🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thực Dưỡng Ngăn Ngừa Các Bệnh Ung Thư
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư Lời nói đầu
Hàng năm, kể từ khi số đầu của “Thực dưỡng ngăn ngừa ung thư” đăng năm 1993, phần đông công chúng ngày càng nhận thức rõ hơn mối liên hệ giữa dinh dƣỡng và bệnh ung thƣ. Theo các tài liệu xƣa, ăn uống – chất bổ và ung thƣ đã đƣợc Viện ung thƣ quốc gia (NCI) và tổ chức ung thƣ của Hoa Kỳ ấn hành hƣớng dẫn dinh dƣỡng ăn ngũ cốc vào năm 1984, họ kêu gọi sử dụng các loại ngũ cốc, rau củ, các thực phẩm tƣơi khác và hạn chế mỡ đƣờng và thực phẩm chế biến. Tổ chức ung thƣ Hoa Kỳ lần lƣợt tiến hành các cuộc vận động và đƣợc đa số công chúng đồng tình cho việc áp dụng Thực dƣỡng phòng chống ung thƣ, nhiều năm trƣớc khi ngành nghiên cứu dinh dƣỡng phát triển và bằng “ngừa trị” gồm cách dùng thực phẩm và các chất liệu truyền thống để ngừa ung thƣ. Hơn 10 năm qua, tổ chức Y tế Hoa Kỳ, Hội đồng Dinh dƣỡng Hoa Kỳ và nhiều hội đồng khoa học khác đã đƣa ra khuyến cáo tƣơng tự. Năm 1989, Hội đồng nghiên cứu quốc gia (NRC) đã ấn hành quyển “Dinh dưỡng và sức khỏe” gồm 749 trang, điểm lại mối quan hệ dinh dƣỡng và những chứng bệnh thoái hóa đƣợc trình bày theo trình tự rõ ràng hơn về cách dinh dƣỡng hiện nay, liên hệ với những bệnh tim mạch, những dạng ung thƣ chủ yếu và những chứng bệnh khác. Năm 1992, tổ chức ung thƣ Hoa Kỳ đã loan báo về kế hoạch hỗ trợ cho một nghiên cứu đầu tiên có quy mô lớn về tác động của dinh dƣỡng cho những ngƣời có nguy cơ mắc phải bệnh ung thƣ da dùng thực phẩm có chất xơ. Theo kết quả của tác động dinh dƣỡng, các khoa học gia hàng đầu và tổ chức y tế tập trung nghiên cứu về lợi ích của đậu nành và các sản phẩm từ đậu nành nhƣ đậu hũ, tƣơng đặc Miso, tƣơng tempeh (nƣớc tƣơng) có thể làm giảm nguy cơ mắc ung thƣ. Hội ung thƣ Hoa Kỳ và Thời báo ung thƣ đã đề cao các nghiên cứu này và Viện nghiên cứu quốc gia gần đây đã tài trợ cho các cửa hàng đặc biệt, bán những sản phẩm đậu nành để phòng ung thƣ.
Viện nghiên cứu quốc gia, cơ quan khoa học cấp cao đã tỏ ý tán thành về việc canh nông tự nhiên. Trong báo cáo của họ năm 1989, tổ chức Alternative Agriculture đã liên hệ giữa nền nông nghiệp tiên tiến với tỉ lệ gia tăng ung thƣ và sự ô nhiễm môi trƣờng. Trong tất cả hóa chất dùng trong nông nghiệp, họ đã tìm ra nguyên nhân gây ung bƣớu ở động vật thí nghiệm. Hội đồng nghiên cứu quốc gia đã cho rằng có 30% thuốc trừ sâu, 50% thuốc trừ cỏ và 90% thuốc diệt nấm. Nói về những điển hình sức khỏe, các biến đổi môi trƣờng và những biến đổi sản xuất, báo cáo đã kết luận về các trƣờng hợp kể trong lịch sử Lundberg Family Farm ở Richvale, California, nguồn cung cấp lớn các loại gạo lứt bổ dƣỡng, chính là khu vực áp dụng đúng dinh dƣỡng, đúng cách của quốc gia hiện nay, 12 tổ chức quốc tế đã đƣa ra những giải pháp tƣơng tự về sức khỏe cá nhân và cho cả hành tinh. Chẳng hạn trong cuộc nghiên cứu về ăn uống, dinh dƣỡng và cách phòng chống những bệnh mãn tính, công bố năm 1991, Tổ chức Y tế thế giới đã cảnh báo các nƣớc phát triển đang sử dụng thực phẩm bổ dƣỡng trong thời kỳ công nghiệp hóa.
So với dinh dƣỡng trƣớc đây, con ngƣời đã dùng lƣợng mỡ cao gấp đôi, tỷ lệ các axít béo bão hòa nhiều hơn các axít béo không bão hòa, lƣợng thức ăn có xơ hàng ngày cao gấp 3, dùng nhiều đƣờng và Natri hơn, dùng ít lƣợng Cacbon hydrat phức hợp và ít tiêu thụ chất vi lƣợng. Khắp thế giới hiện nay đã áp dụng nhiều phƣơng pháp dinh dƣỡng, kể cả mang các phƣơng pháp dinh dƣỡng từ nƣớc ngoài vào, áp dụng vào sinh học, kết quả phát sinh nhiều chứng bệnh mãn
http://thucduong.vn Trang 2
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
tính, các chứng ung thƣ, bệnh tim và thêm nhiều bệnh mãn tính khác là cái giá phải trả cho quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Ở Châu Âu, các nhà nghiên cứu đã loan báo một kế hoạch trong năm 1991 giới thiệu một cuộc điều tra kỹ lƣỡng trên thế giới về dinh dƣỡng và ung thƣ. Trong 5 năm có 250.000 ngƣời ở bảy quốc gia Châu Âu đã tuân theo một chế độ dinh dƣỡng cụ thể và cung cấp mẫu máu của họ cho các nhà nghiên cứu. Trong thời kỳ Liên bang Liên Xô cũ, các nhà nghiên cứu lần đầu tiên tổ chức một cuộc điều tra nguyên nhân môi trƣờng, tác nhân dinh dƣỡng và bệnh ung thƣ. Một nghiên cứu năm 1991, các nhà khoa học đã nhận định rằng “kiểu ăn uống và làm việc ngồi suốt tại Châu Âu dễ dẫn đến ung thư”, ở các quốc gia phía tây Liên bang Liên Xô và Cộng hòa Ban Tích so với các nƣớc Châu Á là những vùng sử dụng thực phẩm truyền thống và tỷ lệ ung thƣ thấp. Các nghiên cứu về dinh dƣỡng và ung thƣ cũng đã nhắm vào Trung Quốc đầu năm 1990, Trung tâm sức khỏe Trung Quốc, một nghiên cứu dịch tễ lớn về dinh dƣỡng và bệnh thoái hóa đƣợc Viện ung thƣ Hoa Kỳ và Viện dinh dƣỡng và vệ sinh thực phẩm Trung Quốc tài trợ, họ đã tìm ra ở vùng ngoại ô Trung Quốc, vùng nông thôn là vùng có nguồn thực phẩm chủ yếu ngũ cốc, rau củ, dùng ít thịt động vật thì tỷ lệ chết do bệnh thành động mạch tim, ung thƣ vú, ung thƣ ruột kết, ung thƣ phổi thấp hơn 1% so với khu vực thành thị Trung Quốc, các chứng bệnh ác tính ở những khu vực này cũng ít khi xảy ra. Mỗi năm, khoa học và y học hiện đại đang ngày càng tiếp cận gần với việc áp dụng Thực dƣỡng phòng bệnh. Năm 1992, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ đã chỉ thị cho Food Guide Pyramid (xem chú thích) kêu gọi ngƣời Mỹ hãy sử dụng các loại thực phẩm của họ là ngũ cốc, rau củ, giảm dần thịt, sữa, các chất béo, dầu ăn và chất ngọt. Các miêu tả kế tục theo nhóm dinh dƣỡng 4 nguyên tắc (Basic four food group) chiếu theo tiêu chuẩn của những năm 50 và chính phủ Hoa Kỳ đã cung cấp cho Food Guide Pyramid danh sách hàng triệu trƣờng học, bệnh viện, cộng đồng ngƣời Mỹ, nhà hộ sinh và các thành phần khác trong xã hội. Họ yêu cầu đƣợc phục vụ, cung cấp các loại ngũ cốc (tƣơng đƣơng 40%) rau củ và thực phẩm tƣơi khác (tƣơng đƣơng 30%), nếu lƣợng thực phẩm này đƣợc Food Guide Pyramid cung cấp thì ngang bằng với mức dinh dƣỡng để phòng bệnh. Sự khác nhau là ở mức chất béo đƣợc đề nghị (khoảng 30% vƣợt quá 15%) và lƣợng prôtêin (thịt động vật vƣợt quá cao so với thực vật).
Năm 1990, Uỷ ban Vật lý – Y học (PCRM), một nhóm tổ chức của quốc gia mới đƣợc thành lập gồm 3000 bác sĩ y khoa đã kêu gọi mọi ngƣời sử dụng thực phẩm đơn chủ yếu là ngũ cốc và rau củ với lƣợng tốt nhất là 15% đến 20% chất béo, phác họa lên cho mục tiêu nghiên cứu dinh dƣỡng, tổ chức này đã dẫn chứng ra các cuộc nghiên cứu gần đây cho thấy không có sự khác nhau về ung thƣ vú giữa phụ nữ theo tiêu chuẩn dinh dƣỡng hiện đại (40% chất béo hoặc hơn) và những ngƣời theo tiêu chuẩn dinh dƣỡng chọn lọc do các nhà khoa học ấn định. Tổ chức y tế thế giới và các nhóm khác cũng kêu gọi cắt giảm tiêu thụ chất béo, giảm dƣới 20% là mức lý tƣởng để chống ung thƣ. Các đề nghị này đã bắt đầu có kết quả. Năm 1992, Hội ung thƣ Hoa Kỳ đã thông báo về một nghiên cứu đầu tiên về dinh dƣỡng ít mỡ để phòng ung thƣ vú cho thấy thành phần Calori mà mọi ngƣời dùng chỉ đạt 15%.
http://thucduong.vn Trang 3
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Nhiều nhà nghiên cứu ở Đại học Tulause, đại học Michigan và Boston, Minnesota và nhiều học viện khác cũng đã nghiên cứu tác dụng của Thực dƣỡng phòng bệnh ung thƣ kể từ khi ấn bản đầu tiên xuất hiện, nhiều kết quả đã đƣợc công bố hơn 10 năm và cho đến giờ vẫn đƣợc tán thành, ủng hộ. Ví dụ nghiên cứu ở Tulause, có 24 bệnh nhân ung thƣ tụy đã áp dụng dƣỡng sinh phòng bệnh, sống trung bình thêm 17,3 tháng so với những bệnh nhân đƣợc kiểm tra tại Viện ung thƣ quốc gia. Tỷ lệ sống đến 1 năm ở những bệnh nhân áp dụng dƣỡng sinh phòng bệnh là 54,2 %, vƣợt 10% so với những bệnh nhân đƣợc kiểm tra khác. Các chuyên gia ung thƣ của đại học Harvard, Alabama, Wiscosin và những nơi khác đã bắt đầu nghiên cứu hiệu quả bảo vệ của tƣơng Miso, Shoyu (nƣớc cốt đậu nành), tảo biển và các thực phẩm khác trong dƣỡng sinh phòng bệnh đúng tiêu chuẩn (xem tóm tắt những nghiên cứu này ở Phần I chƣơng V). Ở Washington, Uỷ ban chăm sóc sức khỏe Hạ nghị viện đã nghiên cứu cách tiếp cận Thực dƣỡng phòng bệnh và đi đến kết luận “Dưỡng sinh phòng bệnh vẫn mang lại sự cân đối trong dinh dưỡng”. Phƣơng pháp Thực dƣỡng còn bao gồm những hƣớng dẫn dinh dƣỡng đƣợc công bố gần đây của
http://thucduong.vn Trang 4
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Viện khoa học quốc gia và tổ chức Ung thƣ Hoa Kỳ có thể giảm đƣợc nguy cơ ung thƣ. Năm 1990, một báo cáo khoa học của văn phòng kỹ thuật Nghị viện đã khuyến khích nghiên cứu thêm Thực dƣỡng phòng bệnh ung thƣ “Như trường hợp của Newbold (một bác sĩ đã đưa ra tài liệu về sự hồi phục ở sáu bệnh nhân mãn tính giai đoạn cuối nhờ áp dụng chế độ thực dưỡng). Ông này đã nhận được phần thưởng cao quý vì những đóng góp cho y khoa, chính điều này đã kích thích sự quan tâm của các Trung tâm Y tế tư nhân trong việc tìm kiếm các giải pháp có hy vọng của chế độ dưỡng sinh phòng bệnh”. Ở New York, một chƣơng trình Thực dƣỡng phòng bệnh nhằm ngừa và giảm bệnh SIDA đã bắt đầu vào giữa năm 80. Các thành viên của hội những ngƣời đồng tính luyến ái mắc phải bệnh ung thƣ da ở mô liên kết (Sarcoma) một thể ung thƣ da do ảnh hƣởng của sự rối loạn, đã đi tìm những lời khuyên về Thực dƣỡng phòng bệnh. Nói chung, tình trạng bệnh của họ đã ổn định và có tiến triển tốt nhờ phƣơng pháp dinh dƣỡng mới. Các nhà miễn nhiễm học từ các trƣờng y tế đã chọn những mẫu máu của họ và đƣa lên màn hình quan sát để viết thành các tài liệu nghiên cúu. Nhìn chung, các nhóm có áp dụng Thực dƣỡng phòng bệnh sống lâu hơn tất cả nhóm bệnh AIDS có kiểm soát qua màn hình, có ngƣời trong số đó đã hoàn toàn hồi phục. Trong cuộc tổng kết về phƣơng pháp Thực dƣỡng, đại biểu viện y khoa Mỹ đã phát biểu “Thực dưỡng phòng bệnh là cách ăn mang lại sức khỏe tốt”. Ở Đức, Trung tâm điều trị ung thƣ đang hợp nhất việc tiếp cận phƣơng pháp Thực dƣỡng phòng bệnh, các nhà dinh dƣỡng, bác sĩ ung thƣ đang từng bƣớc học tập cách nấu nƣớng.
Ở Mỹ, hàng ngàn gia đình và cá nhân đã đến ngôi nhà chung của Viện Kushi ở vùng núi Berkshre hùng vĩ tham gia các khóa tập huấn ngắn hạn và những lớp học trong suốt 10 năm qua. Lớp học “7 ngày khỏe mạnh” là một chƣơng trình đƣợc ƣa chuộng nhất, đề nghị hàng ngày học lý thuyết và thực hành theo phƣơng pháp trực tiếp “trao tay”, họ nhấn mạnh việc chống lại ung thƣ và những bệnh thoái hóa khác. Kết quả mang lại thật tuyệt, có rất nhiều trƣờng hợp đã hồi phục (vài trƣờng hợp đƣợc tóm tắt trong phần tổng hợp cá nhân ở phần II). Trên thế giới, sách Thực dƣỡng phòng chống ung thƣ, các ấn bản đã xuất hiện khắp nơi trên 10 năm qua, bằng nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Hung Ga Ri, Cộng Hòa Séc, Nga và đã giúp con ngƣời ý thức hơn việc tiếp cận tự nhiên đến sức khỏe trong thời điểm hiện nay. Thực dƣỡng nhanh chóng lan rộng khắp Tây Âu và Liên Xô cũ trong những năm 80. Năm 1990, Alex Jack và nhiều nhà Thực dƣỡng khác đã tổ chức một chuyến vận chuyển bằng đƣờng hàng không các thực phẩm phòng bệnh đến Mat–xcơ–va và Lê–nin–grat (Saint Peterburg), đọc diễn văn cho các bác sĩ tại Viện Tim mạch Trung ƣơng, Viện Ung bƣớu (trung tâm nghiên cứu ung thƣ) cùng nhiều tổ chức y khoa và các nhà khoa học Xô Viết khác, bác sĩ y khoa, những ngƣời đi đầu trong cuộc vận động dinh dƣỡng phòng bệnh khắp nƣớc Nga và các nƣớc cộng hòa Liên Xô cũ khác, kêu gọi tiếp tục dùng tƣơng Miso, tảo biển và các thực phẩm khác đã đƣợc chứng minh là có hiệu quả đối với loại ung thƣ do ảnh hƣởng bức xạ để điều trị cho ngƣời lớn và trẻ em bị nhiễm chất phóng xạ trong vụ nổ Chernobyl (nhà máy điện nguyên tử) và trong các tai nạn hạt nhân khác (để rõ hơn xin xem chƣơng XI, sự liên quan giữa ung thƣ – phóng xạ và môi trƣờng). Ở cấp chính phủ, suốt thập kỷ qua tôi đã đóng góp các ý kiến đến Bộ trƣởng Bộ Y tế – thực phẩm và nông nghiệp ở nhiều nƣớc châu Âu gồm Hung–ga–ri (nƣớc có tỷ lệ ngƣời ung thƣ cao nhất thế giới), Trung Mỹ, Châu Phi và Trung Đông.
http://thucduong.vn Trang 5
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Tất cả các thống kê, nghiên cứu và tƣ liệu khác trong ấn bản mới này đã đƣợc cập nhật để điều chỉnh xu hƣớng xã hội hiện thời và cái nhìn của y khoa đối với căn bệnh. Thêm vào đó, phƣơng pháp tiếp cận ung thƣ của bản thân tôi đã dần thay đổi qua hơn một thập kỷ nay. Hàng năm có hàng ngàn cá nhân, gia đình tìm đến tôi để xin sự hƣớng dẫn cụ thể. Qua những chuyến viếng thăm, thƣ từ, fax hoặc các lớp tập huấn hay hội họp, tôi nhận thấy nhiều trƣờng hợp trong số họ đã tiến triển rất tốt trong vài năm, tôi đã điều chỉnh nhiều lần để hợp lý hóa trong các đề nghị dinh dƣỡng, các món ăn, phƣơng pháp xoa bóp và điều trị tại nhà, hƣớng dẫn cách sống, tất cả những vấn đề này đã đƣợc tổng hợp trong ấn bản mới của cuốn sách này.
Sau cùng, ở mục mới còn đƣợc thêm vào phần cách sống và tập luyện thân thể, hai yếu tố này có thể tiết giảm nguy cơ ung thƣ gồm cả những phƣơng pháp quán tƣởng và trầm tƣ để hỗ trợ cho sức khỏe chóng hồi phục trong môi trƣờng, quan hệ sức khỏe cá nhân và cả hành tinh, trẻ em và bệnh ung thƣ, quan hệ ung thƣ và bệnh sida. Ở phần chú giải, sinh lý học, sự cần yếu và các vật liệu khác ở phần sau cuốn sách đã đƣợc hiệu chỉnh hoàn toàn, phần phụ lục tóm tắt các hƣớng dẫn dinh dƣỡng của nhiều nhà khoa học lớn, các tổ chức y tế cũng đƣợc bổ sung thêm. Cuộc sống vận động theo hình xoắn ốc và mỗi thế hệ phải đƣơng đầu với những chƣớng ngại và thử thách khác với quá khứ. Trong một tác phẩm năm 1989 “Ung thư và sự phát triển của ung thư”, nhà Vật lý ngƣời Anh, John Hughes Bennett đã đề nghị tiếp cận các chất dƣỡng sinh để chống bệnh ung thƣ. Thật là một bƣớc đi khôn ngoan khi giảm bớt sự chuyển hóa của các chất béo, không chỉ là các loại dầu mà còn ở bột và đƣờng. Những điểm này mặc dù hiện thời chƣa đƣợc biết nhƣng tôi tin rằng theo thời gian họ sẽ khám phá và hiểu đƣợc. Ngƣời đã một thời từng làm Chủ tịch hội đồng sức khỏe Hoàng gia tiếp tục “Đã đến lúc chúng ta cần có những nhận định và hướng dẫn điều trị nhiều chứng bệnh bằng dinh dưỡng, trong đó có ung thư”.
Chỉ trong vài thập kỷ qua, Y học hiện đại đã bắt đầu điều tra có hệ thống về dinh dƣỡng hàng ngày có nhiều chất béo, tinh bột, đƣờng và những tác động đến ung thƣ, bệnh tim và các chứng thoái hóa khác. Cơ chế cụ thể của ung thƣ, cấp độ tế bào vẫn hoàn toàn chƣa hiểu hết. Tuy thế, trong 10 năm qua hầu hết các tổ chức y tế lớn ở Mỹ, Ca–na–đa và châu Âu đã yêu cầu phải có những nghiên cứu hiệu quả hơn, kêu gọi cộng đồng chung nên có một thực đơn “khôn ngoan hơn” nhƣ ít chất béo bão hòa và chƣa bão hòa cholesterol, carbon hydrat tinh chế và dùng nhiều ngũ cốc, rau củ và trái cây tƣơi.
Các nhà vi trùng học, di truyền học và miễn nhiễm học cho đến bây giờ vẫn yêu cầu có những nỗ lực, những hỗ trợ cho việc nghiên cứu ung thƣ. Tuy nhiên, sau một thế kỷ bị lãng quên, những nỗ lực không ngừng cuối cùng đã đƣợc công nhận rằng nó là một khoa học lớn bị lãng quên. Ngƣời ta đã có lý do để tin rằng sự phân tích về các phƣơng pháp dinh dƣỡng thông thƣờng gồm cả kết hợp với lối sống và yếu tố môi trƣờng đã phù hợp với các dữ liệu về dịch tễ học, các nhà nghiên cứu thí nghiệm và thực tế tại các bệnh viện. Nếu sự tiếp cận dinh dƣỡng này đƣợc thừa nhận rộng rãi hơn thì có thể loại trừ ung thƣ. Một chứng bệnh đau đầu nhất trong lịch sử loài ngƣời và sẽ có một kết thúc sáng sủa.
Gần nhƣ trong thập kỷ qua, Thực dƣỡng phát triển đúng với những chỉ dẫn, lại có thêm nhiều thực đơn đúng đắn hơn. Trong đó một số dựa trên yêu cầu dinh dƣỡng bằng thịt động vật
http://thucduong.vn Trang 6
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
để thí nghiệm và những thứ này có thể không thích hợp với con ngƣời và trƣờng hợp khác đƣợc làm nên từ phân tích dữ liệu bằng máy tính, chƣơng trình này đƣợc thực hiện bởi những ngƣời mắc các chứng bệnh tƣơng tự và họ muốn loại trừ chúng. Tuy nhiên, có lẽ cầu nối yếu nhất giữa hƣớng dẫn dƣỡng sinh và việc thực hiện là do thiếu các công thức tƣơng xứng và thực đơn. Làm thế nào để cá nhân gia đình, trƣờng học, bệnh viện giảm hàm lƣợng mỡ và tăng hàm lƣợng chất xơ trong bữa ăn hàng ngày. Các nhà viết về dinh dƣỡng, nhà báo chuyên mục nấu ăn của đất nƣớc đang cố đăng tải các kế hoạch, lập nhiều loại thực đơn để giúp phòng chống ung thƣ. Một bƣớc đơn giản, họ yêu cầu giảm bớt các loại thực phẩm mà ta thƣờng dùng và đƣa ra các loại thực phẩm phù hợp cho họ. Thực đơn họ đƣa ra không đáp ứng cách điều chỉnh nền tảng chọn lựa chất lƣợng lúc chuẩn bị hay nấu ăn đòi hỏi phải đối ứng với bệnh tim, ung thƣ và các loại bệnh thoái hóa khác.
Cách chăm sóc sức khỏe trong sách này bao gồm cả phƣơng Đông và phƣơng Tây, chúng tôi đặt tựa đề là Thực dƣỡng phòng chống ung thƣ vì nó cứu thoát rất nhiều gia đình khỏi bệnh ung thƣ và các bệnh liên quan qua cả hàng trăm thế hệ, đến thế hệ sau này hàng trăm, hàng ngàn ngƣời đã thành công khi áp dụng theo phƣơng pháp dinh dƣỡng này dƣới cái tên Thực dƣỡng (Macrobiotics). Ta thấy rằng nó không chỉ bảo vệ con ngƣời thoát khỏi nhiều bệnh nguy hiểm mà còn làm họ cảm thấy ngon miệng và mãn ý. Trong cuốn sách này, hàng trăm ngƣời đã giảm bớt bệnh ung thƣ bằng những công thức và thực đơn do Aveline Kushi giới thiệu và triển khai.
Qua nhiều thế kỷ, nhiều cá nhân, cộng đồng và nền văn hóa đã đi theo phƣơng pháp trong sách này. Tác giả đặc biệt muốn nhấn mạnh sự ca ngợi và lòng biết ơn sâu sắc đến ngài Yukikazi Sukarazava (George Ohsawa) và Lima, vợ ngài, ngƣời đã tạo ra đƣờng lối dinh dƣỡng hiện đại để phòng chống bệnh tật; và cảm ơn nhiều tổ chức truyền thống, những ngƣời áp dụng kế tục sau này để giữ gìn truyền thống. Năm nay, kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của ông, chúng tôi rất vui mừng đã dâng tặng ông quyển sách này. Chúng tôi cũng cảm ơn những ngƣời thực hành ở Đông Phƣơng và Tây Phƣơng, các bác sĩ y khoa và những ngƣời khỏi bệnh, nhiều nhà chữa trị và nghiên cứu đã cống hiến cuộc đời nghiên cứu dinh dƣỡng và bệnh tật. Chúng tôi còn cảm ơn nhƣng cố gắng của ngành Y học, Giáo dục, sự hỗ trợ của Chính phủ và các đóng góp cá nhân để hoàn thiện sức khỏe cá nhân, gia đình và cộng đồng, chúng tôi mong muốn hợp tác cùng với tất cả các tổ chức và những ai quan tâm về vấn đề ung thƣ và xã hội hiện đại. Chúng tôi hy vọng rằng sách này là một đóng góp cho mục đích chung và hoan nghênh các ý kiến đóng góp cho sự hợp tác tốt hơn trong tƣơng lai.
Thực phẩm tự nhiên và việc tập luyện chữa bệnh dần dần du nhập vào xã hội. Quyển sách cũng đề ra những kinh nghiệm đã qua và hàng ngàn bí quyết về dinh dƣỡng và sức khỏe, kiêng ăn phòng bệnh của các chuyên gia, thầy giáo hiện nay, những ngƣời chuyên nấu ăn, những chủ nhân cửa hàng thực phẩm, nông nghiệp, các tác giả và nghệ gia đã kêu gọi mạnh mẽ việc quay về với lƣơng thực và lối sống tự nhiên hơn.
Hàng thế kỷ nay, các chỉ dẫn mới về thuốc cũng đƣợc làm nổi bật để chúng ta chuẩn bị. Chúng tôi cảm ơn các bác sĩ, y tá, nhà dinh dƣỡng, các nhà giáo dục sức khỏe cộng đồng, nhà báo y khoa, các bệnh nhân và gia đình của họ đã tham gia vào các cuộc họp thƣờng niên từ Viện
http://thucduong.vn Trang 7
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Đông Tây từ năm 1977 để tiếp cận dinh dƣỡng đến ung thƣ và các bệnh thoái hóa khác, cũng nhƣ các hoạt động khác có liên quan. Điển hình là Robert S. Mendenlssehn, bác sĩ, tác giả, nhà nghiên cứu và từng là giám đốc Uỷ ban luận chứng y khoa Viện Iiinois; Nicholas Motter, thành viên hạ viện, ngƣời đóng góp cho Uỷ ban Hoa Kỳ tài trợ cho nhu cầu con ngƣời. Báo cáo trong mục tiêu dinh dƣỡng của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, bác sĩ Enward Kass và Frank Sack của trƣờng Y khoa Haward, bà Marylin Light, chủ tịch của Trung tâm các bệnh về da, Maryan Tompson sáng lập nhóm Lalee cùng với bác sĩ Wiliam Castelli, giám đốc trung tâm nghiên cứu tim mạch. Tham gia chƣơng trình còn có Stephen Appelbaum, bác sĩ nghiên cứu bệnh nam giới, Jonathan Lieff thuộc bệnh viện Shattuck, Boston; bác sĩ Freder Ettner của bệnh viện quốc gia Hoa Kỳ; Zion thuộc vùng llinois; bác sĩ Normer Ralston từ Dallas; bác sĩ Marc Van Cauwenberghe, giảng viên đại học Kushi; Keith Block từ Evanston, llinois; bác sĩ Christia Northup từ Blan; bác sĩ Maine, Peter Clein Kockvil Mariland; nhà nghiên cứu Kristen Schmidt từ Cincinnati; bác sĩ Thakkuy Chandrase Khar từ Bombay; Ông Hideo Ohmori từ Viện nghiên cứu ung thƣ Nhật bản; Ông Shizuky Yamamoto, giáo sƣ dinh dƣỡng học, luyện tập ở New York; tác giả William Dufty của Sugar Blues; diễn viên điện ảnh kiêm đạo diễn Gloria Swason đã hƣớng dẫn một lối sống mạnh khỏe; Jean Kohler, một nhà chuyên dạy nhạc ở Đại học Batt State và vợ ông là Mary Alice, tác giả quyển “Healling Miracles from Macrobiotic” và nhà báo y khoa Peter Karry Chowka. Cùng với việc chuẩn bị cho sách này, tôi đã đƣợc gia đình và bạn bè giúp đỡ, cung cấp. Đặc biệt xin cảm ơn vợ tôi, Lawrance, một nghiên cứu gia về nhân chủng học thuộc Đại học Minesota, ngƣời đã đóng góp nhiều đề tài nghiên cứu khoa học trong việc tìm ra mối quan hệ giữa dinh dƣỡng và bệnh thoái hóa. Bố của Alex, gia đình Esther Jack, vợ ông; Gale, chị ông; Lucy và chồng là Jorathan William cũng đã khuyến khích và đóng góp cho quyển sách này. Ngoài ra các tác giả còn nhận đƣợc sự đóng góp của thƣ viện cộng đồng Boston, Brookline; thƣ viện y khoa Harvard. Chúng tôi thật may mắn nhận đƣợc tƣ liệu vùng Boston. Phần sau quyển sách này chúng tôi đã tóm lƣợc phần hội ý. Xin lật lại phần phụ lục để tra cứu tên thuốc và tên các món ăn mà bạn có thể không biết.
Nhiều đồng nghiệp khác đã trình bày ý kiến của họ trong các lĩnh vực có liên quan đến chuyên môn nhƣ thầy Edward Esko Macrobiotic giáo viên học viện Kushi ngƣời có những đóng góp rất hữu ích và cung cấp nhiều tƣ liệu cũng nhƣ các giải pháp cho sức khỏe trong phần “suy nghĩ và trầm tư để chữa bệnh” Carolyn Heidenry; Charles Millman; Bill Tara; Olivia Oredson; Sherman Goldman; Tom Monte; Karin Stephan; David Brission; Eric Zutran; và Frank Savalti; các tài liệu của Viện Kushi và tạp chí Đông Tây đã đóng góp rất nhiều làm phong phú thêm cho nghiên cứu này. Chúng tôi xin cảm ơn đến những ngƣời hiện vẫn còn tiếp tục đóng góp trong việc phát triển nghiên cứu áp dụng dinh dƣỡng phòng các bệnh thoái hóa nhƣ bác sĩ Martha Cottrell là giám đốc dự án Thực dƣỡng phòng chống AIDS ở New York đã cùng hợp tác với chúng tôi trong “AIDS, Macrobiotics and Natural Immunity”; bác sĩ Robert Lerman, giám đốc trung tâm dinh dƣỡng tƣ nhân ở University Hospital, Boston; Bác sĩ Vinen Newbold, nhà vật lý trị liệu ở Philadelphia, ông là ngƣời đi tiên phong trong việc tiếp cận nghiên cứu thực dƣỡng phòng chống ung thƣ; bác sĩ vật lý trị liệu ngƣời Anh Frankner, một bệnh nhân từng mắc phải ung thƣ tụy đã theo cách chỉ dẫn trong sách này, sau ông đã viết nên quyển “Phisician, Heal Thyself”; bác
http://thucduong.vn Trang 8
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
sĩ Neal Barnard, sáng lập của PCRM, ông đã tham gia tích cực trong các cuộc hội thảo; cùng với bác sĩ Benjamin Spock, nhà biên soạn, ông đã bắt đầu thay đổi cách ăn uống của mình ở giai đoạn 80 tuổi và phổ biến rộng khắp phƣơng pháp này.
Trong phần cuối cuốn sách này, chúng tôi muốn gửi lời cảm ơn đến ông Fol Nakamura; Anna Dicchioni vì những đóng góp quý báu và thầm lặng của hai ông. Đặc biệt cảm ơn Julia Coopersmith, ngƣời hỗ trợ và hiệu đính, chân thành cảm ơn Ashton Apple While và Barbara Anderson, những ngƣời đã giúp hiệu chỉnh, nhiệt tình giúp đỡ trong suốt thời gian làm việc.
Xã hội là một hoàn cảnh hợp nhất trong ứng dụng thực dƣỡng phòng chống bệnh ung thƣ, mặc dù hiện nay xu hƣớng là nghiêng về các loại thực phẩm nhân tạo, kể cả việc chế biến các thực đơn truyền thống không thích hợp, các loại này đƣợc chế biến trong các lò viba tiệt trùng, nhƣng tất cả đều nguy hại cho sức khỏe. Các nhà khoa học đang tìm cách hoàn thiện loại dinh
dƣỡng để truyền lại cho nhiều thế hệ, sao cho hợp lý tuyệt đối. Rõ ràng xã hội hiện đại và giải pháp dinh dƣỡng đang đi chung hƣớng, tạo ra một biến đổi cơ bản trong việc ăn uống của chúng ta, với đà này không những chúng ta có thể thanh toán đƣợc ung thƣ, thảm kịch của nhiều nạn nhân và gia đình mà còn mang lại một môi trƣờng sạch sẽ và an toàn, một thế giới hòa bình và khỏe mạnh.
Tác giả
Michio Kushi
Becket – Mass
Hè 1992
Mass
http://thucduong.vn Trang 9
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư Chƣơng I
PHƢƠNG PHÁP TỰ NHIÊN PHÒNG NGỪA UNG THƢ Ung thƣ và dinh dƣỡng
Cách đây 45 năm, khi tôi mới đến Hoa Kỳ, tỷ lệ mắc ung thƣ là cứ 8 ngƣời thì có một ngƣời mắc phải, nhƣng ngày nay, thì trong 3 lại có một ngƣời bệnh (xem bảng 1). Năm nay, có hơn 520.000 ngƣời Mỹ sẽ chết vì ung thƣ và còn phát hiện thêm 1.300.000 ngƣời mới mắc bệnh. Từ những năm 1973 đến 1988, các loại ung thƣ tăng lên 17% (đàn ông chiếm 20%, đàn bà 13%). Theo chiều hƣớng trên, xã hội Mỹ sẽ có tới 83 triệu ngƣời mắc bệnh hiểm nghèo này. Theo đà này, nếu không thay đổi thì đến đầu thế kỷ 21, số ngƣời mắc bệnh sẽ là 40 đến 50% dân số. Và từ 30 đến 35 năm (1992) sau đây, tỷ lệ mắc bệnh trong đời họ sẽ khó tránh khỏi.
Bảng 1. Tình hình ung thƣ tại Mỹ
1900 1962 1971* 1992
Bệnh nhân mới 25.000 520.000 635.000 1.100.00 0
Vùng nhiễm bệnh
Ngực (vú) 63.000 69.600 175.900 Phổi 45.000 80.000 178.000 Trực tràng 72.000 75.000 157.500 Tiền liệt tuyến 31.000 35.000 122.000 Tử cung Thiếu thống kê Thiếu thống kê 46.000 Tỷ lệ ½ 5 1/6 1/5 ⅓ 1971* Tổng thống Mỹ tuyên chiến chống bệnh ung thư
Nguồn tài liệu của Viện Thống Kê Ung Thư Mỹ
Trong khi tỷ lệ tử vong ở vài dạng ung thƣ nhƣ bao tử, cổ, ruột cùng (trực tràng) có sút giảm thì ở các phần khác lại tăng, đáng kể là phổi, melanoma, tiền liệt tuyến và tăng vọt ở myeloma và bƣớu não (xem bảng 2) cho dù ngày nay máy móc chuẩn đoán, chữa trị đã rất tiến bộ. Sự thăm dò cuộc chiến chống ung thƣ năm 1971 đã bị thất bại. Về mặt này, Mỹ không chỉ là nƣớc duy nhất mà so với các nƣớc khác thì Mỹ mới chỉ ở bậc trung (xem bảng 3). Hai mƣơi ba trong số năm mƣơi nƣớc đã có tỷ lệ tử vong cao hơn Mỹ về nam giới và 16 về nữ giới, trong khi Đan Mạch, Scotland và Hung–ga–ri lại có tử vong cao nhất về nữ giới.
Rõ ràng, ung thƣ là cái mốc huỷ hoại vĩ đại trong thời hiện đại. Nó sát phạt ngƣời sang, kẻ hèn, nam nữ, trẻ già, Tây Phƣơng và Đông Phƣơng, ngƣời trong sạch, kẻ tội lỗi… khó có gia
http://thucduong.vn Trang 10
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
đình nào tránh thoát nó. Những chứng bệnh mãn tính khác đã ngày càng gia tăng. Trong mƣời năm sau này, bệnh AIDS đã tràn lan khắp thế giới mà số ca tử vong cứ hai năm lại tăng gấp đôi.
Bảng 2. Tình hình ung thƣ hàng năm *
NAM NỮ
1. Ung thƣ tiền liệt tuyến 132.000 Ung thƣ vú 180.000 2. Ung thƣ phổi 102.000 Ung thƣ ruột 77.000 3. Ung thƣ ruột 79.000 Ung thƣ phổi 66.000 4. Ung thƣ bàng quang 38.500 Ung thƣ tử cung 45.500 5. Bệnh bạch huyết 27.200 Bệnh bạch huyết 21.200 6. Ung thƣ miệng 20.600 Ung thƣ buồng trứng 21.000 7. Melanoma 17.000 Melanoma 15.000 8. Ung thƣ thận 16.200 Ung thƣ tụy 14.400 9. Bệnh bạch cầu 16.000 Ung thƣ bàng quang 13.100 10. Ung thƣ bao tử 15.000 Bệnh bạch cầu 12.200 11. Ung thƣ tụy 13.900 Ung thƣ thận 10.300 12. Ung thƣ thanh quản 10.000 Ung thƣ miệng 9.700
Tổng cộng 565.000 565.000 * Gồm cả ung thư da và loại gen gây bệnh
Nguồn dữ liệu : Viện Ung Thư Mỹ (1992)
Bảng 3. Tỷ lệ tử vong Ung thƣ trên Thế Giới
NAM NỮ
1. Hung–ga–ry 235 Đan Mạch 193 2. Tiệp 228 Scotland 136 3. Luxembourg 218 Hung–ga–ry 129 4. Bỉ 205 Anh (Wales) 127 5. Pháp 205 Ireland 126 6. Uruguay 203 New Zealand 124 7. Scotland 201 Bắc Ireland 123 8. Hà Lan 201 Tiệp 120 9. Ba Lan 200 Uruguay 118 10. Ý 194 Iceland 116 11. Nga 193 Costa Rica 116 12. Đan Mạch 182 Chile 114 13. Anh (Wales) 182 Tây Đức 112 14. Hồng Kông 182 Canada 111 15. Singapore 181 Bỉ 111 16. Tây Đức 181 Hà Lan 110 17. Ireland 175 Mỹ 110 18. Bắc Ireland 174 Singapore 110 19. Áo 174 Áo 110 20. Thụy Sĩ 174 Luxembourg 109 21. New Zealand 172 Ba Lan 108
http://thucduong.vn Trang 11
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
22. Canada 171 Đông Đức 103 23. Đông Đức 166 Bắc Âu 102 24. Mỹ 163 Úc 102 25. Úc 163 Do Thái 100 26. Costa Rica 162 Ý 100 27. Phần Lan 159 Thụy Sĩ 100 28. Tây Ban Nha 158 Thụy Điển 99 29. Yugolavia 154 Hồng Kông 98 30. Argentina 152 Argentina 98 31. Hàn Quốc 150 Cuba 96 32. Nhật 150 Nga 93 33. Bắc Âu 149 Phần Lan 91 34. Trung Quốc 148 Malta 91 35. Malta 145 Pháp 90 36. Hy Lạp 144 Trung Quốc 89 37. Chile 141 Yugoslavia 89 38. Portugal 139 Ecuador 86 39. Bulgaria 138 Venezuela 85 40. Iceland 137 Bỉ 84 41. Cuba 129 Bồ Đào Nha 84 42. Thụy Điển 128 Tây Ban Nha 79 43. Puerto Rico 122 Hy Lạp 79 44. Israel 118 Mexico 78 45. Venezuela 92 Nhật 78 46. Kuwait 89 Kuwait 77 47. Panama 87 Puerto Rico 75 48. Ecuador 84 Panama 72 49. Mexico 77 Hàn Quốc 65 50. Thái Lan 54 Thái Lan 36 Ở người trung niên theo tỷ lệ 100.000 người
Nguồn tài liệu : Thống kê Y Tế Thế Giới thường niên (1987–1990)
Ghi chú: Dữ liệu này biên tập trước lúc thống nhất Đức Quốc và Liên Xô sụp đổ
Trên 100.000 ngƣời Mỹ chết vì bệnh này và hàng triệu ngƣời mang mầm bệnh HIV. Ở Phi Châu, Á Châu và những khu vực khác, đặc biệt ở vùng xích đạo, HIV đã lan tràn nhƣ một thứ bệnh dịch. Mặc dù mới đầu bệnh AIDS nhƣ biến thái mất khả năng miễn nhiễm nhƣng nó có liên quan đến bệnh ung thƣ và nhiều bệnh nhân bắt đầu với một chứng nhƣ ung thƣ da (Kaposi), hoạt huyết và những bệnh ác tính khác. Theo ƣớc tính mới đây đến năm 2000, sẽ có tới 120 triệu ngƣời bị nhiễm loại siêu vi khuẩn này. Trong thập niên 1990, ngƣời ta ƣớc tính cỡ 10 triệu trẻ em đã phải gánh chịu cảnh mất cha hoặc mất mẹ vì bệnh AIDS.
