🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tốc Độ Của Niềm Tin Ebooks Nhóm Zalo LỜI GIỚI THIỆU Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Bằng một văn phong dễ đọc và lôi cuốn, Stephen M.R. Covey đã mở toang cánh cửa sức mạnh của niềm tin lâu nay bị xem nhẹ và đánh giá thấp bằng những trang sách đề cập đến cái mà ông gọi là "một điều làm thay đổi tất cả". Là một cuốn sách khai phá và làm thay đổi nhận thức, Tốc độ của Niềm tin thách thức giả định lâu nay của chúng ta cho rằng niềm tin chỉ là một đức hạnh xã hội mềm yếu, dễ vỡ và thay vào đó chứng minh rằng niềm tin là một động lực kinh tế, có sức mạnh vật chất - một kỹ năng có thể học hỏi và đo lường được qua đó giúp các công ty làm ra nhiều lợi nhuận hơn, con người dễ thăng tiến hơn và các mối quan hệ trở nên gắn bó hơn. Từ những kinh nghiệm của một cựu CEO của một công ty 100 triệu đô la, Covey đã mô tả một cách sống động kinh nghiệm thực tế của ông trong việc phát triển Trung tâm Lãnh đạo Covey (do cha ông, Tiến sĩ Stephen R. Covey sáng lập) từ một công ty cổ phần với vốn ban đầu không đến 3 triệu đô la tăng lên hơn 160 triệu đô la. Trong cuốn sách mới đầy sức cuốn hút này, Stephen M. R. Covey khắc họa vì sao niềm tin trở thành tiêu chuẩn năng lực lãnh đạo chủ yếu trong nền kinh tế mới toàn cầu. Ông nói cho độc giả biết một cách đầy thuyết phục làm cách nào xây dựng niềm tin lâu dài trong các mối quan hệ cá nhân và quan hệ công việc, từ đó đạt được sự thành công không gì sánh kịp và sự thịnh vượng bền vững trong mọi mặt của cuộc sống. Ông giúp các nhà lãnh đạo thuộc các lĩnh vực kinh doanh, giáo dục, chính phủ... thấy rõ bằng cách nào chiếm được nhanh chóng và bền vững niềm tin của khách hàng, của đồng nghiệp, đối tác hay các cử tri. Covey đưa ra luận điểm rất thuyết phục rằng niềm tin là bộ tăng tốc cho kết quả hoạt động và rằng khi niềm tin tăng lên, tốc độ đạt được kết quả sẽ tăng theo, trong khi chi phí giảm xuống và tạo ra cái mà Covey gọi là "cổ tức niềm tin". Covey nêu ra 13 hành vi phổ biến của các nhà lãnh đạo có độ tin cậy cao trên thế giới và chứng minh đầy sức thuyết phục những ý tưởng có thể vận dụng để giúp bạn thay đổi hành vi của bản thân nhằm tăng cường - và truyền cảm hứng - xây dựng niềm tin trong các mối quan hệ quan trọng trong cuộc sống của bạn. Như những sóng gợn trong hồ nước, Tốc độ của Niềm tin bắt đầu từ bên trong mỗi con người chúng ta, rồi lan sang các mối quan hệ của chúng ta, các tổ chức nơi chúng ta hoạt động, các mối quan hệ trên thương trường và cuối cùng tỏa ra khắp nơi trên thế giới. Covey trình bày bản đồ hành trình để xây dựng niềm tin ở mọi cấp độ, xây dựng tính cách và năng lực, nâng cao mức độ tin cậy và thiết lập sự lãnh đạo truyền cảm hứng cho mọi người. Ý KIẾN CỦA CÁC CEO "Trong thời đại mà luật lệ kinh doanh ngày càng tràn lan và bộc lộ nhiều sơ suất, việc tập trung vào những điều cơ bản là rất quan trọng. Niềm tin là một tài sản vô hình bảo đảm cho sự bền vững lâu dài của mọi tổ chức hay doanh nghiệp. Nhờ có cuốn sách mới của Covey, bạn có thể vững bước tăng cường tài sản niềm tin của công ty bạn trong nhiều năm sau." - William G. Parrett, CEO, Deloitte Touche Tohmatsu "Niềm tin làm giảm chi phí giao dịch; giảm tranh chấp và tăng tốc độ giao thương; nó thực sự bôi trơn cho guồng máy các tổ chức và xã hội. Cuối cùng, cũng đã có người khắc họa giá trị đích thực của nó và coi nó như là điều cốt lõi của năng lực kinh doanh." - Marilyn Carlson Nelson, Chủ tịch & CEO, Carlson Companies "Một tổ chức thiếu niềm tin thì năng lực của nó sẽ bị hủy hoại, tạo ra một bầu không khí ngờ vực và đa nghi, phá hoại hoàn toàn tinh thần đồng đội và thay thế nó bằng mâu thuẫn nội bộ. Kết cục là tinh thần làm việc sa sút và kết quả công việc kém. Cuốn sách của Covey là sự nhắc nhở đúng lúc các nhà lãnh đạo điều gì là thực sự quan trọng trong tổ chức của họ." - Koh Boon Hwee, Chủ tịch, DBS Bank Ltd.; cựu Chủ tịch, Singapore Airlines "Tôi tin rằng tầm nhìn của Covey về vấn đề niềm tin là điều rất rõ ràng đối với tất cả những ai có suy nghĩ về thực tiễn lãnh đạo. Quả vậy, không có sự tự tin bạn không thể chiếm được niềm tin của tổ chức - mà nếu thiếu điều này thì không thể đạt được thành tích thực sự." - Michael H. Jordan, Chủ tịch & CEO, EDS "Niềm tin là nền tảng để xây dựng thương hiệu, và là chất keo gắn kết lâu dài tất cả các mối quan hệ. Điều bất ngờ là Covey, trong cuốn Tốc độ của Niềm tin, đã nêu rõ bản chất của niềm tin và làm cách nào để xây dựng và gìn giữ nó. Đây quả là một cống hiến quý giá cho thế giới kinh doanh và toàn thể xã hội nói chung." - Horst H. Schulze, Chủ tịch & CEO, The West Paces Hotel Group "Tốc độ của Niềm tin dạy chúng ta một bài học quan trọng: chỉ có những tổ chức có mức độ tin cậy cao mới có thể tạo dựng được văn hóa cống hiến đích thực chống lại dòng xoáy của tư duy hão huyền về sự tuân lệnh bắt buộc. Covey khắc họa đầy thuyết phục một bản đồ hành trình rõ ràng cho những người bình thường như các bạn và tôi có được khả năng bất thường!" - Pete Beaudrault, Chủ tịch &CEO, Sbarro; cựu Chủ tịch & CEO, Hard Rock Café International "Tốc độ của Niềm tin là cuốn sách cần phải đọc không những đối với các nhà lãnh đạo doanh nghiệp mà còn đối với tất cả mọi người. Covey định nghĩa niềm tin một cách rất chính xác. Ai đọc cuốn sách này cũng sẽ gặt hái được rất nhiều lợi ích." - Jon M. Huntsman, người sáng lập và Chủ tịch, Huntsman International "Cuốn sách này là công cụ nâng cao nhãn quan - khi đọc nó bạn sẽ nhìn thấy tất cả mọi thứ thông qua 'lăng kính niềm tin' của mình và hiểu được bằng cách nào và vì sao niềm tin lại quan trọng như vậy đối với công việc chuyên môn và cuộc sống cá nhân. Bằng cách chứng minh niềm tin có tính hữu hình và có thể đo lường được, và điều quan trọng nhất, nó là cái chúng ta có thể xây dựng nên một cách dễ dàng hơn là chúng ta tưởng." - Gregory K. Ericksen, Phó chủ tịch Phát triển thị trường toàn cầu, Ernst & Young "Giống như cha của mình, Stephen M.R. Covey không ngại khám phá những đề tài khó nhưng rất quan trọng. Cuốn sách của ông, Tốc độ của niềm tin đi thẳng vào trọng tâm của một trong những đề tài quan trọng nhất của thời đại chúng ta: Sự thiếu niềm tin tuyệt đối. Trong cái thế giới đảo điên, tất cả những ai lãnh đạo các tổ chức, những ai muốn có các mối quan hệ sâu sắc, những ai muốn tìm kiếm những điều có ý nghĩa hơn trong cuộc sống sẽ làm được điều đó khi họ coi niềm tin là tài sản quý giá nhất." - David W. Checketts, Chủ tịch, Sports Capital Partners "Tốc độ của Niềm tin xác định rõ ràng niềm tin là nguồn gốc của tốc độ trong các mối quan hệ trực tiếp của chúng ta. Covey minh chứng đầy thuyết phục sự trải nghiệm của chúng tôi tại công ty Dell - rằng niềm tin có tác động quyết định đến kết quả hoạt động và rằng khi niềm tin tăng lên, tốc độ hoạt động cũng tăng lên và chi phí giảm xuống. Nguyên tắc này không chỉ áp dụng cho các mối quan hệ chuyên môn với khách hàng, các đối tác kinh doanh, các thành viên trong tập thể làm việc mà còn cho các mối quan hệ cá nhân của chúng tôi nữa, điều đó làm cho cuốn sách có chiều sâu này thêm giá trị." - Kevin Rollins. Chủ tịch &CEO, Dell Corporation "Điều Stephen nói rất đáng tin cậy. Đây là cuốn sách rất hay. Càng có nhiều người trong vòng ảnh hưởng của bạn đọc cuốn sách này, thì cuộc sống càng tốt đẹp hơn, bắt đầu từ bản thân bạn." - Blake M. Roney, Chủ tịch, Nu Skin Enterprises "Khi tôi nhận được cuốn sách này và được yêu cầu đọc và cho ý kiến, phản ứng đầu tiên của tôi là 'Tôi không có thời gian để làm chuyện đó!'. Tuy nhiên sau khi đọc lời nói đầu, rồi một vài chương đầu, tôi không thể rời bỏ cuốn sách. Nội dung cuốn sách đúng là vấn đề mà các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đang gặp phải hiện nay. Cuốn sách đi vào gốc rễ của hành vi đạo đức và sự chính trực và giải thích vì sao các nhà lãnh đạo và các công ty được tin cậy có thể làm công việc tốt hơn, nhanh hơn và với chi phí thấp hơn. Ai cũng nên dành thời gian để đọc cuốn sách này." - Nolan D. Archibald, Chủ tịch & CEO, Black & Decker Corporation Ý KIẾN CỦA CÁC CHUYÊN GIA KINH TẾ "Đây là cuốn sách tôi mong đợi bấy lâu nay! Một sự khẳng định rằng niềm tin đúng là điều có thể tạo ra lợi nhuận, sự thành công và phát đạt. Bằng những chứng cứ xác đáng và những ví dụ hấp dẫn, Covey chỉ cho chúng ta thấy vì sao chiếm được giá trị của niềm tin chính là cách thức mà nước Mỹ và các nước khác sẽ phải cạnh tranh trước những xu thế lớn của toàn cầu hóa. Hãy đọc cuốn sách này. Hãy trở thành nhà lãnh đạo 'đáng tin cậy'. Con tim của bạn, công ty của bạn, những người có liên quan đến bạn, và vốn liếng của bạn sẽ rất biết ơn bạn!" - Patricia Aburdene, tác giả Megatrends 2010: The Rise of Conscious Capitalism "Niềm tin là nền tảng của mọi quan hệ. Tốc độ của Niềm tin sẽ giúp bạn xây dựng nền tảng đó một cách có hiệu quả. Tôi đánh giá cao cuốn sách này." - John C. Maxwell, tác giả và diễn giả; người sáng lập INJOY Stewardship Services "Covey chứng minh rất thuyết phục luận điểm của mình rằng niềm tin có thể làm thay đổi tất cả. Ông cho thấy nếu tốc độ là thước đo sự thành công thì nguồn gốc của nó chính là niềm tin. Trong thời đại mà rất nhiều nhà lãnh đạo trở nên xa lạ với sức mạnh của niềm tin, thì đây là cuốn sách cần phải đọc." - Marcus Buckingham, đồng tác giả Now, Discover Your Strengths "Quan hệ hợp tác là nền tảng của chuẩn mực sống của chúng ta ngày nay. Niềm tin là chất keo gắn kết quan hệ đó. Đây là cuốn sách đầu tiên nói về 'cái gì' và 'bằng cách nào' của vấn đề niềm tin. Nó là cuốn sách cần phải đọc đối với tất cả nhà lãnh đạo ở mọi cấp." - Ram Charan, đồng tác giả Execution "Nhận diện niềm tin là tiêu chuẩn năng lực lãnh đạo quan trọng nhất trong nền kinh tế toàn cầu mới, Covey cho chúng ta thấy làm cách nào để xây dựng, phát triển, mở rộng và lưu giữ phẩm chất quan trọng này trong xã hội của chúng ta và trên thế giới. Tốc độ của Niềm tin là cuốn sách cần phải đọc đối với tất cả chúng ta." - Ken Blanchard, đồng tác giả The One Minute Manager "Tốc độ của Niềm tin chứa đựng triết lý lâu đời được nêu lại rất đúng lúc. Covey chứng minh luận điểm rất thuyết phục rằng niềm tin là tiền đề của thành công trong kinh doanh. Chúng ta giật mình và ngạc nhiên vì sao một điều quan trọng như vậy lại không được chúng ta đặt lên hàng đầu trong công việc kinh doanh của mình. Đây là cuốn sách cần phải đọc cho tất cả các nhà lãnh đạo." - Jim Loehr, đồng tác giả The Power of Full Engagement "Đúng rồi! Phải có ai đó lên tiếng chứ. Quả là hổ phụ sinh hổ tử. Một cuốn sách thật tuyệt vời. Chúc mừng ông, Covey!" - Michael Gerber, người sáng lập & Chủ tịch, E-Myth Worldwide "Không có niềm tin sẽ không có sự trung thành - và không có sự trung thành sẽ không có sự tăng trưởng đích thực. Covey đưa ra luận điểm rất thuyết phục trong cuốn sách Tốc độ của Niềm tin rằng niềm tin là bộ tăng tốc có thể đo lường được của kết quả hoạt động và khi niềm tin tăng lên, chi phí sẽ giảm xuống và tốc độ hoạt động tăng lên. Đây là bài học thiết yếu đối với tất cả các nhà lãnh đạo - những người quan tâm xây dựng các mối quan hệ tin cậy trong nền kinh tế mới." - Fred Reichheld, tác giả The Loyalty Effect "Nhân tố quan trọng nhất trong mọi quan hệ, dù đó là quan hệ kinh doanh hay quan hệ cá nhân, là niềm tin và sự đáng tin cậy. Cuốn sách tuyệt vời này cho bạn thấy làm cách nào để có được niềm tin, để xây dựng, gìn giữ và đưa niềm tin vào mọi lĩnh vực cuộc sống của bạn." - Brian Tracy, tác giả The Way to Wealth "Niềm tin và Covey là những từ ngữ nói lên sự bảo đảm thành công trong thế giới đang biến đổi nhanh chóng này. Tốc độ của Niềm tin là cuốn kinh thánh mới của tôi về sự lãnh đạo." - Pat Croce, đồng tác giả I Feel Great and You Will Too! Ý KIẾN CỦA CÁC QUAN CHỨC, NHÀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC, Y TẾ "Tốc độ của Niềm tin quả là cuốn sách rất phù hợp với thời đại của chúng ta - truyền cảm hứng, tăng sức mạnh và rất thiết thực. Tất cả mọi người thuộc mọi tầng lớp trong xã hội, ở khắp mọi nơi trên thế giới sẽ hưởng lợi từ thông điệp quan trọng của nó: đầu tư vào sự chính trực để gặt hái cổ tức niềm tin sẽ củng cố doanh nghiệp và làm phong phú cuộc sống của bạn." - Rosabeth Moss Kanter, Harvard Business School "Tốc độ của Niềm tin là một cuốn sách tuyệt vời. Đây là cuốn sách đáng đọc, thiết thực và có thể áp dụng rộng rãi. Bất cứ ai muốn những điều quan trọng được thực hiện nhanh chóng hơn, có hiệu quả hơn và ít trở ngại hơn thì nên đọc cuốn sách này." - Clayton M. Christensen, Giáo sư, Harvard Business School "Mặc dù cái tên nghe có vẻ sáo rỗng, nhưng Tốc độ của Niềm tin là cuốn sách phải đọc đối với tất cả những ai muốn trở thành nhà lãnh đạo một quốc gia, một công ty, một gia đình, hay thậm chí bản thân mình trong thời đại đầy biến động ngày nay. Là một học trò và người thực hành các nguyên tắc của Covey trong nhiều năm tại các bệnh viện quân đội, các trung tâm y tế, và là nhân viên cũng như CEO của một hiệp hội y học toàn quốc, tôi chưa bao giờ có khả năng rút ra thực chất lãnh đạo một cách rõ ràng như Covey đã làm. Đây là cuốn sách quan trọng cho tất cả những ai muốn đi đầu trong cái thế giới có sự phân cực, chủ nghĩa hoài nghi và nỗi thất vọng." - Charles H. Roadman, M. D, Thiếu tướng Quân y, Không quân Hoa Kỳ (đã nghỉ hưu); "Stephen M. R. Covey đã viết một cuốn sách siêu hạng về tầm quan trọng của niềm tin. Các hiệu trưởng của chúng tôi sẽ có lợi lớn từ việc đọc cuốn sách này. Nó sẽ giúp họ xây dựng niềm tin với các giáo viên và các giáo viên với các học sinh của họ. Đây là cuốn sách cần phải đọc." - Pedro Garcia, Ed.D., Giám đốc phụ trách các trường công, Nashville "Covey đã nghiên cứu sâu khái niệm niềm tin đến tận cội nguồn của nó và đưa ra những dữ liệu vững chắc và hấp dẫn để chứng minh tác động của khoảng trống niềm tin, nhưng quan trọng hơn là đưa ra giải pháp đối với niềm tin bị tan vỡ. Tôi nhận thấy hàng ngày những ví dụ về tốc độ và sự hăng hái mà các mối quan hệ tin cậy tạo ra và những nguyên tắc về hành vi của Covey giúp chúng ta đưa ra các quyết định khó khăn nhanh chóng và bớt băn khoăn hơn. Cuốn sách này có một sức mạnh to lớn giúp bạn thay đổi cuộc sống của mình và tổ chức của bạn." - Dave Gayler, Ph.D., Thanh tra giáo dục, Charlotte County, Florida Ý KIẾN CỦA CÁC CHUYÊN GIA PHÁT TRIỂN CÁ NHÂN VÀ NGHỀ NGHIỆP "Những mối quan hệ đứng vững trước thử thách của thời gian được xây dựng trên nền tảng của niềm tin vững chắc. Covey cho chúng ta những chỉ dẫn để học tập cách áp dụng nguyên tắc này với những người có vị trí quan trọng trong cuộc sống của chúng ta." - John Gray, Ph.D., tác giả Men Are from Mars, Women Are from Venus "Trong cuốn Tốc độ của Niềm tin, Covey trình bày một cách tài tình mối liên hệ giữa sự đáng tin cậy và năng suất theo một cách làm thay đổi vĩnh viễn nhận thức của bạn về niềm tin." Anthony Robbins, tác giả Awaken the Giant Within và Unlimited Power "Tốc độ của Niềm tin giải thích một cách sắc bén vì sao xây dựng niềm tin là con đường ngắn nhất đi đến kết quả. Nếu bạn muốn có kết quả nhanh, tôi tin rằng bạn sẽ yêu thích cuốn sách này giống như tôi." - Robert G.Allen, tác giả Multiple Streams of Income "Tôi hiểu rõ tầm quan trọng của niềm tin. Được giữ chặt với nhau bằng dây thừng khi băng qua lớp băng tuyết giữa những kẽ nứt sâu thẳm là một kịch bản thử thách tột bậc về niềm tin. Trên đỉnh núi cao đó, cuộc sống của tôi nằm trong tay các đồng đội và cuộc sống của họ nằm trong tay tôi. Sự phó mặc đó dựa vào niềm tin vững chắc, cũng như phần lớn các trường hợp khác trong cuộc sống. Cuốn sách của Covey chứa đầy nội dung về việc xây dựng và gìn giữ niềm tin. Đây là cuốn sách cần phải đọc." - Erik Weihenmayer,"Người mù leo đỉnh núi Everest"; tác giả Touch the Top of the World "Nếu bạn muốn tăng tốc độ hướng đến sự phồn vinh, bạn cần phải có niềm tin vô điều kiện để tối đa hóa thu nhập. Cuốn sách vĩ đại này sẽ nói cho bạn biết bằng cách nào." - Mark Victor Hansen, đồng tác giả loạt sách Chicken Soup for the Soul "Niềm tin không phải là chiếc áo để có thể mặc vào hay cởi ra tùy theo hoàn cảnh hay văn hóa. Tất cả các nhà lãnh đạo chính trị, kinh doanh, gia đình, trường học trong mọi quốc gia cần tiếp thu các khái niệm cốt lõi trong cuốn sách hiếm thấy này. Covey đã nhận diện chất keo tạo ra sự đồng tâm hiệp lực giúp chúng ta gắn kết với nhau. Nếu chúng ta tiếp thu nó, chúng ta sẽ tồn tại và phát đạt. Nếu không, đó sẽ là tiền đề của sự kết thúc." - Denis Waitley, tác giả The Seeds of Greatness "Cuốn sách của Covey là một nguồn tư liệu tuyệt vời về 'cách làm thế nào' để thiết lập, xây dựng và nuôi dưỡng niềm tin trong toàn bộ cơ sở của tổ chức. Đây là cuốn sách cần phải đọc đối với tất cả các nhà lãnh đạo trong nền kinh tế toàn cầu mới, những người hiểu rõ và coi trọng tính minh bạch và sự trung thực. Đó là những gì mà những người lãnh đạo chúng ta cần phải có." - Ann Rhoades, Chủ tịch, People Ink "Niềm tin là nền tảng tối quan trọng cho mọi quan hệ vững chắc. Trong cuốn sách được viết công phu này, Covey đã giúp tất cả chúng ta nhìn sâu vào cách thức làm thế nào để niềm