🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thế giới trong bạn - J.Krishnamurti Ebooks Nhóm Zalo J. KRISHNAMURTI THẾ GIỚI TRONG BẠN FIRST NEWS NHÀ XUẤT BẢN DÂN TRÍ Số 9 - Ngõ 26 - Phố Hoàng Cầu - Q. Đống Đa - TP. Hà Nội VPGD: Số 347 Đội Cấn - Quận Ba Đình - TP. Hà Nội ĐT: (024). 66860751 - (024). 66860752 Email: [email protected] Website: nxbdantri.com.vn Chịu trách nhiệm xuất bản: BÙI THỊ HƯƠNG Chịu trách nhiệm nội dung: LÊ QUANG KHÔI Biên tập : Vũ Thị Thu Ngân Bìa & Trình bày : Bích Trâm Thực hiện liên kết: CÔNG TY TNHH VĂN HÓA SÁNG TẠO TRÍ VIỆT (First News) Địa chỉ: 11H Nguyễn Thị Minh Khai, Q. 1, TP. HCM In 3.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5 cm tại Công ty TNHH MTV In Báo Nhân Dân TP.HCM, (D20/532P, Ấp 4, Xã Phong Phú, Huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh). Xác nhận đăng ký xuất bản số 4469-2021/CXBIPH/11-128/DT - QĐXB số 2438/QĐXB/NXBDT cấp ngày 31/12/2021. In xong và nộp lưu chiểu quý I/2022. ISBN: 978-604-344-615-9. LỜI TỰA Sự thật không phải là điều gì huyền bí; sự thật ở ngay nơi bạn. Từ sự thật, bạn có thể bắt đầu. Sự thật là tôi sân hận, tôi ganh tỵ, tôi hung hãn, tôi tranh cãi. Đó là một thực tế. Vì vậy, người ta phải bắt đầu từ chính mình. Đó là lý do tại sao việc hiểu chính bạn, có được hiểu biết trọn vẹn về chính bạn là cực kỳ quan trọng – không phải qua người khác, không phải qua các nhà tâm lý học, chuyên gia về não bộ,... mà là biết bạn là gì. Bởi vì, bạn là câu chuyện của nhân loại. Nếu bạn biết cách đọc cuốn sách chính mình, thì bạn sẽ biết tất cả những hoạt động, những hung bạo, những ngu muội của nhân loại, vì bạn là phần còn lại của thế giới. – J. Krishnamurti, buổi vấn đáp đầu tiên tại trường Brockwood Park, Anh, 1983 K hi đọc những lời giáo huấn của J. Krishnamurti, người ta lập tức bị ấn tượng bởi những lời nói này liên hệ cá nhân như thế nào với suy nghĩ của chính họ và họ là một tấm gương phản chiếu chính xác hoạt động tâm lý của nhân loại ra sao. Ngôn từ của ông không bị ràng buộc bởi thời gian, địa điểm, hay hoàn cảnh, nên độc giả ở bất cứ thời đại hay bất cứ lục địa nào cũng có thể nhìn thấy chính họ được bộc lộ một cách rõ ràng và đầy cảm thông. Phương pháp khám phá của Krishnamurti không chỉ tiêu biểu cho những cuộc đối thoại hoặc phỏng vấn của ông, mà còn cho các dịp ông nói chuyện trước công chúng, mà mỗi người trong số hàng ngàn người tham dự đều cảm thấy họ có mối liên hệ trực tiếp với vị diễn giả này. Cách trình bày của ông đơn giản, không dùng biệt ngữ hay bất kỳ giả định nào về khán thính giả. Krishnamurti đã giúp những người được phỏng vấn (mà không có dự định trước) tự nhìn thấy những rắc rối trong tư duy và vấn đề của họ. Trong suốt cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai (1939-1945), Krishnamurti không thực hiện buổi nói chuyện công khai nào ở Hoa Kỳ, mà ông sống lặng lẽ ở thành phố Ojai, tiểu bang California. Mọi người tìm tới ông để đối thoại về nhiều vấn đề của thời cuộc hoặc về những tình huống khó khăn của chính họ. Các vấn đề của riêng họ cũng là những vấn đề phổ quát của nhân loại và mỗi vấn đề đã giúp xác thực thêm câu nói của ông: “Bạn chính là thế giới”. Vì Krishnamurti đã tháo gỡ những mối dây trói chặt tư tưởng và cảm nhận của họ, nên cốt lõi hay nguồn gốc của mối lo âu được bộc lộ, trần trụi mà không hề trách cứ hay quy trách nhiệm. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, có một bộ sách gồm ba cuốn tập hợp các cuộc phỏng vấn Krishnamurti xuất hiện trên toàn cầu với tựa đề Commentaries on Living (tạm dịch: Đường vào hiện sinh). Và cuốn sách mới này, Thế giới trong bạn, rút ra từ Văn khố Krishnamurti, là bản tóm tắt về những câu hỏi bổ sung thường gặp, và các câu trả lời vượt thời gian cho những câu hỏi đó. Phần hỏi đáp này vẫn mang tính thời đại dù đã 70 năm trôi qua, độc giả sẽ tìm thấy chính họ trong cả những câu hỏi và phần trả lời. - Mark Lee 1 CƠN GIẬN VÀ KHÔNG THỂ KHOAN DUNG E . tới để hỏi làm cách nào để chế ngự cơn giận dữ, do anh đã nổi điên với cộng sự của mình, anh tức tối vì lề thói và hành vi của người đó. Sau khi trao đổi thêm, chúng tôi chỉ ra rằng cơn giận ấy nổi lên khi E. muốn ép cộng sự tuân thủ theo khuôn khổ hành vi của mình, điều khiến anh không thể khoan dung; và không khoan dung là thiếu suy nghĩ. Nếu E. rời bỏ người cộng sự hiện tại và tìm một công việc khác, thì vấn đề tương tự cũng sẽ lại xuất hiện, bởi vì vấn đề chính là anh, chứ không phải cộng sự của anh. E. phải hiểu được các hoàn cảnh, chứ không đơn thuần thay đổi chúng. Nếu trông cậy vào môi trường để giải thoát mình khỏi cơn giận, thì anh sẽ thành nô lệ của nó. Nếu lệ thuộc vào môi trường, thì anh sẽ trở nên thiếu suy nghĩ. Điều đó cũng giống với những ai cứ liên tục thay đổi mối quan hệ của họ, tức là khi bị vỡ mộng hoặc mệt mỏi với một người hoặc nhóm người nào đó, họ sẽ tìm kiếm tình bạn hoặc tình yêu ở một người hoặc nhóm người khác. Bởi vì họ không nhận thức đầy đủ về mối quan hệ, nên việc đơn thuần thay đổi môi trường sẽ lại sản sinh các xung đột, tâm trạng vỡ mộng, và sự chán ngấy y hệt như cũ dưới những hình thức khác. Vì vậy, E. phải nhận thức được sự thiếu suy nghĩ của chính mình và nguyên nhân của nó. 2 TIẾNG NÓI CỦA THỰC TẠI? T ừ nơi xa, S. tới để tìm hiểu xem giọng nói mà cô nghe được là giọng từ trực giác của chính cô hay đó là tiếng nói, hoặc suy nghĩ, của truyền thống. Sau khi chất vấn S., chúng tôi nhận thấy rằng cho tới nay, giọng nói này vốn có lợi, dẫn dắt cô ra khỏi thế giới cảm giác để ngày càng hướng tới cách tư duy cao quý và việc phụng sự tha nhân. Nhưng giờ đây, S. đang hoài nghi, thắc mắc về giọng nói ấy và cảm thấy lo âu. Trước đó, giọng nói này đã yêu cầu cô chỉ tuân lệnh mà không được thắc mắc. Nhưng sau nhiều năm, giờ đây nó lại trở nên lãnh đạm. Cô phải làm gì đây? Có phải đó là giọng nói của thực tại không? Sau khi thảo luận thật nhiều về vấn đề này, chúng tôi đi vào vấn đề khao khát, mong muốn: Làm thế nào nó – nhận thức, cảm giác, khao khát, nhận biết, cái tôi muốn và cái tôi không muốn – khởi lên và tự bộc lộ, thỏa mãn chính nó thông qua khoái lạc xác thịt, khao khát bất tử, và sự trần tục. S. cho biết hiện tại cô tọa thiền đều đặn, ngồi ngay trên sàn nhà. Nếu không hiểu quá trình diễn biến của dục vọng, thì thiền định sẽ không dẫn tới sự giác ngộ. Cô đang suy ngẫm về tính nhất nguyên của Đấng Tối thượng và những điều tương tự, bởi vì cô là một môn đồ của phái Vedanta*. * Vedanta là một trường phái triết học hình thành từ việc bình chú Kinh Vệ-đà (Veda). Thiền định phải dựa trên tư duy đúng đắn, chứ không dựa trên những công thức đơn thuần, dù cao quý đến đâu đi nữa. Tư duy đúng bắt nguồn từ việc thấu hiểu được sự khao khát với tư cách “tôi” và “của tôi”. Sự vị kỷ này, tất cả mọi người đều có, cho dù họ sống ở Ấn Độ, Trung Quốc, châu Âu, hay ngay tại đây. Thế giới là sự phóng chiếu của chính mình. Để hiểu các vấn đề của thế giới, trước hết ta phải hiểu bản thân mình, nhưng không phải hiểu theo kiểu tự khép mình, mà thông qua sự nhận thức một cách vô tư và chân thành về bản thân. Tự biết mình là khởi đầu cho tư duy đúng, vốn là khởi điểm đúng đắn của thiền định. S. cho biết vấn đề của cô đang mang một ý nghĩa mới: Thông qua những ham muốn của chính mình, làm thế nào cô có thể tạo ra ý nghĩa cho giọng nói đó, điều mà có lẽ là nhận thức trực giác của chính cô. 3 NIỀM VUI VÀ NỖI ĐAU - VẤN ĐỀ SINH RA VÀ CHẾT ĐI R . vô cùng đau khổ khi con trai bà mất trong chiến tranh. Đời sống của cậu ấy có tiếp nối không? Đầu thai có thật hay không? Thật khó nhìn nhận một cách khôn ngoan về cái chết khi người ta gần như đã bị nỗi đau làm cho tê liệt. Nếu đặt mình vào trường hợp đó, mối bận tâm chính của bạn là gì: con trai hay sự mất mát của bản thân bạn? Mỗi người trên thế giới đều đối mặt với vấn đề này: sự tất yếu của sinh ra và chết đi, của niềm vui và nỗi đau. Chẳng có ai có thể thoát khỏi nó cả; người ta có thể thoát khỏi nó trong sự tưởng tượng, trong một lý thuyết hoặc niềm tin nào đó, hay trong sự quên mình. Nhưng vấn đề sinh ra và chết đi vẫn còn đó, một bí mật cần được giải quyết không phải bằng cách lý giải duy lý, mà thông qua việc trải nghiệm sự vĩnh cửu và vô thủy vô chung. Sự căm thù những kẻ đã gây ra cái chết cho con trai bạn không tạo ra được trạng thái tinh thần cần có, mà chỉ thực tế trải nghiệm mới có thể làm được điều ấy. Ngược lại, thù hận, đau khổ và sự chiếm hữu ngăn cản khả năng thấu hiểu và trải nghiệm sự vô tận. Khi vượt qua được thù hận, phẫn uất, giận dữ, thì từ bi sẽ khởi sinh, giúp tẩy rửa tâm trí bị giày vò. Nếu bận tâm về cái chết, bạn sẽ gây ra nhiều sự chết chóc hơn, còn nếu quan tâm về cái đang sống, bạn sẽ biết được tính bất diệt của sự sống. Bà ấy nói rằng bà không hiểu tôi đang nói gì. Bà ấy không được thương con trai mình sao? Bà ấy không được ghét những kẻ giết con mình, mà phải tha thứ, phải thỏa hiệp với cái ác hay sao? Chiến tranh có cần thiết trong việc thanh tẩy thế giới này không? Phương tiện xấu xa không tạo nên kết cục tốt đẹp, phương tiện bạo lực không dẫn tới hòa bình. Từng người trong chúng ta đã gây ra tình trạng hỗn loạn ngoạn mục này thông qua cái gọi là những ngày hòa bình, vốn được tạo nên từ lòng đố kỵ, thói tham lam, ác tâm, sự đối kháng và ngờ vực. Một bà mẹ khác cũng đang khóc thương con trai mình, mẹ của người mà bạn ghét. Bà ấy cũng bị nỗi đau khổ giày vò. Bà ấy cũng gặp niềm vui và nỗi đau của vấn đề sinh tử. Thù hận không giải quyết được vấn đề này, thù hận chỉ kéo dài mãi mãi sự tàn bạo giữa người với người mà thôi. Dần dần, tôi dẫn dắt bà đi tới câu hỏi đầu tiên về đời sống tiếp nối. Bà quá chấn động nên không thể thảo luận tiếp, nhưng đã quay lại vào một ngày khác. 4 CÁI “TÔI” VÀ CÁI “CỦA TÔI” C húng ta phải hiểu được chủ thể tạo ra thời gian – quá khứ, hiện tại và tương lai – vì thời gian là sinh ra và chết đi. Ý thức về thời gian tạo nên tính liên tục, tính bất diệt, nhưng nó không vĩnh viễn, nó không vô tận. Chủ thể tạo ra thời gian là bản ngã, ý thức về cái “tôi” và cái “của tôi”: tài sản của tôi, con trai của tôi, sức mạnh của tôi, thành công của tôi, kinh nghiệm của tôi và danh tiếng muôn đời của tôi. Sự quan tâm của cái tôi về địa vị của chính nó tạo nên thời gian. Bản ngã là nguyên nhân gây ra ngu dốt và đau khổ; nguyên nhân và hệ quả của nó là dục vọng, sự thèm khát quyền lực, giàu sang, danh vọng. Bản ngã này được hợp nhất bởi ý chí của khao khát, với những ký ức trong quá khứ, quyết định trong hiện tại và sự xác định tương lai. Khi đó, tương lai trở thành một dạng thèm muốn, hiện tại là con đường dẫn tới tương lai, còn quá khứ là động cơ thúc đẩy. Bản ngã là một bánh xe nằm trong vòng quay thăng trầm của vui sướng và đau khổ, thích thú và sầu muộn, yêu thương và thù hận, tàn nhẫn và hòa nhã. Những trạng thái đối lập này được tạo ra vì lợi ích của riêng nó, vì những gì nó thu được, từ sự bất định của chính nó. Đây là nguyên do tôi sinh ra, tôi chết đi. Tư duy bị ý chí của khát khao, ý chí của bản ngã nắm giữ, nhưng phiền não và đau khổ sẽ bắt đầu công việc thức tỉnh tư duy; và nếu sự tỉnh thức này không được duy trì, thì tư duy sẽ trượt dài vào những niềm tin mang tính dỗ dành, vào những huyễn tưởng và hy vọng cá nhân. Nhưng nếu tư duy đang chậm rãi thức tỉnh đó bắt đầu nghiên cứu một cách nhẹ nhàng và kiên nhẫn nguyên nhân của sự đau khổ và nhờ đó bắt đầu hiểu được nó, thì nó sẽ nhận ra rằng có một ý chí khác nữa: ý chí thấu hiểu. Ý chí thấu hiểu này không mang tính cá nhân. Nó không có tổ quốc, không quê hương, không dân tộc, không tôn giáo. Và chính ý chí này mở ra cánh cửa đi tới vĩnh cửu, tới vô tận. Nghiên cứu về bản ngã là khởi đầu cho tư duy đúng – bản ngã bị nắm giữ trong ý chí của khao khát. Bản ngã này tạo ra tính liên tục bằng cách thèm khát sự bất tử, nhưng đi liền với nó là bất tận những buồn đau, khổ sở, cùng sự mâu thuẫn của cái “tôi” và cái “của tôi”. Sự cứu rỗi trong ý chí thấu hiểu không bao giờ chấm dứt, chỉ nó mới tiêu trừ được nguyên nhân của đau khổ. Hãy nhận thức về quá trình diễn biến của khao khát, từ đó tư duy đúng sẽ được sinh ra. Đức hạnh đang giải thoát tư duy khỏi cái “tôi” và cái “của tôi” vì thương cho tình trạng bất định mà sự tự khao khát gây ra. 5 SỰ LỆ THUỘC VỀ MẶT TÂM LÝ C . hỏi vì sao cô ấy cảm thấy mệt mỏi thế này. Dù dành nhiều năng lượng cho công việc chung, nhưng sâu bên trong cô cảm thấy rã rời. Sau khi trò chuyện một lát, chúng tôi khám phá ra rằng cô lệ thuộc rất nhiều vào chồng và môi trường của mình. Sự phụ thuộc này, vốn không phải về mặt tài chính, đã khiến cô hay bồn chồn, kiệt sức, lo lắng, mất kiên nhẫn và dễ nóng giận. Một nhu cầu nào đó về mặt tâm lý nhất thiết phải tạo ra sự lệ thuộc, điều này ngăn cản khả năng phối hợp và hòa nhập. C. nói rằng cô nhận ra nhu cầu này, nhưng vì lý do nào đó cô không thể vượt qua nó. Cô đã quyết tâm không để mình bị lệ thuộc, nhưng rồi vẫn không thể thoát khỏi nó. Chúng ta đều đồng ý rằng lệ thuộc không phải là thiếu vắng yêu thương, mà nó gây rối loạn yêu thương. Nó đem đến những yếu tố không thuộc về yêu thương; nó tạo ra sự bất ổn và xa rời. Sự lệ thuộc dẫn đến hành động tách biệt và