🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thuật Tư Tưởng
Ebooks
Nhóm Zalo
Lời nói đầu
Tư tưởng ở một con người là vấn đề rất quan trọng mà cũng rất phức tạp.
Do vậy không phải ai cũng hiểu và làm chủ tư tưởng của mình.
- Tư tưởng là gì?
- Làm thế nào để giúp tư tưởng đúng?
Đây là những vấn đề cốt lõi mà nội dung cuốn THUẬT TƯ TƯỞNG sẽ làm rõ hơn, giúp người đọc lĩnh hội được nhiều vấn đề bổ ích.
Được sự đồng ý của người đại diện tác giả, chúng tôi in cuốn sách trên có sửa chữa đôi chỗ để bạn đọc dễ tiếp thu.
Tư tưởng là một vấn đề lớn vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật, do vậy đây cũng chỉ là tài liệu để bạn đọc tham khảo là chính và cũng khó tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong bạn đọc lượng thứ và đóng góp trao đổi thêm.
Nhà Xuất Bản Thanh Niên
Tựa (trích)
Pascal nói: “Con người là một cọng sậy yếu đuối hơn hết trong mọi tạo vật. nhưng là một cọng sậy có tư tưởng. Có cần gì tất cả hoàn vũ hợp sức lại để tiêu diệt nó: Một hơi khí, một giọt nước cũng đủ giết chết nó rồi. Nhưng, nếu hoàn vũ nghiền nát nó đi, con người vẫn cao trọng hơn kẻ giết nó, bởi nó biết nó chết, còn thế lực của hoàn vũ đàn áp nó, hoàn vũ không biết gì hết… Tất cả phẩm giá của ta là nơi tư tưởng… Và nhất là tư tưởng cho đúng”.
Thật quả như thế. Con người sở dĩ khác vạn vật là nhờ nơi tư tưởng. Đừng nói chi đến chỗ phân biệt giữa người và vật làm gì, ngay giữa người và người, kẻ văn minh bản khai, kẻ trí thức người chậm hiểu cũng do nơi tư tưởng mà phân cao thấp.
Tập tư tưởng cho đúng, là điều cần thiết hơn nữa, là một phận sự khẩn cấp của tất cả những người hữu tâm đến danh dự làm người của mình, đến trách nhiệm của mình trong gia đình, trong quê hương, trong nhân loại. Làm cha mẹ mà tư tưởng sai, là hại cho cả một gia đình. Làm thầy mà tư tưởng sai, là hại cho chả nhóm học sinh. Làm chủ một nước mà tư tưởng sai, là hại cho cả một nước ấy.
Kẻ thiếu quan năng của tư tưởng là kẻ sống dưới quyền chỉ huy của dục vọng, của thói quen… sống như một con vật. Cho nên, đối với mình, tư tưởng là phương pháp duy nhất để tự giải thoát vậy.
Người ta thường bảo: Chân lý phải có một giá trị cụ thể và thực dụng. Đành thế, nhưng sự thực dụng của nó cũng không nên làm mục đích duy nhất đến thu hút tất cả tâm tư tình cảm của ta vào đó.
Thường những thứ chân lý không có tính cách thực dụng lại càng thực dụng gấp đôi: khi người ta tìm nó với một tấm lòng thản nhiên vô tư lợi thì chân lý lại hiện ra một cách rõ ràng đúng đắn hơn. Con người thường bị tình cảm quyến rũ, lôi cuốn nên hay lẫn lộn sự thật với sự thật theo ý ta muốn. Sự ao ước thấy “chân lý của mình” được thực tiễn hóa, thường hay khiến cho nó bị thiên lệch đi. Một nhà tư tưởng có nói: “cần thiết là thấy được sự vật y như nó đã xảy ra, chớ không nên thấy nó theo như ý ta muốn cho nó phải xảy ra như thế nào”. Tình cảm mà để chen vào óc phán đoán, thì nhất định nó làm cho sự phán đoán của ta phải sai đi. Tình, nó có những lý lẽ riêng của nó mà lý không thể nào hiểu được. Bởi vậy, chân lý mà muốn cho nó được chân gần lý[1], cần phải được nhiều người chứng nhận để cho nó pha bớt cái “mùi” chủ quan đi. Tuy nhiên, đây cũng không phải là một nguyên tắc tuyệt đối, vì nếu phần đông suy nghĩ phán đoán theo dục vọng thì dẫu là của cả thiên hạ đều tán dương phụ họa vẫn là sai lầm. Trái lại, một chân lý mà cả thiên hạ đều khinh khi, chế nhạo vẫn là chân lý. Dầu sao, sự dò hỏi ý kiến kẻ khác, nhất là những ý kiến của những kẻ đối lập của ta, giúp cho ta rất nhiều trong khi tìm chân lý. Tư tưởng mà đi có một chiều, thật là nguy hiểm…
Học tư tưởng hầu như bây giờ không biết phải tìm kiếm nơi đâu. Tìm nơi sách vở báo chí chăng? Hiện thời tôi chưa thấy có sách nào nói đến một cách rõ ràng chu đáo. Phần nhiều là những sách giải trí hoặc những sách giúp ta về tài liệu để rộng thấy xa nghe, biết được nhiều chuyện xưa tích cũ, hoặc nghiên cứu tư tưởng của ông hiền này, ông thánh nọ… Tuyệt nhiên, chưa thấy có quyển nào bàn đến cái nền tảng tinh thần ấy cho vỡ vạc. Gốc có vững, sau này tha hồ muốn học gì thì học, như gấm thêu hoa, học lực của mình mới có thể tiến bộ một cách khả quan và chắc chắn được. Thiếu nó là một thiếu sót rất lớn vậy.
Sách này viết ra là để bồi bổ vào chỗ khuyết ấy. Chủ ý của tác giả là giúp cho thanh niên hiếu học một cơ sở cho tinh thần để cho các bạn còn đi xa hơn nữa. Tác giả không hề bao giờ có cao vọng là đã “nói được tiếng cuối cùng” của thuật tư tưởng. là một nghệ thuật, mà đã là nghệ thuật, thì không thể truyền. Những điều có thể truyền được chỉ là một vài phương pháp đơn giản, nó chỉ là cái “cặn bã của
cổ nhân” mà thôi, không phải tư tưởng để tìm Chân lý, cái Chân lý tuyệt đối của nhà triết học.
Đọc xong quyển này, các bạn sẽ thấy rằng, tư tưởng mà đúng đắn đâu phải chỉ là một vấn đề Trí dục mà thôi đâu; thật ra, là cả một vấn đề Thế dục và Đức dục nữa. Kẻ đau yếu, tật bệnh ít khi có được một phán đoán vững vàng; người mà tính tình bôn chôn, vụt chạc và đầy dục vọng làm gì suy nghĩ cho công minh.
Thế dục, Trí dục và Đức dục là ba cái chân vạc của người. “Một thân thể không đau, một tinh thần không loạn, đó là chân hạnh phúc của con người”. Được bấy nhiêu thôi, thì được gì nữa cũng là thừa. Mà thiếu một trong hai điều ấy, thì có được cái gì nữa cũng vẫn còn thiếu mãi.
Thu Giang NGUYỄN DUY CẦN
Phần thứ nhất
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Chương I
KHÁI NIỆM VỀ TƯ TƯỞNG “Thông minh là biết nhận thấy sự liên quan giữa sự vật”.
A. Tư tưởng là gì?
Huệ Tử nói việc gì cũng hay thí dụ. Có người bảo với vua nước Lương: “Nếu nhà vua không cho thí dụ, thì Huệ Tử không nói gì được nữa”.
Hôm sau vua đến thăm Huệ Tử: “Xin tiên sinh nói việc gì cứ nói thẳng, đừng thí dụ nữa”.
Huệ Tử nói: “Nay có một người ở đây không biết nỏ là cái gì, mới hỏi hình trạng cái nỏ thế nào. Nếu tôi đáp rằng: Hình trạng cái nỏ như cái nỏ, thì người ấy có hiểu không?”.
Vua nói: “Hiểu làm sao được?”.
Huệ Tử nói: “Thế nếu tôi bảo người ấy: Hình trạng cái nỏ giống như cái cung có cán, có lãy, thì người ấy có biết được không?”
Vua nói: “Biết được”.
Huệ Tử nói: “Khi nói với ai, là đem cái người ta đã biết làm thí dụ với cái người ta chưa biết, để khiến người ta biết. Nay nhà vua bảo tôi đừng thí dụ nữa thì không được”.
Một đứa trẻ đi vào vờn bách thú, thấy cọp beo, voi, gấu… Nó sẽ đem những loài thú rừng ấy sắp vào hạng loại rất hạn định như chó, mèo, heo, ngựa… mà nó đã biết trước thôi. Bởi vậy, gặp con cọp nó nói: Con chó lớn. Còn gặp con gì cao mà chân dài, nó đều gọi là con ngựa cả…
Trái lại, nhà động vật học đem những loài thú rừng ấy sắp vào hạng loại cực kỳ tinh tế hơn.
Dầu sao, cách phán đoán của hai đàng, cũng cùng một cách thức như sau: Đem vật mình chưa biết sắp vào hạng loại mình đã biết. Vì thế, người học hỏi sâu rộng, thường có được những hán đoán tinh vi đúng đắn hơn kẻ học nông thấy hẹp.
Như ta đã thấy, trong quyển Óc sáng suốt[2], sở dĩ ta biết được một điều gì, là nhờ so sánh với những điều cùng một loại với nó mà ta đã có thấy, có hiểu trước.
Bởi vậy, khi ta nói: Trái đất tròn, là tại ta thấy trái đát có hình giống như viên đạn mà ta đã biết trước. ta đem trái đất sắp vào một hạng loại với viên đạn, và bởi viên đạn hình tròn mà trái đất lại hình viên đạn, ta mới quyết đoán: Trái đất tròn.
Bất kì là ở vào lúc nào, mỗi một người của chúng ta đều có sẵn trong đầu một mớ ít nhiều khái niệm như thế, nghĩa là một mớ hạng loại (catégory) đã biết trước. Nếu có một sự vật nào hiện ra trước mắt, ta liền tìm cách đem nó sắp vào hạng loại ta đã biết qua một lần… Hễ làm được là ta tư tưởng đấy, ta hiểu biết đấy. Bằng không, ta chỉ có cảm qua thôi, chớ không tư tưởng gì cả.
Tư tưởng là phán đoán, mà phán đoán là nhận thức và quyết định được sự liên lạc giữa hai tư tưởng, hai sự vật. Phán đoán là một sự sắp đặt[3].
Phán đoán được đầy đủ rồi thì lẽ cố nhiên ta tin nó đúng với sự thật. Khi ta bảo: Ông X… vô tội, ta tin và quả quyết rằng ông ấy có thật như thế.
Sư phán đoán, bao giờ cũng đi tới cái mức cuối cùng ấy, là quả quyết và tin tưởng. Tuy nhiên, cũng có khi sự phán đoán không được đầy đủ, buộc phải dừng lại nửa chừng thôi. Như khi ta nghĩ: “Trên các hành tinh có lẽ cũng có sinh vật”, ta chỉ quan niệm được sự liên lạc giữa các hành tinh và trái đất ta đang ở đây mà nghĩ qua như thế thôi, chớ ta chưa dám quả quyết và tin tưởng việc
Phán đoán mà quả quyết là một việc làm của Ý chí, vì quả quyết là tự buộc một trách nhiệm. Khi tôi bảo “Ông X. vô tội” tôi tự hẹn thầm ba điều:
1. Trước hết, tôi tự hẹn không bao giờ nói trái lại điều tôi vừa nói đó. Những người vô học thường hay thay đổi ý kiến của mình, hoặc bởi họ bị phản đối, hoặc vì họ không có chủ định gì cả, nên họ mâu thuẫn với họ luôn luôn.
2. Kế đó, tôi tự hẹn phải hành động theo sự phán đoán của tôi. Quả quyết rằng: “Ông Xoài vô tội”, đó là tôi nhất định xem ông ấy là người vô tội, không khinh bỉ, không ngờ vực nữa.
3. Sau rốt, tôi tự hẹn, sẽ ráng làm cho kẻ khác công nhận phán đoán của tôi. Thật vậy, quả quyết cũng là một cách sai khiến nữa mà là sai khiến một cách phong nhã, kín đáo… Mỗi khi ta quả quyết một ý kiến hay một điều tin tưởng nào, cố nhiên là ta muốn cho kẻ khác cũng tán đồng. Bởi vậy, tánh cố chấp tuy là một tật xấu rất to, nhưng nó là một hiện tượng rất tự nhiên của tâm lý. Phải có một hiểu biết thật rộng, tư cách thật cao mới có thể hiểu và dung được những tư tưởng trái nghịch của kẻ khác, nghĩa là có thể hiểu được kẻ khác, mà không một lòng nào bực dọc cả. Nhưng mà tin tưởng thái quá, lại thành ra Tín ngưỡng.
B. Phán đoán và tín ngưỡng
“Bất kỳ một ý tưởng nào mà không gặp ý tưởng khác phản đối thì được quả quyết là có thật”.
Đó là định lệ của sự tín ngưỡng.
Những dân tộc bán khai, cùng là trẻ con hay đàn bà nhẹ tính, bất kì ai quả quyết cái gì họ cũng tin theo, đó là tại họ không biết có những tư tưởng đối đích, nghĩa là trái nghịch lại. Chỉ có khi nào sự tin tưởng của ta bị phản đối – phản đối mà ta không còn lý lẽ nào bênh vực được nữa – mới có thể làm cho ta không tin cái điều ta đã quả quyết trước kia nữa mà thôi.
Đó là cái lẽ nó phải vậy. Nhưng sự thật ở đời, phần đông đã một khi tin tưởng cái gì rồi, thì dẫu gặp phải những tư tưởng đối đích, họ cũng bỏ qua, và cứ giữ đức tin họ vững vàng kiên cố mãi. Là tại nhiều duyên cớ, như sau đây:
1. Thị dục:[4]
Ta chỉ thừa nhận những ý kiến nào thuận với sự ta thèm thuồng ao ước mà thôi, không kể gì nó có đúng với sự thật hay không. Ở đây, cũng không có lý lẽ nào vô đánh đổ đức tin của ta cho được.
Người mẹ quá yêu con không bao giờ chịu tin rằng con mình là một người dở dang hèn hạ, mặc dầu sự thật đã đem đến cho bà nhiều bằng cứ xác đáng. Bà ao ước con bà là một người tốt, cho nên, chỉ có
những ai khen con bà, thì bà thích và nhận là thật mà thôi. Ngoài ra, những tin gì có thể hại đến danh giá con bà, thì bà loại ra một bên, không bao giờ ai đánh đổ được đức tin của bả cả. Hoặc bà sẽ có những lý luận của bà để bênh vực, để gột rửa sự ngờ vực không tốt của bà.
Những người ham đi coi bói, thường thích những ông thầy bói nói họ sẽ làm giàu, làm quan, chỉ có nhiều phước đẹp duyên lành… Bao nhiêu lời nói vừa với lòng ao ước của họ, là họ ghi nhớ, họ thừa nhận đúng cả, mặc dầu họ không biết sẽ có thật như thế không. Trái lại, những lời đoán sai với lòng ao ước của họ, là họ không chịu tin, hoặc nửa ngờ, có khi lại đem lòng oán hận là khác.
Nếu sự ao ước kia lại thành một thị dục (une passion) mãnh liệt, nó sẽ xô đẩy người ta vào sự cuồng tín (fanatisme) như chơi. Tỉ như lòng ái quốc tăng đến cực điểm, có thể làm cho người si mê. Óc bè phái, óc tôn giáo có lẽ cũng như thế.
Người ta không dùng đến lý trí nữa, mà chỉ tin những cái gì thuận với lòng mình ao ước thôi, và tìm những lý lẽ để bênh vực nó.
2. Ảnh hưởng của xã hội
Một ý tưởng nào mà được xã hội đồng thanh quả quyết và tin tưởng, thì khó lòng mà ta không cùng chia sẻ được. Bởi vậy, phong tục, tập quán là những tin tưởng mà ta nhắm mắt làm theo không suy nghĩ gì cả. Người ta thường thấy trong xã hội có những phong trào tư tưởng là thế.
Nói hẹp lại thời ảnh hưởng gia đình cũng không phải nhỏ. Hễ ông bà cha mẹ là người theo đạo Gia Tô, thì con cháu cũng theo đạo Gia Tô. Họ tin theo, là vì cả gia đình hay dòng họ tin như thế. Họ đâu có suy nghĩ chi nữa mà làm gì. Chung quanh họ, đều đồng thanh quả quyết và tin tưởng một cách triệt để, lại không bao giờ gặp hoặc nghe có sự phản đối, thảo nào họ không tin theo. Một ý tưởng mà được đại đa số tín ngưỡng là một sức mạnh phi thường, không có một lý lẽ nào đánh đổ nổi.
