🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tình Bạn Cao Quý
Ebooks
Nhóm Zalo
Tình Bạn Cao Quý
Series Animorphs Phần 40
K. A. Applegate
Chia sẽ ebook : http://downloadsachmienphi.com/ Tham gia cộng đồng chia sẽ sách :
Fanpage : https://www.facebook.com/downloadsachfree Cộng đồng Google : http://bit.ly/downloadsach
Table of Contents
TÓM TẮT NỘI DUNG TẬP 39
CHƯƠNG 1
CHƯƠNG 2
CHƯƠNG 3
CHƯƠNG 4
CHƯƠNG 5
CHƯƠNG 6
CHƯƠNG 7
CHƯƠNG 8
CHƯƠNG 9
CHƯƠNG 10
CHƯƠNG 11
CHƯƠNG 12
CHƯƠNG 13
CHƯƠNG 14
CHƯƠNG 15
CHƯƠNG 16
CHƯƠNG 17
CHƯƠNG 18
CHƯƠNG 19
CHƯƠNG 20
CHƯƠNG 21
CHƯƠNG 22
CHƯƠNG 23 CHƯƠNG 24 [1]
[2]
TÓM TẮT NỘI DUNG TẬP 39
TẬP 39: HÀNH TRÌNH CẤT GIẤU HỘP BIẾN HÌNH
1. Người kể chuyện:
Cassie.
2. Nội dung:
Erek báo tin bọn Yeerk đã sửa chữa xong và mang vào sử dụng con tàu của lũ Helmacron. Con tàu này có khả năng phát hiện năng lượng biến hình tỏa ra từ những vụ biến hình và đặc biệt, tỏa ra từ hộp biến hình.
Hội Animorphs họp mặt ngay lập tức, quyết định nhờ các bạn người Chee đóng giả vai của mình ở nhà, còn 6 bạn trẻ lập tức di dời hộp biến hình và tản ra để khi biến hình không tập trung ở một chỗ. Năng lượng biến hình tỏa ra từ hộp biến hình trên người Cassie thu hút con tàu Helmacron lẵng nhẵng theo nhỏ. Nó định vị và chỉ dẫn cho bọn Mượn xác người dưới đất hướng đuổi theo Cassie. Bị đuổi quá rát, Cassie buộc phải chui vào một thùng 1 cái xe tải, trong đó có 1 chú bò tót châu Phi có tên Kẻ Làm Góa Bụa. Vô tình, trong khi xe chạy, chú bò này đã chạm vào hộp biến hình và nó cũng có khả năng biến hình. Quan sát được quá trình Cassie biến hình từ người qua chính nó, Kẻ Làm Góa Bụa học theo và biến hình thành lão Chapman – ADN có được khi nó húc phải lão khi lồng chạy theo con bò tót-Cassie.
Một quái vật, do vô tình, đã được Cassie tạo thành. Nhưng vì đó là một con bò, nó hành động hoàn toàn theo bản năng. Cũng nhờ nó mà mấy lần Cassie thoát được khỏi tay bọn Yeerk.
Tình thế trở nên cực kỳ nguy hiểm. Các thành viên Hội Animorphs buộc phải tìm cách phá hủy con tàu Helmacron, giết chết quái vật Kẻ Làm Góa Bụa. Lần này, sự thành công của kế hoạch phải phụ thuộc vào khả năng biến hình thiên bẩm của Cassie. Nhỏ biến hình thành chim, bay lên bên trên con tàu, chế ngự quy trình hoàn hình rồi biến hình lại thành cá voi sao cho bọn Yeerk không thể phát hiện ra ẩn sau lốt chim và cá đó là một con người.
Kế hoạch phá hủy con tàu thành công, Kẻ Làm Góa Bụa rớt xuống vực, 6 bạn trẻ lại trở về nhà như những đứa trẻ bình thường sau một ngày dài kiệt sức với chạy, biến hình, chạy, hoàn hình, rồi lại chạy. Hộp biến hình vẫn được bảo toàn.
3. Nhân vật quan trọng:
Hội Animorph: Jake, Marco, Rachel, Cassie, Tobias, Ax
4. Những loài thú mới được thu nạp:
Jake:
Marco:
Rachel:
Cassie: Bò tót châu Phi
Tobias:
Ax:
5. Những lốt hình được sử dụng:
Jake: Sói, Cá heo, Ruồi, Hải âu, cọp Xibêri.
Marco: Sói, Cá heo, Ruồi, Hải âu, Khỉ đột.
Rachel: Sói, Cá heo, Ruồi, Hải âu, Gấu xám.
Cassie: Bò tót châu Phi, Cá voi lưng gù, Hải âu, Sói Tobias: Cá heo, Ruồi, Sói.
Ax: Cá heo, Ruồi, Hải âu, Sói.
CHƯƠNG 1
Tôi là ai?
Marco.
Không phải là Tuan hay Kevin cũng hổng phải là Rasheed à nha.
Nè, nghe nè,"Chào, tôi là Marco."
Nếu bạn hét lên,"Này, Marco!" thì nhiều khả năng tôi sẽ ngoái lại và đáp."Gì thế?"
Bạn có thể nói rằng với câu hỏi "tôi là ai" thì có thể cung cấp nhiều thông tin hơn là chỉ mỗi một cái tên. Ừm, điều đó phụ thuộc vào con mắt phối cảnh của bạn, vào vị trí mà bạn đang đứng khi hét tướng tên tôi.
Như thế này nhá, giả sử bạn đang đứng tách biệt hẳn với thế giới thường nhật - ở quán Tôm Hùm Đỏ, nơi bạn có thể ăn tôm vào mỗi tối, hay ở một góc đường trong khu trung tâm, hay ở bên trong khu thương xá chẳng hạn - bạn sẽ thấy rằng tôi có một chiều cao khá khiêm tốn.
So với khoảng 99.9 % người trên hành tinh này, trả lời cho câu hỏi "bạn là ai", với tôi là cả một vấn đề phức tạp hơn rất nhiều. Với 0.1% số người còn lại - ấy chắc chắn là các bạn của tôi rồi – cũng thế thôi. Đó là các thành viên Hội Animorphs – Người Hóa Thú - còn lại: Jake, Cassie, Rachel, Tobias - anh chàng người chim và Ax - em trai của Elfangor.
Rõ ràng rằng, tụi tôi phải đối mặt với rất nhiều vấn đề khó khăn, những vấn đề quá ư là phức tạp khiến tụi tôi phải tốn rất nhiều thời gian để ngẫm nghĩ tìm cách giải quyết. Hay cũng có thể nói: vấn đề tụi tôi đã trở nên quá phiền phức, đã trở thành mối quan tâm hàng đầu đối với “bọn chúng”.
Bạn cứ tha hồ mà tưởng tượng bằng tất cả những cách mà bạn có thể, trong hoàn cảnh đó, tụi tôi đã giỏi lên rất nhiều. Hoàn thành nhiệm vụ, rồi đi mua áo thun và mấy tờ áp phích quảng cáo. Nếu có bất cứ ai ở hãng bảo hiểm Guardian hay Prudential biết được sự thật về tụi tôi, chắc hẳn tụi tôi sẽ hổng bao giờ có được một hợp đồng bảo hiểm y tế cho mà xem. Quên đời đi nhé.
Tôi và các bạn của tôi được chỉ định sống một cuộc đời vô cùng khắc nghiệt, đối mặt với những mạo hiểm cao độ.
Tụi tôi hổng cần phải đăng ký tham dự lớp học tại trường đại học cộng đồng hay phải trả 150 đô 1 giờ cho một tay Bác sỹ tâm thần dẻo miệng nào đó để được người ta bảo cho rằng tụi tôi hổng nhận ra khả năng tiềm ẩn của mình.
Tụi tôi đã nhận thức được rõ những tiềm năng ấy của mình một cách quá sức tưởng tượng.
Đấy, cuộc chiến này sa xuống Trái đất, khiến ta phải lựa chọn giữa sự sống và cái chết, giữa tự do hay trở thành nô lệ, giữa lòng tự trọng hay tình trạng nhục nhã, đê hèn.
Và thất bại hổng phải là một lựa chọn hay.
Túm lại – tụi tôi có mặt ở đây để phục vụ, hổng chỉ là cho bản thân tụi tôi mà còn cho tất cả các bạn nữa kìa.
Chính vì thế, cứ sau mỗi cuộc đánh đấm tơi bời, được ở một mình thật là hạnh phúc. Tạm thời đóng cửa với thế giới bên ngoài và tha hồ làm điều mình muốn, chỉ có riêng mình mà thôi; hoàn toàn buông thả; thư thái tâm hồn; chẳng cần mệt óc suy nghĩ hay cực thân chạy nhảy hì hục…
Căn nhà vắng lặng. Ba tôi và dì Nora đã đi họp hội phụ huynh học sinh. Chú chó Euclid đang nằm viện thú y để làm tiểu phẫu. Jake và Rachel bận việc nhà. Cassie thì đang cùng với mẹ dự hội nghị thú y tổ chức ở Lâm Viên. Còn Ax và Tobias, tôi đoán, hai chú cháu họ đang bận bịu với những việc mà mà một chú diều hâu đuôi đỏ với một người ngoài hành tinh thường làm trong một buổi tối thảnh thơi. Tôi chỉ cần biết rằng mình đang sung sướng vì được ở một mình.
Tôi nằm chèo queo trên chiếc tràng kỉ trong phòng khách, ườn xác ra như con mèo già lười biếng, với chiếc điều khiển tivi trên tay, khoan khoái tận hưởng những phút giây một mình hổng bị ai quấy rầy.
Ti vi chẳng có gì đáng xem. Tôi đổi kênh xoành xoạch, hết phim hoạt hình Anh chàng Bob mút xốp bận quần vuông, tôi quay qua trận đấu bóng chày cấp địa phương, tới Hai Phụ Nữ Béo trên kênh dinh dưỡng rồi lại sang chương trình phim tài liệu về những con bọ cánh cứng.
A đây rồi! Chương trình truyền hình Những Điều Huyền Bí chưa được giải đáp. Bá cháy! Quái vật Hồ Loch Ness. Người chân to. Những sinh vật ngoài vũ trụ…
Fake-Spooky, người dẫn chương trình dòm thồ lố vào ống kính. "Sau tiết mục quảng cáo, chúng ta sẽ tiếp tục xem xét kỹ hơn nữa sự việc bí ẩn do một nhà quay phim nghiệp dư tình cờ chộp được cách đây vài tuần, ở ngay đây, trên…
Tôi nhấn nút tắt tiếng và chờ. Tôi ư ử một bản của ban nhạc Kid Rock, ngáp, nhấm nhấm cắn miếng da xước ra bên cạnh móng tay. Sau bảy mẩu quảng cáo mang tính thương mại, chương trình trở lại.
Và rồi, thế giới như nứt toạc ra…
CHƯƠNG 2
Một khối màu xanh da trời lưới băng qua màn hình. Chỉ nhiêu đó không hơn. Một mẩu phim video được quay bởi đôi tay không chuyên, run rẩy trong điều kiện ánh sáng thảm hại. Nhưng chừng đó cũng đủ cho những hồi chuông báo động trong tôi rung lên giòn giã.
“Liệu bằng chứng này có đủ sức để chứng minh về sự tồn tại của những sinh vật truyền thuyết, chẳng hạn như kỳ lân thời Trung cổ không?” giọng người xướng ngôn vang lên trầm bổng. “Hay khối màu xanh da trời ấy là quái vật đầu người mình ngựa trong thần thoại Hi Lạp? Chúng ta hãy cùng xem lại một lần nữa nào.”
Tôi nhấn nút ‘power’ và ngay lập tức, màn hình chuyển màu xám đục. Chỉ cần nhìn qua một lần là đủ.
Cái màn hình đó lờ mờ với con mắt của những ai khác kia, chứ với tôi, nó rõ rệt, không thể lầm được.
Andalite!
Tôi hộc tốc phóng từng hai bậc một lên cầu thang về phòng mình.
Thiệt tệ hại. Tệ hại lắm lắm. Một lỗ hổng an ninh để khởi đầu sự cáo chung của chúng tôi…
Ai mà biết có bao nhiêu công dân của Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ và bao nhiêu cư dân các quốc gia khác đã thoáng thấy hình ảnh của người hành tinh thứ thiệt đó chứ?
Tám mươi hay chín mươi phần trăm khán giả truyền hình sẽ bấn loạn, phấn khích lên về cảnh tượng ba mươi giây kia - ít nhất cho đến khi có một con quái vật dớ dẩn nào đó xuất hiện trong một chương trình ngớ ngẩn khác.
Mười hoặc hai mươi phần trăm người xem sẽ nhận ra sinh vật có màu lông xanh da trời đó là loài nào.
Hổng phải là quái vật đầu người mình ngựa hay là kì lân[1] gì sất. Mà là một người Andalite. Ở đây - trên trái đất.
Trừ Visser Ba ra, chỉ còn một người Andalite khác có mặt trên Trái đất này, và người đó chính là Ax.
Visser Ba và tất cả những tên Yeerk khác đều biết về sự tồn tại của "băng thảo khấu Andalite." Có một nhúm thôi nhưng hổng ngừng kháng chiến hòng làm chậm lại những bước tiến của lũ Yeerk.
Nhưng những người khác — những người hổng bị bọn Yeerk điều khiển — thì hổng biết. Mà họ hổng thể và cũng hổng nên biết. Họ mà biết ư, thế thì thiệt là quá nguy hiểm, và đầy rủi ro. Thật tội cho Ax nếu như ảnh bị Visser Ba bắt làm tù binh. Và tệ hơn nữa, ảnh sẽ bị chính phủ chú ý săn lùng và nghiên cứu.