gắn bó, một mối xung đột liên tục không có sự thấu hiểu, không có lối thoát. C. phải nhận thức được quá trình gắn bó và tách rời này, nhận thức mà không chỉ trích, không phán xét, thì lúc đó cô sẽ hiểu được ý nghĩa sự xung đột của các trạng thái đối lập này. Nếu C. nhận thức sâu sắc, và do đó, chủ ý hướng tư duy về hướng thấu hiểu trọn vẹn ý nghĩa của sự lệ thuộc và nhu cầu về mặt tâm lý, khi tâm trí hữu thức của cô rộng mở và hiểu rõ về nó, thì vô thức với những động cơ, sự theo đuổi và mục đích ẩn chứa bên trong sẽ phóng chiếu chính nó vào ý thức. Khi điều này xảy ra, C. phải nghiên cứu và hiểu được mỗi gợi ý của tiềm thức. Nếu C. làm điều này nhiều lần, nhận thức được sự hiện hình của tiềm thức sau khi ý thức đã suy nghĩ rõ ràng hết mức về vấn đề ấy, thì dù cô có dành sự chú ý cho những vấn đề khác đi nữa, ý thức và vô thức cũng sẽ giải quyết vấn đề lệ thuộc đó hay bất cứ vấn đề nào khác. Nhờ đó, một nhận thức liên tục được hình thành, thứ sẽ kiên nhẫn và nhẹ nhàng mang lại sự hòa nhập. Nếu sức khỏe và cách ăn uống của cô ấy đều ổn cả, thì điều này sẽ mang lại sự sống trọn vẹn. 6 CON NGƯỜI VÀ MÁY MÓC B . đến từ một nơi xa và vấn đề của anh là làm sao gắn được tinh thần thương yêu vào một chiếc máy bay, bởi vì anh đang làm việc tại một xưởng sản xuất máy bay. B. nói rằng anh nghiêm túc quan tâm đến tình trạng của thế giới, và bởi vì máy bay sẽ mãi đồng hành cùng nhân loại, vậy tinh thần thương yêu có thể nào được cài gắn vào trong nó hay không? Anh ấy có thể nào – bằng chính con người anh, không thù hận, không khao khát giết chóc và đầy thiện chí – cài một phẩm tính nào đó kiểu vậy vào cỗ máy kinh hoàng và hủy diệt này? B. là người có ý định nghiêm túc, thế nên chúng tôi đã thảo luận về sự ngu dốt và phương tiện mưu sinh đúng đắn. Một cỗ máy, một vật vô tri giác được con người lắp ráp mà thành thì bản thân nó không tốt cũng không xấu. Tốt hay xấu phụ thuộc vào cách con người ta sử dụng nó. Như vậy, không phải cỗ máy mà chính con người mới là đối tượng cần phải xem xét. Chẳng phải ngu dốt nằm ở việc đưa ra các giá trị sai, ở việc đặt nặng những thứ không có ý nghĩa, ở việc coi những thứ chẳng quan trọng là quan trọng hay sao? Chừng nào người ta còn chưa thay đổi những giá trị của họ, thì máy móc vẫn còn được sử dụng cho các mục đích gây hại và tàn phá. Tư duy và cảm giác của con người phải được thay đổi, từ những giá trị hạn chế trong hiện tại thành các giá trị siêu việt. Nếu một người đang mưu cầu sự tung hô, quyền lực và của cải, người đó tất sẽ tạo nên một thế giới mà trong đó sự xung đột, đối kháng và tàn nhẫn phải thắng thế, các phương tiện để thể hiện chúng cũng như vậy: máy móc, tiền bạc,…. Anh ta phải nhìn sâu vào tận đáy lòng để biết được mình đang tìm kiếm điều gì. Nếu anh ta đang tìm kiếm cái thiện của chính mình và sau đó là cái thiện của người khác, thì sự tử tế và trí tuệ sẽ quyết định nghề nghiệp và sinh kế của anh ta sẽ là gì. Trước tiên, B. phải tẩy trần trái tim và tâm trí của mình để rồi sau đó, và chỉ khi đó, anh mới có khả năng thỏa mãn với chút ít. 7 DỤC VỌNG TRONG TÂM B . nói rằng anh ấy là nô lệ của ham muốn tình dục. Anh đã thử nhiều cách khác nhau nhằm kiềm chế nó, tham gia các giáo phái khác nhau với hy vọng chuyển hóa nó. Ngoài ra, B. cũng đã tới tham vấn một nhà phân tích tâm lý, nhưng anh thấy mình càng trở nên lệ thuộc vào chuyên gia này hơn. Và đây là một dạng đau khổ khác. B. nên làm gì đây? Đầu tiên, chúng tôi thảo luận về tình yêu và nói nó không là sự cám dỗ nhục dục, hoặc một cảm giác na ná với sự xúc động, hay sự kích thích của trí năng. Bản thân nó là một phẩm tính, được cảm nhận trong những khoảnh khắc không có nhận thức về bản ngã, trong những khoảnh khắc hiếm hoi mà cái tôi bị quên đi. Nó không phải là phần thưởng cho sự hy sinh, mà là một giá trị tự thân. Tình yêu thuộc về lòng nhân ái và khoan dung, sự tha thứ và phục vụ, sự hợp nhất mang tính sáng tạo và bình an. Không có những thứ này, tình yêu không tồn tại. Nó là một động lực sáng tạo lớn lao. Nếu không có sự thấu hiểu và giải phóng tính sáng tạo, thì sự giải tỏa tình dục tất yếu phải trở thành một gánh nặng quá sức và một vấn đề nan giải. Tính sáng tạo này không chỉ là năng lực phát minh đơn thuần hoặc thuần túy thay đổi các năng lực chuyên môn. Nó không chỉ là sự mở rộng thiên về vật chất, tri giác hoặc sự mưu cầu trí tuệ thuần túy. Những điều này không chấm dứt được sự thèm khát nhục dục. Nó có thể tạm thời xoa dịu, nhưng cơn thèm khát sẽ quay lại dữ dội hơn, thường bộc lộ không phải về mặt tình dục nữa, mà ở những dạng thức hung bạo, tàn nhẫn khác, trong nhiều hoạt động xã hội nông cạn,… Sự giải phóng tính sáng tạo sẽ xuất hiện khi sự khao khát, thèm muốn được hiểu rõ và biến chuyển. Khao khát tạo nên những ký ức sâu đậm mà cái đà của nó sẽ trở thành sự thèm khát. Mỗi khao khát có một ý chí của riêng nó và nhiều ý chí sẽ tạo nên ý chí của bản ngã. Do đó, nếu anh muốn giải phóng bản thân lâu dài khỏi sự ham muốn, anh phải nhận ra cách thức, quá trình diễn biến của khao khát. Mỗi khi có tư tưởng dục vọng – tức là dục vọng trong tâm – anh phải nhận thức được về nó, không chỉ để phân tích mà đồng thời nhận thức về ý nghĩa sâu sắc của khao khát. Mỗi khi nhận thức được điều này, anh sẽ hiểu rõ hơn vấn đề của mình cho tới khi ánh sáng của sự tự tri xua tan những cơn mưu cầu dục vọng tự bó buộc mình. Sự nhận thức này phải trở thành một quá trình liên tục, không chỉ với một suy nghĩ cụ thể nào đó mà với mọi suy nghĩ và cảm xúc. Nhận thức này mang lại sự tự tri mà từ đó tư duy đúng sẽ sinh ra. Tư duy đúng sẽ giải phóng suy nghĩ khỏi ý thức về cái “tôi” và cái “của tôi” một cách vô hình, và đó là khi nhận ra tình yêu tối thượng. 8 LÒNG TỪ THIỆN KHÔNG RÀO CẢN V . tới gặp tôi vì cảm thấy bối rối về lòng từ thiện, cho hoặc không cho người khác, và về việc giết hại những sinh vật nhỏ bé gây hại cho cây cối,… Thật khó biết bao để truyền đạt tới những kiểu tâm trí nhất định rằng khi bản thân họ quan tâm tới những điều lớn lao thì những điều nhỏ nhặt sẽ đâu vào đó cả thôi, còn khi bản thân cứ mải bận tâm tới những thứ nhỏ nhặt – vốn liên tu bất tận – thì những điều lớn lao sẽ mất đi, mà chỉ trong những điều lớn lao ấy ta mới tìm thấy giải pháp cho các vấn đề của cuộc đời. Do đó, để thấu hiểu cuộc đời, thì cần có một trí óc phóng khoáng, chứ không phải lối suy nghĩ toan tính hay logic; đòi hỏi một trái tim rộng lượng, chứ không phải khả năng cân nhắc chu đáo và tính toán cẩn thận. ---o0o--- H. hỏi rằng anh làm trung gian cho một quỹ từ thiện thì có phải lẽ không, bởi anh được hưởng một khoản thừa kế rất lớn. Hoạt động thiện nguyện nên trực tiếp. Người cho và người nhận không được cảm thấy đó là nghĩa vụ, người cho không phải là bề trên ban cho người thấp kém hơn, người nhận cũng không nên có cảm giác xấu hổ. Việc thiện nguyện cần phải được thực hiện bằng cả trái tim. Người cho và người nhận, cả hai đều có trách nhiệm không được dựng lên hàng rào ngăn cách. Lòng từ thiện sẽ chấm dứt khi không có yêu thương. Không có yêu thương thì không có lòng từ thiện. 9 NHỮNG LỜI CẦU NGUYỆN BỊ VÔ HIỆU HÓA VÌ THÁI ĐỘ ĐỐI KHÁNG T rong một buổi nói chuyện, S. nói rằng cô đã đến nhà thờ để dâng lời cầu nguyện. Nhưng cô lại nói tiếp rằng cô không thể nào chịu đựng nổi những người da màu. Ồ, dĩ nhiên là cô không có ý muốn nói người Ấn Độ, như tôi đây! Và S. tới gặp tôi để hỏi xem có cách nào vượt qua những nỗi sợ hãi vốn do sự tưởng tượng và tự tạo ra không. Cô không nhận thức rằng những nỗi lo sợ này là do tự mình tạo ra. Để thoát khỏi chúng, mỗi lần nỗi sợ xuất hiện, cô nên chủ tâm xem xét nó bằng cách suy nghĩ kỹ càng về nó, tìm hiểu thấu đáo về nó, hiểu nó tường tận và để cho tâm trí hữu thức của mình được cởi mở. Sau đó, những nỗi lo sợ bí mật, những sợ hãi thầm kín, vô thức sẽ tự lộ mình. Và do tâm trí hữu thức của cô trong sáng, cởi mở và không rối loạn, nên S. sẽ nhận ra những nỗi lo sợ tiềm ẩn này và hiểu chúng một cách trọn vẹn. Nhờ đó, những nỗi sợ hãi vô thức sẽ tự trút hết vào tâm trí hữu thức và nhờ vậy, thông qua nhận thức và cảnh giác liên tục, cô sẽ thoát khỏi nỗi lo sợ vốn chủ yếu là do bản thân tự tạo ra. Sau đó, tôi nhẹ nhàng chỉ ra cho S. thấy rằng những lời cầu nguyện của cô đã bị vô hiệu hóa do thái độ đối kháng về chủng tộc mà cô đã coi trọng hơn những lời cầu nguyện của mình. Nếu S. thù ghét, thì tình thương của cô chỉ đơn thuần là một trạng thái đối lập, một phản ứng, nhưng nếu cô hiểu rõ về lòng thù hận của mình và vượt qua nó, thì tình thương của cô sẽ trọn vẹn. Nếu không giải thoát tư tưởng khỏi thái độ đối kháng, sự oán giận và ác tâm, thì những lời cầu nguyện của cô đúng là thiển cận và nhà thờ chỉ là phương tiện để đào thoát khỏi thực tại. Thật khó biết bao khi truyền đạt tính cao thượng của tình thương tới những người cứ cố bám chặt vào các lời cầu nguyện có tính xin xỏ của họ! Thật khó biết bao để những ai tìm kiếm thực tại hiểu rằng họ là toàn vẹn! Họ hăm hở nắm bắt tới mức để mặc thực tại trôi qua. 10 MỘT CHUẨN MỰC SỐNG KHÁC B ác sĩ A. cho biết ông có phòng mạch và kiếm được nhiều tiền, nhưng tin chắc rằng ông không thật sự chữa bệnh. Những viên thuốc nhỏ xíu và loại nước có màu sắc kia không phải là phương thuốc hữu hiệu, cho dù chúng làm cho bệnh tình tạm thời thuyên giảm. Ông muốn chữa bệnh thật sự kia. Điều đó sẽ bao gồm một chuẩn mực sống khác mà ông thấy bình thường, nhưng vợ và gia đình ông sẽ phản đối. Và gia đình chắc chắn sẽ tan vỡ nếu ông cương quyết theo đuổi điều mình nghĩ là đúng. Liệu bác sĩ A. có ích kỷ không nếu nhượng bộ trước những đòi hỏi của gia đình? Trách nhiệm của ông là gì? Khi xây đắp và nhượng bộ trước những giá trị cảm tính, chẳng phải chúng ta tạo nên những thảm họa xã hội, chiến tranh, bạo tàn và khốn khổ đó sao? Khi có được tiêu chuẩn sống cao và chú tâm vào nó, chẳng phải chúng ta sẽ tạo ra một thế giới máy móc và hung bạo của sự tàn bạo, cạnh tranh và kiêu ngạo đó sao? Và vị bác sĩ đã nhìn thấy rất rõ – ít nhất là trong lúc này. Khi nhượng bộ môi trường, dù đó là môi trường của gia đình hoặc của nền văn minh, ông ấy chịu trách nhiệm cho nỗi khổ chung và nỗi khổ của riêng mình. Nếu nhận ra điều này, có phải ông nên nhượng bộ đối với các đòi hỏi cảm tính của gia đình mình, khi họ muốn những chiếc xe hơi tiện nghi hơn, lớn hơn, tốt hơn, và những thứ đại loại như vậy? Ông chịu trách nhiệm trước cái gì? Thực tình chữa bệnh cho mọi người, dù việc đó khiến thu nhập giảm đi đáng kể, có phải là ích kỷ không? Điều này có thể gây bất hòa trong gia đình, nhưng ông chịu trách nhiệm trước cái gì? Liệu bản thân ông có thể sống một cuộc đời đơn giản, với ít vật chất ngoại thân và sự phô trương, hài lòng với sự đơn sơ, bởi vì thâm tâm ông cảm thấy bình an, giàu có trong sự hiểu biết của mình và đầy ắp tình thương không? Và ông hỏi rằng làm thế nào đạt tới những thứ này? Là bằng cách tư duy đúng thông qua việc tự nhận thức. Thực vậy, nếu không có khả năng tự tri thì không có tư duy đúng, và khi không có tư duy đúng thì không có bình an, không có tình thương. Tôi đã giải thích những điều liên quan đến nhiệm vụ khó khăn này. 11 BẠN ĐÃ TẠO RA RẮC RỐI CỦA THẾ GIỚI C ó hai người tìm đến và giải thích ngay rằng họ là người Thiên Chúa giáo, và vì thế họ mong muốn mang lại bình an cho thế giới. Chẳng phải những danh hiệu này – người Thiên Chúa giáo, Phật giáo, Hindu giáo,… – khiến người ta tách biệt nhau sao? Khi những hàng rào dân tộc và kinh tế chia rẽ con người, thì tôn giáo với hình ảnh biểu tượng của mình, các bàn thờ thâm u, những tu sĩ không ngừng tụng niệm, cũng khiến người ta xa cách nhau. Các đức tin và giáo điều, tín ngưỡng và việc lậm nghi thức dựng lên một hàng rào không thể vượt qua được. Người ta đã và vẫn đang tranh cãi một cách vô nghĩa quanh những điều này. Chính chúng đã gây nên sự bất khoan dung và thái độ đối kháng. Chính chúng làm hư hỏng trái tim và tâm trí. Chính tinh thần của chủ nghĩa bè phái, độc đoán, xem mình là có đặc quyền đã hủy hoại sự thống nhất giữa con người, hủy hoại thiện chí và yêu thương. Tôn giáo là cách thương yêu trong cuộc đời, chứ không phải niềm tin. Đó là hành động không có cái tôi, những động cơ riêng tư, và không có chủ nghĩa nghi thức. Đó là sự tìm kiếm đấng tối thượng mà không làm sai lạc giáo điều. Khi một người khẳng định mình là tín đồ Thiên Chúa giáo hay Hindu giáo, là người Mỹ hoặc người Anh, thì đi liền với đó là một niềm kiêu hãnh và uy quyền nhất định, tất yếu sẽ tạo nên những hàng rào ngăn cách giữa người với người. Và khi nói mình là người Thiên Chúa giáo, phải chăng họ không nhận thức được toàn bộ những ẩn ý trong đó? Phải chăng họ không nhận ra sự vô nghĩa của cái danh đó và sự lớn lao của thực tại? Càng bận tâm với những chuyện nhỏ nhặt, tầm thường, chẳng phải họ càng ít quan tâm tới thực tế sao? Tình thương, lòng trắc ẩn và thiện chí – các yếu tố này không cần một nhãn dán, chúng chính là những gì mang lại bình an cho thế giới. Không phải là sự điều chỉnh thuần túy về mặt kinh tế, sự thống trị của một hoặc hai dân tộc, cũng không phải sự tiến bộ về kỹ thuật có thể mang lại sự bình an. Trái lại, nếu không có sự thay đổi