🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thiên Thần Và Ác Quỷ - Dan Brown
Ebooks
Nhóm Zalo
Tác Giả
Dan Brown sinh ngày 22 tháng 6 năm 1964 tại Exeter, New Hampshire. Ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Amherst với hai tấm bằng Tiếng Anh và Tiếng Tây Ban Nha.
Năm 1996, Brown bắt đầu chuyên tâm vào nghề viết văn và cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay, Pháo đài số (Digital Fortress), vào năm 1998. Sau đó, năm 2000 và 2001, ông tiếp tục xuất bản hai tác phẩm khác là Thiên thần và Ác quỷ (Angels and Demons) và Điểm dối lừa (Deception Point).
Tuy nhiên, cuốn sách thứ tư, Mật mã Da Vinci (The Da Vinci Code) trình làng năm 2003, mới đưa tên tuổi của Brown lên tầm thế giới. Với tác phẩm khiến dư luận khắp nơi được một phen xôn xao trước các tình tiết bất ngờ và đầy nhạy cảm, Dan Brown đã chinh phục được cả những độc giả khó tính nhất. Bằng trí tưởng tượng siêu phàm kết hợp với vốn kiến thức sâu rộng về lịch sử, địa lý, tôn giáo, ông đã xâu chuỗi hàng chục truyền thuyết, sự kiện lẫn biểu tượng trong lịch sử nhân loại đủ sức làm bộ óc thông minh nhất cũng phải nghiêng mình nể phục. Mật mã Da Vinci được đánh giá là một trong những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất mọi thời đại với hơn 80 triệu bản in được bán trên toàn cầu.
Thành công của các cuốn sách trước đó dường như không hề làm tăng thêm áp lực cho Dan Brown khi ông có cuộc tái xuất ngoạn mục với Biểu tượng thất truyền (The Lost Symbol). Cuốn sách khẳng định sức nóng của cái tên Dan Brown với các độc giả khi chỉ trong
vỏn vẹn ba tháng cuối năm 2009 đã vươn lên chiếm danh hiệu tiểu thuyết ăn khách nhất năm.
Năm 2013, Dan Brown ra mắt siêu phẩm ăn khách Hỏa ngục (Inferno) - một tác phẩm giàu giá trị nghệ thuật, lịch sử và văn học kinh điển Italy.
Các cuốn sách bán chạy nhất nhì làng văn học hiện đại kể trên đã giúp nhà văn người Mỹ này trở thành hiện tượng trong làng tiểu thuyết trinh thám - lịch sử. Nhà văn Nelson Demile từng nhận xét về ông như sau: “Có một điều không thể chối cãi: Dan Brown là cây bút giỏi nhất, thông minh nhất và hoàn hảo nhất trên toàn nước Mỹ”.
Không chỉ dừng lại ở việc tạo ra những mật mã đặc biệt và hóa giải nó một cách tài tình, mà bằng tài nghệ điêu luyện, xây dựng cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn cùng cách miêu tả tâm lý nhân vật sắc sảo, Dan Brown đã thật sự dẫn dắt người đọc vào một thế giới đầy những thủ đoạn tàn độc, với cách lý giải siêu việt cùng những tình huống hết sức kịch tính và bí ẩn. Ông được mệnh danh là “Ông vua của những mật mã vĩ đại nhất”.
Năm 2005, ông được tạp chí Time bình chọn là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất trong năm. Tạp chí Forbes đã xếp hạng Dan Brown thứ 12 trong danh sách “100 người nổi tiếng” năm 2005 và ước tính thu nhập hằng năm của ông vào khoảng 76,5 triệu USD.
Người ta biết nhiều tới những gì mà Giáo hội từng làm với các nhà khoa học như Bruno, Galileo, Copecnic. Nhưng không ai biết, dưới sự áp bức của Giáo hội, các nhà khoa học cũng có
một hội kín của mình. Để rồi, thế kỷ 21, hội kín ấy bất ngờ lộ diện trong dáng hình quỷ dữ...
Thiên thần và Ác quỷ của Dan Brown bắt đầu như vậy. Một nhà khoa học tên tuổi bị sát hại dã man, Robert Langdon, giáo sư Đại học Harvard, đã được mời đến hiện trường để xác nhận biểu tượng đầy bí hiểm mà hung thủ đã khắc lên ngực của nạn nhân. Kết luận: Thủ phạm là Illuminati, một hội kín vốn đã ngừng hoạt động từ gần bốn trăm năm nay, giờ tái sinh để tiếp tục báo thù nhà thờ Thiên Chúa giáo, kẻ thù truyền kiếp của họ.
Tại Rome, Hồng y đoàn được triệu tập để bầu ra tân Giáo hoàng. Thế nhưng đâu đó giữa những bức tường của toà thánh Vatican, một quả bom hẹn giờ đang đếm những giây phút cuối cùng trước khi phô diễn sức mạnh huỷ diệt kinh thiên động địa của nó. Trong thời khắc căng thẳng tột độ đó, cùng với Vittoria Vetra - một nhà khoa học nữ người Italy vô cùng quyến rũ và bí hiểm, Langdon tìm cách giải mã những ký hiệu cổ đầy bí ẩn trải khắp thành Rome để tìm ra đại bản doanh của hội Illuminati - địa điểm gặp gỡ bí mật của họ, giờ là hy vọng duy nhất để giải cứu cho Thành phố Vatican.
Rồi, từ bóng tối, thủ lĩnh của Illuminati chậm chờn ẩn hiện. Bốn Hồng y giáo chủ Illuminati tuyên bố mỗi giờ đồng hồ sẽ hành hình một Hồng y tại những địa điểm bí mật. Và tới giờ thứ năm, thứ vũ khí kinh khủng bị đánh cắp sẽ nổ tung dưới nền móng của Vatican.
Bốn lần, Langdon đều đã tìm ra những địa điểm bí mật dựa trên việc giải mã ký hiệu riêng từ các tác phẩm nghệ thuật. Nhưng cũng bốn lần, anh đều đến chậm hơn Illuminati chỉ một bước chân. Bởi, cục diện cho thấy Illuminati đã cài được nội gián vào những cấp cao nhất của tòa thánh. Định mệnh đang đến gần, khi chỉ còn ít phút nữa là thứ vũ khí bí mật sẽ phát nổ. Cả thế giới nghẹt thở nhìn về
Vatican - khi mà Illuminati đã khéo léo mớm thông tin cho các hãng truyền thông nhập cuộc.
Nhưng càng tiến đến gần sự thật, Langdon và Vittoria càng phải đối mặt với những biến cố bất ngờ và kịch tính, để rồi phải quay cuồng trong vòng kiềm toả của một thế lực thù địch vô cùng hiểm ác...
Tài tình trong xây dựng cốt truyện, đặc biệt sắc sảo trong phân tích tâm lý, Dan Brown còn thu hút người đọc bởi hàng loạt kiến thức uyên bác về tôn giáo, nghệ thuật và cả những lĩnh vực khoa học công nghệ cao… Hồi hộp, háo hức, căng thẳng và khiếp sợ, độc giả sẽ được dẫn dắt vào một mê cung của những tâm trạng khác nhau theo từng trang tiểu thuyết.
Lời cảm ơn
T
ôi chân thành gửi lòng biết ơn sâu sắc đến Emily Bestler, Jason Kaufman, Ben Kaplan, và đội ngũ nhân viên của Nhà xuất bản Pocket Books vì họ đã tin tưởng vào dự án này.
Chân thành cảm ơn người bạn và cũng là người đồng nghiệp Jake Elwell vì sự nhiệt tình và những nỗ lực không mệt mỏi của anh. Cảm ơn George Wieser, người đã thuyết phục tôi viết cuốn sách này. Cảm ơn người bạn thân thiết Irv Sittler, người đã giúp tôi được gặp Giáo hoàng và tiết lộ cho tôi nhiều bí mật của Vatican mà không nhiều người biết cũng như cho tôi kỷ niệm khó quên về thành Rome. Cảm ơn nghệ sĩ tài năng John Langdon, người khơi gợi những thách thức có vẻ như không thể thực hiện với tôi và giúp tôi tạo biểu tượng ambigram cho cuốn tiểu thuyết này. Cảm ơn Stan Planton, phụ trách trường Đại học Ohio - Chillicothe vì những nguồn thông tin quý báu về rất nhiều chủ đề. Cảm ơn Sylvia Cavazzini vì chuyến đi tuyệt vời trong đường hầm Passetto bí ẩn.
Và con xin gửi lòng biết ơn tới cha mẹ, Dick và Connie Brown...vì tất cả những gì mọi người đã dành cho con.
Tôi cũng xin cảm ơn CERN, Henry Beckett, Brett Trotter, Viện hàn lâm khoa học Giáo hoàng, Viện Brookhaven, Thư viện FermiLab, Olgar Wieser, Don Ulsch của Học viện An ninh Quốc gia, Caroline H. Thompson tại Trường Đại học Wales, Kathryn Gerhard và Omar Al Kindi, John Pike và Hiệp hội các nhà khoa học Mỹ, Heimlich Viserholder, Corinna và Davis Hammond, Aizaz Ali, Dự án
Galileo thuộc Trường Đại học Rice, Julie Lynn và Charlie Ryan thuộc hãng phim Mockingbird, Gary Goldstein, Dave (Vilas) Arnold và Andra Crawford, Hệ thống Hiệp hội Anh em Toàn cầu, Thư viện Học viện Phillip Exter, Jim Barrington, John Maier, Margie Watchtel, alt.masionic.members, Alan Wooley, Thư viện trưng bày Kinh thánh chép tay, Lisa Callamaro và Tổ chức Callamaro, Jon A. Stowell, Bảo tàng Vatican, Aldo Baggia, Noah Alizera, Harriet Walker, Charles Terry, Micron Electrics, Mindy Homan, Nancy và Dick Curtin, Thomas D. Nadeau, truyền thông Nuvo và sách điện tử Rocket, Frank và Sylvia Kenedy, Simon Edwards, Hãng du lịch Rome, Maestro Gregory Brown, Val Brown, Werner Brandes, Paul Krupin ở Direct Contact, Paul Stark, Tom King ở Computalk Network, Sandy và Jerry Nolan, Web guru Linda George, Viện Nghệ thuật Rome, Học giả tôn giáo và nhà vật lý Steve Howe, Robert Weston, The Water Street Bookstore ở Exeter, New Hampshire, và Đài quan sát Vatican.
Sự thật
C
ơ quan nghiên cứu khoa học lớn nhất thế giới - Trung tâm Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu (CERN) - gần đây đã thành công trong việc tạo ra các hạt phản vật chất đầu tiên. Phản vật chất giống hệt vật chất, chỉ khác ở chỗ cấu tạo của nó là các hạt có điện tích ngược với điện tích trong vật chất thông thường.
Phản vật chất là nguồn năng lượng mạnh nhất con người từng biết đến. Nó tạo ra năng lượng với hiệu suất 100% (trong khi phản ứng phân hạch hạt nhân chỉ đạt hiệu suất 1,5%). Phản vật chất không gây ô nhiễm hay phóng xạ, chỉ cần một giọt nhỏ cũng có thể cung cấp đủ năng lượng cho thành phố New York trong vòng một ngày.
Tuy nhiên, vẫn còn vài lo ngại…
Phản vật chất cực kỳ không ổn định, có thể phát nổ khi tiếp xúc với bất cứ thứ gì… kể cả không khí. Chỉ một gram phản vật chất đã chứa nguồn năng lượng của một quả bom hạt nhân 20 kiloton - bằng kích cỡ trái bom thả xuống Hiroshima.
Cho đến gần đây, người ta mới chỉ tạo ra được một lượng rất nhỏ phản vật chất (khoảng vài nguyên tử mỗi lần). Nhưng CERN đã có bước đột phá dựa trên Vòng Hãm Năng lượng Phản Proton - một thiết bị sản xuất phản vật chất tiên tiến, hứa hẹn sẽ tạo ra số lượng phản vật chất lớn hơn.
Một câu hỏi đặt ra: Liệu thứ vật chất kém ổn định như vậy sẽ cứu vớt thế giới này, hay sẽ được dùng để chế tạo thứ vũ khí hủy diệt kinh hoàng nhất mà con người chưa từng biết đến?
GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ
Những tài liệu tham khảo liên quan đến các công trình nghệ thuật, lăng mộ, đường hầm và kiến trúc ở Rome là hoàn toàn có thật (cũng như vị trí chính xác). Chúng vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Hội kín Illuminati cũng có thật.
SƠ ĐỒ THÀNH PHỐ ROME HIỆN ĐẠI
SƠ ĐỒ THÀNH VATICAN
Chú thích
1. Vương cung Thánh đường St. Peter
2. Quảng trường thánh Peter.
3. Nhà nguyện Sistine
4. San Borgia
5. Văn phòng Giáo hoàng
6. Bảo tàng Vatican
7. Sở chỉ huy đội Cận vệ Thụy Sỹ 8. Sân bay trực thăng
9. Khu vuờn
10. Đường hầm Passetto
11. San Belvedere
12. Bưu điện trung tâm
13. Sảnh diễn thuyết của Giáo hoàng 14. Cung điện Chính phủ.
Phần dẫn
N
hà vật lý học Leonardo Vetra ngửi thấy mùi thịt cháy và ông biết nó bốc ra từ cơ thể của chính mình. Ông khiếp đảm nhìn trừng trừng bóng đen lù lù trước mắt mình. “Anh muốn gì?” “La chiave,” một giọng khàn khàn đáp lại. “Mật mã.”
“Nhưng... tôi không...”
Kẻ đột nhập ép xuống, ấn cái vật màu trắng, nóng rẫy sâu nữa xuống ngực Vetra. Âm thanh thịt cháy nghe xèo xèo.
Vetra gào lên trong đau đớn. “Chẳng có mật mã nào hết!” Ông cảm thấy mình sắp bất tỉnh.
Cái bóng quắc mắt giận dữ. “Ne avevo paura. Tao e là thế.”
Vetra cố gắng giữ mình tỉnh táo, nhưng bóng tối đang dần phủ xuống. Điều duy nhất an ủi ông là kẻ tấn công sẽ chẳng bao giờ có được thứ hắn muốn. Tuy nhiên, một lúc sau, cái bóng rút ra một lưỡi dao đưa lên mặt Vetra. Hắn đưa con dao qua lại. Thận trọng. Như bác sỹ phẫu thuật.
“Vì Chúa!” Vetra hét lên. Nhưng đã quá muộn.
Chapter 1
T
rên đỉnh cao nhất của Kim Tự tháp Giza, một phụ nữ trẻ phá lên cười và gọi với xuống.
“Robert, rảo chân lên! Em biết lẽ ra mình nên lấy người trẻ tuổi hơn!” Nụ cười của cô thật mê hồn.
Anh chật vật theo kịp cô, nhưng đôi chân anh nặng như đeo đá. “Chờ đã,” anh nài nỉ. “Xin em đấy...”
Khi trèo lên, tầm nhìn của anh nhòa đi. Có tiếng sấm động trong tai anh. Mình phải bắt kịp cô ấy! Nhưng khi anh nhìn lên lần nữa, người phụ nữ ấy đã biến mất. Thế chỗ cô là một ông già có hàm răng rụng gần hết. Ông ta nhìn xuống, bặm môi lại thành hình ảnh xấu xí cô độc. Bỗng ông ta bật ra một tiếng thét thống khổ, vang khắp sa mạc.