Chẳng phải mọi nhân vật trong “chính quyền” đều quang minh chính đại như Scully hay Mulder, mà trong đó còn có bọn Yeerk trà trộn nữa…
Ax sẽ không bị bắt. Tôi tự hứa với mình như vậy.
Cả ngàn nỗi lo lắng lướt vèo vèo qua đầu tôi, cũng nhanh hệt như những bước chạy của tôi lên cầu thang ào về phòng mình.
Mình phải lấy lại bình tĩnh. Tập trung nào. Cần phải tập trung.
Tôi lại giường, vun gối thành một đống dưới cái mền, để nếu ba tôi và mẹ kế tình cờ ngó vào kiểm tra sẽ tưởng là tôi đang ngủ, hổng biết rằng tôi đã biến ra khỏi nhà mất tiêu rồi. Lại thêm một lần dối trá nữa.
Vừa với tay lấy bộ đồ biến hình xuống, tôi vừa trút bỏ quần jean, áo thun rồi nhẹ nhàng nhét vào hốc tủ quần áo của mình. Mở toang cửa sổ, tôi bắt đầu biến hình.
Tôi tâm niệm phải di chuyển thiệt nhanh.
Bình! Bình!
Cơ thể tôi nhăn nhúm lại. Những móng vuốt chim lòi ra từ các đầu ngón chân của tôi. Bàn chân và mắt cá chân teo quắt đi, thun vô và đột nhiên trở thành bàn chân chim chẻ ba móng vuốt. Ba cái chìa ra trước, một cái chĩa về sau.
Không cách chi mà hai bàn chân chim tí hin thế này có thể đỡ được hai cái chân người kềnh càng của tôi. Tôi té rụi.
UỴCH!
Tôi ngã ngửa ra, ngóc đầu lên và thấy hai cẳng chân mình đen đi, thụt vào trong người như hai xiên thịt bò nướng thui bị anh cao bồi già cáu mút tụt vô mồm.
Ngay vào giây khắc ấy, tôi thề rằng mình sẽ hổng bao giờ ăn một cái bánh que hiệu Slim Jim nào nữa.
Biến hình chẳng đau đớn chút nào, cho dù bạn có thể hình dung ra như thế. Nó chỉ ghê ghê mà thôi.
Mặc kệ, tôi vẫn tiếp tục quan sát, như thể việc chứng kiến ấy có thể thúc đẩy được quá trình biến hình diễn ra nhanh hơn. Những ngón tay tôi cong quặp vào. Da thịt người rám nắng của tôi chuyển xám và rồi biến mất dưới đám lông vũ. Cả hai cánh tay tôi cũng túa ra đầy lông và lông, đồng thời xương cánh tay co rút, rỗng ruột, định hình lại và trở thành đôi cánh.
Miệng và mũi tôi hòa tan vào nhau, cứng lại thành cái mỏ cứng khoằm khoằm, chết người. Còn lục phủ ngũ tạng thì kêu lóc bóc. Eo ôi! Tôi cảm thấy bảy tám mét ruột người xoắn xuýt, ép gọn thành bộ lòng ó biển tí xíu.
Trái tim người đập từ tốn, đều đặn, chợt dồn lên thành những xung động rần rật của trái tim loài chim săn mồi.
Tôi đã không còn là người nữa. Chẳng đủ cao để thấy những quyển vở nằm vật vạ trên bàn học, và mớ giấy gói bã sing-gum đáng ra tôi phải vứt đi từ lâu, nhưng đủ gần tấm thảm để thấy những vụn bánh mì vương vãi và những sợi lông chó xù rơi rụng.
Tôi đã là ó biển, lốt biến hình tôi có sớm nhất. Nhỡn lực ó biển không phải thuộc hàng tinh tường tột đỉnh, nhưng vẫn tốt hơn thị lực người nhiều - đủ cho tôi thấy đường, bay lẹ tới lòng máng của Ax.
Tôi vút lên bậu cửa sổ, dáo dác đảo đôi mắt sáng như sao để chắc chắn ngôi nhà mình không bị ai nhòm ngó, và vỗ cánh ào vào màn đêm.
CHƯƠNG 3
Ax có ở “nhà”. Và ảnh có “khách” tới chơi, đang đậu trên một nhánh cây gần đó.
Tôi chào.
Tobias đáp lại một cách màu mè.
tôi đáp rồi xòe cánh đáp xuống bãi cỏ và bắt đầu hoàn hình.
Cậu ấy nói thêm.
Tôi hổng trả lời. Đó là một câu hỏi tu từ vô cùng hoàn hảo.
Chưa kể, vào thời điểm ấy, tôi hổng có cái mà Ax vẫn hay gọi là “bộ phận miệng”. Nhưng tôi có mắt. Tivi trong lòng máng của Ax đang mở, tuy hổng ở kênh tôi vừa mới coi…
Tôi hướng cặp mắt mình nhìn thẳng Tobias, rồi đến Ax. “Ax, bồ đã trở thành ngôi sao rồi đó,” tôi nói rành rọt ngay khi cái miệng người vừa thành hình. Một tay tôi phủi lá thông khỏi quần đùi, mặt thì nhăn nhó vì bị một hòn đá nhọn đâm vào bàn chân người hãy còn mềm nhũn.
Tôi kể cho Ax và Tobias nghe nội dung chương trình tivi hồi nãy. Tôi vừa dứt lời, cả lòng máng chìm trong im lặng.
Rồi Tobias cất tiếng trước. <Ừm… họ ghi được hình của chú Ax hả?> Giọng truyền của cậu ta đầy vẻ lo âu.
Ax ngập ngừng, cặp mắt cuống của ảnh ngoặt ra đằng sau, hướng về phía khu rừng âm u. ảnh đáp nhẹ.
Thiệt lòng, tôi chẳng muốn nghe điều đó chút nào.
Tobias nói.
“Bồ nghĩ vậy sao?” Tôi trợn mắt. “Hãy nghe này. Tụi mình hổng có thời gian để tới xếp hàng chờ phát lại hay gửi thư yêu cầu tới đài truyền hình tìm mua bản sao cuốn băng đó đâu. Tụi mình hổng thể chờ được, đêm dài lắm mộng mà.”
<Đúng vậy,> Ax tán thành và bước về phía cái tivi. “Cái gì? Tui chưa hiểu ý bồ.”
Tobias giải thích.
Ax lùi khỏi đống dụng cụ của mình. Với cái rờ-mốt trong tay, ảnh dò lại các chương trình cách đây ba chục phút, cho đến khi tôi coi được đoạn phim nọ.
Vụ dò tìm diễn ra trong vòng hai mươi giây. Ax cứng người lại khi chăm chú coi đoạn phim. Sự im lặng lần này nặng nề và lâu hơn… Lần này, tôi là người cất giọng trước.
“Có phải là bồ không, Ax?” Tôi nôn nóng hỏi.
Ax dồn cả bốn mắt liếc nhanh vào màn hình rồi lại nhìn khắp lòng máng - nghe chừng rất phân vân.
<Ở góc độ đó thì không có gì đảm bảo cả…>
Tobias đề nghị.
Ax làm theo. Tôi căng mắt nhìn nhưng chẳng thấy có gì sáng sủa hơn.
Đó có thể là Ax.
Hay là bất cứ người Andalite nào.
Ngoài Ax, theo chỗ tụi tôi biết, chỉ còn duy nhất một Andalite khác trên trái đất này là Visser Ba. Nhưng không đời nào hắn lại cẩu thả đến nỗi bị quay phim lén. Ngoài ra, hắn không bao giờ xuất hiện mà không có đám bậu xậu tháp tùng.
Trừ phi… trừ phi hắn cố ý muốn chường mặt ra để bị thấy trong chớp mắt. Nhưng tại sao chớ?
“Ax ngố! Có cách nào làm cho hình ảnh rõ nét hơn không?” tôi vội hỏi.
Tobias vuột khỏi cành cây, bay xuống đậu nhẹ nhàng cách màn hình ti vi vài tấc.
cậu ấy quả quyết.
“Vậy thì đó là Visser Ba hả?” Tôi suy luận. “Nghe lại càng quái dị hơn.”
Tobias vừa nói vừa nghiêng đôi mắt diều hâu sáng quắc nhìn chúng tôi.
Ax ngả vai ra sau. <Đó là...>
“Ồ, thế thì là ai?” Tôi hỏi.
Có điều gì đó ngờ vực trong giọng của Ax. Và còn có một âm điệu gì đó khác nữa mà tôi chưa hề nghe thấy trước đây. Hổng phải vẻ kiêu căng cố hữu, mà giống như là sự ghê tởm thì phải.
“Là sao?” Tôi ngớ ngẩn hỏi lại.
Ax đáp lạnh lùng.
“Đương nhiên,” tôi đồng ý, nhìn trối chết trở vào màn hình ti vi. “Bọn Yeerk sẽ truy lùng anh ta và chúng sẽ có thêm một vật chủ Andalite nữa. Chẳng hay ho tí nào…”
Bàn tay èo uột của Ax phe phẩy với điệu bộ xua đuổi.
“Ax, vậy thì bồ nghĩ gì về anh chàng này? Hay để tui đoán mò nha…” tôi cà rỡn.
Tobias trầm tĩnh nói.
“Vậy có nghĩa là cho dù anh ta đang ở đâu, tụi mình cũng phải tìm ta anh ta trước khi Visser Ba tìm ra ảnh. Trừ phi tụi mình quá trễ… Tui thậm chí còn không dám nghĩ tới điều đó nữa.”
Tobias gật đầu.
Nghe như Ax vừa khịt mũi.
Tôi cười toe, khoanh tay trước ngực. “Không đâu, Ax ngố. Chẳng phải là ‘khôi hài’ gì sất. Bồ sao vậy? Bồ có khúc mắc gì với anh chàng này hả?”
Tobias cắt ngang.
Tôi hít một hơi dài và gãi đầu sồn sột khiến tóc tai dựng đứng lên. “Ố ồ, đã tới lúc phải kiếm thêm cho tụi mình một người Andalite nữa rồi,” tôi lè nhè nói và nhìn thao láo vào Ax. “Chớ có quên, ở đây có thể có một khả năng khác đó nha. Mặc dù có cái gọi là danh dự Andalite nổi tiếng-khắp-dải-thiên-hà, nhưng anh chàng này, như tụi mình đã từng biết, hổng chừng là một kẻ phản bội cũng nên. Biết đâu mẩu video đó là một cái bẫy dành cho loài người có trái tim nhân hậu bao la, hổng mảy may ngờ vực chúng ta, những con người đối xử với những sinh vật kém may mắn hơn với sự tử tế và lòng cảm thông”.
<Đúng thế,> Ax bảo, vẫn nhìn tôi bằng cặp mắt chính.
CHƯƠNG 4
Tobias dẫn chúng tôi tới khoảng khu rừng mà nó chắc chắn là nơi người Andalite kia đã bị quay lén.
Căn cứ vào mảng dốc bị cào mòn và mấy cành thông bị tàn phá bởi sét mà Tobias tìm ra manh mối. Nếu Ax là chiếc đồng hồ của hội Animorphs, thì Tobias là một nhà trắc địa, một hướng dẫn viên cực kỳ đắc lực…
Lẽ ra tụi tôi nên báo cho bọn kia biết và chờ đến sáng mai hẵng quyết định. Nhưng không thể túc tắc để lâu được. Trời đã tối mịt nên tôi phải biến hình thành cú để có thể nhìn xuyên
bóng đêm, bắt đầu công việc đơn giản nhất: thám thính.
Ba đứa tôi lượn lờ trên khoảng rừng. Tobias, phi công lão luyện nhất, nhào lượn sát mặt đất, báo động nếu có gì đó khả nghi. Từ tiếng ngọn cỏ lay động, tới những đuôi chuột thoắt biệt tăm, hay những sinh vật mắt nhắm mắt mở chui ra sau giấc ngủ ngày… tất cả đều không thoát khỏi tai mắt của bọn tôi.
Tôi hỏi. Mọi vật trong bóng đêm sáng bừng trước mắt bọn tôi, mọi thứ rõ mồn một, nhưng tôi chẳng thấy gì có vẻ là “nguy hiểm” cả…
Tobias đáp lại.
Nhưng làm gì có những thứ nó vừa kể ra. Bất cứ người hay vật nào để lại dấu vết cách đây vài ngày cũng đều đã bị xóa sạch sau cơn mưa nặng hạt tối qua rồi. Chẳng có bằng chứng gì về một hành động phạm luật hay một cú chơi xấu cả…
Sau gần hai chục phút sục sạo, tôi đề nghị cả bọn nên về nhà ngủ một chút cho lại sức rồi liên lạc với Jake và bọn bạn sau.
Ax nhắc.
Phải, chẳng cần liều lĩnh khi không cần thiết - việc gì phải biến hình kéo dài trong một buổi đêm đen thui như thế này, lại không có đủ lực lượng để canh chừng, bọc lót cho nhau nữa chứ. Xời, ý nghĩ ấy khiến tôi chợt nổi gai khắp người. Ờ, mà coi bộ càng rợn tóc gáy hơn nếu bị kẹt lại trong lốt bọ chét hay chim suốt quãng đời còn lại…
Thế là, trong khi Tobias lượn vòng vèo để canh chừng trên không, tôi đáp xuống rìa Tây của cánh rừng thông và nhanh chóng hoàn hình. Ax đáp xuống các đó vài mét. Tụi tôi nghĩ sẽ an toàn hơn nếu biến hình cách nhau ra…
Phụt! Phụt!
