🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tôi Là Zlatan Ibrahimovic - Gã Du Mục Châu Âu, Kẻ Thách Thức Thời Gian - David Lagercrantz
Ebooks
Nhóm Zalo
TÔI LÀ ZLATAN IBRAHIMOVIĆ – Gã du mục châu Âu, Kẻ thách thức thời gian
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Giám đốc - Tổng biên tập: Mai Thị Thanh Hằng
Biên tập: Phan Thị Ánh Tuyết
Sửa bản in: Nguyễn Thị Thủy - Trần Thanh Thủy Trình bày và bìa: Jc Black
NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG
Địa chỉ: Số 175 Giảng Võ - Hà Nội
Điện thoại: 024 38515380; Fax: 024 38515381
Email: [email protected]
Website: www.nxblaodong.com.vn
Chi nhánh phía Nam
Số 85 Cách mạng Tháng Tám, Quận 1, Tp Hồ Chí Minh ĐT: 028 38390970; Fax: 028 39257205
LIÊN KẾT XUẤT BẢN
CÔNG TY CỔ PHẦN SÁCH THBOOKS
Địa chỉ: Số 51, ngõ 441, đường Lĩnh Nam, phường Lĩnh Nam, quận Hoàng Mai, Hà Nội
In 1.000 cuốn, khổ 16x24 cm, tại Công ty TNHH In - Thương mại Thuận Phát: Thôn Yên Vĩnh, Kim Chung, Hoài Đức, Hà Nội. Số xác nhận ĐKXB: 1536-2021/CXBIPH/07-84/LĐ. Số quyết định: 751/QĐ-NXB ngày 07/05/2021. Mã ISBN: 978- 604-320-410-5. In xong và nộp lưu chiểu năm 2021.
BÁO CHÍ THỤY ĐIỂN VIẾT VỀ “TÔI LÀ ZLATAN IBRAHIMOVIĆ - GÃ DU MỤC CHÂU ÂU, KẺ THÁCH THỨC THỜI GIAN”
“Đ
ây là cuốn sách mô tả một cách sống động và chân thật nhất về đời sống tầng lớp bình dân Thụy Điển từ góc nhìn của những người ở khu vực ngoại ô”.
- Gunnar Bolin, Kulturnytt
“Cuốn hút tuyệt vời. Tràn ngập cảm xúc”.
- Patrik Svensson, Sydsvenskan
“Cuốn sách của Zlatan sẽ là một cuốn sách kinh điển của Thụy Điển trong tương lai. Cuốn sách sẽ làm thay đổi Thụy Điển. Nó quá xuất sắc. Một bức tranh kinh điển về tuổi thơ”.
“Mỗi câu văn chứa đựng sự ngang tàng, tức giận nhưng thâm thúy, mạnh mẽ đến mức nó che mờ tất cả những cuốn sách khác ở Thụy Điển mà tôi đã đọc nhiều năm qua”.
- Lasse Anrell, Aftonbladet
“Chân thành lạ kỳ và kể chuyện hấp dẫn”.
- Jesper Högström, Expressen
“Chúa ơi, đây là một quả bom!”
- Simon Bank, Sportbladet
Xin tặng cuốn sách này cho gia đình và bạn bè tôi.
Cũng xin tặng cuốn sách này cho những đứa trẻ ngoài kia, những bạn nhỏ cảm thấy mình khác biệt và không thể hòa nhập với cuộc sống.
Với những em ấy, tôi xin dành một lời khuyên: Hãy cứ khác biệt, hãy là chính mình. Tôi đã sống như thế, và đã thành công.
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
C
âu lạc bộ: CLB
Cổ động viên: CĐV
Huấn luyện viên: HLV Huy chương Vàng: HCV Vận động viên: VĐV
DANH SÁCH NHÂN VẬT1
[1] Bảng danh sách nhân vật này được viết năm 2011. Đến nay, thông tin về sự nghiệp của các nhân vật trên đã có nhiều thay đổi. C
O ADRIAANSE: HLV đầu tiên của tôi ở Ajax.
ALEKSANDAR: Còn gọi là KEKI, em trai tôi, sinh năm 1986.
MASSIMO AMBROSINI: Thủ quân AC Milan. Tiền vệ. MICKE ANDERSSON: HLV của tôi tại Malmö FF.
ROLAND ANDERSSON: Cựu tuyển thủ Thụy Điển. HLV đầu tiên của tôi ở Malmö.
MARIO BALOTELLI: Tài năng trẻ của Inter Milan. Tiền đạo. Sau này chuyển sang Manchester City.
MARCO VAN BASTEN: Tiền đạo, tay săn bàn cự phách. Huyền thoại của AC Milan. Cầu thủ hay nhất thế giới 1992.
LEO BEENHAKKER: HLV, từng huấn luyện Real Madrid. Giám đốc thể thao của Ajax khi tôi gia nhập CLB này.
TXIKI BEGIRISTAIN: Giám đốc thể thao của Barcelona khi tôi gia nhập CLB này. Sau đó từ chức.
SILVIO BERLUSCONI: HLV. Ông chủ AC Milan. Cựu Thủ tướng Italia.
HASSE BORG: Cựu tuyển thủ quốc gia Thụy Điển. Giám đốc thể thao của Malmö FF trong thời gian tôi ở CLB.
FABIO CANNAVARO: Đến Juventus cùng lúc với tôi. Trung vệ. Cầu thủ hay nhất thế giới 2006. Vô địch World Cup cùng Italia.
FABIO CAPELLO: Nhà cầm quân quỷ dữ. HLV của tôi ở Juventus.
ANTONIO CASSANO: Tiền đạo AC Milan. Tuyển thủ quốc gia Italia.
TONY FLYGARE: Bạn thời thơ ấu. Tài năng trẻ của Malmö FF. LOUIS VAN GAAL: HLV. Giám đốc của Ajax thời gian sau này. ITALO GALBIATI: Cánh tay phải của CAPELLO tại Juventus. ADRIANO GALLIANI: Phó Chủ tịch AC Milan.
GENNARO GATTUSO: Tiền vệ AC Milan. Một chiến binh. Vô địch World Cup cùng Italia.
PEP GUARDIOLA: Cựu tiền vệ của Barcelona. HLV của tôi ở Barça.
HELENA: Bạn gái, vợ. Mẹ của các con tôi.
THIERRY HENRY: Bạn tôi ở Barcelona. Siêu sao người Pháp, cầu thủ ghi nhiều bàn nhất mọi thời đại cùng đội tuyển Pháp.
ANDRÉS INIESTA: Tiền vệ của Barcelona. Vô địch World Cup và EURO cùng đội tuyển Tây Ban Nha.
FILIPPO INZAGHI: Tiền đạo, chân sút hàng đầu. Ngôi sao của AC Milan. Tôi sống trong căn hộ của anh ấy ở Turin. Vô địch World Cup cùng Italia.
JURKA: Mẹ tôi. Sinh ở Croatia. Làm công việc dọn dẹp.
KAKÁ: Tiền vệ tấn công, ngôi sao toàn cầu. Cầu thủ hay nhất thế giới năm 2007. Chuyển nhượng từ AC Milan đến Real Madrid.
RONALD KOEMAN: HLV của tôi thời gian sau ở Ajax. JOAN LAPORTA: Chủ tịch Barcelona thời gian tôi ở CLB này.
HENKE LARSSON: Huyền thoại bóng đá Thụy Điển. Thi đấu cho Celtic và Barcelona. Giành Chiếc giày vàng năm 2001. Người dẫn dắt tôi ở giai đoạn đầu sự nghiệp.
BENGT MADSEN: Chủ tịch của Malmö FF thời gian tôi ở đây.
DANIEL MAJSTOROVIĆ: Thành viên đội tuyển Thụy Điển, chơi cho nhiều đội nước ngoài. Là một người bạn tốt.
ROBERTO MANCINI: HLV của tôi trong hai năm đầu ở Inter Milan.
MARCO MATERAZZI: Trung vệ. Cầu thủ rắn rỏi của Italia. Vô địch World Cup với Italia năm 2006. Đồng đội của tôi ở Inter Milan.
HASSE MATTISSON: Thủ quân của Malmö FF thời gian tôi còn ở CLB.
MAXIMILIAN: Con cả của tôi, sinh năm 2006.
MAXWELL: Cầu thủ Brazil. Hậu vệ. Một cầu thủ thanh lịch vô cùng. Đồng đội từ những ngày đầu tại Ajax của tôi. Sau đó chúng tôi còn thi đấu cùng nhau ở Inter Milan và Barcelona.
OLOF MELLBERG: Bạn, thành viên của đội tuyển Thụy Điển, hậu vệ. Đá cho Aston Villa và Juventus, cùng vài đội khác.
LIONEL MESSI: Ngôi sao toàn cầu. Nhân vật trung tâm của Barcelona. Gia nhập CLB từ năm 13 tuổi. Cầu thủ hay nhất thế giới năm 2009, 2010.
g
GUDMUNDUR METE: Một người bạn tốt. Thi đấu cùng ở Malmö FF.
MIDO: Người Ai Cập. Một người bạn tốt ở Ajax.
LUCIANO MOGGI: Giám đốc thể thao huyền thoại của Juventus. MASSIMO MORATTI: Ông trùm dầu hỏa, chủ của Inter Milan.
JOSÉ MOURINHO: Nhà cầm quân huyền thoại. Huấn luyện viên của tôi ở Inter Milan. Sau đó gia nhập Real Madrid.
PAVEL NEDVĚD: Tiền vệ, đồng đội của tôi ở Juventus. Cầu thủ hay nhất châu Âu năm 2003.
ALESSANDRO NESTA: Hậu vệ. Ngôi sao của AC Milan. Vô địch World Cup 2006 cùng Italia.
ALEXANDRE PATO: Tiền đạo trẻ của AC Milan. Người Brazil.
ANDREA PIRLO: Tiền vệ của AC Milan, sau được bán cho Juventus. Vô địch World Cup năm 2006 cùng Italia.
MINO RAIOLA: Người đại diện, nhà tư vấn của tôi. Bạn tôi.
ROBINHO: Tài năng tuyệt vời Brazil. Tiền đạo ở AC Milan, trước đó đá cho Real Madrid và Manchester City.
RONALDINHO: Siêu sao. Cầu thủ hay nhất 2004 và 2005. Đồng đội của tôi ở AC Milan.
RONALDO: Một trong những cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại. Người Brazil. Trung phong. Cầu thủ hay nhất thế giới năm 1996, 1997 và 2002. Thần tượng của tôi hồi nhỏ.
CRISTIANO RONALDO: Tiền đạo. Ngôi sao toàn cầu. Cầu thủ hay nhất thế giới năm 2008. Từng chơi cho Manchester United. Gia nhập Real Madrid với giá kỷ lục. (Tôi sẽ gọi anh này là
“Cristiano” trong sách, để phân biệt với Ronaldo thực thụ duy nhất).
SANDRO ROSELL: Người kế nhiệm Joan Laporta làm Chủ tịch Barcelona.
SANELA: Chị gái tôi, sinh năm 1979.
SAPKO: Anh trai tôi, sinh tại Bosnia năm 1973.
ŠEFIK: Bố tôi. Sinh ra ở Bosnia. Làm thợ xây và người quản lý tài sản.
THOMAS SJÖBERG: Cựu tuyển thủ Thụy Điển. Trợ lý HLV thời gian đầu của tôi ở Malmö FF.
THIJS SLEGERS: Nhà báo Hà Lan, một người bạn. RUNE SMITH: Nhà báo đầu tiên viết bài về tôi.
JOHN STEEN OLSEN: Người đại diện phát hiện ra tôi ở Malmö FF. Sau này bán tôi sang Ajax. Vẫn là bạn tôi sau này.
LILIAN THURAM: Hậu vệ. Chơi cùng tôi tại Juventus. Vô địch World Cup và EURO cùng đội tuyển Pháp.
DAVID TRÉZÉGUET: Tiền đạo và ngôi sao tuyển Pháp. Đồng đội của tôi tại Juventus. Vô địch World Cup và EURO cùng đội tuyển Pháp.
RAFAEL VAN DER VAART: Tiền vệ của Ajax.
PATRICK VIEIRA: Tiền vệ. Chơi cùng tôi tại Juventus, Inter Milan. Siêu sao. Bạn tôi. Vô địch World Cup và EURO cùng đội tuyển Pháp.
CHRISTIAN WILHELMSSON, CHIPPEN: Tiền vệ, thành viên đội tuyển Thụy Điển, bạn tôi.
VINCENT: Con trai thứ hai, sinh năm 2008.
XAVI: Tiền vệ tại Barcelona. Gia nhập CLB năm 11 tuổi. Vô địch World Cup và EURO cùng đội tuyển Tây Ban Nha.
GIANLUCA ZAMBROTTA: Hậu vệ. Một huyền thoại. Chơi cùng tôi tại Juventus và AC Milan. Vô địch World Cup 2006 cùng Italia.
ALEXANDER ÖSTLUND: Bạn, thành viên đội tuyển Thụy Điển. Chơi cho Southampton và vài CLB khác.
N
LỜI TỰA
ăm 2007, tôi ra trường và viết những bài báo thể thao đầu tiên. Một trong những nhân vật gợi cảm hứng cho tôi viết nhiều nhất là Zlatan Ibrahimovic, ngày ấy đang
tung hoành tại nước Ý trong màu áo Inter Milan. Từ Ajax đến Juventus và Inter, Zlatan đi đến đâu thì chức vô địch quốc gia theo anh đến đấy.
Mười ba năm trôi qua, khi ngồi viết lời tựa cho quyển tự truyện của Zlatan vừa được TH Books in lại, tôi giật mình nhận ra: Zlatan vẫn đang ở nước Ý, vẫn là thành phố Milan, và vẫn đang viết tiếp những chương mới trong bản anh hùng ca vô tiền khoáng hậu mang tên mình.
Như một thứ rượu hảo hạng, để càng lâu lại càng ngon, Zlatan vẫn đang chơi tốt ở tuổi 39. Không phải kiểu “tròn vai” như những lão tướng chờ ngày giải nghệ, mà là trụ cột ở một đội bóng lớn. Có anh, AC Milan nhìn thấy ngôi đầu bảng và triển vọng vô địch lần đầu tiên sau nhiều năm ủ dột. Có anh, một Serie A nhàm chán bởi sự thống trị của Juventus bỗng dưng hấp dẫn trở lại.
Nước Ý, ngày anh tới đây lần đầu vào năm 2004 để khoác áo Juventus, Gianluigi Donnarumma hãy còn là một cậu nhóc 5 tuổi. Bây giờ, Donnarumma đã là đội phó của AC Milan, từ khung thành bên mình chứng kiến Zlatan gieo rắc kinh hoàng cho khung thành bên kia.
Mười ba năm trôi qua, Zlatan từ nước Ý đã sang Tây Ban Nha, về lại Ý, sang Pháp, vượt eo biển Manche sang Anh, vượt Đại Tây Dương sang Mỹ rồi trở về lục địa già. Và vẫn như cái thuở tráng niên, anh đi tới đâu, chức vô địch theo anh tới đó. Ngoại trừ
ị g ạ
Barcelona thì ở tất cả đội bóng mà mình thi đấu, Zlatan luôn là cầu thủ quan trọng nhất. Dù theo đuổi phong cách chiến thuật nào, các HLV của Zlatan đều phải xây dựng đội bóng xung quanh Zlatan, và anh không bao giờ làm ai phải thất vọng.
Nhưng điều làm cho Zlatan trở nên độc nhất vô nhị lại không phải là tài năng, mà là cá tính của anh. Thứ cá tính được trui rèn từ những khu ổ chuột, từ quá khứ tăm tối của một cậu nhóc đi trộm xe đạp, từ một kẻ thiếu thốn tình thương của mẹ, phải sống chung với một người cha nghiện rượu - một nạn nhân của chiến tranh.
Có một cái gì đó giống Mike Tyson, Zlatan lớn lên cùng sự ngổ ngáo, vì biết nếu không gồng lên mà sống, ta có thể bị thế giới khắc nghiệt ngoài kia nuốt chửng. Zlatan có một sự tự tin không gì lay chuyển được. Khi Thụy Điển bị loại khỏi vòng play-off của World Cup 2014, Zlatan nói: “World Cup không có tôi thì còn gì đáng xem, nên thôi đừng chờ World Cup làm gì”.
Khi dự một sự kiện quảng bá cho trò chơi điện tử, anh nói: “Tôi không nghĩ trong game có cầu thủ nào ghi được những bàn phi thường như Zlatan ngoài đời, dù những trò chơi dạo này đã gần với thực tế lắm rồi”.
Những ngày đầu tiên ở Paris S.G, anh nói: “Rõ ràng tôi không biết nhiều về những đồng đội của mình, nhưng không sao, vì họ chắc chắn biết tôi là ai”. Những ngày cuối cùng ở đó, anh nói: “Tôi đã đến như một vị Vua, và ra đi như một huyền thoại”. Anh bảo chỉ có một cách duy nhất giữ chân anh ở lại Paris: thay tháp Eiffel bằng tượng Zlatan!
Về người theo kèm mình là trung vệ Steven Henchoz của Liverpool, anh nói: “Tôi ngoặt phải, anh ấy ngoặt theo. Tôi ngoặt trái anh ấy ngoặt theo. Nhưng khi tôi ngoặt trái lần nữa thì anh ta chạy đi mua hot dog”.
Về biệt danh “Mãnh hổ” của Radamel Falcao, anh nói: “Ai cần biệt danh làm gì cơ chứ? Người ta chỉ cần xem tôi thi đấu là phát rét rồi”.
Về món quà sẽ tặng vợ nhân ngày Valentine, anh nói: “Quà cáp gì? Cô ấy đã có Zlatan còn gì”.
Phát ngôn của Zlatan cũng giải trí như cách anh chơi bóng trên sân. Là một người có thân hình hộ pháp (cao 1,95 mét), nhưng Zlatan lại có những pha xử lý cực kỳ mềm mại, vì thần tượng của anh là Ronaldo “người ngoài hành tinh”. Thuở còn trẻ, Zlatan có những pha đi bóng cực kỳ ngoạn mục. Việc anh lừa qua bốn, năm cầu thủ đối phương là chuyện cơm bữa. Cho đến khi gặp Fabio Capello tại Juve, anh mới tiết chế lại những pha xử lý rườm rà để tập trung vào việc săn bàn. Và từ đó, tỷ lệ dứt điểm thành bàn của Zlatan đại tiến. Cũng từ đó, Zlatan là chuyên gia ghi những bàn thắng đẹp. Gia tài siêu phẩm của Zlatan sẽ khiến cho bất kỳ tiền đạo nào trong lịch sử phải ganh tỵ.
Tài năng và ngạo nghễ là thế, tự do phóng khoáng là thế, Zlatan lại vô cùng chung thủy với người vợ Helena. Họ gặp nhau lần đầu năm 2002, công khai năm 2004 và không rời nhau từ đó. Có với nhau hai mặt con, Zlatan yêu kính vợ tuyệt đối, một người vợ hơn anh 11 tuổi. Dù (hay vì?) có một người cha nghiện rượu, Zlatan không động đến chất có cồn. Gã đàn ông ngông cuồng trong công việc rốt cục lại là một người cực kỳ chuẩn mực trong cuộc sống đời thường.
Có một chi tiết mà tôi rất thích khi dịch cuốn tự truyện của Zlatan. Đó là chi tiết anh muốn mua lại một căn nhà màu hồng ở Limhamnsvagen, Malmo. Khi còn nhỏ, Zlatan đã nhìn căn nhà hoành tráng ấy và mơ ước một ngày được sống trong đó. Đấy là một ước mơ khó như hái sao trên trời, vì Zlatan xuất thân ổ chuột, còn ngôi nhà lại nằm trong khu vực sang trọng bậc nhất của Thụy Điển.
Hai mươi năm sau, Zlatan đã là một cầu thủ xuất chúng, là một trong những người giàu có và nổi tiếng nhất Thụy Điển. Khi Helena chuẩn bị sinh đứa con thứ hai, anh quyết định mua lại căn nhà màu hồng ấy. Và dù người chủ nhà giàu có tuyệt đối không muốn bán, anh vẫn nói với vợ chồng chủ nhà: “Chúng tôi đến đây vì các bạn đang sống trong nhà của tôi. Tôi nghiêm túc đấy. Tôi sẽ mua căn nhà này. Tôi sẽ đảm bảo là anh cảm thấy hài lòng, nhưng chúng tôi phải sở hữu căn nhà này".