Robert Langdon choàng tỉnh khỏi cơn ác mộng. Chiếc điện thoại cạnh giường anh đang đổ chuông. Trong trạng thái sững sờ, anh nhấc máy.
“A lô?”
“Tôi muốn gặp ngài Robert Langdon,” một giọng đàn ông cất lên.
Langdon ngồi dậy trên chiếc giường trống trải và cố gắng tỉnh táo lại. “Tôi... Robert Langdon đây.” Anh liếc mắt sang chiếc đồng hồ kỹ thuật số. Đã 5 giờ 18 phút sáng.
“Tôi phải gặp ngài ngay bây giờ.”
“Ông là ai?”
“Tôi là Maximilian Kohler, nhà vật lý học hạt riêng biệt.”
“Nhà gì cơ?” Langdon không thể tập trung nổi. “Ông có chắc mình tìm đúng Langdon không đấy?”
“Ngài là một giáo sư về biểu tượng học tôn giáo tại Đại học Harvard. Ngài đã viết ba tác phẩm về biểu tượng và...”
“Ông có biết bây giờ là mấy giờ không?”
“Tôi xin lỗi. Tôi có một thứ ngài cần phải xem. Không thể nói trên điện thoại được.”
Tiếng rên rỉ bật ra khỏi miệng Langdon. Chuyện này từng xảy ra rồi. Một trong số những hậu quả xấu khi viết sách về biểu tượng tôn giáo là những kẻ cuồng tín thường gọi đến muốn anh xác nhận dấu hiệu mới nhất của Chúa. Tháng trước, một vũ nữ thoát y từ bang Oklahoma đã hứa thưởng cho Langdon một đêm yêu đương tuyệt trần nếu anh bay đến xác minh độ chân thực của một dấu thập giá xuất hiện bí ẩn trên ga giường của ả. Tấm vải liệm Tulsa1, Langdon đã gọi nó như thế.
“Sao ông biết được số của tôi?” Langdon cố tỏ ra lịch sự, bất chấp giờ giấc.
“Trên Internet. Trang web đăng tải cuốn sách của ngài.”
Langdon nhíu mày. Anh chắc chắn rằng trang này không đăng số điện thoại của anh. Rõ ràng người đàn ông này đang nói dối.
“Tôi cần gặp ngài,” người gọi đến nài nỉ. “Tôi sẽ trả ngài hậu hĩnh.”
Giờ thì Langdon thực sự muốn nổi điên. “Tôi xin lỗi, nhưng thật sự là...”
“Nếu đi ngay bây giờ, ngài có thể đến đây vào lúc...”
“Tôi sẽ không đi đâu hết! Mới năm giờ sáng thôi!” Langdon cúp máy, buông mình xuống giường. Anh nhắm mắt lại, cố gắng ngủ tiếp, nhưng vô ích. Giấc mơ vẫn rõ nét trong tâm trí. Anh miễn cưỡng mặc áo choàng, bước xuống nhà.
Robert Langdon đi chân trần, thong thả từng bước trong ngôi nhà trống trải thiết kế theo phong cách Victoria tại Massachusetts, tìm đến phương thuốc chữa chứng mất ngủ theo cách của riêng anh - một cốc ca cao Nestle Quik nghi ngút khói. Mặt trăng tháng Tư chiếu xuyên qua ô cửa sổ lồi, đùa giỡn trên các tấm thảm trải sàn phương Đông. Các đồng nghiệp của Langdon thường đùa rằng nhà anh trông giống bảo tàng nhân chủng học hơn nhiều. Các giá sách chật ních đồ tạo tác tôn giáo từ khắp nơi trên thế giới - bức tượng ekuaba2 từ Ghana, thánh giá vàng từ Tây Ban Nha, bức tượng thần trên quần đảo Cyclades từ Aegean và thậm chí cả lá bùa bằng vải dệt hiếm có từ Borneo, một biểu tượng tuổi trẻ vĩnh hằng của người chiến binh.
Khi Langdon ngồi trên chiếc rương bằng đồng của Nhà hiền triết, nhấm nháp hơi ấm của cốc ca cao, anh chợt bắt gặp hình ảnh của mình phản chiếu trong ô cửa sổ. Nó trông méo mó và nhợt nhạt... như một bóng ma. Một bóng ma già cỗi, anh nghĩ, lời nhắc nhở tàn
nhẫn rằng linh hồn trẻ trung của anh đang sống trong thân xác đáng nguyền rủa.
Cho dù không đẹp trai ngời ngời theo nghĩa cổ điển, nhưng các nữ đồng nghiệp vẫn xem Langdon như hình mẫu “thông thái“ lý tưởng - dù anh đã ở độ tuổi 45 với những sợi tóc bạc ẩn trong mái tóc nâu dày, đôi mắt xanh ham học hỏi, giọng nói trầm lôi cuốn và nụ cười khỏe khoắn, vô tư của một vận động viên thể thao thuộc trường đại học. Là thành viên đội tuyển lặn của cả trường phổ thông lẫn đại học, Langdon vẫn giữ được hình thể rắn chắc, với chiều cao một mét tám, của một vận động viên bơi lội, nhờ duy trì đều đặn năm mươi vòng bơi một ngày trong bể bơi trường đại học.
Bạn bè Langdon luôn cho rằng anh là người có chút bí ẩn - một người mắc kẹt giữa mấy thế kỷ. Vào những ngày cuối tuần, họ có thể nhìn thấy anh mặc quần jeans xanh đi thơ thẩn ở sân trong, thảo luận về đồ họa máy tính, hoặc lịch sử tôn giáo với các sinh viên, có khi lại bắt gặp anh mặc áo vest bằng vải len dây truyền thống Scotland có họa tiết cánh hoa và được đăng trên các tạp chí nghệ thuật sang trọng nhất tại các lễ khánh thành bảo tàng, nơi anh được mời đến giảng dạy.
Cho dù là một giảng viên nghiêm khắc, cực kỳ tôn trọng kỷ luật, Langdon là người đầu tiên ủng hộ phong cách mà anh gọi là “thú vui lành mạnh thất truyền.” Anh thích thú tiêu khiển với sự cuồng tín có tính lây lan, biến anh thành người được sinh viên yêu mến. Biệt danh trong trường của anh - “Cá heo“ - vừa ám chỉ bản tính hòa nhã, vừa nhắc tới khả năng bơi lặn huyền thoại, vượt trội so với đối phương trong trò polo dưới nước của anh.
Khi Langdon ngồi một mình, lơ đãng nhìn vào bóng tối, sự tĩnh lặng trong ngôi nhà một lần nữa bị phá vỡ, lần này là tiếng máy fax. Mệt đến nỗi không còn sức mà bực mình, Langdon chỉ đành cười khổ.
Những con chiên của Chúa, anh nghĩ, hai nghìn năm đợi chờ một Đấng Cứu Thế và đến giờ họ vẫn kiên nhẫn chờ.
Anh mệt mỏi mang cốc ca cao đã uống cạn vào bếp, chậm rãi bước tới bàn làm việc bằng gỗ sồi. Bản fax đang hiện ra trên khay.
Anh thở dài, cầm tờ giấy lên xem.
Ngay lập tức, anh cảm thấy buồn nôn.
Trên tờ fax là hình ảnh một xác người. Thi thể hoàn toàn trần truồng, đầu bị vặn ngược hẳn ra đằng sau. Trên ngực nạn nhân là một vết bỏng khủng khiếp. Người này bị đóng dấu bằng sắt nung... in hằn một từ đơn giản. Một từ ngữ Langdon biết rất rõ. Vô cùng rõ. Anh hoài nghi nhìn trừng trừng dòng chữ hoa mỹ.
“Illuminati,” anh lắp bắp, tim đập thình thịch. Không thể nào…
Thật chậm rãi, sợ hãi những gì mình sắp chứng kiến, Langdon xoay tờ fax 180°, xem từ ngữ ở vị trí lộn ngược.
Ngay lập tức, anh nghẹt thở như thể bị xe tải đâm trúng. Gần như không thể tin vào mắt mình, anh xoay lại tờ fax, đọc xuôi rồi lại đọc ngược.
“Illuminati,” anh thì thầm.
Langdon choáng váng và ngã xuống ghế. Anh ngồi đó một lúc, trong trạng thái hoang mang tột cùng. Dần dần, đôi mắt anh bị hút vào ánh sáng đỏ nhấp nháy trên máy fax. Dù là ai gửi bản fax này thì người đó vẫn đang ở đầu dây... chờ được nói chuyện. Langdon nhìn chằm chằm ánh đèn nhấp nháy một lúc lâu.
Thế rồi, với bàn tay run rẩy, anh nhấc ống nghe.
Chapter 2
“B
ây giờ, ngài chịu chú ý đến tôi chưa?” Giọng người đàn ông cất lên khi cuối cùng Langdon cũng trả lời cuộc gọi.
“Vâng, ông làm được rồi đấy. Ông muốn tự giải thích không?”
“Lúc nãy, tôi đã cố nói với ngài.” Giọng nói cứng nhắc và máy móc. “Tôi là nhà vật lý học, điều hành một cơ sở nghiên cứu. Chỗ chúng tôi xảy ra một vụ án mạng. Ngài đã thấy cái xác rồi.”
“Làm sao ông tìm được tôi?” Langdon không tài nào tập trung nổi. Tâm trí anh vẫn đang bị ám ảnh bởi hình ảnh trên tờ fax.
“Tôi đã nói rồi. Trên Internet. Trang web về tác phẩm của ngài, Nghệ thuật của Illuminati.”
Langdon cố gắng tập trung ý nghĩ. Rõ ràng, các giới văn Chapter chính thống không hề biết đến cuốn sách của anh, nhưng nó lại khá phổ biến trên mạng. Tuy nhiên, lời giải thích của người gọi đến vẫn không hợp lý. “Trang đó không đăng thông tin cá nhân,” Langdon phản bác. “Tôi chắc chắn điều đó.”
“Tôi có nhiều người ở phòng thí nghiệm biết lấy thông tin người dùng trên mạng.”
Langdon hoài nghi. “Nghe có vẻ phòng thí nghiệm của ngài biết nhiều về Internet.”
“Phải biết chứ,” người đàn ông phản đòn. “Chúng tôi sáng tạo ra nó mà.”
Điều gì đó trong giọng ông ta khiến Langdon hiểu ông ta không đùa.
“Tôi phải gặp ngài,” người gọi khăng khăng. “Đây không phải vấn đề có thể thảo luận trên điện thoại. Phòng thí nghiệm của tôi chỉ cách Boston một giờ bay thôi.”
Langdon đứng trong ánh sáng lờ mờ của phòng làm việc, nghiên cứu tờ fax cầm trong tay. Hình ảnh thật chấn động, có lẽ phải mất cả thế kỷ để tìm ra. Một thập niên nghiên cứu của anh được đền đáp chỉ nhờ một biểu tượng.
“Khẩn cấp lắm,” giọng nói lộ rõ vẻ khẩn thiết.
Đôi mắt Langdon nhìn xoáy vào dấu sắt nung. Illuminati, anh cứ nhẩm đi nhẩm lại. Tác phẩm của anh luôn dựa trên tính tương đương về biểu tượng của các hóa thạch - những tài liệu cổ xưa và lời đồn mang tính lịch sử - nhưng hình ảnh này, trước mắt anh đây, là của thực tại. Thì hiện tại. Anh cảm thấy mình như một nhà cổ sinh vật học mặt đối mặt với một con khủng long sống.
“Tôi được toàn quyền cử một máy bay đến đón ngài,” giọng nói vang lên. “Nó sẽ có mặt tại Boston trong hai mươi phút nữa.”
Langdon thấy miệng anh khô khốc. Chuyến bay mất một giờ...
“Xin tha thứ cho sự đường đột của tôi,” giọng nói tiếp tục. “Tôi cần ngài ở đây.”
Langdon lại nhìn tờ fax - một huyền thoại xa xưa được khẳng định trong tấm hình đen trắng. Những lời gợi ý thật đáng sợ. Anh lơ đãng nhìn qua ô cửa sổ. Ánh bình minh đầu tiên đang len lỏi qua những cây bu lô trong khoảnh sân sau, nhưng khung cảnh sáng hôm nay có điều gì đó hơi khác. Như một sự kết hợp lạ lùng giữa nỗi sợ hãi và niềm phấn khích trùm lên người anh. Langdon biết mình không còn lựa chọn.
“Ông thắng rồi,” anh nói. “Cho tôi biết điểm đậu máy bay.”
Chapter 3
C
ách đó hàng nghìn dặm, hai người đàn ông đang gặp gỡ nhau. Căn phòng chìm trong bóng tối. Kiến trúc Trung Cổ. Bằng đá. “Xin chào,”3 tên cầm đầu nói. Hắn ngồi lẫn trong bóng tối, khuất tầm nhìn. “Thành công chứ?”
“Vâng,”4 cái bóng đen đáp. “Hoàn hảo.”5 Những lời của gã chắc như đinh đóng cột.
“Sẽ không lần ra được ai cầm đầu chứ?”
“Không.”
“Tuyệt. Ngươi có mang theo thứ ta cần không?”
Đôi mắt kẻ sát nhân sáng rực lên. Gã rút ra một thiết bị điện tử nặng nề, đặt nó lên bàn.
Người trong bóng tối dường như hài lòng. “Ngươi đã làm rất tốt.” “Được phụng sự Hội kín là vinh dự của tôi,” tên sát nhân nói.
“Giai đoạn hai sẽ sớm bắt đầu. Đi nghỉ đi. Đêm nay, chúng ta sẽ thay đổi thế giới.”
Chapter 4
C
hiếc Sabb 900S của Robert Langdon phóng vút ra khỏi đường hầm Callahan và xuất hiện trên khu phía đông của Bến cảng Boston, gần lối vào sân bay Logan. Nhìn quanh, Langdon thấy đường Aviation, anh rẽ trái qua Tòa nhà Eastern Airlines. Cách đó gần ba trăm mét, đường vào nhà chứa máy bay chìm trong bóng tối. Nổi bật là số 4 to đùng sơn phía trên. Anh tấp xe vào bãi đỗ rồi bước xuống.
Một người đàn ông mặt tròn mặc đồ phi công xuất hiện từ phía sau tòa nhà. “Ngài Robert Langdon, phải không?” anh ta gọi với giọng thân thiện. Langdon không nhận ra được là trọng âm vùng nào.
“Là tôi đây,” Langdon đáp, khóa xe lại.
“Chuẩn giờ đấy,” anh ta nói. “Tôi cũng vừa hạ cánh. Vui lòng theo tôi.”
Khi họ vòng quanh tòa nhà, Langdon thấy căng thẳng. Anh không quen với những cuộc gọi khó hiểu, những cuộc gặp gỡ bí mật với người lạ. Chả nhân dịp gì cả nên anh diện bộ đồ thường mặc lên lớp - quần vải bông thô, áo cao cổ và áo vest vải len dây truyền thống Scotland. Vừa bước đi, anh vừa nghĩ đến tờ fax trong túi áo vest, vẫn không thể tin vào hình ảnh trên đó.