Ảnh hưởng của xã hội đối với tư tưởng và hành vi của chúng ta thật là mãnh liệt vô cùng. Nó làm cho ta không còn biết suy nghĩ là gì nữa. Những điều mà ta gọi là suy nghĩ, toàn thị là vô tâm theo một cái chiều nào mà ta không làm chủ được. Nó ám ảnh đầu óc ta, nó sai sự chỉ huy ta như một bộ máy. Sách vở, báo chí, những cuộc bàn cãi, những tình thế hưng vong xảy ra trong thời buổi… tạo thành một luồng sóng đưa đẩy ta vào một khuynh hướng nào… những luồng sóng ấy có khi là kết tinh của một tinh thần sáng suốt, thanh cao; lắm khi lại là cặn bã của một dục vọng, âm u hèn thấp cũng không chừng. Nhưng chắc chắn là nó sẽ đưa quần chúng đi vào một con đường vinh hiển hay bại vong.
Những ý tưởng do hoàn cảnh xã hội vun đúc thật là mạnh mẽ một cách rõ ràng, ai ai cũng có thể nhận thấy được. Mạnh mẽ đến, hễ một cá nhân nào bỏ hoàn cảnh xã hội của mình đi vào một hoàn cảnh xã hội khác, là thấy đã thay đổi cả tư tưởng chí hướng của mình liền.
Một nhà hoàn toàn thuộc về xã hội cách mạng, mà đến khi lên nắm chính quyền, liền thấy mình dễ dàng trở nên một nhà rất trung thành với phe bảo thủ. Lịch sử chỉ cho ta thấy rõ Napoléon khi lên ngôi, đem những tay thù nghịch của chính thể quân chủ mà ông chưa kịp đưa ra pháp trường, phong hầu cả thảy một cách hết sức dễ dàng, và những người ấy liền trở nên “quân chủ hơn đấng quân chủ” nữa[5].
Hoàn cảnh xã hội ảnh hưởng ta, tuy mãnh liệt như thế, nhưng không ảnh hưởng sâu nặng bằng cái xã hội của mình đang sống. Người ta phần đông suy nghĩ phán đoán toàn theo giai cấp, phe phái, tôn giáo hay nghiệp đoàn của mình. Những điều họ cho là phải hay quấy đều là những điều mà nhóm xã hội của họ cho như thế. Họ không cãi lại, hoặc không dám cãi lại. Họ tin tưởng nó như một tín điều thiêng liêng bất khả xâm phạm. Thật vậy, nếu người nào không nhận những ý tưởng của nhóm mình, thì không thể sống ở trong nhóm đó được nữa.
Một thị dục mà được phần đông công chúng hoan nghênh thừa nhận, sẽ là một tính ngưỡng có một lực lượng phi thường. Đối với tín ngưỡng của quần chúng – dầu là tín ngưỡng về chính trị hay tôn giáo cũng vậy, – thời không thể dùng đến lý luận đánh đổ được nữa. Bởi vậy, tín ngưỡng ấy là hiện thân của một Dục vọng không bờ bến, như một cuồng phong vô cùng mãnh liệt. Ảnh hưởng của nó rất to tát, vậy trước tình thế này, ta phải biết nhẫn nại mà chiều theo. Pascal nói: “Tại sao ta lại phải chiều theo phần đông? Đâu phải vì họ có lý hơn ta, mà chỉ vì họ mạnh hơn ta đó thôi”.
Chiều theo họ, là để mà sửa đổi họ, không phải để a dua, nếu mình là một bậc thức giả.
3. Dốt nát và Hoài nghi
Dốt nát, cũng là một nguyên nhân làm cho ta tin tưởng một cách mê mu
Thật vậy, đã dốt nát thì làm gì tìm thấy được những tư tưởng đối
đích đánh đổ sự quả quyết và tin tưởng của ta. Lẽ cố nhiên là ta tín ngưỡng một cách êm đềm không phải có một cái chi đến lung lạc đức tin của ta cả. Một người dốt nát làm gì biết đến những hiện tượng của điện khí là gì. Bởi vậy, họ tin “trời đánh” (sét đánh) là có lôi công cầm búa đi tìm người gian ngụy để giết chết. Đức tin ấy của họ, có làm gì gặp được những bằng cứ đối đích của khoa học phản đối. Cho nên họ vẫn yên tâm mãi trong sự mê tín của họ. Sự lầm lạc của ta, một phần rất lớn đều do nơi sự ngu dốt của ta mà gây nên cả.
Muốn phá những tập quán, thành kiến đã ăn sâu vào trí não con người, không có phương pháp nào hay hơn là gợi sự ngờ vực nghi nan trong lòng người. Cái đó, André Gide gọi là sự “ngờ vực phá hoại” (le doute destructeur). Léon Pierre Quint trong quyển André Gide có câu: “Không một tiếng kêu gọi lớn lao, không một chút bạo động nào cả. Gide chỉ dùng phương pháp “ngờ vực phá hoại” để lung lạc đức tin con người đối với cổ tục, tập quán… Phản đối một cách đột ngột, hùng hồn, không bằng khêu gợi mối hoài nghi trong lòng người. Những quyển sách có kết luận đàng hoàng, thời hỏng mất. Gide cho rằng, những tiểu thuyết có luận đề (roman à these) vì muốn chứng giải mà thành ra mất cả sức mạnh của nó đi. Một quyển sách cần phải để lại nơi lòng người một mối nghi ngờ không giải quyết, một câu hỏi không có tiếng trả lời. Điều mà con người không thể chịu nổi là đối với điều mình tôn sùng ngưỡng mộ mà phải có sự ngờ vực nghi nan. Làm cho con người không sống đặng êm đềm trong sự tin tưởng của họ nữa, thời mới mong cải cách được việc gì”.[6]
Socrate, với cái tài hùng biện riêng của ông, chỉ hạch hỏi mà thôi, gợi cho các đệ tử một mối nghi ngờ… để phá cái lòng mê tín của họ.[7]
Phật, trong kinh Thủ Lăng Nghiêm cũng dùng một phương pháp ấy để cảnh tỉnh đệ tử ruột của mình là A Nan.
Phán đoán thì tất nhiên phải quả quyết.
Quả quyết thì cố nhiên là tin tưởng, mà hễ tin tưởng nhiều rồi thì lại biến thành Tín ngưỡng. Đó là con đường tự nhiên, ai ai cũng phải trải qua.
Tuy nhiên, tín ngưỡng cũng có nhiều thứ: Có thứ tín ngưỡng mà mê muội, có thứ tín ngưỡng mà sáng suốt.
Nếu biết đen óc phê bình mà kiểm tra những quyết đoán của ta, thì sự tin tưởng hay tín ngưỡng của ta kia, được gọi là chánh tín (Croyance rèflechie). Nhược bằng để cho thị dục, xã hội và sự ngu dốt điều khiển tư tưởng ta, thì tín ngưỡng của ta gọi là mê tín.
Những tín ngưỡng đem ra xem xét chu đáo, dùng lý trí điểm tra lại, lấy sự thực để đối chứng; đó là những quyết đoán có khoa học, nghĩa là có phương pháp và được kiểm soát một cách vô tư. Để tự nhiên, thời người ta ai ai cũng tin tưởng theo lòng ao ước, theo thị dục, hoặc theo xã hội chung quanh ám thị.
Nếu có óc phê bình, người ta sẽ không còn bị lôi cuốn theo những lối tin tưởng vu vơ như thế nữa; người ta sẽ tin khi nào đã lựa chọn,
kiểm điểm kĩ lưỡng rồi, nghĩa là sau khi tìm được những tư tưởng phản nghịch mà cũng vẫn thấy nó có đủ lẽ đứng vững được nữa.
Goblot nói: “Một tin tưởng mà mình ao ước hay ưa thích, đó là nguồn gốc của sự lạc lầm”.[8] Muốn ngừa sự lạc lầm trong khi ta tư tưởng hay phán đoán, điều kiện đầu hết là phải biết hoài nghi. Hoài nghi để khỏi phải sa vào cái bẫy của Tình cảm và Ý chí.[9]
Ở đời phải có một lý tưởng để làm phương châm cho hành động hàng ngày của mình. Ai ai cũng có quyền có tín ngưỡng cả. Nhưng không nên đem những tín ngưỡng của mình mà cho nó là những chân lý khách quan. Người mà được gọi là có một cơ sở triết học và giáo dục hoàn toàn, là người biết dùng một cách đúng đắn, không lầm lẫn với nhau những câu nói này:
Tôi biết;
Tôi tưởng rằng tôi biết; và
Tôi tin.[10]
Kẻ thiếu óc phê bình, thiếu học thức, là kẻ không đủ sức phân biệt được cách dùng những tiếng nói trên đây. Điều mình tưởng là biết chưa phải là điều mình biết, mà điều mình tin chưa ắt là điều mình biết. Biết đâu mình tin là vì nó thuận với lòng ao ước hay thị dục của mình, hoặc vì mình bị ảnh hưởng gia đình, xã hội chứ không phải vì đã dò xét rõ ràng rồi mà tin, tin như nhà khoa học.
Cổ nhân có nói: “Biết, thì biết là mình biết; không biết, thì biết là mình không biết, mới thật là biết vậy” (Tri chi vi tri chi; bất tri vi bất tri, thị tri dã).[11]
Chương II
LÝ LUẬN LÀ GÌ?
A. Định nghĩa
Nhân một phán đoán này mà tìm ra một phán đoán khác, đó là lý luận.
Có kẻ định nghĩa như vầy: Lý luận, là từ chỗ đã biết để kết luận đến chỗ chưa biết. Cách định nghĩa này không đúng với sự thật, vì nếu nhận nó là đúng, thời lý luận là phương pháp để tìm chân lý, hay phát minh sáng tạo sao?
Phát minh, là công việc của trí tưởng tượng hơn là của lý trí. Lý luận chỉ dùng để mà chứng giải điều mình đã tìm kiếm ra kia mà thôi. Bởi vậy, ta không thể lầm lẫn cái trách nhiệm của sự phát minh và chứng giải.
Lý luận mà được đầy đủ hoàn toàn, là một sự “phán đoán tổng quát” và tổ chức cách nào cho những phán đoán đi sau phải tùng những phán đoán đi trước một cách chặt chẽ khít khao. Những phán đoán trước hệt gọi là nguyên lý; phán đoán sau chót gọi là “kết luận”.
Người phải có lúc chết. Ông cả Hai là người, nhân đó ta kết luận:
Ông cả Hai phải có lúc chết như mọi người.
Quả đất, có nước và không khí, cho nên có các loại động vật ở. Sao Hỏa có nước và không khí. Ta bèn nhân đó kết luận: Sao Hỏa có lẽ cũng có động vật ở.
Nhà lý luận, cần phải hiểu biết nhiều để định nguyên lý, và tinh thần hoạt bát để khéo kết luận.
B. Phân loại
Lý luận, có ba loại:
Loại suy
Diễn dịch
Quy nạp
Loại suy là lối luận đơn sơ hơn hết, vậy lẽ thì phải bàn đến nó trước hết, nếu mình muốn theo con đường tự nhiên của sự phát triển của trí tuệ. Nhưng vì phương tiện, ta hãy đem hai loại sau là Diễn dịch vào Qui nạp mà bàn trước:
1. Diễn dịch
Diễn dịch là gì? Là do một sự lý rộng mà suy cập đến các sự lý khác hẹp hơn để tìm một kết luận.
Tỷ như khi ta nói: người thời phải có khi lầm lẫn. Bởi vậy, các ông quan tòa cũng phải có khi lầm lẫn.
Như ta đã thấy ở chương trên, phán đoán là đem một việc hay một tư tưởng mới sắp đặt vào một khái niệm đã có biết trước. Đoán rằng: “Không khí nặng”, là đem không khí mà sắp vào loại đồ nặng mà ta biết trước. Phép luận theo diễn dịch cách thức nó cũng thế.
Diễn dịch là đem một trường hợp riêng mà loại vào một luật chung. Đó là lối sắp cái hẹp vào trong cái rộng hơn.
Như trên đây, nói rằng: “Hễ là con người thì phải có khi lầm lẫn”, đó là mình xem nó như một luật chung cho tất cả loài người. Còn nói đến “các quan tòa” đó chỉ là một trường hợp riêng trong cái luật chung ấy thôi.
Lối luận này, nếu đem nó ra sắp đặt lại cho ra vẻ của nó, thì phải phân ra làm ba chặng như sau đây:
1. Hễ là con người, thời phải có khi lầm lẫn;
2. Mà các quan tòa, là con người;
3. Bởi vậy, các ông ấy cũng phải có khi lầm lẫn.
Nhà luận lý học gọi cách dàn xếp này là “tam đoạn luận”. Cái lý của câu số hai và số ba đã nằm sẵn trong câu số một. Câu số một gọi là nguyên lý, câu số ba gọi là kết luận.
Phàm câu nguyên lý mà đúng với sự thật, thì câu kết luận cũng đúng với sự thật. Nếu đó mà định sai, thì câu kết cũng trật luôn. Tỷ như, nếu ta định cái nguyên lý sai như vầy:
1. Hễ là con người, thời không bao giờ chết;
2. Ông Xoài là người;
3. Bởi vậy, ông Xoài không bao giờ chết.[12]
Câu số một đã sai với sự thật rồi, thì câu kết cũng nhân đó mà sai mất.
Theo “tam đoạn luận” của phép diễn dịch, người ta không phải đi kiếm cái lý, vì lý đã có sẵn. Người ta chỉ “tháo” cái lý đó ra, bày nó ra cho rõ ràng mà thôi. Ăn thua cái nguyên lý của mình định kia trúng hay không mà thôi, chớ câu kết luận bao giờ cũng phải nằm ở trong nguyên lý đó, không thể thoát ra khỏi nó mà thay đổi bản chất được.
Theo phép của “tam đoạn luận”, thì nếu đã nhận đại tiền đề, tất nhiên cũng phải nhận kết luận, nghĩa là không được mâu thuẫn. Đã nhận cái lý này: “Hễ là con người đều phải có khi lầm lẫn”, thì không được phép không nhận câu kết luận, “ phải có khi lầm lẫn”. Vì câu kết luận phải nằm trong câu đại tiền đề. Muốn luận cho đúng theo phép “tam đoạn luận” thì phải cho “nhất khí quán hạ” mới được. Cho nên có sai, là tại nguyên lý của nó đã định sai, chớ không phải luận sai. Bởi vậy, muốn tránh sự lạc lầm, phải xem xét lại cho kỹ cái mối đầu của nó (đại tiền đề).
Diễn dịch dùng để mà chứng minh, hoặc để mà cắt nghĩa một việc gì.
a) Tỉ như một ông thầy kiện muốn chứng tỏ ra rằng thân chủ của mình vô tội trong vụ sát nhân. Ông vin vào cái nguyên lý này mà luật pháp công nhận là đụng: Giết người vì tự vệ là vô tội. Đặt ra một đại tiền đề như thế mà ai ai cũng phải nhận là phải. Bấy giờ ông chỉ còn tìm những bằng cớ để tỏ rằng thân chủ của ông chỉ vì tự vệ mà giết người chớ không phải là cố sát, để làm tiểu tiền đề. Thế là xong: Ông cứ ung dung mà kết luận: “Thân chủ tôi vô tội” thì không còn ai bắt bẻ được ông nữa.
b) Cắt nghĩa một việc gì thì trước tìm một cái luật chung mà ai ai cũng nhận là đúng, rồi chỉ cho thấy việc ấy ở tỏng cái luật đó. Tỷ như, muốn cắt nghĩa tại sao người kia uống thuốc độc chết, ông thầy thuốc tìm ra một cái luật chung, và luận như thế này:
Dầu nóng là một chất độc, uống vào thì chết ngay;
Mà người này, uống phải dầu nóng;
Thế nên, người ấy phải chết.
Trong đời sống hàng ngày trong khi bàn cãi hay bút chiến, người ta hay dùng những phép diễn dịch làm khí giới để chiến đấu rất đắc
lực. Miễn là mình làm sao cho người ta nhận cái “đại tiền đề” (nguyên lý) của mình trước đi, thì người ấy đã ở trong tay mình rồi vậy. Thường những nguyên lý mình đưa ra đó, toàn là những chân lý thông thường, ai ai cũng dễ nhận. Đã là nhận rồi, thì họ không thoát khỏi kết luận mình, vì họ phải nhận luôn nó nữa, không thế thì họ tự mâu thuẫn với họ còn gì!
