🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thế Giới Khi Loài Người Biến Mất Ebooks Nhóm Zalo Mục lục Phần mở đầu. CÔNG ÁN LOÀI KHỈ PHẦN I Chương 1. LÀN HƯƠNG ĐỊA ĐÀNG CÒN SÓT LẠI Chương 2. SAN BẰNG NHÀ CỬA Chương 3. THÀNH PHỐ PHI NHÂN LOẠI Chương 4. THẾ GIỚI TRƯỚC KHI CHÚNG TA XUẤT HIỆN Chương 5. BẦY THÚ ĐÃ MẤT Chương 6. NGHỊCH LÝ CHÂU PHI PHẦN II Chương 7. NHỮNG CÔNG TRÌNH SỤP ĐỔ Chương 8. NHỮNG THỨ CÒN XÓT LẠI Chương 9. CÁC HỢP CHẤT CAO PHÂN TỬ BẤT DIỆT Chương 10. ĐƯỜNG DẪN DẦU KHÍ Chương 11. THẾ GIỚI THIẾU VẮNG NÔNG TRẠI PHẦN 3 Chương 12. SỐ PHẬN CỦA NHỮNG KỲ QUAN THẾ GIỚI CỔ VÀ HIỆN ĐẠI Chương 13. THẾ GIỚI KHÔNG CÒN CHIẾN TRANH *** Chương 14. BẦU TRỜI KHÔNG CÓ CHÚNG TA Chương 15. DI SẢN NHIỄM XẠ Chương 16. HỒ SƠ ĐỊA CHẤT CỦA CHÚNG TA PHẦN IV Chương 17. CHÚNG TA SẼ ĐI VỀ ĐÂU? Chương 18. NGHỆ THUẬT VƯỢT TRÊN CHÚNG TA Chương 19. NƠI KHỞI THỦY CỦA ĐẠI DƯƠNG VĨ THANH TRÁI ĐẤT CỦA CHÚNG TA, LINH HỒN CỦA CHÚNG TA LỜI CẢM ƠN Phần mở đầu. CÔNG ÁN LOÀI KHỈ Một buổi sáng tháng sáu năm 2004, Ana María Santi ngồi tựa lưng vào chiếc cột bên dưới một mái vòm lớn lợp bằng cọ, khuôn mặt bà tư lự khi nhìn thần dân tụ tập ở Mazàraka, ngôi làng của họ ở Rio Conambu, một nhánh thượng nguồn dòng sông Amazon ở Ecuado. Ngoại trừ mái tóc vẫn còn dày và đen sau bảy thập niên, những nét khác của Ana Maria đều khiến người khác liên tưởng đến một cái vỏ đậu khô. Đôi mắt xám tựa như hai chú cá nhợt nhạt mắc kẹt trên gương mặt nhăn nheo. Bà mắng các cô cháu gái và con của họ bằng thổ ngữ Quichua và một ngôn ngữ đã gần như biến mất, tiếng Zápara. Một giờ sau khi mặt trời ló dạng, mọi người trong làng, trừ Ana Maria, đều đã say khướt. Đây là dịp lễ minga, một từ tiếng Amazon đồng nghĩa với lễ dựng trại. Bốn mươi thổ dân Zápara để chân trần, một số vẽ lên mặt, ngồi sát nhau thành vòng tròn trên những chiếc ghế gỗ. Để bồi dưỡng những người sẽ đi phát quang và đốt rừng làm nương sắn cho em trai của Ana María, họ uống hàng vại chicha. Thậm chí trẻ nhỏ cũng xì xụp những chiếc bát sứ to đựng loại bia màu trắng sữa, có vị chua được ủ từ bột khoai mì lên men bằng nước bọt của những phụ nữ Zápara, họ đã nhai những nắm bột khoai mì này cả ngày. Hai cô gái tết tóc bằng cỏ quanh quẩn giữa đám đông, châm đầy những chiếc bát chicha và phục vụ những đĩa cháo cá trê. Đối với bậc trưởng lão và khách mời, họ sẽ tiếp đãi những khoanh thịt luộc to, màu sậm như sô-cô-la. Nhưng Ana María Santi, người cao niên nhất tại đó, lại không dùng gì cả. Mặc dù phần còn lại của nhân loại vừa chạm ngõ kỷ nguyên mới, Zapara chỉ mới bước vào thời kỳ đồ đá. Giống như loài khỉ nhện mà họ cho là tổ tiên của mình, người Zápara về cơ bản vẫn trú ngụ trên cây, buộc những thân cây cọ bằng dây leo __bejuco để đỡ mái nhà được kết bằng lá cọ. Trước khi có khoai mì, ruột cây cọ là rau củ chủ yếu của họ. Để có chất đạm, họ đánh cá và săn lợn vòi, lợn cỏ, chim cút, và gà rừng châu Mỹ bằng tên tre và ống thổi. Họ vẫn làm như thế, nhưng không còn nhiều thú để săn. Khi ông bà của Ana María còn trẻ, bà kể lại, khu rừng dễ dàng nuôi sống họ, ngay cả khi Zápara là một trong những bộ lạc lớn nhất vùng Amazon, với khoảng 200 ngàn thành viên sống trong những ngôi làng dọc bờ sông. Thế rồi, ở một nơi cách đó rất xa đã xảy ra một sự kiện, và không thứ gì trong thế giới của họ – hay của bất kỳ người nào – còn giữ nguyên như cũ nữa. Đó chính là sự kiện Henry Ford tìm ra phương thức sản xuất ôtô hàng loạt. Nhu cầu đối với săm lốp tăng nhanh chóng thôi thúc những cư dân châu Âu tham vọng tiến về mọi nhánh sông Amazon có thể tiếp cận bằng tàu bè, để khai thác đất trồng cây cao su và bắt giữ lao động cạo mủ cao su. Ở Ecuador, người Quichua Indian ở cao nguyên, được những nhà truyền giáo Tây Ban Nha cải đạo trước đó, tiếp tay cho họ và vui vẻ giúp đỡ họ xích những người đàn ông Zápara ngoại đạo ở vùng đất thấp vào thân cây để làm việc cho đến khi gục ngã. Phụ nữ và trẻ em gái Zápara bị bắt đi chăn nuôi súc hoặc làm nô lệ tình dục, bị cưỡng hiếp cho đến chết. Đến thập niên 1920, đồn điền cao su ở Đông Nam Á đã hủy hoại thị trường mủ cao su tự nhiên Nam Mỹ. Hàng trăm cư dân Zápara may mắn trốn thoát trong thời kỳ diệt chủng cao su vẫn biệt tăm. Một số tự cho mình là người Quichua vẫn sống chung với những kẻ thù nay đã chiếm hết đất đai của họ. Số khác bỏ trốn đến Peru. Bộ lạc Zápara ở Ecuador chính thức bị xem là tuyệt chủng. Thế rồi, vào năm 1999, sau khi Peru và Ecuador giải quyết được một tranh chấp từ lâu về đường biên giới, người ta phát hiện ra một pháp sư Zápara gốc Peru đang đi trong rừng Ecuador. Ông nói rằng mình đến gặp họ hàng lần cuối. Việc tái phát hiện người Zápara gốc Ecuador trở thành sự kiện nhân chủng học nổi tiếng. Chính phủ công nhận quyền lãnh thổ của họ, mặc dù nó chỉ tương đương một khu nhỏ trong đất đai của tổ tiên họ, UNESCO cấp một khoản viện trợ để họ hồi sinh văn hóa và bảo lưu ngôn ngữ. Vào thời điểm đó, chỉ còn bốn thành viên trong bộ lạc có thể nói được thứ tiếng này, Ana María Santi là một trong số đó. Khu rừng họ từng biết gần như biến mất: họ đã học cách đốn cây bằng rựa sắt và đốt gốc cây để trồng khoai mì từ những người xâm lược Quichua. Sau mỗi vụ thu hoạch, khoảnh đất đó sẽ bị bỏ hoang trong nhiều năm; ở khắp nơi, khu rừng lá tán cao chót vót đã bị thay thế bằng những cây nguyệt quế, mộc lan và cọ copa thứ sinh khẳng khiu. Giờ đây, khoai mì là lương thực chính của họ, được tiêu thụ hàng ngày dưới dạng chicha. Zapara đã sống sót đến thế kỷ 21, nhưng họ bước tới trong hơi men chuếnh choáng, và cứ giữ nguyên lối sống ấy. Họ vẫn săn bắt, nhưng nay thì những người đàn ông có thể phải đi nhiều ngày mà vẫn không tìm được một con lợn lòi hay chim cút nào. Họ đã phải chuyển sang săn khỉ nhện, trước đây ăn thịt chúng là điều cấm kỵ. Ana María lại đẩy chiếc bát do cô cháu gái dâng lên sang một bên, trong bát chứa miếng thịt màu sô-cô-la với một bàn chân không ngón nhỏ. Bà hất chiếc cằm xương xẩu về phía món thịt khỉ hầm bị từ chối. “Khi chúng ta đã đến nước phải ăn thịt tổ tiên của mình,” bà hỏi, “liệu sẽ còn lại gì đây?” Cách xa những khu rừng và thảo nguyên của tổ tiên, số ít người trong chúng ta vẫn còn cảm nhận được mối liên hệ với các tổ tiên động vật xa xưa của mình. Việc bộ lạc Zápara vùng Amazon thực sự có được khả năng đó thật đáng kinh ngạc, vì sự kiện loài người thoát li khỏi những loài động vật linh trưởng khác đã xảy ra ở một châu lục khác. Tuy nhiên, gần đây chúng ta lại dần dần linh cảm được điều Ana María muốn nói. Kể cả khi không bị đẩy tới cảnh phải trở thành những kẻ ăn thịt người, phải chăng chúng ta vẫn sẽ phải đối mặt với những lựa chọn nghiệt ngã khi lẩn tránh tương lai? Cách đây một thế hệ, loài người đã lảng tránh thảm hoạ hủy diệt nguyên tử; nhờ may mắn, chúng ta sẽ tiếp tục né tránh được nó và nhiều mối đe doạ kinh hoàng khác. Nhưng hiện tại, chúng ta lại thường xuyên nhận ra mình đang tự hỏi liệu có phải chúng ta đang vô tình hạ độc hoặc hun nóng hành tinh, bao gồm cả chính bản thân mình không. Chúng ta cũng lạm dụng nước và đất trồng đến mức chúng chỉ còn lại rất ít, và tiêu diệt hàng ngàn giống loài khiến chúng có lẽ sẽ không bao giờ tái xuất hiện nữa. Thế giới của chúng ta, như vài tiếng nói đáng kính đã cảnh báo, một ngày nào đó có thể sẽ thoái hóa thành thứ gì đó giống hệt một khu đất bỏ hoang, nơi lũ quạ và chuột lẩn trốn giữa đám cỏ dại, săn lùng lẫn nhau. Nếu điều đó có xảy ra thật, thì khi nào là thời điểm mà con người chúng ta, với tất cả trí thông minh tuyệt đỉnh đáng tán dương của mình, không còn nằm trong số những kẻ sống sót nữa? Sự thật là, chúng ta không biết. Mọi phỏng đoán đều bị xáo trộn bởi chính bản tính cứng đầu, không dám thừa nhận rằng điều tồi tệ nhất có thể xảy ra của chúng ta. Có lẽ chúng ta bị chính bản năng sinh tồn của mình hủy hoại, thứ bản năng đã được mài giũa qua hàng niên kỷ giúp chúng ta phủ nhận, coi thường, hoặc phớt lờ những điềm báo thảm hoạ do lo sợ rằng chúng sẽ khiến chúng ta tê liệt vì hoảng loạn. Nếu những bản năng đó lừa phỉnh chúng ta, để đến nỗi loài người cứ ngoan cố chờ đợi cho tới khi đã quá muộn, thì đó là một điều xấu. Nếu chúng giúp củng cố sức chịu đựng của chúng ta đối với điềm gở, thì đó lại là điều tốt. Hơn một lần, niềm hy vọng điên rồ, ngoan cố đã khơi nguồn cảm hứng cho những hành động sáng tạo giúp cứu vớt loài người khỏi bị diệt vong. Vì thế, chúng ta hãy thử một thí nghiệm sáng tạo thế này: Giả sử điều tồi tệ nhất đã xảy ra. Nhân loại diệt chủng là việc đã rồi. Không phải do thảm họa hạt nhân, do va chạm của thiên thạch, hoặc bất kỳ thảm họa nào đủ sức phá hủy hầu hết những thứ khác, bỏ lại một trái đất trong tình trạng kiệt quệ hoàn toàn. Cũng không phải một kịch bản sinh thái bi thảm nào đó, trong đó chúng ta tàn lụi trong đau đớn cùng nhiều chủng loài khác. Thay vào đó, hãy tưởng tượng về một thế giới khi chúng ta đột nhiên biến mất. Ngày mai. Có lẽ rất khó có chuyện đó, nhưng cũng chưa hẳn là bất khả. Giả sử một loại vi rút chỉ có độc tính với riêng loài Homo sapiens – có trong tự nhiên hoặc được chế tạo từ một thứ công nghệ nano đen tối nào đó – đã trừ khử toàn bộ chúng ta nhưng không gây tổn hại đến những thứ khác. Hay một gã phù thủy thù ghét nhân loại bằng cách nào đó đã phá hủy 3.9 % DNA quyết định sự khác biệt giữa loài người và tinh tinh, hay hoàn thiện phương pháp khiến chúng ta vô sinh. Hay giả sử rằng Chúa Jesus – sau này ta sẽ nói nhiều hơn về Ngài – hay người ngoài hành tinh đã dụ dỗ chúng ta đến một thiên đường rực rỡ hoặc một sở thú nào đó trong thiên hà. Hãy nhìn xung quanh bạn, nhìn thế giới của hôm nay. Nhà của bạn, thành phố của bạn. Những vùng đất lân cận, những vỉa hè và lớp đất bên dưới đó. Hãy giữ tất cả ở nguyên vị trí, chỉ loại bỏ loài người. Hãy quét sạch chúng ta, và xem điều gì sẽ còn lại. Phần còn lại của thế giới sẽ phản ứng như thế nào nếu đột nhiên được giải thoát khỏi những áp lực tàn nhẫn mà ta dồn lên hành tinh và những chủng loài khác? Liệu khí hậu sẽ hoặc có thể trở lại như trước khi chúng ta đốt nóng tất cả động cơ nhanh đến đâu? Trong bao lâu trái đất sẽ có thể khôi phục lại những vùng đất đã mất và lại trở thành Vườn địa đàng lung linh và tỏa hương như trước khi Adam, hoặc Homo habilis, xuất hiện? Liệu tự nhiên có thể xóa sạch mọi dấu vết của chúng ta? Làm thế nào nó có thể xóa bỏ những thành phố và công trình công cộng vĩ đại của chúng ta, và biến vô số sản phẩm từ chất dẻo và chất tổng hợp độc hại trở thành các thành tố cơ bản, lành tính? Hay phải chăng một số loại vật chất có cấu tạo quá phi tự nhiên, đến mức không thể phân hủy? Còn những tạo tác đẹp đẽ của chúng ta thì sao –những công trình kiến trúc, nghệ thuật, và rất nhiều những biểu tượng tinh thần của chúng ta? Liệu có điều gì thực sự trường tồn với thời gian không, ít nhất cho đến khi mặt trời nở ra và nung Trái đất của chúng ta thành tro bụi? Thậm chí sau sự kiện đó, liệu chúng ta có thể lưu lại một dấu vết mờ nhạt, vĩnh viễn nào đó trong vũ trụ này hay không; một thứ hào quang vĩnh cửu, hoặc một âm vang về loài người trên Trái đất; một dấu hiệu liên hành tinh nào đó chứng tỏ rằng chúng ta đã từng tồn tại nơi đây? Để cảm nhận thế giới sẽ như thế nào nếu không có chúng ta, trước tiên chúng ta phải xem lại thế giới trước khi có loài người. Chúng ta không phải là những nhà du hành vượt thời gian, và những dấu vết hóa thạch chỉ là những mẫu vật rời rạc. Thậm chí nếu vết tích đó có hoàn chỉnh, tương lai cũng sẽ không thể phản ánh chính xác quá khứ. Chúng ta đã đẩy một số giống loài vào cảnh tuyệt diệt, triệt để tới mức chúng, hoặc ADN của chúng, có khả năng sẽ không bao giờ xuất hiện trở lại. Bởi chúng ta đã làm một vài điều không thể đảo ngược, nên những gì còn lại khi chúng ta biến mất sẽ không thể giống hệt như hành tinh khi chúng ta chưa từng tiến hoá ban đầu. Nhưng cũng không thể quá khác biệt. Thiên nhiên đã từng trải qua nhiều mất mát tồi tệ trước đây, và cũng đã chữa lành những vết thương. Thậm chí đến ngày nay, vẫn còn sót lại một vài khu vực trên trái đất, nơi tất cả giác quan của chúng ta có thể tận hưởng những ký ức sống động về một Vườn địa đàng trước khi chúng ta xuất hiện. Chắc chắn chúng đang mời gọi chúng ta suy nghĩ về viễn cảnh thiên nhiên sẽ hưng thịnh như thế nào nếu giả thiết này xảy ra. Vì chúng ta đang tưởng tượng, tại sao chúng ta lại không mơ về cách thức tự nhiên sẽ phát triển không dựa trên sự diệt vong của chúng ta? Xét cho cùng, chúng ta cũng chỉ là một loài động vật có vú. Mọi dạng sống đều tham gia vào hoạt cảnh lịch sử vĩ đại này. Khi nhân loại cáo chung, liệu hành tinh này có suy tàn đi vì thiếu vắng những đóng góp của chúng ta không? Có khi nào, thay vì nhẹ nhõm vì vứt bỏ được gánh nặng sinh học khổng lồ, thế giới phi nhân loại lại thấy nhớ chúng ta? Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com PHẦN I Chương 1. LÀN HƯƠNG ĐỊA ĐÀNG CÒN SÓT LẠI Có lẽ bạn chưa bao giờ nghe đến Bialowieza Puszcza. Nhưng nếu bạn lớn lên ở đâu đó trong khu vực ôn đới vắt ngang phần lớn Bắc Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga, một vài nước trong Liên bang Xô Viết cũ, một phần Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Đông và Tây Âu – bao gồm Quần đảo Anh – một phần nào đó trong sâu thẳm con người bạn sẽ nhớ ra nó. Và nếu bạn được sinh ra tại lãnh nguyên hay sa mạc, vùng cận nhiệt hay nhiệt đới, đồng hoang hay thảo nguyên, vẫn còn vài nơi trên thế giới tương tự như puszcza sẽ khuấy động trí nhớ của bạn. Puszcza, một từ Ba Lan cổ, nghĩa là “rừng nguyên sinh.” Trải đều dọc theo biên giới giữa Ba Lan và Pelarus, dải Bialowieza Puszcza rộng nửa triệu mẫu Anh bao chứa những khoảnh rừng già đất thấp cuối cùng còn sót lại ở Châu Âu. Hãy nghĩ về một khu rừng mù sương e ấp lờ mờ hiện ra trong tầm mắt như trong những câu chuyện cổ tích của anh em nhà Grimm mà bạn được nghe kể khi còn bé thơ. Ở đây, cây tần bì và cây đoan vươn tới chiều cao 45 – 50 mét, tán lá khổng lồ của chúng che phủ tầng thực vật ẩm ướt, um tùm bên dưới gồm có những cây trăn, cây dương xỉ, cây tổng quán sủi đầm lầy và những tai nấm to bằng chiếc đĩa. Ở đây, những cây sồi, được bọc trong lớp rêu năm trăm tuổi, mọc tốt đến mức chim gõ kiến đốm vĩ đại có thể cất trữ quả vân sam trong những rãnh sâu tới năm phân trên vỏ cây. Bầu không khí, đặc quánh và mát mẻ, được ấp ủ trong sự tĩnh mịch, thỉnh thoảng lại bị ngắt quãng bởi tiếng kêu bi ai của một chú chim bổ hạt, tiếng hót thâm trầm của một chú cú lùn, hoặc tiếng tru rền rĩ của một con chó sói, để rồi, lại chìm trong lặng im. Mùi hương tỏa ra từ vô số lớp đất mùn tích tụ ở trung tâm khu rừng lắng nghe nguồn gốc xa xưa của sự màu mỡ. Ở Bialowieza, sự sống trù phú phụ thuộc rất nhiều vào những thứ đã chết. Gần như một phần tư lớp chất hữu cơ nằm trên mặt đất đang ở trong nhiều giai đoạn phân hủy khác nhau – gần 40 mét khối thân cây và cành gãy mục rữa trên mỗi mẫu đất đang cung cấp chất dinh dưỡng cho hàng ngàn loại nấm, địa y, bọ cánh cứng, ấu trùng, và vi khuẩn đã không còn tồn tại trong những khu cây trồng được quản lý, quy hoạch quy củ, vẫn được coi là rừng ở những nơi khác. Những loài này trở thành thức ăn trong một cái chạn gỗ khổng lồ, giúp nuôi béo chồn, chồn mactet nâu, gấu mèo châu Mỹ, lửng, rái cá, cáo, linh miêu, sói, hoẵng, nai sừng tấm và đại bàng. Tại đây người ta tìm thấy nhiều chủng loài sinh vật hơn bất kỳ nơi nào khác trên lục địa – tuy vậy khu vực này không có núi bao quanh hay thung lũng bảo vệ để hình thành những chủng loại sinh vật bản địa đặc trưng độc đáo. Bialowieza Puszcza đơn giản chỉ là di tích của một khu rừng một thời đã kéo dài tới phía đông sang Siberia và phía tây sang Ireland. Không có gì đáng ngạc nhiên khi di sản sinh học nguyên vẹn này tồn tại được giữa Châu Âu là nhờ vào đặc quyền cao. Trong thế kỷ thứ 14, một vị công tước người Lát-vi tên là Wladyslaw Jagielîo, đã thành công trong việc hình thành một liên minh giữa lãnh địa công tước to lớn của ông với Vương quốc Ba Lan. Sau đó, ông tuyên bố khu rừng là khu vực săn bắn độc quyền của hoàng gia. Qua hàng thế kỷ, nó vẫn được giữ nguyên như thế. Khi liên minh Ba Lan - Lát-vi bị Nga thâu tóm, Bialowieza trở thành lãnh địa riêng của Sa hoàng. Mặc dù quân xâm lược Đức mặc sức khai thác gỗ và săn thú trong Thế chiến thứ nhất, phần rừng nguyên thủy ở giữa vẫn được giữ nguyên vẹn, và đến năm 1921, nó trở thành công viên quốc gia Ba Lan. Dưới thời Xô Viết, tình trạng cướp bóc gỗ lại tiếp tục trong một thời gian ngắn, nhưng khi Đức Quốc Xã xâm chiếm, một người theo trường phái sùng bái tự nhiên tên là Hermann Goring đã ra sắc lệnh tuyên bố toàn bộ vùng này là vùng cấm lui tới, trừ khi có sự chuẩn y của ông. Sau Thế chiến thứ hai, người ta đồn rằng vào một buổi tối ở Warsaw, Josef Stalin, khi ấy đang ngà ngà hơi men, đã đồng ý cho Ba Lan giữ lại hai phần năm khu rừng. Có rất ít thay đổi dưới thời cộng sản, ngoại trừ việc xây dựng một số ngôi nhà săn bắn đặc biệt. Thỏa thuận giải tán Liên bang Xô Viết thành các quốc gia tự do đã được ký kết vào năm 1991 tại một trong số các ngôi nhà đó - nhà săn bắn Viskuli. Nhưng hoá ra, dưới thời nền dân chủ Ba Lan và độc lập Belarus, khu bảo tồn cổ xưa này lại bị đe dọa nhiều hơn so với bảy thế kỷ cai trị của các hoàng đế và nhà độc tài. Bộ lâm nghiệp cả hai quốc gia đều tăng cường quản lý để bảo vệ sức khỏe của Puszcza. Tuy nhiên, quản lý rốt cuộc chỉ là mỹ từ dùng để chỉ việc khai thác và buôn bán các loại gỗ cứng trưởng thành lẽ ra sẽ trở thành nguồn dinh dưỡng tự nhiên cho khu rừng vào một ngày đẹp trời nào đó. Thật sửng sốt khi nghĩ rằng toàn bộ châu Âu đã từng có thời giống như Puszcza. Bước vào đó, ta sẽ nhận ra rằng hầu hết chúng ta đã được nuôi dưỡng thành một bản sao mờ nhạt của những gì tự nhiên đã mưu tính. Khi ngắm nhìn những cây tổng quán sủi với thân rộng tới hai mét, hoặc đi giữa những hàng cây cao nhất ở đây – cây vân sam Na Uy khổng lồ, xù xì như một cây Methuselah – lẽ ra sẽ gây ra cảm giác xa lạ, hệt như khi những người vốn sinh trưởng ở miền rừng thứ sinh yếu ớt ở khắp Bắc bán cầu nhìn thấy rừng Amazon hay Châu Nam Cực vậy. Song điều đáng ngạc nhiên là, chúng ta lại có cảm giác thật gần gũi. Và, ở một cấp độ tế bào nào đó, thật trọn vẹn nữa. Andrzej Bobiec ngay lập tức nhận ra điều này. Là một sinh viên ngành lâm học ở Krakow, anh được đào tạo về quản lý rừng để tối đa hóa năng suất, bao gồm cả việc loại bỏ lớp rác sinh học “thừa thãi” vì sợ rằng nó sẽ nuôi dưỡng những loài gây hại như bọ cánh cứng. Vì thế, trong một lần đến thăm nơi này, anh đã kinh ngạc khi phát hiện ra sự đang dạng sinh học nhiều gấp 10 lần so với bất kỳ khu rừng nào anh từng thấy. Đó là nơi duy nhất còn sót lại đủ chín loài chim gõ kiến Châu Âu, bởi vì, anh nhận ra rằng, một vài loài trong số chúng chỉ làm tổ trên những thân cây chết rỗng ruột. “Chúng không thể tồn tại trong rừng được quản lý,” anh tranh luận với các giáo