn những gì học được từ cả tá giáo sư tại Oxford. “Bám sát lấy tôi,” Quinn nhắc lại khi hai cánh cổng khổng lồ mở ra. Chiếc xe thong thả lăn bánh tiến lên, đi vào một bãi đất hoang chưa từng có bàn tay chăm sóc của người làm vườn nào. Chiếc xe dừng lại trước một tòa nhà lớn bằng gạch với những hàng cửa sổ nhỏ cáu bẩn, tại vài ô cửa có những cặp mắt ló ra nhìn về phía họ. Harry quan sát trong lúc một tá giám thị đứng thành một hành lang chạy tới tận cửa vào nhà tù. Hai người, được trang bị súng trường, đứng lăm lăm hai bên cửa xe. “Xuống xe hai người một,” một trong các giám thị cộc cằn ra lệnh, “mỗi cặp cách nhau năm phút. Không ai được nhúc nhích trừ khi tao ra lệnh.” Harry và Quinn ở lại trên xe thêm một giờ nữa. Khi đến lượt hai người được lôi ra, Harry ngước mắt nhìn lên những bức tường cao có chăng dây thép gai ở trên bao quanh toàn bộ khu nhà tù và nghĩ rằng thậm chí ngay cả vận động viên giữ kỷ lục thế giới về bộ môn nhảy sào cũng không thể nào thoát khỏi Lavenham. Harry đi theo Quinn vào trong tòa nhà, tại đó hai người dừng lại trước một giám thị đang ngồi sau một cái bàn, mặc một bộ đồng phục đã sờn màu xanh sáng với hàng cúc đã mất hết độ sáng bóng. Ông ta trông như thể đã qua một án chung thân trong lúc đọc qua bản danh sách những cái tên trên mặt bàn. Người giám thị mỉm cười khi ông ta nhìn thấy tù nhân tiếp theo. “Chào mừng trở lại, Quinn,” ông ta nói. “Anh bạn sẽ không thấy nhiều thay đổi kể từ lần cuối anh bạn ở đây đâu.” Quinn nhe răng cười. “Thật tốt được gặp ông, ông Mason. Hy vọng ông sẽ vui lòng bảo ai đó trong đám khuân vác đưa hành lý của tôi về căn phòng quen thuộc của tôi.” “Đừng thử vận may của mình quá nhiều thế chứ Quinn,” Mason nói, “nếu không rất có thể tôi sẽ muốn nói với bác sĩ mới là anh bạn không hề bị động kinh.” “Nhưng, thưa ông Mason, tôi có giấy chứng nhận y khoa để chứng minh điều đó mà.” “Hẳn là cũng từ cùng nguồn đã cấp cho anh bạn chứng chỉ đầu bếp rồi,” Mason nói, chuyển sự chú ý sang Harry. “Còn cậu này là ai?” “Đây là cậu bạn tôi, Tom Bradshaw. Anh ta không hút thuốc, không uống rượu, không chửi thề mà cũng chẳng nhổ nước bọt,” Quinn nói một tràng trước khi Harry có cơ hội lên tiếng. “Chào mừng tới Lavenham, Bradshaw,” Mason nói. “Thực ra thì là đại úy Bradshaw,” Quinn nói. “Từng là trung úy thôi,” Harry nói. “Tôi chưa bao giờ là đại úy.” Quinn nom có vẻ rất thất vọng với truyền nhân của ông ta. “Lần đầu ngồi tù hả?” Mason hỏi, đưa mắt nhìn Harry kỹ hơn. “Vâng, thưa ông.” “Tôi sẽ phân cậu về khu A. Sau khi cậu tắm rửa xong và lấy quần áo tù tại kho, ông Hessler sẽ đưa cậu về buồng số ba hai bảy.” Mason đánh dấu vào bản danh sách của ông ta trước khi quay sang một giám thị trẻ đang đứng sau lưng mình, bàn tay phải anh chàng này đang vung vẩy một cây dùi cui. “Có hy vọng được ở cùng buồng với anh bạn của tôi không vậy?” Quinn hỏi sau khi Harry đã ký vào tờ khai. “Nói gì thì nói, trung úy Bradshaw sẽ cần đến công vụ.” “Anh bạn là người cuối cùng cậu ta cần,” Mason nói. Harry vừa định lên tiếng thì thấy anh chàng móc túi cúi người xuống, lấy một tờ đô la được gấp nhỏ giắt trong tất ra và nhét vào túi trên của Mason chỉ trong nháy mắt. “Quinn cũng sẽ về buồng ba hai bảy,” Mason nói với viên giám thị cấp dưới. Nếu Hessler có trông thấy vụ hối lộ, thì anh ta cũng vẫn không nói gì. “Hai người, đi theo tôi,” là tất cả những gì anh ta nói. Quinn vội bám theo Harry trước khi Mason có thể đổi ý. Hai tù nhân mới được giải đi theo một hành lang dài xây bằng gạch màu xanh lục cho tới khi Hessler dừng bước bên ngoài một phòng tắm hoa sen nhỏ, tại đây có hai băng ghế nhỏ bằng gỗ đóng chặt vào tường, trên đó vứt rải rác khăn tắm dùng rồi. “Lột sạch ra,” Hessler nói, “và tắm đi.” Harry từ tốn cởi bộ vét hàng hiệu, chiếc áo sơ mi màu kem sành điệu, cái cổ cồn cứng đơ và chiếc cà vạt kẻ sọc mà luật sư Jelks đã khăng khăng đề nghị anh mặc trước tòa để gây ấn tượng với thẩm phán. Rắc rối là ở chỗ anh đã vớ nhầm thẩm phán. Quinn đã vào đứng dưới vòi sen trước khi Harry kịp tháo dây giày. Anh ta mở vòi và một dòng nước long tong miễn cưỡng chảy ri rỉ xuống cái đầu hói trụi của tay móc túi. Sau đó, anh ta nhặt một miếng xà phòng từ dưới sàn lên và bắt đầu kỳ cọ. Harry bước vào dưới dòng nước lạnh của vòi hoa sen duy nhất còn lại, và một thoáng sau, Quinn đưa cho anh phần còn lại của miếng xà phòng. “Nhớ nhắc tôi nói với ban quản lý về cơ sở hạ tầng,” Quinn nói khi cầm lấy một cái khăn tắm đã ẩm, không to hơn khăn lau đĩa là mấy, và cố gắng lau khô người mình. Hessler vẫn bĩu môi và nói. “Mặc quần áo vào và theo tao,” người giám thị nói, trước khi Harry kịp xát xà phòng xong. Thêm một lần nữa, Hessler lại bước theo hành lang với nhịp chân nhanh nhẹn, trong khi Harry, mới kịp mặc dở quần áo, người vẫn còn ướt, phải hối hả đuổi theo anh ta. Họ không dừng chân cho tới khi đến trước một khung cửa hai cánh có ghi KHO. Hessler đập mạnh lên cửa, và một thoáng sau sau cánh cửa mở ra, để lộ một tay giám thị với bộ mặt u ám đang ngồi lấy tay chống cằm bên quầy, miệng phì phèo một điếu thuốc lá cuộn. Tay giám thị mỉm cười khi nhìn thấy Quinn. “Tao không chắc bọn tao đã nhận lại được bộ đồ anh bạn mặc lần trước từ xưởng giặt về chưa, Quinn ạ,” anh ta nói. “Vậy thì tôi phải cần một bộ mới, thưa ông Newbold,” Quinn nói, rồi cúi xuống lấy ra thứ gì đó từ trong cái tất còn lại của anh ta ra, và lại một lần nữa thứ này biến mất không để lại dấu vết. “Yêu cầu của tôi rất đơn giản,” anh ta nói thêm. “Một cái chăn, hai tấm vải trải giường bằng vải bông, một cái gối, một vỏ gối...” Tay giám thị lấy ra từng món từ mấy cái giá sau lưng anh ta, rồi để thành một chồng gọn ghẽ trên quầy. “Hai áo sơ mi, ba đôi tất, sáu cái quần, hai khăn tắm, một cái bát, một đĩa, một con dao ăn, dĩa và thìa, một dao cạo, một bàn chải đánh răng và một tuýp thuốc đánh răng - tôi thích Colgate.” Newbold không nói năng gì trong khi đống đồ của Quinn cứ lớn dần. “Còn gì nữa không?” cuối cùng tay giám thị hỏi, như thể Quinn là một khách hàng đáng giá nhiều khả năng sẽ còn quay trở lại. “Có đấy, cậu bạn tôi, trung úy Bradshaw cũng có yêu cầu tương tự, và vì cậu ấy là sĩ quan và là một quý ông, hãy đảm bảo cậu ấy có được loại tốt nhất nhé.” Trước sự ngỡ ngàng của Harry, Newbold bắt đầu chất lên thêm một chồng nữa, thậm chí dường như còn bỏ công ra lựa chọn từng món đồ, và tất cả là nhờ vào người tù đã ngồi cạnh anh trên xe chở tù nhân. “Theo tao,” Hessler nói khi Newbold đã làm xong phần việc của anh ta. Harry và Pat ôm lấy đống đồ của họ và vội bước đi theo hành lang. Có vài lần dừng lại trên đường, vì tay giám thị trực ban cần mở và đóng khóa các cửa ngăn khi ba người tới gần khu buồng giam hơn. Cuối cùng, khi họ cũng bước vào khu buồng giam, ba người được đón chào bởi tiếng ồn ào của cả một nghìn tù nhân. Quinn nói, “Tôi thấy là chúng tôi được xếp vào tầng trên cùng, ông Hessler, nhưng tôi sẽ không đi thang máy đâu, vì tôi cần luyện tập.” Người giám thị tảng lờ anh ta và tiếp tục bước qua trước mặt các tù nhân đang gào thét. “Tôi nghĩ là ông đã nói đây là khu yên tĩnh chứ,” Harry nói. “Rõ ràng ông Hessler không phải là một trong các giám thị được ưa thích rồi,” Quinn thì thầm, ngay trước khi ba người đến trước cửa buồng 327. Hessler mở khóa cánh cửa sắt nặng nề, kéo nó mở ra để cho người tù mới và người tù già đời bước vào nơi mà Harry sẽ cư trú trong suốt sáu năm tiếp theo. Harry nghe thấy cánh cửa đóng sầm lại sau lưng mình. Anh nhìn quanh buồng giam, và nhận thấy không có tay cầm nào ở phía trong cánh cửa. Một cái giường hai tầng, một chậu rửa bằng thép gắn vào tường, một cái bàn gỗ, cũng được gắn vào tường, và một cái ghế gỗ. Cuối cùng đôi mắt anh nhìn vào một cái bô sắt để dưới gầm giường tầng một. Anh nghĩ mình sắp phát buồn nôn đến nơi. “Cậu ở trên tầng hai,” Quinn nói, cắt ngang dòng suy nghĩ của anh, “vì cậu là dân lần đầu. Nếu tôi được ra trước cậu, cậu sẽ chuyển xuống tầng một, và bạn cùng buồng mới của cậu sẽ lên tầng hai. Phong tục trong tù,” anh ta giải thích. Harry đứng lên ván giường tầng dưới và chậm chạp chuẩn bị giường cho mình, sau đó leo lên, nằm xuống và đặt đầu lên cái gối mỏng dính, cứng đờ, ý thức được một cách đau đớn rằng có lẽ sẽ phải mất một thời gian trước khi anh có thể ngủ được ban đêm. “Tôi có thể hỏi ông thêm một câu nữa không?” anh nói với Quinn. “Được, nhưng đừng nói gì thêm nữa cho tới khi đèn bật vào sáng mai.” Harry nhớ lại Fisher đã nói gần như đúng những lời đó vào đêm đầu tiên của anh ở St. Bede. “Rõ ràng ông đã có thể lén mang vào một lượng tiền mặt lớn, vậy tại sao đám giám thị không tịch thu ngay khi ông xuống khỏi xe?” “Bởi vì nếu bọn họ làm thế,” Quinn nói, “sẽ chẳng bao giờ có thêm gã tù nào mang tiền vào nữa, và cả hệ thống sẽ sụp đổ.” H 3 arry nằm trên giường tầng trên, ngước mắt nhìn chằm chằm lên trần nhà quét một lượt vôi trắng mà anh có thể giơ tay lên và chạm tới được. Đệm nằm nổi cục lên như rải sỏi, còn cái gối thì cứng đơ, đến mức anh chỉ có thể ngủ mỗi lần được vài phút. Dòng suy nghĩ của anh quay trở lại Sefton Jelks, cũng như việc anh đã bị tay luật sư lõi đời lừa gạt dễ đến thế nào. Hãy giúp con trai tôi rũ bỏ được tội giết người, đó là tất cả những gì tôi quan tâm, anh gần như có thể nghe thấy bố Tom Bradshaw nói thế với Jelks. Harry cố gắng không