Mạnh Tử dường như rất sành cái lối luận này lắm. Trong chương Lương Huệ Vương sách Mạnh Tử có thuật câu chuyện câu chuyện như sau này:
Mạnh Tử hỏi Tề Tuyên Vương: “Giả sử có người bầy tôi của nhà vua đem y phục của vợ con ký thác cho người bạn thân, nhờ trông nom giúp, để sang chơi nước Sở có việc, mà kịp đến khi về mới biết bạn mình để cho vợ con đói rách, thì người ấy nên xử với bạn thế nào?”.
Vua nói: “Phải tuyệt giao
Mạnh Tử lại hỏi: “Giả sử có người làm quan sĩ sư không hay trông nom được thuộc viên, để cho hình ngục sai lầm, công việc phế khoáng, thì nhà vua nên xử như thế nào với viên quan ấy?”.
Vua nói: “Nên cách chức”.
Mạnh Tử nói: “Thế thời, làm vua một nước mà không lo sửa sang việc chính trị, giáo dục, để đến nỗi trong nước không được bình trị, thì trách nhiệm tại ai và nên xử trí như thế nào?”
Vua nghe nói, ngảnh bên tả, bên hữu, nói lãng sang chuyện khác.
Tề Tuyên Vương đã vô tình thừa nhận cái đại tiền đề của Mạnh Tử đưa ra rồi, thì không thể nào thoát khỏi kết luận của ông. Bởi vậy, Tề Tuyên Vương phải bị “câm” miệng, không một lời biện bác gì nữa được.
Socrate, với cái tài hùng biện của ông, rất ưa dùng lối luận này để bài bác những ngụy luận của kẻ khác và làm cho họ phải “cụt lối”.
Thường thường, ông làm như vô tình đưa ra những đại tiền đề mà địch thủ phải nhận với một nụ cười khinh thị, vì nó rất tầm thường, hết sức tầm thường. Nhưng mà phải coi chừng. Đã một khi nhận nó rồi, thì số phận mất còn ở trong tay của ông rồi vậy.
Ngày kia Antiphon, bắt bẻ Socrate, gọi ông là người khùng vì ông không chịu nhận tiền dạy học của các đệ tử. Antiphon bảo: “Trí huệ không thể lấy tiền bạc mà trả được. Đành như vậy. Nhưng theo tôi, tôi buộc các đệ tử tôi phải trả tiền công cho tôi. Và nếu họ công bình biết rằng tiền bạc không đủ trả được công tôi, thì họ phải hoài niệm ân tôi hằng buổi nơi lòng mới phải. Ông là người có danh là Công Bình cớ sao ông lại để có sự bất công như thế?” Socrate không trả lòi.
Ông chỉ đem một đại đề rất đơn giản và dễ nhận, để nhử Antiphon vào rọ.
Ông hỏi: “Nếu có một người đàn bà kia, đem tình âu yếm mình mà bán cho kẻ khác, bắt người phải trả tiền. Người đàn bà ấy, Antiphon gọi là người gì?”
Antiphon: “Người ấy gọi là người gái đĩ, chớ còn gọi là người gì nữa. Nhưng mà ăn thua gì đến câu hỏi này với vấn đề kia tôi đã hỏi ông?”.
Socrate nói: “Có chứ! Có chứ! Này ông Antiphon, tình yêu và trí huệ là những bảo vật vô giá. Tôi nghĩ rằng, cái điều mà cô gái đĩ kia bán được, e không phải là tình yêu thật, mà là cái tình yêu giả. Một tay biện luận mà đem bán lời nói của mình được, tôi cũng e lời nói ấy là lời dối trá, không phải là trí huệ chân thật, kẻ thi thố ra cũng được sung sướng như người thụ hưởng có khi còn gấp bội phần là khác nữa”.
Antiphon giận đỏ mặt, nói: “Socrate, ông lại mắng tôi sao? Tôi đi đây, là vì tôi phải giữ mình cao thượng hơn ông, không thì tôi mắng ông lại mới đã giận của tôi cho”.
Lối dùng tam đoạn luận như thế, thật là khôn khéo. Kẻ nào vô ý bơ thờ, hay sa vào cái bẫy của kẻ nghịch, không phương gì ra khỏi.
Người ta nhân cái luận này, mà tạo ra một thể luận khác thay vì đem ra một, họ đưa hai đại tiền đề đối địch để nhử địch vào chỗ không thể trốn tránh được nữa. Nhà luận lý học gọi là Song Quan Luận.
Protagoras, nhà suy luận đại danh ở Abdere có dạy một anh học trò về khoa khẩu biện với một số bạc nhất định là bao nhiêu đó, nhưng hẹn rằng phân nửa số bạc trả trước, còn phân nửa kia thì sẽ trả sau khi anh học trò thắng được vụ kiện đầu tiên.
Anh đệ tử sau khi học thành tài, không gặp cơ hội nào để bào chữa cả, nên không chịu trả tiền cho thầy. Protagoras, tức mình đưa anh ta ra cửa công, và đòi phân nửa số tiền còn thiếu ấy. Ông viện lẽ như vầy: “Hoặc tòa xử tôi thắng hoặc tòa xử tôi thất trong vụ kiện này. Nhưng thế nào, tên học trò của tôi cũng phải trả số bạc nó còn thiếu. Nếu nó được kiện, thì theo lời giao ước, nó thắng vụ kiện đầu tiên, nó cũng phải trả cho tôi. Còn nếu nó thất, thì chiếu theo luật, tôi được kiện, nó cũng phải trả cho tôi”.
Anh đệ tử, cũng không vừa gì, cãi lại: “Nếu quan tòa xử tôi đặng, thì theo luật tòa, tôi không trả cho thầy đồng nào. Trái lại nếu tòa xử tôi thất, thì theo điều giao ước của chúng ta, tôi cũng không phải trả cho thầy đồng nào nữa”.
Dường như các quan tòa không biết phải xử lý cách nào nên đình lại cái án ấy một trăm năm sau sẽ xử.[13]
Câu chuyện trên đây là cái mẫu của lối Song Quan Luận.
Có một tên lính kia, gác đồn, để binh giặc vào cướp thành mà không cho binh lính trong thành hay, bị khép vào tội xử tử.
Quan toàn luận án như thế này:
Hoặc anh có mặt tại cửa thành;
Hoặc anh không có mặt tại cửa thành.
Nếu anh có mặt tại cửa thành, sao quân giặc vào thành mà không cho hay? Đó là làm phản. Anh phải bị xử tử.
Nhược bằng trong lúc đó anh không có mặt tại cửa thành, đó là anh bỏ phận sự tối trọng người ta đã giao phó cho anh. Anh cũng phải bị xử tử.
Hai cái đại tiền đề đưa ra đây, đều là để kết án anh lính. Anh không thể thoát tội xử tử.
Lắm khi lối luận này, người ta không đem ra để bắt kẻ nghịch, mà
lại đưa ra để tự bắt mình.
Một nhà hiền triết khuyên ta: “Khi nghe tiếng đồn xấu kẻ khác, ta nên tự hỏi như vầy: Ta không nên nghe những lời đồn đãi xấu xa của kẻ khác. Vì hai lẽ: Hoặc người bị nói xấu đây là ưng, hoặc người ấy bị oan. Nếu ưng, thì với sự phê bình của mình đây là thêm cho họ một sự đau đớn nữa, đó là ta thiếu lòng nhân. Nếu người ấy bị oan, thì lời phê bình của ta đây là lời phê bình bất công và phạm vào tội gièm pha. Bởi vậy, nghe lời nói xấu kẻ khác mà nghe theo và phê bình, thế nào ta cũng phạm một điều: Bất nhân hoặc bất công. Bất nhược ta đừng phê bình tới là xong”.
Đại tiền đề của phép luận song quan, có hai đối đích để chận địch thủ không cho thát ra, cũng như nhà có cử trước cửa sau; hễ chận hai cử ấy, thì địch thủ phải chịu bó tay. Nhưng, cái nguy của song quan luận, là vì chỉ lo chận lại hai đầu, mà quên chỗ kẻ giữa. Cho nên lối luận này ít khi khả cứ được.
Phép diễn dịch theo “tam đoạn luận” có nhiều hình thức khác nhau, nhưng tựu chung cùng trở về một mối là “tam đoạn luận”. Đại khái như:
1. Nhị đoạn luận, là một lối tam đoạn luận mà thiếu một
trong hai cái tiền đề.
Tỉ như: “Trời đất chí công, cho nên thưởng kẻ lành, hành kẻ dữ”. Ở đây, đại tiền đề thiếu. Nếu muốn luận đầy đủ, thì phải lập như vầy:
a) Công bình, là thưởng kẻ lành phạt kẻ dữ.
b) Mà Trời đất chí công.
c) Cho nên, Trời đất thưởng kẻ lành, hành kẻ dữ.
Hoặc nói: Hễ là lễ phép thì dễ thương;
Bởi vậy, ông Ổi rất dễ thương;
Ở đây, “tiểu tiền đề” thiếu. Nếu phải lập lại cho đầy đủ thì phải như vầy:
a) Hễ là lễ phép thì dễ thương;
b) Mà ông Ổi rất lễ phép;
c) Cho nên ông Ổi rất dễ thương.
Cũng như câu luận: “Đã là người, thì phải có khi lầm lẫn, bởi vậy, các quan tòa cũng phải có khi lầm lẫn”. Ở đây câu tiểu tiền đề “Mà các quan tòa là người” không cần nhắc tới, vì ai ai cũng có thể hiểu ngầm được một cách rất dễ dàng.
Bởi vậy, lối luận này rất thông dụng trong khi luận hằng ngày, vì người ta kết luận mau lẹ, không phải “cù cưa” cho lâu lắc.
2. Phụ chứng tam đoạn luận: Là lối tam đoạn luận mà mỗi tiền đề đều có chứng cứ của nó cả.
Bài Cicéron biện hộ cho Milon sau đây là một kiểu mẫu về lối “phụ chứng tam đoạn luận”.[14]
Đại tiền đề: Người ta có quyền giết chết kẻ nào lừa mình vào cạm bẫy mà không phải tội.
(Bằng cứ: Theo luật của thiên nhiên, theo luật của con người; và tỷ dụ phụ vào để làm chứng cho câu đại tiền đề này.)[15]
Tiểu tiền đề: Mà Cloudius lừa Milon vào cạm bẫy để giết đi. (Bằng cứ: Cicéron đem hết những chứng cứ chỉ bằng Clodius lừa Milon vào cạm bẫy để giết đi).
Kết luận: Bởi vậy, Milon có quyền giết Clodius, mà không phải tội gì cả.
Lối luận này, các trạng sư dùng để biện hộ cho thân chủ mình. Đại tiền đề của họ thường là một đạo luật có thể đưa bị cáo ra khỏi
vòng pháp luật. Tiểu tiền đề, là những bằng cứ tỏ ra người bị cáo là người có thể hưởng được những đạo luật ấy.
3. Liên châu luận: Là một lối luận có rất nhiều mệnh đề tiếp tục nhau mãi.
Cái cuối của mệnh đề thứ nhất, là cái đầu của mệnh đề thứ hai; cái cuối của mệnh đề thứ hai, là cái đầu của mệnh đề thứ ba, và luôn luôn như thế mãi… Cái sau rốt, trở nối lại với đoạn đầu… như các hột châu trong một xâu chuỗi vậy, nên gọi là “liên châu luận”.
Plutarque nói, con chồn trước khi đi ngang qua giá hay lóng tai nghe coi phía dưới có nước chảy không. Nếu không nghe tiếng nước thì nó đi qua, bằng có tiếng nước thì nó không đi. Dường như nó suy nghĩ như vầy:
Dưới miếng giá này, nghe có tiếng;
Cái gì có tiếng, thì động;
Cái gì động, thì chưa lạnh đặc;
Cái gì chưa lạnh đặc;
Cái gì lỏng thì bở và sẽ bể tan ra,
Vậy, miếng giá này không thể chịu được sức nặng vì nó bở và sẽ bể tan ra.
Đó là phép luận liên châu.
4. Tiền trí tam đoạn luận: Là lối luận có hai hoặc có nhiều mệnh đề, mà câu kết của mệnh đề này, là câu tiền đề của câu kế… tiếp tục nhau mãi.
Tỉ như câu này trong Đại học:
“Vật cách nhi hậu tri chí;
Tri chí nhi hậu ý thành;
Ý thành nhi hậu tâm chánh;
Tâm chánh nhi hậu thân tu;
Thân tu nhi hậu gia tề;
Gia tề nhi hậu quốc trị;
Quốc trị nhi hậu thiên hạ bình”.
(Cái lý của vật thấu rồi thì sự hiểu biết mới đến nơi;
Sự hiểu biết đến nơi rồi thì ý mới thành;
Ý thành rồi, thì tâm mới chánh;
Tâm chánh rồi, thân mới tu;
Thân tu rồi, thì nhà mới tề;
Nhà tề rồi, thì nước mới trị;
Nước trị rồi, thì thiên hạ mới thái bình).
2. Qui nạp
Phép luận này bằng cứ nơi sự thật ở nhiều nơi nhiều lúc mà gom góp lại, lập thành một cái luật chung. Người quan sát thấy hễ đốt lửa lên, thì có khói. Một lần, hai lần, ba lần, năm lần, mười lần… mà lần nào như lần nấy, người ta liền qui nạp thành cái luật chung là: Hễ có khói tất có lửa.
Dùng phép qui nạp là nhận rằng vạn vật trong đời đều bị sống dưới quyền chỉ huy của một số ít nhiều định luật bất di bất dịch. Nguyên tắc của qui nạp là: “Những nguyên nhân giống nhau đều sanh ra luôn luôn những kết quả giống nhau”. Nó là biến thể của cái luận “Nhân Quả”. Hễ nhân nào sanh quả nấy. Như thấy có khói, là biết có lửa. Lửa là nhân, khói là quả, đi đôi nhau luôn như bóng với hình.
Lối luận này trước khi thành một lối luận khoa học là một lối luận đơn giản, lối luận bằng loại suy rất đơn sơ tự nhiên. Con trẻ, suốt ngày, luận bằng lối qui nạp. Bất kì là cái gì nó gặp một vài lần là nó qui nạp thành luật chung: ông nội nào cũng có râu (như ông nội nó); con mèo nào cũng đen (như con mèo của nó)… v.v… Chơi than lửa bị phỏng tay nhiều lần, sau hễ thấy than lửa là sợ phỏng tay. Cũng như ta, hễ thấy có mây đen, là nghĩ đến mưa. Lối luận này không phải là lối qui nạp, theo khoa học, mà là cái thai của nó.
Qui nạp là lối luận rất thiết yếu của các khoa học về thực nghiệm. Người thường hễ thấy một việc xảy ra nhiều lần đều có một kết quả như nhau, liền qui nạp thành một cái luật chung. Tỉ như thấy có cầu vồng là có mưa. Nhiều lần như vậy, họ bèn lập thành một thuyết chung là: cầu vồng hiện ra là có mưa. Đó là lối qui nạp thông thường.
Qui nạp theo khoa học thì có hơi khác. Là vì ở đây người ta không qui nạp “bướng” như trên, nghĩa là thay vì xem qui nạp ấy là một qui luật, nhà khoa học chỉ coi nó như một ức thuyết nghĩa là một cái thuyết tạm để quan sát và thí nghiệm lại. Chừng nào ức thuyết ấy có được nhiều lần thí nghiệm, có nhiều chứng cứ đàng hoàng không sai chạy, bấy giờ mới được xem là qui luật. Bằng không, thì ức thuyết ấy phải bỏ đi.
Địa vị của ức thuyết trong khoa học thực nghiệm thật là to tát.
Không có một cuộc thí nghiệm nào về khoa học mà không có một ức thuyết để làm chân đứng, để làm hướng đạo. Theo khoa học thời qui nạp và ức thuyết có cái nghĩa tương tự nhau, nhưng sự thật thời qui nạp tức là ức thuyết mà đã được thí nghiệm rồi, còn ức thuyết là qui nạp mà chưa thí nghiệm, hoặc thí nghiệm chưa được đầy đủ.
Một ức thuyết mà muốn được gọi là khoa học, phải có đủ những điều kiện sau này:
1. Nó phải căn cứ vào sự thật
2. Nó không bị phản đối vị một sự thật nào cả, nghĩa là trong khi thí nghiệm, không bị phải một thí nghiệm nào phản đối nó cả. 3. Nó phải là một nguyên lý dồi dào phong phú, nghĩa là gợi ra được nhiều cuộc tìm kiếm mới mẻ, gây ra được nhiều cuộc thí nghiệm. 4. Nó phải đơn giản. Chính vì lý thuyết của Ptoleme rất phiền phức nên Copernic mới nghĩ ra một ức thuyết khác đơn giản hơn. Đơn giản là điều kiện cốt yếu của một ức thuyết hay.
