🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Titan - Gia tộc Rockefeller - Ron Chernow
Ebooks
Nhóm Zalo
Những lời khen ngợi
dành cho cuốn sách này
“Tuyệt vời… một cuốn tiểu sử đáng tin cậy.”
- Newsweek
“Ron Chernow đã phác họa bức chân dung đầy thuyết phục về Rockefeller, kẻ lập dị mang dáng dấp của một đấng anh hùng cũng như một bậc thiên tài… Tính đến thời điểm hiện tại, đây là cuốn tiểu sử hay nhất về ông ấy.”
- The Washington Post Book World
“Một câu chuyện tuyệt vời! Một cuốn tiểu sử kinh doanh vượt trội.”
- The New York Observer
“Một thành tựu nghiên cứu vĩ đại với vốn hiểu biết tuyệt vời cùng lối viết thanh lịch.”
- Houston Chronicle
“Ron Chernow đã viết nên cuốn tiểu sử hấp dẫn về một trong những nhân vật nổi tiếng nhất lịch sử thương trường Mỹ trong khoảng thời gian không tưởng… Giới kinh doanh cần thêm nhiều cuốn sách như Gia tộc Rockefeller.”
- News day
“Tìm được cuốn tiểu sử hay đã khó, có trong tay cuốn tiểu sử tuyệt vời còn khó hơn… Tác giả đã tiếp cận một trong những cuộc đời đầy ý nghĩa nhưng cũng gây nhiều tranh cãi nhất của thế kỷ XX thông qua lối hành văn đầy sâu sắc nhưng cũng không kém phần dung dị… Quả là một cuốn tiểu sử không thể không đọc.”
- The Seattle Times
“Sự kết hợp bậc thầy giữa nghiên cứu và văn chương… một thành tựu phi thường của dòng sách tiểu sử.”
- The New Republic
“Thật hồi hộp khi đọc cuốn tiểu sử tuyệt vời như thế này! Gia tộc Rockefeller của Ron Chernow là một kiệt tác, một bức chân dung rực rỡ, mê hoặc và bất hủ về một nhân vật thú vị cũng như thời đại của ông. ”
- Robert A. Caro
“Chernow từng viết những trang tiểu sử mang tính quyết định về hai đế chế tài chính huyền thoại… Giờ đây, với cuốn tiểu sử về Rockefeller, ông đã hoàn thành bộ ba tác phẩm đầy phi thường về những nhân vật xuất chúng của nền thương mại thế kỷ XX.”
- Vanity Fair
“Bạn có thể đọc cuốn sách này như ngắm một bức chân dung đầy cảm thông về một con người phức tạp, kỳ bí, về một chặng đường lịch sử của kinh doanh, một trận chiến pháp lý, hay chỉ đơn giản là một câu chuyện hư cấu tuyệt vời.”
- Business Week
“Thật khó tưởng tượng ra một cuốn tiểu sử nào hay hơn về Rockefeller sẽ dược chấp bút… Đây là cuốn tiểu sử đầy hấp dẫn về một nhân vật dễ khiến người ta mê đắm.”
- Chicago Tribune
“Một tác phẩm đồ sộ và đầy mê hoặc… một câu chuyện khó tin đến thú vị, phác họa bức chân dung một người đàn ông - người từng một mực khẳng định rằng ông ta có thể phục vụ cả Chúa trời và Tiền bạc.”
- The San Diego Union-Tribune
“Một bức chân dung sinh động và hấp dẫn với bố cục đa dạng… Một câu chuyện xuất sắc được Chernow tường thuật một cách đầy tự tin và rành mạch… Hình mẫu lý tưởng nhất về một gã khổng lồ thực thụ.”
- Daily News
“Rockefeller đã sống một cuộc đời Mỹ vĩ đại bậc nhất, còn Chernow đã chấp bút một cuốn tiểu sử tuyệt vời bậc nhất xứ cờ hoa.”
- The Sunday Times (London)
“Bức tranh chi tiết của Chernow xoay quanh ‘sự kết hợp đến khó tin giữa tội lỗi và thánh thiện’ là một bức chân dung nhân đạo, hấp dẫn và công bằng tuyệt đối về một nhân vật có năng lượng cũng như hoài bão siêu nhiên.”
- People
“Cực kỳ lôi cuốn… Chernow đã giải đáp được câu đố hóc búa [về Rockefeller], lột tả những nguồn sức mạnh làm nên người đàn ông vĩ đại này và cách ông lý giải chúng.”
- USA Today
“Cuốn tiểu sử tráng lệ về John D. Rockefeller, Sr của Ron Chernow sẽ nổi lên như một trong những cuốn sách hay nhất của
năm. Một lần nữa, ông đã thể hiện được lượng kiến thức khổng lồ của mình… Tôi không thể tìm thấy một trang viết nào nhàm chán ở đây… Chernow đã thành công tuyệt đối.”
- Detroit Free Press
“Một nghiên cứu sâu rộng và tỉ mỉ… Chernow xuất sắc hơn bất cứ tác giả nào trước đó khi lột tả những mâu thuẫn gay gắt trong tính cách của Rockefeller. Gia tộc Rockefeller là một trong những cuốn tiếu sử toàn diện và đáng giá nhất về một ông trùm của nước Mỹ.”
- St. Petersburg Times
Những lời khen ngợi
dành cho John D. Rockefeller
Hai người quan trọng nhất đóng góp cho việc kiến thiết thế giới hiện đại: Rockefeller và Bismarck. Một người hoạt động trong lĩnh vực kinh tế, người còn lại chinh chiến trên chính trường đã bỏ giấc mơ tự do về một niềm hạnh phúc phổ quát thông qua cạnh tranh cá nhân, mà hướng đến chủ nghĩa độc quyền và nhà nước tập đoàn, hoặc ít nhất là các phong trào hướng đến hai điều này.
- Bertrand Russell
Freedom Versus Oganization, 1814 to 1914
(tạm dịch: Tự do và tổ chức, từ 1814 đến 1914)
Phần nào đó trong bản chất của J. D. Rockefeller phải diễn ra ở nước Mỹ, và vì sự tốt đẹp của thế giới mà ông trở nên kín tiếng, kiên định, miễn nhiễm một cách đầy kinh ngạc trước thói kiêu căng, ham
mê nhục dục hay dễ nổi cáu. Sự kiên trì đầy lãnh đạm và sự nhẫn tâm của ông có thể gợi nên nỗi kinh hãi, nhưng với tất cả mọi người, ông là nguồn động lực luôn tiến về phía trước, một nguồn sức mạnh mang tính xây dựng.
- H.G. Wells
The Work, Wealth and Happiness of Mankind
(tạm dịch: Công việc, Sự giàu sang và Niềm hạnh phúc của nhân loại)
Khi lịch sử đưa ra những phán quyết cuối cùng về John D. Rockefeller, đương nhiên hoạt động tài trợ nghiên cứu của ông sẽ được ghi nhận như một cột mốc quan trọng trong sự tiến bộ của chủng tộc. Lần đầu tiên, khoa học đã được tự do hành động; những thí nghiệm dài hạn trên quy mô lớn đã trở thành hiện thực, và những người thực hiện nó đã được giải thoát khỏi ám ảnh của thảm họa tài chính. Khoa học ngày nay mắc nợ rất nhiều sự rộng lượng và sâu sắc của những người đàn ông giàu có, hệt như nghệ thuật thời Phục hưng dựa vào sự bảo trợ của các Đức Giáo hoàng và Quân vương. Trong số những người đàn ông giàu có này, John D. Rockefeller là hình mẫu tối thượng.
-Winston Churchill
St. Louis Post-Dispatch (tạm dịch: Thông điệp St. Louis Post), ngày 8 tháng 7 năm 1936
Rockefeller nổi tiếng là người giàu nhất thế giới, và chắc chắn ông cũng là người có cá tính mạnh mẽ nhất tôi từng gặp. Với tôi, ông là người khó hiểu và khó đoán. Nhưng ở ông toát lên sự nhạy bén, linh hoạt, hệt như tín đồ của Giáo phái Quaker, đầy tinh nghịch nhưng vẫn tốt bụng và tận tâm. Tuy nhiên, ông lại bị quy kết là kẻ phản diện vĩ đại nhất trong giới kinh doanh mà nước Mỹ đã tạo ra.
- William James
trong một bức thư gửi tới Henry James vào ngày 29 tháng 1 năm 1904
John D. Rockefeller
Một nhà kiến tạo quốc gia của nước Mỹ!
NGUYỄN CẢNH BÌNH
Chủ tịch HĐQT Alpha Books
Vài năm trước, kênh History Channel thực hiện một bộ phim đồ sộ và đầy cảm hứng về những người có công lớn nhất trong việc kiến tạo nên nước Mỹ hiện đại và hùng mạnh cuối thế kỷ XIX. Bộ phim mang tên The Men Who Built America xoay quanh câu chuyện về 4 nhà đại tư bản nổi tiếng nhất thế giới, 4 “ông trùm” của thế kỷ XIX. Đó là John D. Rockefeller - “Vua dầu lửa”; Andrew Carnegie - “Vua sắt thép”; Cornelius Vanderbilt - “Vua đường sắt”; J.P. Morgan - “Vua ngân hàng” và cuối cùng, một doanh nhân của thế hệ tiếp theo là Henry Ford (Cha đẻ dây chuyền lắp ráp xe ô tô).
Một nước Mỹ đổ vỡ và khủng hoảng vì Nội chiến (1860s), nhưng cuộc khủng hoảng đó cũng mở ra những cơ hội lớn lao, có lẽ là lớn lao và vĩ đại nhất của lịch sử kinh doanh Mỹ và thế giới cho đến nay. Đó là cơ hội để tham gia vào công cuộc tái thiết và kiến thiết nước Mỹ, như một nhà nước tư bản rộng lớn nhất, hùng mạnh nhất mà rồi sau này trở thành siêu cường, tất yếu sẽ trả thưởng cho những nhân vật chính trong cuộc chơi này.
Giữa thế kỷ XIX, một nước Mỹ sau Nội chiến, một nước Mỹ mênh mông, đầy trẻ trung, hăng say, sôi động, cần giao thông, cần đường sắt để kết nối những vùng đất xa xôi, để vận chuyển người và hàng hóa, để đưa những nguồn lực khai phá những mảnh đất hoang vu, và đó là cơ hội để Cornelius Vanderbilt nắm lấy để xây
nên đế chế đường sắt độc quyền lớn nhất nước Mỹ. Nước Mỹ cần năng lượng để thắp sáng những ngọn đèn, để chạy những đầu máy, để vận hành máy móc, và đó là cơ hội cho John D. Rockefeller thành lập Standard Oil và kiểm soát gần như toàn bộ nguồn năng lượng dầu mỏ. Nước Mỹ cần xây dựng những tòa nhà chọc trời, cần xây dựng các tuyến đường sắt cùng rất nhiều công trình khác, và đó là cơ hội để Andrew Carnegie thành lập đế chế thép. Nước Mỹ cần những dòng tiền khổng lồ, cần những cuộc mua bán và thu xếp tài chính hậu thuẫn cho những công trình vĩ đại, cho những doanh nghiệp vĩ đại, và J.P Morgan chộp lấy cơ hội đó để trở thành Vua ngân hàng. Rồi từng người dân Mỹ cần một phương tiện cho mình và gia đình di chuyển đến những thành phố và vùng đất xa xôi mà không phải chờ đợi xe lửa, thì đến lượt Henry Ford nắm lấy cơ hội đó, làm ra chiếc xe Motel T, chiếc xe của mọi gia đình, để trở thành Vua ô tô.