sư lâm học của mình. “Bialowieza Puszcza đã tự quản lý cực hoàn hảo trong hàng thiên niên kỷ.” Thành ra, chàng trai cán bộ lâm nghiệp người Phần Lan trẻ tuổi với hàm râu quai nón lại trở thành một nhà lâm sinh học. Anh được ban quản lý công viên quốc gia Ba Lan tuyển dụng. Nhưng rốt cuộc, lại bị sa thải vì dám chống lại các kế hoạch quản lý dự tính khai thác quá gần trung tâm nguyên thủy của Puszcza. Trong nhiều tập san quốc tế, anh chống đối những chính sách cho rằng “rừng sẽ chết nếu thiếu sự giúp đỡ tận tâm của chúng ta,” hoặc những luận điệu bào chữa rằng việc đốn gỗ ở khu vực đệm xung quanh Bialowieza là để “tái thiết tính nguyên sinh của rừng.” Anh kêu rằng, lối suy nghĩ rắc rối này đã lan rộng trong nhóm những người châu Âu không còn chút ký ức nào về rừng rậm hoang dã. Để giữ gìn mối dây kết nối với ký ức của mình, trong suốt nhiều năm, mỗi ngày anh đều xỏ đôi ủng da và lội bộ xuyên qua Puszcza thân yêu. Mặc dù bản thân quyết liệt bảo vệ những khu vực rừng chưa bị con người quấy nhiễu, song Andrzej Bobiec vẫn không thể cưỡng nổi cám dỗ của chính bản chất con người trong mình. Một mình trong khu rừng, Bobiec đã đạt được sự đồng cảm vượt thời gian với những bằng hữu Homo sapiens. Sự hoang dã thuần khiết tới mức này chính là bản danh sách trắng ghi nhận hành trình nhân loại: một bản ghi chép mà anh đã học được cách đọc hiểu. Những lớp than củi trên đất chỉ cho anh biết nơi những đấu thủ đã từng dùng lửa phát hoang rừng để lấy cành non. Những hàng cây bu-lô và cây dương lá rung đang run rẩy minh chứng cho thời kỳ hậu duệ của Jagiello xao lãng việc săn bắn, có lẽ vì chiến tranh, kéo dài đủ lâu để những chủng loài ưa sáng tái chiếm cứ khu đất từng bị phát hoang. Dưới bóng râm của chúng mọc lên những cây gỗ non như tiết lộ rằng chính loài gỗ cứng đã có mặt ở đây từ trước. Dẫn dần, những cây này sẽ lấn lướt cây bu-lô và cây dương lá rung cho đến khi chúng phát triển như thể chưa từng biến mất. Khi Bobiec vô tình bắt gặp một loại cây bụi bất thường như táo gai hoặc một cây táo già, anh biết rằng mình đang đứng ngay trên nấm mồ của một ngôi nhà gỗ đã bị phá hủy cách đây rất lâu bởi chính những con vi khuẩn có khả năng biến những thân cây khổng lồ ở đây thành đất bồi. Bất kỳ một cây sồi đơn độc đồ sộ nào mà anh tìm thấy mọc lên từ một ụ đất thấp phủ đầy cỏ ba lá đều đánh dấu một nơi hỏa táng. Rễ cây đã hút chất dinh dưỡng từ tro bụi của tổ tiên Slavic của người Belarus ngày nay, những người đến từ phương đông cách đây 900 năm. Người Do Thái ở năm ngôi làng nhỏ xung quanh mai táng người chết tại bìa rừng phía tây bắc. Những bia mộ bằng đá sa thạch và đá hoa cương từ thập niên 1850, bị rễ cây đeo bám và kéo ngã, đã bị mài mòn nhẵn đến mức chúng bắt đầu nom giống hệt những viên đá cuội do những người họ hàng buồn đau của mình để lại, những người đã quá cố cách đó rất lâu. Andrzej Bobiec băng qua một trảng thông Scot màu lục lam, cách biên giới Belarus chưa tới một dặm. Buổi xế chiều tháng mười thật vắng lặng, anh có thể nghe được tiếng tuyết rơi. Bất thình lình, có tiếng xáo động phát ra từ tầng cây bụi, và hơn chục con bò rừng bison– Bison Bonasus, bò rừng bison Châu Âu – lao đến sau khi rời chỗ chúng gặm cây non. Chúng thở phì phò và cào chân xuống đất, đôi mắt đen khổng lồ chỉ giương lên nhìn ngó chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi đủ để có thể làm những gì mà tổ tiên chúng đã phát hiện rằng phải làm khi đối mặt với một trong những động vật hai chân yếu đuối giả tạo này: bỏ trốn. Chỉ còn 600 con bò rừng bison Châu Âu còn sót lại trong tự nhiên, gần như tất cả đều tập trung ở đây – hoặc chỉ một nửa, tuỳ thuộc vào định nghĩa ở đây là thế nào. Một tấm màn sắt chia đôi thiên đường này, được người Xô Viết dựng lên vào năm 1980 dọc theo biên giới để ngăn cản người đào tẩu theo phong trào đoàn kết nổi loạn ở Ba Lan. Mặc dù chó sói đã đào lỗ ở dưới chân, và người ta tin rằng hoẵng và nai sừng tấm có thể nhảy qua hàng rào, bầy động vật có vú lớn nhất châu Âu vẫn bị chia cắt, và cùng với nó, là quỹ gen - chia cắt và suy giảm nghiêm trọng, như một số nhà động vật học lo sợ. Sau Thế chiến thứ nhất, bò rừng ở các sở thú đã từng được mang đến đây để bổ sung cho một chủng loài đang gần tuyệt chủng vì các binh sỹ đói khát. Giờ đây, tàn dư của Chiến tranh Lạnh lại đe dọa chúng. Belarus, rất lâu sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ, vẫn không tháo dỡ tượng Lê-nin và cũng không thể hiện ý định gì là sẽ phá hủy hàng rào, nhất là khi biên giới Ba Lan hiện nay đã là biên giới của Liên minh Châu Âu. Mặc dù hai trụ sở công viên của hai quốc gia chỉ cách nhau 14 km, nhưng để nhìn thấy Belovezhskaya Pushcha, theo cách gọi ở Belarus, một du khách nước ngoài phải lái xe 100 dặm xuống phía nam, đón tàu hỏa băng qua biên giới đến thành phố Brest, trải qua một cuộc thẩm vấn vô vị, và thuê một chiếc xe lái ngược lên phía bắc. Đồng nhiệm người Belarus và người đồng chí hướng của Andrzej Bobiec, Heorhi Kazulka, là một nhà sinh học chuyên nghiên cứu động vật không xương sống có vẻ ngoài xanh xao, nhợt nhạt và là nguyên phó giám đốc của rừng nguyên sinh nằm bên phía Belarus. Ông cũng bị ban quản lý công viên quốc gia sa thải vì đã dám phản đối một trong những hạng mục xây dựng mới nhất của công viên – xưởng cưa. Ông không thể mạo hiểm để người khác trông thấy mình đi với một người Tây Âu. Bên trong căn hộ Brezhnev-era, nơi ông sinh sống ở bìa rừng, ông mời trà khách tham quan với vẻ tiếc nuối và thao thao bất tuyệt về giấc mơ của mình về một công viên quốc tế hòa bình, nơi bỏ rừng bison và nai sừng tấm Bắc Mỹ được rong chơi và sinh sản tự do. Những cây khổng lồ ở rừng Pushcha giống hệt như những cây ở Ba Lan; cũng là những cây hoa mao lương vàng, địa y và lá sồi đỏ bản to; cũng là những chú đại bàng đuôi trắng đang bay lượn, bất chấp hàng rào dây thép gai sắc lẹm bên dưới. Thật ra, ở cả hai phía, khu rừng đang thật sự sinh sôi phát triển, vì người làm nông đã rời khỏi những ngôi làng đang bị thu hẹp để lên các thành phố. Trong khí hậu ẩm ướt này, cây bu-lô và cây dương lá rung nhanh chóng xâm chiếm những cánh đồng khoai tây bỏ hoang; chỉ trong vòng hai thập kỷ, đất nông nghiệp đã nhường chỗ cho đất rừng. Bên dưới tán lá của những cây tiên phong, sồi, thích, địa y, cây đu, và cây vân sam đang tái sinh. Nếu 500 năm không có loài người, một khu rừng thật sự sẽ có thể sẽ trở lại. Ý nghĩ về một vùng nông thôn châu Âu ngày nào đó sẽ trở lại thành rừng nguyên thủy thật đáng phấn khởi. Nhưng trừ phi những con người cuối cùng còn tồn tại biết điều mà gỡ bỏ bức màn sắt Belarus trước khi ra đi, bằng không những chú bò rừng có thể sẽ tàn lụi theo họ. Cây sồi 500 năm tuổi ở rừng Bialowieza Puszcza, thuộc Phần Lan. (Ảnh của Janusk Korbel). Chương 2. SAN BẰNG NHÀ CỬA “‘Nếu anh muốn phá hủy một cái nhà kho,’ một nông dân > có lần đã nói với tôi, ‘hãy khoét một cái lỗ với diện tích một trăm hai mươi cm vuông trên mái. Rồi đứng chờ.’” – Kiến trúc sư Chris Riddle Amherst, Massachusetts Vào ngày nhân loại biến mất, thiên nhiên lên nắm quyền và lập tức bắt tay vào dọn dẹp nhà cửa – nói đúng hơn là rất nhiều nhà cửa. Quét sạch chúng khỏi bề mặt Trái đất. Tất cả rồi sẽ biến hết. Nếu là chủ một ngôi nhà, bạn đã biết rằng với ngôi nhà của mình, đó chỉ là vấn đề thời gian, nhưng bạn vẫn không chịu thừa nhận, thậm chí khi sự xói mòn tấn công không thương tiếc, bắt đầu bằng tiền tiết kiệm của bạn. Quay lại thời điểm bạn được báo giá nhà, không ai đề cập đến những gì bạn phải chi trả để thiên nhiên không thu hồi căn nhà của bạn trước cả khi ngân hàng làm điều đó. Thậm chí nếu bạn sống trong một khu vực hậu hiện đại đã biến tính sâu sắc, nơi những cỗ máy nặng nề hàng phục phong cảnh thiên nhiên, thay thế quần thể thực vật tự nhiên ngang ngược bằng những thảm cỏ ngoan ngoãn và những cây non giống hệt nhau, san lấp những đầm lầy trên danh nghĩa chính đáng là kiểm soát muỗi – ngay cả khi đó, bạn vẫn biết rằng thiên nhiên không hề sợ hãi. Dù bạn cách ly môi trường điều hoà nhiệt độ trong nhà và thời tiết bên ngoài kĩ càng đến mấy, các bào tử vô hình vẫn sẽ thâm nhập vào nhà bạn, và bùng nổ với những cơn bộc phát của nấm mốc – thật kinh khủng khi bạn nhìn thấy chúng, nhưng nếu bạn không nhìn thấy thì tình hình còn bi đát hơn, bởi vì chúng ẩn bên dưới những bức tường phủ sơn, nhấm nháp những lớp giấy bên trong tấm thạch cao, làm mục rữa đinh vít và dầm sàn. Hoặc bạn sẽ bị mối, kiến đục gỗ, gián, ong bắp cày thậm chí là các loài thú nhỏ xâm lược. Tuy nhiên, trên hết, bạn sẽ bị bao vây bởi một thứ mà trong những bối cảnh khác lại là nguồn sống đích thực: nước. Nước luôn luôn muốn chảy vào nhà. Sau khi chúng ta biến mất, sự báo thù của thiên nhiên đối với tính ưu việt cơ khí hóa, tự mãn của chúng ta sẽ đến từ đường thủy. Bắt đầu từ những công trình có khung gỗ, kỹ thuật xây dựng nhà ở phổ biến nhất tại những nước phát triển. Nó bắt đầu từ trên mái nhà, thường được lợp bằng nhựa đường hoặc ngói, được cam đoan có độ bền kéo dài hai đến ba thập kỷ - nhưng sự bảo đảm này không tính đến khu vực xung quanh ống khói, nơi xuất hiện sự rò rỉ đầu tiên. Khi những tấm ngăn nước bị tách rời dưới sự tấn công bền bỉ của mưa, nước rỉ vào bên dưới lớp ngói lợp. Nước chảy qua những tấm ngói lợp kích thước 1,2 x 2,4 m, làm bằng gỗ dán hoặc, nếu mới hơn, bằng ván gỗ ép dày mười đến mười ba cm được tạo thành từ những phiến gỗ, ghép lại với nhau bằng nhựa thông. Mới hơn chưa chắc đã tốt hơn. Wernher Von Braun, nhà khoa học người Đức đã phát triển chương trình không gian Hoa Kỳ, từng kể một câu chuyện về Tướng John Glenn, người Mỹ đầu tiên bay vòng quanh Trái đất. “Vài giây trước khi cất cánh, khi Glenn đang ngồi chết dí trong chiếc tên lửa mà chúng tôi chế tạo cho ông và mọi nỗ lực đỉnh cao của nhân loại tất cả đều tập trung cho khoảnh khắc đó, bạn có biết ông ấy tự nói gì với bản thân không? ‘Ôi Lạy Chúa! Con đang ngồi trên một đống hàng rẻ tiền!’” Bên trong ngôi nhà mới của mình, bạn cũng đang ngồi trong một thứ tương tự. Một mặt, điều đó hoàn toàn đúng: bằng cách xây dựng mọi thứ thật rẻ và nhẹ, chúng ta đang sử dụng nguồn lực thế giới ít hơn. Mặt khác, những thân cây khổng lồ dùng làm cột và xà gỗ hảo hạng chống đỡ các bước tường thời trung cổ ở châu Âu, Nhật Bản và châu Mỹ trong thời kỳ đầu, nay đã trở nên quá đắt đỏ và quý hiếm, vì vậy chúng ta buộc phải thay tạm bằng cách lắp ghép những mảnh và mẫu gổ nhỏ hơn. Loại nhựa thông được sử dụng trong mái gỗ ép giá cả phải chăng của bạn, một loại chất nhờn không thấm nước làm từ formaldehyde và phenol polymer, cũng được phết dọc theo các cạnh hở của ván lợp, nhưng cũng chẳng ăn thua gì vì hơi ẩm sẽ thâm nhập xung quanh những chiếc đinh. Chúng sẽ nhanh chóng bị rỉ, bắt đầu long ra. Điều đó không chỉ dẫn đến rò rỉ bên trong mà còn mang theo tình trạng rối loạn cấu trúc. Ngoài nhiệm vụ làm lớp lót bên dưới mái ngói, lớp gỗ lót còn giữ chặt những thanh giàn với nhau. Những thanh giàn – những thanh giằng thô được liên kết bằng tấm nối kim loại - dùng để giữ cho mái không bị nghiêng. Nhưng khi lớp gỗ lót long ra, toàn bộ cấu trúc cũng sẽ long theo. Khi cường độ trọng lực lên những thanh giàn gia tăng, những cây đinh 0,6 cm dùng để gắn kết những tấm nối nay đã rỉ sét long ra khỏi lớp gỗ ẩm ướt, được bao phủ bằng một lớp nấm mốc màu xanh mờ nhạt. Bên dưới lớp nấm mốc, những sợi nấm mảnh đang âm thầm tiết ra chất enzyme nhằm bẻ gãy xenluylô và linhin thành thức ăn cho chúng. Tình trạng tương tự cũng xảy ra với sàn nhà bên trong. Khi mất đi nhiệt sưởi, đường ống sẽ bị vỡ nếu bạn sống ở khu vực có thời tiết giá lạnh, mưa thổi vào những ô cửa sổ nứt vỡ vì bị chim đâm, mổ, và dưới áp lực của tường lún. Thậm chí khi kính vẫn nguyên vẹn, mưa và tuyết vẫn âm thầm bền bỉ tìm đường vào từ bên dưới kẽ cửa. Khi gỗ tiếp tục mục rữa, những thanh giàn bắt đầu đổ sập lên nhau. Rồi bức tường sẽ nghiêng hẳn một phía, và cuối cùng mái nhà đổ sụp xuống. Căn nhà kho với một cái lỗ 46 x46 cm trên mái sẽ biến mất trong vòng 10 năm. Nhà của bạn có thể tồn tại được 50 năm, nhiều nhất là 100 năm. Trong khi toàn bộ thảm họa đó vừa chớm nở, bọn sóc, gấu mèo châu Mỹ, và thằn lằn đã bắt đầu kéo vào nhà, làm tổ trên những bức tường khô ráo, trong khi một con chim gõ kiến đục lối vào từ phía đối diện. Nếu ban đầu chúng bị cản trở bởi lớp vỏ ngoài được cho là “không thể bị huỷ diệt” làm từ nhôm, nhựa vinyl, hoặc loại ván che làm từ sợi xenluylô xi măng portland không cần bảo trì được gọi là ván Hardie, những con thú này chỉ cần đợi một thế kỷ cho đến khi hầu hết số vật liệu này ngã xuống. Màu ngâm tẩm công nghiệp gần như biến mất, và khi nước tìm được lối đi quen thuộc qua những vết cắt và lỗ đóng đinh trên ván, bọn vi khuẩn cần mẫn gặm nhấm những phần vật liệu có gốc thực vật và bỏ lại phần vô cơ. Màu sắc lớp ván bọc ngoài bằng nhựa vinyl sẽ sớm phai mờ. Và khi đổ xuống, chúng trở nên giòn và dễ vỡ vì chất dẻo thoái hóa. Tình trạng của lớp nhôm có vẻ khá khẩm hơn, nhưng muối có trong nước bám bề mặt ăn mòn nó từ từ, tạo thành một lớp phủ màu trắng sần sùi. Trong nhiều thập niên, thậm chí sau khi đã phơi bày ra môi trường bên ngoài, lớp mạ kẽm vẫn bảo vệ đường ống sưởi ấm - làm mát của bạn. Nhưng nước và không khí sẽ hợp lực chuyển hóa nó thành ô-xít kẽm. Khi lớp mạ ngoài bị triệt tiêu, những lớp thép mỏng manh không được bảo vệ sẽ tan rã trong vòng vài năm. Trước đó rất lâu, thạch cao bên trong các tấm đá phiến, vốn dễ tan trong nước, đã chảy trở vào đất. Thứ duy nhất vẫn trụ vững nay chỉ còn ống khói, nơi khởi nguồn của tất cả mọi rắc rối. Sau một thế kỷ, nó vẫn đứng vững, nhưng những viên gạch bắt đầu rơi vỡ vì lớp vữa vôi dần dần sụp đổ và vỡ vụn do sự thay đổi nhiệt độ. Nếu bạn có hồ bơi, giờ nó sẽ trở thành một chiếc hộp cây cảnh, chứa đầy cây cảnh con do nhà thầu xây dựng nhập về, hay các loài cây tự nhiên từng bị trục xuất vẫn đang rình rập xung quanh, chờ đợi cơ hội tái chiếm lãnh thổ. Nếu ngôi nhà có tầng hầm, nó cũng sẽ bị phủ đầy đất và cây cỏ. Cây mâm xôi và nho dại bò quanh các ống gas bằng thép sẽ sớm mục nát trước khi một thế kỷ nữa trôi qua. Hệ thống ống nước bằng nhựa PVC trắng ngả sang màu vàng và mỏng dần đi ở những chỗ bị phơi dưới ánh sáng, nơi chất clorua chuyển hoá thành a-xít clohyric dưới tác động của thời tiết, và dần dà gặm nhấm chính bản thân chúng và các anh em polyvinyl của chúng. Chỉ có đá lát phòng tắm hầu như không biến đổi vì thuộc tính hóa học của gốm nung không giống như vật liệu hóa thạch, mặc dù giờ đây chúng đã nằm im dưới lớp lớp lá khô mục. Sau 500 năm, những gì còn lại tùy thuộc vào nơi bạn sống. Ở những nơi khí hậu ôn hòa, một khu rừng sẽ thay thế vùng ngoại ô; ngoại trừ một vài ngọn đồi, còn quang cảnh sẽ trở lại giống như những ngày đầu tiên các nhà thầu xây dựng hoặc nông dân, nay đã biến mất, nhìn thấy nó. Giữa các thân cây, bị tầng thực vật thấp che phủ gần hết là những bộ phận của máy rửa chén bát bằng nhôm và nồi niêu xoong chảo bằng thép không rỉ nằm lăn lóc, tay cầm bằng nhựa của chúng đã vỡ nát nhưng vẫn giữ nguyên thể rắn. Trong những thế kỷ tiếp theo, mặc dù không còn nhà luyện kim nào còn tồn tại để tính toán, song tốc độ rỗ và mòn của nhôm cuối cùng cũng sẽ được hé lộ: nó là một dạng vật chất khá mới, những người tiền sử không biết đến nhôm bởi vì quặng nhôm phải được tinh chế qua quá trình điện phân để tạo thành nhôm tinh khiết. Tuy nhiên, hợp kim crôm, nhân tố mang lại tính đàn hồi cho thép không rỉ, chắc chắn sẽ tiếp tục tồn tại trong hàng thiên niên kỷ tới, đặc biệt nếu nồi, chảo và bộ dao kéo làm bằng thép có hàm lượng carbon cao được chôn cách ly khí oxy. Một trăm ngàn năm sau đó, dạng phát triển thông minh của bất kỳ sinh vật nào đào chúng lên cũng sẽ lập tức được đẩy một trình độ tiến hóa cao hơn nhờ phát hiện ra những công cụ làm sẵn. Sau đó, tình trạng thiếu kiến thức cần thiết để sản xuất thêm những bản sao của chúng lại có thể biến thành một nỗi thất vọng cùng cực– hoặc một bí ẩn khơi gợi trí tưởng tượng giúp kích thích ý thức tôn giáo. Nếu bạn là một cư dân vùng sa mạc, những sản phẩm bằng nhựa của cuộc sống hiện đại sẽ bong tróc nhanh hơn, vì chuỗi polymer sẽ bị bẻ gãy dưới sự tấn công từ tia tử ngoại của ánh mặt trời hàng ngày. Nhờ độ ẩm thấp hơn, gỗ sẽ tồn tại lâu hơn ở vùng này, song bất kỳ kim loại nào tiếp xúc với đất sa mạc có hàm lượng muối cao đều bị ăn mòn nhanh chóng. Nhưng, từ những tàn tích của đế chế La Mã, chúng ta có đủ cơ sở để dự đoán rằng gang dày sẽ có mặt trong bản ghi chép khảo cổ học tương lai; vì thế vẫn còn một hy vọng mong manh rằng một ngày nào đó, những trụ cứu hỏa ngoi lên giữa những cây xương rồng có thể là một trong những manh mối ít ỏi về sự hiện diện của nhân loại. Mặc dù tường bằng gạch sống và thạch cao sẽ bị ăn mòn, nhưng những ban công và lưới cửa sổ bằng sắt đúc từng tô điểm cho công trình vẫn phần nào giữ được hình hài, dẫu mỏng như vải tuyn, vì cốt thủy tinh không thể bị ăn mòn. Đã có thời, con người xây dựng các công trình hoàn toàn từ những vật liệu bền nhất mà chúng ta từng biết đến: ví như đá hoa cương. Ngày nay, những thành quả đó vẫn còn tồn tại trước sự ngưỡng mộ của người đời sau; nhưng kiểu xây dựng đó không còn được thế giới hiện đại ưa chuộng nữa, bởi vì quá trình khai thác, cắt xẻ, vận chuyển và lắp ghép các khối đá đòi hỏi đức tính kiên nhẫn mà chúng ta đã đánh mất. Kể từ thời Antoni Gaudi khởi lập nhà thờ La Mã Sagrada Familia tại Barcelona vào năm 1880 (nhà thờ này đến nay vẫn chưa hoàn thiện!), chẳng còn ai tính chuyện đầu tư vào những công trình chỉ có thể được hoàn thành trong 250 năm sau đó bởi cháu chắt chút chít của mình nữa. Hơn nữa chi phí cũng không rẻ, vì chẳng còn lấy đâu ra hàng ngàn nô lệ làm việc miễn phí nữa, nhất là khi ta đem so sánh với một phát minh khác của người La Mã: bê tông. Ngày nay, hỗn hợp đất sét, cát và bột nhão làm từ chất canxi của các loại vỏ sò, vỏ ốc cổ đại được làm cứng lại thành một loại đá nhân tạo đang là lựa chọn kinh tế nhất đối với các Homo sapiens urbanus(con người đô thị). Vậy, điều gì sẽ xảy ra với những thành phố xi măng hiện đang là nơi cư ngụ của già nửa dân số thế giới? Trước khi xem xét điều đó, chúng ta vẫn còn có một vấn đề liên quan đến khí hậu cần phải chú ý. Nếu ngày mai chúng ta tan biến, xung lượng của một vài lực tác động nhất định mà chúng ta đã tạo ra vẫn sẽ tồn tại cho đến khi trọng lực, hóa học, en-trô-pi tích tụ hàng thế kỷ kéo chúng về một trạng thái cân bằng, có lẽ chỉ mô phỏng phần nào hiện trạng đã tồn tại trước chúng ta. Trạng thái cân bằng cũ phụ thuộc vào một khối lượng các-bon khá lớn bị giam giữ bên dưới lớp vỏ cứng của trái đất, nay đã bị chúng ta “chuyển khẩu” một phần lớn vào bầu khí quyển. Thay vì mục rữa, khung gỗ của những ngôi nhà có thể sẽ được bảo quản chẳng khác nào gỗ của những chiến thuyền Tây Ban Nha ở những nơi biển ngâm chúng vào nước mặn. Ở vùng ấm