nghĩ tới sáu năm tiếp theo, điều ông Bradshaw chẳng hề để tâm đến. Liệu có đáng với 10.000 đô la không? Anh rũ bỏ lão luật sư khỏi đầu và nghĩ về Emma. Anh nhớ cô da diết, và muốn viết thư báo cho cô biết anh vẫn còn sống, nhưng biết là mình không thể. Anh tự hỏi liệu cô đang làm gì trong một ngày thu ở Oxford. Việc học hành của cô tiến triển ra sao khi cô bắt đầu năm nhất của cuộc đời sinh viên? Liệu có ai khác theo đuổi cô không? Và chuyện gì đã đến với anh trai cô, Giles, người bạn thân nhất của anh? Giờ đây khi nước Anh đã tham chiến, liệu Giles có rời Oxford và tòng quân chiến đấu với quân Đức không? Nếu đúng là thế, Harry cầu mong cậu ta vẫn còn sống. Anh đấm mạnh vào thành giường, giận dữ vì không thể thực hiện vai trò của mình. Quinn không nói gì, cho rằng Harry đang phải chịu đựng. “Hội chứng đêm đầu tiên”. Còn Hugo Barrington thì sao? Liệu đã có ai trông thấy ông ta kể từ khi ông ta biến mất vào cái ngày đáng ra Harry đã phải kết hôn với con gái ông ta chưa? Liệu ông ta có tìm ra cách nào đó để lấy lại cảm tình của những người khác, khi tất cả đều tin Harry đã chết? Anh gạt Barrington ra khỏi tâm trí mình, vẫn chưa sẵn sàng để chấp nhận khả năng người đàn ông đó có thể là bố đẻ anh. Khi dòng suy nghĩ của Harry hướng đến mẹ, anh mỉm cười, hy vọng bà sẽ sử dụng tốt khoản tiền 10.000 đô la mà Jelks đã hứa là sẽ gửi cho bà sau khi anh chấp nhận vào vai Tom Bradshaw. Với hơn 2000 bảng trong ngân hàng, Harry hy vọng bà sẽ thôi không làm phục vụ bàn ở khách sạn Grand nữa và mua ngôi nhà nho ở vùng nông thôn mà bà luôn nhắc đến; đó là điều tốt lành duy nhất có thể có được từ màn giả bộ lố bịch này. Và còn Sir Walter Barrington, người luôn đối xử với anh như một đứa cháu nội nữa? Nếu Hugo là bố của Harry, vậy thì Sir Walter quả thực đúng là ông nội anh. Nếu đúng như thế, Harry sẽ là người tiếp theo được thừa kế lãnh địa Barrington và tước hiệu của gia đình, và rồi sẽ trở thành Sir Harry Barrington. Nhưng Harry không chỉ muốn người bạn Giles của anh, con trai chính thức của Hugo Barrington, được thừa kế tước vị, mà quan trọng hơn thế, anh mong muốn chứng minh bằng mọi giá rằng người bố thật của anh là Arthur Clifton. Như thế anh mới còn cơ hội được cưới Emma yêu dấu của anh. Harry cố quên đi nơi anh sẽ phải trải qua sáu năm tiếp theo của đời mình. -o Đến bảy giờ sáng, tiếng còi vang lên đánh thức những tù nhân đã thụ án đủ lâu để có thể tận hưởng giấc ngủ đêm. Trong giấc ngủ, ta không còn ở trong tù nữa, đó là những lời cuối cùng Quinn đã lẩm bẩm trước khi chìm vào giấc ngủ sâu, rồi ngáy ầm lên. Việc này cũng chẳng làm phiền Harry. Nói tới chuyện ngáy, bác Stan của anh quả là thuộc về một đẳng cấp khác. Harry đã đi đến quyết định về một số điều trong cả đêm dài thức trắng của mình. Để vượt qua sự thật tàn khốc về thời gian lãng phí này, “Tom” sẽ là một tù nhân kiểu mẫu, với hy vọng được giảm án do cải tạo tốt. Anh sẽ tìm lấy một công việc tại thư viện, và viết nhật ký về những gì đã xảy ra trước khi anh bị kết án và tất cả mọi thứ xảy ra trong thời gian anh ở sau song sắt nhà tù. Anh sẽ giữ cho cơ thể mình khỏe khoắn, như thế nếu chiến tranh còn diễn ra ở châu Âu, anh sẽ sẵn sàng để nhập ngũ ngay khi được trả tự do. Quinn đã mặc xong quần áo khi Harry leo từ giường tầng trên xuống. “Giờ ta làm gì?” Harry hỏi, nghe như thể một học sinh mới nhập trường vào ngày đầu tiên của năm học. “Ăn sáng,” Quinn nói. “Mặc quần áo vào, cầm lấy đĩa và cốc của cậu, và đảm bảo rằng cậu đã sẵn sàng khi cửa mở. Nếu chậm vài giây, một giám thị nào đó sẽ không ngại ngần mà đá sập cửa lại trước mũi cậu đâu.” Harry bắt đầu mặc quần. “Và đừng nói gì trên đường tới nhà ăn,” Quinn nói thêm. “Điều đó thu hút sự chú ý về phía cậu, và chuyện này làm đám ma cũ khó chịu. Thực ra thì đừng có nói gì với bất cứ ai cậu không biết cho tới khi cậu đã sang năm thứ hai.” Harry hẳn đã cười, song anh không dám chắc liệu có phải Quinn đang đùa hay không. Anh nghe thấy tiếng chìa khóa xoay trong ổ, và cửa buồng giam bật mở. Quinn lao vọt ra như một con chó săn lao ra khỏi chuồng, còn người bạn cùng buồng bám sát gót anh ta. Hai người gia nhập vào một hàng dài những tù nhân im lặng bước đi theo dãy hành lang chạy qua những cánh cửa mở rộng của các buồng giam đã trống không, trước khi bước xuống một cầu thang xoáy trôn ốc dẫn xuống tầng trệt, nơi họ sẽ gia nhập vào các bạn tù để cùng ăn sáng. Đoàn người dừng lại khi còn cách nhà ăn một đoạn dài. Harry quan sát những người phục vụ mặc áo khoác ngắn màu trắng đang đứng sau bếp. Một giám thị cầm dùi cui mặc một chiếc áo khoác trắng dài đứng trông chừng bọn họ, để đảm bảo không ai được thêm khẩu phần. “Thật vui được gặp lại ông, ông Siddell,” Pat khẽ nói với người giám thị khi hai người lên tới đầu hàng. Người tù và giám thị bắt tay như thể họ là bạn cũ. Lần này Harry không thấy bất cứ khoản tiền nào được trao tay, nhưng một cái gật đầu khẽ từ ông Siddell cho biết một giao dịch vừa được thỏa thuận. Quinn đi dọc theo dãy quầy phục vụ trong khi cái đĩa thiếc của anh ta được làm đầy bằng một quả trứng ốp lếp có lòng đỏ rắn đanh, một suất khoai tây có màu đen nhiều hơn trắng, cùng khẩu phần quy định hai lát bánh mì cũ. Harry bám kịp anh ta khi anh ta đang giơ cốc ra để nhận nửa cốc cà phê. Những người phục vụ trông có vẻ ngỡ ngàng khi Harry cảm ơn từng người một, như thể anh là khách tại một bữa tiệc trà tại nhà cha xứ quản hạt. “Khỉ thật,” anh thốt lên khi người phục vụ cuối cùng định rót cà phê cho anh. “Tôi để quên cốc trong buồng rồi.” Người phục vụ rót cà phê vào cốc của Quinn đầy sát mép. “Lần sau đừng quên nữa,” ông bạn tù cùng buồng của Harry nói. “Không nói chuyện trong hàng!” Hessler hét lên, đập dùi cui lên một bàn tay đi găng. Quinn dẫn Harry tới phía cuối một cái bàn dài và ngồi xuống băng ghế đối diện với anh. Harry đói đến mức anh ngấu nghiến hết sạch mọi thứ trên đĩa, kể cả quả trứng nhẫy mỡ nhất anh từng nếm qua. Thậm chí Harry còn nghĩ đến chuyện liếm đĩa, nhưng rồi nhớ lại cậu bạn Giles của mình, vào một ngày đầu tiên khác. Khi Harry và Pat đã kết thúc bữa sáng năm phút của họ, họ bị giải đi trở lại theo cầu thang xoáy trôn ốc lên tầng trên cùng. Sau khi cửa buồng giam đã đóng sầm lại, Quinn quay sang rửa đĩa và cốc của anh ta, rồi xếp gọn gàng vào dưới gầm giường. “Khi cậu phải sống trong không gian có kích thước dài tám foot rộng bốn foot ngày này qua ngày khác, cậu sẽ phải tận dụng tới từng phân vuông một,” anh ta giải thích. Harry làm theo gương anh ta, và chỉ có thể tự hỏi sẽ phải mất bao lâu trước khi anh có thể dạy Quinn điều gì đó. “Tiếp theo là gì đây?” Harry hỏi. “Phân công công việc,” Quinn nói. “Tôi sẽ đến chỗ Siddell ở dưới bếp, nhưng ta vẫn còn phải đảm bảo để họ điều cậu tới thư viện. Và điều đó sẽ phụ thuộc vào việc quản giáo nào trực ban. Rắc rối cái là tôi hết tiền mặt rồi.” Quinn chỉ vừa kịp nói dứt lời thì cửa lại mở và Hessler đứng lù lù trên khung cửa, dùi cui đập bình bịch lên bàn tay đi găng của anh ta. “Quinn,” tay giám thị nói, “tới trình diện tại bếp ngay. Bradshaw, tới trạm chín gia nhập vào đội dọn vệ sinh khu nhà.” “Tôi đang mong là được làm ở thư viện, thưa ông...” “Tao cóc cần biết mày đang mong cái gì, Bradshaw,” Hessler nói. “Là giám thị phụ trách khu, tao là người ra luật ở đây. Mày có thể tới thư viện vào các ngày thứ Ba, thứ Năm và Chủ nhật, từ sáu giờ đến bảy giờ, như các tù nhân khác. Như thế với mày đã đủ rõ chưa?” Harry gật đầu. “Mày không còn là sĩ quan nữa, Bradshaw ạ, chỉ là một thằng tù, giống như những gã khác tại nơi này. Và đừng phí thời gian nghĩ rằng mày có thể hối lộ tao,” anh ta nói thêm, trước khi đi sang buồng bên. “Hessler là một trong số ít những giám thị cậu không thể mua chuộc,” Quinn thì thầm. “Bây giờ hy vọng duy nhất của cậu là ông Swanson, quản giáo của nhà tù. Hãy nhớ là ông ta tự coi mình ít nhiều là một trí thức, điều đó nhiều khả năng có nghĩa là ông ta có thể viết đúng chính tả. Ông ta cũng là người theo giáo phái Tin lành nhiệt thành. Tạ ơn Chúa!” “Khi nào thì tôi sẽ có cơ hội gặp ông ta?” Harry hỏi. “Có thể là bất cứ lúc nào. Có điều hãy nhớ cho ông ta biết là cậu muốn làm việc ở thư viện, vì mỗi tù nhân mới chỉ được ông ta dành cho có năm phút thôi.” Harry ngồi phịch xuống chiếc ghế gỗ và đưa hai tay lên ôm đầu. Nếu không phải vì 10.000 đô la mà Jelks đã hứa gửi cho mẹ anh, hẳn anh sẽ dành năm phút đó kể cho ông quản giáo biết làm thế nào mà anh phải bị tống vào Lavenham. “Trong thời gian đó, tôi sẽ làm những gì có thể để giúp cậu được đến làm ở bếp,” Quinn nói thêm. “Có thể đó không phải thứ cậu hy vọng, nhưng chắc chắn còn tốt hơn đi lau dọn khu buồng giam nhiều.” “Cảm ơn ông,” Harry nói. Quinn nhanh chóng tìm đến nhà bếp, chẳng cần đến ai chỉ đường. Harry lần theo cầu thang xuống tầng trệt và đi tìm trạm chín. Mười hai người, đều là lần đầu vào tù, đứng co ro thành hàng chờ đợi chỉ thị. Tính chủ động là điều tuyệt đối không được ở nhà tù Lavenham - nó mang hơi hướng một cuộc nổi loạn, hay ý niệm rằng một tù nhân có thể thông minh hơn một giám thị. “Cầm lấy một cái xô, đổ đầy nước vào, và tìm lấy cho mình một cây lau,” Hessler nói. Tay giám thị mỉm cười nhìn Harry trong khi đánh dấu tên anh trên một tờ danh sách khác. “Vì mày là đứa cuối cùng có mặt, Bradshaw, mày sẽ phụ trách khu nhà tiêu trong