Chính những người này đã tạo ra giấc mơ Mỹ và là công cụ của chủ nghĩa tư bản chuyển đổi tất cả mọi thứ họ chạm vào: dầu hỏa, đường sắt, thép, vận chuyển, ô tô và các ngành công nghiệp tài chính. Tên của họ được đặt thành tên đường, được khắc vào các tòa nhà và là một phần không thể thiếu của lịch sử nhân loại. Họ đều nhìn thấy cơ hội làm giàu, làm giàu kinh khủng, nhưng để đạt được mục tiêu đó, họ phải sở hữu ý chí sắt đá và khổng lồ, quyết tâm đánh bại mọi đối thủ, sử dụng mọi cách thức để giành quyền lực, đó là sự độc quyền trong mọi lĩnh vực mà họ tham gia. Tham vọng của họ đã vượt xa những gì người ta có thể tưởng tượng, để tồn tại và phát triển, chỉ có duy nhất một cách: tiêu diệt đối thủ cạnh tranh bằng mọi giá, không từ bất cứ thủ đoạn nào.
Trong tất cả những nhân vật đó, lịch sử nước Mỹ chứng kiến một nhà công nghiệp vừa được kính nể và khâm phục bởi tài làm giàu nhanh chóng, nhưng cũng phải khiếp sợ bởi những tham vọng khôn cùng. Đó chính là John Davidson Rockefeller, được mệnh danh là người giàu nhất trong những người giàu nhất.
Từ một người làm thuê đào khoai tây dưới ánh nắng chói chang, mỗi giờ 4 xu, về sau Rockefeller trở thành người có tài sản lên tới 1 đến 3 tỷ đô-la (thời giá khi đó, và ngày nay tương đương gần 700 tỷ đô-la).
Nhưng không chỉ nổi tiếng vì sự giàu có và vì sở hữu đế chế dầu mỏ, Rockefeller còn nổi tiếng ở việc làm từ thiện, và có lẽ đó cũng là một trong những người mở ra truyền thống từ thiện cho những mục đích xã hội của người giàu Mỹ.
Nếu như Andrew Carnegie dành rất nhiều tài sản xây dựng hàng ngàn thư viện trên khắp nước Mỹ, thì Rockefeller tập trung vào giáo dục và sức khỏe cộng đồng. Ông dành rất nhiều tài sản cho các hoạt động này, trao 80 triệu đô-la cho Đại học Chicago, biến một trường đại học nhỏ thành một tổ chức đẳng cấp thế giới vào năm 1900, rồi hỗ trợ tài chính cho các trường Yale, Harvard, Columbia, Brown, Bryn Mawr, Wellesley và Vassar và năm 1901, thành lập Viện nghiên cứu Y học Rockefeller.
Rockefeller là một đế chế, một gia tộc khởi đầu bởi John D. Rockefeller, đầy hấp dẫn và lôi cuốn, cả về tính cách, công cuộc kiếm tiền, làm giàu, đóng góp vào quá trình kiến tạo nước Mỹ mà ông là con người điển hình nhất. Đế chế và gia tộc Rockefeller giờ đây đang bước vào thế hệ thứ bảy với 170 người thừa kế, và họ vẫn duy trì sự giàu có đáng kinh ngạc với khối tài sản trị giá 11 tỷ đô-la vào năm 2016, theo Forbes.
Chúng tôi lựa chọn tác phẩm đồ sộ nhất, cuốn tiểu sử về cuộc đời ông đầy đủ nhất, nổi tiếng nhất của nhà Sử học Ron Chernow. Ron Chernow từng giành giải thưởng danh giá Pulitzer và nhiều giải thưởng khác, là tác giả của hàng loạt tiểu sử đồ sộ như Washington: A Life (2010), The House of Morgan: An American Banking Dynasty and the Rise of Modern Finance (Cuốn sách chúng tôi sẽ sớm xuất bản trong năm 2020), Tiểu sử Alexander Hamilton (2004) và The Warburgs: The Twentieth-Century Odyssey of a Remarkable Jewish Family.
Cuốn sách này là một công trình đồ sộ viết về một nhà tư bản mà có lẽ là nhà tư bản lớn nhất mọi thời đại. Trân trọng giới thiệu với độc giả, sau rất nhiều năm dịch và biên tập! Khó tránh khỏi sai sót, mong nhận được góp ý để sách ngày càng hoàn thiện hơn.
LỜI NÓI ĐẦU
C
uộc đời của John Davison Rockefeller, Sr. được ghi dấu đặc biệt bằng sự im lặng, bí ẩn và trốn tránh. Dù là chủ của một doanh nghiệp và các tổ chức từ thiện lớn nhất trong thời đại của mình, ông vẫn là một nhân vật khó hiểu. Là bậc thầy cải trang, ông đã dành cả đời để che đậy nhiều tính cách khác nhau dưới các lớp vỏ bí hiểm khó xác thực. Chính vì vậy bức chân dung về ông trong tổng hòa lịch sử nước Mỹ là một chuỗi hình ảnh rời rạc, từ nhà sáng lập tham lam của Standard Oil - đầy tài năng nhưng vô cảm, cho tới một cụ già héo hon phân phát những đồng 10 xu và những bài phát biểu thu sẵn trước máy quay phóng sự. Thật khó để lắp những mảnh ghép rời rạc về nhân vật này thành một bức tranh trọn vẹn.
Điều này không phải do thiếu cố gắng. Từ đầu thế kỷ XX, Rockefeller là công dân Mỹ được đưa vào các áng văn xuôi nhiều nhất, với tỷ lệ gần như mỗi năm lại có một cuốn sách viết về ông ra đời. Là người nổi tiếng nhất nước Mỹ thời bấy giờ, những phát ngôn và hành động của ông được ghi chép và phân tích tỉ mỉ trên các mặt báo. Tuy nhiên, ngay cả trong thời kỳ hoàng kim - là tâm điểm của công chúng, ông vẫn là một ẩn số khiến người ta phát điên, bởi ông dành phần lớn cuộc đời ở đằng sau những bức tường trong điền trang và những tấm kính mờ bao quanh văn phòng.
Có vẻ như Rockefeller thường xuyên mất tích khỏi những trang tiểu sử về chính mình, chỉ lướt qua chúng như một nhân vật kỳ bí. Đối với các nhà báo điều tra như Henry Demarest Lloyd và Ida Tarbell, ông là bức phác họa phản ánh tờ-rớt* Standard Oil, qua đó tính cách của ông chìm ngập trong những âm mưu diễn ra trong đó. Thậm chí, trong cuốn tiểu sử gồm hai tập của Allan Nevins, người
đã cố gắng minh oan cho danh tiếng của Rockefeller, Rockefeller vẫn biến mất ở những trang sách tại thời điểm giữa vòng xoáy chỉ trích và buộc tội. Sự chú ý dành cho những hành vi cướp bóc của
Standard Oil có xu hướng làm lu mờ mọi thứ khác về cuộc đời của Rockefeller. H. G. Wells* đã lên tiếng bảo vệ cách tiếp cận tiểu sử này: “Cuộc đời của Rockefeller gắn liền với lịch sử của tờ-rớt; ông
ấy đã tạo ra nó, và nó cũng làm nên con người ông ấy… vì vậy, ngoại trừ câu chuyện về nó, chúng ta gần như không cần đi sâu vào đời sống cá nhân của ông ấy theo thứ tự thời gian.”1 Vì thế, chắc chắn rằng những người viết tiểu sử đã quá bám sát quan điểm lỗi thời đó đến nỗi chúng ta vẫn thiếu những ghi chép về nhà công nghiệp hàng đầu của thế kỷ XIX này để khám phá nội tâm chất chứa cũng như hành vi thể hiện ra bên ngoài của ông và dùng chúng làm tư liệu để vẽ nên bức chân dung hoàn chỉnh.
Rất nhiều cuốn tiểu sử lấy cảm hứng từ Rockefeller bị giảm giá trị vì sự lặp lại cứng nhắc. Nhìn chung, bất luận quan điểm chính trị của chúng là gì, chúng đã tuân theo niên đại giống nhau, bao quát những tranh cãi tương đồng về các phương pháp kinh doanh của ông, làm mới lại những giai thoại cũ giống nhau. Độc giả có cảm giác như được xem một vở kịch nhiều lần, chỉ khác là ngồi ở các vị trí khác nhau trong nhà hát. Cảm giác ấy phần nào xuất phát từ quan niệm đang thay đổi về tiểu sử của chúng ta. Ngoại trừ cuốn John D., một tập sách mỏng do David Freeman Hawke công bố vào năm 1980, các cuốn tiểu sử về Rockefeller đều được xuất bản vào nửa đầu thế kỷ XX và tiết lộ sự dè dặt thời Victoria* về những vấn đề cá nhân. Bất chấp khả năng khắc họa khía cạnh kinh doanh đầy ấn tượng, những tác phẩm này vẫn để lộ chút tò mò “hậu” Freud. Ví dụ, chúng chỉ đề cập thoáng qua đến câu chuyện về cha của Rockefeller, một người đàn ông có hai vợ và bán dầu rắn, được cho là đã nhào nặn lên cuộc đời con trai mình. Ngay cả người có suy nghĩ thấu đáo như Nevins cũng ít quan tâm đến cuộc hôn nhân của Rockefeller và ba người con gái của ông. Ngày nay, những mối quan tâm tới nữ quyền đã dẫn đến sự ra đời của hai cuốn sách - Abby Aldrich Rockefeller của Bernice Kert và The Rockefeller
Women (tạm dịch: Những phụ nữ nhà Rockefeller) của Clarice Stasz - bắt đầu hé lộ nhiều chi tiết về gia đình kín đáo này. Cuộc sống xã hội của Rockefeller bên ngoài văn phòng - bạn bè, sở thích, thể thao… - đã hoàn toàn bị xem nhẹ. Những vấn đề khác cần điều tra cặn kẽ bao gồm quan điểm chính trị và học thuyết về tờ-rớt của Rockefeller, thái độ của ông đối với quan hệ công chúng, cách ông quản lý các khoản đầu tư bên ngoài Standard Oil, tiền thừa kế cho con cái và những tham vọng thống trị, niềm đam mê bền bỉ với y học cũng như những dấu ấn mà ông để lại thông qua vô số tổ chức từ thiện do chính ông tài trợ. Người ta cũng ít tò mò về quãng thời gian 40 năm nghỉ hưu của ông, và một số người viết tiểu sử cũng hoàn toàn bỏ qua bốn thập kỷ ấy. Tuy nhiên, trong gần nửa thế kỷ đó, John D. Rockefeller, Jr. đã bảo tồn và phát huy triệt để di sản của cha mình, một chủ đề trọng tâm trong tác phẩm của tôi.