Rồi người chủ nhà cũng xiêu lòng mà bán cho Zlatan. Đàm phá mua nhà đã khó, sửa nhà còn khó hơn vì Zlatan muốn một ngôi nhà theo ý mình. Nhưng quy hoạch thành phố không cho phép xây tường bao cao hơn. Vậy là anh phá tung căn nhà để thiết kế cho ngôi nhà… thấp xuống. Và trong ngôi nhà ấy chỉ treo một bức ảnh duy nhất, ngay trước cửa vào nhà.
Bức ảnh chụp đôi chân đầy sẹo của Zlatan.
Để mỗi khi có ai hỏi vì sao lại treo ảnh đôi chân kinh tởm ấy, Zlatan sẽ tự hào mà nói: “Chính đôi chân ấy đã trả tiền mua căn nhà này”.
Đôi chân ấy từng đạp gấp gáp trên một chiếc xe đạp ăn cắp, từng cùng bố khiêng một chiếc nệm về nhà, từng chạy xuyên qua đường hầm tăm tối đáng sợ ở Rosengård, rồi đôi chân ấy đến Malmo, Amsterdam, Milan, Barcelona, Paris, Manchester, Los Angeles… Ở đâu đôi chân ấy cũng tạo nên những kiệt tác. Đôi chân ấy giờ vẫn đang chạy tốt (và sút tốt) ở tuổi 39.
Mời các bạn cùng đọc lại hành trình phi thường của đôi chân ấy. TRẦN MINH
“T
CHƯƠNG 1
ôi giả tạo, tẻ nhạt, chán ngấy. Tôi lái chiếc Audi do CLB cấp và đứng đấy gật đầu như ngày còn đi học. Tôi chả còn đùa cợt, la hét với đồng đội như trước”.
Pep Guardiola, HLV trưởng Barcelona, trong bộ vest xám và gương mặt nghiêm trọng cố hữu, e dè tiến đến trước mặt tôi.
Khi ấy tôi nghĩ Pep cũng ổn, tất nhiên không thể là một Mourinho hay một Capello, nhưng cũng ngon lành. Đấy là trước lúc chiến tranh bùng nổ.
Mùa thu năm 2009, tôi đang sống trong giấc mơ thời thơ ấu. Tôi chơi cho đội bóng số 1 thế giới và được chào đón bởi 70.000 CĐV tại Camp Nou. Tôi đang đi trên mây. À, không hẳn, vì còn chút vớ vẩn trên mặt báo. Truyền thông Catalunya nói tôi là tên khó bảo, một gã bất trị, đại loại thế. Nhưng... mặc kệ thôi. Tôi đang ở đây rồi, Helena và bọn trẻ cũng hào hứng. Chúng tôi có một ngôi nhà xinh xắn ở Esplugues de Llobregat và tôi thì tràn đầy năng lượng. Còn gì đáng để chờ đợi hơn nữa chứ?
“Này”, Guardiola xóa tan dòng suy nghĩ của tôi, “Ở đây chúng tôi giữ chân mình trên mặt đất”.
“Vâng”, tôi nói. “Ổn thôi”.
“Thế nên chúng tôi không lái Ferrari và Porsche đến sân tập”.
Tôi gật đầu, cố gắng kiềm chế để không lỗ mãng hỏi: “Xe cộ thì liên quan gì ở đây?” Nhưng tôi thầm nghĩ: “Gã này muốn gì? Hắn muốn truyền thông điệp gì?”
Tin tôi đi, tôi đâu cần phải ra vẻ thêm làm gì. Gã nghĩ là tôi sẽ làm mặt ngầu, phóng chiếc xe bóng loáng vào sân tập rồi đậu bên lề đường ư? Không bao giờ có chuyện ấy. Nhưng tôi yêu xe của mình, ai cũng biết điều đó. Chúng là niềm đam mê của tôi. Có điều, thông điệp của hắn không liên quan đến xe cộ. Ý hắn phải chăng là: “Đừng có nghĩ mày đặc biệt”?
Khi ấy, tôi đã nhận ra Barça giống như một ngôi trường vậy. Mọi cầu thủ đều dễ thương và tôi không gặp vấn đề gì với họ. Đã vậy, tôi còn có Maxwell, cạ cứng từ thời còn ở Ajax và Inter. Họ nổi tiếng là thế, nhưng thật kì lạ, không ai cư xử như ngôi sao cả. Messi, Xavi, Iniesta, nói chung là tất cả đều giống như học sinh vậy. Pep cứ nói và cả đám đều gật đầu, khiến tôi chả thể hiểu nổi. Ở Italia, nếu một HLV bảo “nhảy lên”, cầu thủ sẽ hỏi: “Tại sao phải nhảy?”
Ở Barça, họ cứ thế mà nhảy thôi. Tôi không hợp với phong cách làm việc đậm mùi tiểu học này một chút nào. Nhưng tôi nghĩ: “Thôi thì chấp nhận, đừng làm cho người ta tin thêm vào những nhận định được viết trên báo”. Thế là tôi cố thích nghi, cố tỏ ra thật dễ bảo. Đấy là một quyết định hết sức bậy bạ. Mino Raiola, đại diện và cũng là bạn tôi, đã nói:
“Ơ kìa, mày điên hả Zlatan? Tao không còn nhận ra mày nữa”.
Đâu chỉ riêng Raiola, chả còn ai nhận ra tôi, không một ai. Tôi ngày càng rời xa bản chất của mình. Bạn phải biết là từ khi còn chơi cho Malmö FF, tôi đã tuân thủ triệt để triết lý sống: Zlatan sẽ đi con đường của riêng mình, mặc xác những gì mọi người nghĩ. Tôi ghét việc phải sống trong khuôn khổ và vâng lệnh ai đó. Tôi thích mấy gã vượt đèn đỏ, bạn hiểu ý tôi chứ?
Nhưng giờ đây thì... Tôi không còn nói những gì mình muốn mà chuyển sang nói những gì mọi người muốn nghe. Tôi giả tạo, tẻ nhạt, chán ngấy. Tôi lái chiếc Audi do CLB cấp và đứng đấy gật đầu như ngày còn đi học. Tôi chả còn đùa cợt, la hét với đồng đội
như trước. Tôi thấy chán ngấy. Zlatan chẳng còn là Zlatan. Lần cuối cùng tôi rơi vào tình trạng vâng lời thế này là khi còn học ở Borgarskolan. Ngày ấy, lần đầu tiên tôi nhìn thấy bọn nữ sinh mặc áo len dài tay Ralph Lauren và run đến vãi linh hồn khi rủ chúng ra ngoài chơi với mình.
Nhưng tôi vẫn khởi đầu mùa bóng rất tuyệt, ghi hết bàn này đến bàn khác. Chúng tôi giành Siêu Cúp châu Âu và tôi thì thống trị trên sân cỏ.
Còn tôi giờ là một con người khác. Có điều gì đó đã diễn ra, chưa đến mức quá nghiêm trọng, nhưng vẫn bất ổn. Sự im lặng của tôi là một thảm họa tiềm ẩn. Hãy tin tôi, phải điên thì tôi đá mới dữ. Tôi phải la hét và làm tâm điểm của sự chú ý. Bây giờ tôi dồn tất cả vào bên trong vì sức ép phải làm một cầu thủ ngoan ngoãn, một phần vì áp lực truyền thông. Tôi là bản hợp đồng đắt thứ hai trong lịch sử vào lúc ấy và báo chí thì cứ lặp đi lặp lại chuyện tôi khó bảo thế nào. Vì muốn thay đổi những suy nghĩ đó, tôi đã thay đổi chính con người mình. Đây cũng chính là quyết định ngu ngốc nhất trong đời tôi. Thế nên dù vẫn chơi rất bốc trên sân, nhưng niềm vui trong những bước chạy đã rời bỏ tôi tự khi nào.
Khi ấy, tôi thậm chí đã nghĩ đến chuyện giã từ bóng đá. Là cầu thủ chuyên nghiệp thì phải tôn trọng hợp đồng, nhưng tôi đã đánh mất niềm vui trên sân. Rồi kỳ Giáng sinh đến, chúng tôi trở về Thụy Điển, đến Are2 và thuê một chiếc xe trượt. Mỗi khi cuộc sống bế tắc, tôi luôn phải vận động để cảm thấy ổn hơn. Và tôi đã lái chiếc xe trượt ấy như một gã điên, nhớ về những ngày còn phóng chiếc Porsche Turbo với tốc độ 325 km/h, bỏ lại sau lưng đám cảnh sát đang hú còi đuổi theo. Khi chiếc xe tuyết lao đi, rút cục thì con người cũ của Zlatan cũng trở về và tôi đã nói với chính mình: “Việc gì mày phải ủ dột? Tiền của mày đầy trong nhà băng, mày không việc gì phải bận tâm đến gã HLV thổ tả ấy. Mày có thể sống vui vẻ và chăm sóc gia đình. Vui lên nào”.
[2] Một khu trượt tuyết ở miền Bắc.
Nhưng niềm vui ấy không kéo dài lâu. Khi trở lại Tây Ban Nha, tôi đâu biết thảm họa đang chực chờ.
Một trận bão tuyết kéo đến. Cứ như là người Tây Ban Nha chưa hề thấy tuyết trước đây vậy, đặc biệt là ở ngọn đồi phía trên Barcelona mà tôi sống. Xe hơi la liệt trên đường. Mino, tên mập đần độn - chính xác là tên mập đần độn tuyệt vời để bạn không hiểu lầm ý tôi - đang ngồi cạnh tôi, rúm ró như một con cún trong đôi ủng mùa hè và một chiếc áo khoác mỏng.
Hôm ấy, suýt nữa hai chúng tôi đã tiêu đời. Lúc lao xuống một con dốc thì chúng tôi hoàn toàn mất kiểm soát và xe đâm vào một bức tường đá. Toàn bộ phần bên phải xe hư hại nghiêm trọng. Với thời tiết kiểu như vậy, việc va quẹt xe là bình thường, nhưng không có ai bị nặng như tôi cả. Thấy mình vừa thoát chết, tôi quay sang nhìn Mino và cả hai đã cười như điên. Đó là một trong những giây phút vui vẻ thật sự hiếm hoi tôi có từ khi sang Barça.
Nhưng niềm vui ấy không kéo dài lâu bởi Messi bắt đầu nói chuyện. Messi là một siêu cầu thủ, một thiên tài không thể tin được. Nhưng chúng tôi có tính cách hoàn toàn trái ngược nhau. Messi đến đây khi mới 13 tuổi và lớn lên trong văn hóa của CLB. Gã hoàn toàn hòa nhập với “ngôi trường” này. Lối chơi của đội bóng xoay quanh Messi, một điều cũng rất tự nhiên bởi gã xứng đáng được như thế. Nhưng bây giờ tôi đã đến và ghi bàn nhiều hơn gã. Thế là gã nói với Guardiola thế này:
“Tôi không muốn chơi bên cánh phải nữa, cánh trái cũng không. Tôi muốn vào trung lộ”.
Trung lộ chính là vị trí của tôi. Nhưng Guardiola chả mảy may quan tâm đến điều đó. Hắn đổi chiến thuật từ 4-3-3 sang 4-5-1 với tôi ở trên cùng và Messi ngay phía sau. Thế là mọi ánh sáng
chiếu rọi vào Messi, còn tôi thì chìm đắm trong bóng tối. Mọi đường bóng từ thời điểm đó đều đi qua chân Messi, còn tôi thì không thể chơi thứ bóng đá của mình. Đứng trên sân, tôi cần phải tự do như một cánh chim. Tôi là mẫu cầu thủ luôn muốn tạo ra sự khác biệt và cần không gian cho việc ấy. Nhưng Guardiola đã hy sinh tôi. Đấy là sự thật. Hắn quẳng tôi vào chiếc lồng rồi khóa lại.
OK, tôi hiểu cho hắn. Messi là ngôi sao mà. Hắn phải lắng nghe ý nguyện của gã. Nhưng thôi nào, tôi đã ghi hết bàn này đến bàn kia cho Barça, tôi cũng đỉnh mà. Hắn đâu thể buộc cả đội bóng phải thay đổi cách chơi chỉ vì một cá nhân nào đó, cho dù cá nhân ấy có kiệt xuất đến cỡ nào. Nếu đã vậy thì ngay từ đầu hắn mua tôi làm gì? Chả có ai bỏ ra số tiền khủng như vậy cho một con tốt thí cả. Guardiola buộc phải nghĩ về cả hai chúng tôi chứ.
Sau thay đổi đó, bầu không khí trong đội dần trở nên căng thẳng. Tôi là khoản đầu tư lớn nhất từ trước đến nay trong lịch sử đội bóng, nhưng tôi lại không cảm thấy thoải mái khi đứng trong đội. Txiki Begiristain, Giám đốc thể thao, yêu cầu tôi đến nói chuyện với Guardiola:
“Zlatan, giải quyết vấn đề của mình đi!”
“OK, được thôi. Giải quyết thì giải quyết!”
Bạn bè tôi cũng nói: “Zlatan, với trường hợp của mày, tao thấy giống như Barça mua một chiếc Ferrari, nhưng lại lái nó như một chiếc Fiat vậy”. So sánh hay ghê, rõ ràng Guardiola đang biến tôi thành một cầu thủ đơn giản và tệ hơn. Toàn đội sẽ bị thiệt thòi vì việc ấy. Thế là trong một buổi tập, tôi tiến đến chỗ Guardiola, cố giữ bình tĩnh để không rơi vào một cuộc cãi vã. Tôi nói:
“Tôi không muốn xung đột. Tôi không muốn chiến tranh. Tôi chỉ muốn thảo luận một chút thôi”.
Guardiola gật đầu, nhưng trông bộ dạng hắn có vẻ hơi sợ sệt, nên tôi lặp lại:
“Nếu ông nghĩ tôi đến để cãi nhau thì tôi sẽ đi ngay lập tức. Tôi chỉ muốn nói chuyện”.
“Ừ, ổn thôi! Tôi cũng thích thảo luận với cầu thủ của mình”.
“Vậy nghe nhé”, tôi tiếp tục,“Ông đang khai thác không đúng khả năng của tôi. Nếu chỉ cần một người ghi bàn, lẽ ra ông nên mua Inzaghi, hay ai đó khác. Tôi cần khoảng trống, tôi phải tự do. Tôi đâu thể chạy lên chạy xuống liên tục, tôi nặng đến 98 kg, tôi không có năng lượng cho việc ấy”.
Guardiola làm ra vẻ trầm ngâm, hắn lúc nào cũng vậy. “Nhưng tôi cứ nghĩ là cậu có thể đá được như thế”.
“Không, nếu vậy tôi thà ngồi dự bị còn hơn. Tôi hiểu tình thế của ông, nhưng ông đang hy sinh tôi cho những cầu thủ khác. Không ổn đâu. Giống như ông mua một chiếc Ferrari chỉ để lái như một chiếc Fiat vậy”, tôi nhắc lại nhận xét của bạn mình.
Hắn lại... trầm ngâm.
“OK, có thể tôi đã sai lầm. Để tôi tính lại xem sao”.
Tôi vui vẻ ra về với niềm tin Guardiola sẽ giải quyết chuyện đó. Nhưng ôi thôi, tôi đâu ngờ cuộc gặp gỡ ấy lại là khởi nguồn của một cuộc chiến tranh lạnh. Guardiola không còn nhìn mặt tôi nữa. Bỏ qua những chi tiết ấy, tôi tiếp tục chơi bốc lửa hơn và ghi thêm nhiều bàn. Những bàn thắng ấy không đẹp như thời ở Italia vì tôi lúc nào cũng phải bám vòng cấm. Ibracadabra của Serie A không còn nữa, nhưng hiệu suất ghi bàn thì vẫn cao.
Trước Arsenal tại sân Emirates, chúng tôi lấn át đội chủ nhà hoàn toàn. Bầu không khí trên sân cực kỳ căng thẳng. Hai mươi
phút đầu tiên thật tuyệt vời, tôi ghi một bàn, rồi hai bàn, toàn là siêu phẩm. Tôi nghĩ: “Mặc xác Guardiola! Tôi sẽ đi con đường của riêng mình”. Nhưng bạn biết sao không? Hắn thay tôi ra, Arsenal gỡ hòa 2-2. Xui xẻo hơn nữa là tôi bị chấn thương đùi ngay sau trận ấy. Thông thường, một HLV phải quan tâm đến chấn thương của cầu thủ. Zlatan mà chấn thương thì đấy phải là chuyện lớn ở mọi đội bóng. Nhưng Guardiola lạnh như băng, không nói một lời suốt ba tuần tôi ngồi ngoài. Dù là xã giao theo kiểu “Ổn không Zlatan? Chơi trận tiếp theo được chứ?” cũng không có.
Không có “Chào buổi sáng” hay “Sàng buổi cháo” gì cả. Không có một lời hỏi han. Hắn thậm chí còn tránh nhìn vào mắt tôi. Khi tôi bước vào phòng, hắn lập tức đứng dậy và rời khỏi đó. Chuyện quái gì vậy, tôi nghĩ. Tôi đã làm gì sai sao? Trông tôi dị lắm à? Hay tôi nói gì bậy bạ? Đầu óc tôi xoay vòng với những suy nghĩ đó, đến mức không thể ngủ được.
Tôi đâu cần Guardiola yêu tôi, cứ ghét tôi nếu hắn muốn. Sự căm ghét và thù hận càng khiến cho tôi có thêm động lực. Nhưng tôi cảm thấy hoang mang vì không biết mọi chuyện sẽ đi về đâu. Thế là tôi mang chuyện đi hỏi những cầu thủ khác, nhưng không một ai trả lời được. Tôi bèn tâm sự với Thierry Henry, một người cũng đang phải ngồi dự bị thời gian ấy. Henry là cầu thủ ghi bàn nhiều nhất trong lịch sử đội tuyển Pháp. Anh ta rất dễ thương và khi ấy phong độ vẫn còn “ngon”. Nhưng cũng như tôi, Henry đang có vấn đề với Guardiola.
“Hắn không nói chuyện với tôi, hắn thậm chí còn không dám nhìn thẳng vào mắt tôi, chuyện gì đang xảy ra vậy?” Tôi hỏi.
“Ai mà biết”, Henry đáp.
Và chúng tôi bắt đầu giỡn nhau về việc ấy.
“Zlatan này, thế hôm nay Guardiola đã nhìn cậu chưa?”
“Chưa, nhưng tôi nhìn thấy lưng hắn rồi!”
“Thế à, vậy là tiến triển tốt đấy!”
Nhờ những cuộc trò chuyện bông phèng kiểu đó, tôi cảm thấy được an ủi phần nào. Nhưng chút niềm vui ấy chẳng thể giải quyết được bức tranh u ám. Mọi câu hỏi cứ vang lên trong đầu tôi hàng ngày, hàng giờ. Rốt cuộc mình đã làm gì? Tôi giống như kẻ sa chân vào vũng lầy mà không thấy lối ra. Rồi tôi lại tự đặt ra mấy giả thiết: Phải chăng tất cả những chuyện này là từ buổi thảo luận về vị trí thi đấu mà ra? Hay Guardiola không thể làm việc với những người có cá tính mạnh và chỉ thích những cậu học trò dễ thương như Xavi, Iniesta...? Hay gã chỉ là một tên hèn nhát, luôn lẩn tránh vấn đề của mình, đến mức chả còn dũng khí mà nhìn thẳng vào nó? Những giả thiết ấy càng khiến cho mọi thứ tệ hơn.
Mọi thứ ngày càng tồi tệ.
Tro bụi từ ngọn núi lửa ở Iceland tràn xuống Nam Âu. Mọi chuyến bay đều bị hủy trong khi chúng tôi phải di chuyển đến San Siro cho trận đấu với Inter Milan ở Champions League. Thế là một vài tay đầu óc có vấn đề ở Barça nảy ra “sáng kiến” đi xe bus. Khi ấy tôi đã hoàn toàn bình phục sau chấn thương, nhưng chuyến đi quả là thảm họa. Cả bọn phải ngồi suốt 16 tiếng đồng hồ trên xe và khi đến được Milano thì ai cũng rạc hết cả người. Đây là trận đấu quan trọng nhất của mùa bóng, trận bán kết Champions League. Riêng tôi đã chuẩn bị cho việc bị la ó, huýt sáo và sỉ nhục bởi chính những CĐV cũ của mình. Không sao cả, điều ấy càng kích thích tôi.
Gặp Inter cũng là lúc tôi tái ngộ José Mourinho, một ngôi sao lớn thật sự. Ông ấy đã vô địch Champions League cùng Porto. Khoảng thời gian làm việc cùng Mourinho tại Inter thật đáng nhớ. Lần đầu gặp Helena, ông đã nói với vợ tôi thế này: “Helena,
cô chỉ có một nhiệm vụ duy nhất. Hãy cho Zlatan ăn, hãy để Zlatan ngủ ngon và giữ cho Zlatan luôn vui vẻ”.