Cách đây 30 năm, số ngƣời mắc bệnh tâm thần ở Mỹ có tỷ lệ ½ 0. Ngày nay nó tăng gấp đôi với tỷ lệ 1/10. 42 triệu ngƣời ở đất nƣớc này bị bệnh tim mạch, 37 triệu ngƣời mắc bệnh cao huyết áp, 35 triệu ngƣời bị dị ứng, từ 14 đến 28 triệu ngƣời nghiện rƣợu. Mƣời triệu ngƣời lạm
http://thucduong.vn Trang 12
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
dụng thuốc, 13 triệu trẻ em dị tật bẩm sinh, 1 triệu ngƣời mắc bệnh tiểu đƣờng, 5 triệu trẻ em chậm phát triển về tinh thần, 2 triệu ngƣời bị bệnh động kinh. Vào khoảng 1 triệu bị chứng run liệt thần kinh Parkinson. Một triệu rƣỡi bị sơ cứng cơ bắp.
Trong những thập niên gần đây, bệnh rối loạn dục tính tăng nhanh và tệ hại nhất. Ví dụ trong năm 1982, Hội Y học Anh Quốc báo cáo số ngƣời bệnh ở Anh đã tăng 1.700 % tính từ năm 1957. Ở Mỹ, năm 1990 là năm bệnh giang mai tăng cao nhất kể từ năm 1949 và tăng 75% từ năm 1985. Ở Châu Âu và cả ở Bắc Mỹ, bệnh mụn rộp và những bệnh lan truyền qua đƣờng tình dục (STD) lan nhanh nhƣ bệnh dịch, thêm vào đó, chứng vô sinh cũng có chiều hƣớng gia tăng. Kể từ năm 1920, lƣợng tinh trùng của phái nam đã sụt giảm 39% theo thử nghiệm y khoa. Một nghiên cứu mới đây phát hiện khoảng 23% số sinh viên khỏe mạnh đã giải phẫu triệt sản. Triệt sản tăng từ 5,5% trong năm 1970 lên đến 22,7% trong năm 1990. Hơn nữa, khoảng 800.000 phụ nữ Mỹ đến tuổi sinh sản đã giải phẫu buồng trứng vì ung thƣ hay sợ bị ung thƣ. Vào tuổi 65, đã số phụ nữ Mỹ đã giải phẫu dạ con.
Những chứng bệnh mới ra đời đã thách thức y khoa tân tiến – hội chứng ngộ độc, viêm phổi, hội chứng mệt mỏi kéo dài, đơn cử siêu vi trùng Epstein–Barr đã xâm nhập, hàng vạn và hàng triệu ngƣời đang lo sợ loại vi trùng này. Trong khi những loại bệnh cũ lại tái xuất dƣới dạng độc chất. Những chứng viêm phổi biến dạng và những bệnh nhiễm trùng khác đã cho thấy đội ngũ y khoa chịu bó tay! Có thời ngƣời ta tin rằng bệnh sốt rét đã bị diệt gọn bởi thuốc men hiện đại, nay nó vẫn còn đó và lan rộng trên địa cầu với con số 270 triệu ngƣời bị nhiễm trùng hàng năm và ƣớc chừng 1 triệu ngƣời thiệt mạng mỗi năm. Chƣa hết, bệnh lao phổi đã nhờ thuốc kháng sinh đánh dẹp sau cuộc thế chiến thứ hai, nay lại tái xuất dƣới dạng độc chất và cứ mỗi năm giết hại tới 3 triệu ngƣời trên khắp thế giới. Năm 1991, lần đầu tiên trong thế kỷ này, dịch tả đã lan tràn tại Mỹ! Mới đây, trƣờng đại học y khoa Tuffs đã cho biết rằng 75% dân chúng lấy mẫu thử mức độ vi khuẩn chống lại thuốc kháng sinh trong bộ máy tiêu hóa của họ.
Ngay cả chứng cảm lạnh thông thƣờng đã đƣợc quảng bá trên 30 năm trƣớc và sau thời tổng thống Kennedy vẫn trơ trơ trƣớc mọi cách điều trị. Thực ra, các phƣơng thuốc hiện đại chữa đƣợc rất ít căn bệnh. Trong một số trƣờng hợp, y khoa làm giảm đau và nó chỉ tạm thời nhƣng không nhổ tận gốc bệnh khiến không chóng thì chầy, bệnh vẫn cứ trở lại nhƣ thƣờng.
Tính chung, có đến 80% mọi ca tử vong trên thế giới – đứng đầu là tai nạn thƣờng do sự suy thoái về thể chất và tinh thần, kể cả bạo lực, chiến tranh, tội phạm, đối xử thô bạo, bỏ mặc trẻ em, vợ, chồng và ngƣời già cả. Hơn bốn thập niên ở Mỹ, từ hơn 2 tới 4 lần, ngƣời ta giết hại lẫn nhau hơn tại chiến trƣờng, trong các cuộc chiến nƣớc ngoài. Bạo lực vẫn đang gia tăng tại các vùng khác trên thế giới. Trái đất cũng nhƣ con ngƣời, nó cần gấp rút chữa trị. Môi trƣờng thiên nhiên đang bị huỷ hoại nặng nề vì con ngƣời bành trƣớng nền văn minh công nghệ một cách bừa bãi. Rừng nhiệt đới và hàng ngàn chủng loại cây cỏ, động vật đang tiêu biến dần. Sa mạc hóa lan rộng khi lớp đất màu bị suy kiệt vì hóa chất độc hại, mùa màng thất thu. Tài nguyên trên thế giới ngày một teo tóp, chất thải đủ loại ngày càng tích luỹ, trên không gian thì độc hại của nền công nghệ và tầng Ozone che chở trái đất ngày càng mỏng dần và để tia cực tím thâm nhập, tác hại vào cuộc sống các sinh vật dƣới đất. Đâu đâu cũng có các loại tia chiếu xạ nhân tạo từ nguyên tử
http://thucduong.vn Trang 13
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
năng đến tia vi–ba nấu ăn, tia X–quang đến luồng từ của máy vi tính, từ vệ tinh trên quỹ đạo không gian tới đầu máy video cassette đã tạo ra một dạng lƣới toàn cầu i–on hóa, khiến cho quá trình tiến hóa của con ngƣời sẽ bị thui chột lâu dài nhiều thế hệ.
Đƣa ra các minh chứng trên cho ta cái nhìn tổng quát về nền văn minh hiện đại đang nằm bên bờ vực tự huỷ mà sự lún sâu nằm ở thoái hóa sinh học. Đáng kể phải là Mỹ, Canada, Nga, Đông và Tây Âu, Nhật, Úc và Trung Quốc, cũng không thể bỏ qua các nƣớc ở Á Châu, Phi Châu và Châu Mỹ La tinh. Chấm dứt chiến tranh lạnh chƣa phải là đã chấm dứt nguy cơ bệnh tật lùi bƣớc, mà nó còn vƣợt xa cả hiểm họa của vũ khí hạt nhân! Thời gian còn lại cho con ngƣời tái định hƣớng thân phận mình và cả hành tinh quả là rất ngắn ngủi. Trong khi mà thế hệ đi sau dần trƣởng thành thì ta đã có thể xem tận mắt sự suy thoái toàn cục của nếp sống hiện đại. Sự sụp đổ tận cùng có thể xảy ra trong vòng 25 đến 35 năm tới đây.
Tuy nhiên vấn đề ung thƣ đã cho ta một dịp may để suy tƣ, thâm hiểu về sức khỏe và bệnh tật hầu cho nhân loại có dịp đoàn kết mọi cá thể trên hành tinh lại để góp sức xây dựng một thế giới lành mạnh và thật sự hòa bình.
Ung thƣ thời cổ đại
Lịch sử ung thƣ thời cổ đại đã có từ 2.500 năm và bắt đầu tại Hy Lạp, nơi có ông tổ nền y khoa Hippocrate đã phát hiện và mô tả căn bệnh này bằng karkinos, ngôn từ Hy Lạp đã đẻ ra tên bệnh ung thƣ – cancer, mà gốc từ mang nghĩa “con cua”: ông tổ y học Tây Phƣơng đã dựa vào hình tƣợng mẩn nổi khắp ngƣời nhƣ dạng con cua. Thời xƣa, bệnh này cực hiếm và chỉ có một số ngƣời ít ỏi mắc phải đƣợc ghi chép lại. Ví dụ ngƣời ta nhắc đến nó trong Kinh Thánh, Cựu Ƣớc hay trong kỳ thƣ Tố Vấn Nội Kinh Hoàng Đế ở phƣơng Đông. Đa số các nƣớc có truyền thống thì họ chẳng biết gì là ung thƣ. Tuy nhiên vào thời cách mạng kỹ nghệ ở thế kỷ 17, thì ung thƣ xảy ra ở phƣơng Tây. Năm 1830, nhà khoa học, ông Stanislas Tanchou đi tiên phong trong ngành thống kê sinh tử đã sắp xếp tỷ lệ tử vong ở vùng Paris về bệnh ung thƣ là khoảng 2%, tiếp đến đầu thế kỷ 20 thì tỷ lệ đó tại Mỹ đã lên tới 4%. Chỉ kể ở thế hệ vừa qua, các loại hình của ung thƣ so với ngày nay vẫn đƣợc coi là hiếm.
Hồi còn mới theo học Đại học Washington năm 1919, có một ngƣời ung thƣ nhập viện ở bệnh viện Parns “theo lời kể của bác sĩ Alton Oschener trong một bài viết ở báo khoa học Mỹ, và theo thông lệ thì bệnh nhân không qua khỏi. Bác sĩ George Dock, dạy môn Y, ông không những là một y sĩ xuất sắc kiêm khoa học gia mà ông còn là nhân tài về bệnh lý học. Ông cứ nhắc đi nhắc lại với hai người trưởng lớp hiện diện trong lúc lấy mẫu thử nghiệm rằng chứng bệnh đó quá hiếm đến độ sẽ khó còn gặp lại trong quãng đời còn lại ”. Bác sĩ Oschner còn nói thêm rằng ông gặp lại ung thƣ phổi ở Châu Âu một lần nữa vào năm 1936, khoảng 17 năm sau đó.
Khi mà nền văn minh hiện đại bao trùm thế giới thì các nhà thám hiểm, y khoa, bác sĩ, nhà truyền giáo và các du khách rất lấy làm lạ trƣớc sức sống khỏe mạnh của các giống dân trong xứ sở hoang xơ. Năm 1908 theo y sĩ phẫu thuật W.Roger Williams, hội viên trong khoa phẫu
http://thucduong.vn Trang 14
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
thuật Hoàng gia thì không thấy ghi chép gì về bệnh ung thƣ trong những xứ thuộc địa thuộc Đế quốc Anh. Trong cuốn Lịch sử Ung thƣ Tự nhiên viết năm 1920 của Giám đốc Viện Nghiên cứu Dinh dƣỡng do Sir Robert Mc Carrison in ở Ấn Độ đã phát hiện một nền văn hóa của ngƣời Hunza là xứ sở vô bệnh, ngƣời ở đó tận hƣởng tuổi thọ cao. Năm 1930, một nhà giáo ngƣời Nhật là George Ohsawa bắt đầu nghiên cứu thấu đáo nền văn hóa này để viết cuốn “Ung thư và Nền Triết lý Cực Đông”. Ông nha sĩ Weston Price cho thấy trong tác phẩm ấn hành năm 1945, cuốn “Dinh dưỡng và Thể chất thoái hóa” đề cập đến ngƣời da đỏ Bắc Mỹ, dân Eskimo, dân Polynesians và thổ dân Úc đều chƣa có dấu vết của bệnh ung thƣ.
Bốn nhà trinh sát y học này và các ngƣời khác đều dốc sức giải thích lý do những cƣ dân truyền thống ở miền xích đạo, địa cực, hải đảo và các nền văn hóa cách biệt với nền văn minh hiện đại đều đƣợc miễn dịch với bệnh ung thƣ, tim mạch và cả đến chứng sâu răng. Sau khi họ đã khảo sát cẩn thận, gồm cả việc thử nghiệm trong phòng thí nghiệm một số trƣờng hợp, thì họ đều đi đến kết luận độc lập rằng ung thƣ là một bệnh phát sinh từ sự lạm dụng thực phẩm nhƣ đƣờng, bột mì, và các thực phẩm tinh chế khác, kể luôn cả chất béo và prôtêin. Đặc biệt khi các thực phẩm kể trên du nhập vào những miền đất “vô bệnh” thì ung thƣ và các bệnh do cơ thể suy thoái đã theo sát và hoành hành nhƣ bóng với hình.
Một vài chuyên gia nghiên cứu ung thƣ cũng đều rút ra kết luận tƣơng tự vừa nêu trên, cả môn dịch tễ học đã từng so sánh các dữ liệu bệnh tật của các sắc dân. Tháng 7 năm 1927, trên nhật báo Y học Ung thƣ, ông William Howard Hay, bác sĩ y khoa phỏng đoán rằng:
Nghĩ về những năm khảo cứu ung thư, với bao tiền bạc, thời gian và đau đớn trải ra… ngày nay chúng ta đang ở đâu? Giờ đã tới lúc dốc vốn liếng về ung thư xem có điều gì lệch lạc để giải thích bao năm ấm ức vì thất bại cho tới ngày nay? … mà ung thư vẫn không ngừng gia tăng… Liệu có phải nguyên do xảy ra từ hồi con người rời xa thực phẩm tự nhiên? Dù tầm mắt có xa như người từ Sao Hoả nhìn về thì vấn đề cũng đã rõ – là chúng ta sống nhờ thực phẩm tinh chế thiếu vitamin và muối nên sự dinh dưỡng đã mất thăng bằng quá lâu, kể từ khi mới ra đời… Chúng ta chót coi thực phẩm (tinh chế) là dấu ấn của nền văn minh nên đó mới chính là thứ thực phẩm làm nền cho mọi chứng bệnh, bao gồm cả bệnh ung thư.
Gốc gác đời sống
Mọi nền văn minh trƣớc kia đều nhận ra cách ăn uống và nền nông nghiệp là điều đáng coi trọng trong nền kinh tế, tôn giáo, văn chƣơng và nghệ thuật. Đặc biệt là nấu nƣớc ngũ cốc lứt (toàn vẹn) là rƣờng cột của con ngƣời trải qua hàng ngàn năm rồi. Chỉ mới gần đây, ngƣời ta mới dùng lại nó trên thế giới. Ví dụ gạo và kê là thực phẩm chính ở phƣơng Đông. Ở Châu Âu dùng hắc mạch, kiều mạch, yến mạch; Nga và Trung Á dùng bột kiều mạch, Phi Châu dùng bo bo (lúa miến). Ở Trung Đông dùng lúa mạch và bắp ngô ở Châu Mỹ. Ở Anh, từ thực phẩm là bột bắp trong khi ở Nhật, thì nó là gohan, nghĩa là “cơm”.
http://thucduong.vn Trang 15
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Trong thời cổ, liệu pháp dinh dƣỡng là nền tảng hiểu biết và thực hành y khoa. Chẳng hạn, ông tổ y học Hippocrate thƣờng nhấn mạnh vào sự quan trọng của thực đơn có lúa mạch và kiều mạch – là “hai món thực phẩm chính của người Hy Lạp”. “Tôi cũng biết cơ thể chịu ảnh hưởng khác nhau tuỳ cách làm bánh” đƣợc giải thích trong y học cổ truyền, nhƣ tuỳ cách làm với bột nguyên chất hay bột mì trộn với cám hoặc là lúa mì có sàng hay không, hoặc trộn nhiều hay ít nƣớc, nhào bột kỹ hay sơ sài, nƣớng giòn hay mềm và còn vô số chi tiết khác. Điều này cũng đúng trong cách nấu nƣớng bột lúa mạch. Ảnh hƣởng tác động trong mỗi quy trình có khi rất khác biệt. Làm sao ngƣời bỏ qua nó lại có thể hiểu đƣợc khả năng gây bệnh cho loài ngƣời?
* Nghĩa xưa của chữ thịt cũng có nghĩa là thực phẩm chế biến từ sữa, những đồ ăn chủ yếu như kiều mạch, hắc mạch, yến mạch, lúa mì, hột, hạt trái cây ăn được và sau này nó bao hàm :
1. Thịt, hạt và rau củ.
2. Bánh hay thịt nướng (trích Hamlet “Trong tang lễ có thịt nướng. Làm bên bàn tiệc lạnh tanh”). 3. Bánh mứt, đồ ngọt.
4. Thịt tươi sống.
Sau này, tiếng chung cho các thực phẩm dịch ra trong Thánh Kinh ở bản địa khiến cho ý niệm “thịt” nguyên nghĩa trở thành phức tạp. Trong bản dịch của King James có đề cập đến thực phẩm cột trụ ở đoạn sáng thế kỷ đã làm sáng tỏ: “Hãy xem, ta cho các ngươi giống cây có hạt ở trên cây lúa dưới trần, và loại cây nào sản sinh hạt thì đều là thực phẩm cho ngươi”.
Con ngƣời đƣa thức ăn vào thân sẽ làm nó biến hóa và biến đổi con ngƣời theo đó… Đồ ăn trở thành quan trọng khiến ngƣời sáng lập Tây y đặt ra từ mới: diaita để chỉ về lối sống. Từ gốc Hy Lạp biến sang tiếng Anh là thực đơn (diet). Ngày nay, nó mang ý nghĩa làm sụt cân, giảm ăn, nhƣng ý nghĩa chính của nó là cách sống, cách pha chế và chọn thức ăn là yếu tố chính.
Trong thế kỷ thứ V trƣớc Công Nguyên, để điều trị bệnh nặng, Hippocrate đã nhấn mạnh sự quan trọng của phƣơng pháp dùng thực phẩm. Ông đã viết trong “Sách Dinh dưỡng”: “Hãy lấy thực phẩm làm thuốc, để ăn”. Ngày nay, các y sĩ tốt nghiệp đều tuyên thệ rằng: “Tôi sẽ áp dụng phương pháp thực phẩm giúp ích bệnh nhân tùy khả năng phán đoán của tôi. Tôi sẽ giúp họ tránh độc hại. Tôi nguyện chẳng cho ai thuốc độc khi họ cầu xin hoặc gợi ý cho họ đưa đến kết quả tai hại… Tôi sẽ không sử dụng dao…”. Phƣơng thuốc đƣợc ông ƣa nhất là gạo mạch và ngũ cốc lứt nấu chín. Ông kể công dụng nƣớc cơm nhƣ “làm êm, trơn, thông, dịu, trừ khát, trừ táo bón, trướng bao tử”. Ông cũng mô tả nhiều cách dùng lúa mạch để làm giảm bệnh giúp điều chỉnh thực đơn một cách đơn giản, đắp bột gạo, rau củ, lá thuốc làm lấy ở nhà. Trong trƣờng hợp ung thƣ, ông cảnh cáo không nên mổ xẻ: “Nếu mổ, bệnh nhân sẽ chóng chết, còn không mổ họ sẽ chịu được lâu dài”.
Ung thƣ thời trung cổ
Hippocrate chú ý đến thực đơn và môi trƣờng, là nền móng khôi phục sức khỏe rộng rãi. Ông tin rằng bệnh tật là điều tự nhiên chứ không phải siêu nhiên, cần đoạn tuyệt với quá khứ để
http://thucduong.vn Trang 16
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
định hƣớng y học tƣơng lai. Mãi tới thế kỷ XVII, thì phƣơng pháp lành bệnh tự nhiên, cùng với Galen, y sĩ La Mã ở thế kỷ thứ nhì mới đƣợc phổ biến rộng rãi và áp dụng ở Châu Âu và Ả Rập. Ở thời Trung Cổ, y sĩ lẫy lừng Maimondes, ngƣời Do Thái thành lập một phƣơng thuốc tƣơng tự nhƣ triết lý dinh dƣỡng và cảnh giác cách ăn “bất kỳ ngũ cốc nào chắt sạch cám”.
Hài kịch Tiên Tri ám chỉ bệnh ung thƣ là mấu chốt cuộc tranh luận giữa thi hào Dante và Virgii, ông dẫn dắt qua nơi hành xác và địa ngục, cần chú ý sự dạy dỗ của thiên nhiên và tuân giữ “luật trời, hoa quả và mùa tiết”. Thi hào Dante đặc tả cách sống phớt lờ và coi thƣờng tự nhiên nhƣ một sự “băng hoại cả lương tâm”. Suốt thời đầu thế kỷ XIV, các thiên anh hùng ca, ca ngợi các tâm hồn hòa điệu là ngƣời biết giữ sự dinh dƣỡng đơn giản suốt đời. Ví dụ ông lấy từ Thánh Kinh ra một Daniel quyết từ chối thịt trên bàn tiệc của vua thành Babylon và ông cho rằng đệ tử của Hippocrate đƣợc ở trên đỉnh trong Thiên đƣờng hạ giới. Sau này đến thời thi hào Shakespeare ở thế kỷ XVI, cuốn Lâu đài Sức khỏe của Sir Thomas Elyot là một cuốn chỉ nam phƣơng thuốc phổ thông, liệt kê hiệu quả các thực phẩm cho cơ thể, đã khuyên dùng ngũ cốc chủ yếu là hắc mạch và lúa mạch để tiêu giảm các chứng đau nghiêm trọng.
Biết chọn và nấu ăn đúng cách là nền tảng ngăn ngừa và chữa bệnh ở phƣơng Đông. Trong bộ sách Hoàng Đế Nội kinh, Thần Nông (y tổ nhƣ Hippocrate ở phƣơng Tây) khuyên dùng nƣớc cơm trong 10 ngày để chữa các bệnh mãn tính. Y kinh chính của Ấn Độ, cuốn Caraka Shamhita viết vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau công nguyên để chống lại bệnh họan ở Ấn trƣớc sự suy thoái về dinh dƣỡng. Các tác phẩm khác cũng viết ra để chấn chỉnh tình trạng xa rời thực phẩm đạm bạc, thuần khiết – đặc biệt là thời nay, ngƣời giàu có và giai cấp trung lƣu đã coi thƣờng. Ví dụ cách đây ngàn năm, dƣới triều đại nhà Tống, một tƣ tƣởng gia – Dƣơng Phùng – đã than về con cháu quan lại rằng: “Họ không muốn ăn rau củ, nước cơm, lại cho các loại đậu đỗ, kê, mạch là nhạt nhẽo, vô vị, cứ một mực đòi giã gạo sạch cám, thịt nướng lọc xương để thoả tính tham ăn. Đồ ăn, thức uống , bánh kẹo họ khéo bày biện trên khay, đĩa chạm trổ sang trọng”.
Một y sĩ ở Viễn Đông là Ekiken Kaibara năm 1714 và Khổng Tử ở Trung Quốc đã biên tập bộ Yojokun là bộ sách chỉ nam y học và tuổi thọ, ghi chép tinh hoa của phép áp dụng gạo lứt, phủ nhận toàn bộ lối chữa bệnh dựa trên triệu chứng, kể cả mổ xẻ.
Y học thời hiện đại
Mặc cho các nhà y học đã kêu gọi, cuộc thập tự chinh của ngành gia vị vẫn phát động mạnh mẽ, sự phát hiện ra Tân thế giới đã làm thay đổi cách ăn uống truyền thống cả Đông và Tây Phƣơng để mở màn một kỷ nguyên khoa học mới. Nền móng y học do Hippocrate, Galen, Aristotle và Ptolemi đã bị lật nhào vào thế kỷ XVII, XVIII – ý thức chữa bệnh tự nhiên suốt 2000 năm nay bị lu mờ dần để thay thế bằng thế giới quan máy móc của Descarte nổi lên, dựa vào ý niệm khoa học và y học hiện đại. Học thuyết y học hóm hỉnh, linh hoạt của Hy Lạp cổ, thời Trung cổ và Phục Hƣng đã tàn lụi nhanh chóng. Trong hệ thống y học này, con ngƣời là tổ
http://thucduong.vn Trang 17
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
hợp của Đất, Nƣớc, Gió, Lửa, nếu cơ thể mất quân bình giữa các lực tác động hỗ tƣơng thì sẽ gây ra bệnh tật, bao gồm cả ung thƣ.
Quay về với thực phẩm tự nhiên
Trong thiên nhiên, ta thấy ngày nối đêm, thung lũng dẫn lên núi cao – xã hội tiến bộ sau cuộc khủng hoảng suy thoái. Trong đời sống hiện đại, thì bƣớc ngoặt của nó xảy ra vào thập kỷ 1960 và 1970, khi ngƣời ta ý thức cách sống thiếu sót đƣơng thời và quay sang thực phẩm tự nhiên thì phong trào sức khỏe toàn diện vƣơn lên. Ngƣời ăn chay và thực phẩm dinh dƣỡng thiên nhiên đã có từ lâu, nhƣng nó chỉ là một phần nhỏ bé trên thị trƣờng. Bất ngờ sau thời chiến, họ đã biên thu, hoạt động tích cực để bảo vệ đồng ruộng ở Việt Nam thoát khỏi bom đạn và các tác động của hóa chất, cùng nhau tổ chức ngày thực phẩm để cứu xét ngành canh nông nghiệp hiện đại trƣớc sự đói khổ của các nƣớc nghèo, bảo quản năng lƣợng và chất lƣợng môi trƣờng sống.
Đến năm 1976 thì tiếng vang thực phẩm sạch đã lan tới diễn đàn Quốc hội Mỹ. Trong một báo cáo mang tính lịch sử “Mục tiêu Dinh dưỡng cho nước Mỹ” của Tiểu ban Dinh dƣỡng và Con ngƣời đã liệt bệnh ung thƣ vào một trong sáu hạng mục bệnh tật làm xã hội suy thoái vì thực phẩm tinh chế. Bản báo cáo làm rụng rời kỹ nghệ thực phẩm và ngành y dƣợc nhƣ một cơn sóng thần. Lập tức Hội chăn nuôi gia súc, gia cầm và Viện tinh lọc muối nổi lên kết án báo cáo kể trên. Tuy nhiên, ở cấp quốc gia thƣợng đỉnh thì cánh cửa đã đƣợc mở ra cho sự trở lại của thực phẩm tự nhiên. Năm năm sau đó, các hội y dƣợc và khoa học gia đã xác định mối liên quan giữa dinh dƣỡng và những chứng bệnh suy thoái. Trong báo cáo năm 1979, về Con người lành mạnh : Cải tiến sức khỏe và Phòng chống bệnh tật, Ban phẫu thuật tổng quát Mỹ đã viết: “Dân chúng phải… bớt dùng chất béo và cholesterol… bớt ăn thịt… cần ăn thêm chất bột hydrat–cacbon như ngũ cốc, trái cây, rau củ…”. Các hội đoàn cũng có điểm tƣơng tự nhƣ: Hội Tim mạch, Tiểu đƣờng, Dinh dƣỡng, Bộ Nông nghiệp… Năm 1981, ngƣời ta tổ chức hội thảo khoa học, đề xuất sự chuyển biến qua thực phẩm tự nhiên. Các nhà khoa học tuyên bố rằng thói quen ăn uống đã ảnh hƣởng đáng kể từ đất trồng, nƣớc uống, nhiên liệu, khoáng sản, đến giá cả sinh hoạt, sự thất nghiệp và cân bằng nền thƣơng mại quốc tế, cũng nhƣ làm giảm 88% bệnh tim mạch và 50% bệnh ung thƣ.
Năm 1982, Học viện Quốc gia Mỹ phát hành một tài liệu dinh dƣỡng và ung thƣ dày 472 trang nhằm kêu gọi nhân dân tiết giảm thực phẩm thịt, mỡ và gia tăng sử dụng ngũ cốc tự nhiên, rau củ. Cuộc hội thảo duyệt xét lại hàng trăm mẫu dinh dƣỡng đƣơng thời do các hội y dƣợc nghiên cứu lâu dài bên cạnh sự bành trƣớng của các loại ung thƣ thƣờng hay gặp gồm cột sống, bao tử, vú, phổi, buồng trứng, tiền liệt tuyến và esophagus. Tiểu ban Khoa học 13 thành viên đề nghị rằng dinh dƣỡng chiếm 30% – 40% nguyên nhân gây bệnh cho nam và 60% trong nữ giới. Tầm quan trọng và sự tác động qua lại giữa dinh dƣỡng và bệnh ung thƣ trong 10 năm vừa qua đã đƣợc nói tới trong lời nói đầu của sách nhân dịp tái bản và bổ sung này.
http://thucduong.vn Trang 18
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư Phát động cuộc cách mạng sức khỏe
Chúng tôi từng là ngƣời đồng hành tiên phong trong phong trào dƣỡng sinh nhằm phát huy thực phẩm tự nhiên và thực đơn dành cho bệnh ung thƣ, tim mạch và bệnh chứng khác từ thập niên 50, đề cao vai trò dƣỡng sinh trong đời sống xã hội để phát động một cuộc cách mạng sức khỏe vào thập niên 70 và 80 chƣa đƣợc phổ cập rộng rãi.
Năm 1972, vợ tôi, Aveline đã mời một nghệ sĩ hàng đầu của Kịch tuồng No cổ điển là Sadayo Kita sang Mỹ trình diễn dƣới sự bảo trợ của Tổ chức Đông Tây, một cơ quan văn hóa và giáo dục đƣợc lập ra để thúc đẩy tình hữu nghị và hòa bình thế giới. Cuộc trình diễn trƣớc công chúng ở Boston và New York đã thành công ngoài sự mong đợi, nên ông đã quay lại Mỹ đều đặn. Trong liên hệ với chƣơng trình trình diễn này, tôi có dịp gặp ông Edwin Reischauer, vị học giả nổi tiếng về văn hóa Đông Tây. Ông là ngƣời sinh trƣởng ở Nhật, nói tiếng Nhật lƣu loát và đã từng là đại sứ Mỹ tại Nhật dƣới thời tổng thống Kennedy và Johnson trong thập niên 60, sau này ông trở về Harvard và đứng đầu chƣơng trình nghiên cứu Á Đông. Năm 1973, vợ chồng tôi gặp giáo sƣ Reinschaer. Sau này ông đã viết về vai trò của dinh dƣỡng trong văn hóa và lịch sử Nhật Bản hiện đại: “Sự dinh dưỡng cổ truyền của người Nhật là gạo, rau củ và cá, trái hẳn với lối ăn nhiều thịt và chất béo bên Tây phương, người Nhật với thực đơn lành mạnh hẳn là rất toàn vẹn nếu họ không chà gạo trắng tinh. Thực đơn của họ giải thích một phần tại sao bệnh tim ở Nhật thấp hơn ở Mỹ”. Giáo sƣ nhận thấy trẻ em Nhật cao lớn hơn sau Thế chiến thứ 2 nên ghi nhận thêm: “Từ sau Thế Chiến II, trẻ em Nhật có chiều cao tăng khá nhiều (từ 5–10cm). Một phần tăng cao là nhờ ngồi ghế nhiều hơn ngồi sàn, và cũng như sức nặng, có lẽ chủ yếu là nhờ thực đơn dồi dào thực phẩm chế biến từ sữa, lại ăn nhiều thịt và bánh mì. Thanh niên Nhật ngày nay rõ là cao lớn hơn cha ông họ, và trước kia người ta hiếm thấy trẻ em béo phệ, nhưng bây giờ họ đã quen mắt với chúng rồi”.
Một ngƣời bạn nữa của chúng tôi – bác sĩ Edward Kass ở Harvard là nhà nghiên cứu bệnh tim mạch, đứng đầu trong nƣớc nguyên là giám đốc thí nghiệm. Bác sĩ Kass trông nom việc nghiên cứu, bắt đầu từ năm 1973 và suốt hơn 10 năm theo dõi những ngƣời dƣỡng sinh ở Boston. Cùng làm với bác sĩ Franks Sacks ở trƣờng Y khoa Harvard, bác sĩ William Castelle, giám đốc Viện Tim Mạch Framingham và các đồng nghiệp khác, bác sĩ Kass báo cáo về lợi ích bảo vệ sức khỏe của thực đơn dƣỡng sinh, đặc biệt rất hiệu quả để làm sụt giảm chất béo có cholestrol trong bệnh cao huyết áp. Những luận chứng này đƣợc ấn hành trong Nhật báo dịch tễ Mỹ, Y học Anh, Nhật báo Hội y học Mỹ, Ung thƣ mỡ mạch máu, và những nhà báo ngành y chuyên nghiệp khác đều công nhận mối liên hệ giữa bệnh tim và dinh dƣỡng – đã mở ra khúc quanh lịch sử. Những tờ báo nổi tiếng thế giới nhƣ Vogue, Boston Globe, New York Times … cũng đều loan tin về cuộc nghiên cứu cực kỳ quan trọng này – về quan điểm “Thực phẩm dinh dưỡng có quan hệ và tác động ngăn chặn bệnh tim” – đang đe doạ lan truyền toàn cầu.
Trong khi đó, nguyệt san Đông Tây – East West Journal của chúng tôi cũng ấn hành số đặc biệt về bệnh ung thƣ và dinh dƣỡng năm 1976. Ban biên tập của chúng tôi gồm Michio Kushi, Sherman Goldman và Alex Jack đã giới thiệu những ca ung thƣ “lịch sử” đã đƣợc chữa lành bằng thực đơn dƣỡng sinh, kèm theo các bài lý thuyết chỉ dẫn cách điều trị của tôi (M.Kushi) và loạt bài điều tra bệnh lý của Hiệp hội Ung thƣ Mỹ, bài kỹ nghệ thực phẩm của nhà
http://thucduong.vn Trang 19
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
báo Peter Barry Chowka. Nguyệt san báo Đông Tây và chiến dịch chống ung thƣ đã đƣợc công chúng đặc biệt chú ý, giúp đỡ toàn dân chú mục vào sự kiện đã thành công và những điều cần loại trừ để chấm dứt nạn ung thƣ lan tràn.
Năm 1976, Tiểu ban Dinh Dƣỡng của Thƣợng Nghị Viện ở Washington D.C đã hƣởng ứng chiến dịch diệt bệnh từ gốc và kêu gọi tiêu trừ nguyên nhân gây bệnh hơn là triệu chứng phát ra sau này của nó; và đón nhận những nhân chứng đã áp dụng dƣỡng sinh điều trị các bệnh ung thƣ và những bệnh do thoái hóa gây ra. Một nhân chứng sáng chói là bác sĩ Gio. B. Gori ở viện nghiên cứu NCI (trong bản minh chứng và trả lời phỏng vấn báo Đông Tây – đã khiến ông ta bị cấp trên trong viện quở trách), ông đã đề nghị rằng chính nguồn dinh dƣỡng là yếu tố cực kỳ quan trọng làm nảy sinh ung thƣ và rằng ngƣời ta cần nhắm thẳng vào hƣớng này. Trong khi đó, ở Boston, Hiệp hội Đông Tây đã ấn hành cuốn sách đầu tiên về Dƣỡng sinh và Bệnh ung thƣ tựa đề “Thực đơn giải quyết bệnh ung thư theo nguyên tắc Thực dưỡng”. Qua Hiệp Hội Đông Tây, chúng tôi đã gặp gỡ với ngƣời làm chính sách cấp quốc gia, chuyên gia y tế, khoa học gia khắp thế giới để thông tin cho họ cách giải quyết bệnh và sau này, trở thành biên tập của viện Khoa học Quốc gia, viết báo cáo kinh điển “Thực đơn, Dinh dưỡng và ung thư”.
Chúng tôi đã nhận đƣợc vô số hồi âm thƣ từ, sách và các học liệu khuyến khích, ví dụ Thƣợng nghị sĩ Edward Kennedy viết:
Xin cảm ơn thịnh tình của quí vị đã gửi báo cáo và chính sách thực phẩm liên quan đến thực đơn và sức khỏe của chúng ta. Như quí vị biết, tôi xin chia sẻ, thâm cảm mối quan hệ của báo cáo và trong tương lai, sẽ cứu xét về mặt hiến pháp về tính quan trọng của thực phẩm và sức khỏe cho quốc dân, bản báo cáo của Viện là vô cùng hữu ích về sau.
Phía Đảng Cộng hòa thuộc Tiểu ban Dinh dƣỡng Thƣợng Viện, thƣợng nghị sĩ Robert Dole, phó chủ tịch ban viết thƣ trả lời:
Đa tạ quí nghị viện đã gửi cho tôi tài liệu Thực dưỡng giải quyết ung thư và sách “Lượng thực phẩm khuyên dùng cho Hoa Kỳ”. Tôi khẳng định rằng đây là nguồn tài liệu quan trọng và sẽ đưa vào nghị trình thảo luận Quốc hội về lĩnh vực này. Đề nghị lập Ban đặc trách của quí vị, chúng tôi xin lĩnh nhận. Đầu tháng giêng năm tới (1974), chúng tôi sẽ giao những công tác và trách nhiệm mới cho Tiểu ban và sẽ được gọi là Tiểu ban Thực dưỡng và Nông nghiệp Thượng viện, thuộc Ban đặc trách. Là thành viên trong Tiểu ban, tôi xin lưu trữ thông tin quý giá của Hội đoàn quý vị.
Trong số các khoa học gia, chúng tôi đã gặp bác sĩ y khoa Mark Hegsted thuộc Bộ Dinh dƣỡng ở Sở y tế trƣờng Harvard, bác sĩ là ngƣời đã chứng kiến buổi họp Thƣợng viện để nghe bác sĩ Gori trình bày về chỉ tiêu Dinh dƣỡng. Ở buổi họp mặt tại thành phố Boston, tôi giới thiệu bác sĩ Kass với giáo sƣ âm nhạc Jean Kohler, đại học Ball State tại Muncie, Indiana. Giáo sƣ J. Kohler bị ung thƣ tụy tạng năm 1973 và đã khỏi hẳn nhờ áp dụng thực đơn Thực dƣỡng. Hồ sơ bệnh lý dựa trên thử nghiệm của Đại học Y khoa Indiana bang Indianapollis có sức thuyết phục rất cao vì ông vẫn còn sống. Bình thƣờng 90% loại này đều chết trong năm mắc bệnh đầu tiên, không có trƣờng hợp ngoại lệ, trái với trƣờng hợp ngƣời bệnh này, đã trải qua đƣợc 5 năm rồi.
http://thucduong.vn Trang 20
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Bác sĩ Kass rất quan tâm đến trƣờng hợp khỏi bệnh và đề nghị áp dụng vào đƣờng hƣớng thực hiện trong tƣơng lai. Bác sĩ khuyên một nhóm 25 bệnh nhân mắc cùng loại ung thƣ áp dụng thực đơn Thực dƣỡng dƣới sự chăm sóc của Hiệp hội Đông Tây và sau một thời gian đã so sánh với nhóm ngƣời đồng bệnh khác ăn theo thực đơn bình thƣờng của thời đại. Sau đó bác sĩ Kass giới thiệu tôi đến bác sĩ Emil Frei, là giám đốc Trung tâm Dana Faber ở Boston, là Viện ung thƣ hàng đầu thế giới. Tôi và những ngƣời trong hội đã trình bày vài ca dƣỡng sinh mang tính cách lịch sử để bàn với bác sĩ Frei khả năng hƣớng đạo những nghiên cứu Thực dƣỡng tƣơng lai, thì ông tỏ ra rất cởi mở trƣớc đề nghị của chúng tôi và ông cho rằng đề tài này đáng đƣợc nghiên cứu sâu rộng hơn.