tin trở thành điều cốt lõi trong cuộc sống cá nhân và nghề nghiệp của chúng ta." - Fred Harburg, cựu Chủ tịch, Giám đốc đào tạo, Motorola University LỜI NÓI ĐẦU Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Làm sao khi "con hát, cha khen hay" mà vẫn được tin cậy - đặc biệt khi nói đến một cuốn sách về Niềm tin? Trước tiên, mời bạn xem xét điều này. Sau khi trao cho Stephen, con trai tôi, vai trò CEO của Covey Leadership Center, chỉ trong vòng 3 năm, doanh số của công ty chúng tôi đã tăng gần gấp đôi và lợi nhuận tăng hơn 1.200%. Cũng trong thời gian đó công ty đã mở thêm nhiều chi nhánh tại 40 quốc gia trên thế giới và tăng giá trị vốn cổ phần từ 2,4 triệu đô la lên 160 triệu đô la vào thời điểm Stephen chủ trương hợp nhất Covey Leadership Center với Franklin Quest để lập ra FranklinCovey của chúng tôi ngày nay. Nhờ đâu mà chúng tôi đạt được thành tích này? Tất cả chỉ gói gọn trong một từ duy nhất - Niềm tin. Mọi người tin tưởng vào tính cách và năng lực của Stephen cũng như Stephen đã đặt niềm tin của mình vào mọi người. Sự tin cậy lẫn nhau đó đã tạo ra sự cộng hưởng mạnh mẽ đem lại thành tích nói trên. Và, hầu hết mọi người có liên quan đến quá trình này đều công nhận rằng sự chuyển hóa đó là một trải nghiệm đẳng cấp cao nhất, thú vị nhất và cảm hứng nhất trong sự nghiệp của họ. Tôi xin được mở ngoặc nơi đây để nói rằng, Stephen chính là chú nhóc 7 tuổi từng thực hành nguyên tắc "xanh và sạch" mà tôi đã đề cập trong cuốn sách "The 7 Habits of Highly Effective People" ("7 Thói Quen Để Thành Đạt"). Bạn, cũng như tôi, tất nhiên muốn biết câu chuyện tiếp theo của Stephen trong cuốn sách này. Tôi từng nhìn thấy trước những thành tích xuất sắc của Stephen qua việc cháu học cách giữ gìn sân vườn nhà chúng tôi luôn "xanh và sạch". Trên thực tế, điều này đã được minh chứng qua cách Stephen chuyển hóa công ty bằng việc tiến hành hàng loạt các hoạt động cải tổ phương pháp lãnh đạo, công tác huấn luyện - đào tạo - tư vấn và nhiều việc khác cùng với việc cho ra đời cuốn sách này. Ba lý do vì sao tôi đánh giá cao quyển sách này Có ba lý do khiến tôi tin rằng cuốn sách sẽ trở thành một tác phẩm kinh điển. Thứ nhất, nó mổ xẻ tận gốc rễ của vấn đề. Thứ hai, nó sâu sắc, thực tế và toàn diện. Thứ ba, nó mang lại nguồn hy vọng lớn cho bạn đọc. Tôi sẽ phân tích rõ hơn từng ý này dưới đây. Trước hết, cuốn sách đi thẳng vào gốc rễ của vấn đề. Theo Henry David Thoreau,"trong khi một ngàn người lao vào giải quyết phần ngọn của vấn đề thì chỉ có một người nhắm vào gốc rễ của nó". Chúng ta dễ dàng nhìn thấy tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề từ gốc trong mọi mặt của cuộc sống - chẳng hạn trong việc chữa bệnh (xử lý phần ngọn) và phòng bệnh (xử lý phần gốc), hay tập trung vào các biện pháp ngăn ngừa tội phạm (gốc) thay vì thực thi pháp luật (ngọn), hạn chế phương tiện di chuyển cá nhân để tránh ùn tắc giao thông (ngọn) thay vì quy hoạch và xây dựng tốt hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ về mọi mặt (gốc)... Qua quyển sách này, các bạn sẽ nhận thức được tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề tận gốc trong lĩnh vực kinh doanh: thay vì chỉ tuân thủ các nguyên tắc và quy trình sẵn có, chúng ta cần chú trọng tối ưu hóa hoạt động bằng cách phát huy tính cách đạo đức con người, xây dựng động cơ làm việc trong sáng và năng lực vượt trội nhằm đạt được những thành tích xuất sắc và bền vững. Điều này có vẻ phi lý nhưng từ những trải nghiệm của bản thân ở nhiều quốc gia trên khắp thế giới, thì việc thi hành đạo luật Sarbanes Oxley(1) năm 2002 (hay những biện pháp tương tự) nhằm ngăn chặn những vụ bê bối lớn về tài chính ở các tập đoàn kinh tế lại khiến mọi người xem nhẹ những yếu tố tinh thần như niềm tin vì đã sai lầm gán cho nó tính chất trừu tượng và vai trò thứ yếu trong đời sống doanh nghiệp. Các giám đốc tài chính và kiểm toán viên đã nắm lấy vai trò quyền lực của những chuyên viên phát triển nguồn nhân lực và quản lý nhân sự có đầu óc chiến lược. Trong khi đó, vấn đề đạo đức nổi lên thành một trong những vấn đề nóng bỏng nhất của thời đại ngày nay - đã có vô số buổi thảo luận về đạo đức, kể cả những đề xuất đưa đạo đức vào chương trình giảng dạy trong nhà trường, xây dựng các chương trình rèn luyện về đạo đức và cả việc thiết lập các chuẩn mực đạo đức. Cuốn sách này đã chỉ cho thấy mặc dù đạo đức là yếu tố căn bản và cần thiết nhưng hoàn toàn chưa đủ. Và cái gọi là yếu tố tinh thần thực ra lại rất cụ thể, có thể đo lường được, và có tác động đến tất cả mọi phương diện của các mối quan hệ, tổ chức, thị trường và xã hội. Thắng lợi trong thương trường giúp cho doanh nghiệp đạt được những thành tựu về tài chính, và những thắng lợi như vậy chỉ có được khi doanh nghiệp thành công trong việc áp dụng một chính sách đối nhân xử thế thích hợp trong nội bộ, mà tinh thần xuyên suốt của chính sách đó không gì khác hơn là niềm tin. Kể cả những tác phẩm mà tôi đã viết cũng như các tài liệu tôi đã từng đọc về niềm tin cũng khó có thể sánh được với tác phẩm này. Quyển sách không chỉ bàn đến hành vi đạo đức trong lãnh đạo hay việc tuân thủ, thực thi thuần túy các nguyên tắc đạo đức sẵn có, mà nó còn khai thác đến tâm tư, nguyện vọng thật sự của mỗi cá nhân và khả năng thu phục nhân tâm. Dù bạn định nghĩa niềm tin là sự tin cậy lẫn nhau, là lòng trung thành hay hành vi đạo đức, hoặc giả bạn đánh giá nó trên phương diện kết quả của sự giao quyền, tinh thần đồng đội và sự đồng tâm hiệp lực trong công việc, thì niềm tin vẫn luôn là yếu tố căn bản quyết định mọi ảnh hưởng của chúng ta với mọi người. Khi đọc cuốn sách này, bạn sẽ có cách nhìn của một nhà sinh thái xã hội và hiểu được các mối quan hệ đa dạng, và ảnh hưởng của niềm tin lên những mối quan hệ đó. Nó giúp chúng ta có một cái nhìn bao quát và từ bỏ lối sống xem nhẹ niềm tin để xây dựng một nền văn hóa của sự tin cậy. Thứ hai, cuốn sách đưa ra một mô hình niềm tin theo chiều sâu, thiết thực và toàn diện. Nó giúp chúng ta thấu hiểu năm tác động của niềm tin. Cũng giống như tác động của một hòn sỏi khi được ném lên mặt nước, ảnh hưởng của niềm tin lan tỏa từ bản thân nó đến các mối quan hệ với mọi người xung quanh, đến các cổ đông và đến toàn xã hội. Thông qua những minh họa thực tế và đầy tính thuyết phục, chúng ta thấy được khả năng ứng dụng rộng rãi của những nguyên lý này trong đời sống cá nhân hay trong quan hệ giữa hai bên, trong gia đình, doanh nghiệp, trường học, bệnh viện, cơ quan nhà nước, đơn vị quân đội, hay tổ chức "phi lợi nhuận". Thứ ba, cuốn sách này mang lại niềm hy vọng cho mỗi chúng ta. Khi lần lượt đọc qua các chương, bạn sẽ bắt đầu cảm thấy lạc quan và có cảm hứng rằng dù trong bất kỳ hoàn cảnh thiếu vắng niềm tin nào, bạn vẫn có thể đóng vai trò một tác nhân tích cực trong việc xây dựng hay khôi phục niềm tin và củng cố các mối quan hệ, và nỗ lực đó sẽ nhanh chóng mang lại hiệu quả. Khi được Stephen chia sẻ những kinh nghiệm của bản thân hay của nhiều người khác trong nỗ lực cứu vãn những tình huống trì trệ gây tác hại và tổn thất cho doanh nghiệp, bạn sẽ tự tin rằng mình cũng có khả năng làm được. Niềm tin - Yếu tố then chốt trong nền kinh tế toàn cầu Bước vào thực tại toàn cầu hóa với tính tương thuộc ngày càng rõ rệt, niềm tin trong các quan hệ giao dịch càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Kinh nghiệm giao dịch của tôi với các nhà lãnh đạo doanh nghiệp trên khắp thế giới đã chứng minh rằng "tốc độ tiếp cận thị trường" đang trở thành một thứ vũ khí cạnh tranh tối thượng. Sự thiếu niềm tin bất kể do hành vi thiếu đạo đức hay hợp đạo đức nhưng không thích hợp với hoàn cảnh đều gây ra nhiều trở ngại. Thiếu niềm tin thường đưa đến những tổn thất lớn nhất trong cuộc sống, trong tổ chức và cả trong đời sống gia đình thông qua những mưu đồ xấu, mâu thuẫn nội bộ, xung đột cá nhân, tình trạng đối kháng giữa các phòng ban, tư tưởng thắng - thua, giao tiếp đối phó - tất cả đều là những yếu tố làm giảm tác dụng thúc đẩy của niềm tin. Ngoài ra, thiếu niềm tin còn làm trì trệ mọi tiến trình - từ việc ra quyết định, giao tiếp, cho đến việc xây dựng những mối quan hệ. Niềm tin chính là hiệu quả. Hiệu quả thuyết phục khách hàng trung thành với một thương hiệu, và cũng chính hiệu quả xây dựng sự tự tin vào thành công của doanh nghiệp. Hiệu quả phục vụ lợi ích cho khách hàng không chỉ khiến khách hàng tiếp tục gia tăng đơn hàng với bạn, mà còn giới thiệu thương hiệu của công ty bạn đến nhiều khách hàng tiềm năng khác. Như vậy khách hàng của bạn lại trở thành đội ngũ tiếp thị và phát triển kinh doanh hữu hiệu nhất cho doanh nghiệp của bạn. Hiệu quả ổn định sẽ làm cho các nhà cung cấp an tâm trở thành đối tác chiến lược vốn đang là vấn đề thiết yếu trong nền kinh tế toàn cầu vốn dựa trên cơ sở tri thức kết hợp với nguồn nhân lực. Niềm tin cũng giống như tầng nước sâu chuyên cung cấp nước cho các mạch nước ngầm. Trong kinh doanh cũng như trong cuộc sống, những mạch nước ngầm này thường được gọi bằng các tên như sự đổi mới, tinh thần đồng đội, sự hợp tác, trao quyền, hệ thống quản lý 6-Sigma, và nhiều khái niệm khác của lý thuyết quản trị chất lượng toàn diện, sự trung thành với thương hiệu, hay nhiều sáng kiến chiến lược khác. Những mạch nước ngầm này nuôi dưỡng các con sông và dòng suối của quan hệ tương tác giữa con người, trong kinh doanh thương mại hay việc ký kết các giao ước. Chúng tạo nên chất lượng cuộc sống bền vững đối với tất cả các mối quan hệ, bao gồm quan hệ gia đình, quan hệ giữa các bộ phận trong tổ chức, quan hệ thường ngày với nhà cung cấp và khách hàng - thực ra, đó là mọi nỗ lực để có sự cống hiến bền vững. Một quyển sách đáng đọc Cuốn sách đề cập đến một chủ đề mang tính thời sự trong "thế giới phẳng" mới mẻ mà chúng ta đang sống, được đúc kết không chỉ từ những trải nghiệm cá nhân mà còn dựa trên những công trình nghiên cứu thực nghiệm chứng minh vì sao tác dụng thúc đẩy của niềm tin lại được xem như một trong những chỉ số đo lường quan trọng trong các bài toán chiến lược của tổ chức cũng như các mối quan hệ cá nhân. Điều làm cho cuốn sách này có sức mạnh, thiết thực và đáng tin cậy là khả năng đo lường niềm tin của nó. Tôi cảm thấy tự hào và thán phục khi nhìn thấy Stephen khai thác vấn đề sâu hơn tôi nghĩ và bổ sung nhiều kiến thức quan trọng. Tôi tin rằng Stephen đã vươn đến một đỉnh cao mới, với tư cách vừa là nhà kiểu mẫu/thực hành vừa là một người dẫn đầu tư duy nghiêm túc và tài năng. Hy vọng các bạn sẽ thu được nhiều lợi ích thiết thực khi đọc cuốn sách này. Tiến sĩ Stephen R. Covey Tác giả quyển 7 Thói quen để thành đạt và Thói quen thứ 8 PHẦN I. ĐIỀU LÀM THAY ĐỔI TẤT CẢ Có một điều rất quen thuộc với tất cả mọi người, với các mối quan hệ, tập thể, gia đình, tổ chức, quốc gia, nền kinh tế và nền văn minh của thế giới mà một khi bị xóa bỏ thì cả một chính phủ hùng mạnh nhất, một doanh nghiệp thành công nhất cũng có khả năng bị sụp đổ; một nền kinh tế thịnh vượng nhất có thể bị suy thoái, một kiểu lãnh đạo có ảnh hưởng nhất, một tính cách mạnh mẽ nhất cũng có nguy cơ suy yếu; và một tình yêu thương sâu sắc nhất cũng có thể tan vỡ. Ngược lại, nếu được phát huy và tận dụng thì nó có khả năng tạo nên sự thành công và thịnh vượng vượt bậc trong mọi mặt của cuộc sống. Tuy nhiên, điều này lại ít được quan tâm, không được hiểu rõ và thường bị xem nhẹ nhất trong thời đại của chúng ta. Đó chính là Niềm tin. Niềm tin tác động đến chúng ta 24 giờ trong ngày, 7 ngày trong tuần và 365 ngày trong năm. Nó tác động đến mọi mối quan hệ, mọi cuôc giao tiếp, mọi dự án kinh doanh và mọi nỗ lực của chúng ta. Nó làm thay đổi chất lượng của hiện tại và kết quả của tương lai trên cả hai phương diện: công việc và cuộc sống của mỗi chúng ta. Trái với điều mà hầu hết mọi người thường nghĩ, niềm tin không phải là một sự mềm yếu, ảo tưởng mà bạn có hay không có cũng được; nó là một tài sản thiết thực, hữu hình, có sức ảnh hưởng và bạn có thể tạo ra nó một cách nhanh chóng hơn nhiều so với bạn tưởng. Trong khi những vụ bê bối tài chính trong các tập đoàn kinh tế, những mối đe dọa khủng bố, những tranh chấp nội bộ nơi công sở, những mối quan hệ tan vỡ làm giảm niềm tin trên hầu hết các phương diện của cuộc sống ở khắp mọi nơi, tôi vẫn tin rằng khả năng xây dựng, tăng cường, mở rộng và khôi phục niềm tin không chỉ là yêu cầu thiết yếu đối với an sinh của từng cá nhân và mối quan hệ giữa con người với nhau. Niềm tin còn là năng lực lãnh đạo then chốt trong nền kinh tế toàn cầu mới mẻ này. Tôi cũng tin rằng trong mọi hoàn cảnh, không gì lan truyền nhanh bằng tốc độ của niềm tin và bạn có thể hưởng lợi rất nhiều từ việc tạo ra nó! Chương 1. KHÔNG GÌ NHANH BẰNG TỐC ĐỘ CỦA NIỀM TIN Tốc độ xuất hiện khi người ta thực sự tin cậy lẫn nhau. - Edward Marshall Nếu không nhanh chân, bạn sẽ chết. - Jack Welch Tôi không bao giờ quên một trải nghiệm cách đây nhiều năm khi tôi làm việc cho một ngân hàng đầu tư lớn tại New York trong một thời gian ngắn. Chúng tôi vừa trải qua một cuộc họp căng thẳng mà nhiều vấn đề phát xuất từ sự mất niềm tin lẫn nhau trong nội bộ. Những vấn đề như thế gây chậm trễ và ảnh hưởng tiêu cực đối với quá trình thực hiện công việc. Vị lãnh đạo cấp cao tâm sự với tôi rằng những cuộc họp như thế không giải quyết được gì mà chỉ lãng phí thời gian. Ông ấy không tin 'Mike' mà cũng chẳng tin 'Ellen', và thực sự khó có thể tin ai trong tập thể đó. Tôi hỏi ông: " Vậy sao ông không tìm cách cũng cố niềm tin?". Ông ấy nhìn tôi và trả lời rất nghiêm túc: " Này, Stephen, cậu cần hiểu một điều là cậu chỉ có thể tin hoặc không tin. Chúng tôi đã không tin nhau thì không gì có thể thay đổi được điều đó". Tôi hoàn toàn phản đối ý kiến này. Kinh nghiệm từ cuộc sống riêng cũng như trong công việc kinh doanh suốt hơn 20 năm qua đã khiến tôi tin rằng chúng ta có nhiều cách để thay đổi điều đó. Chúng ta có thể làm gia tăng tốc độ niềm tin nhanh hơn chúng ta tưởng và điều đó sẽ tác động tích cực đến chất lượng cuộc sống và giúp chúng ta đạt được những thành quả ngoài sức tưởng tượng. Bạn có thể có trong tay mọi dữ kiện và con số, mọi bằng chứng, mọi sự xác nhận mà bạn muốn, nhưng nếu bạn không có niềm tin, bạn sẽ chẳng đi đến đâu. - NIALL FITZGERALD, CỰU CHỦ TỊCH, UNILEVER Niềm tin tác động đến tất cả mọi người Khi diễn thuyết khắp nơi trên thế giới về đề tài Tốc độ của Niềm tin, tôi thường nghe thấy những lời than vãn đại loại như: Tôi không chịu nổi cảnh đấu đá, bè phái trong công ty. Tôi cảm thấy mình bị đồng nghiệp chơi xỏ. Dường như ai cũng chỉ nghĩ đến bản thân mình và làm đủ mọi cách để có lợi cho mình. Tôi đã từng bị tổn thương, làm sao tôi có thể còn tin được ai để xây dựng mối quan hệ đích thực? Tôi làm việc trong một tổ chức đầy quan liêu. Chẳng bao giờ có thể làm được việc gì cho ra hồn, vì đến mua một cái bút chì tôi cũng phải xin phép! Con cái càng lớn càng không nghe lời tôi. Tôi biết phải làm gì đây? Tôi có cảm giác những đóng góp trong công việc của mình không được thừa nhận và xem trọng. Tôi đã vụng về làm mất niềm tin với người rất quan trọng đối với tôi. Giá như tôi có thể bắt đầu lại, tôi sẽ có ngay một quyết định khác. Nhưng thực tế tôi không thể, liệu tôi có thể xây dựng lại mối quan hệ đó? Tôi luôn phải thận trọng trong lời ăn tiếng nói tại nơi làm việc vì nếu tôi nói thật điều mình nghĩ, tôi có nguy cơ bị đuổi việc hoặc chí ít cũng bị đối xử lạnh nhạt. Tôi và các nhân viên khác bị sếp quản lý rất xét nét. Ông ta đối xử với chúng tôi như những kẻ không đáng tin cậy. Trước những vụ bê bối, tham nhũng và vi phạm đạo đức đầy rẫy trong xã hội chúng ta ngày nay, tôi cảm thấy như luôn có kẻ chơi khăm mình khiến tôi không còn biết nên tin vào điều gì, hay tin vào ai nữa. Vậy bạn sẽ làm gì nếu bạn rơi vào một trong những hoàn cảnh như trên, hay vào những trường hợp mà sự thiếu niềm tin gây ra mâu thuẫn nội bộ và tệ nạn quan liêu, hoặc đơn giản chỉ làm trì trệ công việc? Bạn sẽ chấp nhận điều này đơn giản chỉ như một phí tổn trong kinh doanh hay bạn sẽ tìm cách khắc phục hoặc thậm chí chuyển biến nó? Tôi tin chắc rằng bạn hoàn toàn có thể khắc phục được vấn đề này. Thực ra chỉ cần biết xây dựng, phát triển, mở rộng và khôi phục niềm tin, bạn có thể dễ dàng thay đổi thực trạng hiện nay cũng như cả tương lai của bạn. Kỹ thuật và công nghệ đều quan trọng, nhưng niềm tin mới là yếu tố cần được quan tâm hàng đầu trong thập kỷ này. - TOM PETERS, TÁC GIẢ CHUYÊN VIẾT VỀ ĐỀ TÀI KINH DOANH Nắm vững khái niệm Niềm tin Vậy, Niềm tin là gì? Thay vì đưa ra một định nghĩa phức tạp, tôi muốn mượn câu nói của Jack Welch, cựu CEO của General Electric, "Bạn chỉ thực sự biết nó khi bạn cảm nhận được nó". Nói một cách đơn giản, niềm tin chính là sự tin cậy, trái nghĩa với nó là sự nghi ngờ. Khi bạn tin ai, bạn đặt hết niềm tin vào người đó, tin vào phẩm chất đạo đức và năng lực của họ. Còn khi bạn không tin ai, bạn sẽ nghi ngờ người đó cả về phẩm chất đạo đức, hành động, năng lực, hay thành tích của họ. Niềm tin đơn giản chỉ có thế. Mỗi người trong chúng ta đều có những trải nghiệm về sự khác biệt không nhỏ giữa các mối quan hệ xây dựng trên niềm tin và không dựa vào niềm