🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tiếng Gọi Nơi Hoang Dã - Jack London
Ebooks
Nhóm Zalo
B
I
Vào cõi nguyên thủy
Ôi khát vọng xưa đất trời rộng bước Giận thói thường xích chặt tựa lao tù Đêm đông lạnh từ giấc nồng mộng ước Lại bừng sôi huyết thống của hoang vu!
uck không hề đọc báo, chứ nếu có đọc thì hắn đã biết là sắp gay go đến nơi rồi, không chỉ gay go cho riêng nó, mà còn cho cả họ hàng nhà chó vùng duyên hải, từ vịnh Puget Sound đến tận San Diego, thứ chó có bắp thịt rắn khoẻ và bộ lông dày ấm áp. Ấy là bởi vì con người, qua quá trình dò dẫm giữa đất trời tối tăm vùng Bắc Cực, đã tìm thấy một thứ kim loại màu vàng và bởi vì các công ty tàu biển và vận tải kháo rầm lên về sự phát hiện đó, cho nên có hàng ngàn người đã đổ về xô vào vùng đất phương Bắc. Những con người đó cần có chó, mà thứ chó họ cần là thứ chó cỡ lớn, có bắp thịt rắn khoẻ để mà lao động nặng nhọc, và có bộ lông dày rậm rạp để mà chống đỡ với giá tuyết.
Buck sống trong một khu nhà rộng lớn giữa thung lũng Santa Clara ngập nắng. Người ta gọi đó là trang trại của ngài thẩm phán Miller. Khu nhà ở xa đường cái, hơi khuất trong lùm cây rậm. Qua kẽ lá có thể nhìn thấy thấp thoáng hàng hiên rộng, mát rượi chạy suốt bốn bên nhà. Từ ngoài vào đến nhà những con đường xe chạy rải sỏi, lượn quanh co qua mấy bãi cỏ rộng, dưới những lớp cành xen nhau
của những hàng bạch dương cao lớn. Khu đằng sau, đất đai còn rộng bát ngát hơn. Có những chuồng ngựa lớn, ở đó hơn chục người chăn giữ ngựa hò hét ầm ĩ, nhiều dãy lán trại cho đầy tớ ở có dây nho leo kín mái, một dãy nhà ngang ngăn nắp dài dằng dặc, những chỗ ngồi mát dưới giàn nho dại, những bãi cỏ xanh rờn, vườn cây ăn quả và những khóm dâu. Rồi thì còn có cả một trạm bơm cho chiếc giếng phun, và một bể lớn xây bằng xi măng, là nơi các cậu con trai nhà thẩm phán Miller nhào lặn mỗi buổi sáng và ngâm mình cho mát trong những buổi chiều nóng nực.
Vậy mà Buck ta đã ngự trị cả cái dinh cơ rộng lớn này. Tại nơi đây Buck đã sinh ra, và cũng tại nơi đây Buck đã trải qua bốn năm tuổi đời của nó. Dĩ nhiên cũng còn có những con chó khác. Giữa một nơi rộng bát ngát thế này, không thể không có thêm nhiều những con chó khác được, nhưng chúng không đáng đếm xỉa tới. Chúng lăng xăng, sống chen chúc trong những chiếc cũi hay trong những xó xỉnh nào đó của khu nhà, ít ai nhận thấy, có một con chó là chó Toots, loại chó ỉ Nhật Bản lùn tịt, một con khác là Ysabel, loại chó Mexico trụi lông – những giống chó kỳ quặc hiếm khi thấy chúng ló ra khỏi cửa hay đặt chân xuống đất. Ngoài ra, còn có lũ chó săn cáo, ít ra cũng vài chục con: chúng thường sủa lên những tiếng ghê sợ dọa con Toots và Ysabel mỗi khi bọn này thò đầu ra cửa sổ nhìn chúng, và hai con được cả một đoàn con ở vũ trang bằng chổi và cán tải lau sàn bảo vệ.
Nhưng Buck không phải là hạng chó chui rúc trong nhà, cũng không phải là hạng chó nhốt trong cũi. Toàn bộ vương quốc này là của Buck. Nó cũng ngụp lặn trong bể bơi hoặc cùng đi săn với các cậu con trai của ông Thẩm. Nó hộ tống Mollie và Alice, các cô con gái của ông Thẩm, trong những buổi dạo chơi dông dài của hai cô
vào buổi hoàng hôn hoặc sáng tinh mơ. Những đêm giá lạnh, nó nằm dài dưới chân ông chủ trước ngọn lửa lò sưởi rừng rực trong phòng đọc sách. Nó cõng những đứa cháu của ông chủ trên lưng, hoặc đùa với chúng lăn tròn trên cỏ, và canh giữ từng bước chân của bọn trẻ khi chúng mạo hiểm mò ra đến vòi nước ở sân chuồng ngựa, hay có khi xa hơn nữa, đến tận các bãi cỏ chăn ngựa và đám đất trồng dâu. Khi đi qua lũ chó săn, Buck bước trông oai vệ. Còn đối với bọn con Toots và Ysabel thì Buck hoàn toàn phớt lờ. Vì Buck là vua mà! Vua của mọi thứ sinh vật bò, lết và bay, kể cả con người nữa, trong cái trang trại này của ngài thẩm phán Miller.
Bố của Buck, tên gọi Elmo, là một con chó nòi St. Bernard khổng lồ, đã từng là bạn khăng khít của ngài Thẩm, còn Buck có đầy triển vọng nối gót bố. Nó không thật to lớn bằng bố – Buck chỉ nặng có một trăm bốn mươi pound[1] – bởi vì Shep, mẹ của Buck, chỉ là một con chó chăn cừu nòi Scotland. Tuy nhiên, nặng một trăm bốn mươi pound, lại cộng thêm vẻ chững chạc đường hoàng nhờ cuộc sống sung túc và được mọi loài kính nể, đã tạo cho Buck một phong cách thật đúng là vương giả. Trong bốn năm trời từ khi sinh ra, Buck đã sống cuộc đời của một nhà quý tộc được thoả mãn mọi điều. Nó rất đỗi kiêu hãnh về mình. Thậm chí có phần nào tự cho mình là đấng độc tôn – như các ngài trưởng giả nông thôn thỉnh thoảng cũng trở nên như vậy, do hoàn cảnh ếch ngồi đấy giếng của các ngài. Thế nhưng, nó đã tránh cho mình khỏi trở thành một giống chó nhà chỉ quen được nuông chiều. Những cuộc đi săn và những cuộc vui chơi ngoài trời tương tự đã ngăn không cho mỡ phát triển và giúp cho các bắp thịt của nó trở nên rắn chắc. Và đối với nó, cũng như đối với mọi loài thích tắm trong bồn nước lạnh, việc yêu thích nước đã là một môn thuốc bổ giúp giữ gìn sức khoẻ.
Buck là một con chó như thế đấy vào cái mùa thu năm 1897, giữa lúc “cơn sốt vàng” ở Klondike đang lôi cuốn biết bao nhiêu người trên khắp thế gian lao vào vùng đất phương Bắc giá buốt. Nhưng Buck lại chả hề đọc báo và Buck cũng không biết rằng Manuel, một trong những người phu vườn, là một người quen bất đắc dĩ. Manuel có một nết xấu khó chữa. Gã máu me chơi xổ số Tàu. Ngay trong cuộc đỏ đen, gã lại có một cố tật: tin vào một lối đánh phân loại. Điều này chắc chắn đẩy gã vào tai họa. Bởi vì muốn chơi lối đánh phân loại phải có nhiều tiền, mà đồng lương của một chàng phu vườn thì nay đến việc bao cho nổi nhu cầu của vợ và cả một bầy con cũng còn không xong nữa là!
Ông Thẩm đang đi dự cuộc họp của Hội những người trồng nho, còn bọn trẻ thì đang bận tổ chức một câu lạc bộ điền kinh, trong cái đêm đáng ghi nhớ đã xảy ra vụ phản trắc của Manuel. Chẳng một ai nhìn thấy Manuel cùng Buck băng qua vườn cây ăn quả chuồn ra ngoài, mà Buck cũng tưởng đấy chỉ là một cuộc dạo chơi bình thường thôi. Khi Manuel và Buck ra đến ga xép College Park thì chỉ có độc một người đứng đó nhìn thấy. Người đó chuyện trò với Manuel một chốc rồi người ta nghe thấy tiền trao đi trao lại xủng xoảng.
- Mày có quấn cổ nó lại hay không? Để thế mà trao à? – Người lạ mặt nói cộc cằn. Manuel lấy một sợi dây thừng thắt buộc hai vòng quanh cổ Buck bên dưới cái vòng cổ.
- Cứ xoắn chặt lại là thừa sức làm cho nó nghẹt thở – Manuel nói. Người lạ mặt hừm một tiếng tán thành trong cổ họng.
Buck đã đứng yên để cho Manuel buộc dây vào cổ mình. Tất nhiên, nó cũng thấy sự việc diễn biến khác thường. Nhưng Buck đã
tạo được thói quen tin tưởng vào những người nó quen biết, và nó công nhận là những con người ấy có một trí khôn vượt xa hẳn trí khôn của nó. Nhưng khi đầu của sợi dây thừng được đặt vào bàn tay của người lạ mặt, thì nó gừ lên đe dọa. Ấy là nó cũng chỉ đơn giản muốn gợi ý cho kẻ kia biết là nó không bằng lòng, mà với đức tính kiêu hãnh của nó thì nó cho rằng gợi ý tức là ra lệnh. Thế mà có ngờ đâu chiếc dây thừng lại thít chặt lấy cổ nó, làm nó nghẹt thở. Vụt nổi cơn điên giận, nó nhảy xổ vào người lạ mặt. Tên này đón lấy nó nửa chừng, túm chặt lấy hông nó, rồi bằng một cái vặn tay khéo léo, quật nó ngã ngửa. Thế rồi, sợi dây thắt chặt lại không thương xót, còn Buck thì điên cuồng vùng vẫy, lưỡi thè ra, lồng ngực to lớn hổn hển một cách vô ích. Suốt đời nó, chưa bao giờ nó lại bị đối xử đê hèn đến như vậy, và cũng suốt đời nó, chưa bao giờ nó lại giận đến như vậy. Nhưng sức Buck kiệt dần, đôi mắt mờ dần, và Buck lịm đi chả còn biết gì nữa, khi chuyến tàu hoả dừng lại theo hiệu cờ và hai tên kia ném nó vào toa chở hành lý.
Khi nó tỉnh lại, nó lờ mờ cảm thấy đau ở lưỡi và nhận thấy mình đang bị đưa đi trong một loại xe cộ nào đó chạy xóc nảy lên. Tiếng rít khàn khàn của chiếc còi đầu máy xe lửa đi qua ngã tư đã mách bảo cho nó hiểu là nó đang ở đâu. Đã quá nhiều lần đi đường với ông Thẩm nên nó chẳng lạ gì cái cảm giác khi ngồi trong một toa hành lý. Nó mở mắt. Trong đôi mắt vụt bừng lên cơn giận lôi đình của một đức vua bị bắt cóc. Người lạ mặt vội nhảy bổ vào để túm lấy cổ nó, nhưng Buck nhanh hơn gã. Hai hàm răng Buck bập vào bàn tay đang lao tới, và không chịu nới lỏng tí nào cho đến khi Buck lại bị thắt cổ đến ngạt thở và ngất đi lần nữa.
Nghe tiếng huỳnh huỵch vật lộn, người công nhân khuân vác hành lý chạy đến.
- Thế đấy! Nó lên cơn! – Gã bắt cóc vừa nói với người công nhân, vừa giấu kín bàn tay rách nát không cho người này nhìn thấy. – Tôi đưa nó lên Frisco hộ ông chủ. Một ông thú y cừ khôi ở đấy bảo là ông ta chữa được.
Trong một cái lán nhỏ đằng sau một quán rượu tại bến cảng San Francisco, gã lại biện bạch cho mình rất đỗi hùng hồn khi gã nói về cái đêm đi tàu ấy.
- Về món này, tôi chỉ lấy năm chục thôi. – Gã lẩm bẩm. – Có trả đến một ngàn tiền mặt hẳn hoi, tôi cũng không thiết.
Bàn tay của gã quấn chiếc mùi soa đẫm máu, ống quần bên phải của gã rách toạc từ gối xuống đến mắt cá chân.
Người chủ quán hỏi:
- Thế thằng cha kia thì giá bao nhiêu?
- Một trăm. Không kém một xu. Đấy bác liệu cho.
Lão chủ quán tính:
- Vị chi là một trăm rưỡi. Được, nó cũng đáng giá ngần ấy. Tớ không phải là kẻ không biết người biết của.
Tên bắt cóc tháo mảnh băng đẫm máu và nhìn bàn tay rách bươm của mình:
- Phải bệnh dại thì bỏ mẹ…
Lão chủ quán cười lớn:
- Ấy, nếu có vậy thì cũng do cái nghiệp chướng của chú mày đấy, chú mày ạ!
Lão nói tiếp:
- Nào giúp tớ một tay trước lúc chú mày phới!
Đầu choáng váng, họng và lưỡi đau nhức nhối, trong tình trạng đã bị bóp cổ đến gần như ngắc ngoải, Buck gắng sức đương đầu với những tên hành hạ mình, nhưng nó liên tiếp bị quật ngã và thắt nghẹt thở nhiều lần, cho đến khi chúng dũa đứt được cái vòng đai bằng đồng nặng nề và gỡ ra khỏi cổ nó. Sau đó sợi dây thừng được tháo ra, và Buck bị ném vào một cái thùng thưa giống chiếc cũi.
Buck nằm đấy cho đến hết cái đêm chán ngán rã rời ấy, ủ nặng trong lòng mối phẫn nộ và niềm kiêu hãnh bị thương tổn. Nó không thể hiểu nổi tất cả những điều xảy ra đó nghĩa là thế nào. Những con người lạ lùng kia muốn gì ở nó? Tại sao họ lại giam giữ nó trong cái thùng chật hẹp này? Nó không hiểu tại sao cả, nhưng trong lòng nặng trĩu một cảm giác mơ hồ là có mối tai họa nào đó đang lơ lửng trên đầu nó. Đêm ấy, nhiều lần nó đã vùng đứng dậy khi chiếc cửa lán lách cách mở, hy vọng được nhìn thấy ông Thẩm, hoặc ít nhất là bọn trẻ. Nhưng mỗi lần như vậy, nó chỉ bắt gặp cái mặt núng nính của lão chủ quán ló ra nhòm nó dưới ánh sáng vàng ệch của một ngọn nến làm bằng mỡ. Và mỗi lần như vậy, tiếng sủa vui mừng đang run run sắp bật ra từ cổ họng Buck lại tan đi thành một tiếng giận dữ.
Nhưng rồi lão chủ quán cũng để cho nó yên một mình rồi sáng hôm sau, bốn người bước vào và khiêng cái thùng ra. Lại thêm những kẻ hành hạ mình đây. Buck khẳng định như vậy, bởi vì trông chúng có vẻ ác độc, đầu tóc bờm xờm, quần áo lếch thếch, và Buck gầm thét, nổi cơn thịnh nộ lên với chúng qua các then của chiếc thùng gỗ. Chúng chỉ cười giễu và thọc gậy vào Buck. Buck chồm tới dồn dập tấn công những đầu gậy thọc vào, cho đến khi nó nhận thấy là hóa ra bọn chúng muốn như vậy. Buồn nản, Buck đành thúc thủ nằm dài, để
mặc cho chúng nâng cái thùng đưa vào một chiếc xe ngựa. Và thế là từ đấy, Buck cùng chiếc thùng giam giữ bắt đầu được chuyển từ tay người này sang tay người khác. Các nhân viên của hãng vận tải tốc hành nhận trách nhiệm chuyển nó. Một chiếc xe ngựa khác chở Buck đến một nơi nào đấy; rồi một chiếc xe tải lại mang nó đi, cùng với một đống những hòm và gói, trên một chiếc tàu phà, từ chiếc tàu phà này, xe tải lại đưa nó tới một ga xe lửa lớn và cuối cùng, nó được đưa vào trong một toa tàu tốc hành.
Trong suốt hai ngày đêm, chiếc toa tàu được kéo theo sau những đầu máy rít liên hồi. Và suốt hai ngày đêm ấy, Buck không ăn không uống. Lòng chứa chất căm giận, Buck đã đáp lại thái độ làm thân của những nhân viên hãng tốc hành bằng những tiếng gầm gừ, và họ đã trả đũa bằng cách trêu tức nó. Khi nó lao mình ra then thùng gỗ, run lên và sùi bọt mép vì giận dữ, họ cười giễu và chế nhạo nó. Họ gầm gừ và sủa như những con chó đáng ghét, kêu meo meo, đập tay đen đét và gáy. Tất cả những cái đó đều rất dớ dẩn, nó biết vậy; nhưng chính vì vậy mà nó thấy danh giá của nó càng bị xúc phạm, và nỗi căm giận càng mỗi lúc một tăng. Đói ăn không phải là điều nó quan tâm nhiều lắm, nhưng khát nước đã làm cho nó cực kỳ khổ sở và thổi bùng sự phẫn nộ của nó lên đến mức như phát sốt. Trong lúc nó đang căng thẳng cao độ và hết sức nhạy cảm, những đối xử xấu xa đã xô đẩy nó vào một cơn sốt, cơn sốt này càng tăng thêm vì họng bị viêm tấy và lưỡi khô khốc, sưng phồng.
Chỉ có một điều làm nó hài lòng: sợi dây thừng đã rời khỏi cổ nó. Sợi dây ấy đã tạo cho bọn người kia một lợi thế, nhưng không công bằng đối với nó. Song bây giờ chẳng còn sợi dây ấy ở cổ, thì Buck sẽ cho chúng biết tay. Chúng đừng bao giờ hòng đặt một sợi dây nào khác vào cổ nó. Buck quả quyết như vậy. Suốt hai ngày đêm nó
không ăn không uống, và trong hai ngày đêm bị hành hạ ấy, nỗi căm giận chứa chất bên trong nó báo trước sự chẳng lành cho kẻ nào vô phúc chạm phải nó đầu tiên. Đôi mắt nó vằn lên đỏ ngầu. Nó đã hóa thành một con quỷ nộ khí xung thiên. Nó thay đổi đến nỗi dù bản thân ông Thẩm có gặp cũng sẽ không thể nhận ra được nó nữa. Và những nhân viên trên tàu thở phào nhẹ nhõm lúc họ tống khứ được nó ra khỏi tàu hoả tại thành phố Seattle.
Bốn người rất thận trọng bê chiếc thùng thưa từ chiếc xe ngựa vào trong một mảnh sân sau hẹp có tường cao vây kín. Một người chắc mập mặc chiếc áo nịt màu đỏ dãn rộng ở cổ, bước ra và ký vào sổ của người đánh xe ngựa. Buck đoán chắc tên này sẽ hành hạ mình tiếp, thế là nó lao mình ra sát thành gỗ một cách dữ tợn. Người kia mỉm cười nham hiểm, mang đến một chiếc rìu nhỏ và một cái dùi cui.
Người đánh xe hỏi:
- Ông không định thả nó bây giờ chứ?
- Sao lại không? – người kia vừa trả lời, vừa bổ chiếc rìu vào cái thùng để nạy ra.
Lập tức bốn người mang chó đến vội bỏ chạy tán loạn, rồi từ vị trí ngồi vắt vẻo trên đỉnh tường cao an toàn, họ chuẩn bị chứng kiến cảnh tượng sắp diễn ra.
Buck xông tới cắn ngập răng vào thanh gỗ vỡ toác, nhay xé, vật lộn với thanh gỗ. Ở bên ngoài, rìu bổ xuống đâu, thì ở bên trong Buck sấn tới đó, gừ gào gầm rít. Người mặc áo đỏ chăm chú tháo cũi cho nó ra với thái độ điềm tĩnh bao nhiêu, thì nó lồng lộn chực xông ra với thái độ hung dữ bấy nhiêu.
Khi đã phá được một lỗ trống vừa người Buck chui lọt, gã đàn ông lên tiếng:
- Nào! Cái con quỷ mắt đỏ kia! – Đồng thời gã vứt chiếc rìu đi và chuyển chiếc dùi cui sang tay phải.
Và Buck quả đã trở thành một con quỷ mắt đỏ, với thân hình thu hết lại chuẩn bị nhảy vọt, lông dựng đứng, mép sủi bọt, đôi mắt ngầu đỏ ánh lên một ngọn lửa điên dại. Nhằm thẳng người kia, nó phóng toàn bộ một trăm bốn mươi pound nặng chứa chất sự giận dữ của nó, cộng thêm cả sức nặng của mối căm giận bị đè nén trong suốt hai ngày đêm tù hãm.
Đang lao nửa chừng, đúng vào lúc hai hàm của nó sắp bập vào con người trước mặt, thì một đòn giáng đột ngột chặn đứng cả thân hình nó lại và đánh gập hai hàm răng của nó đập vào nhau đau đớn. Nó ngã lộn nhào, giáng lưng và sườn xuống đất. Trong đời nó, chưa bao giờ nó bị đánh bằng dùi cui, nên nó không hiểu ra sao cả. Với một tiếng giống tiếng rú hơn là tiếng sủa, nó lại bật dậy và lao vọt lên. Đòn trí mạng lại giáng tới và quật nó xuống đất. Lần này thì nó biết đó là chiếc dùi cui, nhưng điên lên rồi, nó chả còn biết thận trọng gì nữa. Hàng chục lần, nó lao lên tấn công, và cũng bấy nhiêu lần chiếc dùi cui bẻ gãy cuộc tấn công và đánh gục nó.