của con tim, thì những thứ này chỉ có thể mang lại những thảm họa lớn hơn và gây hủy diệt nhiều hơn mà thôi. Để mang lại bình an cho thế giới, bạn phải bắt đầu với chính mình, vì bạn chính là thế giới. Bạn là gì, thì thế giới là vậy. Nếu bạn tham lam, tranh giành, mưu cầu đặc quyền, đặc lợi, gắn với danh này tiếng nọ, ganh tỵ và sân si, thì bạn sẽ có một thế giới mà trong đó lòng thù hận và chiến tranh sẽ hiện hữu, một thế giới của sự hỗn loạn và bạo ngược, của sự nhẫn tâm và sợ hãi ngày càng tăng. Bạn đã tạo ra rắc rối của thế giới, và bạn là người duy nhất có thể giải quyết nó. Đừng đẩy cho các chuyên gia, chính trị gia, các vị lãnh tụ, bởi vì bạn là gì, thì thế giới là vậy. 12 CHỮA BỆNH CHO CHÍNH MÌNH B ác sĩ D. nói rằng ông đang điều trị cho những người khác trong khi không thể chữa cho chính mình. Các vấn đề khiến bệnh nhân ông rối loạn cũng gây rối loạn cho ông y hệt. Ông có thể giải quyết vấn đề cho người khác, giúp đỡ họ,… nhưng lại không thể làm vậy cho bản thân… Ông không cảm thấy bình an từ bên trong. Thật dễ dàng biết bao khi dùng lời nói để giúp người khác điều trị, chữa lành cho chính họ! Nhưng thật khó làm sao khi chữa cho chính mình! Để chữa cho bản thân, để có bình an bên trong, người ta phải hạ đổ các hàng rào ngăn cách mà họ đã cần mẫn xây dựng quanh mình, chẳng hạn danh vọng, lề thói giàu sang và tất cả những gì nó mang lại: bạn bè, mối quan hệ, tiếng tăm, đường học vấn thành công. Những điều tôi chỉ ra đây vị bác sĩ kia đều có hết, như chính ông đã thừa nhận. Các tính chất bề ngoài nông cạn này – tức là những lớp chồng chất của thói vị kỷ được tinh lọc – đã ngăn cản ông nhận ra sự bình an mà ông đang khát khao. Bác sĩ D. hiểu điều tôi nói là đúng, nhưng ông thấy khó mà gạt những thứ này qua một bên: Chúng đã trở thành một phần trong bản chất của ông rồi. Tôi chỉ ra rằng hoặc ông tiếp tục củng cố bản chất đó và tiếp tục đau khổ ngày càng nhiều hơn nữa, hoặc ông phải bắt đầu làm suy yếu nó, hóa giải nó. Điều ông đang tạo ra là một quãng tạm lắng đau buồn, một khoảng thời gian chuyển tiếp giữa hai cuộc xung đột, một sự bình an, hay đúng ra là tình trạng mệt mỏi vì tranh đấu. Là một bác sĩ tâm thần, ông hiểu rõ rằng bình an ở nội tâm phải có được thông qua nhận thức về khả năng tự tri, không phải bằng cách kìm nén, mà thông qua sự hòa hợp. Và chính nhận thức này sinh ra thiền định. Dĩ nhiên là bác sĩ D. chưa bao giờ thiền định. Ông biết cách tập trung tư tưởng, nhưng không phải là thiền định. Thiền định và tập trung tư tưởng là hai thứ khác biệt. Tập trung tư tưởng là hướng vào thứ gì đó, còn thiền định là nhận thức về bản ngã, về cái “tôi” và cái “của tôi” với tất cả các nội dung và hàm ý của nó. Điều đó mang lại sự hiểu biết sinh ra từ tư duy đúng. Sự nhận thức này có tính tập trung khác với tập trung tư tưởng vào một thứ, dù cao quý tới đâu đi nữa. Một đằng mang lại sự hòa hợp nội tại sâu sắc, vượt qua những trạng thái đối lập, trong khi đằng kia gây ra tính nhị nguyên và duy trì hết mức nguyên nhân xung đột. Phải để ông nhận thức được những suy nghĩ và cảm xúc của mình, không chọn lựa hay chọn lọc, mà chỉ đơn thuần nhận thức về chúng, dù tầm thường và hèn mọn, cao quý và trong sáng thế nào đi nữa. Khi mỗi suy nghĩ hay cảm xúc khởi lên, phải để ông suy nghĩ kỹ càng, xem xét thấu đáo suy nghĩ hay cảm xúc đó và cứ dõi theo nó. Khi dõi theo nó, ông sẽ không ngừng bị gián đoạn bởi những suy nghĩ-cảm xúc khác, và vì thế sẽ bắt đầu nhận ra rằng mình đang thiếu sự tập trung thật sự. Trong khi dõi theo nó, ông sẽ nhận ra rằng ông đang phán xét, quy kết, và do đó sẽ phát hiện ra những thành kiến, định kiến, những sự dè dặt và động cơ tiềm ẩn của mình. Trong khi dõi theo nó, ông sẽ khám phá chính mình, và sự phát hiện này thì mang tính tự do cùng sáng tạo. Do đó, ông ấy đang giải thoát tâm trí một cách có chủ ý, và trong tâm trí tự do và cởi mở đó, dù ban đầu nó có bị hạn chế thế nào đi nữa, những nội dung của tiềm thức – cái giấu mặt – sẽ được phóng chiếu ra bên ngoài. Mỗi sự phóng chiếu này phải được suy nghĩ kỹ càng và xem xét thấu đáo, vì vậy được thấu hiểu, tiêu trừ, và siêu vượt. Từ sự tự tri sâu sắc này, sẽ có sự thanh tịnh của trí tuệ, một tình thương không thể đong đếm và sự nhận thức về cái tối thượng. Tất cả điều này là một quá trình kiên nhẫn và nhẹ nhàng, cần sự tỉnh giác cao độ, một sự nhận thức đáng kể và sâu sắc. 13 TRÒ CHƠI DÃ MAN CỦA XÃ HỘI B à M., một giáo viên, kể lại rằng ngoài giờ học, các học trò của bà toàn chơi trò binh lính với súng máy, gươm, xe tăng,… bằng gỗ. Làm sao ngăn chặn được chúng đây? Trên thực tế, khi toàn bộ xã hội tham gia vào trò chơi hung tàn này, thì việc ngăn cản vài đứa trẻ chẳng có tác dụng nhiều (rồi chúng sẽ lại bị những người lớn hơn dụ dỗ tiếp thôi), trừ phi giáo viên thường xuyên ở bên cạnh và giúp chúng có những hình thức giải trí khác, lành mạnh và vô hại. Bà có thể giám sát liên tục một hoặc hai đứa trẻ, nhưng nếu bọn trẻ không được giúp đỡ để hiểu được các hiểm họa theo ngay sau tính chất dã man của các trò chơi thông qua cách dẫn dắt và hướng dẫn khôn khéo, thì chẳng bao lâu xã hội sẽ lại cuốn lấy chúng. Xét cho cùng, xã hội là một cá nhân hoặc một tập hợp những cá nhân, và trừ khi cá nhân đó xóa bỏ được các nguyên nhân gây ra chiến tranh,… nếu không thì việc vá víu đơn thuần ngoài mặt, tái tạo những nguyên nhân đó trong một trật tự khác, cũng chẳng có tác dụng gì. Vậy nên bà M. phải bắt đầu với bản thân. Bà phải hiểu chính mình, bởi vì từ sự tự tri mà ta có tư duy đúng. 14 MỘT QUÃNG NGHỈ BÌNH AN HAY BÌNH AN THẬT SỰ? D ù rất giàu có, nhưng bà C. vẫn cảm thấy đau khổ và bất hạnh trong mối quan hệ hiện tại của mình. Bà muốn được bình an và hạnh phúc. Không có bình an và hạnh phúc trên thế gian này. Chỉ có xung đột và đau khổ triền miên, một khoảng tạm ngưng lại dẫn tới khổ đau và bất hạnh. Bà ấy muốn gì – cái được gọi là một quãng nghỉ bình an này hay là thứ bình an thật sự? Bình an thật sự sẽ xuất hiện khi ta hiểu biết về thú nhục dục, sự trần tục, sự bất tử cá nhân, và vượt qua được chúng. Để hiểu và nhờ vậy vượt qua chúng, bà phải nhận thức được các suy nghĩ và cảm xúc của mình. Điều này đòi hỏi nỗ lực có ý thức và thời gian để ngẫm nghĩ. Bà nói rằng bà rất bận rộn, bà tổ chức các hoạt động thiện nguyện, tham gia nhiều câu lạc bộ,… Tôi chỉ ra rằng những hoạt động này đã khiến bà xao lãng, rối trí và chẳng có ý nghĩa gì mấy, bà miễn cưỡng tán thành. Bà có thể buộc phải từ bỏ những thứ này để dành thời gian nghiền ngẫm. Từ nhận thức bằng cách suy ngẫm này, sự hiểu biết, tư duy đúng và thiền định sẽ bắt đầu hiện ra. Với tất cả điều này, bà C. sẵn lòng tán thành, bởi vì bà nói trước đó mình đã có đôi chút suy nghĩ về chúng. Nhưng bà bổ sung thêm rằng tất cả điều này ngụ ý việc gạt qua một bên cuộc sống hiện tại của bà, những hoạt động, việc giải trí, trò tiêu khiển, và công việc thiện nguyện. Các việc làm thiện nguyện, hoạt động xã hội và hoạt động bên ngoài của bà chẳng có ý nghĩa gì cả – giống như những con thú tội nghiệp bị nhốt trong chuồng. Các hoạt động này rốt cuộc sẽ gây hại nhiều hơn lợi – giống như người mù dắt người mù đi vậy. Đối với điều này, một lần nữa bà lại miễn cưỡng tán thành và tôi đã chỉ ra tình trạng hỗn độn thê thảm của thế gian này: chiến tranh, sự vô lý của chủ nghĩa dân tộc, định kiến về giai cấp và màu da, những hàng rào kinh tế, sự thiếu vắng hoàn toàn thiện chí và yêu thương. Tất cả những điều này chỉ có thể được biến chuyển lâu dài nếu bà bắt đầu với chính mình, bởi vì bà là thế giới. Bà C. thừa nhận tất cả điều đó, nhưng nói rằng bà sợ phải thay đổi cuộc sống, bởi vì ngay cả khi chỉ bắt đầu thay đổi một chút thôi, nó cũng sẽ dẫn tới những thay đổi dữ dội, nên bà chưa sẵn lòng. Nhưng bà nói thêm rằng bà sẽ xem xét. 15 VẤN ĐỀ TÌNH DỤC R . nói anh cảm thấy khiếp hãi chuyện tình dục. Từ thuở ấu thơ, anh đã bị chuyện này kích thích và thu hút. Khi ở trong một nhóm, anh kháng cự nó và do đó khiến bạn bè thấy khó chịu. Anh đã cầu nguyện, thường xuyên trì chú, tụng kinh, cố gắng phân tích vấn đề, nhưng nó cứ đuổi theo anh và anh theo đuổi nó. Sau khi nói chuyện tiếp, tôi đã chỉ ra rằng phải hiểu rõ thói quen đó rồi mới có thể hy vọng giải quyết những vấn đề thuộc về giác quan và cảm xúc. Các vấn đề này không thể khắc phục chỉ bằng sự quyết tâm hay ý chí đơn thuần, mà phải suy nghĩ thật thận trọng. Thói quen, tập quán có tính chất thiếu suy nghĩ từ trong bản chất, và thiếu suy nghĩ thì không thể tạo ra tự do. Thời tuổi trẻ, chúng ta thường làm chuyện gì đó một cách thiếu suy nghĩ – chẳng hạn như hút thuốc lá – và nó dần dần trở thành một thói quen. Nếu chúng ta tự nhủ mình không được làm thế, thì việc không ngừng quyết tâm bỏ thuốc lá đó đơn thuần tạo nên một thói quen khác. Chỉ khi nào hiểu được thói quen – nghĩa là bằng cách nhận thức về nó, bằng cách suy nghĩ cẩn trọng, thì chúng ta mới có thể phá vỡ thói quen. Cuộc đời chúng ta là một loạt những hành động thiếu suy nghĩ đã trở thành thói quen, trong những mối quan hệ, trong tôn giáo, trong đời sống chính trị và xã hội của ta. Chúng ta suy nghĩ theo công thức, theo khẩu hiệu, đờ đẫn và rã rời. Tinh thần vị kỷ chính là cốt tủy của sự thiếu suy nghĩ, với tất cả những hành động và vấn đề nhỏ nhặt, hạn hẹp, chán ngắt của nó. Tình dục trở thành một vấn đề rất nan giải bởi vì nó là một sự đào thoát khỏi cái tôi nhỏ nhen, ràng buộc. Nó là sự giải tỏa và trở thành một thói quen. Và thói quen là thiếu suy nghĩ. Người ta phải suy nghĩ cẩn trọng bằng cách trở nên có ý thức. Nhờ nhận thức, họ bắt đầu thấu hiểu nhiều thói quen suy nghĩ và cảm nhận của mình. Những thói quen này nên được suy nghĩ kỹ càng và xem xét thấu đáo, cần nhìn ra những hàm ý của nó. Vì vậy, khi tâm trí hữu thức thấu hiểu trọn vẹn, cởi mở và phóng khoáng, thì những nội dung của vô thức – tức là tâm trí tiềm ẩn – có thể tự phóng chiếu vào tâm trí hữu thức. Và do tâm hữu thức cởi mở và tỉnh táo, nên nó sẵn sàng tiếp nhận chúng. Khi những điều này hiển lộ, thì mỗi sự phóng chiếu phải được xem xét và thấu hiểu. Theo cách đó, thông qua việc nhận thức cao độ, những hoạt động vụn vặt, hạn hẹp của cái tôi đều được phân tích và tư duy đúng bắt đầu hiện hữu. Càng cưỡng lại một thói quen và càng tạo ra sự kháng cự với nó thì bạn càng trở nên thiếu suy nghĩ hơn. Thông qua nhận thức đúng, việc tư duy liên quan tới tất cả các hoạt động và thói quen suy nghĩ, cảm nhận của chúng ta đều được bộc lộ và vượt qua. Phát triển trạng thái đối lập với sợ hãi là tạo ra một thói quen khác, nhưng khi trở nên ý thức được sự sợ hãi và suy ngẫm về nó kỹ càng, cảm nhận đầy đủ về nó, thì sự thiếu suy nghĩ sẽ không phát triển trong những trạng thái đối lập, bởi vì không có tự do trong những trạng thái đối lập. Bạn nên nhận thức về các thói quen suy nghĩ và cảm nhận liên quan tới những mối quan hệ của mình, tới những hoạt động xã hội và chính trị, tới tôn giáo của bạn. Để nhận thức được, bạn phải dành thời gian cho nó, bạn phải kiên nhẫn và tỉnh giác. Thiền định là quét sạch tính vị kỷ khỏi trái tim và tâm trí. Thông qua quá trình thanh tẩy này, tư duy đúng bắt đầu hiện hữu, mà chỉ nó mới có khả năng giải thoát con người khỏi sầu khổ. 16 HÃY VIẾT RA NHỮNG SUY NGHĨ CỦA BẠN O . nói rằng anh không thể thiền, suy nghĩ của anh cứ lang thang vơ vẩn khắp nơi, khiến anh không thể nào định tâm được. O. cảm thấy đã đến lúc anh phải xem xét điều này. Anh là một người năng động nên luôn bị hút vào hoạt động này hoặc hoạt động khác. Hoạt động mà không có sự lĩnh hội sâu sắc sẽ dẫn tới sự hỗn loạn, tới tình trạng hiện tại của thế giới. Khi không tự biết mình, hoạt động chắc chắn sẽ dẫn tới sự xung đột không thể tránh khỏi. Và thiền định là khởi đầu cho việc khám phá để tự biết mình. Sự khám phá mang tính tự do và sáng tạo, nhưng nếu chỉ đơn thuần tập trung vào một phẩm hạnh, để trở thành điều gì đó trong hiện tại hoặc tương lai, thì không phải là khám phá trong sự tự biết mình. Phẩm hạnh được trau dồi như vậy thì không bao giờ tự do, sáng tạo, vậy nên vẫn còn bị giới hạn trong ranh giới của sự thiếu suy nghĩ. Vì vậy, tập trung tư tưởng vào thứ gì đó – vào một bức tranh, hình ảnh, biểu tượng, một ý niệm – không phải là thiền. Việc buộc tâm thức chú ý vào thứ gì đó sẽ ngăn cản sự khám phá; nó chỉ định hình tâm thức theo một khuôn mẫu, dù cao quý tới đâu đi nữa, nhưng nó không thể giải tỏa, giải phóng tâm trí. Giải phóng tâm trí mới chính là thiền định. Phải để O. nhận ra những suy nghĩ, cảm xúc và theo dõi từng suy nghĩ-cảm xúc, dù nó tầm thường hay vô lý đi nữa. Những suy nghĩ-cảm xúc này khởi lên bởi vì sự quan tâm, sự lười biếng hoặc thói quen. Phải để O. khám phá nó là gì. Khi suy nghĩ kỹ càng, xem xét thấu đáo một suy nghĩ hay một cảm xúc, thì các suy nghĩ và cảm xúc khác sẽ tự phóng chiếu ra, thế là anh sẽ bị xao lãng. Khi khám phá ra rằng mình đang bị phân tâm, anh bắt đầu đánh thức mối quan tâm và nhiệt huyết, điều vốn dĩ sẽ mang lại sự tập trung. Khi một đứa trẻ quan tâm đến điều gì, nó sẽ tập trung hoàn toàn, nhưng nếu buộc phải tập trung thì nó không còn quan tâm và tâm trí của nó sẽ lang thang thơ thẩn. Để vô cùng tỉnh thức, cần có