Viên phi công dường như cảm nhận được nỗi lo lắng của Langdon. “Ngài không gặp vấn đề gì khi bay, đúng không?”
“Không hề,” Langdon đáp. Những xác chết vì sắt nung mới là vấn đề kìa. Chuyện bay tôi xử lý được.
Anh ta dẫn Langdon đi dọc nhà chứa máy bay. Hai người rẽ vào một khúc quanh lên đường băng.
Langdon dừng khựng lại, há hốc miệng nhìn chiếc phi cơ đỗ trên đường băng. “Chúng ta bay bằng cái đó à?”
Anh ta toét miệng cười. “Ngài thích chứ?”
Langdon nhìn trừng trừng một lúc lâu. “Tôi thích không á? Đây là cái gì vậy?”
*
Chiếc máy bay trước mặt họ thật khổng lồ. Nó hao hao giống tàu con thoi ngoại trừ không có phần trên cùng, nó hoàn toàn phẳng lì. Đỗ trên đường băng này, trông nó chẳng khác gì một cái nêm to đùng. Ấn tượng đầu tiên của Langdon là chắc mình đang mơ. Cái vật này gần như chiếc Buick biết bay. Hai cánh thực tế là không có - thay vào đó chỉ là hai cái vây mập mạp phía sau thân. Hai cần dẫn hướng trên lưng thò ra phía đuôi. Phần còn lại là thân phi cơ - dài khoảng sáu mươi mét từ đầu đến cuối - không cửa kính, chẳng có gì ngoài thân.
“Nặng hai trăm năm mươi nghìn tấn nếu nạp đầy nhiên liệu,” viên phi công giới thiệu, như một ông bố đang khoác lác với đứa bé sơ sinh. “Chạy bằng nguyên liệu hydrogen lỏng. Vỏ là sự pha trộn giữa titan với các sợi silic cacbua. Tỷ lệ sức đẩy/trọng lượng của nó là 20:1, các máy bay phản lực thường chỉ ở mức 7:1. Ngài giám đốc
chắc phải nôn nóng muốn gặp ngài lắm. Ông ấy không hay dùng quả này đâu.”
“Thứ này bay được à?” Langdon hỏi.
Viên phi công mỉm cười. “Phải rồi.” Anh ta dẫn Langdon qua đường băng lên máy bay. “Ngài có vẻ ngạc nhiên, tôi hiểu, nhưng ngài sẽ sớm quen thôi. Trong năm năm tới, tất cả những gì ngài sẽ thấy là các bé này - HSCT - Phương tiện Vận chuyển Dân dụng Tốc độ Cao. Phòng thí nghiệm của chúng tôi là một trong những nơi đầu tiên sở hữu một cái.”
Cái phòng thí nghiệm chết tiệt, Langdon nghĩ.
“Chiếc này mô phỏng hình dáng Boeing X-33,” viên phi công nói tiếp, “nhưng còn đến hàng tá chiếc khác - Phi cơ Hàng không Vũ trụ Quốc gia, bên Nga thì có Scramjet, bên Anh thì có HOTOL. Tương lai là đây, chỉ mất chút thời gian để đến với công chúng thôi. Ngài có thể tạm biệt các máy bay phản lực được rồi.”
Langdon cảnh giác ngước nhìn chiếc phi cơ. “Tôi nghĩ mình thích máy bay phản lực hơn.”
Viên phi công chỉ tay về phía cầu thang. “Lối này, thưa ngài Langdon. Cẩn thận đấy.”
*
Vài phút sau, Langdon đã ngồi trong buồng lái trống trải. Viên phi công thắt dây an toàn cho anh trên hàng ghế trước, rồi biến mất ra phía đầu phi cơ.
Bản thân buồng lái trông giống hệt một máy bay thương mại cỡ lớn đến ngạc nhiên. Ngoại lệ duy nhất làm Langdon cảm thấy khó chịu là không có cửa kính. Anh vẫn bị ám ảnh bởi nỗi sợ không gian kín thể nhẹ - hậu quả từ một biến cố thời thơ ấu mà anh chưa bao giờ vượt qua được.
Nỗi sợ không gian kín của Langdon không hề giảm đi mà vẫn hiện hữu theo những cách tinh tế khác nhau và chúng luôn luôn làm phiền anh. Anh lảng tránh các môn thể thao trong không gian kín như bóng vợt hoặc bóng quần, anh vui vẻ bỏ khoản tiền nhỏ mua căn nhà thiết kế theo kiểu Victoria trần cao, thoáng đãng cho dù vẫn có nhà ở giá ưu đãi ở trường. Langdon thường xuyên nghi ngờ niềm đam mê thế giới nghệ thuật ngay từ khi còn nhỏ là bắt nguồn từ tình yêu của anh dành cho không gian rộng rãi trong các bảo tàng.
*
Động cơ dưới chân anh gầm lên, khiến toàn thân phi cơ rung mạnh. Langdon nuốt khan và chờ đợi. Anh cảm thấy phi cơ bắt đầu chạy. Khúc nhạc đồng quê lặng lẽ vang lên ngay trên đầu.
Một chiếc điện thoại bên cạnh anh kêu bíp hai lần. Langdon nhấc ống nghe.
“A lô?”
“Thoải mái chứ, ngài Langdon?”
“Không đâu.”
“Thư giãn đi. Một giờ nữa chúng ta sẽ đến nơi.”
“Chính xác là nơi nào thế?” Langdon hỏi, nhận ra anh không hề biết điểm đến.
“Geneva,” viên phi công đáp, tăng tốc các động cơ. “Phòng thí nghiệm ở Geneva.”
“Geneva,” Langdon nhắc lại, cảm thấy khá hơn một chút. “Vùng nông thôn New York. Thực ra gia đình tôi ở gần hồ Seneca. Tôi không biết có phòng thí nghiệm vật lý tại Geneva.”
Viên phi công phá lên cười. “Không phải Geneva, New York đâu, ngài Langdon. Geneva ở Thụy Sỹ cơ.”
Phải mất một lúc anh mới tiêu hóa được từ này. “Thụy Sỹ à?” Langdon cảm thấy máu chạy rần rật. “Tôi tưởng anh nói phòng thí nghiệm chỉ cách một giờ bay!”
“Thì thế mà, ngài Langdon.” Viên phi công cười khúc khích. “Chiếc phi cơ này đạt vận tốc Mach 156.”
Chapter 5
T
rên một con phố châu Âu nhộn nhịp, tên sát thủ luồn lách qua đám đông. Gã là một người mạnh mẽ. Ngăm đen và cường tráng. Vẻ linh hoạt chỉ là che mắt. Các cơ bắp của gã vẫn căng lên do dư âm từ cuộc gặp gỡ vừa rồi.
Ổn cả mà, gã tự nhủ. Cho dù kẻ thuê gã chưa một lần lộ mặt, nhưng gã vẫn cảm thấy vinh dự trước sự có mặt của hắn. Có đúng là từ lần đầu tiên ông chủ liên hệ với gã, mới qua mười lăm ngày? Tên sát thủ vẫn nhớ như in cuộc gọi đó...
“Tên ta là Janus,” người gọi đến nói. “Chúng ta là bà con theo nghĩa nào đó. Chúng ta cùng chung kẻ thù. Ta nghe nói có thể sử dụng kỹ năng của ngươi.”
“Còn phụ thuộc việc ngài đại diện cho ai,” tên sát thủ đáp. Kẻ gọi đến nói cho gã biết.
“Ngài có đùa không đấy?”
“Theo ta biết, ngươi từng nghe nói đến tên tổ chức của ta,” hắn đáp.
“Dĩ nhiên. Hội kín là một huyền thoại.”
“Thế mà ngươi còn nghi ngờ sự thành thật của ta.”
“Ai cũng biết Hội kín đã tiêu tùng rồi.”
“Một mánh khóe xảo quyệt. Kẻ thù nguy hiểm nhất là kẻ mà không ai nghĩ tới.”
Tên sát thủ hoài nghi. “Hội kín vẫn tồn tại sao?”
“Còn ngấm ngầm hơn trước rất nhiều. Gốc rễ của bọn ta thâm nhập vào tất cả những gì ngươi thấy... thậm chí cả pháo đài linh thiêng nhất của kẻ thù lớn nhất của chúng ta.”
“Không thể nào. Họ không dễ bị tổn thương như vậy.” “Cánh tay của chúng ta vươn xa lắm.”
“Không xa đến thế chứ.”
“Rồi ngươi sẽ phải tin, rất sớm thôi. Sức mạnh của Hội kín sắp được phô bày rồi. Rồi người sẽ được biết.”
“Ngài đã làm gì?”
Kẻ gọi đến nói cho gã nghe.
Tên sát thủ trợn mắt. “Một nhiệm vụ bất khả thi.”
Ngày hôm sau, báo chí trên khắp địa cầu đồng loạt đăng cùng một tin. Tên sát thủ đã buộc phải tin.
Giờ đây, mười lăm ngày sau, niềm tin của tên sát thủ được củng cố, xua tan đám mây nghi ngờ. Hội kín vẫn tồn tại, gã nghĩ. Đêm nay, họ sẽ trỗi dậy chứng tỏ quyền lực của mình.
Khi bước qua những con phố, đôi mắt đen của gã ánh lên sự hiểm độc. Một trong những hội kín đáng sợ và bí ẩn nhất thế giới nhờ cậy đến gã. Lựa chọn khôn ngoan đấy, gã tự nhủ. Danh tiếng
về khả năng giết người đã vượt xa hơn sự kín mồm kín miệng của gã.
Cho đến giờ này, gã đã tận tâm phụng sự họ. Gã vận dụng kỹ năng mang về cho Janus vật mà hắn yêu cầu. Giờ thì tùy Janus sử dụng quyền lực của hắn để bố trí vật đó ra sao thôi.
Bố trí...
Gã tự hỏi sao Janus có thể đảm nhận một nhiệm vụ không tưởng đến thế. Kẻ này rõ ràng có tay trong. Quyền lực của Hội kín dường như không có giới hạn.
Janus, rõ ràng là bí danh, gã đoán. Gã nghĩ phải chăng nó ám chỉ đến một vị thần hai mặt của La Mã... hay là mặt trăng của sao Thổ? Mà cũng có khác biệt gì đâu. Janus đã cho thấy một sức mạnh không thể đấu lại. Không nghi ngờ gì nữa, hắn đã chứng tỏ điều đó.
Tên sát thủ vừa bước đi, vừa tưởng tượng tổ tiên gã đang nhìn xuống gã từ trên cao. Hôm nay, gã đang chiến đấu cho cuộc chiến của họ, đương đầu với chính kẻ thù truyền kiếp của họ suốt bao thế kỷ qua, kể từ thế kỷ XI... khi những đội quân thập tự chinh của kẻ thù lần đầu tiên cướp phá mảnh đất quê hương gã, cưỡng bức và thảm sát đồng bào của gã, tuyên bố rằng chúng không sạch sẽ, làm các ngôi đền và vị thần của họ ô uế.
Tổ tiên gã đã lập một đội quân tuy nhỏ nhưng tinh nhuệ để tự vệ. Đội quân này nổi tiếng khắp xứ như những người bảo vệ - những đao phủ điêu luyện lang thang khắp miền thôn quê hạ sát bất kỳ kẻ thù nào tìm thấy. Họ nổi như cồn không chỉ vì những cuộc thảm sát man rợ, mà còn ở cách họ kỷ niệm những màn giết chóc này, để
mình chìm trong trạng thái đê mê do thuốc gây nghiện mang lại. Loại thuốc gây nghiện mạnh họ lựa chọn có tên là hashishs7.
Khi tiếng xấu ngày một lan xa, những tên đao phủ chết chóc của họ được biết đến chỉ bằng một tên gọi - Hassassin - theo nghĩa đen là “những kẻ tôn thờ hashish.” Cái tên Hassassin trong hầu hết các ngôn ngữ trên thế gian này đồng nghĩa với cái chết. Đến ngày nay, từ này vẫn còn được dùng, ngay cả trong Anh ngữ hiện đại... nhưng giống như nghệ thuật giết người, từ này đã biến thể.
Giờ đây nó được phát âm thành assassin, Sát thủ.
Chapter 6
S
áu mươi tư phút đã trôi qua khi Robert Langdon, với vẻ hoài nghi và hơi say máy bay, bước xuống cầu thang trên đường băng ngập nắng. Một làn gió khô khốc đùa giỡn ve áo vest của anh sột soạt. Không gian thoáng đãng cho anh cảm giác tuyệt vời. Anh liếc mắt sang thung lũng xanh ngăn ngắt, tương phản với những đỉnh núi phủ tuyết trắng xung quanh.
Mình đang mơ, anh tự nhủ. Và mình sẽ tỉnh dậy vào bất kỳ lúc nào.
“Chào mừng đến Thụy Sỹ,” viên phi công hét lên, cố át tiếng gầm của các động cơ HEDM chạy bằng nhiên liệu pha trộn của phi cơ X-33, đang giảm dần âm lượng sau lưng họ.
Langdon xem đồng hồ. Đã 7 giờ 07 phút sáng.
“Ngài vừa bay qua sáu múi giờ,” viên phi công cho biết. “Ở đây thì mới qua 1 giờ chiều thôi.”
Langdon đặt lại đồng hồ.
“Ngài thấy sao?”
Anh đưa tay xoa bụng. “Như thể tôi đang ăn Styrofoam8 vậy.”
Viên phi công gật đầu. “Chứng say độ cao. Chúng ta đã ở độ cao 18.288 mét. Ở trên đó, trọng lượng của ngài nhẹ hơn ba mươi phần trăm. May mắn là chúng ta bay một khoảng cách ngắn. Nếu
bay đến Tokyo hẳn tôi sẽ nhảy xa hơn - 160 kilomet. Chắc nó sẽ khiến ruột gan ngài nhộn nhạo hết lên.”
Langdon mệt mỏi gật đầu, thầm nghĩ mình vẫn còn may mắn. Mọi thứ đã được xem xét cẩn thận, chuyến bay cực kỳ êm ả. Ngoài chuyện phi cơ tăng tốc muốn gãy xương khi cất cánh, chuyển động của phi cơ khá bình thường - thi thoảng có những hỗn loạn nhỏ, vài thay đổi áp suất khi họ tăng độ cao, nhưng chẳng có gợi ý nào cho thấy họ đang lao qua không gian, với tốc độ kinh người 17.702 kilomet trên giờ.
Một nhóm kỹ thuật viên gấp gáp chạy lên đường băng đón chiếc X-33. Viên phi công hộ tống Langdon đến bãi đỗ xe phía sau tháp điều khiển, nơi chiếc sedan Peugeot đen đang đậu. Vài phút sau, họ tăng tốc xuống một con đường lát đá, trải dài qua thung lũng. Một khối các tòa nhà mờ mờ nhô lên phía đằng xa. Bên ngoài, các bình nguyên cỏ mọc đầy lao qua vun vút trong ánh sáng mờ.
Langdon bối rối nhìn viên phi công tăng công tơ mét lên gần 170 kilomet trên giờ. Chuyện quái gì với thằng cha này và tốc độ của hắn vậy?, anh tự hỏi.
“Năm cây số nữa là đến phòng thí nghiệm,” anh ta nói. “Tôi sẽ đưa ngài đến đó trong hai phút.”