Ố ồ, không còn cánh kiếc gì nữa, nhưng cánh tay chưa lòi ra. Tuyệt.
Phụt! Phụt!
Cánh tay lập chập nhú ra những ngón tay ngắn cũn cỡn ở đầu mút. Từ từ, chúng trở nên đầy đặn hơn. Với đôi mắt vẫn còn là mắt cú, tôi thấy Ax bắt hoàn hình. Thôi, thà đừng nhìn ảnh còn hơn. Tôi ngoảnh mặt sang phải và thấy một con ô-pốt[2] già. Và…
Tobias la hoảng.
Muộn rồi. Tôi mới chỉ có ba phần tư là người. Cuối cùng cũng có chuyện. Hóa ra tụi tôi quá ẩu, đã đánh giá thấp kẻ thù.
Phen này chết chắc quá. Hổng hiểu sao tôi cứ nhìn lom lom vào con thú túi. Bỗng, nó phình lên gấp đôi. Lại gấp đôi nữa. Thêm một lần nữa! Bộ lông xám của nó bắt đầu chuyển sang màu xanh da trời. Từng vệt màu tựa như được đổ ra từ muôn triệu cái lọ nhỏ tí, rồi ai đó cầm cây viết điên cuồng bập tới bập lui làm cho nó đổi màu.
Chẳng cần phải là nhà khoa học lỗi lạc về tên lửa mới biết đây hổng phải là con thú túi bình thường. Nó là một Andalite. Có điều hổng phải là Visser Ba. Cũng hổng phải là chàng Andalite chúng tôi đã thấy trên tivi.
Người Andalite này có cái đuôi cực kỳ dũng mãnh - dài, mập và chắc. Cuối đầu mút là lưỡi dao đuôi mà đối với con mắt đang kinh khiếp của tôi, nó giống cái phảng xén cỏ Grim Reaper thường dùng.
Trong khi tôi vẫn chưa hoàn hình xong, người Andalite nọ đã đĩnh đạc bước tới chỗ Ax. Đuôi ông ta chém phăng vào màn đêm đầy đe dọa, lưỡi dao sáng loáng dưới ánh trăng. Bốn móng guốc bự cỡ nắp ổ trục bánh xe gõ lộp khộp xuống lùm cỏ ướt đẫm sương, khiến sỏi và đá nhỏ văng nảy tứ tán, tụi chuột đồng chạy quáng quàng.
Đây không phải là vecol gì ráo. Ông này là Andalite bự con nhất tôi từng thấy từ trước tới nay. Bự hơn cả Hoàng tử Elfangor-Sirinal-Shamtul, anh trai của Ax; hơn cả chiến binh Aloth Attamil-Gahar hay Alloran-Semitur-Corrass, cơ thể vật chủ của Visser Ba.
Vai ông ta to bằng cả cái lưng của một Andalite bình thường. Ngực nổi múi vuông vức như lực sĩ thể hình. Cánh tay, ngoại trừ màu lông xanh da trời, trông tựa như cánh tay của nhà vô địch hạng trung. Thậm chí cả bàn tay cũng thô bự, rắn chắc như tay thợ mộc hay thợ xây, chứ không mỏng manh như tay Andalite vốn vậy.
Phần đáng gờm nhất: từ cái eo giống người tới cái thân tròn trĩnh như ngựa hay nai, cái ông Andalite này giống y chang người khổng lồ Clydesdale. Một Andalite bự nhất mà tôi từng thấy.
Dù là một chiến binh chiến đấu ra trò, nhưng lính nhỏ Ax chắc chắn hổng cách gì chọi được với Ông Bự này. Chỉ bằng một cú ra đòn nhẹ, ông ta có thể đá Ax bay vống lên trời ngay chứ chả chơi…
Tôi chẳng phải là đứa ham cá cược, nhưng nếu đánh cuộc tôi sẽ đặt hết tiền bạc vào Ông Bự
này ngay từ hiệp đầu.
Nhưng Ông Bự nọ hổng tấn công Ax hay tôi.
Ông ta đứng cách tôi chưa đầy năm mét, chẳng thèm đếm xỉa gì tới tôi mà chỉ nhìn trân trân vào Ax, bây giờ đã trở về hình hài thật với cái đuôi và lưỡi dao lợi hại. Ông Bự dường như đang chờ đợi cái gì đó. Chờ Ax tung đòn trước chăng?
<Ối trời, tệ hại đây,> Tobias truyền giọng riêng để ông Andalite Bự không nghe thấy.
Căng thẳng và cũng hổng thể trả lời Tobias, tôi liếc nhìn Ax.
Ảnh vẫn đứng im, bắt chước tư thế sẵn sàng chiến đấu của đối thủ, chờ cho Ông Bự di chuyển trước.
Ax nói bằng giọng truyền riêng, điềm tĩnh và trầm thấp. Quá trễ!
“Tsserr!” Tobias sà xuống từ bầu trời tối om, móng vuốt giương hết ra! Trong ánh trăng nhờ nhờ, nhìn cậu ấy như một quái vật lông lá của địa ngục.
“Tsserr!”
Ông Bự dịch chuyển! Ổng lùi lại, vươn mắt cuống lên, nhưng cặp mắt chính vẫn dán chặt vào Ax.
Tobias định làm xao nhãng hay làm bị thương ông ta để tụi tôi chiếm ưu thế, nhưng… Phập!
Với tốc độ và sự chính xác kiểu Andalite chính hiệu, Ông Bự vung lưỡi dao đuôi lên nện Tobias một cú trời giáng.
Một tiếng huỵch ghê hồn và Tobias rơi oạch xuống đất.
“Tobias!”
CHƯƠNG 5
Tôi toan chạy tới vồ cơ thể vô hồn của Tobias, nhưng cái liếc mắt sắc lạnh từ Ax khiến tôi đứng chôn chân tại chỗ. Tôi phải làm gì đây? Ít ra phải cứu Tobias trước khi cơ thể cậu ấy bị những móng vuốt chành dành kia xéo nát chứ…
Tôi có thể biến hình, suy nghĩ đó vụt qua não tôi. Tôi có thể…
<Đừng làm, đừng nói cái gì hết, Marco.> Ax nghiêm giọng truyền.
Giờ tới lượt Ax làm chỉ huy ư? Quên đi. Tôi sẽ biến thành khỉ đột…
Lộc cộc Lộc cộc!
Ông Bự lộp cộp phi nước đại đến chỗ Ax.
Lộc cộc Lộc cộc!
Ax phi nước đại vào người Ông Bự.
PHẬẬPP! Ax quăng đuôi vào cổ họng đối phương. Và hụt!
Giờ thì Ông Bự đã nắm thế thuận hoàn toàn. Trước khi Ax có thể tung một cú khác… CHÁÁTT!
Ax phang trúng bản dao đuôi của Ông Bự, và rồi… lăn kềnh ra đất. Ông Bự lùi lại cho Ax đứng lên, đoạn thủng thỉnh kề lưỡi dao đuôi to đùng và cổ Ax.
ông Bự truyền giọng khinh rẻ. Ông ta oặt một mắt cuống về phía Tobias vẫn đang nằm bất động trên mặt đất ẩm ướt.
Ax dõng dạc đáp với vẻ dáng kiêu hãnh đáng khâm phục, mặc kệ lưỡi dao đuôi kề cổ.
Nửa giây trôi qua. Ông Bự đang xử lý cái thông tin mới được cung cấp ấy. Rõ ràng là ổng bị tác động bởi tin này.
Cuối cùng Ông Bự hỏi vẻ hồ nghi. <Đúng vậy.>
Bây giờ giọng truyền của Ông Bự trở nên mạnh mẽ, đầy thách thức.
Cái quái gì đây? Bất giác tôi cảm thấy chơi vơi trước sự tao ngộ kỳ quặc của hai Andalite cùng xuất thân từ học viện quân sự. Và trong khi họ đấu khẩu thì Tobias…
<Đúng thế,> Ax nói.
Giọng truyền của Ông Bự rống lên tức tối, khiến đầu tôi bưng bưng. Tôi nhìn chết trân lưỡi đao đuôi của Ông Bự đang ấn sâu và da thịt Ax. Một dòng máu rỉ ra.
Ông Bự tiếp, giọng đã bớt gay gắt hơn.
Ax hổng ngốc. Khi ảnh nói, ảnh cố giữ cho giọng mình vẻ điềm nhiên.
Trời đất. Có thể liệt Ax vào hàng tài tử thượng thặng, có khả năng sắm vai cùng minh tinh Gwyneth Paltrow trong phim Shakespear Đang Yêu chứ chả chơi. Ngoài ra, Ax còn có thể là một nhà ngoại giao đại tài ấy chứ. Trong khi tôi sợ muốn tè ra quần, thì Ax lại hành xử như một anh hùng trên sân khấu nhà hát liên bang, hùng hồn phô bày vẻ duyên dáng dưới ánh trăng…
Bốn mắt Ax đột nhiên lóe lên vẻ kính phục. Giọng truyền của ảnh lộ ra vẻ phấn khích.
Gafinilan bỏ lưỡi dao đuôi ra khỏi cổ Ax, dáng điệu có vẻ hơi bối rối. Hình như ông ta vừa hài lòng vừa không hài lòng khi được Ax ca ngợi lên tận mây xanh. Ông ta thôi không dán mắt chính vào Ax nữa.
Ax nói tiếp, vẻ kích động.
Gafinilan cay đắng đáp. ông ta buồn bã thêm.
Ax có vẻ phản kháng.
Gafinilan yêu cầu, không mở đường cho Ax tranh luận.
Tôi vẫn đứng ngây như phỗng, đứng im hơn cả khi dự đám tang mẹ tôi, nhưng lần này, tôi sợ đến từng chân tóc.
Câu chuyện về những Andalite nổi loạn, có hành vi phản chiến không còn làm tôi và các bạn bàng hoàng nữa, sau khi tụi tôi được biết về những gì ông Alloran đã làm trên hành tinh Hork Bajir, về hoàng tử Elfangor-Sirinal-Shamtul và việc làm trái luật lệ nghiêm khắc của xã hội Andalite và mới đây, về Arbat-Elevat-Estoni, người suy tính tới một cuộc chiến tranh ghê rợn khác…
Nhưng không hiểu sao, ở Ông Bự này vẫn toát ra một cái gì đó khiến tôi cảm thấy ớn lạnh. Tôi tin chắc những lời ông ta nói là thật - rằng chúng tôi sẽ bị giết nếu còn đi tìm ông ta và Mertil.
Trừ phi…
Thoáng trong khóe mắt, tôi thấy Tobias động đậy. Ơn trời, nó vẫn còn sống nhăn, nhưng nếu nó biết thân biết phận đừng làm gì để gây chú ý thì tốt hơn…
<Đi đi, lính nhỏ Aximili. Hãy đưa bạn bè anh ra khỏi nơi này. Visser Ba sẽ tới đây bất cứ lúc nào. Hắn sẽ không nhẹ tay như tôi đâu…>
Gafinilan ngắt ngang một cách dứt khoát.
Garfinilan quay đi, cả bốn mắt hướng về khu rừng tăm tối. Ông ta bước ra khỏi ánh trăng. Tới bìa rừng, Gafinilan dừng lại nhưng chẳng hề quay mắt về phía chúng tôi…
CHƯƠNG 6
Tụi tôi bám theo Gafinilan. Dĩ nhiên là ông ta biết tụi tôi sẽ làm như thế. Và giờ đây tôi cũng biết ông ta sẽ hổng gây tổn hại gì cho tụi tôi đâu.
Gafinilam đã gài bẫy tụi tôi và đánh xỉu Tobias, nhưng ông đã tha mạng cho tụi tôi, tại sao vậy?
Phải có một lý do gì đó…
Chắc hẳn ông ta đã thấy tôi hoàn hình. Có thể ông ta không nhìn thấy toàn bộ quy trình. Có thể ông ta nghĩ mình còn bỏ sót điều gì đó, hoặc đang phân vân rằng: có thể tôi biến hình từ cơ thể Andilate tự nhiên thành người…
Không! Chắc hẳn ông ta đã thấy tất cả. Linh cảm mách bảo cho tôi điều đó. Chứ làm gì có chuyện, khi không một anh chàng bốn chân và một lưỡi dao đuôi lợi hại lại thích biến thành một sinh vật có da mỏng, đi đứng chậm chạp làm gì?
Mà việc ông ta có phát hiện ra điều gì đó về tôi sau khi thấy tôi hoàn hình cũng hổng mấy
quan trọng, miễn là ổng sống hổng đủ lâu để mà có thể tiết lộ được với ai đó.
Tôi nhanh chóng biến thành sói, Ax thành diều mướp, trong khi Tobias kiểm tra mình mẩy coi có sây sát gì không. Cuối cùng nó kết luận là không sao. Do đó, dù còn hơi run rẩy, nhưng nó vẫn theo hút Gafinilam.
<Ông Bự đó nhanh thiệt, mình không kịp vụt lên né. Cây cối dày đặc quá, với lại ánh sáng thì cực kỳ tệ hại…>
Tôi vụt đi, bỏ ngoài tai những lời phân trần của Tobias. Với khứu giác cao siêu, sức chịu đựng bền bỉ và lanh lẹ đáng ngạc nhiên của sói, tụi tôi có nhiều cơ may tìm ra dấu vết Gafinilan. Tôi hy vọng thế.
tôi gọi với.