suốt tháng tới.” “Nhưng tôi đâu phải là người cuối cùng có mặt,” Harry phản đối. “Tao nghĩ là có đấy,” Hessler nói, nụ cười vẫn không rời khỏi khuôn mặt. Harry đổ đầy nước lạnh vào xô của anh và cầm lấy một cây lau. Anh không cần ai chỉ cho biết cần phải đi theo hướng nào, anh có thể ngửi thấy mùi của khu nhà tiêu từ cách xa cả tá bước chân. Harry bắt đầu ọe khan thậm chí từ trước khi bước vào căn phòng rộng hình vuông với ba mươi hố đại tiện dưới sàn. Anh bịt chặt mũi, nhưng liên tục phải chạy ra khỏi phòng để thở lấy hơi. Hessler đứng cách xa một quãng, cười nhạo. “Mày sẽ quen với nó thôi, Bradshaw,” anh ta nói, “cùng với thời gian.” Harry lấy làm hối hận vì đã ăn nhiều đến vậy vào bữa sáng, mà anh đã nôn ra sạch sẽ chỉ sau vài phút. Có lẽ phải đến một giờ đã trôi qua khi anh nghe thấy tiếng một giám thị khác gọi tên mình. “Bradshaw!” Harry chệnh choạng bước ra khỏi nhà tiêu, mặt trắng bệch như tờ giấy. “Tôi đây,” anh nói. “Ông quản giáo muốn gặp mày, vậy nhanh chân lên.” Với mỗi bước đi, Harry đã có thể hít thở sâu hơn, và khi anh tới văn phòng của ông quản giáo, anh đã cảm thấy gần như hoàn hồn. “Đợi ở đó cho tới khi mày được gọi vào,” viên giám thị nói. Harry ngồi xuống chỗ trống giữa hai tù nhân khác, hai người này nhanh chóng quay mặt đi chỗ khác. Harry chẳng thể trách cứ họ. Anh cố tập trung suy nghĩ trong lúc từng người tù mới đi vào rồi lại đi ra khỏi văn phòng quản giáo. Quinn nói đúng, mỗi cuộc nói chuyện kéo dài chừng năm phút, một số người thậm chí còn ngắn hơn. Harry không thể lãng phí dù chỉ một giây quỹ thời gian được dành cho anh. “Bradshaw,” người giám thị gọi, rồi mở cửa. Anh ta đứng sang một bên trong khi Harry bước vào văn phòng quản giáo. Harry quyết định sẽ không lại quá gần ông Swanson, và dừng chân cách cái bàn giấy lớn có mặt bọc da của ông ta vài bước. Cho dù người quản giáo đang ngồi, Harry có thể thấy ông ta không thể cài được khuy giữa của chiếc áo khoác thể thao của ông. Mái tóc ông ta đã được nhuộm đen trong một nỗ lực nhằm giúp ông ta nom trẻ hơn, song nó chỉ làm bộ dạng viên quản giáo trở nên đôi chút lố bịch. Brutus đã nói gì về sự phù phiếm của Caesar nhỉ? Hãy dành cho ông ta những lời tán tụng, hãy ngợi ca ông ta như thể ông ta là một vị thần, và ông ta sẽ sụp đổ. Swanson mở hồ sơ của Bradshaw ra, đọc một lát trước khi ngước mắt lên nhìn Harry. “Tôi thấy là anh bị kết án sáu năm tù vì tội đào ngũ. Tôi chưa từng gặp qua trường hợp nào mắc tội này trước đây,” ông ta thừa nhận. “Vâng, thưa ông,” Harry nói, không muốn lãng phí thời gian quý báu của anh một chút nào. “Đừng mất công nói với tôi rằng anh vô tội,” Swanson nói tiếp, “vì tỉ lệ chỉ có một phần nghìn thôi, vì vậy các con số thống kê đang chống lại anh.” Harry đành phải mỉm cười. “Nhưng nếu anh giữ cho cái mũi mình sạch sẽ”*- Harry thầm nghĩ tới các hố đại tiện - “và không gây ra bất cứ rắc rối nào, tôi không thấy bất cứ lý do nào bắt anh phải thụ án trọn vẹn cả sáu năm.” “Cám ơn ông, thưa ông.” “Anh có sở thích nào đặc biệt không?” Swanson hỏi, trông có vẻ như cũng không thực sự quan tâm nếu quả thực Harry có sở thích nào thật. “Đọc sách, cảm thụ nghệ thuật và hát đồng ca, thưa ông.” Ông quản giáo dành cho Harry một cái nhìn ngờ vực, không dám chắc liệu có phải anh đang cố gây ấn tượng với ông hay không. Swanson chỉ vào cái bảng đang treo trên tường sau bàn làm việc của ông ta và hỏi, “Anh có thể nói cho tôi biết dòng tiếp theo chứ, Bradshaw?” Harry chăm chú nhìn dòng chữ được thêu bằng chỉ vàng: Tôi sẽ ngước đôi mắt của mình lên những ngọn đồi. Anh thầm cảm ơn cô Eleanor E. Monday, cũng như thời gian mà anh đã trải qua tại lớp luyện đồng ca của cô. “Từ nơi đó sự trợ giúp của tôi sẽ tới, Đức Chúa đã nói thế. Thánh thi khổ một trăm hai mươi mốt.” Ông quản giáo mỉm cười. “Nói tôi nghe nào, Bradshaw, những tác giả ưa thích của anh là ai?” “Shakespeare, Dickens, Austen, Trollope và Thomas Hardy.” “Không một người đồng hương nào của chúng ta đủ tốt sao?” Harry muốn chửi thề thành tiếng vì đã đưa ra một câu trả lời hớ hênh đến thế. Anh đưa mắt liếc qua giá sách được xếp đầy một nửa của ông quản giáo. “Tất nhiên là có chứ,” anh nói. “Tôi cho rằng F. Scott Fitzgerald, Hemingway và O.Henry cũng ngang hàng với bất cứ ai, và tôi nghĩ Steinbeck là nhà văn hiện đại xuất chúng nhất của nước Mỹ.” Anh hy vọng đã phát âm đúng những cái tên đó. Anh thầm tự nhủ nhất định phải đọc cuốn Của Chuột và Người trước khi gặp lại ông quản giáo lần nữa. Nụ cười trở lại trên khuôn mặt Swanson. “Ông Hessler đã phân cho anh làm việc gì?” ông ta hỏi. “Lau dọn khu buồng giam, mặc dù tôi muốn làm ở thư viện, thưa ông.” “Thật thế sao?” ông quản giáo hỏi. “Vậy thì tôi sẽ phải xem có chỗ nào trống hay không.” Ông ta ghi vào tập giấy ghi chú trước mặt mình. “Cảm ơn ông, thưa ông quản giáo.” “Nếu có chỗ, anh sẽ được thông báo vào cuối ngày hôm nay,” ông quản giáo nói trong lúc đóng tập hồ sơ lại. “Cảm ơn ông, thưa ông,” Harry lặp lại. Anh nhanh chóng rời khỏi phòng, ý thức được mình đã có được nhiều hơn năm phút quy định nhiều. Sau khi Harry quay trở ra hành lang, người giám thị trực ban dẫn anh quay trở lại khu vệ sinh. Harry cảm thấy nhẹ nhõm vì không thấy Hessler đâu, và nhóm vệ sinh đã dọn đến tầng hai khi anh tới gia nhập cùng họ. Harry đã mệt nhoài từ lâu trước khi còi reo báo giờ ăn trưa. Anh gia nhập vào hàng dài trước bếp ăn, và thấy Quinn đã xuất hiện sau quầy phát thức ăn, phục vụ các bạn tù của anh ta. Một khẩu phần lớn khoai tây và thịt nấu chín nhừ được múc vào đĩa của Harry. Anh ngồi một mình tại chiếc bàn dài và ăn phần đồ ăn của mình một cách dè dặt. Anh sợ rằng nếu Hessler lại xuất hiện buổi chiều hôm ấy, anh sẽ phải quay lại chỗ nhà tiêu, và bữa trưa của anh sẽ cùng đến đó. Hessler không trực ban khi Harry quay lại vị trí làm việc, và một giám thị khác đã phân một tù nhân lần đầu ngồi khám khác tới dọn nhà tiêu. Harry dành cả buổi chiều lau dọn các dãy hành lang và đổ các thùng rác. Ý nghĩ duy nhất của anh là liệu ông quản giáo có ra lệnh chuyển anh sang thư viện hay không. Nếu không thì Harry đành phải hy vọng một chỗ làm ở bếp. Khi Quinn quay về buồng giam của họ sau bữa tối, nét mặt của anh ta làm Harry không còn chút nghi ngờ nào về việc anh sẽ không thể tới làm cùng chỗ với người bạn tù của mình. “Đáng lẽ còn một chân rửa bát.” “Tôi sẽ nhận nó,” Harry nói. “Nhưng khi ông Siddell nhắc đến tên cậu, Hessler lập tức bác bỏ. Anh ta nói cậu phải làm chân lau dọn khu buồng giam ít nhất ba tháng trước khi được phép nghĩ tới chuyện chuyển sang làm ở bếp.” “Anh ta bị làm sao thế nhỉ?” Harry ngán ngẩm hỏi. “Người ta đồn là anh ta từng xin đăng ký làm sĩ quan hải quân, nhưng lại bị trượt trong kỳ thi và buộc phải chuyển sang ngạch giám thị nhà tù. Vậy là trung úy Bradshaw phải gánh chịu hậu quả.” H 4 arry phải tiếp tục dọn cầu tiêu trong suốt hai mươi chín ngày tiếp theo, và chỉ khi một tù nhân ngồi khám lần đầu mới xuất hiện ở khu này, Hessler mới chịu buông tha anh khỏi công việc đó và bắt đầu biến cuộc sống của một người khác thành địa ngục. “Cái thằng điên chết tiệt ấy nữa,” Quinn nói. “Siddell vẫn sẵn sàng cho cậu chỗ làm dưới bếp, nhưng Hessler lại phản đối.” Harry không bình phẩm gì. “Nhưng tin tức không chỉ toàn xấu,” Quinn nhận xét, “vì tôi mới vừa nghe ngóng được rằng Andy Savatori, phó thủ thư đã được đồng ý tại ngoại. Anh ta sẽ được ra tù vào tháng tới và, chuyện này còn hay hơn, dường như chẳng ai thích thay chỗ anh ta.” “Deakins sẽ thích cho xem,” Harry thầm lẩm bẩm không thành lời. “Vậy tôi phải làm gì để đảm bảo chắc chắn có được vị trí đó?” “Không gì hết. Kỳ thực, hãy cố làm ra vẻ cậu không quan tâm, và cố tránh mặt Hessler, vì chúng ta biết ông quản giáo có cảm tình với cậu.” Tháng tiếp theo chậm chạp trôi qua, mỗi ngày trôi qua dường như lại dài hơn ngày hôm trước. Harry tới thư viện vào tất cả các ngày thứ Ba, thứ Năm và Chủ nhật, từ sáu đến bảy giờ, nhưng Max Lloyd, người chánh thủ thư, không cho anh bất cứ lý do nào để tin rằng anh đang được cân nhắc cho vị trí phó thủ thư. Savatori, người phó của ông ta, luôn im như thóc, cho dù chắc chắn anh ta biết gì đó. “Tôi không nghĩ Lloyd muốn tôi làm phó cho ông ta,” Harry nói vào một buổi tối, sau khi đèn tắt. “Lloyd chẳng có quyền gì trong việc này cả,” Quinn nói. “Đó là quyết định của ông quản giáo.” Nhưng Harry vẫn không được thuyết phục. “Tôi ngờ rằng Lloyd và Hessler đang thông đồng với nhau để đảm bảo tôi không giành được chỗ làm đó.” “Cậu đang trở nên hoang... từ đó là gì nhỉ?” Quinn nói. “Hoang tưởng.” “Phải rồi, cậu đang trở nên thế đấy, cho dù tôi cũng chẳng rõ thế có nghĩa là gì.” “Bị giày vò bởi những nghi ngờ vô căn cứ,” Harry nói. “Cả tôi cũng không thể nói chuẩn hơn thế!” Harry vẫn chưa được thuyết phục rằng những nghi ngờ của anh là vô căn cứ, và một tuần sau đó, Savatori kéo anh sang bên và xác nhận điều anh lo sợ nhất. “Hessler đưa ra tên ba tù nhân cho quản giáo xem xét, và trong danh sách không có tên cậu.” “Thế là xong rồi,” Harry vừa nói vừa đập tay xuống đùi. “Tôi sẽ phải làm chân lau dọn suốt thời gian còn lại.” “Không nhất thiết vậy,” Savatori nói. “Hãy tới gặp tôi vào ngày trước hôm tôi dự kiến được tha.” “Nhưng đến lúc đó thì đã quá muộn rồi.” “Tôi không nghĩ vậy,” Savatori nói, và không giải thích gì thêm. “Trong thời