Langdon vô vọng tìm kiếm dây đai an toàn. Tại sao không phải là ba phút và tất cả chúng ta sẽ an toàn?
Chiếc xe lao như tên bắn.
“Ngài thích nghe Reba không?” viên phi công hỏi, nhét một cuốn băng cát-sét vào hộp băng.
Một giọng phụ nữ bắt đầu hát. “Đó chỉ là nỗi sợ hãi cô đơn...”
Chẳng có sợ hãi gì ở đây hết, Langdon lơ đãng nghĩ. Các nữ đồng nghiệp của anh thường đùa rằng bộ sưu tập các đồ tạo tác như bảo tàng của anh rõ ràng là nỗ lực lấp đầy căn nhà trống hoác, một căn nhà họ khăng khăng cho rằng sẽ tuyệt hơn nhiều nếu có sự hiện diện của một người phụ nữ. Langdon luôn cười xòa trước ý kiến này, nhắc họ nhớ rằng anh đã có ba tình yêu lớn trong đời - biểu tượng học, trò chơi bóng nước và cuộc sống độc thân - tình yêu cuối cùng này là sự tự do cho phép anh đi chu du thế giới, thức khuya nếu muốn, và hưởng thụ những đêm dài yên tĩnh ở nhà với rượu brandy và một cuốn sách hay.
“Chúng tôi chẳng khác gì một thành phố thu nhỏ,” viên phi công nói, dứt Langdon khỏi trạng thái mơ màng. “Không chỉ các phòng thí nghiệm đâu. Chúng tôi có cả mấy siêu thị, một bệnh viện, thậm chí cả rạp chiếu phim.”
Langdon gật đầu lấy lệ, nhìn ra khung cảnh rộng rãi lộn xộn của các tòa nhà đang nhô lên trước mặt.
“Thực ra mà nói,” anh ta nói thêm, “chúng tôi sở hữu cỗ máy lớn nhất trên hành tinh này.”
“Thật không?” Langdon quét mắt nhìn quanh.
“Ngài sẽ không thấy nó ngoài này đâu.” Viên phi công mỉm cười. “Nó được chôn ngầm dưới mặt đất này sáu tầng nhà cơ.”
Langdon không có thời gian để hỏi. Không hề báo trước, viên phi công nhấn chân phanh. Chiếc xe phanh kít lại bên ngoài một chốt gác kiên cố.
Langdon đọc tấm biển trước mặt họ. AN NINH. DỪNG LẠI. Anh bất ngờ cảm thấy sự hốt hoảng dâng trào khi nhận ra mình đang ở đâu. “Lạy Chúa! Tôi không mang theo hộ chiếu!”
“Không cần thiết đâu,” tay lái xe trấn an. “Chúng tôi đã thu xếp với chính phủ Thụy Sỹ rồi.”
Langdon chết lặng khi tay lái xe trình chứng minh thư cho lính gác. Anh ta quét thẻ qua một thiết bị chứng thực điện tử. Cái máy bật đèn xanh.
“Tên hành khách?”
“Robert Langdon,” tay lái xe đáp.
“Khách của ai?”
“Ngài giám đốc.”
Tay lính gác nhướn mày. Anh ta quay lại kiểm tra một tờ giấy in ra từ máy tính, đối chiếu với dữ liệu trên màn hình rồi quay về phía cửa sổ. “Chúc ngài ở lại vui vẻ, ngài Langdon.”
Chiếc xe lại phóng đi, tăng tốc khoảng hai trăm mét nữa vòng quanh một bùng binh rộng dẫn đến lối vào chính của cơ sở. Hiện ra ngay trước mắt họ là một kết cấu hình chữ nhật, cực kỳ hiện đại của kính và thép. Langdon kinh ngạc trước thiết kế trong suốt, đẹp đến sửng sốt của tòa nhà. Anh vẫn luôn dành tình yêu cho kiến trúc.
“Thánh đường Kính,” người hộ tống giới thiệu.
“Một nhà thờ à?”
“Trời ạ, không phải. Nhà thờ là thứ mà chúng tôi không có. Vật lý học là tôn giáo duy nhất ở đây. Ngài có thể gọi tên Chúa mỗi khi cảm thấy tuyệt vọng, như ngài muốn,” anh ta phá lên cười, “chỉ cần đừng chê bai các hạt vi lượng hoặc hạt mezon thôi.”
Langdon ngồi đó hoang mang, khi anh ta quành xe rồi dừng lại phía trước một tòa nhà kính. Các hạt vi lượng và hạt mezon? Không có kiểm soát ở biên giới? Các máy bay đạt tốc độ Mach 15? Những thằng cha này là thế quái nào? Phiến đá granite được chạm trổ phía trước tòa nhà cho anh câu trả lời:
CERN
Trung tâm Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu
“Nghiên cứu Hạt nhân?” Langdon hỏi, khá chắc chắn anh dịch ra gần đúng.
Tay lái xe không đáp. Anh ta đang cúi người về phía trước, bận rộn điều chỉnh máy phát nhạc. “Đây là điểm dừng của ngài. Ông giám đốc sẽ gặp ngài tại lối vào.”
Langdon để ý thấy một người đàn ông ngồi xe lăn đang ra khỏi tòa nhà. Trông ông ta như mới chớm sáu mươi tuổi. Hốc hác và gần như hói với quai hàm vuông nghiêm khắc, ông ta mặc áo choàng trong phòng thí nghiệm màu trắng, đi đôi giày tây tựa vững chắc lên giá để chân của xe lăn. Ngay cả ở khoảng cách xa cũng có thể thấy ông ta có đôi mắt vô hồn - như hai viên đá xám xịt.
“Phải ông ta kia không?” Langdon hỏi.
Tay lái xe nhìn lên. “À, đúng rồi.” Anh ta quay lại, mỉm cười tinh quái với Langdon. “Nhắc tới Tào Tháo là Tào Tháo đến luôn.”
Cảm thấy không ổn lắm nên Langdon bước xuống xe.
Người đàn ông trên xe lăn tiến về phía Langdon, chìa ra bàn tay ẩm ướt. “Ngài Langdon phải không? Chúng ta đã nói chuyện trên điện thoại. Tên tôi là Maximilian Kohler.”
Chapter 7
M
aximilian Kohler, giám đốc của CERN, thường được gọi sau lưng là König - ông vua. Đó là một danh hiệu bày tỏ sự kính sợ hơn là tôn trọng dành cho nhân vật điều hành cả cơ ngơi từ trên xe lăn. Số người thân thiết với ông không nhiều, nhưng câu chuyện kinh hoàng về nguyên nhân ông bị tàn tật khắp cả CERN đều biết, chỉ một số ít oán trách ông vì tính tình gay gắt... chứ không phải vì sự dâng hiến tận tụy của ông cho khoa học thuần túy.
Mới gặp gỡ ông giám đốc có vài phút, nhưng Langdon đã cảm thấy ông ta là người khép mình. Langdon thấy mình thực sự phải chạy bộ mới theo kịp chiếc xe lăn điện tử của Kohler, khi nó lặng lẽ tăng tốc tiến đến lối vào chính. Langdon chưa từng thấy chiếc xe lăn nào giống thế này - được trang bị cơ số các thiết bị điện tử bao gồm một điện thoại đa đường dây, một hệ thống nhắn tin, màn hình máy tính, thậm chí cả một máy quay phim cỡ nhỏ, có thể tháo rời. Đó là trung tâm chỉ huy di động của King Kohler.
Đi qua một cánh cửa cơ học, Langdon bước vào hành lang chính đồ sộ của CERN.
Thánh đường Kính, Langdon trầm ngâm, nhìn khắp thiên đường từ trên xuống dưới.
Phía trên, mái kính màu xanh nhạt tỏa sáng lung linh dưới ánh nắng chiều, hắt những tia nắng lên không trung đủ mọi hình dạng, mang lại cho căn phòng cảm giác hoành tráng. Các khoảng tối góc
cạnh kéo dài xuống tựa như các mạch máu, chạy qua các bức tường gạch lát xuống đến sàn nhà bằng cẩm thạch. Không khí tạo cảm giác thanh sạch, thoáng mùi thuốc tiệt trùng. Một nhóm các nhà khoa học nhanh nhẹn di chuyển xung quanh, tiếng bước chân của họ vang vọng trong không gian.
“Lối này, ngài Langdon.” Giọng ông ta vang lên gần giống như trong máy phát ra. Trọng âm cứng nhắc và chính xác, hệt như những đường nét nghiêm nghị của ông ta. Kohler húng hắng ho, lau miệng bằng chiếc khăn tay trắng, khi đôi mắt xám vô hồn nhìn xoáy vào Langdon. “Làm ơn nhanh lên.” Chiếc xe lăn của ông ta dường như nhảy vọt qua mặt sàn lát đá.
Langdon sải bước, đi qua một chỗ có vẻ như vô số tiền sảnh tỏa nhánh ra cửa chính. Từng sảnh đều đang có những hoạt động nhộn nhịp. Các nhà khoa học thấy Kohler đều nhìn chằm chằm tỏ vẻ ngạc nhiên, dò xét Langdon như thể đang tự hỏi chắc anh là người đứng đầu một tập đoàn nào đó.
“Tôi rất xấu hổ phải thừa nhận,” Langdon đánh liều cố gắng bắt chuyện, “rằng tôi chưa từng nghe đến CERN.”
“Không ngạc nhiên,” Kohler đáp, câu trả lời nhát gừng của ông ta tạo hiệu ứng cay nghiệt. “Hầu hết người Mỹ đều không xem châu Âu là nhà tiên phong trong nghiên cứu khoa học. Trong mắt họ, chúng tôi chẳng là gì ngoài một quận mua sắm kỳ quặc - một khái niệm lạ kỳ nếu ngài cân nhắc đến quốc tịch của những con người như Einstein, Galileo và Newton.”
Langdon không biết phải trả lời sao. Anh rút ra tờ fax từ trong túi áo. “Người đàn ông trong ảnh này, ngài có thể...”
Kohler ngắt lời anh bằng cái phẩy tay. “Làm ơn. Không phải ở đây. Bây giờ, tôi sẽ dẫn ngài đi gặp người này.” Ông ta chìa tay ra. “Có lẽ tôi nên cầm tờ fax.”
Langdon trao lại tờ fax, im lặng cúi đầu bước theo.
Kohler quay ngoắt đi, tiến vào một tiền sảnh rộng được trang trí đầy những giải thưởng và tài liệu. Một tấm biển đặc biệt to chiếm cứ lối vào. Langdon bước chậm lại đọc dòng chữ đồng được chạm trổ khi họ bước qua.
GIẢI THƯỞNG ARS ELECTRONICA
Về Đổi mới Văn hóa trong Kỷ nguyên Số
Tặng cho Tim Berners Lee và CERN
Vì đã sáng tạo ra
MẠNG TOÀN CẦU
Mình sẽ bị nguyền rủa mất thôi, Langdon nghĩ khi đọc đoạn văn. Lão này không hề đùa. Langdon vốn luôn cho rằng ý tưởng về Mạng Toàn Cầu là sáng tạo của người Mỹ. Một lần nữa, kiến thức của anh bị giới hạn ở trang web đăng tải sách của mình và đôi ba lần khám phá trực tuyến Bảo tàng Louvre hoặc El Prado, trên chiếc máy Macintosh cũ rích của anh.
“Mạng Toàn Cầu,” Kohler nói, lại ho và lấy khăn lau miệng, “đã bắt đầu ở đây như một mạng lưới các điểm máy tính trong nhà. Nó cho phép các nhà khoa học từ nhiều phòng ban khác nhau chia sẻ cho nhau những phát hiện hàng ngày. Tất nhiên, cả thế giới đều tưởng rằng Mạng Toàn Cầu là công nghệ của người Mỹ.”
Langdon bước theo xuống hành lang. “Tại sao không công bố công khai?”
Kohler nhún vai, rõ ràng thấy chán nản. “Một sự ngộ nhận vặt vãnh về thứ công nghệ vặt vãnh. CERN còn vĩ đại hơn nhiều sự kết nối toàn cầu giữa các máy tính. Các nhà khoa học của chúng tôi tạo ra những điều kỳ diệu gần như mỗi ngày.”
Langdon ném sang Kohler cái nhìn nghi ngờ. “Những điều kỳ diệu?” Từ ngữ “điều kỳ diệu“ chắc chắn không phải là một phần vốn từ vựng trong Tòa nhà Khoa học Fairchild của Harvard. Những điều kỳ diệu chỉ dành cho Khoa Thần học.
“Ngài có vẻ hoài nghi,” Kohler nói. “Tôi tưởng ngài là một nhà biểu tượng học về tôn giáo. Ngài không tin vào những điều kỳ diệu à?”
“Tôi không chắc với những điều kỳ diệu lắm,” Langdon đáp.
Đặc biệt là những điều kỳ diệu diễn ra trong các phòng thí nghiệm khoa học.
“Có lẽ điều kỳ diệu là từ dùng sai. Tôi chỉ đang cố gắng nói ngôn ngữ của ngài.”
“Ngôn ngữ của tôi?” Langdon bỗng cảm thấy khó chịu. “Không muốn làm ngài thất vọng, nhưng tôi nghiên cứu biểu tượng tôn giáo - tôi là một học giả, không phải linh mục.”
Kohler bất ngờ chậm rãi quay lại, cái nhìn của ông ta dịu đi một chút. “Tất nhiên. Tôi là người đơn giản mà. Người ta không cần phải bị ung thư mới phân tích được các triệu chứng.”
Langdon chưa từng nghe ai ăn nói kiểu thế.
Khi họ đi xuống tiền sảnh, Kohler gật đầu đồng tình. “Tôi không nghĩ tôi và ngài sẽ hiểu rõ về nhau, ngài Langdon.”
Không hiểu sao Langdon nghi ngờ điều đó.
*
Khi cả hai cùng đi nhanh hơn, Langdon bắt đầu cảm thấy có tiếng gì ầm ầm phía trước. Tiếng ồn ngày một rõ hơn theo từng bước chân, dội lại qua những bức tường. Dường như nó xuất phát từ phía cuối tiền sảnh trước mặt.
“Cái gì thế?” Langdon cuối cùng cũng hỏi, buộc phải hét lên. Anh cảm tưởng như họ đang đến gần ngọn núi lửa đang hoạt động.
“Ống Rơi Tự do,” Kohler đáp, giọng ồm ồm của ông ta xóa tan bầu không khí ảm đạm. Nói xong ông ta chẳng giải thích gì thêm.
Langdon cũng không hỏi. Anh đã kiệt sức, Maximilian Kohler có vẻ không có hứng thú bày tỏ thêm lòng hiếu khách. Langdon tự nhắc mình lý do anh ở đây. Illuminati. Anh cho rằng đâu đó trong cái cơ sở khổng lồ này là một xác chết... xác chết bị đóng dấu một biểu tượng và vì nó anh vừa phải bay hơn năm nghìn kilomet đến đây.
Khi họ đến gần phía cuối hành lang, âm thanh đó gần như muốn xé rách màng nhĩ, khiến hai đế giày của Langdon rung lên. Họ đi vòng qua khúc quanh và một phòng quan sát xuất hiện phía bên phải. Bốn cánh cửa ốp kính dày được gắn vào một bức tường cong, như những ô cửa sổ của một tàu ngầm. Langdon dừng chân nhìn qua một trong các cánh cửa.