Khi nhà xuất bản Random House đề nghị tôi viết cuốn tiểu sử đầy đủ đầu tiên về Rockefeller kể từ cuốn sách của Allan Nevins hồi thập niên 1950, tôi đã thực sự ngần ngại, với suy nghĩ rằng chủ đề này đã được khai thác bởi quá nhiều nhà văn háo hức lợi dụng danh tiếng của ông. Làm sao tôi có thể viết về một nhân vật luôn ẩn sau màn sương bí ẩn như thế? Theo các tài liệu hiện có, con người ông phản ánh bức chân dung đối lập, là một người máy hoàn hảo không tì vết ở thái cực này, nhưng lại là lưỡi máy chém ở thái cực kia. Tôi không thể khẳng định chắc chắn ông là một kẻ giả dối, đội tiền bạc lên đầu, hay là một người sâu sắc với tài năng xuất chúng nhưng luôn điềm tĩnh đến lạ kỳ. Nếu vế trước đúng, tôi sẽ khéo léo từ chối; nhưng trong trường hợp vế sau đúng, thì tôi sẽ thực sự bị hấp dẫn.
Để giải quyết vấn đề này, tôi đã dành một ngày ở Trung tâm Lưu trữ Rockefeller tại Sleepy Hollow (New York), nơi lưu giữ hàng triệu tài liệu về gia đình ông. Khi tôi chia sẻ với những người quản lý ở đó về các mối nghi ngại của bản thân và giải thích rằng mình không thể viết về Rockefeller nếu không nghe được tiếng lòng của ông - “vũ điệu tâm trí”, như tôi đã nói - họ đã cho tôi xem bản ghi chép cuộc phỏng vấn riêng được tiến hành với Rockefeller trong giai đoạn 1917-1920. Tác giả thực hiện là William O. Inglis, một nhà báo
đến từ New York, người đã hỏi Rockefeller trong cuốn tiểu sử được ủy quyền chưa từng được công bố. Tôi đã vô cùng kinh ngạc khi mải mê nghiên cứu nguyên bản ghi chép dài 1.700 trang này: Rockefeller, vốn được khắc họa là một người kiệm lời và tẻ nhạt, hóa ra lại có óc phân tích, tư duy mạch lạc và tính tình sôi nổi; ông thậm chí còn có phần hóm hỉnh, đặc trưng của con người vùng Trung Tây. Tôi chưa từng bắt gặp một người như vậy trong bất cứ cuốn tiểu sử nào. Khi trở về nhà, tôi nói với Ann Godoff, biên tập viên của tôi ở nhà xuất bản Random House, rằng giờ đây, tôi đang rất nóng lòng thực hiện cuốn sách.
Nghiền ngẫm những ghi chép đồ sộ về Rockefeller hệt như khai quật một lục địa đã biến mất. Tuy nhiên, dù được tiếp cận lượng tài liệu khổng lồ ấy, ngay từ khi bắt tay vào nghiên cứu, tôi đã cảm thấy có chút nản chí với ý nghĩ rằng giờ đây tôi sẽ phải đối diện với một người khó hiểu. Rockefeller đã tự rèn thói quen biểu lộ càng ít càng tốt, ngay cả trong những bức thư riêng, ông cũng viết như thể một ngày nào đó, chúng có thể bị rơi vào tay của một công tố viên. Với bản năng kín kẽ, ông rất giỏi sử dụng những uyển ngữ lạ và những cụm từ tỉnh lược. Vì lý do này, 20.000 trang thư mà Rockefeller nhận được từ các đối tác kinh doanh trực tính được coi là di sản của một giai đoạn lịch sử. Được viết vào đầu năm 1877, bảy năm sau khi Standard Oil được thành lập, chúng cung cấp bức chân dung sinh động về những giao dịch phức tạp của công ty này với các nhà sản xuất dầu, lọc dầu, vận chuyển, các nhà marketing, cũng như những người đứng đầu lĩnh vực đường sắt, giám đốc ngân hàng và các ông trùm chính trị. Bức tranh toàn cảnh về sự tham lam và thủ đoạn này chắc chắn sẽ khiến những nhà nghiên cứu thành kiến nhất của Thời Đại Vàng phải giật mình. Tôi cũng may mắn được tiếp cận nguồn tài liệu nghiên cứu hoàn chỉnh của năm người đi trước đầy xuất chúng. Tôi không ngừng tìm kiếm các bài viết của Ida Tarbell thuộc bảo tàng Drake Well ở Titusville (Pennsylvania), của Henry Demarest Lloyd thuộc Hội Sử học Tiểu bang Wisconsin và của Allan Nevins thuộc Đại học Columbia, bên cạnh những công trình của William O. Inglis và Raymond B. Fosdick - tác giả cuốn tiểu sử chính thức về John D. Rockefeller, Jr. tại Trung
tâm Lưu trữ Rockefeller. Những bộ sưu tập này bao gồm vô vàn các cuộc phỏng vấn thời bấy giờ và những nguồn tài liệu khác vốn chỉ được các tác giả sử dụng một phần.
Giống như nhiều ông trùm của Thời Đại Vàng, Rockefeller vừa được những người viết tiểu sử ủng hộ mình tôn vinh hết mực, vừa bị các nhà phê bình phỉ báng đầy cay độc vì chẳng thấy điểm đúng đắn nào ở ông. Sự phiến diện này đặc biệt có tác động tiêu cực trong trường hợp của Rockefeller, một con người mà thiên thần và ác quỷ tồn tại chung dưới một hình hài. Tôi cũng cố gắng mày mò tìm hiểu trong khoảng không gian rộng lớn giữa những cuộc tranh luận và biện giải tôn giáo, được thúc đẩy bởi niềm tin rằng cuộc đời của Rockefeller cũng chỉ là một “mẩu thiên thạch” trong đó, và rằng một Rockefeller tôn thờ Kinh Thánh, với sự ngoan đạo không chỉ đơn giản là tấm áo “cà sa” khoác lên người một tên đạo chích. Khía cạnh tôn giáo và tham lam trong bản chất con người ông có liên quan mật thiết với nhau. Vì lẽ đó, tôi từng nhấn mạnh rằng chủ nghĩa Baptist Phúc Âm là chìa khóa quan trọng để mở ra nhiều bí ẩn trong cuộc đời ông. Những ai muốn thấy Rockefeller hóa quỷ hay hiển thánh trong những trang viết này sẽ phải thất vọng.
Đây có vẻ là thời điểm tốt để hồi sinh linh hồn của Rockefeller. Cùng sự sụp đổ của các rào cản thương mại và sự lên ngôi của nền kinh tế thị trường tự do, thế giới ngày nay được thống nhất bởi một thị trường toàn cầu có thể tiếp cận 5 tỷ người, với rất nhiều quốc gia mới nổi lên từ chủ nghĩa Marx hay hệ thống thuyết trọng thương và mang trong mình những âm hưởng đầu tiên của chủ nghĩa tư bản. Câu chuyện về John D. Rockefeller sẽ đưa chúng ta trở về thời điểm khi chủ nghĩa tư bản công nghiệp vẫn còn nguyên sơ và mới lạ ở Mỹ, khi những quy tắc tham gia cuộc chơi vẫn “bất thành văn”. Hơn bất cứ ai, Rockefeller là hiện thân của cuộc cách mạng tư bản sau Nội Chiến và từng làm biến đổi cuộc sống của người Mỹ. Ông là hình mẫu tiêu biểu của sự cần kiệm, tự lực, chăm chỉ và dấn thân không mệt mỏi. Tuy nhiên, là người coi thường cả Chính phủ và chà đạp thô bạo những đối thủ cạnh tranh, ông cũng là hiện thân của vô vàn những việc xấu xa nhất. Vì lẽ đó, sự nghiệp của ông đã trở
thành tâm điểm cho các cuộc tranh luận về vai trò xác đáng của Chính phủ trong nền kinh tế vẫn kéo dài cho đến ngày nay.
Tờ rớt (trust): Hợp doanh của nhiều xí nghiệp độc lập thành một xí nghiệp lớn, đặt dưới quyền quản trị của những nhà tư bản có xí nghiệp lớn nhất gia nhập hợp doanh đó.↩︎
Herbert George Wells được xem là cha đẻ của dòng văn học giả tưởng. (BTV)↩︎
Thời Victoria: Chỉ giai đoạn trị vì của Nữ hoàng Victoria (1819-1901), thời kỳ này có những tiến bộ công nghiệp, chính trị và quân sự tại Vương quốc Anh. (BTV)↩︎
LỜI NÓI ĐẦU
1. Wells, The Work, Wealth and Happiness of Mankind, tr. 454.
MỞ ĐẦU
MIỆNG LƯỠI ÁC ĐỘC
“C
uốn sách này khiến tôi nhớ lại những sự kiện và hoàn cảnh mà tôi đã lãng quên nhiều năm,” John D. Rockefeller trầm ngâm. “Nó gợi lại những thứ đã qua rất lâu rồi, khiến chúng tái hiện sống động trước mắt tôi. Tôi rất vui, thật sự rất vui.”1
Suốt nhiều tháng, Rockefeller lắng nghe người viết tiểu sử ủy quyền của mình đọc cho nghe cuốn Wealth Against Commonwealth (tạm dịch: Của cải hay Thịnh vượng chung) của Henry Demarest Lloyd, một bản ghi chép đầy ác ý về sự nghiệp của ông được xuất bản vào năm 1894. Giờ đây, khi đã nghỉ hưu và chuẩn bị bước sang tuổi bát tuần, người đàn ông giàu nhất thế giới đã miễn cưỡng chấp nhận hồi tưởng sau những cánh cửa khép kín. Bắt đầu từ năm 1917, Rockefeller dành mỗi sáng một giờ đồng hồ để trả lời những câu hỏi trong khi ngồi thư thái trên chiếc ghế bành hoặc ngả người trên ghế dài trong phòng ngủ ở Kykuit, một dinh thự theo phong cách kiến trúc Georgian nằm giữa cánh rừng tuyệt đẹp tại Đồi Pocantico thuộc quận Westchester. Lương tâm thanh thản với niềm tin rằng Chúa đã ban phước cho sự nghiệp của mình, còn tòa án sẽ tha bổng cho mình, Rockefeller đã chấp nhận thực hiện trải nghiệm này để làm hài lòng đứa con trai, người muốn cái tên của dòng họ Rockefeller trở nên thanh sạch, nằm ngoài mọi tranh cãi. Rockefeller phải hồi tưởng ký ức với vị Boswell* được chỉ định của mình, một William O. Inglis đầy ân cần, một nhà báo từng làm việc cho đối thủ cũ của Rockefeller - tờ World, nhưng vì “theo ý con trai tôi, người không biết rõ những chuyện đã qua… tôi sẽ không từ chối những câu hỏi này để rồi lãng phí thời gian và chuốc thêm rắc rối.”2
Bất chấp những ngần ngại ban đầu, Rockefeller đã hồi tưởng về những năm tháng đầu đầy sóng gió của ông trong ngành công nghiệp dầu mỏ, và rất nhiệt tình với nhiệm vụ khơi lại hồi ức lớn lao này. Trong suốt hàng trăm giờ phỏng vấn, kéo dài trong ba năm, ông đã ngược dòng thời gian trở về quá khứ và thoải mái chia sẻ suy nghĩ của mình. Có lúc, ông hồi tưởng về cuộc đời mình với tông giọng du dương, nhẹ nhàng hệt như một nhà thuyết giáo đang giảng giải về tình anh em giữa những người thân. Có lúc, ông lại lạnh lùng mỉa mai hoặc đùa cợt tàn nhẫn tất cả những người chỉ trích ông - dù trong suốt thời gian đó, ông luôn cố kìm nén mọi cảm xúc thù hận như một tín đồ Cơ Đốc giáo thiện lành.