Mourinho luôn nói những gì mình muốn. Tôi kết ông ấy chỗ đó. Mang tác phong của một vị tướng chỉ huy, nhưng Mourinho cũng rất biết quan tâm người khác. Ông ấy thỉnh thoảng lại gửi tin nhắn hỏi han tình hình cuộc sống của tôi. Guardiola thì hoàn toàn ngược lại. Nếu Mourinho thắp sáng căn phòng thì Guardiola là tên tắt đèn, để mọi người lại trong bóng tối. Tôi nghĩ Guardiola cũng rất ngán, và rất ghét Mourinho.
“Chúng ta không đấu với Mourinho mà đấu với Inter”, Guardiola nói, cứ như thể hắn không nói thì cầu thủ sẽ không biết vậy. Hắn cứ đứng đó thao thao bất tuyệt về mớ triết lý của mình. Tôi chả buồn nghe thêm những gì hắn nói, cái gì mà máu và nước mắt, có cần tởm lợm vậy không. Rồi cả đám ra sân cho buổi tập trước trận, đấy là lúc Guardiola nói chuyện lại với tôi lần đầu tiên sau cuộc chiến tranh lạnh. Toàn đội dõi theo cảnh tượng ấy với sự chăm chú đặc biệt, theo cái kiểu: “Ibra chuẩn bị trở lại”.
“Cậu đá chính được chứ?” Guardiola hỏi.
“Tất nhiên rồi.”
“Nhưng cậu chuẩn bị chưa?”
“Tất nhiên, tôi ổn mà.”
“Chuẩn bị thật rồi chứ?” Hắn nói chuyện như một con vẹt, còn tôi thì ngày càng bực bội.
“Nghe nhé. Chuyến đi thật là thổ tả, nhưng phong độ tôi đang ngon. Chấn thương không còn là vấn đề nữa. Cứ quăng tôi ra sân rồi ông sẽ thấy”.
Guardiola nhìn tôi đầy hoài nghi. Tôi chả thể hiểu nổi. Sau đó tôi gọi cho Mino Raiola. Tôi rất hay gọi điện cho gã mập. Báo chí
Thụy Điển cứ bảo Mino làm hỏng hình ảnh Zlatan. Mino thế này, Mino thế nọ. Nhưng với tôi thì Mino là một thiên tài.
Tôi hỏi gã: “Guardiola muốn gì vậy?” Mino cũng không thể giải thích. Nhưng tạm đặt Guardiola sang một bên, tôi để tâm vào trận đấu. Barça đã dẫn 1-0, nhưng rồi trận đấu bước sang một ngã rẽ. Tôi bị thay ra sau 60 phút và Barça thua luôn 1-3. Cứt thật. Tôi như phát điên lên được. Nếu là ngày trước, tôi phải tốn rất nhiều ngày, thậm chí là nhiều tuần lễ để nuốt trôi một thất bại. Nhưng bây giờ tôi có Helena và bọn trẻ. Họ giúp tôi nguôi ngoai và bước tiếp. Thế là tôi hướng đến trận lượt về tại Camp Nou. Với sự hứng khởi tăng dần theo từng ngày.
Áp lực tất nhiên cũng kinh khủng. Cứ như là một cơn bão đang tràn đến vậy. Chúng tôi buộc phải thắng cách biệt nếu muốn vào chung kết. Nhưng kết quả vẫn chỉ là 1-0 và Barça bị loại.
Điều tồi tệ là Guardiola xem tôi như tội đồ của việc ấy. Từ chỗ không dám nhìn mặt tôi, hắn chuyển sang nhìn khinh bỉ, giống như tôi là gã hợm. Hắn là một bức tường đá, tôi không tìm thấy nổi chút dấu hiệu của sự sống nào từ bức tường ấy. Tôi lái chiếc Audi của CLB cấp trong nỗi ưu phiền đã lên đến tột đỉnh. Cứ mỗi giờ trôi qua, tôi lại càng muốn thoát ra khỏi CLB mà mình từng khao khát được khoác áo.
Trận gặp Villarreal, hắn cho tôi vào sân năm phút cuối. Vâng, năm phút! Tôi điên không phải vì mình ngồi dự bị, tôi sẵn sàng xem đồng đội thi đấu nếu HLV của tôi đủ đàn ông để nói: “Trình cậu non lắm, Zlatan à!”
Guardiola không dám nói điều đó. Và cơn điên của tôi bùng phát. Nếu là Guardiola, hẳn tôi sẽ cảm nhận được cơn thịnh nộ và phải sợ hãi lắm. Tôi không nói mình sẽ dùng nắm đấm. Tôi đã trải qua nhiều chuyện trong đời, nhưng chưa bao giờ tôi phải dùng đến hạ sách ấy. Vâng, ở trong sân cỏ, tôi có húc đầu vài gã, nhưng ngoài đời thì tôi chưa từng hận ai đến mức động thủ trước.
Trận đấu với Villarreal kết thúc, tôi cùng cơn thịnh nộ của mình tiến vào phòng thay đồ. Kẻ thù của tôi đây rồi, hắn đang xoa cái đầu hói. Khi ấy trong phòng chỉ có Toure và một vài người. Trên sàn là một cái thùng kim loại đựng quần áo bẩn. Tôi tiến đến và đá văng cái thùng ấy. Tôi nghĩ nó đã phải văng đi đến ba mét. Chưa hả giận, tôi còn gầm lên:
“Mày không có bi. Mày chỉ là cứt nếu so với Mourinho. Mày đi chết đi”.
Tôi hoàn toàn mất kiểm soát vào lúc ấy. Và bạn biết Guardiola phản ứng lại như thế nào không? Hắn không hề đáp lại theo kiểu: “Bình tĩnh nào, cậu đâu thể nói năng như thế với HLV chứ”. Hắn hèn nhát đến mức độ như thế đó.! Tất cả những gì hắn làm là nhặt từng thứ một bỏ lại vào thùng, như một người lao công nhỏ bé tội nghiệp. Thu dọn xong, hắn rời khỏi đó, không mảy may nói một lời nào.
Câu chuyện nhanh chóng lan truyền trong đội. Mọi người cứ hỏi nhau có chuyện gì thế? Vì sao lại như thế? Nhưng rồi đâu có ai trả lời được. Một số người đến hỏi thăm, nhưng tôi chả còn thiết tha muốn giãi bày nữa. Tay HLV khốn kiếp đã loại tôi ra khỏi đội hết tuần này sang tuần khác mà không buồn giải thích vì sao.
Tôi lấy gì để trả lời cho những đồng đội hiếu kỳ đây. Tôi có không ít những cuộc cãi vã trong sự nghiệp. Nhưng thường thì ngay ngày hôm sau, tôi cùng với HLV đã giải quyết xong mâu thuẫn ấy. Đối thoại là cách những người đàn ông giải quyết hiềm khích.
Bây giờ, tất cả những gì tôi có chỉ là sự im lặng và những màn đấu tâm lý. Rồi tôi tự hỏi bản thân: “Zlatan, mày 28 tuổi, ghi 22 bàn và có 15 đường chuyền thành bàn tại Barça. Tại sao người ta lại cư xử như mày không hề tồn tại? Mày chấp nhận được điều đó không? Mày có nên tiếp tục thích nghi không? Mày còn muốn ngoan ngoãn nữa không?” Và câu trả lời là “Không đời nào”.
Khi biết mình sẽ tiếp tục dự bị trong trận gặp Almeria, tôi chợt nhớ lại buổi gặp đầu tiên với Guardiola khi vừa sang Barça. Hôm ấy hắn đã nói: “Ở Barcelona, chúng tôi không lái Ferrari và Porsche đến sân tập”. Từ đây, tôi sẽ mặc xác mọi thứ, tôi sẽ lái chiếc xe mình muốn, ai thích lái Audi thì cứ lái. Tôi nhảy lên chiếc Enzo của mình, phi đến sân tập và đỗ ngay trước cổng. Và tất nhiên là một vụ lùm xùm mới nổ ra. Báo chí viết về việc ấy không khác gì chuyện thời sự. Họ bảo giá mua chiếc xe ấy nhiều bằng lương một tháng của cả đội Almeria cộng lại. Tôi mặc xác. Báo chí bây giờ viết gì cũng không còn ý nghĩa với tôi nữa. Tôi quyết định trở lại con người thật của mình và đấy chỉ là phát pháo đầu tiên. Tôi đã luôn là một chiến binh, và một chiến binh thì cần phải có sự chuẩn bị.
Thế nên tôi bốc máy và gọi cho Mino. Chúng tôi luôn lên kế hoạch và ủ mưu cùng nhau. Tôi cũng gọi điện cho những người bạn khác. Tôi luôn muốn nhìn nhận sự việc từ nhiều góc độ. Lần ấy, tôi nhận được đủ thứ lời khuyên. Đám bạn Rosengård thậm chí còn bảo: “Hay để bọn tao kéo đến đó phá banh cái sân tập của Barça một phen”.
Nhưng tất nhiên, người mà tôi nói chuyện và thảo luận nhiều nhất vẫn là Helena. Nàng đến từ thế giới khác tôi, thế nên nàng lúc nào cũng giữ được sự bình tĩnh. Bấy giờ Helena khuyên tôi:
“Anh đã trở thành một người cha tốt hơn. Nếu như đội bóng không làm anh cảm thấy thoải mái, vậy thì cứ về nhà mà lập đội với em và các con này.”
Nghe vậy, tôi liền vui vẻ trở lại.
Tôi ra sân và đá bóng với bọn trẻ, cố gắng để đầu óc mình thoát khỏi những suy nghĩ không vui. Và tôi lại vùi đầu vào trò chơi điện tử như ngày xưa. Tôi nghiện điện tử. Hồi còn ở Inter, tôi có thể chơi đến bốn, năm giờ sáng, chỉ ngủ vài tiếng là đến sân tập luôn. Nhưng từ khi sang Barça, tôi tự đặt ra luật lệ cho mình: Không Xbox, không PlayStation sau 10 giờ đêm.
Giờ thì tôi quay trở lại thói quen cũ của mình, chơi bời đến chừng nào chán thì thôi. Tôi tận dụng khoảng thời gian cuối ở Tây Ban Nha cho gia đình, thỉnh thoảng còn làm vài chai Corona. Đấy là mặt tươi sáng của vấn đề. Nhưng khi thức dậy và đến sân tập thì tôi lại thấy Guardiola, phần tối tăm, đáng chán trong tôi lại trỗi dậy. Tôi lên kế hoạch cho một cuộc báo thù, đòi lại những gì Guardiola đã lấy mất của tôi.
Tôi ủ mưu thật lâu và quyết làm cho kỳ được. Phải cho tên HLV ấy và Barcelona biết Zlatan thật sự là như thế nào.
Bởi vì đừng bao giờ quên điều này: Bạn có thể lôi đứa trẻ ra khỏi một khu ổ chuột, nhưng không bao giờ tách được khu ổ chuột ra khỏi đứa trẻ ấy.
“T
CHƯƠNG 2
rong những năm hỗn loạn của thời niên thiếu, chúng tôi đã phải thay đổi chỗ ở liên tục, gần như không cố định ở nơi nào được hơn 1 năm. Các thầy
luôn xem mỗi lần chuyển nhà như thế là một cơ hội để tống khứ tôi. Họ bảo tôi cũng nên đổi trường rồi, kiếm trường nào gần nhà mà học. Thế là tôi lại sang một trường mới, chật vật kết bạn lại từ đầu. Từ trường đến nhà, từ nhà về trường, tôi không có nhiều niềm vui khi còn nhỏ.”
Khi tôi còn nhỏ, anh trai cho tôi một chiếc xe đạp BMX. Tôi gọi nó là Fido Dido.
Fido Dido là một con quỷ đáng yêu. Tôi từng nghĩ nó là vật dễ thương nhất trên đời. Nhưng nó đã bị trộm khi dựng bên ngoài một hồ bơi ở Rosengård. Bố tôi đã đến đó, áo phanh ngực và tay áo thì xắn lên như sắp đánh nhau đến nơi. Bố tôi là kiểu đàn ông như thế: Đừng đứa nào đụng đến con tao, tránh xa đồ chơi của con tao ra. Nhưng ngay cả một người đàn ông rắn rỏi đến nhường ấy, trong trường hợp này, cũng chẳng thể làm gì. Fido Dido mất thật rồi và tôi thì vô cùng đau khổ.
Sau khi chiếc xe yêu thương bị trộm, tôi bắt đầu... đi trộm xe. Tôi phá khóa ngày càng lành nghề. Bùm, bùm, thế là chiếc xe sẽ thuộc về tôi. Tôi trở thành một tên trộm xe đạp một cách ngây thơ như thế. Nhưng đôi khi, mọi việc vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Một lần nọ, tôi vận toàn đồ đen, lẻn ra ngoài vào ban đêm cứ như Rambo chuẩn bị làm nhiệm vụ. Mục tiêu là một chiếc xe đạp quân sự với chiếc khóa khổng lồ. Chiếc xe hết sảy, tôi thích lắm, nhưng tôi không mê chiếc xe như mê cái cảm giác được
làm việc gì đó lén lút. Khoắng xe của người khác hay ném trứng vào nhà người ta rồi bỏ chạy làm tôi sung sướng.
Tôi đã làm tất cả những việc ấy mà hiếm khi bị tóm. Và tôi vẫn còn nhớ rõ một lần hiếm hoi bị tóm là ở trong khu trung tâm mua sắm Jägersro. Thực lòng mà nói thì tôi đáng bị như vậy. Ai đời đang giữa mùa hè mà tôi và thằng bạn mặc lên người những chiếc áo khoác dày. Phía dưới lớp áo, bọn tôi giấu bốn cây vợt tennis và một vài món đồ chơi. “Bọn nhóc, đã trả tiền chưa mà đi ra tỉnh bơ thế?” Một nhân viên bảo vệ phát hiện. Tôi móc ra một vài xu lẻ, gộp lại chưa đủ 1 krona3 và hỏi: “Từng này đủ không?” Tất nhiên người bảo vệ không thích giỡn kiểu đó rồi. Chúng tôi bị tóm và mời bố mẹ đến. Bạn nghĩ tôi sẽ bỏ trò ăn trộm sau chuyện đó ư? Không hề. Tôi quyết tâm phải lành nghề hơn nữa, để không ai có thể tóm được mình.
[3] Đơn vị tiền tệ của Thụy Điển, 1 krona có giá khoảng 0,12 USD.
Tôi là một đứa trẻ gầy gò, mũi to và bị ngọng nên được gửi đến cho một giáo viên dạy phát âm. Người phụ nữ ấy chỉ tôi cách phát âm chữ “S” mà tôi cứ học hoài không được. Tôi không thể chịu nổi cảnh phải ngồi yên một chỗ để học một thứ gì đó, cứ như thể trong quần mình có kiến vậy. Cảm giác ngồi yên khiến tôi như bị tra tấn. Tôi chỉ thích ra đường và chạy thật nhanh. Khi chạy thật nhanh, tôi cảm tưởng không có chuyện gì xấu có thể diễn ra với mình cả.
Rosengård, ngoại ô Malmö, miền Nam Thụy Điển là nơi tôi sống. Nơi đây là một khu nhập cư. Người Somali, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Tư, Ba Lan... đủ cả. Tất nhiên là phải có những người Thụy Điển nữa. Và bạn phải tự thân vươn lên trong một môi trường như thế. Ngay cả cuộc sống trong gia đình cũng chẳng nhẹ nhàng như bạn vẫn tưởng. Nhà tôi ở trên tầng bốn của đường Cronmans. Không có quan tâm chào hỏi gì đâu. Người lớn chẳng giúp bọn trẻ làm bài tập về nhà, hay hỏi xem chúng có cần giúp đỡ gì không. Đám trẻ phải tự mà trưởng thành và chúng tôi thì
đánh nhau như cơm bữa. Sống mãi thành quen, nhưng đôi khi bạn vẫn muốn nhận được sự quan tâm, đứa con nít nào chả thế.
Có lần tôi rớt từ mái nhà của một trường mẫu giáo xuống và bầm đen một bên mắt. Tôi ôm mặt, khóc lóc chạy về nhà với hy vọng sẽ được ôm vào lòng, xoa đầu an ủi. Nhưng làm gì có, chỉ có một cái tát vào mặt:
“Mày làm cái giống gì trên mái nhà vậy hả?”
Vậy đó! Không bao giờ là “Tội Zlatan chưa?”. Thay vào đó, sẽ luôn là: “Mày ăn gì ngu thế, để tao cho mày một trận”. Tôi đã sốc trước sự “vỗ về” của mẹ và vùng chạy. Mẹ tôi không bao giờ có thời gian để vỗ về con cái. Bà phải làm việc, dọn dẹp, chùi rửa để kiếm tiền nuôi chúng tôi. Bà là một chiến binh thật sự. Nhà nghèo nên áp lực cũng lớn, bọn trẻ lúc nào cũng phập phồng đón nhận cơn thịnh nộ đến từ mẹ chúng.
Giao tiếp trong nhà chúng tôi khác xa những ngôi nhà Thụy Điển khác. Nếu mẹ người ta nói: “Cục cưng chuyền cho mẹ lọ bơ nào” thì mẹ tôi sẽ nói: “Đưa tao hộp sữa coi thằng kia.”
Thỉnh thoảng mẹ tôi đóng cửa và ngồi khóc một mình. Mẹ khóc nhiều lắm. Tôi thương mẹ vô cùng, đời mẹ khổ quá mà. Một ngày mẹ đi làm mướn cho người ta 14 tiếng đồng hồ, đôi khi bà dẫn chúng tôi theo để phụ đổ rác, hay đại loại thế, chỉ để có được những đồng tiền lẻ. Làm nhiều sẽ trở nên cáu giận. Những lúc ấy, bà lấy muỗng gỗ đánh chúng tôi. Có lúc đánh mạnh quá nên gãy cả muỗng, thế là tôi phải đi mua cái mới, cứ như thể tại tôi mà cái muỗng mới gãy vậy.
Có một ngày tôi lấy gạch ném vỡ cửa kính của một trường mẫu giáo. Người ta bắt đền và mẹ tôi thì nổi điên. Cái gì tốn tiền đều khiến mẹ tôi điên lên như vậy. Thế là bà lại lấy muỗng đập tôi. Bang, bang, và muỗng lại gãy. Bà tìm một cái khác để tiếp tục đánh nhưng trong nhà hết sạch muỗng rồi. Thế là bà chuyển
sang nện tôi bằng cái lăn bột. Tôi vùng chạy khỏi nhà và đến mách chị Sanela.
Bố mẹ tôi chỉ có hai người con là tôi và chị Sanela, chị lớn hơn tôi 2 tuổi, là một người rắn rỏi. Một lần nọ, chúng tôi quyết định đùa với mẹ chút đỉnh. Hai đứa vào siêu thị và... mua muỗng, tầm 3 cái với giá 10 kronor, gói lại rồi tặng mẹ như quà Giáng sinh. Tôi không nghĩ là mẹ cảm thấy buồn cười vì việc ấy. Bà không có cả thời gian cho việc vui vẻ. Làm sao để có đồ ăn trên bàn mới là điều khiến bà quan tâm nhất.
À, tôi chưa nói bạn nghe nhỉ. Bố mẹ tôi ly dị khi tôi còn nhỏ. Mẹ tôi có hai người con riêng. Một người chị sau này bỏ nhà đi và hoàn toàn mất liên lạc. Một đứa em tên Aleksandar mà chúng tôi gọi là Keki. Nhà tôi không bao giờ đủ tiền, đứa lớn phải cố mà chăm cho đứa bé. Đó là cách duy nhất để cả bọn lớn lên. Nếu không, chúng tôi sẽ không thể nào sống sót qua nổi tuổi thơ ấy. Trong nhà luôn có mì gói và tương ớt, chúng tôi không ăn ở nhà thì ăn ở nhà bạn hoặc nhà của dì Hanife. Dì sống ở cùng căn hộ với chúng tôi, cũng thuộc thế hệ nhập cư đầu tiên đến Thụy Điển.
Bố mẹ ly dị khi tôi còn chưa tròn hai tuổi nên tôi không có bất kỳ ký ức nào về việc ấy. Có lẽ như vậy cũng tốt bởi bố mẹ tôi sống không hạnh phúc. Họ luôn xung đột và cãi nhau. Sau này tôi còn được nghe là bố lấy mẹ chỉ vì muốn có giấy phép nhập cư. Vì thế khi ly dị, mẹ tôi giành được quyền nuôi con.