sự chuyên tâm không ngừng. Anh nói anh khó lòng tỉnh thức để suy nghĩ kỹ càng, xem xét thấu đáo hết mức có thể từng suy nghĩ, cảm xúc như thế, bởi vì anh không quen. Nhưng điều này có thể thực hiện được nếu chăm chỉ luyện tập. Anh phải cảnh giác với toàn bộ vấn đề luyện tập này, đừng để nó trở thành thói quen. Thói quen thuần túy sẽ phá hủy hoặc ngăn cản sự lĩnh hội, khám phá, thấu hiểu. Tâm trí tỉnh giác sẽ hiện hữu khi ta không ngừng suy nghĩ thấu đáo, và suy nghĩ thấu đáo không phải là thói quen. Nếu anh cảm thấy khó lòng trở nên tỉnh thức thì hãy viết ra mọi suy nghĩ và cảm xúc trong suốt ngày hôm đó. Hãy viết ra ý định đằng sau những lời nói, phản ứng mang tính ganh tỵ, đố kỵ, tự phụ, nhục dục,... O. trả lời rằng anh không thể viết ra mọi suy nghĩ và cảm xúc bởi vì anh còn phải bận rộn với việc mưu sinh nữa. Anh phải tiếp xúc với nhiều người và chẳng có thời gian. Vậy thì hãy dành ra một chút thời gian trước khi ăn sáng để viết ra. Việc này đòi hỏi anh phải đi ngủ sớm hơn, gạt qua một bên vài chuyện giao tế xã hội nào đó. Nếu viết ra bất cứ lúc nào có thể, thì buổi tối trước khi đi ngủ, anh có thể xem lướt lại những gì đã viết trong ngày hôm đó. Hãy nghiên cứu nó, khảo sát nó, mà không phán xét, không chỉ trích. Khi nghiên cứu nó, anh sẽ khám phá được nguyên nhân của các suy nghĩ và cảm xúc, khao khát, và ngôn từ của mình. Nếu thường xuyên thực hiện điều này, anh sẽ nhận ra rằng bất cứ lúc nào không thể viết ra, vì anh đang chú tâm vào chuyện khác, thì anh vẫn vô thức ghi nhận những suy nghĩ, cảm xúc, phản ứng để có thể viết ra sau đó, ở thời điểm thuận tiện. Vậy, vấn đề quan trọng trong chuyện này là anh nên xem xét, nghiên cứu với trí óc thoải mái những gì anh đã viết ra. Và khi nghiên cứu nó, anh sẽ nhận thức được tình trạng của bản thân mình. Dưới ánh sáng của việc tự nhận thức, tự biết mình, các nguyên nhân sẽ được khám phá và hấp thụ hoàn toàn. Anh nên viết ra không chỉ một hai lần, mà trong thật nhiều ngày, cho tới khi anh có thể lập tức nhận ra những suy nghĩ và cảm xúc, phản ứng và ý định của bản thân. Do đó, khi tự biết mình, thì có tư duy đúng, và từ đó sẽ kéo theo những thứ khác. Thiền định không chỉ là sự tự nhận thức không ngừng, mà còn là sự từ bỏ bản ngã không ngừng nghỉ. Từ tư duy đúng sẽ có thiền định, và từ đó bắt đầu hiện hữu sự tĩnh lặng của trí tuệ. Trong sự tĩnh lặng này, cái tối thượng sẽ được nhận ra. Khi viết ra điều ta suy nghĩ và cảm nhận, những mong muốn và phản ứng của ta sẽ mang lại một nhận thức nội tại, phối hợp giữa vô thức với ý thức, mang lại sự hòa hợp và hiểu biết. Nỗ lực này nằm trong quá trình suy nghĩ cẩn trọng, chứ không nằm trong quá trình tập trung tư tưởng vào điều gì đó, việc mà chỉ ngăn cản ta lĩnh hội cái toàn thể. 17 QUÁ TRÌNH SUY NGHĨ ĐÚNG, KHÔNG PHẢI SUY NGHĨ ĐÚNG B ác sĩ J. làm việc trong một Quân y Viện chuyên chữa trị cho các binh sĩ bị thương tật. Ông nói rằng thật khủng khiếp khi chứng kiến những chàng trai trẻ tuổi phải chịu tàn tật suốt quãng đời còn lại, về cả tinh thần và thể xác. Nếu có ai trong số họ bình phục, thì người đó sẽ được điều động trở lại mặt trận để rồi bị thương hoặc tàn tật lần nữa. Bản thân ông không thấy chiến tranh có một lợi ích gì và hoàn toàn phản đối việc nhân danh nền văn minh để phá hoại nền văn minh như vậy, nhưng… Ông ấy xúc động sâu sắc và cảm thấy chán nản với việc ngăn chặn nỗi đau thể xác. Rốt cuộc chuyện đó có gì hay ho chứ? Bạn chữa trị, chỉ để rồi họ lại bị thương lần nữa, tàn tật lần nữa hay thậm chí bị giết. Vậy thì chữa trị để làm gì? Người ta càng đặt ra nhiều câu hỏi, thì tình hình càng trở nên vô vọng nếu không có câu trả lời sáng suốt và chính xác. Đáp án sáng suốt và chính xác đó không nằm trong việc ghép lại nhiều bộ phận với nhau, rồi rút ra một kết luận ngắn gọn và thỏa mãn. Nhiều bộ phận không tạo nên toàn thể, nhưng khi toàn thể được hiểu và cảm nhận, thì các bộ phận trở nên vừa vặn và có ý nghĩa. Để hiểu toàn thể, thì phải ngừng tôn sùng bộ phận – tổ quốc, quê hương, chủng tộc, giai cấp, gia đình và cái “tôi”. Khi tâm trí bận rộn và trở thành nô lệ của bộ phận, thì sự nhẫn tâm, cạnh tranh, mưu cầu của cải, danh vọng, và những giá trị mang tính cảm giác trở nên vô cùng quan trọng. Lúc đó, hòa bình chỉ là một phương tiện khác của chiến tranh, với tất cả hậu quả của những tai ương thảm khốc, nạn đói, sự què quặt về tinh thần và thể xác, hỗn loạn, đau khổ,… Khi nào từng người còn chưa nhận ra sự trần tục, đam mê nhục dục và mưu cầu sự bất tử cho cá nhân dưới nhiều hình thức khác nhau dẫn tới điều gì, thì vẫn còn những tai ương, cách mạng, chiến tranh và bất hạnh. Từng người phải thấu hiểu điều này và từ bỏ nguyên nhân gây bất hạnh. Vì thế, sẽ có những nhóm người thông tuệ và “tâm linh” mang lại hòa bình bền vững. Nhưng, vị bác sĩ nói, điều này sẽ mất một thời gian rất dài và trong khi chờ đợi, đau khổ vẫn tiếp tục với tình trạng rối loạn nhiều hơn nữa. Để gây ra tình trạng ngu xuẩn và sự tàn nhẫn như hiện nay đòi hỏi thời gian và cách tư duy xảo quyệt, tức là hàng thế kỷ vô minh và mê tín; nên đương nhiên ta cũng cần kiên nhẫn và biết học hỏi để mang lại một sự lĩnh hội khác hẳn. Trong vấn đề này, ta không được xét tới thời gian, mà quan trọng là mỗi người cần nỗ lực tự biết mình, chỉ có điều này mới mang lại sự toàn vẹn, và do đó mang lại sự bình an và từ bi. Sự tự biết mình mang lại tư duy đúng, tức là tư duy không theo một khuôn mẫu, một chuẩn mực. Tư duy đúng cũng không có những suy nghĩ thiện hoặc tốt lành, vì chúng cũng bị giới hạn, chưa hoàn chỉnh. Nhưng thông qua việc tự nhận thức về điều người ta suy nghĩ và cảm nhận, bằng việc suy nghĩ kỹ càng và xem xét thấu đáo về chúng một cách trọn vẹn và đầy đủ hết mức có thể, người ta sẽ bắt đầu lĩnh hội được, dù có lẽ còn lờ mờ lúc đầu, rằng tư duy đúng là gì. Tư duy đúng giải thoát tư tưởng khỏi sự thèm muốn, lòng khao khát, nó là đạo đức, phẩm hạnh. Nó đặt nền móng cho tất cả hoạt động và mối quan hệ với một người hay nhiều người. Từ đây, lòng không sợ hãi khởi lên, tình thương và lòng trắc ẩn cũng vậy. Thiền định phải dựa trên chính nền tảng này, bởi vì thiền định cũng là giải thoát tư tưởng khỏi sự thèm muốn, tức là có đức hạnh. Việc nhận thức đươc cái tối thượng là cứu cánh của toàn bộ cuộc đời. 18 NHỮNG BỨC TƯỜNG TỰ KHÉP KÍN M . cho biết rằng mặc dù gặp gỡ và quen biết nhiều người, nhưng cô vẫn cảm thấy thiếu liên kết với con người. Cô ấy phải làm gì để có được điều đó? Bằng cách đừng đòi hỏi điều đó. Càng đòi hỏi nhiều, bạn càng ít có được. Càng ít đòi hỏi, bạn sẽ càng có được nhiều hơn. Nguyên nhân ngăn cản sự liên kết với con người chính là bức tường tự khép kín mà mỗi chúng ta đã dựng lên xung quanh mình. Những sự tiếp xúc bên ngoài chỉ đơn thuần mang tính xã giao, không có ý nghĩa gì. Càng phá vỡ những bức tường tự khép kín, ta lại càng liên kết nhiều hơn. Có phải khao khát liên kết với con người phát sinh từ cảm giác cô đơn, một sự trống rỗng bên trong cần được thỏa mãn, một sự đào thoát khỏi nỗi đau khổ của chính mình? Nếu là vậy, thì sự trốn thoát này càng làm cho các bức tường tự khép kín thêm vững chắc. Khi không hiểu nguyên nhân của sự tự khép kín này, thì mọi hình thức đào thoát đều sẽ trở thành sự xao lãng, bất kể đó là điện ảnh, rượu, tình dục, lễ nghi hay tôn giáo, công tác xã hội hay chiến tranh. Những sự xao lãng này gây thêm xung đột và hỗn loạn. Vậy thì làm sao một người có thể phá vỡ những bức tường tự khép kín? Đa số chúng ta không nhận ra chúng. Mà cho dù có nhận thấy, chúng ta cũng sẽ bào chữa cho chúng hoặc đổ lỗi cho người khác hay hoàn cảnh. Khi làm như vậy, chúng ta lại tìm thấy lý do bào chữa cho quá trình co mình lại của thói vị kỷ. Những sự biện minh này cản trở việc hiểu được nguyên nhân và thoát khỏi nó. Để phá hủy các bức tường tự khép kín này, trước tiên người ta phải nhận ra chúng. Để có thể hiểu được, người ta phải tìm hiểu, xem xét, mà không chỉ trích, phán xét, hay biện minh. Nhận thức là sự tìm hiểu và xem xét về những bức tường giới hạn suy nghĩ đó một cách nhẹ nhàng và kiên nhẫn. Chúng bắt đầu hiện hữu hoặc thông qua giáo dục, các xu hướng, ảnh hưởng của môi trường, hoặc thông qua sự thèm muốn, hoặc thông qua bản năng, và nói chung là thông qua tất cả nguyên nhân này. Nguyên nhân chính là tính vị kỷ, khao khát tự thể hiện qua thú nhục dục, tính trần tục hay đam mê vật chất, khao khát danh vọng và sự bất tử của cá nhân. Do đó, M. phải nghiên cứu, xem xét và hiểu được những điều này để có thể vượt lên trên và thoát khỏi chúng thông qua nhận thức về sự tự biết mình, thứ sinh ra tư duy đúng. Thông qua tư duy đúng, cô sẽ có thể giải thoát tư tưởng khỏi ham muốn – một nhiệm vụ khó khăn. Thông qua nhận thức về sự theo đuổi ham muốn này, một yếu tố hay khả năng tự thanh lọc được thiết lập trong mỗi người: Đó là trở nên trung thực. Thật khó mà trung thực khi chúng ta bị dục vọng xâu xé bằng cách này hay cách khác. Và thông qua nhận thức này, chúng ta bắt đầu hiểu được bản chất của yêu thương, nhân từ, rộng lượng,… Và hành động đúng giải thoát tâm trí khỏi sợ hãi, giúp con tim tự tin. Đức hạnh là sự phóng thích tư tưởng khỏi thèm muốn, khỏi sự xao lãng, đố kỵ, ác tâm, lười biếng,… Lúc đó, có sự nhận thức về việc tích lũy ký ức, ý thức về cái “tôi” và cái “của tôi”, về quá khứ và ảnh hưởng của nó, bởi vì mỗi người đều là kết quả của quá khứ. Tư duy của chúng ta sinh ra từ quá khứ, nếu không hiểu được nó, tâm trí không thể được tự do. Hiện tại chính là cánh cổng mở vào quá khứ. Thông qua sự tự biết mình, ta có tư duy đúng và nỗ lực đúng. Tư duy đúng là nền tảng để sống đúng, và từ đó, thông qua thiền định, sự thanh tịnh của trí tuệ xuất hiện. Trí tuệ là sự giản dị của trái tim. Chính trong sự giản dị này, người ta nhận ra cái tối thượng. 19 VƯỢT KHỎI MỌI TÔN GIÁO O . hỏi rằng tôi là tín đồ Thiên Chúa giáo hay Hindu giáo, hay liệu có phải tôi giảng điều mà anh xem là sự pha trộn hỗn tạp của mọi tôn giáo hay không. Tôi nói với anh rằng tôi không phải tín đồ Thiên Chúa giáo, cũng không phải Hindu giáo và tôi cũng không thuộc về bất cứ tôn giáo cụ thể nào cả. Tín đồ Thiên Chúa giáo hay Hindu giáo là gì? Chẳng phải họ đại diện cho các thể thức nào đó, những sự mê tín, dị đoan, niềm tin,… nào đó hay sao? Chẳng phải những giáo lý cơ bản của Phật giáo, Hindu giáo hay Thiên Chúa giáo đều tương tự nhau hay sao: không tà dâm, không theo đuổi vật chất, không chiếm hữu, mà phải thương yêu, gạt bỏ tính ích kỷ theo bất cứ hình thức nào, tìm kiếm cái tối thượng,… vân vân? Nếu vậy thì tại sao phải gọi mình bằng danh xưng này hay danh xưng nọ, một điều chỉ gây chia rẽ con người, tạo thái độ đối kháng và tình trạng hỗn loạn, giống như chủ nghĩa dân tộc. Do được tích lũy qua nhiều thế kỷ, những lễ nghi, niềm tin, các bàn thờ thâm u, những tu sĩ ê a tụng niệm đã đang trở nên quan trọng hơn yêu thương, nhân ái và hiếu sinh. Bởi, lạc lối trong những niềm tin ganh đua nhau và các nghi thức hoành tráng thì dễ dàng hơn là tìm kiếm thực tại bên trong chính mình. Thế giới bị chia rẽ, phân hóa bởi chủ nghĩa dân tộc, bởi định kiến chủng tộc, bởi vô số giáo phái và tôn giáo, không bao giờ hợp nhất mà chỉ thu hút và chia tách, thống trị và khai thác, những thứ gây ra xung đột và thái độ đối kháng không ngừng. Đây là một trong những nguyên nhân của chiến tranh. Chỉ có một thực tại duy nhất, cái tối thượng độc nhất vô nhị. Có duy nhất một tính nhân văn và một lòng chính trực, cùng con đường độc nhất để nhận ra nó, không thông qua bất cứ con đường nào khác, bất cứ người nào khác, ngoại trừ qua chính mình. Hãy tìm kiếm sự giải thoát của riêng bạn, rồi khi đó bạn sẽ đưa thế giới thoát khỏi tình trạng hỗn loạn và xung đột của nó, nỗi đau khổ và thái độ đối kháng của nó. Bởi vì bạn là thế giới nên vấn đề của bạn là vấn đề của thế giới. Nếu bạn đang bám chặt vào niềm tin của mình, vào những vị thần thánh tầm thường của bạn, vào quốc tịch, vào những vật sở hữu, vào các lãnh tụ của bạn, thì bạn sẽ tạo ra một thế giới của hỗn loạn và xung đột, của các giáo phái, của những định kiến chủng tộc và tôn giáo, của các biên giới kinh tế và ý thức hệ, luôn dẫn tới sự phân hóa, nuôi dưỡng ác tâm, làm tăng gấp bội những thảm họa. Người ta phải gạt qua một bên những thứ hời hợt này, những sự xao lãng, ham mê tự lừa dối này, và trau dồi cho tư duy đúng. Tư duy đúng có được nhờ tự biết mình. Và tự biết mình không dựa trên bất cứ công thức nào, mà chỉ thông qua việc không ngừng nhận thức về tư duy và cảm xúc, về hành động và phản ứng, và về tất cả những thứ đối lập nằm bên trong chúng ta. Và từ đó, tư duy đúng, hiểu biết đúng khởi lên. Tư duy đúng đòi hỏi việc làm đúng, và hành động không dành riêng cho ai, bởi vì tự biết mình không phải là kiến thức liên quan đến trí tuệ, vốn mang tính phân cách, có giới hạn và hạn hẹp. Khi hiểu chính mình, ta sẽ thấu hiểu cái toàn thể. Để nhận ra cái tối thượng, hãy bắt đầu hiểu chính mình. Sự hiểu biết này sẽ không có được thông qua người khác, thông qua một giáo hội hay bất cứ một tổ chức nào, mà thông qua việc nhận thức của riêng bạn về sự khao khát. Sự khao khát thú nhục dục, vật chất trần tục, sự bất tử cá nhân, sự