Tôi chạy băng băng qua khu rừng dày đặc, tối om, như chạy trong mê lộ tới giật giải thưởng ở trung tâm - một phần thưởng mà chẳng ai thèm ham vì nó quá nguy hiểm và có thể chết người, một phần thưởng mà người ta cần phải tiêu hủy nó trước khi nó hủy diệt họ - nhưng đó là phần thưởng tôi buộc phải đoạt lấy, bằng bất cứ giá nào…
Tôi chạy vòng vèo qua những thân cây thông đen thùi và những tảng đá xù xì, chui dưới những cành cây trĩu nặng. Không khí ướt lạnh vùi lấp mùi ngai ngái của lá mục và đủ thứ hằm bà lằng khác. Dù sao mũi sói vẫn đang bắt được mùi của Ông Bự nên tôi vẫn cắm cúi chạy tiếp.
Ở phía trên, Ax và Tobias vỗ cánh bay hết tốc lực trong lớp không khí ban đêm lạnh ngắt. Nhưng như vậy vẫn không đủ.
<Ổng biến mất rồi!> Tobias thình lình hét.
Tôi dừng lại dưới cành cây Tobias vừa đáp lên, hết dí mũi xuống đất, ráo riết định vị Gafinilan lại ngẩng đầu lên và hít hít không khí. Ax vừa mới đáp xuống gần đó.
Tobias bực dọc truyền ý nghĩ…
tôi thêm.
Ax trầm ngâm.
Tôi vừa nói vừa luẩn quẩn đi tới đi lui, cố vận dụng tất cả những giác quan sói để dò xét. <Ông Bự đó đi đường này. Dấu vết mập mờ… nhưng… nhìn này!>
Hình như có một cái hang hay lối mòn, cách chúng tôi khoảng ba mét về bên phải. Nếu không chú tâm sẽ không tìm ta nó. Lối vào thấp và hẹp, gần như khuất biệt sau những cành thông giăng dọc ngang.
tôi nói.
Tobias ề à.
Một cái gì đó đang ra khỏi hang. Ồ, một con người - chính xác là một người đàn ông.
Ông ta dừng lại ngay cửa hang, rồi thận trọng nhìn khắp xung quanh. Có vẻ như ông ta đang coi xem có bọn do thám nào đang núp sau những thân cây không…
Trông ông ta không có gì nổi bật. Diện mạo tầm tầm, chiều cao và trọng lượng trung bình, tuổi cỡ trung niên, tóc hoe hoe giữa màu nâu và vàng, không dài không ngắn. Ông ta mặc một cái quần jeans chả có gì đặc biệt, một áo sơ- mi màu sậm và chân đi đôi giày tennis màu trắng.
Ông ta thuộc típ người sẽ chìm nghỉm trong đám đông ngay lập tức, là dạng người nhạt nhẽo mà Jake sẽ trở thành nếu như định mệnh không chọn cho nó một con đường kỳ khôi, lạ đời là trở thành thủ lĩnh của Hội Animorphs.
Có vẻ như đã yên tâm, người đàn ông lách khỏi hang, nhanh chóng nhắm thẳng vô khu rừng đen ngòm gần đấy.
Bình thường, có lẽ tụi tôi đã bám theo ông ta, vì bộ dạng khả nghi như thể vừa từ vũng Yeerk chui ra. Nhưng Gafinilam còn quan trọng hơn nhiều, cho nên tụi tôi để mặc ổng đi.
Hụp người sát rạt xuống mặt đất ướt chèm nhẹp, bụng chạm vào lớp thảm lá thông, rêu mốc và sỏi đá, tôi chậm chạp di chuyển về phía miệng hang và chờ, phòng hờ có người khác vọt ra. Vài phút sau,tôi ngửi ngửi lối vào. Ồ, Gafinilan đã đi qua đây. Tôi chuẩn bị tinh thần để chui vào vũng Yeerk nếu như tụi tôi buộc phải xuống đó, cốt để tìm thấy ông Andalite trước khi ông ta làm lộ hết bí mật của tụi tôi.
Tôi hổng hề chuẩn bị tinh thần để đón nhận những gì tôi trông thấy bên trong hang. Ở trỏng chẳng có gì cả. Hổng bảng điều khiển giả, hổng cửa bẫy hay những bàn phím gài mã
số bí mật. Hổng gì hết. Chỉ là một khoảng không tịt mịt, tò hõ đầy bụi bặm bên trong một tảng đá lớn…
Tôi bò ra khỏi hang.
Ax đang đậu trên một cành cây chắc mập, canh chừng cửa hang, nói vọng xuống.
Ôi trời, lại thêm một sai lầm thứ hai trong đêm nay…
Tobias bất ngờ thông báo từ đâu đó trên cao.
Tôi chạy vọt ra. Ra tới bìa rừng, tôi lập tức hoàn hình rồi biến thành cú.
Tụi tôi theo dấu Gafinilan tới vùng lân cận trường đại học và thấy ông ta bước vào lối xe chạy tới trước cửa một căn nhà bình thường. Một nông trại nho, giống như bao ngôi nhà khác ở khu này. Trên thùng thư màu đen đề chữ “H. McClellan” màu vàng, rất đúng chuẩn mực.
Gafinilan dừng lại trước cửa, nhìn quanh rồi thọc tay vào túi quần, lôi ra chùm chìa khóa và mở cửa đi vào.
Tụi tôi bay vòng vèo và chờ. Chỉ nghe tiếng ổ khóa lách cách trượt vào vị trí. Không có đèn bật lên trong nhà, ngay cả sau đó bốn phút.
Tobias thắc mắc.
Ax gạt phắt.
tôi hô. <Đã đến lúc phải báo cáo sự việc với thủ lĩnh can trường của chúng ta rồi.>
CHƯƠNG 7
“Jake, Ông Bự đó đã dòm thấy tui hoàn hình.”
Vừa nghe tôi nói đến đó, Rachel đã nhảy nhổm khỏi thanh rào gỗ nhỏ đang ngồi. Đó là trước giờ đi học vào sáng sớm hôm sau, khi chúng tôi tụ tập trong trang trại nhà Cassie như thường lệ. “Tuyệt lắm, Marco. Làm ăn hay quá há,” nhỏ móc mỉa.
“Nhưng mà,” tôi chống chế. “Ổng thậm chí không hề giật mình, hổng buồn nhìn tui lấy một lần hay nói chuyện với tui nửa câu, cũng chẳng hỏi Ax về tui luôn. Cứ như ổng cóc thèm quan tâm tới tui vậy…”
“Thế thì mình có một câu hỏi: tại sao vậy?” Jake trầm ngâm. “Nên nhớ Cơ trưởng Gonrod đã ngạc nhiên tới độ muốn ngất đi khi thấy con người có quyền năng biến hình. Chắc hẳn đầu óc Ông Bự đang chú ý tới một cái gì đó lớn lao hơn.”
“Ố ồ, chắc chắn rồi. Như tui đã nói khi nãy đó, ổng chẳng hỏi han gì ráo,” tôi càm ràm. “Thiệt chẳng hiểu gì hết. Ổng cũng chẳng thèm hỏi vì sao Ax biết tin vể cuộc xung đột ở hành tinh Rakkam Garroo. Chẳng hỏi tui hay ảnh có bao nhiêu “đồng đội”, hoặc tụi mình là ai, vân vân. Ai lại vô tâm đến thế hổng biết. Có thể đó là sự thờ ơ có tính toán.”
<Ông ta còn bảo chúng tôi rằng Visser Ba sẽ đến bất cứ lúc nào,> Ax thêm.< Cứ như ổng biết thói quen của hắn và đang nóng lòng muốn gặp hắn vậy.>
Tobias nói.
Tôi cười. “Rõ quá rồi. Chắc chắn là giữa hai kẻ đó có một mối quan hệ. Dựa vào việc Gafinilan hối tụi mình đi đi, và dĩ nhiên, vào lời đe dọa giết tụi mình nếu không để yên cho ổng và người bạn của ổng. Theo tui nhận định, nếu ổng không ủng hộ tức là ổng chống lại chúng ta.”
Jake đưa tay chà chà cái gáy của nó. “Nên nhớ, ông ta không ở lại để gặp Visser Ba và luôn có khả năng kết nạp hai người Andalite đó vào đội chúng ta. Vậy, chúng ta phải để mắt tới ông này. Phải bảo đảm ông ta không làm việc cho một công ty do Yeerk điều hành, hoặc phải tới vũng Yeerk ba ngày một lần.”
“Để em đi cho,” Rachel xung phong.
“Cả mình nữa,” Cassie nói theo.
“Tốt. Ax, bồ biết gì về Gafinilan?” Jake hỏi.
Ax nói đơn giản.
“Ổng đã suýt giết bồ vì lăng mạ ổng mà,” tôi nhắc. “Ổng đã tấn công bồ, một đồng bào Andalite.”
<Ông ấy là một chiến binh, chứ không phải là nhà ngoại giao,> Ax đáp, dường như không tin lắm vào lời nói của mình.
“Thế còn cuốn băng video thì sao?” Rachel chất vấn. “Ai đã quay nó? Làm sao nó được chiếu lên?”
Cassie nhún vai. “Có rất nhiều giả thiết. Có thể hoàn toàn là vô tình, ai đó đi lang thang quay được rồi đem bán cho đài truyền hình hay cho mấy tờ báo lá cải như Sao sáng hay Toàn Thể. Hoặc đây là trò đùa của một tên điên nào đó.”
“Cũng có thể do chính tay Gafinilan quay,” Rachel nêu ý kiến. “Không chừng ông ta thông đồng với bọn Yeerk để lừa ‘băng thảo khấu Andalite’ vào chỗ chết.”
“Nhưng tụi tui vẫn còn sống nhăn răng đây nè,” tôi độp lại. “Nếu giả thuyết của bồ là đúng thì chắc chắn tui đã không còn ở đây để đàm đạo với bồ.”
Tobias lập luận.
“Quá tệ,” Jake nói lạnh tanh. “Bao nhiêu lâu thì người Andalite xuống Trái đất một lần nhỉ? Chúng ta không thể bỏ qua tình huống là Gafinilan và Mertil muốn ẩn dật ở vùng ngoại ô. Tạm thời cứ cho là họ không có ý hại chúng ta, nhưng ta vẫn phải cố tìm hiểu.”
“Theo tui hiểu thì có nghĩa là chúng ta sẽ đột nhập và nhà Gafinilan hả?” tôi hỏi mà biết tỏng câu trả lời.
“Ờ. Chỉ có điều ‘chúng ta’ có nghĩa là bồ và Ax.” Jake bảo. “Nếu Gafinilan phản bội, đi theo Yeerk thì mình không muốn ông ta biết thêm hội viên Animorphs nào khác nữa. Như vậy, xẩm tối nay Marco sẽ ở dạng người - vì cậu đã lộ tẩy rồi - còn Ax ở dạng Andilate. Gafinilan biết Tobias rồi. Nhưng tụi mình cần cậu ấy bay cảnh giới và trinh sát địa hình trong khi hai bồ vào trong. Ax, bồ đi thăm ổng chính thức, nhân danh hoàng tử của mình. Mấy người còn lại sẽ bí mật theo sau và tiếp viện khi cần.”
Tôi cười toe. “Ừa, phòng trường hợp ông ta đòi ‘giết nếu không để tui yên’. Cám ơn nha, bạn
hiền.”
Jake cũng cười, “Không có chi. Khi bồ đi thì tụi này theo chân liền. Nhớ thăm dò coi ông ta đi đâu và làm cái gì. Coi xem ổng có tiếp xúc với Yeerk hay không. À, hãy để mắt tới Mertil nữa.” Jake quay qua Rachel và Cassie. “Nhưng trước tiên, sáng nay phải ráng gặp ông H. McClellan trước khi ông ta rời nhà. Tobias đi với hai bồ. Khi tới giờ học thì bồ thay ca.”
Tobias rời chỗ đậu quen thuộc trên rui nhà. <Được rồi, Jake. Gặp lại các quý nương trên không nha.>
“Thế từ giờ tới lúc cùng Ax đi thăm Người Dơi và Robin, tui được mong đợi phải làm gì đây?” Tôi hỏi Jake khi bọn bạn đã đi hết.
Jake cười ruồi. “Này, Marco. Mình nghĩ bồ đã làm đủ rồi. Thì đó, ba người mấy bồ tự động theo dấu Ông Bự mà chẳng báo cho tụi mình biết. Cứ nghỉ ngơi thoải mái trong vài giờ nữa đi. Có thể cầu nguyện cũng được. Chúng ta sẽ cần tới nó đấy.”
CHƯƠNG 8
Tôi chẳng phải là đứa hay cầu nguyện và mê tín dị đoan. Ờ mà trừ những khi phải đánh bạo mời một cô nhỏ điệu đàng nào đó đi chơi, tôi mới hay cầu cho cô ta đồng ý…
Tôi nhập bọn với Tobias bên trên khu vực nhà H. McClellan. Các ngôi nhà hai ba phòng, có chái; những mái lợp in bóng cây tuyết tùng hình tam giác hoặc tứ giác; những hồ bơi ở sân sau màu xanh da trời, hình tròn hay hình vuông; và những thửa sân trước hình chữ nhật màu xanh lá cây. Một quang cảnh điển hình của người dân Mỹ, nhìn đặc biệt lạ lùng ở góc độ này.
Tobias hỏi.
Tobias đánh võng một vòng, lười biếng mặc cho luồng khí nóng nâng lên.