hơn, sa mạc có thể trở nên khô cằn hơn, nhưng ở những nơi con người từng cư trú sẽ được đón nhận cuộc viếng thăm của thứ đã thu hút họ tìm đến ngày trước: dòng nước chảy. Từ Cario tới Phoenix, những thành phố sa mạc mọc lên nơi dòng sông thổi sự sống vào đất đai khô cằn. Và rồi khi dân số tăng lên, loài người chiếm quyền kiểm soát những dòng chảy huyết mạch này, điều chỉnh chúng theo những hướng giúp họ phát triển hơn nữa. Nhưng sau khi loài người biến mất, mọi sự uốn nắn kìm kẹp cũng sẽ nhanh chóng theo họ mà đi. Khí hậu khô và nóng hơn, được sự tiếp sức của hệ thống khí hậu núi ẩm ướt hơn, lắm bão tố hơn, gây ra những cơn lũ ào ạt xuôi dòng, tràn qua đập nước, lan rộng khắp vùng đồng bằng phù sa trước đây và chôn vùi mọi công trình xây trên đó dưới lớp bùn tích tụ nhiều năm. Bên trong đó, những trụ nước cứu hỏa, bánh xe tải, mảnh kính vỡ, chung cư cao cấp và tòa nhà văn phòng có thể sẽ tồn tại vô hạn định, nhưng bị khuất lấp khỏi tầm nhìn, hệt như tình trạng của những tàn tích của Kỷ các bon trước đây. Sẽ không có đài tưởng niệm nào đánh dấu nơi an táng chúng, mặc dù rễ cây dương, cây liễu và cây cọ thỉnh thoảng có thể ghi nhận sự hiện diện của chúng. Sau hàng niên kỷ nữa, khi núi già mòn cạn và núi trẻ vươn lên, những dòng sông trẻ có thể tạo nên những đường rãnh mới xuyên qua lớp trầm tích, để lộ chút dư âm của những gì đã từng tồn tại nơi đây. Chương 3. THÀNH PHỐ PHI NHÂN LOẠI Ý nghĩ rằng một ngày nào đó, thiên nhiên có thể nuốt trọn một thứ khổng lồ và vững chắc như một thành phố hiện đại không dễ gì xuất hiện trong trí tưởng tượng của chúng ta. Thật khó để hình dung một thành phố với kích thước khổng lồ như New York lại có thể biến mất. Những sự kiện tháng chín năm 2001 chỉ cho thấy con người có thể làm gì với những vũ khí hủy diệt trong tay, nhưng không thể hiện khả năng tàn phá của các quá trình tự nhiên như xói mòn hay mục rữa. Sự sụp đổ nhanh chóng của tòa tháp đôi Trung tâm Thương mại Thế giới khiến chúng ta nghĩ nhiều về những kẻ tấn công hơn là những nhược điểm chí tử có thể kết liễu toàn bộ cơ sở hạ tầng của chúng ta. Thậm chí, thảm họa kinh hoàng trăm-năm-có-một đó chỉ xảy ra với một vài tòa nhà. Tuy nhiên, thời gian cần thiết để thiên nhiên xóa sạch những tác phẩm của cuộc sống đô thị có lẽ sẽ ngắn hơn giả định của chúng ta. Năm 1939, một hội chợ quốc tế được tổ chức tại New York. Chính phủ Ba Lan đã gửi trưng bày một bức tượng của Wladyslaw Jagiello. Nhà sáng lập Bialowieza Puszcza không được đúc tượng vì công lao bảo tồn khu rừng nguyên sinh sáu trăm năm trước. Nhờ cuộc kết hôn với nữ hoàng, Jagiello đã hợp nhất Ba Lan và lãnh địa công tước của mình tại Lithuania thành một thế lực lớn ở châu Âu. Bức tượng tạc hình ông cưỡi trên lưng ngựa sau chiến thắng trận Grunwald vào năm 1410. Ông hân hoan giương cao hai thanh gươm đoạt được từ kẻ thù của Ba Lan vừa bị đánh bại, Giáo binh đoàn Thập tự chinh Giéc-manh. Tuy nhiên, vào năm 1939, người Ba Lan vẫn không hòa hợp nổi với hậu duệ của Giáo binh đoàn Giéc-manh. Trước khi hội chợ quốc tế New York kết thúc, quân Đức quốc xã của Hitler đã chiếm Ba Lan và bức tượng không thể trở về cố hương. Sau sáu năm đau thương, chính phủ Ba Lan đã tặng bức tượng này cho New York như một biểu tượng về những công dân can đảm vẫn sống sót sau bao cực hình tra tấn. Bức tượng Jagiello được đặt tại công viên Central, nhìn về phía mà ngày nay được gọi là Turtle Pond (hồ Con rùa). Khi Tiến sĩ Eric Sanderson dẫn đoàn người đi vòng quanh công viên, ông và các bạn hữu thường không dừng lại mỗi khi ngang tượng Jagiello, bởi vì tất cả đều đang đắm chìm trong một thế kỷ khác – thế kỷ thứ 17. Mang một cặp kính bên dưới chiếc mũ phớt rộng vành, bộ râu xám phủ quanh cằm được tỉa tót gọn gàng cùng với một chiếc máy tính xách tay nhét trong ba lô, Sanderson là một nhà sinh thái học cảnh quan của Tổ chức Bảo tồn Động vật Hoang dã, một đội ngũ những nhà nghiên cứu quốc tế đang cố gắng cứu trái đất thoát khỏi tình cảnh hiểm nghèo. Trong văn phòng chính của họ đặt tại sở thú Bronx, Sanderson đang chỉ đạo Dự án Mannahatta, một nỗ lực nhằm tái tạo Manhattan như khi thủy thủ đoàn của Henry Hudson lần đầu tiên nhìn thấy hòn đảo này vào năm 1609: một hình ảnh tiền đô thị gợi lên những suy đoán về viễn cảnh hậu nhân loại. Nhóm của ông lùng sục những tài liệu Hà Lan cổ, những bản đồ quân sự của thực dân Anh, những khảo sát địa hình và tài liệu đủ loại lưu trữ hàng trăm năm trên khắp khu vực. Họ thăm dò địa chất, phân tích phấn hoa hóa thạch và nhập hàng ngàn bit dữ liệu sinh học vào trong một phần mềm tái hiện nhằm tạo ra toàn cảnh ba chiều của vùng rừng rập rạp bên cạnh một đô thị. Sau mỗi lần nhập liệu mới về một loài cỏ hoặc cây mang giá trị lịch sử tại một số khu vực trong thành phố, hình ảnh hiện ra ngày càng chi tiết hơn, đáng ngạc nhiên hơn và thuyết phục hơn. Mục tiêu của họ là một đường dẫn chi tiết theo từng khu phố đến khu rừng đã biến mất này, thậm chí Eric Sanderson dường như nhìn thấy rõ ràng khu rừng này mỗi khi ngồi trên chiếc xe buýt len lỏi trên đại lộ Số 5. Khi Sanderson tản bộ qua công viên Central, ông có thể nhìn qua gần bốn trăm ngàn mét khối đất do hai nhà thiết kế, Frederick Law Olmstead và Calvert Vaux, mang đến nhằm lấp đầy vùng đất vốn là một đầm lầy lớn được bao bọc bởi cây sồi độc và cây sơn. Ông có thể lần theo dấu vết bờ đất của một hồ nước dài và hẹp đã từng nằm dọc theo phố 59 ngày nay, ở phía bắc khách sạn Plaza, với cửa thoát nước mỗi khi thuỷ triều lên uốn lượn chảy qua một đầm nước mặn vào sông Đông. Từ phía tây, ông có thể nhìn thấy hai dòng suối chảy xuống hồ trải dọc chiều dài sườn dốc chính của Manhattan, đây một thời là lối đi của nai và sư tử núi. Nơi này chính là Broadway ngày nay. Eric Sanderson nhìn thấy nước chảy khắp nơi trong thành phố, phần lớn đang sủi tăm dưới lòng đất (“đó là lý do tại sao Phố Spring – Phố Suối mang tên ấy.”). Ông xác định có hơn 40 dòng suối và luồng nước chảy qua vùng đất từng là một hòn đảo lắm đồi núi, nhiều đá sỏi: theo ngôn ngữ Algoquin của những cư dân đầu tiên có mặt ở đây, người Lenni Lenape, Mannahatta ám chỉ những ngọn đồi đã biến mất. Khi những nhà quy hoạch New York ở thế kỷ thứ 19 áp đặt một mạng lưới đường phố lên vùng đất ở phía bắc Greenwich Village – chính là hệ thống đường phố nguyên thủy rối như mớ bòng bong dẫn đến miền nam mà nay đã trở thành “bất khả tháo gỡ”– họ dường như không thèm đếm xỉa đến địa hình địa thế. Ngoại trừ một số khối diệp thạch khổng lồ không thể di dời trong Công viên Trung tâm và tại điểm cực bắc của hòn đảo, còn thì kết cấu địa hình của Manhattan đều bị nhào nặn và dồn ép vào những dòng suối, bị cào bằng và san phẳng nhằm tạo nên một thành phố hiện đại. Hình ảnh Manhattan vào khoảng năm 1609, được đặt cạnh Manhattan năm 2006, cho thấy những khu vực rộng lớn không bị nhà cửa chiếm chỗ ở cực bắc hòn đảo. Sau đó, những dòng chảy mới xuất hiện, lần này chúng chảy theo các đường thẳng và góc nhọn, chủ yếu là vì những dòng nước từng một thời chạm trổ hòn đảo đã bị ép phải chảy bên dưới lòng đất qua một mê cung đường ống. Dự án Mannahatta của Eric Sanderson cho thấy hệ thống cống rãnh hiện đại mô phỏng khá sát những mạch nước cũ, mặc dù những đường ống nhân tạo không thể chuyên chở dòng chảy hiệu quả như tự nhiên. Trong một thành phố tự chôn vùi các dòng sông của mình, ông rút ra một kết luận: “Mưa vẫn rơi. Chúng phải chảy xuống đâu đó.” Khi điều đó xảy ra, nó sẽ là mấu chốt để chọc thủng lớp vỏ bọc của Manhattan nếu tự nhiên bắt tay vào công cuộc triệt phá thành phố. Cuộc tấn công sẽ bắt đầu rất nhanh, với cú đánh đầu tiên nhắm vào điểm dễ bị tổn thương nhất: phần bụng dưới. Paul Schuber và Peter Briffa là hai nhân viên của hệ thống tàu điện ngầm New York City Transit, một người là trưởng ban giám sát thủy lực và một giám sát viên bảo trì cấp một của lực lượng phản ứng thủy lực khẩn cấp, biết rất rõ chuyện đó sẽ xảy ra như thế nào. Mỗi ngày, họ phải ngăn cản 13 triệu gallon nước (hơn 11,3 tỷ lít) tấn công các đường tàu điện ngầm New York. “Đó chỉ là lượng nước có sẵn trong lòng đất,” Schuber giải thích. “Khi trời mưa, lượng nước là…” Briffa giơ tay đầu hàng. “Không thể tính nổi.” Có lẽ việc tính toán cũng không phải là bất khả thi, nhưng ngày nay lượng mưa không kém cạnh gì quãng thời gian với trước khi thành phố được xây dựng. Lúc đó, Manhattan là một vùng đất xốp rộng 27 dặm vuông được bao phủ bởi mạng lưới rễ cây chằng chịt. Mực nước mưa trung bình hàng năm thời đó là 119 cm, một phần được cây cối và những đồng cỏ hút vào và thải trở lại bầu khí quyển. Lượng nước không được rễ cây hút sẽ lắng xuống bọng nước ngầm của đảo. Ở nhiều nơi, nước trồi lên mặt đất, tạo thành các hồ và đầm lầy, lượng nước dư thừa đổ vào đại dương thông qua khoảng 40 con suối – ngày nay, tất cả lượng nước đó đang bị kẹt bên dưới bê tông và nhựa đường Ngày nay, vì còn rất ít đất để thấm nước mưa hoặc cây cối để thoát hơi nước và vì các tòa nhà ngăn cản ánh mặt trời giúp nước bốc hơi, nên nước mưa đọng lại thành vũng hoặc chảy xuống cống rãnh dưới tác dụng của trọng lực – hoặc chảy vào những mạch ngầm, gia tăng lượng nước đã có sẵn trong lòng đất. Chẳng hạn, bên dưới phố131 và đại lộ Lenox, một dòng sông ngầm đang được hình thành, làm xói mòn phần móng của tuyến tàu điện ngầm A, B, C và D. Những người mặc áo bảo hộ phản quang và mang bốt denim như Schuber và Briffa phải liên tục leo trèo dưới lòng thành phố để xử lý vấn đề nguồn nước ngầm đang đều đặn dâng lên bên dưới New York. Khi trời mưa lớn, hệ thống cống rãnh bị tắc nghẽn vì những đống rác khổng lồ – số lượng túi rác nhựa trôi giạt ở các thành phố trên thế giới có lẽ thật sự vượt quá khả năng tính toán của chúng ta. Nước cần phải chảy về nơi nào đó, vì thế chúng đổ xuống đường tàu điện ngầm gần nhất. Nếu có thêm gió đông bắc, những đợt sóng của Đại Tây Dương sẽ liên tục đập vào bọng nước ngầm của New York cho đến khi, ở những nơi như Phố Water tại khu vực hạ Manhattan hoặc sân vận động Yankee ở Bronx, nước đảo chiều, chảy ngược lên các đường hầm, lan tràn khắp nơi cho đến khi nó có thể rút dần đi. Nếu đại dương tiếp tục ấm lên và nước biển dâng lên nhanh hơn mức 2,5 cm/mỗi thập kỷ hiện tại, thì đến một ngày nước sẽ không rút đi được nữa. Schuber và Briffa đều không biết khi đó chuyện gì sẽ xảy ra. Thêm vào đó, hệ thống ống nước chính cổ lỗ sĩ từ thập niên 1930 thường xuyên bị vỡ và thứ duy nhất đang giúp thành phố New York thoát khỏi cảnh ngập lụt là sự cảnh giác liên tục của đội ngũ nhân viên tàu điện ngầm và 753 chiếc máy bơm. Cớ sao lại có những chiếc máy bơm này? Là vì, hệ thống tàu điện ngầm của New York, kì quan cơ khí kiến trúc ra đời năm 1903, nằm bên dưới một thành phố đã tồn tại và phát triển. Vì thành phố đã có sẵn hệ thống cống, nên hệ thống tàu điện ngầm chỉ có thể xây dựng bên dưới đường cống. “Vì thế,” Schuber giải thích, “chúng tôi buộc phải bơm nước ngược lên.” Riêng về khoản này, New York không phải là ngoại lệ, những thành phố như Luân Đôn, Moscow, và Washington cũng xây dựng hệ thống tàu điện ngầm rất sâu trong lòng đất, thường là để đóng vai trò hầm tránh bom luôn. Do đó, chúng tiềm ẩn nhiều hiểm hoạ. Đội chiếc mũ bảo hộ màu trắng che nắng, Schuber chăm chú nhìn xuống một miệng hầm vuông bên dưới ga điện ngầm Van Siclen Avenue ở Brooklyn. Từ đây mỗi phút có khoảng 2,5 ngàn lít nước ngầm phun trào từ lớp đá móng. Đưa tay hướng về phía những dòng nước đang tuôn ào ạt, ông chỉ ra bốn chiếc bơm bằng thép có thể lặn trong nước đang thay nhau chiến đấu chống lại trọng lực. Những máy bơm này hoạt động bằng điện. Khi mất điện, tình hình sẽ xấu đi rất nhanh. Sau cuộc tấn công vào Trung tâm Thương mại Thế giới, một loạt máy bơm khẩn cấp mang một máy phát điện di động khổng lồ chạy bằng dầu diesel đã bơm ra một khối lượng nước bằng 27 lần thể tích sân vận động Shea. Nếu sông Hudson chọc thủng các đường hầm PATH nối liền hệ thống tàu điện ngầm của New York và New Jersey, như nhiều người vẫn hằng lo sợ, thì hệ thống máy bơm nói trên – và có lẽ hầu hết thành phố - sẽ chìm nghỉm trong nước. Trong một thành phố bị bỏ hoang, sẽ không còn ai như Paul Schuber và Peter Briffa tức tốc đến cứu nguy các trạm bị ngập khi lượng mực nước mưa cao hơn 5 cm – gần đây tình trạng này xảy với tần số đang báo động. Đôi khi, họ phải vác các vòi phun lên cầu thang để bơm nước vào một cống thoát nước trên phố; lại có lúc, họ ngồi trên các thuyền phao để điều chỉnh đường ống. Không còn loài người, cũng sẽ không còn điện. Máy bơm sẽ ngưng hoạt động và trở nên vô dụng. “Khi hệ thống bơm này ngừng lại,” Schuber nói, “trong vòng nửa giờ đồng hồ, mực nước sẽ dâng cao đến nỗi tàu không thể chạy qua được nữa.” Briffa tháo kính bảo hộ rồi dụi mắt. “Ngập lụt ở một khu vực sẽ khiến nước tràn vào những khu vực khác. Trong vòng 36 giờ, toàn bộ khu vực sẽ ngập trong nước.” Họ ước tính, thậm chí nếu trời không mưa, thì chỉ cần các máy bơm ngầm ngừng hoạt động, cảnh ngập lụt cũng sẽ xảy ra sau vài ngày. Khi đó, nước bắt đầu làm xói mòn lớp đất bên dưới vỉa hè. Đường phố sẽ nhanh chóng bị nứt nẻ. Không có ai khai thông cống rãnh, một vài kênh rạch mới sẽ xuất hiện trên đường phố. Một số khác sẽ bất ngờ xuất hiện khi các trần của hệ thống tàu điện ngầm bị sụp đổ vì bị nước dồn nén. Trong vòng 20 năm, các cột thép chống đỡ đường phố phía trên các tuyến đường tàu số 4, 5 và 6 của East Side sẽ mòn vẹt, oằn cong vì bị ngâm nước. Khi đại lộ Lexington sụp đố, nó sẽ trở thành một dòng sông. Tuy nhiên, trước đó khá lâu, tất cả vỉa hè trong thành phố đều đã “ăn đủ”. Theo Tiến sĩ Jameel Ahmad, chủ tịch khoa xây dựng dân dụng tại trường Cooper Union ở New York, các công trình sẽ bắt đầu nứt vỡ vào tháng ba đầu tiên kể từ khi Manhattan không còn bóng dáng loài người. Cứ mỗi tháng ba hàng năm, nhiệt độ thường dao động quanh mốc 0o C khoảng 40 lần (với giả định rằng khí hậu tháng ba của thời điểm đó có thể giống khí hậu tháng hai của thời điểm này). Dù ở bất cứ đâu, tình trạng đóng băng và tan băng lặp đi lặp lại sẽ khiến nhựa đường và xi măng nứt nẻ. Khi băng tan, nước rỉ vào các khe nứt mới. Khi bị đóng băng, nước tăng thể tích và các khe nứt cũng bị nới rộng. Hãy gọi đó là sự trả thù của nước vì bị chèn ép bên dưới một đô thị sầm uất. Hầu hết các hợp chất khác sẽ co lại khi đóng băng, nhưng phân tử H2O thì ngược lại, chúng sẽ chuyển đổi cấu trúc phân tử sang dạng tinh thể lục giác tinh tế, nên thể tích sẽ tăng khoảng 9% so với cấu trúc ở dạng lỏng. Thật khó để tưởng tượng rằng các tinh thể sáu cạnh như hoa tuyết mỏng manh kia có thể đâm nát các lớp bê tông vỉa hè. Thậm chí càng khó tưởng tượng khi các ống nước bằng thép được chế tạo để chịu đựng áp lực 525 kg/cm2 sẽ vỡ tung khi bị đóng băng. Nhưng đó là điều sẽ xảy ra. Khi vỉa hè nứt nẻ, các loài cỏ dại như mù tạc, cỏ ba lá và cỏ mần trầu sẽ bùng phát trong Công viên Trung tâm và lan tràn xuống những rãnh mới đang mở rộng. Trong thế giới hiện tại, trước khi cỏ dại kịp phát triển quá mức, đội bảo dưỡng đô thị đã xuất hiện để diệt cỏ và lấp các vết nứt. Nhưng trong thế giới hậu nhân loại, sẽ không còn ai liên tục vá nối thành phố New York nữa. Sau cỏ dại là sự xâm lấn của loại thực vật gây hại có sức sinh sôi mạnh mẽ nhất trong thành phố: cây xuân (thuộc họ thanh thất). Thậm chí khi dân số thế giới đang là tám tỷ người, cây xuân –còn được biết với cái tên vô tội khác là cây thiên đường – vẫn là những kẻ xâm lăng không mệt mỏi. Chúng có thể bén rễ trong những khe nứt bé xíu trong đường ngầm mà không bị ai phát hiện ra cho đến khi tán lá của chúng trồi lên các ô lưới thoát nước trên vỉa hè. Khi không có người nhổ cây con, trong vòng năm năm, rễ cây xuân sẽ bò lên vỉa hè và tàn phá hệ thống cống thoát nước – vốn đã tắc nghẽn vì túi nhựa và báo cũ không được dọn dẹp. Khi đất bị giam hãm lâu ngày dưới vỉa hè tiếp xúc với nắng và mưa, các loài thực vật khác sẽ đâm chồi nảy lộc; và chẳng mấy chốc, lá cây rơi rụng sẽ dồn đống lại, làm dày thêm đống rác thải vốn đã làm các ống cống thoát nước tắc cứng. Những thực vật tiên phong thậm chí không cần đợi đến khi vỉa hè vỡ vụn. Ban đầu chỉ có một ít mùn tích tụ trong các rãnh nước, rồi dần dần, một lớp đất sẽ bắt đầu hình thành bên trên lớp vỏ cứng khô cằn của New York và cây con sẽ đâm chồi nảy lộc. Đó chính xác là điều đã từng xảy ra trên đoạn đường ray trên cao bị bỏ hoang thuộc Hệ thống Đường sắt Trung tâm New York ở Bờ Tây Manhattan. Ở đó, lượng vật chất hữu cơ tích tụ còn khiêm tốn hơn nhiều, chỉ có bụi và muội thải từ thành phố bị gió thổi đến. Kể từ khi tàu hỏa không còn hoạt động vào năm 1980, những cây xuân quen thuộc đã hăm hở vươn lên giữa một lớp cỏ hành rậm rì và cây miên mao thuỷ tô (hay cây tai cừu) màu xám nhạt, điểm xuyết bằng những bụi hoa cúc hoàng anh nổi bật. Ở vài nơi, những đoạn đường ray trồi ra từ tầng hai của dãy nhà kho nó từng phục vụ đã trở thành một thứ “đường hoa trên cao”, nơi trú ngụ của hoa nghệ tây dại, hoa diên vĩ, hoa anh thảo, hoa thạch thảo và hoa tổ chim. Chẳng trách nào, khi đứng bên những ô cửa sổ trong khu phố văn nghệ sĩ Chelsea, những cư dân New York đã không khỏi bồi hồi xúc động trước dải ruy băng thiên nhiên hoang dại điểm đầy hoa ấy. Thế là họ nhanh chóng tuyên bố quyền sở hữu dải đất hoang này, và chỉ ít lâu sau, khu đất đã được phong tặng tên hiệu High Line và chính thức trở thành một công viên. Chỉ sau vài năm đầu tiên không còn nhiệt sưởi ấm, ống nước trong toàn thành phố sẽ vỡ tung, chu kỳ đóng băng - tan băng sẽ tấn công vào tận trong nhà, mọi thứ bắt đầu bị hủy hoại nghiêm trọng. Các tòa nhà oằn xuống khi cấu trúc bên trong bị nở ra rồi co lại; các mối nối giữa tường và đường bao mái bị tách rời. Ở những nơi đó, nước mưa rỉ vào trong, chốt hoen rỉ và bề mặt bong tróc, mọi sự cách ly với môi trường bên ngoài đều sẽ tiêu tan. Nếu thành phố vẫn chưa bốc cháy, thì giờ đã đến lúc. Nhìn chung, kiến trúc New York không dễ cháy như những dãy nhà kiểu Victoria bằng ván ghép ở San Francisco. Nhưng khi không còn những người lính cứu hỏa để làm nhiệm vụ, một tia sét vô tình có thể trở thành mồi lửa, đốt cháy đống cây lá khô đã chồng chất suốt một thập kỷ trong Công viên Trung tâm; rồi từ đó, lửa sẽ lan rộng khắp các đường phố. Trong vòng hai thập niên, cột thu lôi bắt đầu rỉ sét và gãy đổ, lửa sẽ xâm chiếm các toà cao ốc qua mái, tiến vào các khu văn phòng ngăn ô vốn chứa đầy nhiên liệu giấy. Chỉ cần một đốm lửa là đủ để các ống dẫn gas bốc cháy, làm nổ tung các ô cửa sổ. Mưa và tuyết lùa vào bên trong; chẳng bao lâu sau, đến nền nhà xi măng sũng nước cũng phải chịu cảnh đóng băng, tan băng và bắt đầu nứt nẻ. Vật liệu cách nhiệt bị thiêu rụi và than gỗ sẽ làm màu mỡ thêm lớp đất mùn đang ngày càng dày lên ở Manhattan. Cây kim ngân và thường xuân độc bản địa bám trên những bức tường phủ kín địa y, vốn đã sinh sôi mạnh mẽ khi bầu không khí không còn ô nhiễm. Chim ưng đuôi