giàu sang, thế lực, danh vọng, uy quyền, phép lạ và thần bí sẽ gây ra đau đớn, và không ai có thể giải thoát cho bạn ngoại trừ chính bạn. Thông qua việc thoát khỏi những câu thúc trói buộc này, trí tuệ xuất hiện và nó mở ra cánh cửa đi tới cái cao cả nhất. 20 DANH XƯNG LÀ GÌ, CÁI THỰC HỮU LÀ GÌ? B . đến từ nơi xa, trong trạng thái vỡ mộng, rất cô đơn và khốn khổ. Trước đó, anh đã tham gia nhiều loại hoạt động cải cách xã hội, đã thuộc về nhiều nhóm tôn giáo khác nhau, tham gia chính trường và cố gắng kiếm tiền bằng hết sức mình. Anh cảm thấy lạc lối và không biết bắt đầu lại từ đâu. Chiến tranh không cuốn B. theo, nên anh rất mừng vì được giải thoát khỏi việc giết chóc. Anh thấy công việc của mình chán ngắt và thiên hạ thì đầy tham vọng, nhẫn tâm và chỉ nghĩ đến chính họ, nhóm của họ, hoặc ý thức hệ của họ. Điều đó khiến họ trở nên hung bạo và cố chấp. Anh sẽ bắt đầu từ đâu và bằng điều gì đây? Anh muốn làm gì đó mới mẻ, sáng tạo. Chúng tôi đã nói về các cuộc cải cách xã hội – những cải cách chỉ để đòi hỏi thêm những cải cách khác nữa. Mặc dù các cuộc cải cách là cần thiết và tốt đẹp, nhưng chúng không chạm tới gốc rễ của vấn đề, đến các nguyên nhân sâu xa. Do đó, những cuộc bạo loạn và những cơn khủng hoảng, dù hứa hẹn những thay đổi lớn, luôn kết thúc trong sự đàn áp và đổ máu kinh hoàng. Trong tư tưởng tôn giáo và các nhóm tôn giáo lại có tồn tại chủ nghĩa cực đoan, sự tuân theo mù quáng, chủ nghĩa lãng mạn và sự sùng tín từng bước một. Chúng tôi đã thảo luận những vấn đề này từ các quan điểm khác nhau. Để sáng tạo thật sự và lâu dài, người ta phải bắt đầu với chính mình. Bởi vì thế giới là chính ta, và khi không hiểu biết về bản thân, thì sáng tạo chỉ mang lại xung đột, cạnh tranh và sự nhẫn tâm đặc trưng của nền văn minh. Nhờ tự biết mình, các quá trình tự phong kín sẽ được khám phá; sự khám phá này mang tính giải thoát và sáng tạo, bởi vì cái được khám phá ra là chân lý, và chân lý sẽ giúp người ta tự do. Việc khám phá này sẽ bị ngăn cản khi có sự đồng nhất hóa. Nhờ tự nhận thức, những nguyên nhân của sự đồng nhất hóa, sự giới hạn, sẽ được phát hiện ra. Tự nhận thức vô cùng khó khăn – tự nhận thức mà không phán xét, không đồng nhất hóa bằng giáo điều, tín ngưỡng, chủng tộc,… Nhưng do đa phần chúng ta đều được định danh, phán xét, chọn lựa, nên chúng ta phải nhận thức được về những phán xét, những sự đồng nhất hóa, về việc đưa ra các danh xưng – ngôn từ đi trước, còn dữ kiện, hay thực tại thì theo sau. Khi nhận thức được về chúng, chúng ta bắt đầu hiểu nguyên nhân gây ra chúng và thông qua việc nhận thức không ngừng, nguyên nhân đó được tiêu trừ. Nhờ tự biết mình, những giới hạn của việc chúng ta tự khép kín được khám phá, và phát hiện này không chỉ mang tính khám phá, mà còn mang tính giải phóng và sáng tạo nữa. Thật khó để nhận thức được như thế, nhưng nếu bạn bắt đầu viết ra tất cả tư tưởng và cảm nhận, phản ứng và hành động của mình, bạn sẽ bắt đầu nhận thức được về tình trạng của mình. Dĩ nhiên, bạn sẽ không có thời gian để viết ra tất cả tư tưởng và cảm nhận của bản thân. Nhưng nếu mỗi ngày đều viết ra hoặc tóm tắt với sự quan tâm, bạn sẽ thấy rằng vô thức của mình sẽ tự động ghi nhận trong khi bạn đang chú tâm vào những vấn đề khác. Do đó, khi bạn có thời gian viết ra một lần nữa, các hành động và phản ứng của bạn sẽ được nhớ lại. Điều này giúp nhận thức rõ cái gì là danh xưng bên ngoài, tức từ ngữ, và cái gì là thực hữu, hay cái có thật – đâu là sự đồng nhất hóa bằng giáo điều, tín ngưỡng, niềm tin và vì vậy cả sự phán xét nữa, và đâu là cái hiện hữu. Việc này sẽ mang lại sự trung thực lớn lao về tư duy và sự tập trung tinh nhạy, hăm hở, một điều thiết yếu cho việc khám phá cái thực hữu. Sự tập trung này hoàn toàn khác với sự tập trung bị ép buộc, vốn đã trở thành một vấn đề về thói quen, dẫn tới sự lười biếng của tính tự mãn và hài lòng. Sự tập trung này sẽ trợ giúp trong việc đưa vào ý thức những nội dung của vô thức, các động cơ, các yếu tố hão huyền, những suy nghĩ tiềm ẩn, và những sự đồng nhất hóa, nhờ vậy mà chấm dứt việc tự khép kín hay khao khát sự độc nhất. Chính sự khao khát này với những bó buộc và hạn chế của nó đã ràng buộc, làm cho suy nghĩ-cảm xúc trở nên tầm thường, nhỏ hẹp, lệ thuộc và mang tính chiếm hữu. Những hàng rào này ngăn cản sự sáng tạo thật sự. Chính những câu thúc tự gây ra này đã ngăn trở việc nhận thức rõ những gì không được tạo ra. Giải thoát suy nghĩ-cảm xúc khỏi những câu thúc ấy là khởi đầu của thiền định. Vấn đề không phải là thời gian, mà là sự hiểu biết một cách tỉnh táo, kiên nhẫn và chân thành đối với những đợt sóng thèm muốn. Rồi từ đây, sự tự biết mình và trí tuệ tối thượng xuất hiện. 21 CÓ PHẢI NGHIỆP CỦA ANH ẤY LÀ PHẢI CHẾT THEO CÁCH NHƯ VẬY? M . nói rằng người anh trai mà anh thương yêu vô cùng, thậm chí còn thương hơn con cái của mình, đã bất ngờ qua đời. M. vô cùng bối rối và đau khổ trước biến cố này. Dù rất sùng đạo, nhưng anh không tìm thấy nguồn an ủi nào trong niềm tin tôn giáo của mình, bởi vì cái chết này đã làm đảo lộn tất cả kết cấu tôn giáo mà anh đã gầy dựng. M. đã đọc nhiều kinh sách của phương Đông. Có phải nghiệp của anh trai anh là phải chết theo cách như vậy, không toàn thây, tan xác trên chiến trường? Anh ấy có được một cơ hội nào khác không? Anh ấy đã lỡ mất những cơ hội lớn lao của cuộc sống rồi phải không? Tại sao anh ấy chết, trong khi chính M. lại toàn vẹn, đang sống, đang tồn tại? Anh trai của M. có đang sống ở phía bên kia, giống như một số người vẫn hay nói? Đây là một vấn đề vô cùng phức tạp, không dễ hiểu chút nào. Niềm tin, sự xác nhận hay sự giả định chẳng có ích lợi gì mấy. Khi chịu đau khổ cùng cực, ta phải gạt qua một bên những giải pháp và phương tiện hời hợt và đừng để bị dụ dỗ tìm nguồn an ủi trong chúng, vì chúng hủy hoại hiểu biết thật sự. Chính việc trau dồi hiểu biết này sẽ giúp ta thoát khỏi nỗi đau. Chúng ta có phải là các cá nhân? Hay chúng ta là sản phẩm của nhiều nguyên nhân mà hệ quả của chúng là tính cá nhân? Chúng ta không phải là đại chúng với suy nghĩ-cảm xúc thi thoảng mang tính cá nhân hay sao? Dù thế giới đã tự phân chia thành các quốc gia, chủng tộc, giai cấp, các nhóm kinh tế và tôn giáo, nhưng chẳng phải tất cả con người về cơ bản đều tương tự nhau – thù hận và thương yêu, tham lam và ganh tỵ, sợ hãi và quyết đoán,… hay sao? Chỉ cần suy nghĩ-cảm xúc tự đồng nhất nó với nhóm, với quốc gia, với tôn giáo,… thì chắc chắn nó không tách biệt, mà thuộc về đa số, về truyền thống, về quá khứ vô minh. Và do đó, nó bị lôi kéo vào lòng thù hận, tham lam, tính câu nệ lễ nghi và dã man của nhóm, của quốc gia, của chủng tộc. Mặc dù có những cảm giác-trí năng riêng biệt, dù bạn sống trong căn nhà riêng biệt với ít hay nhiều của cải sở hữu, với tên gọi, với danh xưng, tách biệt chính mình, thì liệu điều này làm thành tính cá nhân không? Chẳng phải bạn vẫn là đại chúng sao? Bởi vì bạn là kết quả của nhiều bộ phận cấu thành, được tạo nên từ nhiều ảnh hưởng. Chừng nào bạn còn là số đông, bạn chắc hẳn sẽ tạo nên phản ứng trái ngược của nó – tức là tính cá nhân, với tất cả niềm hy vọng, thèm muốn, niềm tin hay tín ngưỡng, phản ứng và nỗi đau tách biệt, độc nhất. Do đó, bạn trở thành trung tâm của sự mâu thuẫn và tâm điểm này là bản ngã, cái “tôi” và cái “của tôi”, ý thức về “mình”. Liệu tâm điểm này có chút nào sự chân thật và có tồn tại lâu bền không? Không phải nó đang thay đổi hằng ngày, hằng giờ sao? Chẳng có gì vững chắc, trường cửu trong nó cả. Thế nhưng chúng ta vẫn bám víu vào nó, vào trạng thái tự mâu thuẫn vốn không tồn tại này. Bản ngã là một ảo tưởng hiện hữu nhờ sự thèm muốn. Những giày vò của sự thèm muốn làm mạnh thêm ảo tưởng, đây chính là chỗ cần phải được thấu hiểu và vượt qua để trải nghiệm cái vĩnh cửu, bất diệt. Trải nghiệm điều đó là toàn bộ những gì chúng ta cần quan tâm, bởi vì ngoài nó, chỉ còn xung đột, hỗn độn, đau khổ. Người anh trai có đang trọn vẹn, đang sống không? Cuộc sống thế này – lo lắng, ưu tư, tham lam, xung đột, sung sướng và đau khổ vì yêu thương, vì sự bất định khủng khiếp – có gọi là viên mãn hay không? Hay đây chỉ là tồn tại? Anh có thương tiếc anh trai mình hay không, và khi thương tiếc, chẳng phải chính anh cũng ở trong tình trạng khốn khổ tương tự hay sao? Có phải anh nghĩ mình đang trọn vẹn và có phải anh gọi cuộc sống đầy xung đột, hỗn loạn, đau khổ này là viên mãn, đầy đủ? Không phải sự tồn tại như vậy là trạng thái thiếu suy nghĩ, tất yếu sẽ mang lại đau khổ và bất hạnh hay sao? Nếu nhận thức được nguyên nhân của sự đau khổ này, suy nghĩ kỹ càng và giải phóng bản thân khỏi chúng, thì anh sẽ tìm thấy một kho báu không hư hoại theo thời gian, một kho báu không thể hủy diệt. Quá khứ kết hợp với hiện tại tạo nên ý thức về “mình”, ý thức về tính cá nhân. Tính cá nhân này có tiến trình tạo thành của riêng nó, sự tồn tại xung đột và đau khổ của riêng nó, bởi vì bản chất thật sự của nó là tự khép kín, tự giới hạn. Chính sự tồn tại của nó là cái đối lập, và cho dù cái bản ngã hão huyền này có thể cố hoàn thiện chính nó trong không-thời gian bao nhiêu đi nữa, thì nó vẫn cứ giữ nguyên hiện trạng: một trung tâm của sự thèm muốn và do đó là nguyên nhân của sự ảo tưởng. Chừng nào sự thèm muốn còn tồn tại, thì chừng đó ảo giác về sự tồn tại tách rời còn tiếp tục, với tất cả các vấn đề của nó, về sinh và tử, yêu và ghét, tiến bộ và thất bại, hiện tại và tương lai,… Bất cứ câu hỏi nào phát sinh từ ảo tưởng này chắc chắn cũng đều hão huyền, những câu trả lời cho chúng cũng vậy. Chỉ khi suy nghĩ cảm xúc tự thoát khỏi ảo tưởng về bản ngã, vốn dĩ do suy nghĩ cảm xúc, cảm giác-trí năng tạo ra, thì mới xuất hiện một thực tại, một niềm hạnh phúc mà tâm thức-cảm xúc bị mắc kẹt trong sự thèm muốn không thể nào lý giải được. Khi quan sát, nghiên cứu và hiểu thấu sự thèm muốn, khi nhận thức được về nó, thì một khả năng mới, ý chí mới, một sự hiểu biết mới bắt đầu hiện hữu. Chính sự thấu hiểu mới mẻ này là thứ mang lại trải nghiệm về cái tối thượng. 22 ĐỘC TỐ CỦA LÒNG THÙ HẬN W . hỏi làm cách nào để thoát khỏi sự hận thù. Cô nhận ra rằng nó là độc tố cho cả chính cô và đối tượng bị thù hận. Trước đó, W. đã cố gắng thử những phương pháp khác nhau để tống khứ thứ xấu xa này – như cầu nguyện, tập khả năng quyết đoán, chú tâm tới vấn đề khác, vận động,… Nhưng nó vẫn quay lại, đôi khi còn mạnh mẽ hơn nữa; và có những lúc W. hầu như không nhận thức được nó. Cô lo ngại rằng nó đã ăn sâu vào mình và rất sợ hãi về nó. Chúng tôi đã trò chuyện với nhau trong một lúc và sớm nhất trí rằng lòng thù hận, ác tâm đang lan tràn trên thế giới, và nó đang được khuyến khích một cách hăng hái thông qua những dạng tuyên truyền khác nhau. Hận thù, ác tâm là điều không thể tránh khỏi trong một môi trường xã hội thường xuyên khuyến khích và ca ngợi sự tham lam, đố kỵ với thành công. Một xã hội đã xem sự thành công, tham vọng cá nhân và sự cạnh tranh như một lý tưởng thì tất sẽ mang lại sự tàn nhẫn, một dạng của lòng thù hận. Một nền văn minh, có những tiến bộ kỹ thuật cao, phải mất đi lòng trắc ẩn, cảm thông, và phải bị mắc kẹt một cách vô vọng trong các giá trị mang tính vật chất, chạm nắm được, vốn tất yếu sẽ dẫn tới thái độ đối kháng, xung đột và chiến tranh. Trong một xã hội mà việc săn bắn và những hình thức man dã khác trở thành trò giải trí, thành thú tiêu khiển, thì việc hướng cái bản năng đó sang giết chóc đồng loại, nhân danh Thượng đế, Tổ quốc, hay ý thức hệ, chỉ cách một bước nữa thôi. Chúng ta là kết quả của quá khứ, và nếu không hiểu biết về nhiều cách thức mà trong đó thiên hạ dung dưỡng một cách hữu ý hoặc vô ý lòng thù hận, ác tâm, và những dạng thức đối kháng khác, thì việc thuần túy chế ngự chúng không chỉ trở thành một nỗ lực phung phí vô ích, mà còn củng cố thêm kiểu tư duy sai lầm gây ra các thảm họa khác. Dùng tình thương thay thế lòng thù hận không chỉ dẫn tới sự che đậy, thói đạo đức giả, mà còn khuyến khích cho kiểu suy nghĩ-cảm xúc sai lầm. Những thứ này và các phương sách hời hợt bề ngoài khác ngăn cản sự khám phá xác thực về nguyên nhân của xung đột, thù hận, tham lam,… Có thể bạn sẽ thiết lập được một thói quen kỷ luật kháng cự lại lòng hận thù, nhưng rồi chính thói quen đó lại nuôi dưỡng sự thiếu suy nghĩ, vốn sẽ sản sinh ra ác tâm, thù hận,… ở một dạng thức khác, trong những hoàn cảnh khác. Sự kiềm chế, thay thế, hay kỷ luật tự đặt ra đều không triệt tiêu được lòng thù hận. Trên thực tế, hận thù là một hệ quả, một phản ứng, một kết quả, và những nguyên nhân của nó phải được tìm ra. Trong cuộc tìm kiếm, trong nhận thức, trong việc khám phá các nguyên nhân, tư duy đúng bắt đầu hiện hữu. Chính việc hiểu đúng này sẽ triệt tiêu hoàn toàn nguyên nhân và hệ quả của lòng thù hận. Để tìm ra được, thì cảm xúc-suy nghĩ phải thoát khỏi tất cả thành kiến, bởi vì bất cứ khuynh hướng nào cũng ngăn cản sự khám phá. Vì vậy, ta phải quan sát, nghiên cứu và hiểu được các khuynh hướng, thiên kiến và bản năng. Như thế, người ta bắt đầu nhận thức các ảnh hưởng từ môi trường trong quá khứ và hiện tại, cùng với vai trò chủ động của chính họ trong đó. Điều này không giúp giảm xung đột, mà