tin. Vậy ngay lúc này bạn hãy nghĩ đến người mà bạn có mối quan hệ khá tin cậy - có thể đó là cấp trên, đồng nghiệp, khách hàng, cũng có thể là người thân trong gia đình, hoặc bạn bè. Bạn hãy nhận định về mối quan hệ đó xem nó cho bạn cảm giác ra sao? Sự giao tiếp có trôi chảy hay không? Tốc độ thực hiện công việc có nhanh chóng không? Bạn yêu thích mối quan hệ này đến mức nào? Rồi bạn lại nghĩ đến người mà bạn có mối quan hệ không tin cậy lắm. Cũng thế, người này có thể là bất kỳ ai ở nơi làm việc hay trong gia đình của bạn. Bạn hãy diễn tả mối quan hệ đó. Bạn cảm thấy thế nào về mối quan hệ này? Sự giao tiếp có thông suốt hay không? Bạn có cùng phối hợp với người đó để giải quyết nhanh công việc... hay phải mất nhiều thời gian và sức lực để đi đến thỏa thuận và thực thi công việc? Bạn có thích mối quan hệ này hay chỉ thấy tẻ nhạt, rắc rối và mệt mỏi? Rất dễ nhận ra sự khác biệt giữa hai mối quan hệ tin cậy và thiếu tin cậy. Hãy xét hình thức giao tiếp làm ví dụ. Trong mối quan hệ tin cậy, bạn có thể nói sai nhưng người khác vẫn hiểu đúng ý bạn. Còn trong mối quan hệ thiếu tin cậy, dù bạn rất đắn đo, thậm chí hết sức cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói nhưng người ta vẫn hiểu sai ý bạn. Xem xét yếu tố niềm tin trong các mối quan hệ quan trọng, bất kể cá nhân hay trong công việc, bạn sẽ nhận thấy có sự khác biệt rõ ràng. Bạn không thể thành công nếu thiếu niềm tin. Hai từ Niềm tin hàm chứa hầu hết mọi yếu tố mà bạn cần có để giúp bạn thành công. Có mối quan hệ tốt đẹp nào giữa con người với nhau mà không cần đến niềm tin, dù đó là quan hệ hôn nhân, bạn bè hay một quan hệ giao tiếp trong xã hội thông thường; xét cho cùng thì điều này cũng đúng trong kinh doanh, đặc biệt là các ngành kinh doanh có quan hệ công chúng rộng rãi. - JIM BURKE, CỰU CHỦ TỊCH KIÊM CEO, JOHNSON & JOHNSON Thử thách cam go Một trong những trải nghiệm nhớ đời đối với tôi trong việc tăng cường niềm tin diễn ra nhiều năm trước đây do sự kiện sáp nhập Franklin Quest và Covey Leadership Center để lập ra Công ty FranklinCovey. Những ai đã trải qua việc sáp nhập hay mua lại công ty đều biết những việc như thế này đều không hề dễ dàng. Thông thường một công ty mới sau khi sáp nhập trở nên rất mạnh. Chúng tôi có những con người tài năng, chất lượng tuyệt vời, những khách hàng trung thành và những công cụ hiệu quả. Nhưng việc hòa nhập hai nền văn hóa công ty vào nhau là một thách thức rất lớn. Với tư cách chủ tịch một công ty chuyên về Đào tạo và Huấn luyện, tôi đã đến Washington để thuyết trình với khoảng 1/3 số nhân viên tư vấn về đề tài chiến lược của bộ phận chúng tôi. Nhưng cuộc họp đáng lẽ diễn ra theo mong đợi của tôi thì lại làm cho tôi hoàn toàn thất vọng. Nhiều tuần trước đó, CEO mới của công ty cũng cùng tâm trạng thất vọng như tôi trước những trục trặc và trở ngại ảnh hưởng xấu đến việc sáp nhập có vẻ đầy hứa hẹn này nên đã triệu tập một cuộc họp tất cả nhân viên tư vấn trong công ty. Với nỗ lực muốn "giải tỏa" băn khoăn của mọi người, ông ấy đã đưa ra một quy định tất cả những người thuộc cấp lãnh đạo như chúng tôi chỉ lắng nghe mà không được phản ứng lại bất cứ điều gì mọi người nêu ra trong cuộc họp. Cuộc họp dự kiến kéo dài 4 giờ đã biến thành một phiên họp marathon vô bổ suốt 10 giờ. Do không ai được phép bổ sung, đính chính, giải thích, mở rộng nhiều mặt của vấn đề hay nêu ra những bế tắc đang gặp phải nên chỉ có một số ít vấn đề nêu ra là xác thực. Hầu hết những ý kiến còn lại đều là những nhận định theo lối suy diễn, bóp méo và một số ý kiến khác hoàn toàn sai lệch. Có những nhận định chủ quan, hoài nghi, cáo buộc và thất vọng. Tuy vậy, vì thuộc vào hàng lãnh đạo nên chúng tôi phải miễn cưỡng tuân theo quy định không được phép nói lời nào. Cứ thế, chúng tôi đã phải trải qua hàng chục cuộc họp "tra tấn" như vậy cho đến khi tôi nghĩ chúng tôi phải làm những điều cần thiết để làm cho việc sáp nhập này trở nên tốt đẹp. Vấn đề là ở chỗ tôi đã quá chủ quan. Tôi đã nhầm khi tập trung vào việc xây dựng niềm tin với công ty vừa được sáp nhập vì tự tin vào tên tuổi và uy tín của tôi. Nhưng thực tế lại không phải như vậy, chỉ có một nửa số nhân viên tín nhiệm tôi. Điều đó đã hình thành hai phe đối lập giữa Covey và Franklin. Những người từ Covey đã từng làm việc với tôi nên họ hiểu rằng các quyết định của tôi xuất phát từ nỗ lực chân thành với tinh thần khách quan và vì lợi ích tốt nhất của công ty - không hề có ý định áp đặt "chính sách của Covey"... mà thật ra còn cố gắng tránh để xảy ra tình trạng đó. Còn những người chưa từng làm việc với tôi thì không tin vào tôi. Họ suy diễn mọi quyết định của tôi theo hướng hoàn toàn trái ngược. Chẳng hạn một vấn đề nảy sinh liên quan đến việc sử dụng khu nghỉ mát Sundance để tổ chức một trong các chương trình đào tạo phát triển kỹ năng lãnh đạo của chúng tôi. Sundance là một địa điểm rất khó tổ chức cho hoạt động trên, nên một số người đề nghị nên chuyển đến một địa điểm khác. Tuy nhiên, Giám đốc Chương trình muốn tổ chức tại Sundance vì khách hàng yêu thích địa điểm này, và các dữ liệu tài chính cho thấy doanh thu trung bình của một chương trình cao hơn 40% so với tổ chức tại các nơi khác. Vì thế tôi thực hiện một quyết định cứng rắn: "Do ưu thế về lợi ích kinh tế và vì Giám đốc Chương trình mạnh mẽ khuyến nghị chọn địa điểm này, nên chúng ta sẽ tổ chức tại Sundance". Tôi cho rằng mọi người đều hiểu quyết định này. Nhưng những người không tín nhiệm tôi đã không chịu hiểu như vậy. Họ cho rằng tôi tìm cách áp đặt quan điểm của "Covey". Một số người thậm chí còn nghi ngờ tôi bị mua chuộc bằng tiền vì với tư cách một người lãnh đạo trong cộng đồng, tôi được mời làm cố vấn không lương cho Nhà hát Thiếu nhi của Sundance. Điều đó làm nhiều người nghi ngờ động cơ của tôi. Do mức độ tin cậy thấp như vậy nên mọi người đều có cùng cảm tưởng rằng chắc hẳn đang có mưu đồ nào đó trong sự việc này. Một khi ta nghi ngờ động cơ của một người, thì mọi hành vi của anh ta đều tệ hại. - MAHATMA GANDHI Trong một tình huống khác, tôi đi đến quyết định chuyển "Ron", người quản lý đặc biệt tài năng của phía Covey, sang một vị trí khác vì anh ta bị phát hiện có dính líu vào âm mưu phe phái trong quá trình sáp nhập và dẫn đến tình trạng chia rẽ nội bộ. Tôi quyết định tìm người ngoài công ty để thay thế Ron nhằm tránh mọi điều tiếng rằng người quản lý mới là người của "Covey" hay của "Franklin". Khi công bố tin này, tôi cứ nghĩ rằng mọi người sẽ hoan nghênh ý định đưa vào công ty một tài năng mới của tôi. Nhưng chẳng ai trong số những người không tin tôi thèm để ý nghe việc tuyển người ngoài công ty về thay thế Ron, mà họ chỉ chú ý đến việc anh ta vẫn còn ở lại trong công ty và yêu cầu tôi phải sa thải anh ta. Hết lần này đến lần khác, mọi hành vi của tôi đều bị hiểu sai và quyết định của tôi luôn bị nghi ngờ, mặc dù tôi đã kêu gọi cả hai phía Covey và Franklin cùng tham gia vào việc ra quyết định. Như các bạn có thể hình dung, những người không biết đến quá trình làm việc và thành tích của tôi đều cho rằng lý do duy nhất khiến tôi nắm giữ vị trí lãnh đạo chẳng qua vì tôi là con trai của Stephen R. Covey chứ bản thân tôi chẳng có chút uy tín hay tài năng gì. Vì lẽ đó, tôi luôn đi đến các quyết định một cách thận trọng. Tôi phải tiên liệu mỗi quyết định của mình sẽ được các bên suy diễn ra sao. Tôi bắt đầu lo lắng về thái độ ứng xử và rủi ro. Tôi bắt tay chơi trò thủ đoạn mà từ trước tới nay tôi chưa hề làm - tôi chưa bao giờ phải làm điều này, vì nó không thuộc tính cách của tôi. Khi nghĩ lại tất cả những việc đã xảy ra, tôi hiểu ra rằng nếu tôi không đối mặt với tất cả những vấn đề gây cấn như thế này, thì tình hình này vẫn cứ tiếp tục - thậm chí có thể còn tồi tệ hơn. Mọi quyết định của tôi luôn bị phê phán và biến thành mục tiêu công kích của phe đối lập, và muốn làm bất cứ việc gì cũng sẽ rất khó khăn. Chúng tôi đang phải đương đầu với thói quan liêu, thủ đoạn, và nguy cơ mất đoàn kết nội bộ ngày càng trầm trọng. Đây thực sự là sự lãng phí rất lớn về thời gian, sức lực và tiền của. Tổn thất cuối cùng sẽ không hề nhỏ. Tôi nghĩ, với tình hình tồi tệ đang diễn ra, chưa biết tôi sẽ còn mất thêm gì nữa. Do vậy, khi tôi đặt chân vào phòng họp hôm đó tại thủ đô Washington, tôi chỉ nói: "Hôm nay chúng ta họp để bàn về chiến lược. Chúng ta sẽ bàn về vấn đề này nếu đó là điều các bạn thật sự quan tâm. Nhưng nếu các bạn muốn bàn về vấn đề sáp nhập công ty hơn thì chúng ta sẽ nói về vấn đề đó. Chúng ta sẽ nói về bất cứ vấn đề gây cấn gì các bạn đang quan tâm: Ai đi, ai ở lại công ty? Ai là người ra quyết định cho từng loại vấn đề gì? Tiêu chí nào đang được áp dụng? Tại sao chúng ta lại thiếu thông tin? Điều gì xảy ra nếu chúng ta không tin vào những người ra quyết định? Điều gì xảy ra nếu các bạn không tin tôi khi đưa ra các quyết định này?". Lúc đầu, mọi người sửng sốt không ngờ tôi có thể nêu lên những vấn đề gây cấn như vậy, kể cả cách nhìn nhận của họ đối với cá nhân tôi. Nhiều người còn băn khoăn không hiểu ý đồ thực sự của tôi là gì. Nhưng sau đó họ sớm nhận ra tôi không có gì giấu giếm cả. Tôi đang rất minh bạch và thẳng thắn. Họ nhận thấy tôi thật tâm muốn đưa vấn đề ra bàn luận. Khi cuộc họp tiếp diễn, họ mới tin rằng tôi không có ý đồ xấu; tôi chân thành muốn làm những điều có lợi cho công ty. Cuộc họp bàn về chiến lược dự kiến trong một giờ cuối cùng biến thành cuộc thảo luận kéo dài cả một ngày về những vấn đề mọi người quan tâm như nên sử dụng cơ sở hạ tầng của bên nào, nên điều chỉnh chế độ tiền lương ra sao, nên sử dụng mô hình bán hàng của ai, liệu tôi, Stephen, có thực sự đủ năng lực để ra quyết định hay không? Thành tích, kinh nghiệm của tôi ra sao? Các chuẩn mực của tôi là gì? Tôi phải thừa nhận đây là những vấn đề đầy thách thức. Tôi thẳng thắn chia sẻ những suy nghĩ và lý lẽ đằng sau các quyết định và tiến trình hình thành các quyết định đó. Tôi chia sẻ mọi thông tin mà tôi có thể; đối với những thông tin không thể chia sẻ, tôi giải thích cho họ biết lý do. Tôi lắng nghe và tìm cách hiểu rõ những mối bận tâm của họ. Dựa vào những đề xuất của họ, tôi đưa ra nhiều cam kết xoay quanh việc cải thiện tình hình. Đến cuối ngày hôm đó, mọi người bắt đầu hy vọng và phấn khởi trở lại. Một đại biểu nói với tôi rằng niềm tin tôi xây dựng trong lòng mọi người trong ngày hôm ấy còn giá trị hơn nhiều so với việc tôi đã nỗ lực nhiều tháng trước đó. Trên tất cả, tôi nhận ra rằng đó là sự khởi đầu tốt đẹp về nhận thức giá trị của sự giao tiếp minh bạch và thẳng thắn của chúng tôi. Tôi cũng hiểu ra rằng mặc dù vậy thử thách thực sự sẽ là tôi có khả năng thực hiện các cam kết đến đâu. Chí ít lúc này, mọi người đánh giá hành vi của tôi bằng cách nhìn khác, không còn bị vẩn đục qua lăng kính của sự thiếu vắng niềm tin. Dư âm của cuộc họp lan rộng và chỉ trong vài tháng sau đó, tôi đã làm việc với tất cả các bộ phận khác và xây dựng được niềm tin trong toàn công ty. Chúng tôi tăng tốc độ kinh doanh, giảm chi phí, cải thiện kết quả công việc trong mọi mặt hoạt động. Mặc dù sau đó tôi rời FranklinCovey để lập công ty riêng và viết cuốn sách này, tôi vui mừng thông báo rằng công ty đã vượt qua sóng gió do việc sáp nhập và hiện đang hoạt động rất hiệu quả. Riêng về cá nhân tôi, sự trải nghiệm này càng giúp tôi hiểu rõ hơn về niềm tin. Tôi nhận ra sai lầm lớn nhất của tôi là đã không chủ động hơn trong việc xây dựng và củng cố niềm tin. Do đó, tôi đã phải trực tiếp nhận lãnh hai hậu quả về mặt xã hội và kinh tế. Thêm vào đó, tôi cũng rút ra bài học rằng niềm tin thực sự làm thay đổi mọi thứ. Khi bạn tạo được niềm tin - một niềm tin hình thành từ sự chân thật và năng lực thực sự - thì hầu như mọi khó khăn đều được giải quyết một cách tốt đẹp. Khủng hoảng Niềm tin Bạn không cần phải nhìn đâu xa cũng nhận ra rằng, trong xã hội toàn cầu hiện nay chúng ta đang đối mặt với tình trạng khủng hoảng niềm tin. Hãy thử điểm lại những hàng tít lớn trên báo chí gần đây: • "Khẩu hiệu mới của nhân viên: Đừng tin vào ai cả!" • "Các công ty cấp bách xây dựng lại niềm tin." • "Cả hai bên đều phản bội lòng tin của nhau." • "20 nhân viên Sở Giao dịch Chứng khoán New York bị truy tố." • "Tăng cường phẩm chất đạo đức để khôi phục lòng tin của người dân." • "Quan hệ tan vỡ khi niềm tin giảm sút." • "Bây giờ bạn tin ai?" Những tựa đề đó cho thấy dấu hiệu của một sự thật đáng báo động: Niềm tin giảm sút khắp nơi. Nó lan nhanh vào xã hội toàn cầu, vào thương trường, các tổ chức, các mối quan hệ, vào cả cuộc sống riêng tư của chúng ta. Nó sản sinh sự ngờ vực, hoài nghi dai dẳng và dẫn đến một sự tốn kém chi phí và trì trệ đến suy sụp. Hãy nhìn rộng ra xã hội chúng ta đang sống, niềm tin đã sút giảm đáng kể so với thế hệ trước, và trong nhiều trường hợp niềm tin đã xuống thấp đến mức kỷ lục. Tại Mỹ, theo một điều tra dư luận của Harris năm 2005, chỉ có 22% số người được hỏi ý kiến còn tin tưởng vào giới truyền thông, 8% tin vào các đảng phái chính trị, 27% tin vào chính quyền và 12% tin vào các doanh nghiệp lớn. Có lẽ tệ hơn nữa là sự mất niềm tin giữa con người với nhau. Theo cuộc điều tra gần đây của David Halpern, nhà xã hội học người Anh, chỉ có 34% người Mỹ tin vào người khác. Tại châu Mỹ La-tinh con số này là 23%, châu Phi 18%. Công trình của Halpern cũng cho thấy bốn thập kỷ trước tại nước Anh, 60% dân số có thể tin tưởng người khác; ngày nay con số này giảm xuống chỉ còn 29%. Một tin vui của công trình nghiên cứu này - nói một cách tương đối - là 68% số dân ở Bắc Âu (Đan Mạch, Thụy Điển và Na Uy) và 60% dân số của Hà Lan có thể tin vào người khác. Đó là những tổ chức xã hội có mức độ niềm tin cao. Tại Mexico, mặc dù mức độ tin tưởng giữa con người tương đối thấp so với các nước Bắc Âu, chỉ 31%, nhưng so với con số 19% của năm 1983 thì mức độ niềm tin đã gia tăng đáng kể. Bất kể bạn đang ở trong một đội thể thao, một tổ chức hay trong gia đình, nếu bạn không thể tin được ai thì chắc chắn bạn sẽ gặp nhiều rắc rối. - JOE PATERNO, HUẤN LUYỆN VIÊN TRƯỞNG MÔN BÓNG ĐÁ TRƯỜNG ĐẠI HỌC PENN STATE Ở cấp độ tổ chức, niềm tin trong các công ty cũng đã giảm xuống đáng kể. Hãy nhìn vào số liệu nghiên cứu sau: • Chỉ có 51% số nhân viên tin và tín nhiệm cấp trên của mình. • Chỉ có 36% số nhân viên tin rằng lãnh đạo của họ hành động trung thực và chính trực. • Chỉ trong hơn 12 tháng, đã có 76% số nhân viên có hành vi vi phạm nội quy hoặc đạo đức nghề nghiệp - những hành vi một khi bị phát hiện sẽ làm giảm nghiêm trọng niềm tin của công chúng. Thế còn niềm tin trong quan hệ cá nhân thì sao? Mặc dù niềm tin trong từng mối quan hệ cụ thể, đều có khác, nhưng đối với hầu hết mọi người nó vẫn là một vấn đề lớn, ít ra là trong một số quan hệ cơ bản (thường là mối quan hệ quan trọng với cấp trên hoặc đồng nghiệp, hoặc vợ chồng, con cái). Hãy xem xét một số kết luận sau đây: • Lý do chủ yếu khiến nhiều người bỏ việc là do mối quan hệ không tốt với cấp trên. • Cứ hai cặp vợ chồng thì có một cặp ly hôn. Các mối quan hệ đều được xây dựng và duy trì dựa trên cơ sở niềm tin, nên một khi thiếu vắng niềm tin chúng đều có nguy cơ đổ vỡ. Bạn thử hình dung xem có mối quan hệ tốt đẹp nào mà lại không có niềm tin. Thế còn Niềm tin ở cấp độ cá nhân thì sao? Hãy xem xét tỷ lệ sinh viên thừa nhận đã có hành vi gian lận trong thi cử: • Sinh viên ngành mỹ thuật: 43% • Sinh viên ngành sư phạm: 52% • Sinh viên ngành y: 63% • Sinh viên ngành luật: 63% • Sinh viên ngành kinh doanh: 75% Bạn cảm thấy thế nào khi biết rằng có hơn 50% khả năng vị bác sĩ sẽ phẫu thuật cho bạn trong tương lai đã từng gian lận khi còn đi học? Hay 75% khả năng người điều hành công ty mà bạn sẽ vào làm việc đã từng không hề tôn trọng sự trung thực? Gần đây, khi tôi trình bày số liệu này với một nhóm luật sư, họ sung sướng khi biết mình không thuộc nhóm chót bảng! Ngược lại họ quay sang chế nhạo tôi vì với mảnh bằng Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh chính tôi mới thuộc nhóm xếp cuối bảng! Đúng là một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về niềm tin! Bên cạnh niềm tin đối với xã hội, tổ chức và trong các mối quan hệ, còn có một khía cạnh niềm tin rất cơ bản và có sức mạnh: Niềm tin đối với bản thân. Chúng ta thường có những cam kết đối với bản thân như tự xác định các mục tiêu phấn đấu hay những việc quyết tâm thực hiện trong năm mới nhưng rồi chúng ta lại không thực hiện được. Từ đó chúng ta cảm thấy tin tưởng bản thân mình đã khó, đừng nói tin vào người khác. Như cha tôi thường nói, chúng ta luôn đánh giá bản thân dựa vào ý định chủ quan của mình nhưng lại xét đoán người khác qua hành vi của họ. Vì vậy cách tốt nhất để khôi phục niềm tin là khi chúng ta đã quyết tâm hay hứa hẹn điều gì với bản thân hay với bất cứ ai, chúng ta phải thực hiện bằng mọi giá. Quả thực, chúng ta đang sống trong tình trạng khủng hoảng niềm tin. Nó ảnh hưởng đến chúng ta ở mọi cấp độ - xã hội, tổ chức, các mối quan hệ, bản thân và để lại cho chúng ta những hậu quả lâu dài. Mặc dù nhiều người trong chúng ta khá kiên định, nhưng mỗi khi được nghe hay chứng kiến những hành vi hủy hoại niềm tin hay những vụ bê bối chính trị hay