Nhưng tôi nhớ bố. Những lúc được bố chở đi chơi bao giờ cũng vui. Tôi và chị Sanela cứ ngóng đến cuối tuần để được thấy bố đến rước trên chiếc Opel Kadett cũ màu xanh. Chúng tôi đến công viên Pildamm, hoặc chạy ra Ön, một hòn đảo ở vùng biển Malmö, để mua hamburger và kem. Một hôm, bố tôi xài sang và mua cho hai chị em mỗi đứa một đôi Nike Air Max, loại giày thể thao rất xịn, phải đến cả nghìn kronor. Của tôi màu xanh lá cây, của chị Sanela màu hồng. Không ai ở Rosengård thời ấy có đôi
giày tương tự và chúng tôi sướng mê ly. Từ ấy, bọn tôi càng thương bố hơn, chúng tôi cứ đợi đến ngày gặp ông để được ăn pizza và uống Coca-Cola thả ga. Ông có một công việc ổn định và chỉ có duy nhất một đứa con riêng, Sapko. Ông là “người bố cuối tuần tuyệt vời” của chúng tôi.
Nhưng rồi mọi thứ dần thay đổi. Chị Sanela bộc lộ năng khiếu ở môn chạy. Chị là người chạy 60m nhanh nhất ở tuổi mình trên toàn Skåne4. Bố tôi tự hào vô cùng và luôn chở chị tôi đến sân tập.
[4] Một vùng ở miền Nam Thụy Điển.
Tôi và chị Sanela trên chiếc Opel của bố.
Tuyệt vời, Sanela. Nhưng con còn có thể chạy nhanh hơn nữa đấy”, bố tôi hét lên,“Nhanh hơn, nhanh nữa đi con, đừng tự mãn”.
Một hôm, bố chở chị đến sân tập thì thấy gương mặt chị có nét khác lạ. Ông nhận ra ngay. Gặng hỏi mãi nhưng chị không nói, chỉ im lặng và cố không khóc. Chúng ta không đi vào chi tiết nhé, đấy là chuyện riêng của chị tôi. Nhưng về phần bố tôi thì ông ấy lồng lên hệt như một con sư tử. Chỉ cần con ông có chuyện là ông sẽ nổi điên, nhất là khi có chuyện với Sanela, đứa con gái duy nhất.
Mọi thứ trở nên rối loạn, những cuộc điều tra phúc lợi, những tranh chấp, những cuộc chiến trước tòa. Lúc ấy tôi chỉ mới 9 tuổi nên không hiểu gì nhiều. Đó là mùa thu năm 1990. Mọi người cố giấu không cho tôi biết chuyện gì đang diễn ra. Nhưng tôi thì hiểu là đang có chuyện. Thì ra, bà chị cùng mẹ khác cha của tôi chơi ma túy, và giấu ngay trong nhà. Người ta biết và gọi điện báo cảnh sát.
Một lần khác, mẹ tôi bị tóm vì cố tiêu thụ đồ gian. Một số người quen dúi cho bà mấy sợi dây chuyền và nhờ giữ giùm. Mẹ tôi có hiểu gì đâu, sau này mới biết đó là hàng ăn cắp và bà bị cảnh sát tóm. Tôi vẫn nhớ cái cảm giác ngơ ngác và mơ hồ ấy: Mẹ đi đâu rồi? Tại sao mẹ lại đi khỏi nhà vậy?
Nhưng lần này, sau chuyện mới nhất xảy ra với Sanela, nhìn thấy chị khóc, tôi đã quyết định phải chạy trốn khỏi thực tại ấy. Tôi ra ngoài đường và bắt đầu đá bóng. Tôi chả phải thiên tài gì, chỉ là một đứa ngổ ngáo bị chinh phục bởi môn thể thao này. Tôi lúc nào cũng đá bóng, trong vườn, trên sân, vào những giờ ra chơi ở trường. Tôi đá không hay, nhưng đánh nhau thì chả ngán ai. Tôi sẵn sàng húc đầu vào bất kỳ kẻ nào gây hấn, tôi la hét với chính những đồng đội của mình.
Hồi ấy, chúng tôi học ở trường Värner Rydén, chị Sanela lớp 5, còn tôi lớp 3. Chị ngoan, còn tôi là siêu quậy. Vì hoàn cảnh gia đình, chị Sanela lớn trước tuổi và giống như người mẹ thứ hai của Keki vậy. Chị mang một gánh nặng trách nhiệm quá lớn so với tuổi của mình.
Vì thế, tôi đã cảm thấy rất sợ hãi khi cả chị Sanela và tôi bị gọi lên văn phòng hiệu trưởng cùng lúc. Nếu là một mình tôi thì chuyện quá bình thường, đằng này lại cả hai. Có ai chết rồi chăng? Có chuyện gì xảy ra chăng?
Bụng tôi quặn lại khi hai đứa bước qua hành lang. Thời điểm ấy là cuối thu hay đầu đông gì đó. Tôi hoang mang vô cùng, nhưng khi vào phòng, thấy bố ngồi đó, tôi vui trở lại. Bố lúc ấy đồng nghĩa với niềm vui, với hamburger và Coca-Cola. Nhưng lần ấy thì chẳng có gì vui cả. Tôi không nhớ rõ nội dung câu chuyện, chỉ biết nó liên quan đến bố mẹ, tất nhiên là chuyện buồn. Đến khi viết cuốn sách này, những câu hỏi trong đầu tôi mới được giải đáp.
Tháng 11/1990, phía phúc lợi xã hội điều tra và bố tôi giành được quyền nuôi cả tôi lẫn Sanela bởi môi trường ở nhà mẹ bị xem là không phù hợp. Mẹ không có lỗi, nhưng mẹ không thể kiểm soát mọi thứ quanh mình và thế là đủ để bố có được quyền ưu tiên nuôi con. Mẹ tôi đau khổ vô cùng, bà đâu còn gì ngoài chúng tôi. Và thế là bà khóc, khóc thật nhiều. Đúng là bà hay lấy muỗng nện chúng tôi, nhéo hai chị em đến sứt cả tai và chả bao giờ nghe chúng tôi tỉ tê tâm sự nhưng bà rất đáng thương. Bà toàn bị người đàn ông của mình ruồng bỏ, bà không có tiền nhưng bà yêu con mình, dù theo cách riêng của bà. Bố tôi đã đến nhà chiều hôm ấy và nói:
“Anh không muốn em mất bọn trẻ, Jurka5. Nhưng nếu mọi thứ không khá hơn thì em sẽ chẳng bao giờ thấy chúng nữa đâu.”
[5] Tên của mẹ Zlatan - DG.
Bố tôi chả bao giờ nói đùa trong những chuyện thế này. Tôi không nhớ chính xác những gì đã xảy ra sau đó. Chỉ biết là Sanela về sống với bố và tôi được phép ở lại với mẹ. Đấy là một giải pháp tồi. Chị Sanela không thích cuộc sống mới. Chị thường xuyên phát hiện bố ngủ trên sàn nhà trong khi trên bàn thì
vương vãi vỏ chai. Chị kêu bố nhưng bố chỉ ngủ. Có lần tôi sang nhà, cứ nghĩ bố lạnh nên lấy mền lại đắp. Lớn hơn một chút tôi mới biết ông không lạnh, ông chỉ say. Những lúc giật mình, ông lại gầm lên như một con gấu và làm cho chị sợ hãi. Rồi chị cũng nhớ đứa em trai nhỏ của mình.
Chị chỉ muốn về lại chỗ của mẹ. Trong chiều ngược lại, tôi cũng nhớ bố vô cùng. Không có chị Sanela, cảm giác cô đơn thật kinh khủng. Và trong một đêm buồn bã, tôi đã nhấc máy gọi cho bố. Giọng tôi lúc ấy hẳn là buồn ghê lắm:
“Bố ơi, con không muốn ở đây nữa. Con muốn ở với bố.” “Vậy con đến đây với bố. Bố gọi taxi tới rước con liền.”
Những cuộc điều tra tiếp tục và tháng 3/1991, đến lượt mẹ giành được quyền nuôi chị Sanela và tôi sẽ về ở với bố, tức là đảo ngược lại. Tuy vậy, cả hai chị em vẫn rất thân thiết với nhau. Bây giờ thì chị Sanela đã là một thợ làm đầu. Thỉnh thoảng khách ghé tiệm lại nói: “Trời ơi, sao chị giống Zlatan dữ thần vậy!” và chị luôn trả lời: “Vớ vẩn vừa thôi. Tôi đẻ ra trước nó. Phải nói nó giống tôi chứ”.
Cuộc sống của hai chị em sau khi đổi chỗ cho nhau cũng không khá hơn. Bố rời khỏi Rosengård để đến một nơi tốt hơn ở Värnhemstorget, Malmö. Bố là người thương con hết mực, luôn sẵn sàng chết vì chúng tôi. Nhưng mọi thứ diễn ra rất khác so với những gì tôi tưởng tượng. Sống với ông hàng ngày, tôi nhìn thấy hình ảnh thực sự của ông, khác xa với “người bố cuối tuần tuyệt vời” mà tôi biết.
Căn nhà của bố luôn trơ trọi, mang cảm giác thiếu thốn một điều gì, có thể là một người phụ nữ. Nhà có tivi, ghế sofa, kệ sách, hai giường, nhưng không có cảm giác của một gia đình, không có giao tiếp, không có sự quan tâm. Vỏ bia thì vương vãi trên bàn còn sàn nhà thì đầy rác. Những lúc phải sơn lại tường,
ông chỉ sơn có một bên,“Mai bố sơn bên kia”, nhưng chả bao giờ ông làm nốt việc ấy cả.
Bố tôi làm gác gian cho người ta. Những khi về nhà, ông vận nguyên bộ đồ lỉnh kỉnh những tua vít, vật dụng trong túi áo và ngồi phịch xuống chiếc ghế cạnh điện thoại hoặc tivi. Một khi đã ngồi vào ghế, ông không muốn bị bất kỳ ai quấy rầy. Bố sống trong thế giới của riêng mình với âm nhạc đồng quê Nam Tư qua chiếc tai nghe. Ông mê nhạc vô cùng, thậm chí còn đi thu âm mấy cuốn băng.
Khi tâm trạng tốt, bố là người tuyệt vời, là trung tâm của đám đông. Nhưng rất, rất ít khi ông như vậy. Phần lớn thời gian ông chỉ ngồi một mình. Bạn bè gọi đến còn bị ông quát: “Đừng gọi đến nữa. Phiền quá!”
Tôi không thể mời bạn về nhà. Nếu chúng gọi điện đến nhà thì bố tôi cũng dập máy. Tôi không được sờ đến điện thoại. Khi đã về nhà, tôi không thể nói chuyện với bất kỳ ai. Vào lúc có chuyện xảy ra với tôi, bố luôn hùng hổ xông đến theo kiểu “Thằng khốn nào dám ăn hiếp con tao thế?” Nhưng những chuyện bình thường nhỏ nhặt thì không bao giờ ông để tâm. Tôi đi học ra sao, đá bóng thế nào, bạn bè là những ai ông cũng mặc kệ. Tôi chỉ còn biết tự chơi một mình hoặc đi ra ngoài.
Thời gian đầu tôi sống cùng với ông anh cùng cha khác mẹ Sapko, nhưng khi ấy anh ta đã 17 tuổi, đâu có thích chơi với trẻ con nữa. Rồi bố cũng sớm tống cổ Sapko ra khỏi nhà sau những màn tranh cãi kịch liệt. Ngôi nhà chỉ còn lại hai bố con, cô đơn trong thế giới riêng của từng người. Không bạn bè thăm viếng. Bố cứ ngồi yên như vậy, uống hết chai này đến chai khác.
Không bạn bè đã tệ hại, nhưng kinh khủng nhất là không có đồ ăn. Cả ngày trời ở ngoài đường chơi bóng và lái chiếc xe đạp ăn trộm được, tôi luôn trở về nhà với cái bụng đói meo. Khi mở tủ lạnh ra, lúc nào tôi cũng cầu nguyện: Làm ơn, làm ơn có cái gì đó
ăn đi mà. Nhưng không, không có gì cả, chỉ có những món muôn thuở: Bơ, ít bánh mì, may ơi là may thì có thêm nước ép, loại bốn lít mua ở cửa hàng Ả Rập gần nhà vì nó rẻ nhất. Có một thứ mà tôi chả bao giờ đếm xỉa tới: bia, Pripps Blå hoặc Carlsberg, những lốc sáu lon. Có lúc thì còn chả có cả bơ và bánh mì, toàn bia thôi, còn cái bụng của tôi thì đang biểu tình. Đó là một nỗi buồn mà tôi mãi mãi không bao giờ quên. Thế nên sau này tôi luôn bảo Helena: “Anh muốn tủ lạnh nhà mình lúc nào cũng đầy ắp đồ ăn”.
Khi tôi có con, Vincent cứ khóc vì mì ống đang nấu chưa kịp chín, những lúc ấy tôi chỉ muốn thét lên: Nín ngay, giá mà con biết con đang hạnh phúc thế nào, bởi bố đã từng chẳng có gì mà bỏ vào bụng!
Tôi lục từng ngăn kéo, không bỏ qua bất kì một ngóc ngách nào, cố tìm một ít thịt, tôi cố tống thật nhiều bánh mì để quên đi cơn đói và thỉnh thoảng tôi lại chạy về nhà mẹ. Nhưng tôi đâu được chào đón ở đó. Lần nào tôi về, mẹ cũng nhìn tôi theo cái kiểu: “Mày lại về đấy à Zlatan? Gã nhập cư không cho mày ăn hay sao?”
Cái bụng đói khiến tôi căm ghét những lon bia. Thế là tôi lén đổ nó vào bồn rửa, một ít thôi, cho bõ tức. Bố chả biết, bia ở nhà nhiều quá, ông cũng chẳng buồn nhớ xem còn lại bao nhiêu, chưa kịp đổ hết thì ông đã vác về những lốc mới. Bia la liệt khắp nhà, từ trên bàn đến kệ.
Tôi bắt đầu thu nhặt vỏ lon và đi bán ve chai. Một thùng như vậy được 50 öre. Có lúc tôi gom nhiều đến mức đủ để kiếm được 50 hoặc 100 kronor. Tôi hài lòng với số tiền ấy. Tôi cũng dần khá hơn trong việc “đọc tâm trạng” của bố mình. Ngày đầu tiên sau khi say xỉn, bao giờ ông cũng dễ thương.
Ngày thứ hai tệ hơn và sẽ càng tệ dần cho đến khi ông say một trận bí tỉ khác. Thế là vào những lúc ông vui nhất, tôi có thể đến
xin tiền. Ông hào phóng cho những 500 kronor.
Tôi dùng số tiền ấy để sưu tập hình cầu thủ. Họ gói ba bức ngẫu nhiên vào trong một gói nhỏ kẹo cao su. Mỗi lần mở bao tôi đều hồi hộp: Chà chà, lần này mình sẽ có hình ai đây nhỉ? Maradona chăng? Thường thì sẽ thất vọng bởi tôi toàn có hình những cầu thủ Thụy Điển mà mình chả biết tên. Có lần, tôi mua cả một gói to về nhà. Trúng mánh, bởi vì bên trong toàn những cầu thủ Brazil.
Tôi và bố thỉnh thoảng xem bóng đá chung và nói chuyện rôm rả. Chỉ có khi nào bia rượu vào thì ông mới đổi khác. Nhưng tôi không bỏ mặc ông như người anh cùng cha khác mẹ của mình, tôi nói với bố: “Bố uống nhiều quá, bỏ đi”. Ông gầm gừ nhìn tôi, nhưng tôi vẫn nói. Có lúc hai bố con cãi nhau kịch liệt, ông gầm lên: “Tao sẽ tống mày ra khỏi nhà.” Nhưng ông chưa một lần đánh tôi. Sâu thẳm bên trong ông là con người nhân hậu và hiền lành nhất thế giới.
Anh tôi nói đúng: “Bố uống để chôn giấu nỗi đau khổ của mình.” Nỗi đau ấy đến từ gia đình, và còn đến từ cả chiến tranh nữa.
Chiến tranh là một điều điên rồ mà tôi không bao giờ hiểu được bản chất thật sự của nó. Tôi có hỏi, nhưng người lớn dứt khoát không trả lời. Họ bảo vệ tôi khỏi ký ức kinh khủng mà mình đã từng trải qua.
Tôi không hiểu nổi vì sao mẹ và các chị lại mặc đồ đen. Thật lạ, cứ như một kiểu thời trang vậy. Đám tang bà tôi đấy, bà mất do bom ở Croatia. Mọi người mặc đồ tang và than khóc, trừ tôi. Tôi còn nhỏ, không biết chuyện gì xảy ra và không quan tâm ai là người Serbia, người Bosnia, người nào mà chả được. Nhưng người bị ảnh hưởng tồi tệ nhất chính là bố.
Bố là người vùng Bijelina, Bosnia. Thời còn trẻ, bố làm thợ xây. Gia đình bố và bạn bè đều sống ở thành phố này cho đến khi chiến tranh bất ngờ ập đến. Bijelina bị bao vây, người Serb tràn
g ập j ị y g
vào và thảm sát hàng trăm người Hồi giáo. Bố tôi, một người theo đạo Hồi, quen biết nhiều trong số những người bị hành quyết ấy. Quá sợ hãi, ông cùng gia đình chạy trốn.
Người Serb tràn vào, chiếm lấy Bijelina, thay thế hoàn toàn dân số của vùng. Họ chiếm căn nhà cũ của bố, và những người quen của bố. Sau này tôi mới hiểu vì sao bố không có thời gian dành cho tôi, trong những ngày tháng dài bất tận ngồi trước tivi chờ bản tin hay một cuộc điện thoại từ đâu đó. Chiến tranh khiến cho bố tôi chết mòn. Ông cứ ngồi đấy, một mình, uống bia, buồn bã và nghe nhạc Nam Tư. Tôi thì cố ở ngoài đường càng lâu càng tốt, không thì chạy qua nhà mẹ chơi.
Nhà mẹ là một thế giới hoàn toàn khác. Chỗ bố chỉ có hai cha con, còn chỗ của mẹ đông như gánh xiếc. Mọi người cứ đến và đi, nói cười rộn ràng và gõ cửa ầm ầm. Mẹ tôi lúc này đã rời lên tầng năm, cũng trong căn hộ ở đường Cronmans, ngay trên tầng của dì Hanife mà tôi cứ quen gọi là Hanna.
Tôi, Keki và Sanela rất thân thiết với nhau, nhưng nhà mẹ cũng đầy những thứ rác rưởi. Bà chị cùng mẹ khác cha với tôi ngày càng lún sâu hơn vào ma túy. Cứ nghe thấy tiếng điện thoại hay gõ cửa là mẹ tôi lại giật mình theo kiểu: “Trời ơi, nhiêu đó tai họa chưa đủ hay sao cơ chứ?” Mẹ tôi điên dại với mọi thể loại ma túy. Thế nên nom mẹ già trước tuổi. Mẹ tôi ám ảnh đến mức cách đây chưa lâu, mẹ gọi điện thoại đến, giọng thất thanh:
“Trời ơi, nó nhét cả ma túy vào trong tủ lạnh”.
Tôi gọi Keki, nó bảo có gì đâu. Thì ra đó chỉ là snus6. [6] Một loại thuốc lá nhai của Thụy Điển.
“Kìa mẹ, snus thôi mà”.
“Có khác quái gì đâu”.
Những ngày ấy thật sự đã ám ảnh mẹ. Chúng tôi lẽ ra phải cư xử tốt hơn, ngoan hơn để mẹ đỡ buồn, nhưng có đứa nào biết phải cư xử sao cho đúng đâu, bỗ bã mãi quen rồi. Người chị kia cùng đống ma túy rồi cũng cuốn gói khỏi nhà để đi cai nghiện. Nhưng thứ ấy đã dính vào thì làm sao cai được. Thế nên, thỉnh thoảng chị quay trở về nhà và mẹ lại phải đuổi đi. Rồi cuối cùng họ cũng cắt đứt liên lạc với nhau và tôi không rõ chuyện ấy đã diễn ra thế nào.
Tôi nhớ một lần đến thăm căn hộ nhỏ của chị ấy. Hình như là vào sinh nhật tôi. Chị mua cho tôi ít quà, sau tất cả mọi chuyện thì chị vẫn là một người tử tế với tôi. Rồi tôi vào nhà tắm, chị hét toáng lên chạy theo ngăn lại, giành vào trước để dọn dẹp đủ thứ như thể sợ tôi phát hiện bí mật nào đó vậy. Tôi biết có chuyện không ổn.
Có thể đó là ma túy. Bà chị cùng mẹ khác cha không bao giờ muốn tôi dính vào thứ này. Gia đình luôn cố giấu tôi khỏi những điều tồi tệ. Và tuổi thơ của tôi đã trôi qua như thế: Trộm xe đạp và đá bóng, nhưng tuyệt nhiên không có hút chích gì. Từ bé, tôi đã mơ mình thành Lý Tiểu Long, hoặc Muhammad Ali.