Sau một đòn đặc biệt ác liệt, Buck bò lê ra, quá choáng váng, không vọt lên được nữa. Nó khập khiễng lảo đảo bước quanh, máu ứa ra cả mũi, cả mồm, và cả tai, bộ lông đẹp của nó lấm tấm những đốm nước bọt đẫm máu. Lúc này, người mặc áo đỏ bèn bước tới, cố tình quật cho nó một cú khủng khiếp vào mũi. Mọi đòn đau đớn từ nãy đến giờ thật chả mùi mẽ gì so với cú đánh đau đến thấu gan, thấu ruột này. Rống lên một tiếng hung tợn gần như tiếng gầm của
sư tử, nó lại lao vào người kia. Nhưng gã chuyển chiếc dùi cui từ tay phải sang tay trái, bình tĩnh tóm lấy hàm dưới của Buck, đồng thời vặn nó xuống phía dưới và ra đằng sau. Buck vùng vẫy trên không, vạch thành một vòng tròn, lộn thêm nửa vòng nữa rồi đâm đầu và ức xuống đất.
Lần cuối cùng, Buck lao tới. Gã đàn ông bèn giáng cho nó một đòn ác hiểm mà gã đã chủ tâm giữ lại cho đến lúc này chưa thi thố, và thế là Buck gục hẳn, rơi xuống, hoàn toàn bất tỉnh.
- Ái dà! Trị chó như vậy phải nói là tuyệt! – Một người trên tường cao reo lên thích thú.
Tiếng gã đánh xe đáp:
- Tốt hơn hết là trị mấy con nghẽo, trị hàng ngày, chủ nhật trị hai lần. – Và gã trèo lên xe, ra roi thúc ngựa đi.
Buck hồi tỉnh, nhưng sức lực của nó thì đã kiệt. Nó vẫn nằm bẹp ở chỗ nó rơi xuống lúc nãy, theo dõi người mặc áo nịt đỏ.
- Tên nó là Buck. – Người đàn ông nói một mình, nhắc lại mấy chữ trong bức thư của lão chủ quán đã viết cho gã báo trước về cái thùng đựng món hàng. – Nào! Buck! Anh bạn! – Gã nói tiếp bằng một giọng thân mật vui vẻ. – Chúng ta đã có một cuộc ẩu đả nho nhỏ với nhau, thôi đến đây tốt hơn hết là chúng ta cho qua, đừng để tâm nữa nhé! Chú mày đã hiểu được cương vị của chú mày, còn ta, thì ta biết cương vị của ta. Hãy trở thành một con chó ngoan, rồi tất cả mọi việc sẽ trôi chảy êm đẹp. Còn nếu chú mày mà bướng, thì ta sẽ quật cho sặc cơm ra. Nghe chưa?
Gã vừa nói vừa mạnh bạo lấy tay vỗ về trên cái đầu mà vừa rồi gã đã nện cho không thương tiếc, và mặc dù lông Buck vô tình dựng
ngược cả lên mỗi khi bàn tay ấy chạm vào nó, nó vẫn cam chịu sự vỗ về mà không phản ứng. Và khi gã mang nước đến, nó uống háo hức, rồi sau đó lại vồ vập ngốn một bữa thịt sống thoả thuê, hết súc này đến súc khác, ngay trong bàn tay gã bón cho nó.
Nó đã bị đánh gục – nó biết vậy – nhưng không bị đánh đến tan xương. Nó vĩnh viễn nhận thấy là nó không hòng gì chống lại một con người có chiếc dùi cui trong tay. Nó đã học được một bài học mà sau này cho đến hết đời nó vẫn không hề quên. Chiếc dùi cui này là một sự phát hiện mới. Đó là vật đưa nó vào lãnh địa của luật lệ nguyên thủy, và nó nhớ rõ bài học đó.
Sự thật của cuộc đời đã mang một bộ mặt hung tàn hơn trước. Và trong lúc nó đương đầu với bộ mặt ấy mà không khiếp sợ, thì ấy cũng là lúc nó đương đầu bằng tất cả cái khôn ranh tiềm tàng đã được khơi dậy từ trong bản chất nó. Ngày lại ngày trôi qua, có những con chó khác đã đến, con thì bị nhốt trong thùng thưa, con thì được dắt đến bằng sợi dây thừng buộc cổ. Một số con ngoan ngoãn, một số con thì điên giận và gầm thét như Buck lúc mới đến. Và Buck đã quan sát được tất cả bọn chúng, không sót một con nào, kinh qua bàn tay chế ngự của người mặc áo nịt đỏ. Đã bao lần, mỗi khi nó nhìn thấy cảnh tượng tàn bạo diễn ra, thì bài học lại trở về trong trí nó: một con người cầm dùi cui là một kẻ làm ra luật, một ông chủ phải được tuân lệnh, mặc dù không nhất thiết phải thần phục gã. Về điểm cuối cùng này, Buck không bao giờ có lỗi. Mặc dù nó quả đã thấy có những con chó sau khi bị đánh vẫn lại xun xoe bên cạnh người ấy, rồi nào là vẫy đuôi mừng, nào là liếm tay gã. Và Buck cũng đã thấy một con chó không chịu thần phục nhưng cũng không chịu tuân lệnh, cuối cùng bị giết trong cuộc tranh đấu để giành thế thắng.
Thỉnh thoảng lại có người đến, những người lạ, họ nói chuyện với người mặc áo nịt đỏ bằng cái giọng sôi nổi, hoặc tán tỉnh nhỏ to, bằng đủ thứ giọng. Và vào những lần như vậy, sau khi hai bên trao tiền cho nhau, thì những người lạ mặt lại mang đi một vài con chó. Buck tự hỏi không biết những con chó ấy đi đâu, vì chúng không bao giờ trở lại cả; nhưng bên trong Buck canh cánh một nỗi lo sợ cho tương lai, do đó, mỗi lần không ai đả động gì đến nó cả thì nó lại mừng.
Thế nhưng cuối cùng cũng đến lượt nó. Ấy là cái hôm xuất hiện một anh chàng bé nhỏ, nhăn nheo, nói bô bô một thứ tiếng Anh tồi với nhiều thán từ kỳ dị và mới lạ mà Buck không thể hiểu nổi.
- Sacredam[2]! – Anh chàng kêu to, hai mắt sáng lên khi phát hiện ra Buck. – Thật là một con chó tuyệt vời! Ê! Bao nhiêu?
- Ba trăm. Coi như biếu không thôi đấy! – Tiếng người áo đỏ trả lời ngay tức thì. – Vì rằng đây cũng là tiền Nhà nước thôi, tớ chắc là cậu cũng chả phản đối gì, hả, Perrault?
Perrault toét miệng cười nhăn nhở. Cứ xét giá chó nói chung đã vọt lên đến tầng mây do nhu cầu tăng một cách ít có, thì số tiền này cũng không phải là quá sá đối với một con vật tuyệt như vậy. Chính phủ Canada chẳng thiệt gì, mà những công văn, thư từ của chính phủ chuyển đi cũng chả bị chậm hơn tí nào. Perrault là người sành về chó nên khi nhìn thấy Buck, anh biết là trong một ngàn con chó mới được một con như thế.
“Thậm chí một vạn con mới được một con như thế”, anh thầm nhận xét trong óc.
Buck nhìn thấy tiền trao qua đổi lại giữa hai người, và không ngạc
nhiên chút nào khi nó cùng với Curly, một con chó có cái hiền lành thuộc nòi Newfoundland, bị người đàn ông bé nhỏ nhăn nheo dắt đi. Đó là lần cuối cùng nó nhìn thấy người mặc áo nịt đỏ, và khi nó cùng con Curly đứng trên boong tàu Narwhal dõi theo thành phố Seattle đang lùi dần, thì đó là lần cuối cùng nó ngắm nhìn vùng đất phương Nam ấm áp.
Perrault đưa Buck và Curly xuống bên trong tàu và bàn giao chúng cho một anh chàng to lớn mặt đen tên là François. Perrault là một người Canada gốc Pháp, da ngăm ngăm đen; còn François, thì lại là người Canada gốc Pháp lai thổ dân, và da còn đen hơn gấp bội. Đối với Buck, họ thuộc một loại người mới lạ (loại người mà số phận đã định ra cho Buck là còn phải gặp nhiều nữa). Buck không thấy trong lòng mình nảy nở mối thiện cảm gì đối với họ, tuy nhiên nó dần dần đâm ra kính trọng họ thật sự. Nó nhanh chóng nhận thấy rằng Perrault và François là những con người công minh, bình tĩnh và vô tư trong việc thi hành công lý, và quá thông thạo về tính cách của chó, nên chó không thể lừa bịp nổi.
Trên tàu Narwhal, Buck và Curly đã kết bạn với hai con chó khác: một con to lớn, lông trắng như tuyết, gốc gác từ quần đảo Spitzbergen. Hắn được một thuyền trưởng đánh cá voi mang đi khỏi quần đảo đó, rồi sau hắn đi theo một đoàn nghiên cứu địa chất đến vùng Barrens cằn cỗi ở Canada.
Con chó này bề ngoài làm ra điều thân thiện theo một kiểu xảo trá, mỉm cười trước mặt kẻ khác nhưng đồng thời lại trù tính một bữa chơi khăm lén lút nào đó. Ví dụ như ngay trong bữa ăn đầu tiên cùng với Buck, hắn đã xoáy trộm một phần thức ăn của Buck. Buck vừa vọt sang để trị tội hắn, thì sợi dây buộc đầu chiếc roi của François đã vút
trong không khí bay đến trước quất vào tên kẻ cắp. Thế là Buck không còn phải làm gì nữa ngoài việc thu hồi cái xương của nó. François thế là công bằng, Buck khẳng định vậy, và uy tín anh chàng người lai bắt đầu lên cao trong lòng quý trọng của Buck.
Còn một con chó nữa thì không thèm làm thân với ai mà cũng không nhận sự làm thân của ai. Gã cũng không mưu toan đánh cắp gì của kẻ mới đến. Gã là một kẻ rầu rĩ ủ ê. Gã thẳng thừng tỏ cho Curly biết rằng tất cả mong muốn của gã là hãy để cho gã yên một mình, và hơn nữa, nếu cứ động vào gã thì rồi sẽ có chuyện phiền toái đấy! Dave là tên gọi của gã. Gã ăn rồi ngủ, thảng hoặc ngáp dài chả quan tâm đến cái gì sất, ngay cả lúc con tàu Narwhal vượt qua vịnh Nữ hoàng Charlotte, hết lắc bên này lại đảo bên nọ chồm lên chúi xuống, rồi lại nhảy hất ngược cả đít lên, cứ y như đồ bị ma ám. Khi Buck và Curly bị kích động mạnh, hoảng sợ đến gần như phát cuồng lên, thì gã nghểnh đầu có vẻ khó chịu, nhưng rồi gã lại tỏ thái độ khoan dung với chúng bằng một cái liếc nhìn thờ ơ, ngáp một cái, rồi lại vùi đầu nằm ngủ.
Ngày cũng như đêm, con tàu rộn ràng nhịp đập không hề mệt mỏi của chiếc chân vịt, và mặc dù ngày nào cũng giống hệt như ngày nào, Buck nhận thấy rõ ràng là tiết trời cứ càng ngày càng rét thêm lên mãi. Cuối cùng một buổi sáng, tiếng chân vịt ngừng bặt, và tàu Narwhal đã tràn ngập một không khí nhộn nhạo. Nó cảm thấy điều đó, lũ chó kia cũng cảm thấy như vậy, và chúng biết rằng sắp có một thay đổi gì đây. François lấy dây buộc mấy con chó lại, rồi dắt chúng lên boong. Vừa đặt chân lên trên mặt boong giá lạnh, chân Buck sục ngay vào một chất trắng nõn, sền sệt như bùn. Nó vội nhảy lùi lại, khịt lên một tiếng. Thêm nhiều vụn của chất trắng ấy đang lả tả rơi từ trên không xuống. Nó lắc mình để giũ, nhưng lại có nhiều vụn khác rơi
xuống mình. Nó tò mò hít cái của lạ ấy, rồi tợp một mảnh lên lưỡi. Cái chất ấy ran rát như lửa đốt, nhưng mất ngay. Điều đó làm nó bối rối, không hiểu được. Nó thử lại một lần nữa, kết quả như cũ. Những người đứng nhìn cười ầm lên, và nó cảm thấy xấu hổ, không hiểu sao cả bởi vì đó là bông tuyết đầu tiên xuất hiện trong cuộc đời của nó.
II
Luật của dùi cui và răng nanh
N
gày đầu tiên của Buck trên bờ sông Dyea giống như một cơn ác mộng. Nó sửng sốt, kinh ngạc từng giờ. Buck đột ngột bị hất mạnh ra khỏi trung tâm của cõi văn minh và bị tống vào trung tâm của những vật nguyên thủy. Ở đây không có cuộc sống nhàn nhã tắm ánh nắng mơn man, không có gì để làm ngoài việc đi tha thẩn và buồn chán. Ở đây không có yên tĩnh, không có nghỉ ngơi, cũng không có một phút nào an toàn. Tất cả đều là rối loạn và chiến đấu, và bất kỳ lúc nào tính mạng cũng bị đe dọa. Thường xuyên cảnh giác là một nhu cầu bắt buộc, bởi vì chó và người ở đây không phải là chó và người của thị thành. Tất cả bọn chúng đều man rợ, chúng không tuân theo một luật lệ gì ngoài luật của dùi cui và răng nanh.
Buck chưa bao giờ thấy chó đánh nhau theo cái kiểu những thứ sinh vật như sói lang này đánh nhau, và kinh nghiệm đầu tiên của nó đã cho nó một bài học không bao giờ quên được. Nói cho đúng ra, đây là một kinh nghiệm mà nó rút ra thay cho kẻ khác, chứ nếu không phải như vậy thì nó đã chẳng còn tồn tại để mà vận dụng kinh nghiệm ấy cho bản thân nó sau này. Curly chính là nạn nhân của sự việc đã xảy ra. Đoàn người và chó đóng trại gần kho chứa gỗ. Tại kho này, cô nàng Curly theo thói quen thân thiện của mình sán lại đánh bạn với một con chó Eskimo to bằng một con sói trưởng thành, mặc
dù không bằng một nửa vóc dáng của Curly. Không có một dấu hiệu báo trước nào cả, chỉ có một bước nhảy vào nhanh như chớp, một tiếng răng đập vào nhau chói như tiếng kim loại, mỗi một bước nhảy ra cũng nhanh như chớp, và thế là mặt Curly bị rách toạc từ mắt đến hàm.
Ấy cái kiểu đánh nhau của chó sói là như vậy, đá một cái rồi vọt ra ngoài; nhưng không chỉ có như vậy, mà còn nữa. Khoảng ba chục đến bốn chục con chó Eskimo khác chạy đến, bao vây lấy hai con vật đang đánh nhau, hình thành một vòng tròn chăm chú im lặng. Buck không sao hiểu được sự chăm chú im lặng ấy, và cũng không thể hiểu nổi cái lối chúng đang liếm mép một cách hau háu như thế kia. Curly lao vào đối thủ. Con vật này đớp một cái rồi vọt ra một bên. Đến khi Curly lao vào lần nữa thì hắn giơ ức ra chặn một cách đặc biệt làm cho Curly ngã nhào chổng cả bốn vó lên. Curly không còn bao giờ đứng dậy được nữa. Và chính đó là điều mà bầy súc vật đứng nhìn kia đã chờ đợi. Chúng lập tức ùa vào vồ nghiến lấy Curly, gừ gào và gầm rít, và Curly bị vùi dập, thét lên đau đớn trong cơn hấp hối dưới đống thân hình chen chúc lổn nhổn.
Sự việc xảy ra đột ngột quá, bất ngờ quá, làm cho Buck sửng sốt. Buck nhìn thấy Spitz thè cái lưỡi đỏ tươi ra cười theo cái kiểu của hắn. Và Buck thấy François, tay vung một chiếc rìu, nhảy bổ vào bầy chó hỗn loạn. Ba người khác cầm dùi cui xông đến giúp anh đánh đuổi chúng. Họ không phải mất nhiều thì giờ. Chỉ trong vòng hai phút từ khi Curly ngã xuống, những con cuối cùng trong bầy hung đồ xâu xé Curly đã bị dùi cui đánh xua đi hết. Nhưng Curly nằm đó, mềm nhũn và tắt thở, gần như bị xé hẳn ra từng mảnh, trong đám tuyết nát nhừ và vấy máu. Anh chàng người lai da ngăm đen đứng sát bên xác nó, đang nguyền rủa khủng khiếp. Quang cảnh đó đã thường lởn vởn
trở lại trong trí Buck, làm cho nó không yên trong giấc ngủ. À thì ra cái lối như vậy đấy. Lối chơi không quân tử. Một khi anh ngã xuống, thế là anh hết đời. Được rồi, nó sẽ cố gắng giữ cho mình không bao giờ ngã xuống. Kìa Spitz lại thè lưỡi ra mà cười. Kể từ lúc ấy, Buck mãi mãi ghét cay ghét đắng Spitz.
Buck chưa kịp trấn tĩnh sau cơn bàng hoàng vì cái chết thê thảm của Curly, thì một điều khác lại làm cho nó sửng sốt. François buộc vào mình nó một mớ bộ xâu những đai da và khóa gài bằng sắt. Đó là một bộ đai cương, giống như cái thứ mà Buck đã nhìn thấy các chú bồi ngựa đặt lên lưng ngựa hồi Buck còn ở nhà. Và hồi ấy Buck đã nhìn thấy lũ ngựa làm việc gì, thì nay Buck cũng lại bị bắt làm việc ấy; nó phải kéo một chiếc xe trượt tuyết có François ngồi trên, đi đến một khu rừng sát mép thung lũng, rồi trở về với chiếc xe chất đầy củi. Mặc dù danh giá của Buck bị tổn thương đau xót khi bị biến thành một con vật kéo xe như vậy, nhưng Buck đủ khôn ngoan để tự kiềm chế, không chống đối lại. Nó xác định quyết tâm làm công việc ấy, và đã làm hết sức mình, mặc dù tất cả đều mới mẻ và lạ lùng.
François là con người nghiêm khắc, đòi hỏi sự tuân lệnh ngay lập tức, và nhờ có chiếc roi da nên mệnh lệnh được tuân theo ngay lập tức. Trong khi đó thì Dave, con chó ở vị trí kéo sát xe đã có kinh nghiệm trong vai trò này, lại đớp vào hông của Buck mỗi khi Buck phạm sai lầm.
Về phần Spitz, con chó ở vị trí dẫn đầu, cũng có kinh nghiệm trong nghề, nhưng vì hắn không phải lúc nào cũng chạm được tới Buck, nên thỉnh thoảng hắn lại gừ lên những tiếng gay gắt để quở trách Buck, hoặc láu cá đâm bổ dồn cả trọng lượng của hắn vào các dây kéo để bắt Buck trở lại đúng vào hướng mà Buck phải đi. Buck đã
học tập được một cách dễ dàng, và dưới sự phối hợp dạy nghề của hai con chó kia cùng với François, Buck đã đạt được những tiến bộ rõ rệt. Trước khi trở về đến trại, nó đã nắm được những điều cần thiết, đủ để biết đứng lại khi nghe tiếng “họ”, biết đi tới khi nghe tiếng “mush”, biết ngoặt rộng ở những khuỷu đường vòng, và biết tránh khỏi chạm phải con chó ở vị trí sát ngay trước xe mỗi khi chiếc xe trượt chở nặng đổ dốc lao xuống sát gót chúng.
- Ba con chó rất giỏi, – François bảo Perrault. – Còn con Buck kia, nó kéo chết thôi. Nó tiếp thu những điều mới mẻ rất nhanh.
Buổi chiều hôm đó, Perrault trở về với hai con chó nữa vì anh đang cần gấp rút lên đường với đống công văn thư từ của anh. Anh gọi chúng là “Billee” và “Joe”. Chúng là hai anh em ruột, và cả hai đều là nòi chó Eskimo chính cống. Tuy là cùng một mẹ, nhưng chúng khác nhau như đêm với ngày. Một điều đáng chê trách ở Billee là cái nết quá đỗi nhu nhược, còn Joe thì hoàn toàn trái ngược, hay cáu bẳn và hẹp hòi thường xuyên gầm gừ và có cái nhìn ác ý. Buck tiếp đón chúng bằng thái độ bạn bè, Dave thì phớt lờ chúng, còn Spitz thì xông vào hoạnh hoẹ hết tên này đến tên kia. Billee vẫy đuôi cầu hoà, quay mình để chạy khi thấy là cầu hoà không ăn thua, và kêu lên (cũng kêu lên với giọng cầu hoà) khi hàm răng sắc nhọn của Spitz rạch vào sườn nó. Nhưng còn Joe thì bất chấp Spitz lượn quanh như thế nào, nó trụ hai chân sau rồi thoăn thoắt quay vòng để đối đầu với Spitz, bờm cổ dựng đứng lên, tai kéo xếch ra đằng sau, mép giần giật nhăn nhở và gầm rít, hai hàm răng liên hồi vập vào nhau đến mức nhanh nhất, và mắt loé lên một ánh hiểm ác – biểu thị sẵn sàng chấp nhận cuộc giao tranh. Trông diện mạo của nó đến phát khiếp làm cho Spitz buộc phải thôi không còn dám ghép nó vào khuôn vào phép gì nữa. Nhưng để gỡ lại thể diện, Spitz lại quay sang tên Billee lành như
đất và hay kêu van kia và rượt đuổi Billee đến tận cùng khu trại.
Đến tối hôm ấy, Perrault kiếm được thêm một con chó nữa, một lão chó Eskimo già, mình dài, gầy guộc, có vẻ dữ tợn, với bộ mặt có những vết sẹo chinh chiến, và chỉ còn một con mắt độc nhất trong đó rực lên dấu hiệu của sự can đảm, khiến kẻ khác phải kính nể. Người ta gọi lão là “Sol-leks”, có nghĩa là “Kẻ tức giận”.