Giáo sư Robert Langdon từng được thấy nhiều điều lạ lùng trong đời, nhưng đây là điều lạ lùng nhất. Anh chớp mắt mấy lần, tự hỏi có phải mình bị ảo giác không. Anh đang nhìn chằm chằm một căn phòng hình tròn khổng lồ. Bên trong căn phòng, có mấy người đang trôi nổi như thể không trọng lượng. Ba người cả thảy. Một người vẫy tay và nhào lộn giữa không trung.
Lạy Chúa, anh nghĩ. Mình đang ở xứ sở của Phù thủy Oz.
Sàn nhà trong phòng là một tấm lưới đan, trông như một tấm lưới thép mỏng lớn. Có thể nhìn thấy bên dưới là hình ảnh mờ mờ của một cánh quạt lớn bằng kim loại.
“Ống rơi tự do,” Kohler nói, tạm dừng chân để đợi anh. “Nhào lộn trong nhà. Nhằm mục đích giảm stress. Đó là một đường hầm gió đứng.”
Langdon thích thú đứng nhìn. Một trong những người rơi tự do, một phụ nữ béo phị, khéo léo tiến về phía cửa sổ. Dù đang bị những luồng khí đẩy rất mạnh, nhưng bà ta vẫn cười toét và giơ ngón tay cái về phía Langdon. Anh gượng cười và đáp lại cử chỉ ấy, tự hỏi bà ta có biết rằng đó là biểu tượng dương vật cổ ám chỉ sức mạnh nam tính.
Langdon để ý người phụ nữ vóc dáng nặng nề, bà ta là người duy nhất mang theo một thứ có vẻ là cái dù nhỏ. Vạt rộng của lớp vải phủ chụp xuống bà ta như món đồ chơi. “Cái dù bé của bà kia để làm gì thế?” Langdon hỏi Kohler. “Đường kính của nó không thể hơn một mét.”
“Ma sát,” Kohler nói. “Làm giảm đi các khí động lực, để quạt có thể nâng bà ta lên.” Ông ta lại đi xuống hành lang. “Miếng vải một mét vuông này làm nhẹ sức nặng cơ thể gần hai mươi phần trăm.”
Langdon lơ đãng gật đầu.
Anh không hề ngờ rằng đêm muộn hôm đó, tại một đất nước cách đó hàng nghìn kilomet, thông tin này sẽ cứu mạng anh.
Chapter 8
K
hi Kohler và Langdon xuất hiện từ cửa hậu khu phức hợp chính của CERN, bước vào ánh mặt trời Thụy Sỹ khắc nghiệt, Langdon cảm thấy như thể mình được đưa về nhà. Khung cảnh trước mặt anh trông như khuôn viên của liên minh Trường Đại học Ivy League.
Một con dốc cỏ mọc đầy, trải dài xuống các vùng đất thấp rộng rãi, nơi các cụm cây phong mọc rải rác thành các hình vuông, bao quanh là các con đường mòn và khu dân cư. Những người trông giống học giả mang theo hàng chồng sách, chạy ra chạy vào các tòa nhà. Như thể muốn nhấn mạnh bầu không khí của trường đại học, hai người ăn mặc theo phong cách hippi, tóc dài đang chơi trò ném đĩa Frisbee9 qua lại, trong khi vẫn thưởng thức bản Giao hưởng Số 4 của Mahler đang phát om sòm từ một cửa sổ khu dân cư.
“Đây là các khu dân cư của chúng tôi,” Kohler giải thích khi ông tăng tốc xe lăn xuống đường mòn dẫn về các tòa nhà. “Ở đây, chúng tôi có hơn ba ngàn nhà vật lý học. Chỉ riêng CERN đã tuyển dụng quá nửa các nhà vật lý hạt riêng biệt - những trí tuệ sáng suốt nhất Trái Đất - ngài nên gọi họ là người Đức, người Nhật, người Ý và người Hà Lan. Các nhà vật lý của chúng tôi là đại diện của hơn năm trăm trường đại học và sáu mươi quốc gia.”
Langdon kinh ngạc. “Bằng cách nào họ giao tiếp được với nhau?”
“Tiếng Anh, dĩ nhiên rồi. Thứ ngôn ngữ toàn cầu của khoa học.”
Langdon từng luôn nghe nói toán là ngôn ngữ toàn cầu của khoa học, nhưng anh quá mệt nên không muốn tranh cãi, chỉ ngoan ngoãn đi theo Kohler xuống đường mòn.
Đang đi được nửa đường, một thanh niên chạy bộ ngang qua. Trên chiếc áo phông của cậu ta in một thông điệp: CÓ GUT ẮT THÀNH CÔNG!
Langdon nhìn theo cậu ta, thắc mắc: “Gut sao?”
“Thuyết Thống Nhất Chung,” Kohler giải đáp. “Là thuyết vạn vật.” “Tôi hiểu,” Langdon nói, nhưng anh có hiểu gì đâu.
“Ngài có hiểu về vật lý hạt riêng biệt không, ngài Langdon?”
Langdon nhún vai. “Tôi hiểu về vật lý nói chung - những vật thể rơi, đại loại vậy.” Những tháng năm tập luyện nhảy cầu giúp anh có hiểu biết kha khá về sức mạnh của gia tốc trọng lực. “Vật lý hạt riêng biệt là nghiên cứu về các nguyên tử, đúng không?”
Kohler lắc đầu. “Các nguyên tử giống như các hành tinh nếu so với thứ chúng ta đang nói. Chúng tôi thì quan tâm đến các hạt nhân của nguyên tử - chỉ bằng một phần mười nghìn kích cỡ của nguyên tử.” Ông ta lại húng hắng ho, có vẻ như bị ốm. “Các nhà vật lý học của CERN ở đây có một mục tiêu, tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi loài người đang tìm kiếm kể từ khi vạn vật sinh sôi. Như chúng ta đến từ đâu? Cấu tạo của chúng ta là gì?”
“Và những câu trả lời này nằm trong phòng thí nghiệm vật lý?”
“Ngài có vẻ ngạc nhiên?”
“Đúng vậy. Câu hỏi dường như mang tính tâm linh.”
“Ngài Langdon, mọi câu hỏi đều từng mang tính tâm linh. Kể từ khi vạn vật sinh sôi, tâm linh và tôn giáo thường được viện đến lấp đầy những khoảng cách khoa học không thể hiểu thấu. Mặt trời mọc hay lặn từng bị xem là do thần Helios và cỗ xe lửa thần kỳ tạo ra. Các trận động đất và sóng thủy triều là cơn phẫn nộ của thần Poseidon. Khoa học giờ đây chứng minh những vị thần này chỉ là hư cấu. Sớm thôi, tất cả những vị thần đều sẽ được chứng minh là hư cấu. Chỉ còn vài câu hỏi nữa thôi, và đều là những câu hỏi khó tiếp thu. Chúng ta đến từ đâu? Chúng ta đang làm gì ở đây? Ý nghĩa của sự sống và vũ trụ là gì?”
Langdon kinh ngạc. “Và CERN đang cố trả lời tất cả những câu hỏi này?”
“Đúng vậy. Chúng là những câu hỏi chúng tôi đang trả lời.”
Langdon chìm trong im lặng khi hai người đi qua khu dân cư hình vuông. Đang đi, một chiếc đĩa Frisbee bay đến phía trên, dừng lại rơi xuống ngay trước mặt họ. Kohler tảng lờ nó và đi tiếp.
Một giọng nói cất lên từ phía bên kia sân. “Làm ơn!”10
Langdon nhìn quanh. Một ông già tóc bạc cao tuổi mặc áo sơ mi trường Đại học Paris vẫy tay về phía anh. Langdon nhặt chiếc đĩa lên, ném trả lại rất điêu luyện. Ông già bắt được chiếc đĩa bằng một ngón tay, tung hứng lên xuống vài lần trước khi tung chiếc đĩa qua vai cho đồng đội.
“Cảm ơn!11 “ ông ta nói với Langdon.
“Chúc mừng ngài,” Kohler nói khi Langdon cuối cùng cũng bắt kịp. “Ngài vừa chơi ném đĩa với Georges Charpak, người đoạt giải Nobel vì sáng tạo ra buồng tỷ lệ nhiều dây.”12
Langdon gật đầu. Ngày may mắn của tôi.
*
Langdon và Kohler phải mất ba phút nữa mới tới được điểm đến - một khu nhà ở rộng lớn, được chăm sóc kỹ càng, lọt thỏm trong một lùm cây dương lá rung. So với các khu nhà ở, kết cấu này có vẻ xa hoa hơn. Tấm biển đá chạm trổ phía trước ghi dòng chữ: Tòa nhà C.
Cái tựa gợi liên tưởng phết, Langdon nghĩ.
Nhưng bất chấp cái tên khô khan, Tòa nhà C vẫn lý tưởng xét theo cảm nhận về phong cách kiến trúc của Langdon - ôn hòa và vững chắc. Mặt tiền tòa nhà lát gạch đỏ, hàng chấn song trang trí công phu và bao quanh là các hàng rào chạm khắc đối xứng. Khi hai người di chuyển lên lối đi lát đá tiến đến lối vào, họ đi qua cổng vào là hai cái cột bằng đá cẩm thạch. Ai đó đã dán một mẩu giấy lên một trong hai cột.
ĐÂY LÀ CỘT IONIC
Trò đùa vẽ tường của nhà vật lý học? Langdon trầm ngâm, xem xét cây cột và tự cười thầm. “Tôi nhẹ nhõm khi thấy ngay cả các nhà vật lý tuyệt vời cũng phạm sai lầm.”
Kohler nhìn sang, “Ý ngài là sao?”
“Bất kỳ ai viết mẩu giấy này cũng đều phạm sai lầm. Đây không phải là cột trang trí theo kiểu Ionic. Các cột Ionic thống nhất về chiều rộng. Cái cột này có dạng hình nón. Tức là Doric - kiểu trang trí tương tự của Hy Lạp. Một lỗi chung.”
Kohler không cười. “Người viết mẩu giấy muốn đùa thôi, ngài Langdon. Ionic nghĩa là ion - các hạt chứa điện tích. Hầu hết các vật thể đều chứa chúng.”
Langdon quay lại nhìn cái cột và rên lên.
Anh vẫn cảm thấy mình ngu ngốc khi bước ra từ thang máy, trên tầng thượng của Tòa nhà C. Anh đi theo Kohler xuống một hành lang được trang bị đầy đủ thiết bị cần thiết. Lối trang trí thật tuyệt - đồ gỗ dạng xoắn ốc, cái bình hoa để dưới sàn bằng sứ và chiếc đi văng màu anh đào - kiểu thuộc địa truyền thống của nước Pháp.
“Chúng tôi muốn các nhà khoa học lâu năm của mình thấy thoải mái,” Kohler giải thích.
Rõ rồi, Langdon nghĩ. “Vậy người đàn ông trên tờ fax sống trên này à? Một trong số các nhân viên cấp cao của ngài?”
“Hoàn toàn đúng,” Kohler đáp. “Anh ta đã không gặp tôi sáng nay theo lịch và cũng không trả lời tin nhắn của tôi. Tôi lên đây tìm anh ta, thì thấy anh ta chết trong phòng khách.”
Langdon bỗng cảm thấy lạnh sống lưng khi biết mình sắp thấy một xác chết. Dạ dày anh xưa nay vốn không phải là tốt lắm. Đó là điểm yếu anh khám phá ra hồi còn là sinh viên nghệ thuật, khi giáo viên kể với cả lớp rằng, Leonardo De Vinci trở thành chuyên gia về cơ thể người bằng cách khai quật các tử thi và mổ xẻ hệ cơ của họ.
Kohler đi trước dẫn đường đến đầu kia tiền sảnh. Chỉ có một cánh cửa. “Tầng áp mái, như ngài sẽ nói vậy.” Kohler tuyên bố, gạt nhẹ một giọt mồ hôi trên trán.
Langdon dò xét cánh cửa cô độc bằng gỗ sồi trước mặt. Bảng tên ghi rõ:
LEONARDO VETRA
“Leonardo Vetra,” Kohler nói, “sẽ tròn năm mươi tám tuổi vào tuần tới. Anh ta là một trong các nhà khoa học ưu tú nhất trong thời đại chúng ta. Cái chết của anh ta là tổn thất nặng nề đối với khoa học.”
Trong thoáng chốc, Langdon nghĩ anh nhận thấy xúc cảm trên gương mặt cứng rắn của Kohler. Nhưng nó lập tức biến mất nhanh như khi nó xuất hiện. Kohler thọc tay vào túi, lôi ra một vòng đeo chìa khóa to.
Bất chợt, Langdon có một ý nghĩ lạ lùng. Tòa nhà dường như vắng tanh. “Mọi người đâu hết rồi?” anh hỏi. Sự thiếu vắng các hoạt động là điều anh không ngờ tới, nếu xét đến chuyện họ sắp bước vào một hiện trường án mạng.
“Các cư dân đang ở trong phòng thí nghiệm,” Kohler vừa đáp vừa tìm chìa khóa.
“Ý tôi là cảnh sát cơ,” Langdon nói rõ. “Họ về hết rồi à?”
Kohler dừng tay, chìa khóa đang sắp tra vào ổ khóa. “Cảnh sát sao?”
Đôi mắt Langdon nhìn thẳng vào mắt ông giám đốc. “Cảnh sát. Ngài đã gửi cho tôi tờ fax chụp ảnh vụ án mạng. Ngài chắc phải gọi cảnh sát rồi chứ.”
“Chắc chắn tôi không gọi cho họ.”
“Cái gì?”
Đôi mắt xám của Kohler trở nên sắc lẹm. “Tình thế phức tạp lắm, ngài Langdon.”
Langdon cảm thấy e ngại. “Nhưng... chắc chắn ai đó khác nữa biết chuyện này!”
“Phải. Con gái nuôi của Leonardo. Cô ấy cũng là một nhà vật lý tại CERN này. Cha con cô ấy cùng làm trong một phòng thí nghiệm. Họ là đồng nghiệp. Cô Vetra tuần này đang đi nghiên cứu thực địa. Tôi đã thông báo cho cô ấy về cái chết của cha mình, vào lúc ta nói chuyện thế này, cô ấy đang trên đường về.”
“Nhưng một người đã bị sát...”
“Một cuộc điều tra chính thức sẽ diễn ra,” Kohler nói, giọng kiên quyết. “Tuy nhiên, chắc chắn sẽ cần phải khám xét phòng thí nghiệm của Vetra, một không gian được xem là riêng tư nhất của cha con họ. Thế nên tất cả sẽ phải đợi đến khi cô Vetra về đây. Tôi cảm thấy mình ít nhất phải suy xét chín chắn chuyện này vì cô ấy.”
Kohler xoay chìa khóa.
Khi cánh cửa bật mở, một luồng khí buốt giá tràn vào tiền sảnh, nhằm trúng mặt Langdon. Anh lùi lại trong bối rối. Anh nhìn chằm chằm một thế giới xa lạ qua ngưỡng cửa. Căn hộ trước mặt anh
ngập trong lớp sương mù dày màu trắng. Sương mù cuộn thành những xoáy lốc đầy khói quanh đồ đạc và bao phủ căn phòng trong màn sương đục.