Trước ánh mắt đầy ngạc nhiên của Inglis, người đàn ông luống tuổi cảm thấy như trẻ lại với dòng ký ức chảy trôi, giọng ông chuyển từ trầm sang bổng, lúc yếu ớt phập phù, lúc lại sáng sảng khỏe khoắn. Ông bước những bước nhanh và uyển chuyển trên sàn, kể lại chi tiết những cuộc đấu tranh vẻ vang trong sự nghiệp của mình. Không hề né tránh tranh cãi, Rockefeller đã gợi ý một cấu trúc mới cho cuộc trò chuyện hồi tưởng này: Inglis sẽ đọc những đoạn mà hai địch thủ chính của Rockefeller viết, Henry Lloyd và Ida Tarbell (họ đã đưa ra lời tố cáo dồn dập đầy sức nặng được xuất bản vào đầu thập niên 1900), còn Rockefeller sẽ bác bỏ chúng, từng đoạn một. Cho rằng những cáo buộc của họ không xứng tầm với phẩm giá của mình, ông đã không thèm đọc chúng khi chúng xuất hiện lần đầu tiên. Giờ đây, với sự tự tin ngút trời, ông quyết định giải quyết những cáo buộc dai dẳng ấy. “Suốt tám tháng liền, tôi không thèm đáp trả kẻ viết văn ngu ngốc ấy,” ông nói, “nhưng bây giờ, tôi lại cảm thấy rất thú vị.”3 Và một khi đã dồn tâm trí vào việc gì, John D. Rockefeller, Sr. có khả năng tập trung tuyệt vời.
Khi Rockefeller quyết định thực hiện đòn đáp trả, rõ ràng ông tin rằng mình đã được minh oan kể từ lúc hai nhà báo này bôi nhọ danh tiếng của ông vào đầu những năm 1900 và biến ông trở thành vị doanh nhân bị căm ghét nhất nước Mỹ. “Mọi doanh nhân ngày nay đều làm kinh doanh theo những phương pháp hiện đại, theo những kế hoạch mà chúng tôi tiên phong khởi xướng,” ông tự hào
nói.4 Ông tin rằng hận thù mà người đời dành cho ông đã nguôi bớt, và người ta “cũng chẳng còn chống đối đế chế dầu mỏ hay tấn công Công ty Standard Oil từ nhiều năm nay rồi.”5 Quả thực, trong suốt Thế chiến thứ I, người Mỹ luôn đánh giá cao sức mạnh công nghiệp mà các công ty Standard Oil tạo nên, Rockefeller tưởng tượng, với một chút công bằng, rằng người dân ngày nay xem ông như một nhà từ thiện chứ không phải một nhà tài phiệt nữa. Các tổ chức từ thiện lớn mà ông đã bảo trợ cũng làm dịu đi sự thù hận của công chúng đối với ông.
Đối với Rockefeller, lúc nào cũng vậy, những ngập ngừng đầy ẩn ý trong cuộc phỏng vấn đều được biểu lộ hùng hồn như mọi lời nói. Được nhà báo của mình, Ivy Lee gợi ý, Rockefeller tránh dùng
những thuật ngữ như tờ-rớt, độc quyền, độc quyền tập đoàn, hay các-ten* khi nhắc đến Standard Oil mà ưu tiên nói đến “sự hợp tác”. Ông cũng bày tỏ sự khinh miệt đối với thế giới lý thuyết sách vở về thị trường tự do mà Adam Smith giới thiệu: “Thật may khi ý tưởng về sự hợp tác, với đường sắt, với đường dây điện tín, với các công ty thép, công ty dầu mỏ, đã xuất hiện và chiếm ưu thế, nhằm thay thế cho tình trạng hỗn loạn này mà trong đó những kẻ không biết gì về kinh doanh đã tạo ra thứ mà theo họ là ơn huệ của Chúa để nuốt chửng lẫn nhau.”6 Trong đợt phỏng vấn kéo dài suốt ba năm, Rockefeller chưa một lần ám chỉ đến trở ngại sâu sắc nhất đời ông: việc Chính phủ liên bang đã chia tách Standard Oil thành hàng tá công ty con vào năm 1911. Giả quên để phản đối phán quyết của Tòa án Tối cao Mỹ, Rockefeller nói về Standard Oil như thể khối đá cổ xưa vẫn không suy suyển.
Trong mọi điệu bộ mà ông trưng ra, có lẽ khó khăn nhất là duy trì thái độ không ác cảm với những người phỉ báng mình. Đâu đó trong các cuộc trò chuyện, ông thêm thắt đôi lời bóng gió ám chỉ sự khoan dung của mình: “Những người đại diện của Standard Oil đã nuôi dưỡng những tình cảm chân thành giống như anh em trong gia đình, kể cả với những người lăng mạ họ, và sẵn sàng xem đó như sự thiếu hiểu biết và nhu nhược của đối phương, đồng thời bỏ qua
bất cứ điều gì đang kiểm soát họ.”7 Hơn nữa: “Đối với những kẻ lên tiếng chống đối bằng những lời lẽ thô bỉ, chúng tôi không hề oán giận. ‘Nhân vô thập toàn’ mà.”8 Và thậm chí còn mang tính hòa giải hơn nữa: “Tôi cũng vui mừng khi chúng tôi đã khoan dung và cởi mở với những người nhỏ nhen, ghen tị, vốn dùng việc kinh doanh cả đời của họ để cố kéo chúng tôi xuống chỉ vì tầm nhìn hạn hẹp của bản thân.”
Tuy nhiên, theo thời gian, giọng điệu của người thuyết giáo bắt đầu ngập ngừng. Rockefeller không thể phản biện được một phản đối có cơ sở đối với sự nghiệp của ông và ngày càng viện đến những tính công kích đầy tính ngụy biện, chế nhạo những người phỉ báng ông là những kẻ tiêu cực, đám to mồm, càm ràm, quân tống tiền, ăn cướp, những đứa trẻ hư hỏng, những kẻ than vãn, bịp bợm, độc ác hay đám lục lâm. Rõ ràng, những lời cáo buộc đã khiến ông tổn thương, đặc biệt là của Ida Minerva Tarbell, với những bài viết điều tra tinh tường, lạnh lùng đã biến tên tuổi của ông trở thành điển hình của một doanh nhân độc tài. Kể chuyện với những người bạn chơi golf, Rockefeller đã chế giễu bà là “Quý cô Dầu Hắc-Ín”*, nhằm đáp trả những phát ngôn của bà.
Trong suốt chuỗi phỏng vấn dài, Inglis đã thấy dáng vỏ cứng rắn và sự tự chủ của Rockefeller sụp đổ hai lần. Đáng chú ý cả hai lần đều là khi nhắc đến Tarbell. Lần đầu tiên là khi Inglis đọc lời cáo buộc của bà rằng vào năm 1872, khi Rockefeller 32 tuổi, ông đã kiểm soát nhà máy lọc dầu Cleveland bằng cách đe dọa sẽ tiêu diệt mọi đối thủ từ chối tham gia các-ten của mình. Trên thực tế, năm 1872 là xuất phát điểm trong hành trình không ngừng nghỉ của ông nhằm đạt đến quyền lực tối cao trong ngành dầu mỏ. Nếu năm đó có vấn đề gì, thì mọi thứ sau đó cũng đổ sông đổ bể. Inglis đã ghi chép những phản ứng sinh động của Rockefeller trước lời cáo buộc của Tarbell:
“Điều đó hoàn toàn sai sự thật!” Rockefeller lớn tiếng khiến tôi phải rời mắt khỏi những ghi chú. Vừa nói, ông vừa bật dậy khỏi chiếc ghế bành và tiến về phía bàn của tôi. Mặt ông đỏ bừng bừng và ánh mắt như thiêu
đốt. Đây là lần đầu tiên tôi thấy ông thể hiện thái độ khó chịu, và chắc chắn ông đang rất tức giận và phẫn uất. Giọng ông vang to và rõ ràng. Ông không đấm tay xuống bàn, mà đứng im một chỗ với đôi tay siết chặt, cố gắng kiềm chế bản thân. Ông không thể cân bằng lại cảm xúc ngay lập tức. “Hoàn toàn sai sự thật!” ông rít lên, “tôi hay bất cứ đại diện nào của chúng tôi chưa bao giờ nói điều đó. Anh có thể ghi lại toàn bộ điều này. Tuyên bố đó hoàn toàn là bịa đặt!”9
Sau cơn bùng nổ ấy, cảm xúc của Rockefeller dịu lại, nhưng lời nói của ông vẫn đầy chua chát. Sau đó, ông và Inglis nói lan man về những ngọn đồi và sân golf tại điền trang rộng lớn của ông. “Tất cả những chuyện ấy thật lố bịch!” ông thốt lên. “Đó là những lời lẽ nhăng cuội, độc địa, được đưa ra nhằm mục đích nào đó. Trên thực tế, tất cả chúng tôi đang ở trên một con thuyền sắp đắm, nếu cuộc cạnh tranh khốc liệt này còn tiếp tục, và chúng tôi đang cố gắng đóng một con thuyền cứu hộ để đưa tất cả vào bờ. Anh không cần phải dọa dẫm mọi người rời con thuyền sắp đắm để lên chiếc thuyền cứu sinh kia.”10 Việc mua lại những công ty của đối thủ cạnh tranh không phải là hành động nhân từ như Rockefeller nói, mà đó là ông đã có những mưu tính vô cùng giảo hoạt.
Rockefeller đã dành những lời lẽ cay đắng nhất của mình cho một đoạn văn khác, trong đó Tarbell đã đề cập đến những vấn đề nhạy cảm nhất trong đời sống cá nhân của ông: William Avery Rockefeller - người cha phóng đãng, lòe loẹt của ông. Vào tháng 7 năm 1905, bà đã nói về chuỗi lịch sử của Standard Oil với mục “Nghiên cứu Nhân vật” gồm hai phần về Rockefeller, đầy ắp những miêu tả cay độc về cha ông, một người bán rong thuốc tự chế với cuộc sống lang bạt, bí ẩn. William Avery Rockefeller là kiểu người bán hàng rong khéo miệng, làm ăn phát đạt ở các khu dân cư gần biên giới của nước Mỹ vào đầu thế kỷ XIX, và Tarbell đã kể lại đầy đủ những mánh lới bỉ ổi của ông. Trong bức chân dung thổi phồng của mình, có lúc, bà nói: “Quả thật, ông ta hội tụ đủ thói hư tật xấu ngoại trừ việc không bao giờ uống rượu.11
Sức ép chống lại người cha đã khuất đánh trúng nỗi đau bị chôn vùi, vết thương vẫn còn mưng mủ trong Rockefeller, và ông đột
nhiên nổi cơn thịnh nộ. “Thật là những phát ngôn thảm hại của một người tự nhận mình là sử gia,” ông chế nhạo, suy đoán có phần sai lầm rằng Tarbell bị ám ảnh bởi thất bại từ loạt truyện của mình nên
đã nhắm đến việc làm tổn hại đế chế Standard Oil. “Chính vì vậy, bà ta đã quay ra bịa đặt đầy đáng thương như vậy, tìm cách sỉ nhục, châm biếm, thậm chí xuyên tạc đầy ác độc để tấn công cha tôi.”12 Trong chốc lát, Rockefeller đã không thể kiểm soát cảm xúc của bản thân: Sự bình tĩnh sắt đá của ông đã hoàn toàn bị phá vỡ. Và trong một khoảnh khắc hiếm hoi trong đời, ông đã tuôn ra những lời lăng mạ quá mức. Lắp bắp trong cơn thịnh nộ, ông mắng nhiếc “miệng lưỡi ác độc của người đàn bà tàn nhẫn đã tìm cách đầu độc công chúng bằng mọi nỗ lực…, nghi ngờ mọi thứ tốt, xấu, hay thờ ơ với cái tên mà cho đến giờ vẫn không bị sự xỉa xói của bà ta hủy hoại.” Nhận thấy bản thân đã vô tình thiếu cẩn trọng, Rockefeller nhanh chóng bình tâm lại, trở về sự thản nhiên vốn có, nhẹ nhàng trấn an Inglis: “Dẫu vậy, sau tất cả, tôi vẫn vui khi không còn cảm thấy quá căm giận ‘sử gia’ này, mà chỉ thấy thương hại thôi.”13 Người khổng lồ đã lấy lại khí chất của mình, và ông đảm bảo rằng chiếc mặt nạ vừa vặn, chặt khít của mình sẽ không bao giờ rơi xuống trước mặt người viết tiểu sử được ủy quyền của mình thêm lần nào nữa.