gian đó, hãy nghiên cứu thật kỹ từng trang của thứ này.” Anh ta đưa cho Harry một tập sách dày bọc bìa da hiếm khi rời khỏi thư viện. -o Harry ngồi lên giường tầng trên và mở bìa cuốn sổ tay nhà tù dày 273 trang ra. Trước khi đọc tới trang 6, anh đã bắt đầu ghi chú. Từ rất lâu trước khi Harry bắt đầu đọc tập sách lần thứ hai, một kế hoạch đã định hình trong đầu anh. Anh biết việc lựa chọn thời điểm sẽ có ý nghĩa quyết định, và mọi hành động cần phải được tập dượt, nhất là lần này anh sẽ phải ra sân khấu sau khi màn đã kéo lên. Anh chấp nhận việc mình không thể xúc tiến kế hoạch này cho tới sau khi Savatori đã được thả, cho dù lúc đó có thể phó thủ thư mới đã được bổ nhiệm. Khi Harry thực hiện một lần tổng dượt trong khung cảnh riêng tư tại buồng giam của họ, Quinn nói rằng anh không chỉ hoang tưởng mà còn điên rồ, bởi vì, anh ta cam đoan với Harry, lần trình diễn thứ hai của anh sẽ là trong phòng biệt giam. -o Ông quản giáo thực hiện chuyến đi tuần hàng tháng qua từng khu buồng giam vào mỗi buổi sáng thứ Hai, vì thế Harry biết anh cần phải đợi ba tuần sau khi Savatori được thả trước khi ông ta xuất hiện trở lại tại khu A. Swanson luôn đi theo một lộ trình, và các tù nhân đều biết rằng, nếu họ muốn quý trọng cuộc sống của mình, tốt nhất họ nên biến khỏi tầm mắt khi ông ta xuất hiện. Khi Swanson bước lên tầng trên cùng khu A vào sáng thứ Hai đó, Harry đã đợi sẵn để gặp ông ta với cây chổi lau trên tay. Hessler bước đi sau lưng ông quản giáo, vung vẩy cây dùi cui của anh ta để ra hiệu rằng nếu Bradshaw yêu quý tính mạng mình, anh cần tránh sang bên. Harry không hề lánh đi, và ông quản giáo chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài dừng lại trên đường đi. “Chúc ông buổi sáng tốt lành, thưa ông quản giáo,” Harry nói, như thể hai người vẫn thường xuyên gặp nhau. Swanson rất ngạc nhiên khi gặp mặt đối mặt với một tù nhân trong vòng đi tuần của mình, thậm chí còn ngạc nhiên hơn khi người tù kia lại nói với ông ta. Ông ta nhìn Harry kỹ hơn. “Bradshaw, phải không nhỉ?” “Ông có trí nhớ thật tốt, thưa ông.” “Tôi cũng nhớ sở thích của anh với văn học. Tôi rất ngạc nhiên khi anh từ chối công việc phó thủ thư.” “Tôi chưa bao giờ được đề nghị công việc đó,” Harry nói. “Nếu được, chắc chắn tôi đã vội vã nhận ngay,” anh nói thêm, một câu trả lời rõ ràng làm ông quản giáo rất ngạc nhiên. Quay sang Hessler, Swanson nói, “Anh nói với tôi là Bradshaw không muốn công việc đó.” Harry chen vào trước khi Hessler kịp trả lời. “Chắc là lỗi của tôi, thưa ông. Tôi không nhận ra mình cần đăng ký cho vị trí đó.” “Tôi hiểu rồi,” ông quản giáo nói. “Chà, điều đó giải thích tất cả. Và tôi có thể nói với anh, Bradshaw, rằng anh chàng mới chẳng hề biết sự khác biệt giữa Plato và Pluto.” Harry phá lên cười. Hessler vẫn im như thóc. “Một so sánh thật hay, thưa ông,” Harry nói trong khi ông quản giáo định bước đi tiếp. Nhưng Harry vẫn chưa xong việc. Anh nghĩ Hessler hẳn sẽ nổ tung khi anh lấy một cái phong bì từ trong túi áo ra và đưa cho ông quản giáo. “Cái gì đây?” Swanson ngờ vực hỏi. “Một bản thỉnh nguyện chính thức để được phát biểu trước ban quản lý nhà tù khi họ thực hiện chuyến thăm hàng quý vào thứ Ba tuần tới, đây là quyền của tôi theo điều ba mươi hai của luật hình sự. Tôi đã gửi một bản sao của thỉnh nguyện này tới luật sư của tôi, ông Sefton Jelks.” Lần đầu tiên ông quản giáo trông có vẻ lo lắng. Hessler gần như không giữ nổi bình tĩnh nữa. “Anh định gửi một bản khiếu nại chăng?” ông quản giáo thận trọng hỏi. Harry chằm chằm nhìn thẳng vào mặt Hessler trước khi trả lời, “Theo quy định của điều một - một - sáu, tôi có quyền không tiết lộ cho bất cứ nhân viên nào của nhà tù tại sao tôi muốn phát biểu trước ban quản lý, như tôi tin chắc ông cũng biết, thưa ông quản giáo.” “Phải, tất nhiên rồi, Bradshaw,” ông quản giáo nói, trông có vẻ bối rối. “Nhưng mong muốn của tôi, bên cạnh những điều khác, là đề đạt lên ban quản lý tầm quan trọng của việc ông đưa văn học và tôn giáo trở thành một phần đời sống hàng ngày của chúng tôi.” Harry đứng tránh sang bên để ông quản giáo tiếp tục cuộc hành trình. “Cảm ơn, Bradshaw,” ông ta nói. “Anh thật tử tế.” “Tao sẽ gặp lại mày sau, Bradshaw,” Hessler khẽ rít lên. “Tôi rất trông đợi việc đó,” Harry nói, đủ lớn để ông Swanson nghe thấy. -o Cuộc đối diện của Harry với ông quản giáo là chủ đề chính trong những cuộc trò chuyện giữa các tù nhân trong lúc xếp hàng ăn tối, và khi Quinn từ bếp quay về tối hôm ấy, anh ta cảnh cáo Harry rằng đám tù nhân trong khu đang đồn là sau khi đèn tắt, rất có thể Hessler sẽ giết anh. “Tôi không nghĩ thế,” Harry bình thản nói. “Ông thấy đấy, vấn đề của việc làm một kẻ chuyên bắt nạt người khác là ẩn đằng sau đó, ông luôn thấy dấu ấn của một thằng hèn.” Quinn có vẻ không hề bị thuyết phục. Harry không phải chờ lâu để chứng tỏ sự đúng đắn của mình, vì không lâu sau khi đèn tắt, cửa buồng giam bật mở và Hessler bước vào, vung vẩy cây dùi cui của anh ta. “Quinn, ra ngoài,” tay giám thị nói, không rời mắt khỏi Harry. Sau khi anh chàng người Ai-len đã lủi ra ngoài hành lang, Hessler đóng cửa buồng giam lại và nói, “Tao đã chờ lúc này cả ngày rồi Bradshaw. Mày sắp sửa được biết trên người mày có bao nhiêu cái xương đấy.” “Tôi không nghĩ thế, ông Hessler,” Harry nói, không chút nao núng. “Và mày nghĩ cái gì sẽ cứu được mày?” Hessler hỏi, đồng thời bước tới. “Lần này ông quản giáo không còn ở quanh đây để cứu mày đâu.” “Tôi không cần đến ông ấy,” Harry nói. “Không cần, trong khi ông đang được cân nhắc để thăng chức,” anh nói thêm, nhìn thẳng vào mắt Hessler. “Tôi được biết từ nguồn đáng tin cậy rằng ông sẽ xuất hiện trước ban quản lý vào thứ Ba tuần tới lúc hai giờ chiều.” “Thế thì sao?” Hessler hỏi, lúc này chỉ còn cách người tù chừng một bước chân. “Hẳn ông đã quên tôi sẽ trình diện trước ủy ban lúc mười giờ sáng hôm đó. Một, hai người trong số họ có thể sẽ lấy làm tò mò muốn biết tại sao có nhiều xương trên người tôi bị gãy đến thế sau khi tôi dám nói chuyện với ông quản giáo.” Hessler đập mạnh dùi cui của anh ta xuống cạnh giường, chỉ cách mặt Harry vài inch, nhưng Harry vẫn không nao núng. “Tất nhiên,” Harry nói tiếp, “rất có thể ông muốn làm giám thị buồng giam suốt phần đời còn lại của mình, nhưng tôi thấy nghi ngờ điều đó, vì ngay cả ông cũng không thể ngu ngốc tới mức làm hỏng cơ hội thăng tiến hiếm hoi của mình.” Hessler vung dùi cui lên một lần nữa, nhưng do dự khi Harry lấy ra một cuốn vở dày từ dưới gối của anh ra. “Tôi đã ghi lại đầy đủ danh sách những điều luật ông đã vi phạm trong tháng vừa qua, ông Hessler, có những điều bị vi phạm đến vài lần. Tôi tin ủy ban sẽ thấy thú vị khi đọc qua nó. Tối nay tôi sẽ thêm vào hai vi phạm nữa: ở một mình trong buồng giam với một tù nhân trong khi cửa buồng giam đóng, điều bốn một sáu, và đe dọa xâm phạm thân thể trong khi người tù không có phương tiện để tự vệ, điều năm một hai.” Hessler lùi lại một bước. “Nhưng tôi tin điều sẽ gây ảnh hưởng lớn nhất tới ủy ban khi họ cân nhắc tới việc cất nhắc ông, sẽ là câu hỏi tại sao ông rời khỏi hải quân nhanh chóng như vậy.” Khuôn mặt Hessler trở nên tái nhợt. “Chắc chắn không phải vì ông đã thi trượt khi đăng ký sĩ quan.” “Là ai đã ton hót?” Hessler nói, gần như thì thầm. “Một trong những người từng phục vụ cùng tàu với ông, người không may cũng có mặt ở đây. Ông đã đảm bảo để anh ta im miệng bằng cách cho anh ta công việc phó thủ thư. Tôi không trông đợi ít hơn thế.” Harry đưa bản ghi chép anh đã tập hợp suốt một tháng qua cho Hessler, dừng lời để cho phép thông tin cuối cùng tạo hiệu quả trước khi nói tiếp, “Tôi sẽ giữ kín miệng cho tới ngày tôi được thả - trừ khi, tất nhiên rồi, ông cho tôi lý do để không làm thế. Và nếu có lúc nào đó chỉ cần ông chạm một ngón tay vào người tôi thôi, tôi sẽ khiến ông bị cuốn gói khỏi nhà tù còn nhanh hơn lúc ông bị tống cổ ra khỏi hải quân. Tôi nói đã đủ rõ chưa?” Hessler gật đầu, nhưng không nói gì. “Nhân đây, nếu ông định hành bất cứ người nào lần đầu tiên vào tù nữa, mọi thỏa thuận coi như bị hủy bỏ. Giờ hãy xéo ra khỏi buồng của tôi.” K 5 hi Lloyd đứng lên chào anh vào lúc chín giờ vào buổi sáng đầu tiên của anh ở vị trí phó thủ thư, Harry chợt nhận ra trước đó anh mới chỉ nhìn thấy ông này ngồi. Lloyd cao hơn so với anh nghĩ, hơn sáu foot nhiều. Bất chấp đồ ăn tệ hại trong tù, ông ta có thân hình khá đầy đặn, và là một số ít tù nhân cạo râu mỗi buổi sáng. Với mái tóc đen nhánh chải lật ra sau, trông ông ta giống một ngôi sao thần tượng đang về già hơn là một người phải thụ án năm năm vì gian lận. Quinn không biết tường tận về tội mà ông ta phạm phải, cũng có nghĩa là chẳng ai ngoài quản giáo biết đầy đủ câu chuyện. Và nguyên tắc trong tù rất đơn giản: nếu một tù nhân không tự nói ra anh ta ngồi khám vì chuyện gì, bạn sẽ không hỏi. Lloyd hướng dẫn cho Harry công việc hàng ngày, tất cả đều được phó thủ thư mới thuộc lòng khi hai người đi ăn tối hôm đó. Trong vài ngày tiếp theo, anh tiếp tục tra vấn Lloyd với những câu hỏi về các chủ đề như thu lại sách quá hạn trả, các khoản phạt, cũng như kêu gọi tù nhân hiến tặng sách của riêng họ cho thư viện khi họ được trả tự do, điều Lloyd thậm chí chưa hề nghĩ tới. Phần lớn câu trả lời của Lloyd đều chỉ là có hoặc không, vậy là cuối cùng Harry cho phép mình quay sang