“Cái quái...?” Langdon lắp bắp.
“Hệ thống làm lạnh Freon,” Kohler đáp. “Tôi đã đóng băng căn hộ để bảo quản xác.”
Langdon cài cúc chiếc áo vest cho đỡ lạnh. Mình đang ở xứ Oz, anh nghĩ. Và mình quên xừ đôi giày ma thuật rồi.
Chapter 9
X
ác chết nằm trên sàn trước mặt Langdon thật đáng sợ. Ông Leonardo Vetra quá cố nằm ngửa, bị lột truồng, làn da tím tái. Các xương cổ của ông ta đang thò ra ngoài nơi chúng bị gãy, đầu hoàn toàn bị vặn ngược ra đằng sau. Mặt ông ta đang úp xuống sàn, không nhìn thấy được. Ông ta nằm trên vũng nước tiểu đã đóng băng, lông xung quanh bộ phận sinh dục teo tóp lấm tấm sương giá.
Cố ngăn cơn buồn nôn, Langdon đưa mắt lên khuôn ngực nạn nhân. Cho dù Langdon đã nhìn trừng trừng hình vết thương cân đối này hàng tá lần trên tờ fax, nhưng vết bỏng nhất định còn ghê rợn hơn nhiều khi nhìn tận mắt. Lớp thịt phồng lên, bị nướng chín hiện ra rõ mồn một... cái biểu tượng được tạo hình chuẩn đến từng ly.
Langdon tự hỏi cơn buốt lạnh dọc toàn thân anh giờ đây là do điều hòa hay do sự kinh ngạc đến tột độ của anh trước thứ mà anh đang nhìn trừng trừng.
Tim anh đập thình thịch khi vòng quanh cái xác, đọc ngược từ ngữ này, khẳng định lại chắc chắn về thuật đối xứng. Biểu tượng này thậm chí có vẻ khó hiểu hơn, khi giờ đây anh đang nhìn chằm chằm vào nó.
“Ngài Langdon?”
Langdon không nghe thấy tiếng gọi. Anh đang lạc trong một thế giới khác... thế giới của riêng anh, môi trường sống của riêng anh, một thế giới nơi lịch sử, huyền thoại và thực tế va chạm với nhau, tràn ngập các giác quan của anh. Não bộ anh bắt đầu hoạt động.
“Ngài Langdon?” Đôi mắt Kohler nóng ruột thăm dò.
Langdon không ngước mắt lên. Cả người anh giờ đang căng ra, tập trung hết sức. “Ngài đã biết được bao nhiêu rồi?”
“Chỉ là những gì tôi có thời gian đọc được trên trang web của ngài. Dòng chữ Illuminati có nghĩa là ‘những người được khai sáng’.
Nó là tên một kiểu Hội kín cổ nào đó.”
Langdon gật đầu. “Ngài từng nghe nói đến cái tên này chưa?” “Chưa hề, cho đến khi thấy nó được nung trên ngực Vetra.” “Vậy nên ngài đã tìm kiếm nó?”
“Phải.”
“Hẳn nhiên là từ này cho ra hàng trăm liên kết.”
“Hàng nghìn,” Kohler nói. “Tuy nhiên, trang web của ngài bao gồm những liên kết đến Harvard, Oxford, một nhà xuất bản danh tiếng, cũng như một danh sách các ấn phẩm có liên quan. Là một nhà khoa học, tôi hiểu rằng thông tin cũng có giá trị như nguồn dẫn của nó. Những thông tin của ngài dường như là xác thực.”
Đôi mắt Langdon vẫn chú mục vào xác chết.
Kohler không nói thêm gì nữa. Ông chỉ nhìn chằm chằm, rõ ràng chờ đợi Langdon đưa ra vài manh mối cho khung cảnh trước mặt họ.
Langdon ngước mắt lên, liếc nhìn xung quanh căn hộ đóng băng. “Có lẽ, chúng ta nên thảo luận chuyện này ở một nơi ấm áp hơn?”
“Căn phòng này ổn mà.” Kohler rõ ràng không biết đến cái lạnh. “Chúng ta sẽ nói chuyện ở đây.”
Langdon nhíu mày. Lịch sử Illuminati không phải là một lịch sử đơn giản. Nếu giải thích mọi thứ ở đây, mình sẽ chết cóng mất. Anh lại nhìn chằm chằm dấu sắt nung, một cảm giác kinh sợ mới lại trào lên.
Cho dù các ghi chép về biểu tượng Illuminati đã trở thành huyền thoại trong biểu tượng học hiện đại, nhưng không một giảng viên đại học nào thực sự nhìn thấy nó. Các tài liệu cổ đã mô tả biểu tượng này như một ambigram13- ambi có nghĩa là “cả hai“ - ngụ ý nó có thể đọc được theo hai chiều. Và cho dù các ambigram rất phổ biến trong biểu tượng học - các hình dấu thập ngoặc, âm dương, ngôi sao Do Thái, các hình thập giá đơn giản - ý tưởng rằng một từ ngữ có thể được thiết kế thành một ambigram dường như cực kỳ bất khả thi. Suốt nhiều năm trời, các nhà biểu tượng học hiện đại đã cố gắng luyện vẽ từ “Iluminati“ theo phong cách đối xứng hoàn hảo, nhưng đều thất bại trong đau khổ. Hầu hết các giảng viên đại học giờ đã quyết định sự tồn tại của biểu tượng này chỉ là huyền thoại.
“Vậy Illuminati là những ai?” Kohler gặng hỏi.
Đúng, Langdon nghĩ, thực ra là ai? Anh bắt đầu câu chuyện của mình.
“Kể từ thuở sơ khai,” Langdon giải thích, “đã xuất hiện sự rạn nứt giữa khoa học và tôn giáo. Các nhà khoa học thẳng tính như Corpenic…“
“Đều bị giết,” Kohler xen vào. “Bị giáo hội giết chết vì tội phát biểu những chân lý khoa học. Tôn giáo luôn luôn phản đối khoa học.”
“Đúng. Nhưng vào những năm 1500, một nhóm người tại Rome đã phản đối giáo hội. Vài người trong số những nhân vật được khai sáng nổi tiếng nhất lịch sử ở Ý - các nhà vật lý học, toán học và thiên văn học - bắt đầu bí mật gặp gỡ, nhằm chia sẻ những mối quan tâm của họ về các bài giảng không chính xác của giáo hội. Họ lo sợ rằng sự độc quyền của giáo hội đối với “chân lý“ đe dọa sự khai sáng kiến thức trên toàn thế giới. Họ đã thành lập một nhóm chuyên gia khoa học đầu tiên trên thế giới, tự xưng mình là ‘những người được khai sáng.’ “
“Tức là Illuminati.”
“Phải,” Langdon nói. “Những tư duy hiểu biết nhất của châu Âu... tận hiến sức mình theo đuổi chân lý khoa học.”
Kohler chìm trong im lặng.
“Hẳn nhiên, Hội Illuminati bị Giáo hội Công giáo La Mã truy đuổi tàn bạo. Chỉ nhờ những nguyên tắc cực kỳ bảo mật mà các nhà khoa học này vẫn được an toàn. Trong giới học giả ngầm có lan truyền tin đồn, rằng Hội Illuminati tăng cường kết nạp các giảng viên
đại học trên khắp châu Âu. Các nhà khoa học gặp nhau đều đặn tại Rome, ở một địa điểm cực kỳ tuyệt mật có tên là Giáo hội Khai sáng.”
Kohler húng hắng ho, cựa quậy trên xe lăn.
“Nhiều người trong Hội Illuminati,” Langdon nói tiếp, “đã muốn chống đối sự chuyên chế của giáo hội bằng những hành động bạo lực, nhưng thành viên được tôn kính nhất của họ thuyết phục họ không làm vậy. Ông ta là một người theo chủ nghĩa hòa bình, cũng như là một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất lịch sử.”
Langdon chắc chắn Kohler sẽ nhận ra người này. Ngay cả những ai không phải nhà khoa học cũng quen thuộc với nhà phi hành gia có số phận hẩm hiu này, người từng bị bắt và suýt bị giáo hội hành hình vì tuyên bố rằng Mặt trời, chứ không phải Trái Đất, mới là trung tâm của Thái dương hệ. Cho dù cơ sở cho học thuyết của ông là không thể tranh cãi, nhà thiên văn học này đã bị trừng phạt nghiêm khắc vì ngụ ý rằng Chúa đã đặt nhân loại vào đâu đó, nằm ngoài trung tâm vũ trụ của Người.
“Tên ông ta là Galileo Galilei,” Langdon nói.
Kohler ngước mắt lên. “Galilei ư?”
“Phải. Galileo là một thành viên của Hội Illuminati. Và ông ta cũng là một tín đồ Công giáo mộ đạo. Ông đã cố gắng làm mềm đi quan điểm của giáo hội đối với khoa học, bằng cách tuyên bố rằng khoa học không đánh giá thấp sự tồn tại của Chúa, mà giúp củng cố quan điểm đó. Có lần ông từng viết rằng khi ông nhìn các hành tinh đang xoay qua kính viễn vọng, ông có thể nghe thấy giọng nói của
Chúa trong không gian âm nhạc của các tinh cầu. Ông kiên trì cho rằng khoa học và tôn giáo không phải là kẻ thù, mà là những đồng minh - hai ngôn ngữ khác nhau kể cùng một câu chuyện, về sự đối xứng và cân bằng... thiên đàng và địa ngục, đêm và ngày, nóng và lạnh, Chúa và quỷ Satan. Cả khoa học lẫn tôn giáo đều hoan hỉ với sự đối xứng của Chúa... sự cạnh tranh không ngừng giữa ánh sáng và bóng tối.” Langdon tạm dừng, giậm giậm chân để giữ ấm.
Kohler đơn giản chỉ ngồi trong xe lăn, mắt nhìn trừng trừng.
“Thật không may,” Langdon nói thêm, “sự đoàn kết giữa khoa học và tôn giáo không phải là điều giáo hội muốn.”
“Tất nhiên là không,” Kohler cắt ngang. “Sự thống nhất hẳn sẽ vô hiệu hóa tuyên bố của giáo hội, rằng họ là cửa ngõ duy nhất để loài người hiểu được Chúa. Nên giáo hội cố gắng xem Galileo như một kẻ theo dị giáo, cho rằng ông ta có tội và bắt ông ta phải bị quản thúc tại nhà lâu dài. Tôi hoàn toàn nhận thức được lịch sử khoa học, ngài Langdon. Nhưng tất cả những chuyện này đã qua hàng thế kỷ rồi. Nó thì liên quan gì đến Leonardo Vetra?”
Câu hỏi trị giá triệu đô la. Langdon không lòng vòng nữa. “Vụ bắt giữ Galileo khiến Hội Illuminati bị náo động. Những sai lầm đã xuất hiện và giáo hội đã phát hiện ra danh tính của bốn thành viên, họ liền bị bắt giữ và điều tra. Nhưng bốn nhà khoa học chẳng để lộ điều gì... ngay cả khi bị tra tấn.”
“Tra tấn ư?”
Langdon gật đầu. “Họ bị đóng dấu sắt nung. Ngay trên ngực. Bằng biểu tượng thập giá.”
Kohler trợn tròn mắt, ném cái nhìn khó nhọc sang thi thể của Vetra.
“Sau đó, các nhà khoa học bị sát hại dã man, thi thể của họ bị vứt trên các con phố thành Rome, như lời cảnh báo những người khác đang gia nhập Hội Illuminati. Với việc giáo hội tăng cường vây hãm, các thành viên Illuminati còn lại trốn sang Ý.”
Langdon tạm dừng để vào chủ đề chính. Anh nhìn thẳng vào đôi mắt vô hồn của Kohler. “Hội Illuminati từ đó rút vào hoạt động bí mật chặt chẽ, nơi họ bắt đầu pha trộn với các nhóm di tản khác trốn khỏi các cuộc thanh trừng của Công Giáo - các nhà thần học, nhà giả kim, nhà huyền bí học, những người theo Đạo Hồi và người Do Thái. Trải qua nhiều năm tháng, Hội Illuminati bắt đầu thu nhận các thành viên mới. Một Hội Illuminati mới xuất hiện. Đen tối hơn nhiều. Một Hội Illuminati phản Chúa sâu sắc. Họ ngày càng trở nên lớn mạnh hơn, vận dụng nhiều nghi lễ bí ẩn, cực kỳ bảo mật, thề nguyền rằng ngày nào đó họ sẽ lại trỗi dậy và trút đòn thù lên Công giáo La Mã. Quyền lực của họ mạnh đến mức giáo hội cho rằng họ là một lực lượng phản Chúa nguy hiểm nhất Trái Đất. Vatican đã tố cáo Hội kín này là Shaitan.”
“Shaitan?”
“Một từ của Hồi giáo. Mang nghĩa là ‘kẻ địch’... kẻ địch của Chúa. Giáo hội đã chọn một từ của Hồi Giáo để đặt tên cho tổ chức này, vì đó là thứ ngôn ngữ bị họ xem là dơ bẩn.” Langdon ngần ngừ. “Shaitan là cội rễ của một từ tiếng Anh phái sinh... Satan.”
Một nét khó chịu thoáng qua trên mặt Kohler.
Giọng Langdon trở nên lo âu. “Ngài Kohler. Tôi không biết cái dấu hiệu đó làm thế nào xuất hiện trên ngực người này... hay tại sao... nhưng ngài đang nhìn vào một biểu tượng thất truyền đã lâu, của một hội kín xấu xa hùng mạnh nhất và cổ xưa nhất thế giới.”
Chapter 10
C
on hẻm hẹp và hoang vắng. Tên sát thủ lúc này rảo bước thật nhanh, đôi mắt đen của gã đong đầy nỗi mong chờ. Khi tới gần điểm đến, những lời nói lúc chia tay của Janus vang vọng trong đầu gã. Giai đoạn hai sẽ sớm bắt đầu. Đi nghỉ đi.
Tên sát thủ cười khẩy. Gã đã thức trắng đêm, nhưng giấc ngủ là điều cuối cùng trong tâm trí gã. Ngủ chỉ dành cho những kẻ yếu đuối. Gã là một chiến binh giống như tổ tiên gã trước kia, đồng bào của gã không bao giờ ngủ khi trận chiến bắt đầu. Trận chiến chắc chắn đã bắt đầu, gã là người có vinh dự giết chết kẻ đầu tiên. Giờ đây gã có hai giờ đồng hồ để ăn mừng vinh quang của mình, trước khi quay lại làm việc.
Ngủ hả? Có nhiều cách thư giãn tốt hơn nhiều...
Ham muốn khoái lạc là một thứ tổ tiên gã truyền cho gã. Cha ông gã đã đắm chìm vào chất gây nghiện hashish, nhưng gã ưa thích một kiểu phần thưởng khác. Gã lấy làm tự mãn về cơ thể mình - một cỗ máy giết người vạm vỡ, cường tráng, bất chấp di sản của tổ tiên, gã không hề muốn làm nhiễm độc cơ thể bằng chất gây nghiện. Gã hình thành một thói nghiện khác bổ béo hơn thuốc phiện... một phần thưởng lành mạnh khiến gã thỏa mãn hơn nhiều.