Cũng giống như Dave, lão không đòi hỏi ai cái gì cả, không cho ai cái gì cả, không trông mong vào cái gì cả. Và khi lão bước chậm rãi, khoan thai đi vào chính giữa đám chó kia, thì ngay cả Spitz cũng để cho lão yên, không dây vào lão. Lão có một tính đặc biệt, thật không may mà Buck đã phát hiện ra: lão không thích kẻ nào sán gần đến bên mắt mù của lão. Buck đã phạm phải điều này một cách vô tình và Buck bắt đầu nhận thức được sự vô ý của mình là lúc Sol-leks lao bổ vào nó và dữ dội cắn vào vai nó rạch thành nhiều vết sâu đến tận xương và dài có đến ba inch[3]. Thế là mãi mãi về sau Buck kiềng không đi qua bên mắt mù của lão nữa. Quan hệ giữa Buck với lão từ đây không còn điều gì rắc rối. Mong muốn hiển nhiên của Sol-leks cũng giống như của Dave, chỉ là được để yên một mình, đừng ai động đến, mặc dù, như sau này Buck đã thấy, mỗi gã đều còn một ham muốn khác, một ham muốn mang tính chất còn sinh tử hơn nhiều.
Đêm ấy Buck đi ngủ một cách vô cùng vất vả. Chiếc lều, có ngọn nến chiếu sáng, rực lên ấm cúng giữa cánh đồng trắng toát. Buck bước vào đó, ấy là điều dĩ nhiên thôi. Thế nhưng khi nó bước vào, cả Perrault lẫn François đều tới tấp tấn công nó bằng những dụng cụ nấu ăn và những lời chửi rủa, mãi cho đến khi nó trấn tĩnh lại được sau cơn sững sờ kinh ngạc và bỏ chạy nhục nhã trở ra ngoài trời giá
lạnh. Một cơn gió rét thổi qua, làm nó tê buốt và chọc một thứ nọc độc nhức nhối vào vết thương trên vai. Nó nằm dài trên tuyết và cố làm sao để ngủ, nhưng chẳng mấy chốc sương giá đã đánh bật nó đứng dậy run lẩy bẩy. Khốn khổ và thất vọng, nó lang thang đi quanh quẩn giữa những chiếc lều, nhưng chỉ thấy chỗ nào cũng rét cả. Rải rác đây đó một vài con chó hoang xông đến lao vào nó, nhưng nó dựng bờm cổ lên và gầm rít (ấy là nó học kinh nghiệm cũng khá nhanh) và thế là chúng để cho nó tiếp tục đi qua yên ổn.
Cuối cùng, nó nảy ra một ý. Nó sẽ trở lui và xem thử các bạn trong đàn nó xử sự như thế nào? Lạ lùng thay chúng nó biến đi đâu mất cả. Nó lại lang thang quanh quẩn qua giữa khu lều trại thênh thang để đi tìm bọn chúng, nhưng rồi nó lại trở về không. Hay là chúng nó ở trong lều. Không, không thể như vậy được, vì nếu chúng ở trong lều thì bản thân nó đã không bị đuổi ra ngoài như vậy. Thế thì chúng nó có thể ở đâu? Đuôi cụp xuống, toàn thân run lẩy bẩy, quả là rất đau khổ tuyệt vọng, nó tha thẩn bước vòng quanh chiếc lều. Bỗng nhiên tuyết tụt xuống dưới hai chân trước của nó, làm nó sụt chân xuống. Có một cái gì đó quằn quại dưới bàn chân Buck. Nó vội nhảy lui, lông dựng ngược cả lên và gầm gừ, kinh sợ trước vật không nhìn thấy và không nhận ra được đó. Nhưng một tiếng ư ử nhỏ thân thiện cất lên, làm nó vững dạ, nên nó lại bước tới xem xét. Một luồng hơi ấm toả nhẹ bốc lên mũi nó. Và ở đây Billee đang nằm cuộn lại dưới tuyết thành một cục tròn, kín gió ấm áp. Billee kêu lí nhí bằng cái giọng xoa dịu, vặn vẹo mình mẩy để bày tỏ thiện chí của nó, và lại còn dám đánh bạo, như là một hành động đút lót để cầu hoà, liếm mặt Buck bằng cái lưỡi ươn ướt ấm áp của nó.
Lại một bài học nữa! À thì ra chúng làm cái kiểu như thế này đấy! Với một niềm tự tin, Buck chọn một chỗ, rồi, rất rối rít và lãng phí sức,
Buck tiến hành đào cho mình một cái lỗ. Và thế là trong nháy mắt, hơi ấm của thân thể Buck toả đầy trong hố kín, và nó ngủ thiếp đi. Ngày hôm ấy thật là quá dài và gay go gian khổ, nên nó ngủ rất ngon và khoan khoái, mặc dù thỉnh thoảng nó lại gầm gừ, sủa và giật mình vì nằm mơ thấy những điều dữ dội.
Mãi cho đến khi những tiếng ồn ào của khu trại đang thức dậy khuấy động làm Buck tỉnh giấc thì nó mới mở mắt. Thoạt đầu nó không biết là đang ở đâu. Cả đêm tuyết đã rơi và đã lấp kín nó. Những bức tường tuyết ép vào nó khắp bốn chung quanh, khiến trong lòng nó đột nhiên rộ lên một nỗi hoảng sợ ghê gớm – nỗi thảng thốt của con thú hoang dã sợ mắc vào bẫy. Đây là một dấu hiệu chứng tỏ Buck kéo cuộc đời của nó lui trở về với một cuộc đời của tổ tiên nó, bởi vì Buck là một con chó đã trở thành văn minh, một con chó quá đỗi văn minh, vậy nếu chỉ qua kinh nghiệm của bản thân nó thôi thì làm sao biết được cái bẫy là gì, và do đó từ nhận thức của bản thân nó thì không thể nào lại sợ bẫy. Các bắp thịt trong toàn thân nó co giật từng hồi theo linh tính, lông trên cổ và vai nó dựng ngược cả lên, và với một tiếng gầm hung tợn, nó bật nhảy vọt thẳng đứng lên ra giữa ánh ban ngày chói loà, tuyết bay tung ra xung quanh nó thành một đám bụi ngời sáng. Trước khi bốn chân chạm đất, nó đã kịp nhìn thấy khu trại trắng toát trải ra trước mắt và hiểu ngay là nó đang ở đâu, và nó nhớ lại tất cả, từ cái buổi nó đi dạo chơi cùng Manuel cho đến cái hố nó tự đào cho mình đêm qua.
Một tiếng reo của François chào đón sự xuất hiện của nó. Anh chàng đánh xe chó kêu to gọi Perrault:
- Này tớ bảo! Cái con Buck học gì cũng cực kỳ nhanh. Perrault trang trọng gật đầu. Là một nhân viên giao liên cho chính
phủ Canada, mang chuyển những công văn giấy tờ quan trọng, anh ta lo tìm cho được những con chó tốt nhất, và anh đặc biệt hài lòng khi kiếm được Buck.
Trong vòng một tiếng, đàn chó được tăng cường thêm ba con chó Eskimo nữa, vị chi tổng số là chín con, và nhanh chóng, tất cả bọn chúng đều đã nai nịt đai cương và ngoặt lên con đường đi về phía hẻm núi sông Dyea. Buck hài lòng khi được lên đường, và mặc dù công việc gay go nặng nhọc, nó nhận thấy rằng nó cũng không đặc biệt khinh ghét gì loại công việc như thế này. Buck rất ngạc nhiên khi thấy bừng lên một không khí hăm hở háo hức trong cả đàn chó, và sự hăm hở ấy cũng đã lây sang cả nó. Nhưng có một điều còn đáng ngạc nhiên hơn, đó là sự thay đổi ở hai con Dave và Sol-leks. Chúng đã trở thành những con chó khác hẳn, hoàn toàn biến đổi sau khi thắng bộ đai cương. Tất cả những gì là thụ động và hờ hững không còn thấy ở chúng. Chúng nhanh nhảu và linh lợi hẳn lên, lo lắng cho công việc được chu toàn, và dễ nổi cáu một cách dữ tợn với bất kỳ cái gì trở ngại hoặc rối rắm làm chậm trễ công việc ấy. Lao động cực nhọc trong vòng dây kéo hình như là ý nghĩa tuyệt đỉnh của sự tồn tại của chung, là tất cả lẽ sống của chúng, và là điều duy nhất mà chúng ham mê.
Dave là con chó ở vị trí kéo sát xe. Kéo đằng trước nó là Buck rồi đến Sol-leks. Số còn lại buộc tiếp thành xâu dài, một hàng dọc, thẳng về phía trước cho đến con chó đầu đàn, và Spitz là con chó chiếm vị trí đầu đàn ấy.
Buck đã được đặt một cách có chủ ý vào giữa Dave và Sol-leks, để hai gã này kèm cặp cho nó. Nó là cậu học trò có năng khiếu, thì chúng cũng là những ông thầy giỏi, không bao giờ cho phép nó
nhùng nhằng lâu trong một cái lỗi nào đó, và bằng đôi hàm răng sắc nhọn, chúng đã buộc nó phải tuân theo sự dạy bảo của chúng. Dave công bằng và rất thông thạo. Gã chả bao giờ trị Buck một cách vô cớ, nhưng gã cũng không bao giờ bỏ qua mà không trị Buck khi cần thiết. Và vì có cái roi của François ủng hộ Dave, nên Buck thấy là thà chịu sửa mình đi thì còn lợi hơn là trả đũa lại. Có lần sau một phút tạm dừng, Buck làm rối dây kéo và gây nên chậm trễ không đi ngay được, thế là cả Dave và Sol-leks xông vào nó và đã cho nó một trận ra trò. Kết quả là lại càng làm rối tung cả lên. Nhưng sau đó Buck hết sức cẩn thận tránh không vướng vào dây kéo nữa; và trước khi ngày lao động kết thúc, Buck đã trở nên thành thạo đến mức các bạn nghề của nó thôi không còn rầy la nó nữa. Chiếc roi da của François quất xuống ít hơn, và thậm chí Buck còn vinh dự được Perrault nâng các bàn chân lên xem xét cẩn thận.
Ngày hôm ấy là một ngày chạy cật lực, trèo qua hẻm núi, xuyên những thị trấn nhỏ Sheep và Scales, vượt qua bìa rừng cuối cùng, qua những sông băng và những khối tuyết gió dồn dày hàng trăm bộ[4], rồi leo lên ngọn đèo Chilcoot sừng sững, vạch phân thủy chắn ngang giữa vùng nước biển và vùng nước ngọt và đứng như một vị hung thần trợn trừng hăm dọa, canh giữ miền đất phương Bắc buồn tẻ và hiu quạnh. Chiếc xe chạy khá nhanh xuống dọc dãy hồ lấp kín những miệng núi lửa đã tắt, và khuya hôm ấy, đoàn người và chó kéo vào một khu trại khổng lồ ở đầu hồ Bennett, tại đấy có hàng ngàn người đi tìm vàng đang đóng thuyền để dự phòng băng tan trong mùa xuân. Buck đào một lỗ trong tuyết và thiếp đi trong giấc ngủ của kẻ trải qua một cuộc thi đấu kiệt sức, nhưng từ quá sớm đã bị lôi cổ ra trong bóng đêm lạnh buốt và bị thắng vào chiếc xe trượt tuyết cùng lũ bạn của nó.
Hôm ấy chúng chạy bốn mươi dặm, vì vệt đường đã có sẵn, băng tuyết đã được nện chặt. Nhưng ngày hôm sau, và nhiều ngày tiếp sau nữa, đoàn người và chó phải tự mở đường đi, nên làm việc mệt nhọc hơn mà lại đi chậm hơn. Theo lệ thường, Perrault dẫn đầu trước đàn chó, dùng liếp đi tuyết[5] nện chặt tuyết lại để cho chó kéo xe dễ dàng hơn. François ở vị trí điều khiển chiếc xe cần lái xe, thỉnh thoảng đổi chỗ cho Perrault, nhưng không thường xuyên. Perrault đang rất vội, và anh lại tự hào là người thông thạo nghề băng tuyết, sự thông thạo ấy không thể thiếu được lúc này bởi vì lớp băng mùa thu rất mỏng, và ở nơi nào nước bên dưới chảy xiết thì nơi đó không đóng một tí băng nào.
Ngày lại ngày qua những ngày nối nhau bất tận. Buck lao động nhọc nhằn trong vòng đai cương. Hôm nào cũng vậy, trời còn tối mò mà đã nhổ trại, và khi tia sáng nhợt nhạt đầu tiên của buổi bình minh vừa hé ra thì đã thấy chúng đang rong ruổi trên con đường mòn, trút lại sau thêm những dặm đường mới. Và hôm nào cũng vậy, sau khi trời đã tối sập xuống mới dừng lại đóng trại, lũ chó ăn phần cá ít ỏi của mình rồi bò lê ra ngủ trong tuyết, Buck đói cào cả ruột. Phần thức ăn của nó mỗi ngày, một suất cá hồi khô nặng một pound rưỡi, thật chả thấm vào đâu. Nó không bao giờ ăn đủ, thường xuyên bị cơn đói dằn vặt. Ấy thế mà các con chó kia, vì không nặng cân bằng nó và sinh ra chính là để sống cuộc sống này, nên tuy chỉ được một khẩu phần cá nặng một pound thôi, nhưng vẫn giữ được trạng thái bình thường.
Buck nhanh chóng mất đi cái tính kén cá chọn canh vốn là đặc tính sinh hoạt của nó trước kia. Cu cậu khảnh ăn nên lũ bạn của nó ăn xong trước, lại xông đến cướp luôn cả phần của nó đang ăn dở. Nó cũng không chống giữ được. Trong khi cu cậu đánh đuổi đi hai ba
tên thì phần thức ăn của nó lại lọt vào họng những tên khác. Để khắc phục, nó cố ăn nhanh bằng chúng. Rồi thì, vì cơn đói bức bách quá thể, nó đành hạ mình đi làm cái việc cuỗm lấy những thứ không phải của nó. Nó đã để ý theo dõi và học tập. Một hôm nó nhìn thấy Pike, một trong những con chó mới nhập đàn – một tên láu cá thường giả ốm để trốn việc và là một tên kẻ cắp tinh quái – khôn khéo thó được một lát thịt lợn muối lúc Perrault vừa quay lưng đi. Thế là ngày hôm sau, Buck diễn lại tiết mục ấy y hệt, mà lại tha đi cả khúc thịt. Tiếng la ó ầm lên, nhưng chả ai nghi ngờ Buck, trong khi Dub, một con chó ngờ nghệch vụng về và luôn bị bắt gặp ở nơi có chuyện, lại bị trừng trị về cái tội mà Buck đã phạm.
Vụ ăn cắp đầu tiên này là dấu hiệu chứng tỏ Buck đã thích ứng được để tồn tại trong cái môi trường khắc nghiệt của vùng đất phương Bắc này. Sự việc đó biểu hiện khả năng thích nghi của Buck, có thể tự điều chỉnh cho hợp với những hoàn cảnh biến đổi: thiếu khả năng ấy sẽ có nghĩa là rơi vào cái chết nhanh chóng và khủng khiếp. Sự việc đó lại còn biểu hiện sự suy sụp, tan nát của bản chất có đạo đức của nó, một thứ phù phiếm rỗng tuếch và một điều bất lợi trong cuộc đấu tranh sinh tồn tàn nhẫn này. Ở vùng đất phương Nam, dưới luật lệ của tình yêu và tình bạn, việc tôn trọng của cải cá nhân và cảm xúc riêng tư của kẻ khác là đúng. Nhưng ở cái vùng đất phương Bắc này, dưới luật lệ của dùi cui và răng nanh, thì kẻ nào lưu tâm đến những điều đó là kẻ khờ dại, và nếu như Buck cứ tuân thủ những điều đó thì chắc hẳn Buck đã không thể thành công.
Cũng chả phải Buck đã suy luận ra được rành rọt như vậy. Nó đã thích ứng được, có thế thôi. Nó đã làm cho nó thích nghi được với lối sống mới, một cách không tự giác. Trong cả cuộc đời của nó trước kia, nó chưa hề chạy trốn khỏi một cuộc chiến đấu, dù nó ở vào thế
bất lợi như thế nào đi nữa. Nhưng chiếc dùi cui của người mặc áo nịt đỏ đã nện ngấm vào trong đầu nó một thứ đạo lý cơ bản hơn và nguyên thủy hơn. Lúc còn là một con vật văn minh, nó đã có thể sẵn sàng chết vì nghĩa, ví dụ như để bảo vệ cho ngọn roi điều khiển của ngài Thẩm Miller chẳng hạn. Thế nhưng bây giờ thì Buck đã bị phi văn minh hóa trọn vẹn rồi, bởi vì rõ ràng là bây giờ nó có khả năng chạy trốn khỏi việc bảo vệ cho một đòi hỏi về đạo đức, cốt để cứu lấy sinh mạng của mình cái đã. Nó ăn cắp không phải vì thích thú gì thói ăn cắp, mà là vì cái dạ dày của nó kêu gào. Nó không đánh cướp một cách lộ liễu, mà xoáy trộm một cách bí mật và ranh mãnh, vì nó lưu tâm đến cái dùi cui và răng nanh. Nói tóm lại, những điều đó, nó đã làm là bởi vì làm thì lại dễ hơn là không làm.
Sự phát triển của nó (hay có thể nói là sự “thoái hóa” của nó) diễn biến thật nhanh chóng. Những bắp thịt của nó trở nên cứng như sắt, và nó thành ra chai sạn đối với mọi nỗi đau thông thường. Nó đã tận dụng được tối đa mọi thứ, cả ở bên ngoài nó lẫn bên trong nó. Nó có thể ăn bất kỳ cái gì dù cái đó gớm ghiếc hoặc khó tiêu đến đâu đi nữa. Và sau khi đã nuốt xuống, những dịch vị trong dạ dày nó chiết xuất ra cho đến kiệt tí chất dinh dưỡng nhỏ nhất cuối cùng, máu của nó mang chất dinh dưỡng ấy đến tận nơi xa nhất trong cơ thể nó, cấu tạo thành những mô cứng rắn nhất, bền dai nhất. Thị lực và tài đánh hơi của nó trở nên sắc sảo phi thường, và tai nó trở nên thính đến nỗi trong khi ngủ nó vẫn nghe được những tiếng động nhỏ nhất và biết là tiếng động ấy báo điềm lành hay dữ. Nó đã học được cách cắn vỡ lớp băng giá đóng chặt giữa các ngón chân. Và khi nó khát, mà trên hố nước có một váng băng dày che kín, nó biết chồm thẳng mình, lên gân cứng đơ hai chân trước mà đập cho vỡ mặt băng ra. Điều rõ nét nhất ở nó lúc này là cái tài đánh hơi triệu chứng gió, và dự kiến được
ngọn gió trước một đêm. Dù trời lặng gió đến mấy đi nữa, khi nó đào ổ nằm cạnh gốc cây hoặc bên bờ đất, thì đến khi cơn gió nổi lên, chắc chắn là chỗ ngủ của nó đã nằm đúng ở phía dưới gió, được che kín và ấm áp.
Nhưng không phải nó chỉ hiểu biết qua kinh nghiệm mà những bản năng tắt lịm từ lâu đời nay lại trỗi dậy. Những thế hệ thuần hóa rơi rụng ra khỏi nó. Một cách mơ hồ, nó nhớ lại tận buổi sơ khai của nòi giống, nhớ lại tự cái thời những con chó hoang ào ạt từng bầy chạy lùng mồi khắp những khu rừng nguyên thủy và giết chết con thịt mà chúng đuổi đến cùng đường. Buck không phải khổ công học đánh nhau với những miếng đòn cắn bập, cắn toạc và cái táp nhanh như chớp của chó sói. Những tổ tiên đã bị lãng quên của nó xưa kia vốn đã đánh nhau theo cách ấy. Những tổ tiên hoang dã ấy đã nhen nhóm lại bên trong nó cuộc sống cổ xưa, và những mánh khoé xưa kia của chúng đã thành dấu in sâu vào huyết thống di truyền của nòi giống thì nay cũng chính là những mánh khoé của bản thân nó. Những cái đó đã đến với nó tự nhiên, nó chả phải nhọc công gắng sức học tập hoặc khám phá ra, dường như luôn luôn đã là của nó tự những bao giờ. Và mỗi khi, trong bóng đêm lạnh lẽo nín lặng, nó nghếch mõm lên một vì sao mà hú dài như chó sói, thì ấy chính là tổ tiên nó, những nắm bụi tàn trong cõi chết, đã nghếch mõm lên các vì sao mà hú về qua bao nhiêu thế kỷ và qua bản thân nó. Nhịp điệu trong tiếng hú của nó cũng chính là nhịp điệu trong tiếng hú của chúng, những nhịp điệu diễn tả nỗi niềm thống khổ của chúng và điều mà đối với chúng là ý nghĩa của tĩnh mịch, lạnh lẽo và bóng tối âm thầm.
Vậy là, như một dấu hiệu biểu hiện sự sống của một vật bị chi phối, tiếng hát tự ngàn xưa đã trỗi dậy qua bản thân Buck, và nó đã
trở lại với chính nó về bản chất; mà nó trở lại như vậy bởi vì con người đã tìm thấy một thứ kim loại màu vàng ở phương Bắc, và bởi vì Manuel là một gã phu vườn mà đồng lương không thể bao nổi nhu cầu của vợ cùng mọi món chi tiêu vặt vãnh của bản thân gã.