Bố có người anh ruột tên Sabahudin hồi còn ở Nam Tư cũ. Họ gọi bác là Sapko, về sau ông anh tôi cũng mang cái tên này. Sabahudin là một võ sĩ quyền Anh, một tài năng thật sự. Bác đánh cho CLB quyền Anh Radnički ở thành phố Kragujevac và giành chức vô địch Nam Tư, sau đó còn được gọi lên đội tuyển quốc gia.
Năm 1967, bác lập gia đình ở tuổi 23. Mọi thứ đang rộng mở phía trước thì tai nạn ập đến. Khi đi bơi ở con sông Neretva, có thể do tim hoặc phổi bất ngờ trở chứng, bác đã để cho dòng nước nhấn chìm và chết đuối. Đây là một cú sốc khủng khiếp với cả gia đình. Bố tôi vì sự kiện ấy mà phát cuồng với những thể loại đánh nhau. Bố cố thu thập tất cả những trận đấu quyền Anh, không chỉ của Sabahudin anh mình mà cả của Ali, Foreman và
Tyson. Đánh nhau như Lý Tiểu Long, Thành Long, bố tôi cũng xem.
Tôi lớn lên cùng những thước phim đó. Truyền hình Thụy Điển thời ấy tệ hại. Đến tận 20 tuổi tôi mới xem được bộ phim Thụy Điển đầu tiên. Tôi chả có chút kiến thức nào về các người hùng Thụy Điển, hay các VĐV thể thao danh tiếng. Cỡ như Ingemar Stenmark7 là tôi mù tịt. Tôi chỉ biết mỗi Ali! Một huyền thoại. Ông ấy làm mọi thứ theo cách của riêng mình bất chấp mọi người có nói gì đi nữa. Ali không bao giờ xin lỗi, quá chất! Tôi đã học cách sống ấy. Tôi luôn cố bắt chước ông ấy, kiểu như “Tôi là người vĩ đại nhất”. Sống ở Rosengård, bạn phải rắn rỏi mới mong tồn tại được. Nếu đứa nào chửi mình, chớ có bỏ qua cho nó.
[7] VĐV trượt tuyết lừng danh, từng hai lần giành HCV Olympic và ba lần vô địch thế giới.
Nhưng trong phần lớn thời gian, chúng tôi lại sống rất yên bình. “Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau” mà. Nhưng hễ ai đó động đến Rosengård thì có chuyện ngay. Tôi đã ở đó, trừng mắt dõi theo và chửi thề ỏm tỏi bọn phân biệt chủng tộc diễu hành ngang qua vào ngày 30/11 hàng năm để tưởng niệm Vua Charles XII8. Một lần, trong ngày hội Malmö, tôi thấy một đám thanh niên xứ Rosengård, khoảng hai trăm người là ít, đang đuổi một gã khác. Cảnh tượng ấy trông không vui vẻ gì đâu, nhưng vì đám ấy là người xứ mình, thành ra tôi cũng... nhập bọn. Gã xấu số ấy đã trải qua một ngày chả mấy vui vẻ. Chúng tôi cao ngạo và hoang dã, nhưng gồng lên để sống không phải bao giờ cũng dễ dàng.
[8] Vị vua vĩ đại của đế quốc Thụy Điển, trị vì từ năm 1697 đến khi qua đời (năm 1718).
Khi tôi và bố chuyển đến sống gần trường Stenkula, tôi thường ở chơi nhà mẹ đến tận khuya mới về. Những lúc ấy, tôi phải đi
bộ qua một đường hầm tối tăm băng qua đường Amiral và dọc cây cầu Annelunds. Nhiều năm trước đó, bố tôi bị người ta tóm được khi đang ăn trộm và bị đánh đến lủng phổi. Tôi không bao giờ muốn nhớ về ký ức ấy, nhưng nó cứ ám ảnh tôi mãi. Cứ cố đè nén thì nó lại càng bung ra. Có một con hẻm kinh tởm với vài bụi rậm và chỉ có hai ngọn đèn, một ở phía trước đường hầm và một ở phía sau. Đoạn đường ở giữa chỉ toàn một màu đen. Thế là tôi lao vào bóng tối, cố chạy từ bóng đèn đầu hầm sang bóng đèn ở đầu bên kia.
Tôi chạy như điên, tim đập thình thịch trong lồng ngực, trong đầu cứ sợ bóng tối sẽ tràn ngập những điều kinh khủng, chẳng hạn như có cả bọn khốn nạn đang chờ đập mình, như cách chúng đánh bố ngày trước. Tôi cứ chạy, ráng tăng tốc độ hết cỡ với niềm tin là chỉ cần chạy nhanh, không thứ gì có thể đuổi kịp tôi. Khi về được đến nhà, tôi mới tự tin là mình đã an toàn, nhưng khi ấy thì thở chả ra hơi nữa. Nom chẳng oai phong chút nào, chẳng ra dáng Muhammad Ali gì cả.
Một lần khác, bố dẫn tôi và chị Sanela đi bơi ở Arlöv. Sau đó tôi xin đến nhà một đứa bạn chơi. Khi về nhà, trời mưa như trút. Tôi đạp xe như điên và về nhà trong tình trạng ướt như chuột. Khi ấy chúng tôi đã đến sống tại Zenith, hơi xa một chút so với Rosengård. Mệt kinh khủng, bụng đau như có ai đấm, tôi chỉ biết cuộn tròn trên giường, miệng nôn thốc nôn tháo, tinh thần thì hoảng loạn.
Bố bước vào và nhìn thấy tôi như thế. Bình thường ông chỉ ngồi một chỗ, vật vờ như bóng ma. Nhưng khi xảy ra chuyện thì không ai quyết liệt như bố tôi. Ông gọi ngay một chiếc taxi và xốc tôi lên, tôi lọt thỏm vào vòng tay ông như một con tép. Khi ấy, tôi có cảm giác mình nhẹ như một sợi lông chim vậy. Bố quá khỏe và mạnh mẽ, lại thêm cơn điên trợ lực. Ông như một con sư tử sổng chuồng và hét lên với cô lái taxi:
“Nó là con tôi, là mọi thứ của đời tôi. Cô kệ mẹ luật giao thông, tiền phạt tôi đóng, cảnh sát tôi lo. Phóng đi!”
Người phụ nữ ấy chỉ có duy nhất một lựa chọn là làm theo lời bố. Cô ta vượt qua hai lượt đèn đỏ để đến khu vực dành cho trẻ em của bệnh viện Malmö. Sau đó tôi được chuyển ngay vào khoa cấp cứu với một mũi tiêm thẳng vào lưng. Bố tôi từng nghe nói có người chích mũi ấy rồi sau đó bị liệt nên chửi thề loạn cả lên. Khi ấy tôi mà có vấn đề gì thì chắc bố sẽ làm sập cả thành phố mất.
Nhưng rồi bố cũng bình tĩnh lại và để cho bác sĩ làm việc của mình. Tôi thì nằm trên giường, rên rỉ. Bác sĩ cho biết tôi bị viêm màng não, y tá tắt hết đèn, xung quanh tôi chỉ toàn bóng tối. Nhưng tôi biết trong bóng đêm ấy có ánh mắt của bố đang dõi theo mình. Năm giờ sáng hôm sau tôi thức dậy, cơn nguy kịch đã qua. Tôi chả biết vì sao mình lại bị bệnh. Có thể do ăn uống không đủ. Hồi ấy tôi nhỏ con và yếu ớt, chỉ mạnh trong suy nghĩ mà thôi.
Vì mạnh trong suy nghĩ nên tôi mau chóng quên đi ký ức kinh hoàng đó. Tôi lại chạy đi chơi, tự trưởng thành theo cách của riêng mình. Cũng như bố, luôn có một ngọn lửa trong tôi và tôi có thể bùng nổ bất kỳ lúc nào. Cách bố thương tôi đã giúp tôi trở nên rắn rỏi hơn.
Bố tôi không bao giờ nói: “Mày phải thế này, thế kia, dứt khoát không được làm việc này”. Mà ngay cả khi nói vậy thì có lẽ tôi cũng chả thèm nghe. Nếu là đứa con trong thế giới của bố tôi, bạn cũng sẽ tự giải quyết vấn đề của mình như một người đàn ông. “Con đau bụng quá bố ơi” hay đại loại thế ư? Không có đâu.
Tôi học cách tự bước đi trên đôi chân của mình, học cách hy sinh chính mình. Khi chúng tôi mua một chiếc giường ở Ikea, bố không có đủ tiền để vận chuyển, 500 kronor hay đại loại thế. Đơn giản thôi, bố vác cái giường từ tiệm về nhà, tôi phụ bố xách
cái đầu giường. Cứ thế lầm lũi đi hàng dặm đường. Cái đầu giường nhẹ vậy, nhưng tôi thỉnh thoảng vẫn yêu cầu bố dừng lại. Nhưng ông vẫn lầm lũi bước tiếp. Khí khái nam nhi toát ra trong từng bước đi.
Khi ông đến trường họp phụ huynh cho tôi, mọi người đều hỏi nhau: “Ai thế?” Đến cả các giáo viên gặp bố tôi cũng chả dám than phiền về tôi nhiều như họ dự định. Nhìn bố, ai cũng nghĩ: Cẩn thận với lão này là hơn.
Mọi người vẫn thường hỏi tôi rằng, tôi sẽ làm gì nếu không trở thành cầu thủ? Tôi cũng không biết nữa. Nhưng có lẽ sẽ làm tội phạm. Rosengård nơi tôi sống đầy rẫy những tội ác, chứ không chỉ dừng lại ở ăn cắp xe đạp hay chôm đồ trong siêu thị. Chính tôi cũng đã từng cảm thấy hào hứng với những trò trộm cắp ấy. Không có bóng đá, tôi đang nghĩ, có lẽ tôi cũng sẽ trở thành một tên trộm mà thôi.
Phần vì lành nghề, phần vì may mắn, tôi rất ít khi gặp rắc rối khi thực hiện những vụ trộm, dù là đi một mình hay với đám bạn.
Cái ngày mà tôi bị bắt tại khu mua sắm Wessels khi mặc những chiếc áo mùa đông mà tôi từng kể trước đây, tôi thật sự rất may. Những món đồ chúng tôi thuổng từ cửa hàng ấy trị giá đến 1.400 kronor. Đây không còn là chuyện trộm cái kẹo, hay quả bóng nữa. Nhưng bố một đứa bạn đã đến bảo lãnh cho cả bọn. Khi lá thư gửi về nhà thông báo Zlatan Ibrahimović ăn trộm tại cửa hàng, tôi cũng là người đầu tiên nhận nó. Xé ngay, phi tang như chưa hề tồn tại. Bố tôi mà đọc thư đó thì thể nào cũng to chuyện. Nhẹ nhõm vì thoát nạn, tôi lại... đi ăn trộm tiếp.
Nhưng có một điều mà tôi chắc chắn: Không bao giờ tôi dính vào ma túy. Tôi tuyệt đối tránh xa cái chất trắng giết người ấy. Những chất kích thích khác cũng không có cửa dụ dỗ tôi. Tôi không chỉ lén đổ bia của bố vào bồn nước, tôi còn vứt thuốc lá của mẹ đi. Tôi căm thù những chất độc hại.
Năm 17 hay 18 tuổi gì đó, tôi say trận đầu tiên trong đời và té cầu thang. Bọn trẻ trâu tập tành nào chả vậy. Nhưng đấy cũng là lần say sưa hiếm hoi trong đời. Tôi không nghiện bia rượu. Sau đó cũng chỉ có thêm một lần tôi say không biết gì. Đó là sau khi giành scudetto đầu tiên với Juventus, tôi gục luôn trong bồn tắm và say một trận không còn biết trời trăng mây nước. Chính “con rắn” Trézéguet đã đẩy tôi vào màn uống thi.
Tôi và chị Sanela cũng quản thúc Keki rất dữ. Nó không được phép hút thuốc hay uống rượu. Chúng tôi đã cùng chăm sóc nó rất tốt và lắng nghe nó tâm sự, thay luôn phần của bố mẹ. Chuyện gì nhạy cảm thì nó chạy đến tìm chị Sanela, chuyện gì rắn rỏi nó lại đến nhờ tôi. Tôi bảo vệ nó, chịu trách nhiệm cho hành vi của nó.
Nhưng tôi không phải là thánh. Nếu như tôi vẫn ăn nói bỗ bã với những người trong gia đình thì đừng đòi hỏi tôi lúc nào cũng phải tốt bụng và dễ thương với bạn bè, đồng đội. Tôi vẫn sẽ cư xử kiểu khiêu khích, nhưng một khi đã coi là người thân thì tôi sẽ bảo vệ họ đến cùng. Đấy là một thực tế mà mọi người đừng quên. Luôn có hai mặt trong con người tôi.
Tôi sống kỷ luật, nhưng hoang dã. Tôi nói được, cũng làm được. Tôi không phải kẻ to mồm: “Bố mày là đỉnh của đỉnh. Mày là cái quái gì?” Vậy thì trẻ con quá. Mình có thể kiêu ngạo nếu muốn, nhưng mình phải giỏi thật. Tôi là một người như thế. Nói vậy không có nghĩa tôi muốn trở thành một siêu sao, hay đại loại thế. Lạy Chúa, tôi đến từ Rosengård mà. Siêu sao nỗi gì ở cái chốn ấy. Nhưng tôi quả thật có chút khác biệt.
Tôi là kẻ rắc rối, tôi là gã điên. Đúng đấy, nhưng tôi có cá tính riêng. Tôi thường xuyên cúp học. Tôi gặp khó khăn trong việc phải thức dậy sớm vào mỗi sáng, nhưng tôi vẫn ra khỏi giường. Tôi không thích làm bài tập, nhưng thỉnh thoảng vẫn hoàn thành. Toán là dễ nhất. Bem, bem, bem, đáp số đây rồi. Giống như trên sân cỏ vậy, giải pháp đến với tôi nhanh như một tia
chớp. Nhưng tôi gặp vấn đề trong khâu diễn đạt. Thế là thầy giáo nghĩ tôi gian lận, copy bài của ai đó.
Tôi không phải là một nam sinh đúng nghĩa. Nhưng tôi có học. Tôi vẫn đọc bài trước mỗi kỳ thi, dù đến khi vào thi thì tôi quên sạch. Tôi thật sự không phải một gã cá biệt trong trường. Tôi chỉ gặp vấn đề về mặt giao tiếp. Tôi không ngồi yên một chỗ được, phải lấy dây thun bắn các bạn tôi mới chịu nổi. Kiểu kiểu thế, cứ như là có kiến trong quần tôi vậy.
Trong những năm hỗn loạn của thời niên thiếu, chúng tôi đã thay đổi chỗ ở liên tục, gần như không cố định nổi một nơi nào hơn 1 năm. Các thầy giáo luôn xem mỗi lần chuyển nhà như thế là một cơ hội để tống khứ tôi. Họ bảo tôi cũng nên đổi trường cho rồi, kiếm trường nào gần nhà mà học. Thế là tôi lại sang một trường mới, chật vật kết bạn lại từ đầu. Từ trường đến nhà, từ nhà về trường, tôi không có nhiều niềm vui khi còn nhỏ.
Bạn biết đấy, những người đến từ vùng Balkan như chúng tôi rất cứng rắn. Bà chị tôi dính vào ma túy thì hết cửa quay về nhà luôn. Mẹ tôi xóa sổ chị ta như thể chị chưa từng tồn tại. Một bà chị khác cũng sớm bị đuổi ra khỏi nhà. Tôi không rõ vì sao. Chị ấy có một tay bồ đến từ Nam Tư. Họ cãi nhau kịch liệt và thật ngạc nhiên là mẹ lại đứng về phía anh ta, vì lý do gì đó không rõ. Thế là hai mẹ con đâm ra mâu thuẫn.
Nhà mẹ tôi ban đầu có năm người, sau đó chỉ còn lại ba: tôi, Sanela và Aleksandar. Những rạn nứt với hai người chị kia mãi mãi không được hàn gắn, như người ta viết vào trong đá vậy. Mười lăm năm sau chị ấy gọi lại, chính xác là con chị ấy, tức cháu ngoại của mẹ tôi.
“Chào ngoại”, thằng nhóc nói.
“Mày lộn số rồi”, mẹ tôi lạnh lùng cúp máy, như không có bất kỳ quan hệ gì.
Tôi không thể tin vào tai mình. Tôi chỉ muốn bỏ nhà đi cho rồi. Sao mẹ có thể cư xử như vậy được chứ. Những lúc ấy, tôi cảm thấy mình thật may khi có bóng đá.
“N
CHƯƠNG 3
ếu bất kỳ ai đối xử với Maxi và Vincent theo kiểu khác biệt ở trường, tôi sẽ nhảy dựng lên. Có khi tôi còn cư xử kinh khủng hơn cả bố mình ngày trước.
Thế nhưng cũng nhờ vào vị giáo viên đặc biệt ấy, nhờ ánh mắt kỳ thị của những thầy cô trong trường mà tôi đã trở nên mạnh mẽ hơn. Có thể nó đã góp phần trui rèn nên một chiến binh sau này.”
Ở Rosengård có nhiều khu vực tách biệt, khu của người Albania, người Thổ và khu Gypsy. Chả có khu nào ngon lành hơn khu nào và bạn phải sống trong phạm vi của mình, đừng dại dột đi sang những khu khác. Khu mẹ tôi sống được gọi là Törnrosen, có nghĩa là Hồng dại9. Nơi ấy có một chiếc xích đu, một cột cờ, một khu vui chơi và một sân bóng, nơi chúng tôi lăn lóc hàng ngày. Thỉnh thoảng đám trẻ đàn anh không cho tôi tham gia vì tôi còn quá nhỏ.
[9] Briar Rose, cũng chính là biệt danh của “Nàng công chúa ngủ trong rừng” trong truyện cổ Grimm.
Tôi ghét bị ra rìa, tôi ghét thất bại. Nhưng điều quan trọng nhất trong những năm tháng đá bóng đầu đời không phải là chuyện thắng thua. Thứ gây cảm giác mãnh liệt nhất với tôi là những pha lừa bóng. Tôi sướng mê tơi khi nghe đám trẻ ồ lên: “Nhìn kìa, nhìn nó biểu diễn kìa!”
Tôi nhỏ bé và yếu ớt, nhưng tôi luôn khiến những đứa lớn hơn phải trầm trồ thán phục. Cảm giác sung sướng ấy thôi thúc tôi tập luyện như điên để trở thành người giỏi nhất.
Mẹ tôi thường xuyên thò đầu ra cửa sổ và hét: “Trễ rồi, đồ ăn sắp nguội hết, mày có vào nhà không hả?”
“Vào liền, vào liền”, tôi nói và... tiếp tục chơi cho đến tối mịt, đến khi trời mưa xối xả và sân bóng trở thành một mớ bùn đất hổ lốn. Nhưng quả bóng đã trở thành bạn của đám trẻ, chúng tôi gần như không biết mệt. Trên cái sân nhỏ bé ấy, bạn phải biết tận dụng mọi khoảng không có thể, phải thật nhanh, nhanh ở đôi chân và nhanh cả trong suy nghĩ. Tôi nhỏ bé, dễ bị lấn lướt, xô ngã nên càng phải trau dồi kỹ thuật. Nếu không thì sẽ không còn tiếng trầm trồ nữa. Những tiếng ồ lên của đám trẻ là một điều gì đó thật kích thích. Tôi ngủ với quả bóng, trong đầu luôn nghĩ về những cách lừa bóng mới sẽ áp dụng cho ngày hôm sau. Giống như một bộ phim truyền hình vậy, nó cứ chiếu hết ngày này qua ngày khác.
CLB đầu tiên của tôi là MBI, Malmö Boll och Idrottsförening10. Tôi 6 tuổi khi bắt đầu vào đội. Sân bóng được rải sỏi và nằm sau lưng một vài doanh trại màu xanh. Tôi đến sân tập trên những chiếc xe đạp mà mình trộm được. Phải sinh hoạt tập thể lần đầu trong đời, tôi cư xử không được tốt lắm. HLV thường xuyên đuổi tôi về nhà và tôi đã chửi vào mặt họ. Lúc nào cũng có những yêu cầu phải chuyền bóng trong khi tôi chỉ thích lừa bóng. Chơi bóng mà không được lừa bóng, thì tôi có khác gì con cá mắc cạn. MBI là tập thể của nhiều cậu bé nhập cư, chơi cùng với những cậu bé Thụy Điển. Khi thấy tôi cứ thích biểu diễn, các phụ huynh đứng ngoài la hét, gầm lên là “Hãy chuyền bóng đi”. Thế là tôi chửi họ nốt. Tôi đã thay đổi CLB rất nhiều lần, trước khi ổn định tại FBK Balkan. Ở đó là một câu chuyện khác.