đỏ và chim cắt lớn làm tổ trong những tòa nhà chọc trời chỉ còn trơ lại bộ khung. Steven Clemants, Phó chủ tịch Vườn thực vật Brooklyn, ước tính, trong vòng hai thế kỷ, về cơ bản những cây xâm thực sẽ thay thế các loại cỏ dại tiên phong. Những đường rãnh nước bị chôn vùi dưới hàng tấn cành và lá cây rơi rụng sẽ cung cấp một lớp đất mới, màu mỡ cho cây sồi và cây phong bản địa đến từ các công viên của thành phố. Những cây dương hòe và những bụi nhót Nhật mới xuất hiện sẽ tổng hợp ni-tơ, tạo điều kiện thuận lợi cho hướng dương, cỏ may châu Mỹ, và cây chữa rắn cắn hoa trắng sinh trưởng; và dĩ nhiên không thể thiếu những cây táo, hạt của chúng được phát tán nhờ lũ chim đang sinh sản không ngừng. Trưởng khoa xây dựng dân dụng của trường Cooper Union, ngài Jameel Ahmad, dự đoán rằng đa dạng sinh học sẽ còn phong phú hơn hơn khi những tòa nhà sụp đổ, va vào nhau rồi vỡ vụn, vôi trong xi măng vụn làm tăng độ pH của đất, thu hút những loài cây ưa môi trường ít chua như cây táo dại và cây cáng lò. Ahmad là một người đàn ông đầy nhiệt huyết với mái tóc bạch kim, vừa nói ông vừa khua tay không ngớt. Ông tin rằng quá trình đó sẽ bắt đầu nhanh hơn suy nghĩ của mọi người. Xuất thân từ thành phố Lahore, Pakistan, một thành phố với các nhà thờ Hồi giáo cổ kính với mặt ngoài được trang trí bằng những mảnh ghép moisaic, hiện tại ông đang giảng dạy cách thiết kế và trang bị cho những tòa nhà sao cho chúng có thể trụ vững được trước những cuộc tấn công khủng bố và đã tích lũy được vô vàn kiến thức sâu sắc về những nhược điểm cấu trúc. “Kể cả những tòa cao ốc được xây dựng trên nền đá phiến rắn chắc của Manhattan, như hầu hết các tòa nhà chọc trời ở New York,” ông cho hay, “đều không được chuẩn bị cho tình huống phần móng thép của chúng bị ngâm trong nước.” Ông nói, hệ thống cống rãnh tắc bị nghẽn, các đường ống ngập lụt và đường phố biến thành sông sẽ hợp lực làm xói mòn phần nền móng và gây mất ổn định đối với khối nhà khổng lồ mà nó đang gánh vác. Trong tương lai, khi bờ Đại Tây Dương của Bắc Mỹ bị các cơn bão mạnh hơn tấn công, với tần suất dày đặc hơn, những cơn giông hung hãn sẽ nện liên hồi vào các khối kết cấu cao, không ổn định. Một số công trình sẽ gãy đổ, đè lên những cái khác. Giống như một khoảng trống trong rừng được tạo thành khi một cây cổ thụ ngã xuống, cây non sẽ mọc lên um tùm. Dần dần, khu rừng bê tông cốt thép sẽ được thay thế bởi một rừng cây thực thụ. Vườn thực vật New York (NYBG – New York Botanical Garden), tọa lạc trên mảnh đất rộng 100 héc-ta, đối diện Sở thú Bronx, sở hữu tập mẫu cây lớn nhất sau các tập mẫu của châu Âu. Trong số báu vật của vườn có những loài hoa dại được thu nhặt trong chuyến tàu lênh đênh trên Thái Bình Dương của thuyền trưởng Cook vào năm 1769 và một vài mảng rêu từ Tierra del Fuego đi kèm với những mẩu chú thích viết bằng mực nước đen có chữ ký của người thu thập, C. Darwin. Tuy nhiên, đáng chú ý nhất là khu rừng New York nguyên thủy, nguyên bản và chưa từng bị khai phá, rộng 10 héc-ta thuộc sở hữu của vườn, cây trong khu rừng này chưa bao giờ bị đốn hạ. Tuy cây chưa từng bị đốn, nhưng khu rừng này đã thay đổi rất nhiều. Cho đến gần đây, nó vẫn được biết đến với cái tên Rừng Độc Cần, bởi nó là nơi trú ngụ của rất nhiều cá thể của loài cây họ tùng bách duyên dáng này. Nhưng hiện nay, hầu hết các cây độc cần nơi đây đều đã chết vì một loại côn trùng có nguồn gốc Nhật Bản còn nhỏ hơn cả dấu chấm ở cuối câu văn này. Chúng xuất hiện ở New York vào giữa thập niên 1980. Những cây sồi lâu năm nhất và to lớn nhất, tồn tại từ khi khu rừng này vẫn thuộc về Vương quốc Anh, cũng đã ngã xuống; sức sống của chúng bị suy giảm nghiêm trọng vì mưa a-xít và kim loại nặng như chì từ khói thải của xe cộ và nhà máy ngấm vào đất. Khả năng cao là chúng sẽ không xuất hiện trở lại nữa; bởi từ lâu, hầu hết các loài cây tán rộng ở đây đã ngừng sinh sôi. Mỗi loài thực vật bản địa giờ đây đang nuôi dưỡng những mầm bệnh riêng: một vài loại nấm, côn trùng, hoặc bệnh tật đã chớp lấy cơ hội tiêu diệt những cây suy yếu vì sự tấn công dữ dội của hóa chất. Mà đâu chỉ có thế, khu rừng của NYBG là một ốc đảo xanh giữa một khu đô thị ảm đạm mênh mông rộng hàng nghìn dặm vuông; vì vậy, nó trở thành nơi trú ngụ quan trọng nhất của loài sóc Bronx. Các kẻ thù tự nhiên đã biến mất, lại thêm mọi hoạt động săn bắn bị cấm ngặt, giờ đây không gì có thể ngăn cản lũ sóc ngấu nghiến tất cả quả sồi và hạt hồ đào trước khi chúng kịp nảy mầm. Đó chính là điều lũ sóc đang làm. Hiện nay, dưới lớp nền khu rừng già này đang tồn tại một khoảng trống dài tám thập niên. Loại cây chủ đạo trong rừng không phải thế hệ mới của cây sồi, phong, tần bì, cáng lò, ngô đồng và tulip bản địa. Thay vào đó là những loại cây cảnh nhập khẩu, hạt giống của chúng từ những vùng khác ở Bronx theo gió bay đến đây. Các mẫu đất cho thấy khoảng 20 triệu hạt cây xuân đang nảy mầm tại đây. Theo Chucking Peters, người phụ trách Viện thực vật học kinh tế của NYBG, những cây độc hại như cây xuân và cây sồi bần, đều có nguồn gốc từ Trung Quốc, hiện đang chiếm hơn ¼ diện tích khu rừng này. “Một số người muốn khu rừng trở về như cách đây 200 năm,” ông nói. “Để làm thế, tôi nói với họ, các anh phải biến Bronx trở về như cách đây 200 năm.” Khi loài người biết về du lịch vòng quanh thế giới, họ mang đi vài loài sinh vật và mang về những loài sinh vật khác. Thực vật có nguồn gốc châu Mỹ không chỉ thay đổi hệ sinh thái ở các nước châu Âu mà còn thay đổi cả đặc trưng của một số quốc gia: hãy nghĩ về đất nước Ireland trước khi có khoai tây, hoặc nước Ý trước khi có cà chua. Ngược lại, những kẻ xâm lược của Cựu Thế giới không chỉ cưỡng bức những phụ nữ không may mắn tại vùng đất mới bị chiếm đóng, mà họ còn gieo rắc những hạt giống cây trồng khác, đầu tiên là lúa mỳ, lúa mạch và lúa mạch đen. Một nhà địa lý người Mỹ, Alfred Crosby đã đúc kết thành ngữ sau: chủ nghĩa đế quốc về sinh thái này đã giúp những kẻ xâm lược đến từ châu Âu vĩnh viễn ghi dấu hình ảnh của họ trên thuộc địa. Điều này tạo nên một số hệ quả lố bịch, chẳng hạn khu vườn Anh với lan dạ hương và thủy tiên vàng không bao giờ có thể thích nghi hoàn toàn với thuộc địa Ấn Độ. Ở New York, chim sáo đá châu Âu – ngày nay là một loài chim gây hại có mặt khắp nơi, từ Alaska đến Mexico – được nhập khẩu vì có người cho rằng thành phố sẽ trở nên thanh lịch hơn nếu Công viên Trung tâm là nơi trú ngụ cho mọi loài chim từng được nhắc đến trong kịch Shakespeare. Sau đó, Công viên Trung tâm lại có thêm một khu vườn trồng mọi loại cây trong tất cả vở kịch của kịch tác gia này, với những loài cây có cái tên thi vị như anh thảo, ngải tây, phi yến, tầm xuân, và anh thảo vàng – tóm lại là mọi loại cây có trong khu rừng Birnam trong vở Macbeth. Mức độ giống nhau giữa quá khứ ảo của Dự án Mannahatta và rừng Manhattan sau này còn tuỳ thuộc vào cuộc chiến tranh giành đất đai Bắc Mỹ sẽ vẫn tiếp tục trong thời gian dài sau khi kẻ chủ mưu - nhân loại - biến mất. Tập mẫu cây của NYBG cũng chứa một trong những loài hoa oải hương đầu tiên ở châu Mỹ, những kẻ xâm lăng táo tợn ngụy trang dưới lớp vỏ ngoài yêu kiều. Trân châu tím vốn là loài cây bản địa ở các nước từ Anh đến Phần Lan, phân bố nhiều ở các vùng cửa sông đổ ra Biển Bắc. Hạt của chúng có lẽ đã du nhập qua những khối cát ẩm ướt mà các tàu buôn đào lên từ các vùng đất ngập mặn của châu Âu để làm đồ dằn trước khi vượt qua Thái Bình Dương. Khi thương mại với các thuộc địa phát triển, loài trân châu tím này càng được thải ra nhiều hơn dọc bờ biển châu Mỹ trong lúc tàu thuyền xả cát dằn trước khi chất hàng lên. Khi đã đặt chân lên vùng đất mới, chúng bắt đầu di chuyển ngược lên thượng nguồn sông, suối, hạt giống của chúng bám vào lông chim hoặc lông thú dính bùn, hoặc bất kỳ thứ gì chúng tiếp cận. Ở các vùng đất ngập nước ven sông Hudson, những quần thể cây hương bồ, cây liễu và cỏ canary (canary grass), chuyên cung cấp thức ăn và nơi trú ẩn cho loài chim nước và chuột xạ, đã biến thành những bức rèm tím rắn chắc, thậm chí động vật hoang dã cũng không thể xuyên thủng chúng. Đến thế kỷ 21, loài trân châu tím thậm chí còn tác oai tác quái ở Alaska, khiến các nhà sinh thái học quốc gia cả lo e sợ rằng chúng sẽ chiếm đóng toàn bộ vùng đầm lầy nơi đây, hất cẳng các loài vịt, ngỗng, nhạn biển và thiên nga. Trước cả khi Vườn Shakespreare xuất hiện, hai nhà thiết kế Công viên Trung tâm là Olmstead và Vaux đã mang đến nửa triệu cây cùng với bốn trăm nghìn mét khối đất san lấp nhằm phục vụ cho cái gọi là “tầm nhìn tiến bộ” của mình về thiên nhiên, họ trang hoàng hòn đảo bằng những loài cây ngoại nhập như kim lũ mai Ba Tư, liên hương thụ châu Á, tuyết tùng Li Băng, cùng với cây hông hoàng gia và bạch quả Trung Quốc. Tuy nhiên, khi loài người biến mất, trong cuộc chiến giành lại nơi chôn nhau cắt rốn với một đội quân ngoại xâm hùng hổ, những loài cây bản địa còn sót vẫn có một vài lợi thế sân nhà. Nhiều loại cây cảnh ngoại lai – như cây hoa hồng kép chẳng hạn – sẽ tàn lụi cùng với nền văn minh đã du nhập chúng, bởi chúng là loại giống cây lai vô sinh cần phải được nhân giống bằng phương pháp chiết cành. Khi những người làm vườn vẫn đảm trách công tác nhân giống biến mất, chúng cũng biến mất. Những loài cây xâm thực quen được chăm sóc như thường xuân Anh, khi bị đẩy vào cảnh tự mình lo thân, chúng sẽ bại dưới tay người họ hàng châu Mỹ dạn dày của chúng là cây kim ngân và thường xuân độc. Vẫn có những loài là sản phẩm đột biến thực thụ, kết quả của quá trình nhân giống có chọn lọc ở mức độ cao. Nếu chúng có thể sống sót được, thì hình dáng và sự tồn tại của chúng cũng sẽ bị thoái hóa dần đi. Quá trình chọn lọc tự nhiên đối với những loại cây không được chăm sóc như táo – trái ngược với huyền thoại Johnny Appleseed của nước Mỹ, táo là loại cây được nhập khẩu từ Nga và Kazakhstan – dựa trên độ cứng của quả, không phải dựa trên vẻ ngoài hay hương vị, vì thế chúng dần trở nên gai góc, vô vị. Ngoại trừ một vài kẻ sống sót ít ỏi, còn lại, khi không được phun thuốc, các vườn táo không thể tự vệ trước các loài thiên địch gốc gác châu Mỹ như dòi táo và sâu vẽ bùa, và rốt cuộc, sẽ phải lùi bước trước các loài gỗ cứng bản địa. Những loại rau củ ngoại nhập sẽ trở lại xuất phát điểm mọn mằn ban đầu. Dennis Stevenson, phó chủ tịch Vườn thực vật New York dự đoán rằng, cà rốt ngọt, vốn có nguồn gốc từ châu Á, nhanh chóng biến thành loài cà rốt hoang dại với mùi vị dở ẹc, bởi các loài động vật sẽ ngốn ngấu sạch sẽ những củ cà rốt màu cam tươi rói, ngon lành cuối cùng mà loài người vun trồng. Súp lơ, bắp cải, cải Brucxen và bông cải trắng cùng thoái hóa thành một loại bông cải xanh nguyên thủy không thể nhận diện nổi. Còn bộ DNA của hậu duệ của loài ngô hạt được các giáo dân dòng Thánh Dominic trồng ở giữa đại lộ Washington Heights, sẽ trở lại với gốc gác xa xưa của nó là loài cỏ teosinte Mexico, lõi bắp của loại cỏ này không lớn hơn một nhánh lúa mì. Những loài ngoại xâm vẫn quấy rối các động thực vật bản địa – các kim loại như chì, thủy ngân và catmi – sẽ còn rất lâu mới bị rửa trôi khỏi đất, vì chúng là những phân tử nặng, theo đúng nghĩa đen. Có một điều chắc chắn: khi ô tô ngừng chạy, nhà máy ngưng hoạt động vĩnh viễn, những kim loại này sẽ không còn tích tụ thêm nữa. Tuy nhiên, trong khoảng 100 năm đầu tiên, sự ăn mòn sẽ định kỳ kích hoạt những quả bom nổ chậm bị bỏ quên trong các bể chứa dầu, các nhà máy hóa chất, các nhà máy điện và hàng trăm máy hấp tẩy khô. Dần dần, cặn nhiên liệu, dung môi giặt tẩy và dầu nhờn, bị vi khuẩn dùng làm thức ăn, sẽ được khử về những dạng hợp chất hydrocarbon hữu cơ lành tính hơn – mặc dù hầu hết các chất nhân tạo, từ một vài loại thuốc trừ sâu đến các loại chất dẻo, chất cách điện, sẽ tồn tại lay lắt suốt vài thiên niên kỷ, cho đến khi vi khuẩn tiến hóa đến mức có thể xử lý chúng. Tuy nhiên, sau mỗi cơn mưa phi a-xít mới, lượng chất ô nhiễm mà các loại cây cối vẫn còn sống sót phải chống lại sẽ giảm bớt, vì hóa chất đang dần bị tống ra khỏi hệ thống. Qua vài thế kỷ, thực vật sẽ tiếp tục công việc giảm thiểu nồng độ kim loại nặng, chúng tái sinh, tái trầm tích và pha loãng các kim loại nặng. Khi cây chết đi, chúng mục rữa và làm dày thêm lớp đất màu, chất độc công nghiệp sẽ bị chôn vùi sâu hơn và những mùa vụ tiếp theo của các loài cây cối bản địa sẽ càng tươi tốt hơn. Mặc dù nhiều giống cây đặc thù của New York đang bị đe dọa, nếu chưa chết dần chết mòn, song hầu như chưa có loài nào bị tuyệt chủng. Thậm chí loài hạt dẻ châu Mỹ đáng thương, vốn bị tàn hại nghiêm trọng sau khi một loại nấm bệnh xâm nhập New York vào khoảng năm 1900 trên một chuyến tàu chở cây giống đến từ châu Á, vẫn còn bám trụ trong khu rừng già của Vườn thực vật New York – bằng rễ của chúng theo đúng nghĩa đen. Nhưng mầm non của chúng, những chồi cây mảnh khảnh, cứ vươn cao được hơn nửa mét lại bị bệnh tật tấn công và mọi việc cứ tiếp tục như thế. Có lẽ một ngày nào đó, khi những áp lực từ loài người làm hao mòn sức sống của chúng không còn nữa, thì một nguồn sức đề kháng mới sẽ xuất hiện. Đã từng một thời chiếm vị trí loài cây gỗ cứng cao nhất trong những khu rừng phía Đông châu Mỹ, những cây hạt dẻ mới hồi sinh sẽ phải chung sống với những loài cây ngoại nhập có sức sống bền bỉ vẫn bám trụ được ở nơi đây, ví như hoàng liên gai Nhật Bản, dây gối tròn, và dĩ nhiên là cây xuân. Hệ sinh thái nơi đây sẽ là một tác phẩm nhân tạo vẫn tiếp tục tồn tại lâu dài ngay cả khi loài người đã biến mất, một sự hòa trộn thực vật toàn cầu không bao giờ có thể xuất hiện nếu thiếu bàn tay con người. Chuck Peters, nhân viên Vườn thực vật New York, cho rằng điều này có lẽ không xấu. “Hiện nay, nhân tố đã biến New York thành một thành phố tuyệt vời chính là sự đa dạng văn hóa. Mỗi người đều góp vào một đặc trưng riêng có nào đó. Nhưng xét về khía cạnh thực vật học, chúng ta là những kẻ bài ngoại. Chúng ta chỉ thích sinh vật bản địa và mong sao những loài sinh vật nước ngoài hung hăng mau mau xéo về quê nhà.” Ông tì một chân xỏ giày thể thao lên lớp vỏ trăng trắng của một cây hoàng bá Trung Quốc, mọc lên giữa những cây độc cần cuối cùng. “Điều này thoạt nghe có vẻ báng bổ, nhưng duy trì sự đa dạng sinh học không quan trọng bằng duy trì một hệ sinh thái vận hành suôn sẻ. Điều quan trọng là đất được bảo vệ, nước được thanh lọc, cây cối tẩy sạch không khí, tán cây sinh ra được những hạt giống mới để ngăn chất dinh dưỡng không bị rửa trôi xuống sông Bronx.” Ông hít thở một hơi thật sâu bầu không khí được thanh lọc ở Bronx. Ở tuổi năm mươi, Peters trông vẫn phong độ và trẻ trung, ông đã dành nhiều thời gian của đời mình lang thang trong các khu rừng. Nghiên cứu thực địa của ông đã tiết lộ rằng, sự xuất hiện của những khoảnh cây cọ dại nằm sâu trong rừng Amazon, hoặc cây sầu riêng ở rừng Borneo nguyên sinh, hoặc cây trà trong rừng Miến Điện, không phải là ngẫu nhiên. Con người cũng đã từng ở những nơi đó. Thiên nhiên hoang dã đã nuốt trọn họ và ký ức về họ, nhưng hình dạng của nó vẫn chứa đựng những âm vang về họ. Lần này cũng sẽ như thế. Thật ra, điều đó cũng đã xảy ra ít lâu sau khi người Homo sapiens xuất hiện ở đây. Eric Sanderson thuộc Dự án Mannahatta đang cố gắng tái tạo lại hòn đảo giống như khi người Hà Lan mới phát hiện ra nó – đó không phải một khu rừng Manhattan nguyên thủy nào đó, nơi loài người chưa từng đặt chân đến, bởi vì chưa từng có một khu rừng như thế. “Vì trước khi người Lenni Lenape tới,” Sanderson giải thích, “ở đây không có gì khác, ngoại trừ một lớp băng dày một dặm. Khoảng 11 ngàn năm trước đây, khi kỷ băng hà cuối cùng rút khỏi Manhattan và lui về phía bắc, nó cũng kéo theo những rừng taiga rợp bóng cây vân sam và cây thông rụng lá, ngày nay những cây này mọc ngay bên dưới lãnh nguyên Canada. Thế chỗ cho nó là rừng ôn đới đông Bắc Mỹ với những cây sồi, mại châu, hạt dẻ, óc chó, độc cần, du, dẻ gai, thích đường, bạch đàn Liquidambar, de vàng và phỉ dại. Ở những khoảng rừng thưa mọc đầy những bụi anh đào dại, những cây sơn thơm, đỗ quyên, kim ngân, nhiều loại dương xỉ và cây có hoa. Cỏ spartina và cây râm bụt xuất hiện trong các đầm lầy nước mặn. Khi tất cả những thực vật bộ lá này dần bao phủ những khoảnh rừng đang ấm dần, động vật máu nóng cũng theo sau, bao gồm cả con người. Sự khan hiếm di chỉ khảo cổ cho thấy rằng những người New York đầu tiên có lẽ đã không định cư tại đây, nhưng họ đã cắm trại theo mùa để hái các loại quả mọng, hạt dẻ và nho dại. Họ săn gà tây, gà lôi mái, vịt và nai đuôi trắng, nhưng chủ yếu là đánh cá. Vùng nước bao quanh đầy những đàn cá ốt-me, cá bẹ và cá trích. Cá hồi Brook tung tăng trong các dòng suối Manhattan. Hàu, trai, ngao, cua và tôm hùm phong phú đến mức thu hoạch chúng chẳng tốn bao nhiêu sức lực. Những đống vỏ của đủ loài nhuyễn thể nằm rải rác dọc theo bờ biển là những công trình đầu tiên của con người tại đây. Khi Henry Hudson lần đầu tiên trông thấy hòn đảo, khu thượng Harlem và Greenwich Village là những thảo nguyên bát ngát cỏ, cư dân bộ lạc Lenni Lenape phải liên tục đốt cỏ phát hoang để lấy đất trồng trọt. Khi những nhà nghiên cứu của Dự án Mannhattan đổ nước ngập các lò nướng Harlem cổ đại ngoài trời để nghiên cứu những thứ nổi lên trên mặt nước, họ phát hiện ra rằng người Lenni Lenape đã trồng ngô, đậu, bí và hoa hướng dương. Phần lớn hòn đảo vẫn còn xanh tốt và rậm rạp như rừng Bialowieza Puszcza. Nhưng từ rất lâu trước khi bị tước khỏi tay người Anh-Điêng và biến thành tài sản thuộc địa với cái giá 60 đồng gulden Hà Lan, Manhattan đã mang trên mình những dấu vết của người tinh khôn Homo sapiens. Vào năm đánh dấu thiên niên kỷ mới 2000, sự kiện một chú sói đồng cỏ đột nhập thành công vào Công viên Trung tâm đã trở thành điềm báo tương lai về sự hồi sinh của quá khứ. Sau đó, thêm hai con nữa tiến vào thành phố, cùng với một chú gà tây hoang dã. Có lẽ thành phố New York sẽ chẳng cần chờ đến khi con người biến mất mới trở về thời kỳ hoang dã. Chàng sói do thám đã vào thành phố qua cầu George Washington thuộc cảng vụ New York và New Yersey do Jerry Del Tufo quản lý. Sau này, ông tiếp quản những cây cầu nối từ đảo Staten đến đất liền và đảo Long. Là một kỹ sư cấu trúc ở độ tuổi bốn mươi, với ông, những cây cầu là một trong những ý tưởng đáng yêu nhất của con người, chúng nối liền các vực thẳm một cách duyên dáng, mang con người lại gần nhau. Chính Del Tofu cũng là sự kết nối giữa hai bờ đại dương. Ông có vẻ đặc trưng xứ Sicily; nhưng giọng nói lại thuần chất thành thị New Jersey. Mặc dù sự nghiệp cả đời đều gắn liền với vỉa hè và thép, ông vẫn không khỏi kinh ngạc trước cảnh những quả trứng chim cắt non nở ra một cách kỳ diệu trên chóp ngọn tháp George Washington xảy ra hàng năm, hay trước sự xâm lăng táo bạo mạnh mẽ của cỏ, cỏ dại và cây xuân, chúng vẫn bướng bỉnh đâm chồi nở hoa dù mọc cách xa tầng đất mặt, trong những hốc kim loại lơ lửng bên trên mặt nước. Những cây cầu