Những bức hình đầu tiên của William Avery và Eliza Davison Rockefeller (Được phép của Trung tâm Lưu trữ Rockefeller)
Tức James Boswell (1740-1795), nhà viết tiểu sử, người viết nhật ký và luật sư người Scotland. Ông nổi tiếng với cuốn tiểu sử Life of Samuel Johnson (tạm dịch: Cuộc đời Samuel Johnson) - cuốn tiểu sử vĩ đại nhất được viết bằng tiếng Anh. Ý tác giả ở đây muốn so sánh William O. Inglis - người viết tiểu sử về Rockefeller cũng vĩ đại ngang với James Boswell. (BTV)↩︎
Cartel (Các-ten): Là một thỏa thuận dùng để chỉ nhóm các công ty cạnh tranh để kiểm soát giá hoặc loại trừ các sản phẩm của một đối thủ cạnh tranh mới trong thị trường. (ND)↩︎
Tarbarrel: nhại tên bà Tarbell thành Tarbarrel. (BTV)↩︎
MỞ ĐẦU
1. RAC, Inglis phỏng vấn, tr. 1062.
2. RAC, Inglis phỏng vấn, tr. 916.
3. RAC, Inglis phỏng vấn, tr. 375.
4. RAC, Inglis phỏng vấn, tr. 962.
5. RAC, Inglis phỏng vấn, tr. 601.
6. RAC, Inglis phỏng vấn, tr. 493.
7. RAC, Inglis phỏng vấn, tr. 891.
8. RAC, Inglis phỏng vấn, tr. 1309.
9. RAC, III 2.H B30 F17.
10. RAC, III 2.H B9 F37.
11. McClure’s Magazine, tháng 7 năm 1905.
12. RAC, Inglis phỏng vấn, tr. 1648.
13. RAC, Inglis phỏng vấn, tr. 1650.
CHƯƠNG 1
KẺ LỪA GẠT
Đ
ầu những năm 1900, trong khi Rockefeller và Andrew Carnegie đang cạnh tranh nhau danh hiệu người giàu nhất thế giới, một cuộc đối đầu đình đám khác cũng diễn ra giữa Pháp và Đức, quốc gia nào cũng khẳng định mình là đất tổ của dòng họ Rockefeller. Các nhà phả hệ học đã sẵn sàng - dĩ nhiên là với một khoản thù lao đáng kể - thêu dệt nên một dòng dõi quý tộc huy hoàng cho ông trùm dầu mỏ. “Tôi không mong muốn truy nguyên nguồn gốc quý tộc làm gì,” ông thừa nhận. “Tôi hài lòng với dòng dõi Mỹ đáng mơ ước của mình.”1 Cuộc tìm kiếm tham vọng nhất về nguồn gốc của nhà Rockefeller được dẫn đến một dòng họ Pháp ở thế kỷ IX, gia tộc Roquefeuilles. Người ta cho rằng gia tộc ấy từng sinh sống trong lâu đài Languedoc - một câu chuyện tuy hấp dẫn nhưng đáng tiếc đã bị bác bỏ bởi các phát hiện mới đây. Trái lại, dòng dõi Đức của nhà Rockefeller đã định cư ở thung lũng sông Rhine ít nhất từ đầu những năm 1600.
Vào khoảng năm 1723, một chủ cối xay tên là Johann Peter Rockefeller đã đưa vợ cùng năm người con lên thuyền đến Philadelphia và định cư trong một trang trại ở Somerville, sau đó tới Amwell, New Jersey. Tại đây, ông làm ăn phát đạt và sở hữu nhiều đất đai. Hơn một thập kỷ sau, Diell Rockefeller, người anh em họ của ông, rời miền Tây Nam nước Đức để chuyển tới Germantown, New York. Christina, cháu gái của Diell, kết hôn với William, cháu trai của Johann. (Tuy chưa bao giờ bày tỏ cảm xúc đặc biệt về tổ tiên người châu Âu của mình, song John D. Rockefeller vẫn cho dựng một tượng đài ở nơi chôn cất Johann Peter tại Flemington,
New Jersey để tưởng nhớ ông.) Trái ngọt của cuộc hôn nhân giữa William và Christina là người con trai Godfrey Rockefeller, ông nội của ông trùm dầu mỏ, đồng thời là tổ tiên trực hệ không ai ngờ đến của gia tộc. Đến năm 1806, Godfrey cưới Lucy Avery tại Great Barrington, tiểu bang Massachusetts, bất chấp những nghi ngại của gia đình bà.
Trong ánh mắt xem thường của gia đình, Lucy đã kết hôn với người có địa vị thấp kém hơn - đây là tiền lệ mà sau này chính mẹ của Rockefeller cũng đi theo. Vào khoảng năm 1630, tổ tiên bà di cư từ Devon (Anh) đến Salem (Massachuetts), góp phần tạo nên làn sóng di dân của những tín đồ Thanh giáo. Sau khi định cư và có cuộc sống sung túc, gia tộc Avery xuất chúng đã sinh ra những mục sư, binh sỹ, nhà lãnh đạo, nhà thám hiểm, thương nhân, đó là chưa kể đến hàng loạt chiến binh anh dũng. Xuyên suốt cuộc Cách mạng Mỹ, 11 người của nhà Avery đã hy sinh oanh liệt trong trận chiến Groton. Trong khi dòng dõi “cao quý” của dòng họ Rockefeller cần đến sự tô vẽ và thêm thắt khá lớn thì Lucy có thể đường hoàng tuyên bố mình là hậu duệ của Edmund Ironside - vị vua người Anh lên ngôi năm 1016.
Thật đáng buồn, Godfrey Rockefeller lại không tương xứng với người vợ tháo vát của mình. Ông có dáng vẻ nghèo hèn, toát lên nét sợ sệt của người luôn gặp thất bại. Trong khi đó, Lucy, một tín đồ Baptist nhiệt thành, gầy gò và cao hơn chồng với đôi mắt xanh nhanh nhẹn và bước đi mạnh mẽ, lại là người tự tin và cuốn hút. Bà từng là giáo viên nên có học vấn cao hơn Godfrey. Thậm chí John D., vốn chưa bao giờ đưa ra những nhận xét mang tính thiên vị về người thân, cũng phải khéo léo thừa nhận: “Bà tôi là một phụ nữ dũng cảm nhưng ông tôi lại không được như vậy.”2 Nếu Godfrey đóng góp cho dòng họ Rockefeller màu sắc - đôi mắt màu xám xanh, mái tóc màu nâu nhạt - thì Lucy mang đến khổ người cao lớn mà sau này đã trở thành đặc điểm nổi bật của nam giới trong dòng họ. Nhờ có sức khỏe, Lucy sinh được 10 người con, trong đó người con thứ ba, William Avery Rockefeller, được sinh ra tại Granger, New York, vào năm 1810. Tuy có thể dễ dàng xác định được ngày
sinh của cha Rockefeller, các nhà báo phải kiệt sức mà vẫn không tìm ra ngày mất của ông.
Vừa là nông dân vừa là doanh nhân, Godfrey đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, và những dự án kinh doanh dang dở của ông đã kéo gia đình vào một cuộc sống bất định, nay đây mai đó. Họ buộc phải chuyển đến Granger và Ancram, New York, sau đó đến Great Barrington rồi quay trở về Livingston, New York. Việc nuôi nấng John D. Rockefeller có lẽ sẽ tốt hơn nếu được cha và ông mình - những người đàn ông yếu đuối và lầm lạc, tính toán cẩn trọng. Godfrey hẳn nhiên thường xuyên bị xem là tấm gương xấu không nên noi theo. Theo những thông tin thu thập được, ông là người vui tính, tốt bụng nhưng tắc trách và nghiện rượu. Thói nghiện rượu của chồng đã khiến Lucy căm thù rượu và có lẽ sau này, bà đã luôn nhắc nhở đứa cháu trai của mình về điều đó. Ông nội Godfrey là người đầu tiên hình thành trong tâm trí của John D. một mối tương đồng giữa sự thân thiện với tính bất cẩn, khiến ông có thiên hướng ưa thích những người điềm tĩnh, kín tiếng, biết làm chủ cảm xúc hơn.
Những tư liệu về nhà Rockefeller đã đưa ra nhiều cách lý giải khác nhau về việc Godfrey và Lucy chất đồ đạc lên một chiếc xe ngựa Conestoga* quá tải và đi về miền Tây trong khoảng giữa năm 1832 và 1834. Theo một tư liệu, gia đình Rockefeller cùng một vài gia đình hàng xóm bị tước quyền sở hữu đất trong một cuộc tranh cãi nảy lửa với một số nhà đầu tư người Anh. Một tư liệu khác lại cho rằng một thương nhân vô đạo đức đã lừa Godfrey đổi trang trại của mình để lấy một mảnh đất được cho là màu mỡ hơn ở quận Tioga. (Nếu thông tin này là thật, thì đây quả là một trò lừa độc ác.) Một số người họ hàng sau đó nói Michigan mới là nơi Godfrey muốn đến, nhưng Lucy đã phản đối một sự thay đổi lớn như vậy về chỗ ở. Bà thích nét văn hóa New England của phía Bắc New York hơn là sự hoang dã của Michigan.