<Ồ, ngoại trừ lúc ông ta đi vào phòng nghỉ, chắc chắn là để hoàn hình, còn đâu tụi mình đã giám sát ông ta suốt buổi sáng nay. Cassie và Rachel đã lẻn vào bên trong, thấy rằng đó là nơi lý tưởng để hoàn hình. Phần lớn thời gian ông ta ngồi bên bàn làm việc, hoặc tán dóc với mấy đồng nghiệp và ăn bánh cam vòng. Sau đó Rachel và Cassie đi học, còn mình lượn vòng quanh. Vào khoảng 11 giờ, Henry nhận được một cú điện thoại, hình như khiến ông ta run lên. Điều tiếp theo mình biết là ông ta gấp rút về nhà. Trừ phi ông ta biến hình thành con gì đó cực nhỏ và bay đi, còn đâu mình nghĩ ông ta vẫn còn ở đó.>
tôi bảo.
Tôi lướt xuống, gần mái nhà của Henry McClellan. Áp sát khu nhà kính nối liền với ngôi nhà gạch bằng một mái chái dài bốn năm mét, trông giống đường hầm.
Tobias cảnh báo.< Ổng đang xúc động và hoang tưởng.>
Tobias đoán, khi tụi tôi hạ xuống cách nhà kính sáu mét.
tôi nói có kìm giọng bông lơn. <Đừng có thi vị hóa.> Tobias mặc kệ lời nhận xét của tôi. <Ổng kìa,> cậu ấy chỉ.
Gafinilan thấp thoáng bên dưới mái nhà khum khum bằng kính, đọng hơi nước, bên trong rợp mát một màu xanh lá cây…
Tobias giải thích.
Tobias đáp trên một cây sồi bự chảng trong nông trại Henry McClellan.
<Ê, Marco, hổng phải ý hay đâu. Ngộ nhỡ ông ta ngước nhìn lên thì sao?>
tôi phản bác.
<Ừ, nhưng mà…>
Không có nhưng nhị gì hết. Tôi lướt xuống thấp, thấp hơn, mắt căng ra hầu thu hết tất cả mọi chi tiết vào tầm nhìn. Chợt…
Ddzííítttt!
<Ááááá!>
Tôi thậm chí còn chưa đụng vào lớp cửa kính! Một cú điện giật khiến tôi lật nhào, suýt lộn ngửa, cách mái nhà kính chưa tới ba tấc. Tôi kìm lại, đập cánh cuống cuồng, ráng đừng để chạm mái kính, cũng ráng đừng đến gần nó quá giống như một giây trước..
Nhà kính này có trường lực rào quanh. Một biện pháp bảo vệ rất tự nhiên của Gafinilan.
Tôi không thể. Cơn đau xé trời. Ghê gớm quá. Tâm trí người của tôi tê điếng.
Tôi nháo nhào bay lên, chẳng biết về hướng nào hay cố thoát khỏi cái gì. Những giác quan ó biển chiếm lĩnh, khiến tôi cứ bay và bay, chìm đắm trong cơn đau…
Tobias thét lên.
Tôi không thấy có camera giám sát nào gắn trên mái nhà, cho đến khi quá trễ.
Tiếng thét của Tobias xuyên qua tâm trí đang đau thất thần của tôi. Quay lại, tôi thấy cái đầu và đôi tay cầm vũ khí của Gafinilan chĩa xuyên qua cửa sổ mái, chỗ bằng phẳng nhất trên mái
nhà.
Máy Cắt chĩa thẳng vào tôi.
<Đầu hàng đi!> ổng quát ong óng trong đầu tôi. Tôi chẳng trả lời, hy vọng có lẽ - chỉ có lẽ thôi - ông ta sẽ nghĩ tôi chỉ là một con chim vớ vẩn đi lạc…
Đây hổng phải là lần đầu tôi đánh giá thấp ông ta.
Xẹt!
Ông ta bắn! Tôi thấy ánh chớp trước khi cảm thấy cơn đau.
<Ááááá!>
Một trong những móng vuốt của tôi biến đâu mất tiêu.
<Đó là phát súng cảnh cáo!> Gafinilan gằn giọng.
Bạn không thể tưởng tượng được sẽ hoảng vía ra sao khi nhìn xuống thấy một mẩu thân thể mình mất đi - cho dù bạn đang ở đang lốt nào. Thấy khoảng trống huơ nơi đứt lìa có máu và thịt ụa ra.
<Đầu hàng đi!> Gafinilan yêu cầu.
Chẳng có sự lựa chọn nào cả.
<Đi tìm bọn bạn! Đi tìm Ax!> Tôi bảo Tobias bằng giọng truyền riêng. Gafinilan vẫn cầm máy Cắt chĩa vào tôi.
<Đáp xuống sân sau, bên cạnh nhà kính,> ông ta chỉ thị. CHƯƠNG 9
<Ồ, mắt ta không đánh lừa ta đấy chứ.> Gafinilan ngạc nhiên nói, khối cơ bắp nặng cả mấy trăm ký của ổng sững lại.
Tôi chật vật đứng lên trên hai chân. So với việc mất móng vuốt, việc này cũng tệ hại hổng kém. Chỉ có một ít bùn đất rớt vương vãi trên nền nhà.
“Ông nhìn thấy rồi đấy.”
Gafinilan xỉa máy Cắt vào tôi như một ngón tay đang quở trách.
Ông chất vấn.
“Điều đó có gì khác biệt?”
Gafinilan đốp chát.
“Người Andalite ấy đã chết rồi,” tôi nói hờ hững. “Tôi hổng chắc ông còn gọi người nào khác là tội đồ nữa không, nhưng mà, hãy để ông ấy - người hổng hề có lỗi - đặt viên đá đầu tiên.”
Đột nhiên tôi điên tiết lên, quên cả sợ. “Ta chẳng ngụ nghiếc gì cả. Ta nói sự thật. Mi đã thỏa hiệp gì đó với Visser Ba. Ta không rõ mi muốn đạt được điều gì, nhưng ta biết rõ điều này: rằng Visser Ba là Yeerk. Hừ, người Andalite vốn thông minh, sáng láng mà. Vậy thì, hãy cho ta biết cái gì khiến mi làm thế?”
PHỤT!
Tay tôi vội chụp lấy cổ. Né lẹ. Hú hồn - đó là một cú cảnh cáo. Và rồi lưỡi dao đuôi kề vào cổ tôi.
Giọng truyền của Gafinilan trầm thấp và đe dọa.
Là Ax!
Ảnh đã phóng qua hàng rào bao quanh khuôn viên nông trại H. McClellan, đuôi vổng lên, sẵn sàng chiến đấu.
Ax nói, dừng lại cách tụi tôi chưa tới ba mét,
Gafinilan quăng mắt cuống ra nhìn Ax. Mắt chính của ông vẫn chĩa vào tôi, vẻ chán chường. Ông ta mệt mỏi hỏi.
Ax khẳng khái.
Gafinilan không phản ứng lại ngay lập tức mà đứng như trời trồng, cứ như đang ước lường từng đứa tụi tôi. Nét mặt ông ta thật khó đoán.
cuối cùng ông lên tiếng. Từ tốn nhưng mang vẻ bỡn cợt, ông rút lưỡi dao đuôi ra khỏi cổ tôi.
Tôi lùi lại. Cảm thấy da cổ mình tê tê nhồn nhột. “Vậy thì tôi nghĩ cuộc đấu khẩu đến đây là chấm dứt.”
Tôi bước xa khỏi Gafinilan và tiến một bước về phía Ax.
Ông Bự cất tiếng.
Chầm chậm tôi quay đầu lại, nhìn vào Người Andalite Bự.
Trong thoáng chốc, tôi nghĩ mình bắt gặp nét run run trên gương mặt to tướng của ông. Một cái rùng mình nhẹ, hoặc là tôi chỉ tưởng tượng ra.
ông ta lập lại, giọng truyền trầm và bình thản hơn.
Jake đó. Hết xảy.
“Rồi,” tôi nói với Gafinilan. “Chúng ta hãy nói chuyện đi.”
Gafinilan dẫn tôi và Ax qua một cánh cửa bên hông lối vào đường hầm của nhà kính. Từ đó chúng tôi đi vào ngôi nhà chính qua cửa sau - chắc hẳn là có gắn màn hình - và bước vào nhà bếp lịch duyệt, theo đúng kiểu dáng trên các tạp chí Sống Cùng Martha Stewart, Nhà Đẹp hay Tìm Hiểu Kiến Trúc… Mẹ kế tôi thường hay đọc một trong những tờ tạp chí này.
Ax trịnh trọng nhận xét.
Gafinilan đáp, cũng trịnh trọng không kém.
“Đó là nông trại dành cho ông,” tôi bảo. “Lần sau, ông hãy trổ cửa sổ mái ở tất cả mọi phòng chứ không phải chỉ ở nhà bếp.”
Gafinilan làm ngơ lời nhận xét của tôi, tiếp tục dẫn tụi tôi thăm nhà bếp. Nơi này quả là thánh địa của đủ các món đồ gia dụng. Nào là tủ lạnh không đóng tuyết. Lò vi-ba, bếp điện, bếp lò của người Viking. Máy rửa chén Bosch. Máy xay thịt KitchenAid. Tất cả đều sạch và sáng bóng. Dì Nora hẳn sẽ thấy như ở trên thiên đuờng nếu được ở đây. Ôi trời, có lẽ là tôi đã dành quá nhiều thời gian để theo dõi các chương trình bếp núc trên kênh Thực phẩm rồi.
“Ui, nhà bếp thế mới là nhà bếp chứ, Gafinilan,” tôi trầm trồ. “Nhưng coi bộ nó hổng bao giờ được sử dụng. Chẳng có cái chén đĩa bẩn trong bồn, chẳng có chảo nồi treo trên tường hay giẻ nhúng xà bông trên kệ. Đời nào ai lại tin là hai người các ông sống ở đây.”
Gafinilan hướng mắt chính vào tôi. <“Hai người các ông” không sống ở đây,> ông ta chỉnh lại. <Ít ra là theo như con Người nhìn nhận căn nhà này thuộc quyền sở hữu của Henry McCellan. Ông ta trú ngụ ở đây một mình, sống lặng lẽ. Phần lớn thời gian ở văn phòng của mình tại trường đại học. Chẳng có bạn bè, ông ta thuộc típ mà loài người gọi là “người cô độc.”>
Ồ, như vậy là một câu hỏi sáng tỏ. Gafinilan dẫn tụi tôi đi qua năm ba căn phòng khác - phòng nào cũng đều nguyên vẹn, chưa sử dụng. Kể cũng phải, những tấm thảm trắng, ghế bọc vải lụa màu hồng đâu có hợp với hai anh chàng móng guốc lấm lem và không có khả năng ngồi kia.
Đúng là Mertil và Gafinilan phải sống ở nơi nào đó khác trong ngôi nhà này.
Thứ duy nhất không ăn rơ với căn nhà hoàn hảo này là mấy bức tranh nghệ thuật. Rõ ràng là mua từ quán tranh của anh họa sĩ nghèo rớt mùng tơi nào đó dựng bên lề xa lộ. Tức là tranh vẽ trên vải nhung đen, được bán trên một chiếc xe Callilac cũ. Có bức phong cảnh biển và cả bức anh hề với đôi mắt buồn so.
Trước khi tôi hỏi xem bức Elvis đang khóc treo ở đâu thì Gafinilan dẫn tụi tôi trở lại nhà bếp. Trên bức tường đối diện cửa có một bàn phím. Nó bị đôi vai chành bành của Gafinilan che mất khi ông lúi húi bấm mật mã. Một cánh cửa ngầm bên trái bàn phím mở ra.
Bằng giọng truyền riêng cho tôi nghe, Ax báo cho Jake biết rằng tụi tôi đang bước vào căn phòng bí mật; rằng Jake và tụi bạn phải sẵn sàng xông vào tiếp ứng khi nghe bọn tôi kêu cứu.
Ax bước lên trước, tôi huýt gió. Đó là một lòng máng tí hon kiểu Andalite.
Gafinilan giải thích.
Tôi cười khô khốc. “Ông khỏi cần nói tôi cũng biết.”
Trạm máy tính! Có gần một chục máy tính. Mỗi màn hình chạy một chương trình khác nhau, nhìn sơ qua chẳng có máy nào quen thuộc với một tay hacker như tôi cả.
Có cả năm sáu màn hình ti vi lớn. Mỗi cái đang chiếu một chương trình truyền hình khác nhau. Tất cả đều là của đài CNN – từ các bộ phim Hollywood tới những chương trình thời sự trực tiếp.
Sàn nhà phủ đầy cỏ êm mượt. Không có ghế, nhưng có một cái bàn cao, dài, trên đó để rất nhiều loại vũ khí cầm tay.
Bức tường sơn tèm lem đủ màu sắc. Trần nhà màu xanh da trời. Hình như không còn phòng nào khác ngoài căn phòng rộng rãi này. Hoặc có thể có mà chìm ngầm trong tường. Không chừng còn có những bản điều khiển bí mật khác.
Bởi vì tụi tôi không thấy Mertil đâu cả.
CHƯƠNG 10
Ax hỏi.
Tới đây thì mọi thứ đã tiến triển tốt.
Nhưng thay vì nhìn đầu móng guốc Ax cọ quệt trên sàn nhà đầy cỏ, tôi lại nhìn vẻ mặt của Gafinilan - chuyển từ thất thần sang bình thản, không thể đoán biết được rất tiêu biểu của người Andalite. Tất cả diễn ra chưa đầy vài giây.