III
Con thú nguyên thủy thống soái
T
ính chất con thú nguyên thủy muốn chiếm địa vị thống soái đã trỗi dậy mạnh mẽ bên trong Buck, và dưới những điều kiện ác liệt của cuộc sống trên con đường mòn vùng băng tuyết, tính chất ấy càng phát triển, phát triển lên mãi. Tuy nhiên, đó là một sự phát triển thầm kín. Sự khôn ranh mới nảy sinh ở Buck đã tạo cho nó tính đĩnh đạc và tự chủ. Nó quá bận vào việc tự điều chỉnh mình cho phù hợp với cuộc sống mới, nên không cảm thấy tự buông thả thoải mái được, và không những nó không gây chuyện đánh nhau, mà nó còn cố tránh xung đột khi nào có thể tránh được. Đặc điểm trong tư thế của nó bây giờ là một thứ tác phong thận trọng, có tính toán. Nó không dễ sa vào sự liều lĩnh và hành động hấp tấp thiếu suy nghĩ. Và trong mối căm ghét cay độc giữa nó và Spitz, nó không để lộ ra một tí nóng vội nào, lảng tránh mọi hành vi gây gổ.
Còn về phía Spitz, thì có thể là vì Spitz không đoán thấy ở Buck một địch thủ nguy hiểm, nên hắn không bỏ lỡ một cơ hội nào mà không nhe nanh ra với Buck. Thậm chí hắn còn trêu chọc Buck một cách vô cớ, luôn luôn cố tìm cách làm nổ ra một cuộc đánh nhau mà kết thúc phải là cái chết của tên này hoặc của tên kia.
Ngay trong những ngày đầu của chuyến đi, đáng ra điều đó đã có thể xảy ra, nếu như không có một sự tình cờ đặc biệt làm cho vụ
xung đột bị chặn đứng lại.
Buổi tối hôm đó, đoàn người và chó đứng lại nghỉ đêm ở một chỗ trống trải và tiều tuỵ bên bờ hồ Le Barge. Tuyết cuồn cuộn xô tới, gió rét cắt da cắt thịt như những lưỡi dao nung trắng, và bóng đêm mù mịt, tất cả những thứ đó buộc hai người phải dò dẫm tìm ngay một nơi cắm trại. Khó có ai lâm phải một tình trạng tồi tệ hơn thế nữa. Đằng sau họ là một vách đá dựng đứng, nên Perrault và François buộc phải nhóm ngọn lửa và trải túi ngủ ngay trên mặt hồ đóng băng. Lều đã phải bỏ lại Dyea để đi đường cho gọn nhẹ, ngọn lửa bốc lên từ một vài que củi giạt cóp nhặt đã nhanh chóng làm tan băng rồi tụt xuống nước tắt đi, thế là họ phải ăn trong bóng tối.
Buck đào một ổ nằm kín đáo dưới vách đá che khuất. Ổ nằm kín gió và ấm cúng đến nỗi Buck rất miễn cưỡng khi phải bỏ chỗ ra nhận phần cá mà François phân phát sau khi anh đã hơ cá trên ngọn lửa cho tan băng. Nhưng khi Buck ăn xong quay trở lại thì ổ nằm của nó đã bị chiếm mất. Nghe một tiếng gừ đe nẹt trong ổ phát ra, nó biết ngay tên xâm đoạt là Spitz. Cho đến tận lúc này Buck đã cố tránh rắc rối với kẻ thù địch của mình, nhưng đến nước này thì thật là quá quắt. Con thú dữ bên trong Buck gầm lên. Nó nhảy xổ vào Spitz với một sự điên tiết hung tợn mà cả Spitz lẫn bản thân nó đều không ngờ tới, đặc biệt là Spitz lại càng ngạc nhiên, bởi vì theo sự đánh giá của Spitz qua toàn bộ quá trình tiếp xúc với Buck, thì địch thủ của hắn chỉ là một con chó nhút nhát, bấy lâu nay sở dĩ đứng vững được chẳng qua là nhờ nặng cân và to xác mà thôi.
François cũng ngạc nhiên khi hai con chó loạn đả quần nhau rối mù lên từ trong chiếc hố vỡ toang vọt ra. Anh đoán được lý do cuộc xung đột. Anh kêu to lên với Buck:
- Thế! Thế! Cho hắn một trận, đồ chết tiệt! Trị cho hắn một trận, cái quân kẻ cướp đê tiện!
Spitz cũng đã sẵn sàng huyết chiến. Hắn vừa gào lên với một vẻ hết sức giận dữ và hăm hở, vừa lượn tới lượn lui để tìm cơ hội nhảy vào. Buck cũng hăm hở không kém, mà cũng thận trọng không kém, trong khi nó, cũng như Spitz, lượn tới lượn lui để tìm lợi thế.
Nhưng chính lúc đó thì sự việc bất ngờ đã xảy ra. Sự việc này đã đẩy lùi cuộc huyết chiến giành quyền lực giữa hai con chó về một thời điểm khác, mãi xa về sau, tận đến khi đã vượt qua bao nhiêu dặm đường lao động rã rời nặng nhọc.
Một tiếng rủa của Perrault, tiếng đánh cốp của chiếc dùi cui quật lên một thân hình xương xẩu, và một tiếng thú kêu ré đau đớn, báo hiệu một vụ hỗn loạn tột độ sắp nổ ra. Giữa khu vực cắm trại đột nhiên nhốn nháo những hình thù lông lá vừa lén lút lẩn vào – những con chó Eskimo đói ăn, có đến gần khoảng trăm con, từ một làng người da đỏ nào đấy đánh hơi mò tới. Chúng đã lẻn vào trong lúc Buck và Spitz đang choảng nhau, và khi Perrault cùng François cầm dùi cui nhảy bổ vào giữa bọn chúng thì chúng nhe răng ra chống trả. Mùi thức ăn làm chúng điên cuồng lên. Perrault bắt gặp một con rúc ngập đầu vào trong thùng đựng thực phẩm. Chiếc dùi cui của anh giáng như búa bổ xuống mạng sườn hốc hác, chiếc thùng thực phẩm đổ lật úp xuống đất. Ngay lập tức, mấy chục con vật đói ăn lăn xả vào tranh cướp đống bánh mì và thịt lợn muối. Những chiếc dùi cui quật xuống chẳng làm chúng nao núng. Chúng kêu ăng ẳng và rú lên dưới trận đòn giáng như mưa, ấy thế mà vẫn cứ điên cuồng bám chặt cho đến khi chúng ngốn sạch mẩu vụn cuối cùng.
Trong khi đó, đàn chó kéo xe sửng sốt vừa bật dậy khỏi ổ nằm của
chúng liền bị bầy thú kẻ cướp tấn công ngay. Buck chưa bao giờ nhìn thấy những con chó như vậy. Trông cứ như là xương của chúng sắp bật tung ra khỏi da. Chúng chỉ là những bộ hài cốt lùng thùng bọc trong những tấm bì lôi thôi lếch thếch, với những con mắt rực cháy và những hàng nanh ngập nước dãi. Nhưng cơn điên dại vì đói đã làm chúng trở nên kinh khủng, không ai cưỡng nổi. Chả có cách gì chống lại chúng. Lũ chó kéo xe bị đẩy lùi dồn vào vách đá ngay từ đầu, Buck bị ba con chó Eskimo bao vây, và trong nháy mắt đầu và vai Buck bị cắn xé rách toạc ra nhiều chỗ. Tiếng kêu thét náo động khủng khiếp. Billee, như thường lệ, kêu rên ầm lên. Dave và Sol-leks, đầm đìa máu vì hàng chục vết thương, sát cánh bên nhau dũng cảm chiến đấu. Joe táp lia lịa như điên như cuồng. Một cái đớp của nó bập vào chân trước một con chó Eskimo và cắn ngập vào nghiến cho xương gãy đánh rắc. Lập tức Pike, con chó láu cá, nhảy xổ vào con vật bị què, và bằng một cái táp nhanh và một cái giật mạnh đột ngột, cắn gãy cổ đối thủ. Buck chộp được họng một tên địch đang lồng lộn sùi bọt mép, cắn ngập vào mạch máu ở cổ hắn, làm máu phun ra đầy mình Buck. Vị máu ấm túa ra trong mồm nó kích thích nó trở thành hung tợn hơn. Nó lao mình vào một địch thủ khác. Vừa lúc đó, bỗng nhiên nó cảm thấy một hàm răng cắn ngập vào họng mình. Đó là Spitz, quân phản bội, từ một bầy nhảy xổ vào cắn trộm nó.
Perrault và François, sau khi đã quét sạch lũ chó kẻ cướp khỏi chỗ của họ, liền hối hả chạy ra cứu đàn chó của mình. Làn sóng những con vật đói ăn điên cuồng phải cuốn lui trước sự tấn công của hai người, và Buck vùng ra thoát được. Nhưng chỉ được một lát thôi. Hai người buộc phải chạy lui về để bảo vệ lấy thực phẩm, thế là bầy chó Eskimo lại quay lại xông vào lũ chó kéo xe. Billee, hoảng quá hóa liều, vọt bừa qua vòng vây của những con thú man rợ và phóng qua bãi
băng tuyết bỏ chạy. Pike và Dub nối theo gót Billee, tiếp theo sau chúng là những con chó khác trong đàn. Buck đang rún mình chuẩn bị vọt theo chúng thì bỗng qua khoé mắt nhác thấy Spitz đang lao đến nó với ý định rõ ràng muốn hất nó ngã ngửa. Một khi đã ngã hẫng chân lên, dưới cả đống chó Eskimo thì không còn hy vọng gì nữa. Nhưng Buck đã dốc hết sức mình trụ lại được dưới cái húc mạnh của Spitz, rồi nối theo đàn bỏ chạy trên mặt hồ.
Một lát sau, chín con chó trong đàn túm lại với nhau và tìm một chỗ ẩn náu trong rừng. Mặc dù không bị đuổi theo tình trạng của chúng thật là khốn khổ. Không con nào không bị đến bốn hoặc năm vết thương trên mình, một số con bị thương nặng. Dub bị thương trầm trọng một chân sau. Dolly, con chó Eskimo cuối cùng nhập đàn tại Dyea, bị rách toạc họng. Joe mất một con mắt. Còn Billee, con chó lành nết, thì một tai bị nhay xé rách như xơ mướp, kêu la rên rỉ suốt đêm. Trời vừa sáng, chúng khập khiễng lê trở về nơi đóng trại, vừa đi vừa coi chừng. Về đến nơi thì thấy bầy kẻ cướp đã đi hết, còn hai ông chủ thì đang mặt nhăn như bị. Có đến một nửa số thức ăn của họ đã đi tong. Lũ chó Eskimo đã nhai nghiến cả những dây da và những tấm bạt. Thực tế là không có cái gì thoát khỏi hàm răng chúng, dù có khó xơi đến đâu đi nữa. Chúng đã ngốn mất một đôi giày da nai của Perrault, nhiều khúc dây kéo và đai cương, và thậm chí cả một đoạn dài đến hai bộ ở sợi dây gắn đầu chiếc roi của François.
François đang ủ ê nhìn ngắm chiếc roi thì đàn chó bị thương trở về. Anh quay sang xem xét chúng. Giọng anh dịu dàng:
- Chao ôi! Các bạn thân mến! Bao nhiêu là vết cắn thế này, chắc làm các bạn phát điên cả mất thôi. Thành chó dại cả mất thôi, trời
đất quỷ thần ôi! Ê, Perrault, cậu nghĩ sao?
Người giao liên lắc đầu không muốn tin vào điều đó. Trước mắt còn những bốn trăm dặm đường từ đây đến Dawson, anh ta khó mà có thể chịu được cái tai họa cơn dại nổ ra trong đàn chó của anh ta.
Phải hai tiếng đồng hồ vừa nguyền rủa, vừa ráng sức mới buộc xong đai cương đâu vào đấy, đàn chó bị thương trở nên cứng đơ, lóng cóng lại lên đường, đau đớn vật lộn với đoạn đường gian nan nhất từ trước đến nay chúng chưa hề gặp phải, và cũng là đoạn đường gian nan nhất từ đây đến Dawson.
Phía trước, con sông “Ba mươi dặm” mở rộng. Dòng nước ngỗ ngược của nó bất chấp sức mạnh của đông giá. Chỉ ở những chỗ xoáy nước và những nơi yên lặng mới có băng đông lại. Để vượt qua ba chục dặm đường ghê gớm ấy, cần phải sáu ngày lao khổ đến kiệt sức. Những dặm đường quả là ghê gớm, bởi vì mỗi bước tiến lên phía trước là mỗi bước liều mạng của người và chó, Perrault đi đầu dò đường, đã hàng chục lần sụt cả người xuống mặt băng mỏng bị vỡ. Anh thoát nạn được là nhờ có chiếc gậy dài cầm ngang, mỗi khi người anh sụt xuống phá thành cái hố giữa mặt băng thì chiếc gậy gác ngang miệng hố lại giữ anh lại. Trời đang rét kinh người, hàn thử biểu chỉ âm 50 độ[6], nên sau mỗi lần anh sụt xuống như vậy thì anh lại buộc phải nhóm lên đống lửa để cứu sống lấy sinh mạng mình và hơ cho khô quần áo, giày tất.
Nhưng không có gì làm thoái chí anh cả. Ấy cũng chính vì không có gì làm anh thoái chí được nên người ta mới chọn anh làm giao liên cho chính phủ. Anh dám dùng mọi cách mạo hiểm, kiên quyết vươn cái khuôn mặt bé nhỏ khô quắt của mình xốc tới giữa đông giá và quần quật vật lộn suốt từ mờ sáng đến tối mịt. Anh đi men theo
những rìa sông buồn thảm trên một dải băng viền bờ, mặt băng võng xuống và kêu răng rắc dưới bàn chân, khiến họ không dám dừng xe lại. Một lần, chiếc xe sụt thõm xuống cùng với Dave và Buck, chúng như bị ướp đông hẳn lại, và lúc được kéo lên thì gần chết đuối. Lại phải nhóm lên đống lửa mới cứu sống được chúng. Băng đóng chặt thành lớp cứng quanh thân chúng, và hai người phải lia lịa đảo chúng quanh ngọn lửa, cho chảy nước và tan băng ra, sát lửa đến nỗi lông chúng bị cháy xém.
Một lần khác, Spitz sụt xuống, kéo theo toàn bộ đoàn chó cho đến tận Buck. Buck dốc toàn lực trụ lại, rán sức kéo về đằng sau, hai chân trước đạp trên mép băng trơn tuột, mặt băng bốn chung quanh run lên và phát tiếng nứt rạn. Nhưng đằng sau nó còn có Dave, cũng rán sức kéo lui, và đằng sau chiếc xe trượt là François cật lực kéo đến mức gân cốt anh kêu răng rắc.
Dải băng hẹp lại bị vỡ thêm cả đằng trước và đằng sau, không còn lối thoát nào khác ngoài cái chỏm vách đá cheo leo ven bờ.
Ôi, kỳ diệu làm sao, Perrault đã leo lên được cái vách đá ấy, trong khi François đang cầu nguyện để có được chính điều kỳ diệu đó. Và thế là, với mọi thứ dây dải buộc xe cùng đai cương nhặt nhạnh đến mẩu cuối cùng góp lại buộc thành một sợi dây dài, họ kéo bổng lũ chó, con này đến con khác, lên đến chỏm vách đá. François lên cuối cùng, sau chiếc xe trượt và các thứ chở trên xe. Rồi lại đến việc tìm một chỗ để tụt xuống và họ tụt xuống cũng bằng sợi dây ấy. Khi họ trở xuống trên mặt sông thì đêm đã sập xuống, với kết quả công lao của cả một ngày chỉ đi được vẻn vẹn có một phần tư dặm.
Khi cả đoàn đến sông Hootalinqua và gặp được mặt băng rắn chắc, thì Buck đã mệt lả. Những con chó khác cũng vậy. Nhưng
Perrault, để tranh thủ bù lại thời gian bị mất, thúc ép chúng đi sớm và nghỉ muộn. Ngày đầu chúng chạy suốt ba mươi lăm dặm cho đến trạm “Cá hồi lớn”, hôm sau thêm ba mươi lăm dặm nữa đến trạm “Cá hồi nhỏ” và ngày thứ ba chạy bốn mươi dặm, đến tận trạm “Sao Biển”.
Chân Buck không cứng rắn và dạn dày bằng chân của lũ chó Eskimo. Chân nó đã mềm yếu đi nhiều qua bao nhiêu thế hệ kể từ cái ngày kẻ tổ tiên hoang dã cuối cùng của nó bị con người nguyên thủy ở hang hoặc ở ven sông, bắt về thuần dưỡng. Suốt ngày nó đau đớn khập khiễng, và mỗi lần cắm trại xong là nó nằm im lìm như xác chết. Đói hết sức nhưng nó không thể dậy để nhận phần cá của nó, và François phải mang đến cho nó. Anh chàng lái xe chó lại còn xoa bóp chân cho Buck mỗi đêm nửa tiếng đồng hồ sau bữa ăn tối, và hy sinh lớp trên của đôi giày của anh để khâu bốn chiếc giày cho Buck. Những chiếc giày này giảm nhẹ đau đớn đi rất nhiều. Một buổi sáng, François quên đeo giày cho Buck, Buck đã làm cho bộ mặt héo quắt của Perrault cũng phải xệch ra thành một nụ cười nhăn nhở khi Perrault thấy Buck nằm ngửa ra, bốn chân huơ trong không khí với dáng điệu van lơn, cứ nằm ì ra không chịu dậy nếu không được mang giày. Nhưng về sau, chân của Buck dày dạn dần lên, chịu đựng được con đường gian khổ, và mấy cái bao chân mòn rách bị vứt đi.
Một buổi sáng, trên dòng sông Pelly, trong khi đàn chó đang được thắng đai cương thì Dolly, con chó từ trước đến nay không có điều gì khiến người ta để ý đến, đột nhiên phát dại. Cơn dại được báo hiệu bằng một tiếng tru như tiếng chó sói, dài và ghê rợn, làm cho mọi con chó khác hoảng sợ lông dựng đứng cả lên. Và sau tiếng tru, nó nhảy bổ vào Buck. Buck chưa bao giờ thấy một con chó phát dại, mà cũng chả có lý do gì khiến cho nó sợ bệnh dại. Nhưng nó nhận biết
được đấy là một cái gì khủng khiếp, và nó hoảng hốt bỏ chạy. Thẳng tới phía trước, nó phóng cật lực. Dolly, hổn hển và sùi bọt mép, bám riết đằng sau, chỉ cách một bước. Dolly không thể đuổi kịp, bởi nỗi ghê sợ của Buck lên đến cực độ, mà Buck cũng không bứt ra được, bởi cơn dại của Dolly cũng lên đến cực độ. Buck lao xuyên qua khu rừng trên cù lao, phóng xuống bờ thấp, vượt qua một con kênh phủ băng lởm chởm để chạy lên một cù lao khác, rồi băng qua một cù lao thứ ba, vòng trở lại dòng sông chính, và bắt đầu vượt qua dòng sông trong tình trạng tuyệt vọng. Và mặc dù Buck không nhìn thấy, lúc nào Buck cũng có thể nghe thấy Dolly gầm gừ chỉ sau nó một bước. Cách Buck một phần tư dặm, François cất tiếng gọi nó, nên nó rẽ ngoặt lại, vẫn luôn bị Dolly bám theo cách một bước, đau đớn thở dốc và đặt tất cả hy vọng vào bàn tay François cứu nó. Anh chàng đánh xe chó lăm lăm chiếc rìu trong tay chờ sẵn, và khi Buck vừa vụt qua khỏi thì chiếc rìu lập tức bổ xuống đầu con chó dại Dolly.
Buck lảo đảo bước lại phía trước chiếc xe trượt, kiệt sức, thở dốc, và không đứng vững được nữa. Thời cơ của Spitz đây rồi. Hắn nhảy xổ vào Buck, và hai lần hàm răng của hắn cắn ngập vào kẻ đối thủ không chống đỡ gì rồi nhay, rồi xé rách toạc thịt ra đến tận xương. Nhưng chiếc roi của François đã giáng xuống, và Buck hài lòng đứng xem Spitz nhận một trận đòn trừng phạt dữ dội chưa từng thấy đối với bất kỳ một con chó nào trong đàn.
- Một con quỷ dữ, cái con Spitz ấy, – Perrault nhận xét. – Mẹ kiếp, một ngày nào đó nó giết chết con Buck mất thôi!
François đáp ngay:
- Ấy, con Buck thì lại bằng hai con quỷ dữ. Tớ theo dõi suốt con Buck nên tớ biết dám chắc thế. Tớ nói cho mà nghe: rồi có ngày, mẹ
kiếp, nó sẽ phát điên lên kinh khủng, rồi nó sẽ nhai nghiến gọn con Spitz đó, rồi nó khạc xương con Spitz ra giữa tuyết cho mà xem. Chắc chắn không sai đâu, tớ biết.
Kể từ lúc ấy, giữa hai con chó là một cuộc sống mái. Spitz, con chó đầu đàn, kẻ chỉ huy được thừa nhận của toán chó, cảm thấy quyền lực tối cao của mình bị con chó kỳ lạ của của đất phương Nam kia đe dọa. Mà đối với hắn, Buck kỳ lạ thật, bởi vì trong số những con chó phương Nam mà hắn đã gặp, không có con nào tỏ ra làm nên trò trống gì tại nơi đóng trại và trên đường kéo xe. Tất cả bọn chúng đều quá mềm yếu, chết gục vì lao động cực nhọc, vì băng giá và vì đói. Buck là một trường hợp ngoại lệ. Chỉ một mình nó chịu đựng được mà lại còn phát triển lên, sánh được với lũ chó Eskimo về sức mạnh, tính man rợ và sự khôn ranh. Hơn nữa, nó lại là con chó ham muốn quyền thế, và điều làm cho nó trở thành nguy hiểm là chiếc dùi cui của người mặc áo nịt đỏ đã quật cho tiêu tan hết những gì là gan liều mù quáng và hấp tấp vội vàng ra khỏi vòng khát vọng quyền lực của nó. Nó đã khôn ranh lên một cách khác thường và sẵn sàng chờ đợi thời cơ với một sự kiên nhẫn mang một tính chất không có gì khác hơn là tính nguyên thủy.