của ông luôn phải hứng chịu những đợt tấn công du kích của thiên nhiên. Vũ khí và quân đội của thiên nhiên nếu đem so với lớp vỏ thép có vẻ như trứng chọi đá; nhưng nếu bị bỏ mặc trong thời gian dài, chúng sẽ là tai họa khôn lường: phân chim rơi khắp nơi có thể phá vỡ vỏ các hạt giống phát tán nhờ gió và giúp chúng đâm chồi nảy lộc, đồng thời phân hủy lớp sơn bảo vệ. Del Tufo đang phải chống lại một đối thủ trang bị thô sơ nhưng vô cùng tàn nhẫn, sức mạnh tối thượng của hắn là khả năng tồn tại lâu hơn kẻ thù, và ông phải thừa nhận rằng rốt cuộc thiên nhiên cũng sẽ thắng. Nhưng điều đó sẽ không xảy ra, chừng nào ông còn tại vị. Ông không tiếc lời ca ngợi di sản mà ông và các đồng sự được thừa kế: các cây cầu họ đang quản lý được xây dựng bởi một thế hệ kỹ sư không bao giờ nghĩ tới viễn cảnh sẽ có tới 1/3 triệu chiếc ô-tô chạy qua công trình của mình mỗi ngày – vậy mà 80 năm sau đó, chúng vẫn đứng vững. “Công việc của chúng tôi,” ông nói với các đồng sự, “là trao những kho báu này lại cho thế hệ kế tiếp theo trong tình trạng tốt hơn khi chúng tôi nhận chúng.” Vào một buổi chiều tháng hai, ông băng qua bão tuyết đến cầu Bayonne, vừa đi vừa trò chuyện với các đồng sự qua radio. Bên dưới lối vào đảo Staten là một ma trận thép hùng hậu hội tụ trong một khối bê tông khổng lồ tựa vào nền đá, tất cả tạo thành khối chân trụ gánh phân nửa tải trọng của nhịp cầu chính của cầu Bayonne. Ngước nhìn mê cung tạo thành bởi vô số thanh thép chữ I chịu lực và thanh giằng ngang, nối với những tấm thép, những mặt bích đúc dày cả cm, cùng vài triệu đinh tán và chốt dài một cm, người ta không khỏi liên tưởng đến nỗi kinh hãi khi những người hành hương nhỏ bé trông thấy mái vòm cao vút của nhà nguyện St. Peter’s ở Vatican: một công trình hoành tráng đến nhường này có lẽ sẽ tồn tại vĩnh cửu. Tuy nhiên, Jerry Del Tufo biết rõ những cây cầu sẽ sụp đổ thế nào nếu không được con người bảo vệ. Điều này sẽ không diễn ra ngay lập tức, bởi vì mối đe dọa trực tiếp nhất sẽ biến mất cùng với loài người. Và đó lại không phải là dòng xe di chuyển không ngừng, Del Tufo cho hay. “Những cây cầu này đã được xây rất rộng tay, giao thông chỉ như kiến bò trên thân voi mà thôi.” Vào thập niên 1930, khi chưa có máy vi tính để tính toán chính xác sức chịu lực của vật liệu xây dựng, những kỹ sư thận trọng bèn phóng tay xây cầu cho thật to, thật kiên cố. “Chúng ta sống dựa trên năng suất dư thừa của tổ tiên. Chỉ riêng số dây thép mạ kẽm trong ruột dây cáp chính có đường kính 7,5 cm của cầu GW (cầu George Washington) đã đủ dài để quấn quanh trái đất bốn vòng. Thậm chí nếu tất cả các cáp treo chính bị hỏng, cây cầu cũng không vì thế mà sập xuống.” Kẻ thù số một chính là lượng muối mà các cơ quan quản lý đường cao tốc rải trên đường vào mỗi mùa đông - chúng là những vật chất tham lam sẽ tiếp tục ngấu nghiến thép sau khi đã xơi tái băng đá. Dầu, chất chống đông và tuyết chảy xuống từ các ô tô sẽ cuốn muối trôi vào các miệng cống và khe nứt, đội bảo trì phải tìm ra và gột rửa chúng. Không còn con người, sẽ không còn muối. Tuy nhiên, khi không có ai sơn cầu, rỉ sắt sẽ xuất hiện thêm nhiều. Ban đầu, quá trình oxy hóa sẽ giúp hình thành một lớp vỏ bao phủ các tấm thép, lớp vỏ này dày gấp hai lần, hoặc hơn, so với bản thân tấm kim loại, giúp làm chậm tiến độ ăn mòn hóa học. Cần phải mất hàng thế kỷ để thép có thể bị rỉ hoàn toàn và tan rã, nhưng những cây cầu của New York không cần phải chờ đến khi đó mới bắt đầu sụp đổ. Nguyên nhân chính là vì bi kịch đóng băng - tan băng cũng tái diễn trên kim loại. Không nứt nẻ như bê tông, thép giãn nở khi gặp nóng và co lại khi gặp lạnh. Vì thế, vào mùa hạ, những cây cầu thép thực sự có thể nở dài ra và chúng cần có các khớp nối giãn nở. Đến mùa đông, khi những cây cầu co lại, khoảng trống trong các khớp nối giãn nở sẽ mở rộng ra, và các loại vật chất bị thổi vào. Ở những vị trí như vậy, khi thời tiết ấm lên, không gian giãn nở của cây cầu cũng sẽ thu hẹp. Khi không còn ai sơn cầu, các khớp nối không chỉ đầy bụi cát rác vụn mà còn bị rỉ sét, những mảng rỉ nở phồng lên sẽ chiếm nhiều không gian hơn lớp kim loại nguyên thủy. “Khi mùa hạ đến,” Del Tufo nói, “cây cầu sẽ nở to ra dù bạn có muốn hay không. Nếu khớp co giãn bị tắc nghẽn, thép sẽ giãn về phía có liên kết yếu nhất – chẳng hạn như ở mối nối giữa của hai loại vật liệu khác nhau.” Ông chỉ vào nơi bốn làn thép tiếp giáp với trụ chống bằng bê tông. “Ví dụ như chỗ đó. Bê tông có thể nứt tại nơi thanh xà bắt vào cột trụ. Hoặc, sau một vài mùa, chốt nối ở đó có thể bị biến dạng. Cuối cùng, thanh xà sẽ long ra và đổ sụp.” Mọi điểm nối đều rất mong manh. Rỉ sắt, hình thành giữa hai tấm thép được bắt vít vào nhau, tạo ra sức ép lớn đến mức hoặc hai tấm thép bị bẻ cong hoặc đinh tán sẽ bong ra, Del Tufo nói. Những cây cầu hình vòm như cầu Bayonne – hoặc cầu Hell Gate bắc qua sông Đông, được xây dựng để nâng đỡ các đường ray xe lửa – là những công trình được xây dựng phóng tay nhất. Chúng có thể trụ vững trong một ngàn năm nữa, song nếu xuất hiện các trận động đất tác động đến một trong số các đường đứt gãy nằm bên dưới dải đồng bằng ven biển thì khoảng thời gian này sẽ bị rút ngắn đi. (Có lẽ chúng sẽ chống chọi với thời gian tốt hơn 14 đường tàu điện ngầm xây bằng bê tông cốt thép bên dưới sông Đông – một đường ngầm trong số đó, chạy về Brooklyn, đã có mặt từ thời loài người còn di chuyển bằng ngựa và xe ngựa. Chỉ cần một đường hầm sụp xuống, nước biển Đại Tây Dương sẽ tràn vào.) Tuy nhiên, những cây cầu treo và cầu giàn dành cho xe ô tô sẽ chỉ tồn tại được hai hoặc ba thế kỷ cho đến khi tất cả đinh tán và chốt bong ra, lúc ấy, toàn bộ kết cấu còn lại sẽ sụp đổ, rơi xuống dòng nước đang chực chờ bên dưới. Cho đến khi đó, ngày càng có nhiều chó sói đồng cỏ nối bước những con đã tiên phong xâm nhập vào Công viên Trung tâm. Nai, gấu và cuối cùng là sói lũ lượt từ Canada trở lại New England. Khi gần như mọi cây cầu đều đã biến mất, những cao ốc mới hơn của Manhattan cũng sẽ bị tàn phá, vì ở những chỗ các thanh gia cố bằng thép tiếp xúc với nước, chúng sẽ bị rỉ sét, nở ra và làm vỡ bung lớp xi măng bọc ngoài. Những cao ốc cũ hơn được xây dựng bằng đá như Grand Central sẽ tồn tại lâu hơn mọi cao ốc hiện đại, lộng lẫy khác, nhất là khi lớp đá hoa cương của chúng không còn thủng lỗ rỗ vì mưa axit. Giữa của những tòa cao ốc hoang tàn vang lên bản tình ca của lũ ếch trú ngụ trong những dòng suối mới tái lập ở Manhattan. Giờ đây, những dòng suối này đầy ắp cá trích ale-wife và trai mà lũ mòng biển lỡ đánh rơi. Cá trích và cá bẹ đã trở lại sông Hudson, mặc dù chúng phải biến đổi qua vài thế hệ mới thích nghi được với phóng xạ rỉ ra từ nhà máy điện hạt nhân Indian Point, cách quảng trường Thời Đại 35 dặm về phía bắc, sau khi cấu trúc bê tông cốt thép của nhà máy sụp xuống. Tuy nhiên, những kẻ sẽ biến mất lại là hầu hết toàn bộ quần thể động vật đã thích nghi tốt với loài người. Lũ gián, được du nhập từ vùng nhiệt đới, vốn được xem là loài bất khả chiến bại, đã bị chết cóng từ rất lâu trong những khu nhà không được sưởi ấm. Không có rác, lũ chuột sẽ chết đói hoặc trở thành mồi ngon cho lũ chim ăn thịt đang làm tổ trên các tòa nhà chọc trời đổ nát. Nước dâng lên, thủy triều và sự ăn mòn của muối đã phá huỷ đường bờ biển nhân tạo bao quanh năm quận của New York, thay thế nó bằng những cửa sông và bờ biển nhỏ. Khi không được nạo vét, các ao và hồ trong Công viên Trung sẽ biến thành đầm lầy. Thiếu vắng các động vật ăn cỏ tự nhiên – trừ phi lũ ngựa của đội cảnh sát tuần tra công viên và lũ ngựa kéo xe trở thành ngựa hoang và sinh con đẻ cái – cỏ trong Công viên Trung tâm sẽ biến mất. Một khu rừng trưởng thành sẽ thế chỗ công viên trước đây, rồi mọc lan ra những đường phố cũ và tấn công vào các móng nhà rỗng. Chó sói đồng cỏ, chó sói, cáo đỏ và linh miêu Mỹ sẽ giúp lập lại cục diện cân bằng giữa lũ sóc và những cây sồi đủ dẻo dai để tồn tại lâu hơn chì do loài người bỏ lại. Và sau 500 năm nữa, thậm chí khi khí hậu đã ấm áp hơn, những cây sồi, dẻ gai và những loài ưa ẩm như cây tần bì sẽ lại chiếm ưu thế. Trước đó khá lâu, thú ăn thịt hoang dã đã kết liễu hậu duệ cuối cùng của lũ chó nhà, nhưng một quần thể mèo nhà gian xảo vẫn sống sót kiên cường, thức ăn chủ yếu của chúng là lũ chim sáo. Cuối cùng, khi các cây cầu gãy đổ, các đường ngầm ngập lụt và Manhattan thật sự trở thành một hòn đảo như xưa, nai sừng tấm Bắc Mỹ và gấu sẽ bơi qua dòng sông Harlem đã được mở rộng để thoả sức chén những quả mọng mà người Lenape từng hái. Giữa đống hoang tàn của khu định chế tài chính Manhattan đã sụp đổ vĩnh viễn theo đúng nghĩa đen, một số két chứa tiền vẫn trụ vững; tiền chứa bên trong đó, dẫu đã trở thành vô giá trị, vẫn an toàn, chỉ hơi bị nấm mốc một chút. Tuy nhiên, các tác phẩm cất giữ trong két lưu trữ của viện bảo tàng lại không được may mắn như thế, vì chúng được xây dựng chủ yếu để chống lại thời tiết hơn là để chịu lực. Không có điện, mọi sự bảo vệ chấm dứt; cuối cùng những lỗ nứt sẽ xuất hiện trên mái của viện bảo tàng, thường là bắt đầu từ cửa sổ mái, còn tầng hầm ngập đầy nước ứ đọng. Chịu sự thay đổi thất thường của độ ẩm và nhiệt độ, mọi thứ trong phòng trưng bày sẽ trở thành nạn nhân của nấm mốc, vi khuẩn và các ấu trùng tham ăn của kẻ thù khét tiếng nhất của các bảo tàng: loài bọ thảm đen (black carpet beetle). Khi tấn công vào các tầng khác, nấm làm phai màu và phân hủy các bức tranh ở Metropolitian đến mức không thể nhận ra. Tuy nhiên, gốm vẫn còn nguyên vẹn, vì xét về thành phần hóa học, chúng cũng tương tự như hóa thạch. Trừ khi có vật gì rơi vào chúng trước, còn thì chúng sẽ chờ đến ngày được cải táng để những thế hệ nhà khảo cổ học tiếp theo có thể đào chúng lên. Sự ăn mòn khiến lớp gỉ phủ trên tượng đồng dày hơn, nhưng không ảnh hưởng đến hình dạng của chúng. “Nhờ vậy chúng ta mới biết đến Thời kỳ đồ đồng,” Barbara Appelbaum, nhân viên bảo tồn các tác phẩm nghệ thuật ở Manhattan giải thích. Thậm chí nếu tượng Nữ thần Tự do ngã gục xuống đáy cảng, Appellbaum nói, hình dạng của tượng vẫn sẽ vĩnh viễn nguyên vẹn, mặc dù có đôi chút biến đổi về mặt hóa học và có lẽ sẽ bị lũ hàu bám kín. Đó có lẽ là nơi an toàn nhất cho tượng, bởi vì vào thời điểm nào đó trong hàng ngàn năm về sau, bất kỳ bức tường đá nào còn trụ vững – có thể là những khối đá của Nhà nguyện St. Paul’s đối diện với Trung tâm Thương mại Quốc tế, được xây dựng vào năm 1766 từ diệp thạch rắn của chính Manhattan – rồi cũng sẽ phải sụp đổ. Trong 100 ngàn năm qua, các dòng sông băng đã ba lần quét sạch New York. Trừ phi cuộc đổi chác linh hồn lấy nhiên liệu hóa thạch của nhân loại đẩy bầu khí quyển vào cảnh vô phương cứu chữa, và hiện tượng trái đất ấm dần trở nên mất kiểm soát, biến Trái đất thành sao Kim; còn không, một ngày nào đó, các dòng sông băng sẽ lại tác oai tác quái lần nữa. Khu rừng trưởng thành của các loại cây dẻ gai, sồi, tần bì, xuân sẽ bị tiêu diệt. Bốn đống rác khổng lồ ở bãi Fresh Kills trên đảo Staten sẽ bị san bằng, những bãi rác mênh mông chứa đầy chất dẻo PVC cứng đầu và một trong những sản phẩm bền nhất mà con người chế tạo được – thủy tinh – sẽ bị nghiền thành bột. Sau khi băng tan, bị chôn vùi dưới lớp băng tích và các tầng địa chất bên dưới là một hỗn hợp phi tự nhiên của kim loại có màu đo đỏ tạm thời mang hình dạng dây và ống. Sau đó, chúng bị dồn lại thành đống và trở về với Đất mẹ. Thế hệ những nhà chế tạo dụng cụ tiếp theo xuất hiện trên hành tinh này có thể sẽ phát hiện ra và sử dụng chúng, nhưng cho đến khi đó vẫn sẽ không có dấu hiệu nào cho thấy chính loài người đã để chúng ở đó. Chương 4. THẾ GIỚI TRƯỚC KHI CHÚNG TA XUẤT HIỆN 1. Khoảng lặng giữa các kỷ băng hà Trong hơn một triệu năm, những dải băng đã không ngừng dịch chuyển tới lui từ hai cực, thỉnh thoảng chúng thật sự gặp nhau tại xích đạo. Nguyên nhân bao gồm sự trôi dạt lục địa, quỹ đạo lệch tâm nhẹ của trái đất, trục trái đất nghiêng, và sự biến đổi lượng khí cácbonic có trong bầu khí quyển. Trong vài triệu năm trở lại đây, khi các lục địa cơ bản giữ nguyên vị trí như chúng ta thấy hiện nay, các kỷ băng hà đã tái diễn thường xuyên và kéo dài tới 100 ngàn năm, đan xen bằng những đợt băng tan kéo dài trung bình từ 12 ngàn đến 28 ngàn năm. Dòng sông băng cuối cùng rời khỏi New York cách đây 11 ngàn năm. Dưới điều kiện bình thường, dòng sông băng tiếp theo có thể sẽ tràn tới, san bằng Manhattan vào bất kỳ thời điểm nào, mặc dù ngày càng có nhiều người nghi ngờ nó sẽ không xuất hiện đúng lịch trình. Hiện nay, nhiều nhà khoa học tiên đoán rằng khoảng lặng trước kỷ băng hà kế tiếp sẽ kéo dài hơn, bởi chúng ta đang thành công trong việc trì hoãn hiện tượng tất yếu này bằng cách nhồi thêm chất cách nhiệt vào lớp đệm khí quyển. Nghiên cứu các bong bóng khí cổ đại trong phần lõi của lớp băng Nam cực cho thấy, ngày nay, lượng khí cácbonic trôi nổi nhiều hơn bất kỳ thời điểm nào trong quá khứ trong 650 ngàn năm qua. Nếu nhân loại biến mất vào ngày mai và không thải thêm phân tử có thành phần cácbon nào vào khí quyển nữa, thì những gì chúng ta đã khơi mào sẽ vẫn còn tiếp diễn. Điều đó sẽ không xảy ra nhanh chóng theo tiêu chuẩn của chúng ta, mặc dù những tiêu chuẩn của chúng ta đang thay đổi, bởi vì chúng ta, những người tinh khôn Homo sapiens còn chẳng thèm chờ đến lúc bị hóa thạch mới bước vào khung thời gian địa chất. Bằng cách trở thành một sức mạnh thiên nhiên thực thụ, chúng ta đã làm được điều đó. Sau khi nhân loại biến mất, một trong số những tác phẩm của con người sẽ tồn tại lâu nhất chính là bầu khí quyển đã được chúng ta tái thiết kế. Vì thế, Tyler Volk không thấy có gì đáng ngạc nhiên khi bản thân là một kiến trúc sư, nhưng ông lại dạy về vật lý khí quyển và hóa học đại đương tại khoa sinh học ở đại học New York. Ông biết mình phải tiếp cận tất cả những môn học đó để mô tả cách thức con người biến đổi triệt để khí quyển, sinh quyển, và đại dương thành một thứ mà, cho đến lúc này, chỉ có những ngọn núi lửa và sự va chạm các mảng kiến tạo lục địa mới đủ sức làm nổi. Volk là một người đàn ông gầy, cao, có mái tóc dợn sóng sậm màu và đôi mắt nheo lại mỗi khi trầm tư. Ông tựa người vào ghế, săm soi một tấm áp phích chiếm gần hết diện tích bảng tin trong văn phòng của mình. Tấm áp phích mô tả bầu khí quyển và đại dương như một chất lưu duy nhất với những lớp có độ sâu khác nhau. Cho đến khoảng 200 năm trước, khí cácbonic từ lớp khí bên trên tan vào lớp chất lỏng bên dưới với tốc độ đều đặn, giúp giữ thế giới ở trạng thái cân bằng. Hiện nay, với nồng độ CO2 trong khí quyển quá cao, đại dương cần phải tái điều chỉnh. Nhưng bởi vì lượng khí đó quá lớn nên việc điều chỉnh cần rất nhiều thời gian, ông nói. “Hãy đặt giả định không còn con người để đốt nhiêu liệu nữa. Trước tiên, bề mặt đại dương sẽ nhanh chóng hấp thụ CO2. Khi đại dương đã bão hòa, hoạt động này sẽ chậm lại. Một phần CO2 sẽ được các sinh vật quang hợp hấp thụ. Dần dần, khi biển trộn lẫn, lớp nước bão hòa CO2 sẽ chìm xuống và từ sâu bên dưới, lớp nước cổ và chưa bão hòa sẽ nổi lên thay thế.” Sẽ mất một ngàn năm để đại dương đảo trộn nước trên mặt – dưới đáy hoàn toàn, nhưng điều này cũng không thể mang trái đất trở về thời kỳ tinh khiết tiền công nghiệp. Đại dương và khí quyển sẽ ở trạng thái cân bằng hơn, nhưng cả hai nơi vẫn chứa quá nhiều CO2. Đất đai cũng thế, ở đây, cácbon dư thừa sẽ quay vòng chu kỳ thông qua đất và các dạng sống hấp thu và thải ra cácbon. Vậy chúng sẽ đi đâu? “Thông thường,” Volk nói, “sinh quyển giống như một chiếc lọ thủy tinh úp ngược: về căn bản, ở bên trên, nó sẽ đóng kín với mọi loại vật chất ngoại lai, chỉ cho phép một số ít sao băng đi vào. Ở bên dưới, phần nắp lại hơi hé mở - với núi lửa.” Vấn đề là, bằng cách khai thác nhiên liệu hóa thạch và thổi chúng lên trời, chúng ta đã trở thành một ngọn núi lửa không ngừng phun trào kể từ những năm 1700. Vì thế, tiếp theo, trái đất phải làm việc mà nó luôn luôn thực hiện khi núi lửa phun thêm cácbon vào hệ thống. “Chu kỳ hình thành đá xuất hiện. Nhưng diễn ra lâu hơn nhiều.” Những chất xi-li-cát như chất phen-xpat và thạch anh, vốn bao phủ hầu hết lớp vỏ trái đất, sẽ dần dần bị axit cácbonic tạo thành từ mưa và khí cácbonic phong hóa, trở thành cácbonat. Axit cácbonic hòa tan đất và các khoáng chất giải phóng canxi vào mạch nước ngầm. Những dòng sông sẽ mang chất này đổ về biển, nơi nó sẽ kết tủa dưới dạng vỏ sò. Đó là một quá trình chậm chạp, được thời tiết khắc nghiệt thúc đẩy nhẹ nhàng trong một bầu khí quyển đã ngập ngụa trong CO2. “Cuối cùng,” Volk kết luận, “chu kỳ địa chất sẽ chuyển nồng độ CO2 về mức trước khi có loài người. Quá trình này sẽ diễn ra trong khoảng 100 ngàn năm.” Hoặc lâu hơn: Một vấn đề đặt ra là ngay cả khi những loại sinh vật biển nhỏ bé giam giữ cácbon trong lớp vỏ cứng của mình, thì lượng CO2 gia tăng ở các tầng trên của đại dương cũng có thể phân hủy vỏ của chúng. Một vấn đề khác là, khi các đại dương càng ấm hơn, thì chúng càng hấp thụ ít CO2 hơn, vì nhiệt độ cao hạn chế sự tăng trưởng của sinh vật phù du hô hấp bằng CO2. Nhưng Volk vẫn tin rằng, khi chúng ta biến mất, một ngàn năm đảo trộn nước đầu tiên của đại dương cũng có thể hấp thu khoảng 90% lượng khí cácbonic dư thừa, khiến cho tỉ lệ CO2 trong bầu khí quyển chỉ còn cao hơn mức 280 phần triệu thời kỳ tiền công nghiệp khoảng từ 10 đến 20 phần triệu phân tử (ppm – parts per million). Các nhà khoa học đã dành một thập kỷ nghiên cứu lõi băng Nam cực cũng trấn an chúng ta rằng, sự chênh lệch giữa mốc nói trên và và mốc 380 ppm của ngày nay đồng nghĩa với việc: sẽ không có dòng sông băng nào đe doạ chúng ta trong ít nhất 15000 năm tiếp theo. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian lượng cácbon dư thừa chìm dần vào nước, cọ lùn và mộc lan có lẽ sẽ tái chiếm thành phố New York nhanh hơn sồi và gỗ dẻ. Nai sừng tấm có thể sẽ phải tìm cây lý gai và cây cơm cháy ở tận Labrador, trong khi Manhattan sẽ tiếp đón những loài như ta-tu và lợn cỏ đến từ miền nam… …trừ phi; một vài nhà khoa học cũng không kém phần lỗi lạc, những người vẫn quan sát châu Nam cực rất sát sao, lên tiếng phản bác; nước ngọt tan ra từ chỏm băng ở vùng Greenland làm lạnh dòng hải lưu Gulf Stream (dòng Vịnh) khiến nó ngừng chảy, chấm dứt hoạt động của dải băng chuyền đại dương vĩ đại vẫn giúp luân chuyển nước ấm vòng quanh địa cầu. Sự kiện đó rốt cuộc sẽ mang kỷ băng hà sẽ trở lại châu Âu và vùng Bờ Đông Bắc Mỹ. Có lẽ kỷ băng hà lần này không đủ khắc nghiệt để tạo thành những dòng sông băng khổng lồ, nhưng những lãnh nguyên trơ trụi và tầng đất đóng băng vĩnh cửu sẽ thay thế rừng ôn đới. Bụi cây quả mọng sẽ biến thành lớp cây phủ còi cọc nhiều màu sắc lẫn giữa địa y tuần lộc, thu hút những con tuần lộc caribu tiến về phía nam. Trong kịch bản thứ ba mà nhiều người mơ tưởng, hai thái cực có thể khắc chế lẫn nhau đủ để giữ nhiệt độ dao động ở khoảng giữa. Dù là gì đi nữa, nóng hay lạnh, hay lưng chừng, trong một thế giới nơi con người đã tồn tại và đẩy lượng cácbon tồn tại trong bầu khí quyển lên đến ngưỡng 500 hoặc 600 ppm – hoặc đến mức dự đoán là 900 ppm vào năm 2100 sau công nguyên, nếu chúng ta không thay đổi tí gì trong cách thức kinh doanh ngày nay – hầu hết những gì đã từng nằm trên đỉnh Greenland sẽ trôi bì bõm trên một Đại Tây Dương đã mở ra mênh mông vô tận. Tùy vào độ mở rộng của nó và Bắc Băng Dương, Manhattan sẽ chỉ còn lại là một cụm vài hòn đảo bé tí, một hòn đảo là nơi Great Hill từng nhô lên bên trên Công viên Trung tâm, một hòn đảo khác là khối diệp thạch trồi lên giữa Washington Heights. Trong một khoảng thời gian, cụm cao ốc liên hợp cách đó vài dặm về phía nam sẽ tuyệt vọng quét khắp vùng nước mênh mông bao quanh, chẳng khác nào ống kính tiềm vọng trên mặt nước của những con tàu ngầm, nhưng rồi chúng sẽ sớm bị đánh gục bởi những cơn sóng hung hãn. 2. Địa đàng Băng Nếu con người chưa bao giờ tiến hóa, hành tinh này sẽ đi về đâu? Hay chúng ta tất yếu phải tiến hóa? Và nếu chúng ta biến mất, khi nào – hoặc có khi nào – chúng ta, hoặc một chủng loài phức tạp tương tự, sẽ xuất hiện lần nữa? Cách xa cả hai cực, hồ Tanganyika ở Đông Phi nằm trên một khe nứt mà 15 triệu năm về trước đã bắt đầu chia châu Phi làm đôi. Thung lũng Giãn tách Châu Phi Lớn (Great African Rift Valley) là phần mở rộng của đường chia cắt kiến tạo đã khởi phát từ trước đó ở khu vực mà hiện nay là thung lũng Beqaa của Li Băng, sau đó đường nứt chạy về hướng nam, tạo nên dòng chảy của sông Jordan và biển Chết. Rồi nó mở rộng ra biển Đỏ, và bây giờ đang chia thành hai nhánh song song xuyên qua lớp vỏ châu Phi. Hồ Tanganyika toạ lạc trên ngã ba phía tây của Đới giãn tách, trải rộng suốt 420 dặm, tạo thành hồ nước dài nhất trên thế giới. Với khoảng cách từ mặt nước đến đáy gần một dặm, và tuổi đời xấp xỉ con số mười triệu, Tanganyika là hồ sâu thứ nhì và cổ xưa thứ nhì trên thế giới, sau hồ Baikal ở Siberia. Điều này đã biến nó thành một đối tượng đặc biệt hấp dẫn với những nhà khoa học chuyên phân tích trầm tích dưới đáy hồ. Cũng giống những đợt tuyết rơi xuống hàng năm giúp bảo tồn lịch sử khí hậu trong băng hà, phấn hoa của thực vật bộ lá mọc ở khu vực xung quanh lắng xuống đáy hồ, được tách ra thành từng lớp rõ ràng, dễ phân biệt: những dải sậm màu là sản phẩm của nước mưa không được đất hấp thụ trong mùa mưa và những đường chỉ mảnh sáng màu là kết quả của các đợt phát triển bùng nổ của vi tảo trong mùa khô. Ở hồ Tanganyika cổ xưa, tầng đáy không chỉ tiết lộ danh tính các loài thực vật. Chúng còn chỉ ra cách thức rừng nhiệt đới dần dần chuyển hóa thành rừng cây gỗ lá rộng chịu lửa, được biết với cái tên miombo, hiện đang che phủ nhiều vùng rộng lớn của châu Phi ngày nay. Miombo là một sản phẩm nhân tạo khác, bắt đầu phát triển từ khi con người thời đồ đá cũ phát hiện ra rằng, bằng cách đốt cây cối họ có thể tạo ra các vùng đồng cỏ, các khoảng rừng thưa để thu hút và nuôi dưỡng linh dương. Khi trộn lẫn trong những lớp than dày, phấn hoa hé lộ cuộc phá rừng vĩ đại hơn nữa đã đồng hành với buổi bình minh của Thời kỳ Đồ sắt, khi con người lần đầu học cách nấu chảy quặng, rồi chế ra cuốc để cày bừa. Họ gieo trồng những mùa vụ, chẳng hạn như kê châu Phi, vết tích của chúng cũng xuất hiện. Những cây trồng xuất hiện muộn hơn, như đậu và ngô, sinh ra quá ít phấn hoa và hạt lại quá lớn nên không thể phán tán xa, nhưng sự mở rộng của nông nghiệp vẫn được minh chứng bởi sự gia tăng số lượng phấn hoa từ những cây dương xỉ đã chiếm cứ các vùng đất bị khai phá. Người ta thu thập được tất cả những thông tin nói trên cùng nhiều thông tin khác là nhờ vào nghiên cứu bùn được lấy lên bằng một ống thép dài mười mét, người ta hạ ống xuống hồ bằng dây cáp, với sự hỗ trợ của một mô tơ rung. Bằng chính sức nặng của mình, ống thép sẽ cắm vào đáy hồ - và vào trong lớp phấn hoa 100.000 năm tuổi. Theo Andy Cohen, nhà nghiên cứu sinh thái học hồ cổ, người hiện đang lãnh đạo một dự án nghiên cứu ở Kigoma, Tanzania, trên bờ đông hồ Tanganyika, bước tiếp theo là một thiết bị khoan có thể xuyên thủng một lõi năm triệu, hoặc thậm chí mười triệu năm tuổi. Loại máy như thế sẽ rất đắt, xấp xỉ giá của một giàn khoan dầu nhỏ. Hồ sâu đến mức người ta không thể neo chặt máy khoan tại một vị trí, mà cần có những động cơ đẩy nối với hệ thống định vị toàn cầu để không ngừng điều chỉnh vị trí của nó phía trên lỗ. Nhưng chi nhiều tiền một chút cũng đáng thôi, Cohen nói, bởi vì đây là kho lưu trữ tài liệu về khí hậu lâu đời nhất và phong phú nhất của trái đất. “Đã từ lâu, con người cho rằng chính sự tiến và lui của những lớp băng vùng cực là nhân tố chi phối khí hậu. Nhưng vẫn có lý do chính đáng để tin rằng vòng tuần hoàn tại các chí tuyến cũng có liên quan. Chúng ta biết rất nhiều về sự thay đổi khí hậu tại hai địa cực, nhưng lại không biết mấy về sự thay đổi khí hậu tại vị trí “máy sưởi” của hành tinh, nơi con người sinh sống.” Cohen cho biết, lấy được mẫu lõi bùn dưới đáy hồ đồng nghĩa với việc lấy được “gấp mười lần lịch sử khí hậu tìm thấy trong băng hà, và với độ chính xác cao hơn nhiều. Chắc chắn trong đó có hàng trăm thứ chúng ta có thể phân tích.” Một trong số đó chính là lịch sử tiến hóa của nhân loại, vì bản ghi chép của lõi bùn trải rộng qua cả những năm tháng động vật linh trưởng đi những bước đầu tiên trên hai chân và tiến hoá qua những giai đoạn siêu việt dẫn đến sự hình thành của các họ người, từ Australopithecus (vượn người Phương Nam) đến Homos habilis (người khéo léo), erectus (người đứng thẳng), và cuối cùng là sapiens (người tinh khôn). Phấn hoa chưa trong lõi bùn sẽ giống hệt như loại phấn hoá mà tổ tiên chúng ta đã hít vào, thậm chí phán tán từ chính những cây cối họ đã chạm vào và ăn, bởi vì họ cũng khởi nguồn từ chính Đới giãn tách lớn này. Ở phía đông của hồ Tanganyika, tại một trong những nhánh song song của Đới giãn tách Châu Phi, có một hồ khác, cạn hơn và chứa đầy nước mặn. Hồ này đã bốc hơi và tái xuất hiện nhiều lần trong hơn hai triệu năm vừa qua. Ngày nay, nó là một vùng đồng cỏ, bị bò và dê của những người chăn gia súc Maasai ăn trụi, chỉ còn trơ ra sa thạch, đất sét, đá núi lửa và tro bụi phủ trên lớp đất bazan núi lửa. Qua thời gian, một dòng suối dẫn nước từ cao nguyên núi lửa Tanzania xuống phía đông đã dần dần vạch qua những lớp đất đá này một rãnh sâu 100 mét. Ở đó, trong thế kỷ 20, hai nhà khảo cổ Louis và Mary Leakey đã khám phá ra những hộp sọ hóa thạch của người xưa bị bỏ lại từ 1,75 triệu năm trước. Bãi sa khoáng mảnh vụn xám của hẻm núi Olduvai, hiện là một vùng bán sa mạc lởm chởm những cây xidan, là nơi ngươi ta phát hiện được hàng trăm công cụ đồ đá và rìu đá thô được làm từ đá bazan bên dưới. Một số món được xác định đã xuất hiện cách đây tới hai triệu năm. Vào năm 1978, tại vị trí cách hẻm núi Olduvai 25 dặm về phía nam, nhóm của Mary Leakey tìm thấy vết tích dấu chân bị đóng băng trên tro ẩm. Chúng thuộc về một nhóm ba người vượn Phương Nam, có thể đó là một cặp cha mẹ và một con, đang bước đi hoặc chạy trốn trong cơn mưa bụi và tro núi lửa sau đợt phun trào của ngọn núi lửa Sadiman ở gần đó. Khám phá của họ đã đẩy sự tồn tại của động vật thuộc họ người đi bằng hai chân trở về trước hơn 3,5 triệu năm. Từ những gì khai thác được ở đây và ở những khu vực liên quan ở Kenya và Ethiopia, một hình mẫu về sự phát triển của loài người đã dần lộ rõ. Giờ đây, chúng ta đã biết rằng loài người đã bước đi trên hai chân từ hàng trăm ngàn năm trước khi chúng ta biết đập hai hòn đá vào nhau để tạo ra những công cụ có cạnh sắc. Qua những di chỉ hàm răng của động vật thuộc họ người và những hóa thạch khác tìm thấy gần đó, chúng ta biết rằng chúng ta là động vật ăn tạp, được trang bị răng hàm để nghiền các loại hạt - nhưng đồng thời, nhờ phát triển từ chỗ tìm ra những hòn đá có hình dạng như chiếc rìu cho đến học cách sản xuất chúng, chúng ta đã sở hữu những công cụ giết thú hiệu quả và vì vậy, được ăn thịt. Hẻm núi Olduvai và những khu vực có hóa thạch của động vật thuộc họ người khác, cùng tạo thành một vòng cung chạy từ Ethiopia kéo dài về phía nam và song song với bờ biển phía đông của lục địa, đã xác nhận rõ ràng rằng tất cả chúng ta đều là người châu Phi. Bụi đất mà chúng ta hít vào ở đây, bị những cơn gió tây cuốn đi, để lại một lớp tro núi lửa xam xám trên những cây xidan và cây keo ở Olduvai, chứa những mẫu DNA hóa vôi của chính chúng ta. Từ nơi này, con người đã toả đi khắp các châu lục và quanh hành tinh. Cuối cùng, khi đã chu du đủ mọi nơi, chúng ta trở về, ghẻ lạnh với nguồn cội của mình đến mức chúng ta nô dịch những anh em cùng huyết thống, những người ở lại để duy trì quyền thừa kế của chúng ta. Xương thú ở những khu vực này – một số của các loài hà mã, tê giác, ngựa và voi bị tuyệt chủng khi loài người sinh sôi nảy nở; nhiều mảnh xương bị tổ tiên chúng ta mài thành những công cụ và vũ khí sắc nhọn – giúp chúng ta biết thế giới trông như thế nào trước khi chúng ta phát triển vượt lên, tách khỏi những loài còn lại của Lớp thú. Tuy nhiên, chúng lại không cho ta biết điều gì có thể đã thúc đẩy chúng ta làm thế. Nhưng ở hồ Tanganyika vẫn còn một số manh mối. Chúng lại dẫn ta trở về với băng. Hồ được cấp nước từ nhiều con suối ào ạt đổ xuống từ vách Đới giãn tách cao cả dặm. Đã có thời, những con suối này chảy len lách qua rừng mưa. Sau đó là rừng miombo. Ngày nay, trên các vách khe dốc đứng này hầu như không còn bóng cây cối. Sườn dốc của nó đã được phát quang để trồng khoai mỳ, những cánh đồng ở đây dốc đến mức các nông dân muốn đi xuống phải lăn. Một ngoại lệ là suối Gombe, nằm ở bờ biển phía đông Tarzanian của hồ Tanganyika. Đây là nơi nhà nghiên cứu động vật linh trưởng Jane Goodall, trợ lý của Leakey khi còn làm việc ở hẻm núi Olduvai, đã nghiên cứu loài tinh tinh từ năm 1960. Khu vực nghiên cứu thực địa của bà, nơi có bề dày nghiên cứu nhất về cách thức một chủng loại hành xử trong môi trường hoang dã, đặt đại bản doanh tại một khu trại chỉ có thể đi vào bằng thuyền. Công viên quốc gia bao quanh khu này là công viên nhỏ nhất Tanzania – chỉ rộng 52 dặm vuông. Lần đầu tiên khi Goodall đến đây, những ngọn đồi xung quanh được rừng nhiệt đới bao phủ. Ở nơi rừng nhiệt đới mở ra rừng thưa và thảo nguyên, có sư tử và trâu rừng châu Phi sinh sống. Ngày nay, ba mặt của công viên được bao bọc bởi những cánh đồng khoai mỳ, đồn điền cọ dầu, khu dân cư trên đồi, và khắp nơi bên bờ hồ là những ngôi làng với hơn năm ngàn cư dân. Loài tinh tinh nổi tiếng có số lượng cá thể mấp mé mức 90. Mặc dù tinh tinh là loài linh trưởng được nghiên cứu kĩ lưỡng nhất tại Gombe, song rừng mưa ở đây cũng là nhà của rất nhiều khỉ đầu chó lông màu ô liu và một vài loài khỉ khác: khỉ trán trắng, khỉ đỏ, khỉ đuôi đỏ, và khỉ xanh. Trong năm 2005, một nghiên cứu sinh tại Trung tâm Nghiên cứu Nguồn gốc Loài người thuộc đại học New York, Kate Derwiler đã dành nhiều tháng để điều tra một hiện tượng kỳ lạ có liên quan đến hai loài khỉ đuôi đỏ và khỉ xanh. Khỉ đuôi đỏ có khuôn mặt nhỏ màu đen, mũi có chấm trắng, hai má trắng, và đuôi màu hạt dẻ rất đẹp. Khỉ xanh có bộ lông hơi ánh xanh, gương mặt có dạng tam giác và gần như trụi lông, lông mày nhô cao rõ rệt nom rất ấn tượng. Với màu sắc, kích thước cơ thể và tiếng kêu khác nhau, không ai có thể nhầm lẫn khỉ xanh và khỉ đuôi đỏ nếu bắt gặp chúng trên một cánh đồng. Nhưng ở Gombe hiện nay, dường như người ta đang nhầm lẫn giữa hai loài, bởi vì chúng bắt đầu lai giống với nhau. Cho đến thời điểm này, Detwiler đã xác nhận rằng, mặc dù hai loài này có số lượng nhiễm sắc thể khác nhau, song ít nhất một vài con lai của hai loài này – giữa khỉ xanh đực và khỉ đuôi đỏ cái hoặc ngược lại – vẫn có khả năng sinh sản. Trong phân của chúng được bà thu thập từ dưới nền rừng, có những mảnh thành ruột giúp xác nhận sự hòa trộn DNA đã tạo thành một động vật lai mới. Chỉ có bà cho rằng điều này mang một ý nghĩa lớn lao hơn. Di truyền học cho thấy, vào một thời điểm nào đó cách đây từ ba đến năm triệu năm trước, hai quần thể của một loài vốn là tổ tiên chung của hai loài khỉ này đã bị chia cắt. Khi điều chỉnh để thích nghi với những môi trường khác nhau, chúng dần dần phân tách hẳn. Nhờ nghiên cứu một trường hợp tương tự liên quan đến những quần thể chim sẻ bị cô lập tại những hòn đảo khác nhau thuộc quần đảo Galapagos, Charles Darwin đã lần đầu tiên suy luận được cách thức vận hành của quá trình tiến hóa. Trong trường hợp đó, 13 loại chim sẻ khác nhau dần phát triển thích nghi với những thức ăn có sẵn ở nơi chúng sinh sống, mỏ của chúng biến đổi khác nhau để phù hợp với việc đập vỡ hạt, ăn côn trùng, moi ruột cây xương rồng, hoặc thậm chí hút máu của các loài chim biển. Ở Gombe, rõ ràng điều ngược lại đã xảy ra. Ở một thời điểm nào đó, khi những cánh rừng mới lấp đầy rào cản đã từng chia tách hai loài, chúng nhận ra rằng hai bên đang cùng chia sẻ một khoảnh rừng chung. Nhưng rồi, chúng bỗng bị dồn vào cùng một nơi, do khu rừng bao quanh công viên quốc gia Gombe phải nhường chỗ cho đất trồng khoai mỳ. “Khi số lượng bạn tình có sẵn của mỗi loài ít đi,” Detwiler đoán, “những động vật này bị đẩy vào thế buộc phải tìm ra những phương thức sinh tồn liều lĩnh, hoặc sáng tạo.” Luận điểm của bà là: sự lai giống giữa hai loài này có thể là một nhân tố tiến hóa, cũng hệt như quá trình chọn lọc tự nhiên trong nội bộ một loài vậy. “Có lẽ thế hệ con lai ban đầu không được mạnh khỏe như cha hoặc mẹ chúng,” bà nói. “Nhưng vì lý do gì đi nữa – môi trường sống hạn hẹp hoặc số lượng cá thể quá ít ỏi – thử nghiệm tiếp tục được lặp lại, cho đến khi xuất hiện một động vật lai có khả năng sống sót ngang với cha mẹ chúng. Hoặc, có thể ưu việt hơn cả cha mẹ chúng, vì môi trường đã thay đổi.” Như vậy, những đứa con lai tương lai của hai loài khỉ này chính là một sản phẩm khác của con người: cha mẹ của chúng bị dồn lại cùng một chỗ bởi chính những Homo sapiens biết trồng trọt, họ đã chia cắt miền đông châu Phi quá sâu sắc đến mức những quần thể khỉ và các loài khác như chim bách thanh hay chim ruồi buộc phải lai giống họ gần, lai giống họ xa, diệt vong – hoặc làm việc gì đó thật sáng tạo. Ví như tiến hóa. Có lẽ điều tương tự cũng đã từng xảy ra ở nơi này trước đó. Khi Đới giãn tách chỉ vừa mới được hình thành, rừng nhiệt đới phủ khắp phần eo của lục địa châu Phi, trải dài từ Ấn Độ Dương đến Đại Tây Dương. Khỉ không đuôi khổng lồ xuất hiện, bao gồm một loài có nhiều nét tương đồng với tinh tinh. Người ta không tìm thấy một dấu vết nào của chúng, vì cùng một lý do tại sao dấu tích của tinh tinh quá hiếm hoi: trong rừng nhiệt đới, những cơn mưa xối xả đã sớm rửa trôi khoáng chất trên mặt đất trước khi bất kỳ thứ gì kịp hóa thạch, và xương phân rã rất nhanh. Nhưng các nhà khoa học biết rõ chúng đã tồn tại, bởi vì di truyền học cho thấy chúng ta và tinh tinh có cùng một tổ tiên. Nhà nhân chủng học thể chất người Mỹ, Richard Wrangham đã đặt tên cho loài khỉ không đuôi chưa được khám phá này là Pan prior. Prior – tiền, có nghĩa là xuất hiện trước Pan troglodytes, tức tinh tinh hiện đại, đồng thời cũng để chỉ giai đoạn trước khi một lời nguyền khô hạn vĩ đại bao trùm toàn châu Phi xảy ra cách đây bảy triệu năm. Đầm lầy thu hẹp, đất đai khô cằn, ao hồ biến mất, và rừng co cụm lại thành những chốn ẩn náu nhỏ bé bị các đồng cỏ chia cắt. Nguyên nhân là do một kỷ băng hà tiến công từ hai địa cực. Châu Phi trở nên khô cằn, nứt nẻ, bởi hầu hết hơi ẩm trên thế giới đều bị giam trong những dòng sông băng đã chôn vùi Greenland, Scandinavia, Nga và phần lớn Bắc Mỹ. Không dải băng nào có thể với tới khu vực này, mặc dù những mỏm băng đã hình thành trên những đỉnh núi lửa như đỉnh Kilimanjaro và đỉnh Kenya. Nhưng chính thế lực màu trắng tàn phá phương xa, đang nghiền nát những cây quả hình nón trên đường tiến công của nó, cũng là nguyên nhân gây ra sự thay đổi khí hậu đã chia cắt rừng châu Phi, vốn có diện tích rộng gấp đôi rừng Amazon ngày nay. Những dải băng ở tít những nơi xa xôi đã khiến các quần thể động vật có vú và chim châu Phi bị kẹt trong những khoảnh rừng khác nhau; ở đó, trong vài triệu năm tiếp theo, chúng sẽ tiến hóa theo những chiều hướng khác nhau. Chúng ta biết rằng, có ít nhất một loài trong số đó đã buộc phải thử làm một việc liều lĩnh: đi ra thảo nguyên. Nếu loài người biến mất, và nếu rốt cuộc cũng có thứ gì đó thay thế chúng ta, liệu chúng có khởi đầu giống chúng ta hay không? Ở phía tây nam Uganda, có một nơi chúng ta có thể chứng kiến lịch sử của nhân loại được tái hiện dưới quy mô nhỏ. Hẻm núi Chambura là một khe núi hẹp cắt một vệt dài mười dặm xuyên qua lớp trầm tích tro núi lửa màu nâu sậm ở đáy Thung lũng Giãn tách. Đối nghịch rõ rệt với khu vực rộng lớn màu vàng xung quanh, một mảng xanh ngắt những cây sobu nhiệt đới (một loại cây thuộc họ lê và táo), cây gỗ cứng, và diệp hạ châu phủ đầy hẻm núi này dọc theo sông Chambura. Với tinh tinh, ốc đảo này vừa là nơi trú ẩn vừa là một chốn đầy thử thách. Mặc dù cây cối rất sum suê tươi tốt, nhưng chiều ngang của hẻm núi chỉ vỏn vẹn hơn 450 mét, hoa quả sẵn có không đủ thỏa mãn tất cả nhu cầu thực phẩm của chúng. Vì thế, có đôi lúc, một số con can đảm sẽ liều lĩnh leo lên ngọn cây, nhảy về phía bờ để khám phá mặt đất đầy may rủi phía trên. Vì không có cành cây nào làm thang để từ đó nhìn vượt qua những bụi cỏ yến mạch và cỏ sả, nên chúng đành phải tự đứng trên hai chân. Trong khoảnh khắc, chúng đậu chênh vênh trên ngưỡng cửa biến thành động vật đứng thẳng trên hai chân, mắt dõi tìm bóng sư tử và linh cẩu giữa những cây vả mọc rải rác trên đồng cỏ. Chúng chọn cái cây mà chúng tính toán mình có thể tới được mà không trở thành miếng mồi ngon cho kẻ khác. Và rồi, cũng như chúng ta đã từng làm, chúng chạy thục mạng đến cái cây đó. Khoảng ba triệu năm sau khi những dòng sông băng ở tít những miền xa xôi đẩy một vài con Pan prior can đảm và đói khát ra khỏi những khu rừng đã không còn đủ lớn để duy trì sự sống của chúng – và một vài con trong số chúng đã chứng tỏ mình có đủ óc sáng tạo để có thể tồn tại – trái đất lại ấm lên. Băng tan dần. Cây cối tái chiếm vùng đất trước đây của chúng và thậm chí một số loài còn bao phủ cả Iceland. Rừng lại nối liền từ bên này sang bên kia châu Phi, từ bờ Đại Tây Dương đến Ấn Độ Dương, nhưng khi đó, Pan prior đã chuyển hóa thành một dạng mới: loài khỉ đầu tiên ưa thích vùng rừng thưa đầy cỏ ở bìa rừng. Sau hơn một triệu năm đi trên hai chân, chân của chúng đã dài ra và những ngón chân lớn ở vị trí đối diện đã ngắn lại. Chúng đã đánh mất khả năng cư ngụ trên cây, nhưng kỹ năng sống sót trên mặt đất được thui rèn đã dạy chúng biết làm nhiều việc hơn hẳn. Giờ đây chúng ta là động vật thuộc họ người. Ở đâu đó trong giai đoạn này, khi vượn người Phương Nam (Australopithecus) trở thành người hiện đại (Homo), chúng ta không chỉ học cách không