Dù vì lý do gì đi nữa, nhà Rockefeller cũng đã áp dụng những cách thức tìm kiếm cơ hội mới của người Mỹ xưa. Vào những năm
1830, rất nhiều cư dân từ Massachusetts và Connecticut đổ xô di tản đến những vùng hoang dã ở phía Tây New York. Cuộc di dân ấy được Alexis de Tocqueville* miêu tả như “một trò chơi may rủi”, không chỉ “kích thích cảm xúc mà còn mang đến nhiều lợi ích”.3 Vào những năm 1820, việc xây dựng kênh đào Erie đã thu hút rất nhiều cư dân tới sinh sống. Godfrey và Lucy chất đống đồ đạc lên chiếc xe kéo có bạt che và tiến về vùng đất còn thưa thớt dân cư. Trong suốt hai tuần lễ, họ đã băng qua con đường lớn Albany-Catskill bụi mờ, vượt qua những khu rừng âm u như trong các câu chuyện cổ Grimm. Vì mang theo quá nhiều hành lý nên nhà Rockefeller gần như phải đi bộ suốt cuộc hành trình. Chỉ có Lucy và bọn trẻ có thể thay phiên nhau ngồi trong toa xe nhỏ hẹp khi quá mệt (trừ William không đi cùng gia đình). Những con đường đá, lún khiến cho gần 6km cuối cùng trước khi đến Richford, New York vô cùng gian nan. Cuối cùng, dù đã kiệt sức, họ vẫn cố gắng leo lên một sườn đồi gần như dốc đứng để nhìn ngắm 60 mẫu đất còn hoang sơ. Người ta kể rằng, Godfrey lê từng bước nặng nề lên đỉnh đồi, nhìn ngắm quang cảnh xung quanh và buồn bã thốt lên: “Cứ như thể chúng ta đã tới Michigan vậy.” Chính vì vậy, như để tưởng nhớ những hy vọng không thành, địa điểm ấy mãi mang danh Ngọn đồi Michigan u sầu.
Thậm chí cho đến ngày nay, không hơn gì một giao lộ, Richford là điểm dừng xe ngựa ở các vùng có rừng phía Đông Nam Ithaca và Tây Bắc Binghamton. Những cư dân chính gốc của vùng, người Iroquois, bị đuổi đi sau cuộc Cách mạng Mỹ và thay vào đó là những cựu binh tham gia Cách mạng. Khi gia đình Rockefeller đặt chân đến, nơi đây vẫn chỉ là vùng biên giới hoang vu, đến năm 1821 mới trở thành thị trấn. Sự khai hóa vẫn còn khá lạc hậu. Rừng rậm bao quanh, cùng với đó là nhiều loài thú: gấu, nai, báo đen, gà tây hoang và thỏ đuôi bông. Vào ban đêm, mọi người thường đốt đuốc để dọa những bầy sói lang thang kiếm ăn.
Năm 1839, vào thời điểm John D. Rockefeller ra đời, Richford đang dần trở thành một thị trấn nhỏ. Một số ngành công nghiệp non trẻ xuất hiện - các nhà máy cưa, nhà máy lúa mạch, nhà máy chưng
cất rượu - ngoài ra còn có cả trường học và nhà thờ. Hầu hết cư dân nơi đây kiếm sống bằng hoạt động canh tác nhọc nhằn, nhưng những người mới đến lại mạnh dạn và tràn đầy hy vọng. Bất chấp những đặc điểm lối sống của vùng biên giới, họ đã mang đến đây văn hóa sống giản dị và tiết kiệm của Thanh giáo New England mà sau này ghi dấu đậm nét trong con người John D. Rockefeller.
Vùng đất dốc của nhà Rockefeller dường như đã tạo nên bức tranh toàn cảnh về một thung lũng màu mỡ. Vào mùa xuân, những sườn đồi trải đầy hoa dại, sang thu lại có rất nhiều hạt dẻ và quả mọng. Giữa vẻ đẹp đồng quê, nhà Rockefeller cố gắng vật lộn với cuộc sống khắc khổ. Ngôi nhà của họ nhỏ và đơn giản, sâu khoảng 7m, rộng khoảng 5m được ghép bằng các thanh dầm và gỗ đẽo. Vì vùng đất này đầy sỏi đá nên cả gia đình phải nỗ lực rất nhiều mới có thể phát quang những bụi cây thấp, những cây thông, cây độc cần, cây sồi và cây phong mọc chen nhau trên những sườn đồi.
Theo nhiều giai thoại còn lưu lại, chúng ta có thể phỏng đoán rằng Lucy có đủ khả năng quản lý cả gia đình và trang trại, chưa bao giờ né tránh những việc nặng nhọc. Bà có thể tự mình dựng một bức tường đá mà chỉ cần sự hỗ trợ của hai con bò. Sau này, sự tháo vát và nhanh trí ấy cũng được thể hiện trọn vẹn ở cháu trai bà. John D. luôn hào hứng kể lại cách bà của mình thình lình tấn công tên trộm trong kho thóc tối om vào một đêm nọ. Dù không nhìn thấy mặt của kẻ đột nhập, bà vẫn tỉnh táo và nhanh trí xé được một mảnh tay áo của hắn. Sau đó, bà đã tìm ra kẻ đột nhập nhờ mảnh vải xé đó; trước khi âm thầm xác định được mục tiêu, bà không bao giờ vội vã buộc tội. Có một điều không thể không nhắc đến về Lucy: bà vô cùng hứng thú với thảo mộc và những phương thuốc tự chế từ những “bụi cây thuốc” trong vườn nhà. Rất nhiều năm sau, cháu trai bà tò mò muốn biết liệu những phương thuốc ấy có giá trị y học thật hay không nên đã gửi chúng tới phòng thí nghiệm. Có lẽ do chính niềm đam mê y học thừa hưởng từ Lucy, mà sau này John D. đã thành lập viện nghiên cứu y học xuất sắc thế giới.
Ở tuổi 20, William Avery Rockefeller giống như kẻ thù không đội trời chung với những giá trị đạo đức truyền thống khi lựa chọn lối sống lang bạt. Ngay từ thời niên thiếu, ông luôn biến mất trong những chuyến đi dài giữa mùa đông, hoàn toàn không để lại chút thông tin nào về chỗ ở. Suốt cả cuộc đời, ông dành phần lớn sức lực cho những mánh khóe lừa gạt và trốn tránh những công việc nặng nhọc. Tuy nhiên, William sở hữu vẻ quyến rũ bất cần cùng ngoại hình vạm vỡ - cao gần 1m80, khuôn ngực nở, vầng trán cao và bộ râu dày màu nâu vàng - vì vậy, mọi người luôn bị che mắt bởi diện mạo ấy. Ít nhất là trong một thời điểm nào đó, vẻ ngoài hấp dẫn ấy đã khiến những người hoài nghi và chỉ trích ông im lặng. Mọi người hoàn toàn không ngạc nhiên khi người đàn ông nay đây mai đó ấy không đi cùng cha mẹ mình trong chuyến di cư đến Richford, mà đến Richford vào khoảng năm 1835 theo cách riêng của bản thân. Ngay khi xuất hiện tại thị trấn, ông gây ấn tượng với dân địa phương bằng cách đóng giả một người bán rong luôn đính trên khuy áo tấm bảng nhỏ ghi: “Tôi bị câm điếc.” Nhờ đó, ông tiếp xúc với mọi người và khai thác được mọi bí mật. Để chiếm được lòng tin và thuyết phục những người lạ mua hàng, ông luôn mang bên minh một chiếc kính vạn hoa và mời mọi người xem qua.4 Tuy nhiên, xuyên suốt sự nghiệp, Bill Lớn* tin rằng mình luôn có nguy cơ bị ai đó bất ngờ vạch mặt và lật tẩy những trò dối trá. Ông từng suýt bị phát hiện khi ở nhà của người trợ tế Wells. Người trợ tế ấy cùng cô con gái Smith thương xót “kẻ bán hàng rong” - gõ cửa nhà mình giữa đêm khuya, nên cho tá túc qua đêm. Sáng hôm sau, khi được mời đến nhà thờ, Bill Lớn ngay lập tức tìm lý do từ chối vì bản thân ông luôn tránh những nơi đông người. Ông lo sợ có ai đó nhận ra và vạch trần mánh khóe lừa đảo của mình. Theo lời kể của một cư dân trong thị trấn: “Billy nói [với người trợ tế] rằng ông ta rất muốn đến nhà thờ, nhưng lo mọi người sẽ chú ý đến khiếm khuyết của mình nên không thể đi cùng. Ông ta rất sợ sẽ bị ai đó vạch trần.”5 Bảy tháng sau, cả Bill Lớn và người trợ tế chuyển đến Richford. Tình cờ gặp lại nhau tại một tổ chức xã hội, cô Smith kinh ngạc trước sự hồi phục thần kỳ của người đàn ông câm điếc ngày trước: “Anh nói tốt hơn so với lần cuối cùng tôi gặp anh.” Bill Lớn cười không chút lúng
túng: “Phải, tôi đã khá hơn chút rồi.”6 Khi đến Richford, ông luôn chìa ra tấm bảng nhỏ của mình kèm câu chất vấn vội vã: “Nhà của Godfrey Rockefeller ở đâu?” khiến người dân địa phương nhận ra sự giả dối.7
Vì luôn ba hoa về bản thân và các sản phẩm của mình, Bill hoạt động trên phạm vi khá rộng lớn để trốn tránh pháp luật. Ông lang thang gần 50km đến phía Tây Bắc Richford, các vùng lân cận Niles và Moravia rồi gặp được vợ tương lai của mình, Eliza Davison, tại trang trại của cha bà. Với khả năng khoe mẽ và đánh bóng bản thân, ông luôn diện những bộ vest đính kim tuyến hay những bộ đồ sặc sỡ đủ để làm mờ mắt một cô gái thôn quê như Eliza. Cũng như những người bán rong khác, ông vô cùng hoạt ngôn về những giấc mơ, những đồ trang sức rẻ tiền lòe loẹt, và Eliza đã đáp lại tình cảm của Bill. Bà hoàn toàn bị lừa trước trò bịp bợm đó và vô tình khẳng định trước mặt ông: “Tôi sẽ lấy người đàn ông này nếu anh ấy không khuyết tật.”8 Dù có bán tín bán nghi về con người Bill, kể cả khi phát hiện ra sự thật, bà cũng giống như những phụ nữ khác, không thể cưỡng lại sức hút của ông.
John Davison, một người làm lễ rửa tội Baptist đầy thận trọng và khắt khe mang trong mình dòng máu lai Scotland-Ireland, đã kịch liệt phản đối chuyện giữa con gái mình và Bill. John biết chắc rằng cả mớ rắc rối đang chờ đợi phía trước nếu Eliza dính dáng đến Bill Lớn. Vài năm sau, có thể Eliza sẽ trở thành một người đàn bà không chồng già nua và tàn úa, trong khi ở thời điểm bấy giờ - cuối năm 1836, bà đang là một phụ nữ trẻ trung với mái tóc hung đỏ và đôi mắt xanh lanh lợi. Ngoan đạo và độc lập, Eliza tương phản hoàn toàn với Bill, và có thể, chính điều đó khiến Bill trở thành liều thuốc thôi miên bà. Đâu ai biết được chính những lời nói liến thoắng của Bill đã xua tan nỗi u ám bao quanh ngưỡng cửa nhà bà? Mẹ của bà chết vì uống thuốc của một tên lang băm hồi bà chỉ mới 12 tuổi. Mary Ann, người chị gái đã nuôi dạy nên bà không có được những lời khuyên bảo của mẹ.