Ức thuyết, mà người thường hay xem là một lý thuyết, cần phải thí nghiệm lại mới được xem là một lý thuyết, đối với nhà khoa học. Nhà thông thái nhất, là người tìm ra được nhiều ức thuyết kiểm chứng được. Thiên tài biểu lộ, chính nơi đó. Edison, là người rất giàu ức thuyết. Cho nên ông là người phát minh sáng tạo rất nhiều món thần tình.
Tuy nhiên, nhà thông thái cần phải biết phân biệt ức thuyết và quy nạp, như trên kia đã có nói. Nghĩa là, họ phải biết hoài nghi những ức thuyết của mình. Họ phải đợi một thời gian để thí nghiệm tìm chứng cứ, cho thật xác đáng mới chịu qui nạp thành qui luật. Các nhà trinh thám cũng thường dùng phép qui nạp để tìm thủ phạm.[16]
Tóm lại, phương pháp của nhà khoa học bao giờ cũng phải trải qua ba giai đoạn này:
1. Quan sát cho thật tinh tế
2. Nhân những điều mình quan sát ấy, tìm cách qui nạp, nghĩa là tưởng tượng một nguyên nhân chung cho tất cả các sự kiện rời rạc kia, làm thành một ức thuyết. Ức thuyết ấy phải cắt nghĩa được tất cả những hiện tượng mình đã quan sát kia, mà không phải bị một sự thật nào phản bội phản đối được, chừng ấy mới được xem là đúng đắn thôi. Bằng không, phải bỏ đi, và tìm một ức thuyết khác đủ lý hơn và ăn khớp với sự thật hơn.
3. Nhà khoa học, bấy giờ, tìm cách kiểm tra, thí nghiệm ức thuyết ấy lại.
Qui nạp theo nhà khoa học, là tư tưởng mà biết hoãn lại sự phán đoán của mình, không kết luận “bướng”, không hấp tấp, vội vàng. Hoài nghi của nhà khoa học, là hoài nghi để mà chiêm nghiệm, không phải lối hoài nghi của người theo chủ nghĩa hoài nghi triệt để đâu. Muốn tập tư tưởng cho đúng đắn ít bị lầm lạc, cần phải theo phương pháp làm việc và suy nghiệm của nhà khoa học về thực nghiệm, vì phương pháp ấy tự buộc phải giữ luôn luôn sự liêm khiết đối với mình. Người ta thường hay có bụng thiên vị, cho nên chỉ nhớ những điều gì thuận với lòng mình ao ước thôi. Nhà khoa học, dầu sao cũng trước hết là người như mọi người, lẽ cố nhiên cũng có những sự thiên kiến đối với lý thuyết của mình. Bởi vậy, những bằng chứng, những lý lẽ nghịch với lý thuyết mình, họ thường hay bỏ qua không để ý đến. Darwin cũng vì lẽ ấy, tập tính hay biên ra liền, và biên một cách thành thật những ý kiến, những bằng cứ nghịch với lý thuyết của
ông, vì theo ông, những ý kiến ấy dễ quên lắm. Đó ông gọi là đức “liêm khiết khoa học”.
Tôi thường thường thích cái học của Lão Trang. Nhưng đọc sách, lại rất ưa đọc những sách bài bác Lão Trang. Những lý lẽ người ta đã viện ra để kích bác cái học ấy, tôi hay biên ra để cho dễ nhớ. Là vì tôi muốn đi sâu vào học thuyết ấy mà khỏi phải bị một thiên kiến gì cả. Khi mình đã có ưa thích một điều gì, mình phải biết lo ngừa có sự thiên lệch về điều ấy. Bất kì là học cái chi, tôi nhớ đến phương pháp này luôn, đến nó đã thành một thói quen rồi vậy.
Cái đức đầu tiên, mà phương pháp khoa học thực nghiệm đem lại cho con người, là đức khiêm tốn. Nó giúp ta bỏ bớt cái lòng tự đắc kiêu căng đi. Qui nạp mà cho đúng phép, nghĩa là hoàn toàn theo khoa học thực nghiệm, giúp cho tư tưởng mình được sáng suốt và đúng đắn, dẫu không phải là chân lý cũng không xa chân lý mấy. Qui nạp theo thói thường hay biến thành ngụy luận, sẽ bàn ở một nơi khác trong quyển này.
3. Loại suy
Loại suy, là lối luận đơn sơ hơn hết.
Nhân hai vật, vừa giống nhau mà cũng vừa khác nhau; nhưng phần giống nhiều hơn, ta kết luận cho cái này giống với cái kia.
Đó là phép loại suy.
Tỷ như: Trái đất, là một hành tinh có người ở; ta bèn nghĩ ngay đến hành tinh Sao Hỏa có lẽ cũng có người ta ở.
Kim loại đốt nóng giãn ra; ta bèn kết luận: chất đồng mà đốt nóng cũng giãn ra.
a) Bản chất:
Loại suy, bản chất nó như thế nào? Ta hãy so sánh nó với phép diễn dịch và qui nạp sẽ thấy dễ dàng hơn.
Diễn dịch và loại suy, mới thấy sơ qua thì tương tự với nhau, nhưng nếu đem cái kết luận của hai phương pháp ấy mà quan sát lại kỹ, ta sẽ thấy nó khác nhau xa.
Ví như, cùng một câu kết luận: “Chất đồng, hễ đốt nóng thì giãn ra”, mà dùng phép diễn dịch để tìm ra, thì phải dùng đến một tiền đề rộng rãi và gồm nắm cái kết luận ấy ở trong. Phải lập luận như vầy:
Phàm kim khí hễ đốt nóng, thì giãn ra;
Mà chất đồng là kim khí;
Bởi vậy, chất đồng hễ đốt nóng cũng giãn ra.
Trái lại, nếu dùng phép loại suy thì chỉ dùng đến một tiền đề thường, nghĩa là không rộng hơn và không gồm nắm cái kết luận ở trong. Chỉ luận sơ sài như vầy:
Chất sắt, đốt nóng thì giãn ra;
Chất đồng, đốt nóng cũng sẽ giãn ra.
Câu kết và câu tiền đề vẫn như nhau, nghĩa là tiền đề không rộng hơn, không hàm chứa kết luận ở trong.
Qui nạp và Loại suy cũng không giống nhau. Thử đem hai lối luận này mà so sánh như trên, ta sẽ thấy chỗ khởi điểm của hai lối luận này tuy đồng nhau, mà tới chỗ kết lại không giống nhau.
Tỉ như, cũng một chỗ khởi điểm là “Chất sắt đốt nóng giãn ra” mà dùng phép qui nạp thì phải kết luận như vầy:
Chất sắt, đốt nóng giãn ra;
Bởi vậy, bất kỳ là những cái gì thuộc về loại sắt, đốt nóng cũng giãn ra.
Trái lại, nếu dùng phép loại suy thì phải kết luận như vầy:
Chất sắt đốt nóng giãn ra;
Bởi vậy, chất đồng đốt nóng cũng sẽ giãn ra.
Qui nạp thì nhân chỗ đồng nhất mà kết qua chỗ đồng nhất, nghĩa là từ chất sắt kết qua chất sắt nhưng rộng hơn; còn loại suy, thì nhân chỗ tương tợ mà kết qua chỗ tương tợ, nghĩa là từ chất sắt kết qua chất đồng, hai chất tuy cùng loại là kim khí nhưng khác nhau.
Thế thì, loại suy rất khác xa diễn dịch và qui nạp. Vậy, thì nó là gì?
Dường như lối luận của loại suy là lối luận vượt bậc, luận từ chất sắt vượt qua chất đồng mà không cần một trung gian nào cả. Nhưng thật sự thời không phải vậy. Trong lối luận loại suy có hai giai đoạn:
- Giai đoạn thứ nhất: Nhân thấy chất sắt nóng, giãn ra, ta bèn nghĩ ngược lại một đại tiền đề rộng hơn: phàm là kim khí, hễ nóng thì gãn ra.
- Giai đoạn thứ hai: Bắt đầu đại tiền đề ấy, ta cứ luận theo phép diễn dịch: phàm là kim khí hễ nóng thì giãn ra; mà chất đồng là kim khí; cho nên, chất đồng hễ nóng cũng giãn ra.
Nếu xét cho kỹ, ta thấy giai đoạn thứ hai này là một lối luận theo
phép diễn dịch thường rất dễ hiểu. Chỉ có giai đoạn thứ nhất, là có hơi khó giải thích một chút. Thật vậy, mới xem qua, dường như nó là một lối qui nạp:
Chất sắt, nóng thì giãn ra;
Bởi vậy, loại kim khí nào nóng cũng giãn ra.
Nhưng như thế thì lý luận không mấy được chính xác, vì nếu thật theo phép qui nạp, phải luận như vầy mới đúng:
Sắt, nóng thì giãn ra;
Bởi vậy, bất kỳ là ở đâu và bao giờ, sắt hễ nóng thì giãn ra.
Theo phép qui nạp, ta không có quyền kết luận từ chất này qua chất kia, nghĩa là từ chất sắt qua chất đồng mà chỉ được phép kết từ bây giờ đến sau này và mãi mãi từ một thời gian ngắn đến một thời gian dài hơn. Ta phải luận như vầy: Giờ đây, miếng sắt này, đốt nóng thì giãn ra.
Vậy, bất kì là ở vào buổi nào, nếu đem chất sắt mà đốt, thì nó cũng sẽ giãn ra như bây giờ. Đây mới là luận theo phép qui nạp. Còn luận như trên: bắt từ chất sắt mà kết luận đến tất cả kim khí, đâu còn
gọi được là qui nạp nữa, mà là một lối vừa qui nạp vừa loại suy mà trộn lộn lại thôi.
Cho nên, giai đoạn thứ nhất này cũng chưa giải quyết. Ta quả quyết nó không phải cùng một loại với qui nạp. Vậy, nó là loại gì?
Nó thật ra cùng một loại với diễn dịch, nhưng diễn dịch nghịch hành nghĩa là diễn dịch nhân kết luận mà trở ngược về đại tiền đề. Như ta đã thấy ở trên: nhân thấy miếng sắt nóng giãn ra, ta bèn nghĩ đến một đại tiền đề rộng hơn: phàm là kim khí, hễ nóng thì giãn ra.
Đến khi tìm được đại tiền đề của nó rồi, bấy giờ ta cứ theo con đường diễn dịch thuận hành mà đi như thường:
Phàm là kim khí, hễ đốt nóng thì giãn ra;
Mà chất đồng là kim khí;
Vậy, chất đồng đốt nóng cũng giãn ra.
Tóm lại, luận theo loại suy có hai giai đoạn: diễn dịch nghịch hành, và tiếp theo đó diễn dịch thuận hành nghĩa là theo con đường tự nhiên của phép diễn dịch. Hay, nói một cách khác, luận theo phép loại suy không có vượt bậc, nghĩa là, nhảy từ “ca” thứ nhất qua “ca”
thứ hai, vừa chất sắt, nhảy qua chất đồng, mà là luận theo một lối diễn dịch ngược lên để tìm đại tiền đề, rồi diễn dịch luận xuống để kết luận.
b) Giá trị:
Muốn định giá trị của phép luận này, nghĩa là muốn biết nó đáng tin nhiều ít như thế nào, thì phải căn cứ vào đâu?
Cố nhiên là phải căn cứ nơi chỗ sai biệt cảu hai “ca” mà ta muốn dung hiệp đó. Nếu chỗ sai biệt nhiều hơn chỗ giống nhau thì kết luận của ta đáng hoài nghi. Nhược bằng, chỗ giống nhau lấn hơn chỗ sai biệt thì kết luận của ta đáng tin hơn là ngờ vực. Nhưng tin một cách quả quyết tuyệt đối thì không nên, vì lối luận này bao giờ cũng đáng ngờ, bởi hai vật đều giống nhau đếu đâu, bao giờ cũng có chỗ khác nhau. Trong vạn vật không bao giờ có hai vật giống nhau như một đặng.
Tỉ như: Ta nhân con người có trí huệ, có tình cảm mà kết luận rằng con thú cũng có trí huệ và tình cảm. Lẽ cố nhiên là cái kết luận này đáng ngờ lắm. Tại sao? Vì giữa con người và con thú, biết bao nhiêu là điều khác nhau.
Tuy nhiên, không phải chỉ đếm cho được nhiều sự sai biệt là đủ, ta còn phải biết cân nhắc nó nữa. Một chỗ sai biệt thôi, lắm khi cũng đủ làm cho ta ngờ vực và không dùng đến loại suy được. Ví dụ như loại suy trên trái đất mà ta quả quyết rằng trên mặt trăng cũng có người ở như ở đây, ta đâu có cần phải thấy được nhiều chỗ sai biệt để phá hoại câu kết luận. Chỉ cần biết rằng trên đó không có không khí như ở đây, là đủ cho câu kết kia tự hủy. Cho nên, một điểm sai biệt thôi, nếu nó thật quan trọng cũng đủ thủ tiêu kết luận của ta liền. Cái phẩm thường trọng hơn cái lượng.
Lại còn một nguyên nhân nữa làm cho lối luận này đáng ngờ, là chỗ mù mờ ta chưa khám phá được hết sự sai biệt giữa hai vật mà ta muốn dung hợp kia. Như giữa thần trí con người và thần trí con vật còn có nhiều chỗ sai biệt vô tình mà ta chưa khám phá được hết, làm cho sự so sánh của ta rất khó lòng mà quyết đoán được. Luận bằng loại suy thật là một lối luận mong manh hết sức.
c) Công dụng:
Trong các lối luận, chỉ có loại suy là thường dùng hơn hết. Trong ngôn ngữ hàng ngày, trong đời sống của ta hằng buổi đây, dường như luôn luôn ta chỉ có lý luận bằng loại suy thôi: ta thấy người kia có cặp mắt hay giọng nói giống em ta, ta liền tưởng cho họ cũng có một tánh tình như em ta vậy. Ta thường tưởng cho ai cũng có một tánh tình như ta: Nếu ta là người chân chất thật thà, ta tưởng cho ai cũng chân chất thật thà. Nếu ta là người ưa dối trá xảo ngụy, thì lại tưởng cho ai cũng dối trá xảo ngụy như mình. Luôn luôn ta lý luận như thế, thật là lầm lạc dễ dàng quá. Ở đời, bao giờ có hai cục đá giống nhau, hoặc hai cọng là giống nhau. Ở nơi con người, thì sự sai biệt lại còn rõ rệt hơn nữa.
Về lịch sử, người ta cũng hay dùng phương pháp loại suy lắm, vì ở đây, nếu không dùng loại suy thì không thể nào làm gì mà rõ biết được thời xưa sao cả. Ở đây, người ta không thể dùng phương pháp thí nghiệm được, nên phải buộc lòng dùng phép loại suy. Nhân nay và xét xưa, thật là mơ hồ không dám trọn tin như ta tin ở các ngành khoa học khác. Bởi vậy, người ta do dự không chịu đem lịch sử mà gọi là khoa học. Những quan niệm về siêu hình, nhất là cái học về huyền bí thời lại phải dùng toàn phương pháp loại suy.[17] Ở đây cũng như ở lịch sử, người ta nhân đời sống kiếp này mà nghĩ đến đời sống kiếp sau, tóm lại nhân cái chỗ thấy được để độ chỗ không thấy được, vì thế mà những cái học này không đủ cho người ta tin cậy.
Dùng đến loại suy, thường là để tiên liệu hoặc lý giải một điều gì. Nhân thấy “gió heo may mà chuồn chuồn bay” thì định là sẽ có
bão tố. Là vì ta nhớ một khi kia đã có xảy ra một vụ như vậy. Lối dự liệu như thế thì không mấy được chắc chắn, bởi còn nhiều điều kiện khác mà ta bỏ qua hay thiếu sót. Nhưng mà lối dữ liệu này người ta lại ưa dùng nhất trong khi tên đoán những sự sẽ xảy ra trong lịch sử.
Theo khoa học thực nghiệm, loại suy chỉ dùng để tạo ức thuyết mà thôi, vì nó không phải là một lối luận chặt chẽ khít khao như quy nạp. Nó là một sự ước định, và chỉ là một sự ước định mà thôi.