ông Gafinilan nói, xụ người xuống cho thư giản hơn và ít biểu lộ tức tối hơn. ông nói tiếp.
Gafinilan ngừng lại, rồi sau một vài phút căng thẳng, ông nói tiếp.
Gafinilan nói thêm, bằng giọng truyền rầu rĩ,
Ax thì thào, vẻ thông cảm thoáng qua trong giọng truyền của ảnh.
Gafinilan tiếp.
“Vậy anh ấy đâu rồi?” Tôi hỏi. “Tôi muốn gặp anh ấy.”
Ax phản đối.
<Đúng thế!> Gafinilan nói.
“Ồ. Vậy thì vui lòng cho tôi hỏi tạisao?”
Ax giải thích.
“Chà, tôi đâu có chỉ trỏ hay giễu cợt gì,” tôi bảo. “Tôi không thể chào ‘Hi!’ với anh ấy sao?”
Không có tiếng đáp từ cả hai người Andalite. Đáng lý ra tôi nên ngậm miệng lại. Nhưng có điều gì đó khiến tôi không thể không hỏi. Tôi giả bộ cười: “Người Andalite các anh cần phải điều chỉnh lại thái độ với người tàn tật thôi…”
Ax nói gọn.
Gafinilan gọi tha thiết, đổi đề tài.
Chuyện lạ đây. Khi Ax ở trong lốt người, ảnh không thể ngưng ăn bánh quế. Điều đó thật đáng sợ! Ái chà, tôi bắt gặp ánh nhìn sáng rỡ như khi thấy bánh quế nháng lên trên gương mặt Andalite vô cảm của Ax. Nét biểu cảm đó có nghĩa là “Hãy mau thết đãi tôi bây giờ đi, nếu không tôi buộc phải làm ông đau đấy.”
Ax nhã nhặn nói. Gafinilan lộc cộc ra cửa sau, dẫn tụi tôi trở lại nhà kính.
<Ông là một chuyên gia làm vườn, Gafinilan,> Ax tấm tắc khen.
Dẫu chẳng biết mô tê gì về kĩ thuật nhà kính, nhưng tôi cũng phải công nhận là ông Gafinilan có tay trồng trọt. Có ít nhất mười loài hoa được trồng thành những luống thẳng thớm. Hoa hồng, hoa huệ cam, mẫu đơn tím - Gafinilan thật tử tế khi gắn ở mỗi loài cây một tấm biển đề tên, để những người tay mơ đọc mà biết. Những bụi hoa và cụm lá xanh mơn mởn, có cả những thân cây ngâm trong lọ. Trên lối đi nghiêng dốc có rải đá Nhật Bản.
Gafinilan giải thích. Bàn tay bự khác thường của ông cầm năm sáu cuống cây giống như củ hành non, nhưng lại có màu phơn phớt hồng.
Tôi háo hức dòm hai người Andalite đặt vài nhánh rễ xuống đất rồi bắt đầu ăn theo kiểu Andalite. Dẫm nát dưới móng guốc và thẩm thấu dinh dưỡng của nó.
Thật kinh ngạc, kết quả: hai người Andalite dường như quên phéng đi sự có mặt của tôi. Thế nên, tôi để mặc họ đó mà ra ngắm những cây có xuất xứ lạ do Gafinilan trồng. Tản bộ giữa các lối đi chật hẹp, đặt rải rác những túi đất, xẻng khum, bình tưới và những cây xương rồng trồng trong chậu nhỏ.
“Vùùvùù!”
Cái gì vậy kìa!
Tôi giơ tay xua xua không khí. Con ong.
“Vùùvùù!”
Thêm một con ong nữa. Khua vội, nhưng tôi chỉ phí thời gian. Con ong không quan tâm tới tôi, nó chỉ chú ý tới những luống hoa ngọt ngào, màu sắc sặc sỡ trong nhà kính.
Dĩ nhiên, Gafinilan nhờ cậy tụi ong để thụ phấn cho cây cối của mình.
Tôi liếc nhìn coi Ax và ông chủ nhà có còn say sưa với nghi thức illsipar hay không. Vẫn còn… Tôi vội tìm trong nhà kính coi có tổ ong nào không. Không hề…
Tôi kiểm tra lại bộ óc của mình xem trong đó có tí chút kiến thức gì về loài ong mật này không. Chẳng hạn như, chúng có đốt hay không? Hổng có gì.
Nhưng tôi sẽ hấp thụ con ong. Nếu ong đến và quay về tổ nằm bên ngoài nhà kính không bị kẹt trường lực - thì chúng biết lối ra vào an toàn.
Đó chính là điều tôi cần.
Tôi đứng im re, hy vọng cơ thể mình tỏa ra một mùi hương ngòn ngọt. Và rồi… “Vùùvùù!”
Chụp được rồi! Tôi giữ lỏng con ong trong tay, hấp thụ được nó.
Tiếng Ax! Vẫn nắm chặt con ong, tôi liếc qua mấy lọ ươm cây và nhìn hai người Andalite vừa ăn quà vặt xong.
Gafinilan đáp, một mắt cuống chĩa về hướng tôi. Tôi mỉm cười.
Gafinilan hỏi.
“Vâng, dĩ nhiên,” tôi ngắt lời của Ax. “Chúng tôi sẽ chuyển lời mời của ông.” Ax nhìn lại tôi, hơi lúng túng. Tôi cười toe toét…
Con ong khỉ gió chích tôi một vố!
Ai da! Tôi mở bàn tay và quăng con ong xuống đất. Rồi tôi lại gần hai người Andalite.
Thình lình Gafinilan nói với vẻ xuề xòa của ông chủ mến khách.
CHƯƠNG 11
Hoàng tử của Ax, tức thằng bạn nối khố của tôi sẽ không tới thăm Gafinilan trước khi tôi tự điều tra thêm nhiều điều.
Nhưng tôi không nói cho nó biết.
Tụi tôi gặp nhau ở khu thương xá. Ax, trong lốt người, và tôi thung dung ghé vào các cửa tiệm, cùng ngắm nhìn mọi người đi mua sắm.
Jake đi lơ phơ một mình, dạo qua dãy cửa hàng Nike, giả đò quan tâm sâu sắc đến vấn đề vô hại là thể thao.Tobias đi cùng Rachel. Nhỏ đang bận rộn xách giỏ quần áo mới mua từ tiệm Tốc Hành và tiệm Bé Bé còn Tobias coi bộ lúng túng, lụp chụp, không hợp với nơi này lắm.
Cuối cùng là Cassie trong bộ đồ jeans vừa khít.
Rất tình cờ, tụi tôi cùng dạt đến quầy bán đồ ăn. Ax muốn mua một hộp bánh quế. Jake nghĩ chai Pepsi là được rồi. Ai mà biết tại sao nó lại nghĩ thế.
Không hẹn mà gặp, tụi tôi cùng đến ngồi xúm xít quanh một bàn trống. Trong khi Ax bận bịu ăn làm lấm lem mặt mày, và tôi ra bộ chúi mũi vào cuốn truyện tranh lôi từ trong túi quần ra, thì tụi tôi kể cho bọn kia biết tình hình.
“Thiệt tình, bồ đã liều lĩnh hết chỗ nói,” Jake lầm bầm, vẻ mặt và giọng nói tỉnh bơ.
“Ừa. Ừm… nhưng mà tụi mình đã thu thập được điều cần thiết,” tôi cãi. “Tụi mình đã đột nhập và trong và bảo đảm Gafinilan là khẩu đại bác xì.”
“Đúng vậy,” Ax đồng ý, mặc dù phải khó nhọc lắm ảnh mới cất cái cằm lên để nói. “Tâm trạng ông ta có vẻ không ổn định. Nhưng… nhưng ông ấy là một tay làm vườn tài ba. Và ông ta đã tạo ra cho mình một vỏ bọc Người vô cùng hoàn hảo.”
“Ừa… Ax hứng khăn giấy vào,” tôi càm ràm, liệng cuốn truyện lên bàn. “Quả là một nơi quá hoàn hảo.”
Rachel chen vào câu chuyện. “Xem ra ông ta đã cố gắng quá mức cần thiết. Kể ra cũng dễ hiểu. Có lẽ ổng sợ.”
“Sợ ai?” Tobias hỏi. “Sợ chúng ta hay sợ bọn Yeerk?”
Jake nốc cạn chỗ nước ngọt cuối cùng. “Ông ta muốn gặp hoàng tử của Ax. Hà hà, chúng ta sẽ đi thăm Gafinilan một chuyến xem sao.”
Chẳng phải là ý hay đâu, bồ tèo. Hừ, tui có cảm giác không hay lắm về ông ta. Nhất là trong hoàn cảnh này. Tui không rõ động cơ của ổng. Theo tui thì chúng ta nên đợi ít lâu rồi hẵng tới.”
Jake nhún vai. “Đợi cái gì? Đợi Visser Ba tóm cổ ông ta hả? Đợi ổng khai với Visser Ba rằng có ít nhất một con người trong ‘băng thảo khấu Andalite’ hả?”
“Nhưng rủi ro lắm.” Cassie lên tiếng. “Marco nói đúng dấy,”
“Tụi mình phải cẩn thận. Để mình vào thám thính trước.”
Jake đứng lên. “Mình phải về nhà đây. Tối nay mẹ mình nấu món mình ưa thích nhất. Nếu mình về trễ thì mẹ sẽ thắc mắc.”
“Mình đi cùng với bồ,” Cassie hăng hái.
“Mấy bồ bàn kế hoạch thăm Gafinilan đi nha, càng nhanh càng tốt,” Jake thêm. “Có lẽ là tối mai.”
“Mình cũng đi đây,” Tobias đứng lên và vặn vẹo cánh tay. “Nơi này chẳng hợp với mình gì cả. Chú Ax, chú có về cùng cháu không?”
Ax vỗ bụng. “Ừ, Tobias. Chú tin là mình no bộn rồi.” Ảnh đừng lên và vét nốt miếng bánh quế cuối cùng trong hộp.
Chỉ còn tôi và Rachel ở lại.
Tôi ưỡn ngực lên và cười toe. “Hà cớ gì mà bồ ở lại cùng với tui vậy, Rachel?”
“À, để chứng kiến bồ hành động ngớ ngẩn như thế nào í mà.” Nhỏ tựa lưng vào ghế. “Này Marco, bồ đang toan tính điều gì vậy?”
Tôi giơ tay lên trời, tỏ điệu bộ đầu hàng. “Ô ô ô. Rồi sao…?”
“Bồ luôn luôn lập dị đó, biết không?”
Tôi cười phá lên. “Cám ơn. Tui cũng đoán vậy.”
“Nhưng bồ cũng là đứa luôn linh cảm thấy những trúc trắc. Mình có thể chặn ngang những câu đùa nói vô duyên của bồ, nhưng mình không thề làm ngơ bản năng hoang tưởng của bồ.”
“Hì hì, cám ơn lần nữa nha,” tôi bảo.
Rachel nhíu mày. “Mình hiểu rằng… nghe này, Marco, bồ sẽ không để Jake gặp Gafinilan trước khi đích thân bồ trở lại đó xem xét chứ? Đừng chối cãi nhé, bồ đang nung nấu một kế hoạch nào đó phải không? Nói cho mình biết đi.”
Bất giác, tôi liếc nhìn quanh coi có ai nghe ngóng không. “Tại sao? Để làm gì? Để bồ về ton hót với anh chàng người chim và đem nộp tui cho Jake hả?”
“Bồ thiệt là ngốc.” Rachel than van. “Hãy để mình đi cùng với bồ. Bồ cần phải có ai đó hậu thuẫn chứ.”
“Biết ngay mà! Tui biết là bồ rất quan tâm đến tui…”
Rầm!
Đó là khi Rachel đá một cú trời giáng vào ống khuyển của tôi.
CHƯƠNG 12
Hổng có thời gian thử nghiệm thực tế lốt hình biến ong cho “nhiệm vụ” sắp tới, vì vậy tôi vào Internet, hy vọng sẽ khám phá những khả năng và nhược điểm của ong. Những thông tin có thể giúp tôi lường trước sẽ gặp điều gì khi trí não ong mật nổi bật lên.
Và thế là tôi phát hiện ra những điều khiến lỗ chân lông tôi nổi gai cả lên, rằng: ong mật, giống như kiến, là một loài côn trùng sống có tổ chức xã hội. Tuy quy mô đàn của loài ong hổng lớn như kiến, nhưng mỗi cá thể ong đều có nhiệm vụ, bổn phận cố định suốt đời - là công đoạn nhất định của cả một quy trình. Giống như cái máy, cả đời ong tận tụy vì sự sống còn của bầy, cống hiến một trăm năm mươi phần trăm cho cái tổ của nó…
Giờ thì tôi đã hiểu tại sao người ta hay nói “siêng năng, bận bịu như ong”.
Cái này hổng làm tôi vui sướng gì. Đã từng là kiến một lần, tôi đã từng bị một mẻ sợ teo vòi, đã trải qua điều kinh khủng nhất trong cuộc đời vốn toàn những điều kì dị của mình.
Là kiến, tôi đã không còn là mình. Cả Jake và tụi bạn cũng thế. Hổng hề có ý thức nào về mình cả. Hầu hết mọi người không thể hiểu khi mất đi cái phần ý thức ấy nó sẽ như thế nào đâu. Nó ghê gớm hơn bạn gặp ác mộng gấp một trăm lần ấy.