Cuộc xung đột để tranh giành quyền lực nhất định sẽ nổ ra, không thể tránh khỏi. Buck muốn như vậy. Nó muốn như vậy vì đó là bản chất vốn có của nó, và cũng bởi vì nó đã bị hút chặt vào cái niềm tự hào vô danh và thật là khó hiểu ấy về lao động trên vết đường mòn – cái niềm tự hào đã giữ riết lũ chó trong công việc lao khổ nhọc nhằn cho đến hơi thở hắt cuối cùng, đã cám dỗ chúng đến mức chúng sẵn sàng chết hân hoan trong vòng đai cương và chúng sẽ đau buồn như xé ruột nếu bị rứt ra khỏi đai cương ấy. Đó là niềm tự hào của Dave, khi đảm nhận vị trí kéo sát trước xe, của Sol-leks khi ra sức kéo cật
lực; niềm tự hào đã cuốn hút lấy chúng mỗi khi nhổ trại, biến đổi chúng từ những con thú cáu bẳn và ủ rũ trở thành những sinh vật nỗ lực, hăm hở, đầy khát vọng; niềm tự hào đã liên tục kích thích chúng suốt ngày dài nhưng rồi lại bỏ rơi chúng vào lúc cắm trại ban đêm, để chúng rơi trở lại vào trong tâm trạng bồn chồn và bất mãn u sầu. Đó là niềm tự hào đã giữ vững khí thế của Spitz và thúc hắn nhảy vào trị những con chó mắc sai lầm và trốn tránh công việc trong vòng dây kéo hoặc lẩn trốn khi đến giờ thắng đai cương buổi sáng. Cũng chính niềm tự hào đó đã khiến hắn sợ Buck sẽ có thể giành mất địa vị con chó đầu đàn. Và đó cũng là niềm tự hào của cả Buck nữa.
Buck công khai đe dọa quyền chỉ huy của Spitz. Nó xông vào giữa Spitz và những con chó trốn việc đáng ra phải bị Spitz trừng trị. Và Buck chủ tâm làm như vậy. Một đêm nọ, tuyết rơi tầm tã, và sáng ra thì Pike, con chó hay giả ốm để trốn việc, biến đi đâu mất. Một lớp tuyết dày đến một bộ đã phủ lên ổ nằm của nó, che giấu nó hoàn toàn kín đáo. François gọi nó và đi tìm mãi nhưng chịu không phát hiện ra. Spitz thì tức giận điên cuồng. Hắn hung tợn lồng lộn khắp khu đóng trại, đánh hơi và đào bới bất kỳ chỗ nào đáng ngờ, gầm rít khủng khiếp đến nỗi Pike trong chỗ ẩn náu của mình cũng nghe thấy và run sợ.
Nhưng rồi cuối cùng Pike cũng bị phát hiện. Khi nó vừa bị lôi cổ lên, Spitz xông ngay vào để trừng trị nó, thì Buck cũng lập tức nhảy bổ tới, cũng hung tợn chẳng kém, lao ngang vào giữa hai con chó. Động tác của nó quá bất ngờ và khéo tính toán đến nỗi Spitz bị hất lật nhào về đằng sau hẫng cả chân lên. Pike, vừa nãy còn đang hèn nhát run sợ, bây giờ nhờ sự nổi dậy chống đối ra mặt đó của Buck nên lấy lại được can đảm, nhảy xổ vào kẻ chỉ huy đã bị lật đổ. Đối với Buck lúc này, lối chơi ngay thẳng là một luật lệ đã bị bỏ qua rồi, nên
Buck cũng nhảy xổ vào Spitz. Trước cảnh tượng đó, François khoái trá cười thầm trong bụng nhưng đồng thời vẫn kiên định trước sau như một trong việc thi hành công lý, nên anh dốc toàn lực vụt sợi roi da xuống Buck. Nhưng sợi dây không đuổi được Buck ra khỏi địch thủ của nó đang sóng soài trên mặt đất, nên anh phải trở đầu cán roi mà quật. Phải một đòn choáng váng, Buck bị đánh bật lùi về phía sau và chiếc dây da buộc đầu roi giáng xuống nó tới tấp, trong khi Spitz trừng trị đích đáng tên Pike đã nhiều lần lếu láo.
Những ngày tiếp sau, trong khi đi dần tới Dawson, Buck vẫn tiếp tục xen vào giữa Spitz và những con chó phạm lỗi, nhưng nó láu cá, chỉ làm điều đó khi François không có mặt ở quanh đấy. Với sự nổi loạn kín đáo của Buck, đã nảy ra tình trạng là nói chung lũ chó không chịu phục tùng nữa, và tình trạng ấy cứ nghiêm trọng dần lên. Dave và Sol-leks không chịu ảnh hưởng gì, nhưng những con chó khác thì càng ngày càng tệ hơn. Mọi việc không còn trôi chảy nữa. Chúng liên tục cắn cấu nhau và vặc nhau om sòm. Những vụ rắc rối luôn luôn diễn ra, mà đầu trò là Buck. Nó làm cho François phải bận tâm suốt, vì anh chàng đánh xe chó thường xuyên e sợ cuộc chiến đấu một mất một còn giữa hai con chó mà anh biết sớm muộn thế nào cũng xảy ra; và đã nhiều lần, ban đêm đang ngủ anh phải tung chăn vùng dậy khi nghe tiếng chó gây gổ và cắn lộn nhau, sợ Buck và Spitz lại dính dáng vào đấy.
Nhưng cơ hội chưa đến, và một buổi chiều ảm đạm, đoàn người và chó kéo vào Dawson, trận sống mái vẫn còn gác lại đấy. Thị trấn Dawson đông nghịt người, và chó nhiều vô kể. Buck thấy con nào cũng đang làm việc. Hình như trật tự của vạn vật đã quy định là chó cũng phải làm việc. Suốt ngày chúng nối nhau đi từng xâu dài vòng lên rồi lại vòng xuống dọc con đường chính của thị trấn, và ban đêm
những chiếc nhạc đeo ở cổ chúng vẫn leng keng đi qua trên đường. Chúng kéo xe chở gỗ súc làm nhà và chở củi, vận chuyển hàng lên mỏ, và làm mọi thứ việc mà ngựa phải làm ở thung lũng Santa Clara. Đây đó Buck chỉ gặp vài con chó của vùng đất phương Nam, còn đa số bọn chúng là chó Eskimo thuộc nòi sói hoang. Hôm nào cũng vậy, theo một nếp đều đặn, cứ đến chín giờ tối, mười hai giờ khuya, và ba giờ sáng, chúng lại cất cao tiếng hát ban đêm, một bài ca huyền bí và rờn rợn, trong đó có giọng của Buck hoà theo đầy cảm khoái.
Với ánh hồng Bắc cực toả sáng lạnh ngắt trên đầu, hoặc dưới những ngôi sao rập rình trong điệu nhảy giữa băng giá, trên vùng đất chết lặng và lạnh cứng trùm tấm vải liệm bằng tuyết bao la, tiếng hát ấy của lũ chó Eskimo đáng ra phải là tiếng thách thức của sự sống, nhưng chỉ có điều là nó được lấy giọng theo điệu thứ, với những âm thanh rền rĩ kéo dài và những tiếng thổn thức nấc nghẹn, nên lại nghe như là tiếng nài xin của sự sống, là tiếng rên đau của sinh mệnh bị đọa đày, nói vậy thì có lẽ đúng hơn. Đó là một tiếng hát cổ xưa, cổ xưa như chính bản thân giống nòi của chúng – một trong những tiếng hát đầu tiên của thế giới man sơ, vào cái thời mà những tiếng hát hãy còn buồn bã. Nó chứa đựng nỗi thống khổ của xiết bao thế hệ, cái tiếng than vãn não nùng đã khích động Buck một cách kỳ lạ. Khi Buck cất tiếng ai oán và thổn thức, thì ấy là lúc nó mang trong mình nỗi đau của sự sống đã từng là nỗi đau của những tổ tiên hoang dã của nó xưa kia, cùng nỗi lo sợ và điều huyền bí của lạnh lẽo và tối tăm đã từng là nỗi lo sợ và điều huyền bí đối với tổ tiên nó. Và cái điều khiến Buck phải bị khích động vì tiếng kêu than kia là dấu hiệu chứng tỏ Buck đã quay lui hẳn lại, lùi qua các thời kỳ mà sự sống đã có bếp lửa và mái nhà, để trọn vẹn trở về với buổi ban đầu thô sơ của sự sống giữa thời của tiếng hú rầu rĩ xa xưa.
Bảy ngày sau khi vào Dawson, đoàn người và chó lai ra đi, tụt xuống theo bờ dốc bên rặng Barracks chạy về sông Yukon, rồi kéo về phía sông Dyea và thành Salt Water, Perrault đang mang theo những công văn giấy tờ có thể còn khẩn hơn cả những thứ anh đã mang đến Dawson; hơn nữa, niềm tự hào của cuộc hành trình cuốn hút lấy anh và anh có ý định thực hiện một chuyến đi kỷ lục trong năm ấy. Lần này anh gặp một số thuận lợi. Nhờ một tuần nghỉ ngơi, sức khoẻ đàn chó đã hồi phục, và chúng đã hoàn toàn sung sức. Đường mòn trên băng mà họ tự mở ra để đi vào đây hôm trước đã được nện cứng lại dưới bước chân những kẻ đi sau. Thêm nữa, cảnh sát đã bố trí ở vài ba địa điểm dọc đường những kho chứa thức ăn cho người và chó, và nhờ vậy kẻ đi đường được gọn nhẹ.
Ngày đầu họ đi đến tận pháo đài “Sáu mươi dặm”, nghĩa là chạy được một thôi dài năm mươi dặm. Ngày thứ hai, họ tăng vọt tốc độ ngược dòng Yukon chạy băng băng thuận đường thẳng tới sông Pelly. Nhưng chả phải là họ đã ngon ơ đạt được chuyến chạy nhanh tuyệt đẹp như vậy mà không có điều gì khó nhọc và bực mình cho François cả đâu! Cuộc nổi loạn âm ỉ do Buck cầm đầu đã phá vỡ khối thống nhất của đàn chó.
Trong vòng dây kéo, chúng không còn như trước nữa. Sự cổ vũ của Buck đã khiến những con chó làm loạn phạm vào đủ mọi thứ tội lặt vặt. Spitz không còn là một vị chỉ huy được kính sợ rất mực nữa. Nỗi sợ hãi trước kia đã bay biến, và chúng trở thành đủ khả năng thách thức quyền lực của Spitz. Một đêm nọ, Pike đoạt của hắn nửa con cá và nuốt trôi, dưới sự bảo vệ của Buck. Một đêm khác, Dub cùng với Joe đánh lại Spitz và làm Spitz phải chịu từ bỏ không thi hành được đòn trừng phạt mà chúng đáng phải chịu. Ngay cả Billee, con chó lành nết, cũng bớt lành đi, và có rên rỉ thì cũng không rên rỉ
kiểu xoa dịu như những ngày trước nữa. Buck không bao giờ đến gần Spitz mà không gầm gừ và dựng đứng lông lên đầy vẻ đe dọa. Quả là thái độ cư xử của Buck giống thái độ của một tên du côn, và nó có thói quen nghênh ngang lượn lui lượn tới ngay trước mũi Spitz.
Sự suy sụp kỷ luật đã ảnh hưởng cả đến quan hệ giữa những con chó khác với nhau. Chúng gây gổ và cắn cấu lẫn nhau nhiều hơn bao giờ hết, đến mức đôi lúc cả khu vực cắm trại rộ lên tiếng rú rít hỗn loạn ầm ĩ. Chỉ riêng Dave và Sol-leks là không thay đổi gì, mặc dù những cuộc xung đột liên chi hồ điệp xung quanh làm chúng phát cáu lên. François gào lên những tiếng nguyền rủa hung tợn kỳ lạ, giậm chân bứt tóc điên tiết mà không làm gì được. Sợi roi da của anh liên tục vun vút quất vào giữa đàn chó, nhưng chả có hiệu quả gì mấy. Anh vừa quay lưng đi là đâu lại vào đấy. Chiếc roi của anh ủng hộ Spitz, còn Buck thì lại ủng hộ những con chó còn lại. François biết Buck là tên đầu nậu đứng đằng sau mọi sự rối loạn, và Buck cũng rõ là anh biết. Nhưng Buck khôn ranh ma mãnh làm rồi, đừng hòng bắt quả tang nó một lần nào nữa. Trong vòng đai cương, nó làm việc thật là tận tuỵ, bởi công việc nhọc nhằn cũng đã trở thành một điều thích thú đối với nó: thế nhưng tẩm ngẩm tầm ngầm gây ra một vụ đánh nhau giữa các bạn nó và làm rối tung cả dây kéo lên lại là một điều còn thích thú hơn.
Tại cửa sông Tahkeena, một đêm nọ sau bữa ăn tối, Dub sục ra được một con thỏ Bắc cực, nhưng vụng về vồ trượt. Trong nháy mắt toàn bộ đàn chó hò hét đuổi theo. Cách đó một trăm mã[7] là một khu trại của cảnh sát Tây Bắc, có năm mươi con chó, toàn chó Eskimo, lũ này cũng ào đến tham gia cuộc săn đuổi. Con thỏ phóng nhanh xuống dòng sông, ngoặt vào một nhánh sông nhỏ, và ngược nhánh sông đóng băng nó vẫn vững bước lao tới. Nó lướt nhẹ nhàng
trên mặt tuyết, trong khi lũ chó dốc hết sức lặn lội đằng sau. Buck dẫn đầu bầy chó hùng hậu sáu chục con, quành từ khúc sông này sang khúc sông nọ, nhưng không thể nào đuổi kịp. Buck rạp mình xuống chạy, rú lên háo hức, khối thân hình tuyệt đẹp của nó vun vút phóng tới, bước này tiếp bước khác, dưới ánh trăng nhợt nhạt. Và cũng bước này tiếp bước khác, như một mảnh hồn ma băng giá tái mét, con thỏ vun vút lao lên phía trước.
Tất cả những gì đã khích động những bản năng cổ xưa trỗi dậy, sự khích động để thúc đẩy con người trong từng thời kỳ nhất định, vọt ra khỏi những thành phố vang động để vào rừng hoặc ra đồng tìm giết các thú vật bằng những viên đạn chì do hóa chất đẩy đi. Sự thèm khát máu tươi, niềm vui của giết chóc – tất cả mọi khích động ấy cũng đang xô đẩy Buck, chỉ có điều là những cái đó lại càng vô cùng gắn bó hơn bên trong bản chất của Buck. Nó đang dẫn đầu bầy chó chạy săn mồi, đuổi cho đến cùng đường sự sống hoang dã kia, sự sống ấy là miếng thịt ăn, để giết bằng đôi hàm răng của chính nó, để tắm cả mõm mình ngập cho đến tận mắt vào trong máu nóng.
Một sự đê mê ngây ngất biểu thị điểm tuyệt đỉnh của sự sống, bên trên đỉnh ấy, sự sống không còn dâng lên được nữa. Nghịch lý của sự sống là như vậy đó, sự đê mê ngây ngất ấy xuất hiện lúc mình đang sống mãnh liệt nhất, ấy thế mà nó xuất hiện như một trạng thái quên đứt đi là mình đang sống. Sự đê mê ngây ngất ấy, trạng thái quên rằng mình đang sống ấy, đã xuất hiện ở người nghệ sĩ, chiếm lĩnh lấy anh, lôi anh thoát khỏi bản thân mình theo luồng lửa tâm hồn phụt ra rực cháy; nó xuất hiện ở người lính, cố thủ trên trận địa bị tấn công, sôi máu chiến đấu cho đến phút chót, quyết không hạ súng đầu hàng; và đây, nó đã xuất hiện ở Buck, đang dẫn đầu bầy chó, thét vang tiếng hò hét tự ngàn xưa của sói hoang, ra sức rượt theo miếng
thức ăn, cũng là một sự sống, đang xuyên qua ánh trăng chạy trốn vùn vụt trước mặt. Buck đang thét lên những tiếng tự đáy sâu của bản chất nó, và của những phần nào đó trong bản chất còn sâu hơn cả cuộc đời bản thân nó, và Buck đang quay ngược lại lui trở vào cõi phôi thai của Thời Gian. Nó đang bị cuốn đi giữa đợt sóng cồn của sự sống, theo ngọn triều dâng của cõi sinh tồn, theo niềm vui tuyệt đỉnh của từng thớ thịt đường gân, trong mọi thứ không phải là cái chết, mà là sức sống đang toả ánh chói loà và bùng lên mạnh mẽ, thể hiện thành chuyển động, hân hoan tung cánh bay dưới những vì sao và trên bề mặt của vật chất chết lặng không hề động đậy.
Nhưng còn Spitz, bình tĩnh đến lạnh lùng và có tính toán ngay cả khi tâm thần bị kích động đến cực điểm, hắn tách ra khỏi bầy và chạy tắt ngang một dải đất hẹp nơi nhánh sông nhỏ lượn quanh thành một vòng cung rộng. Buck không hay biết điều đó, và trong khi Buck cứ chạy theo vòng lượn của dòng sông, con thỏ như một bóng ma băng giá vẫn vút theo bay trước mặt nó, thì bỗng thấy một bóng ma khác băng giá, lớn hơn, từ mũi đất bên bờ vọt ra chắn ngang trên đường con thỏ chạy. Đó là Spitz. Con thỏ không tài nào chuyển hướng kịp. Đang nửa chừng phóng tới, bị đôi hàm răng trắng bổ xuống cắn gãy sống lưng, nó kêu thét lên như tiếng hét thất thanh của một con người bị đánh. Nghe tiếng kêu ấy, tiếng kêu của Sự Sống ngã nhào xuống từ tột đỉnh của Sinh Tồn rơi vào nanh vuốt của Thần Chết, toàn bộ bầy chó nối sau gót Buck đồng thanh rộ lên một tiếng rú đầy khoái cảm.
Chỉ riêng Buck là không kêu lên một tiếng nào. Nó không dừng chân lại, mà phóng sang phía Spitz. Vai nó húc vào vai đối thủ, đà đi quá mạnh nên nó vồ trượt cổ họng của Spitz. Chúng lăn nhào mấy vòng trong đám tuyết bay tung thành bụi. Spitz lật mình đứng thẳng
dậy được ngay như thể vừa rồi không hề bị hất ngã, cắn một miếng toạc vai Buck rồi nhảy tránh xa ra một bên. Hai lần răng hắn bập mạnh như hai hàm thép của chiếc bẫy, cắn xong lại nhảy lùi ra để tạo thế đứng chân vững hơn, mép nhếch lên giần giật nhăn nhở và gầm rít.
Trong chớp mắt Buck vụt thấy. Thời điểm đã đến. Trận tử chiến là đây rồi. Trong khi nó cùng Spitz lượn vòng quanh nhau, gầm gào, tai kéo xệch ra đằng sau, tinh tường quan sát rình cơ hội xông vào giành lợi thế, Buck nhìn thấy cảnh tượng diễn ra như quen thuộc từ lâu. Dường như nó nhớ lại tất cả: cũng khu rừng trắng xóa này, cũng ánh trăng này, cũng tinh thần chiến đấu hừng hực này. Bao trùm lên cảnh vật trắng toát và im lặng là một sự yên tĩnh ma quái rùng rợn. Không có một tí thì thào nào của thinh không – không gì động đậy, đến một ngọn lá nhỏ cũng không lung lay, hơi thở của lũ chó đọng lại nhìn thấy rõ, lừ đừ bốc lên và vương vất mãi giữa không trung lạnh giá. Chúng nó, những con sói mới được thuần hóa dang dở, chúng nó đã thanh toán xong ngay con thỏ Bắc cực, và giờ đây chúng được tập hợp lại dàn thành một vòng tròn chờ đợi. Bản thân chúng cũng yên lặng, chỉ có những cặp mắt đang ngời sáng và làn sương hơi thở của chúng đang chậm rãi bốc lên. Đối với Buck, cảnh tượng này chả có gì là mới mẻ lạ lùng cả, nó đã hằng diễn ra trong thời cổ xưa. Dường như nó đã luôn luôn là thói thường của sự vật, mãi cho đến nay vẫn thế.
Spitz là một đấu sĩ có kinh nghiệm. Từ Spitzbergen qua tận Bắc cực, rồi qua Canada và vùng đầm lầy Barrens, đâu đâu hắn cũng đã đối địch được vững vàng với tất cả mọi loại chó và giành được quyền lực áp đảo chúng. Cơn điên giận của hắn dù có sôi lên ghê gớm đấy nhưng không bao giờ là cơn giận mù quáng. Nung nấu ý muốn giày
xé và hủy diệt, hắn không hề quên rằng kẻ địch của hắn cũng nung nấu ý muốn giày xé và hủy diệt giống như hắn. Hắn chẳng bao giờ lao vào đối phương nếu chưa chuẩn bị đầy đủ để đương đầu với một đòn lao vào của đối phương; chả bao giờ tấn công nếu chưa bảo vệ được mình chống lại cuộc tấn công của đối phương.
Buck cố gắng hết sức nhưng không tài nào thọc được hàm răng mình vào cổ con chó trắng to lớn. Đôi lúc hàng nanh của nó lao tới nhằm vào nơi thịt thì lại vấp phải hàng nanh của Spitz. Nanh choảng vào nanh, mép rách toạc và bật máu, nhưng Buck không lọt qua được miếng thủ thế của kẻ địch. Thế là Buck sôi sục lên, vây kín Spitz trong một cuộc tấn công lăn xả vào tới tấp như cơn lốc. Hết lần này lại lần khác, Buck cố gắng tìm cách thọc răng vào mảng cổ họng trắng như tuyết, nơi mà sự sống đang sủi bọt sát ngay dưới mặt da, nhưng mỗi lần và tất cả những lần như vậy Spitz đều bổ vào nó một miếng cắn rách toạc rồi vọt ra. Buck bèn dùng cách xông vào làm ra vẻ như muốn nhằm vào họng đối thủ, nhưng bất thần quay ngoặt đầu lại và uốn cong sườn dùng vai lao mạnh vào vai Spitz như một nhát búa nện hòng hất ngã Spitz. Nhưng không những không làm gì được, mà mỗi lần xông vào Buck lại còn bị cắn toạc vai trong khi Spitz nhẹ nhàng vọt tránh ra ngoài.