Nhà khoa học, cũng dùng nó để dự đoán. Vì đã có nhiều lần chứng kiến, hễ cho thuốc xổ là sẽ đi sông. Cho nên, khi ông thầy thuốc cho bệnh nhân uống thuốc xổ, ông tin rằng, người ấy sẽ đi sông như các bệnh nhân khác mà ông đã mục kích. Cho nên người bệnh uống một món thuốc nào, là ông chỉ nhờ người ấy báo tin cho ông biết nó sẽ như lòng ông đã tiên liệu. Nhà thí nghiệm, mỗi khi đem hai chất mà phối hợp với nhau trong nồi, là đã dự đoán nó sẽ chuyển như thế nào, vì dưới mắt ông đã thấy nhiều lần sự hoán chuyển như thế. Cho nên loại suy là để dự đoán.
Loại suy cũng dùng để cắt nghĩa. Đem một lý giải về một việc đã qua mà đã biết rõ, để cắt nghĩa một “ca” mới giống như “ca” trước. Nhiều chứng bệnh cấp tính người ta đã tìm thấy nguyên nhân nơi cái độc của vi trùng. Nay thấy một chứng bệnh cấp tính mới khác người ta cũng vịn theo cái thuyết vi trùng mà cắt nghĩa. Cũng như người ta thể theo điển học mà cắt nghĩa những hiện tượng của thiên thời như: Gió, mưa, sấm, chớp.
Tuy nhiên, ta nên để ý kĩ điều này: Tiên liệu theo khoa học không
giống với cách tiên liệu của thường tình, tiên liệu như nhà tiên tri. Lối tiên đoán này không có cắt nghĩa gì được cả. Nhà tiên tri chỉ thấy trước và công bố vậy thôi, chớ không cần phải cắt nghĩa vì sao sự tình ấy phải xảy ra. Nhà khoa học thì khác: Vừa tiên đoán mà cũng vừa cắt nghĩa. Nhà thiên văn tiên đoán sẽ có nhật thực, không phải tiên đoán theo lối nhà tiên tri. Trái lại họ cắt nghĩa vì sao nhật thực phải có ở tại chỗ ấy, ngày ấy và giờ ấy. Cho nên muốn loại suy mà khỏi phải bị sai lầm nhiều, nên bắt chước theo phép loại suy của nhà khoa học.
Phép loại suy cũng có khi gọi là tỉ luận. Tỉ luận, tuy cũng gọi là “annalogie” này khác với “annalogie” nghĩa loại suy.
Tỉ như câu:
“Trời không lường trưa, sớm, n, mưa.
Người đâu biết hôm, mai, họa, phước.”
Đó là lấy việc trời đất, mà “ví” với việc người.
Lại như câu:
“Vừng trăng khi khuyết khi tròn;
Người đời lúc thịnh e còn lúc suy”.
Đây là nói, đời người lúc thịnh lúc suy, giống như cái cách vừng trăng khi tròn khi khuyết. Ấy là chỉ cái “cách” giống, chứ không phải cái “thế” giống.
Nhà viết văn thường hay dùng lối này là muốn giúp để suy nghĩ, chớ không phải muốn chứng giải một điều gì. Khi đọc sách, phải coi chừng lối tỉ luận, bởi có nhiều nhà văn hay lợi dụng phép này để chứng giải những lý thuyết lờ mờ của mình.
Có kẻ lại dùng phép tỉ luận đem vật có hình để ví với sự vô hình. Như nói:
“Cá không ăn muối cá ươn,
Con không nghe cha mẹ, trăm đường con hư”.
Cái đó chưa ắt, vì còn tùy… Còn phải coi cách cá ươn có trăm phần trăm giống cái cách con hư hay không; còn phải coi hiệu quả của lời cha mẹ đối với con, có được hiệu quả như muối đối với cá hay không.
Chương III
SAI LẦM VÌ LÝ LUN
Muốn lý luận cho đúng đắn, cần phải để ý thêm về những nguyên nhân sai lầm sau nầy trong những phép luận kể trước đây.
I. Sai lầm của phép diễn dịch
1. Dùng chữ có nhiều nghĩa khác nhau trong một câu luận
Trong “tam đoạn luận” có ba phần: Đại tiền đề, tiểu tiền đề và kết luận. Nếu dùng một chữ, mà ở đại tiền đề ta dùng một nghĩa, tiểu tiền đề lại dùng với một nghĩa khác, thời sự suy diễn của ta tất phải sai lầm. Một tiếng nào bất kỳ, đều có nhiều nghĩa. Nhưng, nếu ta định nghĩa dùng nó riêng về một nghĩa nào ở đại tiền đề, thời phải thể theo nó luôn luôn cho tới cùng, không đặng quyền thay đổi nghĩa ấy. Tỉ như trong câu luận này:
Bất kỳ là ai được tự do thời phải có trách nhiệm
Mà con chim được tự do;
Cho nên, con chim cũng phải có trách nhiệm.
Ở đây, chữ tự do dùng đại tiền đề là nói về tự do tinh thần (liberté morale), còn tự do ở tiểu tiền đề lại chỉ về tự do thể chất (liberté physique). Luận như thế, là luận sai. Luận cho đúng thời chữ tụ do ở đại tiền đề nếu muốn dùng chỉ về loại tự do tinh thần, thời ở tiểu tiền đề phải dùng chữ tự do cùng nghĩa như trên mới đặng.
Lại cũng như trong câu này:
Người ta là loài có máu nóng;
Mà anh A. thấy đồng loại bị nhục mà bỏ qua nghĩa là người không có máu nóng;
Ấy nên anh A… không phải là con người.
Chữ “máu nóng” dùng ở đại tiền đề, cùng với chữ “máu nóng” dùng ở câu tiểu tiền đề có 2 nghĩa khác nhau. Dùng lẫn lộn hàm hồ như thế, là ngụy luận vậy.
Lại cũng có một lối luận kỳ khôi này, là đổ dồn nhiều câu hỏi. Như hỏi: Tại sao con cá chết lại nặng hơn con cá sống?
Câu hỏi này lẽ ra phải phân ra làm hai câu hỏi riêng nhau mới đúng, là:
1. Con cá chết thì nặng hơn con cá sống, có thật vậy không?
2. Nếu quả có thật vậy, thì tại làm sao như thế?
Người hỏi câu như thế là hỏi hàm hồ, mà người lo trả lời câu hỏi ấy nếu không biết phân biệt nó ra làm hai vấn đề, để theo trật tự trước sau mà giải quyết, lại lo loay hoay tìm cách trả lời, thật đáng thương hại không biết là chừng nào.
2. Nguyên tắc sai
Nếu ở tiền đề mình đặt một nguyên tắc sai, thời khi diễn dịch cũng sai mất, vì theo phép luận này “hễ tiền đề sai thì kết luận sai”.
Như trong câu thông thường này của luận lý học:
Người ta đều không bao giờ chết:
Mà ông Xoài là người;
Cho nên ông Xoài không bao giờ chết.
Cách luận ở đây thời phải phép, nhưng câu kết luận thì sai là vì câu đại tiền đề dùng làm nguyên tắc đã sai với sự thật rồi.
Lối luận này là lối luận nguy hiểm lắm, cần phải xem xét cho kỹ, coi nguyên tắc ấy có đúng với sự thật không, nhiên hậu sẽ nhận câu kết luận cũng không muộn.
Đây là lối tiên thiên mà các nhà tôn giáo chính trị ưa dùng nhất: đại tiền đề của họ là một câ sách thánh hoặc một câu khẩu hiệu của bè phái mà họ đã nhận suông như một nguyên tắc tuyệt đối. Những câu nguyên tắc ấy, là những quả quyết suông, những ức thuyết còn đợi sự thí nghiệm. Ta cần phải thận trọng cho lắm, không khéo lại sa vào cạm bẫy của họ như chơi. Tỉ như cây này:
Kẻ nào không đọc sách thì bị họa:
Anh X. không chịu đọc sách
Bởi vậy anh mới bị họa.
Lại như câu:
Chỉ có những ai theo chủ thuyết X mới thật phụng sự cho Tiến bộ thôi;
Anh không theo chủ thuyết ấy;
Anh không phụng sự cho sự Tiến bộ.
Hoặc nói:
Nhà văn sĩ yêu nước, phải ca tụng chính sách Y…
Anh Ổi không chịu ca tụng chính sách Y.
Anh Ổi không phải là văn sĩ yêu nước.
Trên đây là những tỉ dụ giản dị để cho ta thấy được chỗ vô ý thức của lối luận này. Phần nhiều những nguyên tắc tiên thiên của nhà chính trị hay tôi giáo đưa ra không phải đều đơn giản như trên đây, họ khéo trình bày nó trong một lớp sơn rất lộng lẫy, rất thỏa mãn lòng tự ái cho mỗi người, cho nên những kẻ vô tâm khó lòng mà nhận thấy được dễ dàng.
3. Đi lạc đề
Luận theo tam đoạn luận mà cho đúng phép, thời câu kết luận phải nằm trong tiền đề, không được phép ra khỏi đó.
Trái lại, nhiều kẻ không chịu ôm sá theo tiền đề, tất nhiên khi kết luận, đi lạc vào chỗ khác.
Tỉ như câu:
Ở thành thị thì không khí không tốt;
Mà Sài gòn là một thành thị;
Bởi vậy, ở Sài gòn khó thể làm ăn.
Câu kết luận không “nằm trong” tiền đề, lại đi lạc vào một vấn đề khác, là vấn đề làm ăn, không ăn chịu gì đến vấn đề không khí cả.
Câu tỉ dụ thô sơ, dễ buồn cười, nhưng ở đời người ta cũng hiếm thấy kẻ hay luận “bướng” như thế lắm.
4. Luận chứng ngoài vấn đề
Đây là lối y luận, trong đó những luận chứng của ta đều không ăn vào đề.
Có 3 cách ra ngoài vấn đề:
1. Chứng luận quá đề;
2. Chứng luận thiếu sót;
3. Chứng luận lạc đề.
Tỉ như, trong một cuộc hội nghị, người ta bàn cãi coi phải nên đánh hay không nên đánh giặc. Có 2 người lại bàn: “Chiến tranh là bất công”. Đó là chứng luận quá đề, vì ở đây người ta không hợp với nhau để bàn chung về vấn đề chiến tranh mà là để bàn về một cuộc chiến tranh riêng biệt nào.
Có kẻ lại bảo: “Cuộc chiến tranh này sẽ có lợi cho chúng ta, nếu chúng ta thắng trận”. Đó là chứng luận thiếu sót, vì chiến tranh chẳng phải vì lợi mà thôi, là đủ để khai chiến, ta phải coi nó có được
công bình không đã, và nhất là xem xét coi mình có đủ sức chiến thắng tới cùng không?
Cũng có kẻ viện lẽ: “Mình phải lo làm cho quốc gia được cường mạnh thêm lên”. Đó là chứng luận ra ngoài vấn đề (prouver à côté de question) vì cũng có biết bao phương thế khác có thể mưu cho quốc gia được cường thịnh gấp bội, lựa phải dùng đến chiến tranh. Vấn đề đang bàn cãi đây là: Nên đánh hay không nên đánh. Những chứng luận ở trên, đều là chứng luận ngoài vấn đề cả.
Cũng như nhà chính trị kia, muốn thay một vài đạo luật trong nước lại đi cắt nghĩa và chứng giải sự cần thiết của luật pháp cho dân chúng nghe. Vấn đề “cần thiết của luật pháp” có ăn chịu gì với vấn đề sửa đổi một vài đạo luật đâu!
5. Tuần hoàn luật pháp
Cắt nghĩa câu này bằng câu kia: Những câu kia chính nó cũng còn cần phải cắt nghĩa nữa mới đặng. Hay nói một cách khác: Điều mình đem ra để chứng dẫn, tự nó cũng cần phải chứng giải mới đặng.
Cũng như câu: “Á phiện làm cho ta ngủ tại nó có tính chất làm cho ta ngủ”. Nói như thế thì ta cũng không cắt nghĩa được vì sao á phiện làm cho ta ngủ. Nói rằng “tại nó có tính chất làm cho ta ngủ” thời ta cũng không biết được tại sao nó có cái tính chất ấy. Đó là phép luận tuần hoàn.
Lại như câu luận này tìm ra chính trong sách của Aristote, có thể dùng làm khuôn mẫu cho lối ngụy luận này:
“Bản tính của các vật nặng là hút vào trung tâm trời đất (centre du monde).
Kinh nghiệm chỉ cho ta thấy rằng các vật nặng đều hút và trung tâm quả đất (centre de la terre).
Ấy vậy, trung tâm quả đất là trung tâm của trời đất”.
Cái nguyên tắc ở đại tiền đề trên đây là một nguyên tắc phải chứng giải trước khi đem nó dùng làm nguyên tắc. Trong sách “Logique de Port Royal” bảo: “Chúng ta thấy rõ, phàm hễ vật nặng thì hút vào trung tâm trời đất, Aristote vịn vào đâu mà nói thế, nếu chẳng phải vì ông ấy đã nhận trước rằng, trung tâm quả đất cũng là trung tâm của trời đất nữa”.
6. Cái vòng luẩn quẩn
Lấy cái này giải cái kia, rối lấy cái kia giải lại cái này. Lấy B giải A, rồi nếu có buộc phải giải B, thời lại trở lấy A mà giải lại B.
Như câu này của Descartes: “Trời là có thật, vì cái lý của ta không thể sai lầm được. Mà lý của ta sở dĩ không sai lầm được, là bởi do Trời mà ra vậy”. Đây là lối luận theo cái vòng luẩn quẩn.
Ta thường thấy trong các tự điển cẩu thả, hay dùng lối ngụy giải này. Tỉ như chữ “Thiện”, giải là “không Ác”, đến chữ “Ác” thì giải là “không Thiện”… Từ chữ Thiện qua chữ Ác, ta cứ lẩn quẩn qua lại mà cũng không bao giờ hiểu được chữ Thiện là cái thứ gì, luôn cả chữ Ác cũng vậy. Câu chuyện con gà mái với hột gà là một tỉ dụ rất ngộ nghĩnh của lối luận này: Cái gì sinh ra con gà mái? Hột gà! Cái gì sinh ra hột gà? Con gà mái! Và cứ thế mà đi, đi luẩn quẩn mãi trong cái vòng bất tận.
Muốn tránh những cái lối trên đây, cần nhất là phải ôm sát đề. Một vấn đề mà đặt trúng cách và rõ ràng, là có thể xem như đã được giải quyết rồi vậy. Muốn đặt một vân đề cho trúng cách, trước hết phải thể theo sự thật, và để ý phân biệt cho kĩ cái nào là cái chính, cái nào là cái phụ, và nhất định nắm lấy cái cốt của nó, lượt bỏ tất cả những chi tiết không ăn chịu hoặc chỉ quan hệ một cách xa xôi với nó. Những điều kiện thiết yếu không thể thiếu sót hay bỏ qua. Thế rồi, nhận cho kĩ nghĩa lý của ngôn ngữ văn tự của mình dùng. Được vậy, là tránh được nhiều lỗi sai lầm rồi vậy.
II. Sai lầm của phép qui nạp
Phép luận qui nạp căn cứ vào nguyên tắc này: Tạo vật đều tuân theo những qui luật tự nhiên bất di bất dịch, nghĩa là phàm những sự kiện giống nhau, bao giờ những kết quả cũng sẽ giống nhau.
Lối luận này thường hay sanh ra những sai lầm như sau
1. Luật ngẫu nhiên
Nhận thấy một vài ông thầy thuốc Nam học vấn lôi thôi, trị bệnh cẩu thả với năm ba toa thuốc gia truyền, liền qui nạp “bướng” rằng: Thầy thuốc Nam không đáng tin cậy; hoặc, thuốc Nam dở.
Có nhiều kẻ tưởng rằng ở miền Nam thì luôn luôn nóng nực mà ở miền Bắc thì luôn luôn lạnh lẽo. Cái đầu óc đơn sơ chất phác ấy làm cho phần đông con người hay lấy một vài việc riêng mà kết luận chung, hoặc lấy một vài luật chung mà cho những việc riêng đều phải như thế cả. Nếu họ thấy một vài ông thầy tu lường gạt tín đồ của họ, tức khắc họ kết án tất cả các ông thầy tu đều là phường dối trá. Hoặc họ gặp một vài người nào đó vô liêm sỉ, họ cũng kết án chung rằng: người cả dân tộc đó vô liêm sỉ.