tài chính, chúng ta khó lòng khôi phục lại niềm tin đã mất. Vì không biết còn điều tệ hại nào nữa sẽ xảy ra nên chúng ta càng lúc càng cảm thấy nghi ngờ người khác. Chúng ta bắt đầu đánh đồng tốt xấu lẫn lộn, chúng ta chỉ nhìn vào hành vi của thiểu số mà xét đoán đa số để rồi phải trả giá đắt cho thái độ đó. Mỗi lần một vụ tai tiếng nghiêm trọng bị vạch trần, niềm tin của dân chúng Mỹ lại suy giảm thêm. Chúng ta không thể trong một sớm một chiều mà lấy lại được niềm tin của họ. - ROBERT ECKERT, CEO, MATTEL Kinh tế học Niềm tin Người hoài nghi có thể hỏi rằng: "Thế thì sao nào? Có đúng là niềm tin còn quan trọng hơn cả một đức hạnh xã hội, cái được xem là yếu tố thuần khiết? Ai có thể chứng minh cụ thể rằng niềm tin là một động lực phát triển kinh tế hữu hiệu?". Tôi sẽ trả lời thỏa đáng các câu hỏi này qua dẫn chứng về những trường hợp kinh doanh thành công nhờ vào niềm tin trong quyển sách này. Dưới đây là một công thức đơn giản cho phép chúng ta nhìn nhận niềm tin từ một phạm trù vô hình và không thể định lượng trở thành một yếu tố vừa hữu hình vừa có thể lượng hóa. Công thức này dựa vào nhận thức quan trọng: Niềm tin luôn tác động đến hai yếu tố - tốc độ (speed) và chi phí (cost). Khi niềm tin giảm, tốc độ sẽ giảm xuống và chi phí tăng lên. Khi niềm tin tăng, tốc độ tăng và chi phí giảm. Điều này rất đơn giản, rất thực tế và vô cùng hiển nhiên. Tôi xin chia sẻ với các bạn một số ví dụ sau đây. Ngay sau khi xảy ra những vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001, niềm tin của công chúng vào những chuyến bay trên khắp nước Mỹ giảm sút nghiêm trọng. Chúng ta nhận ra những nhóm khủng bố luôn tìm cách làm hại chúng ta trong khi hệ thống bảo đảm an toàn cho hành khách không đủ mạnh để bảo vệ mọi người. Trước ngày 11 tháng 9, tôi thường đến sân bay khoảng 30 phút trước giờ cất cánh, và tôi có thể nhanh chóng hoàn tất thủ tục kiểm tra an ninh. Nhưng sau ngày 11 tháng 9, nhiều thủ tục và quy trình kiểm soát nghiêm ngặt được áp dụng làm tôi phải mất nhiều thời gian và chi phí hơn. Tôi phải đến sân bay 90 phút trước giờ cất cánh đối với những chuyến bay nội địa và đến trước từ hai đến ba giờ nếu tôi bay quốc tế. Khi mua vé, tôi còn phải trả thêm khoản phí an ninh sân bay. Vì thế, khi niềm tin sụt giảm thì tốc độ công việc cũng giảm và chi phí sẽ tăng lên. Mới đây khi tôi bay khỏi một thành phố lớn thuộc Trung Đông, tôi phải đến sân bay bốn giờ trước khi máy bay cất cánh, đi qua nhiều thiết bị kiểm tra, mở tung hành lý nhiều lần cho nhiều người khám xét. Vì lý do địa chính trị, niềm tin ở khu vực này cực thấp. Các biện pháp hỗ trợ an ninh rõ ràng là cần thiết, và trong trường hợp này tôi rất biết ơn những biện pháp đó, nhưng thực chất vấn đề vẫn không thay đổi: do niềm tin sụt giảm, tốc độ cũng giảm và chi phí gia tăng. Cái giá phải trả cho sự mất niềm tin là rất đắt. - RALPH WALDO EMERSON Chúng ta hãy xem một ví dụ khác. Đạo luật Sarbanes-Oxley được Quốc hội Mỹ thông qua nhằm đối phó với các vụ bê bối như từng xảy ra tại các tập đoàn Enron, Tyco, WorldCom... Mặc dù đạo luật này đạt được một số hiệu quả tích cực trong việc cải thiện hay chí ít cũng duy trì được sự tín nhiệm trên thị trường, nhưng rõ ràng chúng ta phải trả giá đắt cho việc này. Hãy thử hỏi xem các CEO, CFO(2) hay nhân viên tài chính trong các công ty sẽ mất thêm bao nhiêu thời gian và công ty mất thêm bao nhiêu chi phí để thực hiện các quy định của Đạo luật Sarbanes - Oxley. Trên thực tế, một công trình nghiên cứu gần đây cho thấy chi phí cho việc thi hành chỉ riêng một chương của Đạo luật này đã lên tới 35 tỷ đô la - vượt mức dự kiến ban đầu của Ủy ban Chứng khoán Hoa Kỳ 28 lần! Các quy định bị buộc phải tuân thủ do sự thiếu vắng niềm tin chẳng khác nào những bộ phận giả được lắp thêm vào cơ thể - chỉ hoạt động chậm chạp và tốn kém. Như đã nói, chúng ta quay trở lại bài học then chốt: khi niềm tin sụt giảm, tốc độ công việc sẽ giảm xuống và chi phí tăng lên. Khi phá vỡ những điều luật lớn, không có nghĩa là chúng ta sẽ có tự do, cũng chẳng phải chúng ta sẽ rơi vào tình trạng vô chính phủ, mà chúng ta sẽ bị ràng buộc bởi rất nhiều điều luật khác nhỏ hơn. - G.K. CHESTERTON, TÁC GIẢ NGƯỜI ANH Ngược lại, khi niềm tin tăng lên, tốc độ sẽ nhanh hơn và chi phí giảm xuống. Berkshire Hathaway gần đây đã hoàn thành vụ mua lại công ty McLane Distribution trị giá 23 tỷ đô la từ tập đoàn Wal-Mart. Thông thường việc mua lại và sáp nhập các công ty có quy mô lớn như thế này phải mất nhiều tháng và tốn kém nhiều triệu đô la thuê các kiểm toán viên và luật sư để xác minh và hợp thức hóa tất cả các chứng từ liên quan. Nhưng trong trường hợp này, do cả hai bên đều có uy tín lớn trên thương trường, nên việc giao dịch chỉ diễn ra trong một cuộc họp hai giờ và một cái bắt tay là xong. Trong vòng chưa đầy một tháng sau, mọi thủ tục của thương vụ đều được hoàn tất. Trong bức thư của Hội đồng Quản trị gởi kèm theo báo cáo tổng kết hoạt động năm 2004 đến các cổ đông, Warren Buffett, Chủ tịch kiêm CEO của Berkshire Hathaway, viết như sau: "Chúng tôi đã chẳng cần phải mất nhiều thời gian. Chúng tôi tin tưởng vào các con số của Wal-Mart và thực tế đã diễn ra đúng như vậy". Bạn hãy tưởng tượng xem chỉ trong thời gian không đến một tháng (thay vì phải mất 6 tháng hoặc lâu hơn) và không mất tổn phí cho một cuộc kiểm toán nào (thường phải mất đến hàng triệu đô la), Warren Buffett đã mua xong một công ty trị giá 23 tỷ đô la! Quả thật, khi niềm tin cao thì tốc độ sẽ nhanh và chi phí sẽ thấp. Thế giới đang thay đối rất nhanh. Cá lớn không còn nuốt được cá bé nữa mà ai nhanh hơn sẽ là người chiến thắng. - RUPERT MURDOCH, CHỦ TỊCH KIÊM CEO, NEWS CORPORATION Hãy xét một ví dụ khác về một nhà lãnh đạo huyền thoại, Herb Kelleher, Chủ tịch kiêm CEO của Southwest Airlines. Trong cuốn Executive EQ của Robert K. Cooper và Ayman Sawaf, các tác giả chia sẻ một câu chuyện lý thú. Một hôm đang đi dọc hành lang, Gary Barron - lúc đó là Phó Chủ tịch điều hành của bộ phận bảo dưỡng trị giá 700 triệu đô la phục vụ toàn bộ hãng Southwest Airlines, đã trình bày với Kelleher bản kiến nghị vắn tắt dài ba trang về dự án tái tổ chức quy mô lớn. Kelleher đã đọc bản kiến nghị ngay tại chỗ. Ông chỉ hỏi một câu và Barron trả lời rằng ông có cùng mối quan tâm đó và đang tìm cách giải quyết. Thế là Kelleher trả lời ngay: "Tôi đồng ý, cứ thế mà làm". Toàn bộ cuộc trao đổi chỉ kéo dài đúng bốn phút! Kelleher không chỉ là nhà lãnh đạo được tín nhiệm mà ông còn biết đặt niềm tin vào người khác. Ông tin vào tính cách và năng lực của Barron. Và vì ông tin rằng Barron biết rõ mình phải làm gì nên công ty đã phát triển với tốc độ nhanh đến khó tin. "Jim" có một cửa hàng bán cà phê, bánh ngọt phục vụ khách ra vào các cao ốc văn phòng tại New York. Vào giờ ăn sáng và ăn trưa, cửa hàng của Jim luôn đông khách. Anh để ý thấy do phải chờ đợi lâu nên nhiều khách hàng đã nản lòng bỏ đi tìm chỗ khác. Anh cũng nhận thấy rằng nguyên nhân khiến anh không thể bán được nhiều cà phê và bánh ngọt hơn chính là vì mất nhiều thời gian để thối lại tiền cho khách hàng. Cuối cùng, Jim nghĩ ra việc đặt một chiếc rổ nhỏ đựng tiền giấy và tiền xu cạnh quầy để khách hàng tự mình lấy lại tiền thừa. Có thể bạn nghĩ rằng sẽ có khách hàng vô tình tính sai hoặc cố tình lấy thừa tiền trong rổ, nhưng điều Jim phát hiện ra lại trái ngược: hầu hết khách hàng đều rất trung thực, họ thậm chí thường để lại cho anh những khoản tiền hoa hồng nhiều hơn mức bình thường. Bây giờ anh có thể phục vụ khách hàng nhanh gấp đôi do không phải mất thời gian thối lại tiền thừa. Hơn nữa, anh cũng nhận thấy khách hàng thích cảm giác được tin cậy nên thường quay trở lại. Nhờ nâng cao niềm tin theo cách này, Jim đã tăng gấp đôi doanh thu mà không phải mất thêm khoản chi phí mới nào. Nói tóm lại, khi niềm tin thấp, tốc độ công việc sẽ giảm và chi phí tăng lên. Còn khi niềm tin cao, tốc độ nhanh hơn và chi phí sẽ giảm xuống. Những giá trị siêu việt như niềm tin và sự chính trực sẽ thực sự biến thành doanh thu, lợi nhuận và sự thịnh vượng. - PATRICIA ABURDENE, TÁC GIẢ CUỐN MEGATREND 2010 Mới đây, khi tôi đang giảng về khái niệm này, một giám đốc tài chính - người luôn gắn bó với những con số, đến gặp tôi và nói: "Điều này thật bất ngờ! Tôi vẫn luôn xem niềm tin là một điều nên có, nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ đến tác động trực tiếp của nó về mặt kinh tế học. Bây giờ được nghe anh giải thích, tôi có thể nhận ra điều này ở bất cứ nơi đâu. Chẳng hạn, chúng tôi có một nhà cung cấp rất đáng tin cậy. Mọi công việc liên quan đến nhà cung cấp này đều diễn ra rất nhanh chóng, và chúng tôi chẳng tốn kém gì để duy trì mối quan hệ này. Nhưng đối với các nhà cung cấp mà chúng tôi không tín nhiệm, mọi việc dường như chẳng bao giờ xong và chúng tôi mất rất nhiều thời gian và nỗ lực để cải thiện mối quan hệ này. Đó chính là tổn thất về mặt kinh tế cho chúng tôi, một tổn thất quá lớn!". Vị giám đốc tài chính này rất ngạc nhiên khi ông hiểu ra vấn đề. Mặc dù là một chuyên gia về "những con số", ông chưa bao giờ gắn những con số với niềm tin. Cho nên khi nắm được vấn đề, ông lập tức hiểu rõ niềm tin tác động như thế nào đến mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp, và ý tưởng về mối liên hệ giữa niềm tin, tốc độ và chi phí có ý nghĩa như thế nào trong việc lựa chọn và áp dụng các biện pháp nhằm tăng cường lợi nhuận cho công ty. Tôi biết một số công ty hàng đầu từng tiến hành những cuộc khảo sát chính thức yêu cầu nhân viên trả lời một câu hỏi thật đơn giản: "Bạn có tin tưởng cấp trên của mình không?". Câu trả lời sẽ giúp ích cho việc đánh giá tình hình hoạt động của các đơn vị và cả công ty tốt hơn mọi câu hỏi khác. Cảm giác khi hiểu được lợi ích kinh tế cụ thể và thiết thực của niềm tin cũng giống như một người cận thị được mang vào một đôi kính mới để nhìn rõ cảnh vật hơn. Nhìn vào đâu bạn cũng thấy tác động của nó - tại công sở, trong gia đình, trong tất cả các mối quan hệ và ngay trong mọi nỗ lực. Bạn sẽ bắt đầu nhận ra sự khác biệt đến khó tin mà các mối quan hệ có độ tin cậy cao có thể tạo ra trong mọi mặt của cuộc sống. Thuế Niềm tin Tác động lớn về mặt kinh tế học của niềm tin là trong nhiều mối quan hệ, trong các tương tác, chúng ta đang phải đóng một loại thuế vô hình cho sự thiếu niềm tin mà không hề hay biết! Ba mùa hè trước, cậu con trai Stephen của tôi khi tròn 16 tuổi đã tìm được việc làm đầu tiên. Thằng bé rất háo hức vì sắp trở thành người quản lý cửa hàng bán các loại kem ốc quế. Công việc mấy tuần đầu diễn ra thật suôn sẻ, và Stephen sung sướng khi nhận được khoản lương đầu tiên. Thằng bé mở toang chiếc phong bì rồi nhìn vào tờ séc đầy hy vọng. Bỗng nhiên nó nhăn mặt kêu lên: "Bố ơi, họ trả lương cho con không đúng rồi!". Tôi nhìn lướt qua tờ séc và hỏi: "Con nói thế nghĩa là sao?". "Bố xem này. Lương của con là 8 đô la một giờ. Con đã làm 40 giờ, như vậy con phải lĩnh được tổng cộng 320 đô la, đúng không?". Tôi nhìn vào tờ séc, và thấy đúng như vậy. Stephen đã làm việc 40 giờ, nhưng tờ séc chỉ ghi có 260 đô la. Tôi bảo Stephen: "Con nói đúng. Nhưng con hãy nhìn lên phần trên của tờ séc. Con có thấy dòng chữ ghi 'thuế thu nhập liên bang' không?" Stephen hết sức ngạc nhiên: "Ý bố nói con phải đóng thuế sao?". "Đúng thế con ạ," tôi trả lời,"và còn nhiều thứ thuế khác nữa. Con xem, đây là 'thuế thu nhập của bang','thuế an sinh xã hội','thuế chăm sóc y tế'..." "Nhưng bố ơi, con đâu cần chăm sóc y tế!" "Đúng là con không cần, nhưng ông nội con thì cần đấy! Chúc mừng con thực sự bước vào đời." Có lẽ không ai thực sự muốn đóng thuế, nhưng chúng ta vẫn phải làm điều đó vì nghĩa vụ đối với xã hội (và cũng vì quy định của luật pháp). Nhưng nhỡ bạn không hề biết mình đang phải đóng thuế thì sao? Nhỡ đó là những loại thuế vô hình - được khấu trừ ngay từ gốc mà bạn không hề hay biết thì sao? Nếu như chúng là những loại thuế phi lý, hoàn toàn không đem lại lợi ích cho ai cả thì sao? Thật không may, loại thuế đánh trên sự thiếu niềm tin không được thể hiện trên bảng kê thu nhập dưới dạng "phí tổn cho sự thiếu niềm tin", mặc dù chúng vô hình nhưng không có nghĩa là chúng không tồn tại. Chỉ khi nào bạn biết được mình cần gì và phải tìm nó ở đâu, bạn mới nhận ra những thứ thuế này tồn tại khắp nơi, từ trong các tổ chức cho đến các mối quan hệ. Chúng có thể được định lượng và đạt đến những con số rất lớn. Kinh doanh mà thiếu chữ tín thì chỉ làm tăng gấp đôi phí tổn. - GIÁO SƯ JOHN WHITNEY, TRƯỜNG KINH DOANH COLUMBIA Hẳn bạn đã nhiều lần chạm trán thứ thuế này. Thậm chí, bạn phải chịu "thuế thừa kế" khi bạn tiếp nhận vị trí của người tiền nhiệm vốn bị mất tín nhiệm. Khi bạn khởi đầu một mối quan hệ cá nhân hay quan hệ trong công việc, hoặc tiếp nhận vai trò lãnh đạo tại một nơi mà văn hóa niềm tin không được coi trọng, mức thuế này có thể lên đến 30, 40, 50% hoặc thậm chí cao hơn nữa do những hậu quả không phải do bạn gây ra! Tác giả bestseller Francis Fukuyama nói: "Tình trạng mất tín nhiệm lan tràn trong xã hội làm nảy sinh một loại thuế tác động đến mọi hoạt động kinh tế mà các xã hội có độ tin cậy cao không hề có". Theo tôi, loại thuế đánh vào sự thiếu niềm tin không chỉ ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế mà còn tác động đến tất cả mọi hoạt động khác từ các mối quan hệ, tương tác, giao tiếp cho đến mọi quyết định và mọi mặt của cuộc sống. Cổ tức Niềm tin Tôi cho rằng, trong khi loại thuế hình thành từ sự thiếu niềm tin là thực, có thể đo lường được và thuế suất rất cao, thì cổ tức phát sinh từ niềm tin cũng có thực, định lượng được và có giá trị cao. Hãy xem tốc độ mà Warren Buffett hoàn tất việc mua lại McLane hay tốc độ được phê chuẩn cho bản kế hoạch tái tổ chức quy mô của Barron. Hãy xem việc tăng gấp đôi doanh thu cà phê và bánh ngọt của Jim. Hãy xem tốc độ nhanh chóng trong giao tiếp khi chúng ta có các mối quan hệ tin cậy - cả trong cuộc sống riêng và công việc. Khi có niềm tin mạnh mẽ thì cổ tức bạn nhận được là động lực nâng cao và cải thiện mọi khía cạnh của công việc và cuộc sống. Niềm tin cũng giống như bột nổi sử dụng trong bánh mì, nó có tác dụng thúc đẩy mọi thứ liên quan phát triển mạnh mẽ. Niềm tin trong doanh nghiệp nâng cao chất lượng giao tiếp, tinh thần hợp tác, xúc tiến công việc; nó tác động tích cực đến việc cải tiến, hoạch định chiến lược, tuyển dụng, lựa chọn đối tác, duy trì mối quan hệ tốt đẹp với cổ đông. Trong đời sống cá nhân, niềm tin giúp tăng cường đáng kể sự nhiệt tình, niềm đam mê, tính sáng tạo và niềm vui trong các mối quan hệ gia đình, bạn bè và cộng đồng. Rõ ràng cổ tức niềm tin ở đây không chỉ là việc gia tăng tốc độ và cải thiện lợi ích kinh tế mà còn là một niềm vui lớn hơn và một chất lượng cuộc sống cao hơn. Biến số ẩn Có lần tôi thuê một hướng dẫn viên du lịch đi câu cá với tôi tại Montana. Khi tôi nhìn xuống dòng sông, anh ta hỏi tôi trông thấy gì? Tôi bảo tôi trông thấy một con sông đẹp với ánh mặt trời phản chiếu trên mặt nước. Anh ta hỏi: "Anh có nhìn thấy con cá nào không?". Tôi trả lời "không". Thế là anh ta đưa cho tôi một cặp kính phân cực và bảo tôi đeo vào. Bỗng nhiên mọi thứ trở nên khác hẳn. Tôi có thể nhìn xuyên qua làn nước và thấy từng đàn cá đang bơi, rất nhiều cá! Tôi hứng thú hẳn lên. Tôi có thể cảm nhận một khả năng lớn lao mà tôi chưa nhận thấy bao giờ. Trên thực tế, đàn cá vẫn ở đó, nhưng nếu tôi không mang kính vào, chúng vẫn không xuất hiện trong tầm nhìn của tôi. Tương tự như thế, đối với hầu hết mọi người, niềm tin thường bị che khuất khỏi tầm nhìn. Họ không nhận thấy tác động của niềm tin đang hiện diện và lan tỏa khắp nơi trong các mối quan hệ, trong các tổ chức và mọi khoảnh khắc của cuộc sống. Nhưng một khi họ đeo vào " đôi kính của niềm tin", niềm tin sẽ ngay lập tức phát huy khả năng tăng cường tính hiệu quả của nó đối với mọi mặt của cuộc sống. Dù ở mức độ cao hay thấp, niềm tin là "biến số ẩn" trong công thức thành công của doanh nghiệp. Công thức kinh doanh truyền thống khẳng định chiến lược nhân với sự thực hiện sẽ tạo ra kết quả: SxE=R Trong đó: S là chiến lược (Strategy) E là thực hiện (Execution) R là kết quả (Results) Nhưng còn một biến số ẩn trong công thức này, đó là biến số T - Niềm tin (Trust) - dưới dạng hoặc là thuế do niềm tin thấp, làm giảm kết quả; hoặc là cổ tức từ niềm tin cao, làm gia tăng gấp bội kết quả đó, được biểu thị qua công thức sau: (S x E) T = R Bạn có thể có một chiến lược hay và quá trình thực hiện tốt (đạt điểm 10/10), nhưng bạn vẫn không thể đạt đến mục tiêu nếu thiếu niềm tin. Tuy nhiên, khi niềm tin cao, kết quả sẽ lớn hơn tổng giá trị của các yếu tố hợp lại. Hãy xem ví dụ dưới đây: Một công ty có thể có chiến lược xuất sắc và năng lực thực hiện rất mạnh, nhưng kết quả thuần vẫn có thể bị giảm xuống do bị chi phối bởi mức thuế đánh trên niềm tin thấp (chẳng hạn 10 - 40%) hoặc được gia tăng nhờ cổ tức từ niềm tin cao (20%). Robert Shaw, nhà tư vấn nổi tiếng về đề tài này nói rằng: "Trên tất cả, thành công trong kinh doanh đòi hỏi hai yếu tố: một chiến lược cạnh tranh hữu hiệu và khả năng thực hiện ưu việt của doanh nghiệp. Và, sự thiếu