[10] Tạm dịch là Hiệp hội bóng đá và các môn thể thao khác của Malmö.
Nếu ở MBI, các ông bố thường đứng ở hàng rào và khuyến khích: “Cố lên nào con, hay quá” thì ở đây, đám người lớn la hét: “Đá cho đàng hoàng vào lũ quỷ nhỏ, tao sẽ xử mẹ mày”. Đám người
Nam Tư điên loạn ấy hút thuốc như điên ở ngoài sân và quăng giày khắp nơi. Tôi nghĩ: “Tuyệt vời, đây mới chính là nơi của mình”.
HLV của chúng tôi là một người Bosnia, từng làm cầu thủ chuyên nghiệp ở Nam Tư, ông ấy giống như một người cha nuôi vậy. Thỉnh thoảng ông chở bọn tôi về nhà, cho ít tiền, mua kem cho cả bọn và cứu tôi thoát khỏi những cơn đói.
Những chàng trai đội bóng Malmö FF
Những chàng trai đội bóng BI
Thời gian đầu tiên ở đó, tôi chơi ở vị trí thủ môn. Tôi chả nhớ vì sao lại như vậy nữa. Có lẽ do một lần tôi quá điên với gã thủ môn của đội và nói: “Mày chụp chuối lắm. Tao còn hay hơn, đưa cái găng đây và xéo đi chỗ khác.” Kiểu vậy. Nhưng đến trận sau, tôi phải nhận một rổ bàn thua và nổi điên. Tôi chửi tất cả. Tụi mày là rác rưởi, bóng đá là rác rưởi, cả thế giới này là đồ rác rưởi, tao sẽ chơi hockey và tránh xa cái môn bóng đá thổ tả này. Tao sẽ là một VĐV hockey chuyên nghiệp cho bọn mày biết tay.
Tôi tìm đến hockey, nhưng tiền đâu mà chơi. Đám dụng cụ lỉnh kỉnh hao tốn ấy giết chết mong muốn của tôi từ trong trứng nước. Thế là tôi đành phải quay lại với môn thể thao rác rưởi có tên gọi bóng đá. Tôi thôi làm thủ môn mà lên trên làm tiền đạo. Đó là nơi khởi đầu của những điều tốt đẹp.
Một ngày nọ, chúng tôi phải đá trận quan trọng. Tôi không có mặt trên sân và mọi người bắt đầu la lên: “Zlatan đâu? Zlatan đâu rồi?” Lúc ấy chỉ còn vài phút nữa là trận đấu sẽ diễn ra, HLV và đồng đội tức đến mức chỉ muốn giết chết tôi: “Thằng điên ấy
đâu rồi? Sao nó có thể biến mất trong một trận quan trọng như thế này được chứ?”
Rồi họ thấy thằng điên ấy trên chiếc xe đạp ăn trộm đang phi như bay vào sân. Cứ ngỡ như nó cán luôn cả ông HLV đang nóng ruột, nhưng không, chiếc xe thắng một cái két, tôi chạy luôn vào sân, khỏi có màn chào hỏi gì cả. Cay mắt vì cát bụi bay thẳng vào mắt, lại đang điên tiết vì đứa học trò hỗn láo, HLV vẫn cho tôi vào sân. Hình như trận ấy chúng tôi thắng, bọn tôi là một đội khá ngon lành.
Một lần khác, tôi bị phạt phải ngồi ngoài vì quậy phá gì đó, chuyện thường ngày ở huyện ấy mà. Hết hiệp một, chúng tôi bị đội “trẻ ngoan” Vellinge dẫn trước đến 0-4. Đấy là đội bóng của những đứa trẻ được ăn ngon mặc đẹp, cuộc sống đủ đầy. Còn chúng tôi là đội bóng của những đứa nhập cư khốn khổ. Đứa nào cũng muốn thể hiện mình nhưng bất lực vì đối phương quá mạnh. Vậy mà HLV dám để tôi ngồi dự bị.
“Ơ kìa, ông bị khùng hả?” Tôi hỏi HLV.
“Nhóc con, bình tĩnh, tao sẽ sớm cho mày vào sân.”
Tôi được tung vào sân trong hiệp hai và ghi 8 bàn. Chúng tôi từ chỗ bị dẫn 0-4, thắng ngược lại 8-5 và cho đám trẻ ngoan một bài học. Tôi đá rất ngon, kỹ thuật đầy mình, hết sảy trong không gian hẹp. Tôi đã trở thành một nhà vô địch tí hon trong khu nhà của mẹ tôi như thế đó. Và tôi phát bệnh với đám người nhận vơ thành quả của mình, kiểu như: “Tôi biết ngay Zlatan rất đặc biệt mà”, hay: “Hồi đó tôi dạy nó đá bóng chứ ai”. Trước đó, chẳng có ai chìa tay ra cho tôi, bây giờ thì lại nói như thế.
Sự nghiệp bóng đá của tôi không suôn sẻ theo kiểu một phát lên ngay. Đâu có CLB lớn nào gõ cửa nhà tôi. Tôi hay đấy nhưng vẫn bị coi như một thằng dị hợm nhiều hơn. Người ta không thốt lên: “Ồ, đứa trẻ nào mà tài năng thế?” Thay vào đấy là: “Ai lại cho thằng nhập cư này vào đội nhỉ?” Tôi cũng không có được sự ổn
g ập y ộ g g ợ ự định trong những năm tháng đầu tiên bước vào nghề. Mới trận trước tám bàn, trận sau đã “như hạch” ngay.
Tôi thường hay đi chơi với một gã tên Tony Flygare. Bọn tôi có cùng thầy dạy ngôn ngữ tại nhà. Bố mẹ của gã cũng đến từ Balkan và hắn cũng rắn rỏi như tôi. Gã không sống ở Rosengård mà ở khu gần đó, trên một con đường tên Vitemöllegatan. Thậm chí hai đứa chúng tôi còn sinh cùng năm, hắn tháng 1, còn tôi tháng 10. Nhiêu ấy cũng đủ tạo ra khác biệt trong những ngày chập chững đó. Nó to hơn, khỏe hơn và được xem là một tài năng triển vọng hơn. Mọi người thường nhìn Tony và bảo: “Nhìn kìa, ngon lành chưa!” và tôi phải đứng trong chiếc bóng của hắn.
Không sao, vì như tôi đã nói, tôi không phải thiên tài bẩm sinh. Việc phải đứng sau nó càng thúc cho tôi nghiến răng mà cố gắng nhiều hơn. Tôi là tên nổi loạn, khó bảo và không thể điều khiển được cảm xúc của mình. Tôi vẫn hét vào mặt đối phương, đồng đội, trọng tài và thay CLB liên tục. Từ Balkan sang MBI, trở lại Balkan rồi sang BK Flagg.
Đấy là những tháng ngày hỗn tạp. Không ai đưa tôi đến sân tập, tự tôi phải chạy đến trên những chiếc xe đạp ăn trộm. Thỉnh thoảng tôi nhìn bố mẹ của đám bạn mà cảm thấy buồn lòng. Bố không bao giờ ở đó, không trong đám người Nam Tư lẫn đám người Thụy Điển. Nhưng rồi tôi phải tập làm quen và quên đi chuyện này. Không có bố, mình tự thương lấy mình vậy. Sự tủi thân vẫn còn, nhưng tôi cố trở nên rắn rỏi hơn từng ngày. Bố là bố mình, bố có tuyệt vọng nhưng vẫn tuyệt vời. Chỉ có điều tôi chẳng thể dựa vào người bố ấy, như những đứa trẻ khác vẫn làm với bố của chúng. Nhưng thỉnh thoảng, tôi vẫn mong bố ghé qua sân ngó nghiêng một chút, xem tôi rê một quả bóng qua ba, bốn cầu thủ, mà không khác gì những danh thủ Brazil thứ thiệt.
Có những lúc bố đột nhiên nghĩ về tương lai của tôi. Bố muốn tôi trở thành luật sư. Nhưng tôi chưa từng dành thời gian để
Ở
nghĩ về ý muốn ấy của ông. Ở khu tôi sống, đâu có nhiều người trở thành luật sư. Chúng tôi lớn lên trên đường phố, làm những việc điên rồ và chẳng cần đến sự coi sóc của bố mẹ. Không bao giờ có chuyện: “Để bố giải thích lịch sử Thụy Điển cho con nghe.” Bố chỉ ngập trong bia bọt, âm nhạc và những ký ức chiến tranh, dường như bố chả quan tâm đến thứ gì trên đời. Nhưng tôi không thể quên một hôm, bố gọi tôi đến và nói:
“Zlatan, đã đến lúc chơi cho một đội bóng mạnh rồi đó”. “Ý bố là sao?”
“Là đội bóng lớn đó, Zlatan. Như Malmö FF chẳng hạn”.
Tôi không nghĩ mình thật sự hiểu rõ ý bố. Malmö FF thì có gì đặc biệt chứ? Nhưng tôi biết CLB ấy vì đã từng đá với họ một lần khi chơi cho Balkan. Và tôi nghĩ: “Tại sao không nhỉ? Nếu bố nói Malmö ngon lành thì nhất định là như thế rồi”.
Tôi quyết định đăng ký vào Malmö, dù chưa biết gì về đội bóng này. Sân vận động ở đâu? Thành phố ấy thế nào? Tất cả đều mới mẻ, như một thế giới khác vậy. Cho giày và ít quần áo vào giỏ, tôi chạy đến sân tập Malmö vẫn trên những chiếc xe đạp trộm
được, tốn mất khoảng ba mươi phút. Ở đây không phải cứ vào là được đá, bạn phải thử việc này nọ.
Họ bố trí cho các cầu thủ trẻ một chỗ ở trong thời gian sát hạch. Mà kỹ thuật của tôi có được tập tành bài bản gì đâu, nên tôi nghĩ thế nào mình cũng sẽ rớt và chuẩn bị dọn đồ về. Nhưng đến ngày thứ hai thì một HLV tên Nils đến nói với tôi:
“Chào mừng cậu đến đội bóng.”
“Ông nói thật chứ?”
Khi ấy tôi 13 tuổi. Lúc tôi vào đội thì đã có một vài người nước ngoài ở đó rồi, Tony là một trong số đó. Nhưng tôi vẫn có cảm
giác là mình đến từ Sao Hỏa, không chỉ vì bố tôi không có biệt thự, không đến xem tôi thi đấu mà còn bởi tôi nói chuyện và cư xử quá khác biệt. Tôi lừa bóng và bùng nổ như một quả bom. Tôi mang thứ bóng đá đường phố của mình vào trong sân cỏ. Một lần nọ, tôi bị phạt thẻ vàng vì đã la hét đồng đội của mình.
“Cậu không thể hành xử như vậy”, vị trọng tài nói. “Chết mẹ ông đi”, tôi hét lên và ăn ngay một thẻ đỏ.
Đám cầu thủ Thụy Điển bắt đầu bàn tán. Bố mẹ chúng muốn tôi rời khỏi đội. Tôi cũng nghĩ: “Kệ Malmö chứ, mình sẽ đổi CLB một lần nữa. Không thì mình chuyển hẳn sang chơi Taekwondo. Taekwondo còn hay hơn bóng đá gấp trăm lần ấy”. Bố của một đứa trong đội còn đi thu thập chữ ký của các phụ huynh để vận động tống tôi ra khỏi đội, không thể để nó ảnh hưởng đến mấy đứa quý tử. “Zlatan không được phép ở đây. Chúng ta phải đuổi nó đi, bla bla bla.”
Cái danh sách chữ ký xuất hiện sau khi tôi đánh con trai của vị phụ huynh đó. Nhưng đấy là do nó liên tục đạp tôi và tôi buộc phải trả đũa. Một cú húc đầu, nhưng sau đó tôi đã hối hận. Tôi chạy xe đạp đến tận bệnh viện và xin lỗi rồi cơ mà.
HLV của đội, Åke Kallenberg, nhìn bản danh sách ấy, hỏi: “Cái quái gì thế này?” rồi xé ngay. Đấy là một vị HLV tốt, nhưng không có nghĩa là ông ấy ưu ái tôi. Åke vẫn cho tôi ngồi ngoài suốt cả năm trời như thường. Ông ấy, cũng như mọi người, cho là tôi lừa bóng quá nhiều, chửi bới đồng đội quá nhiều và có thái độ không đúng mực. Thời gian ấy giúp tôi nhận ra, để trở thành cầu thủ chuyên nghiệp, tôi phải đánh bại hàng chục cầu thủ cùng lứa, phải tập luyện gấp mười lần. Nếu không thì còn lâu mới có cơ hội, đặc biệt là với một tên trộm xe đạp.
Mà tôi có muốn trộm xe đâu. Tôi vẫn cố đi bộ từ nhà đến sân tập trên đoạn đường dài bảy cây số. Nhưng có những chiếc xe... quá đẹp, ham muốn của tôi lại trỗi dậy mà không có cách nào chống
ẹp ạ ậy g g lại được. Chẳng hạn như một lần tôi thấy chiếc xe màu vàng rất đẹp, có gắn thêm cái đèo hàng.
Tại sao không, tôi nghĩ. Tôi lái đi vài vòng rồi chợt nhận ra nó là xe của bưu tá. Thế là tôi quăng nó vào một góc, cách chỗ trộm không xa để người đưa thư có thể tìm được. Tôi không muốn trộm luôn bưu phẩm của người khác.
Một lần khác, chiếc xe đạp tôi trộm được lại bị trộm mất, đường về nhà xa mà bụng thì đói meo. Thế là tôi trộm một chiếc xe đạp ở bên ngoài sân tập. Việc ấy quá đơn giản. Bang, bang, bang, thế là xong. Chỉ có một vấn đề: Chiếc xe đạp ấy là của vị... trợ lý HLV.
Ba ngày sau khi thuổng chiếc xe đạp của vị trợ lý, toàn đội tổ chức một cuộc họp. HLV trưởng hỏi: “Có đứa nào nhìn thấy chiếc xe ấy không?”
Không ai thấy cả. Tất nhiên, tôi cũng không thấy chứ sao. Trong trường hợp đó thì bạn còn biết nói gì được nữa. Phải giả điên thôi: “Ồ thế à, tiếc thật, con cũng vừa mất chiếc xe đạp của mình xong.”
Nói dối xong rồi, nhưng tôi vẫn lo âu. Tôi cảm thấy day dứt. Mình đã làm gì thế này? Sao mà xui thế, sao lại là chiếc xe của vị trợ lý cơ chứ. Bạn phải tôn trọng những HLV của mình. Đấy là điều mà tôi muốn. Họ truyền đạt kiến thức tôi không biết, chiến thuật, khu vực trên sân, đại loại thế. Đấy là những thứ tôi phải nghe họ. Còn nếu họ kêu tôi ngưng lừa bóng này, thì tôi sẽ không nghe. Thái độ của tôi luôn là như thế. Nhưng ăn trộm xe đạp của họ là điều tôi vạn lần không nghĩ đến. Vì cảm giác quá hồi hộp và có lỗi, tôi đành phải đến thú thực với vị ấy:
“Em có mượn chiếc xe của thầy một tí. Tình hình lúc ấy hơi khẩn cấp. Nhưng em sẽ trả lại thầy ngay ngày mai”.
Nói xong, tôi cười toe toét, nụ cười ấy đã giúp tôi nhiều lần trong đời. Nhưng lần này thì không. Tôi trở thành con cừu đen của cả
đội. Nếu có thứ gì mất tích, tôi đều bị nhìn với ánh mắt nghi ngờ. Hiển nhiên phải vậy rồi, có “tiền án” mà, huống chi tôi là đứa nghèo nhất đội. Khi tất cả đều có những đôi giày ngon lành của Adidas và Puma, làm từ da kangaroo thì tôi vẫn phải mang đôi giày chỉ có giá 59,90 kronor11, mua trong một đợt giảm giá ở siêu thị. Khi tôi mua, đôi giày của tôi chỉ nằm khiêm tốn bên đám cà chua và rau củ.
[11] 6 euro nếu so với tỷ giá bây giờ.
Những lúc ra nước ngoài tập huấn và thi đấu, trong lúc đồng đội mang theo mình 2.000 kronor thì tôi chỉ có vỏn vẹn 20 kronor. Đôi khi bố còn không đủ tiền chu cấp nên tôi đành xin ở nhà. Vào giờ ăn trưa, trong lúc đám bạn ăn pizza, hamburger một cách ngon lành thì tôi phải vỗ về cái bụng đói meo. “Tôi không đói, để ăn sau cũng được”, tôi nói dối đám bạn.
Tôi vừa cố hòa nhập, nhưng vẫn cố được làm chính mình. Tôi đang bước vào một giai đoạn bản thân không thực sự tự tin. Nhưng tôi không bao giờ giả tạo. Tôi thấy một số cầu thủ trẻ cũng xuất thân thấp kém như tôi, nhưng cố gồng lên để tỏ ra mình là người trung lưu, lịch sự. Có được đâu, nhìn là biết ngay. Còn tôi, tôi vẫn là chính mình. Thay vì nói: “Tao chỉ có 20 kronor”, thì tôi nói: “Tao chả có xu nào cả”. Tôi là đứa trẻ cứng cỏi đến từ Rosengård. Tôi khác biệt, và nó trở thành nhân dạng của tôi. Từ chỗ mặc cảm ban đầu, tôi dần thích thú với sự khác biệt ấy. Tôi cũng chẳng quan trọng việc mình không thần tượng bất kỳ nhân vật Thụy Điển nào.
Thỉnh thoảng chúng tôi được chọn nhặt bóng trong các trận đấu. Một lần kia Malmö đá với IFK Göteborg, một trận đấu lớn tại Thụy Điển. Đồng đội của tôi như phát điên và nhờ tôi xin chữ ký của các ngôi sao, đặc biệt là một nhân vật tên Thomas Ravelli, nghe bảo là người hùng sau một loạt cú sút penalty ở World Cup.
Tôi thì chưa từng nghe đến cái tên này. Không có cái tên Thụy Điển nào lọt vào đầu tôi cả bởi tôi chỉ mê những cầu thủ Brazil, Romário, Bebeto và những đồng đội của họ. Riêng với Ravelli thì tôi chỉ thích... cái quần thôi, tôi thậm chí đã nghĩ cách trộm nó.
Chúng tôi được yêu cầu phải bán BingoLotto12 để mang tiền về cho CLB. Tôi chẳng bao giờ mua vé số, cũng chẳng bao giờ quan tâm đến đài sẽ xổ những số nào, nhưng tôi vẫn buộc phải bán cho CLB của mình. Tôi gõ cửa những nhà hàng xóm rồi nói với họ:
[12] Một dạng vé số ở Thụy Điển.
“Xin chào, tên cháu là Zlatan. Xin lỗi đã làm phiền, nhưng chú có muốn mua một tấm không?”
Với tôi đấy là công việc kinh khủng. Đến Giáng sinh, chúng tôi còn bị buộc phải bán lịch nữa. Tôi không giỏi mồm mép nên chẳng bán được nhiều, thế là phần của tôi, bố tôi buộc phải mua hết. Thật là vớ vẩn, ngốc nghếch. Nhà tôi đâu có thừa tiền để mua những thứ ấy, và chúng tôi đâu cần thêm rác ở trong nhà. Đến bây giờ tôi vẫn không hiểu nổi vì sao CLB lại để đám trẻ làm cái trò ăn xin ấy.
Nhưng khi chơi bóng, chúng tôi thật sự là một đội mạnh. Đó là tập thể của những đứa trẻ sinh năm 1980, 1981 ở Malmö. Có Tony Flygare, Gudmunder Mete, Matias Concha, Jimmy Tamandi, Markus Rosenberg và tôi. Đều là những cầu thủ đầy triển vọng, và riêng tôi thì không ngừng tiến bộ. Dẫu vậy, vẫn còn đó những tiếng xì xầm, bàn tán: “Coi kìa, nó lại lừa bóng nữa”,“Sao cứ thích thể hiện thế nhỉ”, điều này không làm ảnh hưởng đến tôi. Đám phụ huynh ấy lấy tư cách gì mà phán xét tôi chứ.