Vào ngày 18 tháng 2 năm 1837, bất chấp sự phản đối của John Davison, đám cưới của cặp đôi Bill (27 tuổi) và Eliza (24 tuổi) đã diễn ra tại nhà một người bạn của Eliza. Cuộc hôn nhân ấy đã trở thành đề tài bàn tán ưa thích của những cư dân thị trấn muốn dò xét các thủ đoạn của Bill. Nếu so với nhà Davison, thì nhà Rockefeller được xem như nghèo nàn, và có thể tài sản của John Davison đã mê hoặc Bill. Đến đầu năm 1801, nhà Davison sở hữu 150 mẫu đất ở quận Cayuga. Theo John D.: “Ông tôi vô cùng giàu có. Ở thời đó, những ai sở hữu trang trại và có một ít tiền trong nhà đều được xem là giàu có. Nếu như sở hữu 4.000-6.000 đô-la thì được coi là giàu. Ông tôi có lẽ sở hữu gấp ba hay bốn lần chừng ấy. Ông còn có tiền cho vay.”9
Hầu hết người dân Richford không tin việc Eliza và Bill Lớn gặp nhau chỉ là tình cờ. Họ tin đó là một cái bẫy mà Bill giăng sẵn để giành lấy tài sản của nhà Davison. Tuy là kẻ đều cáng khét tiếng luôn xem phụ nữ trẻ đẹp như một cuộc chinh phục tiềm năng, chí ít Bill cũng từng có một cuộc tình nghiêm túc trước khi tán tỉnh Eliza. Ralph P. Smith, một người dân sinh sống lâu năm ở Richford, kể lại: “Khi đến đây, Bill độc thân. Chúng tôi còn cho rằng Bill sẽ cưới quản gia của cậu ấy, Nancy Brown. Nhưng rồi cậu chia tay Nancy, trả cho cô khoảng 400 đô-la và cuối cùng tiến tới con gái của John Davison giàu có sống gần Niles, ngoại ô Moravia.”10 Người chứng kiến câu chuyện này là chị em họ của John D., bà John Wilcox kể: “Nancy Brown ở vùng Harford Mills là cô gái vô cùng xinh đẹp. William yêu cô nhưng cô lại nghèo. Còn Wiliam muốn có tiền. Cha của Eliza Davison sẽ cho Eliza 500 đô-la khi cô kết hôn, và William đã cưới cô ấy.”11
Cuộc hôn nhân trong dối trá ấy đã hợp nhất cuộc sống của hại con người với tính cách hoàn toàn trái ngược nhau, mở đầu cho một loạt chuỗi rắc rối và bất hòa sau này. Chính điều ấy cũng góp phần nhào nặn nên những mâu thuẫn trong tính cách của John D. Rockefeller.
Khi Bill đưa vợ về nhà - cách nhà cha mẹ mình hơn 500m ở Richford, Eliza chắc hẳn đã hiểu ra sự sáng suốt của cha mình khi phản đối cuộc hôn nhân này: Dự cảm về một cuộc sống chắc chắn rất khó khăn và khắc nghiệt trong một căn nhà lụp xụp. Những bức ảnh còn sót lại về nơi sinh của John D. Rockefeller cho thấy một ngôi nhà gỗ đơn sơ trên một sườn đồi trọc in bóng lên nền trời xanh ngắt. Một ngôi nhà trông giống hai toa xe chở hàng ghép lại với một tấm bạt che mái hiên trước cửa. Dù bề ngoài vô cùng thô sơ, nhưng ngôi nhà được xây chắc chắn bằng gỗ. Tầng chính có hai phòng ngủ và một phòng khách, một gác xép thấp và một phòng nhỏ chứa thóc và củi. (Nơi sinh ra của ông trùm dầu mỏ tương lai có thể đã được thắp sáng bằng nến làm từ mỡ động vật hoặc dầu cá nhà táng.) Khu đất quanh nhà khá rộng rãi. Mảnh đất 50 mẫu Anh có cả một vườn táo và một nhánh suối Owego Creek chảy qua với ăm ắp cá.
Chẳng bao lâu sau đám cưới, Bill dập tắt hoàn toàn mọi suy nghĩ lãng mạn cửa Eliza về đời sống vợ chồng. Không những không bỏ Nancy Brown, Bill còn để Nancy trở thành “quản gia” rồi luân phiên có con với vợ và tình nhân. Đến năm 1838, Eliza sinh đứa con đầu lòng, Lucy. Vài tháng sau, con gái ngoài giá thú của Nancy, Clorinda chào đời. Vào đêm ngày 8 tháng 7 năm 1839, Bill và Eliza lại gọi bà đỡ, lần này là một bé trai. Đứa trẻ này, sinh ra trong nhiệm kỳ của Tổng thống Van Buren, đã được định mệnh sắp đặt trở thành một nhà tư bản xuất sắc trong tương lai của nước Mỹ và “sống sót” qua thời kỳ Chính sách Kinh tế mới lần thứ hai của Tổng thống Franklin D. Roosevelt. Giống như những trùm tư bản tương lai khác - Andrew Carnegie*, Jay Gould* và J. Pierpont Morgan* - John chào đời vào cuối những năm 1830 và trưởng thành trong cuộc bùng nổ công nghiệp sau Nội chiến. Khi John mới chỉ được vài tháng tuổi, Nancy Brown tiếp tục sinh người con gái thứ hai, Cornelia. Vậy là chỉ trong vòng hai năm, Bill có tới bốn người con. Chính vì thế, John Davison Rockefeller (được đặt theo tên ông ngoại) kẹt giữa hai người chị em cùng cha khác mẹ được sinh ra trong tội lỗi.
Eliza không thể thoải mái với hai đứa con riêng của chồng. Nhìn chung, dòng họ Rockefeller ai cũng có tửu lượng cao, hòa đồng, hài hước, yêu âm nhạc, ưa sự náo nhiệt và tuân theo những ranh giới đạo đức có phần thô tục, ngoại trừ Lucy - người con cả. Eliza gần gũi với Lucy hơn hai đứa con riêng của chồng. Trong suốt khoảng thời gian ở Richford, em trai của Bill, Miles Avery Rockefeller, đã bỏ mặc vợ mình đi tới miền Nam Dakota với Ella Brussee, một người giúp việc trẻ của Eliza. Giống như Bill, Miles cũng có hai vợ và lấy tên đệm làm tên họ mới. Lối sống như vậy khá phổ biến trong thời kỳ nước Mỹ vẫn chưa có biên giới xác định và còn nhiều lỗ hổng luật pháp.
Là một phụ nữ nông thôn mới xa nhà, Eliza đã khoan dung Nancy Brown đến không ngờ. Trái với những gì mọi người tưởng tượng, bà thương xót Nancy. Có lẽ bản thân bà xem tình cảnh một chồng hai vợ này như một hình phạt vì đã coi thường lời can ngăn của cha. Theo một người cháu gái kể lại: “Dì Eliza yêu chồng và cũng thương Nancy nghèo khổ. Nhưng anh em trai của dì đã đến và đuổi Nancy ra khỏi nhà.”12 Trong giai đoạn hôn nhân này của Eliza, việc cha bà không hề xuất hiện khiến mọi người nghi ngờ liệu có phải ông đã từ mặt đứa con gái không vâng lời này không, hay chính bà đã giấu ông vì mặc cảm và xấu hổ. Theo một tư liệu, sau đám cưới của Bill, Nancy thường hay sinh sự, Bill đã nhân cơ hội ấy đuổi cô ả nhân tình đanh đá ra khỏi nhà. Thể theo yêu cầu của nhà Davison, ông để Nancy và hai người con gái đến sống ở nhà cha mẹ bà gần Harford Mills. Bill vẫn còn chút nhân tính nên đã bí mật gửi quần áo tới trước cửa nhà Nancy. May thay, những năm tháng sống cùng Bill không hủy hoại cuộc đời Nancy. Bà cưới một người tên là Burlingame, sinh con và nuôi dạy hai người con gái trước nên người.13 Dựa theo những tài liệu còn sót lại, Clorinda chết trẻ, còn Cornelia trở thành một cô giáo thông minh, cuốn hút và khá giống Bill Lớn. Thỉnh thoảng, Bill đáp ứng nhu cầu tiền bạc của Cornelia, nhưng sự hào phóng của ông cũng có giới hạn nhất định. Ông dứt khoát từ chối khi Cornelia đòi hỏi quá nhiều. Cornelia kết hôn với một người tên là Sexton và tiếp tục sống ở Richford, nhưng chỉ một vài người dân địa phương và họ hàng nhà Rockefeller biết bà là chị
cùng cha khác mẹ của John D..14 Cornelia chưa bao giờ lợi dụng hay kiếm chác bất cứ thứ gì từ mối quan hệ huyết thống với người đàn ông giàu nhất thế giới vì không muốn rêu rao huyết thống ngoài giá thú của mình. Không ai xác định được liệu Rockefeller có biết đến sự tồn tại của hai người chị gái cùng cha khác mẹ này hay không.
Nancy Brown không phải là vấn đề rắc rối duy nhất của Eliza. Bill thường xuyên bỏ mặc bà ủ rũ suốt ba năm ở Richford khi không ngừng chạy theo chủ nghĩa cá nhân đầy thách thức, vượt ngoài khuôn phép xã hội. Trong những năm đầu của cuộc hôn nhân, Bill ở nhà, điều hành một xưởng cưa nhỏ ở đồi Michigan và buôn bán muối, lông thú, ngựa và gỗ, nhưng rồi ông đã nhanh chóng quay lại cuộc đời của một người bán hàng rong với những chuyến đi đầy bí ẩn. Như thể đang đi trốn, ông luôn khởi hành lén lút trong đêm. Vài tuần hay vài tháng sau, khi trời tối, ông trở về nhà, ném sỏi vào cửa sổ để báo hiệu. Để chu cấp cho gia đình trong những ngày vắng nhà, ông sắp xếp phiếu ghi nợ tại cửa hàng tạp hóa. “Cung cấp cho gia đình tôi mọi thứ họ cần khi tôi vắng mặt” là yêu cầu của ông với Chauncey Rich. Cha của Chauncey Rich, Ezekiel chính là người đã gây dựng nên Richford. “Khi quay về, tôi sẽ thanh toán.”15 Không biết trước được lúc nào việc ghi nợ này sẽ kết thúc, Eliza sống rất tằn tiện. Bà luôn dặn dò, uốn nắn các con theo phương châm tiết kiệm: “Không lãng phí thì không túng thiếu.”