Vào tháng 3 năm 1977, Hiệp hội Đông Tây bảo trợ một hội nghị đầu tiên về Thực dƣỡng tại trƣờng chuyên khoa Pine Manor ở ngoại ô Boston với sự tham gia của nhiều bác sĩ y khoa, các nhà nghiên cứu, lại có cả bác sĩ Robert Mendelsohn, ông là bác sĩ nhi khoa danh tiếng của cả nƣớc, là diễn giả diễn đàn báo Đại chúng, mục “bác sĩ nhân dân”. Hội nghị Pine Manor là lần đầu tiên tập họp đƣợc các nhà khoa học và nghiên cứu hàng đầu, các giáo sƣ dinh dƣỡng Quốc tế, các bệnh nhân đã đƣợc chữa lành theo chế độ Thực dƣỡng. Một chƣơng trình hành động tiếp theo bằng thực đơn thƣờng niên và các hội nghị ung thƣ, hội thảo quần chúng và các chƣơng trình Tivi, phát thanh phỏng vấn ban tham mƣu Hội Đông Tây tại New York, Boston, Philadelphia, Baltomore, Miami, Atlanta, Dallas và các đô thị lớn trên toàn quốc.
Mùa hè năm 1977, tổng thống Carter, qua báo cáo về Mục tiêu Dinh dƣỡng cho Mỹ quốc của Thƣợng viện từ năm trƣớc, ông đã ra lệnh cho duyệt xét chính sách thực phẩm quốc gia. Vào tháng 9, chúng tồi gồm bác sĩ Mendelsohn và một số ngƣời trong ban tham mƣu của Hội nhà báo Đông Tây họp với nhân viên trong chính sách đối nội của Tổng thống tại Toà Bạch Cung, chúng
tôi giới thiệu các vị cố vấn về hàng loạt thực phẩm theo chính sách khuyên dùng và khuyến cáo họ rằng nếu không thay đổi thực phẩm cho quốc dân thì ngọn sóng dịch bệnh sẽ đe doạ sự sống còn của quốc gia trong thế hệ sau. Chúng tôi còn gặp gỡ các cố vấn của tổng thống trong địa hạt y tế và tiêu dùng, cũng nhƣ với hội viên của Bộ Canh Nông Mỹ. Hội chúng tôi cũng đƣợc trình bày thêm tin tức và chính sách nên làm (một số nghiên cứu về ngƣời áp dụng Thực dƣỡng cũng đã nêu ra trong báo cáo phẫu thuật tổng quát ở Mỹ năm 1979, với tựa đề Con người lành mạnh).
Ở mức độ riêng tƣ cũng nhƣ ở mọi ngành nghề, Thực dƣỡng đã bắt đầu có tác dụng với giới làm chính sách cấp chính phủ. Em gái tổng thống Carter là Jean Stapleton đƣợc định bệnh là ung thƣ tụy tạng, đã đến nhờ tôi chỉ dẫn.
Năm 1985, Viện Ung thƣ Quốc gia Mỹ báo cáo rằng Xạ trị và Hóa trị không tạo nên hiệu quả, ở một số trƣờng hợp ngƣời ta còn phát hiện nó gây độc tố: “Trừ vài trường hợp ung thư bao tử, việc điều trị đã chẳng mang lại kết quả nào để cứu sống người bệnh, người ta cứ theo cách Xạ, Hóa trị và còn thêm cả lối mổ xẻ, cắt bỏ để ngăn chống bệnh. Đại đa số bệnh ung thư phổi, vú, bàng quang, bao tử, da, thận… đều rập khuôn như vậy”. Ít lâu sau khi bản báo cáo ấn hành, vị bác sĩ , tác giả của nó là Reagan A. Rosenberg là trƣởng ban phẫu thuật Viện Ung thƣ săn sóc bệnh ung thƣ kết tràng (ruột) cho tổng thống Reagan, thay vì dùng hóa trị và xạ trị, ông đã dùng phƣơng pháp Thực dƣỡng với toàn bộ là thực phẩm tự nhiên (lứt).
http://thucduong.vn Trang 21
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Bà Laura Masini là ngƣời phụ trách thực phẩm dƣỡng sinh cho trụ sở Liên Hiệp Quốc. Trƣớc kia, bà bị ung thƣ vú, nhờ thực phẩm tự nhiên mà bình phục, nay bà giúp cho em là Vernon Walter – vị đại sứ Mỹ độc thân, bà Bande Keith, ở Washington, vợ của cựu nghị sĩ quốc hội bang Matsachusett đã biết đến Thực dƣỡng qua các gia đình quan chức trong chính phủ. Sau nhiều năm, biết bao nghị sĩ, thống đốc các bang đã nhờ chúng tôi chữa trị, đặc biệt với ngƣời nhà họ, khi vƣớng bệnh ung thƣ.
Hội nhà báo Đông Tây đã đi tiên phong trong phong trào Thực dƣỡng, hồi phục sức khỏe lan rộng khắp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Các bài báo nhằm giải quyết vấn đề đã xuất hiện trên báo Sunday Evening Post, Life, các ấn phẩm và trên truyền thanh, truyền hình. Cuộc cách mạng y tế cuối thập niên 70 và thập niên 80 là yếu tố đẩy mạnh phong trào thực phẩm tự nhiên từ thập niên 60. Các khoa học gia hàng đầu và các hiệp hội y học đã nghiên cứu nghiêm túc mối tƣơng quan của thực phẩm và bệnh chứng suy thoái; và nay là lần đầu tiên đã đƣợc ấn hành để hƣớng dẫn ngăn ngừa bệnh ung thƣ và các bệnh nêu trên.
Vào cuối thập niên 70, các phƣơng tiện thông tin đại chúng đã nhắm cả vào thực phẩm mở lối ra cho nền y học tƣơng lai. Trong bài mở đầu thập niên mới, báo Newsweek ghi nhận:
Thực đơn của người Mỹ quá dồi dào đã là nguyên nhân của nhiều chứng bệnh nghiêm trọng và sẽ còn tệ hại hơn nữa… Các nhà nghiên cứu nay đã thấy rõ thực phẩm của họ trên bàn ăn là nguyên nhân chính của căn bệnh ghê gớm nhất, đó là ung thư.
Giải pháp Thực dƣỡng
Điều cần rõ là Thực dƣỡng không chỉ là thực đơn mới theo từ ngữ mà còn vƣợt thoát mọi sự ràng buộc, tính từ thế giới vi tử cho đến giải ngân hà trong vũ trụ, từ sự thịnh suy của các nền văn minh xƣa nay, cho tới từng cá nhân theo triết lý Thực dƣỡng để giúp con ngƣời có một quan niệm thống nhất để hiểu biết trật tự trong vũ trụ đồng nhất thể.
Dịch sát từ “Macro” theo Hy Lạp là “Đại” hay “Lâu dài”, và chữ “bios” là “đời sống”. Vậy Macrobiotic – Thực dưỡng (dƣỡng sinh) là một cách sống mạnh khỏe và lâu dài. Chữ này đƣợc dùng từ thời Hippocrate trong một bài viết về Đất – Nƣớc – Gió, vị cha già của y học phƣơng Tây đã dùng để diễn tả một nhóm thanh niên sống mạnh khỏe, trƣờng thọ. Các tác giả cổ điển khác nhƣ Herodotus, Aristotle, Galen và Lucian cũng dùng từ này để tỏ bày ý niệm sống hài hòa với tự nhiên, ăn một thực đơn quân bình, đơn giản đến già và vẫn còn khỏe mạnh. Ngày xƣa, ngƣời ta cho rằng dƣỡng sinh Macrobiotics có gốc gác của xứ Ethiopian ở Phi Châu, ngƣời ta truyền tụng rằng họ sống đến 120 tuổi hay hơn thế (theo Thánh kinh và các vị hiền giả Trung Hoa). Ông Rabelais, nhà nhân văn Pháp ở thế kỷ 16 đã viết cuốn Pantagruel và Gargantua kể về một hòn đảo kỳ diệu Macreons khi ông tới đó và gặp một hiền nhân là Macrobius dẫn đƣờng cho họ. Năm 1797, một y sĩ Đức kiêm triết gia Christoph W. Huferland viết một cuốn sách rất ảnh hƣởng về sức khỏe và dinh dƣỡng, tựa là “Nghệ thuật Dưỡng sinh và Sống thọ”.
http://thucduong.vn Trang 22
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Trong khi đó ở Cận Đông và Viễn Đông thì tinh thần dƣỡng sinh đã dẫn đạo và hình thành nền văn minh. Ý thức chung về thực phẩm và nguyên lý chữa bệnh tự nhiên đều ngầm chứa trong Thánh kinh, Dịch kinh, Đạo đức kinh, kinh Bagavad Gita, Kojiki Koran, trong rất nhiều bản thảo và anh hùng ca. Trải qua bao thế kỷ, chúng ta đã thấy nổi lên các phong trào văn hóa Á Châu đều ca tụng sự ích lợi của việc ăn uống theo cổ truyền và thận trọng ngăn ngừa mọi vật nhân tạo, tinh tế.
Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, phong trào dƣỡng sinh lại đƣợc tái tạo và thử nghiệm tại Nhật Bản. Hai nhà giáo dục y khoa là bác sĩ Sagen Ishisuka và Yukikaru Sakurazawa tự chữa cho họ những bệnh hiểm nghèo bằng cách thay đổi thực phẩm tinh chế hiện đại và thổi một luồng gió mới bằng một thực đơn đơn giản với gạo lứt (bỏ vỏ mà không chà vỏ cám), súp tƣơng (miso) rong tảo biển, và những thực phẩm cổ truyền khác. Sau khi hồi phục sức khỏe thì họ hòa nhập luôn vào dòng y học và triết lý Đông phƣơng nhƣ kinh Vedanta, Cựu hay Tân ƣớc, có cái hiểu xuyên suốt khoa học và y học hiện đại. Khi Ohsawa (Sakurazawa) đến Paris vào thập niên 20, ông viết sách báo dùng bút hiệu George Ohsawa và gọi phƣơng pháp chính thực (cách ăn đúng) là Thực dƣỡng (Macrobiotics).
Do đó phƣơng pháp Thực dƣỡng hiện nay là một tổng hợp Đông Tây vô tiền khoáng hậu. Phƣơng pháp này mở ra một cái nhìn tổng thể về vũ trụ và nhân sinh. Thực hành Thực dƣỡng là ứng dụng nó vào cuộc sống hàng ngày, đặc biệt về vật chất là thực phẩm tự nhiên rồi ngấm dần vào ý thức, tâm hồn. Thực dƣỡng rất linh động, uyển chuyển tùy vùng khí hậu, địa lý, già, trẻ, nam, nữ, mức độ vận động sinh hoạt… biến hóa vô cùng. Nó cũng dung nạp sự đa dạng phong phú nền văn hóa thế giới.
Nói rộng hơn thì áp dụng thực đơn Thực dƣỡng là cách ẩm thực đã có trƣớc thời đại Homer đến thời Phục Hƣng tại Ý. Nó tƣơng tự lối ăn của Phật Thích Ca ngồi dƣới gốc Bồ Đề lúc thành đạo; của Jesu dùng trong bữa tiệc ly biệt với các môn đồ. Nó cũng là thực đơn mà Moses áp dụng cho dân Do Thái đủ sức lực và tinh thần tiến về miền Đất Hứa. Mọi lứa tuổi và giới tính đều không trở ngại gì khi thực hành Thực dƣỡng, từ học giả đến nông dân… Từ thời Hồng hoang, dƣới ngọn lửa tại Kỷ băng giá đến giàn phóng phi thuyền không gian, bom hạch tâm, vô số con ngƣời: cha mẹ, con cái, cháu chắt… họ đều nhờ cậy ngũ cốc và cây giống, giữ gieo trong mùa xuân tới.
Kỷ nguyên của chúng ta trải qua trƣớc Thiên nhãn chẳng qua không trọn một ngày ở cõi Thiên, cho nên dù là ung thƣ hay vũ khí hạt nhân thì nó cũng nhƣ bóng câu qua cửa trƣớc sự tồn tại của nhân loại. Một ngày trƣớc tƣơng lai, nhìn lại cách con ngƣời sùng bái nền văn minh hiện đại với những đồ ăn chế biến xa rời tự nhiên chẳng khác nào nó chợt loé lên rồi tàn lụi trong quãng thời gian 400 năm! Thực dƣỡng mang nhiều bộ mặt và nó còn tồn tại chừng nào con ngƣời còn đó, đi đôi với nền móng minh triết vô biên. Nó trao chìa khóa mở cửa sức khỏe vào thế giới sinh động, nó là la bàn nhắm vào cuộc du hành vô tận, tự do vô biên và an vui vĩnh cửu.
http://thucduong.vn Trang 23
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư Chƣơng II
UNG THƢ VÀ NỀN VĂN MINH HIỆN ĐẠI
Trải hơn 35 năm qua, y khoa hiện đại đã tiến những bƣớc vĩ đại nhằm giải quyết các chứng bệnh ung thƣ và suy thoái sức khỏe, nhƣng cho đến nay mọi nỗ lực quy mô rộng lớn xem ra chƣa biết chừng nào mới tìm ra giải pháp. Ví dụ về phƣơng diện ung thƣ, y khoa hiện đại đã tận dụng mọi phƣơng tiện kỹ thuật về giải phẫu, laze, hóa trị, cấy mô, nhƣng mọi thành quả đều chỉ tạm thời trấn áp về mặt triệu chứng. Trong hầu hết trƣờng hợp, các thủ thuật đành bó tay trƣớc căn bệnh tái phát vì họ đã không nhằm trị dứt từ gốc rễ của nó.
Chúng tôi tin chắc sự thoái hóa về sinh học không thể là không chuyển hóa đƣợc, nhƣng để ngăn chống nó, chúng ta phải giải quyết vấn đề gay go này bằng một hƣớng đi mới. Đặc biệt là ta phải tìm ra gốc bệnh để từ đó áp dụng thẳng giải pháp toàn cục hơn là chỉ dựa trên những triệu chứng một cách cục bộ. Vấn đề bệnh suy thoái đã xâm nhập chúng ta trong mọi sinh hoạt
trong đời sống hiện đại. Vì vậy tìm ra giải pháp không chỉ riêng nhắm vào phƣơng tiện của y khoa, chúng tôi tin rằng con ngƣời trên hành tinh cần phải chung sức gánh vác hầu tạo ra nền tảng sức khỏe cho thế giới.
Trƣớc tình hình bệnh suy thoái tràn lan, giá trị cổ truyền phai mờ, sự phân chia manh mún ở mọi lĩnh vực cho ta thấy một sự lệch lạc sâu xa trong định hƣớng cuộc đời. Vào lúc này, chúng ta cho là tiến bộ về mặt vật chất mới là văn minh, đó là ta đã coi thƣờng sự phát huy về mặt ý thức và trực giác. Nhƣng thật ra quan điểm không hòa hợp đƣợc với sự tồn tại của tự nhiên. Thế giới vật chất tự nó là điều vụn vặt khi đem so với sự vận động của không gian vô tận và động lực thúc đẩy nó phát huy đã vƣợt xa thế giới tồn tại hữu hình.
Không nói riêng thế giới vật chất ti tiểu khi so sánh mà nhƣ môn vật lý lƣợng tử (Quantum Physics) triển khai, ta càng phân tích từng phần thì lạ thay ta càng thấy nó không phải là vật chất bền chắc. Sự truy tìm đơn vị vật chất tối hậu theo giả định từ thời Democrate rằng thực tại có thể chia cắt thành nguyên tử và không gian này ở thế kỷ 20 đã chấm dứt trƣớc phát hiện những nguyên tử thứ cấp không là gì, chẳng qua là năng lƣợng di động trong ma trận. Theo công thức tƣơng đối của Einsten: �� = ����2thì vật chất không phải chất liệu bền chắc, rút cục chỉ là sóng năng lƣợng hay sự rung động.
Tuy nhiên vì giác quan chúng ta bị giới hạn nên ta dễ tin vào sự vật là bền chắc không thay đổi phẩm chất. Trong khi mọi tế bào, da, thịt và các dạng hợp thành cơ thể ta không ngừng biến dịch. Hồng huyết cầu trong máu sống đƣợc 120 ngày. Để duy trì những hồng cầu này, cơ thể ta phải sản sinh 200 triệu tế bào mới từng phút một để thay thế các tế bào cũ liên tục bị đào thải. Toàn thân con ngƣời đƣợc tái sinh, đổi mới trong vòng 7 năm. Cho nên cái mà hôm nay ta
http://thucduong.vn Trang 24
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
nghĩ là “ta” thì “ta” hôm qua và ngày mai đã khác xa rồi. Điều này thật rõ khi cha mẹ đã “trông” thấy con họ lớn dần. Tuy nhiên cơ thể của chúng ta không ngừng phát triển khi ta đến tuổi trƣởng thành là ý thức và phán đoán cũng biến dịch và phát triển trọn đời.
Mở rộng tầm nhìn
Trong thực tế, không có gì là tĩnh tại, cố định hay thƣờng trực. Tuy nhiên, ngƣời đời nay thƣờng có thái độ cứng nhắc, bất biến cho nên đụng chuyện trái ý là lập tức nổi giận và bất bình. Văn hóa ngày nay quá thiên về cạnh tranh và đòi hỏi vật chất phải dựa vào giá trị tiêu dùng, dựa vào điều tra thị trƣờng của số đông để sản xuất hàng tiêu dùng sao cho kết quả. Để thành công, một sản phẩm phải kích thích, ca ngợi cho giác quan ngƣời tiêu dùng bị tiêm nhiễm sản phẩm dần dần. Sản phẩm tự nó không làm gì ai, nhƣng mọi ngƣời đều muốn thoả mãn nhu cầu riêng tƣ. Tuy nhiên khi sự ca tụng đi quá mức thì vấn đề trở ngại sẽ nảy sinh, nếu cứ lấy nó làm động lực thúc đẩy cuộc sống trong xã hội. Nó hẳn là nguyên nhân làm con ngƣời suy thoái về tình cảm, thông minh, tƣởng tƣợng, hiểu biết, đam mê, giác ngộ, tiếp thụ và nguyện vọng…
Trong quá khứ, đa số ai cũng ƣa sự đơn giản, mùi vị tự nhiên của bánh mì lứt, gạo lứt và những thực phẩm tự nhiên khác. Bây giờ, để đánh thức các giác quan nên thay thế bánh mì tinh chế có đƣờng bằng bánh mì lúa mạch gạo lứt, gạo lứt thay gạo chà sát trắng tinh.
Đồng thời, ta thấy kỹ nghệ thực phẩm đã phát triển chạy theo chiều chuộng giác quan bằng các loại thực phẩm tinh chế, pha vào mầu sắc, bột nêm vào đồ ăn hàng ngày. Hơn 50 năm qua, chiều hƣớng này đã lan ra nhiều vật phẩm cần dùng trong đời sống hàng ngày gồm quần áo, mỹ phẩm, đồ đạc, chăn mền, đồ nấu bếp. Tuy có nhiều ngƣời phát hiện sự ứng dụng kỹ thuật để sản xuất hàng tiêu dùng tổng hợp, nhƣng xét ra phẩm chất của chúng rất thấp, vật liệu không ƣng ý và sau chót là có hại cho sức khỏe chúng ta. Nói chung thì chúng ta đã tạo ra đủ mọi thứ trên đời này theo lối nhân tạo trong lối sống và ngày càng xa rời cuộc sống tự nhiên.
Khi sống trái tự nhiên là ta đã tự tách mình ra khỏi môi trƣờng tiến hóa và tự động bị thui chột nhƣ một thân cây mất gốc. Bệnh ung thƣ chỉ là một hậu quả của cách sống trái tự nhiên. Vậy mà thay vì xét đến môi trƣờng rộng lớn ngoài xã hội và thực phẩm tạo ung thƣ thì hầu nhƣ các nhà nghiên cứu chỉ nhằm thẳng vào việc cô lập các tế bào hỗn loạn của ung thƣ. Còn đa số các liệu pháp cũng chỉ nhắm cắt bỏ khối ung thƣ mà lơ là với điều kiện bất thƣờng của cơ thể, đã là nguyên do gây bệnh.
Ung thƣ bắt nguồn từ lâu trƣớc các tế bào ác tính xảy ra và bắt rễ từ các yếu tố trong nội tạng, từ thực phẩm ta tiêu dùng ngày qua ngày. Tuy nhiên khi phát hiện triệu chứng ung thƣ thì ngƣời ta bỏ qua yếu tố nội tại và lo chạy quanh việc chữa trị triệu chứng hay cắt bỏ khối ung thƣ. Nhƣng vì lý do gây bệnh còn đó nên bệnh thƣờng tái phát theo cách cũ hay chạy sang chỗ khác… và rồi ngƣời ta lại chữa theo lối cũ, bỏ qua nguyên nhân gây bệnh. Cách chữa bệnh nhƣ trên thƣờng là vô ích khi chỉ nhắm có trấn áp triệu chứng.
http://thucduong.vn Trang 25
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Để trừ tận gốc rễ, chúng ta cần xem xét tổng quát, những yếu tố lớn nhƣ chất lƣợng máu ngƣời bệnh, họ ăn loại thực phẩm gì, ảnh hƣởng vào máu ra sao, tâm thần và cách sống nào khiến họ hay dùng loại thực phẩm ƣa thích. Điều quan trọng nữa là phải xem xét cả xã hội quanh họ nữa. Yếu tố khác nhƣ công nghệ thực phẩm, phẩm chất nông nghiệp hiện đại đã không ngừng đi ngƣợc lại tự nhiên, bệnh nhân có hoạt động hay thụ động.
Qua 30 năm, tôi đã nghiên cứu vấn đề mở rộng này với nhiều ngƣời rất nghiêm túc, đã tiến đến kết luận bƣớc đầu là: chữa lành ung thƣ cần đƣợc hiểu và nếu phải hiểu rõ thì cần thống nhất ý chí, loại trừ tính nhị nguyên. Từ quan điểm tổng hợp, chúng ta sẽ không còn thấy thù địch hay chống đối nào còn tồn tại mà trái lại, mọi yếu tố đều tiến hành rất ăn nhịp, song phƣơng tồn tại và trợ giúp lẫn nhau.
Mặt trái của bệnh tật
Theo kinh nghiệm của chúng tôi thì ung thƣ chỉ là mức độ chót trong một tiến trình bệnh tật của con ngƣời trong thế giới hiện đại vì chƣa quen tán thƣởng sự lợi ích của các triệu chứng bệnh tật. Hiện nay mạng lƣới y tế chỉ giải quyết một ít bệnh do ăn uống quá độ hay bị độc chất pha lẫn trong thực phẩm hàng ngày. Sự mất quân bình trên sẽ tự đào thải nhờ sự hoạt động nhƣ ra mồ hôi, nƣớc tiểu hay những cách khác. Tuy nhiên, nếu chúng ta cứ tiếp tục đƣa thêm mãi thực phẩm nhiễm độc lâu dài, cơ thể sẽ không kịp đào thải trƣớc sự quá tải nên: nóng sốt, bệnh ngoài da và những triệu chứng khác. Những bệnh đó là sự điều chỉnh tự nhiên vì cơ thể sẽ tự điều chỉnh để lập lại quân bình.
Tuy nhiên, nhiều ngƣời đã có triệu chứng cảnh báo bất thƣờng hay muốn lờ chúng đi nên họ cố trấn áp chúng bằng uống thuốc viên, thuốc nƣớc khiến họ bị tách ra khỏi sự vận hành của tự nhiên. Nếu những đau bệnh sơ sài qua triệu chứng mà không điều chỉnh trong việc ăn uống thì những chất thặng dƣ sẽ tích tụ thành dạng axít béo và xuất hiện ở đờm dãi, ở huyết trắng, nang ở buồng trứng, sạn thận và các triệu chứng khác. Trong tình hình này, cơ thể vẫn còn sức đẩy dồn những chất thặng dƣ và độc tố vào một vùng không cần thiết để phần cơ thể còn lại vẫn đƣợc duy trì trong tình trạng sạch, chạy đều các phần phụ khác. Tiến trình cô lập trên nằm trong khả năng tự hồi phục của chúng ta, giúp chúng ta không suy sụp hoàn toàn. Trƣớc sự khu trú kể trên, con ngƣời hiện đại lại thấy nó là nguy hiểm cần tiêu diệt và cắt bỏ. Cách này giống nhƣ thái độ của dân thành phố xử lý rác rƣởi tồn đọng quá nhiều. Thay vì xem xét nguồn phế thải thì ngƣời dân đòi bãi bỏ sở vệ sinh.
Bao lâu chúng ta còn ăn nhiều đồ thặng dƣ nhƣ các hóa chất không phục vụ cho cơ thể thì nội tạng ta còn phải ra sức gom chứa nó về một nơi để duy trì hoạt động của cơ thể. Nếu ta không cho nó làm nhiệm vụ kể trên, nó sẽ biến dạng thành ung bƣớu lan tràn khắp cơ thể, tạo nên suy sụp toàn diện và cái chết vì máu huyết nhiễm chất độc.
Bệnh ung thƣ chỉ là giai đoạn cuối của một tiến trình lâu dài. Bệnh cũng là phản ứng của cơ thể tích đọng độc tố, nguyên do đƣa các thực phẩm trái tự nhiên vào cơ thể lâu dài và đời
http://thucduong.vn Trang 26
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
sống trong môi trƣờng nhân tạo. Ung thƣ lại cũng là nỗ lực quyết liệt cuối cùng để cứu vãn đời sống, dù chỉ thêm vài tháng hay vài năm nữa.
Ung thƣ không phải là hậu quả của những cái ta không điều khiển đƣợc mà đơn giản đã sản sinh từ lối sống thƣờng ngày, kể cả suy tƣ, ăn uống. Chúng ta cần xem xét ung thƣ từ cấp tế bào để thấy rằng nó không ngừng biến chất do đƣợc nuôi dƣỡng và đổi mới từ thực phẩm và năng lƣợng đƣợc bổ sung liên tục. Tất cả những gì trong hạt nhân tế bào sẽ chẳng là gì nếu không có nguồn cấp dƣỡng từ bên ngoài giúp nó hình thành tổ hợp ra nó. Nếu tế bào có sự bất thƣờng thì chính là tố chất đƣa vào nuôi đã bất thƣờng rồi, nhƣ máu, bạch cầu hay tác động rung chuyển kể cả từ trƣờng trong môi trƣờng sống.
Tế bào là trạm cuối cùng trong quy trình hữu cơ và không thể cô lập với các tạng phủ quanh nó. Thay vì đổ dồn vào tế bào, chính sự biến đổi hồng, bạch cầu và điều kiện xung quanh đã tạo ra tế bào ác tính. Thay vì điều trị riêng từng bộ phận trong cơ thể, chúng ta cần xem xét nguồn thực phẩm và những yếu tố khác đƣa vào tạng phủ và làm biến đổi tính chất tạng phủ. Phòng giải phẫu không phải là chỗ đƣơng đầu với bệnh ung thƣ khi nó tìm đến mà phải là nhà bếp và những khu vực khác trong đời sống hàng ngày trƣớc khi cơn bệnh phát tác. Hãy thay đổi thực phẩm ở nơi chứa thức ăn và trong tủ lạnh, dùng thực phẩm tự nhiên và cách nấu ăn dƣỡng sinh, theo đó ta cần cải cách môi trƣờng sống hàng ngày, nhƣ vậy tôi cam đoan rằng bệnh ung thƣ và các bệnh suy thoái khác sẽ không còn chỗ nào bám víu vào nữa.
http://thucduong.vn Trang 27
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư Chƣơng III
NGĂN NGỪA UNG THƢ MỘT CÁCH TỰ NHIÊN
Hãy xem hai ngƣời cùng sống một nơi, ta thấy một trong hai ngƣời sẽ mắc bệnh ung thƣ. Sự khác biệt này là hậu quả cách sống của hai ngƣời bao gồm suy nghĩ, ăn uống. Khi ta đem hai yếu tố đơn giản này vào một chỗ không quá đối lập nhau, quân bình hơn thì triệu chứng bệnh sẽ không xuất hiện. Dựa vào đấy thì sự ứng dụng sau đây có cơ duy trì cân bằng trong đời sống.
Phản tỉnh
Bệnh tật chỉ ra cách sống của chúng ta không hòa điệu với môi trƣờng. Vì vậy, để kiến tạo sức khỏe lành mạnh, chúng ta cần tƣ duy những nền móng cách nhìn đời. Về một phía thì bệnh tật là hậu quả nảy sinh phần lớn từ lối nghĩ: chủ đích đời sống là chúng ta đƣợc thoả mãn cảm giác và sảng khóai tinh thần, sung mãn với vật chất. Tầm nhìn giới hạn về hạnh phúc đặt chúng ta lên trên tất cả, khiến cho cuộc sống hàng ngày hóa ra bon chen, lấn lƣớt về mọi mặt. Trong khi các mặt khác chúng ta tự co cụm, nghi ngờ và thủ thế. Trong cả hai hƣớng kể trên, chúng ta thƣờng không ngừng thu về hơn là cho ra.
Một cuộc sống hài hòa, cân bằng chỉ có thể thiết lập trên quan điểm bao dung, đại đồng, dẹp bỏ ngã chấp. Trong bƣớc đầu, ta hãy quan tâm đến tình yêu, lo chăm sóc cha mẹ, gia đình, bạn bè, mở rộng tình yêu thƣơng đến cả những ngƣời xúc phạm và những ngƣời mà ta từng coi họ nhƣ thù địch. Về mọi mặt ta nên tự gánh vác trách nhiệm để nhận định rằng thất bại và bệnh tật đều nằm trong sự phát triển toàn cục để thành công hay thành nhân. Về mặt thực tế, mọi khó khăn, trở ngại lại là sự tôi luyện để phát huy trực giác, tình thƣơng và tri giác. Hãy biết ơn những món quà diễn ra muôn vẻ để giúp ta củng cố niềm tin vào vũ trụ và cuộc sống sẽ trở nên hào hứng, vui sƣớng vô tận. Ví nhƣ có mắc bệnh ung thƣ, ta cứ chấp nhận đó nhƣ một sự răn đe cho thân phận chúng ta. Chúng ta đừng nên than vãn, rên la và đổ lỗi cho số phận rằng đó là tai nạn, nghiệp chƣớng, ma quỷ hay bị sao “quả tạ”. Đổi lại, chúng ta nên quay về thăm dò bản thân và khi sai phạm, là ta đã đƣợc bài học mà tâm niệm tiến lên.
Phản tỉnh bao gồm ý thức cao độ để xem xét, lục lọi, kiểm tra và phán đoán hành vi và tƣ tƣởng của ta, cũng nhƣ suy niệm rộng ra trật tự vũ trụ hay cái mà ta gọi là giới luật của Thƣợng đế. Một khi càng tƣ duy về bản thân và trật tự vĩnh cửu thì ta càng có cơ chắt lọc và hiểu biết về vũ trụ. Ta sẽ nhớ lại cội nguồn, thấy đƣợc vận mệnh mình để hiểu đƣợc sứ mệnh của ta trong cuộc sống này. Khi ý thức đã phát huy thì cuộc sống tâm linh ta sẽ mở mang vô cùng, y nhƣ sự bành trƣớng vô tận của vũ trụ vậy. Thế nên, châm ngôn của chúng ta là “một hạt thành vạn hạt”. Vì mỗi hạt gieo trồng sẽ nẩy nở ra cả vạn hạt. Cứ đóng góp vô số trí tuệ thì hiểu biết của ta càng thêm sâu rộng và hợp nhất với trật tự vô biên. Phản tỉnh có thể thực hiện bằng nhiều hình thức, kể cả tƣ duy hay cầu nguyện hàng ngày, hãy suy tƣ về các mặt theo hƣớng dẫn sau đây:
http://thucduong.vn Trang 28
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
1. Hôm nay ta ăn uống có hợp với hoàn cảnh, môi trường trong ngày không?
2. Ta có nghĩ đến các bậc cha mẹ, họ hàng, thầy dạy hay bậc trên trước đúng mực không? 3. Hôm nay ta có cư xử vui vẻ và lợi lộc cho mọi người ta gặp không?
4. Ta có chiêm ngưỡng trước trời cao, cây cỏ, hoa lá và hân hoan cùng thiên nhiên không? 5. Hôm nay ta có cám ơn và tán thưởng mọi sự ta đã trải qua không?
6. Ta có chuyên tâm làm việc để đóng góp công sức hầu tạo dựng cho nền an lạc chung không? Tôn trọng môi trƣờng tự nhiên
Mối quan hệ con ngƣời với thiên nhiên chẳng khác nào của phôi thai và nhau. Trong khi nhau nuôi dƣỡng, duy trì cho thai phát triển. Thật kỳ lạ nếu thai phá huỷ nhau – là cơ quan nuôi dƣỡng nó! Cũng vậy, thật đơn giản là ngƣời ta có phận sự bảo tồn môi trƣờng tự nhiên vì chính ta đang sống hòa nhập trong đó. Tuy nhiên trong thế kỷ vừa qua, ngƣời ta không ngừng làm ô nhiễm đất, nƣớc, cây cỏ, các loài động vật có hệ sinh thái quá mỏng manh. Cách sống thƣờng ngày của ta cũng xa rời tự nhiên mà phụ thuộc quá nặng vào các vật liệu tổng hợp, mải mê đắm mình vào nguồn điện từ và bức xạ nhân tạo. Những điều kể trên khiến con ngƣời chúng ta lâm vào tình thế suy thoái và khả năng kháng bệnh suy giảm.
Thực đơn quân bình, tự nhiên
Ba tỷ tế bào đã hình thành cơ thể con ngƣời, đƣợc nguồn máu nuôi dƣỡng. Nguồn thực phẩm hàng ngày không ngừng tái tạo máu; cho nên nếu ta ăn uống sai trái thì chất lƣợng máu huyết, kể cả tế bào não, và phẩm chất tƣ duy của ta sẽ vì thế mà suy giảm… Ung thƣ chính là chứng gây ra do mất quân bình của mọi tế bào, bắt nguồn từ cách ăn uống sai lầm lâu dài.Để tái lập nguồn máu và tế bào lành mạnh, ngƣời ta nên theo cách dƣỡng sinh sau đây :
Sống hài hòa với trình tự tiến hóa
Giới tự nhiên không ngừng chuyển hóa từ mẫu vật này sang mẫu vật khác. Một chuỗi thực phẩm khổng lồ đã bành trƣớng từ vi khuẩn và enzyme tới động vật xƣơng sống và không xƣơng sống, loài lƣỡng cƣ, bò sát, chim, loài hữu nhũ, khỉ và con ngƣời. Bổ sung quá trình tiến hóa động vật là hệ thực vật, phát triển từ vi khuẩn và enzyme đến rong tảo biển, rau củ thời tiền sử đến rau củ, trái cây và ngũ cốc thời nay. Ngũ cốc lứt (chƣa chế biến) đã tiến hóa song hành với con ngƣời. Vì thế, tất cả đã trở thành nguồn gốc dinh dƣỡng chủ yếu của chúng ta. Những thực phẩm còn lại của chúng ta, cần chọn từ các loài thực vật đã tiến hóa xa xƣa từ rong tảo, rau củ trên cạn và dƣới biển, trái cây tƣơi, các loại hạt, hột và canh gồm chung cả vi khuẩn, enzyme lên men đại diện cho đa số hình thái sinh vật nguyên thủy.
Ở những xứ chƣa có bệnh ung thƣ cách dinh dƣỡng này phản ảnh từ trẻ sơ sinh đến trẻ em. Theo hƣớng này, phôi thai con ngƣời phát triển từ đơn bào trứng thành sơ sinh đa bào, và đƣợc nuôi hẳn bằng máu huyết của ngƣời mẹ và tƣơng tự nhƣ cổ sinh vật sống ở đại dƣơng. Lúc mới sinh, trẻ sơ sinh chỉ bú sữa mẹ, khi em bé đứng chập chững thì ngũ cốc là nguồn thực phẩm chính.
http://thucduong.vn Trang 29
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Thực vật là nguồn thực phẩm cân đối cho động vật và thực phẩm bổ sung. Điều đó cho thấy tổ tiên của chúng ta thấu hiểu sự cân bằng tế nhị trong tự nhiên. Tỷ lệ này vào khoảng 7 phần thực vật và một phần thịt động vật. Quan điểm hiện đại về tiến hóa của địa lý và sinh học cũng đã tìm ra tỷ lệ tƣơng tự trong quá trình sinh thái ở nƣớc kéo dài tới 2,8 tỷ năm so với thời tiến hóa trên cạn lâu chừng 0,4 tỷ năm. Bộ răng loài ngƣời cung cấp một mấu chốt sinh học về cách sống tự nhiên của họ – với 32 răng gồm 20 răng hàm và các răng khác để ăn ngũ cốc, hột, hạt và rau củ; 8 răng cửa cắt rau, 4 răng nanh xé thịt và cá. Từ đó ta thấy tỷ lệ mẫu răng cho loài ăn rau củ và ăn thịt, một lần nữa ta lại thấy rõ tỷ lệ bảy trên một. Nếu ăn thịt động vật, thì cách lựa chọn lý tƣởng là nên ăn cá, tôm hay sò, là loại động vật nằm trong quá trình tiến hóa rất xa sau loài ngƣời.
Quan niệm hiện đại cho rằng các bộ lạc săn thú, chủ yếu là hƣơu, nai, chim và mới đây, các khoa học gia đã tô vẽ cho các trò chơi tƣơng tự. Ngƣời cổ thƣờng chỉ biết tìm những loại ngũ cốc hoang, cỏ dại và cây trái, củ. Thịt động vật chỉ ăn khi cần thiết nhƣng bằng số lƣợng ít ỏi. Tờ New York Times, trong mục khoa học đã đăng một bài dài về thực phẩm của ngƣời tiền sử:
Các cuộc điều tra mới đây mô tả thực phẩm quen dùng của người tiền sử và các thế hệ kế tục của họ gợi ra rằng người thời nay ăn thịt nhiều vì đời sống sung túc quá khiến họ quá thặng dư khả năng tiến hóa trong cơ thể, kết quả là thực đơn đó ảnh hưởng đến sức khỏe, cụ thể là đái đường, phì mập, cao huyết áp, bệnh vành tim và vài chứng ung thư.
Các nghiên cứu khác có khi lập luận ngƣợc lại rằng con ngƣời tiền sử sống còn chủ yếu dựa vào săn bắn, với những chứng cứ cụ thể lấy từ các cuộc khai quật của các nhà khảo cổ, nhân chủng, nguyên thuỷ học và sự so sánh thể dạng thay cho sự phác họa lại ngƣời tiền sử và dòng giống họ là giống ăn thực vật hơn là giống ăn thịt. Theo những nghiên cứu này, sự phân loại ngƣời tiền sử ít ra cũng đã trải qua một triệu rƣỡi năm ăn thực vật ba lần nhiều hơn ăn thịt, trái với những cái ngƣời Mỹ thông thƣờng ngày nay đang ăn. (xem bảng 4)
Bảng 4. Dinh dƣỡng thời đồ đá và thời hiện đại
Đề nghị dinh
dƣỡng ngày nay
Dinh dƣỡng (%)
Thời Đồ Đá Tiêu chuẩn dinh dƣỡng ngƣời Mỹ
Protein 33 12 12 Carbonhydrat 46 46 58 Chất béo 21 42 30 Tỷ lệ lipid đơn/đa 1,41 0,44 1 Chất xơ (g) 100 – 500 19,7 30 – 60
Sodium (mg) 690 2300 – 6900 1000 – 3300 Calcium (mg) 1500 – 2000 740 800 – 1500 Acid ascorbic 440 90 60 Tham khảo: Nhật báo Y học New England năm 1985
Hòa nhập vào truyền thống dinh dƣỡng phổ quát
Theo các tính toán dựa vào nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp Mỹ (xem bảng 5), tính từ năm 1910 đến 1976, mức tiêu thụ lúa mì sụt giảm 48%, bắp 85%, hắc mạch 78%, lúa mạch 66%,
http://thucduong.vn Trang 30
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
kiều mạch 98%, đậu 46%, rau tƣơi 23%, quả tƣơi 33%. Cùng trong thời gian này, sự tiêu thụ thịt bò tăng 72%, gà vịt (gia cầm) 194%, pho mát 322%, rau đóng hộp 320%, rau đông lạnh 1.650%, trái cây chế biến 556%, kem lạnh 852%, yaua 300%, xi rô bắp 761%, nƣớc giải khát 2.638%. Kể từ năm 1940, khi các chỉ số tiêu thụ hóa chất phụ gia bảo quản lần đầu tiên đƣợc ghi nhận thì tổng số chất màu thực phẩm nhân tạo đã lên tới 99,5%.