ngược lại có thể làm tăng thêm xung đột, và chính từ sự gay gắt của xung đột ta sẽ có bước đầu của hiểu biết đúng. Thù hận, cũng như tất cả vấn đề tâm lý khác, phải được hiểu trong mối quan hệ, bởi vì không có thứ gì hay vấn đề gì hoàn toàn tách biệt cả. Chỉ có hiểu đúng, tư duy đúng mới có thể giải thoát chúng ta khỏi đau khổ. 23 TẠI GIAO LỘ CUỘC ĐỜI T rong tâm trạng có phần bị kích động và bối rối, H. tìm đến, giải thích rằng anh đang đối mặt với việc phải chọn lựa giữa hai hoặc ba hành động. Anh đã đến giao lộ cuộc đời và không biết phải đi theo con đường nào. H. có thể kết hôn, đi theo sự thôi thúc của nghệ thuật mà anh đã trau dồi nhiều năm nay, hoặc anh có thể đi tới nơi nào đó, để tĩnh tâm, nghiên cứu và thiền định. Anh nên làm gì đây? Đâu là hướng đi đúng cho H. và anh nên chọn giải pháp nào? Sau khi trao đổi thêm, H. nhanh chóng nhận ra rằng chẳng ai có thể chọn thay anh hoặc giúp anh đưa ra quyết định. Giả sử có ai đó thuyết phục anh đi theo bất cứ hướng đi cụ thể nào, thì điều đó không chỉ gạt bỏ trách nhiệm của anh, mà còn có thể khiến anh hối tiếc sau này, trong cảm giác rằng điều anh được thuyết phục lựa chọn đã dẫn anh đến tình trạng thiếu viên mãn,… Do đó, anh phải nhận ra tầm quan trọng của việc này đối với chính mình. Tại sao H. phải đặt chính mình vào vị trí lựa chọn? Có phải đó là vấn đề của sự lựa chọn không? Chọn lựa nghĩa là gì? Là để chọn lọc, để phân biệt giữa các khả năng khác nhau. Đâu là động cơ, sự thôi thúc khiến bạn quyết định chọn cái này và từ chối cái kia? Đó là thành kiến, xu hướng, kinh nghiệm của bạn, sự tác động của môi trường,… Tức là, sự chọn lựa phụ thuộc vào cái thích và không thích của bạn, vào sự thỏa mãn, vào lợi ích và lợi nhuận, vào mong muốn tột cùng hoặc dễ thay đổi của bạn,… Sự xung đột giữa chọn lựa và mong muốn này có dẫn tới sự thấu hiểu, sự nhận thức rõ ràng và không thiên lệch không? Trong quá trình phân biệt này, chẳng phải tình trạng lộn xộn và xung đột về việc chọn lựa sẽ luôn tồn tại sao? Bởi, chẳng phải trong chọn lựa luôn có một cái đối lập, một ý thức đối ngẫu sao? Liệu có thể nhận ra điều gì là đúng trong trạng thái xung đột, hỗn loạn, và đối kháng không? Phải chăng sự mâu thuẫn của chọn lựa phải ngừng lại để có nhận thức rõ ràng, để thấu hiểu? Chẳng phải sự chọn lựa vẫn nằm trong giới hạn tự khép kín của thèm muốn và do đó không bao giờ có thể trở thành phương tiện để giải thoát cảm xúc-suy nghĩ hay sao? Ở chiều hướng ngược lại, chẳng phải nó sẽ củng cố tính ngoan cố, ý muốn khao khát, sự đồng nhất hóa cái “tôi” và cái “của tôi”, dẫn tới sự cô lập và loại trừ, tới nỗi đau khổ và phiền não, tới ảo tưởng và sự vô minh vốn dĩ khởi lên từ nó hay sao? Khi xem xét thấu đáo, suy nghĩ kỹ càng những gì liên quan đến việc chọn lựa, khi nhận thức được quá trình của nó, thì tình trạng lộn xộn và bất định của sự thèm muốn, với những ý muốn hay sự chọn lựa mang tính xung đột và đối kháng của nó, sẽ được hiểu rõ và tiêu trừ. Sự hiểu biết này là thiền định, bởi vì không có tư duy đúng, thì mâu thuẫn giữa những trạng thái đối lập sẽ tiếp tục. 24 TÌM KIẾM SỰ KHÍCH LỆ TỪ NGOẠI CẢNH R . M. nói: “Tôi muốn hiểu và muốn được hiểu. Tôi là một nghệ sĩ, một họa sĩ. Tôi sáng tạo và tôi muốn những tác phẩm sáng tạo của mình được đánh giá cao”. Anh tiếp tục giải thích rằng anh cần sự khuyến khích, chứ không phải sự chỉ trích không ngừng từ báo giới và công chúng. Vị họa sĩ này không chỉ sống cho chính mình, mà còn cho những người khác. “Tôi muốn hiểu, và cũng muốn được hiểu” là chủ điểm cho toàn bộ buổi đàm luận của anh ấy. Chúng tôi trò chuyện với nhau một lúc. Anh kể cho tôi nghe về cuộc sống, những vấn đề rắc rối và bất định của mình. Và tôi lập tức chỉ ra rằng việc chú trọng như nhau giữa việc hiểu và mong muốn được hiểu – giống như R. M. đang làm – là sai lầm nghiêm trọng, bởi vì một bên có tính sáng tạo, còn bên kia thuần túy là thỏa mãn. Một bên, cái quan trọng nhất, đến trong những khoảnh khắc của sự sáng tạo và vì các khoảnh khắc đó hiếm hoi, năm thuở mười thì mới có, nên tư duy chuyển sang sự khích lệ từ môi trường. Càng tìm kiếm sự khuyến khích và thỏa mãn từ bên ngoài thì những khoảnh khắc sáng tạo xuất thần càng trở nên hiếm hoi. Càng bị phân tâm bởi người khác, bởi những trò tiêu khiển, rượu chè, bởi nhiều phương tiện dẫn đến tự quên mình, thì khoảnh khắc sáng tạo tập trung chứa đựng sự hiểu biết lại càng yếu đi. Không thể hồi sinh khoảnh khắc này bằng sự xao lãng thông qua thay đổi địa lý, quang cảnh, hay môi trường, những thứ chỉ có thể tạo hứng khởi tạm thời và nông cạn. Chỉ khi tất cả sự xao lãng, cả bên trong lẫn bên ngoài, đều được thấu hiểu và nhờ đó mà vượt qua, thì thực tại không bị giản lược, khoảnh khắc sáng tạo xuất thần mới xuất hiện. Khoảnh khắc này là đỉnh điểm của sự hiểu biết phủ định**, bởi vì cái không được tạo ra thì bao giờ cũng mới mẻ, bao giờ cũng sinh động, còn tâm thức thì luôn lén lút và gian xảo tìm kiếm sự thỏa mãn nơi sự an toàn, một chốn nương tựa, trạng thái nghỉ ngơi. Chỉ trong khoảnh khắc bất định lớn lao và mù quáng, tức là trong sự thanh tịnh sâu thẳm, hiểu biết mới xuất hiện. ** “Negative understanding” hay “negative knowledge”, là thuật ngữ chỉ những kiến thức về những điều không nên làm, những điều sai trái cần tránh. Đây là loại kiến thức đến từ kinh nghiệm trực tiếp. Nhận thức được những xao lãng ở bên trong và bên ngoài là một điều vô cùng khó khăn và gian nan. Không phải khi khước từ chúng, mà khi hiểu được bản chất và phương cách của chúng, ta mới có sự tập trung không ngừng phát triển. Sự tự biết mình hoặc tự nhận thức mang lại suy nghĩ đúng đắn, và nếu không có quá trình suy nghĩ đúng, vốn hoàn toàn khác với tư tưởng đúng đắn, thì không thể nào có được sự tập trung sáng tạo đã thoát khỏi mọi xao lãng. 25 KHỔ HẠNH VÀ NHỮNG PHƯƠNG CÁCH KHÁC CỦA SỨC MẠNH B ác sĩ B. nói rằng ông muốn vượt qua ham muốn tình dục để có thể tập trung hơn vào công việc. Người ta phải thấu hiểu sâu sắc về sức mạnh và các vấn đề rất phức tạp của nó. Từ bỏ ham muốn nhục dục thì khá dễ, nhưng sức mạnh mà nó phóng thích lại gây ra vô số vấn đề. Khước từ một dạng sức mạnh cá nhân để đổi lấy những dạng sức mạnh cá nhân khác thì quả là khinh suất. Việc đó chỉ dẫn tới vô minh và khốn khổ. Do đó, chúng ta phải hiểu rõ sức mạnh ở những dạng khác nhau. Khổ hạnh, tức là quyết tâm kiêng khem, một sự khước từ có tính toán và kiểm soát, mang lại sức mạnh cá nhân lớn lao. Nhưng dù có ý nghĩa thế nào đi nữa, nó vẫn là sự tự khép kín; dù có thể bao quát thế nào, thì nó vẫn mang tính hạn hẹp và có giới hạn. Sức mạnh như vậy có tính loại trừ, đơn độc, cách biệt, và do đó nó sẽ không mang lại nhận thức về toàn thể, mà không hiểu được điều đó thì sẽ nảy sinh xung đột, phiền não và sự đối kháng. Sự thèm muốn sức mạnh này là một dạng thức bảo đảm an toàn, mà chỉ trong bất an – tức là ngược với sự an toàn – thì mới có hiểu biết. Trí năng tìm kiếm sức mạnh này thông qua những con đường quanh co – thông qua sự thông minh, tài giỏi, sắc sảo; thông qua sự thống trị của lý trí và tư duy; thông qua các lý thuyết và hệ thống hóa; thông qua danh tiếng về chính trị và xã hội; thông qua các tổ chức tôn giáo và kinh tế. Trí năng tìm kiếm sức mạnh thông qua trí tuệ và sự thống trị mà trí tuệ mang lại. Trí năng thì bao giờ cũng tìm kiếm sự an toàn, một cách công khai hoặc lén lút, và sự an toàn đồng nghĩa với sức mạnh cá nhân. Nó là cái nôi của sự phóng đại cá nhân và triệt tiêu cá nhân. Nó là nguồn cơn của sự tự mâu thuẫn và tất cả vấn đề rắc rối đi kèm. Và các câu trả lời của nó là sản phẩm sáng tạo của riêng nó trong quá trình tìm kiếm sự an toàn, tìm kiếm sức mạnh. Sự tìm kiếm này – lẩn lút, vi tế và ranh ma – tạo ra ngay sau nó những vấn đề phức tạp của con người trong các mối quan hệ, về sự tham lam, đố kỵ, sợ hãi,… Nếu không hiểu về những con đường của sức mạnh, mà đơn thuần kiêng cữ tình dục và các dạng thức sức mạnh khác thì chỉ làm tăng thêm cường độ của những sự thèm muốn tiềm ẩn mà thôi. Xin nhắc lại, trong cảm xúc, tính đa cảm, chủ nghĩa lãng mạn và trí tưởng tượng có một sức mạnh phi thường. Những thứ này có nhiều dạng thức hoạt động khác nhau – tôn giáo và xã hội, cá thể và tập thể, quốc gia và chủng tộc,… Khi sức mạnh được tập trung ở tình cảm, nó trở nên cực kỳ xấu xa và nguy hiểm, dẫn tới mọi kiểu tai ương và đau khổ. Cũng như vậy, sự tiết chế, trong khi tìm kiếm sức mạnh và sự an toàn, sẽ trao cho toàn bộ cơ thể sinh vật sức mạnh lớn lao và nhấn mạnh giá trị thuộc về cảm tính. Tất cả những thứ này đều có vấn đề rắc rối riêng biệt, và các câu trả lời của chúng tất yếu sẽ thiên vị, không đầy đủ và do đó không chính xác. Giờ đây, khi nhận ra vấn đề phức tạp của sức mạnh, khi không nhận diện và phán xét mà chỉ im lặng quan sát, nhờ đó mà nhận thức theo hướng phủ định, thì mới hiểu và vượt qua được quan hệ nhân quả của sức mạnh. Vì vậy, với việc chọc thủng những hàng rào phòng thủ do trí năng xây dựng, với sự hiểu biết cùng với việc phá hủy các hàng rào này khi chúng khởi lên, tình thương sẽ xuất hiện một cách bất ngờ, không hay biết. Không có yêu thương, sẽ có rất nhiều dạng của sức mạnh kèm theo những xung đột, hỗn loạn và sự đối kháng của chúng mà chúng ta không thể vượt qua được. Trong ngọn lửa của yêu thương, sự thèm muốn sức mạnh phức tạp này sẽ tiêu tán. Tất cả giải pháp và câu trả lời khác đối với vấn đề rắc rối của sức mạnh chỉ làm tăng thêm sự tham lam, sợ hãi và ngu dốt, và không có cách nào thoát khỏi tình trạng hỗn loạn này, trừ con đường hiểu biết và yêu thương. Hiểu biết này khó khăn và gian nan hơn nhiều so với việc áp đặt kỷ luật cho sức mạnh và sự áp đặt kỷ luật như vậy cuối cùng cũng chỉ là tự khép kín, thu hẹp, giới hạn. Ta chỉ có thể nhận ra cái vô hạn, cái bất khả tri ấy trong yêu thương, chứ không phải trong những vòng rào phòng thủ sâu xa, vi tế của trí năng. Với sự tĩnh lặng của trí năng, khi lý trí đã tự làm mình kiệt sức, trong trạng thái siêu lý trí đó, ta sẽ nhận ra tình thương hóa giải mọi vấn đề này. Lòng yêu thương ấy chính là cái cần được cảm nhận và thấu hiểu. 26 NHẬN THỨC LÀ GÌ? T ừ nơi xa, B. mang đến một câu hỏi: “Nhận thức là gì và làm thế nào người ta có thể nhận thức được?”. Để trả lời câu hỏi thuộc loại này, cần phải xem người đặt câu hỏi suy nghĩ như thế nào và hoàn cảnh tổng quan của anh ấy. Vì vậy, chúng tôi đã trò chuyện về cuộc sống của anh, về những rắc rối của cuộc sống và những nỗi đau của nó, cùng vẻ đẹp của các ngọn núi. Nhận thức xuất hiện thông qua sự gạn lọc và hiểu biết. Nó không phải là thứ mà bạn chấp nhận một cách mù quáng, cũng không là sản phẩm của bất cứ uy quyền nào. Nó vốn dĩ là kết quả và cũng là khởi đầu của sự tự biết mình. Thông qua sự tự biết mình, ngọn lửa nhận thức mãnh liệt bắt đầu hiện hữu. Tư duy đúng có được nhờ tự biết mình và tư duy đúng là nhiên liệu cho cường độ và chiều sâu của nhận thức. Không có tư duy đúng thì không có sự gạn lọc, vốn không phải do sự quyết tâm hay nỗ lực thuần túy của ý chí sinh ra. Bởi vì ý chí chỉ đơn thuần củng cố các khuynh hướng, thói quen, và sự vô minh. Còn hiểu biết, sự gạn lọc có được nhờ tư duy đúng, lại sinh ra từ sự tự biết mình. Do có sự rối loạn, mâu thuẫn trong suy nghĩ-cảm xúc của chúng ta, thứ khởi phát từ sự tham lam, sợ hãi và ngu dốt, nên chúng ta phải có được sự rõ ràng và hiểu biết thông qua tự nhận thức. Sự sáng tỏ này bị từ khước, bị che khuất khi có thái độ phán xét, phản đối hoặc tán thưởng đơn thuần, thay vì dõi theo suy nghĩ cảm xúc, xem xét một cách thấu đáo và sâu sắc hết mức có thể. Để có thể suy nghĩ kỹ càng, xem xét thấu đáo, phải có sự tự nhận thức và nhận thức này sẽ chấm dứt đột ngột nếu có phán xét. Để hiểu biết rõ ràng thì phải có trình tự, có nhận thức về ý thức ở những mức độ khác nhau – cảm giác, cảm xúc, trí tuệ, vật chất, lý tưởng, lý trí. Mặc dù mỗi mức độ của ý thức “tách rời” nhau, nhưng giữa chúng đều có mối tương quan. Đối với mỗi mức độ, phải có sự gạn lọc, và khi mỗi suy nghĩ-cảm xúc khởi lên, hãy theo dõi nó, suy nghĩ-xem xét nó kỹ càng. Với mỗi lần gạn lọc suy nghĩ-cảm xúc, nhận thức sẽ trở nên nhạy bén và mạnh mẽ hơn. Do đó, với mỗi suy nghĩ-cảm xúc, khi suy nghĩ, xem xét một cách bao quát, nhận thức sẽ trở nên rộng mở. Với kinh nghiệm, những đầu mối quan trọng để dõi theo của suy nghĩ-cảm xúc, và cả những đầu mối không quan trọng, sẽ xuất hiện. Khi chú tâm vào thứ gì khác, bạn sẽ thấy rằng những dao động của suy nghĩ-cảm xúc đều được ghi nhận một cách vô thức, điều này sẽ tự phóng chiếu ra khi bạn lần nữa tập trung chú ý. Thông qua sự gạn lọc và hiểu biết rộng rãi, tâm thức sẽ trở nên tĩnh tại trong sự nhận thức sâu sắc. Trong sự nhận thức tĩnh lặng này, cảm nhận khởi lên mà không có nguyên nhân, một sự cảm nhận không là sản phẩm của bất kỳ tác động hay khao khát nào. Khi cảm giác, niềm vui, trạng thái xuất thần này khởi lên, tâm trí ngay lập tức chộp lấy nó, tích trữ nó để tận hưởng. Hoặc nó tự nhủ: “Niềm vui mới mẻ này thật dễ chịu biết bao”, và như thế, trong chính việc thưởng thức, tận hưởng niềm vui đó, trạng thái xuất thần này lại được tích trữ trong ký ức để thưởng thức. Vì vậy, thực tế