Khi Bill trở về nhà, ông cưỡi những con ngựa mới, mặc những bộ quần áo đẹp và thanh toán hết xấp hóa đơn. Trước khi gặp Eliza, ông trả hết tiền cho Chauncey Rich, sau đó tự tin nói với bà rằng ông đã thanh toán mọi thứ ở cửa hàng. Nét quyến rũ mê người ấy đã xóa tan mọi thù ghét về chuyện ông vắng nhà. Nhưng rồi việc ông vắng nhà triền miên trong thời gian dài hơn cùng những lần phản bội liên tục tái diễn đã thiêu rụi sự lãng mạn, chỉ để lại sự cam chịu và nhẫn nhục trong Eliza. Ở thời điểm đó, dù có cô đơn hay lo âu khi Bill vắng nhà, bà vẫn giống một người con gái sầu muộn vì tình và vẫn say mê người đàn ông gian xảo ấy. Bà từng than thở với một người em họ khi Bill đang đi xa: “Nhìn vầng trăng ấy đi! Liệu
cách nơi đây cả nghìn dặm, William có đang nhìn ngắm nó không? Chị thật sự hy vọng anh ấy cũng đang ngắm trăng.”16
Trong những chuyến đi, Bill kiếm tiền bằng rất nhiều cách. Là một tay súng cừ khôi, ông thường tham gia các cuộc thi đấu súng và mang về tiền thưởng. Là một người bán hàng rong khôn ngoan, ông bán nhẫn và những đồ trang sức ít giá trị với giá cao. Ông tự nhận mình là “thầy thuốc chuyên về thảo dược” hay “dược sĩ” - theo cách nói văn hoa của con cháu nhà Rockefeller. Thời đó, cơ sở y tế, bệnh viện, thuốc men vẫn còn thiếu thốn, lạc hậu không chỉ các khu vực thị trấn mà ngay cả vùng nông thôn, và là mảnh đất dễ kiếm tiền cho những người bán thuốc hàng rong như vậy. Tuy nhiên, với William Avery Rockefeller, người ta có thể dễ dàng nhận ra lời dụ dỗ đường mật và sự vui vẻ giả tạo của một tên lang băm. Thỉnh thoảng, ông bán những chai thuốc tự chế hoặc mua từ hiệu thuốc, nhưng thành công nhất với những phương thuốc tự nhiên được chọn ra từ các bụi cây thuốc của Lucy. Dù mẹ của Bill thực sự tâm huyết với những phương thuốc từ thảo dược, Bill lại luôn xuyên tạc hoặc thổi phồng đặc tính của chúng. Ví dụ, khi thu hoạch những quả mọng trông giống những viên thuốc nhỏ trong vườn nhà, ông bán chúng như một liều thuốc dạ dày hiệu nghiệm cho các bà nội trợ. Ông buôn bán vô cùng phát đạt. Nhiều năm sau, một người hàng xóm ở Richford kể lại: “Bill thường nghiêm túc cảnh báo những phụ nữ có thể trạng đặc biệt về tác dụng phụ, thậm chí có thể gây sảy thai. Rồi anh ấy bán thuốc với giá cao. Thuốc của Bill hoàn toàn vô hại, và việc bán không hề vi phạm pháp luật. Bill quả là vô cùng sáng trí.”17
Những cuộc ngao du lúc nửa đêm cùng công việc làm ăn đặc biệt của William Rockefeller luôn khiến người dân Richford tò mò. Ông khơi gợi và kích thích trí tò mò của họ, tạo ra hàng loạt lời đồn đại và suy đoán, cho rằng ông là một con bạc, tên trộm ngựa hoặc cũng có thể là một kẻ liều lĩnh. Mọi người thậm chí còn gọi ông là Bill Ác quỷ (Devil Bill). Dù có vẻ như Bill luôn làm ăn ngoài vòng pháp luật, nếu bỏ qua cách đối xử với gia đình, thì những câu chuyện tào lao hài hước và chân thật của Bill lại rất được yêu thích. Một người dân từng tham gia bàn tán về những nguồn thu nhập của
Bill kể: “Mỗi lần bán rong thành công trở về, anh ấy luôn ăn mặc như hoàng tử và khiến mọi người ngạc nhiên. Bill luôn cười và hào hứng với những suy đoán về bản thân. Dù Bill không nghiện rượu và cũng đối xử tốt với giạ đình khi trở về, nhưng mọi người biết anh ta sẽ lại
bỏ mặc gia đình tự xoay sở suốt những tháng ngày tiếp theo.”18 Bill khiến những người chờ mong ông gặp “quả báo” phải thất vọng. Khi hóa đơn của Eliza tại cửa hàng tạp hóa của Chauncey Rich lên đến
cả nghìn đô-la sau vài tháng Bill vắng nhà liên tiếp, có tin đồn cho rằng Bill Ác quỷ đã bị bắt giam. Tuy nhiên, thay vì bị bắt, Bill lại mặc áo sơ-mi đính kim cương, trở về thị trấn trong một cỗ xe ngựa xa hoa được kéo bằng những con ngựa tuyệt đẹp. Ông thanh toán toàn bộ hóa đơn ở cửa hàng tạp hóa. Sau những chuyến đi như thế, ông thường tụ tập với bạn bè và người thân, vừa ngấu nghiến ăn vừa kể về những chuyến phiêu lưu với người da đỏ và cư dân miền Tây. Bill Ác quỷ giỏi thêu dệt những trải nghiệm của bản thân thành các câu chuyện hấp dẫn để Eliza và các con cảm nhận và hình dung được chuyến đi. Những người hàng xóm tỏ ra thương xót Eliza vì họ cho rằng bà là nạn nhân chính trong những chuyến hành trình của Bill và bi chính chồng mình ngược đãi. Nhưng Eliza vẫn chung thủy với Bill, bà khước từ mọi cơ hội chê bai chồng và giữ cho bản thân những phẩm giá đáng quý.19
Dù những câu chuyện về thời thơ ấu nghèo đói của John D. Rockefeller thường bị cường điệu hóa, nhưng vẫn có vài người đã chứng kiến nỗi khó khăn của gia đình John D. ở Richford. Một người hàng xóm kể lại: “Tôi không nhớ đã từng nhìn thấy những đứa trẻ nào đáng thương hơn thế chưa. Quần áo của chúng cũ rách, trông chúng dơ dáy và đói khát.”20 Eliza phải tuyệt vọng ghê gớm lắm mới tìm đến sự giúp đỡ của gia đình anh trai chồng, Jacob Rockefeller - một kẻ dâm ô, luôn say xỉn nhưng không hề đần độn. Jacob từng thắng cược 5 đô-la chỉ bằng việc giả say trên suốt chuyến tàu đến thị trấn.21 Người vợ tốt bụng của Jacob trở thành mẹ nuôi của hai đứa trẻ mới chập chững biết đi. Lucy và John thường được bà may cho quần áo và bao tay bằng vải len.
Trong tình cảnh ác mộng ấy, Eliza dường như đã mạnh mẽ hơn chính bởi những khó khăn. Một người dân Richford từng khen bà là “một phụ nữ tuyệt vời nhưng lại phải chịu gánh nặng nuôi con quá lớn. Người chồng luôn vắng nhà vài tháng liền nên cô phải trông coi cả trang trại rộng 60 mẫu và cố tìm cách chi trả các chi phí. Cô không biết lúc nào chủ cửa hàng sẽ dừng việc ghi nợ. Cô ấy đã làm việc vô cùng vất vả.”22
Sau này, khi John D. nhớ lại tuổi thơ bình dị ở ngoại ô New York, trong hồi ức của ông không có Richford. Rời Richford khi mới ba tuổi, ông chỉ còn một vài ký ức mơ hồ. “Tôi nhớ rõ có một dòng suối chảy trước nhà và tôi luôn phải cẩn thận tránh xa nó. Tôi nhớ láng máng rằng mẹ tôi thì ở Richford còn bà nội tôi sống cách đó khoảng 500m hoặc trên sườn đồi.”23 Người ta nhận ra những ký ức đầu tiên của Rockefeller gắn liền với sự cẩn trọng. Ông bỏ qua người cha luôn vắng nhà cùng người ông nghiên rượu, mà chỉ nhớ đến mẹ và bà nội, hai người phụ nữ mạnh mẽ và nhẫn nại. Dường như ông có khả năng tự bảo vệ bản thân khỏi những kỷ ức không vui, giữ kín và biến chúng thành động lực củng cố lòng quyết tâm.
Có thể nói, Rockefeller không biết gì về Nancy Brown cũng như những mặt tối ở Richford, nhưng ông vẫn mơ hồ về việc phải trải qua cuộc sống ở nơi kinh khủng ấy. Sau này, ông từng tâm sự: “Tôi rùng mình khi nghĩ đến việc mình sẽ ra sao nếu sống ở Richford cả đời. Có rất nhiều gã biết một chút về săn bắt, một chút về đánh cá, uống được một chút rượu whisky, không có thành công nào nổi bật và cũng chẳng theo tôn giáo nào.”24 Nói về quyết định rời Richford của gia đình, Rockefeller gói gọn cả vùng đất tuổi thơ của ông trong vài từ: một nơi keo kiệt. Rockefeller nói: “Nơi đó rất đẹp. Nhưng người dân lại lãng phí công sức để đào những gốc cây lên và cố gắng trồng trọt trên mảnh đất khô cằn.”25 Dĩ nhiên, nguyên nhân thực sự là do nỗi sợ hãi của Eliza đối với sự thiếu đạo đức ở thị trấn. Có lẽ, bà cũng vô cùng vui mừng khi đưa những đứa con của mình ra khỏi nhà Rockefeller huyên náo, nghiện rượu để chúng tiếp xúc với nhà Davison chín chắn. Cũng không phải ngẫu nhiên mà Eliza đưa các con chuyển tới Moravia, cách trang trại nhà Davison
gần 5km, bởi bà muốn ở gần cha mình trong những tháng ngày dài dằng dặc khi chồng vắng nhà.
John D. Rockefeller, bên phải, lúc 13 tuổi, cùng với em trai William 11 tuổi và em gái Mary Ann 9 tuổi.
Xe ngựa Conestoga: một loại xe lớn do ngựa hoặc bò kéo, được sử dụng rộng rãi tại Mỹ và Canada vào cuối thế kỷ XVIII và XIX. (ND)↩︎
Alexis-Charles-Henri Maurice Ciérel de Tocqueville (1805-1859) là đại biểu Quốc hội (giai đoạn 1839-1848), Phó Chủ tịch Quốc hội và Bộ trưởng Ngoại giao (năm 1849) của Pháp. (BTV)↩︎
Tên mà người dân địa phương đặt cho ông: Big Bill và Devil Bill. (BTV)↩︎
Andrew Carnegie (1835-1913) là nhà tài phiệt ngành thép góp phần làm cho ngành công nghiệp sản xuất thép của Mỹ phát triển mạnh mẽ vào cuối thế kỷ XIX. (ND)↩︎
Jay Gould (1836-1892) là nhà đầu cơ, nhà tài chính, tài phiệt ngành đường sắt. (ND)↩︎
J. Pierpont Morgan (1837-1913) là nhà kinh doanh, tài chính, từ thiện và sưu tập nghệ thuật người Mỹ có vai trò to lớn trong nền công nghiệp Mỹ cuối thế kỷ XIX. (BTV)↩︎
CHƯƠNG 1
1. RAC, Inglis phỏng vấn, 4.12, “Hoster Manuscript.”
2. Nevins, John D. Rockefeller: The Heroic Age of American Enterprise, tập 1. I, tr. 141.
3. Rugoff, America’s Gilded Age, tr. 97.
4. The World, ngày 1 tháng 11 năm 1903.
5. The World, ngày 1 tháng 11 năm 1903.
6. The World, ngày 1 tháng 11 năm 1903.
7. Nevins, John D. Rockefeller, tập I, tr. 151.
8. RAC, Inglis ghi chú, 4.8, “Richford.”
9. RAC, Inglis phỏng vấn, tr. 1665.
10. The World, ngày 3 tháng 11 năm 1903.
11. RAC, Inglis phỏng vấn, 4.8, “Phỏng vấn Mrs. John Wilcox.”
12. RAC, Inglis phỏng vấn, 4.8, “Phỏng vấn Mrs. John Wilcox.”
13. RAC, Inglis phỏng vấn, 4.8, “Phỏng vấn S. H. Steele.”
14. IMT, B 4/14T-293, “Report on Rockefeller Family”(tạm dịch: Báo cáo về Gia đình Rockefeller).
15. RAC, Inglis phỏng vấn, 4.8, “Richford.”