Bảng 5. Thực phẩm thay đổi từ năm 1910 – 1976
( Bình quân tiêu thụ hàng năm theo pound không kể các loại khác )
Phân loại 1910 1976 Chênh lệch Ngũ cốc 294 144 – 51% Lúa mì 214 112 – 48% Bắp 51,1 7,7 – 85% Lúa mạch 3,5 1,2 – 60% Kiều mạch 3,5 3,5 Không Gạo 7,2 7,2 Không Rau 188 144,5 – 23% Cải bắp 23,2 (1920) 8,3 – 64% Khoai tây 80,4 48,3 – 40% Khoai tây đông lạnh 6,6 (1960) 36,8 + 457% Sản phẩm cà chua 5,0 (1920) 22,4 + 348% Rau đóng hộp 12,6 (1920) 53,0 + 320% Rau đông lạnh 0,57 (1940) 9,9 + 1650% Trái cây tƣơi 123 82,0 – 33% Trái cây chế biến 20,5 134,6 + 556% Cam quýt đông lạnh 1,0 (1948) 117 + 11.6% Thực phẩm đông lạnh 3,1 (1940) 88,8 + 2.76% Thịt 136,2 165,2 + 21% Thịt bò 55,5 95,4 + 72% Gà vịt (gia cầm) 18,0 52,9 + 194% Trứng (các loại) 305 276 – 10% Cá 11,4 13,7 + 20% Sản phẩm sữa 320,2 354,3 + 11% Sữa nguyên chất 29,3 galon 21,5 galon – 27% Sữa ít béo 6,8 10,6 + 56% Phô mai 4,9 20,7 + 322% Kem lạnh 1,9 18,1 + 852% SP sữa đông lạnh 3,4 50,2 + 1376% Bánh kẹo 89,0 134,6 + 51% Xiro bắp 3,8 32,7 + 761% Đƣờng 73,7 (1909) 94,8 + 29% Nƣớc giải khát 1,1 galon 30,8 + 2.638% Tham khảo: Bộ canh nông Mỹ
Mặc cho thực phẩm tổng hợp và tinh chế lan tràn trên thế giới, ngũ cốc lứt, rau đậu vẫn còn là thực phẩm trụ cột tại các nền văn hóa cổ truyền. Ví dụ bánh mỳ bắp và hắc đậu là thực phẩm chính
http://thucduong.vn Trang 31
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
tại Trung Mỹ; gạo, đậu nành và các nông sản đƣợc dùng khắp Đông Nam Á. Bánh quy lứt và đậu Hà Lan là thực phẩm chính yếu ở Trung Đông, khu vực này có tỷ lệ ung thƣ thấp nhất thế giới.
Hòa điệu với trật tự sinh thái học
Ngƣời ta khuyên dùng thực phẩm ở vùng họ sống. Ví dụ ngƣời Eskimo chủ yếu ăn thịt vì nhƣ thế hợp với khí hậu địa cực của họ. Tuy nhiên ở Ấn Độ và các vùng nhiệt đới thì thực đơn nghiêng về ngũ cốc và rau củ thì có lợi cho sức khỏe hơn. Tuy nhiên, khi chúng ta ăn thực phẩm nhập từ các miền khí hậu khác, thì ta bị mất tính miễn dịch tự nhiên trƣớc bệnh tật và mất cân bằng với các bệnh mãn tính. Trong những thập niên gần đây, kỹ nghệ đông lạnh tiến bộ, hợp với ngành vận tải và các kỹ thuật khác đã khiến cho hàng triệu ngƣời sống ở miền Ôn đới có đƣợc số lƣợng lớn dứa, chuối, bƣởi, lê, các sản phẩm Nhiệt đới và Cận nhiệt đới. Các dân tộc sống Nam vĩ tuyến bây giờ tiêu thụ số lƣợng pho mát, sữa, kem lạnh và những sản phẩm sữa, thực phẩm đông lạnh rất đáng kể, đồng thời là nguồn gốc thực phẩm thuộc miền bắc địa cực. Cho đến năm 1948, khi nƣớc cam đông lạnh có sẵn, các đồ uống trái cây ở Mỹ tăng vọt lên 11.600%. Sự vi
phạm trong thói quen ăn uống và lạm dụng về mặt sinh thái khiến con ngƣời bị thoái hóa về mặt sinh học và nảy sinh các bệnh nghiêm trọng.
Thích nghi với các mùa
Có những thói quen tai hại không hòa hợp với điều kiện thời tiết chút nào, chẳng hạn ăn kem trong phòng đốt lò sƣởi trong khi tuyết đang đổ bên ngoài, hay là hầm bít tết bằng than ngay giữa mùa hè nóng bức. Bạn nên lựa chọn các món ăn và phƣơng pháp chế biến sao cho phù hợp với những thay đổi khí hậu và quan trọng là sự điều chỉnh này theo cách thức tự nhiên. Ví dụ, khi trời lạnh, thời gian nấu ăn có thể lâu hơn, rau sống và trái cây dùng ít thôi. Vào mùa hè, các món ăn nhẹ rất thích hợp, đồng thời cần giảm lƣợng thịt động vật đến mức tối thiểu.
Sự khác biệt của từng ngƣời
Bạn cần quan tâm đến sự khác biệt ở mỗi ngƣời khi lựa chọn và chế biến món ăn hàng ngày. Đó là khác về tuổi tác, phạm vi giới tính, hoạt động nghề nghiệp, thể trạng sinh lý, tình hình sức khỏe hiện tại… con ngƣời trong cuộc sống không ngừng biến đổi về thể chất lẫn tinh thần. Cách ăn uống hàng ngày của chúng ta phản ảnh các biến đổi này. Những lời khuyên dƣới đây sẽ giúp bạn lựa chọn một chế độ dinh dƣỡng cân đối:
1. Nƣớc: nên dùng nƣớc tự nhiên và sạch để nấu ăn, tốt nhất là nƣớc suối và nƣớc giếng, tránh các loại nƣớc trong khu đô thị đã đƣợc xử lý hóa chất và nƣớc cất.
2. Hợp chất hữu cơ : chủ yếu dùng hợp chất hữu cơ dƣới dạng hợp chất dƣ phân tử glucose saccharide, chẳng hạn loại chứa trong ngũ cốc, rau, đậu, giảm đến mức tối thiểu hoặc tránh hẳn đƣờng saccharide đơn phân tử hoặc đƣờng không có saccharide, nhƣ đƣờng trong trái cây, mật, bơ sữa, chất ngọt tinh chế và một số chất ngọt khác.
3. Protein: protein gốc thực vật nhƣ ngũ cốc nguyên chất và đậu đƣợc cơ thể đồng hóa dễ hơn protein từ thực phẩm động vật. Khi xem xét chế độ dinh dƣỡng của cƣ dân sống vùng Hunza,
http://thucduong.vn Trang 32
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Pakistan và ở Vilcabamba, Ecuador, những ngƣời nổi tiếng mạnh khỏe và trƣờng thọ, chúng tôi nhận thấy họ chủ yếu dựa vào nguồn protein thực vật. Trong một tài liệu nghiên cứu của Hội Địa lý Quốc gia xuất bản gần đây, lƣợng calo trung bình mỗi ngày của ngƣời Hunza vào khoảng 1923 calo; ngoài ra, còn hấp thụ thêm 50g protein, 35g chất béo, 200–260g carbohydrat. Nhƣ vậy cả hai trƣờng hợp này, protein chủ yếu lấy từ thực vật. Phải lƣu ý rằng cƣ dân vùng này thật sự không biết đến bệnh ung thƣ. Trong khi đó, một ngƣời Mỹ trung bình mỗi ngày tiêu thụ 3.300 calo, 100g protein, 157g chất béo và 380g carbonhydrate.
4. Chất béo: cần tránh chất béo đơn, bão hòa chứa trong hầu hết các loại thịt và sản phẩm bơ sữa cũng nhƣ chất béo phân tử cao không bão hòa (đƣợc cho là không tạo cholesterol) trong bơ thực vật và dầu ăn hydrogen. Chế độ ăn hiện đại chứa đến 40% chất béo. Các tài liệu y khoa xác định rằng nó là nguyên nhân chính của các bệnh thoái hóa, trong đó có bệnh tim và ung thƣ. Ngũ cốc thô, đậu, quả hạch, hạt chứa tỷ lệ chất béo lý tƣởng đối với khẩu phần dinh dƣỡng hàng ngày. Trong nấu nƣớng, dầu vừng hay dầu bắp thô chất lƣợng cao đƣợc khuyến khích dùng hàng ngày.
5. Muối: nên dùng muối biển tự nhiên, vốn chứa nhiều khoáng chất vi lƣợng, tránh muối ăn tinh chế, gần 100% thành phần cấu tạo là natri clorua.
6. Vitamin: vitamin có trong các loại thực phẩm nguyên chất, nên tiêu thụ chúng ở dạng đó, kèm với những chất dinh dƣỡng khác. Thuốc bổ trong những thập kỷ gần đây đƣợc dùng phổ biến, nhằm bù đắp sự thiếu hụt vitamin và chất dinh dƣỡng do việc tinh chế thực phẩm hiện đại. Tuy nhiên, dƣới dạng này vitamin gây rối loạn quá trình chuyển hóa trong cơ thể. Viện Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ đã đƣa ra bản báo cáo “Chế độ dinh dưỡng và bệnh ung thư” cảnh báo rằng với liều lƣợng cao, vài vitamin trở nên rất độc, do đó chúng ta nên dùng thực phẩm nguyên chất hơn là sử dụng các chất dinh dƣỡng riêng lẻ.
Đối với cƣ dân khí hậu ôn đới, bốn mùa, chế độ ăn hàng ngày tối ƣu sẽ giúp chống ung thƣ và những bệnh nghiêm trọng khác. Chế độ đó phải bao gồm 50–60% ngũ cốc nguyên chất, 5–10% súp (đặc biệt súp nấu bằng rau muối chua và thực phẩm biển chứa nhiều khoáng chất), 25–30% rong chế biến theo nhiều cách, 5–10% đậu và tảo biển. Thỉnh thoảng dùng thực phẩm bổ sung nhƣ trái cây địa phƣơng (nấu lên thì tốt hơn), cá và các loại hải sản khác, nhiều loại hạt (chƣơng 5 sẽ mô tả đầy đủ chế độ ăn uống chống bệnh ung thƣ).
Nếp sống hoạt động
Đối với nhiều ngƣời chúng ta, cuộc sống hiện đại tạo ra ít thử thách thể xác và tinh thần hơn quá khứ. Kết quả là, chức năng sản sinh calori (năng lƣợng) và năng lƣợng điện từ, sự tuần hoàn máu và bạch huyết, hoạt động của hệ tiêu hóa, thần kinh và hệ sinh dục thƣờng bị trì trệ. Trái lại, cuộc sống hoạt động cả về thể chất lẫn tinh thần là rất cần thiết cho sức khỏe, cƣ dân vùng Hunza và Vilcabamba vẫn còn hoạt động mạnh khỏe khi đã vào độ tuổi 80, 90, thậm chí đến 100. Truyền thống văn hóa của họ không có khái niệm nghỉ ngơi lúc tuổi già, họ vẫn tiếp tục trồng trọt và làm vƣờn, dạy dỗ và đi bộ đƣờng xa cho đến cuối đời. Trái lại, cuộc sống hiện đại đã trở nên chậm chạp, nhàn hạ, ít vận động thể xác. Sau độ tuổi ngũ tuần hay lục tuần, nhiều ngƣời bắt đầu xuống sức và có thể chết vì thiếu những hoạt động có ý nghĩa hoặc thiếu sự hồi phục. Tập thể dục và vận động trí óc đều đặn trong suốt cuộc đời sẽ góp phần lớn đem lại sức khỏe và hạnh phúc toàn diện.
http://thucduong.vn Trang 33
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư Chƣơng IV
CHẾ ĐỘ ĂN VÀ TIẾN TRÌNH BỆNH UNG THƢ
Để hiểu bệnh ung thƣ tiến triển nhƣ thế nào, hãy xem xét một cái cây. Cây có cấu tạo trái với cơ thể con ngƣời. Ví dụ lá cây xanh, cấu trúc lá cũng thoáng hơn, trong khi đó, các tế bào cơ thể con ngƣời, phần tƣơng ứng của lá cây có cấu trúc khép kín và đƣợc máu nuôi dƣỡng. Cây hấp thụ dinh dƣỡng qua rễ ngoài. Rễ của chúng ta nằm sâu trong ruột tại vùng đƣa chất dinh dƣỡng vào máu và bạch huyết, từ đó lại phân phối đến mọi tế bào. Nếu chất dinh dƣỡng trong đất hoặc trong thức ăn cứ dần dần suy kiệt, lá cây hoặc tế bào cuối cùng sẽ đánh mất khả năng vận hành bình thƣờng và trở nên thoái hóa. Tình trạng này là do cứ hấp thụ mãi mãi những chất dinh dƣỡng nghèo nàn. Khi tình trạng này tiến triển, sẽ phát sinh các triệu chứng bệnh tật trên thân, cành lá hoặc trong cơ thể.
Bài tiết bình thƣờng
Bài tiết bình thƣờng xảy ra qua quá trình thải nƣớc tiểu, co bóp ruột, hô hấp (thải CO2) và ra mồ hôi. Các hợp chất hóa học dƣ thừa bị phân giải thành các hợp chất đơn giản và cuối cùng bị đƣa ra khỏi cơ thể dƣới dạng CO2 và nƣớc. Bài tiết cũng xảy ra thông qua hoạt động thể chất, tinh thần và tình cảm. Bài tiết tinh thần xuất hiện dƣới dạng các đợt dao động. Trong khi đó, những trạng thái tình cảm nhƣ sự giận dữ cho biết rằng cảm xúc quá độ đang phát ra.
Phụ nữ có thêm vài phƣơng tiện nữa để bài tiết một cách tự nhiên, đó là kinh nguyệt, sinh nở và tiết sữa. Họ có lợi thế rõ rệt so với nam giới trong việc bài tiết hữu hiệu chất thải, do đó tình trạng cơ thể cũng sạch hơn. Phụ nữ lại có khuynh hƣớng tự điều chỉnh cho thích hợp với môi trƣờng sống và sống thọ hơn nam giới. Để bù đắp lại bất lợi này, nam giới thƣờng ra ngoài xã hội nhiều hơn và sử dụng năng lƣợng vào các hoạt động thể chất, tinh thần và xã hội. Tất cả quá trình này xảy ra trong suốt cuộc sống. Nếu sự quá độ chỉ xảy ra ở mức vừa phải, những hoạt động ấy vẫn tiến triển suôn sẻ. Tuy nhiên, nếu mức độ dƣ thừa quá lớn, chức năng bài tiết bình thƣờng không đảm đƣơng nổi và nhiều quá trình bất thƣờng xảy ra.
Bài tiết bất thƣờng
Ngày nay thực tế con ngƣời ăn uống quá độ, do đó rất nhiều hình thức bài tiết bất thƣờng phát sinh nhƣ tiêu chảy, đổ mồ hôi quá độ, co bóp đƣờng ruột liên tục, thải nƣớc tiểu quá nhiều. Các thói quen nhƣ gãi đầu, nhịp chân, nháy mắt liên hồi cũng biểu hiện sự bài tiết bất thƣờng của nguồn năng lƣợng mất cân bằng. Các cảm xúc qua mạnh nhƣ sợ hãi, giận dữ và lo âu cũng thế. Có tính tuần hoàn hơn là sự bài tiết qua các triệu chứng mạnh nhƣ sốt, ho, hắt hơi, la hét, run rẩy cùng ý nghĩ và hành động điên rồ.
http://thucduong.vn Trang 34
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư Bài tiết kinh niên
Bài tiết kinh niên là giai đoạn kể trong quá trình bài tiết bất thƣờng, hay biểu hiện dƣới dạng bệnh ngoài da. Đây cũng là trƣờng hợp thận mất khả năng lọc sạch máu. Chẳng hạn tàn nhang, các đốm đen, hoặc những dấu vết tƣơng tự trên da là sự bài tiết kinh niên của đƣờng và hợp chất hữu cơ tinh chế: những đốm trắng là sự bài tiết của các sản phẩm bơ sữa.
Da sẽ trở nên khô, cứng nếu máu chứa nhiều chất béo và dầu mỡ, cuối cùng sẽ làm bít lỗ chân lông, chân tóc và các tuyến mồ hôi. Khi sự tắc nghẽn này ngăn cản chất lỏng lƣu thông lên mặt da, da sẽ khô. Nhiều ngƣời tin rằng tình trạng này là do thiếu chất béo trong khi ngƣợc lại thật sự chính việc hấp thụ quá nhiều chất béo đã gây ra vụ việc đó.
Ung thƣ da là dạng bệnh da trầm trọng. Còn nói chung các rối loạn khác về da đều không gây hại nhiều vì trong hầu hết trƣờng hợp, việc thải độc tố ra ngoài da giúp cho cơ quan nội tạng và các mô tiếp tục vận hành suôn sẻ. Tuy vậy nếu tiếp tục ăn uống quá độ, cơ thể sẽ không bài tiết hữu hiệu đƣợc và bắt đầu tích tụ những chất dƣ thừa trong những vùng khác.
Sự tích tụ
Nếu cứ áp dụng chế độ ăn nghèo chất dinh dƣỡng thì cuối cùng chúng ta sẽ làm suy kiệt khả năng bài tiết. Điều này còn tệ hại hơn nếu xuất hiện một lớp chất béo ủ dƣới da, nó sẽ cản trở sự bài tiết ra ngoài cơ thể. Tình trạng nhƣ thế phát sinh bởi tiêu thụ liên miên và quá độ các sản phẩm bơ sữa, pho mát, thịt trứng, thức ăn nhiều dầu mỡ. Khi đã đến giai đoạn này, chất nhờn hay chất béo cặn bã bắt đầu hình thành, khởi đầu ở các vùng có đƣờng dẫn trực tiếp ra ngoài da và các cơ quan sau đây:
✪ Các xoang
Các xoang là nơi tích tụ nhiều chất nhờn, do đó cũng là nơi phát sinh các triệu chứng nhƣ dị ứng, sốt cơ khô và nghẹt xoang. Sốt cơ khô và hắt hơi gây ra khi bụi hay phấn hoa kích thích sự bài tiết chất nhờn; ngoài ra sâu trong khoang thƣờng hình thành đá vôi. Các chất cặn bã nhờn và đặc này trong khoang sẽ làm tinh thần mất sáng suốt và tỉnh táo.
✪ Tai trong
Chất béo tích tụ ở tai trong sẽ làm hại chức năng vận hành nhịp nhàng của cấu trúc tai trong, có thể gây đau nhức thƣờng xuyên, tổn thƣơng thính giác, thậm chí gây điếc.
✪ Phổi
Nhiều dạng cặn bã thƣờng tích tụ trong phổi. Ngoài triệu chứng ho và co thắt ngực, chất nhờn cũng thƣờng dồn vào chân răng hoặc các túi khí làm chúng ta khó thở. Đôi khi, một lớp chất nhờn trong phế quản lỏng bớt và bị thải ra ngoài khi ta ho, nhƣng một khi các túi khí đã bị bao quanh rồi, càng ngày chất nhờn càng bám chặt vào đó hơn và có thể ở yên nơi ấy năm này sang năm khác. Nếu các tác nhân ô nhiễm hay khói thuốc len vào phổi, những phân tử nặng của chúng sẽ dính vào môi trƣờng và tiếp tục ở lại đó luôn. Có những trƣờng hợp rất nghiêm trọng khi các chất cặn này là
http://thucduong.vn Trang 35
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
mầm mống phát triển ung thƣ. Tuy nhiên, nguyên nhân tiềm ẩn của tình trạng này vẫn là sự tích tụ chất béo và chất nhờn trong phế quản, trong máu, trong các mao mạch bao quanh chúng.
✪ Vú
Chất cặn bã tích tụ trong vùng này thƣờng làm vú cứng lại và hình thành khối ung thƣ. Chúng tích tụ dƣới dạng nhờn hoặc axít béo, cả hai dạng đều là chất lỏng sền sệt hoặc đặc. Cách những chất cặn bã này phát triển thành khối u cũng giống nhƣ nƣớc đông thành nƣớc đá. Đó là một quá trình tiến triển mạnh do ăn kem, sữa lạnh, uống nƣớc giải khát, nƣớc kem, nói chung những thực phẩm đông lạnh. Phụ nữ từng cho con bú sẽ có ít nguy cơ bị khối u hay ung thƣ vú vì việc này làm giảm chất tích tụ dƣ thừa tại đây.
✪ Ruột
Nhiều trƣờng hợp chất cặn bã tập trung ở phần dƣới cơ thể dƣới dạng nhờn và béo phủ lên thành ruột. Việc này thƣờng làm ruột nở ra hoặc ít linh hoạt hơn, cuối cùng phần bụng dƣới sẽ to ra. Nhiều ngƣời Mỹ vƣớng phải tình trạng ấy. Khi còn trẻ, dáng vóc chúng ta thƣờng cân đối và quyến rũ, tuy nhiên chỉ mới bƣớc qua độ tuổi 30, đặc biệt ở khoảng 30 đến 40, nhiều ngƣời Mỹ đã đánh mất dáng vẻ thanh niên, mà trở nên nặng nề chậm chạp.
✪ Thận
Chất béo và chất nhờn cặn bã cũng có thể tích tụ nơi thận. Vấn đề sẽ nảy sinh khi các thành phần trên làm tắc nghẽn mạng lƣới hoạt động trơn tru của tế bào trong các cơ quan này, làm chúng ứ nƣớc và bị sƣng phồng kinh niên. Khi bài tiết gặp trở ngại, chất lỏng không thể thải ra đƣợc, sẽ dồn vào hai chân làm phù và yếu đi theo định kỳ. Nếu ai đó đã mắc phải tình trạng trầm trọng nhƣ thế rồi mà còn dùng nhiều thực phẩm lạnh thì chất béo và cặn bã sẽ dần kết tinh thành sỏi thận.
✪ Cơ quan sinh dục
Ở nam giới, tuyến tiền liệt là nơi chất cặn bã thƣờng tích tụ. Khi cơ thể hấp thụ quá nhiều thực phẩm mất cân đối trong thành phần dinh dƣỡng, tuyến tiền liệt lớn ra, chất cặn béo cứng hoặc khối u hình thành trong và xung quanh đó. Đây là một trong những nguyên nhân chính gây nên chứng bất lực. Đối với phụ nữ, chất dƣ thừa cũng có thể tập trung trong hoặc xung quanh bộ phận sinh dục, dẫn đến việc hình thành việc hình thành u nang buồng trứng, ung thƣ da hoặc tắc ống dẫn trứng (fallopian). Nhiều khi chất nhầy, chất béo trong buồng trứng hoặc ống dẫn trứng ngăn chặn tinh trùng tiếp xúc với trứng vì làm nghẽn đƣờng dẫn của hai tế bào này. Chu kỳ kinh nguyệt chính là một biểu hiện của quá trình tích tụ trong vùng sinh dục.
Mặc dù các triệu chứng ảnh hƣởng đến những cơ quan nội tại thọat nhìn không có vẻ gì liên hệ, nhƣng chúng có cùng nguyên nhân tiềm ẩn. Y khoa hiện đại cũng không xét đến mối liên quan ngầm này, chẳng hạn yếu thính giác thì cứ đến chuyên gia tai mũi họng, bị đục thuỷ tinh thể thì đƣa vào bác sĩ nhãn khoa. Thực chất, đục thuỷ tinh thể chính là một triệu chứng của một loạt các vấn đề liên hệ mật thiết với nhau nhƣ hậu quả tích tụ chất cặn trong vú, thận, cơ quan sinh dục.
http://thucduong.vn Trang 36
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư Chất tồn đọng
Giai đoạn này, chất dƣ thừa dƣới nhiều dạng bị giữ trong và xung quanh các cơ quan trọng yếu nằm sâu hơn, bao gồm cả tim và gan. Đối với hệ tuần hoàn, chất dƣ thừa thƣờng tích tụ xung quanh và trong tim, cũng nhƣ ẩn tại các mô tim, cũng có thể xảy ra hiện tƣợng này ở động mạch. Các bã nhờn đó, có cả cholesterol, gây xáo trộn hoạt động của tim và khiến máu không còn dễ chuyển qua động mạch, hậu quả sau cùng thƣờng là cơn đau tim. Nguyên nhân chính của vấn đề này vẫn là do tiêu thụ lớn những lƣợng chất béo chắc, bão hòa. Nhiều nhà dinh dƣỡng học và bác sĩ y khoa hiện nay rất ý thức về mối quan hệ giữa lƣợng chất béo bão hòa, cholesterol và bệnh tim mạch nhƣng lại bỏ qua ảnh hƣởng của đƣờng và sản phẩm bơ sữa, trong khi cả hai loại này đều nằm trong số những nguyên nhân chính làm các bệnh trên tiến triển trầm trọng hơn.
Trong cơ thể, protein, chất béo, carbohydrate chúng ta tiêu thụ, chuyển hóa qua lại, tùy thuộc vào liều lƣợng mỗi loại cũng nhƣ nhu cầu cơ thể tại thời điểm quy định nào đó. Nếu hấp thụ vƣợt quá mức cần thiết, phần dƣ sẽ bị thải. Tuy nhiên, ngay cả số lƣợng dƣ này cũng không vƣợt quá khả năng bài tiết của cơ thể. Khi đó, chúng bị giữ lại trong gan dƣới dạng carbohydrate, trong cơ dƣới dạng protein và trong toàn cơ thể dƣới dạng axít béo.
✪ Máu thoái hóa và hệ bạch huyết
Nếu trong máu chứa quá nhiều chất béo, nhầy, chúng sẽ tập trung lại. Phổi thận thƣờng bị ảnh hƣởng trƣớc tiên nên chức năng lọc, làm sạch máu sẽ kém hiệu quả. Tình trạng này dẫn đến sự suy thoái chất lƣợng máu và cũng làm hƣ hệ bạch huyết. Các thủ thuật giải phẫu cũng nhƣ cắt amidan sẽ làm thoái hóa hệ bạch huyết thêm trầm trọng vì làm giảm khả năng tự lọc sạch của nó. Cuối cùng tuyến bạch huyết sẽ bị viêm nhiễm và sƣng tấy thƣờng xuyên, chất lƣợng máu thoái hóa, đặc biệt là hồng cầu và bạch cầu.
Khi hồng huyết cầu mất khả năng biến đổi thành những tế bào cơ thể bình thƣờng, sinh vật không thể sống lâu đƣợc. Sự thoái hóa chất lƣợng máu và huyết tƣơng phụ thuộc rất lớn vào ruột non. Trong nhiều trƣờng hợp, thành ruột non bị chất béo và chất nhầy bao phủ, môi trƣờng trong ruột mang tính axít nên không có khả năng tạo ra một dòng máu lành mạnh tự nhiên.
Do đó, để ngăn chặn sự thoái hóa tức thời, cơ thể tất phải dồn chất độc dƣới dạng các khối ung thƣ. Đó chính là quá trình hình thành ung thƣ bƣớu. Chúng ta có thể ví bƣớu nhƣ một kho tàng trữ các tế bào huỷ hoại trƣớc đây đã chen lẫn trong dòng máu. Nếu chế độ dinh dƣỡng cứ tiếp tục bất hợp lý, các chất thừa độc hại này sẽ còn bị cô lập trong những vùng riêng biệt sẽ khiến ung thƣ bắt đầu phát triển. Khi một vùng nào không thể hấp thụ các chất độc này nữa, chúng phải tìm nơi khác để tích tụ. Vậy là ung thƣ lan ra. Quá trình này cứ tiếp diễn đến khi khắp cơ thể, ở đâu cũng có dấu vết ung thƣ và ngƣời mắc bệnh dễ phải mất mạng.
Tóm lại, có thể kết luận rằng những triệu chứng nhƣ khô da, mụn trên da, vú cứng, tuyến tiền liệt có vấn đề, rối loạn đƣờng bài tiết âm đạo, u nang buồng trứng đều là biểu hiện tiềm ẩn của ung thƣ. Tuy nhiên, chúng sẽ không tiến triển thành ung thƣ thật sự nếu chúng ta thay đổi cách ăn uống hàng ngày.
http://thucduong.vn Trang 37
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư Chƣơng V
ĂN DƢỠNG SINH ĐỂ NGĂN NGỪA UNG THƢ
Những lời khuyên về dinh dƣỡng dƣới đây đã đƣợc đúc kết dựa trên các truyền thống dinh dƣỡng trên khắp thế giới. Chúng là sự kết hợp hài hòa hai luồng tƣ tƣởng Đông Tây, đồng thời đã đƣợc kinh nghiệm dƣỡng sinh đƣơng thời chắt lọc qua nhiều thập kỷ nay. Nếu đƣợc áp dụng đúng, những lời hƣớng dẫn này sẽ đem đến sự cân bằng, ổn định về cơ thể và tinh thần . Vì thế chúng không chỉ có tác dụng ngăn chặn ung thƣ mà còn phòng ngừa hầu hết các bệnh hiểm nghèo khác, chẳng hạn nhƣ bệnh tim mạch. Tình trạng sức khỏe nhƣ thế nào mới áp dụng đƣợc phƣơng pháp này? Chúng ta áp dụng khi sức khỏe toàn diện khá tốt. Những ai đã mắc bệnh ung thƣ hoặc đang trong giai đoạn tiến triển ung thƣ nghiêm trọng cần có sự điều chỉnh phù hợp tuỳ theo bệnh tình của mỗi ngƣời; nên đến một chuyên gia y khoa hoặc một chuyên gia dƣỡng sinh có năng lực để đƣợc hƣớng dẫn và theo dõi chặt chẽ. Phần II cuốn sách này có trình bày đầy đủ những điều chỉnh cần thiết và từng dạng ung thƣ. Những ngƣời sống ở khí hậu ôn đới thì hãy làm theo các chỉ dẫn dƣới đây. Muốn biết danh sách chi tiết thực phẩm đƣợc khuyên dùng, xem chƣơng 13: “Giới thiệu chế độ ăn kiêng tổng quát”. Đối với cách ăn uống thích hợp cho cƣ dân trong vùng nhiệt đới và bán nhiệt đới, xem phụ lục II.
Ngũ cốc nguyên chất
Khoảng 50 đến 60% thực phẩm hàng ngày (trung bình 50%) nên là ngũ cốc nguyên chất nấu. Các loại ngũ cốc đó là gạo nâu, đỏ, trắng, lúa mì, kê, yến mạch, gạo mạch, bắp, hắc mạch, kiều mạch. Tất cả đều phải ở dạng lứt và có thể chế biến theo nhiều cách khác nhau. Khi chế biến gạo lứt, tốt nhất hãy dùng nồi áp suất bằng inox. Gạo nấu áp suất giữ đƣợc phẩm chất cao hơn nấu theo cách thông thƣờng, vì nếu thời gian nấu quá lâu, nhiều chất dinh dƣỡng sẽ mất đi. Nói chung, mỗi ngày nên nấu một lần, luân phiên giữa gạo lứt 100%, gạo lứt trộn 10% đến 20% kê, gạo lứt trộn 10 đến 20% lúa mạch, gạo lứt trộn 10 đến 20% xích tiểu đậu hay loại đậu nào khác, sau 4 ngày nhƣ thế, trở lại nấu chỉ toàn gạo lứt.
Đối với gạo mì, hạt lúa mì nguyên chất khá cứng và hơi khó nhai nên thƣờng đƣợc xay thành bột và nƣớng để làm bánh. Loại bánh mì ngon nhất đƣợc làm từ lúa mì tƣơi xay nhuyễn mà không dùng đến men bia.
Thông thƣờng, đa số các món ngũ cốc nên làm từ dạng nguyên chất (lứt, thô, chƣa bị chà trắng) hơn là dạng đã chế biến hoặc tách ra, chẳng hạn bulgar, bắp, yến mạch lứt. Bánh mì và sản phẩm bột thƣờng khó tiêu hơn ngũ cốc và có thể tạo chất nhầy (đặc biệt đồ ăn nƣớng giòn). Ngoài ngũ cốc nguyên chất, bánh chapatis, bánh torilla (bánh tròn mỏng bằng bột có vị ngọt,
http://thucduong.vn Trang 38
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
thƣờng ăn nóng) và những loại bánh mì dẹt truyền thống khác rất đƣợc đề cao, cũng nhƣ bánh bột nhão chua làm từ gạo mì hoặc hắc mạch.
Một tuần nên dùng bánh hai ba lần. Ngũ cốc dƣới dạng mì sợi, mì ống cũng có thể ăn nhiều lần trong tuần, nhất là kiều mạch (soba) và mì nguyên chất. Sản phẩm ngũ cốc nhƣ seitan (còn gọi là keo nếp hay thức ăn) có thể dùng vài lần trong tuần để tăng thêm nguồn protein cho cơ thể.
Súp
Súp có thể chiếm từ 5 đến 10% (một hai tách hoặc chén) trong khẩu phần ăn hàng ngày. Nguyên liệu nấu món súp là miso hay shoyu (sốt tƣơng tự nhiên), những dạng đã đƣợc chế biến từ đỗ tƣơng lên men tự nhiên, muối biển, ngũ cốc.
Trong khi nấu súp có thể cho thêm vào nhiều loại rau hoặc rong biển, đặc biệt loại wakame và kombu (tảo bẹ), rau xanh, thỉnh thoảng là nấm shiitake. Hƣơng vị của miso và shoyu nên dịu, không quá mặn hay nhạt. Miso lúa mạch, miso gạo hay miso đỗ tƣơng 100% (miso hatcho) ủ tự nhiên 2 đến 3 năm nên dùng thƣờng xuyên. Súp nấu bằng ngũ cốc, đậu hay rau không cần hạn chế thời lƣợng dùng. Tuỳ theo mùa, các món súp có thể rất đa dạng, chẳng hạn mùa hè dùng súp ngô, mùa thu súp bí.
Các món rau
Các món rau tƣơi nên chiếm khoảng 25% đến 30% khẩu phần ăn hàng ngày. Có nhiều cách chế biến đa dạng: xào, hấp, luộc, trụng, xào rút nƣớc, tẩm nƣớc sốt, hoặc ép rồi luộc. Trong số các loại rau lấy thân và củ thì cà rốt, hành, daikon (củ cải Nhật Bản), củ cải Thuỵ Điển, củ cải đỏ, burdock (ngƣu bàng), ngó sen, củ cải vàng là tốt nhất.
Khi chế biến các loại củ, nhớ nấu cả phần củ và lá để tạo cân bằng dinh dƣỡng qua việc dùng thực phẩm nguyên chất. Trong số các loại rau mọc trên cạn, có thể dùng hàng ngày những thứ sau đây: bắp cải, cải hoa, bông cải, chồi cải Brussel, bắp cải Tàu, bí acorn, bí butternut, bí buttercup, bí tròn, chúng rất có giá trị dinh dƣỡng. Đối với rau xanh và trắng, nên dùng thƣờng xuyên cải xoong, cải xoăn, mùi tây, tỏi tây, củ hành, cây bồ công anh, rau collard, bok choy, lá cà rốt, lá củ cải daikon, lá mù tạc.
Thỉnh thoảng dùng dƣa leo, rau diếp, đậu đũa, cần tây, giá, bí vàng, các loại đậu, bắp cả đỏ, nấm (nhiều loại, trong đó có nấm shiitake), kohirabi, v..v. Nói chung, có đến ⅓ lƣợng rau trong một bữa ăn có thể ăn sống dƣới dạng rau trộn tƣơi hay dƣa chua lên men theo kiểu truyền thống. Tuy nhiên, tốt hơn nên tránh sốt mayonaise và dầu dấm trộn xà lách đang đƣợc quảng cáo.
Thực vật có gốc vùng nhiệt đới hay bán nhiệt đới nhƣ cà tím, cà chua, khoai lang, măng, rau bina, khoai lang ngọt, củ từ, bơ, tiêu xanh, đỏ và nhiều loại khác nhau có khuynh hƣớng tạo acid; nên tránh dùng chúng hoặc chỉ dùng ở mức tối thiểu trừ trƣờng hợp bạn sống ở vùng khí hậu nóng ẩm.
http://thucduong.vn Trang 39
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư Đậu và rong biển
Đậu nấu và rong biển có thể chiếm 5 đến 10% khẩu phần ăn hàng ngày. Đậu nên dùng thƣờng xuyên là aduki (đậu đỏ hạt nhỏ), đậu xanh, đậu lăng, đậu nành (đen). Các loại đậu khác có thể thỉnh thoảng dùng; khoảng 2, 3 lần một tháng: đậu nành vàng, pinto (rằn), đậu đen, trắng, đậu xanh nƣớc biển, đậu lửa, đậu lima, đậu khô tách đôi, đậu mắt đen, .v..v. Sản phẩm đỗ tƣơng nhƣ đậu phụ, tƣơng ép, tƣơng sổi natto có thể dùng đều đặn hàng ngày với lƣợng vừa phải, chúng nên đƣợc xem xét là một phần cố định trong khẩu phần ăn (về chủng loại này). Rong biển rất giàu khoáng chất, nên dùng với lƣợng nhỏ cố định hàng ngày trong món súp. Có thể nấu chúng với rau, hoặc đậu hoặc chế biến thành món phụ. Rong Wakame, kombu (rong biển phổ tai), nori thƣờng dùng mỗi ngày; các loại khác, trong đó có rong arame và hijiki chỉ nên dùng đôi khi. Các món ăn này có thể đƣợc nêm bằng nƣớc tƣơng shoyu, muối biển, giấm ngũ cốc (nhƣ giấm gạo lứt). Chỉ nêm vừa miệng.
Thực phẩm bổ sung
Ngƣời thƣờng xuyên mạnh khỏe có thể dùng thêm vài loại thực phẩm bổ sung sau đây trong chế độ ăn:
Thực phẩm động vật
Mỗi tuần có thể ăn vài lần một lƣợng nhỏ cá thịt trắng hay tôm cua sò hến. Các loại cá thịt trắng nhƣ cá moruy và cá ejin ít chất béo hơn cá có thịt đỏ, hay cá da xanh. Cá nƣớc mặn cũng thƣờng ít bị nhiễm độc hơn cá nƣớc ngọt. Cá khô nhỏ nguyên chất (irko), có thể ăn luôn xƣơng, thỉnh thoảng dùng làm món ăn phụ với rau, trong súp hoặc làm gia vị. Tránh hẳn hoặc hạn chế đến mức tối thiểu tất cả các thực phẩm động vật còn lại, trong đó có thịt bò, cừu, heo, bê, gà, vịt, ngỗng, gà rừng, trứng; cũng thế với mọi sản phẩm bơ sữa gồm pho mát, bơ, sữa, sữa không kem, sữa chua, sữa bơ, kem lạnh, kem, kem chua, kem đánh, bơ tinh chế và kefir.
Trái cây
Trái cây tƣơi có thể dùng vài lần mỗi tuần – tốt hơn là nên nấu chín hoặc làm khô tự nhiên; dùng làm thực phẩm bổ sung hoặc món tráng miệng, miễn là trái cây phải trồng ở tại địa phƣơng. Trái cây tƣơi đúng mùa đôi lúc ta có thể ăn nhiều hơn một chút. Trong vùng khí hậu ôn đới có các loại: táo, dâu, đào, lê, mơ, nho, mơ, quất, mâm xôi, dƣa đỏ, dƣa bở ruột xanh (dƣa gang), dƣa hấu, quýt, cam, bƣởi. Cƣ dân vùng khí hậu này cần tránh hẳn hoặc hạn chế trái cây gốc nhiệt đới hay bán nhiệt đới nhƣ: chuối, thơm, xoài, đu đủ, vả, chà là, dừa, kivi. Còn ngay tại môi trƣờng sống của những loại này, ta có thể tiêu thụ với số lƣợng nhỏ.