ngồi thư thái tại bàn của anh, lấp sau một số báo The New York Times. Cho dù có tới gần một nghìn tù nhân bị giam tại Lavenham, chưa đến một phần mười trong số họ biết đọc biết viết, và không phải tất cả họ đều quan tâm đến chuyện ghé thăm thư viện vào một ngày thứ Ba, thứ Năm hay Chủ nhật. Harry nhanh chóng phát hiện ra Max Lloyd không những lười mà còn ma mãnh. Ông ta dường như chẳng hề bận tâm chuyện người phó thủ thư mới của mình này ra bao nhiêu ý tưởng, miễn là nó không bắt ông ta phải động tay động chân thêm vào bất cứ việc gì. Trách nhiệm chủ yếu của Lloyd dường như là lo giữ cho bình cà phê luôn sẵn sàng để phòng trường hợp có một giám thị ghé qua. Sau khi tờ The New York Times số ra hôm trước của ông quản giáo được chuyển tới thư viện, Lloyd sẽ yên vị tại bàn của ông ta trong suốt phần còn lại của buổi sáng. Trước hết ông ta giở tờ báo ra tìm đến phần điểm sách, và sau khi đã đọc hết phần này, ông ta quay sang phần quảng cáo rao vặt theo phân loại, sau đó là mục tin tức, và cuối cùng là thể thao. Sau bữa trưa, viên thủ thư thường khởi đầu phần ô chữ, để rồi Harry sẽ hoàn tất nó vào sáng hôm sau. Khi tờ báo đến tay Harry, nó đã cũ mất hai ngày. Anh luôn bắt đầu từ các trang tin quốc tế, vì Harry muốn biết chiến tranh ở châu Âu đang diễn biến ra sao. Và nhờ đó mà anh biết tin về cuộc xâm lược nước Pháp, cũng như việc Neville Chamberlain đã từ chức Thủ tướng, và Winston Churchill đã kế nhiệm ông ta. Không phải lựa chọn số một của tất cả mọi người, cho dù Harry sẽ không bao giờ quên bài phát biểu của Churchill khi ông xuất hiện tại lễ trao phần thưởng tại trường Trung học phổ thông Bristol. Chàng thanh niên không có chút nghi ngờ vào về việc nước Anh đang có được đúng người dẫn dắt. Hết lần này tới lần khác, Harry nguyền rủa thực tế là anh đang làm phó thủ thư tại một nhà tù Mỹ chứ không phải một sĩ quan Hải quân Hoàng gia. Trong những giờ cuối ngày, khi ngay cả Harry cũng không tìm ra được việc gì mới để làm, anh lại cập nhật cuốn nhật ký của mình. -o Harry mất hơn một tháng để sắp xếp lại tất cả sách vào đúng thể loại của chúng: trước hết là sách văn học, sau đó là sách tư liệu. Trong tháng thứ hai, anh tách riêng chúng ra thành các chủng loại nhỏ hơn, để các tù nhân không còn phải phí thời gian lục lọi để tìm ba quyển sách duy nhất về nghề mộc có trên các giá sách. Anh giải thích với Lloyd rằng với các sách tư liệu, chủng loại quan trọng hơn tên tác giả nhiều. Lloyd nhún vai. Vào các buổi sáng Chủ nhật, Harry đều đặn đẩy xe thư viện đi quanh cả bốn khu buồng giam, thu lại các cuốn sách quá hạn mượn từ các tù nhân, một số chưa được trả từ hơn một năm trước. Anh đã lường trước một số tù nhân kỳ cựu ở khu D có thể tỏ vẻ hằn học, thậm chí phản ứng lại sự xâm nhập, song tất cả bọn họ đều muốn gặp anh chàng đã khiến Hessler bị chuyển tới Pierpoint. Sau cuộc điều trần với ủy ban quản lý, Hessler đã được đề nghị một vị trí cao cấp tại Perpoint, và anh ta chấp nhận việc thăng cấp vì nơi đó gần nhà anh ta hơn. Trong khi Harry chưa bao giờ tỏ vẻ anh có gì liên quan tới việc thuyên chuyển của Hessler, đó lại không phải là câu chuyện Quinn lan truyền từ tai nọ sang tai kia cho tới khi nó trở thành một huyền thoại. Trong những chuyến đi quanh các khu buồng giam để tìm lại những cuốn sách thất lạc, Harry thường thu thập được những giai thoại mà sau đó anh sẽ ghi lại vào nhật ký của mình ngay tối hôm ấy. Thỉnh thoảng ông quản giáo cũng ghé qua thư viện, và một trong những lý do là khi Harry xuất hiện trước ủy ban quản lý, anh đã mô tả thái độ của ông Swanson với việc giáo dục tù nhân là dũng cảm, sáng tạo và có tầm nhìn xa. Harry không thể tin nổi ông quản giáo có thể hân hoan đón nhận từng ấy lời tán tụng vốn ông ta không hề xứng đáng được nhận. Sau ba tháng đầu tiên của anh, số lần mượn sách tăng 14 phần trăm. Khi Harry hỏi ông quản giáo liệu anh có thể mở một lớp dạy đọc vào các buổi tối, Swanson đã do dự giây lát, nhưng rồi ưng thuận khi Harry nhắc lại những từ dũng cảm, sáng tạo và có tầm nhìn xa. Chỉ có ba tù nhân tham dự buổi học đầu tiên của Harry, và một trong ba người là Pat Quinn, người vốn đã biết đọc biết viết. Nhưng đến cuối tháng tiếp theo, số học viên của lớp đã tăng lên tới mười sáu, mặc dù vài người trong số này hầu như sẵn sàng làm bất cứ điều gì để được rời khỏi buồng giam một giờ vào buổi tối. Nhưng Harry đã giành được một hay hai thành công đáng kể với các tù nhân trẻ hơn, và liên tục được nhắc nhở rằng chỉ đơn thuần vì bạn đã không tới “đúng” trường, hoặc thậm chí chẳng hề tới trường, điều đó không có nghĩa là bạn ngu ngốc - hay ngược lại như Quinn đã nhắc nhở anh. Bất chấp tất cả những hoạt động phát sinh thêm Harry đã đề xuất ra, anh nhận thấy mình vẫn còn thời gian, vậy là anh đặt ra cho mình nhiệm vụ đọc thêm hai cuốn sách mới mỗi tuần. Sau khi đã chinh phục hết số đầu sách kinh điển ít ỏi của văn học Mỹ có trong thư viện, anh chuyển sự chú ý sang các đầu sách về tội phạm, vốn là thể loại được ưa thích nhất trong giới tù nhân, chiếm đến bảy trong số mười chín giá sách của thư viện. Harry vẫn luôn ưa thích Conan Doyle, và anh định sẽ chuyển sự chú ý sang các đối thủ người Mỹ của ông. Anh bắt đầu bằng Chúng đang dần lớn lên của Erie Stanley Gardner, trước khi chuyển sang Giấc ngủ dài của Raymond Chandler. Anh cảm thấy chút tội lỗi khi thấy mình ưa thích chúng đến thế. Thầy Holcombe sẽ nghĩ gì đây? Trong những giờ cuối cùng trước khi thư viện đóng cửa, Harry sẽ tiếp tục cập nhật vào nhật ký của anh. Một buổi tối nọ, anh rất ngạc nhiên khi Lloyd, lúc ấy đã đọc xong tờ báo, hỏi ông ta có thể đọc tập nhật ký được không. Harry biết Lloyd từng làm đại diện xuất bản tại New York khi còn tự do, và chính vì thế ông ta kiếm được chân thủ thư. Đôi khi ông ta vẫn nhắc đến tên các tác giả mà anh ta từng làm đại diện, phần lớn những người này Harry chưa từng nghe đến. Chỉ duy nhất một lần, Lloyd nói tới việc làm thế nào ông ta lại có mặt tại Lavenham, vừa nói vừa nhìn cửa canh chừng để đảm bảo không có ai nghe lén. “Đó là một chút không may,” Lloyd giải thích. “Do tin tưởng, tôi đã đầu tư tiền của một vài khách hàng vào thị trường chứng khoán, và khi mọi thứ diễn ra không được như dự kiến, tôi đành phải gánh chịu hậu quả.” Khi Harry kể lại câu chuyện với Quinn tối hôm đó, anh này ngước mắt nhìn lên trần. “Nhiều khả năng hơn là hắn ta đã tiêu sạch tiền vào những con ngựa rùa bò và những cô nàng chơi bời.” “Vậy thì tại sao lại phải đi vào chi tiết như thế,” Harry hỏi, “trong khi ông ta chưa bao giờ nhắc đến lý do khiến ông ta phải vào đây với bất kỳ ai khác?” “Đôi khi cậu ngây thơ quá,” Quinn nói. “Với cậu làm người đưa tin, Lloyd biết sẽ có nhiều cơ hội những người còn lại tin vào câu chuyện của hắn ta hơn. Hãy nhớ là cậu không bao giờ được thỏa thuận gì với con người này, vì hắn có sáu ngón đấy,” - một cách diễn đạt của tay móc túi được Harry ghi lại trong nhật ký của anh tối hôm đó. Nhưng anh không mấy để tâm tới lời khuyên của Quinn, một phần vì anh không thể hình dung ra nổi bất cứ hoàn cảnh nào mà anh lại có một thỏa thuận với Max Lloyd, ngoài việc quyết định xem đến lượt ai phải đi rót cà phê khi ông quản giáo ghé qua thư viện. -o Đến cuối năm đầu tiên của anh tại Lavenham, Harry đã viết kín ba quyển vở để ghi lại những gì anh quan sát được về cuộc sống trong tù, và anh chỉ có thể tự hỏi anh sẽ viết thêm được bao nhiêu trang nhật ký nữa trước khi kết thúc án tù. Anh lấy làm ngạc nhiên trước sự hứng thú của Lloyd, ông này luôn muốn được đọc những phần ghi chú tiếp theo trong tập nhật ký. Thậm chí ông ta còn đề xuất xin được phép đưa những tập ghi chép của Harry tới một nhà xuất bản. Harry bật cười. “Tôi không hình dung nổi sẽ có ai đó có hứng thú với những dòng ghi chép vụn vặt của tôi.” “Cậu sẽ phải ngạc nhiên đấy,” Lloyd nói. Emma Barrington 1939 - 1941 “S 6 ebastian Arthur Clifton,” Emma nói, trao cậu bé đang ngủ say cho bà nội cậu. Khuôn mặt Maisie sáng bừng lên khi bà lần đầu tiên đón lấy cháu nội trên tay mình. “Họ không để cháu đến gặp cô trước khi cháu bị đưa lên Scotland,” Emma nói, không hề giấu giếm vẻ bất bình. “Chính vì thế cháu đến gặp cô ngay khi cháu về tới Bristol.” “Cháu tử tế quá,” Maisie nói trong lúc bà chăm chú ngắm nghía đứa bé, cố tự thuyết phục bản thân rằng Sebastian thừa hưởng mái tóc sáng và đôi mắt xanh của chồng bà. Emma ngồi xuống bên bàn ăn trong bếp, mỉm cười và nhấp từng nhấp trà: Earl Grey, thật điển hình làm sao việc bà Maisie nhớ chi tiết đó. Và sandwich dưa chuột và cá hồi, món ưa thích của Harry, từng đó hẳn phải làm bà hết sạch định mức phiếu thực phẩm. Trong lúc đưa mắt nhìn quanh phòng, mắt cô dừng lại trên mặt bệ lò sưởi, nơi cô nhìn thấy một bức ảnh có tông màu nâu đỏ chụp một binh nhì từ giai đoạn thế chiến thứ nhất. Emma ước gì cô có thể nhìn thấy màu tóc của người lính, được che lấp dưới chiếc mũ sắt, hay thậm chí màu mắt của ông ta. Liệu chúng có màu xanh, giống như mắt Harry, hay màu nâu, giống cô? Arthur Clifton trông rạng ngời trong bộ quân phục của ông. Cái cằm vuông và vẻ kiên quyết trong đôi mắt cho Emma thấy ông đã rất tự hào được phụng sự đất nước mình. Cái nhìn của cô chuyển sang một bức ảnh mới hơn chụp Harry đang hát trong ban đồng ca trường học tại St. Bede, ngay trước khi anh vỡ giọng, và cạnh đó, nằm dựa vào