sinh động của cảm giác bao la này bị mất đi, trong khi tâm thức bám víu vào ký ức chết và trống rỗng của mình. Một lần nữa, việc gạn lọc và hiểu biết về khao khát bám chặt vào một trải nghiệm này – biến nó thành một thói quen, một nơi nương tựa, một sự an toàn – phải có được bằng cách theo dõi nó một cách bao quát và nhờ đó mang lại nhận thức thậm chí còn sâu sắc hơn và lớn hơn về sự tĩnh lặng vô lượng. Trong đó có tình thương vô lượng của thực tại. Nhận thức này, ý thức này vô cùng nhạy cảm và vô cùng hợp lý. 27 NHỮNG GIẤC MƠ NHIỄU LOẠN R . nói anh bị nhiễu loạn vì đủ loại giấc mơ và những sự nhiễu loạn này tăng hay giảm tùy theo tâm trạng của anh. Các giấc mơ nhiễu loạn này đã tiếp diễn suốt nhiều năm nay và dù R. đã tới gặp các nhà phân tâm học, nhưng các giấc mơ vẫn trở lại với những cường độ khác nhau. Làm thế nào anh có thể ngăn được chúng và anh cần phải làm những gì để có thể ngủ ngon mà không mộng mị? Chúng tôi đã trao đổi một cách thoải mái về cuộc sống, về các mối quan hệ và những điều khiến anh phân tâm. R. là người đàn ông tốt bụng, thông minh và thông thạo nhiều triết lý. Trong lúc thức, người nào càng nhận thức và biết theo dõi tận cùng mỗi suy nghĩ-cảm xúc một cách trọn vẹn, bao quát hết mức có thể, thì khi ngủ họ càng ít nằm mơ. Bởi vì người ta không nhận thức và cũng không thức suốt cả ngày, nên ý nghĩa và đánh giá về các sự kiện, về các phản ứng, đã tìm đường tẩu thoát, thông qua sự lười biếng, thông qua việc thiếu sự tỉnh táo đúng lúc. Tuy nhiên, nếu các sự kiện và phản ứng là quan trọng, thì chúng đều được nội tâm ghi nhận lại. Trong giấc ngủ, những sự ghi nhận này mang dạng thức những giấc mơ, dù quan trọng hay tầm thường. Sau đó, những giấc mơ này có thể được chính bản thân người mơ hoặc một chuyên gia phân tích chuyên nghiệp nào đó diễn giải, và cả hai trường hợp đều có những nguy cơ của riêng nó. Để diễn giải những giấc mơ của chính mình, tâm thức phải thoát khỏi thành kiến, lo âu, khỏi những mong ước bị bóp méo và khỏi mọi sự phán xét, vốn là điều vô cùng khó khăn. Bất cứ sự diễn giải sai lầm nào sẽ chỉ gây ra rối loạn, tạo nên một dạng thức giấc mơ mới. Để không bị rối loạn khi diễn giải, kéo theo những lo âu và hoài nghi của nó, sẽ thật khôn ngoan và lành mạnh nếu trong lúc không ngủ, ta biết tỉnh táo và nhận biết, theo dõi tận cùng từng suy nghĩ-cảm xúc, từng phản ứng một cách trọn vẹn và bao quát hết mức có thể. Điều này đòi hỏi sự nghiêm túc và chú tâm. Còn nếu quay sang nhờ một chuyên gia phân tích, thì bạn không những không nhận ra được sự phong phú lớn lao tiềm ẩn trong mình, mà bạn còn không thể tránh khỏi việc lệ thuộc vào họ, và điều này còn tồi tệ hơn nhiều so với tất cả những giấc mơ. Do sự lệ thuộc tạo nên cảm giác an toàn, mà trong tình trạng an toàn thì không có sự hiểu biết. Thông qua việc nhận ra mỗi suy nghĩ-cảm xúc, mỗi phản ứng, bằng cách xem xét chúng một cách sâu sắc và trọn vẹn hết mức có thể, bạn sẽ tìm thấy trật tự, sự rõ ràng, và hiểu biết sẽ đến với nhận thức bao quát, có cường độ lớn hơn. Và rồi, các giấc mơ, trong cả giai đoạn thức và ngủ, đều sẽ suy yếu và biến mất, và khi đó giấc ngủ cũng trở nên quan trọng như những giờ thức giấc. Bởi vì khi đó, giấc ngủ là sự tăng cường cho trạng thái tỉnh thức, còn tương ứng với trạng thái tỉnh thức là giấc ngủ, và bởi trong trạng thái tỉnh thức cũng như trong giấc ngủ đều có những mức độ ý thức khác nhau. Càng cố ý chạm tới các mức độ sâu hơn trong trạng thái tỉnh thức, người ta càng nhận ra, trong giấc ngủ, những trạng thái đó vốn nằm trên cả mức độ sâu sắc nhất của ý thức. Và nếu ai đó có thể trải nghiệm điều này, họ sẽ thấy rằng nó tạo ra một tác động sâu sắc trong tâm trí tỉnh thức và hữu thức. Trải nghiệm trạng thái vượt lên trên, khỏi tầm với của tâm trí hữu thức là điều khó khăn nhất, bởi vì tiềm thức phải tự trút sạch nội hàm của nó thông qua nhận thức, thông qua sự cởi mở của tâm trí hữu thức. Do đó, khi có sự tĩnh tại sâu sắc, thì ta sẽ nhận ra những thứ không tên. 28 TẦM LỚN LAO CỦA MỐI QUAN HỆ CHÍNH LÀ TÍNH BẤT AN CỦA NÓ H . nói rằng anh nhận thấy các mối quan hệ là thứ phiền phức và nhiều xung đột nhất. Nó khởi đầu bằng niềm vui nào đó, nhưng chẳng bao lâu sự bất đồng và đau khổ lẻn vào. Anh hỏi làm thế nào để thoát khỏi tình trạng xung đột này. Hễ tồn tại là có liên quan tới người khác và tất cả mối quan hệ đều gây đau khổ. Bản chất của mối quan hệ là gây nên sự nhiễu loạn. Bạn có thể hình dung trong đầu một kiểu mẫu quan hệ lý tưởng, nhưng đó chỉ là sự đào thoát khỏi thực tế. Một sự lý tưởng dựa trên trí tuệ sẽ ngăn cản việc điều chỉnh và khả năng vượt qua xung đột. Khi đó, khuôn mẫu sẽ trở nên quan trọng hơn hiểu biết. Và sự đồng nhất hóa ngăn cản tư duy đúng đắn. Các mối quan hệ tất yếu sẽ gây đau khổ và điều này thể hiện trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Nếu mối quan hệ không có căng thẳng, thì nó không còn là mối quan hệ nữa mà đơn thuần trở thành một trạng thái dễ chịu, uể oải, một thứ thuốc phiện mà hầu hết mọi người đều muốn và thích. Xung đột tồn tại giữa khao khát muốn có sự thoải mái và hiện thực, giữa ảo ảnh và thực tại. Nếu nhận ra ảo ảnh đó, thì bạn có thể dành sự chú ý cho việc hiểu biết về mối quan hệ, bằng cách gạt nó qua một bên. Nếu bạn tìm kiếm sự an toàn trong mối quan hệ, thì đó là sự đầu tư vào nguồn an ủi, vào ảo tưởng, và tầm lớn lao của mối quan hệ chính là tính bất an của nó. Nếu tìm kiếm sự an toàn trong mối quan hệ thì bạn đang gây trở ngại cho hoạt động của nó, điều sẽ mang đến những tác động cùng rủi ro cho chính mối quan hệ. Chắc chắn chức năng của mối quan hệ là phô bày trạng thái của toàn bộ con người. Mối quan hệ là quá trình tự bộc lộ, tự biết mình. Sự tự bộc lộ này đầy đau khổ, đòi hỏi sự điều chỉnh không ngừng và tính uyển chuyển của suy nghĩ-cảm xúc. Đây là một cuộc tranh đấu gian nan, với những khoảng thời gian bình yên khai sáng. Nhổ tận gốc các thói quen, những sự ngăn cấm, các triết lý và học thuyết là một việc rất phiền toái và căng thẳng. Nhưng chức năng của mối quan hệ là mang lại sự hiểu biết, và để hiểu biết thì phải có sự mâu thuẫn. Khi đã tự biết mình một cách trọn vẹn, ta sẽ thoát khỏi đau khổ, xung đột, rối loạn; và các mối quan hệ là con đường đi tới sự giải thoát đó. Ngay cả với người đã rút khỏi những xáo động của thế giới cũng không có sự cô lập. Trong cõi riêng biệt có sự vô minh. Mọi thứ trên đời đều liên quan đến nhau, và khi hiểu được mối quan hệ này cùng với những căng thẳng và niềm vui của nó, trong tình trạng cô độc của hiểu biết đó, những áp lực và trăn trở, những đau khổ và niềm vui mới có thể xóa những rào ngăn tự đóng kín khỏi tâm thức và trái tim, và nhờ vậy mới nhận ra hạnh phúc của cái tối thượng. Nhưng hầu hết chúng ta lại cứ tránh né, cứ gạt phăng những căng thẳng trong mối quan hệ, và thường ưa thích sự thoải mái, dễ chịu của việc lệ thuộc đầy thỏa mãn trong một sự đảm bảo tuyệt đối, một nơi nương tựa an toàn. Lúc đó, gia đình, các mối quan hệ trở thành nơi trú ẩn. Đó là chốn trú ẩn của kẻ thiếu suy nghĩ. Sự bất an chắc chắn sẽ lẻn vào sự lệ thuộc đó, khi đó mối quan hệ cụ thể ấy sẽ bị loại bỏ và một mối quan hệ mới xuất hiện, với niềm hy vọng sẽ được an toàn hơn. Không có cái gọi là sự bảo đảm trong các mối quan hệ, và sự lệ thuộc chỉ sinh ra sợ hãi. Nếu không hiểu thấu quá trình của sự an toàn và sợ hãi, mối quan hệ sẽ biến thành trở lực ràng buộc, một con đường vô minh, tăm tối. Toàn bộ cuộc sống là một cuộc tranh đấu và một nỗi đau khổ. Không có cách nào thoát khỏi nó, trừ khi có được tư duy đúng đắn, được sinh ra từ việc tự biết mình. Và thông qua việc tự biết mình, ta sẽ nhận ra hạnh phúc của sự bất diệt. 29 ĐỂ TÁC ĐỘNG LÊN TOÀN THỂ, BỘ PHẬN PHẢI TỰ CHUYỂN HÓA P . nói rằng khi cố làm theo những điều tôi nói về sự nhận thức, anh nhận thấy mình có định kiến đối với chủng người da màu tại quốc gia này (Hoa Kỳ). Vậy làm sao anh có thể tống khứ được định kiến đó? Sau khi trao đổi thêm, P. giải thích rằng anh sinh ra và lớn lên ở miền Nam. Và tuy không còn sống ở đó, nhưng anh thấy định kiến này, dẫu chỉ đang âm ỉ, vẫn sẵn sàng thức giấc. Người ta không thể “tống khứ” một định kiến nếu không hiểu những mối quan hệ nhân quả của nó, và khi hiểu được chúng, vấn đề sẽ chuyển sang một mức độ sâu sắc hơn và căn cơ hơn. Và khi xem xét mức độ sâu sắc hơn này, quan hệ nhân quả trực tiếp sẽ mất đi ý nghĩa và tầm quan trọng của nó. Người ta có thể dễ dàng nhận thức được vì sao dạng định kiến cụ thể này lại khởi lên: vấn đề thiếu nhân công, nô lệ, sự thống trị của người da trắng, khao khát giành ưu thế về chính trị và kinh tế trước những người da màu đông dân hơn ở miền Nam. Sợ hãi, định kiến, sự tàn nhẫn, thái độ khinh miệt và độc chiếm là những cái xấu xa đã nảy nở từ sự dung dưỡng cái xấu của chế độ nô lệ và tất cả nỗi kinh hoàng man rợ gắn liền với nó. Khi chấp nhận một cái xấu to lớn, chẳng hạn chiến tranh, nghĩa là bạn đã mở cánh cửa đi vào một loạt những bất hạnh và thảm họa nhỏ. Bạn được dạy kiểu định kiến này, bạn đạt được nó, thừa hưởng nó thông qua truyền thống. Sự thừa kế này được duy trì và kích động bởi khao khát bẩm sinh muốn được thống trị, muốn có uy quyền, vượt trội hơn người khác. Chính sự thôi thúc bẩm sinh này đã nuôi dưỡng và duy trì định kiến, nên việc nỗ lực tống khứ nó – cái bề ngoài, cái hệ quả – sẽ là vô ích chừng nào nó còn được nuôi dưỡng bởi một nguyên nhân sâu sắc và hùng mạnh hơn. Khi hiểu được nguyên nhân sâu sắc và hùng mạnh hơn này thì nguyên nhân có tầm quan trọng thứ yếu sẽ tự mờ nhạt dần. Nhờ nhấn mạnh vào nguyên nhân cơ bản có tầm quan trọng hàng đầu, nguyên nhân thứ yếu sẽ mất đi trọng lượng và ý nghĩa của nó. Ngược lại, nếu bạn nhấn mạnh vào cái thứ yếu, cái không quan trọng, sẽ dẫn tới mọi kiểu hỗn loạn, đau khổ và không thể nào giải quyết được. Nếu không có sự hiểu biết và do vậy không thể vượt qua khao khát thống trị, thể hiện uy quyền và vượt trội hơn người khác, thì sợ hãi, tàn nhẫn, đố kỵ và các trở ngại khác bắt đầu hiện hữu. Người ta có thể nhận ra sự thống trị, uy quyền,... áp đặt lên người khác tất yếu dẫn tới điều gì – nổi loạn, phản kháng, bạo quyền, và cuối cùng là chiến tranh. Bạn không thể cải tạo người khác hay mang lại điều tốt lành cho họ chừng nào còn chưa sửa đổi được chính mình, chưa hoàn thiện bản thân. Bạn là một bộ phận của xã hội, và để có thể ảnh hưởng tới cái toàn thể, bộ phận phải chuyển hóa chính mình. Để mang lại sự thay đổi cần thiết và có ích này, sự thống trị và khao khát uy quyền dưới nhiều hình thức – quốc tịch, chủng tộc thượng đẳng, sự cạnh tranh, tự bành trướng,… – phải được tìm hiểu và quan sát với lòng bao dung chân thành. Bạn phải nhìn ra điều này ở bản thân mình trước nhất chứ không phải ở người khác, bởi vì bạn không thể thay đổi người khác mà chỉ có thể chuyển hóa chính mình. Khi đã nhận ra, bạn sẽ bắt đầu khám phá nhiều con đường của thống trị và uy quyền. Mỗi lần nhận thấy chúng đang bộc lộ, hãy suy ngẫm về chúng, xem xét chúng, một cách rộng rãi và bao quát hết mức có thể. Quá trình suy ngẫm, xem xét thấu đáo này mang lại cường độ nhận thức ngày càng lớn hơn. Và thông qua nhận thức này, nhiều trở lực và chướng ngại sẽ được khám phá, hóa giải và sự giải thoát sẽ xảy ra. Nếu chỉ đơn thuần cố gắng tống khứ định kiến hay rào cản nào khác thì trong chính quá trình đó, bạn sẽ tạo ra một chướng ngại khác nữa và như vậy thì không thể thoát khỏi vô minh, đau khổ. Cuộc sống tồn tại thông qua nhận thức đúng và tư duy đúng. Tư duy đúng hiện hữu thông qua sự tự nhận thức, tự biết mình. Với sự thấu suốt ngày một sâu sắc, cái vô hạn sẽ được nhận ra. 30 SINH KẾ ĐÚNG S . đến từ một nơi rất xa sau chuyến hành trình nhiều ngày đêm. Anh là kỹ sư điện trong một xưởng máy bay. S. tìm tới tôi chủ yếu để nói chuyện về đời sống tôn giáo. Và anh nhận thấy cuộc sống gia đình mình thật khó khăn biết bao - những rối loạn điên cuồng của gia đình anh, những khó khăn trong việc giáo dục con cái sao cho thích hợp mà không khắc sâu vào tâm tính chúng sự dã man, nhẫn tâm và đống rác rưởi kinh khủng của các chương trình radio và phim ảnh. Chúng tôi đã bàn về các vấn đề này một lúc khá lâu và chúng tôi chỉ ra rằng anh phải bắt đầu với chính mình, bởi vì đó là nền tảng duy nhất có thể được vun bồi và chuyển hóa cao độ với một độ chắc chắn nào đó, và sự xem xét này không phải là tự đề cao mình mà là cơ sở khả dĩ duy nhất để xây dựng nền tảng đúng đắn. Chúng tôi đã đi vào vấn đề này và ngay sau đó, chúng tôi đề cập tới vấn đề sinh kế đúng. Khi bắt đầu thảo luận về phương tiện mưu sinh đúng đắn, S. tỏ ra vô cùng bối rối, mặc dù anh đã cố hết sức để che đậy. Dần dần chúng tôi nhận được sự hợp tác của S. và anh đã thật sự hứng thú, không còn dè dặt nữa. Chúng tôi nói rằng có những nghề nghiệp hiển nhiên có hại cho đồng loại: sát sinh với bất kỳ hình thức nào, chế tạo ra phương tiện để giết chóc và những hình thức bạo tàn, áp bức lộ liễu khác. Truyền thống, lòng tham, khao khát quyền lực điều khiển phương tiện mưu sinh và việc đơn thuần cấm đoán một số nghề nào đó vì vô đạo đức sẽ chỉ tạo ra tình trạng hỗn loạn nhiều hơn. Nhưng nếu người ta hiểu được sự liên can và cái giá của truyền thống, của lòng tham và của quyền lực, nhờ đó mà giải thoát suy nghĩ-cảm xúc khỏi chúng, thì họ sẽ biết hài lòng với lượng ít ỏi. Lúc đó, nhu cầu của chúng ta sẽ không còn đi đôi với lòng tham và những kỳ vọng của chúng ta. Khi giải thoát suy nghĩ-cảm xúc khỏi truyền thống, khỏi tính tham lam, mong muốn quyền lực, chúng ta sẽ tìm thấy nghề nghiệp đúng đắn. Còn khi không hiểu biết và do đó chuyển hóa những hàm ý sâu xa trong các vấn đề của chúng ta để theo đuổi vấn đề như thể nó không liên quan tới bất cứ thứ gì khác sẽ chỉ mang lại thêm đau khổ và rối loạn. Sinh kế đúng là một sản phẩm phụ, bản thân nó không phải là một mục đích. Khi tìm kiếm điều tối thượng, chúng ta sẽ nhận thấy rằng cuộc sống tích cực của mình tương ứng với sự nhận thức rõ ở nội tâm của chúng ta. Thông qua ngoại tại, chúng ta có thể tìm thấy cái nội tại, nhưng chính cái nội tại mới định hình ngoại tại. Và do đó, việc vá víu thế giới ngoại tại theo một khuôn mẫu xác định mà không quan tâm gì tới thế giới nội tại sẽ gây ra rối loạn, xung đột và đối kháng. 