Ngƣời ta cũng thƣờng pha nƣớc trái cây với nồng độ cao (ví dụ 1 ly nƣớc táo ép cần đến 10 trái táo). Tuy nhiên khi trời quá nóng, thỉnh thoảng có thể dùng nhƣ vậy, điều đó cũng giống nhƣ rƣợu táo thích đƣợc uống nóng vào tiết thu. Trái cây khô cũng thỉnh thoảng dùng miễn là chúng đến từ vùng khí hậu tƣơng tự.
http://thucduong.vn Trang 40
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư Các bữa ăn nhẹ
Các loại hạt, quả thạch đã đƣợc rang sơ và thỉnh thoảng có tẩm muối biển hoặc nƣớc tƣơng shoyu, thỉnh thoảng nên dùng làm bữa ăn nhẹ. Chúng sẽ làm bạn thích thú. Những loại thơm ngon và bổ dƣỡng là: vừng, hƣớng dƣơng, hạt bí đỏ, hạnh đào, óc chó, hồ đào pecan, đậu phộng. Tuy nhiên, đừng dùng quá nhiều loại hạt có tẩm bơ, vì chúng khó tiêu, lại nhiều chất béo và dầu mỡ. Các món ăn nhẹ thích hợp khác có thể kể đến bánh nếp (nếp giã) mì, bánh bột gạo, gỏi cuốn rau, bánh phồng (làm bằng ngũ cốc), bắp rang (làm tại nhà, không tẩm bơ), đậu và ngũ cốc rang.
🏵 Những gợi ý
Dầu
Loại dầu có thể dùng đều đặn hàng ngày là dầu vừng, bắp hoặc dầu hạt mù tạc, chúng phải ở dạng thô và lƣợng dùng cũng chỉ nên vừa phải, đừng lạm dụng. Không nên ăn sống, mà chỉ sử dụng khi nấu nƣớng. Những loại dầu thô khác nhƣ dầu safflower, dầu hƣớng dƣơng, dầu đậu nành, olive thỉnh thoảng có thể dùng đến. Tránh mọi loại dầu thực vật chế biến theo phƣơng pháp hóa học, bơ, mỡ lợn, bơ làm xốp bánh, dầu dừa, dầu cọ, bơ trứng và bơ đậu nành.
Muối
Loại muối biển giàu khoáng chất, chế biến theo tự nhiên, shoyu, miso, truyền thống không bị xử lý hóa học có thể dùng làm gia vị. Bữa ăn hàng ngày vẫn không nên quá mặn, gia vị cũng chỉ nêm khi đang nấu, nếu dùng ngay khi ăn cũng phải có loại khác thích hợp hơn. Tránh loại muối ăn đang bày bán trên thị trƣờng (vì ngƣời ta thƣờng thêm hóa chất phụ và đƣờng vào đấy), cũng tránh muối biển xám và những loại khác có nồng độ khoáng chất quá cao. (Muối biển trắng không dính thƣờng là tốt nhất).
Các loại gia vị khác
Ngoài dầu, muối, miso và shoyu có thể dùng thêm một số gia vị khác trong nấu nƣớng và ngay trƣớc khi ăn. Chúng đều phải có gốc thực vật, chế biến theo cách tự nhiên. Những loại rất thích hợp nên thỉnh thoảng dùng là gừng, cải ngựa, mirin (chất ngọt nếp lứt lên men), giấm gạo, giấm mơ muối (tiếng Nhật là umeboshi), bột mơ umeboshi, tía tô rắc cơm tỏi, chanh, cam, mù tạc, tiêu đỏ hoặc đen. Nên tránh những loại gia vị đang đƣợc quảng cáo, rau mùi, những gia vị thơm, hăng, cay nóng, có đƣờng.
Dƣa chua
Mỗi ngày có thể ăn một ít dƣa chua làm tại nhà. Chúng có tác dụng hỗ trợ tiêu hóa.
Trong phƣơng pháp chế biến thực phẩm dƣỡng sinh, loại thức ăn lên men tự nhiên này thƣờng làm từ rất nhiều loại rau củ hoặc rau mọc trên cạn nhƣ củ cải daikon, củ cải trắng, cà rốt, bắp cải, súp lơ dùng muối biển để muối, hoặc cũng có thể dùng cám gạo hay cám gạo mì, tƣơng
http://thucduong.vn Trang 41
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
shoyu (tƣơng tự tamari), umeboshi, miso – tƣơng đặc. Tránh dùng gia vị hăng, đƣờng và giấm. Những loại dƣa chua lên men ngắn ngày, ít muối thích hợp. Khi thời tiết nóng đối với ngƣời cần ăn nhạt hơn. Trái lại, dƣa muối lâu ngày, mặn, có thể dùng trong suốt mùa lạnh, nó cũng thích hợp cho việc tăng cƣờng thể lực. Để muối dƣa, bạn có thể dùng nhiều loại bình, lọ, thầu… thời kỳ muối có thể từ vài giờ, vài tuần có khi hàng tháng đến hàng năm.
Các món tráng miệng
Có thể dùng món tráng miệng với lƣợng vừa phải, 2 đến 3 lần 1 tuần. Đó là món bánh hạnh nhân, bánh pudding, bánh ngọt, bánh patê nƣớng và những món ngọt khác chế biến từ thành phần tự nhiên. Thông thƣờng, món tráng miệng đƣợc làm từ táo, bí, bầu, đậu aduki, trái cây khô và 1 số thực phẩm có vị ngọt tự nhiên khác, không dùng thêm bất cứ loại đƣờng nào. Tuy vậy, đối với những món cần phải ngọt hơn một chút, bạn có thể thêm vào siro gạo, mạch nha, sữa gạo (1 loại thức uống bằng nếp lên men), hạt dẻ, nƣớc táo vắt hay rƣợu táo và trái cây khô, ví dụ nho khô. Tránh dùng đƣờng trắng, đƣờng nâu, đƣờng nƣớc, đƣờng turbinado, mật mía, mật, siro bắp, siro nhựa cây thích, chocolate, viên ngọt carob, fructose, sacharin và những chất ngọt nhân tạo hay chất ngọt chiết lọc khác. Nếu cần tạo nƣớc cốt ngọt hoặc lớp kem trên mặt bánh thì những loại bột kem gốc thực vật là tốt nhất, chẳng hạn có thể đánh kem từ rễ kudzu (còn gọi là kuzu), rong agar – agar, đậu phụ, bơ vừng, không nên dùng trứng sữa và nói chung mọi sản phẩm động vật khác. Một loại gelatin trong biển rất thơm ngon chế biến từ rong agar– agar, đƣợc gọi là mứt rong, có thể tẩm với nƣớc ép trái cây và những loại đƣờng tự nhiên khác.
Thức uống
Các thức uống đƣợc khuyên dùng hàng ngày là trà lá già – khô còn gọi là kikucha, trà gạo lứt rang, trà gạo mạch rang, nƣớc suối hay nƣớc giếng. Thỉnh thoảng có thể dùng thêm cà phê ngũ cốc (không chứa chất ngọt của quả vả, mía…), trà bồ công anh, trà rong phổ tai, trà mơ muối umeboshi, trà mu, nƣớc cà rốt, nƣớc cần tây, nƣớc rau ngọt. Ngoài ra, còn có 1 số loại cũng chỉ nên đôi lúc mới dùng, đó là trà xanh, nƣớc rau, nƣớc trái cây, bia, sake (nóng hoặc lạnh), sữa đậu nành (với phổ tai). Bất cứ loại trà truyền thống nào không chứa hƣơng vị nhân tạo hay gây kích thích đều có thể dùng. Tuy nhiên, nên tránh cà phê, trà đen, trà cây thảo thơm nhƣ bạc hà tiêu, tầm xuân, cúc La Mã. Thực phẩm và nƣớc uống hàng ngày cần đƣợc chế biến với nƣớc suối hoặc nƣớc khoáng. Không dùng loại nƣớc chảy qua vòi máy ở vùng đô thị vì chúng thƣờng bị clo hóa hoặc bị xử lý hóa học. Cũng tránh dùng nƣớc cất, nƣớc lọc, nƣớc đá, nƣớc khoáng và mọi loại nƣớc có ga (chứa carbonate), nƣớc giải khát pha đƣờng, rƣợu mạnh.
Gia vị dùng trên bàn ăn
Loại gia vị này bạn cũng có thể dùng hàng ngày nếu muốn, để mỗi ngƣời tự điều chỉnh độ mặn, nhạt và hƣơng vị cho vừa miệng mình. Những loại tốt nhất là gomashio (muối vừng rang), tỉ lệ gồm 16 đến 18 phần vừng rang trộn với 1 phần muối rang, một nửa đƣợc đem giã chung trong cái cối đất (suribachi); loại thứ hai là bột phổ tai, rong wakame rang, chế biến bằng
http://thucduong.vn Trang 42
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
cách nƣớng rong biển trong lò đến khi đen xạm lại, sau đó nghiền nát trong cối suribachi, đôi lúc thêm vào vừng rang; cất giữ trong lọ hay trong bình nhỏ. Một số gia vị khác: mơ muối umeboshi, đó là loại mơ muối đã đƣợc phơi khô và lên men trong nhiều tháng bằng muối biển, có cho thêm lá shiso đỏ (beefsteak) để tăng hƣơng vị, tekka, hỗn hợp cà rốt, burdock và ngó sen đã cắt tỉa sạch sẽ, xào trong dầu vừng và tƣơng đặc miso trong nhiều tiếng đồng hồ, tƣơng shoyu, sốt tƣơng tự nhiên chế biến theo truyền thống, rong nori xanh thái thành những lát nhỏ.
Vài loại trong số này, chẳng hạn gomashio – muối vừng, và bột rong biển, nên đƣợc chế biến tƣơi ngay tại nhà. Những loại khác nhƣ mơ muối umeboshi và tekka, có bán dƣới dạng làm sẵn trong các cửa hàng thực phẩm tự nhiên. Gia vị có thể dùng quanh năm.
Rau trang trí món ăn
Để tạo sự cân đối giữa các món ăn, đồng thời làm chúng thêm phần hấp dẫn, ngƣời ta thƣờng bày biện thêm một số loại rau. Đó là những loại sau: củ cải, daikon bào, củ cải trắng bào, củ cải ngựa bào, hành chỉ, gừng bào, patê mù tạc xanh, tiêu xay, chanh xắt lát, tiêu đỏ, .v.v.v...
Cách ăn uống
Bạn có thể ăn hai hoặc ba bữa một ngày, mỗi bữa ăn vừa no, miễn là thành phần các loại thực phẩm cân đối và khi ăn phải nhai cho kỹ. Việc nhai cũng ảnh hƣởng rất lớn đến tiêu hóa. Sau khi cho thức ăn vào miệng, nhớ nhai ít nhất là 50 lần đến khi chúng thành thể lỏng. Ăn khi cảm thấy đói, nhƣng tốt nhất nên kết thúc bữa ăn đúng lúc, khi vừa miệng chứ không no quá. Tƣơng tự, khi khát mới uống. Trƣớc lúc ngủ 3 tiếng đồng hồ không nên ăn vì sẽ dẫn đến ứ đọng trong ruột và toàn bộ cơ thể. Trƣớc và sau mỗi bữa ăn, hãy biểu lộ lòng biết ơn với tạo hóa, có thể bằng lời nói hoặc ý nghĩ cũng đƣợc. Hãy cảm ơn Đấng Sáng Tạo đã ban cho chúng ta những thức ăn này đồng thời khiến nó đem lại sức khỏe và niềm hạnh phúc. Bạn có thể biểu hiện sự biết ơn này bằng cách đọc lời cầu nguyện, bài kinh ngắn, bài thánh ca hoặc một phút yên lặng tĩnh tâm. Cũng hãy cảm ơn cha mẹ, ông bà, tổ tiên những ngƣời đã nuôi nấng chúng ta và đặt hết niềm tin tƣởng, ƣớc mơ vào chúng ta, hãy cảm ơn chính những cây thực phẩm đã hiến thân chúng để ta đƣợc sống, cảm ơn những ngƣời nông dân, ngƣời bán hàng, ngƣời đã nấu các món ăn này. Họ đã góp phần rất lớn để tạo ra những thực phẩm chúng ta dùng hàng ngày.
Việc ăn ít cũng rất quan trọng. Năm 1994 các nhà nghiên cứu thuộc đại học Tufts đƣa ra kết luận rằng chuột theo chế độ ăn cực kỳ ít calori sống lâu hơn chuột đƣợc ăn no 29%, chúng cũng ít bị ung bƣớu và các rối loạn khác hơn.
Những tài liệu nghiên cứu chuyên về các vấn đề biến đổi sinh lý theo thời gian sống, chuột theo chế độ ăn lƣợng calori ít hơn thông thƣờng 40% thƣờng có sức khỏe tốt, khả năng chịu đựng cao và sống lâu. “Tài liệu nghiên cứu này gây sửng sốt cho chúng ta ở chỗ mọi loại bướu đơn và hầu như tất cả các loại thương tổn khác đều bị ngăn chặn”. Đó là lời của Richard Sprott, giám đốc điều hành của Viện Quốc Gia Nghiên Cứu và hoạch định các chƣơng trình về ngƣời già.
Dùng thực phẩm tự nhiên
http://thucduong.vn Trang 43
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Trong việc chọn thực phẩm tự nhiên, điều cốt yếu là có đƣợc thực phẩm tự nhiên chất lƣợng cao và tƣơi mới. Tất nhiên, tự trồng ngũ cốc và rau là cách thức lý tƣởng, ngoài ra bạn cũng có thể tự chế biến tƣơng miso, đậu phụ, seitan tại nhà.
Đối với nhiều ngƣời, đặc biệt những ai sống ở thành phố, thì thực phẩm tự nhiên ở địa phƣơng, thực phẩm giàu chất bổ dƣỡng và những cửa hiệu bán rau trái là nguồn quan trọng nhất cung cấp thức ăn hàng ngày. Nói về thức ăn, từ “tự nhiên” có nghĩa là nguyên chất, thô, chƣa tinh chế hoặc chế biến theo phƣơng pháp tự nhiên. Thuật ngữ “hữu cơ”, khi nói về thực phẩm tự nhiên, đƣợc hiểu là thực phẩm đƣợc trồng không dùng đến phân bón hóa học, thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu hoặc các thuốc xịt nhân tạo khác. Phân biệt giữa thực phẩm hữu cơ và thực phẩm vô cơ khá khó, chỉ khi nếm trực tiếp ta mới biết đƣợc qua vị của chúng, do đó bạn cần dựa vào uy tín của nhà sản xuất và phân phối sản phẩm. Có nhiều cơ sở cung cấp đƣợc Hiệp hội nuôi trồng hữu cơ xác nhận đúng. Những xác nhận đó dựa vào việc quan sát trực tiếp hiện trƣờng làm việc kiểm chứng chất lƣợng đất và mẫu sản phẩm, đồng thời hiệp hội này cũng tiến hành giáo dục nông dân và ngƣời tiêu dùng để họ có ý thức, hiểu biết các vấn đề bảo vệ sức khỏe qua việc sử dụng thực phẩm.
Những tác động nguy hại của hóa chất trong trồng trọt đối với sức khỏe chúng ta cũng nhƣ đối với đất đai và môi trƣờng đã có chứng cứ rõ ràng và đƣợc ghi nhận cụ thể. Cuối thế kỷ 19, bác sĩ Julius Hensel, một nhà hóa học nông nghiệp, cảnh báo rằng việc mở đầu sử dụng phân bón tổng hợp, thuốc trừ sâu, vỗ béo gia súc bất thƣờng và những biện pháp hiện đại khác đang gây nên sự thoái hóa máu và huyết thanh trong cơ thể con ngƣời, đồng thời nó cũng làm gia tăng vô số các bệnh huỷ hoại. Năm 1898, ông đã viết trong cuốn “Bánh mì từ đá” một đoạn nhƣ sau:
“Nông nghiệp đã có dấu hiệu ung thư” – (Chúng ta) không thể thờ ơ lãnh đạm, phải quan tâm đến vụ mùa nào đang tạo ra để nuôi sống con người hàng ngày và các cánh đồng đang được bón phân bằng những chất nào. Phải chấp nhận rằng số lượng thu hoạch sẽ không đầy đủ nhưng số lượng đó phải đạt được chất lượng tốt. Công nhận là nếu chỉ món mac–nơ (đất sét trộn vôi), chẳng hạn, với carbonat vôi thì cả cánh đồng lớn như thế đều có thể thu hoạch trọn, và điều đó làm con người có khuynh hướng hài lòng với loại mac–nơ này. Tuy nhiên, sự chăm bón phiến diện như thế tuy dần dần nhưng chắc chắn sẽ tạo ra tác động nguy hại. Điều này đã khẳng định thêm kinh nghiệm từ xưa đến nay: “Bón phân bằng vôi sẽ làm đời cha trù phú, đời con suy tàn”… Vì loại bột tinh sạch mà chúng ta đang dùng, đã chà hết cám, và gần như hoàn toàn thiếu chất bổ dưỡng nên đừng ngạc nhiên tại sao ngày nay bao nhiêu bệnh tật xuất hiện.
Thức ăn hữu cơ không luôn luôn sẵn có, cũng không phải lúc nào cũng mua đƣợc vì giá cả khá mắc. Trong trƣờng hợp đó, bạn có thể dùng loại thực phẩm gần với thực phẩm hữu cơ nhất, rửa sạch và nấu lên để loại bỏ những hóa chất có hại tiềm ẩn bên trong. Vì sức khỏe của mình, hãy tránh tất cả các thực phẩm sản xuất hàng loạt theo phƣơng pháp công nghiệp. Đó là thức ăn nhanh, thức ăn đóng hộp, thức ăn đông lạnh, ngũ cốc và bột tinh chế, thức ăn bị xịt thuốc, thức ăn nhuộm phẩm màu, thức ăn nhiễm chất phóng xạ và mọi loại thức ăn có thể dùng đến hóa chất, gia vị hóa học, chất bảo quản, chất chống ôi thiu, chất nhũ hóa và bột màu nhân tạo.
Thực phẩm chính yếu trong chế độ dƣỡng sinh
http://thucduong.vn Trang 44
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Hai mƣơi năm qua, xã hội chúng ta đang dần ý thức đƣợc những hạn chế của nền nông nghiệp hóa học và công nghệ thực phẩm.
Những tài liệu nghiên cứu y khoa gần đây đã chứng minh rằng hầu hết các thực phẩm trong phƣơng pháp dƣỡng sinh đều có tác dụng chống ung thƣ và những bệnh huỷ hoại khác. Trong phần II, chúng tôi tóm tắt đến vài trăm phát hiện mới này và cũng phân loại chúng theo tính độc hay lành ở nhiều mức độ. Tuy vậy, nhƣ đã thấy, ung thƣ không phải là hiện tƣợng tách biệt, cô lập mà là bệnh của toàn cơ thể. Những thực phẩm dƣới đây thực sự sẽ giúp chúng ta nguy cơ vƣớng phải căn bệnh này.
Tóm lại, chúng ta hãy nhìn vào những khám phá khoa học và y học trọng yếu vì cần phải áp dụng chúng khi sử dụng những loại thực phẩm căn bản trong chế độ dinh dƣỡng ngăn ngừa bệnh ung thƣ.
1) Ngũ cốc nguyên chất – lứt
Rất nhiều tài liệu nghiên cứu dịch tễ, nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và nghiên cứu các trƣờng hợp cụ thể đã chứng minh rằng ngũ cốc nguyên chất – một thành phần của chế độ ăn uống cân đối, một thực phẩm giàu có chất xơ và cám – có tác dụng chống lại hầu hết các dạng bệnh ung thƣ. Bản báo cáo “Mục đích dinh dưỡng” của Thƣợng nghị viện Mỹ, những bài tƣờng trình của Hiệp hội các nhà phẫu thuật, bản báo cáo “Ăn uống, dinh dưỡng và Ung thư” của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia, những sơ đồ hình tháp hƣớng dẫn về thực phẩm cùng nhiều nguồn tài liệu khác đều thống nhất ở điểm sau đây: cần phải tăng cƣờng tiêu thụ hàng ngày những loại ngũ cốc nguyên chất nhƣ gạo lứt, kê, gạo mạch, yến mạch và gạo mì. Hội Ung Thƣ Hoa Kỳ đã bắt đầu xuất bản các tài liệu hƣớng dẫn về dinh dƣỡng cho những ngƣời có nhiều nguy cơ mắc bệnh ung thƣ ruột kết và ung thƣ vú, trong đó vai trò của ngũ cốc nguyên chất và thực phẩm giàu chất xơ rất đƣợc đề cao.
2) Canh súp
Sau 10 năm miệt mài nghiên cứu, Trung Tâm Ung Thƣ Quốc Gia Nhật Bản cho ra mắt một tài liệu vào năm 1982. Tài liệu nói rằng những ngƣời dùng canh tƣơng miso hàng ngày ít có khả năng bị những co ép dạ dày hơn những ai không bao giờ ăn tƣơng miso 33% (xem bảng 6). Ngoài ra, tài liệu còn khám phá ra tính hiệu quả thần kỳ của tƣơng miso giúp chúng ta chống lại bệnh tim và gan. Sốt tƣơng (shoyu) thƣờng đƣợc cho vào canh hoặc những món ăn khác theo phƣơng pháp nấu ăn dƣỡng sinh. Một tài liệu khoa học khác do các nhà nghiên cứu thuộc đại học Wiconsin xuất bản năm 1991 xác nhận rằng qua các cuộc thí nghiệm, nhóm chuột theo chế độ ăn gồm sốt tƣơng có tỉ lệ mắc bệnh ung thƣ dạ dày ít hơn 26% so với nhóm đối chứng; ngoài ra, tỉ lệ ung bƣớu ở nhóm chuột đƣợc bổ sung đỗ tƣơng cũng chỉ bằng ¼ ở nhóm đối chứng. Do đó, các nhà nghiên cứu kết luận “tương thể hiện tác dụng chống ung thư rõ rệt”.
3) Rau
http://thucduong.vn Trang 45
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Cùng rất nhiều tài liệu dân số quốc tế chứng minh khả năng chống lại ung thƣ của cơ thể nếu thƣờng xuyên dùng các loại rau giàu beta – carotene, đặc biệt rau xanh đậm, vàng đậm hoặc màu cam nhƣ bông cải, giá Brussel, cà rốt, bắp cải cải xoăn, rau collard. Viện Ung Thƣ Quốc Gia, Hội Ung Thƣ Hoa Kỳ và nhiều tổ chức khác rất đề cao việc tiêu thụ những loại rau hàng ngày này, vốn từ lâu đã là một thành phần của chế độ ăn đúng tiêu chuẩn dƣỡng sinh. Hơn nữa, những thực phẩm giàu vitamin C và B cũng đƣợc chứng minh làm giảm nguy cơ bƣớu ác tính. Các vitamin này rất dồi dào trong tự nhiên; chúng có mặt trong rau lá xanh, vài loại cam quýt, ngũ cốc nguyên chất và dạng cuối cùng này chính là thứ lý tƣởng nhất.
Bảng 6. Mối quan hệ dùng tƣơng Miso và bệnh ung thƣ
Ăn Miso
Chết vì *
Hàng ngày Đôi khi Ít khi Không hề
Ung thƣ bao tử Cơ bản Tăng 18% Tăng 34% Tăng 48% Ung thƣ toàn cục Cơ bản Tăng 4% Tăng 12% Tăng 19% Vành tim Cơ bản Tăng 7% Tăng 10% Tăng 43% Cao huyết áp Cơ bản Tăng 29% Tăng 11% Tăng 453%
Tắc mạch máu não Cơ bản Giảm 11% Giảm 13% Tăng 29% Sơ gan Cơ bản Tăng 25% Tăng 25% Tăng 25% Loét tá tràng Cơ bản Tăng 17% Tăng 41% Tăng 52% Mọi lý do tử vong Cơ bản Tăng 2% Tăng 6% Tăng 33%
∙ Kết hợp tuổi giới tính theo tỷ lệ tiêu chuẩn vì nguyên do tử vong chính (1966 – 1978) Trích dẫn cuốn “Dinh Dưỡng và Ung Thư” (1982)
Một trong những thực phẩm có triển vọng nhất trong việc giảm nguy cơ ung thƣ là nấm shiitake, một thành phần chính theo phƣơng pháp chế biến phƣơng Đông. Ngày nay, loại nấm này đang đƣợc trồng và bán rộng rãi trên cả nƣớc. Các tài liệu y khoa qua thí nghiệm cụ thể đã chứng minh rằng nấm shiitake có tác dụng chống ung thƣ bƣớu rất mạnh mà không gây hiệu ứng phụ độc hại nào. Trong phƣơng pháp nấu ăn dƣỡng sinh và trong việc chăm sóc sức khỏe tại nhà, nấm shiitake, đặc biệt ở dạng khô, thƣờng đƣợc dùng để giảm bớt hoặc bài tiết chất béo cặn bã tích tụ trong cơ thể.
“Ngày nay, vấn đề dinh dưỡng đang có khuynh hướng giảm lượng thực phẩm gốc động vật” – các bác sĩ thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia đã nhận xét nhƣ thế trong bài báo cáo về bệnh ung thƣ. “Có khả năng là con người sẽ tiếp tục giảm lượng chất béo động vật và ngày càng dựa vào các sản phẩm thực vật để đưa vào cơ thể lượng protein hữu ích.”
Từ nay, các chế độ ăn có thể sẽ chứa những lƣợng sản phẩm thực vật ngày càng tăng, mà trong đó một số loại có tác dụng ngăn ngừa bệnh ung thƣ.
4) Đậu và chế phẩm
Các tài liệu dịch tễ cho thấy việc tiêu thụ thƣờng xuyên đậu, hạt đậu và chế phẩm đậu sẽ làm giảm nguy cơ ung thƣ. Đậu đƣợc chứng minh có tác dụng hạ thấp sự sản xuất acid mật đến 30%. Các acid mật cần để tiêu hóa chất béo, nhƣng khi quá liều lƣợng, chúng sẽ trở thành mầm
http://thucduong.vn Trang 46
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
mống ung thƣ, đặc biệt ung thƣ trong ruột già. Đậu cũng chứa chất xơ, có chức năng bảo vệ ruột kết và bất cứ bộ phận nào khác. Đậu tƣơng cùng chế phẩm đỗ tƣơng, nguồn protein chủ yếu trong chế độ dƣỡng sinh, đƣợc đặc biệt đề cao vì chúng tỏ ra rất hiệu quả trong việc giảm nguy cơ ung bƣớu. Đỗ tƣơng cũng chứa tác nhân ức chế khả năng thay đổi hình dạng, các đồng đẳng flavanoid, các chất xơ và những thành phần đã đƣợc chứng minh giúp ngăn ngừa ung thƣ ở vú, dạ dày và da.
Ở Nhật, tỉ lệ ung thƣ khoảng 1/5 so với ở Mỹ. Để kiểm chứng, giả thuyết cho rằng thực phẩm đỗ tƣơng chống lại căn bệnh nguy hiểm này, những nhà nghiên cứu thuộc đại học Alabama đã tiến hành thí nghiệm trên chuột, và họ nhận thấy rằng nhóm chuột đƣợc ăn tƣơng miso, natto, sốt tƣơng (shoyu) cùng những sản phẩm đỗ tƣơng lên men truyền thống khác ít bị bƣớu phát sinh hơn, nhiều bƣớu lành hơn, đồng thời tốc độ phát triển bƣớu ác tính cũng chậm hơn nhóm đối chứng.
Do đó, các nhà nghiên cứu kết luận rằng “Dữ kiện này cho thấy tương miso là một yếu tố giúp cho phụ nữ Nhật ít mắc bệnh ung thư vú”. Các hợp chất hữu cơ trong thực phẩm đỗ tƣơng lên men có thể gây hiệu ứng khoáng hóa (chemoprotective).
Một tài liệu nghiên cứu khác cho rằng những ngƣời thƣờng xuyên ăn đậu phụ ít có nguy cơ mắc bệnh ung thƣ vú hơn. Tƣơng miso cũng có tính năng chống lại bệnh bạch cầu, u huyết, ung thƣ xƣơng và những chứng ung thƣ khác do nhiễm xạ (xem phần tiếp theo: rong biển).
5) Rong biển
Rong phổ tai, wakame, nori cùng những loại rong biển ăn đƣợc chiếm phần nhỏ nhƣng rất quan trọng trong chế độ dƣỡng sinh hàng ngày. Tại Nhật Bản, một bác sĩ dƣỡng sinh ở Nagasaki – ngƣời từng sống sót qua đợt ném bom nguyên tử tháng 8 năm 1945 – đã đƣa ra một chế độ ăn rất nghiêm ngặt cho các nạn nhân cũng bị giống nhƣ ông trong đợt ném bom khủng khiếp đó, gồm gạo lứt, súp tƣơng miso, rong biển và muối biển. Kết quả thật mỹ mãn. Tất cả các bệnh nhân của ông đều đƣợc cứu sống. Trong khi đó các bệnh nhân ở các bệnh viện và trung tâm y khoa khác đa số tử vong vì bệnh tật do phóng xạ gây ra.
Kinh nghiệm này (và những trƣờng hợp tƣơng tự ở Hiroshima) đã khơi dậy nguồn cảm hứng cho các nhà khoa học, khiến họ phải bắt tay nghiên cứu bản chất một số thức ăn có tính năng chống bệnh ung thƣ. Khởi đầu từ thập niên 60, những nhà khoa học thuộc đại học Mc Gill, Montreal đƣa ra kết luận rằng tảo bẹ và những loại rong biển thông dụng khác chứa một chất có thể làm giảm 50% – 80% lƣợng phóng xạ strontium nhiễm vào ruột. Sau đó, các nhà khoa học Nhật Bản xác định rằng việc bổ sung rong biển vào khẩu phần ăn thực tế làm hạ lƣợng sacôm sinh ra xuống còn một nửa. Thí nghiệm này tiến hành trên chuột (xem bảng 7). Đối với bệnh bạch cầu, các cuộc thí nghiệm tƣơng tự trên chuột cũng thu đƣợc kết quả hứa hẹn. Tại đại học Hiroshima, chuột đƣợc ăn tƣơng miso có khả năng kháng cự những loại ung thƣ bƣớu do phóng xạ cao gấp 5 lần nhóm đối chứng.
Mƣời năm qua, ngày càng có nhiều tài liệu nghiên cứu về hiệu quả chống ung thƣ vú của rong biển. Ở trƣờng Sức khỏe Cộng đồng Harvard, ngƣời ta cũng tiến hành thí nghiệm trên chuột. Nhóm chuột cho ăn phổ tai phát sinh ung thƣ sau nhóm đối chứng. Vì vậy, các nhà nghiên
http://thucduong.vn Trang 47
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
cứu kết luận “Rong biển đã chứng tỏ tính năng chống ung thư bướu trong nhiều cuộc thí nghiệm trên sinh thể, và khi liên hệ đến tình trạng sức khỏe của người Nhật, chúng tôi thấy rằng rong biển là một thành phần rất quan trọng. Việc dùng rong biển giải thích vì sao tỉ lệ vài loại bệnh ung thư ở Nhật lại thấp.” Những nhà nghiên cứu ung thƣ ở Nhật Bản cũng đƣa ra kết luận tƣơng tự.
Các nghiên cứu về phƣơng pháp dƣỡng sinh với bệnh ung thƣ
Suốt mƣời năm qua, những tài liệu khoa học và y học nghiên cứu cách điều trị ung thƣ bằng dƣỡng sinh đã lần lƣợt ra đời.
1) Dƣỡng sinh và ung thƣ vú
Năm 1981, các nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm Y khoa New England ở Boston đƣa ra kết luận rằng phụ nữ theo chế độ dƣỡng sinh và ăn kiêng ít có nguy cơ phát triển ung thƣ vú hơn số còn lại. Vì sao?
Chế độ dƣỡng sinh giúp cơ thể xử lý chất estrogen hiệu quả hơn đồng thời bài tiết chúng nhanh hơn. Để thu đƣợc kết quả trên, các nhà nghiên cứu đã tiến hành theo dõi tình hình sức khỏe của 45 phụ nữ đang giai đoạn tiền hoặc hậu mãn kinh, một nửa theo chế độ dƣỡng sinh và một nửa theo chế độ hiện đại.
Bảng 7. Thử nghiệm dong biển chống ung bƣớu ở chuột
Mẫu dong tảo Liều lƣợng
Trọng lƣợng ung bƣớu bình quân
Tỷ lệ
ngăn ngừa
Hoàn toàn đẩy lùi
Tử
vong
Tảo đuôi ngựa fulvellum 100x10 0,18 89,3% 7/9 1/10 Kiểm soát 1,67 0/10 0/10 Rong phiến mỏng Augustata 100x5 0,08 94,8% 6/9 1/10 Kiểm soát 1,59 0/10 0/10
Rong phiến mỏng Augustata var
100x5 0,21 92,3% 5/9 1/10
Kiểm soát 2,71 0/7 0/7 Rong phiến mỏng Japonica 100x5 1,40 13,6% 2/9 1/10 Kiểm soát 1,62 0/9 1/10 Tham khảo Nhật báo Nhật Bản Experimental Medicine (1974)
Những phụ nữ này hấp thụ cùng một lƣợng calori nhƣ nhau. Mặc dù những ngƣời theo chế độ dƣỡng sinh chỉ đƣa vào cơ thể lƣợng protein và chất béo động vật bằng ⅓ so với số còn lại, họ vẫn bài tiết estrogen gấp 2 đến 3 lần. Estrogen là chất đã bị qui là 1 trong những nguyên nhân chính gây ung thƣ vú. Kết quả cuộc nghiên cứu này đƣợc xuất bản trên một tạp chí rất có uy tín “Nghiên cứu bệnh ung thư”.
2) Dƣỡng sinh và ung thƣ tụy
http://thucduong.vn Trang 48
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Sau khi nghiên cứu 24 bệnh nhân ung thƣ tụy cùng việc thực hiện phƣơng pháp dƣỡng sinh của họ, các nhà nghiên cứu thuộc đại học Tulane đã công bố trong tài liệu nhƣ sau: Cuộc sống của họ kéo dài thêm đƣợc 17,3 tháng trong khi nhóm bệnh nhân đối chứng ở Viện Điều Trị Ung Bƣớu Quốc Gia chỉ kéo dài cuộc sống thêm đƣợc 6 tháng. Hai so sánh này là trên cùng một khoảng thời gian (1984 – 1985). Tỉ lệ sống thêm đƣợc 1 năm ở nhóm bệnh nhân theo phƣơng pháp dƣỡng sinh là 54,2% trong khi ở nhóm kia là 10%. Tất cả đối chiếu này đều có ý nghĩa về mặt thống kê.
3) Dƣỡng sinh và ung thƣ bƣớu ác tính
Trong khi nghiên cứu việc áp dụng phƣơng pháp dƣỡng sinh của những bệnh nhân bị ung bƣớu ác tính, Vivien Newbold, 1 bác sĩ y khoa ở Philadelphia, đã ghi nhận vào tài liệu 6 trƣờng hợp giảm bệnh. Các bệnh nhân này bị chứng ung thƣ tụy di căn đến gan; ung thƣ hắc sắc tố ác tính, ung thƣ tế bào hình sao ác tính (bƣớu thuộc hệ thần kinh trung ƣơng), sacôm niêm mạc tử cung (bƣớu tử cung), ung thƣ tuyến ruột kết và sacôm cơ trơn vùng bụng không thể giải phẫu đƣợc (ung thƣ xƣơng). Kết quả siêu âm CAT và những khám nghiệm y khoa khác cho thấy không còn dấu hiệu ung thƣ bƣớu sau khi trung thành với chế độ dƣỡng sinh. Các trƣờng hợp này đều đƣợc xem xét riêng từng ca, đồng thời ban mô bệnh học và X quang học thuộc bệnh viện Holy Redumer ở Newdow Brook, Pensylvania đã xác nhận các chẩn đoán.
Khi xem xét các tài liệu nghiên cứu này, các nhà điều tra thuộc Quốc Hội đã đề nghị nghiên cứu sâu hơn về hiệu quả trị bệnh ung thƣ của phƣơng pháp dƣỡng sinh: “Nếu các trường hợp như Newbold đưa ra được trình bày trong các tài liệu Y khoa, chúng sẽ gây hưng phấn cho các nhà nghiên cứu lâm sàng để tiến hành những cuộc thử nghiệm chặt chẽ, quy mô trong thời gian tới về chế độ dưỡng sinh, một phương pháp hứa hẹn đem lại kết quả mỹ mãn”.
4) Dƣỡng sinh và các yếu tố có nguy cơ ung thƣ
Năm 1983, J.J. Deslypere, bác sĩ y khoa, một nhà nghiên cứu thuộc bệnh viện nghiên cứu đại học Ghent ở Bỉ, đã tiến hành 1 số thử nghiệm y khoa, đặc biệt là xét nghiệm máu, trên 20 ngƣời áp dụng chế độ ăn dƣỡng sinh. “Nói về các nhân tố có khả năng bị ung thư, loại máu này có nhiều ưu điểm nhất” ông kết luận. “Nó là loại lý tưởng, không còn loại nào tốt hơn thế đâu, đó chính là cái chúng ta đang mơ ước. Thật kỳ diệu, y như của trẻ em, những mạch máu này vẫn hoàn toàn thoáng và nguyên vẹn. Đây rõ ràng là một vấn đề rất quan trọng, rất đáng quan tâm”.
5) Dƣỡng sinh và sức khỏe toàn diện
Năm 1986, bác sĩ Peter Gruner, giám đốc khoa ung bƣớu bệnh viện St. Mary ở Montreal, ra mắt một tài liệu tổng hợp kết quả nghiên cứu khoảng 30 ngƣời theo chế độ dƣỡng sinh, mục đích của ông là tìm ra sự khác biệt quan trọng giữa tình hình sức khỏe của họ và của mọi ngƣời nói chung. Gruner đã tiến hành một loạt xét nghiệm sinh lý trên những ngƣời tham gia này, tất cả họ đều áp dụng phƣơng pháp ăn dƣỡng sinh mọi lúc với thời gian tính từ khi bắt đầu là 9 tháng đến 14 năm. Ông nhận thấy rằng họ ở trong tình trạng sức khỏe tuyệt vời.
Hiệp hội Kushi đã cộng tác vào nhiều tài liệu nghiên cứu. Những tài liệu còn lại đang đƣợc hoàn thành. Một đội ngũ các nhà nghiên cứu tại các trƣờng y khoa và bệnh viện ở Boston
http://thucduong.vn Trang 49
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
do Tiến sĩ Robert Lerman – giám đốc khoa dinh dƣỡng trị liệu bệnh viện University đứng đầu, đã công bố các kế hoạch xét nghiệm hàng trăm bệnh nhân ung thƣ áp dụng phƣơng pháp dƣỡng sinh, đồng thời so sánh tình trạng của họ với nhóm đối chứng tại Viện Ung Bƣớu học cộng tác phƣơng Đông thuộc Trung tâm Ung Bƣớu Dana Farber, Boston. Ở Đại học Tulane, các kết quả nghiên cứu ung thƣ tuyến tiền liệt và phƣơng pháp dƣỡng sinh đang chuẩn bị ra mắt, còn đại học Michigan cũng đang xem xét hiệu quả điều trị ung thƣ vú của dƣỡng sinh học.
Thập kỷ vừa qua, ngành y bắt đầu đi sâu vào môn triết học tiềm ẩn trong phƣơng pháp dƣỡng sinh, hội y học Hoa Kỳ đã ghi nhận nhƣ sau trong tài liệu “Hướng dẫn chăm sóc sức khỏe gia đình” xuất bản năm 1987:
Trong chế độ ăn dƣỡng sinh, thực phẩm rơi vào hai nhóm – âm và dƣơng (dựa vào nguyên lý đối kháng của Đông Phƣơng). Sự phân loại này tuỳ nơi trồng thực phẩm, bề mặt, màu sắc và cấu tạo. Nguyên tắc chung trong chế độ ăn này là những thực phẩm về mặt sinh học khác biệt với cơ thể nhất thì sẽ có lợi nhất cho cơ thể. Do đó, ngũ cốc trở thành nền tảng của phƣơng pháp dƣỡng sinh, ngoài ra. Dùng cá tốt hơn thịt. Dù thực phẩm tƣơi không chứa gia vị hóa học đƣợc ƣa chuộng hơn, thực chất không thức ăn nào bị cấm dùng cả vì phƣơng pháp này tin rằng thêm một thực phẩm nào đó là phản ánh một nhu cầu chính đáng của cơ thể. Nhìn chung, chế độ dƣỡng sinh là một cách ăn uống lành mạnh, hữu ích cho sức khỏe.