niềm tin là kẻ thù của cả hai yếu tố này". Tôi muốn bổ sung rằng mặc dù niềm tin cao không hẳn cứu vãn được một chiến lược tồi, nhưng niềm tin thấp lại luôn luôn làm hỏng một chiến lược tốt. Có lẽ trên tất cả, tác động của "biến số ẩn" này cho thấy tác động mạnh mẽ của niềm tin đến kết quả kinh doanh. Theo một công trình nghiên cứu của trường Kinh doanh Warwick tại Vương quốc Anh, các hợp đồng ủy quyền gia công được tiến hành chủ yếu dựa vào niềm tin nhiều hơn là dựa vào các thỏa thuận chặt chẽ và những điều khoản phạt chắc chắn mang lại một mức cổ tức niềm tin cho cả hai bên, mức này có thể lên đến 40% tổng giá trị hợp đồng. Một công trình nghiên cứu năm 2002 của Watson Wyatt cho thấy trong các công ty có mức độ tin cậy cao, tỷ suất lợi nhuận của các cổ đông lớn gần gấp 3 lần so với tỷ suất lợi nhuận trong các công ty có mức độ tin cậy thấp. Một công trình nghiên cứu về giáo dục của giáo sư Tony Bryk tại Đại học Stanford cho thấy các trường có độ tin cậy cao có khả năng nâng cao kết quả thi cử hơn 3 lần so với các trường có độ tin cậy thấp. Ở cấp độ cá nhân, những cá nhân có niềm tin cao có nhiều khả năng thăng tiến hơn, thu nhập cao hơn, có nhiều cơ hội tốt hơn, và tạo ra được những mối quan hệ chân thành và vui vẻ hơn. Một trong những lý do biến số ẩn niềm tin trở nên quan trọng và có ảnh hưởng mạnh mẽ là vì chúng ta đã bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức. Thomas Friedman, tác giả quyển Thế giới phẳng, nói rằng nền kinh tế "phẳng" vận động quanh những mối quan hệ và cộng tác. Và tùy thuộc vào niềm tin mà những mối quan hệ và cộng tác sẽ bền vững hay chết yểu. Friedman nói: Không có niềm tin, sẽ không có một xã hội an toàn cởi mở, vì sẽ không có đủ lực lượng cảnh sát để tuần tra canh gác khắp mọi nơi. Không có niềm tin, cũng sẽ không có thế giới phẳng, vì chính niềm tin cho phép chúng ta phá bỏ những bức tường ngăn cách, tháo dỡ rào cản và xóa bỏ mọi xung đột biên giới. Niềm tin là điều kiện thiết yếu để hình thành nên một thế giới phẳng... Đó là lý do vì sao tôi muốn khẳng định lại lần nữa rằng năng lực lãnh đạo then chốt trong nền kinh tế mới toàn cầu chính là khả năng xây dựng, phát triển và khôi phục niềm tin với tất cả đối tượng liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp bao gồm các khách hàng, đối tác, các nhà đầu tư và đồng nghiệp. Dưới đây là bảng tóm tắt tác động của thuế và cổ tức niềm tin đối với các tổ chức và mọi cá nhân. Bạn hãy tự hỏi rằng tổ chức của bạn và ngay cả bản thân bạn đang bị đánh thuế do niềm tin thấp hay được hưởng cổ tức từ niềm tin cao để từ đó tập trung nỗ lực cải thiện tổ chức và cuộc sống của bạn. Bảng tóm tắt các khoản thuế và cổ tức Mức thuế 80% (Niềm tin không tồn tại) Trong tổ chức... Trong các quan hệ cá nhân... • Môi trường hoạt động hỗn loạn và văn hóa tiêu cực (xung đột công khai, phá hoại, bất bình, kiện cáo, phạm pháp) • Khuynh hướng không khoan nhượng giữa các thành viên • Quản lý chi li, chặt chẽ • Cơ cấu tổ chức cồng kềnh • Áp dụng triệt để hệ thống và cơ chế xử phạt • Các mối quan hệ bị rối loạn • Đối đầu gay gắt, giận dữ hoặc lạnh nhạt xa lánh • Tư thế phòng thủ và dựa vào pháp luật ("Tôi sẽ gặp anh tại tòa!") • Phân loại người khác là kẻ thù và đồng minh • Xúc phạm nhau bằng lời nói, cảm xúc và/hoặc vũ lực Mức thuế 60% ( Niềm tin rất thấp) Trong tổ chức... Trong các quan hệ cá nhân... • Môi trường làm việc thiếu lành mạnh • Nhân viên, cổ đông bất mãn • Tình trạng bè phái và mâu thuẫn nội bộ nghiêm trọng • Lãng phí thời gian vào những hành vi và quyết định mang tính phòng thủ • Tình trạng quản lý chi li khắt khe và tệ quan liêu hoành hành • Thái độ thù địch (quát tháo, đổ lỗi, buộc tội, chỉ trích) rồi lại hối tiếc ngay sau đó • Cách giao tiếp thận trọng, giữ kẽ • Thường xuyên lo lắng và nghi ngờ • Chấp nhặt và lợi dụng sai sót của người khác để phục vụ mưu đồ cá nhân • Vấn đề thực chất không được đưa ra hay xử lý dứt điểm Mức thuế 40% (Niềm tin thấp) Trong tổ chức... Trong các quan hệ cá nhân... • Các hành vi "giấu giếm" thường thấy • Có mưu đồ đen tối • Khuynh hướng không khoan nhượng giữa các thành viên • Tình trạng bè phái, phân loại đồng minh và kẻ thù • Có nhiều nhân viên và cổ đông bất mãn • Tệ quan liêu hoành hành, hệ thống và cơ cấu tổ chức cồng kềnh • Những giao dịch hao tổn sức lực và nhàm chán • Bới lông tìm vết, soi mói điểm yếu và sai sót của phe đối lập • Nghi ngờ uy tín hay cam kết của người khác • Có mưu đồ đen tối • Thận trọng (thường là miễn cưỡng) chia sẻ thông tin Mức thuế 20% (Niềm tin có vấn đề) Trong tổ chức... Trong các quan hệ cá nhân... • Nảy sinh một số nguyên tắc và thủ tục quan liêu • Phát sinh cơ cấu không cần thiết • Quá trình phê duyệt chậm chạp • Hệ thống và cơ cấu tổ chức thiếu đồng bộ • Một số nhân viên và cổ đông bất mãn • Hiểu lầm thường xuyên • Lo lắng về ý định và động cơ của nhau • Giao tiếp căng thẳng • Giao tiếp mang màu sắc sợ hãi, không chắc chắn, nghi ngờ và lo ngại • Mất nhiều công sức trong việc duy trì (thay vì tăng cường) các mối quan hệ Không thuế/ Không cổ tức (Không có vấn đề về niềm tin) Trong tổ chức... Trong các quan hệ cá nhân... • Môi trường làm việc lành mạnh • Giao tiếp thuận lợi • Hệ thống và cơ cấu tổ chức đồng bộ quả • Ít mâu thuẫn nội bộ • Giao tiếp lịch sự, thân ái, lành mạnh • Cùng nhau làm việc suôn sẻ và hiệu • Khoan dung và chấp nhận lẫn nhau • Không lo lắng Mức cổ tức 40% (Niềm tin đẳng cấp thế giới) Trong tổ chức... Trong các quan hệ cá nhân... • Quan hệ hợp tác và đối tác ở mức cao • Giao tiếp dễ dàng • Quan hệ tích cực, minh bạch với nhân viên và các bên có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan • Hệ thống và cơ cấu tổ chức hoàn toàn đồng bộ • Sức sáng tạo, tinh thần đổi mới, ý thức gắn bó, sự tin tưởng và lòng trung thành mạnh mẽ. • Thực sự hạnh phúc trong gia đình và trong các mối quan hệ bạn bè bằng sự quan tâm và yêu thương lẫn nhau • Giao tiếp thoải mái, dễ dàng • Tạo cảm hứng cùng nhau làm việc dựa vào mục đích chung, sự sáng tạo và niềm say mê • Các quan hệ hoàn toàn cởi mở, minh bạch • Các mối quan hệ tạo nên môt năng lực đáng kinh ngạc Mức cổ tức 20% (Niềm tin là một tài sản hữu hình) Trong tổ chức... Trong các quan hệ cá nhân... • Các mối quan hệ hợp tác, thân • Tập trung vào công việc thiết, năng động • Tập trung vào công việc • Hợp tác và thực thi công việc có hiệu quả • Quan hệ đối tác tích cực với các nhân viên, cổ đông và những đối tượng liên quan • Hệ thống và cơ cấu tổ chức hữu ích • Sức sáng tạo và tinh thần đổi mới mạnh mẽ • Tập trung vào tìm kiếm và tận dụng các thế mạnh của nhau • Giao tiếp thuận lợi và tích cực • Xem sai lầm là cơ hội để học hỏi và mau chóng bỏ qua • Làm việc hiệu quả, con người lạc quan Bây giờ, giả sử bạn đang huy động mọi người để thực hiện một dự án quan trọng trong vòng sáu tuần lễ. Bạn hãy tự hỏi rằng mức độ tin cậy lẫn nhau trong tập thể này đang ở mức độ nào, và với mức độ tin cậy đó, bạn đang đóng thuế hay được hưởng cổ tức từ niềm tin và tỷ lệ là bao nhiêu phần trăm? Điều đó có tác động như thế nào đến tốc độ, chi phí và khả năng thực hiện hiệu quả dự án này? Tiếp theo, bạn hãy thử xem xét điều gì sẽ xảy ra nếu bạn thay đổi tỷ lệ phần trăm đó, chẳng hạn khi bạn chuyển từ mức thuế 20% sang mức cổ tức 20%? Điều đó tạo ra sự khác biệt gì đối với khả năng thực hiện dự án này của bạn? Bạn hãy nghĩ về những gì đang xảy ra trong các mối quan hệ cá nhân hay trong gia đình của bạn và hãy tự hỏi rằng mức độ tin cậy đến đâu, tác động như thế nào đến chất lượng cuộc sống của bạn và những người mà bạn quan tâm, rồi điều gì xảy ra nếu bạn có thể chuyển từ tình trạng chịu thuế sang hưởng cổ tức từ niềm tin, và sự khác biệt ra sao... Những định kiến về Niềm tin Những ví dụ về việc mua lại công ty McLane, việc phê chuẩn kế hoạch cải tổ công ty của Kelleher và những ví dụ khác mà tôi đưa ra trong chương này góp phần đáng kể vào việc xua tan một số định kiến ngăn cản chúng ta thu được cổ tức niềm tin. Một trong những định kiến đó nói rằng niềm tin là một thứ trừu tượng có được thì tốt không có cũng không sao, nhưng không thể xác định, định lượng hay đo lường. Tôi hy vọng ngay từ bây giờ bạn có thể khẳng định rằng chính điều ngược lại mới đúng. Niềm tin rất cụ thể, có thật và định lượng được. Trong mọi trường hợp, nó tác động đến cả tốc độ lẫn chi phí, mà tốc độ và chi phí đều có thể định lượng và đo lường được. Thay đổi mức độ niềm tin trong một mối quan hệ, một tập thể, hay một tổ chức sẽ gây tác động đáng kể đến thời gian và tiền bạc - về chất lượng cũng như giá trị của nó. Một định kiến sai lầm khác cho rằng niềm tin là một quá trình diễn ra chậm chạp. Mặc dù việc khôi phục niềm tin có thể mất nhiều thời gian, nhưng việc xây dựng và mở rộng niềm tin lại rất nhanh, và một khi đã được xác lập, niềm tin sẽ thúc đẩy mọi việc diễn ra đặc biệt nhanh chóng. Không cần tìm kiếm ở đâu xa, chỉ cần dựa vào các ví dụ mà tôi đã cung cấp hoặc thậm chí dựa ngay vào tốc độ giao tiếp và thực hiện công việc trong các mối quan hệ của mình, bạn cũng sẽ nhận ra sự thực rằng không có gì nhanh bằng tốc độ của niềm tin. Dưới đây là bảng liệt kê những định kiến ngăn cản việc hiểu đúng và thực hiện có hiệu quả những vấn đề liên quan đến niềm tin cùng với những thực tế trái ngược. Định kiến Thực tế Niềm tin là trừu tượng. Niềm tin rất cụ thể, có thực, và định lượng được. Nó tác động đến cả tốc độ và chi phí. Niềm tin đến rất chậm. Không gì nhanh bằng tốc độ của niềm tin. Niềm tin chỉ có thể được xây dựng bằng sự chính trực. Niềm tin phụ thuộc vào cả tính cách (trong đó bao gồm sự chính trực) lẫn năng lực. Người ta có thể có hoặc không có niềm tin. Niềm tin có thể được tạo nên và cũng có thể bị hủy hoại. Không thể khôi phục niềm tin một khi đã đánh mất nó. Dù khó khăn nhưng đa số trường hợp niềm tin bị mất đều có thể khôi phục lại. Người ta không thể dạy về niềm tin. Có thể rèn luyện và học được cách xây dựng niềm tin và biến nó thành một lợi thế chiến lược. Tin tưởng vào người khác là quá rủi ro. Không tin ai cả mới là một rủi ro lớn hơn. Chỉ có thể xây dựng niềm tin với một người vào một thời điểm. Xây dựng được niềm tin với một người thì sẽ xây dựng được niềm tin với nhiều người khác. Có lẽ định kiến dai dẳng nhất là của một lãnh đạo cao cấp của một ngân hàng đầu tư tại New York nơi tôi từng làm việc trong một thời gian ngắn, rằng: "Hoặc anh có niềm tin, hoặc không, ngoài ra anh chẳng thể làm gì hơn". Thật ra bạn vẫn có cách giải quyết cho vấn đề này! Tôi đã là một nhà kinh doanh trong suốt 20 năm qua. Tôi có trách nhiệm xây dựng và điều hành doanh nghiệp, xây dựng đội ngũ, báo cáo cho hội đồng quản trị, đạt thành quả và phải hoàn thành các mục tiêu đề ra. Trong thời gian đó, tôi cũng đã có nhiều năm tư vấn cho hàng chục công ty nổi tiếng, trong đó có nhiều công ty xây dựng được chiến lược tốt và có năng lực thực hiện nhưng lại không đạt được kết quả mong muốn mà không giải thích được lý do vì sao. Tôi là một người chồng, người cha và là một thành viên của một đại gia đình có nhiều mối quan hệ về nhiều mặt. Tôi đã từng tư vấn cho nhiều trường hợp dân sự khi các gia đình và cá nhân gặp phải những vấn đề phức tạp do thiếu niềm tin. Và từ những kinh nghiệm đã qua, tôi chưa thấy có trường hợp ngoại lệ nào đối với tiền đề cơ bản của cuốn sách này: Bạn hoàn toàn có thể xây dựng được niềm tin mạnh mẽ và niềm tin đó có tốc độ nhanh hơn rất nhiều so với những gì bạn nghĩ! Một lần nữa, tôi muốn khẳng định rằng không gì có thể nhanh bằng tốc độ của niềm tin. Không có mối quan hệ nào mỹ mãn bằng một quan hệ tin cậy. Không có gì truyền cảm hứng mạnh mẽ bằng tác động của niềm tin. Không gì có thể sinh lợi bằng tính kinh tế của niềm tin. Không gì có sức ảnh hưởng lớn hơn sức mạnh của niềm tin. Niềm tin có thể làm thay đối mọi thứ. Chưa lúc nào chúng ta cần xây dựng, khôi phục và mở rộng niềm tin ở mọi cấp độ như trong thời đại toàn cầu hóa này. Dù bạn đang tiếp cận cơ hội và thách thức để tăng cường niềm tin trong cuộc sống riêng hay trong công việc, hoặc cả hai, tôi bảo đảm với bạn rằng niềm tin sẽ tạo ra sự khác biệt đáng kể trên mọi phương diện trong cuộc sống của bạn. Chương 2. BẠN CÓ THỂ LÀM ĐƯỢC ĐIỀU NÀY! Trong công việc, trách nhiệm hàng đầu của bạn là phải xây dựng được niềm tin. - Robert Eckert, CEO, Mattel Nếu bạn đã biết đến cha tôi, Tiến sĩ Stephen R. Covey qua cuốn sách 7 Thói quen để thành đạt của ông, hẳn bạn còn nhớ câu chuyện ông kể về việc cố gắng dạy đứa con trai cách chăm sóc thảm cỏ quanh nhà. Ông đã đặt tên cho câu chuyện là "Xanh và Sạch". Cha tôi dùng câu chuyện này làm ví dụ về cách dạy các nguyên tắc quản lý và tinh thần trách nhiệm cho trẻ con. Vâng, tôi chính là chú bé trong câu chuyện đó, và tôi muốn kể cho bạn nghe câu chuyện này với cái nhìn của tôi! Đúng là tôi đã học được cách quản lý công việc và tinh thần trách nhiệm từ kinh nghiệm đó, nhưng tôi còn học được một điều mà tôi tin rằng còn quan trọng hơn, điều đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến bản thân tôi trong suốt cuộc đời. Lúc đó tôi mới 7 tuổi và cha tôi muốn tôi chăm sóc thảm cỏ. Ông bảo: "Con ạ, đây là sân cỏ nhà ta và nhiệm vụ của con là làm cho nó 'xanh' và 'sạch'. Bây giờ bố sẽ giải thích cho con hiểu". Ông dẫn tôi sang thảm cỏ nhà bên cạnh và nói: " Như thế này là xanh". (Ông không thể dùng sân cỏ nhà chúng tôi làm ví dụ vì dưới sự chăm sóc của ông lúc đó cỏ đang vàng úa). Ông nói: "Làm thế nào để thảm cỏ nhà ta xanh là tùy thuộc vào con. Con được tự do làm thế nào tùy ý, miễn là đừng dùng sơn xanh để phun lên cỏ. Con có thể tưới bằng vòi nước hay bằng xô tùy ý. Thậm chí con có thể phun nước bọt lên nó nếu con muốn. Đối với bố điều đó chẳng sao cả. Bố chỉ quan tâm làm sao sân cỏ nhà ta có màu xanh là được". Kế đến ông bảo tôi: "Còn đây là sạch". Ông lấy ra hai bao tải đựng rác và hai cha con cùng nhau thu dọn những mẩu giấy lộn, những khúc gỗ và gạch đá vụn nằm trong một nửa sân để tôi có thể so sánh sự khác biệt. Rồi ông lại giải thích cách làm thế nào là tùy tôi, miễn sao thảm cỏ "sạch" là được. Rồi cha tôi nói một điều có ý nghĩa rất sâu sắc với tôi: "Bây giờ con cần biết rằng khi con nhận nhiệm vụ này, bố sẽ không làm nữa. Đó sẽ là nhiệm vụ của con. Nó được gọi là đảm nhiệm công việc. Đảm nhiệm công việc có nghĩa là 'nhận trách nhiệm với sự tín nhiệm', bố tin con có thể làm và hoàn thành tốt việc này". Ông đưa ra một quy định xác định trách nhiệm. Ông nói chúng tôi sẽ cùng đi vòng quanh sân vườn mỗi tuần hai lần để tôi báo cáo cho ông biết công việc diễn tiến ra sao. Ông hứa với tôi sẽ có mặt để giúp đỡ khi tôi cần, nhưng nhấn mạnh đây hoàn toàn là nhiệm vụ của tôi - tôi là "sếp" của chính mình và cũng là trọng tài tự đánh giá kết quả công việc của chính mình. Vậy đây là trách nhiệm của tôi. Thực ra, trong 4 hay 5 ngày sau đó tôi chẳng làm gì cả. Lúc đó đang vào giữa mùa hè nóng nực, và cỏ chết rất nhanh. Đồ ăn thừa còn lại sau bữa tiệc nướng ngoài trời với láng giềng vài hôm trước đó vẫn còn vương vãi trên sân cỏ. Quả là một cảnh bừa bãi, nhếch nhác. Cha tôi định sẽ nhận lại công việc hoặc mắng cho tôi một trận, nhưng ông không muốn vi phạm thỏa thuận đã có giữa hai cha con. Đến thời hạn báo cáo, ông hỏi: " Thế nào con trai, công việc chăm sóc thảm cỏ đến đâu rồi?". Tôi trả lời: "Mọi việc đều ổn, bố ạ". Ông hỏi tiếp: " Con có cần bố giúp gì không?". "Không cần đâu bố ạ, mọi thứ đều ổn cả." - Tôi trả lời. "Thế thì chúng ta cùng đi xem một vòng như đã thỏa thuận nhé." Khi chúng tôi đi quanh sân, tôi bắt đầu nhận ra sân cỏ chẳng hề "xanh" hay "sạch". Nó vàng úa và bừa bộn. Theo lời kể của cha tôi, lúc đó cằm tôi run cầm cập, nước mắt ràn rụa và tôi bật khóc: "Bố ơi, việc này khó quá!". Ông nói: "Khó làm sao? Con đã làm gì đâu mà gọi là khó?". Im lặng một lúc rồi ông nói: "Con có muốn bố giúp một tay không?". Nhớ lại việc giúp đỡ của cha tôi là một phần trong thỏa thuận của hai bố con và cảm thấy có triển vọng nên tôi trả lời ngay: " Vâng, con muốn". Ông hỏi: " Con muốn bố giúp gì?". Tôi nhìn quanh và nói: "Bố có thể giúp con nhặt rác ở đằng kia không?". Ông nhận lời. Thế là tôi vào nhà lấy ra hai bao tải để bố giúp tôi nhặt rác theo yêu cầu của tôi. Kể từ ngày hôm đó trở đi, tôi mới thực sự chịu trách nhiệm chăm sóc sân cỏ... và tôi đã giữ cho nó luôn "xanh" và "sạch". Như tôi đã nói, cha tôi dùng câu chuyện này làm một ví dụ về việc giao phó trách nhiệm hay những thỏa thuận hai bên cùng nỗ lực để thắng lợi. Nhưng mới 7 tuổi đầu, tôi còn quá nhỏ để hiểu được ý nghĩa của những từ ngữ to tát này. Điều tôi nhớ nhất về kinh nghiệm đó chỉ đơn giản là: Tôi cảm thấy được tin tưởng! Lúc đó tôi chẳng hề quan tâm đến tiền bạc hay địa vị, vì thế những thứ đó chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi. Động lực của tôi khi ấy chính là niềm tin mà cha dành cho tôi. Tôi không muốn làm ông thất vọng, tôi muốn cho ông thấy tôi có khả năng và trách nhiệm. Việc cha đặt niềm tin nơi tôi đã tạo cảm hứng cho tôi, đã tạo nên ý thức trách nhiệm và tính chính trực trong tôi trong suốt cuộc đời của mình. Ít có điều gì có thể giúp ích cho một cá nhân hơn việc trao trách