tường, là một chiếc phong bì mang nét chữ không lẫn vào đâu được của Harry. Cô đoán đây là lá thư cuối cùng anh viết cho mẹ trước khi chết. Cô tự hỏi liệu cô Maisie có cho phép cô được đọc lá thư này không. Emma đứng dậy và bước tới bên bệ lò sưởi, và ngạc nhiên khi thấy phong bì vẫn chưa được bóc. “Cô rất tiếc khi biết cháu đã phải rời khỏi Oxford,” Maisie rụt rè lên tiếng, khi bà thấy Emma đang nhìn chăm chăm vào chiếc phong bì. “Lựa chọn giữa việc học tiếp với việc có đứa con của Harry, không có gì phải bàn ở đây,” Emma nói, đôi mắt vẫn nhìn chằm chằm vào lá thư. “Và Sir Walter nói với cô rằng anh trai Giles của cháu đã gia nhập trung đoàn Wessex, nhưng thật đáng buồn đã...” “Cháu thấy cô có một lá thư của Harry,” Emma ngắt lời bà, không thể kìm mình lâu hơn nữa. “Không phải, đó không phải là của Harry,” Maisie nói. “Đó là thư của trung úy Thomas Bradshaw, cùng phục vụ với nó trên tàu Devonian.” “Trung úy Bradshaw liệu có gì để nói đây?” Emma hỏi, ý thức được rằng chiếc phong bì vẫn chưa được mở ra. “Cô không biết,” Maisie nói. “Một ông bác sĩ tên là Wallace đã gửi nó cho cô, và nói rằng đó là thư phân ưu. Cô không cảm thấy mình cần được nhắc nhở nhiều hơn nữa về cái chết của Harry, vậy nên cô chưa bao giờ mở nó ra.” “Nhưng biết đâu lá thư ấy lại chẳng cho biết đôi điều về những gì đã xảy ra trên tàu Devonian?” “Cô không nghĩ vậy,” Maisie trả lời, “nói cho cùng, hai người họ cũng mới chỉ quen nhau được vài ngày.” “Cô có muốn cháu đọc lá thư cho cô nghe không, cô Clifton?” Emma hỏi, hiểu rõ có thể Maisie sẽ bối rối về việc bà không biết đọc. “Không, cảm ơn cháu,” Maisie đáp. “Nói cho cùng, làm vậy cũng chẳng đưa Harry trở lại được, phải không nào?” “Cháu đồng ý,” Emma nói, “nhưng cô có thể cho phép cháu được đọc nó vì sự bình yên của chính tâm hồn cháu.” “Với việc bọn Đức liên tục ném bom bến tàu ban đêm,” Maisie nói, “cô hy vọng công ty Barrington đã không bị ảnh hưởng quá nhiều.” “Công ty cháu vừa tránh khỏi bị trúng bom trực tiếp,” Emma nói, miễn cưỡng chấp nhận sự thật là cô sẽ không được cho phép đọc lá thư. “Mà cô biết đấy, cháu ngờ rằng bọn Đức dám thả dù chỉ một quả bom xuống ông nội cháu.” Maisie bật cười, và trong giây lát Emma nghĩ đến việc lén cầm lấy chiếc phong bì trên mặt bệ lò sưởi và bóc ra trước khi Maisie kịp ngăn cô lại. Nhưng Harry sẽ không bao giờ tán thành điều đó. Nếu Maisie rời khỏi phòng, dù chỉ một chút thôi, Emma có thể dùng cái siêu đun nước đang bốc hơi để bóc phong bì, kiểm tra chữ ký và để nó trở lại chỗ cũ trước khi bà quay lại. Nhưng cứ như bà Maisie có thể đọc được suy nghĩ của cô, vì bà cứ đứng kè kè bên bệ lò sưởi mà không hề nhúc nhích. “Ông nội có nói với cháu cần phải gửi lời chúc mừng cô,” Emma nói, vẫn chưa chịu bỏ cuộc. Maisie đỏ mặt, và bắt đầu kể về vị trí bà mới được bổ nhiệm tại khách sạn Grand. Đôi mắt Emma vẫn không rời khỏi cái phong bì. Cô cẩn thận xem xét thật kỹ các chữ cái M, C, S, H và L trên dòng địa chỉ, biết rằng cô sẽ phải ghi nhớ hình ảnh của chúng trong đầu như một bức ảnh chụp cho tới khi cô quay về Manor House. Khi Maisie đưa trả cậu bé Sebastian lại cho cô, giải thích rằng bà rất tiếc phải quay lại làm việc, Emma miễn cưỡng đứng dậy, nhưng chỉ sau khi đã nhìn qua cái phong bì thêm một lần cuối cùng. Trên đường quay về Manor House, Emma cố giữ hình ảnh của những nét chữ viết tay đó trong đầu, thầm biết ơn vì Sebastian đang ngủ rất say. Ngay khi chiếc xe vừa dừng bánh trên con đường rải sỏi phía trước bậc thềm, Hudson đã tới mở cửa sau cho Emma ra khỏi xe và bế con trai cô vào nhà. Cô bế con lên thẳng phòng của đứa trẻ, nơi Nanny Barrington đang đợi hai mẹ con. Trước sự ngạc nhiên của Nanny, Emma chỉ hôn lên trán cậu bé rồi rời đi mà không nói một lời. Khi về đến phòng mình, Emma mở khóa ngăn kéo giữa ở dưới bàn viết của cô, lấy ra một tập thư mà Harry đã viết cho cô qua nhiều năm. Thứ đầu tiên cô gái kiểm tra là chữ H viết hoa trên chữ ký của Harry, đơn giản và rắn rỏi, giống hệt chữ H trong dòng chữ Still House Lane trên chiếc phong bì chưa mở của cô Maisie. Phát hiện này giúp cô thêm tin tưởng trong cuộc điều tra. Tiếp theo, Emma tìm một chữ C hoa, và cuối cùng tìm thấy trên một tấm thiếp Giáng sinh, và tìm thêm được cả chữ M trên từ Merry: cũng là chữ M và chữ C như trong Mrs. Clifton trên phong bì. Harry chắc chắn vẫn còn sống, cô không ngừng bật lên thành tiếng. Tìm chữ B hoa trong từ Bristol là chuyện dễ dàng, song từ Anh thì khó hơn, cho tới khi cô tìm đến lá thư anh đã viết cho cô từ nước Ý khi cả hai người còn học phổ thông. Cô phải mất hơn một giờ đồng hồ để cắt ra đủ ba mươi chín chữ cái và hai chữ số, trước khi cô có thể ghép lại đúng địa chỉ trên phong bì. Mrs M.Clifton 27 Still House Lane Bristol England Emma kiệt sức nằm vật ra giường. Cô không biết Thomas Bradshaw là ai, nhưng một điều đã rõ: lá thư chưa mở dựng trên bệ lò sưởi tại nhà Maisie là do Harry viết, và vì một lý do nào đó mà chỉ anh biết rõ nhất, anh không muốn cô biết là anh vẫn còn sống. Cô tự hỏi liệu anh có đổi ý không khi biết rằng lúc đó, cô đang mang thai đứa con của anh, trước khi anh dấn thân vào chuyến đi định mệnh đó. Emma rất muốn chia sẻ cái tin rằng Harry có thể vẫn chưa chết với mẹ cô, ông nội, Grace và tất nhiên là cả cô Maisie, nhưng cô nhận ra mình cần giữ im lặng cho tới khi có bằng chứng rõ ràng hơn một lá thư chưa mở. Một kế hoạch bắt đầu định hình trong đầu cô. -o Emma không xuống nhà ăn tối hôm đó mà ở lại trong phòng, cố đoán xem vì sao Harry lại muốn tất cả mọi người, trừ mẹ anh, tin rằng anh đã chết tối hôm đó. Khi cô lên giường ngủ lúc quá nửa đêm một chút, Emma chỉ có thể nghĩ được rằng những gì anh làm chắc hẳn vì vấn đề danh dự. Có lẽ anh, chàng trai tội nghiệp, ngốc nghếch đầy ảo tưởng đó đã nghĩ rằng làm như thế sẽ giúp cô được giải phóng khỏi mọi ràng buộc cô có thể cảm thấy với anh. Chẳng lẽ anh không nhận ra rằng từ khoảnh khắc đầu tiên cô nhìn thấy anh, vào bữa tiệc sinh nhật anh trai cô khi cô mới lên mười, là sẽ chẳng bao giờ có người đàn ông nào khác trong đời cô nữa sao? Gia đình Emma đã rất phấn khởi khi cô và Harry đính hôn tám năm sau đó, với ngoại lệ duy nhất là bố cô, người suốt bao nhiêu năm đã sống trong sự dối lừa - một lời dối lừa đã không bị phơi bày cho tới tận ngày cưới của họ. Hai người họ đang đứng trước ban thờ, sắp sửa đọc lời ước thề khi Già Jack đã đưa buổi lễ tới một hồi kết không thể ngờ và không ai lường trước được. Lời tiết lộ rằng bố Emma cũng có thể là bố Harry cũng không làm cô ngừng yêu Harry, và sẽ không bao giờ làm được điều đó. Không ai ngạc nhiên khi Harry xử sự như một chính nhân quân tử, trong khi bố Emma trung thành với tính cách của ông ta, và cư xử như một kẻ hèn nhát. Một người đứng thẳng đối diện với sự thật, người kia thì lẩn ra qua cửa sau phòng thay đồ lễ và biến mất dạng kể từ ngày đó. Harry đã nói rõ, từ rất lâu trước khi anh cầu hôn Emma, rằng nếu chiến tranh được tuyên bố, anh sẽ không do dự rời Oxford và gia nhập Hải quân. Anh là một người bướng bỉnh vào những lúc dễ chịu nhất, và giờ đang là thời điểm tồi tệ nhất. Emma hiểu chẳng ích gì khi tìm cách can gián anh, vì không điều gì cô có thể nói hay làm lại khiến anh đổi ý được. Anh cũng đã cảnh báo cô rằng anh sẽ không nghĩ tới chuyện trở lại Oxford cho tới khi quân Đức đã đầu hàng. Emma cũng đã rời Oxford sớm, nhưng không giống như Harry, cô không có lựa chọn nào khác. Với cô sẽ không có cơ hội để quay trở lại. Có thai là chuyện không được chấp nhận tại Sommerville, và lại càng không được tán đồng khi bà mẹ chưa kết hôn với bố đứa trẻ. Quyết định này hẳn đã làm mẹ cô đau khổ rất nhiều. Elizabeth Barrington từng rất mong muốn con gái bà có được bằng cấp đàng hoàng mà bà đã bị từ chối chỉ vì một lý do duy nhất đó là giới tính. Một tia sáng le lói phía chân trời một năm sau đó, khi em gái Grace của Emma dành được học bổng vào Girton College của Cambridge, và từ ngày nhập học ở đó, cô gái đã tỏ ra trội hơn cả những sinh viên nam xuất sắc nhất. Sau khi cái thai trong bụng Emma trở nên rõ ràng hơn, cô nhanh chóng được đưa tới lãnh địa của ông ngoại tại Scotland để sinh đứa con của Harry. Gia đình Barrington không sinh ra những đứa con ngoài giá thú, hay ít nhất là không phải ở Bristol. Sebastian đã bò khắp lâu đài trước khi cô con gái lưu lạc được phép quay trở về Manor House. Elizabeth muốn hai mẹ con ở lại Mulgerie cho tới khi chiến tranh kết thúc, nhưng Emma đã chịu quá đủ cảnh lẩn trốn ở tòa lâu đài heo hút xứ Scotland đó. Một trong những người đầu tiên cô tới thăm khi quay về West Country là ông nội cô, Sir Walter Barrington. Chính ông là người báo cho cô biết Harry đã gia nhập vào thủy thủ đoàn của chiếc Devonian, và dự kiến sẽ quay trở về Bristol trong vòng một tháng, vì anh dự định nhập ngũ với tư cách thủy thủ thường trên chiến hạm HMS Resolution. Harry đã không bao giờ trở về, và sáu tuần trôi qua trước khi cô được biết người mình yêu đã được an táng ngoài biển. Sir Walter đã đích thân tới gặp từng thành viên của gia đình để báo cho họ tin buồn. Ông bắt đầu từ bà Clifton, dù ông biết bà đã nhận được tin dữ từ bác sĩ Wallace, người chuyển cho bà lá thư của Thomas Bradshaw. Sau đó, ông di chuyển tới Scotland để báo tin cho Emma. Sir Walter ngạc nhiên khi thấy cháu gái mình không rơi một giọt nước mắt, nhưng