Cái tính hay bao quát như thế để luận, mà ta thường gọi là “vơ đũa cả nắm”, làm cho nhà văn sĩ kia khi đến một xứ nọ, lúc tàu đậu bến, thấy vài người đàn bà đến đó, tóc hoe hoe, liền viết bài du kí rằng: xứ ấy đàn bà đều tóc hoe cả. Nhân đó mà lý luận mới đặt cho lối ngụy luận ấy cái tên “ngụy luận người đàn bà tóc hoe” (sophisme de la femme rouse).
Trong Án Tử Xuân Thu cũng có một câu chuyện ngộ nghĩnh về lối ngụy luận trên đây: Vua Sở thấy lính dẫn một người tù, giả làm người nước Tề đi ngang qua. Liền hỏi: Tội gì thế? Lính trả lời: Tội ăn trộm. Vua Sở hỏi Án Tử: “Người nước Tề ăn trộm cả hay sao?” Đó là lối luận “vơ đũa cả nắm”.
Dạo nào, báo chí xứ ta dẫy đầy cái nạn lý luận ấy: Nhà báo nọ thuật một câu chuyện chủ đánh đày tớ, rồi kết luận: Bọn giàu là bọn dã man. Cũng như có nhiều kẻ bảo bướng rằng: Con gái cho học giỏi
thì hư. Là vì họ thấy trong xóm họ có một cô gái học giỏi mà hư hỏng mất nết…
Có kẻ lại nói: Ông thầy thuốc này đại tài, không bệnh nào mà ông không cứu nổi. Là vì họ thấy hôm nào ông ấy có cứu được một người trong xóm bị trúng thực gần chết. Luận như thế là sai, vì có khi ông ấy chỉ chuyên môn bệnh này mà không chuyên môn bệnh khác, hoặc biết đâu ngờ mà ông cứu được bệnh ấy. Ngẫu nhiên mà cứu được, chưa ắt là luôn luôn và bất kỳ là bệnh nào ông cũng được cái may mắn ấy nữa. Cái lối luận này đã giết người không biết bao nhiêu rồi: Có kẻ cảm mạo thương hàn, mua thuốc hoàn tán uống hết, liền cho nó là thần dược trị bệnh thương hàn của ai cũng đặng cả, liền chỉ cho người bạn mua uống: “Hôm ấy tôi đâu như anh, thế nhờ thuốc này mà khỏi”. Anh bèn nghe lời, uống vào, bị “phát tán vong dương”, chết liền trong nháy mắt. Bệnh thương hàn có nhiều cách, mà người đau thương hàn cũng có nhiều cách… Vì thuốc tr được người này chưa ắt cũng trị được người kia. Tôi thấy hiếm bậc trí thức mà cũng có cái tật giới thiệu thuốc uống một cách cẩu thả như thế. Cho hay một phán đoán mà sai lầm có hại cho mình và cho người đâu phải nhỏ.
André Gide có nói: “Giá trị của người này trong một giới này, không đủ đảm bảo giá trị của họ trong một giới khác” (La valeur d’un home dán un domaine ne constitue pas une garatie de sa valeur dans un autre domaine). Nghĩa là, người tài giỏi ở bên môn này, không đủ đảm bảo rằng họ cũng tài giỏi luôn về môn khác. Nhà bác sĩ đại danh là người tài giỏi bên y giới thôi, chưa ắt vì lẽ ấy, vì tên tuổi họ mà cho họ cũng tài giỏi luôn bên chính trị hay văn chương, nếu ta chưa thấy đủ bằng cớ. Nhiều người thường nói: “Ông này ăn học giỏi lẽ nào thất nghiệp”. Hoặc: “Ông này học rộng tài cao, nếu ra buôn bán chắc không ai theo kịp”. Là vì họ thấy phần đông kẻ buôn bán ít thấy có người ăn học giỏi. Cái đó chưa ắt. Có nhiều bậc bác học, nếu theo qua nghề buôn, lại có khi vụng về hơn một kẻ quê mùa dốt nát.
Có nhiều kẻ đi xem trò ảo thuật của mấy anh bán thuốc dạo, rồi mua ngay thuốc họ bán mà dùng. Chỉ vì anh ấy “thuật tài quá”. Óc
đơn giản thật thà của người ta đến thế! Tôi còn nhớ khi xưa, cùng bút chiến với một vị túc học ở Bắc hà về một vấn đề văn tự. Ông ấy bảo với tôi: “Viết văn mà còn chữ bọt chữ thừa thì học lực tư tưởng có bao nhiêu mà dám cầm viết viết báo”. Không cần phải nói, ai ai cũng thấy rõ lối ngụy luận của ông: ông lầm lột nhà tư tưởng với nhà làm văn, mà “vơ đũa cả nắm”. Chưa ắt nhà làm văn sành sỏi là nhà tư tưởng cao siêu, mà nhà tư tưởng cao siêu cũng chưa phải là nhà văn sành sỏi. Ca dao tục ngữ có câu: “Thương ai thương hết cả nhà, ghét ai ghét hết cả bà cả con”. Ông Le Senne, trong quyển “Le Mensonge et le Caractère” có nêu ra rất nhiều vụ quan sát của ông về lối luận đặc biệt này, như sau đây:
“Anh Jacques S… có nhiều lối luận như vầy: a) Trong một việc nào đó, anh bất bình với một anh học sinh trường Bách nghệ, anh liền nghĩ ngay rằng “bọn học sinh trường Bách nghệ đều không đáng đồng xu”; b) Được một người kia tiếp đãi ân cần niềm nở, anh liền để ý cho người ấy là người có đủ tài đức hơn người, và tán tụng không hết lời; c) Bất bình một anh Do Thái, anh bèn để ý ghét cả dân Do Thái rất lâu, đến một khi kia anh gặp một người Do Thái khác làm cho anh cảm động, anh liền trở lại yêu người Do Thái… trước sau chỉ toàn vì một duyên cớ không đáng kể. Đây cũng là lối lý luận của trẻ con. Hễ ai làm vừa lòng nó thì nó thương và cho là người tốt. Trái lại, nó ghét và cho là người xấu. Người lớn hiếm ai lý luận và phán đoán liều lĩnh như thế. Kén dâu chọn rể họ cũng kén chọn theo cái óc giản lược đó. Thấy đứa rể khéo chiều chuộng bưng bợ, thì cho “thằng ấy dễ thương tử tế”. Thấy con dâu ăn nói ngọt ngào thì cho đứa ấy khôn ngo hiền hậu”.
Óc giản lược (spirit simpliste) lại cũng làm cho ta lắm khi bỏ qua không chịu để ý đến vấn đề “thời gian khác nhau”. Tỉ như có kẻ so sánh cuộc cách mạng nước Pháp 1789 với cuộc cách mạng của Nga sau này và cho nó đồng một nguyên nhân, một nguyên tắc với nhau. Cũng là cách mạng, mà thời buổi khác nhau, không thể lẫn lộn với nhau mà luận liền như thế được. Thường ngày, ta cũng hay cẩu thả, bỏ qua vấn đề thời buổi khác nhau ấy. Lúc nghỉ hè thì nếu gặp phải trời mưa, ta cứ tự tiện ở nhà, khi khác đi chơi cũng chẳng muộn. Trái lại, trong khi đi làm việc ở công sở, mà cũng luận như thế thì “nguy”
mất, vì thế nào cũng bị quở trách.
Phần đông những nhà luận lý, những nhà chính trị hay lập ra những lý thuyết về “con người mẫu” (homme type). Họ nghiên cứu chung về con người, và cho rằng ai ai cũng như thế. Họ đem tất cả con người trong thiên hạ mà “đổ chung vào một bao”, không hay rằng: người ta có nhiều loại, tùy dân tộc, tùy văn hóa, sự khác biệt giữa con người ngày càng hiện ra rõ rệt.
Nhưng mà “thái quá vu bất cập”. Quá giản lược có hại mà quá phiền phức cũng không hay gì. Có kẻ vì quá sợ sự giản lược, hoặc vì óc quá tỉ mỉ, quá phân tích nên thường hay có cái thói “bới lông tìm vết”. Người ta tử tế với mình thì tưởng người ta muốn lợi dụng mình gì đây. Trong từng cử chỉ lời nói rất thật thà của người ta, mình lại tìm đủ thế để hiểu rằng đó là những lối dối giả để dụ gạt. Bị chủ quở rầy, lại không hiểu cái nghĩa của sự bị rầy ấy do nơi đâu, cứ đi tìm mãi đâu đâu mà nghĩ rằng thế nào rồi đây cũng sẽ bị mất sở. Sự thật lại khác: Chủ rầy là để cho mình đừng làm sai như thế nữa. Chỉ có thế thôi.
Thường trong khi tìm hiểu một điều gì, ta cần phải tạo ra một ức thuyết để dìu dắt sự quan sát của ta cho có trật tự. Cái đó rất có lợi, như ta đã thấy ở Óc Sáng Suốt[18]. Tuy nhiên nếu dng nó mà quá lạm dụng nó, quá tin nó… trái lại, nó là một nguyên nhân thường khiến ta hay sa vào chỗ sai lầm. Vì óc quá giản lược, mình thích thấy cái ức thuyết mình là đúng, để khỏi phải quan sát đi, quan sát lại, suy nghĩ
tới, suy nghĩ lui cho mệt. Bởi vậy, bất kì những sự kiện nào không ăn chịu với ức thuyết ta, ta loại nó ra ngay, không chút ngần ngại gì cả. Những kẻ theo thuyết tiến hóa phần đông không chịu nhìn nhận những sự kiện nào có thể trái cái thuyết của họ đang thờ. Họ thường cưỡng ép những sự kiện khác với lý thuyết của họ, phải chiều theo đường lối đã vạch sẵn của lý thuyết họ.
Lạm dụng ức thuyết như cái trường hợp của bồi thẩm kia, đinh ninh quả quyết tên bị cáo nọ là thủ phạm. Cho nên bất kì người ấy khai điều gì, làm việc gì ông ấy để ý thấy rõ ràng là cử chỉ của một đứa sát nhân. Những lời nói nào không thuận với ức thuyết của ông đều bị ông loại ra, không chịu để ý đến. Hoặc cũng lời nói ấy, một người khác sẽ thấy người ấy vô tội, mà với thiên kiến ông, ông thấy rõ là có tội. Vấn đề này, đã nói rõ ở trước rồi, nay khỏi bàn lại làm chi.
Những kẻ bị thiên về chức vụ thường có cái óc giản lược ấy. Nếu là bác sĩ theo Thái tây, thì bệnh gì cũng nghi là bị vi trùng. Nghe ho, là nghi bị vi trùng Koch. Bất kì là thấy một trạng thái nào lạ, thì nghi mắc bệnh thần kinh. Dưới con mắt bác sĩ, thiên tài cũng chỉ là một chứng bệnh. Người Pháp nói: “Cứ nghe ông Jose nói, ta biết ông là người thợ bạc. (À écouter M. Jose, on le reconnait orfèvre)”. Óc thiên về chức vụ, rất đáng sợ nhất, là “óc thiên” của các ông bồi thẩm đã “chai lòng”: biết bao kẻ bị thác oan hay bị tội oan chỉ vì vô tình đưa ra một vài bằng cớ ăn khớp với những ức thuyết nhất định của các ông. Nếu các ông ấy nghi mình là tội phạm rồi thì với một cái nháy mắt, một tiếng nói vô tình của mình cũng đủ làm cho mình bị kết án, không thể nào chạy khỏi.
Tại sao người ta phần đông hay sa vào cái lối luận giản lược này?
Là vì bản tính của con người rất ưa sự giản dị, rất ghét sự phiền phức. Mà thực sự ở đời lại rất phức tạp, không có cái gì là đơn giản cả. Nếu mỗi mỗi đều phải để ý đến từng sự liên quan mật thiết các sự
vật, thì nhọc trí là dường nào. Cho nên người ta bao giờ cũng tìm cách để giản lược bất kỳ vấn đề nào, đặng vừa thỏa được lòng ham muốn đòi hỏi ý nghĩa sự vật, vừa thỏa được cái óc đơn giản nghĩa là cái óc biếng nhác của mình. Sở dĩ các thuyết giáo mà được bành trướng dễ dàng là nhờ nó giản lược được tất cả vấn đề phiền rộn của nhân sinh. Bao nhiêu sự gì rắc rối không thể hiểu được hay giải quyết được thì mình cứ đổ trút vào “Ông Trời” là xong chuyện. Nếu mình không tin có “Ông Trời” thì kiếm lấy một cái gì khác bất cứ là “chế độ tư bản hay kinh tế tư bản” hay một cái gì… không cần cho lắm, miễn dùng được nó, để giải nghĩa được tất cả mọi sự là hay.
Những kẻ có cái tật suy nghĩ giản lược như thế không bao giờ trở nên nhà khoa học chân chính được. Trước kia, óc giản lược xui người cứ đổ dồn về một “Ông Trời”, bất kì điều gì khó nghĩ. Nay thì có khác. Bàn cãi về Xã hội, hoặc về các vấn đề quan trọng gì về con người… ta không còn có cái lối “đổ thừa” cho “Ông Trời” nữa, nhưng óc giản lược vẫn xui ta qui cả mọi việc vào một vài luật kinh tế. Giản lược thật là thái quá! Nhưng mà ở đây, sự sai lầm của ta chưa thấy liền sự tai họa. Hình phạt của ta, chính do sự không giải quyết được vấn đề hòa bình và hạnh phúc, và cũng không thể ra khỏi được cái “ao tù xã hội” (mare sociale) mà ta đang lội chập chững đó. Ta không bao giờ có thể giải quyết được những vấn đề nhân sinh nếu ta không theo gương các nhà khoa học thực nghiệm mà xóa bỏ “cái óc giản lược” thái quá của ta đi… và phải “thể” theo sự vật chớ không bao giờ nên theo một ức thuyết rất đơn giản nào của ta mà bỏ qua những thực sự không ăn chịu với ức thuyết của ta. Chừng ấy, ta mới mong thấy được đủ phương diện sự vật, và giải quyết nó một cách đầy đủ hoàn toàn không thiên lệch.
2. Nhận lầm nguyên nhân
Cho là nguyên nhân một hiện tượng không phải là nguyên nhân, mà chỉ là một hiện tượng có trước thôi. Lối luận này cho rằng hễ A đứng trước B, thì A là nguyên nhân của B. Tôi uống thứ thuốc này mà
lành bệnh, vậy thời thuốc này là nguyên nhân của sự lành bệnh của tôi. Luận như thế, chưa ắt đúng với sự thật, vì biết đâu, điều mà ta cho là nguyên nhân chỉ là một hiện tượng có trước hiện tượng ta đang thấy đây chớ không phải là nguyên nhân của nó.
Ta cần phải để ý điều này: Ta chỉ được quyền gọi A là nguyên nhân của B, khi nào ta bỏ A ra ngoài thì B không thể có được nữa. Cũng như ta chỉ có quyền nói rằng: Thuốc này là nguyên nhân của sự lành bệnh của ta khi nào không uống thuốc ấy, bệnh của ta không thể lành được. Lại như khi ta bảo: Vi trùng này là nguyên nhân của chứng bệnh này: thì ta phải có đủ bằng cớ rằng, khi nào tiêm vi trùng ấy vào là ta bị vương bệnh ấy; và nếu ta trừ được vi trùng ấy, thì bệnh ấy liền khỏi.
Một phần các thứ mê tín của quần chúng đều do lối luận như trên: họ thấy nhật thực, nguyệt thực hoặc sao chổi… rồi liền kế đó thấy có bậc vĩ nhân chết, họ liền ráp hai việc ấy lại và cho cái có trước kia là nguyên nhân của cái có sau, nghĩa là họ cho cái chết của bậc vĩ nhân kia do nơi nhật thực, nguyệt thực hay sao chổi mọc. Cũng như có nhiều người tin rằng: hễ chim ụt kêu là có tai nạn. Là vì một khi kia, trong nhà có người đau, ban đêm lại nghe chim ụt kêu. Sáng ra người ấy chết. Họ liền cho chim ụt kêu là nguyên nhân sự chết của người bệnh nọ. Hai hiện tượng khác nhau, xảy ra trong thời gian gần nhau, họ liền ráp “bướng” lại, cho cái hiện ra trước là nguyên nhân của cái hiện ra sau. Luận như thế là luận “ngang” thái quá. Họ sao không nghĩ lại như vầy: nếu ụt không kêu người bệnh ấy chắc không chết được không, trong khi mạch lạc họ đã mất hết rồi? Và những người bệnh đã chết trong lúc ấy có lẽ cũng không phải có nghe ụt kêu trước mới đặng sao? Vả trong lúc ấy, trong thiên hạ chẳng lẽ chỉ có một người ấy chết mà thôi. Còn như đợi có nhật thực, nguyệt thực hay sao chổi mọc mới có bậc vĩ nhân chết, thời các bậc vĩ nhân trong thiên hạ đều chết trong một lúc với nhau cả hay sao? Hoặc mỗi ông phải đợi có sao chổi mọc mới chết đặng sao? Lại cũng có kẻ nhận thấy người kia có tang đến nhà người nọ, sau đó trong nhà người nọ bị tai nạn. Họ liền “ráp” hai việc đã xảy ra ấy làm một, và cho việc xảy ra trước là nguyên nhân của việc xảy ra sau. Nhân đó mới có câu mê tín này: “Người có tang đến nhà ai, nhà ấy bị xui suốt năm”.