nhiệm cho anh ta và làm cho anh ta hiểu rằng anh ta đang được tin cậy. - BOOKER T. WASHINGTON Niềm tin hoạt động như thế nào? Như tôi đã học được từ cha tôi khi xưa, niềm tin là một trong những hình thức động viên và gây cảm hứng hữu hiệu nhất. Mọi người đều muốn được tin cậy và họ sẽ đáp ứng lại niềm tin đó và họ thăng hoa vì nó. Bất kể ở hoàn cảnh nào, chúng ta cần phải làm tốt việc xây dựng, mở rộng và khôi phục niềm tin. Chúng ta không xem nó là thủ thuật mua chuộc mà là một phương tiện hiệu quả nhất để quan hệ và làm việc với người khác, và để đạt được kết quả mong muốn. Để làm được điều đó, trước tiên chúng ta cần hiểu rõ niềm tin hoạt động như thế nào. Trong khi thuyết trình, tôi thường đề nghị cử tọa suy nghĩ thật kỹ những câu hỏi về niềm tin. Bạn tin ai? Tin một người bạn? Một đồng nghiệp? Cấp trên? Vợ/chồng của bạn? Cha mẹ? Con cái? Vì sao bạn tin họ? Điều gì khiến bạn tin vào mối quan hệ đặc biệt này? Và, những câu hỏi có tính gợi mở hơn: Ai tin bạn? Người thân trong gia đình? Đồng nghiệp nơi công sở? Người bạn mới quen? Người bạn quen biết đã lâu? Bạn có đặc điểm gì khiến người khác có thể tin vào bạn? Hầu hết chúng ta khi nghĩ về niềm tin thường liên tưởng đến tính cách - là người tốt hay chân thành, có đạo đức hay chính trực. Và tính cách được xem là điều kiện tuyệt đối cơ bản và cần thiết. Nhưng như tôi đã nói trong chương mở đầu, việc cho rằng niềm tin chỉ dựa trên cơ sở tính cách là một định kiến sai lầm. Niềm tin hình thành trên cả hai yếu tố: tính cách và năng lực. Tính cách bao gồm sự chính trực, động cơ, ý định của bạn đối với người khác. Năng lực bao gồm các khả năng, kỹ năng, thành tích, hiệu quả. Cả hai yếu tố này đều cần thiết. Với khuynh hướng ngày càng chú trọng về đạo đức trong xã hội chúng ta, yếu tố tính cách trong niềm tin nhanh chóng trở thành giá trị tiêu chuẩn để hội nhập nền kinh tế mới toàn cầu. Tuy nhiên, một khía cạnh khác thường bị xem nhẹ của niềm tin là năng lực cũng quan trọng không kém. Bạn có thể đánh giá một người là chân thành, thậm chí trung thực, nhưng nếu người đó không làm việc hiệu quả thì bạn khó có thể đặt hết niềm tin vào họ. Ngược lại, một người có thể có năng khiếu, tài năng và nhiều thành tích, nhưng nếu người đó không trung thực, bạn cũng không thể tin người đó. Ví dụ trong thâm tâm tôi cảm thấy tin tưởng vào tính cách của một người đến mức khi tôi đi vắng có thể yên tâm giao cho người đó trông nom đàn con của mình. Nhưng trong công việc tôi có thể không tin cậy người đó vì họ không có năng lực chuyên môn. Ngược lại, tôi có thể tin cậy ai đó trong công việc nhưng sẽ không yên tâm để người đó trông nom con mình không hẳn vì người đó không trung thực hay không có khả năng, mà vì người đó không phải là người chu đáo để chăm sóc trẻ con. Theo khuynh hướng tự nhiên, chúng ta thường xét về tính cách khi nghĩ đến niềm tin, nhưng chúng ta cũng nên nhận ra sự quan trọng không kém của yếu tố năng lực. Bạn thử nghĩ xem - người ta tin cậy những người có khả năng thực hiện tốt công việc. Chương trình giảng dạy mới thường được giao cho những giảng viên có năng lực tốt nhất. Những dự án hay thương vụ đầy triển vọng sẽ được giao cho những người đã từng hoàn thành tốt trong quá khứ. Nhận ra vai trò của năng lực giúp chúng ta nhận diện và lý giải những vấn đề sâu xa về niềm tin mà xưa nay chúng ta không chú ý đến. Từ quan điểm của cấp lãnh đạo, yếu tố năng lực giúp củng cố và phát huy công năng thực tiễn của niềm tin. Đây là một cách khác để nhìn nhận vấn đề: mối quan tâm ngày càng tăng về vấn đề đạo đức là điều tốt cho xã hội chúng ta. Đạo đức (vốn là một phần của tính cách) là yếu tố cơ bản của niềm tin, nhưng bản thân nó chưa đủ để xây dựng niềm tin. Bạn không thể có niềm tin nếu không có đạo đức, nhưng bạn có thể có đạo đức mà không có niềm tin. Niềm tin, bao gồm đạo đức, là một ý tưởng sâu rộng hơn nhiều. Sau khi tôi thuyết trình đề tài Tốc độ của Niềm tin tại một hội nghị gần đây, giám đốc bán hàng của một công ty dược phẩm lớn đến gặp tôi và nói: "Cám ơn anh đã củng cố điều mà tôi từng nói với đồng nghiệp trong bộ phận của tôi - vì kết quả là điều thiết yếu để xây dựng niềm tin nên chúng ta cần phải đạt chỉ tiêu hàng tháng. Đạt được chỉ tiêu, công ty sẽ tin tưởng chúng ta hơn, cấp lãnh đạo, đồng nghiệp và mọi người sẽ tin chúng ta hơn. Bằng ngược lại, chúng ta sẽ đánh mất niềm tin nơi mọi người và không được duyệt ngân sách dự án. Điều đó thật dễ hiểu". Như đã nói, cả hai yếu tố tính cách và năng lực đều cần thiết. Tính cách là một yếu tố bất biến của niềm tin trong mọi hoàn cảnh. Còn năng lực thay đổi theo hoàn cảnh. Jeri, vợ tôi rất tin tôi và tôi cũng tin tưởng cô ấy. Nhưng trong một cuộc phẫu thuật gần đây của cô ấy, Jeri không thể yêu cầu tôi làm việc đó vì tôi không phải là bác sĩ! Một khi bạn hiểu rằng cả hai yếu tố tính cách và năng lực đều cần thiết đối với niềm tin, bạn sẽ nhận thấy các nhà lãnh đạo và các nhà quan sát thành công ở khắp nơi đã kết hợp hai yếu tố này như thế nào trong công việc của họ. Người ta có thể dùng nhiều lời lẽ khác nhau để diễn đạt ý tưởng này, nhưng nếu muốn dùng từ ngữ cô đọng nhất thì đó là sự cân bằng giữa tính cách và năng lực. Chúng ta hãy xem xét những thông tin sau đây: • Jack Welch, cựu CEO của hãng General Motors, nói về các nhà quản lý được đánh giá thành tích của họ trên hai khía cạnh: "Sống theo các giá trị" (tính cách) và "Cống hiến bằng kết quả" (năng lực). • Jim Collins, tác giả cuốn sách Từ Tốt đến Vĩ đại, cho rằng một nhà lãnh đạo xuất sắc là người "cực kỳ khiêm tốn" (tính cách) và "ý chí mạnh mẽ trong nghề nghiệp" (năng lực). Trong cuốn Xây dựng để trường tồn, ông nói về sự cần thiết "duy trì điều cốt lõi" (tính cách) và "thúc đẩy sự tiến bộ" (năng lực). • Warren Buffett, CEO của Berkshire Hathaway, xem "sự chính trực" (tính cách) và "sự thông minh" (năng lực) là những phẩm chất hàng đầu khi ông tuyển dụng nhân viên. • Ram Charan, tác giả nhiều cuốn sách và là nhà tư vấn cho nhiều CEO của các công ty thuộc danh sách Fortune 500, nhấn mạnh đến sự cần thiết trở thành "nhà lãnh đạo của mọi người" (tính cách) và "nhà lãnh đạo của doanh nghiệp" (năng lực). • Lý thuyết lãnh đạo đề cập đến việc người lãnh đạo phải như thế nào (tính cách) và người lãnh đạo phải làm những gì (năng lực). • Các phương pháp ra quyết định chú trọng vào sự cân bằng "con tim" (tính cách) và "khối óc" (năng lực). Vậy, bạn cần ghi nhớ rằng niềm tin không chỉ phụ thuộc vào tính cách, mặc dù đó là điều cơ bản. Niềm tin phụ thuộc vào cả hai yếu tố ngang bằng là tính cách và năng lực. Cả hai yếu tố đều tuyệt đối cần thiết. Từ gia đình đến công ty, nhìn vào bất cứ sự thất bại nào trong lãnh đạo, bạn sẽ thấy nguyên nhân là do một trong hai yếu tố này. 5 Làn sóng của Niềm tin Nhiều năm trước đây, tôi và một số đồng nghiệp cùng làm việc với một nhóm ít người đến từ một công ty đa quốc gia. Phản hồi đầu tiên của họ là: "Chúng tôi rất thích nội dung của lý thuyết lãnh đạo này! Nhưng các nhà quản lý bộ phận của chúng tôi không hiểu nó, nên họ là những nguời thực sự cần phải được nghe". Sau đó một thời gian, chúng tôi thuyết trình nội dung cho các nhà quản lý bộ phận của họ. Những người tham dự bảo: "Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với tất cả những điều ông trình bày. Cách giải quyết vấn đề thật tuyệt vời! Vấn đề là những người thực sự cần đến lý thuyết này là cấp trên của chúng tôi". Khi chúng tôi thuyết trình cho cấp trên của họ, những vị này nói: "Chúng tôi rất tán thành nội dung này! Nó rất sâu sắc và hữu ích, nhưng những người cùng đẳng cấp với chúng tôi tại năm đơn vị khác không hiểu điều này. Họ mới là những người cần được nghe". Những người cùng đẳng cấp với họ lại bảo vấn đề là ở ban điều hành, những người giám sát và quản lý các bộ phận này. Rồi ban điều hành lại bảo vấn đề nằm ở chỗ vị CEO của công ty. Cuối cùng khi chúng tôi gặp CEO, ông ấy nói: "Nội dung này rất hay, nhưng tôi không có quyền. Tôi không thể làm gì được vì quyền hành nằm trong tay hội đồng quản trị". Tôi dám chắc rằng nếu chúng tôi đi tiếp đến gặp hội đồng quản trị, có lẽ họ sẽ nói vấn đề nằm ở Wall Street! Như cha tôi đã nói rất có lý: "Nếu bạn nghĩ vấn đề nằm đâu đó ở bên ngoài, thì chính suy nghĩ đó mới là vấn đề". Cuối cùng khi chúng tôi đã thuyết trình cho mọi người ở tất cả các cấp trong công ty lớn này, dù cấp trên của bạn, lãnh đạo đơn vị của bạn, CEO, hội đồng quản trị, vợ/chồng bạn, con cái, bạn bè, đồng nghiệp của bạn tất cả có thể đều có vấn đề về niềm tin (hay bất cứ vấn đề nào khác). Nhưng không có nghĩa là bạn bất lực! Trên thực tế, có lẽ bạn không biết mình có sức mạnh như thế nào trong việc làm thay đổi mức độ niềm tin trong tất cả các mối quan hệ nếu bạn biết cách hành động "từ trong ra ngoài". Điểm mấu chốt là chúng ta cần hiểu rõ và biết cách hành xử trong môi trường mà tôi tạm gọi là "5 Làn sóng của Niềm tin". Mô hình này phát xuất từ ý tưởng "hiệu ứng gợn sóng" (ripple effect) dùng hình tượng để mô tả tính chất tương thuộc của niềm tin và trình tự dịch chuyển của nó từ trong ra ngoài. Nó xác định năm cấp độ, hay bối cảnh xây dựng niềm tin. Trong ba phần tiếp theo của cuốn sách, chúng ta sẽ tìm hiểu cơ cấu của mô hình này để hiểu rõ niềm tin và cách tác động vào niềm tin như thế nào. Chúng ta sẽ đi sâu vào từng làn sóng niềm tin ở phần sau, nhưng tôi muốn nêu ra ngay ở đây khái quát về 5 Làn sóng để bạn nắm trước khái niệm của nó. Làn sóng thứ nhất: Niềm tin vào chính mình Làn sóng đầu tiên là niềm tin vào bản thân, vào khả năng chúng ta có thể đặt ra và thực hiện các mục tiêu, cam kết và những gì đã nói - cũng như khơi dậy niềm tin trong lòng mọi người. Nguyên tắc chính của đợt sóng đầu tiên này là sự tín nhiệm (credibility), từ này có xuất xứ từ tiếng La-tinh, credere có nghĩa là "tin tưởng". Trong làn sóng này, chúng ta sẽ khảo sát "4 nhân tố cơ bản của sự tín nhiệm" và cách thức làm tăng uy tín của chúng ta để có thể xác lập niềm tin vững chắc đối với chính mình và đối với những người khác. Kết quả đem lại nhờ có tính cách và năng lực ở mức độ cao là sự tín nhiệm, sự đề cao và tầm ảnh hưởng. Làn sóng thứ hai: Niềm tin trong mối quan hệ Nguyên tắc chính chi phối làn sóng này là hành vi nhất quán (consistent behavior). Trong phần này, chúng ta sẽ bàn về 13 hành vi phổ biến mà các nhà lãnh đạo hàng đầu thế giới thường thực hành. Tuy nhiên, điều thú vị là bất cứ ai cũng có thể học và vận dụng 13 hành vi này để tăng cường sự tín nhiệm nhằm xây dựng hay cải thiện các mối quan hệ. Làn sóng thứ ba: Niềm tin trong tổ chức Chúng tôi muốn nói đến niềm tin trong mọi loại hình tổ chức, bao gồm các công ty, các tổ chức phi lợi nhuận, cơ quan chính phủ, cơ sở giáo dục, gia đình, cũng như các đội nhóm trong tổ chức. Nếu bạn đã từng làm việc với những cá nhân mà bạn tin cậy, nhưng bạn không thấy niềm tin đó trong tổ chức bạn đang làm việc - hay trong tình huống mà các hệ thống và cơ cấu của tổ chức đó gây ra sự mất niềm tin - bạn sẽ dễ dàng nhận ra bản chất quan trọng của làn sóng thứ ba. Nguyên tắc chính chi phối làn sóng này là sự liên kết (alignment). Nó giúp các nhà lãnh đạo tạo ra các cơ cấu, hệ thống và những biểu tượng niềm tin vào tổ chức nhằm làm xóa bỏ 7 thứ thuế do niềm tin thấp và tạo ra 7 loại cổ tức lớn nhất do niềm tin cao mang lại. Làn sóng thứ tư: Niềm tin trên thương trường Niềm tin trên thương trường là mức độ hầu như ai cũng nhận ra tác động của nó. Nguyên tắc chính đằng sau làn sóng này là uy tín (reputation), thể hiện thương hiệu công ty (cũng như thương hiệu cá nhân) của bạn. Làn sóng thứ tư cũng phản ảnh niềm tin của khách hàng, nhà đầu tư và những người khác trên thương trường đối với bạn. Thương hiệu tác động rất lớn đến hành vi và lòng trung thành của khách hàng. Phần này sẽ giúp bạn không những cải thiện thương hiệu và uy tín cá nhân mà còn giúp bạn cải thiện và nâng cao uy tín thương hiệu của công ty trên thương trường. Làn sóng thứ năm: Niềm tin trong xã hội Làn sóng thứ năm nói về việc tạo ra giá trị cho người khác và cho xã hội nói chung. Nguyên tắc bao trùm của làn sóng này là sự cống hiến (contribution). Bằng sự cống hiến hay "cho đi", chúng ta có thể triệt tiêu sự nghi ngờ, chủ nghĩa hoài nghi, và các loại "thuế thừa kế" niềm tin thấp. Chúng ta cũng sẽ khuyến khích người khác tạo ra các giá trị và cống hiến. Tùy thuộc vào vai trò và trách nhiệm của mình, chúng ta có thể gây ảnh hưởng nào đó khi dịch chuyển từ làn sóng này sang làn sóng khác. Tuy nhiên, tất cả chúng ta đều có ảnh hưởng đặc biệt trong hai làn sóng đầu tiên, và đây chính là nơi chúng ta cần phải bắt đầu. Khi đọc xong cuốn sách này, bạn sẽ hiểu rõ ngay cả niềm tin ở cấp độ xã hội (làn sóng thứ năm) cũng có thể quy về các vấn đề ở cấp độ cá nhân (làn sóng thứ nhất). Các vấn đề niềm tin cá nhân sẽ thực sự được nhân lên theo cấp số nhân khi chúng ta chuyển sang các làn sóng khác. Chẳng hạn, vấn đề niềm tin ở cấp độ cá nhân đối với một số lãnh đạo của Tập đoàn Enron lúc đầu được lan truyền đến những mối quan hệ giữa họ rồi đến tổ chức, và cuối cùng lan ra thương trường và toàn bộ xã hội. Hiệu ứng gợn sóng càng lớn khi nó càng lan rộng, cuối cùng trở thành một trong những động lực cho cuộc cải cách lớn: sự ra đời của Đạo luật Sarbanes - Oxley. Điều này cho thấy chúng ta luôn phải bắt đầu từ làn sóng thứ nhất với bản thân mình. Phần cuối cùng của cuốn sách nói về việc khơi dậy niềm tin nơi người khác. Nó bao gồm việc học cách mở rộng "niềm tin sáng suốt" - để một mặt tránh sự cả tin (niềm tin mù quáng), mặt khác tránh sự ngờ vực (mất niềm tin) trong quan hệ với người khác và tìm ra "điểm tựa tối ưu" để niềm tin có thể đem lại cổ tức lớn nhất cho mọi người. Ngoài ra, phần này cũng đề cập đến việc khôi phục và phát triển niềm tin. Mặc dù đặt lòng tin nơi người khác không thể tránh khỏi những trường hợp rủi ro, nhưng rủi ro còn lớn hơn nếu chúng ta không tin vào ai cả. Nếu biết mở rộng niềm tin sáng suốt đúng lúc và đúng cách, chúng ta sẽ làm chủ được hoàn cảnh và đạt được những thành tựu bất ngờ, nhanh chóng hơn và tốn ít chi phí hơn. Có lẽ còn quan trọng hơn nữa, nó sẽ khơi dậy và truyền sức mạnh cho những người mà bạn muốn đặt niềm tin vào họ. Khôi phục Niềm tin Trước khi bàn về 5 Làn sóng của Niềm tin, tôi muốn khẳng định lại rằng chúng ta không những có thể xây dựng được niềm tin mà còn có thể khôi phục niềm tin. Hiển nhiên có một số trường hợp ngoại lệ, nhưng tôi vẫn tin rằng đối với hầu hết chúng ta, khả năng khôi phục niềm tin còn lớn hơn chúng ta tưởng rất nhiều. Tốt nhất nên trồng cây từ 20 năm về trước. Nếu chưa, bạn hãy làm việc đó ngay hôm nay. - NGẠN NGỮ TRUNG HOA Chúng ta hãy cùng xem xét kinh nghiệm của "Tom", người đã làm việc cho một công ty bất động sản lớn trong nhiều năm và cuối cùng trở thành một cổ đông trong công ty. Đến một lúc khi thị trường bất động sản đảo lộn và công ty bắt đầu chia rẽ, kéo theo đó là nhiều vụ tranh chấp quyền lực và Tom rời khỏi công ty. Một vụ khởi kiện, rồi một vụ khởi kiện ngược lại được mang ra tòa án. Vốn là một cổ đông lớn, Tom có quyền lợi trong hàng chục bất động sản. Và thật khó tin là sau nhiều năm trôi qua, quá trình xem xét và điều tra về pháp lý vẫn không chấm dứt. Cuối cùng, Tom quyết định cần tìm giải pháp tốt hơn. Anh gọi điện cho "Chris" một cổ đông khác lúc đó là người phụ trách công ty, và nói: "Chúng ta hãy nói chuyện với nhau - chỉ anh và tôi và không cần luật sư riêng của chúng ta". Tom và Chris từng là đối tác của nhau trong nhiều năm, nhưng do biến động trên mà niềm tin giữa họ bị rạn nứt. Tuy vậy, Chris đồng ý gặp Tom. Tom đến gặp với ý định tìm hiểu chân thành quan điểm của Chris. Anh lắng nghe Chris và nhắc lại quan điểm của Chris. Chris thấy Tom hiểu đúng ý mình và anh trở nên sẵn sàng lắng nghe ý kiến của Tom. Sau khi trao đổi thẳng thắn với nhau, niềm tin đã từng chia sẻ giữa hai cựu đối tác trước đây đã nhanh chóng được khôi phục. Chính trong cuộc gặp đó, hai bên đã đạt được thỏa thuận giải quyết bất đồng sau cái bắt tay đầy thân thiện. Thông qua quá trình lắng nghe và khôi phục lại một phần niềm tin mà họ từng có trước đây, hai người đã tìm ra giải pháp giải quyết vấn đề và họ chấm dứt sự oán trách lẫn nhau cũng như sự lãng phí thời gian và tiền bạc vì vụ kiện cáo kéo dài trong nhiều năm trước đó. Một ví dụ khác, chúng ta hãy xem xét mối quan hệ giữa hai cựu Tổng thống Mỹ John Adams và Thomas Jefferson. Hai vị này lần lượt là người khởi xướng và phác thảo bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ và đã nỗ lực không mệt mỏi để giành lại nền độc lập của nước Mỹ khỏi sự thống trị của Anh Quốc. Hai ông đều được cử làm đại sứ tại Paris trong thời gian giữa các cuộc cách mạng Mỹ và Pháp - lúc đó cả hai đều không biết điều gì sẽ xảy ra ở Hoa Kỳ và Pháp, hay bản thân họ sau này - họ là đôi bạn đặc biệt thân thiết của nhau. Jefferson trở thành cha đỡ đầu cho con trai của Adams là John Quincy, và được vợ của Adam là Abigail hết lòng ngưỡng mộ, gọi ông là "một trong những con người kiệt xuất nhất trên thế giới". Tuy nhiên sau khi trở về Hoa Kỳ, do hai ông theo đuổi các quan điểm chính trị khác nhau nên mối