Spitz vẫn nguyên vẹn không chút xây xát, còn Buck thì đầm đìa máu và hổn hển thở gấp. Trận chiến đấu dần trở thành tuyệt vọng. Trong suốt thời gian ấy, vòng tròn những con vật sói lang im thin thít kia vẫn đang chờ đợi để kết liễu đời con chó nào ngã xuống.
Thấy Buck kiệt lực dần, Spitz bắt đầu chuyển sang thế tấn công, lao vào tới tấp, làm Buck cứ phải loạng choạng để tìm cách trụ lại thế đứng thẳng. Một lần Buck bị hất nhào, thế là toàn bộ vòng tròn sáu
chục con vật kia vội trườn tới. Nhưng Buck đã trụ lại được hầu như ngay khi đang bị hất bổng lên giữa không trung, và vòng tròn kia lại rút lại và chờ đợi.
Tuy nhiên, Buck lại có một đức tính nâng nó lên một tầm vóc lớn: óc sáng tạo. Nó chiến đấu bằng bản năng nhưng nó còn có thể chiến đấu bằng trí nữa. Nó xông đến, làm ra vẻ như định dùng miếng đòn hất vai như trước, nhưng đến giây lát cuối cùng thì rạp mình xuống thấp sát mặt tuyết và lao vào. Hai hàm răng của nó bập vào chân trước bên trái của Spitz. Một tiếng xương gãy giòn đánh rắc. Thôi thế là con chó trắng chỉ còn có ba chân bám trụ để đối đầu với nó. Ba lần Buck cố tìm cách hất ngã hắn, rồi Buck lặp lại mưu mẹo trên và nghiến gãy chân trước bên phải của Spitz. Mặc dù đau đớn và hết phương cứu vãn, Spitz vùng vẫy điên cuồng để giữ cho mình khỏi đổ. Hắn nhìn thấy vòng tròn những con thú lặng ngắt, với những cặp mắt ngời sáng, những chiếc lưỡi thè dài, và dải hơi thở đọng lại màu ánh bạc lững lờ bốc lên, vòng tròn ấy đang khép dần, sán lại gần hắn y như hắn đã từng nhìn thấy những vòng tròn giống như vậy khép dần lại quanh những địch thủ bị hắn đánh bại trước kia. Duy chỉ có lần này chính hắn là kẻ bị đánh bại.
Hắn chả còn chút hy vọng gì nữa. Buck không mảy may động lòng. Lòng thương hại là một điều chỉ dành cho những môi trường hiền hoà thôi. Buck chuẩn bị cho miếng đòn lao vào cuối cùng. Vòng tròn những con chó Eskimo đã khép chặt lại đến mức Buck có thể cảm thấy hơi thở của chúng phả vào bên sườn Buck. Buck có thể nhìn thấy chúng ở bên kia Spitz và cả ở mọi phía, nó hơi thu mình xuống trong tư thế lấy đà sẵn sàng vọt tới, những cặp mắt dán chặt vào hắn. Không gian lắng xuống, như có một giây phút tạm nghỉ. Mọi con vật im phăng phắc như đều đã biến thành tượng đá. Chỉ riêng
Spitz run rẩy lông dựng đứng loạng choạng đảo tới đảo lui, gào lên những tiếng đe dọa khủng khiếp như để xua đuổi cái chết đang lơ lửng trên đầu.
Thế rồi Buck bật nhảy vào rồi lại lao ra. Lần này, khi nó lao vào, miếng đòn vai cuối cùng đã hất được trúng thẳng vào vai địch. Vòng tròn đen sẫm tụ lại thành một điểm trên mặt tuyết tràn ngập ánh trăng, và Spitz biến mất không nhìn thấy đâu nữa. Buck đứng thẳng và ngắm nhìn. Nhà vô địch đã thắng trận, con thú nguyên thủy thống soái đã hoàn thành trận đánh tiêu diệt, và hài lòng với trận đánh tốt đẹp của mình.
IV
Kẻ đã đạt tới quyền lực
- Ơ
! Trông kìa! Tớ nói không sai, cái con Buck rõ bằng hai con quỷ dữ chưa nào.
Đó là lời François thốt lên sáng hôm sau, khi anh phát hiện là Spitz biến mất, còn Buck thì mình đầy thương tích. Anh kéo Buck đến gần ngọn lửa và dưới ánh lửa, anh chỉ vào những vết cắn.
- Cái con Spitz ấy, hắn đánh thật khủng khiếp. – Perrault vừa xem xét các vết toạc và vết thủng há hoác vừa nói.
- Còn cái con Buck này, hắn đánh khủng khiếp gấp đôi. – François đáp. – Thôi bây giờ thì ta sẽ đi được nhanh. Không còn Spitz nữa, là không còn rắc rối nữa, chắc chắn như thế.
Trong khi Perrault buộc lại món đồ lề đóng trại và chất các thứ lên xe, anh chàng lái xe tiến hành thắng đai cương vào lũ chó. Buck lon ton chạy lên vị trí của Spitz trước đây, ở đầu đàn. Nhưng François không để ý đến nó, lại đưa Sol-leks đến cương vị đang được khao khát đó. Theo anh, trong số chó còn lại, Sol-leks là con đầu đàn tốt nhất. Buck giận dữ nhảy bổ vào Sol-leks, đánh bật Sol-leks lui và đứng vào chỗ ấy.
François vỗ đùi thích thú, reo lên:
- Ơ kìa! Ơ kìa! Trông con Buck kìa! Hắn giết chết con Spitz rồi, hắn
tưởng là hắn thay được Spitz cơ đấy!
Anh thét:
- Cút đi! Xéo!
Nhưng Buck cứ ì ra đấy, không nhúc nhích.
Anh tóm lấy gáy Buck, và mặc dù Buck gầm gừ với giọng hăm dọa, anh lôi Buck ra một bên và lại đặt Sol-leks vào chỗ ấy. Con chó già không muốn thế, và tỏ rõ ý là nó sợ Buck. François không hề lay chuyển, anh cứ làm theo ý anh, nhưng khi anh vừa quay lưng thì Buck lại hất Sol-leks ra khỏi chỗ, còn Sol-leks thì cũng sẵn sàng bỏ đi chứ chả thiết tha chút nào.
François nổi giận:
- Nào, đồ khốn! Bây giờ thì tao cho mày một trận. – Anh thét và trở lại với một chiếc dùi cui nặng trong tay.
Buck vụt nhớ lại con người mặc áo nịt đỏ, nó từ từ bước giật lùi; nó cũng không còn tìm cách xông vào đánh Sol-leks khi lão này lại một lần nữa được lôi lên. Nhưng nó lượn vòng sát ngay ngoài tầm chiếc dùi cui, gầm gào quyết liệt và điên giận. Và trong khi lượn vòng, nó vẫn để mắt theo dõi chiếc dùi cui để tránh nếu François ném vào nó bởi vì đối với cái khoản dùi cui này, Buck đã lắm kinh nghiệm rồi.
Anh chàng đánh xe bắt tay vào việc của mình, và khi anh đã chuẩn bị sẵn sàng để đặt Buck vào vị trí cũ của nó, phía trước Dave, anh gọi Buck. Buck giật lùi hai ba bước. Sau vài lần như vậy, François vứt chiếc dùi cui xuống đất, vì anh tưởng rằng Buck sợ bị đánh đòn. Nhưng không phải. Buck tỏ thái độ chống đối rõ ràng. Không phải nó muốn tránh trận đòn dùi cui, mà nó muốn chiếm được cương vị đầu đàn. Cương vị ấy phải là của nó, nó có quyền xứng đáng được hưởng.
Nó đã chiến đấu mà giành được, thì nó sẽ không thể nào vừa lòng với một địa vị thấp kém hơn.
Perrault cũng phải ra tay. Cả hai người đuổi Buck chạy quanh trong gần một tiếng đồng hồ. Họ ném dùi cui vào nó. Nó né tránh. Họ chửi rủa nó, chửi cả cha ông đã sinh ra nó, chửi rủa tất cả con cái chút chít mà nó sẽ sản sinh ra, chửi rủa mọi sợi lông trên mình nó, mọi giọt máu trong thân thể nó. Còn nó thì nó trả lời lại những câu chửi bằng những tiếng gầm gừ, và cứ giữ khoảng cách ngoài tầm tay hai người. Nó chả tìm cách bỏ chạy xa, mà chỉ lùi, hết quanh bên này lại quanh bên nọ xung quanh nơi đóng trại, hiển nhiên tỏ ý báo cho họ biết rằng khi nào điều mong muốn của nó được toại nguyện thì nó sẽ vào chỗ và sẽ ngoan ngoãn.
François ngồi xuống vò đầu bứt tai. Perrault cứ nhìn đồng hồ rồi rủa. Thời gian bay qua nhanh, đáng lẽ họ đã lên đường được một tiếng rồi. François lại vò đầu bứt tóc. Anh lắc đầu rồi quay sang nhăn nhở cười ngao ngán với anh chàng giao liên. Perrault nhún vai ý bảo họ bị thua nó rồi. François bèn đến chỗ Sol-leks đứng, rồi gọi Buck. Thế là Buck cười, cười theo kiểu của chó, nhưng vẫn đứng cách một khoảng. François cởi các dây buộc Sol-leks ra rồi đưa Sol-leks trở về chỗ cũ. Đàn chó thắng vào xe nối liền nhau thành một hàng không gián đoạn, sẵn sàng lên đường. Bây giờ thì không còn chỗ nào khác cho Buck, ngoài chỗ đứng đầu đàn kia. Lần nữa François lên tiếng gọi, và lần nữa Buck lại cười nhưng cứ đứng xa.
- Vứt chiếc dùi cui đi! – Perrault ra lệnh.
François làm theo. Thế là Buck lon ton chạy vào, cười đắc thắng, và quay mình đứng vào chỗ đầu đàn. Chiếc đai cương được thắng vào mình nó, chiếc xe trượt phá vỡ lớp băng bám giữ ở càng, lướt tới,
và với cả hai người cùng chạy bộ, tất cả lao nhanh về phía con đường trên mặt sông.
Dù trước đây anh chàng đánh xe chó đã đánh giá Buck khá cao khi anh bảo là Buck bằng hai con quỷ dữ nhưng đến bây giờ, khi ngày lao động hãy còn dài, trời còn sớm sủa, anh đã nhận thấy là mình hãy còn đánh giá thấp Buck. Vụt một cái Buck đảm nhiệm trôi chảy ngay công việc đầu đàn; và ở chỗ nào cần phải có sự phán xét, cần suy nghĩ nhanh, hành động nhanh, thì ở đấy Buck đã tỏ ra xuất sắc hơn cả Spitz, mà trước kia thì François chưa bao giờ gặp con chó nào sánh kịp Spitz cả.
Đặc biệt Buck trội hẳn trong vấn đề bắt lũ bạn nghề phải theo ý mình và phải răm rắp vào khuôn phép. Dave và Sol-leks thì chả màng bận tâm gì đến sự thay đổi kẻ cầm đầu. Đó không phải là việc của chúng. Việc của chúng là lao động, và lao động cật lực, trong vòng đai cương. Chừng nào điều đó không bị ai quấy rầy, thì có xảy ra việc gì cũng mặc, chúng chả cần để ý tới. Ngay cả tên Billee lành như đất kia có lên làm chỉ huy thì chúng cũng chấp nhận thôi, chả việc quái gì phải thắc mắc, nếu như nó duy trì được trật tự. Nhưng còn những con chó khác trong đàn, thì trong những ngày cuối cùng của Spitz, chúng đã trở thành ngỗ ngược, và bây giờ chúng ngạc nhiên hết sức khi thấy Buck lại ghép chúng vào kỷ luật.
Pike, ở vị trí kéo xe sát ngay sau Buck, từ trước đến nay chỉ kéo lấy lệ vì bị bắt buộc, chứ chưa bao giờ chịu dấn thêm được một lạng nào của trọng lượng mình nó vào chiếc dây da quàng ngang ức, ấy thế mà lần này liên tiếp bị hất lắc, nhắc nhở luôn vì cái tội lười nhác, nên trước khi ngày lao động đầu tiên kết thúc, nó đã chịu nai lưng ra kéo mạnh hơn bất kỳ lúc nào trước đây trong đời nó. Đêm đóng trại đầu
tiên, Joe, con chó cáu bẳn, bị trừng trị đến nơi đến chốn – một điều mà trước kia Spitz không bao giờ làm nổi. Buck đơn giản chỉ có dùng cái thể xác nặng cân hơn hẳn của mình mà đè trùm tên kia, làm cho hắn ngột ngạt, rồi tới tấp thọc cắn cho đến khi hắn thôi không còn dám táp lại nữa và bắt đầu phải rên rỉ để xin tha.
Khí thế chung của đàn chó lập tức khá lên trông thấy. Nó đã trở lại với sự thống nhất trước kia, và một lần nữa, mọi con như một lại nhảy cùng một nhịp trong vòng dây kéo. Tại khu vực Thác Rink, đàn được bổ sung thêm hai con chó Eskimo địa phương Teek và Koona. Buck đã kèm cặp đưa chúng vào làm quen được với công việc một cách mau lẹ đến nỗi François phải sửng sốt kêu lên:
- Trời đất quỷ thần! Chưa có bao giờ có con chó nào như con Buck cả! Chưa bao giờ! Hắn đáng đến một nghìn đôla ấy chứ! Ê! Cậu thấy thế nào, Perrault?
Và Perrault gật đầu. Lúc này anh đã vượt được kỷ lục, và càng ngày lại càng được dôi thêm. Con đường trên băng đã trở nên tốt tuyệt vời, được nện chặt và rắn chắc, và không có tuyết mới rơi thêm khiến phải chiến đấu để vượt qua. Trời không quá rét. Nhiệt độ tụt xuống âm năm mươi độ và dừng lại mức đó trong suốt chuyến đi. Hai người thay nhau khi ngồi xe khi chạy bộ, bắt lũ chó thường xuyên chăm chỉ phóng tới, họa hoằn mới phải dừng lại đôi lúc.
Con sông “Ba mươi dặm” tương đối phủ kín băng, và chỉ trong một ngày chạy ra, họ vượt được trọn cả một quãng đường đã ngốn mất của họ mười ngày lúc đi vào. Họ chạy một thôi phóng qua được sáu mươi dặm từ bờ hồ Le Barge đến thác “Ngựa trắng”. Qua các hồ Marsh, Tagish và Bennett (dãy hồ dài bảy mươi dặm), đàn chó lao nhanh đến nỗi người đến phiên chạy bộ phải túm lấy một sợi dây cho
chiếc xe lôi tuột mình theo đằng sau. Và đến đêm cuối của tuần thứ hai, họ đã leo lên đỉnh “Đèo Tuyết” rồi đổ dốc xuống bờ biển, nhìn thấy dưới chân mình lấp lánh những đốm ánh sáng của thành phố Skaguay và của những con tàu trên mặt nước.
Thật là một chuyến chạy kỷ lục. Trong mười bốn ngày liền, mỗi ngày họ chạy được trung bình bốn mươi dặm. Tại Skaguay, suốt ba ngày Perrault và François ưỡn ngực tự hào phấn khởi đi lên đi xuống dọc đường phố chính và tới tấp được người ta mời đánh chén, trong khi đó thì đàn chó của hai anh liên tục bị vây kín giữa một đám đông người dạy chó và chủ chó kéo xe ngắm nghía ngưỡng mộ.
Nhưng rồi có ba, bốn tên vô lại từ miền Tây đến với mưu đồ quơ sạch của cải trong thành phố, được người ta thưởng cho những loạt đạn lỗ chỗ khắp người chết thẳng cẳng, và thế là sự chú ý của công chúng lại chuyển sang mục tiêu khác.
Tiếp đó, có lệnh điều động của chính phủ truyền xuống, François gọi Buck đến, quàng tay ôm lấy nó, gục đầu vào mình nó khóc từ biệt. Và đó là phút cuối cùng cạnh François và Perrault. Cũng như bao người khác trước đây, họ đi ngang qua rồi biến khỏi cuộc đời của Buck không bao giờ trở lại.
Một chàng người lai Scotland tiếp nhận Buck và lũ bạn nghề của nó. Rồi cùng với mười đàn chó kéo xe khác, Buck bắt đầu ngược trở lại con đường chán ngắt hướng về Dawson. Bây giờ thì không còn chạy được nhẹ nhàng nữa, cũng không còn kỷ lục về thời gian, mà là ngày ngày lao động cực nhọc, nặng nề, kéo theo sau một khối nặng trình trịch. Bởi vì lần này là đoàn xe chở thư, mang những lời nhắn gửi từ khắp nơi chuyển đến những con người đang tìm vàng giữa bóng tối vùng Bắc cực.
Buck chả thích nhưng nó đủ nghị lực chịu đựng được công việc, tự hào với công việc ấy theo lối của Dave và Sol-leks, và lo liệu sao cho lũ bạn của mình, dù chúng có tự hào với việc ấy hay không, cũng phải đóng góp phần chính đáng của chúng. Cuộc sống thật là đơn điệu, vận động đều đều như cái máy. Ngày này giống hệt ngày khác. Đến một giờ nào đó mỗi buổi sáng tinh mơ, những anh đầu bếp trở dậy, lửa lập loè nhóm lên, rồi tất cả ăn bữa sáng. Tiếp đó, trong khi một số người nhổ trại, một số khác thắng đai cương vào chó, và họ lên đường vào khoảng một tiếng trước khi trời rạng sáng. Đêm đến lại đóng trại. Một số người dựng lều, một số hái củi và chặt cành thông lót chỗ nằm, một số khác mang nước hoặc những tảng băng đến cho những anh đầu bếp. Các con chó cũng được ăn uống. Đối với chúng, đây là tiết mục hấp dẫn nhất trong ngày, dù rằng còn có cái thú đi chơi rong, sau khi chén xong khẩu phần cá, loanh quanh dạo khoảng chừng một tiếng với những con chó khác, lũ chó đông đến một trăm con có lẻ. Trong bọn chúng có những đấu sĩ hung dữ, nhưng chỉ cần ba trận với những tên hung dữ nhất là đã đủ đưa Buck lên địa vị thống lĩnh, và từ đó khi Buck dựng đứng bờm lên và nhe răng ra là chúng liền tránh lối cho nó đi.
Có lẽ điều mà Buck yêu thích hơn cả là nằm bên đống lửa, chân sau xếp dưới bụng, chân trước duỗi trước mặt, đầu ngẩng lên, đôi mắt chập chờn mơ màng nhìn ngọn lửa. Thỉnh thoảng nó nhớ lại ngôi nhà lớn của ông thẩm Miller trong thung lũng Santa Clara mơn man ánh nắng, cái bể bơi xây xi măng, nhớ lại Ysabel, con chó Mexico trần trụi, và Toots, con chó Nhật Bản; nhưng thường hay nhớ nhất là cái lão mặc áo nịt đỏ, cái chết của Curly, cuộc chiến đấu dữ dội với Spitz và mọi thứ ngon lành mà nó đã ăn và muốn ăn. Trong lòng nó không có cái nỗi nhớ nhà da diết. Vùng đất phương Nam đầy ánh nắng đã
rất mờ nhạt và xa xăm, và những ký ức kia không còn có sức tác động gì đối với nó. Có những thứ khác có sức mạnh hơn rất nhiều: đó là những ký ức di truyền của dòng giống, những ký ức đã tạo ra cho những vật mà trước đây nó chưa hề nhìn thấy bao giờ một cái vẻ thật là thân thuộc. Những bản năng (không có gì khác hơn là những ký ức của tổ tiên nó dần dần trở thành thói quen) vốn đã tắt dần đi trong những thời kỳ về cuối, vậy mà nay, đến nó, tuy càng về cuối hơn nữa, nhưng lại trỗi dậy và sống lại.
Thỉnh thoảng, giữa lúc nó nằm thu mình ở đấy, chập chờn mơ màng nhìn ngọn lửa, nó bỗng thấy dường như ánh bập bùng kia là từ một thứ lửa khác phát ra, và nó nhìn thấy con người trước mặt nó không phải là anh chàng đầu bếp người lai kia nữa, mà là một con người khác hẳn. Con người này chân ngắn hơn, tay dài hơn, có những bắp thịt cuồn cuộn như dây chão và cồn lên nhiều chứ không phải những bắp thịt tròn trĩnh căng phồng. Tóc của người này dài và dài như tấm thảm, và đầu gã từ đôi mắt trở lên vát hẳn về phía sau khuất vào trong đám tre rậm ấy. Gã phát ra những tiếng kỳ lạ và có vẻ như rất sợ bóng tối, luồng mắt liên tục xoáy vào màn đêm dày đặc, nắm khư khư trong bàn tay thõng quá đầu gối một cái gậy, đầu gậy có hòn đá nặng buộc chặt. Gã hầu như trần truồng, chỉ có một tấm da rách tả tơi và cháy sém rủ lưng chừng xuống lưng gã, nhưng người gã phủ đầy lông lá. Ở một vài chỗ, ngang ngực và vai, và dọc mặt ngoài cánh tay cùng bắp đùi, lông quện lại thành những đệm dày cộp. Gã không đứng thẳng, mà thân gã từ hông trở lên đổ về phía trước, đầu gối hơi khuỵu xuống. Toàn thân gã toát ra một vẻ đặc biệt, như mang tính đàn hồi, hoặc như đang nhún xuống sẵn sàng bật nảy, gần giống như con mèo, và một vẻ cảnh giác thính nhạy của kẻ sống thường xuyên trong mối hãi hùng, lo sợ những thứ nhìn thấy được cũng như không
nhìn thấy được.