Năm 1991, Quỹ Sức Khỏe Hoa Kỳ công bố các kế hoạch nghiên cứu về quá trình chuyển hóa và dinh dƣỡng chính yếu với ngƣời đã thực hiện phƣơng pháp dƣỡng sinh ít nhất 10 năm.
Nếu bạn muốn tham khoả đầy đủ về các tài liệu đƣợc kể đến trong chƣơng này, xem các mục đích riêng ở phần II, ngoài ra, cuốn “Trị bệnh bằng dinh dưỡng” của Alex Jack sẽ cung cấp bản tóm tắt rất rõ ràng về 185 tài liệu khoa học và y học nghiên cứu chế độ ăn dƣỡng sinh cùng những phƣơng pháp khác xem con ngƣời là một thể thống nhất với mục đích, đem lại sức khỏe
toàn diện cho chúng ta.
Chuyển sang dùng thực phẩm nguyên chất
Thập kỷ vừa qua, hàng trăm ngàn ngƣời ở Hoa Kỳ, Canada, Châu Âu, Châu Mỹ Latinh, Trung Đông, Úc và vùng Viễn Đông đã theo đuổi “chế độ ăn ngừa bệnh ung thư”. Họ nhận thấy rằng chế độ ăn này thật sự rất ngon miệng và bổ dƣỡng. Đa số họ đều công nhận chỉ một thời gian ngắn sau khi chuyển sang dùng thực phẩm tự nhiên, cảm giác ngon miệng, thèm ăn tự nhiên đã trở lại. Bao nhiêu năm quen dùng thực phẩm tinh chế cùng vô số loại hƣơng vị nhân tạo, vị giác của chúng ta không còn nhạy cảm nữa, do đó dần quên đi hƣơng vị đậm đà tinh tế, sự đa dạng muôn vẻ của ngũ cốc và rau xanh. Việc chuyển sang dùng thực phẩm tự nhiên không chỉ giúp tăng cƣờng sức khỏe mà còn hồi phục lại cảm giác ngon miệng cho chúng ta.
Bảng 8. Chất chống ung thƣ trong thực phẩm dinh dƣỡng căn bản
Thực phẩm Chất chống ung thƣ
Ngũ cốc lứt Chất xơ dạng Vitamin E
http://thucduong.vn Trang 50
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư Đậu đỗ Chất xơ dạng Vitamin E
Tƣơng miso, tƣơng bánh, sản phẩm đậu nành khác
Chất isoflavones, dạng phytosterols, saponin, phytoestrogens
Rau xanh Hạt caroten và chất nhuộm caroten, diệp lục tố,chất xơ,Vitamin ACE Rau (lá vàng) Hạt caroten và chất nhuộm caroten, chất xơ, Vitamin A, C Rau hình chữ thập Indoles, dithiolthiones, glucosinolates, carotenoit, diệp lục tố, xơ, Vitamin A, C, E
Rong biển Xơ, diệp lục tố, fucodan, Vitamin C
Khi từ bỏ chế độ ăn hiện đại, nói cách khác, khi thực hiện việc chuyển đổi này, phải tiến hành từng bƣớc không đƣợc quá đột ngột. Ngƣng dùng thịt thì dễ thôi, hầu hết mọi ngƣời chỉ sau vài tuần đã nhận thấy rằng họ cũng chẳng đam mê thực phẩm này là bao. Tuy nhiên nếu vẫn còn thèm, hãy dùng seitan (gạo mì nấu với nƣớc tƣơng, phổ tai và nƣớc) hay tƣơng bánh tempeh (đậu nành) để thay thế. Bạn có thể ăn thƣờng xuyên hai loại này dƣới dạng bánh đậu hay ngũ cốc. Hƣơng vị và hình dạng chúng cũng giống bánh mì Hamburger đến nỗi nhiều ngƣời không phân biệt đƣợc.
Đƣờng và đồ ngọt khó bỏ hơn thịt. Nhƣng dù gì đi nữa cần phải chuyển dần sang dùng các loại chất ngọt tự nhiên để cơ thể có khả năng tự điều chỉnh lƣợng đƣờng trong máu. Đầu tiên, thay đƣờng bằng bằng sirô mật hay sirô nhựa cây thích. Khi sự cân bằng trong cơ thể đã đƣợc thiết lập (thƣờng là sau vài tuần đến vài tháng), bạn sẽ dễ dàng chuyển sang loại sirô gạo dịu hơn, hoặc mạch nha pha những chất ngọt khác cũng có thành phần chính là ngũ cốc. Khi sức khỏe đã hồi phục, chỉ cần một miếng thực phẩm chứa đƣờng, mật hay sirô cây thích cũng dễ làm xuất hiện cơn đau đầu tức thì hoặc gây khó chịu vì chức năng phòng bệnh tự nhiên của cơ thể xem đó là thực phẩm rất mất cân đối về dinh dƣỡng. Tuy vậy, ngày nay ngƣời ta đã tiêu thụ quá nhiều đƣờng và chất ngọt đến nỗi cơ thể trở nên thụ động trƣớc những phản ứng này.
Bảng 9. Ung thƣ, thực phẩm và các nhân tố khác
UNG THƢ Nhân tố tiền khởi nguy hiểm
Nhân tố cộng hƣởng Nhân tố phòng vệ lành mạnh
Vú Sữa, bơ, phô mai và các sản phẩm sữa, mỡ
đƣờng, dầu, bột mì tinh
chế, ít xơ.
Phổi Thịt, trứng, thịt gia cầm, phô mai, sản phẩm sữa,
đƣờng, dầu, bột mì tinh
chế.
Thịt, trứng, thịt gia cầm, giải khát, gia vị, thuốc, Xquang, nhuộm tóc, vải sợi nhân tạo, từ trƣờng.
Gia vị, trái cây, chất kích thích, thuốc men, thuốc lá, khí ô nhiễm, chất amiăng.
Ngũ cốc lứt, đậu đỗ, tƣơng, tƣơng bánh, đậu phụ, rau xanh, trắng, rong tảo biển, sữa mẹ.
Ngũ cốc lứt, rau xanh, vằng, đậu đỗ, rong tảo biển, khi trong sạch.
Ruột kết, tá tràng
Miệng và thƣợng vị
Thịt bò, heo, cừu và các loại thịt khác, trứng, mỡ đặc, thịt gia cầm bột mì tinh chế
Dầu, mỡ, đƣờng, sản phẩm sữa, gia vị, hóa chất, nƣớc giải khát, bột mì tinh chế, gạo trắng, rƣợu.
Đƣờng, sản phẩm sữa, dầu, gia vị, nƣớc giải khát, bia, hóa chất, thuốc men, ngồi lâu, ít hoạt động.
Thịt động vật, thịt heo, rƣợu, thuốc lá, xạ trị, thịt khô, sấy.
Ngũ cốc lứt, xơ, đậu, đậu lăng tin, rau xanh, rong tảo biển, nhai kỹ, vận động nhiều.
Ngũ cốc lứt, đậu lăng tin, đậu, rau xanh, vàng, rong tảo biển.
http://thucduong.vn Trang 51
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Bao tử Gạo trắng, bột mì tinh chế, dầu, dấm, bột ngọt,
chất kích thích, rƣợu.
Gan Thịt gà, trứng, mỡ đặc, phô mai, protein động
vật, dầu, bột mì tinh chế.
Thịt động vật, sản phẩm sữa, ô nhiễm công nghiệp kỹ nghệ.
Đƣờng, gia vị, sản phẩm sữa, thuốc trừ sâu, thuốc ngừa thai, thuốc men.
Ngũ cốc lứt, đậu đỗ, Miso, shoyu, rau xanh, trắng, rong tảo biển, gừng.
Ngũ cốc lứt, đậu rau, rong tảo biển, nấm Shiitake.
Thận và bọng đái
Mỡ, dầu, thịt, sản phẩm sữa, trứng, đƣờng.
Trái cây, nƣớc cốt, gia vị, nƣớc giải khát, chất kích thích, hóa chất, thuốc men, cà phê, nƣớc khoáng, đồ ngọt, khí ô nhiễm.
Ngũ cốc lứt, đậu lăng tin, đậu, rau xanh, vàng, rong tảo biển, nƣớc suối.
Lá lách Thịt, trứng, thịt gia cầm, phô mai, mỡ, dầu,
đƣờng.
Sữa và sản phẩm sữa, bột tinh chế, gia vị, cà phê, thuốc lá, xạ trị.
Ngũ cốc lứt, đậu xanh, vàng, rau, rong tảo biển, nấm Shiitake.
Dạ con, buồng trứng tử cung. Bộ phận sinh dục Nữ
Bộ phân sinh dục Nam,
tuyến tiền liệt, cao hoàn
Thịt, mỡ đặc, trứng, protein động vật, sản phẩm sữa, dầu.
Mỡ đặc, thịt, trứng, phô mai, sữa.
Đƣờng, bột tinh chế, trái cây, nƣớc cốt, chất kích thích, hóa chất, thuốc ngừa thai, thuốc men, diethylstillbestrol(DES)
Dầu, sản phẩm sữa đƣờng, bột mì tinh chế, trái cây, cà phê, hóa chất, thuốc men, mổ xẻ, xạ trị.
Ngũ cốc lứt, đậu xanh, vàng, rau, rong tảo biển, nấm Shiitake.
Ngũ cốc lứt, đậu xanh, vàng, rau, rong tảo biển, nấm Shiitake.
Da Mỡ, sản phẩm sữa, bột mì tinh chế, đƣờng, trái
cây, nƣớc cốt, gia vị,
nƣớc giải khát, hóa chất.
Melanoma Thịt gia cầm, đƣờng, trứng, phô mai, sản phẩm
sữa, dầu, bột mì tinh chế.
Xƣơng Thịt gà, trứng, mỡ đặc, thịt muối và thịt nƣớng.
Bạch cầu Dầu, mỡ, đƣờng, nƣớc giải khát, chất kích
thích, hóa chất.
Bạch huyết Sữa và sản phẩm sữa, đƣờng, dầu, mỡ, nƣớc
giải khát, hóa chất.
Não (trong) Thịt, sản phẩm sữa, thịt gia cầm, trứng, dầu cá.
Não (ngoài) Dầu, mỡ, đƣờng, sản phẩm sữa, gia vị, nƣớc giải khát,
hóa chất, thuốc men.
Thịt động vật, phơi nắng, ô nhiễm kỳ nghệ, đèn fluorescent, đèn huỳnh quang, từ trƣờng.
Trái cây, nƣớc giải khát, gia vị, chất kích thích, hóa chất, thuốc men, đèn ống. Đƣờng, sản phẩm sữa, chất kích thích, xạ trị, từ trƣờng, thuốc trừ sâu bọ. Thịt động vật, trái cây, gia vị, thuốc trừ sâu, xạ trị, X quang, ô nhiễm kỹ nghệ, từ trƣờng.
Thịt động vật, gia vị, thuốc trừ sâu bọ, băng den, xạ trị, X quang, sƣng cuống họng.
Đƣờng, dầu, trái cây, nƣớc cốt, gia vị, chất kích thích, thuốc men,thuốc trừ sâu. Thịt động vật, các chất nhựa vinyl chloride, vải sợi nhân tạo, từ trƣờng.
Ngũ cốc lứt, đậu tƣơng Miso, shoyu, rau, rong tảo biển.
Ngũ cốc lứt, đậu xanh, vàng, rong tảo biển.
Ngũ cốc lứt, đậu xanh, vàng, rau, rong tảo biển, nấm Shiitake, muối biển. Ngũ cốc lứt, tƣơng Miso, shoyu, rau, đậu, rong tảo biển.
Ngũ cốc lứt, đậu xanh, vàng, rau, rong tảo biển.
Ngũ cốc lứt, đậu xanh, vàng, rau, rong tảo biển.
Ngũ cốc lứt, đậu xanh, vàng, rau, rong tảo biển.
http://thucduong.vn Trang 52
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Bệnh bạch huyết, bạch cầu, não,
xƣơng, thận trẻ em
Xạ trị và môi trƣờng liên hệ đến bệnh
(bạch cầu,
bạch huyết, não, xƣơng) Bệnh AIDS Kaposi
Sacroma
Sữa và sản phẩm sữa, trứng, thịt, đƣờng, kẹo, đồ ngọt.
Sản phẩm sữa, trứng, thịt, đồ ngọt, bột mì tinh chế, các đồ ăn có acid.
Sản phẩm sữa, đƣờng, đồ ngọt, nƣớc cốt, bột mì tinh chế, đồ ăn xứ nóng, nhiều mỡ, dầu.
Thực phẩm đông lạnh, gia vị, dƣợc thảo, chất kích thích, thực phẩm nhiệt đới, thuốc trừ sâu bọ, giải phẫu viêm họng, hóa chất, xạ trị, từ trƣờng.
Từ trƣờng trên dây điện, lò năng lƣợng nguyên tử, máy vi tính, TV, máy sấy tóc, chăn điện, các thiết bị điện, X quang, đèn ống, trạm biến điện, lò nấu viba
Thịt động vật, nƣớc giải khát, rƣợu vang, rƣợu, chất phụ gia, hóa chất, thuốc men, công thức cho trẻ em, giải phẫu viêm họng.
Ngũ cốc lứt, đậu đỗ, tƣơng Miso, shoyu, rau xanh, vàng, rong tảo biển, sữa mẹ (nuôi con).
Ngũ cốc lứt, đậu tƣơng miso, shoyu, tƣơng bánh, phổ tai, rong wakame, kelp và tảo biển, muối biển, tƣơng sổi lên men trong 24h.
Ngũ cốc lứt, đậu, tƣơng Miso, shoyu, tƣơng muối sổi, tƣơng bánh, phổ tai, rong walkame, kelp,và các loại tảo biển, muối biển, nuôi con bằng sữa mẹ
Vì những yếu tố sinh lý, loại thực phẩm thứ ba – bơ sữa – mới chính là loại khó từ bỏ nhất, nhiều lúc chúng đã trở thành nguồn dinh dƣỡng chủ yếu của trẻ sơ sinh và trẻ em trong trƣờng hợp các bà mẹ không cho con bú. Tất cả chúng ta đều có mối liên hệ gắn bó mật thiết với loại thực phẩm đã nuôi nấng mình từ thuở ban đầu. Do với sữa bò hay những sản phẩm bơ sữa khác, phải rất lâu mới vƣợt qua đƣợc sự phụ thuộc vô thức này. Đó đã là xu hƣớng chung của con ngƣời ngày nay, ngay cả những ngƣời rất hiểu biết về vấn đề dinh dƣỡng. Thực phẩm đỗ tƣơng và những loại đậu khác, vốn chứa rất ít chất béo bão hòa và không có cholesterol, sẽ thay thế bơ sữa một cách tuyệt vời. Trong phƣơng pháp chế biến thức ăn tự nhiên, cơ thể dùng rất nhiều loại thực phẩm giống bơ sữa về khẩu vị và chất lƣợng để thay thế chúng, ví dụ sữa đậu nành, kem lạnh, đậu nành, sữa chua đậu nành, pho mát đậu phụ, bánh pho mát đậu phụ.
Tuỳ vào hoàn cảnh, bệnh nhân ung thƣ và những ngƣời bệnh nặng nói chung nhiều khi không có thời gian chuyển dần dần sang chế độ mới mà cần phải lập tức thực hiện một chế độ ăn nghiêm ngặt có tác dụng trị bệnh mạnh hơn. Đối với những trƣờng hợp này, bạn cần phải đƣợc cung cấp một số kiến thức nữa, hãy đọc các chƣơng tiếp theo của phần I và cả phần II.
Để việc chuyển đổi thành công, không thể bỏ qua cách chế biến thức ăn. Mọi ngƣời, dù khỏe mạnh hay ốm đau đều nên đến các chuyên gia hƣớng dẫn dƣỡng sinh để học cách nấu ăn. Một khi đã thật sự biết hết mùi vị của thực phẩm dƣỡng sinh, cách chế biến chúng, bạn có thể không bằng lòng giới hạn về số lƣợng và kỹ thuật chế biến ở điểm đó. Phải tạo ra nhiều món với hƣơng vị đa dạng tinh tế hơn hoặc bằng những kỹ năng cao hơn. Đúng vậy, không có một giới hạn, phạm vi hay tiêu chuẩn cụ thể nào cả. Nấu ăn là một nghệ thuật cao cấp, vì vậy các sách dạy phƣơng pháp nấu ăn, cả cuốn này cũng chỉ cung cấp đƣợc những hƣớng dẫn chung chung. Ban đầu bạn sẽ rất bối rối và liên tiếp lẫn lộn. Nhƣng khi đã nắm vững các nguyên tắc căn bản, bạn sẽ tự sáng chế và thử nghiệm các món ăn mới theo cảm tính của mình. Và cuối cùng bạn sẽ thành thạo các kỹ thuật chế biến không kém gì ngƣời hƣớng dẫn cho bạn.
http://thucduong.vn Trang 53
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư Chƣơng VI
NGUYÊN LÝ ÂM DƢƠNG &
MỐI LIÊN HỆ VỚI BỆNH UNG THƢ
Mọi vật trong vũ trụ không ngừng biến đổi, sự thay đổi này tiến hành theo trật tự vô hạn của vũ trụ. Lịch sử loài ngƣời đã khám phá, tìm hiểu và diễn đạt trật tự này, con ngƣời làm điều đó ở nhiều giai đoạn khác nhau bất kể họ thuộc chủng tộc nào. Và chính quá trình khám phá này đã hình thành nền tảng chung cho mọi truyền thống xã hội, kiến thức khoa học, y học, triết học và đời sống tinh thần. Lão Tử, Khổng Tử, Đức Phật, Moses, Chúa Jesus, Thánh Muhamad và những bậc thầy lỗi lạc khác đã dạy chúng ta cách thực hành trật tự vũ trụ bất diệt này trong cuộc sống hàng ngày. Sau này, suốt 20 thế kỷ, những phƣơng thức ấy vẫn không ngừng đƣợc khám phá, ứng dụng và truyền bá tại nhiều xứ sở và nền văn hóa khác nhau.
Từ sự quan sát hoạt động và suy nghĩ hàng ngày của chính chúng ta, có thể thấy rằng vạn vật đều hoạt động đều biến đổi. Chẳng hạn, điện tử chạy quanh hạt nhân trung tâm trong phân tử, trái đất xoay quanh trục và chuyển động quanh mặt trời theo quỹ đạo, thái dƣơng hệ cũng quay chung quanh thiên hà và các thiên hà lại chuyển động với vận tốc cực lớn khi vũ trụ không ngừng bành trƣớng. Tuy nhiên trong sự vận động vô tận này, nổi lên một quy luật bất biến. Những vật thể đối lập hút nhau để tạo sự hòa hợp, những vật thể tƣơng tự đẩy nhau để tránh sự bất cân bằng. Chiều hƣớng chung là chuyển đổi sang vật đối kháng. Hè chuyển sang Đông, trẻ sang già, hoạt động sang nghỉ ngơi, núi chuyển thành thung lũng, ngày thành đêm, hận thù thành yêu thƣơng, nghèo biến thành giàu, các nền văn minh phát triển rồi tàn lụi, sự sống nảy sinh rồi biến mất, đất liền chuyển thành đại dƣơng, vật chất thành năng lƣợng, không gian chuyển thành thời gian. Chu kỳ này là mãi mãi, xảy ra mọi nơi trong tự nhiên của vũ trụ.
Vài ngàn năm trƣớc ở Trung Hoa, quá trình biến đổi vũ trụ đƣợc gọi là Đạo. Kiến thức về bản chất hoạt động của hiện thực đã hình thành nên cơ sở để ra đời 2 tác phẩm “Dịch Kinh” hay “Sách Biến Dịch”. Hàng ngàn ngƣời tìm đọc, nghiên cứu hai tác phẩm này, trong đó có Khổng Tử và Lão Tử. Hai triết gia ấy đã lấy nguyên lý Âm Dƣơng làm nền tảng cho các bài giảng của mình. Nguyên lý âm dƣơng chính là qui luật vũ trụ về sự hòa hợp và tính tƣơng đối. Vì vậy, trong hầu hết các bản dịch hoàn chỉnh của cuốn Dịch kinh nhƣ bản của Wilhemlm, Baynes, chúng ta đều thấy có kèm theo cuốn Sách chú giải do Khổng Tử viết, trong đó ông diễn giải trật tự biến đổi theo hiểu biết của ngài. Lão Tử cũng viết ra lời diễn giải của ông trong cuốn Đạo Đức Kinh.
Ñaïo sinh moät
Moät sinh hai
Hai sinh ba
Ba sinh vaïn vaät
Vaïn vaät ñeàu coõng aâm boàng döông.
http://thucduong.vn Trang 54
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Bắt nguồn từ sự hòa hợp mang ý nghĩa sinh tử trong mối liên kết hoàn hảo giữa hai mạch sống.
Chúng ta cũng tìm thấy nguyên tắc tiềm ẩn tƣơng tự trong triết học phƣơng Đông. Ví dụ, trong đạo Hindu, Brahman hay linh hồn tuyệt đối phân ly thành Shiva và Parvati, nam thần và nữ thần mà vũ điệu thiêng liêng của họ đã làm phát sinh tất cả mọi hiện tƣợng trong vũ trụ. Quan niệm nhƣ thế cũng đƣợc thể hiện trong học thuyết Thần Đạo qua tác phẩm “Kojiki” hay “Sách chuyện xưa tích cũ”. Trong một dị bản của câu chuyện thần thoại về sự sáng thế, Ame–no– minakanushi, hay Năng lƣợng vô hạn, đã sinh ra Takami–musabi và Kimi–musubi – các vị thần hƣớng tâm và ly tâm, và từ hai thần này tất cả mọi hiện tƣợng vũ trụ nảy sinh. Theo Đạo Phật thế giới biến đổi này gọi là Samsara và đƣợc xem nhƣ bánh xe luân hồi do hai thế lực điều khiển – đau khổ và tình thƣơng. Các truyền thống và huyền thoại của hầu hết xã hội cổ đại, đặc biệt truyền thuyết hai anh em sinh đôi nam hoặc một nam một nữ, đều ám chỉ cùng quan niệm ấy.
Ở phƣơng Tây, nguyên lý thống nhất cũng đƣợc thể hiện dƣới vô số hình thức và tên gọi. Ở Hy Lạp cổ đại, triết gia Empedocies khẳng định rằng vũ trụ là phạm vi bất diệt của 2 thế lực, ông gọi đó là Tình Yêu và Oán Thù.
Dù ngày nay các tác phẩm của ông chỉ còn sót lại những phần vụn vặt không hoàn chỉnh, trong số đó ta vẫn còn tìm thấy một đoạn rất quan trọng làm gợi nhớ đến sách Đạo Đức Kinh. (hai tác phẩm này đƣợc viết cùng một thời kỳ):
Toâi seõ noùi leân moät chaân lyù keùp
Coù luùc,
Moät caù theå hieän höõu, treân theá giôùi naøy
Nhöng khi khaùc
Coù nhieàu söï vaät naûy sinh
Nguyeân lyù keùp chính laø sinh vaø töû
Nhöõng theá löïc aáy (Tình Yeâu vaø Oaùn Thuø)
Maõi vaãn laø chuùng
Keát hôïp nhau, vaø ñoâi khi taùch bieät cho ñeán muoân ñôøi
Vaø muoân ñôøi nhö vaäy.
Trong Cựu Ƣớc, sự luân phiên nhịp nhàng của các năng lực bổ sung nhau thƣờng đƣợc diễn đạt dƣới 2 hình ảnh “Ánh sáng và bóng tối”, ngƣời ta còn tƣợng trƣng chúng bằng ngôi sao David 6 cánh với những đƣờng cắt nhau đều đặn cân xứng. Còn trong Tân Ƣớc, cũng có chứng cứ ngụ ý cho thấy hai thế lực đối kháng liên hệ qua câu chuyện bài giảng trên núi, nơi Chúa Jesus làm phép với 5 chiếc bánh mì và 2 con cá nhỏ, khiến cho bao nhiêu ngƣời đƣợc ăn no. Có thể thấy rằng 2 con cá tƣợng trƣng cho 2 năng lực căn bản của vũ trụ, tầm trí thức của chúng làm thoả mãn mọi cơn đói tinh thần và trao tặng loài ngƣời cuộc sống bất tử. Trong Phúc Âm theo thánh Thomas, luận điềm này đƣợc giải thích chi tiết hơn qua lời nói của Chúa Jesus với các môn đồ: “Nếu có ai hỏi các con: Đâu là dấu của Cha nơi các con, hãy trả lời họ rằng: Đó chính là hoạt động và nghỉ ngơi”.
http://thucduong.vn Trang 55
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Gần đây hơn, nguyên tắc thống nhất đã đƣợc nghiên cứu và tiếp tục ứng dụng gián tiếp hay trực tiếp. Rất nhiều triết gia và nhà khoa học đã tham gia vào vấn đề này. Năm 1970, nhà viết tiểu luận ngƣời Anh Walking John Stuart có nhận xét: “Biết được vận động vật chất và tinh thần có cùng năng lực kép, hướng tâm và ly tâm; hơn nữa, các thiên thể gắn liền với quĩ đạo ổn định, nền đạo đức… chuyển động… trong quĩ đạo của xã hội”. Trong các bài viết của Ralph Waldo Emerson, quan niệm này còn có thể hiện sâu xa hơn. Chẳng hạn, ông đã viết nhƣ sau trong tiểu luận “Lịch sử”: “Không khí tôi thở từ kho chứa lớn trong tự nhiên, ánh sáng trên trang sách nảy sinh từ một ngôi sao cách xa hàng trăm triệu dặm, sự cân bằng trong tôi phụ thuộc vào sự cân bằng của hai lực hướng tâm và ly tâm, vì vậy thời khắc cần được chuỗi thời gian qui định, và ngược lại, chuỗi thời gian được lý giải bởi thời khắc. Trong ý tưởng đại đồng, mỗi cá nhân là một hiện thân nữa”.
Trong khi đó, ở Châu Âu, triết gia ngƣời Đức Hegel mặc nhiên công nhận rằng các vấn đề của con ngƣời phát sinh từ một thời kỳ trong sự thống nhất, ông gọi đó là luận điểm. Các vấn đề ấy sau khi phát sinh lại tiếp tục trải qua thời kỳ phân ly hay là phản luận, cuối cùng chúng sẽ hợp nhất lại ở mức độ cao hơn – đó là sự tổng hợp. Tất nhiên, nguyên lý biện chứng của Hegel sau này đƣợc Karl Marx nghiên cứu và xây dụng thành nền tảng suy luận triết học trong lĩnh vực chính trị, kinh tế. Nhƣng đáng tiếc là hệ thống của Marx vẫn mang nặng tính trừu tƣợng và ông không ứng dụng phép biện chứng vào lĩnh vực sức khỏe cũng nhƣ nhiều mặt quan trọng khác của cuộc sống… Vì bệnh tật kinh niên, ông không thể hoàn thành tác phẩm “Das Kapital”; vợ ông, con gái ông và ngƣời đồng sự Friedich Engels cũng đã chết vì bệnh ung thƣ.
Thế kỷ 20 này, trong vô số các nhà tƣ tƣởng và khoa học, Albert Einstein đã cảm nhận đƣợc sự đối lập bổ sung giữa thế giới vật chất hữu hình và thế giới vô hình hay còn gọi là năng lƣợng. Với tầm hiểu biết bản chất sâu sắc này, ông đã xây dựng thành công thuyết tƣơng đối, trong đó ông khẳng định rằng năng lƣợng không ngừng biến đổi thành vật chất và vật chất cũng liên tục chuyển sang dạng năng lƣợng.
Thế hệ các nhà khoa học, ngày nay đã khám phá ra bản chất hiện thực bất nhị (nondual) trong cấu trúc hình xoắn kép DNA bằng kính hiển vi điện tử. Các nhiễm sắc thể xoắn trong hạt nhân làm chúng ta nhớ đến hình ảnh truyền thuyết con rắn uốn mình tƣợng trƣng cho vị thần Hermes, thần chữa bệnh và là biểu tƣợng của ngành y.
Trong các môn khoa học xã hội, sử gia Arnold Toynbee đã lấy sự chuyển động luân phiên của hai thế lực làm nền tảng nghiên cứu về nền văn minh… Ông gọi hai thế lực ấy là Thách thức và Lời đáp. Một trong những chƣơng đầu tác phẩm nhiều tập “Nghiên cứu lịch sử” có đoạn:
Trong vô số biểu tượng được sáng tạo ra do những tư tưởng khác trong các xã hội và nền văn hóa khác nhau thể hiện sự luân phiên thay thế giữa trạng thái tĩnh và động theo nhịp điệu vũ trụ, thì Âm và Dương tỏ ra phù hợp nhất bởi vì chúng trực tiếp chứa đựng mức độ của nhịp độ này mà không phải thông qua phép ẩn dụ nào từ tâm lý học, cơ học hay toán học. Do đó từ đấy trở đi chúng ta sẽ dùng những biểu tượng Trung Quốc này trong toàn cuốn sách.
Dù đƣợc gọi bằng bất cứ tên gì, âm dƣơng cũng thống trị mọi hiện tƣợng và làm phát sinh khuynh hƣớng, chuyển động hoặc hƣớng ngoại hoặc hƣớng nội. Âm, chuyển động ly tâm hƣớng ngoại tạo ra sự dãn nở, ngƣợc lại Dƣơng, chuyển động hƣớng tâm tạo ra sự co rút. Chúng ta có thể
http://thucduong.vn Trang 56
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
thấy các khuynh hƣớng vũ trụ này ngay trong cơ thể mình. Đó là sự nở ra và co lại của tim, phổi hay trong dạ dày và ruột suốt quá trình tiêu hóa. Lĩnh vực thiên văn học và địa vật lý cũng đề cập đến hai năng lực này. Dƣơng hƣớng tâm, đi xuống phát sinh từ bên trong đƣợc chiếu xuống trái đất từ mặt trời, các sao và các thiên hà cực xa; trong khi đó, Âm, ly tâm, hƣớng lên phát sinh từ bên ngoài nhờ chuyển động của trái đất. Tất cả mọi hiện tƣợng trên mặt đất này đƣợc tạo ra và duy trì với sự cân bằng nhờ 2 năng lực này; ngƣời xƣa đã gọi chúng là quyền lực của Trời và Đất.
Sự phân loại âm dƣơng trong bảng 10 sẽ cho thấy các ví dụ thực tiễn về 2 năng lực tƣơng đối này – hai năng lực đối kháng nhƣng bổ sung nhau.
Phân loại tính chất Âm – Dƣơng của thực phẩm
Nhƣ các chƣơng trƣớc đã trình bày, thực phẩm chính là phƣơng thức tiến hóa, là cách chuyển hóa từ chủng loại này sang loại khác. Ăn uống là đem vào cơ thể cả môi trƣờng chung quanh: ánh nắng, đất, nƣớc và không khí. Để thể hiện đƣợc chế độ ăn cân đối, nhất thiết phải phân loại tính âm dƣơng của thực phẩm. Việc phân loại này sẽ dựa vào các yếu tố phát triển và cấu tạo của thực phẩm.
∇ ÂM Δ DƢƠNG
Phaùt trieån trong khí haäu noùng
Phaùt trieån trong khí haäu laïnh
Chöùa nhieàu nöôùc
Chöùa ít nöôùc
ÔÛ quaû vaø laù
ÔÛ thaân, reã vaø haït
Moïc leân cao caùch maët ñaát
Moïc döôùi maët ñaát (höôùng taâm)
Chua, ñaéng, ngoït saéc, noùng, thôm, dòu
Maën, ngoït thanh, haêng, cay
Để phân loại thực phẩm, phải thấy các yếu tố nổi bật bởi vì thực phẩm nào cũng đều mang 2 tính âm dƣơng. Một trong những phƣơng pháp chính xác nhất là quan sát chu kỳ phát triển của thực vật sẽ dùng làm thức ăn. Vào mùa đông, khí hậu lạnh (âm), năng lƣợng cây trồng sẽ dồn vào phần rễ. Lá úa và rụng vì tất cả nhựa sống đã chuyển xuống dƣới, cấu tạo cây trở nên đặc hơn. Vì vậy, cây trồng dùng làm thực phẩm nếu chịu khí hậu cuối thu và đông thƣờng khô và chắc ruột; có thể giữ đƣợc lâu mà không bị thối rữa. Một số tiêu biển là cà rốt, củ cải và bắp cải. Vào tiết xuân hay hè, năng lƣợng của cây chuyển lên thân cành, lá xanh mọc lại vì trời đã nóng hơn (dƣơng). Các cây này mang tính chất âm. Cây trái mùa hè thƣờng mọng nƣớc và dễ bị hƣ.
Chúng có tác dụng làm mát, vốn rất cần thiết trong tiết trời nóng bức cuối mùa hè, năng lƣợng cây đạt đến mức dồi dào nhất, trái cây chín, mọng nƣớc, ngọt và vàng vƣơn lên cao hơn nữa.
Bảng 10. Các ví dụ về tính Âm Dƣơng
∇ Âm Δ Dƣơng
Thuộc tính Ly tâm lực Cầu tâm lực Khuynh hƣớng Bành trƣớng Co rút
http://thucduong.vn Trang 57
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Nhiệm vụ Tỏa ra Tách rời
Phân ly
Phát tán
Gom lại Tập hợp Tổ chức Hợp nhất
Chuyển động Thụ động, chậm Tích cực, nhanh Rung chuyển Làn sóng ngắn, tần số cao Làn sóng dài, tần số thấp Hƣớng Lên, dọc Xuống, ngang Vị trí Ra ngoài, ngoại Rút vào tâm Trọng lƣợng Nhẹ Nặng Nhiệt độ Lạnh Nóng Ánh sáng Tối Sáng Độ ẩm Khô Ƣớt Độ dày Mỏng Dày Cỡ Lớn Nhỏ
Dạng Bành trƣớng Mỏng manh
Co rút
Cứng chắc
Thể Dài Ngắn
Chất liệu Mềm Cứng
Nguyên tử Âm điện tử Dƣơng điện tử Nguyên tố N, O, P, Ca, vv.. H, C, Na, As, Mg , … Môi trƣờng Rung động … Không khí Nƣớc … Đất Khí hậu Nhiệt đới Hàn đới Sinh học Rau đậu Thịt động vật Giới tính Nữ Nam
Cấu trúc tạng phủ Rỗng, to bản Đặc, gọn gàng Thần kinh Trực giao cảm Đối giao cảm Tình cảm, thái độ Nhẹ nhàng, thụ động, tiêu cực Sấn sổ, tích cực, chủ động Việc làm Trí não, tâm trí Sức lực, xã hội Ý thức Đại chúng Đặc biệt Đầu óc Lo toan tƣơng lai Lo toan quá khứ Văn hóa Hƣớng về tinh thần Hƣớng về vật chất Chiều Không gian Thời gian
Chu kỳ hàng năm này cho thấy năng lƣợng âm dƣơng luân phiên chuyển động theo mùa, có thể mở rộng khái niệm này để lý giải về mặt không gian. Cây trái có nguồn gốc nhiệt đới, xứ nóng sẽ rất xum xê và cho thực phẩm âm tính, cây trái sinh từ vùng khí hậu gần 2 cực lạnh, cho thực phẩm dƣơng tính. Cũng có theå phân loại theo màu sắc dù có khá nhiều ngoại lệ. Màu âm tính là tím, chàm, xanh lá cây và trắng, màu dƣơng tính là vàng, nâu và đỏ. Ngoài ra, nên xét đến thành phần hóa học, chẳng hạn Natri là dƣơng tính (co cụm), Kali là âm tính (dãn nở) khi phân loại tính chất âm dƣơng của thực vật và thực phẩm.
Trong việc thực hiện chế độ ăn hàng ngày, cần tập lựa chọn cho phù hợp chủng loại, chất lƣợng, số lƣợng của cả 2 thực phẩm rau và thịt. Chỉ trừ một vài ngoại lệ, còn ngoài ra hầu hết thực phẩm thực vật đều âm tính hơn thực phẩm động vật vì những lý do sau đây:
1. Thực vật ở cố định một nơi, nói cách khác là tĩnh tại, động vật chuyển động với mức độ tuỳ theo loài, chúng có thể bao phủ một diện tích rộng lớn nhờ việc di chuyển. 2. Thực vật có cấu trúc mở, phần thân chính mọc từ mặt đất hƣớng lên trời hoặc trải rộng theo chiều ngang. Ngƣợc lại, động vật là những thể tách biệt, gói gọn. Thực vật có xu
http://thucduong.vn Trang 58
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
hƣớng khuyếch trƣơng hơn, chẳng hạn cành lá mọc đâm ra ngoài trong khi cơ thể động vật có tính hƣớng nội, các cơ quan và tế bào tạo thành những khối vững chắc. 3. Thân nhiệt thực vật mát hơn, nói chung chúng hấp thụ CO2 và giải phóng oxy. Động vật, trái lại, hấp thụ oxy và thải CO2. Thực vật có màu xanh đặc trƣng, có chất diệp lục; động vật lại có màu đỏ, huyết cầu tố. Dù cấu trúc hóa học giống nhau nhƣng hạt nhân trong chất diệp lục chứa nhiều magiê còn hạt nhân trong huyết cầu tố chứa nhiều chất sắt.
So với động vật, thực vật âm tính hơn. Giữa các loại thực vật với nhau cũng có sự phân hóa âm dƣơng, vì nhƣ đã nói tính âm dƣơng là tƣơng đối, không thể nói cái gì hoàn toàn âm hay hoàn toàn dƣơng mà chỉ xác định đƣợc chúng mang tính chất nào nhiều hơn thôi. Thông thƣờng, các loại cây âm tính thích hợp với mùa ấm trong năm hoặc với vùng khí hậu ấm nóng, trong khi đó các yếu tố dƣơng của thời tiết sẽ đƣợc cân bằng một cách vô hại bởi tính chất âm của cây. Ngƣợc lại, trong điều kiện môi trƣờng lạnh, chúng ta có thể bổ sung yếu tố âm này bằng chế độ ăn gồm nhiều thực phẩm dƣơng tính. Có thể tăng độ dƣơng tính của thực phẩm bằng cách nấu kỹ hơn hoặc thêm nhiều muối hơn, tăng áp suất hoặc sức nóng trong lò.
Nhƣ vậy, chúng ta có thể phân loại âm dƣơng mọi thực phẩm. Nói chung, thực phẩm động vật thƣờng là cực dƣơng; trái cây, bơ, sữa, đƣờng và gia vị cực âm; ngũ cốc, đậu và rau nằm ở khoảng giữa nên khá trung tính. Trong các loại cực dƣơng, lại có thể phân biệt tiếp từ thặng dƣơng đến thiếu dƣơng, chúng theo trình tự sau đây: muối, trứng, thịt, gia cầm, pho mát
mặn, cá. Trong các loại cực âm, trình tự thiếu âm đến thái âm nhƣ sau: sữa và sản phẩm bơ sữa, rau trái nhiệt đới, cà phê, trà, rƣợu, gia vị, mật, đƣờng, thức uống giải khát hay gia vị nhân tạo, cần sa, cocain và các loại thuốc phiện khác, có hầu hết trong mọi dƣợc phẩm.
Trong vùng trung tâm của sự phân loại âm dƣơng, xét tƣơng đối thì ngũ cốc dƣơng hơn, sau đó là đậu hạt, củ rau lá tròn, rau lá dài, rộng, các loại quả hạch và trái cây trồng ở vùng ôn đới.
Vì chúng ta phải luôn duy trì sự cân bằng và hòa hợp âm dƣơng để thích nghi với môi trƣờng xung quanh nên khi ăn một loại thực phẩm cực âm hay cực dƣơng, tự nhiên chúng ta sẽ thấy thèm loại có tính đối kháng, chẳng hạn, chế độ ăn gồm nhiều thịt, trứng – nói chung là thực phẩm động vật, vốn rất dƣơng tính, vậy nó sẽ đòi hỏi lƣợng thực phẩm cực âm tƣơng ứng nhƣ trái cây nhiệt đới, đƣờng, rƣợu, gia vị và đôi khi cả dƣợc phẩm.
Tuy nhiên, chế độ ăn dựa trên các thực phẩm đối cực nhƣ vậy rất khó tạo cân bằng lý tƣởng, mà thƣờng dẫn đến bệnh tật. Nguyên nhân chẳng phải điều gì bí ẩn, đó chỉ là sự bất cân đói do tình trạng thái âm, thái dƣơng, hay cả hai. Trong số các thực phẩm, thì ngũ cốc thô là loại độc nhất có phẩm chất lý tƣởng.