Sau này, có lời đồn là tôi đã tính chuyện giã từ bóng đá vào thời điểm ấy. Chuyện này là bịa đặt. Nhưng tôi đã nghiêm túc nghĩ
đến chuyện chuyển sang một CLB khác. Tôi không có một người bố kề bên để bảo vệ và mua cho mình quần áo đẹp. Tôi buộc phải tự chăm sóc bản thân. Và cứ thế, tôi lại càng trở nên khác biệt. Thật may là Johnny Gyllensjö, HLV đội trẻ, không muốn mất một cầu thủ như tôi. Thế nên ông ta đã cố thuyết phục CLB hãy ký hợp đồng với tôi. “Chúng ta chuẩn bị mất đi một tài năng lớn đấy”, ông ấy đã nói thế với ông chủ của mình. Thế là bất chấp việc các phụ huynh không thích tôi, bố tôi rốt cuộc cũng đã thay tôi ký hợp đồng đầu tiên trong đời với Malmö cùng mức lương 1.500 kronor/tháng. Đó là cả một sự đổi đời.
Tôi hào hứng với bản hợp đồng đầu tiên và ra sức tập luyện. Tôi cố chặn quả bóng với số lần chạm bóng ít nhất có thể. Nhưng sự tiến bộ ấy không đủ giúp tôi sánh được với Tony. Tôi vẫn ở sau nó một quãng rất xa. Khi chúng tôi được giới thiệu và sử dụng máy vi tính, cả đám đã coi đi coi lại những pha dốc bóng của Ronaldo và Romário. Rồi hào hứng học theo bằng cách xem đi xem lại từng động tác nhỏ nhất. Nhưng dù cả đám đều cố ra sức nhái theo, thì không một ai ám ảnh với việc ấy hơn tôi. Tôi đi sâu vào từng chi tiết, tôi tập nhiều hơn bất kỳ ai. Động tác của những siêu sao Brazil gần như là nỗi ám ảnh của tôi.
Khi ấy, tôi vẫn còn theo học tại trường Sorgenfri. Họ cử riêng một giám thị nữ chỉ lo nhiệm vụ canh chừng tôi. Một số thầy cô còn muốn gửi tôi vào trường học đặc biệt. Quái thật, tôi đâu phải tội phạm cần phục hồi nhân phẩm. Tôi được một điểm A môn nghệ thuật, điểm B môn tiếng Anh, hóa học và vật lý. Tôi đâu phải một đứa thiểu năng. Thuốc lá tôi còn không hút. Nhưng sự thô lỗ khiến tôi bị cách ly, bị nhìn như người ngoài hành tinh vậy.
Dường như có một quả bom hẹn giờ đang đếm ngược trong tôi. Tôi có cần phải nói là mình rất giỏi môn thể chất không nhỉ? Có thể trong lớp tôi hơi lơ đễnh, ngồi một chỗ nhìn vào quyển sách là cực hình với tôi. Nhưng tôi vẫn tập trung rất tốt khi muốn, thử giao cho tôi một quả bóng xem nào. Tôi ghét bị theo tò tò,
thế là vào một buổi tập bóng sàn13, tôi đã thúc quả bóng vào đầu của vị giám thị. Quá sốc, cô ấy gọi bố tôi lên để bàn chuyện chuyển tôi sang một trường khác, dành cho trẻ em có vấn đề về tâm lý.
[13] Floorball, một dạng của khúc gôn cầu trên mặt sàn.
Đây là một cuộc gặp mà người giám thị ấy ước không diễn ra. Bố tôi đã gầm lên: “Mày là ai? Con tao bị gì mà mày đòi chuyển vào trường tâm thần? Chính đám giáo viên mới nên vào đó khám đầu. Con tao không sao cả, nó là một đứa trẻ ngoan. Chết mẹ cả đám đi”.
Không lâu sau sự việc này, vị giám thị kia chuyển công tác khác. Không lạ khi mọi thứ dần tốt lên, tôi lấy lại sự tự tin của mình. Nhưng toàn bộ ý tưởng thổ tả ấy làm tôi phát nôn, giáo viên đặc biệt ư? Chắc chắn tôi chả phải là thiên thần rồi, nhưng người ta không bao giờ được làm cho một đứa trẻ cảm thấy lạc lõng như thế. KHÔNG ĐƯỢC PHÉP!
Nếu bất kỳ ai đối xử với Maxi và Vincent theo kiểu khác biệt ở trường, tôi sẽ nhảy dựng lên. Có khi tôi còn cư xử kinh khủng hơn cả bố mình ngày trước nữa. Thế nhưng cũng nhờ vào vị giáo viên đặc biệt ấy, nhờ ánh mắt kỳ thị của những thầy cô trong trường mà tôi trở nên mạnh mẽ hơn. Có thể nó đã góp phần trui rèn nên một chiến binh sau này.
Đến đây, tôi sẽ kể cho bạn nghe về cuộc hẹn đầu tiên trong đời mình. Tôi thích một cô bé, nhưng tôi quá nhút nhát, hay ho gì cái mác “gã học sinh có giám thị theo kèm”. Việc hỏi số điện thoại của cô bé thôi cũng khiến tôi vã hết mồ hôi. Nhưng tôi vẫn lấy hết can đảm nói với cô bé:
“Em muốn đi đâu đó sau khi tan trường không?”
“Có chứ, em muốn.”
“Thế đi Gustav nhé?”
Gustav Adolf là một quảng trường ở trung tâm Malmö. Tôi đến đó và chờ đợi. Một phút, hai phút rồi mười phút. Sao nó không đến nhỉ? Hay nó hết thích mình rồi? Tôi thất vọng não nề: “Con bé ấy lừa mình. Nó chỉ muốn chọc mình cho vui thôi. Ai lại muốn hẹn hò với một tên như mình chứ”.
Trong giây phút ấy, tôi quyết tâm trở thành một ngôi sao bóng đá, mặc kệ lũ con gái các người. Nhưng nỗi giận ấy của tôi là vô cớ, xuất phát từ sự tự ti nào đó trong lòng. Sự thật là chiếc xe bus chở cô bé đã đến trễ. Người tài xế xe bus bị bệnh hay đại loại thế. Cô bé đến chỗ hẹn ngay sau khi tôi vừa rời khỏi đó.
Và nàng cũng tức giận, buồn bã chả kém gì tôi!
“V
CHƯƠNG 4
ậy mà ngay cả trong bóng đá, mọi thứ cũng không thật sự suôn sẻ. Tôi được chọn vào đội trẻ và chơi với những gã lớn hơn mình một tuổi, bản thân tôi
cho rằng đấy đã là một thành tựu. Chúng tôi là một đội mạnh, một trong những đội mạnh nhất nước ở lứa của mình. Nhưng tôi cứ bị cho ngồi dự bị.”
Tôi học trung học ở Borgarskolan, theo khóa khoa học xã hội nhưng sự chú tâm đặc biệt vẫn dành cho bóng đá. Mọi thứ giờ đã khác xưa, dẫu vậy tôi đã chuẩn bị sẵn sàng.
Có một số gã ở ngoại ô Limhamn trong đội, nhưng giờ còn có thêm một số bạn nữ. Rồi đủ các thành phần thành thị trịch thượng, đứng riêng một góc, mặc đồ thời trang và hút thuốc. Trong khi đó, tôi luôn đến trường với bộ đồ thể thao có logo của Adidas và Nike trên đó. Bởi tôi nghĩ đó là thứ trang phục tuyệt vời nhất.
Nhưng ở Borgarskolan, những đứa trẻ thường mặc áo len của Ralph Lauren, giày Timberland và áo sơ mi có cổ. Trước kia, khi còn ở Rosengård, tôi hiếm khi thấy ai mặc áo sơ mi có nút bao giờ. Tôi nói chuyện này với bố và hai bố con đã có một trận cãi vã.
Chúng tôi có một món trợ cấp giáo dục từ chính quyền những ngày ấy, tầm 795 kronor/tháng. Tất nhiên là bố kiểm soát toàn bộ số tiền này, bởi bố là người chịu trách nhiệm cho việc chi tiêu mọi thứ trong nhà. Nhưng tôi muốn bố cho mình tiền để thay đổi cách ăn mặc, tôi đâu thể trở thành một đứa mặc đồ ngu nhất trường được.
Sau một hồi kiên trì thuyết phục, rút cục bố cũng đồng ý chi tiền cho tôi cải thiện gu ăn mặc. Bố cho tôi giữ tấm thẻ ngân hàng mà người ta sẽ chuyển tiền trợ cấp vào. Tôi vẫn nhớ tấm thẻ có hình cái cây trên đó và học bổng thì được chuyển vào ngày 20 hàng tháng. Nhiều bạn học của tôi đứng trước cây rút tiền đến tận nửa đêm, chờ đồng hồ điểm sang ngày mới để có thể rút tiền. Ngoài trời nhiệt độ cứ giảm dần. Mười, chín rồi tám độ, chúng vẫn cắn răng đứng đợi.
Tôi cũng có mặt trong số đó. Và sau khi có tiền, tôi đã mua cho mình một chiếc quần jean của Davis. Đấy là hiệu quần rẻ nhất, khoảng 299 kronor một cái. Sau đó tôi mua thêm một vài chiếc áo polo, loại 99 kronor cho ba cái. Tôi cố gắng thay đổi phong cách bản thân một chút, nhưng có vẻ không ăn thua. Diện bao nhiêu quần áo lên người, tôi vẫn không che được gốc gác Rosengård.
Tôi vẫn luôn là đứa trẻ nhỏ bé trong một thời gian dài. Nhưng mùa hè năm ấy, tôi nhổ giò cao lên nhanh chóng. Trong vài tháng, tôi cao hơn những 5 inch14. Nhìn trong gương, trông tôi lêu nghêu như một cây sào. Tôi đang bước vào giai đoạn “tuổi teen” và lần đầu trong đời, tôi biết được thế nào là trung tâm thành phố, là khu mua sắm, là Burger King...
[14] 12,7 centimet.
Trong quá trình giải ngố ấy, tôi quyết tâm phải có một cái máy nghe nhạc, để cắm tai phone vào nghe cho giống chúng bạn. Tiền đâu mà mua cái mới, thế là tôi... chĩa cái Minidisc của một đứa khác. Chúng tôi có những hộc đựng đồ bên ngoài lớp học. Mỗi hộc đều có một cái ổ khóa số, tôi “địa” được số của một đứa và thuổng máy nghe nhạc của nó. Năm trái, ba phải, Minidisc đã về với ta. Cắm tai nghe vào, tôi thấy đời mình thật đẹp.
Nhưng thế vẫn chưa đủ. Món đồ chơi ấy chưa thể gột sạch chất “hai lúa” của thằng trai tỉnh lẻ. Bọn học cùng tôi vẫn ngon hơn
nhiều. Một đứa bạn của tôi “cao chiêu” hơn. Nó không cần phải đi chôm chỉa hay xin tiền bố mẹ. Nó cưa một con nhỏ, sau đó... mượn đồ của anh trai nhỏ bồ và mang đến lớp khoe cả bọn. Thông minh phết, nhưng không phải ai cũng áp dụng được. Đám nhà quê chúng tôi vẫn khác biệt, nhưng gã ấy thì khác biệt một cách rất ngầu. Ta có bồ, ta có đồ chơi xịn và ta nhìn đời với nửa con mắt.
Còn tôi, tôi chỉ biết dồn hết sự tập trung vào bóng đá.
Vậy mà ngay cả trong bóng đá, mọi thứ cũng không thật sự suôn sẻ. Tôi được chọn vào đội trẻ và chơi với những gã lớn hơn mình một tuổi, bản thân tôi cho rằng đấy đã là một thành tựu. Chúng tôi là đội mạnh, một trong những đội mạnh nhất nước ở lứa của mình. Nhưng tôi cứ bị cho ngồi dự bị. Đó là quyết định của Åke Kallenberg. Tất nhiên, HLV có quyền lựa chọn cho ai đá, ai nghỉ. Nhưng tôi không nghĩ quyết định của ông ấy chỉ thuần túy là bóng đá. Những khi được tung vào sân thay người, tôi ghi bàn rất thường xuyên. Tôi không tệ một chút nào. Nhưng tôi lại có những vấn đề khác.
Người ta bảo tôi không đóng góp nhiều cho đội bóng. “Mày cứ lừa bóng hoài, làm chậm nhịp tấn công của đội” là câu tôi thường xuyên phải nghe nhất. Trên sân cỏ, tôi la hét và phàn nàn quá nhiều, cứ thấy một pha xử lý không tốt là tôi nói. Rồi tôi còn cãi nhau với chính khán giả nữa. Tôi chẳng cho điều ấy là nghiêm trọng. Điều quan trọng là tôi đã hình thành được phong cách chơi bóng của riêng mình. Tôi là một cầu thủ khác biệt với tất cả, tôi sẽ bay vào cơn cuồng nộ để giúp đội nhà chiến thắng. Điều đó khiến tôi không thuộc về Malmö FF.
Tôi vẫn còn nhớ giải vô địch thiếu niên Thụy Điển. Chúng tôi vào trận chung kết, tất nhiên đây là một dịp thật đặc biệt. Nhưng Åke Kallenberg chẳng tung tôi vào sân, thậm chí còn không điền tên tôi vào danh sách dự bị. “Zlatan chấn thương rồi”, ông ấy nói khi có ai hỏi. Và tôi đã phản ứng.
“Ông nói cái quái gì vậy? Sao ông lại bịa đặt chấn thương của tôi?”
“Mày chấn thương rồi”, ông ấy nhắc lại và tôi thì không tin vào tai mình. Tại sao ông ấy lại dối trá như thể đó là chân lý khi chúng tôi chuẩn bị bước vào một trận chung kết? Điều đó làm tôi điên tiết. Có điều gì đó bất ổn, nhưng chẳng ai chịu nói cho tôi nghe rốt cuộc đã có chuyện gì xảy ra. Chẳng có ai đủ đàn ông để nói ra cả. Năm ấy, Malmö FF vô địch giải thiếu niên Thụy Điển mà không có tôi. Điều ấy hiển nhiên chả giúp ích cho sự tự tin của tôi một chút nào. Và tôi đã tuôn ra những lời lẽ khó nghe. Kiểu như cứ trù dập tôi đi, rồi tôi sẽ vươn lên cao hơn tất cả các người. Cũng giống như khi thầy giáo dạy tiếng Italia đuổi tôi ra khỏi lớp, tôi đã hét vào mặt ông ta:
“Cứ đuổi đi, tôi đếch cần ông đâu. Sau này tôi sẽ học tiếng Ý khi chơi bóng ở Serie A.”
Thật vui khi sau này mọi thứ diễn ra đúng như vậy. Nhưng khi ấy, đó chỉ là đại ngôn của một đứa trẻ bị tổn thương. Bởi làm sao tôi biết được sự nghiệp của mình sẽ trôi về đâu khi tôi thậm chí còn không được đá chính trong đội trẻ của Malmö FF?
Cũng trong khoảng thời gian đó, Malmö FF đang gặp vấn đề. Đội một của Malmö FF là số 1 Thụy Điển. Khi bố tôi lần đầu đặt chân đến Thụy Điển trong thập niên 1970, Malmö FF là vô đối ở giải quốc nội. Họ thậm chí đã vào chung kết Champions League, hồi ấy còn gọi là Cúp C1. Nhưng các thành viên của đội trẻ không được trọng dụng. Ban lãnh đạo thường đi chiêu mộ cầu thủ ở những đội bóng khác.
Tuy nhiên, năm ấy, đội bóng đột nhiên thay đổi. Mặc dù chả ai hiểu tại sao, nhưng mọi thứ dần xấu đi. Malmö FF lẫy lừng vẫn luôn trong nhóm đầu giải Allsvenskan15 bỗng dưng đối diện với việc bị rớt hạng. Họ chơi bóng thảm hại và mất hết sự tự tin. Tài chính của CLB chạm đáy nên chẳng có cách nào tăng cường lực
lượng. Bỗng dưng, các cầu thủ trẻ có cơ hội được ngoi lên. Và điều ấy trở thành chủ đề chính ở đội trẻ. Ai sẽ được gọi lên nhỉ? Thằng này, hay thằng kia?
[15] Giải Vô địch Quốc gia Thụy Điển.
Tony Flygare là cái tên sáng giá nhất, rõ ràng là vậy rồi. Bên cạnh đó còn có Gudmunder Mete và Jimmy Tamandi, còn Zlatan thì miễn đi. Tôi đứng chót trong danh sách những cầu thủ có khả năng được gọi lên đội một. Đến cả HLV đội trẻ còn chẳng thèm tôi, tại sao HLV đội một lại cần? Nhưng tôi biết rõ một điều: Tôi không hề tệ hơn Tony, Mete hay Jimmy. Tôi đã chứng tỏ điều đó trong những lần hiếm hoi được vào sân thay người. Vậy thì vấn đề là gì? Tất cả các câu hỏi cứ quanh quẩn trong đầu tôi. Và càng ngày tôi càng tin vào đống lý do liên quan đến chính trị.
Khi còn nhỏ, việc khác biệt và kiêu ngạo hơn những đứa trẻ cùng trang lứa là một chuyện vui. Nhưng về lâu dài, nó quả thực là điều bất lợi. Chẳng hạn như bây giờ, khi CLB cần người, tất nhiên họ phải ưu tiên những đứa trẻ tóc vàng dễ bảo hơn là một đứa nóng đầu luôn thích thi triển những pha dốc bóng kiểu Brazil.
Malmö FF là một CLB có truyền thống đáng tự hào. Trong những ngày tháng hoàng kim, tất cả các cầu thủ đều là tóc vàng và biết cách cư xử. Họ có những cái tên kiểu như Bosse Larsson, luôn nói những điều dễ thương, khuôn phép. Họ không thích dùng cầu thủ có gốc gác nhập cư. Tất nhiên vẫn có ngoại lệ, chẳng hạn như Yksel Osmanovski, với bố mẹ là người Macedonia. Anh ta cũng trưởng thành từ Rosengård, sau trở thành cầu thủ của Bari. Nhưng ngay cả anh ấy cũng cư xử rất đúng mực.
Malmö FF không chọn tôi cho đội một, nhưng họ vẫn ký cho tôi một hợp đồng dành cho cầu thủ trẻ. Tôi đành phải hài lòng với một vị trí ở đội U20. Họ lập ra đội U20 này cùng với một học
viện bóng đá tại Borgarskolan. Có những cầu thủ chưa đủ trình lên đội một ngay, nhưng vẫn có khả năng phát triển thêm, thế là họ cho vào đội U20 để ngăn cầu thủ trẻ không chuyển sang đội khác. Đội U20 sẽ thi đấu ở giải hạng Ba. Tất nhiên tôi chẳng hào hứng gì, nhưng đây là cơ hội để tôi được chú ý.
Thỉnh thoảng, các cầu thủ của đội U20 được cho lên tập cùng đội một. Và trong những bữa tập ấy, tôi dứt khoát không hành xử như robot. Thông thường khi lên tập cùng các anh lớn, cầu thủ trẻ sẽ ngoan ngoãn giữ mình, không lừa bóng, không xoạc bóng, không la hét. Nhưng tôi thì nghĩ: “Tại sao không nhỉ? Mình có gì để mất đâu?” Thế là tôi thể hiện với tất cả những gì mình có. Tất nhiên, những lời xì xầm lại vang lên:
“Thằng điên ấy nghĩ mình là ai thế nhỉ?”
Tôi đều đáp lại: “Chết mẹ các anh đi” và tiếp tục thể hiện như cũ. Tôi vẫn lừa bóng, vẫn đóng vai phản diện. Thỉnh thoảng, buổi tập lại có sự chứng kiến của HLV trưởng Roland Andersson.
Thoạt tiên, tôi hy vọng lắm. Kiểu như: “Chà, liệu HLV có nghĩ mình giỏi không, có gọi mình lên hẳn đội một không?” Nhưng buổi đầu tiên, thứ hai, thứ ba, tôi gần như cạn kiệt hy vọng. Có lẽ ông ấy đã nghe những lời phàn nàn về tôi, những chuyện chẳng hay ho gì.
Thời gian ấy, tôi ngày càng cảm thấy chán ngán với bóng đá, chán ngán với tất cả, đặc biệt là chuyện học hành. Ở trường, tôi vẫn xấu hổ và mất tự tin. Có những ngày tôi đến trường chỉ để ăn trưa rồi về. Tôi ăn nhiều như ngựa và gần như chẳng quan tâm đến bất kỳ thứ gì khác. Tôi làm bài tập về nhà ngày một lười nhác hơn. Cuối cùng tôi bị đuổi học, và ở nhà tôi lại có một màn giông tố.