Có những lúc, con người lông lá đó lại ngồi chồm hỗm bên đống lửa, đầu kê giữa hai chân mà ngủ. Những lúc ấy hai cùi tay gã chống trên đầu gối, hai bàn tay chắp lại trên đầu như muốn dùng hai cánh tay lông lá để che mưa. Và phía bên kia đống lửa, trong vòng tròn bóng tối vây quanh, Buck có thể nhìn thấy nhiều đốm than cháy sáng óng ánh, từng đôi một, khi nào cũng từng đôi, từng đôi một, mà Buck biết là những cặp mắt của lũ thú lớn săn mồi. Buck có thể nghe thấy tiếng va chạm xoàn xoạt của thân thể chúng băng qua bụi bờ và những tiếng động chúng gây ra trong đêm thanh vắng. Trong khi Buck nằm mơ màng ở đấy, cạnh bờ sông Yukon, với đôi mắt lờ đờ chập chờn nhìn ánh lửa, tất cả những thứ âm thanh và cảnh vật ấy của một thế giới khác biệt, thường làm nó rởn cả lông dọc theo sống lưng, bờm lông ngang vai và cổ dựng ngược cả lên, cho đến khi nó bật ra một tiếng rên âm thầm và nghẹn tắc hoặc một tiếng gừ khe khẽ, và anh chàng người lai đầu bếp lại lên tiếng quát: “Ê! Tên Buck kia! Tỉnh dậy đi!” Thế là cái thế giới kia lập tức biến mất, và cái thế giới thực lại hiện ra trước mắt nó, nó đứng dậy, ngáp dài rồi duỗi mình như thể vừa rồi nó đã ngủ thật.
Chuyến đi ấy thật là gian khổ, với khối bưu kiện trình trịch kéo theo sau, và công việc nặng ngọc làm lũ chó kiệt sức dần. Khi tới Dawson, chúng sút hẳn cân và trông thật tiều tuỵ. Đáng lẽ ra chúng phải được nghỉ ít nhất là mười ngày hoặc một tuần. Thế nhưng chỉ hai ngày sau là chúng lại đã phải lên đường, từ mé rặng Barracks tụt xuống bờ sông Yukon, kéo theo một khối nặng thư từ chuyển ra bên ngoài. Lũ chó mệt nhoài, những chàng lái xe cằn nhằn, và một điều khiến tình hình càng thêm điêu đứng là ngày nào cũng có tuyết rơi. Điều đó có nghĩa là mặt đường mềm nhũn ra, ma sát vào càng xe lớn hơn, và
đàn chó phải kéo nặng nhọc hơn. Tuy nhiên các chàng lái xe cũng công bằng, và họ cố gắng hết sức chăm lo cho chúng.
Đêm đêm dừng lại, họ săn sóc đàn chó trước tiên. Chúng được ăn trước khi người ăn, và mỗi người đều chăm nom xem xét các bàn chân của lũ chó xong rồi mới lo sắp xếp chỗ ngủ cho mình. Tuy vậy, sức khoẻ của chúng vẫn suy sụp dần. Kể từ đầu mùa đông, chúng đã chạy một ngàn tám trăm dặm, kéo chiếc xe trượt tuyết đi suốt quãng đường dài mệt rã rời ấy. Và một ngàn tám trăm dặm quả là thấm thía, cả đối với những con vật dai sức nhất. Buck chịu đựng được, đồng thời phải trông coi cho lũ bạn nghề của nó tiếp tục làm việc tốt và duy trì kỷ luật, mặc dù bản thân nó cũng đã mệt lử. Billee đêm nào cũng kêu la rên rỉ trong giấc ngủ. Joe trở nên cáu bẳn hơn bao giờ hết. Còn lão Sol-leks thì không kẻ nào dám đến gần, cả bên mắt mù và bên mắt không mù của lão.
Nhưng Dave là kẻ đau đớn nhiều nhất. Có một cái gì đó không ổn định trong mình gã. Gã trở nên ủ ê hơn và dễ bẳn tính hơn. Lúc dừng lại đóng trại nghỉ là gã lập tức đào lỗ nằm, và người lái xe phải đưa thức ăn đến tận chỗ nằm cho gã. Mỗi khi đã được tháo ra khỏi đai cương và nằm xuống là gã nằm miết, không đứng dậy nữa, cho đến tận giờ thắng đai cương sáng hôm sau. Thỉnh thoảng trong vòng dây kéo, khi bị giật mạnh vì chiếc xe trượt tuyết dừng đột ngột hoặc vì kéo căng dây để lôi xe đi, gã kêu thét lên đau đớn. Người lái xe xem xét gã cẩn thận, nhưng không phát hiện ra được cái gì cả. Tất cả các chàng lái xe đều quan tâm đến tình trạng sức khoẻ của gã. Họ trao đổi về cái đau của gã trong khi họ ngồi ăn, trong khi họ cùng nhau rít tẩu thuốc cuối cùng trước lúc đi ngủ, và một đêm nọ họ cùng nhau khám bệnh cho gã. Họ bê gã từ trong ổ nằm đến bên đống lửa, rồi họ đè, họ nắn, họ chọc vào chỗ này chỗ nọ cho đến khi gã kêu rú lên
nhiều lần. Họ biết gã bị đau cái gì đó ở bên trong, nhưng họ không xác định được là cái gì, không tìm thấy được chỗ xương nào bị gãy, cũng không tìm ra được là đau ở đâu.
Vào lúc đoàn người và chó đến mỏm núi Cassiar, gã đã quá yếu, đến nỗi gã nhiều lần ngã xuống trong vòng dây kéo. Anh chàng người lai Scotland hô dừng lại và đưa gã ra ngoài đàn chó, buộc con chó kế tiếp là Sol-leks vào chiếc xe trượt. Anh có ý cho Dave được nghỉ ngơi, để cho gã chạy không ở đằng sau xe. Nhưng, dù ốm đến như vậy, Dave rất phật ý vì bị đưa ra ngoài, gã càu nhàu và gầm gừ khi người ta tháo các dây kéo ra khỏi mình gã, và rên rỉ đến não cả lòng khi gã nhìn thấy Sol-leks thay thế vào vị trí mà gã đã giữ và phục vụ từ bao lâu nay. Bởi vì lao động trên vệt đường mòn chính là niềm tự hào của gã, và dù ốm đến gần chết gã vẫn không thể nào chịu được khi thấy một con chó khác gánh mất phần việc của gã.
Khi chiếc xe trượt tuyết bắt đầu chuyển động, gã loạng choạng thì thụp trong bãi tuyết mềm dọc bên đường, dùng răng công kích Sol leks, đâm bổ vào Sol-leks và cố gắng để hất Sol-leks sang phía tuyết mềm bên kia đường, ra sức tìm cách nhảy vào trong vòng dây kéo và len vào giữa Sol-leks và chiếc xe trượt và suốt trong quá trình đó gã rên rỉ, kêu ăng ẳng, rú lên những tiếng sầu não và đau đớn. Anh chàng người lai dùng roi cố tìm cách xua gã ra, nhưng gã không lưu ý gì đến chiếc dây roi quất trên mình gã, và người lái xe chả nỡ lòng nào đánh gã mạnh hơn. Dave cự tuyệt không chịu chạy thanh thản trên đường mòn phía sau xe, là nơi gã có thể chạy dễ dàng, mà cứ tiếp tục loạng choạng lặn lội trong đám tuyết mềm dọc theo đường là nơi khó đi nhất, cho đến khi gã kiệt sức ngã xuống. Gã nằm bẹp nơi gã vừa ngã gục, gào lên não nùng trong khi dãy dài các xe trượt khuấy tung bụi tuyết nối tiếp lướt qua.
Thu hết sức tàn, gã cố gắng đứng dậy lảo đảo bước theo sau, cho đến khi đoàn xe dừng lại một lần nữa. Nhân lúc này, gã loạng choạng cố tiến lên vượt qua những chiếc xe trượt cho đến khi tới được chiếc xe của mình, và đứng lại bên cạnh Sol-leks.
Người lái xe nán lại một lúc để đến cạnh người đi sau châm nhờ tẩu thuốc. Đoạn anh quay lại và thúc đàn chó bước đi. Nhưng khi cất bước để ngoặt ra giữa đường thì kỳ lạ chưa, chúng đi nhẹ tênh không phải rán sức gì cả. Chúng băn khoăn, quay đầu lại nhìn rồi đứng sững kinh ngạc. Người lái xe đứng sửng sốt. Chiếc xe trượt vẫn nguyên tại chỗ, chưa dịch đi tí nào. Anh gọi các bạn anh cùng chứng kiến cảnh tượng vừa xảy ra: Dave đã cắn đứt cả hai sợi dây kéo của Sol-leks từ bao giờ và đang đứng ngay trước chiếc xe trượt tuyết ở đúng vị trí của gã trước kia.
Qua đôi mắt của Dave, người ta thấy gã đang van nài xin được tiếp tục ở lại vị trí ấy. Người lái xe thật là bối rối. Các bạn anh sôi nổi bàn tán. Họ nói rằng một con chó có thể đau lòng đến như thế nào khi bị người ta từ chối không giao cho nó một công việc mà người ta biết là làm thì nó chết mất. Họ kể lại những chuyện mà họ đã biết về những con chó quá già không thể lao động nặng được nữa hoặc bị thương, khi bị tháo ra khỏi các dây thắng thì buồn rầu mà chết. Họ cũng bàn rằng, vì Dave thế nào rồi cũng chết, âu là cứ cho gã được chết trong vòng đai cương, cho gã vui lòng thì cũng là làm ơn cho gã. Do đó, họ lại thắng đai cương vào cho gã. Và thế là gã lại đầy vẻ tự hào gò lưng kéo như xưa, mặc dù nhiều lúc gã đã không nén được những tiếng kêu rú lên vì cơn đau bên trong cắn xé gã. Đôi khi gã ngã xuống, và bị kéo lê đi trong vòng dây thắng, và một lần chiếc xe trượt đè lên gã, làm bị thương một chân sau của gã và sau đó gã phải chạy khập khiễng.
Nhưng gã vẫn rán sức chịu đựng, mãi cho đến khi dừng lại đóng trại nghỉ đêm. Người lái xe xếp một chỗ nằm cho gã bên đống lửa. Sáng hôm sau, gã đã quá yếu, xem chừng khó mà đi được. Đến giờ thắng đai cương, gã cố lết đến chỗ người lái xe của mình. Bằng những cố gắng vất vả, gã rán sức đứng lên, lảo đảo, rồi lại ngã vật xuống. Nhưng rồi gã lại vặn mình chậm chạp trườn lên bò về phía những bạn nghề của gã đang được thắng đai cương. Gã duỗi hai chân trước ra và bằng một thứ động tác giật mạnh, kéo cả thân mình lên, rồi lần nữa lại duỗi hai chân trước ra và lại co mình lên, nhích được thêm vài inch nữa. Nhưng sức gã kiệt dần, và phút cuối cùng các bạn nghề của gã còn nhìn thấy gã là lúc gã đang nằm thở hổn hển trên mặt tuyết và gã nhìn theo chúng bằng đôi mắt khát khao. Nhưng sau đó, chúng vẫn còn nghe được tiếng hú thê thảm của gã vọng theo mãi cho đến khi chúng đi khuất hẳn đằng sau một rặng cây bên dòng sông.
Đến đây đoàn xe dừng lại. Anh chàng người lai Scotland chậm rãi quay trở về nơi họ vừa ra đi. Tất cả im bặt không ai chuyện trò nữa. Một tiếng súng lục vang lên. Anh người lai hối hả quay lại. Những chiếc roi vút trong không khí, những chiếc nhạc ở cổ chó rung lên leng keng vui vẻ, những chiếc xe trượt lại khuấy tung bụi tuyết lướt trên đường. Nhưng Buck hiểu, cũng như mọi con chó khác đều hiểu, cái gì đã xảy ra phía đằng sau rặng cây bên dòng sông.
V
Lao khổ trên vệt đường mòn
B
a mươi ngày sau khi rời Dawson, khối bưu kiện từ Salt Water kéo theo sau Buck và lũ bạn nghề của nó đã đến Skaguay. Tình trạng của lũ chó thật là thảm hại, chúng tả tơi và kiệt quệ. Một trăm bốn mươi pound của Buck tụt xuống chỉ còn một trăm mười lăm. Bạn nghề của nó, tuy là những con chó nhẹ cân hơn, nhưng so sánh theo cách tương đối thì lại sút cân nhiều hơn. Pike, tên hay giả ốm để trốn việc, trước kia trong cuộc đời gian dối của hắn đã từng thực hiện thành công thủ đoạn giả vờ đau chân, nay thì khập khiễng thật sự chứ không còn là trò bịp nữa. Sol-leks cũng khập khiễng, còn Dub thì đau đớn vì sai khớp một xương vai.
Tất cả bọn chúng đều đau chân dữ dội. Cơ thể chúng chả còn tí sức bật hoặc khả năng đàn hồi nào nữa. Bàn chân chúng nặng nề rơi từng bước xuống mặt đường mòn, làm chấn động mạnh toàn thân và nhân lên gấp bội nỗi mệt mỏi của cả ngày dài rong ruổi. Đối với chúng, mọi sự chả thành vấn đề gì cả, trừ nỗi mệt mỏi đến chết đi được ấy. Không phải là cái thứ mệt chí tử do một sự rán sức quá đáng nhưng ngắn ngủi, mệt như vậy thì chỉ nghỉ vài giờ là hồi sức ngay; mà đây là cái thứ mệt do sự tiêu hủy thể lực từ từ và kéo dài suốt trong bao nhiêu tháng trời lao động cực nhọc. Không còn một khả năng phục hồi nào nữa, không còn tí sức lực dự trữ nào để mà
vét ra nữa. Tất cả đã được sử dụng hết, cho đến tí chút hơi sức nhỏ nhất cuối cùng. Tất cả mọi cơ bắp, mọi thớ thịt, mọi tế bào đều mệt, mệt đến chết được. Vì sao mà mệt đến như vậy, thật đã quá rõ ràng. Trong không đầy năm tháng, chúng đã chạy đến hai ngàn năm trăm dặm, và trong một ngàn tám trăm dặm cuối cùng, chúng chỉ được nghỉ có năm ngày. Khi chúng đến Skaguay, thì người ta thấy rõ ràng là chúng đã kiệt quệ, như chỉ còn thoi thóp. Chúng khó mà kéo cho căng được các dây thắng, và khi xuống dốc, sức chúng chỉ vừa đủ để xoay xở tìm cách tránh khỏi bị chiếc xe lao xuống đè phải.
- Nào! Cố lên đi! Khốn khổ chúng mày, đau chân quá mà! – Người lái xe động viên chúng trong khi chúng bước lảo đảo không vững dọc đường phố chính của Skaguay. – Tí nữa thôi là hết! Rồi chúng mình sẽ nghỉ thật lâu! Nghe không? Chắc chắn như vậy! Nghỉ thật là lâu!
Những người đánh xe tin tưởng chắc chắn là họ sẽ được dừng lại nghỉ ngơi trong một thời gian dài. Chính bản thân họ cũng đã phải rong ruổi suốt một ngàn hai trăm dặm mà chỉ mới nghỉ được có hai ngày, mà theo sự hợp lý và lẽ công bằng chung cho tất cả mọi người thì họ xứng đáng được một thời gian dài nhàn rỗi. Thế nhưng đã có quá nhiều người đổ xô vào vùng Klondike, mà có quá nhiều người yêu, người vợ, người thân của họ không cùng đổ xô vào đấy, cho nên đống thư từ bưu kiện ứ lại chồng chất như núi; thêm nữa, lại có lệnh của chính phủ truyền tới. Thế là phải kiếm một lớp chó Vịnh Hudson còn khoẻ nguyên để thay thế cho những con chó đã hết tác dụng, không còn kéo xe trên đường mòn được nữa. Những con hết tác dụng thì phải tống khứ đi và vì so với những đồng đôla thì chó cũng chả có giá trị gì mấy, cho nên người ta bán chúng đi đổi lấy đôla.
Ba ngày trôi qua. Trong thời gian ba ngày ấy, Buck và lũ bạn nghề
của nó cảm thấy cơ thể chúng sao mà mệt và yếu lả đi đến thế. Nhưng rồi đến sáng hôm thứ tư, có hai gã đàn ông người Hoa Kỳ đến nơi này và mua chúng, cùng cả đại cương và mọi thứ, với một giá rẻ. Hai người ấy gọi tên nhau là “Hal” và “Charles”. Charles là một gã trung niên, da nâu nhạt, có đôi mắt yếu đuối ươn ướt, một bộ ria xoắn lại và vểnh lên hung dữ, tương phản với nét môi ẻo lả ủ rũ cụp xuống khuất dưới bộ ria ấy. Hal là một tay trai trẻ trạc mười chín đôi mươi, có một khẩu súng côn to tướng và một con dao săn đeo ở chiếc thắt lưng cài tua tủa những đạn. Chiếc thắt lưng ấy là vật tiêu biểu nhất ở con người của gã. Nó thể hiện tính chất non nớt của gã, một sự non nớt hoàn toàn và khó mà diễn tả được. Cả hai con người ấy rõ ràng là rất lạc lõng đối với nơi này. Vì lẽ gì mà họ phải mạo hiểm xông pha vào vùng đất phương Bắc này, điều đó là một phần trong màn bí ẩn của vạn vật mà mọi người không thể hiểu nổi.
Buck nghe người ta cò kè mặc cả với nhau, thấy những đồng tiền trao qua đổi lại giữa người lạ với anh nhân viên nhà nước, thế là Buck biết rằng anh chàng người lai Scotland cùng những chàng lái xe khác của đoàn xe thư lại sắp sửa rời khỏi cuộc đời của Buck theo gót Perrault, François và những con người khác đã đi qua trước đấy.
Khi Buck cùng lũ bạn nghề của nó bị dẫn đến khu đóng trại của những người chủ mới, Buck nhìn thấy một quang cảnh luộm thuộm và nhếch nhác, lều căng nửa vời, bát đĩa bẩn không rửa vứt lổng chổng, mọi thứ lộn xộn bừa bãi. Buck còn thấy một người đàn bà mà mấy gã đàn ông gọi là Mercedes. Ả là vợ của Charles và chị của Hal – một nhóm gia đình khá xinh xẻo.
Buck để ý theo dõi họ, thấp thỏm e ngại, trong khi họ tiến hành dỡ lều và chất đồ lề lên chiếc xe trượt tuyết. Cung cách của họ phí rất
nhiều công sức, mà chả có phương pháp ngăn nắp gì cả. Chiếc lều được cuộn thành một bó bùng nhùng, đáng lẽ ra có thể xếp gọn lại chỉ bằng một phần ba. Những chiếc đĩa thiếc chưa rửa, cứ thế gói lại đưa đi. Mercedes cứ liên tục xăng xít ngáng trở trước mặt hai người đàn ông và luôn mồm huyên thuyên can gián và góp ý. Khi họ đặt một túi đựng quần áo lên đầu chiếc xe trượt, thì Mercedes lại gợi ý cho họ là phải đặt ở cuối xe. Rồi khi đã đặt túi ấy vào cuối xe và đã chất một số bọc đồ lề khác đè lên trên, thì ả lại muốn lôi cái túi ấy ra để bỏ một số vật dụng từ nãy để quên một bên không chú ý tới, bỏ vào trong chính cái túi ấy chứ không thể bỏ vào đâu khác nữa. Và thế là họ lại phải tháo dỡ đồ đoàn ra khỏi xe để lôi cái túi ấy lên.
Ba người đàn ông từ một chiếc lều bên cạnh bước tới và đứng nhìn, vừa nhìn vừa nhăn nhở nhe răng ra cười và nháy mắt với nhau.
- Các vị mang một khối tương đối đấy! – Một người trong bọn họ lên tiếng. – Chả phải tôi dám chỉ bảo cho các vị, nhưng tôi mà như các vị thì tôi chả khuân các lều ấy đi làm quái gì.
- Ôi! Thật không tưởng tượng nổi! – Mercedes kêu to, vung một cái cả hai tay lên trời tỏ vẻ thất vọng một cách rất điệu. – Không có lều thì làm thế nào mà sống được!
Người kia đáp:
- Sang xuân rồi! Các vị không gặp thời tiết giá rét nữa đâu!
Mercedes vẫn khăng khăng lắc đầu, và Charles với Hal tiếp tục đặt những thứ linh tinh lặt vặt cuối cùng lên trên chóp cái đống đồ đạc to như núi.
Một người khác hỏi:
- Liệu có kéo đi được không?
- Sao lại không? – Charles vặn lại cộc lốc.
- Ồ! Thôi được, thôi được! – Người kia vội vàng trả lời hiền lành. – Tôi chỉ thắc mắc một tí thôi mà. Hình như nó có hơi nặng trên chóp đấy.
Charles quay lưng và đem hết khả năng của mình ra để rút các dây buộc cho đống đồ đạc hạ thấp xuống, nhưng khả năng của y lại quá tồi.
Một người thứ hai lên tiếng:
- Lũ chó kéo cái máy cải tiến này tất nhiên sẽ được dịp rèn luyện kịch liệt bộ chân suốt ngày đây!
- Hẳn là thế! – Hal đáp lời với một vẻ lễ phép lạnh lùng, rồi một tay gã nắm lấy chiếc cần lái xe, tay kia vung roi lên. – Mush! – Gã thét. – Mush! Đi!
Lũ chó lao bổ về đằng trước, đè lên đai ngực, ra sức kéo một lát, rồi chững lại. Chúng không thể kéo chiếc xe nhích đi được một chút nào.
- Đồ súc sinh lười biếng, tao sẽ cho chúng mày biết tay! – Gã vẫn gào lên, vừa vung roi chuẩn bị quật xuống.