quan hệ giữa hai người có phần căng thẳng. Theo luật pháp lúc đó, khi Adams là người ủng hộ thể chế Liên bang được bầu làm Tổng thống thứ hai của nước Mỹ, thì Jefferson, một đảng viên Đảng Cộng hòa với số phiếu bầu lớn thứ hai đương nhiên sẽ trở thành Phó Tổng thống,. Adams hy vọng nhận được sự ủng hộ và tình bạn từ Jefferson như ông đã từng dành cho Tổng thống George Washington khi ông nhận chức vụ Phó Tổng thống. Thay vào đó, Adams cảm thấy Jefferson không trung thành với mình, bè phái cực đoan và đầy tham vọng chính trị. Vào cuối nhiệm kỳ của Tổng thống Adams, mối quan hệ giữa hai người chất chứa đầy ác ý và oán giận. Nhiều năm sau đó, Bác sĩ Benjamin Rush (người cùng ký tên vào bản Tuyên ngôn độc lập) là bạn của cả hai người đã khuyên Adams hòa giải với Jeffeson. Adams nghe theo, gửi cho Jefferson một thiệp mừng năm mới với lời chúc Jefferson mạnh khỏe và hạnh phúc. Jefferson lập tức phúc đáp, vui mừng trước triển vọng được khôi phục lại tình bạn khi xưa. Ông viết: "Bức thư của ông làm tôi nhớ lại tất cả những kỷ niệm đẹp còn đọng lại trong ký ức của tôi. Nó đưa tôi trở lại thời kỳ đầy khó khăn và nguy hiểm, khi chúng ta đều là những người lính đấu tranh vì sự nghiệp chung, giành lại những điều quý giá nhất của con người, đó là quyền tự trị". Adams sau đó viết thư cho Rush: "Điều anh muốn đã trở thành hiện thực... Anh đã mang đến điều kỳ diệu! Anh đã mang lại hòa bình cho những cường quốc chưa bao giờ có chiến tranh". Sau đó, Adams đem bức thư của Jefferson ra đọc trong buổi họp mặt gia đình, khi được hỏi vì sao ông có thể làm lành với một người đã từng xúc phạm ông như vậy, Adams trả lời rằng: Tôi không tin rằng Ngài Jefferson lại căm thù tôi. Ngược lại, tôi tin rằng ông ấy luôn quý mến tôi... Ông ấy muốn trở thành Tổng thống Hoa Kỳ, nhưng tôi lại cản đường ông ấy, vì vậy mà ông ấy đã làm đủ mọi cách để triệt hạ tôi. Nhưng nếu tôi cứ cãi vã với ông ấy vì điều đó thì tôi sẽ phải cãi vã với tất cả những ai va chạm với tôi trong cuộc sống. Đó là bản chất tự nhiên của con người... Vì thế tôi tha thứ cho mọi kẻ thù của mình và hy vọng họ sẽ được tha thứ trên thiên đường. Ngài Jefferson và tôi đều đã già và đã thôi việc quốc sự, chúng tôi nên hòa giải với nhau. Adams và Jefferson đã sống vui vẻ trong tình bạn thật mãn nguyện và trao đổi thư từ qua lại cho nhau trong suốt 14 năm sau đó cho đến ngày họ qua đời, thật ngạc nhiên là vào cùng ngày 4 tháng 7 năm 1826, nhân kỷ niệm 50 năm ngày Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ. Một trong số những lời đáng nhớ nhất mà Adams từng gửi cho Jefferson là: "Chừng nào tôi còn thở, tôi vẫn là bạn của anh". Nhìn nhận, Nói năng và Ứng xử Mục đích của cuốn sách này là giúp bạn có cách nhìn nhận, nói năng và ứng xử một cách đúng đắn để xây dựng niềm tin. Cả ba hình thức này đều rất quan trọng. Bạn còn nhớ câu chuyện tôi kể ở chương trước về hướng dẫn viên câu cá tại Montana đã đưa cho tôi cặp kính để nhìn thấy đàn cá ở dưới mặt nước không? Tương tự, cuốn sách này sẽ trao cho cho bạn "đôi kính niềm tin" giúp bạn nhìn nhận niềm tin theo một cách hoàn toàn khác và lý thú để nhận biết các cơ hội cũng như khả năng nâng cao niềm tin và thu được lợi ích từ niềm tin ở mọi mức độ. Đôi khi bạn biết mình không thể tin tưởng một ai đó hoặc có ai đó không tin tưởng bạn, nhưng bạn không nói được lý do vì sao và cũng không biết làm cách nào để cải thiện tình hình ấy. Cuốn sách này sẽ giúp bạn nói về niềm tin và chỉ ra những nguyên nhân sâu xa nhằm giúp bạn nhận thức tường tận vấn đề và giải quyết những vướng mắc về niềm tin trong cuộc sống. Cuối cùng, cuốn sách sẽ giúp bạn rèn luyện cách ứng xử để xây dựng và nâng cao niềm tin, đặc biệt là 13 Hành vi ứng xử thường thấy ở những nhân vật và các nhà lãnh đạo có sự tín nhiệm cao trên thế giới. Tôi đồng ý với nhận định rằng việc thay đổi mô thức tư duy sẽ dẫn đến thay đổi hành vi - hay nói cách khác, khi cách nhìn của bạn thay đổi thì hành vi và kết quả cũng tự động thay đổi theo. Tuy nhiên, từ góc độ thực tế, tôi cũng tin rằng thay đổi cách nói và ứng xử cũng tác động không nhỏ đến nhận thức và kết quả. Chẳng hạn, hành động phụng sự một người nào đó có thể nhanh chóng làm thay đổi cảm nhận của bạn về họ - thậm chí bạn sẽ cảm thấy yêu thương và thông cảm với họ, những tình cảm bạn chưa từng có với họ. Tôi gọi đây là sự thay đổi hành vi (behavior shift) - một thay đổi trong cách cư xử cuối cùng dẫn đến sự thay đổi cách nhìn của chúng ta đối với thế giới xung quanh. Tôi cũng tin vào sức mạnh của sự thay đổi lời nói (language shift). Cách nói của chúng ta có thể thay đổi cách nhìn và cách cư xử của chúng ta, cũng như thay đổi cách nhìn của người khác đối với chúng ta. Rất dễ nhận thấy rằng, ba yếu tố này tác động lẫn nhau và mỗi khi bạn làm thay đổi một yếu tố thì các yếu tố khác cũng thay đổi theo. Chính vì vậy cuốn sách này chú trọng vào cách nhìn, cách nói và cách ứng xử, để giúp bạn không chỉ điều chỉnh mô thức tư duy, mà cả lời nói và cách ứng xử cần thiết để xây dựng và phát triển niềm tin. Thực hành Niềm tin Như vậy, chúng ta đã có một số hiểu biết cơ bản về Tốc độ của Niềm tin, bây giờ chúng ta sẽ chuyển sang các bước thực hành để xây dựng, khôi phục và mở rộng niềm tin. Khi bạn đọc các phần còn lại của cuốn sách này, bạn cần lưu ý rằng dù bạn đang ở vị trí nào tại công ty hay trong gia đình của bạn, bạn vẫn là người chủ động quyết định. Bạn chính là một nhà lãnh đạo, thậm chí chỉ là lãnh đạo chính bản thân mình. Theo thời gian, tôi đã đi đến định nghĩa đơn giản về vai trò lãnh đạo như sau: Vai trò lãnh đạo là đem lại kết quả bằng cách khơi dậy niềm tin. Việc xây dựng niềm tin sẽ giúp nâng cao tối đa khả năng cống hiến của chúng ta trong hiện tại cũng như trong tương lai. Phương tiện cũng quan trọng không kém mục đích. Khi bạn có niềm tin, bạn sẽ có khả năng đạt được nhiều kết quả tốt đẹp trong nỗ lực kế tiếp, và luôn luôn có lần kế tiếp chờ đợi bạn. Đạt được mục đích nhưng hủy hoại niềm tin không chỉ là một hành vi thiển cận, phản tác dụng mà cuối cùng không duy trì được sự lâu dài của kết quả đạt được. Niềm tin chính là chiếc chìa khóa vàng của sự thành công bền vững. - JIM BURKE, CỰU CHỦ TỊCH KIÊM CEO, JOHNSON & JOHNSON Tôi khuyên bạn nên đọc kỹ cuốn sách này, đặt câu hỏi thật sâu và tấn công trực diện vào những vấn đề hóc búa. Vì tôi luôn chú trọng đến niềm tin trong cuộc sống của mình và trong quan hệ với hàng ngàn người và hàng trăm tổ chức trên thế giới, tôi tin rằng quan điểm này được căn cứ trên những nguyên tắc đã được kiểm chứng, mang tính phổ quát và có khả năng mang lại những kết quả tích cực. Tôi không ngại ngần bảo đảm với bạn rằng nếu bạn áp dụng những nguyên tắc này vào cuộc sống của chính mình, bạn sẽ thấy được lợi ích tức thì. Bạn sẽ có một năng lực lâu dài. Bạn sẽ xây dựng và duy trì được nhiều mối quan hệ bền chặt hơn. Bạn sẽ có thêm nhiều cơ hội, tầm ảnh hưởng và nhiều niềm vui hơn. Bạn sẽ biết cách xây dựng, phát triển, khôi phục, và mở rộng niềm tin, một yếu tố có tác động mạnh mẽ đến mọi mặt trong cuộc sống của bạn. PHẦN II. LÀN SÓNG THỨ NHẤT - NIỀM TIN VÀO CHÍNH MÌNH Nguyên tắc của sự Tín nhiệm Mô hình 5 Làn sóng của Niềm tin là phép ẩn dụ về tác động của niềm tin trong cuộc sống. Niềm tin khởi đầu từ bản thân chúng ta lan sang các mối quan hệ, tổ chức và khắp các mối quan hệ trên thương trường và trong xã hội toàn cầu. Mô hình này phản ánh sức mạnh của phương pháp tiếp cận "từ trong ra ngoài": muốn xây dựng niềm tin với người khác, trước hết chúng ta phải bắt đầu từ chính bản thân mình. Từ Làn sóng thứ nhất - Niềm tin vào chính mình - chúng ta biết được nguyên tắc cơ bản để xây dựng và gìn giữ niềm tin ở mọi mức độ là sự tín nhiệm, hay sự đáng tin cậy. Chúng ta cần tự hỏi xem bản thân chúng ta có đáng tin cậy hay không, chúng ta có thuộc loại người được người khác tín nhiệm hay không. Điều đáng mừng là chúng ta có thể làm tăng khả năng tín nhiệm của bản thân một cách nhanh chóng, đặc biệt nếu chúng ta hiểu rõ bốn yếu tố then chốt, hay bốn điều "cốt lõi" về tính cách và năng lực. Khi chúng ta phát triển được bốn yếu tố cốt lõi này, chúng ta sẽ làm tăng mức độ tín nhiệm của bản thân. Khi đó chúng ta sẽ có cơ sở vững chắc để xây dựng và duy trì niềm tin trong tất cả các mối quan hệ trong cuộc sống. Chương 3. BỐN YẾU TỐ CỐT LÕI CỦA SỰ TÍN NHIỆM Đã đến lúc vai trò lãnh đạo cần phải đổi khác, phải đáng tin cậy... Cụ thể, đó là sự tín nhiệm, lời nói phải đi đôi với hành động. - Anne Mulcahy, Chủ tịch kiêm CEO, Xerox Hãy tưởng tượng bạn đang có mặt trong một phiên tòa. Bạn được triệu tập đến với tư cách là một nhân chứng về mặt chuyên môn, và luật sư bên nguyên đơn đang thuyết phục bồi thẩm đoàn rằng bạn là một nhân chứng đáng tin cậy. Vị luật sư sẽ phải chứng minh điều gì? Trước hết, bạn là một người chính trực, bạn luôn trung thực và kiên định, được biết đến về tính trung thực và không biết nói dối. Thứ hai, bạn là người có mục đích sống rõ ràng, bạn không lừa gạt hay bao che cho ai, bạn không có động cơ hay ý đồ đen tối để làm sai lệch lời khai trước tòa. Thứ ba, bạn có những chứng nhận xuất sắc về chuyên môn, kiến thức, kỹ năng và năng lực chuyên môn trong lĩnh vực mà bạn được yêu cầu làm nhân chứng. Thứ tư, bạn có nhiều thành tích tốt, chứng tỏ được năng lực của mình trong nhiều tình huống trong quá khứ, làm việc có kết quả và có lý do xác đáng để tin rằng hiện tại bạn cũng vẫn làm được như thế. Bây giờ đến lượt luật sư bào chữa cho bị cáo đứng lên cố gắng thuyết phục bồi thẩm đoàn rằng bạn là người không đáng tin cậy. Vị luật sư này sẽ phải chứng minh điều gì? Tất nhiên ông ấy phải chứng minh những điều ngược lại. Ông ấy sẽ đặt nghi vấn có thể bạn là người không chính trực, bạn không trung thực hay trước đây đã từng nói dối, hoặc bạn là người có tính khí thất thường khiến lời khai của bạn không đáng tin cậy, hoặc bạn có những ý đồ đen tối hay có động cơ riêng để đưa ra những lời khai có lợi cho bên nguyên; hoặc bạn không có đủ chứng nhận về chuyên môn; hoặc thành tích chuyên môn của bạn không đủ sức thuyết phục, bạn không chứng tỏ được năng lực để đánh giá các sự kiện cần bạn chứng thực. Như nhiều bạn bè luật sư của tôi khẳng định, trong trường hợp này, về cơ bản người ta sẽ tập trung xem xét bốn khía cạnh sau: sự chính trực, ý định, năng lực và kết quả của bạn. Sự đáng tin cậy của bạn, dù với tư cách là một nhà chuyên môn làm vai trò nhân chứng, hay một cá nhân, một nhà lãnh đạo, một gia đình, một tổ chức đều phụ thuộc vào bốn yếu tố này. Sự đáng tin cậy rất quan trọng đối với một vụ kiện, đặc biệt trong những trường hợp thiếu chứng cứ xác thực, điều này nói lên rằng phán quyết của tòa án tùy thuộc rất lớn vào mức độ tin cậy của các lời khai trước tòa. Tại tòa án hay trong cuộc sống, có rất nhiều điều phụ thuộc vào việc bạn có đáng tin cậy hay không. Ví dụ, trong cuộc điều tra của Chính phủ Mỹ vào năm 2005 về vụ giao dịch bảo hiểm của AIG với General Re (công ty con của Berkshire Hathaway của tỉ phú Warren Buffett), rõ ràng đạo đức và sự chính trực của Warren Buffett đã giúp ông được mọi người tin là vô tội thậm chí trước khi các chi tiết liên quan đến vụ giao dịch này được công bố. Một giáo sư đạo đức học tại Trường Kinh doanh Wharton phát biểu: "Xét thành tích trong quá khứ của Warren Buffett, tôi dễ dàng tin rằng ông ấy vô tội". Một CEO khác nói: "Đây là một người rất giàu có và nổi tiếng đến mức mọi điều về ông ấy đều được công chúng biết đến. Ông ấy không chỉ là một người có uy tín lớn mà là một chuẩn mực". Có thể nói, Buffett là người có được sự tín nhiệm gần như tuyệt đối từ mọi người. Tôi chưa từng bị từ chối giao kết chỉ vì tôi thiếu sự tín nhiệm của bản thân. - JON HUNTSMAN, CHỦ TỊCH HUNTSMAN CORP. Bạn có đáng tin cậy với bản thân và người khác? Làn sóng Niềm tin thứ nhất - Niềm tin vào chính mình - cũng chính là sự tín nhiệm. Đó là việc xây dựng tính chính trực, mục đích, khả năng và thành tích để làm cho bạn trở thành người đáng tin cậy đối với bản thân mình và với người khác. Điều này có thể rút gọn bằng hai câu hỏi đơn giản: 1) Bạn có tin vào bản thân mình không? và 2) Bạn có được người khác tin cậy không? Khi nói về niềm tin vào bản thân, người ta thường nghĩ đến những điều rất nhỏ. Tôi nhớ lại giai đoạn 5 tháng bận rộn nhất trong cuộc đời tôi, trong thời gian đó, đêm nào tôi cũng phải thức đến 2-3 giờ sáng để hoàn thành công việc. Tôi thường đặt đồng hồ báo thức để dậy tập thể dục, nhưng khi chuông reo, tôi chỉ có thể đủ sức vươn dậy tắt chuông và... ngủ tiếp. Tôi tự thanh minh rằng tôi cần ngủ hơn cần tập thể dục. Cứ như vậy sau một thời gian, tôi bắt đầu suy nghĩ, tại sao mình lại đặt đồng hồ báo thức sớm như vậy? Hành động này có nguy cơ biến thành thói quen xấu và cứ như một trò đùa. Cuối cùng, tôi quyết định thay đổi phương pháp. Thay vì dùng chuông đồng hồ báo thức mỗi sáng làm thời điểm để tôi quyết định có dậy hay không, tôi sẽ quyết định điều đó ngay từ đêm trước. Từ đó trở đi, một khi đã đặt chuông báo thức, tôi luôn thức dậy đúng giờ để tập thể dục, bất kể tôi có ngủ ít đến đâu. Bằng cách đó, tôi không sợ bị mất dần niềm tin vào chính mình. Mặc dù ví dụ này nghe khá vụn vặt, nhưng lại rất có ý nghĩa đối với tôi trong việc xây dựng niềm tin vào bản thân mình. Kết quả khảo sát cho thấy nhiều người trong chúng ta không theo đến cùng mục tiêu đã đặt ra hoặc không giữ lời hứa hay cam kết đối với bản thân. Chẳng hạn, có đến gần một nửa dân chúng Mỹ đặt ra nhiều mục tiêu vào đầu năm mới, nhưng theo kết quả khảo sát thì chỉ có 8% trong số họ quyết tâm thực hiện đến cùng. Hậu quả sẽ ra sao nếu chúng ta thường xuyên xem nhẹ và không thực hiện quyết tâm của bản thân? Chắc chắn nó sẽ làm mất dần sự tín nhiệm vào bản thân chúng ta. Chúng ta có thể vay mượn sức mạnh từ địa vị hay sức mạnh của tổ chức, nhưng đó không phải sức mạnh thực sự của chúng ta và mọi người đều nhìn thấy rõ điều đó. Và dù chúng ta có nhận thức được điều đó hay không, nó vẫn gây ảnh hưởng xấu đến kết quả cuối cùng của chúng ta. Thiếu niềm tin vào chính mình sẽ làm chúng ta mất niềm tin vào người khác. Hồng Y de Retz nói rằng: "Ai không tin vào bản thân sẽ không bao giờ thực sự tin vào người khác". Điều đáng mừng rút ra từ những điều trên là bất cứ khi nào chúng ta đặt ra cam kết với bản thân hay mục tiêu hành động và thực hiện được những điều đó, chúng ta sẽ trở nên đáng tin cậy hơn. Càng thực hiện điều này thường xuyên, chúng ta càng thêm tự tin rằng chúng ta có khả năng thực hiện mọi cam kết, từ đó chúng ta càng tin vào bản thân hơn. Tin vào chính mình là bí quyết đầu tiên của sự thành công... là phẩm chất cốt lõi của bậc anh hùng. - RALPH WALDO EMERSON Trở lại vấn đề làm thế nào để được người khác tin cậy, tôi muốn chia sẻ với các bạn một kinh nghiệm của cha tôi vài năm trước tại một cửa hàng quần áo nam ở Canada. Lần ấy, ông được người quản lý cửa hàng và một nhân viên tập sự đón tiếp. Khi ông đang cân nhắc giá cả của một chiếc áo khá đắt tiền, ông đề cập đến việc phải trả thêm thuế nhập khẩu trên giá trị chiếc áo đó khi mang nó về Mỹ. - Ông không phải bận tâm về thuế nhập khẩu. - Người quản lý cửa hàng cười nói. - Ông cứ mặc vào người. - Ông nói sao? - Cha tôi kêu lên. - Ông cứ mặc áo vào! - Người quản lý nhắc lại. - Thế là ông khỏi phải kê khai đóng thuế. - Nhưng tôi phải ký vào tờ khai hải quan, tôi phải kê khai những thứ đã mua và mang về nước. - Ông đừng kê khai nó, ông cứ mặc vào người, - người quản lý nhắc lại, - và đừng bận tâm về thuế nữa. Cha tôi im lặng một lúc rồi bảo: - Nói thật với anh, tôi không lo lắm về việc phải đóng thuế bằng lo cho nhân viên bán hàng mới đang được anh huấn luyện ở đây. Cậu ấy đang quan sát anh, đang học hỏi ở anh, và cậu ấy sẽ nghĩ gì khi anh giao nhiệm vụ cho cậu ấy? Cậu ấy có thật sự tin tưởng anh sẽ quản lý và đánh giá cậu ấy một cách trung thực không? Bạn có hiểu vì sao các nhân viên không tin vào người quản lý của họ không? Phần lớn việc đánh mất niềm tin trong tổ chức không phải do các vụ bê bối lớn dễ thấy như vụ Enron và WorldCom, mà chính những việc nhỏ nhặt xảy ra vào một ngày nào đó, hay một hành động kém cỏi hoặc thiếu trung thực sẽ làm xói mòn dần niềm tin của họ. Không nên xem thường những việc nhỏ. Chẳng hạn, khi có ai đó gọi điện xin gặp giám đốc mà người trợ lý lại trả lời rằng ông ấy đang bận họp, trong khi sự thật không phải như vậy. Đó chỉ là điều nhỏ nhặt nhưng vấn đề là các nhân viên của bạn đều nhận thấy. - FRANK VANDERSLOOT, CHỦ TỊCH KIÊM CEO, MELALEUCA Những hành vi làm suy giảm niềm tin như vậy tác động như thế nào đến tính hiệu quả của một tổ chức, đến sự thỏa mãn trong công việc và sự gắn bó của nhân viên đối với tổ chức? Tổ chức sẽ phải chịu tổn phí gì do hậu quả của những hành vi này và tốc độ thực hiện công việc sẽ bị ảnh hưởng ra sao? Ngược lại, kết quả sẽ tốt đẹp thế nào nếu bạn bổ nhiệm những người đáng tin cậy vào các vị trí mà mọi người có thể tín nhiệm? Một công trình nghiên cứu của một công ty tư vấn hàng đầu cho thấy khả năng xây dựng uy tín cá nhân là tiêu chuẩn quan trọng thứ hai của người lãnh đạo. Đáng chú ý là, Trường Kinh doanh của Đại học Harvard yêu cầu