Stuart Mill trong quyển Luận Lý của ông có cử ra một tỉ dụ đặc sắc này: “Nhân thấy nước Anh vừa bị nợ công trái thì nước Anh lại được trở nên phồn thịnh. Người ta bèn kết luận: Nợ công trái là nguyên nhân của sự phồn vinh của xứ Anh”.[19]
3. Liệt cử thiếu sót
Người ta thường tưởng lầm rằng chỉ liệt cử được 5, 10 bằng cớ thuận với ức thuyết của mình là đã có đủ điều kiện để chứng nhận rằng ức thuyết của mình là đúng.
Ta nên biết rằng: “Những bằng cứ thuận, dầu nhiều đến bậc nào, cũng không chứng nhận gì được cả”.[20]
Những nhà bán thuốc cao đơn hoàn tán của ta hay dùng đến cái lối luận này lắm: Họ đưa ra một mớ chứng thư của một số bệnh nhân đã dùng thuốc họ có công hiểu để tỏ rằng: thuốc ấy là thánh dược. Họ quên hoặc không chịu đưa ra cho ta những bằng cứ “nghịch” lại, rằng thuốc ấy đã không cứu được hoặc đã lỡ giết bao nhiêu người rồi. Có khi họ chỉ đưa một bằng cứ thôi, do một người có tên tuổi để “thôi miên” lòng tín nhiệm kẻ khác. Những nhà buôn thường dùng lối luận này để quảng cáo mối hàng của họ.
Các ông thầy thuốc, thầy tướng… gặp ta thường chỉ kể những chứng bệnh hoặc những điều các ông ấy đã cứu được hoặc đã đoán trúng mà thôi. Vô tình hay hữu ý, họ bỏ qua cả những bệnh nhân mà họ đã cứu không đặng, hoặc những thân chủ mà họ đã tiên đoán sai. Đó là họ sa vào lối ngụy luận mà nhà luận lý gọi là “liệt cử thiếu sót”. Đây cũng là một lối “qui nạp không đúng phép”. Nói rằng: món thuốc này đã trị 200 bệnh nhân, cũng không đủ chứng nhận rằng nó là thuốc thánh. Ta cần phải hỏi lại: Thuốc này đã cứu được 200 bệnh nhân, mà là 200 phần trăm (200/100) hay là 200 phần ngàn (200/1000) hay là 200 phần mười ngàn (200/10.000)? Nghĩa là trong số 200 ấy chỉ là số 200 người lành bệnh trong số 1000 hay 10.000 người uống thuốc ấy? Quan hệ nhất là chỗ đó. Kẻ nào chỉ kể cho mình vỏn vẹn con số trên mà bỏ qua con số dưới, kẻ ấy họ xem thườngẻ con vậy. Đành rằng không có môn thuốc nào trị bệnh đều lành cả trăm phần trăm, nhưng cần phải cho người ta biết cái số phần trăm kia được bao nhiêu, để người phỏng định được cái sức hay nó tới đâu. Nếu chỉ cho ta biết nó đã trị được 1000 bệnh đi nữa, mà không cho biết cái số phần trăm của nó, thì cũng không có nghĩa lý gì cả. Thế mà phần đông kẻ thiếu óc phán đoán hay tin lối luận này lắm: Những quảng cáo chỉ in cho họ chừng vài trăm chứng thư khen hay là đủ cho họ tin rồi. Họ không đòi hỏi gì nữa.
Những kẻ mê tín cũng thường dùng lối luận này: Họ rất tin những sách “đoán điềm giải mộng” và quả quyết rằng chiêm bao rất linh, hoặc hễ tắc kè kêu là trong nhà có người đau. Họ không phải chỉ tin suông mà không mai cử bằng cứ cho mình đau. Họ thuật cho mình nghe cả một mớ bằng cứ, chứng rằng thuyết họ tin là đúng. Thật vậy: họ đã để ý như thế nhiều lần, lần nào cũng linh nghiệm. Nhưng họ quên làm một bản thống kê có cả bên có và bên không. Nếu họ chịu khó ra công làm một bản thống kê có cả bên Có bên Không, và mỗi khi họ chiêm bao mà không có thật hiện thì biên bên “không”. Chừng ấy so sánh, ta sẽ thấy trong 100 lần chiêm bao chỉ có một vài lần ứng nghiệm thôi. Người ta thường có óc thiên lệch: hễ trong ngàn lần mà chỉ có một lần thấy chiêm bao ứng nghiệm thì liền căn cứ vào đó để giải quyết sự tin tưởng của mình, bỏ qua cả 999 lần không ứng nghiệm kia đi. Là vì nó hạp với sự tin tưởng của mình.
Những người của một phe phái hay một lý thuyết nào cũng thường có cái óc thiên lệch ấy: Bất kì sự gì vật gì xảy ra mà trái với thuyết của mình đang thờ, mình không mấy khi để ý đến, hoặc có để ý đến rồi cũng mau quên, chỉ nhớ rất kĩ những điều gì xảy ra hạp với lý thuyết mình thôi. Nếu cần phải đưa bằng cứ ra để chứng nhận thuyết mình, thì mình lại quên mất những việc đã xảy ra không “ăn” với thuyết mình, và chỉ nhớ những việc nào “thuận” với thuyết mình thôi. Bởi vậy, mình mới bị lầm lạc một cách hết sức vô tình. Nhưng cũng có những kẻ hữu ý gạt bỏ những bằng cớ “bất lợi” cho lý thuyết họ để lường gạt dụ dỗ người khác. Đó là hạng người “cố tâm” và thích sống trong sai lầm, không cần bàn đến trong quyển sách này.
Trong khi nghiên cứu một vấn đề nào, cần nhất là phải liệt cử ra đủ mọi phương diện và nghiên cứu từng chi tiết, đừng bỏ sót một mặt nào cả.
Nghiên cứu về vấn đề hạnh phúc của con người, thời không thể chỉ liệt cử những phương diện vật chất mà bỏ qua những phương diện tinh thần. Nghiên cứu về vấn đề giáo dục, thời cũng không thể liệt cử những phương diện trí dục mà bỏ qua những phương diện đức dục và thể dục
Trong những lối luận “song quan” mà ta đã thấy trước đây, ta thường chỉ liệt cử có hai phương diện đối đích mà quên những phương diện kẽ giữa của vấn đề. Lối luận này lắm khi không đúng với sự thật, là vì mình làm như kẻ chận bắt kẻ gian trong nhà mà chỉ chận
nghẹt của trước và cửa sau thôi. Không thấy tăm dạng gì của tên bợm cả, ta bèn kết luận rằng, tên gian ấy không có trong nhà, không dè tên ấy không ra hai cửa đó, lại trổ cửa sổ đi mất mà mình không hay. Ví như trong câu luận này của một ông quan toàn đưa ra để kết án một anh lính có tội để quân giặc vào thành: “Có hai lẽ: hoặc anh có mặt tại cửa thành, hoặc anh không có mặt tại đó. Nếu anh có mặt tại đó, mà quân địch vô thành anh không cho hay, đó là anh thông đồng với binh giặc. Tội anh đáng chết. Hoặc anh không có mặt tại đó. Thế thì anh lại phạm vào tội đào nhiệm. Tội anh cũng đáng chết!”. Luận thế mới thấy dường như không còn gì chối cãi được nữa. Ông quan tòa luận thế, là lấy theo pháp luật mà nói. Phàm theo pháp luật, thì không có luật “xen kẽ”, bởi vậy mới có bày ra “tình trạng giảm khinh” là vì sợ có sự sai lầm trong khi luận hai đầu mà quên “chặng giữa”. Như tên lính đây, nếu luận như trên, thì có khi không đúng với sự thật. Là vì, mặc dầu anh đã để cho quân giặc lọt vào thành, anh không phải phạm tội đồng lõa với quân giặc, mà cũng không phải anh phạm vào tội đào nhiệm nữa. Trong khi binh giặc vào thành mà sở dĩ anh không hay là vì anh bị bên địch ám hại trọng thương, nên lúc ấy “bất tỉnh nhân sự” không kịp ra dấu hiệu cho quân mình. Luận hai đầu mà quên “chặng giữa” là cũng phạm vào cái lỗi “liệt kê thiếu sót”.
Tóm lại, lối luận này, chẳng phải vì “liệt kê thiếu sót” mà thôi, mà phần nhiều là tại chỉ liệt cử những bằng cứ tích cực mà bỏ qua những bằng cứ tiêu cực. Hoặc chỉ đem ra những phương diện cực đoan mà quên những phương diện “kẻ giữa” của hai lẽ cực đoan ấy.
III. Sai lầm của phép loại suy
Ở đây ta cần phải để ý điều này: Phần đông người ta hay lầm lẫn phép loại suy là phép tỉ luận. Cả hai đều có chỗ giống nhau, nhưng kì thật là khác nhau rất xa vậy.
Phép tỉ luận dùng để dẫn dụ, không như phép loại suy dùng để dẫn chứng.
Như trong câu chuyện Án Tử đối đáp với vu nước Sở về vụ người nước Tề ăn trộm.
Án Tử nói: “Tôi thường nghe quít Giang Nam ngọt mà đem trồng nơi Giang Bắc thì chua. Là tại nơi thổ nghi. Nay người nước Tề ở Tề thì không ăn trộm mà sang Sở lại ăn trộm. Cũng là tại thổ nghi vậy”.
Đó là ông dùng phép tỉ luận, đem quít mà so sánh với người để dẫn dụ. Dùng phép loại suy mà luận thì không thể luận như vậy đặng nữa. Tỉ như câu luận này: “Trái đất là hành tinh có người ở, là vì có không khí. Mà Sao Hỏa cũng là một hành tinh, cho nên cũng có người ở”. Luận thế là luận sót điều kiện. Trái đất là một hành tinh có không khí. Rồi tại sao, khi bắt qua hành tinh Sao Hoả lại bỏ qua điều kiện không khí đi, để kết luận như trên, là sai. Như trên đây, nếu đứng về phương diện phép loại suy mà nói, thì Án Tử đã luận thiếu điều kiện. Phàm muốn so sánh, thì phải là vật đồng tính với nhau. Hành tinh sánh với hành tinh, kim khí sánh với kim khí, người sánh với người, không được sánh với loài cỏ cây, những loại vô tri vô giác. Cách con người phản động với hoàn cảnh không giống với cách cây cỏ phản động với thủy thổ. Như trong trường hợp hành tinh Sao Hỏa
và Trái Đất, ta thấy rằng: đã cùng một loại hành tinh mà luận thiếu điều kiện không khí cũng đủ cho ta bác ngay, huống hồ người và cây cỏ là hai vật không cùng loại.
Trong khi suy nghĩ cần phải tránh xa lối luận này. Người có óc “giản lược” hay suy nghĩ bằng phép “loại suy thiếu điều kiện” như trên. Họ thường lấy mình mà độ kẻ khác, hoặc lấy phương diện con người mà độ tất cả hành vi vạn vật. Napoléon sở dĩ thắng được địch thủ ông một cách dễ dàng là nhờ ông không bao giờ lấy mình mà độ người. Trái lại ông nói: “Đứng trước một tình thế nguy cấp mỗi người có mỗi cách phản ứng riêng tùy tính khí của mình”. Cái tài “bá chiến bá thắng” của ông, một phần lớn do nơi cái tài đặc biệt biết người của ông vậy.
Lối suy nghĩ giản lược bằng cách loại suy này chẳng những dễ khiến ta sa vào chỗ sai lầm, mà lắm khi rất nguy hiểm cho cả vận mạng một quốc gia hay một thế hệ. Tỉ như, ta thường nghe nhiều phái giảng rằng: “Người ta chỉ nên và rất có thể tự diệt cá tính đi, và chỉ biết có cái óc xã hội, cái tinh thần đoàn thể thôi, bởi có nhiều loài thú vật như loài ong, kiến đã làm xong sứ mạng ấy”. Người ta quên rằng, loài ong, kiến đâu cần phải diệt cá tính của nó, trong khi nó chưa bao giờ có. Vấn đề tự diệt cá tính để xã hội hóa của loài ong, kiến không thể thành vấn đề như ở xã hội loài người.
Đó là người luận giản lược thái quá, đến đem những luật tâm lý cầm thú mà so sánh với những luật tâm lý của loài người. Về giới khoa học, triết học, không biết bao nhiêu kẻ thích dùng lối luận giản lược để dẫn dụ độc giả.
Bởi thế, khi nào ta nghe ai bảo với ta như vầy: “Thử lấy so sánh này”, ta phải coi chừng kẻo bị họ lừa ta vào cái bẫy ngụy luận của họ. Nói thế, không phải bảo đừng bao giờ dùng đến luận. Một khi mà cái thuyết của mình đã tự nó vững chắc rồi, thì dùng đến kĩ xảo khéo léo
để cho tư tưởng ấy được sáng sủa, rõ ràng hơn, thật không gì hay bằng. Nhưng nên biết rằng, tỉ dụ ấy chỉ dùng để khêu gợi sự hiểu biết, chớ đừng lầm tưởng nó là chứng cứ. Có câu ngạn ngữ này, nên nhớ mãi trong khi lý luận hay nghe người khác lý luận: So sánh không phải là luận cứ.[21]
Vậy muốn tránh cái sai lầm khi suy nghĩ hay lý luận bằng loại suy, ta cần để ý đến sự đồng tính của hai hiện tượng, nghĩa là, vật mình đem ra để so sánh cần phải đồng tính với vật mình đang muốn giãi bày. Vật chất ảnh hưởng tinh thần, như sự ảnh hưởng vật chất đối với tinh thần của loài người lẽ cố nhiên không thể đem so sánh với ựu ảnh hưởng vật chất đối với tinh thần của loài vật.
Tóm lại, trong khi mình suy nghĩ phán đoán nên xem xét lại coi tư tưởng mình có sa vào những sai lầm đã kể trên không. Được vậy, mình có thể yên trí rằng mình không đến sai lầm nặng nề như khi mình sống vô tâm hay cẩu thả trước kia nữa.
Chương IV
CHỦ QUAN VÀ KHÁCH QUAN
A. Phán đoán về giá trị: chủ quan
Trong khi phán đoán, cần phải biết phân biệt thế nào là phán đoán về giá trị và thế nào là phán đoán về sự thật.
Mỗi thứ phán đoán đều có cái giá riêng của nó, nhưng nếu không biết phân biệt cho rành, thì tư tưởng ta sẽ hỗn độ hoang mang thật không phải là không có hại vậy.
Trong câu chuyện hằng ngày nghe lẫn lộn hai phán đoán này. Người nói ra, đến người nghe nó, cũng không mấy ai để ý phân biệt.
Nhưng khi ta nói: “Cái bàn này tròn”… “Người thợ mộc đóng ra cái bàn một ngày”… “Sắt đốt nóng thì giãn ra”, đó là những phán đoán về sự thật, những phán đoán chỉ về tính chất của sự vật, không có một dục vọng, một mảy yêu ghét gì của mình chen vào cả. Những phán đoán ấy, nhà triết học gọi là phán đoán khách quan.
Trái lại, khi ta nói: “Cái bàn này rất đẹp, và tiện lắm”… “người này dễ thương và đẹp trai quá”… “vàng quý hơn sắt”, ta không còn phán đoán khách quan nữa, mà đã chen tình ý ta vào đó. Ta không quyết định sự vật theo cái giá trị riêng của nó đối với nó, mà là giá trị của nó đối với sự ưa ghét, trọng khinh của mình. Đó là phán đoán về giá trị, những phán đoán chủ quan.