Cũng nhƣ hạt và trái cây, chúng hợp nhất 2 giai đoạn khởi điểm và kết thúc của chu kỳ sinh dƣỡng, là thực phẩm cân đối về âm dƣơng nhất. Vì lý do tiến hóa này, cũng nhƣ vì thành phần dinh dƣỡng cân đối của chúng cùng khả năng kết hợp hoàn hảo với những loại thực phẩm thực vật khác, ngũ cốc nguyên chất đã trở thành thức ăn chính của con ngƣời thuộc mọi nền văn minh trƣớc đây; chính nhờ nó mà nhiều xứ sở không hề biết đến bệnh ung thƣ.
http://thucduong.vn Trang 59
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư Phân loại bệnh theo Âm – Dƣơng
Nguyên lý âm dƣơng cũng đƣợc ứng dụng trong việc phân tích cấu trúc cơ thể cũng nhƣ nguồn gốc và quá trình tiến triển của bệnh tật. Chẳng hạn, trong cơ thể chúng ta, hai nhánh thần kinh tự quản – hoạt động đối lập nhƣng bổ sung nhau, nhằm kiểm soát các chức năng tự động của cơ thể. Các tuyến nội tiết cũng vận hành theo cách tƣơng tự. Ví dụ, tụy tiết ra insulin, hạn chế mức độ đƣờng trong máu, đồng thời cũng tiết chất kháng insulin làm tăng lƣợng đƣờng này.
Nhiều loại bệnh gây nên bởi khuynh hƣớng dãn nở thái quá và nhiều loại khác ngƣợc lại, bởi khuynh hƣớng co rút thái quá. Một ví dụ điển hình của bệnh dƣơng tính là cơn nhức đầu do các mô và tế bào não co ép lại, dồn vào nhau. Trái lại, cơn nhức đầu âm tính phát sinh khi các mô và tế bào sƣng phồng hoặc dãn nở ra, chúng cũng dồn ép lên nhau và kết quả là gây ra cơn đau. Do đó, các triệu chứng tƣơng tự nhau có thể có hai nguyên nhân đối lập gây ra.
Đặc tính của ung thƣ là tăng nhanh số tế bào, trong trƣờng hợp này, ung thƣ là hiện tƣợng âm tính. Thực chất, nguyên nhân ung thƣ phức tạp hơn nhiều. Mọi ngƣời đều biết ung thƣ có thể phát sinh gần nhƣ ở tất cả mọi nơi trên cơ thể: da, não, gan, tử cung, ruột kết, phổi, xƣơng… đó là những dạng phổ biến. Nguyên nhân của mỗi loại có hơi khác nhau.
Để hiểu vấn đề này sâu hơn, hãy xem xét sự khác biệt giữa ung thƣ tuyền tiền liệt và ung thƣ vú. Cả hai dạng này đều đang có chiều hƣớng gia tăng. Gần đây, các hormone nữ đã đƣợc tạm thời dùng để kìm hãm ung thƣ tuyền tiền liệt. Đồng thời, ngƣời ta cũng tìm thấy một loại hormone nam có tác dụng kìm hãm tƣơng tự đối với ung thƣ vú. Tuy nhiên, khi tiêm các hormone nữ cho những ngƣời mắc bệnh ung thƣ vú, bệnh tình của họ sẽ càng nặng thêm; các hormone nam cũng cũng làm tăng tốc độ tiến triển ung thƣ tuyến tiền liệt. Vì vậy, phụ nữ dùng thuốc ngừa thai chứa estrogen có nguy cơ ung thƣ vú cao.
Ví dụ cho thấy ung thƣ vú và tuyến tiền liệt có 2 nguyên do khác nhau. Vì các hormone âm tính giúp kìm hãm ung thƣ tuyền tiền liệt, có thể giả định rằng bệnh này gây ra do yếu tố dƣơng thái quá. Trái lại, ung thƣ vú tạm thời bị hormone nam kìm hãm nên chúng có nguyên nhân là sự thái âm. Nói chung, chúng ta có thể phân biệt 2 loại âm dƣơng dựa vào nguyên nhân của chúng. Loại một do tiêu thụ quá nhiều thực phẩm cực dƣơng gồm trứng, thịt, cá, gia cầm, thực phẩm bơ sữa đặc ruột nhƣ pho mát, thức ăn mặn, bánh bột nƣớng. Loại hai do tiêu thụ quá nhiều thực phẩm cực âm gồm thức uống giải khát, đƣờng, sữa và kem, cam quít, chất kích thích, hóa chất, bột tinh chế, gia vị, thức ăn có gia vị nhân tạo.
Nói chung, nếu ung thƣ phát sinh ở những bộ phận nằm sâu trong cơ thể hay liên hệ đến các cơ quan nội tạng có cấu trúc chắc đặc nguyên do của bệnh là tiêu thụ quá nhiều thực phẩm dƣơng tính. Ung thƣ âm tính thì phát triển ở những bộ phận ngoại vi bên trên hoặc ở những cơ quan nằm nông, có cấu trúc rỗng hơn. Tuy vậy, sự phân loại này cũng chỉ mang tính tƣơng đối. Dù ung thƣ là hậu quả của sự thái quá của một trong hai yếu tố âm hoặc dƣơng, đôi khi nguyên nhân ung thƣ cũng bao gồm luôn yếu tố còn lại. Ví dụ nhƣ khi tiêu thụ quá độ thực phẩm dƣơng tính, cơ thể lại đòi hỏi lƣợng thực phẩm cực âm tƣơng ứng và chính việc 2 thái cực này đi song hành nên đã làm ung bƣớu phát triển. Nhƣ vậy,
http://thucduong.vn Trang 60
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
đời sống của ngƣời Eskimo, phần lớn họ ăn thịt và cá. Ung thƣ hoàn toàn xa lạ cho đến khi thực phẩm tinh chế và cuộc sống hiện đại xâm nhập vào. Các yếu tố cực âm này đã kích thích chế độ ăn thông thƣờng vốn rất dƣơng tính của họ. Kết quả là nhiều loại ung bƣớu ác tính bắt đầu xuất hiện.
Cũng vậy, phía bên trong các bộ phận cơ thể đều nghiêng về 1 trong 2 khuynh hƣớng âm hoặc dƣơng. Ví dụ, dạ dày là bộ phận âm tính vì nó nằm khá nông và có cấu tạo dãn nở so với các cơ quan khác nhƣ tụy. Tụy có cấu trúc bền chắc, gọn. Tuy vậy, ngay chính dạ dày cũng có sự phân hóa trong nó, phần trên nở rộng hơn, tiết ra acid mạnh (nhiều âm tính), dƣới gọn hơn, tiết ra acid yếu hơn (ít âm tính). Nhƣ vậy, phần trên có khuynh hƣớng âm, phần dƣới có khuynh hƣớng dƣơng. Những dạng ung thƣ có thể phát sinh ở phần trên dạ dày thƣờng là do tiêu thụ thực phẩm nhƣ đƣờng, bột ngọt, gạo trắng, bột trắng và những thực phẩm cực âm khác; trong khi đó các ung bƣớu phát sinh ở phần dƣới dạ dày thƣờng có nguyên do tiêu thụ quá độ thịt, trứng, cá, và những thực phẩm cực dƣơng khác, kèm với các chất âm tính. Ở Nhật, các thực phẩm âm tính này rất đƣợc ƣa dùng, tỉ lệ ung thƣ bao tử của ngƣời Nhật thuộc loại rất cao. Ở Mỹ, nơi thực phẩm động vật đƣợc tiêu thụ rộng rãi, các dạng ung thƣ ruột già, trực tràng, tuyến tiền liệt và buồng trứng phát triển mạnh vì nguyên nhân là việc dùng quá nhiều thực phẩm dƣơng tính, trong đó có chất béo bão hòa. Những dạng ung thƣ còn lại nhƣ ung thƣ phổi, thận, bàng quan và ở những cơ quan nằm về phía trung tâm trong cơ thể hơn, thƣờng gây ra do sự kết hợp thực phẩm cực âm và cực dƣơng; mà thực phẩm dƣơng tính là nguyên nhân chính.
Bảng 11 sẽ liệt kê những dạng ung thƣ phổ biến và tính chất âm hay dƣơng của chúng, nên luôn luôn nhớ rằng ngay cả những phần khác nhau của cùng một cơ quan – chẳng hạn phần trên hay vùng dƣới, phần nở rộng hay phần thu hẹp, phần ngoại vi hay phần trung tâm, phần hƣớng lên hay phần hạ xuống đều có mức độ âm dƣơng tƣơng đối khác nhau, bởi sự kết hợp thực phẩm âm dƣơng với nhau rất đa dạng. Để giảm tốc độ phát triển ung thƣ, phải bắt đầu thực hiện chế độ ăn nghiêm ngặt, tránh mọi loại thực phẩm cả cực âm và cực dƣơng. Chế độ ăn cân đối nói trên dựa vào ngũ cốc nguyên chất, đậu và rau chín, nó sẽ giúp chúng ta chống lại hoặc kìm hãm ung thƣ gây ra bởi sự mất cân bằng âm dƣơng. Tuy nhiên, nhƣ thế không có nghĩa là ai cũng phải áp dụng 1 chế độ dinh dƣỡng giống nhau. Đối với ngƣời mạnh khỏe, chế độ ăn ngừa bệnh ung thƣ vẫn cho phép dùng rất nhiều loại thực phẩm chế biến theo nhiều phƣơng pháp khác nhau, họ có thể chọn lựa sao cho phù hợp với nhu cầu cá nhân, sở thích, khẩu vị ... Đối với ngƣời đang bị ung thƣ hoặc đang trong giai đoạn tiền ung thƣ nghiêm trọng thì phải thực hiện chặt chẽ 1 chế độ ăn nghiêm ngặt cho đến khi phục hồi sức lực, sau đó họ có thể dần dần dùng thêm nhiều món khác để khẩu phần ăn thêm đa dạng và ngon miệng hơn.
Bảng 11. Phân loại ung thƣ theo Âm và Dƣơng
Ngả về ÂM Ngả về DƢƠNG ÂM&DƢƠNG tổ hợp Vú Ruột kết Phổi
Dạ dày (thƣợng vi) Tiền liệt tuyến Bọng đái / thận Da Trực tràng Tử cung Miệng (trừ lƣỡi) Buồng trứng Gan
Esophagns Xƣơng Lá lách
Bạch cầu Tuyến tùng Melenoma Hodgkin’s Não (trong) Lƣỡi
Não (ngoài) Dạ dày (hạ vị)http://thucduong.vn Trang 61
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư Chƣơng VII
HẠN CHẾ UNG THƢ BẰNG PHƢƠNG PHÁP TỰ NHIÊN
Trong việc trị bệnh bằng phƣơng pháp dinh dƣỡng, điều quan trọng là phải xác định đúng tính âm dƣơng của bệnh. Bệnh có thể do thái âm, thái dƣơng hoặc cả hai. Điều này đặc biệt đúng với những bệnh có nguy cơ tử vong nhƣ ung thƣ. Một khi đã xác định đúng việc đề ra một phƣơng pháp dinh dƣỡng thích hợp sẽ dễ dàng hơn. Phƣơng pháp này phải rõ ràng, không đƣợc chung chung và nhằm điều trị ngay trƣờng hợp cụ thể đó. Nơi khối u phát sinh sẽ quyết định khuynh hƣớng âm dƣơng của ung thƣ. Tuy nhiên, đôi khi, nhƣ chúng ta đã biết, ung thƣ tại một cơ quan nào đó có thể do cả hai yếu tố âm dƣơng thái quá. Nếu ung thƣ thặng tính dƣơng, ngƣời bệnh nên theo chế độ ăn ngừa bệnh ung thƣ tổng quát, bổ sung theo yếu tố âm. Nếu ung thƣ âm tính thì ngƣợc lại, nên áp dụng chế độ ăn chuẩn này và điều chỉnh tí chút để tăng yếu tố dƣơng. Đối với ung thƣ gây ra do sự thái quá của hai yếu tố, một chế độ ăn dung hòa sẽ tỏ ra thích hợp. Trong mọi trƣờng hợp đều phải tránh thực phẩm cực âm hay cực dƣơng vì chính chúng đã làm phát sinh căn bệnh chết ngƣời này. Bằng cách tập trung vào chế độ dinh dƣỡng và khi cần thiết điều chỉnh hợp lý để bổ sung yếu tố còn thiếu, sức khỏe cân bằng của ngƣời bệnh sẽ đƣợc hồi phục. Phƣơng pháp rất đơn giản này dựa trên cách chữa trị truyền thống và kết hợp y học Đông – Tây, trong cuốn “Bản chất con người” của Hippocrates, có đoạn: “Bệnh do ăn uống quá độ sẽ được điều trị bằng cách ăn kiêng, bệnh do suy dinh dưỡng cần điều trị bằng cách ăn no. Bệnh do lao lực cần phải nghỉ ngơi, bệnh do biếng nhác phải: hoạt động. Tóm lại: người thầy thuốc phải trị bệnh dựa trên nguyên tắc đối kháng đến tận căn nguyên bệnh theo chủng loại của chúng; tỷ lệ mắc bệnh tùy thuộc vào thời tiết và độ tuổi phải lấy thư giãn để trị căng thẳng và ngược lại. Chính điều đó sẽ đem lại cho bệnh nhân sự thuyên giảm hữu hiệu nhất. Đối với tôi, đó cũng chính là nguyên tắc trị bệnh”. Các bài viết về phƣơng pháp chữa bệnh của Hippocrat đã mƣợn nhiều khái niệm phân cực và tƣơng đối để mô tả các cơ quan trong cơ thể, các loại thực phẩm trị bệnh và các thể trạng đa dạng của con ngƣời. Chúng bao gồm những cặp đối kháng sau đây: mạnh/yếu, hung dữ/nhu mì, thon dài/rỗng. Qua hơn 2500 năm, nguyên lý thống nhất dần dần mai một từ khi nền y học phƣơng Tây phải hiện ra những vật nhỏ hơn qua kính hiển vi, ngƣời ta không xem bệnh tật nhƣ một tổng thể hay tạng phủ nữa mà ở mức độ mô tế bào. Thay vì coi bệnh là một dạng điều chỉnh của sức khỏe thì y khoa hiện đại xem xét sức khỏe và bệnh tật là thù địch của nhau. Thay vì coi bệnh tật phát triển từ một trong hai hƣớng căn bản trên thì y khoa thời nay phân loại các bệnh thành muôn ngàn triệu chứng và nhóm phụ không tƣơng quan.
Nếu thầy thuốc không phân biệt đƣợc khuynh hƣớng căn bệnh thuộc âm hay dƣơng thì họ sẽ không sao giải thích đƣợc tại sao có bệnh nhân dùng thuốc bị phản ứng quyết liệt còn ngƣời bệnh khác thì không. Điều đó giải thích tại sao mà rất nhiều cách trị liệu bằng dinh dƣỡng cho công chúng tạo đƣợc kết quả đan xen hay thậm chí thất bại hoàn toàn. Ví dụ vitamin C là một chất tố âm giúp cho ngƣời hấp thụ quá nhiều thực phẩm dƣơng trong bệnh cảm hàn. Vậy mà liều lƣợng vitamin C lại làm suy yếu cho ngƣời bị cảm hàn do dùng quá nhiều thực phẩm âm nếu nhƣ
http://thucduong.vn Trang 62
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
loại ngƣời này dùng nó hàng ngày để hỗ trợ sức khỏe, làm thế họ vô tình gia tăng chất tố âm trong cơ thể. Bảng giới thiệu khuyên dùng các vitamin X, thuốc Y hay thực phẩm nọ nhằm ngăn ngừa hay giảm bệnh ung thƣ mà không tính đến hai dạng bệnh là âm hay dƣơng là điều khiếm khuyết, nếu bỏ phần thể trạng của mỗi ngƣời và sự khác biệt về địa lý, xã hội, các yếu tố riêng tƣ, chính là cái mà khoa học hiện đại ra sức biện minh cho cách dùng thuốc của họ bây giờ. Mặt khác, giới y khoa tỏ ra có lý trong cách đặt vấn đề với giới khoa học nhằm tập trung vào dùng thuốc lấy lƣợng chứ không kể đến chất lƣợng. Họ không hƣớng dẫn quần chúng tiêu thụ thực phẩm tự nhiên có sẵn vitamin C nhƣ bông cải, sẽ giúp cơ thể hấp thụ tốt hơn thuốc viên vitamin C – cho dù lƣợng thực phẩm kia có đủ thành phần nhƣ thuốc viên.
Cân nhắc chế độ dinh dƣỡng
Nhìn chung, chế độ dinh dƣỡng cần phục hồi trƣớc điều kiện Âm và Dƣơng, nếu Âm thiếu thì nên lấy lại Âm trƣớc và ngƣợc lại nhƣ vậy về phía Dƣơng. Những dấu hiệu chứng tỏ Âm thặng là: trạng thái thụ động, tính tiêu cực, rụt rè… trong khi Dƣơng thặng là: trạng thái tích cực, tính ngổ ngáo, ồn ào. Một khi sự cân bằng tự nhiên đã ổn định thì cơ thể không còn tích tụ chất độc dƣới dạng bệnh ung thƣ nữa. Nếu chúng ta nắm đƣợc mấu chốt chỉ nam này, thì ta sẽ tránh mắc vào những triệu chứng gây bệnh bất tận.
Nếu ngƣời nào không phân định đƣợc chứng bệnh thuộc loại Âm hay Dƣơng thì có thể xin Viện dinh dƣỡng ngăn bệnh Ung thƣ Trung Ƣơng giúp ý kiến nhằm tránh sự định nhóm bệnh sai lạc.
Vì ung thƣ là một gốc bệnh chủ về thặng dƣ, nên ngƣời nào mắc phải nên thận trọng, nhất là tiết giảm khẩu phần tối đa. Có hai lời khuyên quan trọng nhằm ngăn ngừa căn bệnh này. Thứ nhất là cần “nhai kỹ” nghĩa là mỗi miếng nhai ít nhất là 50 lần, nhiều hơn cho tới 120 lần lại càng hay, nhằm thức ăn “hóa lỏng”. Tiên sinh Ohsawa có thói quen mỗi bữa ăn ông thƣờng ăn ba miếng đầu tiên mỗi miếng nhai 200 lần…
Bảng 12. Tự đánh giá sức khỏe
Thặng Âm Thặng Dƣơng
Tiêu cực Hùng hổ
Quá thƣ giãn Quá tích cực
Buồn nản Tức giận, dễ cáu bẳn
Rụt rè Tấn công, không khoan nhƣợng
Tự thƣơng cảm Tự tôn, tự hãnh
Nói giọng nhỏ Nói to tiếng
Cơ bắp nhão Cơ bắp cứng
Da ẩm Da khô
Mỗi ngƣời có thể ăn tuỳ thích, miễn là thức ăn phải hoàn toàn hòa trộn với nƣớc bọt tiết ra, là điều cần yếu để tiêu hóa thuận tiện. Điểm thứ hai là không ăn trong khoảng 3 tiếng trƣớc khi đi ngủ. Vì thức ăn trong khoảng thời gian này không kịp tiêu hóa sẽ ứ lại trong bao tử và hóa
http://thucduong.vn Trang 63
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
thành chất nhầy và mỡ, từ đó sẽ đẩy mạnh tiến trình đến bệnh ung thƣ. Về nƣớc uống, chỉ nên uống khi cảm thấy thật khát – tránh uống theo thói quen khi có đồ uống ở gần bên.
∇ Tím ⮚ Xanh ⮚ Xanh ⮚ Vàng ⮚ Nâu ⮚ Cam ⮚ Đỏ Δ
Rau củ Con ngƣời (Diệp lục tố, Mg) (Hồng cầu, Fe)
Ngày càng giảm
Bảng màu trên chỉ hƣớng màu từ Âm sang Dƣơng . Tiến trình nhân hóa (I) chỉ cho màu xanh rau củ, để chuyển hóa sang máu và tế bào cơ thể. Bệnh ung thƣ đi theo qui trình ngƣợc lại (II) do tế bào cơ thể bị thoái hóa nên làn da ngƣời bệnh thƣờng có vết màu xanh lá cây xuất hiện.
Với chứng ung thƣ Âm hoặc Dƣơng tính, ngƣời ta đều nên hết sức tránh những món có thịt động vật nhƣ thịt, mỡ, cá, thịt gia cầm, các sản phẩm từ sữa và những thức ăn gồm cả dầu thực vật.
Tuy nhiên, ngƣời bị bệnh ung thƣ Âm tính có thể ăn một lƣợng nhỏ cá một đến hai lần trong tuần nếu đang quá thèm. Trong trƣờng hợp này, nên dùng cá khô nhỏ con nấu canh súp là hay hơn.
Còn với ngƣời ung thƣ Dƣơng tính, thì nên kiêng hẳn các thức ăn động vật gồm cả cá ít ra là trong vài ba tháng đầu. Trong cả hai trƣờng hợp trên, nếu có bơ hay hạt hạnh nhân thì cũng cần kiêng hoặc dùng ít thôi, vì loại này có hàm lƣợng dầu và đạm khá cao. Ngƣời ta còn khuyên ngƣời bệnh Âm tính nên tránh hẳn hoặc hạn chế dùng trái cây và đồ tráng miệng. Với ngƣời bệnh Dƣơng tính, thì có thể thỉnh thoảng dùng loại nấu chín, loại khô và trong vài trƣờng hợp, có thể ăn thứ tƣơi – nhƣng chỉ khi nào thèm quá mà thôi.
Với cả hai loại bệnh ung thƣ Âm và Dƣơng tính, cách nấu rau có điều phân biệt. Bệnh Dƣơng tính cần nấu rau cắt khúc bỏ vào nồi trƣớc khi đã sôi kỹ trong vòng vài phút hoặc chỉ trong một phút rồi vớt ra, nêm một chút tƣơng sổi – shoyu cho ngon miệng. Một cách nữa là xào rau nhanh với lửa lớn từ hai đến ba phút, ném nhúm muối là đƣợc. Cách nấu này giữ cho rau giòn và xanh là đặc tính Âm của rau. Với ung thƣ Âm tính, rau nên nấu khác đi, cần nấu lâu và kỹ hơn, có thể nêm tƣơng sổi shoyu hay tƣơng đặc miso làm tăng hƣơng vị lên một chút. Cần lƣu ý là rau xanh nhƣ cải xoong, bắp cải (đặc biệt là cải xoắn) thiên về Âm tính hơn. Rau củ nhƣ cà rốt, củ cải là loại ngả về Dƣơng tính; hành củ hay bí đỏ lại Dƣơng tính hơn một bậc.
Về nƣớc uống thƣờng ngày, hiện nay có nhiều loại trà (Bancha) là già 3 năm bày bán ở các cửa hàng thực phẩm thiên nhiên hay cửa hàng dƣỡng sinh. Có loại trà cành già mà ngƣời Nhật gọi là Kukicha, đều là lấy từ cây trà già. Trà lá xanh thu hoạch vào mùa Hè, lá hái trên cành, nhánh. Tuy nhiên, một số lá già còn bám trên thân cuối cùng tự nhiên rụng xuống, lá nó dày, khô và màu sậm nhiều so với trà lá xanh. Loại lá này gọi là trà già (Bancha). Còn có loại trà cành, nhánh phơi khô. Trà lá xanh Âm tính hơn lại có nhiều vitamin C, có công dụng thải trừ chất độc hại thịt cá tích tụ trong thân. Trong khi trà già chế từ cành nhánh là loại Dƣơng tính chứa ít vitamin C, nhƣng lại dồi dào chất vôi – canxi và các khoáng chất.
http://thucduong.vn Trang 64
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Với cả hai loại bệnh ung thƣ, chuyên gia dƣỡng sinh đều khuyên họ dùng loại trà cành già – Kukicha làm đồ uống hàng ngày rất bổ dƣỡng lành mạnh. Tuy nhiên, ngƣời bị ung thƣ Dƣơng tính thỉnh thoảng có thể dùng lá trà xanh nhƣng chỉ có chừng thôi: trà xanh không nên dùng cho những bệnh ung thƣ Âm tính khác. Hiển nhiên các loại trà đen và trà thơm chế biến bằng các hóa chất đều nên tránh xa, kể cả ngƣời khỏe mạnh.
Trong vô số những món ăn hàng ngày nhƣ muối mè (Gomashio) hay mơ muối (Umeboshi), ta nên dùng cho quen dần. Cách ăn dƣỡng sinh cho mỗi loại ung thƣ sẽ đặc biệt liệt kê vào các biểu đồ chi tiết ở phần II, các công thức nấu ăn cùng mẫu thực đơn chỉ dẫn ở phần III.
Hƣớng dẫn trị liệu và dinh dƣỡng
Dựa vào lời khuyên của bác sĩ, có ngƣời chọn cách điều trị ung thƣ bằng phẫu thuật, hóa chất, tia xạ, hormon, vitamin, khoáng chất đƣợc giới thiệu trong sách này. Trong các trƣờng hợp khác, có ngƣời lại muốn chữa trị theo y học hoặc bằng cách ăn kiêng trƣớc khi bắt đầu phƣơng pháp dƣỡng sinh .Với những trƣờng hợp trên, họ nên đi theo hƣớng tổng quát nhƣ sau:
1. Phẫu thuật: Trƣờng hợp này, mức độ ăn kiêng khuyên dùng cho mỗi dạng ung thƣ đƣợc liệt kê trong phần II, gồm cả cách dùng dầu ăn xào nấu, bột làm bánh mì không bỏ men, mỗi tuần dùng vài lần trái cây nấu chín. Vì việc mổ xẻ thƣờng làm ngƣời bệnh yếu hơn nên họ cần đƣợc bồi bổ bằng trà phổ tai (kombu) sau khi mổ từ ba đến bốn lần mỗi tuần, liên tục khoảng 3 tuần, và thỉnh thoảng có thể dùng nếu cần. Ngoài ra, mỗi tuần uống bột sắn dây với mơ muối có thêm tƣơng sổi (Ume – sho – kuzu) từ hai đến ba lần mỗi tuần trong thời gian ba tuần lễ để tăng lực. Để làm cao dán ta dùng phổ tai (kombu) đắp lên vết thƣơng cho mau lành.
2. Hóa trị liệu: liệu pháp này có tác dụng dƣơng hóa rất mạnh, do thuốc làm tan bƣớu u và khiến cơ thể khô, nóng. Để cân bằng liệu pháp này, thì điều quan trọng là cần có biện pháp nấu rau tái, hấp xà lách ăn mỗi ngày. Để bình thƣờng hóa bạch cầu, ngƣời bệnh có thể ăn cá hai lần một tuần. Nấu cá chép với rễ cây burdock – ngƣu bàng ( tức là món “koikoku”) làm canh súp dùng ba lần trong mƣời ngày, mỗi ngày một tô và liền trong ba ngày, qua mƣời ngày sau cũng lặp lại nhƣ thế – sẽ rất hợp trong các trƣờng hợp này. Ngƣời ta cũng dùng bánh dày Mochi (làm bằng nếp lứt) làm theo cách thông thƣờng hay nấu chung với canh súp. Đồ ngọt cũng thƣờng đắc dụng trong liệu pháp này: Dùng nƣớc sinh tố rau củ hàng ngày hoặc cách nhật, kèm theo hay sau khi áp dụng liệu pháp. Nƣớc cà rốt uống hai đến ba lần một tuần, trái cây nấu hoặc phơi khô ăn 2, 3 lần một tuần, thỉnh thoảng có thể ăn tƣơi. Sữa gạo và ngũ cốc nhƣ mạch nha hay xi–rô gạo dùng ăn cho đỡ thèm ngọt.
3. Xạ trị liệu: tác dụng xạ trị rất âm, điều đặc biệt là phải kiêng ăn rau sống, còn xà lách hấp hay luộc nên dùng hàng ngày. Hạn chế ăn dầu trong và sau khi xạ trị, mặc dù có thể ăn món chiên chỉ có dầu láng chảo vài ba lần mỗi tuần theo chỉ dẫn trong những chƣơng sau. Nƣớc sinh tố rau củ có thể dùng hàng ngày với lƣợng nho nhỏ. Để tẩm bổ, có thể uống bột sắn dây pha với mơ muối, và tƣơng sổi (ume–sho–kuzu) uống ba lần mỗi tuần và ba tuần liên tiếp, sau đó thỉnh thoảng dùng thêm nếu cần. Đắp cao phổ tai (kombu) vào
http://thucduong.vn Trang 65
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
chỗ chiếu xạ trên ngƣời trong mƣời ngày đến 2 tuần liền để làm lành chỗ trị liệu. Cao chế bằng lá xanh cũng có thể dùng để thay đổi.
4. Liệu pháp hormon: Liệu pháp này có thể tác dụng cho cả trƣờng hợp thặng dƣơng hay thặng âm tùy cách dùng: Vài loại thuốc nhƣ tamoxifen dùng trong điều trị bệnh ung thƣ vú của phụ nữ có tác dụng rất dƣơng. Còn các thuốc khác nhƣ estrogen dùng điều trị ung thƣ tuyến tiền liệt cho đàn ông lại rất âm. Áp dụng liệu pháp này không cần kèm theo món ăn, uống nào hoặc chăm sóc tại nhà đặc biệt để đối trị. Thông thƣờng liệu pháp hormon chỉ nên áp dụng trong vòng sáu tháng trở lại và cần kiểm soát liều lƣợng. Với liều lƣợng vừa phải tốt hơn là dùng liều tấn công để chữa cho nhanh chóng.
5. Bổ sung khoáng chất: Dùng khoáng chất bổ sung sẽ do bác sĩ khuyên dùng tùy theo tình hình máu. Nếu nhƣ máu bình thƣờng, thì không cần bổ sung. Tuy nhiên khi có sự bất thƣờng trong quá trình bị bệnh nhƣ thiếu máu hoặc thiếu chất sắt – băng huyết cấp tính hay mạn tính thì phải cần tới khoáng chất bổ sung, dựa trên xét nghiệm máu, dƣới sự giám sát của nhân viên y tế. Ngƣời bệnh không cần điều chỉnh hay thay đổi cách ăn uống dƣỡng sinh đặc biệt nào.
6. Bổ sung vitamin: Một khi ngƣời bệnh mệt mỏi hoặc thiếu vitamin thì tình trạng này có thể tạm thời đƣợc cải thiện bằng cách dùng vitamin bổ sung, tuy nhiên không phải cứ dùng nhƣ thế mãi. Nói chung, chúng tôi khuyên dùng vitamin ở dạng tự nhiên có trong thực phẩm lứt (thực phẩm tự nhiên – nguyên chất), với vitamin D thì nên ra ngoài trời sinh hoạt. Trong vài trƣờng hợp nên dùng vitamin và khoáng chất chừng một đến vài tháng cho đến khi tình trạng thể chất khá hơn, cùng với cách sống và sự thực hành dƣỡng sinh mới.
http://thucduong.vn Trang 66
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư http://thucduong.vn Trang 67
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư Chƣơng VIII
RÈN LUYỆN THỂ LỰC, TRÍ LỰC VÀ LỐI SỐNG HOẠT ĐỘNG THỂ CHẤT
Ngoài việc thay đổi theo chế độ ăn kiêng, một vài phƣơng pháp khác cũng rất quan trọng trong việc phục hồi từ bệnh ung thƣ. Khi chúng ta bắt đầu biến đổi máu của mình thành một nhóm máu khác tốt, khỏe hơn bằng cách tập trung hơn vào chế độ ăn kiêng cân bằng, chúng ta sẽ thật sự năng động hơn và bắt đầu xa dần niềm tin vào những phƣơng tiện kỹ thuật hiện có. Hệ kháng thể tự nhiên của chúng ta đƣợc phục hồi và có thể dễ dàng thích ứng với sự nóng, lạnh gay gắt, ít lệ thuộc vào lò sƣởi trong mùa đông và máy điều hòa không khí về mùa hè. Chúng ta ủng hộ, đánh giá cao và tiếp tục sử dụng một số tiến bộ kỹ thuật trong nền văn minh hiện đại. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên sa vào những dụng cụ cơ giới hoặc điện tử một cách thái quá. Bởi lẽ, máy móc có thể ngăn cản sự trao đổi năng lƣợng linh hoạt giữa con ngƣời và môi trƣờng tự nhiên. Đặc biệt, chúng ta phải cố tránh dùng những máy móc đó vì chúng có thể khiến bệnh nặng hơn trƣớc hoặc đôi lúc khiến việc phục hồi sức khỏe thêm phần khó khăn.
Giảm căng thẳng thần kinh
Căng thẳng thần kinh (stress) là một từ chung để chỉ tất cả những áp lực, đè nén trong cuộc sống hiện đại và giảm stress đã trở thành một vấn đề lớn. Tốc độ của cuộc sống hiện nay chắc chắn nhanh hơn và ngắn hơn so với quá khứ. Tuy nhiên, stress thƣờng bắt nguồn từ bên trong nhiều hơn là bên ngoài. Sức khỏe sa sút của con ngƣời ngày nay khiến khó hoàn tất những hoạt động bình thƣờng trong ngày, do đó cũng không thể thích ứng với cuộc sống nữa. Theo quan điểm dƣỡng sinh, vấn đề stress phần lớn là một trong những quá trình không thể trao đổi hoặc bài tiết năng lƣợng linh hoạt với môi trƣờng nữa. Nếu chúng ta cứ tiếp tục hấp thu năng lƣợng nhiều hơn mức cần thiết, đặc biệt là những thức ăn có hàm lƣợng calo, mỡ và đạm cao thì những chất dƣ thừa sẽ dồn nén, bột phát dƣới da và lan đến các cơ quan và các tế bào. Chúng ta sẽ không còn đổ mồ hôi nữa. Phổi, thận, gan, ruột và các cơ quan bài tiết khác sẽ bị ứ đọng mỡ, chất dịch và các chất quá tải. Chúng ta mang chứng stress trong ngƣời nhƣng lại than phiền do tác động bên ngoài. Hoạt động của cơ thể ta đã tạo ra những áp lực liên tục: Kế đến, mỗi tế bào bắt đầu tập trung năng lƣợng cao và cuối cùng dẫn đến sự bùng nổ mà chúng ta thƣờng gọi là bão hòa tế bào hay ung thƣ.
Nếu ta năng hoạt động, sẽ có thể bài tiết dễ dàng hơn. Lối sống hiện đại ít hoạt động, ít phấn đấu và nhiều khó khăn đều là yếu tố góp phần gây bệnh thoái hóa. Tóm lại, để giảm stress chúng ta phải tự ấn định và điều khiển nguồn năng lƣợng cơ bản hấp thu mỗi ngày vào cơ thể trong thành phần thức ăn.
http://thucduong.vn Trang 68
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Trong thực phẩm ngày nay, những đồ mặn, loại bột nƣớng vàng, những đồ uống có nƣớc đá... những thức ăn nƣớng, chiên hoặc rang và các loại thức ăn lên men đều ngăn trở quá trình bài tiết. Trong số những tác động bên ngoài, thì độ lạnh, không khí khô, khói, khí ô nhiễm và đặc biệt là sự gia tăng chất CO2 (carbonic) sẽ gây trở ngại sự bài tiết. Trái lại, trong các thức ăn nhƣ đƣờng, trái cây, cà phê, trà và các chất kích thích khác nhƣ rƣợu, thuốc hoặc các sản phẩm thặng âm khác khiến năng lƣợng tản mác sẽ dẫn đến những hành động ngoài ý muốn, không kiềm chế đƣợc. Độ nóng, độ ẩm cao, ô nhiễm hóa chất, lò điện hoặc lò vi sóng, ngụp lặn trong nguồn điện từ nhân tạo cũng có thể dẫn đến hƣớng tan rã và rối loạn nhanh chóng. Ngũ cốc, đậu, rau trái trên đất liền hay dƣới biển cung cấp năng lƣợng cân bằng và ổn định hơn. Dựa trên nền tảng này, sức khỏe chúng ta sẽ đƣợc chăm sóc an toàn hơn.
Đi bộ
Để tăng tiến sự tuần hoàn của dòng năng lƣợng tự nhiên trong cơ thể, cần tiếp xúc thẳng với các yếu tố tự nhiên là hay hơn cả. Đi dạo ngoài trời trên bãi cỏ, mặt đất hoặc bãi biển với đôi chân trần là một phƣơng pháp trị bệnh tuyệt vời. Trong các bài hƣớng dẫn của riêng tôi, tôi thƣờng dặn mọi ngƣời mỗi ngày phải đi bộ khoảng nửa giờ dù trời mƣa hay nắng. Điều này sẽ giúp cơ thể thích ứng với những thay đổi từng mùa và tạo nên khả năng miễn dịch tự nhiên. Một bài nghiên cứu gần đây đăng trên tờ Hiệp hội Y khoa Mỹ đã cho rằng những ngƣời tập thể dục điều độ, gồm đi bộ nửa giờ mỗi ngày thì sẽ sống lâu hơn và ít bị ung thƣ hay bệnh tim. Đi bộ sẽ tăng cƣờng sự tuần hoàn hơi thở, rèn luyện cơ bắp giúp ăn ngon miệng hơn. Đi bộ sẽ là tăng lƣợng oxy trong máu và bạch huyết kích thích quá trình trao đổi chất của tế bào và mô trong cơ thể. Đi bộ cũng khiến đầu óc minh mẫn, ổn định và đỡ căng thẳng.
Tập thể dục
Cuộc sống hiện đại nhìn chung là ngồi một chỗ, thụ động; một số lớn ngƣời hiện nay quá mập. Trung bình mỗi gia đình xem TV bảy giờ một ngày. Lối sống thụ động góp phần dẫn đến sự tắc nghẽn lƣu thông trong quá trình sản sinh cao và năng lƣợng điện từ, chức năng tuần hoàn máu và bạch huyết, hệ tiêu hóa và hệ thần kinh. Tập thể dục thƣờng xuyên, kết hợp với Do – in (phƣơng pháp tự mát xa phƣơng Đông), yoga, võ thuật, khiêu vũ hoặc chơi thể thao đều rất có lợi. Một ngƣời nên năng hoạt động trong điều kiện sức khỏe của mình, không nên quá bận rộn với công việc. Một vài nghiên cứu y khoa và khoa học gần đây cho thấy những ngƣời tập thể dục có sức khỏe tốt hơn ngƣời ít hoạt động. Với những ngƣời năng động cơ thể thì hiếm khi mắc bệnh tim mạch và những bệnh nặng khác.
Chà xát cơ thể mỗi ngày
Chà xát cơ thể mỗi ngày với khăn ẩm, nóng là một cách tuyệt vời để giảm stress giảm căng thẳng và tăng sức sống của bạn. Điều này cũng kích thích hệ tuần hoàn, teo bớt lớp mỡ dƣới da, khai thông lỗ chân lông và giúp cho quá trình bài tiết ngoài da linh hoạt hơn so với các
http://thucduong.vn Trang 69
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
chất tích tụ quanh các cơ quan nội tạng để đạt hiệu quả cao, bạn có thể chà xát cơ thể 2 lần mỗi ngày, một vào buổi sáng và một vào buổi tối (xem chƣơng 20 để biết cách làm).
Nguồn điện từ nhân tạo
Những khám phá và phát minh khoa học kỹ thuật hiện đại góp phần. Thêm những thuận lợi và hiệu quả đáng kể trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Tuy nhiên, cùng lúc nhiều ứng dụng kỹ thuật lại gây nguy hại đến sức khỏe. Nguồn điện từ nhân tạo trong môi trƣờng sống khiến thay đổi bầu khí quyển quanh chúng ta, gây ra nhiều ảnh hƣởng tới điều kiện tinh thần và thể chất con ngƣời. Chúng ta thƣờng cho rằng sự cáu giận, mệt mỏi và cả quá trình trao đổi chất trái tự nhiên là do ảnh hƣởng của điện cao thế, những máy điện và những thiết bị thông tin liên lạc khác quanh ta. Đặc biệt điện có ảnh hƣởng đến hệ thần kinh.
Hơn mƣời năm qua, việc nghiên cứu đã cho thấy bệnh bạch cầu u lympho, ung thƣ não, các khối u, cũng nhƣ những căn bệnh nguy hiểm khác thƣờng xảy ra ở một số ngƣời sống gần đƣờng dây điện, máy biến thế và cả những trạm truyền tải điện hoặc những ngƣời sử dụng chăn điện, đèn huỳnh quang và các thiết bị khác. (xem bảng l3). Một số cuộc xét nghiệm y học hiện đại cũng rất độc hại. Ví dụ, trong một số nghiên cứu của các nhà khoa học cho rằng tia X quang chụp vú làm tăng nguy cơ ung thƣ vú. Kỹ thuật tiên tiến nhất, bao gồm chụp cắt lớp (CAT) và cộng hƣởng từ (MR1) cũng khiến cho bệnh nhân phải tiếp xúc trực tiếp với các tia phóng xạ khác nhau và những cuộc nghiên cứu sắp tới sẽ cho biết chất phóng xạ đó an toàn hay nguy hại.