31 QUYẾT ĐỊNH HAY SỰ THẤU HIỂU? I . S. cho biết ông là một doanh nhân nhiều kinh nghiệm. Ông đã nhìn thấy mặt trái và mặt khó khăn của cuộc đời suốt bao nhiêu năm và hiện tại ông muốn theo đuổi đời sống tâm linh. Thế nên, ông muốn từ bỏ đời sống tình dục. Ông đang quyết tâm từ bỏ nó. Ông nói rằng mình có thể dễ dàng từ bỏ nó nếu thật sự quyết tâm, bởi vì ông đã có đủ ý chí để vượt qua nó. Sau khi thảo luận nhiều hơn, chúng tôi nói rằng với những vấn đề đơn thuần sử dụng ý chí như vậy, dù có thể cho ra kết quả mong muốn thì cũng giống như cuộc giải phẫu có thể tạo ra những hệ quả tai hại. Chẳng phải quyết định của ông dựa trên động cơ lợi lộc cá nhân, nhằm trở thành, nhằm đạt được một kết quả nào đó hay sao? Nếu vậy thì sức mạnh mà tình dục sản sinh sẽ bị hướng sang nhiều mục đích tự khép kín hơn và do đó vẫn sẽ thuộc về giác quan. Vì vậy, vấn đề ở đây không phải là có quyết định phẫu thuật hay không mà là vấn đề về sự thấu hiểu sâu sắc. Nếu đây là vấn đề về tinh thần hay cảm xúc thì một quyết định như vậy sẽ xua đuổi tình thương. Nhưng khi hiểu được vấn đề và các hàm ý của nó, tình thương sẽ lớn mạnh hơn và sẽ không trở thành một thứ đồ chơi của trí năng. Khi sức mạnh ở bất cứ dạng nào được sử dụng cho các mục đích cá nhân – chính trị, tôn giáo, kinh tế hoặc tình dục – thì nó không thể tránh khỏi gây ra những thảm họa kinh khủng cho cá nhân đó và cho cả đại chúng. Nếu chúng ta tìm kiếm sự tự lãng quên thông qua ham muốn tình dục, thì sự ham muốn này, như tất cả mọi ham muốn, sẽ trở nên quan trọng hơn nhiều so với bản thân nguyên nhân. Ta không thể vượt qua xung đột và nỗi đau của bản ngã bằng những ham muốn, dù cao quý hay ti tiện. Bản ngã sẽ được hiểu thông qua việc tự biết mình. Sự phiền não mà bản ngã mang lại không phải để bị phủ nhận, lãng quên hay thay thế. Nó phải được thấu hiểu. Để nhận thức được những tinh tế phức tạp của bản ngã, cần phải có sự quan sát một cách rộng lượng và khách quan. Thông qua việc tự nhận thức, gốc rễ của thói dâm dục, ác tâm, ngu dốt,… vốn đã bị chôn vùi trong ý thức và tiềm thức sẽ được phơi bày. Cách thức đào sâu này có tầm quan trọng cao nhất, bởi vì trong phương tiện, trong khởi đầu đã có kết thúc. Trong tâm thức nhất thiết không được có những quyết định, kết luận hay sự phán xét bạo lực mà chỉ có một sự thấu hiểu không ngừng mở rộng, và chính sự hòa nhã của nó đã hóa giải các xung đột, rối loạn, phiền não của bản ngã. Bởi vì, sự tự biết mình kéo theo nó tư duy đúng đắn và tự biết mình xuất hiện cùng với tự nhận thức liên tục. 32 BIẾN MỌI THỨ THÀNH LỢI ÍCH CÁ NHÂN L . M. giải thích rằng cô bao giờ cũng thấy chính mình cố thâu tóm, muốn được thương yêu, biến mọi cuộc trò chuyện, mọi gặp gỡ với người khác thành lợi ích cho bản thân. Trước mỗi sự kiện, cô đều rút ra được lợi ích và lợi thế từ nó cho chính mình. Tâm của cô tràn ngập những suy nghĩ như vậy cùng với các kỳ vọng. Cô đã chơi trò này trong nhiều năm và cảm thấy chán ngấy nó. Cô không muốn chơi nữa nhưng cô nhận thấy rằng tâm thức cứ mãi tính toán, giả vờ, cứ mãi tham lam. Làm sao cô có thể bắt đầu giải thoát tư duy khỏi sự phù phiếm vô nghĩa vây quanh này? Tại sao chúng ta tìm kiếm sức mạnh, tại sao chúng ta tích lũy, tại sao chúng ta gom góp tiền bạc, địa vị, danh hiệu, tình yêu? Tại sao chúng ta cứ chất nặng lên chính mình những kỳ vọng? Không phải là để thỏa mãn một sự thèm muốn cháy bỏng sao? Thèm muốn được hiện hữu, thèm muốn không bị loại ra ngoài, để đạt thành tựu và vì niềm vui sướng khi tham gia một đấu trường lớn. Nếu những kỳ vọng, danh hiệu, địa vị và sự giàu sang này bị tước đoạt, thì còn lại gì đây? Chẳng còn gì cả. Một tình trạng trống rỗng, nghèo nàn mênh mông. Do đó, việc khỏa lấp khoảng trống này, nỗi cô đơn đau đớn này trở thành một đòi hỏi không ngừng. Chúng ta cố gắng lấp đầy cái hố sâu này bằng của cải, bằng tình dục, bằng ác tâm, kỳ vọng, nghệ thuật, các hoạt động, chính trị, kiến thức, bằng mọi phương tiện khả dĩ có trên đời. Những ai không bị ngu muội hoàn toàn sau nỗ lực vô ích này sẽ quay sang đời sống tâm linh, quay sang Thượng đế. Họ mưu cầu đời sống tâm linh. Thượng đế trở thành phương tiện để lấp đầy hố sâu không đáy này. Vì vậy, Thượng đế trở thành một phương tiện khác để trốn thoát khỏi nỗi đau khổ và sợ hãi về sự nghèo nàn ở nội tâm đó. Việc đào thoát, dù cao quý tới đâu, đều dẫn tới rối loạn, đau khổ, ngu dại. Tình trạng trống rỗng này liệu có thể được lấp đầy không? Bạn đã thử nhiều cách khác nhau, vậy bạn đã có thể lấp đầy nó chưa? Bạn có thể lấp đầy ngay lập tức hoặc bạn có thể nghĩ mình đã lấp đầy nó, nhưng bạn sẽ sớm nhận ra sự phiền não đau đớn của nó. Thật may mắn, bạn không thuộc kiểu người tự lừa dối, những người tự thuyết phục bản thân rằng họ đã tìm thấy đúng chất liệu để lấp đầy hoặc phương pháp của họ cuối cùng sẽ mang lại thành công. Giờ đây, bạn muốn lấp đầy tình trạng trống rỗng đó bằng Thượng đế. Một lần nữa, liệu bạn có thể lấp đầy nó bằng những công thức trí tuệ? Khi thử áp dụng những hệ thống rèn luyện tâm linh khác nhau, với các giáo điều, tín điều và niềm tin khác nhau, với những giáo huấn khác nhau, liệu bạn có thể lấp đầy tình trạng trống rỗng này không? Bạn không đưa ra được câu trả lời thật sự, bởi vì tâm thức nghĩ rằng nó không nghèo nàn đến vậy, rằng nó có những năng lực nào đó, rằng nó chưa thử nhiều cách lấp đầy sự trống rỗng này và có lẽ nó sẽ tìm thấy một cách hữu hiệu. Vậy thì, hố sâu này có bao giờ được lấp đầy? Chẳng phải nó là một cái hố sâu thẳm đến nỗi mọi nỗ lực lấp đầy đều hoàn toàn vô nghĩa hay sao? Chẳng phải bản chất của sự thèm muốn là càng được thỏa mãn thì càng đòi hỏi hay sao? Trí tuệ là ở chỗ nhanh chóng thích ứng với thực tế này và ngu muội là ở sự bất lực trong việc tự thích nghi. Tuy nhiên, tâm thức không chịu lĩnh hội điều tất yếu này và từ chối đối diện với sự thật. Song, trong việc khám phá ra sự thật này lại ẩn chứa sự tự do sáng tạo thoát khỏi nỗi thèm muốn không ngừng ấy. Các giải pháp hay câu trả lời của trí năng sẽ không làm giàu cho sự nghèo nàn vô hạn này. Sẽ chẳng có gì làm giàu được cho nó, chẳng có gì lấp đầy được cái hố không đáy này, nỗi cô đơn trống rỗng này. Chính sự nhận thức về nguyên nhân của sự nghèo nàn ấy sẽ mang lại hiểu biết, tự do. Với hiểu biết, thói quen gom góp tích lũy, ham muốn biến mọi thứ thành có lợi cho mình, ham muốn đạt những kỳ vọng,… bắt đầu bị triệt tiêu. Nếu không có sự hiểu biết này thì những thói quen suy nghĩ-cảm xúc này sẽ được thay thế bằng những thói quen suy nghĩ-cảm xúc khác. Tất cả các thói quen đều ngăn cản sự tự do sáng tạo. 33 CẦU NGUYỆN, MỘT VẤN ĐỀ PHỨC TẠP N . đã gặng hỏi một cách khá gay gắt rằng tại sao tôi lại không quan tâm tới việc cầu nguyện mà chỉ chú tâm vào việc thiền định. Anh đặc biệt quả quyết rằng việc cầu nguyện, nhất là cầu nguyện Đấng Kitô, là con đường cứu rỗi bởi vì chỉ có duy nhất một đấng cứu chuộc. Muốn xuyên thủng sự gay gắt này đòi hỏi thời gian và công sức. Nhưng dần dần N. bắt đầu cởi mở hơn và chúng tôi có thể nói chuyện mà không thốt ra những lời khẳng định ngu ngốc nữa. Đằng sau vẻ quả quyết này, anh đủ thông minh để khao khát tìm hiểu vấn đề. Và anh không hoàn toàn bị tình trạng hẹp hòi của mình nuốt chửng. N. cho biết rằng anh vẫn cầu nguyện suốt nhiều năm nay, mặc dù anh không thuộc về bất cứ tôn giáo có tổ chức nào và cũng không thường đi lễ nhà thờ. Dù đạt được những lợi ích nhất định từ việc cầu nguyện, anh vẫn không thỏa mãn. Và càng lớn tuổi anh càng cảm thấy mình phải miệt mài cầu nguyện hơn. Cũng giống như những vấn đề rắc rối sâu xa của nhân loại, cầu nguyện là một vấn đề phức tạp cần sự khảo sát cẩn thận và lòng kiên nhẫn không gấp rút đòi hỏi phải có ngay kết luận và quyết định dứt khoát. Nếu không hiểu bản thân thì có thể chính những lời cầu nguyện ấy sẽ dẫn tới sự tự lừa đối. Nếu ai đó theo đuổi việc cầu nguyện một cách khẩn khoản thì nó sẽ mang lại kết quả, điều cầu xin thường được ứng nghiệm và điều này chỉ làm tăng thêm những lời cầu nguyện khẩn khoản khác. Rồi thì, ta lại có lời cầu nguyện không dành cho vật chất hay con người mà để lĩnh hội, trải nghiệm thực tại, tức Thượng đế. Lời nguyện cầu này cũng thường được đáp ứng. Cũng có những dạng cầu nguyện đòi hỏi tinh vi hơn, ranh ma hơn, nhưng dù sao nó vẫn là đòi hỏi, là nài nỉ, van xin và đề nghị, cái khác là nó được thể hiện một cách thẳng thắn hay vòng vo mà thôi. Tất cả những lời cầu nguyện như vậy đều có kết quả của chúng, mang lại những trải nghiệm riêng, nhưng liệu các phương pháp đó có mang lại sự nhận thức về thực tại tối hậu không? Hãy cùng tìm hiểu loại cầu nguyện này. Chúng ta thường nghe, và nhiều người cũng nói với tôi, rằng họ đã cầu nguyện với một đấng mà họ gọi là Thượng đế, họ thỉnh cầu cho những vật chất thế gian và lời cầu nguyện của họ đã linh nghiệm. Cuối cùng họ sẽ nhận được điều mà họ cầu xin nếu họ có tin vào đấng gọi là Thượng đế. Lời cầu nguyện cho sức khỏe, an nhàn và của cải thế gian thường được đáp ứng, tùy theo cường độ của lời cầu nguyện. Chẳng phải chúng ta là kết quả của quá khứ sao? Và chẳng phải chúng ta đều có liên quan với các kho chứa khổng lồ tích lũy tham lam, hận thù và những điều đối lập với chúng hay sao? Khi khẩn cầu hoặc đọc lời cầu nguyện chỉ để van xin, chẳng phải chúng ta đã kích hoạt kho dự trữ này, khơi lên lòng tham và những thứ tương tự hay sao? Điều này đem đến phần thưởng đi kèm cái giá phải trả. Một lần nữa, khi chúng ta cầu nguyện để có thể lĩnh hội, trải nghiệm thực tại, tức Thượng đế, là chúng ta đang triệu hồi truyền thống được tích lũy hàng thế kỷ, thứ sẽ mang lại trải nghiệm của riêng nó, nhưng đó có phải là cái thực hữu không? Khẩn cầu một người khác, một thứ gì đó ở bên ngoài như vậy liệu có mang lại sự hiểu biết về chân lý? Đây không phải là cách tiếp cận “sai lầm” hay sao? Thông qua những phương tiện sai lầm, bạn thu được kết quả, bạn có được trải nghiệm, nhưng chúng có phải là cái thực hữu không? Ngay từ lúc bắt đầu, chúng ta phải hiểu quá trình nhị nguyên đang hoạt động bên trong chúng ta: người cầu nguyện và đối tượng được thỉnh cầu. Để hiểu trạng thái nhị nguyên này, chúng ta phải hiểu chính mình, hiểu tâm thức-cảm giác của chúng ta. Nếu không hiểu điều này, không tự biết mình, thì việc cầu nguyện cùng với những kết quả của nó có thể trở thành chướng ngại vật, dẫn tới sự lừa dối. Tại sao lại tạo ra ảo tưởng, một thứ mà ta sẽ rất khó thoát khỏi? Hiểu được nhà tư tưởng và suy nghĩ-cảm xúc của họ chẳng khôn ngoan hơn là vun bồi cho tính nhị nguyên chỉ dẫn tới xung đột, rối loạn, phiền não hay sao? Vậy thì, để hiểu, ta phải tự nhận thức, bởi vì từ tự nhận thức mới có tự biết mình. Không thể tự biết mình mà không có thiền định và thiền định không thể xảy ra nếu không tự biết mình. Tự biết mình có được từ việc tỉnh táo quan sát tất cả suy nghĩ-cảm xúc của chúng ta. Nhận thức này sẽ thật u tối nếu có sự đồng nhất hóa. Khi nhận thấy mình đang đồng nhất hóa và do đó ngăn cản sự hiểu biết, chúng ta phải nhận thức được sự cần thiết của việc suy xét độc lập một cách chân thành, bao dung và ngăn cản sự phán xét. Chúng ta phải quan sát những xung đột trong suy nghĩ-cảm xúc của mình, những mâu thuẫn của chúng, khao khát của chúng, mối quan tâm ẩn giấu của chúng. Nếu nỗ lực thực hiện việc này một cách nghiêm túc và tỉnh thức suốt cả ngày, chúng ta sẽ thấy mình luôn cần những khoảng thời gian để tự nhận thức, tự quan sát tận lực – một cách tự nhiên, không có bất kỳ sự ép buộc giả tạo nào. Từ sự tự biết mình này tư duy đúng sẽ xuất hiện. Thiền định có mục đích là giải thoát suy nghĩ-cảm xúc để nó có thể khám phá, bởi vì điều được phát hiện, tức là sự thật, mang tính giải phóng và sáng tạo. Khi đã ngừng trở thành thứ gì đó, chấm dứt sự thèm muốn dưới nhiều hình thức, thì trạng thái nhị nguyên – tức là cái “tôi” và cái “không phải tôi”, người cầu nguyện và đối tượng được thỉnh cầu – sẽ biến mất. Và lúc đó chúng ta sẽ trải nghiệm sự tồn tại thật sự. Hạnh phúc của chúng ta nằm ở chỗ khám phá ra nó chứ không phải trong những ảo tưởng thèm muốn, dù cao quý đến đâu đi nữa.