Phán đoán về giá trị, là lối phán đoán của những nhà luân lí, tôn giáo, mỹ thuật, chính trị, kinh tế. Giá trị đây tức là giá trị đối với lòng ao ước của người. Thật vậy, một sự, một vật mà ta không ao ước gì cả thì còn gọi là giá trị gì nữa. Cố nhiên là những cái chí ta ao ước thèm muốn nhiều, ta ban cho nó một giá trị cao. Muốn mà càng thấy khó đạt được mục đích chừng nào, thì vật ấy lại càng thêm đắt giá. Tỉ như, người vợ chưa cưới bao giờ cũng cao giá hơn người vợ đã cưới lâu ngày. Nếu người ấy lại là người nhiều kẻ gấm ghé như mình, thì cái giá của họ đối với ta lại càng gấp bội. Lấy một tỉ dụ khác về sự vật thường như cái nón, đôi giày cũng thế. Về kinh tế, ta thấy hễ những món đồ mà nhiều người ưa thích thì được bán giá cao. Món nào ta tao ước thì bao nhiêu cũng mua cho được, nhưng đến không còn thèm muốn nữa, thì có mất đi, cũng không biết tiếc. Bởi vậy, giá trị của sự vật cao thấp thế nào, chỉ do nơi lòng ham muốn của ta nhiều hay ít mà thôi vậy.
Giá trị sự vật đều tùy sự ưa ghét của ta mà tăng giảm, thế thì, nó không phải là tuyệt đối, nghĩa là chung cho tất cả con người bất kì là ở vào thời buổi nào. Giá trị sự vật chỉ ở vào một thời gian, một khu vực, một dân tộc hay một phe phái, một tôn giáo. Ta đừng lầm lẫn nó với phán đoán sự thật.
Phán đoán về sự thật, ở vào thời buổi nào, ở vào hoàn cảnh nào cũng đều không biến thiên giá trị của nó. Dầu ta là người Việt Nam hay người Tàu, người Nhật hay người Pháp,bao giờ và ở đâu, cũng phải công nhận sự thật này: “Lửa thì nóng”.
Nếu ta nói: “Nhà thi sĩ đáng yêu”, thì sẽ có kẻ cãi: “Nhà thi sĩ đáng ghét”. Trái lại, nếu mình nói: “Nhà thi sĩ làm thơ” thì ắt không còn ai cãi với ta nữa cả, dầu người ấy ở vào thời buổi nào hay ở vao xứ sở nào.
Tuy nhiên, có kẻ sẽ vặn rằng: Ở đời không có một phán đoán nào là khách quan cả. Vì đã gọi là phán đoán là đối với một chủ quan rồi. Ánh sáng của mặt trời là gì nếu không có cặp mắt thấy nó? Luật hấp dẫn có làm gì nếu không có một tư tưởng để hiểu nó? Bởi vậy dầu sao, đã có phán đoán là có chủ quan rồi vậy.
Đúng như vậy ở đây, không cần ta phải mở ra cuộc bàn cãi cũ kĩ này lại làm chi nữa. Theo nhà duy tâm, ta cũng nhận cho rằng: Phán đoán về sự thực là một phán đoán chủ quan nhưng chỉ là một thứ phán đoán mà phần chủ quan chỉ là một “đơn số” thôi, còn phán đoán về giá trị, là thứ phán đoán mà phần chủ quan tăng lên đến “bội số”, vì chẳng những nó biểu lộ bản tính ta mà lại đượm thuần thêm ý hướng của tình cảm ta nữa. Thật vậy, nếu ở đây, ta lược bỏ cái tình cảmđi, thì những giá trị trong đời cũng liền theo đó mà tiêu ma tất cả.
Tóm lại, phán đoán về giá trị, và phán đoán về sự thực sở dĩ khác nhau xa là nơi một đàng để Tình Cảm xen vào, một đàng không chịu để cho Tình Cảm lẫn lộn nơi trong.
Phán đoán về giá trị, như ta đã thấy, là lối phán đoán theo Tình Cảm của ta. Thế thì, nó không phải là một vật có thật ngoài ra, mà chỉ là một sáng tạo của ta sao? Vậy, với lối phán đoán ấy, ta tha hồ muốn thay đổi thế nào cũng đặng, tùy sự ưa ghét của ta, có được không?
Được, mà không.
Được, là bao giờ nó chỉ là một thẩm định của ta thôi, chưa phải là một thẩm định chung của phần đông.
Không, là khi nào thẩm định ấy là thẩm định của một số đông người, đã thành một giá trị xã hội rồi. Chừng đó, những giá trị ấy trở lại cưỡng ép ta, dầu ta muốn hay không muốn nhận cũng không được. Chính như những giá trị của phong tục, tập quán, luân lý, tôn giáo… mà phần đông chúng ta phải cúi đầu nhận lấy. Cái mà xã hội chung quanh hiện tại đã nhìn nhận và cho là giá trị, ta không quyền khinh rẻ. Tóm lại, giá trị sở dĩ thành mệnh lệnh là vì nó có tính cách xã hội ở trong. Bởi vậy, phải coi chừng, đừng có chạm đến lòng tín ngưỡng của xã hội chung quanh một cách vô ích.
Xã hội nào cũng có một bản giá trị riêng. Nhưng lúc thái bình thì khác mà lúc loại ly thì khác. Bởi vậy, sau khi giặc giã, người ta hay kêu gào: Hãy sửa đổi và định lại những giá trị của xã hội. Những giá trị của một xã hội dân chủ khác với những giá trị của một xã hội đế quyền. Quan niệm về sang, hèn, vinh, nhục của hai bên đều khác. Nói về luân lý, tôn giáo cũng vậy. Xã hội Á đông không quí đàn bà bằng xã
hội Âu tây. Một người quân tử theo quan niệm Âu tây không giống với người quân tử theo quan niệm Á đông. Xã hội nước Pháp trước và sau đại chiến 1914-1918 có những giá trị khác nhau.
Trong một xã hội, cùng một thời, lại cũng phân ra nhiều thứ giá trị khác nhau. Là vì nhân cái luật phân công trong công việc làm của xã hội mà sinh ra. Kinh tế hay mỹ thuật, tôn giáo hay luân lý, mỗi một thứ giá trị lại làm thành một khu vực riêng, không ăn chịu gì đến các khu vực khác. Hễ mình đứng vào giới nào, thì phải nhận những giá trị riêng của giới ấy. Nếu ta đứng về phương diện mỹ thuật mà phê bình, thì phải vịn vào những giá trị riêng của giới mỹ thuật, không thể dùng những giá trị riêng của giới luân lý hay tôn giáo được. Với luân lý, thời sự trần truồng là bất nhã khả ố, mà đối với mỹ thuật thì khác, người ta lại lấy đó làm một nguồn hứng rất hay vẹp. Dưới con mắt của nhà khoa học thì sự dâm dục là một việc thường không lấy gì làm gai mắt, nhưng dưới con mắt nhà luân lý, thì trái lại, là một việc khả bỉ. Mỗi giới có một bản giá trị riêng, thế thì, con người ở trong xã hội, có phải vì đó mà bị chia phân nhau ra, nghĩa là, người ở trong giới này, không thể bắt tay với người ở trong giới khác chăng? Không. Tiếc rằng nhiều phe phái trong một xã hội, vì quá nhiệt tâm bảo hộ bản giá trị của phe mình, họ lập thành một “quốc gia” trong một quốc gia thành thử con người trong một nước như vậy bị chia rẽ nhau, kình chống nhau, tranh đấu nhau như kẻ thù.
Không, đây là do con người không phân biệt được thực sự và giá trị. C. Bougle nói: “Ta hãy thử xem cái tâm trí của người cổ lỗ với tâm trí của một kẻ văn minh mà so sánh thì rõ: Không lẫn lộn loại này với loại kia, biết đứng trên nhiều phương diện khác nhau để xem xét sự vật, biết trọng kính và không lầm lẫn với nhau những qui luật của các ngành hoạt động của mình đang làm, đó là cái biểu hiện rằng mình là người có giáo dục cao… Kẻ nào không biết phân biệt và đảo lộn tất cả những tiêu chuẩn, tức là đứng ở phương diện chính trị mà phê bình một công cuộc kinh tế, hoặc đứng theo phương diện luân lý mà phê bình một công trình mỹ thuật, người đó thật là một người không kịp thời rất đáng chán… Biết theo chỗ phân biệt giữa các giá trị của mọi vật để phê bình, đó là tiêu biểu của một lối tự do siêu đẳng”.[22]
Thật vậy, tôi thường thấy có nhiều nhà phê bình đứng trên nền tảng luân lý mà phê bình một tác phẩm về văn chương như Truyện Kiều, thật là sai lầm lắm vậy.
Tinh thần con người, trước sau chỉ có Một, nhưng nếu phải vừa nhận bản giá trị này, vừa nhận bản giá trị kia thì làm sao tránh cho khỏi sự phân vân ly tán trong đàu óc. Không đâu. Chính nơi đây là chỗ phân biệt tinh thần của người bán khai với kẻ văn minh.
Đời sống càng ngày càng phức tạp: Ngành hoạt động trong xã hội phải phân chia ra, để cho mỗi phần được phát triển đến cực điểm. Nhưng đã là con người thời không thể nào hờ hững với những điều có dính líu đến con người cho được. Nhà khoa học, cũng không thể chỉ biết đến khoa học thôi, mà không thiếu gì đến triết học hay mỹ thuật. Muốn cho tư tưởng mình sáng suốt, phán đoán mình đúng đắn không thiên tư… thời phải “thông bác để giúp ích cho sự chuyên môn của mình”. Thử tưởng tượng một bác sĩ, chỉ xem xét mọi sự vật theo khuôn khổ của ngành chuyên môn của mình thôi, chỉ biết vịn theo một bản giá trị của nghề nghiệp mình mà phán đoán tất cả mọi sự vật ở đời ta sẽ nghĩ cho sự phán đoán của người ấy như thế nào? Hoặc một nhà đạo đức, chỉ biết vịn theo một bản giá trị rất cũ kỹ của luân lý Việt Nam mà phê bình tất cả luân lý các nước, luôn cả nghệ thuật văn chương của vạn quốc, thì người ấy như thế nào?
“Biết phân biệt các loại giá trị, là một sản phẩm mà cũng vừa là một điều kiện của đời sống văn minh”. (C. Bouglé). Thật đúng như thế: Ta hãy xem ngay tinh thần của người bán khai thì rõ. Mình đừng
tưởng lầm rằng tinh thần họ phó mặc cho dục vọng chi phối. Họ cũng có lý luận, tư tưởng họ cấu tạo cũng phức tạp lắm. Ta cứ xem ngay địa vị của thần thoại và nghi lễ trong xã hội của họ kia, đủ rõ tinh thần họ
không phải đơn sơ như con trẻ mà xưa nay ta lầm tưởng. Nhưng, cái chỗ mà tinh thần họ không thể đạt đến là “biết phân biệt giá trị của các loại, và biết lý luận theo từng khu vực, không để cho sự hội ý tha hồ kết cấu”. (C. Bouglé). Theo họ, bất cứ cái gì cũng can dự lẫn nhau. Với họ, chỗ phân biệt giữa mọi sự vật rất lờ mờ. Họ lẫn cái nọ với cái kia, hữu hình với vô hình, mộng tưởng với thực tế, sống với chết, phần tử với toàn thể… Họ đa cảm đến đỗi họ xáo trộn cả tư tưởng với dục vọng lại làm một. Với họ, luân lý toàn là lối lý luận theo tình cảm, lấy Tình làm Lý, lấy Lý làm Tình, hỗn độn mơ màng, không biết đâu là ranh hạn. Lại nữa, họ không bao giờ biết suy nghĩ một mình trong tĩnh mịch. Thường họ chỉ biết suy nghĩ theo quần đoàn, trong những lúc bị phấn kích mãnh liệt mà thôi. Bởi vậy, tư tưởng họ lại càng dễ mù mờ pha tạp với dục tình của họ.
Tóm lại, tư tưởng con người lúc ban đầu chưa biết phân biệt được đâu là phán đoán về thực sự, đâu là phán đoán về giá trị, nghĩa là khó hạnh định được tính chất của sự vật mà không để cho tình cảm chen vào.
Tinh thần của người văn minh thì khác. Với họ, Lý là Lý mà Tình là Tình. Lý luận của họ không bao giờ lộn xộn như người bán khai. Văn Minh mà tôi muốn nói đây là tinh thần thật văn minh, chớ không phải chỉ chung những người sống trong xã hội văn minh ngày nay mà vẫn còn giữ đầu óc của dân tộc bán khai đâu. Vì chưa chắc những người sống trong thời đại bây giờ mà người ta gọi là Văn Minh, thật là văn minh cả đâu. Sống cùng với dân tộc bán khai nhưng tinh thần tiến hóa rất cao, là người văn minh. Sống cùng với dân tộc văn minh mà đầu óc thô sơ, tinh thần kém cỏi là người bán khai. Người ta vì có sự phân công trong việc làm, vì chia phe chia nhóm, chia nghiệp đoàn, chia tông phái, chia dân tộc… rồi thì hay phê bình kẻ khác khiến cho xã hội kình chống rối ren như tơ nuồi… đó đâu phải là văn minh. Bấy giờ, họ tập lấy cái đức khoan dung để cho thiên hạ được hòa bình tạm lại. Nhưng mà đâu có dễ gì. Vì con người dục vọng còn nhiều, có khi còn hơn người bán khai nữa, cho nên sự cố chấp lan tràn trong xã
hội.
C. Bougle nói: “Con người trong xã hội dã man dường như ít có đủ tư cách đứng trên nhiều phương diện khác nhau như nghệ thuật, luân lý tôn giáo hay kinh tế để phê bình sự vật. Tư cách ấy, lần lần tăng lên theo trình độ văn minh tiến bộ của họ”.
Những quan niệm về thị phi, thiện ác là những phán đoán theo giá trị. Nó tùy dân tộc, tùy thời gian, tùy tôn giáo, tùy luân lý mà biến đổi. Cho nên, nó không phải là tuyệt đối mà phải biết tùy nghi sửa đổi cho hạp thời thuận cảnh. Luân lý Khổng Mạnh có những bản giá trị khác với luân lý Lão Trang. Chỗ trọng khinh của hai bên đối với sự vật trong đời thật là khác hẳn như trời vực.
Giá trị của mọi sự vật đều là tương quan cả. Những giá trị sai lầm của một xã hội thường hay lôi kéo xã hội ấy vào con đường trụy lạc hay bại vong. Vậy phải có can đảm phá hoại nó đi, đừng có đui mù mà tôn thần thánh nó. Những bậc đại nhân xã hội như Gia Tô, Thích Ca, Khổng Tử… ra đời đều có mang theo một bản giá trị riêng để sửa đổi cái tệ bại của thời đại. Giá trị của mỗi học thuyết đều có cái giá riêng của nó đối với thời đại bấy giờ. Khi phán đoán hay phê bình phải biết để ý đến sự tương quan và tạm thời của mỗi loại giá trị.
Đừng bắt chước Voltaire mà kêu án gắt gao nào là vô luân tàn bạo hay tà dâm những nghi tiết kì khôi về các tín ngưỡng của dân tộc thời cổ, như: giết người để cúng thần, nhảy múa lõa lồ trước bàn thần v.v… Phải coi chừng, về vấn đề luân lý đừng có phê bình hết thảy người ta theo cái tầm luân lý của mình. Cái chỗ mình cho là vô luân,
chưa ắt đối với người xưa đó cũng là vô luân.
Trong những bài diễn thuyết về Tôn Giáo, Khoa Học và Luân Lý, F. Buison kể lại câu chuyện thương tâm như vầy: “Theo nhiều bộ lạc người da đỏ, có một điều cấm kị này, là người đàn bà gần sinh phải đi ra khỏi làng mình mà sinh. Khi kia có một người đàn bà gần sinh, nhưng trời lạnh lắm. Người chồng liền buộc lòng phải đào ngoài xa một lỗ lớn trong tuyết và bồng người vợ đem bỏ vào lỗ ấy. Trong khi ấy người chồng khóc thảm thiết, vì biết chắc vợ mình thế nào rồi cũng phải chết”. F. Buisson lại nói: “Giá người chồng có đủ cam đảm phá cái điều cấm kị ấy, không biết sợ oai tế các bậc trưởng lão trong làng, không sợ lời dị nghị chê bai của chung quanh và sự hăm he của thầy phù thủy, chỉ biết nghe lòng nhân ái của mình thôi để chống lại với tập quán xã hội, đó là một lối luân lý tự do của cá nhân đã lẻn vào được trong bộ lạc ấy rồi”.
Công việc của người chồng ấy đã làm có thể là một việc phi lý, chớ không phải là vô luân, vì luân lý của người ta nhận cho đó là “phải”, và ai làm trái lại là “quấy”.
B. Phán đoán theo sự thực: Khách
Như chúng ta đã thấy ở trên: Phán đoán về giá trị chẳng phải để bày tỏ tính chất tự nhiên của sự vật mà chỉ là để biểu minh những sự ao ước thèm muốn của con người trong xã hội mà thôi.