Cảm thấy sự nôn nóng quen thuộc đang dâng lên trong người, tên sát thủ rảo chân nhanh hơn xuống con hẻm. Gã bước đến một cánh cửa được ngụy trang và bấm chuông. Một khe hở trên cánh
cửa bật ra, hai con mắt nâu mềm mại dò xét gã như đánh giá. Rồi cánh cửa bật mở.
“Mời vào,” người phụ nữ ăn mặc hấp dẫn nói. Bà ta đẩy gã vào trong một phòng khách được bài trí hoàn hảo, nhưng đèn đóm thì mờ ảo. Mùi xạ hương và nước hoa đắt tiền lấp đầy không gian. “Bất cứ lúc nào cậu sẵn sàng.” Mụ trao cho gã một cuốn album ảnh. “Cứ gọi tôi khi đã chọn xong nhé.” Rồi bà ta biến mất.
Tên sát thủ mỉm cười.
Khi ngồi xuống đi văng bằng vải nhung lông, đặt cuốn album ảnh trên lòng, gã cảm thấy cơn thèm khát nhục dục sôi trào. Cho dù đồng bào của gã không kỷ niệm lễ Giáng sinh, gã vẫn hình dung cảm giác của gã chắc giống một đứa trẻ Công giáo, đang ngồi trước một chồng quà tặng Giáng sinh, sắp sửa khám phá điều kỳ diệu ẩn chứa bên trong. Gã mở cuốn album và xem các tấm ảnh. Mảnh đời của những lạc thú tình dục đang nhìn lại gã chằm chằm.
Marisa. Một nữ thần người Ý. Bốc lửa. Một Sophia Loren thời trẻ.
Sachiko. Một kỹ nữ Nhật Bản. Mềm mại. Kỹ năng khỏi chê.
Kanara. Một bức tượng đồng đen choáng váng. Khỏe mạnh. Vẻ đẹp ngoại lai.
Gã xem hết cuốn album hai lần rồi đưa ra lựa chọn. Gã nhấn một nút trên bàn bên cạnh gã. Một phút sau, người đàn bà đã đón hắn lại bước vào. Gã đưa cho bà ta xem tấm ảnh gã chọn, bà ta mỉm cười. “Đi theo tôi.”
Sau khi thanh toán xong xuôi, bà ta gọi một cuộc điện thoại. Vài phút sau, bà ta đưa gã lên một cầu thang bằng đá cẩm thạch uốn khúc, dẫn vào một tiền sảnh xa hoa. “Cánh cửa vàng phía cuối dãy,” bà ta nói. “Cậu thật khéo chọn quá.”
Hẳn thế rồi, gã nghĩ. Mình là chuyên gia cơ mà.
Tên sát thủ bước nhẹ qua tiền sảnh, như một con báo đang sắp thưởng thức một bữa ăn nó để dành đã lâu. Khi đến trước ngưỡng cửa, gã tự cười với chính mình. Nó đã mở hé... chào đón gã bước vào. Gã đưa tay đẩy, cánh cửa mở rộng không một tiếng động.
Khi trông thấy món hàng mình lựa chọn, gã biết mình đã chọn đúng. Cô ả được chuẩn bị đúng hệt như gã yêu cầu... khỏa thân, nằm ngửa, hai tay bị cột vào thành giường bằng những sợi dây nhung dày.
Gã đi ngang phòng, đặt một ngón tay lên làn da bụng trắng ngà của cô ả. Đêm qua, mình đã giết người, gã nghĩ. Nàng là phần thưởng của ta.
Chapter 11
“S
atan ư?” Kohler lau miệng, cảm thấy khó chịu. “Đây là biểu tượng của một hội kín theo Satan à?”
Langdon rảo bước quanh căn phòng giá buốt để giữ ấm. “Hội Illuminati là hội kín theo Satan. Nhưng không phải theo nghĩa hiện đại bây giờ.”
Anh nhanh chóng giải thích hầu hết mọi người đều hình dung các hội kín theo Satan như những hội tà ác tôn thờ quỷ ra sao, tuy nhiên theo lịch sử, những kẻ theo Satan đều là những người có giáo dục, họ đứng lên chống lại giáo hội. Họ được gọi với cái tên Shaitan. Những lời đồn thổi về các buổi yểm bùa hiến tế súc vật, các nghi lễ với ngôi sao năm cánh đều chỉ là dối trá, do giáo hội cố tình lan truyền như một chiến dịch bôi nhọ chống lại các kẻ thù của họ. Qua thời gian, những kẻ thù của giáo hội, mong muốn cạnh tranh với Hội Illuminati đã bắt đầu tin vào những lời dối trá và hành động theo các nghi lễ này. Vì thế, những kẻ theo Satan thời hiện đại ra đời.
Kohler nhát gừng ngắt lời. “Tất cả đều là lịch sử xa xưa rồi. Tôi muốn biết làm sao cái biểu tượng này tới được đây.”
Langdon hít một hơi sâu. “Bản thân biểu tượng này do một nghệ sĩ nặc danh của Hội Illuminati ở thế kỷ XVI sáng tạo ra, như một sự tôn vinh tình yêu của Galileo đối với thuật đối xứng - một dạng logo thiêng liêng của Hội Illuminati. Hội đã giữ bí mật thiết kế này, họ
được cho là chỉ hé lộ biểu tượng này khi họ tích đủ sức mạnh để trỗi dậy và hoàn thành mục tiêu cuối cùng của mình.”
Kohler hoang mang. “Vậy thì biểu tượng này nghĩa là Hội Illuminati đang trỗi dậy à?”
Langdon nhíu mày. “Điều này là không thể. Có một Chapter về lịch sử Hội Illuminati mà tôi còn chưa giải thích.”
Giọng Kohler trở nên căng thẳng. “Khai sáng cho tôi đi.”
Langdon xoa hai bàn tay vào nhau, trong đầu anh đang lọc ra hàng trăm tài liệu anh đã đọc hoặc viết về Hội Illuminati. “Hội Illuminati là những kẻ sống sót,” anh giải thích. “Khi họ trốn thoát khỏi thành Rome, họ đã đi khắp châu Âu tìm kiếm một nơi an toàn để tái hợp. Và họ gia nhập vào một hội kín khác... một Hội kín của những nghệ nhân chế tác đá người Bavaria giàu có, được gọi bằng cái tên Hội Tam Điểm.”
Kohler chấn động. “Hội Tam Điểm?”
Langdon gật đầu, không ngạc nhiên chút nào khi Kohler từng nghe về nhóm này. Hội Tam Điểm gần đây có trên năm triệu thành viên ở khắp thế giới, phân nửa trong số này đang cư trú tại Mỹ và hơn một triệu thành viên đang ở châu Âu.
“Chắc chắn Hội Tam Điểm không theo Satan,” Kohler tuyên bố, giọng có vẻ hoài nghi bất ngờ.
“Chắc chắn là không. Hội Tam Điểm là nạn nhân bởi sự nhân từ của chính mình. Sau khi cưu mang các nhà khoa học đào tẩu trong những năm 1700, Hội Tam Điểm không hay biết họ đã trở thành tiền
tuyến cho Hội Illuminati. Chúng lớn mạnh ngay trong hàng ngũ của họ, dần dần tiếm quyền của họ tại các chi nhánh. Chúng lặng lẽ tái lập hội khoa học của mình sâu trong hàng ngũ của Hội Tam Điểm - một dạng hội kín trong hội kín. Sau đó, Hội Illuminati sử dụng liên kết các chi nhánh Tam Điểm toàn cầu, nhằm lan rộng tầm ảnh hưởng của mình.”
Langdon hít một hơi trước khi tiếp tục. “Hủy hoại Cơ Đốc giáo là cam kết trọng tâm của Hội Illuminati. Hội này khăng khăng cho rằng giáo điều mê tín mà giáo hội tuyên truyền là kẻ thù lớn nhất của nhân loại. Chúng e sợ rằng nếu tôn giáo tiếp tục quảng bá thứ truyền thuyết tôn giáo này như sự thật tuyệt đối thì tiến bộ khoa học sẽ không có cơ phát triển, nhân loại sẽ phải chịu số phận bất hạnh, trước một tương lai tăm tối với những cuộc thánh chiến vô nghĩa.”
“Cũng nhiều như chúng ta thấy ngày nay.”
Langdon nhíu mày. Kohler đã đúng. Các cuộc thánh chiến vẫn đang diễn ra rầm rộ. Thượng Đế của tao tốt hơn Thượng Đế của mày. Dường như luôn luôn có mối liên quan chặt chẽ giữa các tín đồ chân chính và số lượng xác chết cao như núi.
“Nói tiếp đi,” Kohler giục.
Langdon tập trung các ý nghĩ rồi tiếp tục. “Hội Illuminati ngày càng lớn mạnh hơn ở châu Âu và có tầm nhìn sang nước Mỹ, một chính phủ mà phần nhiều trong số lãnh đạo là thành viên Hội Tam Điểm - George Washington, Ben Franklin - nói thật, Chúa khiếp sợ những người không nhận thức được việc Iluminati khống chế Hội Tam Điểm. Hội này lợi dụng sự thâm nhập tiến hành giúp đỡ thành lập các ngân hàng, trường đại học và ngành công nghiệp tài trợ cho
mục tiêu cơ bản của chúng.” Langdon ngừng lại. “Sáng tạo một mô hình thế giới thống nhất - một kiểu Trật Tự Thế Giới Mới vĩnh hằng.”
Kohler ngồi bất động.
“Một Trật Tự Thế Giới Mới,” Langdon lặp lại, “được dựa trên sự khai sáng khoa học. Chúng gọi nó là Học thuyết Lucifer. Giáo hội cho rằng Lucifer là một sự ám chỉ đến ác quỷ, nhưng hội khăng khăng cho rằng phải hiểu Lucifer theo nghĩa đen trong tiếng La tinh - Người mang Ánh sáng đến. Hoặc là Người Khai Sáng.”
Kohler thở dài, giọng ông bất thần trở nên nghiêm trang. “Ngài Langdon, mời ngồi xuống.”
Langdon ngập ngừng ngồi xuống một cái ghế đầy sương giá.
Kohler đẩy chiếc xe lăn đến gần hơn. “Tôi không chắc mình hiểu mọi thứ ngài vừa kể với tôi, nhưng tôi hiểu một điều. Leonardo Vetra là một trong những tài sản vĩ đại nhất của CERN. Anh ta cũng là một người bạn. Tôi cần ngài giúp tôi tìm ra Hội Illuminati.”
Langdon không biết trả lời ra sao. “Tìm ra Hội Illuminati?”
Ông ta đang đùa à? “Thưa ngài, tôi e rằng điều đó cực kỳ bất khả thi.”
Lông mày Kohler nhăn lại. “Ý ngài là sao? Ngài sẽ không...”
“Ngài Kohler,” Langdon vươn người về phía ông ta, không chắc làm ông ta hiểu được điều anh sắp nói. “Tôi còn chưa kể xong câu chuyện của mình. Bất chấp vẻ bề ngoài, có khả năng cực kỳ thấp là dấu sắt nung này do Hội Illuminati đưa vào đây. Chẳng có bằng
chứng nào về sự tồn tại của chúng hơn nửa thế kỷ nay và hầu hết các học giả đều đồng ý rằng Hội Illuminati đã tan rã nhiều năm rồi.”
Những lời này phá tan sự im lặng. Kohler nhìn trừng trừng qua làn sương mù, với vẻ mặt như lạc đâu đó giữa trạng thái sững sờ và giận dữ. “Thế quái nào ngài lại bảo nhóm này đã tuyệt chủng, khi mà tên của chúng được nung đỏ trên cơ thể người này!”
Langdon cũng đang tự hỏi mình câu đó suốt cả sáng nay. Vẻ ngoài đối xứng của ký hiệu Illuminati thật đáng kinh ngạc. Các nhà biểu tượng học trên toàn thế giới sẽ phải chấn động. Tuy nhiên, những am hiểu của Langdon mách bảo anh rằng việc tái xuất dấu sắt nung này tuyệt đối chẳng liên quan gì đến Hội Illuminati.
“Các biểu tượng,” Langdon nói, “không hề khẳng định sự hiện diện của những người đầu tiên sáng tạo ra chúng.”
“Điều đó nghĩa là sao?”
“Nghĩa là khi các triết lý có tổ chức như Hội Illuminati chấm dứt tồn tại, các biểu tượng của chúng vẫn... được bao nhiêu nhóm khác áp dụng. Đó gọi là chuyển giao. Điều này rất phổ biến trong biểu tượng học. Phát xít sử dụng dấu thập ngoặc của đạo Hindu, bên Cơ Đốc giáo sử dụng dấu thánh giá từ người Hy Lạp, và...”
“Sáng hôm nay,” Kohler thách thức, “khi tôi gõ từ “Illuminati“ vào máy tính, nó hiện ra hàng nghìn liên kết hiện có. Rõ ràng, có rất nhiều người nghĩ rằng nhóm này vẫn còn hoạt động.”
“Bọn cổ vũ thuyết âm mưu thôi,” Langdon đáp. Anh đã từng luôn phải bực mình trước tình trạng các thuyết âm mưu được lưu hành vô tội vạ trong nền văn hóa đại chúng hiện đại. Truyền thông thèm
khát những tin tức nóng hổi mang tính khải huyền, và tự tuyên bố rằng “các chuyên gia về nghi lễ tôn giáo“ vẫn đang kiếm chác từ trò đùa thiên niên kỷ, với những câu chuyện bịa đặt rằng Hội Illuminati vẫn sống khỏe và đang lên kế hoạch cho Trật Tự Thế Giới Mới. Gần đây tờ New York Times có liệt kê tên tuổi vô số người nổi tiếng có dính líu kỳ lạ đến Hội Tam Điểm - như Sir Arthur Conan Doyle, Công tước xứ Kent, Peter Sellers, Irving Berlin, Hoàng tử Philip, Louis Armstrong cũng như một nhóm người nổi tiếng được biết tới như các nhà tư bản công nghiệp hiện đại và các ông trùm ngân hàng danh tiếng lẫy lừng.
Kohler giận dữ chỉ tay vào thi thể Vetra. “Cứ xem bằng chứng này, tôi dám nói rằng có lẽ bọn ủng hộ thuyết âm mưu đã đúng.”
“Tôi hiểu trông nó như thế nào,” Langdon nói, bằng giọng thân thiện hết sức có thể. “Tuy nhiên, một lời giải thích hợp lý hơn đó là, vài tổ chức khác đã nắm quyền kiểm soát biểu tượng của Illuminati và vẫn đang sử dụng nó cho những mục đích riêng.”
“Những mục đích gì? Vụ án mạng này chứng minh điều gì?”
Câu hỏi hay, Langdon nghĩ. Anh cũng đang gặp vấn đề khi hình dung một nơi mà bất kỳ ai cũng có thể sử dụng biểu tượng Illuminati sau 400 năm. “Tất cả những gì tôi có thể nói với ngài, đó là ngay cả nếu Hội Illuminati đến giờ này vẫn còn hoạt động, mà tôi tự tin rằng điều đó là không đúng, thì chúng sẽ không bao giờ để bị dính líu đến cái chết của Leonardo Vetra.”
“Không ư?”