Xung quanh tôi khi ấy như một bãi mìn, nhưng tôi nhất quyết không bỏ lối đá khoa trương trên sân cỏ. Tôi dán đầy hình của Ronaldo trong phòng mình. Ronaldo là người hùng đích thực.
g p g g g ự Tôi mê mẩn những pha đảo chân và những bàn thắng của anh ấy ở World Cup. Ronaldo thật tuyệt vời trên mọi khía cạnh. Đó là người tôi luôn khao khát hướng đến. Một người mang đến cảm giác khác biệt. Còn các cầu thủ của đội tuyển Thụy Điển ư? Họ là ai tôi chả quan tâm. Vì đâu có ai đáng mặt siêu sao, làm gì có cái tên nào chui vào những hang cùng ngõ hẻm trên thế giới. Ronaldo mới là người hùng của tôi. Tôi dõi theo những pha đi bóng của anh ấy và cố học theo. Những lúc tập luyện và thi triển, tôi luôn nghĩ đến cái ngày được phô diễn bản thân ở những sân khấu lớn nhất.
Nhưng rồi nỗ lực chứng tỏ bản thân của tôi liên tục vấp phải trở ngại. Thế giới này thật bất công. Những người như tôi chả bao giờ có cơ hội, tôi sẽ không thể trở thành ngôi sao dù cố đến mấy đi nữa. Đã có lúc tôi tuyệt vọng đến như thế. Tôi nghĩ sự nghiệp mình thế là tàn ngay khi còn chưa bắt đầu. Chắc phải tìm cách khác để sống thôi.
Nhưng tôi không đủ dũng khí để từ bỏ hẳn bóng đá. Vì thế tôi vẫn cố đấm ăn xôi mà thi đấu ở đội U20. Trong một trận đấu như thế, Roland Andersson đã đến xem ở sân Số 1. Sân Số 1 bây giờ không còn nữa. Nó từng là một sân cỏ, sát bên sân chính của Malmö. Sau trận đấu ấy, tôi nghe bảo Roland Andersson muốn nói chuyện với mình.
Vậy là tự nhiên tôi sợ sảng. Tôi bắt đầu nghĩ: “Chết cha, mình vừa ăn trộm ư? Hay mình vừa húc đầu ai đó?” Mọi suy nghĩ tiêu cực chiếm trọn tâm trí tôi lúc đó. Mà sao mấy thứ ấy lại đến được tai HLV trưởng nhỉ. Trong đầu tôi hiện ra hàng nghìn cách giải thích khác nhau.
Roland là một người ăn to nói lớn, với giọng nói trầm hùng. Ông ấy dễ thương, nhưng cực kỳ nghiêm khắc. Ông ấy bước vào phòng, không gian lập tức hẹp lại, và tim tôi giống như đang đánh trống. Tôi có nghe nói Roland Andersson từng thi đấu tại World Cup tổ chức ở Argentina, chứ không phải chỉ là một cựu
cầu thủ tầm thường. Giờ tôi phải đối diện với người đàn ông ấy, nghiêm nghị, không nở một nụ cười. Tôi khởi đầu câu chuyện:
“Xin chào Roland. Ông gọi tôi có gì không?”
Tôi luôn cố tỏ ra mạnh mẽ như thế, không bao giờ muốn đối phương thấy mình khiếp nhược. Ông ấy trả lời:
“Ngồi xuống đã.”
“OK, ngồi đây. Nhưng không có ai chết đâu, tôi hứa đấy.” “Zlatan, đã đến lúc ngưng chơi bóng với bọn trẻ rồi.” “Ông nói gì thế? Tôi không hiểu.”
“Đã đến lúc chơi với các đàn anh rồi.”
“Huh?”
“Chào mừng cậu đến với đội một.”
Nghe xong câu nói đó, tôi choáng ngợp, sững sờ, có lẽ một triệu năm nữa tôi cũng chẳng thể diễn tả nổi cảm xúc lúc ấy.
Cứ như Roland vừa ném tôi lên cao 10m so với mặt đất. Trong phút chốc, tôi thấy mình là gã thanh niên ngầu nhất thành phố!
Căn nhà ở Malmö
“X
CHƯƠNG 5
ung quanh tôi, các đại diện vẫn ve vãn. Và vì ám ảnh bởi câu đại diện là bọn lừa gạt nên tôi vẫn phải dựa vào Hasse Borg. Ông ấy giống như người cha thứ hai
của tôi vậy. Ông mời tôi về căn nhà gỗ ở quê mình là Blentarp. Ông giới thiệu tôi với vợ con, lũ chó và đàn thú nuôi trong nhà ông. Tôi xin ông lời khuyên khi quyết định tậu chiếc Mercedes mui trần.”
Ở Malmö, chúng tôi gọi đó là “Dặm xa”.
“Dặm xa” là một đoạn đường rất dài. Nó chạy từ sân vận động đến Tháp Nước, dọc theo Limhamnsvägen, băng qua dãy nhà xa hoa của đám triệu phú với góc nhìn hướng ra biển. Trong đám nhà ấy, tôi nhớ nhất một căn nhà màu hồng. Nhìn thấy nó, ta buộc phải bật ra một suy nghĩ: “Ai sống ở đó nhỉ? Xây được cái nhà cỡ này thì trong nhà băng có bao nhiêu tiền?”
Con đường ấy tiếp tục chạy dài đến công viên Kungsparken, xuyên qua một đường hầm rồi kết thúc ở ngôi trường mà tôi theo học. Ngôi trường ấy tràn ngập các em gái xinh tươi và bọn trẻ con có tiền. Được gọi lên đội một của Malmö mới tuyệt vời làm sao. Nó là một cuộc báo thù ngọt ngào. Zlatan, đứa trẻ quê mùa đến từ Rosengård nhát cáy đến mức chả dám mở miệng nói chuyện với gái, giờ đang đá chung với những cầu thủ chuyên nghiệp của Malmö FF, với Mats Lilienberg và những người khác. Đó quả thực là điều tuyệt vời nhất.
Thoạt đầu, tôi muốn làm theo đám đông. Mình là tân binh mà, cứ làm theo sai khiến của HLV thôi. Nhưng rồi tôi... đổi ý: Giật le với đám con gái trước đã.
Thế nên Tony, Mete và tôi nghĩ ra một số trò ma mãnh. Trong hành trình băng qua “Dặm xa”, bọn tôi chỉ chạy bốn cây số đầu tiên. Khi đến Limhamnsvägen, ba đứa nhào lên... xe bus. Chúng tôi cố mở hết tốc lực để thoát khỏi đám đàn anh phía sau, để đến khi xe bus tới, không một ai thấy chúng tôi leo lên đó cả. Lần nào leo được lên chiếc xe ấy, cả bọn cũng cười như điên. Rồi xe bus dừng lại, chúng tôi nấp ở một nơi kín, đợi cả đội chạy qua rồi nhập bọn trở lại.
Khi đến trường, trong khi các cầu thủ đã nuốt trọn “Dặm xa” mệt bở hơi tai, bọn tôi lại có dư ra một khoảng năng lượng để phô diễn. Các em xinh tươi nhìn vào và nghĩ: “Chà, mấy anh này khỏe thế. Chuyện gì cũng làm được”.
Một ngày nọ, cũng trên “Dặm xa”, tôi nói với Tony và Mete:
“Chuyện này điên rồ quá. Cầu thủ ai lại đi xe bus. Mình... chôm xe đạp đi.”
Trông hai đứa có vẻ lưỡng lự. Trong chuyện này, chúng là... tân binh. Tuy nhiên, cuối cùng tôi cũng thuyết phục được cả hai nghe theo đề nghị điên rồ của mình. Tôi thuổng một chiếc xe đạp. Nhưng đi đêm lắm có ngày gặp ma. Huống chi tôi chẳng phải một gã khôn ngoan gì, Tony cũng thuộc nhóm “trẻ trâu ngu muội”. Gã ấy bị... nghiện phim sex. Thế là có lúc dư dả thời gian, gã vào một cửa hàng băng đĩa thuê phim con heo và mua chocolate. Chúng tôi ngồi ăn chocolate khi toàn đội đang hì hục băng qua “Dặm xa”.
Khi bị bắt gặp, chúng tôi đưa ra lời giải thích. Tôi nghĩ Roland Andersson tin, cũng có thể ông ấy chả tin. Nhưng ông ấy hiểu tâm tư đám trẻ. Đó là một con người hài hước.
Nhưng có những thứ vẫn thế, không khác gì thuở tôi còn ở đội trẻ, vẫn là những lời xì xầm, “Zlatan nó giấu sự khiêm tốn ở chỗ nào thế nhỉ? Sao nó lừa bóng nhiều thế? Nó chẳng nghĩ gì đến tập thể gì cả.”
ập g
Tôi đồng ý cũng có những nhận định đúng. Tôi còn quá trẻ cơ mà. Tôi cần phải học hỏi thêm. Nhưng đa số đều là sự ghen tỵ. Các cầu thủ lớn hơn ngửi thấy mùi cạnh tranh. Zlatan là một đứa láu cá, nhưng nó có tài chứ chả phải không.
Tôi làm mọi thứ để có thể giỏi hơn mỗi ngày. Tập ngày chưa đủ, tôi tranh thủ tập đêm. Bên cạnh những buổi tập ở Malmö FF, tôi còn chơi bóng miệt mài ở sân bóng gần nhà mẹ. Tôi đến Rosengård, rủ đám trẻ ra chơi cùng:
“Tao sẽ thưởng tiền cho đứa nào lấy được bóng trong chân tao”.
Vừa chơi vừa học là như thế. Tôi che bóng, lừa bóng, ngày càng nâng cao kỹ thuật của mình. Điều này giúp tôi hoàn thiện khả năng xử lý bóng trong phạm vi hẹp.
Những khi không chơi bóng với bọn trẻ, tôi vùi đầu vào trò chơi điện tử. Tôi có thể chơi suốt mười tiếng mà không biết chán. Tôi chơi đấy, nhưng trong đầu vẫn mường tượng ra những pha bóng để áp dụng ngoài đời thực. Trong suốt những năm tháng ấy, tôi hoàn toàn là con người của bóng đá.
Trên sân tập của Malmö FF, tôi gặp nhiều khó khăn. Các đồng đội không thể thích nổi cái gã lúc nào cũng ưa thể hiện và họ tỏ thái độ khó chịu ra mặt. Với bất kỳ ai rơi vào hoàn cảnh của tôi, có lẽ họ sẽ chuyền bóng đi cho xong chuyện, ngoan ngoãn một chút để thay đổi tình thế. Nhưng tôi... đến từ hành tinh khác. Tôi cứ chơi bóng theo cách của mình.
Thường thì trên sân tập, nhóm cựu binh sẽ chia ra đá tập với những cầu thủ trẻ hơn. Đám trẻ bọn tôi thường hay phải chùi bóng, mang vật dụng tập luyện ra sẵn rồi chờ các anh lớn tới. Tôi cho điều ấy là lố bịch, và không khí của đội bóng đã bị hỏng ngay từ đầu.
Thoạt tiên, Tommy Söderberg, thủ quân của đội, hô hào quyết tâm sẽ vô địch. Nhưng rồi mọi thứ trật ra khỏi quỹ đạo và CLB
phải đối diện với viễn cảnh rớt hạng. Phải đến sáu mươi năm rồi CLB mới rơi vào tình cảnh bi đát như thế. Các cựu binh trong đội như gánh cả ngàn cân áp lực trên vai.
Chúng tôi đều biết thành phố này sẽ cảm thấy tồi tệ thế nào nếu CLB không thể trụ được ở Allsvenskan . Nó sẽ trở thành một thảm họa thật sự. Thế nên lừa bóng, trình diễn kỹ thuật dù là trong trận đấu hay trên sân tập đều là chuyện cấm kỵ. Nhưng tôi vẫn không thể từ bỏ sở thích ấy. Tôi biết thái độ ương ngạnh là không tốt, nhưng nó đã có sẵn trong máu tôi rồi. Tôi là một tân binh, tôi muốn mọi người phải để mắt đến mình, tôi từ chối trở thành một kẻ vâng lời như hàng vạn kẻ khác.
Khi Jonnie Fedel, thủ môn của đội, đến hỏi tôi: “Bóng đâu rồi mày?”, tôi như thấy ánh mắt của cả đội đang nhìn mình. Họ muốn tôi phục tùng, ngoan ngoãn đi vào xách bóng ra cho cả đội tập. Nhưng tôi đã nói:
“Anh thích thì tự đi mà lấy.”
Thái độ ấy khiến tôi bị cả đội ghét bỏ. Nhưng tôi vẫn có được sự ủng hộ của Roland và vị trợ lý Thomas Sjöberg. Tôi cảm nhận được điều đó, đồng thời biết họ đánh giá cao Tony hơn mình. Tony sau đó ra sân và ghi bàn ngay trong trận đấu ra mắt đội một. Hôm ấy tôi ngồi dự bị, dù đã nỗ lực hết cỡ trên sân tập. Tức quá, tôi văng tục. Lẽ ra tôi không nên hấp tấp như thế. Nhưng đó là tính cách của tôi rồi. Tôi không hài lòng và tôi lập tức thể hiện nó ra ngoài.
Ngày 19/9, chúng tôi có trận đấu trên sân Örjans Vall của Halmstad. Đây là một trận cầu sinh tử. Chỉ cần không thua, chúng tôi sẽ trụ hạng thành công. Còn thất bại, cả đội sẽ đá một trận play-off để tránh rớt hạng. Ai trong đội cũng cảm thấy hồi hộp.
Đầu hiệp hai, tiền đạo Niklas Gudmundsson của chúng tôi bị chấn thương và tôi thật sự rất mong được vào sân. Nhưng
g ậ ự g ợ g không, Roland chả buồn để ý đến tôi. Tỷ số khi ấy đang là 1-1, một thế trận khá ổn và ông ấy không muốn mạo hiểm. Nhưng chỉ 15 phút trước khi hết giờ, thủ quân của chúng tôi - Hasse Mattisson - cũng chấn thương nốt. Ngay lập tức, Halmstad nâng tỷ số lên 2-1. Cả đội gần như phát hoảng.
Roland đành mạo hiểm tung tôi vào sân. Trong khi ai ai cũng cảm thấy căng thẳng thì trái ngược lại, tôi thấy hưng phấn vô cùng. Tôi mới 17 tuổi, ra sân trong một trận đấu ở Allsvenskan, với 10.000 khán giả đang theo dõi cùng chiếc áo in tên Ibrahimović trên lưng. Tôi chạy trên sân, có cảm tưởng chẳng điều gì có thể ngăn mình được nữa.
Ngay lập tức, tôi tung một cú sút, bóng liếm xà ngang. Sau đó, chúng tôi được hưởng một quả phạt đền vào cuối trận. Chắc bạn cũng có thể hình dung ra tính chất quan trọng của quả sút ấy như thế nào. Sút thành công, danh dự của đội bóng được bảo toàn. Sút hỏng, tất cả sẽ trôi theo dòng nước. Các cựu binh ai cũng sợ trách nhiệm. Gã trai trẻ Tony bước lên, kiêu hãnh xung phong:
“Để tôi đá cho.”
Phải có dũng khí lắm mới dám bước lên trong thời điểm ấy. Đúng chất Balkan rồi. Nhưng lúc đó, tôi thật sự nghĩ ai đó nên ngăn anh ta lại. Tony còn quá trẻ cho một trọng trách lớn dường ấy. Nhưng ai cũng thở phào vì không phải gánh trách nhiệm. Tôi vẫn nhớ khi Tony vào chỗ chuẩn bị sút, toàn đội như nín thở và nhìn đi chỗ khác. Đó là một khoảnh khắc khó chịu. Tony đá hỏng, thủ môn đối phương thừa kinh nghiệm và hình như gã đã đánh lừa Tony sút vào góc mà mình sẽ bay.
Chúng tôi thua trận đấu ấy, Tony mãi không bao giờ cất mình lên thành ngôi sao được nữa. Thật tiếc cho anh ấy. Tôi biết có những nhà báo xem pha đá hỏng phạt đền ấy là một bước ngoặt. Cho Tony và cho chính tôi. Vì sau đó, tôi được trọng dụng nhiều
hơn. HLV Roland, trong vài bài phỏng vấn đã gọi tôi là “một viên ngọc thô cần mài giũa”.
Cũng từ sau trận đấu đó, đám trẻ đã bắt đầu nán lại để xin chữ ký của tôi. Chuyện chả lớn lao gì, nhưng nó làm tôi cảm thấy phấn chấn, vì tôi nghĩ: “Mình phải chơi hay hơn nữa, đâu thể để bọn trẻ thất vọng.”
Và cứ thế, mỗi lần được vào sân, tôi lại muốn hét lên với chúng: “Chuẩn bị chứng kiến màn trình diễn ngon lành nhất thế giới nè.”
Bạn cảm thấy niềm vui này của tôi có chút gì đó kỳ lạ phải không? Vâng, tôi cũng thấy vậy đấy. Vì tôi đã làm được gì đâu. Nhưng bọn trẻ vẫn túa đến rất đông để xem tôi đá, làm tôi càng muốn biểu diễn tợn. Bọn nhóc cho tôi niềm vui được chơi bóng theo cách của mình. Chứ chúng việc gì phải hâm mộ một cầu thủ chán òm, cứ bóng đến chân lại chuyền.
Thế nên mỗi khi được vào sân, tôi lại mang theo tâm thế là chơi cho bọn trẻ. Tôi cũng ký tặng chúng, từng đứa một, không bỏ qua bất kỳ đứa nào. Khi ấy tôi vẫn còn rất trẻ, tôi hiểu cảm giác khi bạn mình có một chữ ký mà mình lại không có là như thế nào.
“Ký rồi nhé. Vui chưa?” Tôi hỏi chúng trước khi rời bước. Niềm vui của cá nhân bỗng xóa đi nỗi buồn của tập thể theo một cách thật kỳ quái. Tôi đang tạo dựng tên tuổi cho mình, trong khi CLB đang sa vào cơn khủng hoảng lớn chưa từng có. Khi chúng tôi để thua trên sân nhà trước Trelleborg, đám đông trên khán đài hét lên “Từ chức đi” để tỏ thái độ với Roland. Cảnh sát phải hộ tống ông ấy ra khỏi sân. Nhưng một đám khác thì chờ bên ngoài, ném đá vào xe bus, tạo nên một cuộc bạo loạn nhỏ. Mọi thứ chẳng khá hơn là bao sau đó vài ngày, khi chúng tôi bị AIK đánh bại. Thảm họa thật sự đã hiện hữu.
Chúng tôi bị xuống hạng. Lần đầu tiên sau 64 năm, Malmö FF không còn được chơi bóng ở hạng cao nhất của Thụy Điển, Allsvenskan. Trong phòng thay đồ, các cầu thủ quấn khăn lên đầu rồi gục mặt xuống. Một vài người trong số đó hẳn cảm thấy ngứa mắt vì cách hành xử như một diva của tôi, khi tôi cứ thích biểu diễn ngay trong những trận đấu căng thẳng. Nhưng tôi chả quan tâm. Tôi có nhiều thứ khác để phải suy nghĩ hơn.
Ngay sau khi tôi được lên đội một, có một sự kiện diễn ra làm tôi không bao giờ quên được. Trong một buổi tập trên sân Số 1, ngoài sân vắng lắm nên tôi nhìn thấy một người tóc muối tiêu đứng theo dõi từ xa. Thoạt đầu tôi không nhận ra người đó. Y đứng gần một gốc cây và quan sát. Tôi lờ mờ đoán ra điều gì đó, nên tiếp tục thể hiện một vài động tác kỹ thuật cho người đàn ông ấy sững sờ chơi.
Tôi luôn tự coi sóc bản thân mình trong lúc trưởng thành. Bố vẫn có những hành động tuyệt vời, nhưng ông không giống với những người bố khác. Ông chẳng bao giờ đến xem tôi thi đấu hay cổ vũ tôi chuyện học hành. Ông chỉ biết uống bia, lo nghĩ về chiến tranh và nghe nhạc Nam Tư. Ấy vậy mà bây giờ, tôi không thể tin nổi người đàn ông đứng quan sát ngoài sân kia lại chính là bố mình. Tôi hoàn toàn bất ngờ, xúc động nữa. Có cảm tưởng như mình đang mơ vậy. Và khi nhận ra điều đó, tôi đã chơi với một sức mạnh không tưởng. Bố đang ở đây, hãy nhìn con này bố, tôi muốn hét lên như thế. Con của bố là cầu thủ tuyệt vời nhất chỗ này!
Cho đến giờ, tôi vẫn xem đó là một trong những khoảnh khắc tuyệt diệu nhất của đời mình. Tôi đã có bố trở lại, như thể tôi chưa từng có vậy. Trước đó, bố chỉ là một người bố lúc hữu sự. Những khi tôi gặp vấn đề nguy cấp, ông ấy như biến thành Hulk16 vậy. Còn đến xem con đá bóng lại là một chuyện hoàn toàn mới. Sau trận đấu, tôi đã đến nói chuyện với ông một chút.