chỉ theo chân những ngọn lửa giúp mở rộng các thảo nguyên, nơi chúng ta đã quen cư ngụ, mà còn học được cả cách thức tự tạo lửa nữa. Trong khoảng hơn ba triệu năm sau đó, số lượng cá thể của chúng ta quá ít, nên chỉ có thể tạo ra những khu vực đồng cỏ và rừng xen kẽ rải rác vào những thời điểm các kỷ băng hà ở nơi xa xôi không tạo sẵn cho chúng ta. Tuy nhiên, trong thời gian đó, rất lâu trước khi hậu duệ gần đây nhất của Pan prior, có họ sapiens, xuất hiện, hẳn chúng ta đã sinh sôi nảy nở đến số lượng đủ lớn để có thể thử sắm vai những người tiên phong một lần nữa. Liệu những động vật thuộc họ người rời khỏi châu Phi có phải là những nhà mạo hiểm can đảm, trí tưởng tượng của họ đã vẽ nên những viễn cảnh trù phú hơn bên ngoài đường chân trời của đồng cỏ? Hay họ chỉ là những kẻ thua cuộc, tạm thời bị bại trận dưới tay những anh em họ hàng mạnh hơn trong trận chiến giành quyền ở lại cái nôi đã sinh ra chúng ta? Hay họ chỉ đơn giản tiến về phía trước và không ngừng sinh sôi nảy nở, như bất kỳ loài thú nào được thiên nhiên ban tặng nguồn tài nguyên dồi dào, ví như những đồng cỏ mênh mông trải dài đến tận châu Á? Theo đánh giá của Darwin, điều này không quan trọng: khi những nhóm bị cách ly thuộc cùng một loài phát triển theo những hướng riêng biệt, nhóm thành công nhất học được cách phát triển thịnh vượng trong môi trường mới. Dù là những kẻ lưu vong hay những kẻ mạo hiểm, những con sống sót đã chiếm lĩnh toàn bộ vùng Tiểu Á rồi đến Ấn Độ. Ở châu Âu và châu Á, họ bắt đầu phát triển một kỹ năng không còn xa lạ gì với sinh vật vùng ôn đới nhưng vẫn còn mới mẻ với loài linh trưởng: lập kế hoạch, kỹ năng này đòi hỏi cả trí nhớ và khả năng phòng xa nhằm dự trữ thức ăn trong những mùa thức ăn dồi dào để tồn tại qua mùa lạnh giá. Một rẻo đất đã dẫn họ đi hầu khắp Indonesia, nhưng để đến được Guinea và đến được Úc, vào khoảng 50.000 trước đây, họ phải học cách trở thành những thủy thủ. Và sau đó, cách đây 11.000 năm, những người tinh khôn Homo sapiens giỏi quan sát ở Trung Đông đã phát hiện một bí mật mà cho đến lúc ấy chỉ có một số loài côn trùng mới biết được: cách kiểm soát nguồn thức ăn không phải bằng việc phá hủy cây cối, mà bằng cách nuôi dưỡng chúng. Biết rằng lúa mỳ và lúa mạch do họ trồng có nguồn gốc từ Trung Đông (những loại cây trồng này nhanh chóng phổ biến về phía nam dọc theo sông Nile), nên chúng ta cũng có thể đoán được rằng có người đã mang những hạt giống và kiến thức nông nghiệp từ đó trở về quê hương châu Phi – giống như Jacob thông thái đã trở về với nhiều món quà thần kỳ và đánh bại người anh đầy quyền lực, Esau. Đó quả là thời điểm rất đắt để làm việc này, bởi vì một kỷ băng hà khác – kỷ băng hà cuối cùng – đã lại một lần nữa cướp đi độ ẩm của những vùng đất mà các sông băng không thể chạm đến, siết chặt nguồn cung thực phẩm. Nhiều nước bị đóng thành sông băng đến nỗi mực nước các đại dương hạ xuống thấp hơn 91 mét so với ngày nay. Cùng lúc đó, những con người vẫn đang chu du khắp châu Á đã đi đến vùng cực xa nhất của Siberia. Lúc này, biển Bering đã cạn bớt nước, một rẻo đất dài một ngàn dặm xuất hiện ngang biển, dẫn đến tận Alaska. Suốt 10.000 năm qua, nó đã nằm bên dưới một lớp băng dày hơn nửa dặm. Nhưng giờ đây, băng tan bớt đi, để lộ ra một lối đi, ở một vài nơi, lối đi mở rộng đến 30 dặm. Luồn lách giữa những hồ nước do băng tan tạo thành, họ vượt qua rẻo đất. Nếu ví tất cả những gì còn lại của một khu rừng đã sinh ra chúng ta là một một quần đảo thì hẻm núi Chambura và sông Gombe chính là những đảo san hô dạng vòng tồn tại trong quần đảo đó. Lần này, sự chia tách hệ sinh thái châu Phi không có nguyên do từ các dòng sông băng, mà là từ chính chúng ta, trong bước tiến hóa nhảy vọt mới nhất lên địa vị một Thế lực Tự nhiên, với sức mạnh sánh ngang núi lửa và sông băng. Trong những hòn đảo rừng bị vây bọc bởi những biển đồng ruộng và khu dân cư này, một số hậu duệ của loài Pan prior vẫn bám trụ sự sống theo cách hệt như thuở xưa khi chúng ta bỏ đi để trở thành khỉ không đuôi sống trong rừng, trên thảo nguyên và cuối cùng là trong thành thị. Ở phía bắc của sông Congo, những người anh em của chúng ta là khỉ đột và tinh tinh; còn ở phía nam, là khỉ Bonobo. Hai loài sau có hệ gien gần giống chúng ta nhất; Louis Leakey cử Jane Goodall đến Gombe là vì những xương và sọ do ông và vợ phát hiện được cho thấy tổ tiên chung của chúng ta có lẽ có bề ngoài và cách hành xử rất giống loài tinh tinh. Dù điều gì đã thôi thúc tổ tiên của chúng ta lên đường, thì quyết định của họ cũng đã làm châm ngòi cho một quá trình tiến hoá nhảy vọt chưa từng có trước đây, được xem là thành công nhất, những cũng mang tính hủy diệt nhất mà thế giới từng chứng kiến. Nhưng, giả sử chúng ta đã ở lại – hoặc giả sử rằng, khi chúng ta tiến vào thảo nguyên, tổ tiên của sư tử và linh cẩu ngày nay nhanh chóng thủ tiêu chúng ta, thì cái gì sẽ tiến hóa thay chỗ chúng ta, nếu có? Nhìn sâu vào đôi mắt của một con tinh tinh hoang dã chính là lướt qua thế giới mà chúng ta đã từng sống trong rừng. Suy nghĩ của chúng có thể mơ hồ đấy, nhưng trí thông minh của chúng thì không thể chối cãi. Một con tinh tinh đứng giữa lãnh địa của mình, điềm tĩnh ngắm nghía bạn từ một cành cây mbula, không hề tỏ ra kém cỏi chút nào trước sự hiện diện của một loài linh trưởng bậc cao. Những bộ phim Hollywood đã tạo ra một cái nhìn méo mó, vì tất cả tinh tinh đã được thuần dưỡng của họ chỉ là trẻ vị thành niên, chúng dễ thương như những đứa bé. Tuy nhiên, chúng sẽ còn lớn lên nữa, có khi nặng đến 54 cân. Với một người có trọng lượng tương tự, khoảng 13,6 cân trong số đó là mỡ. Một con tinh tinh hoang dã, sống trong trạng thái vận động liên tục, chỉ có khoảng 1,4 đến 1,8 cân mỡ. Còn lại toàn là cơ. Tiến sỹ Michael Wilson, một người đàn ông trẻ tuổi với mái tóc xoăn, là giám đốc của khu vực nghiên cứu thực địa tại sông Gombe. Ông cho biết sức mạnh của chúng là rất đáng nể. Ông đã chứng kiến chúng xé xác và ăn ngấu nghiến lũ khỉ đỏ. Chúng là những tay thợ săn siêu việt, khoảng 80% các cuộc tấn công của chúng đều thành công. “Với sư tử, tỷ lệ này chỉ là 10 đến 20%. Chúng là sinh vật khá thông minh.” Nhưng ông cũng thấy chúng lẻn vào lãnh địa của những nhóm tinh tinh ở khu vực lân cận, mai phục những con đực khinh suất ở một mình, và đánh đập chúng cho đến chết. Ông quan sát lũ tinh tinh kiên nhẫn hạ gục từng con đực của phe lân cận trong suốt nhiều tháng ròng cho đến khi lãnh thổ và những con cái thuộc về chúng. Ông từng chứng kiến những trận chiến tinh tinh khốc liệt, và cuộc đấu đẫm máu trong nội bộ nhóm để quyết định ai sẽ là con đực đầu đàn. Phép so sánh tất yếu với tính hiếu chiến và những đấu tranh giành quyền lực ở loài người trở thành chuyên ngành nghiên cứu của ông. “Tôi đã quá mệt mỏi khi nghĩ về chuyện đó. Căng thẳng lắm.” Một trong những bí mật không thể hiểu được là tại sao khỉ Bonobo, nhỏ và mảnh mai hơn tinh tinh, nhưng cũng gần gũi với chúng ta không kém, dường như không có vẻ gì là hiếu chiến cả. Mặc dù chúng cũng bảo vệ lãnh thổ, nhưng người ta chưa từng quan sát thấy một cuộc giết chóc nào xảy ra giữa các nhóm. Bản tính hòa nhã, sở thích giao phối với nhiều bạn tình, và tổ chức xã hội mẫu quyền rõ ràng của chúng, trong đó tất cả các thành viên đều được chăm chút, gần như đã trở thành thần thoại trong lòng những người vẫn giữ niềm tin bền bỉ rằng những kẻ hiền lành rồi cũng sẽ mong có ngày thừa kế Trái đất. Tuy nhiên, trong một thế giới phi nhân loại, nếu phải chiến đấu với tinh tinh, chúng sẽ bị áp đảo về số lượng: chỉ còn 10.000 con khỉ Bonobo còn sót lại hoặc ít hơn, so với 150.000 con tinh tinh. Cách đây một thế kỷ, số lượng cá thể của hai loài cộng lại nhiều hơn ngày nay khoảng 20 lần, vì vậy, cứ mỗi năm trôi qua, cả hai loài đều mất dần cơ hội sống sót để chiếm lĩnh lãnh địa. Đang cuốc bộ giữa rừng mưa nhiệt đới, Michael Wilson bỗng nghe thấy những tiếng trống dồn dập. Ông biết đó là tiếng lũ tinh tinh nện vào những rễ bạnh để báo hiệu cho nhau. Ông đuổi theo chúng khắp thung lũng 13 dòng suối của Gombe, vượt qua những dây bìm bịp và dây leo vắt ngang những dấu vết của khỉ đầu chó, bám theo tiếng kêu của lũ tinh tinh cho đến khi, tìm thấy chúng trên đỉnh Đới giãn tách hai giờ sau đó. Năm con đang vắt vẻo trên một cái cây tại bìa rừng thưa, nghiến ngấu những trái xoài yêu thích, loại trái đến từ Ả Rập cùng với lúa mỳ. Ở bên dưới, cách đó một dặm, hồ Tanganyika lấp lánh trong ánh chiều tà, hồ rộng lớn đến nỗi nó chứa 20% lượng nước ngọt có trên thế giới và nhiều chủng loài cá đặc hữu tới mức những nhà thủy sinh học xem nó như một Galapagos của các hồ. Xa hơn, về phía tây, là những ngọn đồi Congo ẩn hiện, nơi những con tinh tinh vẫn bị giết để lấy thịt. Ở hướng đối diện, bên ngoài biên giới Gombe, là những nông dân có súng trường, họ đã quá mệt mỏi với lũ tinh tinh thường xuyên cướp giật hạt cọ dầu của họ. Ở đây, trừ loài người và các đồng loại, những con tinh tinh không có kẻ thù thực sự nào. Riêng sự xuất hiện của năm con tinh tinh trên một cái cây giữa đồng cỏ chứng minh rằng chúng cũng thừa kế gien thích nghi, và còn ưu việt khỉ đột, vì khỉ đột chỉ hợp với thức ăn trong rừng, còn chúng có thể sống dựa vào nhiều loại thức ăn khác nhau và trong nhiều loại mội trường khác nhau. Tuy nhiên, nếu loài người biến mất, chúng có lẽ không cần phải thích nghi tốt đến thế. Bởi vì, Wilson nói, rừng sẽ trở lại. Nhanh thôi. “Rừng miombo sẽ lan rộng khắp khu vực và tái chiếm các cánh đồng khoai mỳ. Chắc hẳn loài khỉ đầu chó sẽ chiếm ưu thế trước tiên, chúng tản ra, phân của chúng chứa những hạt giống sẽ mọc thành cây. Cây sẽ sớm đâm chồi ở những môi trường thích hợp. Cuối cùng, lũ tinh tinh sẽ đi theo.” Khi nhiều con mồi đã xuất hiện trở lại, sư tử sẽ tìm đường quay về, tiếp theo là những động vật lớn như trâu rừng châu Phi và voi, đến từ các khu bảo tồn thuộc Tanzania và Uganda. “Cuối cùng,” Wilson nói, và thở dài, “tôi có thể thấy một quần thể tinh tinh chiếm cứ một vùng lãnh thổ trải dài liên tục, xuống tận Malawi, lên tận Burundi, và sang cả Congo.” Khu rừng đó sẽ trở lại, với những hoa quả yêu thích của tinh tinh chín rực khắp nơi và cùng vô số khỉ đỏ có thể bắt ăn thịt. Ở Gombe nhỏ bé – một mảnh nhỏ quá khứ châu Phi được bảo vệ, và cũng chính là hình ảnh của một tương lai hậu nhân loại – chưa có một sự cám dỗ nào đủ mạnh để khiến một loài linh trưởng khác rời bỏ tất cả những cảnh tươi tốt trù phú này để đi theo những bước chân phù phiếm của chúng ta. Dĩ nhiên, chỉ tới khi nào băng tuyết trở lại. Chương 5. BẦY THÚ ĐÃ MẤT Trong một giấc mơ, bạn bước ra ngoài và chợt nhận thấy, vùng đất quen thuộc lâu nay bỗng trở nên khác lạ với sự xuất hiện của biết bao sinh vật kì thú. Tùy vào nơi bạn sống, đó có thể là những chú hươu với đôi gạc to như chạc cây hoặc một con thú với thân hình đồ sộ như một cỗ xe tăng bọc thép. Có những bầy thú trông giống như lạc đà – nhưng lại có vòi. Những con tê giác khoác bộ lông rất dày, voi rậm lông khổng lồ, và thậm chí cả những con lười to hơn voi – chúng là lười thật sao? Ngựa hoang thì có đủ mọi kích cỡ, thân đầy sọc vằn. Những con beo có cặp nanh dài dễ đến 17, 18 phân, còn báo đốm thì cao lớn đến phát sợ. Chó sói, gấu và sư tử, con gì cũng to không tưởng nổi. Đây hẳn là một cơn ác mộng! Một giấc mơ, hay một ký ức bẩm sinh? Đó chính xác là thế giới mà người tinh khôn Homo sapiens đã bước vào khi loài người rời khỏi châu Phi, trên đường đi đến châu Mỹ. Nếu loài người chưa từng xuất hiện, liệu những loài động vật có vú đã tuyệt chủng ấy có còn tồn tại đến ngày nay? Nếu chúng ta biến mất, liệu chúng có trở lại không? Trong số những lời mỉa mai mà các vị tổng thống đương nhiệm nhận được trong suốt chiều dài lịch sử Hoa Kỳ, thì đặc biệt nhất phải kể đến biệt danh mà kẻ thù dùng để bôi nhọ Thomas Jefferson vào năm 1808: “Lão Ma mút.” Lệnh cấm vận mà Jefferson đã giáng xuống tất cả các giao dịch ngoại thương, nhằm trừng phạt Anh và Pháp vì độc quyền các tuyến vận tải đường thủy, đã mang lại kết quả ngược với mong đợi. Những kẻ thuộc phe đối lập ra sức đay nghiến rằng, trong khi nền kinh tế Mỹ đang sụp đổ, thì Tổng thống Jefferson còn mải ngồi ì trong Phòng Phía Đông của Nhà Trắng để chơi đùa với bộ sưu tập hóa thạch của mình. Đó là sự thật. Jefferson là một nhà tự nhiên học đầy nhiệt huyết. Suốt nhiều năm trời, ông chết mê chết mệt vì các bản báo cáo về những mảnh xương khổng lồ nằm rải rác quanh một bãi liếm mặn ở miền hoang dã vùng Kentucky. Bản mô tả cho thấy chúng giống những mảnh xương còn sót lại của một loài voi khổng lồ được phát hiện ở Siberia, loài vật mà các nhà khoa học châu Âu cho là đã tuyệt chủng. Những người nô lệ châu Phi nhận ra những chiếc răng hàm lớn được tìm thấy ở Carolinas là thuộc về một chủng loài voi nào đó, và Jefferson chắc chắn rằng chúng cùng một loài. Vào năm 1796, ông nhận được một chuyến hàng, được cho là xương voi ma mút, gửi từ Hạt Greenbriar, bang Virginia. Nhưng khi nhìn thấy một cái móng vuốt khổng lồ, ông lập tức cho rằng đây là một loài khác, có lẽ là một giống sư tử cực lớn. Sau khi tham khảo ý kiến của các nhà giải phẫu học, cuối cùng ông cũng xác định được loài này và được công nhận là người đầu tiên mô tả một loài lười đất Bắc Mỹ, ngày nay được gọi là Megalonyx jefersoni. Tuy nhiên, điều khiến ông hào hứng nhất lại là lời xác nhận của thổ dân sống gần bãi liếm mặn Kentucky, được các bộ lạc khác sống xa hơn về phía tây chứng thực, rằng những sinh vật có ngà khổng lồ đang được nói đến vẫn còn sống ở phía bắc. Sau khi trở thành tổng thống, ông cử Meriwether Lewis, lúc ấy đang nghiên cứu tại vùng Kentucky, đi thực hiện một sứ mệnh lịch sử cùng William Clark. Không chỉ giao cho Lewis và Clark nhiệm vụ nghiên cứu kỹ lưỡng vùng đất mới mua Louisiana và tìm ra một tuyến đường sông theo hướng tây bắc ra Thái Bình Dương, Jefferson còn lệnh cho họ tìm kiếm những con voi ma mút, voi răng mấu còn sống, hoặc bất kỳ sinh vật nào khác cũng to lớn và dị thường như vậy. Thế nhưng, nhiệm vụ thứ hai của chuyến thám hiểm vĩ đại đó đã thất bại; loài động vật có vú lớn nhất mà họ tìm ra được là cừu núi sừng lớn. Sau đó, Jefferson đành tạm bằng lòng với việc cử Clark trở về Kentucky để nghiên cứu những mảnh xương voi ma mút đang được trưng bày trong Nhà Trắng. Ngày nay, số xương nói trên nằm trong bộ sưu tập của các bảo tàng tại Mỹ và Pháp. Ông thường được vinh danh là người đã sáng lập ra môn cổ sinh vật học, mặc dù đó không phải là dự định thật sự của ông. Ban đầu, ông chỉ hy vọng sẽ phản bác được nhận định của một nhà khoa học lỗi lạc người Pháp, rằng mọi thứ ở Tân Thế Giới đều thua kém Cựu Thế Giới, kể cả động vật hoang dã. Ông cũng mắc phải sai lầm cơ bản về ý nghĩa của xương hóa thạch, khi đoan chắc rằng chúng thuộc về một chủng loài còn tồn tại, bởi ông không tin rằng đã từng có loài nào bị tuyệt chủng. Mặc dù Jefferson thường được xem là một nhà tri thức xuất chúng trong Kỷ nguyên Khai sáng của Mỹ, song đức tin của ông vẫn giống với nhiều nhà thần luận và tín đồ đạo Cơ Đốc thời bấy giờ: trong một Sáng thế hoàn hảo, sẽ không có một tạo vật được tạo ra để rồi biến mất. Tuy nhiên, ông lại phát ngôn cương lĩnh này với tư cách một nhà tự nhiên học: “Tính toàn hảo của tự nhiên nằm ở chỗ, chúng ta không thể tìm thấy một ví dụ nào, trong đó tự nhiên cho phép xảy ra chuyện một loài sinh vật nó tạo ra bị tuyệt chủng.” Đó là ước mơ xuyên suốt nhiều bài viết của ông: ông muốn những động vật này còn sống, muốn được tìm hiểu về chúng. Cuộc săn tìm kiến thức đã thôi thúc ông thành lập Đại học Virginia. Trong hai thế kỷ tiếp theo, các nhà cổ sinh vật học tại trường đại học này và ở những nơi khác sẽ chứng minh rằng rất nhiều loài thật sự đã tuyệt chủng. Charles Darwin sẽ giải thích vì sao sự tuyệt chủng ấy là một phần của tự nhiên – loài này biến đổi để phù hợp với những điều kiện sống thay đổi, loài khác lại đánh mất môi trường sống của mình vào tay đối thủ mạnh hơn. Tuy nhiên, có một chi tiết đã khiến Thomas Jefferson và những người khác sau ông không khỏi băn khoăn, vì di chỉ của loài động vật có vú khổng lồ này không có vẻ quá cổ xưa. Chúng không phải là hóa thạch bị khoáng hóa mạnh mẽ nằm bên dưới những lớp đá rắn. Ở những nơi như Bãi Liếm Xương Lớn ở Kentucky, ngà, răng và xương hàm nằm rải rác trên khắp mặt đất, hoặc nhô ra khỏi lớp phù sa mỏng, hoặc nằm lăn lóc trên nền các hang động. Loài động vật có vú to lớn từng sở hữu những mẩu xương ấy không thể bị tuyệt chủng lâu đến thế. Điều gì đã xảy ra với chúng? Phòng thí nghiệm Sa mạc – ban đầu là Phòng thí nghiệm Thực vật học Sa mạc Carnegie – được xây dựng cách đây hơn một thế kỷ trên đồi Tumamoc, một mô đất ở phía nam Arizona nhìn ra một trong những khu rừng xương rồng xanh tốt nhất Bắc Mỹ thời bấy giờ, và xa hơn nữa, là Tucson. Một nhà cổ sinh vật học cao lớn, vai rộng, tính tình nhã nhặn tên là Paul Martin đã ở đây trong phân nửa khoảng thời gian tồn tại của phòng thí nghiệm. Trong thời gian đó, vùng sa mạc bên dưới những con dốc phủ đầy cây xương rồng ở Tumamoc đã biến thành khu dân cư và thương mại. Ngày nay, cơ ngơi xây bằng đá cổ chắc chắn của phòng thí nghiệm đang chiếm cứ mảnh đất có tầm nhìn tuyệt đẹp mà không một nhà quy hoạch nào không thèm nhỏ dãi. Họ không ngừng bày ra đủ mưu chước hòng giành lấy nó từ tay người chủ hiện tại, trường Đại học Arizona. Tuy nhiên, khi Paul Martin tì người lên cây gậy để nhìn ra ngoài lối đi được che mành lưới của phòng thí nghiệm, những gì ông chứng kiến về tác động của loài người không chỉ gói gọn trong một thế kỷ vừa qua, mà trải suốt chiều dài 13.000 năm – tính từ khi con người vừa đến đây cư ngụ. Năm 1956, một năm trước khi đến đây, Paul Martin từng trải qua một mùa đông trong một trang trại ở Quebec, trong thời gian giao lưu với những đồng nghiệp có học vị sau tiến sĩ tại Đại học Montreal. Bị bại liệt hồi đang sưu tập mẫu chim ở Mexico khi còn là một sinh viên ngành động vật học đã buộc ông phải chuyển hoạt động nghiên cứu từ hiện trường về phòng thí nghiệm. Bị cầm chân ở Canada cùng một chiếc kính hiển vi, ông nghiên cứu các lõi trầm tích lấy từ các hồ ở New England đã tồn tại từ khi Kỷ băng hà cuối cùng kết thúc. Những mẫu vật tiết lộ quá trình quần thể thực vật xung quanh hồ chuyển từ lãnh nguyên trơ trụi sang cây có quả hình nón rồi đến cây ôn đới lá rụng khi khí hậu dần ấm lên – một số người cho rằng chính sự chuyển biến này đã dẫn đến sự tuyệt chủng của loài voi răng mấu. Trong một ngày cuối tuần tuyết phủ trắng trời, quá chán nản với việc đếm từng hạt phấn hoa bé xíu, ông đã lập một bảng nguyên tắc phân loại và bắt đầu kiểm kê số lượng các loài động vật có vú đã biến mất ở Bắc Mỹ trong suốt 65 triệu năm qua. Khi xem xét đến ba thiên niên kỷ cuối của Kỷ Pleistocene, kéo dài từ 1,8 triệu năm trước cho đến 10.000 năm trước, ông bắt đầu nhận thấy một điều kỳ lạ. Trong khung thời gian trùng khớp với những mẫu