“Không. Có lẽ người ta tin rằng Hội Illuminati có thể tấn công Cơ Đốc giáo, nhưng chúng che giấu quyền lực của mình thông qua các phương tiện chính trị và tài chính, chứ không phải thông qua các hành động khủng bố. Hơn nữa, Hội Illuminati có quy tắc đạo đức nghiêm ngặt liên quan đến việc chúng nhìn nhận ai là kẻ thù. Những con người của khoa học là đối tượng chúng xem trọng nhất. Không bao giờ chúng lại đi sát hại một nhà khoa học như Leonardo Vetra.”
Đôi mắt Kohler lạnh như băng. “Có thể tôi quên chưa nói Leonardo Vetra không chỉ là một nhà khoa học bình thường.”
Langdon sốt ruột thở hắt ra. “Ngài Kohler, tôi chắc chắn Leonardo Vetra là người tuyệt vời về nhiều mặt, nhưng thực tế thì...”
Không một lời cảnh báo, Kohler xoay chiếc xe lăn tăng tốc phóng ra khỏi phòng khách, bỏ lại một làn sương mù cuộn xoáy khi ông biến mất dưới tiền sảnh.
Lạy Chúa tôi, Langdon rên lên. Anh đi theo. Kohler đang đợi anh trong một góc phòng nhỏ phía cuối tiền sảnh.
“Đây là phòng làm việc của Leonardo,” Kohler nói, chỉ tay về phía cánh cửa trượt. “Có lẽ khi xem nó, ngài sẽ hiểu mọi chuyện khác đi.” Với một tiếng lẩm bẩm vụng về, Kohler kéo tay, cánh cửa bật mở.
Langdon nhòm vào trong phòng làm việc, ngay lập tức anh dựng hết tóc gáy. Lạy Chúa lòng thành, anh tự nhủ.
Chapter 12
T
ại một đất nước khác, một bảo vệ trẻ kiên nhẫn ngồi trước một dãy các màn hình video đắt tiền. Anh ta quan sát các hình ảnh hiện lên trước mặt - được truyền trực tiếp từ hàng trăm máy quay không dây theo dõi khu phức hợp rộng lớn. Các hình ảnh trôi qua thành một chuỗi dường như vô tận.
Một tiền sảnh trang trí lộng lẫy.
Một văn phòng riêng.
Một khu nhà bếp quy mô công nghiệp.
Khi các hình ảnh lướt qua, tay bảo vệ cố gắng không gà gật. Anh ta đang sắp hết ca làm việc, nhưng vẫn cần phải hết sức cẩn trọng. Với anh ta được làm việc là một vinh hạnh. Ngày nào đó, anh ta sẽ được tưởng thưởng xứng đáng.
Khi đang chìm trong suy nghĩ, một hình ảnh trước mặt anh ta phát tín hiệu báo động. Bất chợt, bằng một phản xạ khiến chính bản thân mình cũng ngạc nhiên, bàn tay anh ta tự vươn ra bấm một nút trên bảng điều khiển. Hình ảnh trước mặt dừng lại.
Các dây thần kinh căng lên, anh ta rướn người về phía trước màn hình xem cho kỹ hơn. Con số trên màn hình cho biết hình ảnh được truyền tới từ chiếc máy quay số 86 - chiếc máy quay được cho là đang nhìn xuống một tiền sảnh.
Nhưng hình ảnh trước mặt anh ta chắc chắn không phải là tiền sảnh.
Chapter 13
L
angdon bối rối nhìn trừng trừng phòng làm việc trước mặt. “Đây là nơi nào?” Bất chấp bầu không khí ấm áp đón chào phả lên mặt, anh run cầm cập bước qua cánh cửa.
Kohler chẳng nói gì, chỉ đi theo Langdon vào trong.
Langdon quét mắt khắp phòng, nhưng vẫn không hiểu. Căn phòng là sự phối trộn các món đồ tạo tác lạ lùng nhất anh từng thấy. Trên bức tường phía xa, món đồ trang trí chiếm diện tích nhất là một cây thập giá bằng gỗ khổng lồ, mà Langdon cho rằng có xuất xứ từ Tây Ban Nha thế kỷ XIV. Phía trên cây thập giá, rủ xuống từ trần nhà, là một mô hình các hành tinh quay quanh quỹ đạo di động bằng kim loại. Bên trái là một bức tranh cổ vẽ Đức mẹ đồng trinh Maria, bên cạnh là một bảng tuần hoàn các nguyên tố dát mỏng. Trên bức tường bên, hai chiếc thập giá bằng đồng nằm hai bên một tấm áp phích hình Albert Einstein, với câu trích dẫn bất hủ của ông: CHÚA KHÔNG CHƠI TRÒ MAY RỦI VỚI THẾ GIỚI NÀY.
Langdon bước vào phòng, nhìn quanh trong ngạc nhiên. Một cuốn Kinh Thánh bìa da nằm trên bàn làm việc của Vetra cạnh một mô hình nguyên tử bằng nhựa của Bohr và một bản sao tượng Moses của Michelangelo thu nhỏ giống y như thật.
Đúng là phong phú, Langdon nghĩ. Hơi ấm khiến anh cảm thấy tốt hơn, nhưng điều gì đó ở hình thức trang trí khiến người anh lạnh toát. Anh cảm tưởng như mình đang chứng kiến cuộc đụng độ của
hai vị thần triết học... một bầu không khí đáng lo ngại giữa hai lực lượng đối lập. Anh nhìn lướt qua các tựa sách trên giá sách.
Hạt của Chúa
Đạo của Vật lý Học
Chúa: Bằng Chứng về Chúa
Một trong các miếng chặn sách có khắc một câu nói:
KHOA HỌC THỰC SỰ KHÁM PHÁ RA CHÚA TRỜI ĐANG ĐỨNG CHỜ SAU TỪNG CÁNH CỬA
GIÁO HOÀNG PIUS XII
“Leonardo là một linh mục Cơ Đốc giáo,” Kohler nói.
Langdon quay lại. “Một linh mục? Tôi tưởng ngài nói ông ta là nhà vật lý học.”
“Anh ta là cả hai. Những con người vừa của khoa học, vừa của tôn giáo không phải hiếm trong lịch sử. Leonardo là một trong số họ. Anh ta xem vật lý học như “quy luật tự nhiên của Chúa“, cho rằng có thể nhìn thấy bút tích của Chúa trong trật tự tự nhiên khắp quanh ta. Thông qua khoa học, anh ta hy vọng chứng minh được sự tồn tại của Chúa cho công chúng đang hoài nghi. Anh ta tự coi bản thân như một nhà vật lý lý thuyết.”
Nhà vật lý lý thuyết ư? Langdon nghĩ, nghe có vẻ không mâu thuẫn cho lắm.
“Lĩnh vực vật lý hạt riêng biệt,” Kohler nói, “sau này đã có những khám phá gây sốc - những khám phá có dính đến tôn giáo. Leonardo chịu trách nhiệm về nhiều khám phá trong số đó.”
Langdon vừa dò xét ông giám đốc của CERN vừa cố gắng xử lý những thứ kỳ dị xung quanh. “Tôn giáo và vật lý học ư?” Langdon đã dành cả sự nghiệp nghiên cứu lịch sử tôn giáo và nếu có một chủ đề diễn đi diễn lại, thì đó là khoa học và tôn giáo như nước với lửa, kể từ thuở xa xưa... họ đã là những kẻ thù không đội trời chung... không thể quên được.
“Vetra là người tiên phong trong lĩnh vực vật lý hạt riêng biệt,” Kohler nói. “Anh ta đang bắt đầu xóa tan khoảng cách giữa tôn giáo và khoa học... chứng tỏ rằng hai bên bổ sung cho nhau theo những cách bất ngờ nhất. Anh ta đặt tên cho lĩnh vực này là Vật lý Mới.” Kohler rút ra một cuốn sách từ trên giá trao cho Langdon.
Langdon xem bìa cuốn sách. Thượng Đế. Những Điều Kỳ Diệu và Vật Lý Mới - của Leonardo Vetra.
“Lĩnh vực này chả lớn lao gì,” Kohler nói, “nhưng nó đang mang lại những câu trả lời mới mẻ cho một số câu hỏi cũ - những câu hỏi về nguồn gốc vũ trụ và những sức mạnh ràng buộc tất cả chúng ta. Leonardo tin nghiên cứu của mình có tiềm năng đưa hàng triệu con người đến một cuộc sống linh thiêng hơn. Năm ngoái, anh ta đã kiên quyết chứng minh sự tồn tại của một lực năng lượng gắn kết tất cả chúng ta. Anh ta thực sự chứng minh được rằng tất cả chúng ta đều có liên kết về vật lý... rằng các phân tử trong cơ thể ngài đan kết với các phân tử trong cơ thể tôi... rằng có một lực đơn lẻ đang đi chuyển trong tất cả chúng ta.”
Langdon cảm thấy lạc lõng. Và sức mạnh của Chúa sẽ đoàn kết chúng ta. “Ông Vetra đã thực sự tìm ra cách chứng minh các hạt có liên kết với nhau?”
“Bằng chứng thuyết phục. Một bài viết đăng trên tờ Scientific American mới đây đã ca ngợi Vật lý Mới như một con đường chắc chắn hơn đến với Chúa, hơn cả chính tôn giáo.”
Lời nhận xét thật ấn tượng. Langdon bất thần thấy mình nghĩ đến Hội Illuminati phản tôn giáo. Một cách miễn cưỡng, anh ép mình tin vào điều không thể trong một lúc. Nếu Hội Illuminati thực sự vẫn còn hoạt động, chúng liệu có giết chết Leonardo nhằm ngăn chặn ông ta mang thông điệp tôn giáo của mình đến với công chúng? Langdon xua đi ý nghĩ này. Ngớ ngẩn! Hội Illuminati là lịch sử xa xưa rồi! Tất cả các học giả đều biết thế!
“Vetra có rất nhiều kẻ thù trong thế giới khoa học,” Kohler nói tiếp. “Nhiều nhà khoa học thuần túy khinh bỉ anh ta. Ngay cả tại CERN này. Họ cảm thấy việc sử dụng vật lý phân tích ủng hộ các nguyên tắc tôn giáo là sự phản bội khoa học.”
“Nhưng ngày nay có nhà khoa học nào ủng hộ giáo hội đâu?”
Kohler lẩm bẩm trong ghê tởm. “Tại sao chúng tôi phải làm thế? Giáo hội có thể không thiêu sống các nhà khoa học trên giàn thiêu nữa, nhưng nếu ngài nghĩ họ không còn khống chế khoa học nữa, ngài hãy tự hỏi mình xem tại sao phân nửa trường học tại đất nước của ngài không cho phép giảng dạy về tiến hóa. Hãy hỏi bản thân ngài xem, tại sao Liên Minh Công giáo của Mỹ là tổ chức vận động có ảnh hưởng nhất phản đối bước tiến khoa học trên thế giới. Cuộc chiến giữa khoa học và tôn giáo vẫn đang diễn ra, ngài Langdon ạ. Nó đã chuyển từ các chiến trường sang các phòng họp, nhưng nó vẫn đang diễn ra.”
Langdon nhận ra Kohler nói đúng. Mới tuần trước, khoa Thần học của trường Đại học Harvard đã diễu hành qua Khoa Sinh học, phản đối kỹ thuật di truyền được đưa vào trong Chapter trình tốt nghiệp. Chủ tịch Khoa Sinh học, nhà điểu cầm học14 danh tiếng Richard Aaronian đã bảo vệ Chapter trình giảng dạy của mình bằng cách treo một tấm băng rôn lớn từ cửa sổ văn phòng của ông. Tấm băng rôn minh họa “con cá“ Cơ Đốc giáo được biến đổi với bốn chân nhỏ - mà theo lời Aaronian, việc này nhằm tôn vinh sự tiến hóa của cá thở bằng phổi để sống được trên đất liền. Phía dưới con cá thay thế cho từ “Jesus“ là cụm từ “DARWIN.”
Một tiếng bíp lạnh lùng xé toạc bầu không khí, Langdon ngước mắt lên. Kohler cúi người xuống một dãy các thiết bị điện tử trên xe lăn. Ông rút một máy nhắn tin ra khỏi hộc và đọc tin nhắn gửi đến.
“Tốt rồi. Tin nhắn của con gái Leonardo. Cô Vetra sẽ tới chỗ sân bay trực thăng ngay bây giờ. Chúng ta sẽ gặp cô ấy tại đó. Tôi nghĩ tốt nhất cô ấy không nên tới đây và chứng kiến cha mình như thế này.”
Langdon đồng ý. Sẽ là một cú sốc không người con nào muốn trải qua.
“Tôi sẽ đề nghị cô Vetra giải thích dự án cha con cô ấy đang thực hiện... có lẽ sẽ có thêm manh mối tại sao anh ta bị giết.”
“Ngài nghĩ công trình của Vetra là lý do ông ta bị giết?”
“Hoàn toàn có khả năng. Leonardo bảo tôi rằng mình đang tạo ra thứ gì đó mang tính đột phá. Đó là tất cả những gì anh ta nói. Về dự án này, anh ta giữ bí mật rất kỹ. Anh ta có một phòng thí nghiệm
riêng và đòi được xây biệt lập, tôi vui vẻ đáp ứng yêu cầu vì anh ta quá xuất sắc. Công trình của anh ta sau này tiêu tốn kha khá năng lượng điện nhưng tôi kiềm chế mình không hỏi anh ta.” Kohler quay về phía cửa phòng làm việc. “Tuy nhiên, còn một chuyện nữa ngài cần biết, trước khi chúng ta rời khỏi căn hộ này.”
Langdon không chắc anh có muốn nghe hay không.
“Một thứ của Vetra đã bị kẻ sát nhân đánh cắp.”
“Một thứ?”
“Đi theo tôi.”
Ông giám đốc tăng tốc xe lăn quay lại căn phòng khách đầy sương mù. Langdon đi theo, không biết mình đang chờ đợi cái gì. Kohler điều khiển xe dừng lại cách thi thể Vetra vài phân. Ông ra dấu bảo Langdon đến chỗ mình. Langdon miễn cưỡng đến gần, mùi nước tiểu đóng băng của nạn nhân khiến anh suýt nôn ọe.
“Nhìn mặt cậu ta đi,” Kohler nói.
Nhìn mặt ông ta? Langdon nhíu mày. Tôi tưởng ngài nói có thứ bị đánh cắp mà.
Langdon ngập ngừng quỳ xuống. Anh cố gắng nhìn mặt Vetra, nhưng cái đầu bị vặn xoắn 180° ra đằng sau, gương mặt ông ta bị ép xuống thảm.
Bất chấp khó khăn, Kohler cố gắng cúi người xuống, thận trọng vặn cái đầu đóng băng của Vetra lại. Tiếng rắc vang lên chói tai, gương mặt xác chết được xoay lại hướng lên trên, biến dạng trong đau đớn. Kohler duy trì tư thế này một lúc.
“Lạy Chúa tôi!” Langdon thốt lên, loạng choạng lùi lại trong kinh hãi. Gương mặt Vetra đầm đìa máu. Một con mắt màu nâu vàng nhạt vô hồn nhìn lại anh trừng trừng. Hốc mắt bên kia rách nát tơi tả và trống hoác. “Chúng đã khoét mắt ông ấy?”