những người viết thư tiến cử các sinh viên tiềm năng vào trường phải nêu rõ ba tiêu chuẩn quan trọng. Một trong ba tiêu chuẩn đó là: Trường Kinh doanh Harvard cam kết đào tạo những nhà lãnh đạo xuất sắc có khả năng truyền cảm hứng niềm tin và sự tin tưởng cho người khác. Xin quý vị vui lòng cho nhận xét về tư cách của ứng viên trong tổ chức của bạn cũng như trong cộng đồng (ví dụ, sự tôn trọng người khác, lòng trung thực, tính chính trực, sự đáng tin cậy đối với hành vi của bản thân) - và nhấn mạnh những điểm cần lưu ý khác. Cách duy nhất để xây dựng niềm tin trong công việc hay trong các mối quan hệ cá nhân là hãy trở thành con người đáng tin cậy. - GERARD ARPEY, CEO, AMERICAN AIRLINES Nên nhớ rằng chúng ta có nhiều cách để trở nên đáng tin cậy. Chúng ta có thể chọn cách tăng cường sự tín nhiệm từ trong ra ngoài vốn tác động đến mọi khía cạnh cuộc sống của chúng ta - cũng như cuộc sống của người khác. Bạn đáng tin cậy đến mức nào? Trong các chương trình phục vụ khách hàng tại chỗ, chúng tôi thường cho các học viên làm một bài tập riêng cho từng người và có chuẩn bị trước. Chúng tôi đưa cho họ những tấm thẻ có dán hình những người làm việc với họ và yêu cầu họ phân loại nhanh thành hai nhóm: "Tôi có thể tin người này" hay "Tôi không thể tin người này". Đối với các nhân viên mới, chúng tôi cho họ thêm khả năng thứ ba: "Tôi không biết nhiều về người này để có thể quyết định có tin họ được hay không". Điều rất thú vị là những học viên đưa ra quyết định về vấn đề này rất nhanh. Khi nhìn vào ảnh, hầu hết mọi người đều có cảm nhận được ngay họ tin hay không tin người trong ảnh. Điều thú vị khác là trong hầu hết các trường hợp, cùng một người sẽ được tất cả mọi người cho là đáng tin cậy hay không đáng tin cậy. Bạn hãy thử nghĩ về những người bạn quen biết, lần lượt từng người một. Bạn sẽ đưa ảnh của họ vào nhóm nào? Vì sao? Bây giờ đến câu hỏi khó hơn: nếu ảnh của bạn nằm trong tập ảnh được chuyển đến tay những người quen biết bạn, họ sẽ phân loại ảnh của bạn vào nhóm nào? Và vì sao? Như tôi đã nói trong phần đầu của chương này, có bốn yếu tố tạo nên sự tín nhiệm. Trước khi chúng ta bàn sâu hơn, bạn có thể muốn thử trả lời bảng câu hỏi tự đánh giá bản thân sau đây để giúp bạn xác định mình đang ở đâu trong từng lĩnh vực chúng ta đang xem xét. Tôi muốn nói trước với bạn rằng những câu hỏi này rất thách đố, đòi hỏi sự tự vấn lương tâm chân thành và sự tự đánh giá sâu sắc. Nó sẽ giúp bạn hiểu rõ những yếu tố cơ bản của uy tín cá nhân, đánh giá bạn còn thiếu sót ở mặt nào, và nên tập trung nỗ lực vào đâu để có được những kết quả lớn nhất. Chính việc trả lời trung thực những câu hỏi này sẽ giúp bạn càng tín nhiệm mình hơn. Khi bạn đọc từng phần của bảng khảo sát, hãy khoanh tròn vào con số mô tả đúng nhất theo đánh giá của bạn: điểm 1 có nghĩa là bạn giống hệt với những gì được mô tả ở cột bên trái; điểm 5 nếu bạn cho rằng nội dung ở cột bên phải mô tả đúng nhất theo đánh giá của bạn, các điểm còn lại 2, 3, 4 là các mức độ trung gian giữa hai nội dung của hai cột trên(3). PHẦN MỘT Đôi khi tôi biện minh cho việc "nói dối vô hại", nói sai lệch về đối trung thực trong mọi con người hay hoàn cảnh, hoặc nói sai sự thật để đạt được kết quả mong muốn. 1 2 3 4 5 Ở mọi mức độ, tôi luôn tuyệt quan hệ tương tác với người khác. Đôi khi điều tôi nói khác với điều tôi nghĩ, hoặc hành động không phù hợp với giá trị đạo đức của tôi. 1 2 3 4 5 Tôi luôn nói và làm đúng với suy nghĩ và cảm nhận của mình; và đã nói là làm. Tôi không hiểu rõ các giá trị của tôi. Tôi khó có thể bảo vệ điều gì khi người khác không đồng ý. 1 2 3 4 5 Tôi có các giá trị của riêng tôi và sẵn sàng bảo vệ lập trường của mình. Điều khó khăn đối với tôi là phải thừa nhận người khác đúng, hay có một căn cứ thuyết phục khiến tôi phải thay đổi ý kiến. 1 2 3 4 5 Tôi chân thành cởi mở tiếp thu những tư tưởng mới và suy xét lại mọi vấn đề hay thậm chí xác định lại các giá trị đạo đức của mình. Tôi luôn thấy khó khăn trong việc lập và thực hiện các mục tiêu hay các cam kết cá 1 2 3 Tôi luôn có thể đưa ra và thực hiện các cam kết đối với bản nhân. 4 5 thân cũng như với người khác. Tổng số điểm của Phần Một----------------(tối đa 25) PHẦN HAI Tôi thật sự không quan tâm nhiều đến người khác, trừ những người thân thiết nhất của tôi. Tôi khó lòng quan tâm đến những gì không liên quan đến những thách thức trong cuộc sống của tôi. 1 2 3 4 5 Tôi thực lòng quan tâm đến người khác và đặc biệt quan tâm đến sự an vui của họ. Tôi không suy nghĩ nhiều về lý do hành động của mình. Tôi rất ít khi (hoặc không bao giờ) cố gắng đi sâu vào nội tâm để hoàn thiện các động cơ trong cuộc sống của mình. 1 2 3 4 5 Tôi nhận thức rõ và luôn hoàn thiện các động cơ của mình để tin chắc rằng tôi luôn làm điều đúng với những lý do chính đáng. Trong quan hệ với người khác tôi luôn chú trọng việc đạt được điều mình muốn. 1 2 3 4 5 Tôi chủ động tìm kiếm giải pháp để mọi người tham gia có cơ hội cùng thắng. Căn cứ vào lối cư xử của tôi, mọi người không nghĩ rằng tôi thực sự quan tâm đến họ. 1 2 3 4 5 Qua những việc tôi làm, người khác có thể thấy rõ tôi thực sự quan tâm đến họ. Tận đáy lòng, tôi luôn tin rằng nếu người khác đạt được điều gì (sự giàu có, cơ hội, sự tín nhiệm) thì đồng nghĩa với việc tôi đã mất điều đó. 1 2 3 4 5 Tôi thực lòng tin rằng trên đời có đủ mọi thứ cho tất cả mọi người. Tổng số điểm Phần Hai ----------------(tối đa 25) PHẦN BA Tôi cảm thấy mình không thực sự sử dụng hết tài năng vào công việc hiện tại. 1 2 3 4 5 Trong công việc tôi đang làm có sự phù hợp cao giữa tài năng của tôi và các cơ hội. 1 Tôi không có đủ kiến thức và kỹ năng 2 Tôi đã trang bị kiến thức và nắm vững cần thiết để làm việc hiệu quả. 3 4 5 kỹ năng cần thiết cho công việc của tôi. Tôi ít khi dành thời gian để nâng cao kiến thức và kỹ năng tại nơi làm việc hay trong các lĩnh vực khác của cuộc sống. 1 2 3 4 5 Tôi không ngừng nâng cao và trau dồi kiến thức, kỹ năng của mình trong tất cả các lĩnh vực quan trọng trong cuộc sống. Tôi không biết chắc mình có ưu điểm gì; Tôi chỉ tập trung vào việc khắc phục điểm yếu của mình. 1 2 3 4 5 Tôi xác định được những ưu thế của mình, và tôi chủ trương phát huy chúng một cách hiệu quả. Đến giờ tôi vẫn không biết làm cách nào để xây dựng niềm tin. 1 2 3 4 5 Tôi biết cách nào xây dựng, tăng cường, mở rộng và khôi phục niềm tin và tôi luôn chủ động thực hiện điều đó. Tổng số điểm Phần Ba ----------------( tối đa 25) PHẦN BỐN Tôi không có thành tích nào đáng kể. Bản lý lịch làm việc của tôi chắc chắn không gây được ấn tượng với ai. 1 2 3 4 5 Thành tích của tôi khiến người khác tin rằng tôi sẽ đạt được kết quả như mong muốn. Tôi tập trung nỗ lực thực hiện những việc được phân công. 1 2 3 4 5 Tôi tập trung nỗ lực để đạt kết quả chứ không phải tạo ra việc khác. Khi phải nói về thành tích của mình, hoặc là tôi không nói gì (tôi không muốn mình trở nên khoác lác) hoặc tôi sẽ nói quá nhiều khiến người nghe phải chán ngán. 1 2 3 4 5 Tôi nói về thành tích của mình một cách đúng mực để tạo được niềm tin cho người nghe. Tôi hay bỏ dở công việc giữa chừng. 1 2 3 4 5 Trừ rất ít ngoại lệ, khi làm việc gì tôi sẽ làm đến cùng. 1 Tôi không quan tâm nhiều đến việc làm cách nào 2Tôi luôn tìm cách đạt kết để đạt kết quả tốt nhất - chỉ cần có kết quả là được. 3 4 5 quả theo hướng tạo được niềm tin cao nhất cho người khác. Tổng số điểm Phần Bốn ------------- (tối đa 25) Tổng số điểm toàn bộ -------------(tối đa 100) Bây giờ hãy thử nhìn vào tổng số điểm của bạn. Nếu tổng số điểm bạn ghi được từ 90 đến 100, bạn là người rất đáng tin cậy. Bạn chứng tỏ được cả về tính cách và năng lực. Bạn biết điều gì là quan trọng đối với mình và sẽ biến nó thành hành động trong cuộc sống hàng ngày. Bạn quan tâm đến mọi người. Bạn biết rõ năng lực của mình, biết phát huy và sử dụng nó một cách hiệu quả để tạo ra những kết quả tích cực. Do đó bạn cảm thấy tự tin và người khác cũng tin vào bạn. Nếu số điểm của bạn từ 70 đến 90, thì sự đáng tin cậy của bạn còn một khoảng trống nhỏ, được thể hiện ở mức độ tự tin thấp hơn và trong một số trường hợp sẽ không gây được niềm tin ở người khác. Nếu số điểm của bạn từ 70 trở xuống, nhiều khả năng bạn đang có vấn đề nghiêm trọng về sự tín nhiệm. Bạn cần phân tích kỹ những lĩnh vực cụ thể mà bạn tự đánh giá mình còn yếu kém. Khi đọc hết chương này, bạn sẽ có thể chú tâm vào những phương pháp cụ thể để cải thiện những lĩnh vực yếu kém đó. Bốn yếu tố cốt lõi Mỗi phần của bảng khảo sát tương ứng với một trong "4 yếu tố cơ bản của sự tín nhiệm". Đây là những yếu tố cơ bản khiến bạn trở nên đáng tin cậy đối với bản thân và với người khác. Bạn sẽ nhận ra đó cũng là những yếu tố dùng để chứng minh hay hủy hoại sự đáng tin cậy của bạn trên cương vị nhà chuyên môn làm nhân chứng tại một phiên tòa. Hai yếu tố đầu tiên nói về tính cách, hai yếu tố còn lại nói về năng lực. Tất cả bốn yếu tố cốt lõi này đều cần thiết cho niềm tin vào chính mình. Yếu tố cốt lõi thứ nhất: Sự chính trực Chính trực (integrity) là đức tính mà hầu hết mọi người đều nghĩ tới khi nói về niềm tin. Như nhiều người vẫn cho rằng "chính trực" về cơ bản có nghĩa là "trung thực", thật ra tính chính trực bao hàm cả nghĩa trung thực. Đó là sự bao quát nhiều giá trị đạo đức khác. Đó là sự nhất quán giữa ý thức bên trong và hành động bên ngoài. Đó là lòng dũng cảm hành động theo các giá trị đạo đức và niềm tin của bạn. Thật lý thú là hầu hết những vụ xâm hại nghiêm trọng đến niềm tin cũng xâm hại đến sự chính trực. Yếu tố cốt lõi thứ hai: Ý định Yếu tố cốt lõi thứ hai là Ý định (intent). Yếu tố này liên quan đến động cơ và những hành vi bắt nguồn từ đó. Niềm tin sẽ lớn mạnh khi các động cơ của chúng ta ngay thẳng và đặt trên cơ sở lợi ích chung - có nghĩa là chúng ta không chỉ quan tâm đến bản thân mình, mà còn quan tâm đến những người mà chúng ta đang có mối quan hệ tương tác, dẫn dắt hay phục vụ họ. Khi chúng ta nghi ngờ người khác có ý đồ xấu hay khi chúng ta không tin họ hành động có lợi cho chúng ta, chúng ta sẽ nghi ngờ tất cả lời nói và việc làm của họ. Trong kinh doanh - hay cuộc sống, không có con đường tắt dành cho đạo đức. Về cơ bản chỉ có ba loại người: những người không thành công, những người thành công tạm thời, những người đã và sẽ tiếp tục thành công. Sự khác biệt là ở tính cách. - JON HUNTSMAN, CHỦ TỊCH, HUNTSMAN CHEMICAL Yếu tố cốt lõi thứ ba: Năng lực Yếu tố cốt lõi thứ ba là Năng lực (capabilities). Đây là khả năng tạo niềm tin nơi người khác, cũng là tài năng, quan điểm, kỹ năng, kiến thức và phong cách. Đây là những phương tiện giúp chúng ta đạt được kết quả. Một bác sĩ gia đình có thể là người chính trực và có động cơ tốt, nhưng nếu không được đào tạo và rèn luyện kỹ năng để thực hiện công việc chuyên môn thì anh ta sẽ mất đi sự tín nhiệm trong lĩnh vực đó. Yếu tố cốt lõi thứ tư: Kết quả Kết quả (results) là các thành tích, hiệu quả công việc, hoàn thành đúng công việc được giao. Nếu chúng ta không hoàn thành công việc theo kỳ vọng, chúng ta sẽ bị mất tín nhiệm. Ngược lại, khi đạt được những kết quả chúng ta đã hứa hẹn, chúng ta sẽ xây dựng được uy tín tốt trong công việc, trong nghề nghiệp... Như vừa được trình bày, mỗi yếu tố cốt lõi này đều rất thiết yếu trong mọi hoàn cảnh. Chẳng hạn, bạn có một người chính trực, có thiện ý, có thành tích tuyệt vời, nhưng nếu người đó không có năng lực chuyên môn cần thiết cho một công việc nào đó, bạn cũng sẽ không tin tưởng giao việc cho họ. Hoặc giả bạn có một người rất chính trực, khả năng chuyên môn rất tốt, có nhiều thành tích xuất sắc, nhưng nếu bạn cảm thấy người đó không thực sự quan tâm đến bạn hay quan tâm đến mục tiêu thắng lợi trong một cuộc đàm phán nào đó của bạn, bạn cũng sẽ không tin cậy đặt người đó vào tình huống như vậy. Trong các chương tiếp theo, chúng ta sẽ đi sâu vào từng yếu tố cốt lõi cụ thể. Hãy tự hỏi... một cách thẳng thắn rằng liệu bạn có làm mất dần niềm tin hay không? Bạn có phá vỡ "niềm tin" hay không? Hãy suy nghĩ thật kỹ về điều này. - TOM PETERS Có một cách để hình dung tầm quan trọng của 4 Yếu tố cốt lõi của sự tín nhiệm là thông qua ẩn dụ về một cây xanh. Sự chính trực là điều về cơ bản nằm sâu dưới bề mặt, giống như bộ rễ của cây từ đó mọc ra những thành phần khác. Ý định là điều dễ nhìn thấy hơn, tựa như thân cây từ dưới mặt đất vươn lên cao. Năng lực giống như những cành cây, nó giúp chúng ta tạo ra kết quả. Kết quả giống như quả của cây, có hình dạng cụ thể, trông thấy được, đo lường được và người khác cũng dễ trông thấy và đánh giá được. Nhìn nhận 4 Yếu tố cốt lõi của niềm tin theo cách này sẽ giúp bạn nhận rõ mối tương quan giữa chúng và tầm quan trọng của từng yếu tố. Nó cũng giúp bạn nhìn nhận sự tín nhiệm như một cơ thể sống, phát triển và có thể nuôi dưỡng. Khi chúng ta đi sâu vào từng yếu tố cốt lõi, chúng ta sẽ quay trở lại ẩn dụ này để hiểu rõ vì sao từng yếu tố đều quan trọng và nó có liên quan đến ba yếu tố còn lại như thế nào. Lập kế hoạch hành động của bạn Sau khi đã hiểu rõ bốn yếu tố cốt lõi của sự tín nhiệm, bây giờ chúng ta quay trở lại kết quả trả lời của bảng khảo sát ở phần trên và xem lại số điểm của bạn. Bạn có những điểm mạnh nào? Những lĩnh vực nào bạn cần bổ khuyết nhiều nhất? Dù bạn là người đáng tin cậy như thế nào, tôi vẫn tin rằng cuốn sách này sẽ giúp ích cho bạn rất nhiều. Chí ít nó cũng giúp bạn hiểu rõ và có thể bàn luận các vấn đề về niềm tin và sự tín nhiệm cũng như vận dụng sự hiểu biết đó vào thực tế cuộc sống. Gần đây, một đồng nghiệp của tôi, người cũng giảng dạy về Tốc độ của Niềm tin trong nhiều năm, nói rằng: "Vấn đề không phải tôi không được mọi người tin cậy. Mà đơn giản vì một khi tôi hiểu được và có thể bàn luận những vấn đề về niềm tin và có lối hành xử gây được niềm tin nơi người khác thì uy tín và khả năng gây ảnh hưởng đến người khác của tôi cũng tăng lên đáng kể". Khi bạn đọc các chương sau, hãy lưu ý rằng bốn yếu tố cơ bản của sự tín nhiệm không chỉ áp dụng cho cá nhân mà còn có thể áp dụng cho các tổ chức. Một phó chủ tịch phụ trách tiếp thị của một công ty lớn gần đây nói với tôi rằng bốn yếu tố cơ bản này đã trở thành phương châm tiếp thị của họ. Ông nói: "Chúng tôi cần tạo dựng niềm tin nơi khách hàng và bảo đảm rằng họ hiểu rõ uy tín của chúng tôi dựa trên sự chính trực. Chúng tôi cần họ biết chúng tôi chủ trương giúp họ thành công và có đủ khả năng làm gia tăng giá trị cho tổ chức của họ. Chúng tôi cũng cần thể hiện những thành quả chúng tôi đã đạt được để giữ khách hàng ở lại với mình. Kết quả cuối cùng của những việc làm này sẽ là sự tín nhiệm và nhờ đó chúng tôi sẽ có khả năng xây dựng và duy trì các mối quan hệ dựa vào niềm tin lâu dài. Công việc kinh doanh của chúng tôi đã chứng minh rằng các mối quan hệ dựa trên niềm tin lâu dài là chìa khóa dẫn đến sự tăng trưởng lợi nhuận bền vững". Mục đích của bốn chương tiếp theo là khảo sát sâu hơn từng yếu tố cốt lõi này - để hiểu rõ hơn chúng là gì, vì sao chúng cần thiết đối với sự tín nhiệm và niềm tin, và làm thế nào để cải thiện chúng nhằm gia tăng niềm tin ở mọi cấp độ bắt đầu từ trong ra ngoài. Ở phần cuối của mỗi chương, tôi sẽ tổng kết vấn đề lại thành ba "bộ tăng tốc" hay những điều cần chú ý mà bạn có thể làm để tạo ra sự khác biệt lớn nhất. Bạn nên đọc từng chương để hiểu rõ nội dung và bối cảnh, sau đó quay trở lại và bắt đầu với một hoặc hai hành động mà bạn cảm thấy sẽ tạo ra sự khác biệt lớn nhất cho bạn. Chương 4. YẾU TỐ CỐT LÕI THỨ NHẤT - SỰ CHÍNH TRỰC Bạn có phải là người chính trực? Có ba điều tôi cần xem xét khi tuyển dụng nhân viên. Thứ nhất là tính chính trực, thứ hai là sự thông minh, và thứ ba là tính năng động cao. Nếu bạn không có điều thứ nhất thì hai điều kia sẽ giết chết bạn. - Warren Buffett, CEO, Berkshire Hathaway Tại vòng ba giải quần vợt Italia Masters năm 2005 ở Rome, nhà vô địch quần vợt Andy Roddick gặp tay vợt Tây Ban Nha Fernando Verdasco. Bước vào lượt giao bóng kết thúc trận đấu với lợi thế đang nghiêng về tay vợt Roddick, khi Verdasco phát quả giao bóng lần hai, trọng tài biên hô "out"(4)và khán giả bắt đầu reo hò chúc mừng Roddick. Verdasco cũng bước đến sát lưới để bắt tay đối thủ, xem như trận đấu đã kết thúc. Nhưng Andy Roddick không nhận điểm thắng này mà quả quyết rằng quả bóng đó "in"(5)và đề nghị trọng tài lưu ý đến vết mà quả bóng để lại trên sân đất nện cho thấy quả bóng nằm trên vạch chứ không ra ngoài vạch. Rất ngạc nhiên trước thái độ của Roddick, song trọng tài đã đồng ý với ý kiến của anh và ghi điểm cho Verdasco. Mọi người hết sức kinh ngạc. Trong một trận đấu mà kết quả không dựa vào danh dự của người chơi mà dựa vào quyết định của trọng tài - Roddick đã đưa ra một quyết định bất lợi cho mình và đã thua trong trận đấu này. Dù Andy Roddick đã thua trận đấu ngày hôm đó, nhưng phần thưởng anh nhận được còn quý giá hơn rất nhiều, đó là sự tín nhiệm, sự tin cậy của mọi người đối với anh. Làm sao thái độ biểu hiện lòng chính trực đó lại mang đến cho anh sự tín nhiệm? Bạn hãy suy nghiệm theo hướng này: sau này các trọng tài sẽ có thái độ ra sao trước các phản ứng tương tự của Andy Roddick đối với các quyết