Nhưng Mercedes xông vào, kêu to:
- Hal! Đừng em! – Ả vội tóm lấy chiếc roi và giựt ra khỏi tay Hal. – Ôi, những con vật đáng yêu tội nghiệp. Bây giờ em phải hứa với chị là từ đây đến hết chuyến đi em sẽ không tàn nhẫn với chúng nữa, nếu không thì thôi, chị sẽ không đi đâu hết.
Thằng em cười khẩy:
- Gớm, cái vốn hiểu biết của chị về chó đã quý hóa chưa! Tôi xin
chị cứ để mặc tôi. Tôi bảo cho chị biết chúng nó lười, nếu chị muốn chúng làm việc thì chị phải quật. Cái lối của chúng là như vậy. Chị cứ hỏi bất kỳ ai mà xem! Hỏi thử một ông kia kìa!
Mercedes nhìn mọi người bằng đôi mắt van xin, trên khuôn mặt xinh đẹp hiện rõ vẻ xiết bao ghê sợ không muốn nhìn thấy cảnh đau đớn.
Một trong những người đứng đấy trả lời:
- Các vị muốn biết thì tôi xin thưa! Chúng nó yếu nhũn ra như bún rồi. Đã làm việc kiệt hết sức rồi, vấn đề là như vậy đấy. Chúng cần phải được nghỉ ngơi cái đã.
- Nghỉ cái con khỉ! – Từ đôi mép nhẵn thín của Hal vang tiếng rủa, khiến Mercedes thốt lên một tiếng “ối” đau đớn phiền não.
Nhưng lại là một con người trung thành với cánh của mình, nên ả liền vội quay lại bảo vệ cho em trai:
- Thôi đừng bận tâm đến lời ông ta nữa em ạ. – Ả nói. – Em là người điều khiển đàn chó của chúng ta, thôi thì em thấy cần phải xử với chúng như thế nào cho được việc thì em cứ làm.
Thế là cây roi của Hal lại vụt xuống đàn chó. Chúng lao tới đè vào đai ngực, chân đạp thọc sâu vào lớp tuyết nén chặt; rạp mình xuống sát mặt tuyết, dốc cả toàn bộ sức lực. Nhưng chiếc xe trượt tuyết cứ trụ lại không nhúc nhích, như một cái mỏ neo cắm chặt. Sau hai lần dốc sức, lũ chó đứng lặng, thở hổn hển. Chiếc roi đang vun vút rít một cách man rợ, thì Mercedes lại nhảy ra can thiệp một lần nữa. Ả sụp xuống quỳ gối trước mặt Buck, nước mắt lưng tròng, quàng hai tay ả quanh cổ Buck, kêu lên giọng đầy xúc cảm:
- Ôi, những con vật tội nghiệp, những con vật đáng yêu khốn khổ!
Tại sao chúng mày không kéo cật lực vào? Có vậy mới khỏi bị roi chứ!
Buck không thích gì ả, nhưng nó đang cảm thấy khốn khổ quá nên không cưỡng lại sự vỗ về của ả, và chịu đựng điều đó coi như là một phần của mọi nỗi khốn khổ phải chịu đựng trong ngày.
Một trong những người đứng nhìn, từ nãy đã cắn chặt răng để khỏi buột ra ý kiến nóng nảy, nay không nhịn được nữa phải thốt lên:
- Này, các vị có ra làm sao thì cũng chả việc quái gì đến tôi mà tôi phải lo, thế nhưng, vì thương thân phận của lũ chó kia, tôi muốn bảo cho các vị biết rằng các vị có thể giúp đỡ cho chúng rất nhiều bằng cách phá vỡ lớp băng bám chặt vào xe kia kìa. Càng xe đóng băng chặt cứng rồi, thấy không? Xô mạnh vào cái cần lái ấy, xô sang phải, rồi sang trái, phá băng cho càng xe bung ra!
Lần thứ ba, Hal lại khởi động chiếc xe, nhưng lần này gã chịu nghe theo lời chỉ vẽ, nên đã phá vỡ được lớp băng dán chặt càng xe xuống mặt tuyết. Chiếc xe trượt chở quá tải và chông chênh bắt đầu nhích lên phía trước. Buck và lũ bạn nó vật lộn điên cuồng để kéo, dưới trận mưa roi xối xả. Tiến được một trăm mã thì con đường mòn rẽ ngoặt và đổ dốc xuống đường phố chính. Muốn giữ cho chiếc xe bị nặng trên chóp khỏi nghiêng đổ, phải có người lái kinh nghiệm, mà Hal thì không phải loại người đó. Ở khúc ngoặt, chiếc xe đổ nhào. Đến một nửa số đồ đạc trên xe bung ra khỏi những dây buộc lỏng lẻo, văng tung toé. Lũ chó cứ chạy, không dừng lại. Đằng sau chúng, chiếc xe nhẹ hẳn đi cứ nằm nghiêng nhảy chồm chồm trượt tới. Lũ chó nổi giận vì đã bị đối xử tàn tệ và vì phải kéo một khối trọng tải phi lý. Buck điên tiết lên. Nó chồm lên phóng nước đại, cả đàn theo gót nó. Hal thét “Họ! Họ!” nhưng chúng chả thèm để ý. Gã nhảy theo ngáng
lại, nhưng bị kéo ngã chỏng gọng. Chiếc xe lật úp nghiến lên người gã, còn lũ chó thì cứ theo đường cái phóng tới, gây thêm cảnh buồn cười cho dân phố Skaguay trong khi chúng tiếp tục làm vung vãi nốt mọi thứ đồ đạc còn trên xe ra dọc con đường phố lớn.
Một số người tốt bụng bắt giữ đàn chó lại và nhặt nhạnh hộ những thứ đồ đạc bị tung toé khắp nơi. Họ cùng góp một ý kiến khuyên bảo. Đồ đạc chỉ một nửa thôi, còn chó thì phải gấp đôi, có thế mới hòng đi được tới Dawson, họ bảo vậy. Hal và chị gã với anh rể gã miễn cưỡng nghe theo họ, hất lều xuống, xem xét lại toàn bộ đồ đạc, rồi thải ra một số đồ hộp làm cho mọi người phải bật cười, bởi vì đối với cuộc hành trình đường dài thì đồ hộp lại là thứ mà người ta mơ ước.
Mọi người vừa cười vừa giúp việc xếp dọn:
- Gớm! Chăn nhiều thế! Đủ dùng cho cả một khách sạn! Giảm đi một nửa cũng vẫn còn quá nhiều đấy. Tống khứ bớt đi! Vứt cái lều kia đi, và cả những cái đĩa kia nữa, chứ có để lại thì rồi ai rửa? Trời đất ơi! Các vị tưởng là các vị đi du lịch trên một toa ngủ đầy tiện nghi kiểu Pullman ư?
Và cứ thế, họ giúp vào việc thanh toán thẳng thừng những thứ không cần thiết. Mercedes kêu la khi những túi quần áo của ả bị ném phịch xuống đất và hết thức này đến thức khác bị quẳng ra ngoài. Ả vừa kêu khóc về mọi thứ nói chung, lại vừa kêu khóc về từng món bị vứt bỏ nói riêng. Ả siết tay trên đầu gối, mình ả lắc lư ngả tới ngả lui với vẻ rất ư là đau khổ. Ả quả quyết là ả sẽ chẳng đi đâu nữa hết, một tấc cũng không đi, có vì đến mười chàng Charles, ả cũng không đi. Ả kêu xin mọi người và kêu xin mọi thứ. Nhưng rồi cuối cùng ả lau sạch nước mắt và cũng bắt tay vào quẳng các thứ ra ngoài, cả đến những món quần áo tốt, cần thiết không thể thiếu được. Đến nỗi hăng lên,
khi vứt xong những thứ của ả, là ả bèn xông vào vứt các thứ của hai gã đàn ông, sục tung suốt lượt mọi đồ đạc của họ ra như một cơn lốc.
Thanh toán xong, đống đồ đạc tuy đã giảm đến một nửa, nhưng vẫn còn là một khối to kinh khủng. Buổi tối hôm đó, Charles và Hal đi tìm mua được sáu con chó thuộc các giống chó ở những miền bên ngoài. Lũ này, cộng với sáu con cũ, cùng Teek và Koona, hai con chó Eskimo bổ sung tại thác Rink trong chuyến đi kỷ lục hợp thành một đàn đông đến mười bốn con. Nhưng lũ chó miền ngoài, mặc dù từ khi được đưa vào đến nay đã được tập luyện trong thực tế, vẫn chả có tác dụng gì đáng kể. Trong bọn chúng có ba con chó săn lông ngắn, một con nòi Newfoundland, còn hai con nữa là chó lai thuộc nòi gì không xác định được. Cái đám lính mới này chẳng có vẻ biết làm ăn gì cả. Buck và lũ bạn nghề của nó đứng nhìn chúng bằng những con mắt khinh bỉ, mặc dù Buck nhanh chóng dạy được cho chúng ổn định vào vị trí từng con và những gì chúng không được làm. Chúng không hứng thú gì đảm nhiệm một cách dễ dàng công việc lao động trên vệt đường mòn. Trừ hai con chó lai, bọn chúng đều bị cái môi trường man rợ kỳ lạ này và những sự đối xử tàn tệ làm cho hoảng hốt ngơ ngác và tinh thần suy sụp. Hai con chó lai thì chả có tí tinh thần nào, ở chúng chỉ có bộ xương là thứ duy nhất có thể bị suy sụp mà thôi.
Với những con chó mới vô tích sự và khổ não, cùng lũ chó kiệt quệ vì hai ngàn năm trăm dặm đường gian khổ liên tục, cái viễn cảnh của đàn chó thật chẳng sáng sủa chút nào. Thế nhưng hai gã đàn ông thì lại rất vui mừng hớn hở. Và họ lại còn tự hào nữa. Họ đang giải quyết công việc đâu ra đấy, với những mười bốn con chó! Họ đã từng thấy những chiếc xe trượt tuyết tới đây, nhưng họ chưa bao giờ nhìn thấy
một chiếc xe nào với số chó nhiều đến mười bốn con như thế. Trong các loại hành trình giữa miền Bắc cực này, có một lý do tại sao không nên dùng nhiều chó đến mức mười bốn con kéo một chiếc xe trượt tuyết. Ấy bởi vì là một chiếc xe trượt tuyết không thể chở đủ thức ăn cho mười bốn con chó. Khốn nỗi Charles và Hal không biết điều đó. Họ đã vạch ra trên giấy toàn bộ kế hoạch cuộc du hành: đối với mỗi con chó cần ngần này này, có ngần này con chó, và đi trong ngần này ngày, cứ thế nhân lên, Q. E. D. (bài toán chứng minh xong)! Mercedes nhìn qua vai hai gã rồi gật đầu tán thưởng. Mọi sự quả là rất đơn giản.
Sáng hôm sau, lúc đã hết già nửa buổi, Buck dẫn đầu đàn chó xếp thành một hàng dài, ngược đường phố bắt đầu ra đi. Chả có gì sôi nổi sống động, Buck và lũ bạn của nó không hăng hái cũng chẳng nhiệt tình. Chúng ra đi mà mệt rã rời, mệt đến chết được, Buck đã bốn lần đi trọn quãng đường giữa Salt Water và Dawson, và bây giờ đây, trong lúc đã chán ngấy và kiệt sức, biết là lần nữa lại phải đương đầu với con đường gian khổ ấy, Buck cảm thấy cay đắng. Nó chả có bụng dạ nào muốn làm công việc này nữa, mà những con chó khác cũng đều như vậy. Lũ chó miền ngoài thì nhút nhát và hoảng sợ, còn lũ chó cũ thì không tin vào chủ của nó.
Buck lờ mờ cảm thấy là không thể trông mong gì được vào hai gã đàn ông và mụ đàn bà này. Họ chả biết làm bất cứ điều gì. Đã mấy ngày trôi qua, họ càng tỏ rõ là họ không thể học được kinh nghiệm gì trong thực tế. Họ chậm chạp trong mọi thứ việc, không có trật tự, không có tính nghiêm ngặt. Họ mất cả đến một nửa đêm mới xong một chỗ cắm trại lôi thôi lếch thếch. Họ mất đến nửa buổi sáng để nhổ trại và chất các thứ lên xe trượt, đồ đạc xếp luộm thuộm lủng củng đến nỗi trong ngày họ phải mất thì giờ dừng lại nhiều lần để sắp
đặt lại mọi thứ trên xe. Có những ngày họ không đi được đến mười dặm. Cũng có những ngày họ chịu không thể nào lên đường được. Và không có ngày nào họ có thể đạt được trên một nửa chặng đường mà người ta thường dùng làm yếu tố cơ bản để tính toán đường đi so với lượng thức ăn mang theo cho đàn chó.
Biết chắc chắn không thể tránh khỏi là họ sẽ thiếu thức ăn cho chó. Nhưng họ lại cho ăn quá mức, như vậy là lại càng rút ngắn thời gian làm cho cái ngày thiếu ăn sẽ đến sớm hơn. Lũ chó miền ngoài, mà bộ máy tiêu hóa chưa được rèn luyện qua những trận đói kinh niên, ngốn ngấu ăn rất dữ. Thêm vào đó, Hal lại thấy những con chó Eskimo mệt lử kéo yếu ớt, thế là Hal quả quyết rằng khẩu phần ăn quy định theo lệ thường là quá ít. Y tăng lên gấp đôi. Đâu phải chỉ có thế, Mercedes với đôi mắt xinh đẹp rớm lệ và giọng nói rung rung xúc động, ngọt ngào dỗ dành Hal cho lũ chó ăn thêm nữa, nhưng không được Hal nghe theo, ả bèn bí mật đánh cắp cá trong túi đựng thức ăn rồi đút cho chó. Nhưng điều cần thiết nhất lúc này đối với Buck và lũ chó Eskimo đâu phải là thức ăn, mà là sự nghỉ ngơi. Và mặc dầu trong cả thời gian vừa qua, đoạn đường đi chả có là bao, nhưng khối đồ đạc nặng nề mà chúng phải kéo đã hủy hoại sức khoẻ của chúng một cách nghiêm trọng.
Thế rồi cái ngày ăn đói đã tới. Một hôm Hal sực nhận thấy được sự thật là lượng thức ăn cho chó đã vơi mất một nửa mà quãng đường đi mới được một phần tư. Hơn nữa, không có cách gì kiếm ra thêm thức ăn cho chó. Vậy là gã cắt giảm khẩu phần của chúng, thậm chí cắt xuống dưới mức quy định theo lệ thường, và cố làm sao để tăng thêm quãng đường đi từng ngày. Chị gã và anh rể gã ủng hộ biện pháp đó. Nhưng họ thất bại vì đống đồ lề của họ quá nặng và bản thân họ thì kém cỏi bất tài. Bớt thức ăn của chó đi là một điều
đơn giản, nhưng làm cho lũ chó đi nhanh hơn thì họ chịu, không thể nào làm được, trong khi đó thì bản thân họ buổi sáng nào cũng loay hoay mãi không thể ra đi sớm hơn được, cho nên không thể tăng thêm thời gian đi đường. Họ không những không biết làm thế nào để điều hành lũ chó mà họ còn không biết làm thế nào để điều hành cả bản thân họ nữa.
Con chó đầu tiên đi tong là Dub. Tội nghiệp cái thân nó, nó là một tên kẻ cắp vụng về luôn bị bắt quả tang và bị trừng trị, tuy thế nhưng nó lại là một kẻ phục vụ trung thành. Cái xương bả vai của nó bị sai khớp, không được chữa chạy và không được nghỉ ngơi, càng ngày càng đau trầm trọng, thế là cuối cùng Hal đã rút khẩu súng côn to tướng cho nó một viên đạn.
Trong địa phương có một câu truyền miệng rằng mỗi con chó miền ngoài mà ăn khẩu phần chó Eskimo thì ắt phải đói mà chết, vậy dĩ nhiên là sáu con chó miền ngoài nhập đàn của Buck không thể có số phận nào khác hơn là chết, bởi vì chúng chỉ được một nửa khẩu phần chó Eskimo. Con chó nòi Newfoundland chết trước. Rồi đến ba con chó săn lông ngắn. Còn hai con chó lai thì cứng cỏi gắng níu lấy sự sống được lâu hơn, nhưng cuối cùng cũng đi nốt.
Cũng trong thời gian ấy tất cả những gì là hứng thú và dịu dàng của vùng đất phương Nam đã bay biến hết khỏi ba con người. Chả còn gì là quyến rũ và thơ mộng, cuộc hành trình giữa miền Bắc cực đã trở thành một thực tế quá phũ phàng đối với loại đàn ông và loại đàn bà như họ. Mercedes thôi không còn than khóc cho thân phận đàn chó nữa, vì quá bận vào việc khóc than cho thân phận mình và cãi nhau với chồng và em. Cãi nhau là việc duy nhất mà họ không bao giờ thấy chán. Tình cảnh khốn khổ đã làm họ sinh ra dễ cáu giận.
Sự cáu kỉnh tăng lên cùng một nhịp với nỗi khốn khổ, rồi tăng gấp đôi, rồi vượt xa nó. Cái tính nhẫn nại diệu kỳ trên vệt đường mòn ở những con người lao động cật lực và khổ sở cùng cực nhưng vẫn giữ lời nói êm dịu và thái độ ân cần, không thể có được ở hai gã đàn ông và ả đàn bà này. Họ chả có tí ý niệm mơ hồ nào về một sự nhẫn nại như vậy. Họ vất vả và đau khổ: bắp thịt của họ nhức nhối, xương cốt của họ nhức nhối, và ngay cả tim của họ cũng nhức nhối; và do đó sinh ra ăn nói gay gắt, và những lời lẽ khó chịu nặng nề luôn luôn ở đầu cửa miệng, từ lúc bảnh mắt cho đến lúc tối đến.
Charles và Hal cãi lộn nhau bất cứ khi nào có cơ hội do Mercedes gây ra. Mỗi người đều giữ trong lòng một điều mặc cảm là mình đã phải làm quá cái phần trách nhiệm của mình, và không ai là không nhắc đến điều mặc cảm ấy mỗi khi có dịp để nhắc. Thỉnh thoảng Mercedes về hùa với chồng, thỉnh thoảng ả lại về hùa với em. Kết quả là một cuộc cãi lộn trong gia đình thật là đẹp đẽ và triền miên không dứt. Mở đầu bằng cuộc tranh chấp là ai phải chẻ vài que củi chẳng hạn (cuộc tranh chấp chỉ liên quan đến Charles và Hal thôi), thế mà chẳng mấy chốc họ đã lôi hết mọi người khác trong gia đình ra mà xỉa xói, nào bố mẹ, nào chú bác cô dì, anh em họ hàng, cả người đã chết ngỏm từ lâu. Rồi nào là quan điểm nghệ thuật của Hal, nào là cái thứ vở tuồng xã hội mà người anh của mẹ y đã viết. Nhưng vấn đề đó thì nào có liên quan gì đến việc chẻ vài que củi.
Chịu chả ai hiểu được! Ấy thế mà cuộc cãi cọ thường hay xoay sang cái hướng đó, cũng như hay xoay sang cái hướng đả kích vào những định kiến chính trị của Charles. Và lại còn cái mồm lắm lời ngồi lê đôi mách của bà chị của Charles thì liệu có liên quan gì đến việc đốt đống lửa cắm trại bên bờ Yukon, điều đó thì chắc chỉ có Mercedes mới hiểu rõ. Cô ả trút hết nỗi bực dọc trong người ra thành
bao nhiêu là ý kiến phong phú, xoi móc vào cái tiết mục này rồi nhân thể lại chì chiết luôn cả một vài nét đặc trưng khó ưa khác của gia đình nhà chồng. Và trong quá trình họ cãi vã nhau như vậy thì lửa vẫn chưa nhóm được, chỗ cắm trại dở dang chưa xong, và chó vẫn chưa được ăn.
Mercedes mang nặng trong lòng một nỗi bất bình đặc biệt – nỗi bất bình của giới tính. Cô ả là con người xinh đẹp và ủy mị, và trong cả cuộc đời trước đây đã luôn luôn được mọi người đối xử lịch sự. Nhưng sự đối xử hiện nay của chồng và em thì là đủ kiểu trừ phép lịch sự ra. Cái thói của ả là không bao giờ tự lo liệu lấy được. Hai gã đàn ông quở trách ả. Tức tối vì cái điều mà ả cho là đặc quyền chủ yếu nhất của phái đẹp đó lại bị đưa ra chê trách như vậy, ả bèn làm cho hai tên đàn ông phải khốn khổ vì ả. Ả chả còn thèm đếm xỉa gì đến lũ chó, và với lý do là ả đau đớn trong mình và mệt mỏi, ả khăng khăng đòi ngồi trên xe. Cô ả thật là xinh đẹp và ủy mị, nhưng cô ả nặng đến một trăm hai mươi pound – một tí chút trọng tải thêm vào sau cùng nhưng lại là cái tí chút cường tráng nhất cộng vào khối nặng mà những con vật yếu mòn và đói lả đã phải kéo. Cô ả ngồi trên xe suốt mấy ngày cho đến khi lũ chó gục xuống trong vòng dây kéo và chiếc xe trượt tuyết đứng sững lại không nhúc nhích được nữa. Charles và Hal cầu xin ả bước xuống đi bộ, nài nỉ với ả, khẩn khoản van lạy ả, trong khi đó thì ả vừa khóc lóc vừa kể lể sự bạc ác bất nhân của hai gã đàn ông, kêu cầu thượng đế ra tay cứu khổ cứu nạn cho ả.
Có một lúc, hai gã đã dùng sức mạnh bốc cô ả ra khỏi chiếc xe trượt tuyết. Nhưng sau đó hai gã không còn bao giờ dám làm như vậy nữa. Vì cô ả lết hai chân bước lệt xệt một lát như đứa bé hư hờn dỗi rồi ngồi bệt xuống trên đường mòn. Mấy gã đàn ông tiếp tục đi,