Bảng 13. Thiết bị hiện đại tƣơng ứng với bệnh lý *
Bệnh nặng Bệnh vừa Bệnh nhẹ Đèn huỳnh quang Đèn để bàn Đèn điện Máy sấy tóc, cạo râu Máy giặt, máy sấy Đồ sắt (nói chung) Máy vi tính Truyền hình Radio, máy nghe nhạc Lò viba Lò điện Tủ lạnh Máy trộn, đồ mở đồ hộp Máy rửa bát đĩa Máy pha café Mền điện Máy hút bụi Thùng rác Dây dẫn điện Quạt máy, máy sƣởi
* Đưa vào lực từ trường
Nguồn tham khảo :“Khoa học bàn về Sức khỏe và Từ trường” New York Times 11–06–1989 và International Electricity Exchange – năm 1985
Nấu điện hoặc lò vi sóng
Nấu bếp điện hoặc lò vi sóng gây hậu quả không tốt cho hệ tiêu hóa và sự nuôi dƣỡng cơ thể. Vì thế, ta nên tránh dùng. Điện rung động 60 vòng một giây phóng ra tia phóng xạ có thể gây những thay đổi sinh hóa và ảnh hƣởng đến sức khỏe con ngƣời. Vi sóng rung động 2,5 triệu lần trong một giây làm thay đổi cấu trúc phân tử của thực phẩm. Nhìn chung, cả việc nấu điện lẫn nấu bằng lò vi sóng góp phần làm suy giảm hoặc mất đi khả năng miễn dịch tự nhiên của cơ
http://thucduong.vn Trang 70
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
thể. Khi con ngƣời bắt đầu thích ứng với chế độ ăn uống dƣỡng sinh nhƣng không có kinh nghiệm trong việc cải tiến điều kiện sống một trong những điều cần thiết đầu tiên, tôi hỏi họ là nấu ăn nhƣ thế nào. Trong nhiều trƣờng hợp, vặn lò ga sẽ tạo ra hiệu quả tức thời. Nếu họ đang ở nhà thuê và chủ nhà của họ không cho dùng bếp ga và những dụng cụ bằng ga thì tôi khuyên họ dùng bếp ga bằng sứ để di chuyển có một, hai hoặc bốn bếp nấu ăn. Loại lò dùng đi cắm trại tiện dụng, rẻ tiền, rất thích hợp cho mục đích này. Nấu củi cũng đƣợc khuyên dùng, vì thật ra nấu củi sẽ cung cấp nguồn năng lƣợng tập trung nhất và thức ăn cũng ngon nhất. Tuy nhiên, nấu củi thƣờng ít ngƣời dùng trong cuộc sống ở thành phố hiện nay. Vì thế bếp ga là nguồn năng lƣợng ổn định, cân bằng, sẽ là chuẩn mực trong một gia đình ăn theo chế độ dƣỡng sinh.
Máy tính
Hơn mƣời năm trôi qua, máy tính cá nhân đã có mặt trong hàng triệu nhà, cũng nhƣ nhiều công ty, cửa hiệu, trƣờng học và các viện nghiên cứu. Máy tính và máy video phát nhiều loại phóng xạ điện từ nhân tạo khác nhau. Lƣợng phóng xạ ấy ngày càng tăng lên và gây hại đến sức khỏe con ngƣời. Cả khói thuốc cũng gây tác hại không những cho ngƣời hút mà cả những ngƣời quanh họ. Năm 1990, Cơ quan Bảo vệ môi trƣờng đã phác thảo bản thuyết trình đề nghị rằng các loại máy tính cá nhân phát ra tia có tần số cực thấp (gọi là ELF) chính là chất có thể gây ung thƣ. Tần số ELF đặc biệt có liên quan đến các bệnh bạch cầu, u bạch huyết, các tổn hại tồn tại ác tính….hệ thần kinh và ung thƣ. Đối với những ngƣời mắc bệnh ung thƣ chúng tôi khuyên họ nên tránh xa máy tính hoặc chỉ tiếp xúc giới hạn 1,5 giờ mỗi ngày. Xem chƣơng 27 về chất phóng xạ và môi trƣờng có liên quan đến bệnh ung thƣ để biết thêm chi tiết.
Tivi
Tivi cũng có tác hại nguy hiểm đáng kể, đặc biệt là Tivi màu. Tivi có một đƣờng ống phát tia cực tím (viết tắt CRT) nối dính ngoằn nghèo với nhau khoảng 15.000 lần mỗi giây trên màn ảnh, đấy là nơi phóng ra năng lƣợng điện từ rất lớn. Cách đây vài thập niên, một nhà dịch tễ học ngƣời Anh đã chứng minh mối tƣơng quan trong việc xem tivi với bệnh tim mạch trên một bài báo y khoa và nhấn mạnh rằng có mối tƣơng quan chính xác giữa việc tăng số máy tivi và những căn bệnh nghiêm trọng. Từ đó, những cuộc nghiên cứu khác cũng chứng minh rằng tivi cũng nhƣ máy tính tuy có ảnh hƣởng rất nhỏ đối với sức khỏe của chúng ta nhƣng ảnh hƣởng ấy sẽ tăng dần. Đối với những ngƣời mắc bệnh ung thƣ, ta khuyên họ tránh sử dụng tivi hoặc giới hạn sử dụng nửa giờ mỗi ngày.
Quần áo và đồ dùng cá nhân
Vải sợi tổng hợp nhƣ các loại hàng nylon, nhựa tổng hợp và nhựa acrylic ngăn cản nguồn năng lƣợng lƣu thông đều đặn trong cơ thể. Vì vậy, cách tốt nhất là hãy chuyển sang dùng loại vải tự nhiên, nhƣ vải bông, đặc biệt đối với loại quần áo tiếp xúc trực tiếp với làn da. Quần áo
http://thucduong.vn Trang 71
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
lót, vớ (tất), sơ mi bằng vải bông rất phổ biến và tiện dụng. Khi chúng ta dần dần thay đổi tủ quần áo của mình, chúng ta sẽ thấy thoải mái hơn trong những trang phục vải sợi tự nhiên. Nếu đƣợc chúng ta cũng nên tránh dùng các khăn trải giƣờng, chăn và các đồ trang trí khác bằng vải sợi tổng hợp, còn với vật dụng kim loại nhƣ nhẫn, vòng đeo tay và các đồ trang sức khác nên dùng giới hạn, tốt nhất là chỉ đeo một nhẫn cƣới mà thôi.
Chăm sóc cơ thể
Xà phòng: những chất khử mùi và những sản phẩm chăm sóc cơ thể đều có thể có hại. Các loại mỹ phẩm an toàn và đơn giản có thể làm tại nhà bằng những chất liệu tự nhiên (xem sách mới xuất bản của Aveline Kushi và Wendy Esko “Ăn kiêng để tạo vẻ đẹp tự nhiên”, xuất bản năm 1991, nhà xuất bản New York và Tokyo, Nhật Bản) hoặc có sẵn trong nguồn thức ăn tự nhiên mỗi ngày. Chúng ta cũng không nên ngâm mình hoặc tắm bằng vòi sen với nƣớc nóng quá lâu bởi sức nóng sẽ làm hạ lƣợng khoáng chất trong cơ thể.
Không khí lƣu thông
Đối với ngƣời bệnh đang kỳ hồi phục, ta nên khuyên họ sống ở những nơi có nguồn không khí lƣu thông tự do, ánh sáng mặt trời. Thêm vào đó, một ít cây cối xanh tƣơi cũng sẽ giúp họ hít thở sâu và quá trình trao đổi chất mạnh hơn. Thực vật là nguồn hỗ trợ đối với con ngƣời. Trong khi con ngƣời hít oxy và thải ra khí carbonic thì cây cối lại hấp thụ carbonic và tạo ra oxy. Những cuộc nghiên cứu khoa học gần đây họ thấy mƣời chín loại cây cối thƣờng trồng xung quanh một căn nhà gồm các loại nhƣ hoa huệ, cúc trắng, trƣờng xuân, cúc vàng, tre và cây mây sẽ làm tăng lƣợng oxy trong nhà, giúp giảm bớt các hóa chất độc hại trong không khí nhƣ benzen, formaldehit và trichloroetylel. Cây xanh cũng có thể giúp con ngƣời chống lại chất radon, một loại khí đốt tự nhiên trong đất, nƣớc, đá granit hoặc các vật liệu xây dựng khác. Các chất ấy tích tụ lại trong cơ thể và ngƣời ta cho rằng nó là nguy cơ gây ung thƣ phổi rất cao.
Vật dụng trong nhà và vật liệu xây dựng
Nội thất tổng hợp và các vật liệu xây dựng nhân tạo có thể cản trở sự thƣ giãn và gây ra các vấn đề cho sức khỏe. Các vật nhƣ đồ gia dụng, dụng cụ, vật liệu xây dựng, sơn, véc ni và các thứ khác trong nhà đều đƣợc làm bằng những vật liệu nhân tạo và chứa phần lớn hóa chất độc hại. Vì sức khỏe của mình, ta có thể trang trí nhà cửa bằng thảm rèm và các sản phẩm làm từ sợi tự nhiên cùng với các các vật dụng khác nên làm bằng gỗ, thủy tinh, kim loại, rơm hoặc các chất tự nhiên khác. Tuy nhiên chúng ta cũng đừng nên quá quan tâm đến môi trƣờng sống và cố gắng, để thay đổi mọi thứ ngay lập tức. Điều này vừa không thực tế vừa quá nghiêm trọng. Bởi lẽ sự thay đổi từ từ và vững chắc chính là qui luật chung.
http://thucduong.vn Trang 72
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư Những tác hại nghề nghiệp
Những ngƣời mà công việc hàng ngày liên quan đến các chất hóa học, thuốc, điện tử và các chất liệu độc hại khác hoặc những ngƣời làm việc trong lĩnh vực điện từ nhân tạo có nguy cơ bệnh ung thƣ cao hơn những ngƣời khác. Điều này cũng bao gồm cả họa sĩ, thợ in, thợ mộc, nhà hóa học, công nhân dệt, nông dân, ngƣời chăn nuôi, các chuyên viên điều hành máy tính và thợ sửa chữa điện thoại.
Bảng 14. Toàn thể về bệnh ung thƣ
Cách sống Lành mạnh Thoái hóa Nguyên chất (lứt) Tinh chế
Tự nhiên Nhân tạo
Hữu cơ Hóa chất
Thực phẩm hàng ngày ( yếu tố tiên khởi )
Môi trƣờng và cách sống ( yếu tố phụ )
Quan điểm
( Yếu tố phụ )
Không xay xát Xay xát Cân bằng Thái quá Theo mùa Trái mùa
Trồng ở địa phƣơng Đem đến từ Châu khác Nấu ở nhà Nấu sẵn Sạch sẽ Ô nhiễm Thứ tự Bừa bãi Năng động Lƣời vận động Chất liệu thật Chất tổng hợp Hòa hợp Than thở Biết ơn Kiêu căng Linh động Cứng nhắc Hợp tác Ganh đua
Rèn luyện tinh thần và nhân sinh quan
Thái độ tinh thần dĩ nhiên rất quan trọng trong việc duy trì sức khỏe của chúng ta. Mọi thứ trên trái đất này đều đƣợc cấu tạo từ năng lƣợng, gồm cả năng lƣợng tinh thần và thể xác. Thật ra, chúng ta có thể nói tinh thần là hình thức mở rộng của cơ thể và cơ thể là sự đúc kết của tinh thần. Rèn luyện cách nhìn cũng nhƣ rèn luyện tinh thần, đầu óc sẽ có nhiều hình thức đa dạng nhƣ sau:
Phát huy trực giác
Trực giác hay sự nhận thức sâu sắc sẽ làm chủ sự hiểu biết bình thƣờng và cảnh báo cho ta những nguy hiểm, bệnh tật cũng nhƣ độc hại.
Trực giác có chức năng nhƣ một cái la bàn, sự hƣớng dẫn bên trong giúp ta có đƣợc sự cân bằng, hoặc tái cân bằng với thiên nhiên. Trực giác khuyến khích ta thay đổi suy nghĩ, lối
http://thucduong.vn Trang 73
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
sống và đặc biệt là những thói quen tự hủy hoại từng dẫn dắt, chi phối thái độ cũng nhƣ cách cƣ xử của chúng ta từ trƣớc đến nay. Đó là nét cơ bản của sự phản tỉnh và thay đổi, đồng thời vƣợt thoát mọi khủng hoảng, kể cả bệnh tật nguy hiểm. Trực giác là sự nhận thức không cần học hỏi, tự phát của trật tự thiên nhiên và cũng là cách để sống trong mối hòa hợp với trật tự luôn biến dịch đó. Nó là nền tảng của sự trƣờng thọ, tự phản thay đổi và cũng là chìa khóa tồn tại, nhận thức. Cách tốt nhất phát triển trực giác hàng ngày chính là sự ăn uống của chúng ta. Ăn uống đơn giản hòa hợp với môi trƣờng tự nhiên, vui vẻ trƣớc những khó khăn kể cả bệnh tật, mở rộng tình thƣơng yêu và quan tâm đến mọi ngƣời.
Tự phản tỉnh
Ngƣời bệnh ung thƣ cần hiểu rằng trong bệnh ung thƣ và các bệnh khác đang là bệnh của cả một nền văn minh hiện đại nói chung thì họ có trách nhiệm rất lớn đối với sự phát triển căn bệnh qua chế độ ăn hàng ngày, môi trƣờng sống, lựa chọn lối sống và cách suy nghĩ. Ngƣời bệnh đƣợc khuyên suy nghĩ thật sâu sắc để tự kiểm lại trạng thái tâm lý hiện tại, tạo ra vấn đề ung thƣ và một loạt những hoàn cảnh không may khác. Sự tự suy này nên bao gồm cả việc ôn lại các di sản giàu có đã truyền lại qua bao nền văn hóa từ mấy ngàn năm qua, và sự đánh giá đúng khả năng vô tận trong thế giới tự nhiên, kể cả sự tự vệ, khả năng tự phục hồi tuyệt vời của cơ thể và cũng chính là sự tôn trọng đối với trật tự vũ trụ đã tạo ra những hiện tƣợng trên.
Mục đích của việc tự phản, suy ngẫm là để ôn lại lối sống của mỗi ngƣời, bao gồm cả cách ăn uống và chịu trách nhiệm đối với hoàn cảnh hiện tại của mình. Mục đích của việc tự suy cũng để giải quyết, định hƣớng tƣơng lai và thay đổi một hƣớng đi lạc quan hơn. Điều này không nhằm tạo nên tội lỗi hay cảm giác tội lỗi nào cho con ngƣời. Một khi, ngƣời đó nhận ra sự ngu ngốc, khờ khạo trong quá khứ của mình, thì hãy để nó sang một bên. Không cần phải sống mãi với quá khứ. Thế giới rất hạnh phúc khi nghe sự thú nhận những lỗi lầm đã qua của bạn và cách giải quyết để tiếp tục hƣớng đi đúng đắn, bổ ích hơn.
Cầu nguyện và tƣ duy
Có nhiều cách cầu nguyện và tƣ duy để gột rửa tâm hồn, dẹp bỏ những suy nghĩ tiêu cực, bắt chƣớc những lối cƣ xử hay và chữa lành cho cơ thể. Một vài cuộc nghiên cứu y khoa gần đây cho thấy việc thƣ giãn đầu óc, phát huy tình cảm, sự hiểu biết về cộng đồng to lớn hơn có thể cải thiện sức khỏe. Đặc biệt, sự tƣ duy giúp thƣ giãn thần kinh tự động hạ huyết áp và giảm áp lực trong tim và các cơ quan nội tạng khác. Tƣ duy còn giúp chúng ta có ý thức điều khiển chức năng của hệ tiêu hóa, hô hấp và hệ tuần hoàn.
http://thucduong.vn Trang 74
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
Trong trƣờng hợp bệnh ung thƣ, đôi khi tƣ duy có thể làm giảm sự phát triển của khối ung thƣ bởi ngƣời bệnh đã dẹp bỏ những suy nghĩ, hình ảnh tiêu cực bấy lâu, nên đã giúp sự lƣu thông linh hoạt của nguồn năng lƣợng chữa lành bệnh trong luồng Hỏa xà (chakras), huyệt đạo và tế bào.
Tại Học viện Kushi, trong những khóa rèn luyện phát huy tinh thần, tôi đã dạy cách chữa bệnh bằng lòng bàn tay, cách tƣ duy, bài tập thể dục và rèn luyện tinh thần thu thập từ các sách báo trên thế giới đã đƣợc chứng minh rằng rất công hiệu trong việc giúp bệnh nhân hồi phục. Tuy nhiên, cũng rất quan trọng để hiểu rằng các kỹ thuật phƣơng pháp này đều dựa trên sự hiểu biết về âm dƣơng hay về năng lƣợng điện từ tự nhiên. Khi ăn tức là chúng ta đang thấy đƣợc sự hiện hữu của nguồn năng lƣợng này dƣới dạng đơn giản nhất, cân bằng nhất. Năng lƣợng này cũng có thể đƣợc sử dụng trực tiếp. Tuy nhiên, những phƣơng pháp này chỉ nên áp dụng nhƣ sự hỗ trợ chứ không thể thay thế việc thay đổi chế độ ăn kiêng cơ bản.
Tất cả chúng ta ắt hẳn sẽ nhận ra rằng không có thức ăn sẽ không có cuộc sống, không có lƣơng thực thì không thể tạo ra máu tốt, không có máu tốt sẽ không có quá trình tạo ra tế bào, kể cả tế bào khỏe mạnh. Sức mạnh của trí tuệ, tình cảm và tinh thần bị chi phối bởi thức ăn chúng ta dùng hàng ngày và dần dần đã có tác dụng tƣơng hỗ ảnh hƣởng đến sức khỏe và sự sống của toàn cơ thể chúng ta. Tuy nhiên, mối quan hệ này thƣờng hiểu lầm và ngƣời ta cho rằng, bệnh tật có liên quan đến tội ác và sức khỏe cũng chính là sự ban ơn. Nhƣng theo quan điểm của nhân loại, đạo đức và tôn giáo không thể giúp con ngƣời tránh bệnh tật hay sự bất lực.
Cách đây vài năm, vợ chồng tôi đã trở về sau khi kết thúc khóa dạy ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong khi ở Tây Ban Nha, tôi đã gặp nhiều ngƣời bệnh đến với tôi để hỏi về dƣỡng sinh, và trong số đó có một nữ tu Cơ đốc giáo khoảng 35 tuổi. Cô đã tham dự những khóa học của tôi và khi gặp riêng cô, cô đã cho tôi biết cô đang bị ung thƣ vú. Tôi hỏi bao nhiêu ngƣời trong tu viện của cô. Cô cho biết có khoảng 300 ngƣời. Tôi hỏi tiếp, có bao nhiêu ngƣời mắc bệnh ung thƣ. Cô bảo có 60 ngƣời bị bệnh và có 30 ngƣời chết. Khi cô đặt chân vào tu viện đã có 13 ngƣời ở đó và trong số này 12 ngƣời đã chết vì ung thƣ và cô ta là ngƣời còn lại duy nhất.
Trong một số trƣờng hợp, việc cầu nguyện có thể kéo dài cuộc sống của những phụ nữ bất hạnh này. Tuy nhiên, chỉ bằng cách thay đổi cách ăn uống hàng ngày trong tu viện mới có thể cứu đƣợc cuộc sống của họ. Cầu nguyện và tƣ duy một mình rất hữu ích, nhƣng nếu thức ăn kém chất lƣợng là nguyên nhân chính của vấn đề vẫn tiếp tục thì không bao giờ có thể phục hồi hoàn toàn. Kết hợp thức ăn đặc biệt với cầu nguyện, tĩnh tâm là cách tuyệt vời nhất.
Tƣ duy đòi hỏi một phƣơng pháp thực tế và đơn giản để giữ yên tĩnh tâm hồn, giảm căng thẳng, lo âu và phát triển trực giác (chƣơng 20 nói về cách tƣ duy đơn giản có thể thực hiện tại nhà).
Âm thanh và rung động
Âm thanh và rung động mang đến năng lƣợng. Trong hàng nghìn năm qua, con ngƣời đã dùng từ ngữ và âm nhạc, kể cả bài hát và thánh ca để điều hòa môi trƣờng bên ngoài và thế giới
http://thucduong.vn Trang 75
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
nội tâm mỗi ngƣời. Trong những cuộc hƣớng dẫn cá nhân, tôi luôn luôn bảo những ngƣời bệnh ung thƣ đến gặp tôi và hát một bài ca hạnh phúc mỗi ngày.
Bài hát nói gì không quan trọng, miễn nó vui vẻ và có ý nghĩa tích cực nhƣ bài: "Em là nắng ấm của anh" hoặc "Chèo thuyền" hay bất cứ bài hát bình dị sẽ giúp bạn phấn chấn tinh thần và tạo mối quan hệ hòa hợp giữa tinh thần và thể chất. Dĩ nhiên, ca hát kích thích hô hấp và hai lá phổi, nhƣ ta đã biết, là một trong những con đƣờng bài tiết chính trong toàn cơ thể.
Mỡ và chất dịch dƣ thừa có thể tích tụ hoặc di chuyển đến phổi. Ca hát sẽ làm mỡ tan bớt nhƣ mọi thứ khác, âm thanh và sự rung động theo qui luật âm dƣơng. Một số âm thanh tập trung, số khác lan rộng. Âm thanh ảnh hƣởng khác nhau đến những cơ quan cũng nhƣ những chức năng khác trong cơ thể. Một số âm thanh kích thích và thôi thúc, một số khác lại êm dịu và sâu lắng. Nếu áp dụng đúng cách, âm thanh và sự rung động là những công cụ rất hiệu nghiệm giúp phục hồi bệnh tật và duy trì sức khỏe thƣờng xuyên. Lớn tiếng đọc thơ ca hay văn học trong vài phút mỗi ngày cũng là bài tập rất tốt.
Sức tƣởng tƣợng sáng tạo
Hơn một thập kỷ qua, nhiều ngƣời đã chuyển sang sử dụng việc tạo hình ảnh hoặc tƣởng tƣợng để phục hồi bệnh ung thƣ và các bệnh nguy hiểm khác. Việc nghiên cứu đang bắt đầu chứng tỏ hiệu quả của phƣơng pháp này. Tuy nhiên, cũng nhƣ trƣờng hợp áp dụng phƣơng pháp nguyện và tƣ duy, năng lực của trí tƣởng tƣợng cũng giới hạn. Kết hợp với chế độ ăn kiêng thích hợp và cách sống nói chung, phƣơng pháp này có thể tạo hiệu quả khá lớn (xem bảng 15).
Thật quan trọng khi chúng ta tƣởng tƣợng mình đang sống trong thế giới hòa hợp và yên bình. Các phƣơng pháp tƣởng tƣợng hiện nay đều dựa trên những hình hình ảnh tiêu cực, kể cả những mẫu bạo lực xung đột sẽ làm tăng căn bệnh. Ví dụ, một số ngƣời đến gặp tôi hỏi ý kiến về việc tƣởng tƣợng một lƣợng tế bào bạch cầu phóng ra nhƣ chùm tia laser để tấn công và tiêu diệt những bào ung thƣ. Tôi bảo họ loại tƣởng tƣợng này hoàn không thích hợp để chữa bệnh và củng cố thêm quan điểm cho rằng chúng ta không chịu trách nhiệm với sức khỏe và bệnh tật của mình, và cho cơ thể chúng ta là một trận chiến.
Nhƣ chúng ta đã biết, ung thƣ không là thù mà là bạn. Nó không bắt nguồn từ ngoài mà từ bên trong. Ung thƣ không do những tác nhân độc hại, ma quỉ tấn công chúng ta. Mà ung thƣ là hệ thống tự vệ của mỗi cơ thể có tác dụng bảo vệ cơ thể chống lại việc lạm dụng cách ăn uống dài hạn, và lạm dụng cả môi trƣờng sống. Những tế bào ung thƣ tập trung chất độc vào một chỗ trong cơ thể, để cơ thể tiếp tục thực hiện chức năng của mình cho đến khi những thay đổi căn bản trong chế độ ăn kiêng và lối sống mới đƣợc thực hiện. Tế bào ung thƣ hoạt động hòa hợp với những tế bào khác, gồm cả hồng cầu và bạch cầu. Đây là bằng chứng quá trình hòa hợp và hấp dẫn tự nhiên trong toàn vũ trụ. Những kháng thể do các tế bào miễn dịch tiết ra sẽ hỗ trợ và làm cân bằng những tế bào ung thƣ, virus hay những chất độc hại khác. Kháng thể có khả năng đối kháng với các tế bào này và trung lập những chất quá thặng dƣ giúp giữ cơ thể trong tình trạng
http://thucduong.vn Trang 76
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
sức khỏe cân bằng. Khi chúng ta có sức khỏe tốt, hệ thống miễn dịch hoạt động hiệu quả và giúp ta lành bệnh. Khi cơ thể chúng ta suy yếu, hệ miễn dịch mất dần khả năng cân bằng những hóa chất dƣ thừa này và chúng ta sẽ mắc bệnh.
Sự tƣởng tƣợng nên trầm tĩnh và ôn hòa. Hãy tƣởng tƣợng tế bào máu đang chống chọi với bệnh sẽ bị căng thẳng, lo lắng và gây trở ngại vào dòng năng lƣợng xuyên suốt cơ thể. Để khỏe mạnh, chúng ta cần đƣa quan niệm sống của mình vào sự xếp đặt của qui luật tự nhiên. Tình yêu, sự biết ơn, sự đồng tình là nền tảng để giữ gìn sức khỏe, để sống hòa hợp với bản bản thân và mọi ngƣời xung quanh. Trong suốt quá trình tƣởng tƣợng, chúng ta nên tập trung vào những hình ảnh khỏe mạnh về tinh thần và thể chất, chất dinh dƣỡng, và nguồn năng lƣợng trong thức ăn hàng ngày (năng lƣợng khí và điện từ), vào tác động hữu ích của mặt trời, mặt trăng, các vì sao và môi trƣờng sống. Ở mức độ tế bào, chúng ta có thể tƣởng tƣợng các khối ung thƣ tự biến mất khi máu và bạch cầu khỏe mạnh đƣợc sản sinh trong cơ thể. Ở mức độ gia đình, chúng ta có thể hình dung gia đình và bạn bè của mình đang ủng hộ, khuyến khích, động viên chúng ta và cuối cùng theo hƣớng dẫn của chúng tôi, đã tạo ra những sự thay đổi trong lối sống riêng của họ. Một vài phƣơng pháp tƣởng tƣợng ôn hòa nhƣ thế sẽ đƣợc trình bày trong chƣơng 20.
Yếu tố tăng cƣờng quá trình phục hồi
Nhiều năm qua, tôi từng gặp hàng nghìn ngƣời bệnh ung thƣ. Theo quan điểm của mình, tôi cho rằng có vài yếu tố ảnh hƣởng đến cơ hội phục hồi sức khỏe.
Sự biết ơn
Có một số ngƣời vô cùng biết ơn căn bệnh của mình và những gì bệnh tật đã dạy cho họ. Họ không phàn nàn hay than phiền, đổ lỗi cho ngƣời khác mà chỉ tìm kiếm nguồn gốc của căn bệnh trong tự bản thân tình. Họ nhận thấy rằng cách ăn uống cũng nhƣ lối sống mất cân bằng đã qua của họ. Bây giờ, họ rất vui vẻ bắt đầu sự thay đổi. Những ngƣời nhƣ thế thƣờng có niềm tin sâu sắc vào những thứ lớn hơn bản thân, đó là Thƣợng đế, thiên nhiên hay vũ trụ và họ đã vững tin đi vào con đƣờng dƣỡng sinh nhƣ là một sự thể hiện lòng trung thành. Khi sức khỏe bình phục hơn, họ ngày càng gắn bó với sự thừa hƣởng tôn giáo truyền thống, có thể đó là Cơ Đốc giáo/ Do Thái giáo Tin Lành hoặc Phật giáo và sự đồng tình của họ với những truyền thống tâm linh khác cũng sâu sắc hơn. Sau khi chữa bệnh lành bệnh cho mình, những ngƣời này tiếp tục giúp đỡ cho ngƣời khác. Nhìn lại căn bệnh của mình, họ thƣờng bảo rằng ung thƣ là một trong những điều tuyệt vời nhất đã xảy ra với họ bởi lẽ sự thay đổi đã mang đến cho họ sự hiểu biết về cuộc sống và mối quan hệ với những ngƣời khác.
http://thucduong.vn Trang 77
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư Chịu đựng sâu sắc
Những ngƣời đã trải qua những nỗi đau, sự lo âu và những ngƣời thật sự muốn thoát khỏi bệnh tật rất sẵn sàng bắt tay vào ăn kiêng.
Họ đã theo nhiều cách trị bệnh khác nhau và đều bị thất vọng. Bây giờ, họ đã từ chối, gạt bỏ lối sống ích kỷ, sự ngông cuồng, bƣớng bỉnh để tìm lối thoát và phục hồi sức khỏe. Họ nâng cao khả năng tƣ duy và vun đắp thêm cho sự hiểu biết của mình. Khi họ khám phá ra qui luật thống nhất của âm dƣơng, họ đã học đƣợc cách biến bệnh tật sức khỏe và biến nỗi đau thành niềm vui.
Ý chí quyết tâm
Ngƣời bệnh ung thƣ không những luôn duy trì đƣợc niềm vui, tính khôi hài và ý chí sống mà còn phải có khả năng thành công cao, những ngƣời này thƣờng có thể chất năng động, khỏe mạnh di truyền từ cha mẹ, ông bà hoặc tổ tiên là những ngƣời đã dùng ngũ cốc và rau trong thành phần chính trong chế độ ăn kiêng. Mặc dù những ngƣời này trƣớc đây đã từng huỷ hoại sức khỏe của mình nhƣng họ còn lại nguồn sức dự trữ. Họ cũng có một nền tảng cảm nhận và hƣởng ứng mà bấy lâu họ đã lãng quên.Vì thế, họ chỉ cần có ngƣời khơi gợi lại.
Ngƣợc lại, một số ngƣời không thiết sống, gia đình, bạn bè đặc biệt quan tâm họ, giới thiệu với họ phƣơng pháp dƣỡng sinh hoặc các phƣơng pháp khác, kể cả trị liệu y học thì họ thƣờng cứ từ chối những lời khuyên ấy. Họ chính là những ngƣời có cơ hội hồi phục. Chúng ta vẫn có thể tiếp tục mang đến tình yêu, sự cảm thông và những lời cầu nguyện đến với họ. Nhƣng cuối cùng chúng ta cũng đành phải tôn trọng ý cam chịu chết của họ.
Bảng 15. Lợi ích của Vận động và Thiền quán
Đi bộ / Tập nhẹ Thiền / Quán
Kích thích sự tuần hoàn Thƣ giãn thần kinh tự động
Thông phổi Hạ huyết áp
Làm dịu cơ bắp Làm nhẹ áp lực nội tạng
Làm ngon miệng, tăng cƣờng buồng ruột Kích thích bộ tiêu hóa, hô hấp và hệ tuần hoàn Giải tỏa Stress Giải tỏa tƣ tƣởng và cảm xúc tiêu cực Tăng cƣờng luồng Hỏa Xà, kinh lạc, mô và tế bào
Thực hiện chế độ ăn kiêng hợp lý
Trong một số trƣờng hợp, những lời khuyên ăn dƣỡng sinh không đƣợc hiểu rõ và thực hiện cẩn thận. Ví dụ, khi tôi khuyên “Hãy ăn 50% đến 60% ngũ cốc mỗi ngày và nấu gạo lứt trong nồi áp suất, nhớ cho vào một nhúm muối biển”, thì mọi ngƣời đều cho rằng họ đã hiểu. Tuy nhiên,
http://thucduong.vn Trang 78
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
khi về nhà, có ngƣời cho quá nhiều muối, có ngƣời lại không bỏ muối. Và có thể họ nấu quá nhão hoặc đôi khi quá khô.
Hơn thế nữa, có ngƣời lại đi mua nồi áp suất lớn quá khổ, chỉ dùng để nấu cho tập thể ăn! Một số ít khác lại áp dụng lối suy nghĩ khôn ngoan thông thƣờng, nếu ăn ít thì tốt và ăn nhiều chắc sẽ tốt hơn cho nên họ đã ăn đủ 100% thay vì 50% ngũ cốc. Kết qua là tình trạng của họ trở nên quá Dƣơng, và chẳng bao lâu họ đã ăn thêm những món tráng miệng, xà lách trộn, nƣớc trái cây và các thức ăn thặng Âm khác để trở lại mức cân bằng cũ. Dĩ nhiên, cách ăn này ngăn cản sự hồi phục.
Một sai lầm khác là do nhầm lẫn phƣơng pháp dƣỡng sinh với những chế độ ăn kiêng hoặc dinh dƣỡng khác. Và “để sống thật an toàn”, họ đã cố gắng tổng hợp mọi cách lại. Hơn nữa, một số ngƣời mới đƣợc làm quen với thực phẩm thiên nhiên, họ chắc rằng mọi thứ bán trong cửa hàng thức ăn giữ gìn sức khỏe thì đều an toàn hay nói cách khác, nếu không tốt, thức ăn hẳn sẽ không đƣợc bán ở đó. Những ý niệm sai lầm này ắt hẳn phải thay đổi, xoá bỏ, nếu không cách ăn uống sẽ thành hỗn độn và mất trật tự.
Ngƣời thành công nhất là những ngƣời tham gia các lớp nấu ăn dƣỡng sinh và biết ngay từ đầu nên làm thế nào để nấu ăn cho thích hợp. Thực sự, nếu chƣa thấy đƣợc thức ăn do các đầu bếp chuyên nghiệp nấu và thƣởng thức rồi, thì sẽ không biết mức tiêu chuẩn để đánh giá cách nấu ăn cho riêng mình. Vì thế, từ đầu chúng tôi đã khuyên mọi ngƣời nên học nấu ăn, dù đàn ông, đàn bà, nam, nữ, già hay trẻ.
Đàn bà – và đôi khi cả đàn ông – là những đầu bếp đầy kinh nghiệm, thỉnh thoảng nghĩ rằng họ đã biết cách nấu những món ăn tự nhiên và lờ đi, không tham gia các khóa nấu ăn dƣỡng sinh. Đây là sai lầm to lớn. Không thể nghi ngờ gì về tài nấu nƣớng tuyệt vời trƣớc đây của họ, nhƣng họ ắt phải nhận ra rằng đây là nguyên nhân chính của vấn đề. Những ngƣời không bao giờ
nấu cho mình ăn, ít khi biết đến những khó khăn. Họ là những kẻ mà trong bài báo Viễn Đông gọi là: “Trí óc của người nguyên thuỷ”. Giống nhƣ những đứa trẻ, đầu óc của họ rất phóng khoáng, tƣơi trẻ và trong sáng. Đấy là loại đầu óc thành đạt.
Không cần phải tốn nhiều thời gian để học. Nếu bạn có thể theo đƣợc ít nhất 10 hoặc 20 món căn bản, bạn có thể tiếp tục phát huy kỹ thuật nấu ăn của riêng mình. Khi bắt đầu ăn kiêng, hãy tìm hỏi những ngƣời có kinh nghiệm sống gần bạn. Đừng ngần ngại đƣa họ xem bạn nấu và xin họ chỉ dẫn, đề nghị hay nhận xét.
Sau đây là một vài lỗi chung, phổ biến nhất mà mọi ngƣời thƣờng phạm khi bắt đầu phƣơng pháp ăn dƣỡng sinh.
1) Dùng nhiều muối, dạng muối biển, tƣơng đặc miso, shoyu, mơ muối umeboshi, các gia vị khác và quá nhiều gia vị trên bàn ăn.
2) Dùng muối kém chất lƣợng nhƣ muối biển xám, tƣơng miso không đủ 2 – 3 năm tuổi, shoyu có hóa chất, tƣơng Tamari nguyên chất (có thể làm trở ngại tiêu hóa) thay vì tƣơng shoyu và mơ muối umeboshi lại có cả hóa chất .v.v..
http://thucduong.vn Trang 79
https://thuviensach.vn
Tủ sách Thực Dƣỡng Thực dưỡng đặc trị các bệnh ung thư
3) Dùng quá nhiều dầu hoặc dầu kém chất lƣợng nhƣ dầu cải tinh chế là hoàn toàn trái với dầu cải nguyên chất luôn giữ đƣợc hƣơng vị tự nhiên, mùi thơm và sự dinh dƣỡng. 4) Không ăn toàn ngũ cốc mỗi bữa ăn mà có quá nhiều sản phẩm ngũ cốc khác nhƣ cháo bột mì, bánh lúa mạch, mì bulgur hoặc bột kiều mạch .v.v..
5) Ăn quá nhiều bánh mì và các món bột nƣớng vàng khác gồm: bánh ngọt, bánh bích qui, bánh ngọt ăn nóng với bơ. Đấy là các loại tạo ra chất dịch, ngăn tiêu hóa đƣờng ruột và gây sình bụng. Thay vì dùng một chén đầy bắp rang, lại ăn cả một vốc tay. Thay vì dùng một gói bánh bột gạo lại dùng hai gói.
6) Ăn quá nhiều kẹo hoặc đồ ăn tráng miệng, kể cả nhiều mạch nha và siro gạo. 7) Không ăn đủ chất rau xanh.
8) Dùng quá nhiều chất lỏng hoặc sử dụng nƣớc kém chất lƣợng (hàm lƣợng khoáng chất quá cao hoặc quá thấp) để nấu ăn hoặc để uống.
9) Ăn uống không điều độ nhƣ ăn trƣớc khi ngủ hoặc không nhai kỹ. Ngoài ra sử dụng lò điện để nấu thay vì dùng bếp ga.
10) Thiếu sự thay đổi món ăn, cho nên ngán và đi ăn bên ngoài.
Bắt đầu
Một khi đã quyết định thay đổi, khắc phục bệnh ung thƣ bằng một lối sống cân bằng hơn, kết hợp ăn kiêng với những hoạt động vật lý và các bài tập luyện tinh thần, ngƣời bệnh nên quên đi căn bệnh và sống sao cho càng hạnh phúc, năng động và bình thƣờng càng tốt.
Những trƣờng hợp nghiêm trọng hơn có thể cần áp dụng những liệu pháp bên ngoài, cùng với cách ăn uống thích hợp. Nên nấu thức ăn theo cách bình thƣờng để ngƣời ăn dễ nhai nuốt. Nếu ngƣời bệnh gặp khó khăn khi ăn theo cách này, chúng ta nên nghiền thức ăn sau khi nấu. Cũng cần nấu thức ăn nhiều nƣớc hơn bình thƣờng để thức ăn đƣợc mềm, dẻo hơn. Ngƣời ta có thể nấu ngũ cốc, rau cải, đậu và các thực phẩm khác theo cách này, kế đến cho vào cối gỗ truyền thống gọi là cối suribachi, rồi dùng chày giã nhuyễn. Không nên dùng máy xay điện, bởi lẽ máy có thể tạo ra rung động xáo trộn trong thức ăn.
Những kỹ thuật chăm sóc tại nhà quan trọng nhất đó là nƣớc ép gừng, cao khoai sọ và cao sơn hà, cao cải xanh và cao lúa mì. Cách nấu ăn và sử dụng những món này đƣợc hƣớng dẫn trong phần II. Hầu hết những điều kiện chữa bệnh đều không áp dụng ngoại khoa. Chỉ có 20% hoặc 30% là cần đến những cách đặc biệt này. Những ứng dụng ngoại khoa cũng có hiệu quả trong việc giúp đỡ những ngƣời bị những loại bệnh khác và trong giai đoạn tiền ung thƣ, u lành tính, bƣớu, kể cả u xơ, bƣớu tử cung và bƣớu ngực.
Những giải pháp đơn giản, an toàn và hiệu quả đối với vấn đề ung thƣ và các bệnh khác đã đƣợc đề ra. Những phƣơng pháp ấy quay về gốc chung của y học truyền thống ở phƣơng Đông và phƣơng Tây, bao gồm cách chữa bệnh tại nhà và dùng thuốc dân gian. Ngày nay, cách trị bệnh ấy đã đƣợc hàng trăm nghìn ngƣời trên thế giới áp dụng thành công trong việc nâng cao
http://thucduong.vn Trang 80
https://thuviensach.vn