khi đó chỉ đơn giản là Emma từ chối chấp nhận sự thật rằng Harry đã chết. Khi quay lại Bristol, Sir Walter đã tới gặp Giles và cho anh biết tin. Người bạn thân nhất của Harry đã chết lặng đi vì quá đau buồn, và không ai trong nhà có thể nói hay làm gì để có thể an ủi được anh. Khi Lord Harvey và phu nhân biết tin về cái chết của Harry, hai ông bà đã tỏ ra rất kiên cường. Một tuần sau, khi cả gia đình dự lễ tưởng niệm đại úy Jack Tarrant tại trường Trung học phổ thông Bristol, Lord Harvey nói ông thấy mừng vì Già Jack sẽ không bao giờ biết chuyện đã xảy đến với truyền nhân của ông. Người duy nhất trong nhà mà Sir Walter từ chối tới gặp là con trai Hugo của ông. Ông lấy cớ không biết làm cách nào để liên lạc được với ông ta, nhưng khi Emma quay về Bristol, ông thú thực với cháu gái rằng cho dù có biết, hẳn ông cũng không buồn nhọc công, và nói thêm rằng bố cô hẳn sẽ là người duy nhất sẽ thấy vui mừng vì Harry đã chết. Emma không nói gì, song cô không nghi ngờ gì điều ông mình vừa nói là đúng. Nhiều ngày trôi qua kể từ khi Emma tới thăm cô Maisie ở Still House Lane, cô dành ra hàng giờ liền ở một mình trong phòng, không ngừng suy nghĩ xem cô nên làm gì với phát hiện mới của mình. Cô đi đến kết luận cô sẽ không có cách nào để biết được nội dung của bức thư đang nằm trên bệ lò sưởi từ hơn một năm nay mà không làm tổn hại đến mối quan hệ của cô với cô Maisie. Dẫu vậy, Emma đã quyết tâm không chỉ chứng minh cho tất cả thấy rằng Harry vẫn còn sống, mà cô sẽ tìm anh, cho dù anh đang ở đâu chăng nữa. Với ý định đó trong đầu, cô hẹn gặp ông nội mình một lần nữa. Nói cho cùng, Sir Walter Barrington là người duy nhất ngoài Maisie đã gặp bác sĩ Wallace, vậy thì ông chắc chắn sẽ là cơ hội tốt nhất của cô để vén lên tấm màn bí mật về thân thế chính xác của Thomas Bradshaw. C 7 ó một điều học được từ ông nội mà Emma đã thấm nhuần từ khi còn bé là không bao giờ được đến muộn một cuộc hẹn. Điều đó sẽ tạo nên những ấn tượng sai lầm, ông từng nói với cô; đấy là nếu như cháu muốn được coi trọng. Ghi nhớ điều đó trong đầu, Emma rời Manor House lúc chín giờ hai lăm phút sáng hôm đó, và được lái xe đưa qua cánh cổng khu bến tàu của công ty Barrington đúng mười giờ kém tám phút. Chiếc xe đỗ lại bên ngoài Barrington House lúc mười giờ kém sáu phút. Khi cô bước ra khỏi thang máy ở lầu năm và bước theo hành lang tới văn phòng chủ tịch công ty, đồng hồ đã chuyển sang mười giờ kém hai phút. Thư ký của Sir Walter, cô Beale, mở cửa phòng của ông đúng lúc chiếc đồng hồ đặt trên bệ lò sưởi bắt đầu điểm chuông lúc mười giờ. Ông chủ tịch mỉm cười, đứng lên từ sau bàn làm việc và bước tới chào Emma với một nụ hôn lên hai bên má. “Thế cô cháu gái ưa thích của ông dạo này thế nào rồi?” ông hỏi trong khi dẫn cô tới một chiếc ghế êm ái kê cạnh lò sưởi. “Grace vẫn ổn cả, ông nội,” Emma nói. “Học hành xuất sắc tại Cambridge, cháu được nghe thế, và gửi tới ông lời chào yêu mến.” “Đừng có hỗn với ta thế chứ quý tiểu thư,” ông nói, đáp lại nụ cười của cô cháu gái. “Thế còn Sebastian, đứa chắt cưng nhất của ta, thằng bé có khỏe không?” “Cậu chắt trai duy nhất của ông,” Emma nhắc nhở ông nội trong khi ngồi xuống chiếc ghế tựa bọc da. “Vì cháu không bế thằng bé theo, hẳn là cháu có chuyện gì đó nghiêm túc muốn trao đổi với ông.” Vậy là màn chào hỏi xã giao đã xong. Emma biết rằng hẳn là Sir Walter đã sắp xếp trước một khoảng thời gian cho cuộc gặp. Cô Beale từng nói với cô rằng các vị khách được dành cho khoảng mười lăm, ba mươi phút cho đến một giờ, tùy thuộc vào việc ông coi họ quan trọng thế nào. Gia đình cũng không nằm ngoài nguyên tắc này, ngoại trừ Chủ nhật. Emma có một số câu hỏi cô cần câu trả lời, vậy nên cô hy vọng ông nội dành cho mình ít nhất nửa giờ đồng hồ. Cô ngả người tựa vào lưng ghế, cố thả lỏng, vì cô không muốn ông nội hiểu ra lý do thực sự cô muốn gặp ông. “Ông có nhớ cái lần mà ông nhọc công đi tới tận Scotland,” cô bắt đầu nói, “để báo cho cháu biết Harry bị chết ngoài biển không? Cháu e là lúc bấy giờ cháu đang ở trạng thái sốc đến mức cháu không thể nghe được hết toàn bộ câu chuyện, vì thế cháu hy vọng rằng ông có thể kể cho cháu biết thêm chút ít về những ngày cuối cùng của anh ấy.” “Tất nhiên rồi, cháu yêu,” Sir Walter nói đầy thông cảm, “Mong là trí nhớ của ông vẫn ổn cả. Có điều gì cháu đặc biệt muốn biết không?” “Ông có nói với cháu rằng Harry đã ghi tên làm sĩ quan thứ tư trên tàu Devonian sau khi anh ấy từ Oxford tới đây.” “Đúng rồi. Nhờ có ông bạn cũ của ông, thuyền trưởng Havens, đã tạo điều kiện đấy, và ông ấy là một trong số ít người sống sót sau thảm kịch đó. Mới đây, khi ông tới thăm ông ấy, ông thuyền trưởng nói về Harry với rất nhiều thiện cảm. Ông ấy mô tả cậu ta là một chàng trai can đảm, không chỉ đã cứu sống ông ấy sau khi tàu bị trúng ngư lôi, mà còn hy sinh bản thân khi tìm cách cứu người trưởng buồng máy.” “Có phải thuyền trưởng Havens được tàu Kansas Star vớt lên không ạ?” “Không, ông ấy được một tàu khác có mặt gần đó cứu, vì thế thật đáng buồn là ông ấy không bao giờ gặp lại Harry nữa.” “Vậy là ông ấy không tận mắt chứng kiến lễ an táng ngoài biển của Harry ạ?” “Ừ. Sĩ quan duy nhất của tàu Devonian có mặt bên Harry khi cậu ấy chết là một người Mỹ, trung úy Thomas Bradshaw.” “Ông kể với cháu là có một ông bác sĩ Wallace đã chuyển thư của trung úy Bradshaw cho cô Clifton.” “Đúng thế. Bác sĩ Wallace là bác sĩ chính trên tàu Kansas Star. Ông ấy cam đoan với ông là ông ấy cùng đồng nghiệp đã làm tất cả những gì có thể để cứu lấy tính mạng Harry.” “Bradshaw có viết thư cho ông không?” “Không, chỉ cho người thân nhất với nạn nhân thôi, nếu ông nhớ đúng lời bác sĩ Wallace đã nói.” “Vậy ông không thấy lạ khi trung úy Bradshaw không viết thư cho cháu sao?” Sir Walter im lặng một lát. “Cháu biết không, ông thực sự chưa từng nghĩ về chuyện đó. Có lẽ Harry chưa bao giờ nhắc đến cháu với Bradshaw. Cháu cũng biết cậu ấy có thể kín tiếng thế nào rồi còn gì.” Emma vẫn hay nghĩ tới điều này, nhưng rồi cô nhanh chóng hỏi tiếp. “Ông có đọc lá thư anh ta gửi cho cô Clifton không ạ?” “Không, ông đã không đọc. Nhưng ông thấy nó trên bệ lò sưởi khi ông đến thăm cô ấy ngày hôm sau.” “Ông có cho rằng bác sĩ Wallace biết Bradshaw đã viết gì trong lá thư đó không?” “Có. Ông ấy nói với ông đó là một lá thư phân ưu từ một sĩ quan đồng nghiệp cùng phục vụ với Harry trên tàu Devonian.” “Giá như cháu có thể gặp được trung úy Bradshaw,” Emma thăm dò. “Ông không biết cháu có thể làm vậy bằng cách nào, cháu yêu,” Sir Walter nói, “trừ phi Wallace giữ liên lạc với anh ta.” “Ông có địa chỉ nào của bác sĩ Wallace không ạ?” “Ông chỉ có thông tin trên tàu Kansas Star thôi.” “Nhưng chắc hẳn là họ đã ngừng các chuyến đi tới Bristol sau khi chiến tranh nổ ra rồi.” “Không đâu, chừng nào vẫn còn những người Mỹ mắc kẹt tại Anh sẵn sàng trả giá trên trời để quay về nhà.” “Chẳng phải như thế là chấp nhận mạo hiểm không cần thiết, với từng ấy tàu ngầm Đức đang tuần tiễu trên Đại Tây Dương sao?” “Không đâu, chừng nào nước Mỹ còn giữ vị thế trung lập,” Sir Walter nói. “Điều cuối cùng Hitler muốn là khơi mào cuộc chiến với người Mỹ chỉ vì một tàu ngầm của ông ta bắn chìm một tàu chở khách của Mỹ.” “Ông có biết liệu tàu Kansas Star có kế hoạch quay lại Bristol trong tương lai gần không ạ?” “Không, nhưng ông có thể biết được một cách dễ dàng thôi.” Ông lão rời khỏi ghế và chậm rãi bước tới bên bàn làm việc của mình. Ông bắt đầu giở qua từng trang tập thời gian biểu đón tàu hàng tháng của bến cảng. “À, đây rồi,” cuối cùng ông nói. “Nó sẽ rời bến New York sau khoảng bốn tuần nữa, và dự kiến sẽ cập bến Bristol vào ngày mười lăm tháng Mười một. Nếu cháu hy vọng tìm gặp ai đó trên tàu, hãy nhớ con tàu sẽ không nấn ná tại đây lâu đâu, vì đây là nơi nó có nguy cơ bị tấn công rất cao.” “Cháu có được phép lên tàu không?” “Không đâu, trừ khi cháu là thành viên thủy thủ đoàn hay tìm một việc làm, và thẳng thắn mà nói, ông không thể hình dung ra cháu làm thủy thủ trên boong hay nhân viên phục vụ cocktail.” “Vậy thì làm thế nào cháu có thể gặp được bác sĩ Wallace?” “Cháu sẽ chỉ có cách đứng đợi ngoài bến tàu và hy vọng ông ta lên bờ. Gần như ai cũng làm thế sau một chuyến đi dài. Nếu ông ta có mặt trên tàu, ông tin chắc cháu sẽ tìm gặp được. Nhưng đừng quên, Emma, Harry đã chết được hơn một năm nay, vì thế Wallace rất có thể không còn là bác sĩ trên con tàu này nữa.” Emma cắn môi. “Nhưng nếu cháu muốn ông thu xếp một cuộc gặp riêng với thuyền trưởng, ông sẽ sẵn lòng. “Dạ không ạ,” Emma vội nói, “không quan trọng đến vậy đâu ạ.” “Nếu cháu đổi ý...” Sir Walter bắt đầu nói, vì ông vừa đột nhiên hiểu ra Emma coi chuyện này quan trọng tới mức nào. “Không, cháu cám ơn ông, ông nội,” cô nói trong khi đứng lên. “Cảm ơn ông vì đã dành cho cháu nhiều thời gian đến vậy.” “Vẫn chưa phải là nhiều đâu,” ông lão nói. “Ông ước gì cháu ghé qua thường xuyên hơn. Và lần sau hãy nhớ mang Sebastian theo đấy,” ông nói thêm trong khi tiễn cháu gái ra cửa. Sir Walter không còn chút nghi ngờ nào về nguyên do cô cháu gái đến đây gặp ông. -o Ngồi trong xe trên đường quay về Manor House, một câu nói cứ vang mãi trong đầu Emma. Cô nhẩm đi nhẩm lại từng từ, giống như một cây kim của máy quay đĩa bị vấp trên một rãnh đĩa hát. Về đến nhà, cô lên ngay phòng trẻ để tìm