Tôi hít một hơi thật sâu rồi liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Ôi dào, thời gian trôi vùn vụt khi ta sợ.
Tụi tôi gặp nhau vào sáng sớm hôm sau. Rachel trong lốt đại bằng đầu bạc còn tôi làm ó biển. Tụi tôi cùng bay tới nhà Henry McClellan.
Rachel hỏi tôi.
<Đáp xuống và trinh sát.>
Chưa tới ba phút sau khi đáp, tụi tôi đã tìm thấy một con ong - đang bay về hướng nhà kính. Tuyệt! Có lẽ tôi chẳng cần phải kiếm tổ của nó nữa
Rachel hỏi.
Cái đó chẳng dễ gì. Ong ta cứ lượn ngoằn ngoèo, vù xiên vù xẹo. Lên rồi xuống. Qua phải, bổ nhào xuống rồi lại quẹo qua trái, vút lên. Đổ dốc méo xẹo, đổi hướng đột ngột, rồi lại quay về vị trí cũ.
Xong tiết mục nhào lộn cuối cùng, nó tỉnh queo, nhẹ nhàng chui qua một cái lỗ nhỏ tí trên tấm kính.
Rachel bảo.
Rachel chỉ. <Đi nối đuôi nhau í. Vậy là tụi mình cần cái tổ rồi.>
Nhỏ nói đúng. Tuân thủ hệ thống bầy đàn của ong là cơ hội an toàn nhất – và duy nhất - cho tôi vào bên trong.
Tụi tôi tìm ra tổ ong nằm kín đáo trên một chạc cây ở cuối sân sau của nông trại H. McClellan.
Tôi lẩm bẩm.
Rachel đậu trên một cành sồi kế bên cái cây già cỗi, đã mục một phần, hứng một xã hội loài ong. nhỏ cảnh báo. <Đừng chơi trò anh hùng đấy.>
tôi lầm xầm.
Tôi đáp xuống gốc cây Rachel đang đậu, hoàn hình cấp kỳ rồi đến đứng ngay bên dưới tổ ong.
Chẳng đứa nào trong bọn tôi ham biến hình thành những sinh vật nhỏ tí tẹo, nhất là côn trùng. Nếu là kiến nữa thì càng hãi. Ong mật tuy có đầu óc hơn kiến nhưng nó cũng chỉ o e, rì rì suốt thôi. Phải chăng như vậy có nghĩa là chúng ít bị điều khiển, ít khờ khạo và ít hung bạo hơn?
Bây giờ hoặc không bao giờ. Tôi thu mình ráng chế ngự nỗi kinh sợ khi teo rớt còn nhỏ như một viên kẹo dẻo hình gấu trong khi óc cố mường tượng ra hình ảnh con ong.
Biến hình hổng tuân theo một trình tự hay quy luật nào hết ráo. Nó là một quy trình bất định, hoàn toàn hổng thể dự đoán trước được.
Lần này, thân hình tôi trở thành mình ong trước hết. Marco từ đầu tới ngực, đến ong, rồi lại Marco ở phần dưới. Í ẹ.
Tôi có nói với các bạn rằng ong mật là một loài có bộ xương ngoài chưa ta? Điều đó có nghĩa là, chúng hổng có xương ở bên trong cơ thể. Vậy là, lúc này tôi chắc mẩm mình hổng có xương sườn hay xương sống gì ráo…
Rachel nhận xét.
Tôi quyết định hổng trả treo với nhỏ.
Chất ki-tin, đó là chất liệu tạo nên vỏ giáp cứng ngắc để bảo vệ ruột gan phèo phổi ong, và
giữ cho nó luôn khô ráo…
Phịt. phịt.
Hai cái cánh mỏng ốm nhách bung ra khỏi thân. Rồi niêm mạc có động mạch – phần trước rộng hơn. Tới cái đuôi làm bánh lái cho ong bay.
Vụtvụtvụt…
Hằng trăm, hàng ngàn sợi lông tòe ra khắp cơ thể tôi.
<Ừ, khá hơn rồi đấy,> Rachel ghi nhận.
Phần thân trên của tôi tòi ra thêm ba cặp chân phân đốt nữa. Khi biến hình xong, tôi có thể bước đi và có thể dùng hai chân trước rửa râu.
Rồi râu cũng mọc ra, cũng phân đốt và có lông bao phủ. Đó là cơ quan cảm biến cực nhạy, để sờ chạm và phát hiện mùi hương, nối kết trực tiếp với não.
Ghê quá, mấy sợi râu bắt nguồn ngay từ hốc sọ.
Ờ mà, đầu người đã biến thành đầu ong hình tam giác. Miệng người đột nhiên bị bít lại, cằm dính vào ngực.
Phụt!
Cái miệng dọc tóe ra. Một vòi hút. Cái lưỡi dài lờm xờm lông giúp ong uống nước. Cái càng ở hai bên đầu giống như cái kìm, dùng để hút phấn hoa và tấn công, giành xé kẻ thù.
Ối tôi mù. Mắt người không còn nữa. Rồi… Bụp bụp bụp bụp!
Nhìn thấy lại rồi. Hàng ngàn màn hình tivi cho thấy hàng ngàn thế giới. Tất cả nối kết tạo thành bức tranh ghép khổng lồ.
Ong không phân biệt được màu sắc như người. Cái tổ chim màu đỏ tôi thấy trước khi biến hình không còn là màu đỏ nữa. Nhưng trời ạ, tôi có thể thấy sự chuyển động! Những hình thù không rõ rệt đang chập chờn, lất phất - đó là hoa rung rinh trên cuống, hay một con bướm đang vỗ cánh rập rờn.
Bốp! Bốp! Bốp!
Thêm ba con mắt nữa nhỏ hơn nổ ra trên mắt ghép của tôi. Chúng chẳng phân biệt được cái gì, dù tĩnh hay động. Nhưng hình như chúng dò tìm ánh sáng.
Và đến cái bụng. Hên gì đâu, tôi là con ong cái - không phải vì tôi có cái bụng thon, mà vì tôi có mũi chích - ngòi đốt - nằm ở cuối bụng. Nó giống như mũi tiêm dưới da, nhưng đầu kim được bọc gai để có thể châm sâu vào da của nạn nhân, và nó tiết ta chất độc chứ không phun vitamin tẩm bổ.
Có vũ khí càng hay, nhưng đừng sử dụng đấy, Marco, trí não người nhắn nhủ tôi. Nếu chích thì ngòi đốt sẽ dính lại trong người kẻ thù, rồi tôi sẽ mất tự do, và sẽ chết như con ong bị tôi hấp thụ (sau khi chích tôi một cú thần sầu).
Nhưng khi biến hình xong, tôi chẳng nghĩ gì đến “nguyên nhân và kết quả”- đốt là chết - ấy nữa. Ngay lúc đó, tôi chỉ biết mỗi một điều quan trọng: Làm việc và làm việc cho cái tổ, cho ong chúa của mình.
Cái tổ! Tôi cần phải về lại tổ!
CHƯƠNG 13
Tôi bay vút khỏi mặt đất.
Một loạt những âm thanh ong óng, chẳng có nghĩa gì đối với một con ong vang lên trong đầu tôi.
Tôi đậu lên khối có nhiều lỗ nằm trên thân cây chết. Gặp ngay anh bạn ong lính gác - một người thợ giống tôi - chặn lại. Tôi không có mùi kẻ thù. Thế là anh bạn ong liền bay tròn mấy vòng, ngó ngoáy ba cặp cẳng, rập rềnh đôi cánh rồi yêu cầu tôi đi tìm nguồn thực phẩm mới cho bầy.
Tất cả vì tổ! Tôi sẽ đi và thu hoạch…
Cái… gì. Óc tôi lúc lắc trở về vị trí. Mình đang làm gì thế?
Bỏ anh bạn cùng tổ đó lại, tôi phóng lên chỗ chú đại bàng đầu bạc-Rachel đang đậu. Nhỏ cằn nhằn. <Đúng là một chú ong mật ngu ngốc!>
Rachel thừa nhận.
<Ồ ồ, Marco yêu quý, bồ có còn kiểm soát được không đấy?>
<Ừa.>
Tôi phóng vội theo cặp ong. Một con phóng ra khỏi nông trại. Một con nhắm về phía nhà kính. Đỡ cái là nó đi theo đường thẳng.
Dziììììììì!
Hổng phải ong. Mà là một con bọ!
Phụt! Nó đáp ngay trước mặt tôi! Tới thẳng con ong tôi đi theo.
Cái quái gì vậy? Dẫu nhìn qua hàng ngàn màn hình, tôi cũng thấy gã bọ này bự hơn mình nhiều. Có lẽ là gấp đôi. Chân đầy xương và gai, mũi nó như cây kim bẹt.
Rachel la.
Quái vật côn trùng đâm trúng con ong. Mạnh dễ sợ. Nó quặp bộ chân xù xì quanh nạn nhân, nhốt vào “nhà tù”. Ong ta bấn bíu chống lại nhưng hổng ăn thua. Và rồi, tên cướp chọc mũi kim, sau đó thả ra một xác ong héo rụi và khô queo - chắc là sự sống đã bị hút hết.
Thật kinh hoàng! Thủ phạm khoan khoái bay đi mất…
Dziììììììì!
Tôi cảm thấy một cái cẳng nhám thọc vào bụng mình.
Không không không!
Cẳng thứ hai xiên tôi từ phía bên kia.
Tôi là món quà vặt cho loài côn trùng xấu xí này. Mất bao lâu để hút hết sự sống ra khỏi con ong? Tôi cảm thấy vòi hút - cây kim nhọn hoắt – chạm vào lưng mình.
Phụt!
Một làn gió thổi tốc tôi lên, rồi quăng tôi rớt xuống đất.
Tôi rơi, nhưng chưa chết.
Cố nhúc nhích đôi cánh, nhưng cái lưng tôi bị ghì chặt lại.
Huỵch!
Tôi chúi nhủi xuống đất. Choáng váng nhưng còn sống.
Rachel kêu.
<Ồ, bồ ổn rồi,> nhỏ thở phào.
Đại bàng đầu bạc tấn công bọ ở sân sau nông trại? Thật kì khôi!
Móng vuốt đại bàng đầu bạc-Rachel tóm lấy tôi (và những gì còn lại của tên sát nhân), bay vào bụi cây sau tổ ong. Tụi tôi, lần lượt từng đứa hoàn hình rồi lại biến hình. Chuẩn bị “bày keo khác”.
Lần này, Rachel chú ý canh chừng bọn không tặc có cánh cho tôi. Sau khoảng chừng mười phút, vài chú ong bay về hướng nhà kính của Gafinilan. Tôi đi theo.
<Đã thấy trường lực,> tôi gọi to.
Phải nói là tôi thừa biết mình có thể bị sấy khô trong trường lực. Nếu là mắt người sẽ không bao giờ thấy cái vòng ấy đâu. Thật không thể tin được. Lúc này tôi đã biết thế nào là “màu tím trong mắt ong”: sự pha trộn mạnh mẽ giữa màu vàng và tia cực tím.
Tệ quá! Xuyên qua nó là một đường hầm cong vun lên, đối với ong thì khá rộng. Đường hầm tóp dần về cuối, dẫn tới một cái lỗ trên tấm kính phía sau nhà kính.
tôi thông báo cho Rachel.
<Ừm Marco. Coi chừng phía trước. Gafinilan vừa vào nhà kính.>
Quá trễ. Đành liều thôi. Tôi trượt vào theo con ong, hãi hùng tiến tới gần Gafinilan. Ông đang chăm chú dồn cả hai mắt chính vào một tấm bảng đề tên cây.
Thình lình, ông đảo mắt cuống về phía tụi tôi. Ghi nhận diện mạo của ong, rồi lại oặt mắt cuống trở về công việc của mình.
tôi nói. <Đang tiến thẳng vào nhà.>
Trong chuyến thăm đầu tiên, tôi nhớ là Gafinilan hổng đóng cửa sau thông nhà bếp với nhà kính. Hổng biết lần này thì sao.
Ồ, may phước đó là thói quen của ông ta. Tôi vù qua khung cửa mở.
Bay qua từng phòng trong nhà. Phòng khách lịch duyệt. Phòng ngủ không dùng tới. Nhà bếp sạch bong.
Tôi cố gắng sử dụng đôi mắt và cặp râu của ong để thu lượm thông tin.
Tôi ngửi thấy mùi hoa, cỏ và đất trồng được mang từ nhà kính vào trong nhà ở. Mùi sô-cô– la, nho khô và bánh quy Gafinilan cất trong những hũ thủy tinh hiệu Mason. Có mùi nồng nặc tỏa ra từ phòng tắm. Ối! Đủ loại xà bông thơm ở trỏng - Clean, TopJob và cả Comet.
Khắp nhà, phòng nào cũng phảng phất mùi đặc trưng, nhưng hổng dễ chịu lắm, của Gafinilan. Nhưng tuyệt nhiên, có một thứ mà tôi hổng nhìn thấy, ngửi thấy hay cảm thấy.
Rachel hỏi.
tôi đáp.
CHƯƠNG 14
“Mình không hiểu. Mertil đâu?” Jake hỏi, nhưng chỉ sau khi ngưng xỉa xói tôi về chuyện lộn xộn chui vào nhà Gafinilan một mình, sau khi thôi lườm nguýt Rachel, và sau khi thừa nhận chi tiết một người Andalite vắng mặt là rất có giá trị. Cả bọn đang ở trong khu chuồng thú nhà Cassie. Sự việc coi bộ rối rắm hơn rồi. “Liệu anh ta có từng tồn tại? Liệu người Andalite trong video có là giả?”