Sebastian. Cậu bé con đã chán ngấy trò ngựa gỗ, và thèm được bế ẵm, nhưng chỉ sau khi đã khóc lóc hờn dỗi một chút. Sau bữa trưa, cậu bé cuộn tròn lại như một chú mèo đã thỏa mãn, và chìm vào giấc ngủ ngon lành. Nanny bế cậu bé lên giường trong lúc Emma gọi lái xe. “Đưa tôi quay lại Bristol, chú Hudson.” “Đến đâu, thưa cô?” “Khách sạn Grand.” -o- “Cháu muốn cô làm gì cơ?” Maisie hỏi. “Nhận cháu vào làm nhân viên phục vụ.” “Nhưng tại sao?” “Cháu có thể không nói được không ạ.” “Cháu có biết công việc đó vất vả thế nào không?” “Không ạ,” Emma thừa nhận, “nhưng cháu sẽ không làm cô thất vọng.” “Vậy bao giờ cháu muốn bắt đầu?” “Ngày mai ạ.” “Ngày mai?” “Vâng.” “Trong bao lâu?” “Một tháng.” “Giờ hãy cho phép cô được tóm lại nhé,” Maisie nói. “Cháu muốn cô huấn luyện cho cháu làm nhân viên phục vụ, bắt đầu từ ngày mai, và cháu sẽ kết thúc sau một tháng, nhưng cháu sẽ không nói cho cô biết vì sao?” “Đúng vậy ạ.” “Cháu có yêu cầu được trả lương không ?” “Không ạ,” Emma nói. “À, quả là nhẹ nhõm.” “Vậy khi nào cháu bắt đầu được ạ?” “Sáu giờ sáng mai.” “Sáu giờ ý ạ?” Emma thốt lên sửng sốt. “Có thể với cháu là một sự ngạc nhiên, Emma, nhưng cô có khách hàng cần được ăn no vào lúc bảy giờ để còn đến chỗ làm vào lúc tám giờ, vì vậy cháu sẽ phải đảm bảo có mặt tại chỗ làm lúc sáu giờ - tất cả các buổi sáng.” “Chỗ làm của cháu?” “Cô sẽ giải thích nếu cháu có mặt trước sáu giờ.” -o Emma không đi làm muộn một lần nào trong suốt hai mươi tám ngày sau đó, phần nhiều là nhờ có Jenkins gõ cửa phòng cô mỗi buổi sáng vào lúc 4 giờ 30 phút, và Hudson thả cô xuống cách lối ra vào của nhân viên khách sạn Grand chừng một trăm yard vào lúc 5 giờ 45 phút. Cô Dickens, là cái tên mà mọi nguời gọi cô, đã tận dụng năng lực diễn xuất của mình để đảm bảo không ai biết được cô là thành viên của nhà Barrington. Bà Clifton không hề dành cho Emma chút ưu ái nào khi cô để sánh một ít súp vào người một khách quen, thậm chí còn nghiêm khắc hơn khi cô để rơi vỡ tan tành một chồng đĩa ngay giữa phòng ăn. Thông thường giá trị của chồng đĩa sẽ được khấu trừ vào tiền lương của cô gái, nếu như cô được trả lương. Và phải mất một thời gian Emma mới học được cách dùng vai lách qua cánh cửa xoay trên lối ra vào bếp mà không va chạm với một nhân viên phục vụ khác đi theo hướng ngược lại. Ngoài những chuyện đó ra, Maisie nhanh chóng nhận ra bà chỉ phải dạy Emma mỗi thứ một lần duy nhất, và cô không bao giờ quên điều gì. Bà cũng rất ấn tượng trước cách Emma có thể bày bàn ăn nhanh chóng đến thế, cho dù trước đây cô chưa từng dọn bàn bao giờ. Và trong khi phần lớn những người mới học việc phải mất vài tuần để nắm được thành thạo các kỹ năng phục vụ đồ bạc, một số người thậm chí chẳng bao giờ học nổi, Emma chỉ cần đến cuối tuần thứ hai là đã không còn cần ai đi theo giám sát. Đến cuối tuần thứ ba của cô, Maisie ước gì cô không rời đi, và đến cuối tuần thứ tư, cả một số khách hàng quen cũng chia sẻ cảm nghĩ đó, những người này nhất định chỉ yêu cầu cô Dickens phục vụ họ. Maisie bắt đầu lo lắng về việc phải giải thích thế nào với giám đốc khách sạn khi cô Dickens xin thôi việc chỉ sau một tháng vào làm. “Cô có thể nói với ông Hurst là cháu đã được đề nghị một công việc tốt hơn, với mức lương cao hơn,” Emma nói trong lúc cô gấp bộ đồng phục của mình lại. “Ông ấy hẳn sẽ không vui đâu,” Maisie nói. “Có lẽ sẽ dễ hơn nếu cháu là một người vô dụng, hoặc chí ít cũng đến muộn một đôi lần.” Emma bật cười, và cẩn thận đặt chiếc mũ trắng nhỏ của mình lên trên bộ đồng phục một lần cuối cùng. “Còn điều gì tôi có thể làm được cho cô không, cô Dickens?” Maisie hỏi. “Vâng, có đấy ạ,” Emma nói. “Cháu cần một lá thư giới thiệu.” “Để xin một chỗ làm không được trả lương nữa chăng?” “Đại loại là như thế ạ,” Emma trả lời, cảm thấy hơi có lỗi vì không thể cho mẹ Harry biết ý định bí mật của cô. “Vậy cô sẽ đọc một thư giới thiệu, cháu sẽ viết, và cô sẽ ký tên,” bà nói, đưa cho Emma một tờ giấy thư tín chính thức của khách sạn. “Kính gửi bất cứ ai liên quan,” Maisie bắt đầu. “Trong quãng thời gian ngắn...” “Cháu có thể đề ra ngoài từ “ngắn” được không ạ?” Emma hỏi. Maisie mỉm cười. “Trong quãng thời gian cô Dickens làm việc cùng chúng tôi ở khách sạn Grand,” - Emma viết là “cô Barrington”, nhưng không nói gì với bà - “cô đã chứng tỏ mình là một người làm việc chăm chỉ, hiệu quả và gây được thiện cảm với cả khách hàng cũng như đội ngũ nhân viên. Kỹ năng phục vụ của cô là rất ấn tượng, và khả năng học hỏi công việc của cô đã thuyết phục được tôi rằng bất cứ cơ sở nào cũng sẽ rất may mắn có được cô trong đội ngũ nhân viên của mình. Chúng tôi lấy làm tiếc không giữ được cô ở lại, và nếu có lúc nào đó cô muốn quay lại khách sạn này, chúng tôi sẽ vui mừng chào đón cô.” Emma mỉm cười khi cô đưa lại tờ giấy cho bà. Maisie ký tên bà lên trên dòng chữ Phụ trách nhà hàng. “Cháu cảm ơn cô,” Emma nói, giang rộng hai cánh tay ôm lấy bà. “Cô không biết cháu đang định làm gì nữa cháu yêu,” Maisie nói sau khi Emma đã buông bà ra, “nhưng cho dù đó có là điều gì đi chăng nữa, cô cũng chúc cháu may mắn.” Emma những muốn nói với bà, cháu sắp sửa lên đường tìm kiếm con trai cô, và cháu sẽ không trở về cho đến khi tìm thấy anh ấy. E 8 mma đã đứng trên bến tàu được hơn một tiếng đồng hồ khi cô trông thấy tàu Kansas Star tiến vào cảng, nhưng phải thêm một giờ nữa trôi qua con tàu mới chính thức cập bến. Trong quãng thời gian đó, Emma nghĩ về quyết định cô đã chọn, và đã bắt đầu băn khoăn liệu cô có đủ can đảm để thực hiện nó đến cùng hay không. Cô gái cố gạt ra khỏi tâm trí mình chuyện tàu Athenia bị bắn chìm vài tháng trước, cũng như khả năng cô sẽ thậm chí chẳng bao giờ tới được New York. Cô đã viết một lá thư dài cho mẹ mình, cố giải thích vì sao cô sẽ đi vắng vài tuần - nhiều nhất là ba - và hy vọng bà sẽ hiểu. Nhưng cô lại không thể viết thư cho Sebastian để bé biết rằng cô đang đi tìm bố nó, và cô cũng đã thấy nhớ con trai. Cô không ngừng tự thuyết phục bản thân rằng cô làm việc này vì con trai và cũng vì chính bản thân mình. Sir Walter một lần nữa đã ngỏ lời giúp giới thiệu cô với thuyền trưởng của tàu Kansas Star, nhưng Emma đã khéo léo từ chối, vì điều đó không phù hợp với dự định giữ kín danh tính của cô. Ông cũng đã cung cấp cho cô một mô tả khá mơ hồ về bác sĩ Wallace, và cô có thể đoan chắc rằng không có ai trông dù chỉ giống thế một chút thôi đã rời tàu lên bờ sáng hôm ấy. Tuy nhiên, Sir Walter đã kịp cung cấp cho cô hai thông tin đáng giá nữa. Tàu Kansas Star sẽ rời bến vào cơn thủy triều cuối cùng của đêm đó. Và người quản lý tài chính của tàu thường có mặt tại phòng của ông ta từ hai đến năm giờ vào các buổi chiều để hoàn tất các bản khai lên tàu. Quan trọng hơn, ông ta chính là người phụ trách việc tuyển mộ những việc làm không thuộc biên chế thủy thủ đoàn của tàu. Emma đã viết thư cho ông cô từ hôm trước để cảm ơn ông về sự giúp đỡ, song cô vẫn chưa cho ông biết cô đang định làm gì, cho dù cô có linh cảm ông sẽ tìm ra được. Sau khi chiếc đồng hồ tại Barrington House đánh hai tiếng chuông, và vẫn chưa có dấu hiệu nào của bác sĩ Wallace, Emma nhấc cái vali nhỏ của cô lên và quyết định đã tới lúc cần bước lên cầu ván. Bồn chồn bước lên đến mặt boong tàu, Emma hỏi người đầu tiên mặc đồng phục thủy thủ đoàn mà cô nhìn thấy đường đến phòng làm việc của người quản lý tài chính, và được hướng dẫn là đi xuống boong dưới đuôi. Cô nhìn thấy một hành khách đi xuống một cầu thang rộng, và đi theo bà ta xuống nơi cô đoán chắc hẳn là boong dưới, nhưng vì cô không biết đuôi tàu ở chỗ nào, Emma bèn đứng vào một hàng người dài trước bàn thông tin. Phía sau quầy có hai cô gái mặc đồng phục màu xanh sẫm và áo cánh trắng đang đứng. Họ cố gắng trả lời mọi câu hỏi của khách hàng trong khi cố giữ nụ cười thường trực trên mặt. “Thưa cô, tôi có thể giúp gì được cô?” Một trong hai người hỏi khi đến lượt Emma đứng đầu hàng. Cô nhân viên nhà tàu chắc hẳn nghĩ rằng cô cũng là một hành khách, và thực ra thì Emma cũng đã cân nhắc đến việc trả tiền mua vé cho chuyến đi tới New York, song cuối cùng đã quyết định rằng cô sẽ có nhiều cơ hội tìm ra điều cô cần biết hơn nếu đăng ký làm một thành viên trong thủy thủ đoàn. “Tôi có thể tìm thấy phòng làm việc của người quản lý tài chính ở đâu?” Cô hỏi. “Cánh cửa thứ hai bên tay phải, theo lối kia,” cô gái đứng sau quầy trả lời. “Cô không nhầm được đâu.” Emma đi theo hướng ngón tay cô nhân viên chỉ dẫn, và khi cô tới trước cánh cửa có ghi Quản lý tài chính, Emma hít một hơi thật sâu và gõ cửa. “Mời vào.” Emma mở cửa bước vào và trông thấy một sĩ quan ăn mặc lịch sự ngồi sau một bàn làm việc đầy ắp các loại biểu mẫu giấy tờ. Ông ta mặc áo sơ mi trắng để mở cúc cổ, áo sơ mi có hai cầu vai vàng ở hai bên. “Tôi có thể giúp gì được cô?” Ông ta hỏi bằng một khẩu âm cô chưa từng bao giờ nghe thấy, và cũng càng khó để hiểu được hơn nữa. “Tôi đang tìm một việc làm ở vị trí nhân viên phục vụ bàn, thưa ông,” Emma nói, hy vọng nghe giọng của cô giống với một trong các cô hầu gái tại Manor House. “Xin lỗi,” viên sĩ quan vừa nhìn xuống vừa nói. “Chúng tôi không cần thêm phục vụ bàn nữa. Chỗ làm duy nhất sẵn có là ở bàn thông tin.” “Tôi rất vui lòng được làm việc ở đó,” Emma nói, quay lại giọng nói bình thường của cô. Người quản lý tài chính quan sát cô kỹ lưỡng hơn. “Lương không