Ax dừng lại, tư lự.
“Ừ,” tôi châm chích. “Bồ buồn vì vị anh hùng của mình đã hóa ra là người tàn tật. Thiệt tệ quá…”
“Để chuyện đó bàn sau,” Jake gắt. “Chúng ta phải làm gì với Gafinilan đây?” Rachel ngồi thu lu trong đống rơm. “Ổng không muốn, hoặc chưa muốn làm tổn hại chúng ta,
nhưng cũng không có ý giúp đỡ. Ổng nhất định đòi yên thân và muốn gặp anh Jake. Thật khó hiểu.”
Ax phấn khích.
Tôi lắc đầu. “Nhận ra cái gì cơ?”
Ax giải thích.
“Ừm, nhưng…”
“Được rồi,” Jake bảo. “Nhưng mình vẫn không hiểu căn bệnh này thì có liên quan gì đến chúng ta?”
“Mình cũng hổng hiểu,” Rachel bức bối… Nếu Gafinilan bị bệnh này thì sao ổng không tự chữa trị bằng cách biến hình. Ồ khoan khoan! Ôi, mình hiểu rồi. ADN của ổng vẫn còn mang mầm bệnh. Y như ổng bị kẹt cứng vậy.”
Ax hạ thấp đầu.
Tobias nhìn Ax trân trối bằng đôi mắt diều hâu dữ tợn.
“Nếu Gafinilan bị bệnh, tại sao chúng ta không thấy dấu hiệu đau đớn ở ông ta? Và nếu ông ta có ý định hấp thụ một Andalite khác,” Cassie suy luận, “thì tại sao ông ta không hấp thụ Ax?”
Ax nói chậm rãi. Ax ngừng lại.
“Vì vậy, bồ nghĩ Gafinilan… vẫn hy vọng hấp thu cơ thể Andalite của Visser Ba chứ gì?” Tôi ngừng. “Hừ, việc đó không phải là quá khó.”
“Không. Mình nghĩ ông ta muốn mình,” Jake bất chợt nói. “Hoặc muốn người mà ông ta tưởng – một hoàng tử khỏe mạnh.”
“Nhưng Ax bảo trở thành nothlit là một hành vi hèn nhát,” Cassie chỉ ra. “Bồ nghĩ Gafinilan hèn nhát hả? Mình không nghĩ vậy. Căn cứ theo cách ổng bất chấp cách suy nghĩ của xã hội Andalite mà quan tâm chăm sóc cho Mertil…”
“Tuyệt lắm, Cassie,” tôi thốt lên. “Bồ hổng tính tới khả năng nhỏ nhất là ổng nói xạo sao? Ổng lại còn che giấu một bí mật lớn thiệt lớn nữa chớ. Độ tin tưởng của tui nơi ổng bằng đúng khoảng cách mà tui có thể nắm ngang người ổng mà liệng – theo tui nghĩ, có lẽ nó cỡ chừng 0.3 li.”
“Mình tán thành,” Rachel thêm. “Gafinilan đang toan tính điều xấu. Nếu ổng đã có dã tâm muốn tìm cơ thể Andalite, thì ai mà biết ổng sẽ làm gì khi… nếu như… biết Jake là người.”
“Thì làm điều như ổng đã làm với Mertil,” tôi lầm bầm. “Tui nghĩ chưa hẳn ổng theo đuổi mục đích làm Mertil hạnh phúc, mà ngược lại là đằng khác. Có khi chính ổng quay phim Mertil rồi tung ra để dụ mọi người chú ý tới sự hiện diện của người Andalite ở trên Trái đất. Và khi Mertil thực hiện xong phần việc của mình, Gafinilan gạt bỏ anh ta đi. Một người Andalite biến mất một cách bí hiểm.”
“Hung bạo quá, Marco.” Cassie bài xích.
Ax nghiêm trang.
Tobias nói lặng lẽ.
“Ax?” Cassie gọi, hơi có vẻ phấn khởi. “Thế còn hộp biến hình thì sao? Thiết bị Escafil ấy? Chúng ta có thể sử dụng nó được không? Trao cho ông ta khả năng biến hình?”
“Thế có gì khác với việc để ổng chết?” Rachel hỏi lạnh tanh.
Ax lưỡng lự.
Jake đột ngột đứng lên. “Nghe này, chúng ta không thể phanh phui sự thật nếu như cứ mãi ngồi đây suy đoán. Mertil sống hay chết? Gafinilan là người tốt hay người xấu? Chỉ có một cách để biết là đi tới chỗ ông ta. Hy vọng chúng ta sẽ là những người tới đó trước tiên.”
CHƯƠNG 15
Vậy là cả bọn ra đi. Tôi chia sẻ những kinh nghiệm biến hình ong cho Tobias, Rachel, Cassie và Ax; cảnh báo tụi nó phải nắm con ong thật chặt khi hấp thu; báo trước về nạn “không tặc”, bọn côn trùng quỷ quái cố xồ vào tôi - một con ong bẻm mép.
Kế hoạch là năm đứa bọn tôi sẽ lẻn vào nông trại Henry McClellan, thu phục một con ong và bay qua vòng trường lực, vào trong nhà kính của Gafinilan.
Cụ thể, Jake sẽ tới rung chuông cửa trước. Tôi lẻn bay theo Jake và Gafinilan vào nhà. Bọn kia sẽ án binh bất động, phòng khi… nếu có trục trặc thì xông vào yểm trợ.
Rắc rối có thể đến từ Gafinilan hoặc từ bọn Yeerk. Trước khi Jake đi vào lối xe chạy, tụi tôi cần bảo đảm ngôi nhà không bị giám sát.
Ngoài chuyện để Jake vào nói chuyện với Ông Bự, kế hoạch của tụi tôi vẫn chưa định hình – phần lớn phụ thuộc vào phản ứng của Gafinilan.
Khi chúng tôi ở trong lốt biến hình và an toàn trong nhà kính, tôi ra hiệu cho Jake biết mọi thứ đã ổn.
Lát sau, cậu ấy nhấn chuông cửa trước.
tôi nói
Gafinilan đặt bình tưới nước xuống và đi vào nhà qua cửa sau. Tôi theo ông ta, cố không bám quá gần kẻo ông ta nghi ngờ mà đập tôi chết.
Vào đến phòng khách, Gafinilan biến hình thành Henry McClellan rồi bước ra cửa trước, mở
khóa xích ra.
“Anh hỏi ai?” ông cố ý núp sau cánh cửa, chỉ chừa mặt ra.
“Ông là Gafinilan?” Jake hạ thấp giọng.
“Không phải. Tên tôi là Henry McClenllan.” Gafinilan dợm đóng cửa lại.
“Tôi biết,” Jake nói nhanh. “Đó là tên loài người của ông. Aximili bảo cho tôi biết vậy. Tôi là Jake.”
Cánh cửa từ từ khép lại. Gafinilan tháo dây xích, mở cửa ra và bước lùi xuống. “Xin mời vào,” ông nói.
Jake vào. Gafinilan khóa cửa lại đằng sau.
“Anh là hoàng tử của Aximili?”
“Đúng vậy,” Jake thừa nhận.
Lốt hình biến Người của Gafinilan hơi giãn ra. Tôi biết thế nhờ giọng nói của ông.
“Tôi rất sung sướng vì anh đã nhận lời mời của tôi,” Gafinilan lịch thiệp. “Tốt hơn chúng ta nói chuyện ở trong phòng sẽ thoải mái hơn. Vui lòng đi theo tôi.”
Gafinilan dẫn Jake qua nhà bếp bóng loáng và vào tư phòng của mình. Ông lịch sự đứng qua bên để Jake vào trước.
“Ông rất tử tế,” Jake cảm kích.
Người Andalite đi vào và bấm cho cánh cửa đóng lại, không biết là tôi đã lọt vào. Vậy là ba chúng tôi đã cách biệt khỏi bọn bạn đang chờ trong nhà kính.
“Như tôi đã nói với Aximili trẻ tuổi, Mertil và tôi may mắn còn sống sau vụ rớt chiến đấu cơ. Xin vui lòng cho tôi biết liệu có thể thu hồi được nhiều từ tàu Mái Vòm không, hay là đại dương Trái đất đã hủy hoại hết cả rồi?”
Ủa. Ax đã bảo với Gafinilan rằng ảnh là người duy nhất sống sót mà, ngoài Gafinilan và Mertil ra. Vậy Gafinilan muốn ngụ ý gì?
Jake nhìn Henry McClellan hổng chút nao núng. “Tàu Mái Vòm đã bị hủy hoại hoàn toàn rồi,” cậu ấy hổng thừa nhận.
“Đúng, đúng.” Mắt Henry đảo quanh phòng, rồi nhìn lại Jake. “Jake. Cái tên hay đấy. Có phải đó là cách gọi tắt như kiểu Ax cho Aximili không?”
“Đó là cách mọi người gọi tôi.”
Jake chẳng tiết lộ cho ông ta cái gì cả.
Gafinilan nói to, vẻ rộng lượng giả dối. “À cũng giống như tôi vậy.”
Ông bước vô giữa đám cỏ và hoàn hình.
Ông hỏi khi hoàn hình xong.
Jake mỉm cười. “Tôi thích nói chuyện với ông trong hình dạng này hơn.”
Gafinilan rổn rảng, mắt ông ta cười cười theo kiểu Andalite.
“Hình hài thật của tôi không liên quan gì ở đây.”
giọng Gafinilan gằn mạnh và đượm vẻ đe dọa.
“Sau khi ông ta giải thích ông thật sự muốn gì ở tôi đã,” Jake phản công.
<Đủ rồi!> Gafinilan bước một bước về phía Jake, lưỡi dao đuôi huơ lên cong vòng.
Bỗng ông run lảo đảo, chẳng vì lí do gì, rên rỉ và nhắm cả bốn mắt lại. Rõ ràng, ông đau đớn dữ dội. Ax nói đúng, bệnh Scoola hay cái gì đó rất nghiêm trọng đang tiến triển.
Jake lao về trước, định giúp đỡ.
Tôi can.
Jake ngừng lại, chờ…
“Gafinilan…”
Người Andalite Bự mở cặp mắt chính ra và lấy lại vẻ điềm tĩnh.
ông nói, giọng thấp hẳn.
Ông ta quay mặt khỏi Jake, bước chậm rãi về bàn để vũ khí, chụp khẩu máy Cắt và quay qua, chĩa thẳng vào Jake.
CHƯƠNG 16
tôi hét gọi bọn bạn.
Gafinilan hỏi.
Jake vẫn đứng im re. “Ngộ nhỡ tôi là đứa trẻ con thật thì sao?” Cậu ấy điềm nhiên như thể máy Cắt không cách mặt mình vài tấc.
tôi thét.
Đuôi Gafinilan giật giật.
“Hroooaaaaarrr!”
Từ hướng nhà kính có tiếng gấu xám rống inh tai. Tiếp đến là tiếng sói rú, rồi tiếng rít của loài chim săn mồi.
Gafinilna giật nảy mình khi nghe thấy những âm thanh ấy.
Và rồi một tiếng BÙM kinh khủng vang lên, khi Rachel băng xuyên qua tường như trái bóng
chày bay qua cửa sổ, nhưng gây thiệt hại nặng nề hơn nhiều.
Cassie, Ax và Tobias theo sau tức thì.
“Tôi xin lỗi đã làm ông chán, Gafinilan,” Jake nói trầm tĩnh. “Nhưng chúng tôi cũng mệt mỏi vì sự úp úp mở mở của ông. Nếu ông thấy tiện thì bây giờ là thời điểm để vén bức màn bí mật.”
Gafinilan gầm lên.
“Năm nếu tôi biến hình,” tôi cất tiếng khi hoàn hình đằng sau bàn vũ khí. Xong, tôi quành lại nhìn vào mặt ông chủ nhà. “Và sáu nếu Jake biến hình.”
“Nhưng chúng tôi đến đây không phải để đánh nhau, Gafinilan.” Jake bảo. “Mà chỉ để thu thập thông tin.”
Hai mắt cuống Gafinilan khua điên cuồng trong vòng vài giây, lộ vẻ sững sờ.
“Đúng thế,” Jake xác nhận, liếc nhanh Tobias. “Ít nhiều thì thế. Chúng tôi được Hoàng tử Elfangor kết nạp vào đội quân chống Yeerk.”
<Ông thấy đấy,> Ax thẳng thừng.
Gafinilan gào lên, chĩa máy Cắt vào Ax.
Im lặng. Bàn tay Gafinilan bắt đầu run run, hạ thấp máy Cắt xuống.
Tobias nói.
Cassie tiếp.
Gafinilan lại nâng máy Cắt lên. Ông gào vang.
“Vậy thì tại sao ông không chịu giải thích?” Jake đề nghị.
Lại một quãng im lặng. Bất giác, tôi trộm nghĩ Gafinilan có thể sẽ làm điều gì đó tuyệt vọng. Căng thẳng hiện ra trong từng phân cơ bắp, ông rùng mình như vừa ra một quyết định. Thế rồi, sự căng thẳng được thay thế bằng sự kiệt sức.
Ông ta hạ máy Cắt xuống. <Đúng là tôi bị bệnh Soola. Nhưng những gì tôi làm không phải vì mình, mà vì Mertil.>
Ax nói.
Nụ cười giễu cợt hiện lên trong mắt chính của Gafinilan. Giọng Gafinilan rít lại. | | | | | | |