trầm tích ông có, bắt đầu cách đây khoảng 13.000 năm, một đợt bùng nổ tuyệt chủng đã diễn ra. Đến khi kỷ nguyên tiếp theo bắt đầu – Kỷ Holocene, kỷ này vẫn còn kéo dài đến tận ngày nay – gần 40 chủng loài đã biến mất, tất cả đều là động vật có vú lớn sống trên cạn. Chuột, chuột cống, chuột chù và những sinh vật có lông dày nhỏ khác vẫn tồn tại vô sự, động vật có vú sống dưới nước cũng thế. Tuy nhiên, các động vật có vú khổng lồ đã phải chịu một đòn chí tử. Những loài bị tuyệt chủng toàn là những gã khổng lồ của vương quốc động vật: loài tatu khổng lồ và loài răng chạm còn lớn hơn cả tatu, trông như những chiếc Volkswagens bọc thép với cái đuôi có đầu mút như một cây chùy gai. Có những con gấu mặt ngắn khổng lồ, to gần gấp đôi gấu xám Bắc Mỹ, với các chi dài và nhanh nhẹn hơn hẳn – có giả thuyết cho rằng chính loài gấu mặt ngắn khổng lồ này là lý do khiến người Siberia không thể vượt qua vùng Bering Strait sớm hơn. Loài hải ly khổng lồ, to như con gấu đen ngày nay. Lợn cỏ khổng lồ, có lẽ là mồi ngon của Panthera leo atrox, một loài sư tử châu Mỹ được cho là to hơn và nhanh nhẹn hơn loài sư tử đang tồn tại ở châu Phi ngày nay. Ngoài ra còn có sói dữ, loài lớn nhất trong họ nhà chó, với những chiếc răng nanh to lớn. Loài thú khổng lồ đã tuyệt chủng nổi tiếng nhất, loài voi ma mút lông dày phương bắc, chỉ là một trong rất nhiều loài thuộc bộ Proboscidea – bộ vòi, bao gồm loài voi ma mút hoàng đế, thuộc hàng to lớn nhất với trọng lượng lên đến 10 tấn; loài voi ma mút Columbia trụi lông, sống ở những vùng ấm hơn; và chiếm cứ quần đảo Channel của California là loài ma mút lùn không cao hơn con người – nhỏ hơn chúng chỉ có duy nhất loài voi cỡ bằng con chó Cô-li ở Địa Trung Hải mà thôi. Voi ma mút là động vật ăn cỏ, tiến hóa để thích nghi với các vùng thảo nguyên, đồng cỏ và lãnh nguyên, không giống như những họ hàng xa xưa của chúng, loài voi răng mấu, chuyên gặm cây trong rừng và rừng rậm. Voi răng mấu đã từng tồn tại trong khoảng thời gian xấp xỉ 30 triệu năm, và có mặt từ Mexico đến Alaska rồi đến Florida – nhưng đột nhiên, chúng cũng biến mất. Ba giống ngựa châu Mỹ: cũng biến mất. Rất nhiều giống lạc đà, heo vòi và nhiều loài động vật có gạc Bắc Mỹ từ những con linh dương gạc nhánh xinh đẹp đến loài nai sừng tấm lớn, một loài là sự tổng hoà của nai sừng tấm Bắc Mỹ và nai sừng gạc nhưng to hơn cả hai, cũng biến mất, cùng với hổ răng kiếm và báo đốm châu Mỹ (lý do tại sao những loài linh dương có gạc duy nhất còn sống sót lại nhanh nhẹn như thế). Tất cả đều biến mất. Và gần như cùng một lúc. Paul Martin tự hỏi, liệu điều gì đã gây nên sự kiện này? Đến năm tiếp theo đó, ông chuyển làm việc trên đồi Tumamoc, đôi mắt kính to đùng của ông lại dán chặt vào ống kính hiển vi. Lần này, thay vì nghiên cứu phấn hoa được bảo quản nhờ lớp bùn kín khí dưới đáy hồ, ông quan sát những mảnh vụn được bảo tồn trong hang động khô ráo ở Grand Canyon. Ngay khi vừa đến Tucson, sếp mới của ông ở Phòng thí nghiệm Sa mạc đã trao cho ông một khối tròn có màu xam xám của đất nung, với kích thước và hình dạng khá giống một quả bóng mềm. Ít nhất nó đã có 10.000 năm tuổi, nhưng chắc chắn đó là một cục phân. Kết quả phân tích cho thấy những sợi cỏ và cây cẩm quỳ hoa tròn đang đơm hoa có trong cục phân, vì nó được ướp khô chứ không bị khoáng hóa. Lượng phấn hoa cây bách xù dồi dào mà Martin tìm được đã xác nhận về thời kỳ vĩ đại được đề cập trong đề tài của ông: nhiệt độ gần phần nền của Grand Canyon không đủ lạnh để cho cây bách xù tồn tại suốt tám thiên niên kỷ. Con vật đã thải ra cục phân này là một con lười đất Shasta. Ngày nay, chỉ còn lại hai loài lười sống trên cây được tìm thấy ở vùng nhiệt đới Trung và Nam Mỹ, chúng đủ nhỏ và nhẹ để lặng lẽ cư trú trong tầng tán của rừng mưa, cách xa mặt đất và những mối nguy hiểm. Tuy nhiên, loài lười Shasta này lại có kích thước bằng một con bò. Chúng đi bằng khớp chân như một loài họ hàng còn sót lại của chúng, loài thú ăn kiến Nam Mỹ khổng lồ, nhằm bảo vệ phần móng vuốt được dùng để moi, cào thức ăn và tự vệ. Tuy nặng đến nửa tấn, song chúng là loài nhỏ nhất trong số năm loài lười sống quanh khu vực Bắc Mỹ, từ Yukon tới Florida. Loài ở Florida, với kích thước bằng một con voi hiện đại, có thể đạt đến trọng lượng trên ba tấn. Nhưng chúng cũng chỉ to bằng một nửa loài lười đất ở Argentina và Uruguay, nặng tới gần 6 tấn; khi đứng lên, nó còn cao hơn con voi ma mút lớn nhất. Phải tới một thập kỷ sau, Paul Martin mới có cơ hội đến thăm lỗ hang trên bức tường sa thạch đỏ Grand Canyon nằm bên trên dòng sông Colorado, nơi người ta đã tìm thấy cục phân lười đầu tiên ông có. Đến thời điểm đó, ông nhìn thấy ở loài lười đất châu Mỹ đã tuyệt chủng một ý nghĩa rất lớn lao, chứ không đơn thuần là một loài động vật có vú kềnh càng đã chìm vào quên lãng một cách bí ẩn. Martin tin rằng, số phận của những con lười này sẽ cung cấp một bằng chứng thuyết phục cho giả thuyết đang hình thành trong tâm trí ông, khi các dữ kiện đang dần dần tích lũy như tầng tầng lớp lớp trầm tích. Ông và các đồng nghiệp đã kết luận rằng, bên trong hang Rampart có một đống phân tích tụ, sản phẩm của nhiều thế hệ lười cái từng lấy nơi này làm chỗ xây ổ sinh con. Đống phân cao 1,5 mét, rộng 3 mét và dài hơn 30 mét. Martin có cảm giác mình vừa bước vào một chốn linh thiêng. Mười năm sau, những kẻ phá hoại đã châm lửa đốt phân, đống phân hóa thạch khổng lồ đến mức nó đã cháy bừng bừng suốt nhiều tháng liền. Martin rất đau lòng, nhưng đến khi đó, ông đã tạo nên dấu ấn của riêng mình trong thế giới cổ sinh vật học với học thuyết về nhân tố đã tiêu diệt hàng triệu con lười đất, lợn hoang, lạc đà, các loài vật thuộc bộ vòi Proboscidea, nhiều giống ngựa – ít nhất toàn bộ 70 giống động vật có vú to lớn ở khắp nơi trên Tân Thế Giới, tất cả đều biến mất trong một khoảnh khắc địa chất kéo dài khoảng một ngàn năm: “Rất đơn giản. Khi con người rời khỏi châu Phi và châu Á đề tìm đến những vùng đất khác của thế giới, tai hoạ cũng từ đó mà nảy nòi.” Giả thuyết của Martin nhanh chóng được cả những người ủng hộ và phản đối gán cho cái tên Blitzkrieg – Chiến tranh chớp nhoáng. Nó cho rằng, khi con người tìm đến những châu lục mới, khởi đầu là châu Úc từ cách đây 48.000 năm, những loài động vật chạm trán với họ không thể ngờ rằng loài vật hai chân còi cọc này lại đặc biệt nguy hiểm. Tuy nhiên, chúng nếm trải bài học cay đắng khi đã quá muộn. Thậm chí khi vẫn còn là loài người đứng thẳng Homo erectus, con người đã biết chế tạo hàng loạt rìu và dao trong các xưởng chế tác Thời kỳ Đồ đá, chẳng hạn như xưởng ở Olorgesailie, Kenya, được Mary Leakey phát hiện ra vào một triệu năm sau. Khi một nhóm người đến được ngưỡng cửa châu Mỹ vào 13.000 năm trước, họ đã trở thành người tinh khôn Homo Sapiens được ít nhất 50.000 năm. Với bộ não lớn hơn, con người thời đó không chỉ thành thạo những kỹ thuật lắp đầu đá có đường rãnh vào cán gỗ, mà còn biết sử dụng cả atlatl, một loại đòn bẩy cầm tay bằng gỗ, còn giúp họ đẩy mũi giáo bay đi đủ nhanh và đủ chính xác để có thể hạ gục những động vật to lớn, nguy hiểm từ một khoảng cách khá an toàn. Martin tin rằng, những người châu Mỹ đầu tiên là các nhà sản xuất chuyên nghiệp loại mũi lao đá hình lá có thể bắn đi được tìm thấy khắp nơi ở Bắc Mỹ. Những con người đó cùng các mũi lao của họ đều được gọi là Clovis, đặt theo tên của khu vực khảo cổ ở New Mexico nơi người ta phát hiện ra họ lần đầu tiên. Dùng phương pháp cacbon phóng xạ, người ta đã xác định được tuổi thọ các vật chất hữu cơ tìm thấy tại di tích khảo cổ ở Clovis, nhờ đó củng cố những phỏng đoán trước đây. Giờ đây, các nhà khảo cổ đều nhất trí rằng người Clovis đã có mặt ở châu Mỹ từ cách đây 13.235 năm. Tuy nhiên, chính xác sự xuất hiện của họ đánh dấu sự kiện gì thì vẫn còn là một đề tài tranh luận nóng hổi, mở đầu với giả thuyết của Paul Martin cho rằng con người đã gây ra tội diệt chủng ba phần tư số loài động vật khổng lồ ở cuối Kỷ Pleistocene ở châu Mỹ, một kho động vật vốn phong phú hơn nhiều so với châu Phi ngày nay. Điểm mấu chốt trong giả thuyết Chiến tranh chớp nhoáng của Martin là ít nhất tại 14 trong số tất cả các khu vực khảo cổ đó, các mũi lao Clovis được tìm thấy cùng với xương của voi ma mút hoặc voi răng mấu, một số mũi lao vẫn còn kẹt giữa các nhánh xương sườn. “Nếu người tinh khôn Homo Sapiens chưa bao giờ tiến hoá,” ông nói, “thì số loài động vật nặng trên một tấn ở Bắc Mỹ sẽ nhiều gấp ba lần số lượng đang có tại châu Phi ngày nay.” Ông nhẩm đếm năm loài hiện tại của châu Phi: “Hà mã, voi, hươu cao cổ, hai loài tê giác. Chúng ta đã từng có 15 loài. Thậm chí còn nhiều hơn, nếu tính thêm số ở Nam Mỹ. Ở đó đã từng có những loài động vật có vú tuyệt vời. Loài litoptern trông giống con lạc đà với hai lỗ mũi nằm trên sống mũi, chứ không phải ở đầu mũi. Hoặc toxodon, một loài thú tàn bạo nặng tới một tấn, trông như một sự giao thoa giữa hà mã và tê giác, nhưng lại không thuộc loài nào trong số đó cả, xét về phương diện giải phẫu học. Các dữ liệu hóa thạch chứng tỏ tất cả các loài này đã từng tồn tại, nhưng không phải mọi người đều thống nhất về những gì đã xảy ra với chúng. Một luận điểm thách thức giả thuyết của Paul Martin đặt nghi vấn rằng, liệu người Clovis có phải là những con người đầu tiên đặt chân đến Tân Thế Giới hay không. Phe phản đối giả thuyết của Martin có sự góp mặt của cả những người Mỹ bản địa luôn cảnh giác với bất kỳ giả thiết nào cho rằng họ là người nhập cư, vì nó sẽ hủy hoại địa vị bản xứ của họ. Họ lên án ý tưởng cho rằng nguồn gốc của họ xuất phát từ doi đất Bering như một sự tấn công vào niềm tin. Thậm chí một vài nhà khảo cổ học còn nghi ngờ rằng liệu từng tồn tại một hành lang Bering không đóng băng hay không; và họ cho rằng, thực ra những người châu Mỹ đầu tiên đến bằng đường thủy, men theo sông băng xuống bờ biển Thái Bình Dương. Nếu người ta có thể dùng thuyền đi từ châu Á đến châu Úc trước đó gần 40 thiên niên kỷ, thì tại sao lại không thể đi thuyền giữa châu Á và châu Mỹ? Một vài người khác lại viện dẫn ra những bãi khảo cổ được xem là có trước cả Clovis. Những nhà khảo cổ học đã khai quật bãi khảo cổ nổi tiếng nhất trong số đó, Monte Verde, nằm ở phía nam Chile, tin rằng loài người có lẽ đã định cư ở đó hai lần: lần đầu tiên là vào 1.000 năm trước thời Clovis, lần tiếp theo cách đây 30.000 năm. Nếu đúng như thế, khả năng cao là trong giai đoạn đó Bering Strait không thể là vùng đất khô, nghĩa là đã xuất hiện những chuyến hải trình từ một hướng nào đó. Thậm chí một số nhà khảo cổ học còn cho rằng những con người đó đã đến từ Đại Tây Dương, vì họ nghĩ rằng kỹ thuật đẽo đá phiến silica của người Clovis tương tự với thời kỳ đồ đá cũ được hình thành ở Pháp và Tây Ban Nha trước đó 10.000 năm. Nghi vấn về tuổi thọ xác định bằng phương pháp cacbon phóng xạ của các hóa thạch tìm được ở khu Monte Verde nhanh chóng gieo rắc nghi ngờ về những tuyên bố trước đó rằng các hóa thạch này chứng tỏ con người đã có mặt tại châu Mỹ từ rất sớm. Vấn đề càng trở nên mờ mịt hơn khi phần lớn diện tích bãi than bùn giúp bảo tồn những gậy, cọc, mũi giáo và cỏ kết ở Monte Verde đã bị san ủi trước khi những nhà khảo cổ khác có thể nghiên cứu hiện trường khai quật này. Paul Martin lập luận rằng, kể cả nếu người tiền sử, bằng cách nào đó, đã tìm được đường đến Chile trước thời Clovis, thì tác động của họ là khá nhỏ, chỉ mang tính khu vực, và không đáng kể về mặt sinh thái học, giống như trường hợp người Vikings xâm chiếm Newfoundland trước thời Columbus. “Những công cụ, những đồ tạo tác phong phú và những tranh vẽ hang động, giống như những gì những người cùng thời với họ đã để lại trên khắp châu Âu, đâu rồi? Ắt hẳn những người châu Mỹ tiền Clovis đã không gặp phải bất cứ một nền văn hóa cạnh tranh nào, giống như người Viking. Chỉ có động vật. Vậy tại sao họ lại không bành trướng?” Lại có một nhóm người thứ hai lại đưa ra một phản luận mang tính căn bản hơn về giả thuyết Chiến tranh chớp nhoáng của Martin - vốn là cách lý giải được chấp nhận rộng rãi nhất về số phận các loài động vật to lớn của Tân Thế Giới trong nhiều năm liền. Họ đặt câu hỏi làm thế nào một vài nhóm thợ săn bắn – hái lượm du mục ít ỏi lại có thể tiêu diệu nổi hàng chục triệu động vật to lớn. Mười bốn hiện trường giết chóc trên toàn bộ lục địa khó có thể cấu thành tội diệt chủng động vật khổng lồ. Gần một nửa thế kỷ sau, cuộc tranh luận mà Paul Martin đã châm ngòi vẫn là một trong những điểm sáng vĩ đại nhất của khoa học. Nhiều sự nghiệp đã được gây dựng dựa trên việc chứng minh hoặc phản bác kết luận của ông, tiếp sức cho một cuộc chiến kéo dài, nhưng không phải lúc nào cũng nhã nhặn, giữa các nhà khảo cổ, nhà địa chất học, nhà cổ sinh vật học, nhà thụ luân niên đại (nghiên cứu vòng tuổi thân cây), nhà phóng xạ trắc niên (xác định tuổi thọ bằng phương pháp phóng xạ), nhà cổ sinh thái học và nhà sinh vật học. Tuy nhiên, hầu như tất cả đều là bạn bè của Martin, và nhiều người trong số đó từng là học trò của ông. Những khả năng thay thế cho học thuyết “tàn sát” (overkill) của ông mà được đưa ra nhiều nhất hoặc liên quan đến sự thay đổi khí hậu, hoặc dính dáng đến bệnh tật, được biết đến dưới cái tên “quá lạnh” (over-chill) và “quá yếu” (over-ill). Giả thuyết “quá lạnh”, với số lượng người ủng hộ nhiều nhất, trong một chừng mực nào đó là một cái tên sai, vì cả quá nóng và quá lạnh đều bị quy là nguyên nhân gây ra hoạ diệt chủng. Một lập luận cho rằng sự đảo lộn nhiệt độ đột ngột xảy ra vào cuối Kỷ Pleistocene, đúng vào lúc các băng hà đang tan dần, đã đưa thế giới trở lại Kỷ băng hà trong thời gian ngắn, khiến hàng triệu động vật dễ bị tổn thương trở tay không kịp. Những người khác đưa ra quan điểm ngược lại: rằng chính nhiệt độ tăng cao ở Kỷ Holocene đã tiêu diệt các loài thú có bộ lông dày, vì trong hàng ngàn năm qua chúng đã thích nghi với khí hậu lạnh giá. Giả thiết “quá yếu” cho rằng những con người mới đến, hoặc những sinh vật đến cùng với họ, mang theo mầm bệnh mà chưa có sinh vật sống nào ở châu Mỹ từng gặp phải. Chứng minh điều này là chuyện hoàn toàn khả thi, thông qua phân tích tế bào của voi ma mút rất có thể sẽ được phát hiện khi các sông băng tiếp tục tan. Giả thuyết được củng cố nhờ một sự kiện lịch sử thảm khốc tương tự: Gần như tất cả hậu duệ của những người châu Mỹ đầu tiên (dù đó là ai) đã chết rất thê thảm trong suốt một thế kỷ sau khi tiếp xúc với châu Âu. Chỉ một phần rất nhỏ trong số họ bỏ mạng dưới mũi kiếm của người Tây Ban Nha; số còn lại chết vì những mầm bệnh của Cựu Thế Giới mà họ không có kháng thể: đậu mùa, sởi, thương hàn và ho gà. Chỉ riêng ở Mexico, nơi có khoảng 25 triệu người Meso-America 1 sống khi người Tây Ban Nha lần đầu xuất hiện, 100 năm sau chỉ còn khoảng một triệu người. Thậm chí nếu bệnh tật biến thể từ người sang voi ma mút và những sinh vật khổng lồ khác ở Kỷ Pleistocene, hoặc truyền trực tiếp từ chó hoặc gia súc của họ, thì tội lỗi rốt cuộc vẫn đổ lên người tinh khôn Homo sapiens. Đối với giả thuyết “quá yếu”, Paul Martin trả lời: “Xin được trích dẫn lời của các chuyên gia cổ khí hậu học, ‘Tính đến sự thay đổi khí hậu là thừa.’ Không phải vì khí hậu bất biến, mà vì nó thay đổi quá thường xuyên.” Những bãi khảo cổ cổ đại ở châu Âu cho thấy rằng người tinh khôn Homo sapiens và người Neanderthal Homo neanderthalensisđều dạt về phương bắc hoặc phương nam theo sự tiến hoặc lùi của các lớp băng. Theo Martin, những động vật khổng lồ có lẽ cũng làm điều tương tự. “Động vật lớn chống chọi được với nhiệt độ nhờ chính kích thước của mình. Và chúng có thể di cư những quãng đường dài – có lẽ không dài được như chim, nhưng khá hơn rất nhiều so với loài chuột. Vì chuột thường, chuột rừng neotoma và những động vật máu nóng nhỏ khác đã sống sót qua thảm họa tuyệt chủng Kỷ Pleistocene,” ông nói thêm, “nên rất khó để tin rằng một sự thay đổi khí hậu đột ngột lại kết liễu cuộc sống của những loài động vật có vú lớn.” Cây cối, vốn không thể di chuyển được như động vật, và thường nhạy cảm hơn với khí hậu, có vẻ vẫn sống sót. Trong phân lười tìm thấy ở Rampart và các hang động khác ở Grand Canyon, Martin và các đồng nghiệp tìm thấy đống phân của loài chuột rừng neotoma cổ nằm lẫn giữa những lớp cây cỏ còn thừa lại, tích tụ suốt hàng ngàn năm. Ngoại trừ một loài gỗ vân sam duy nhất, còn lại, không có một loài thực vật nào khác trong số những loài từng bị chuột rừng neotoma và lười đất cư ngụ trong các hang động này đánh chén, đã gặp phải nhiệt độ đủ khắc nghiệt để khiến chúng tuyệt chủng. Nhưng lý lẽ vững chắc cho học thuyết của Martin lại là những con lười. Trong một thiên niên kỷ tồn tại của người Clovis, tất cả mọi chiếc bia chậm chạp, nặng nề và dễ bắn hạ, chính là những chú lười đất, đều đã biến mất – trên cả đại lục Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Tuy nhiên, phương pháp cacbon phóng xạ xác nhận rằng xương tìm được trong hang động ở Cuba, Haiti và Puerto Rico thuộc về loài lười đất vẫn còn sống sót trong 5.000 năm sau đó. Sự biến mất hoàn toàn của chúng trùng khớp với sự xuất hiện của con người tại quần đảo Antilles Lớn cách đây 8.000 năm. Ở quần đảo Antilles Nhỏ, trên những hòn đảo mà loài người đặt chân đến muộn hơn, như đảo Grenada, di chỉ của loài lười thậm chí còn mới hơn. “Nếu một sự thay đổi khí hậu đủ mạnh để xóa sổ loài lười đất từ Alaska đến Patagonia, thì lẽ ra nó cũng đủ sức tiêu diệt những cá thể của loài này ở West Indies. Nhưng điều đó đã không xảy ra.” Bằng chứng này cũng cho thấy rằng những người châu Mỹ đầu tiên đến lục địa bằng đường bộ, không phải là đường biển, vì họ đã mất tới năm thiên niên kỷ để đến được vùng Caribbean. Trên một hòn đảo xa xôi khác, lại thêm một dấu hiệu cho thấy giá như loài người chưa từng tiến hóa, thì những động vật khổng lồ của Kỷ Pleistocene có thể vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Trong Kỷ băng hà, đảo Wrangel, mũi lãnh nguyên đá nằm trên Bắc Băng Dương, có nối liền với Siberia. Tuy nhiên, nó nằm quá xa về phía bắc đến nỗi những người đặt chân lên Alaska đã bỏ qua nó. Khi biển trở nên ấm hơn, mực nước dâng lên trong Kỷ Holocene, đảo Wrangel bị cách ly khỏi đất liền một lần nữa; quần thể voi ma mút lông dày ở đây nhờ thế đã thoát khỏi cảnh giết chóc, nhưng giờ lại bị mắc kẹt, chúng buộc phải thích nghi với nguồn tài nguyên có hạn trên đảo. Trong giai đoạn loài người chuyển từ sống trong hang động sang xây dựng các nền văn minh vĩ đại ở Sumer và Peru, voi ma mút trên đảo Wrangel vẫn còn sống, chúng biến đổi thành loài voi ma mút lùn tồn tại lâu hơn 7.000 năm so với voi ma mút trên bất kỳ lục địa nào. Cách đây 4.000 năm, thời các pharaon Ai Cập đang nắm quyền, chúng vẫn còn sống sót. Gần hơn nữa là sự tuyệt chủng của một trong những loài động vật khổng lồ đáng kinh ngạc nhất của Kỷ Pleistocene: loài chim lớn nhất thế giới, cũng sống trên hòn đảo mà loài người đã bỏ qua. Chim moa không biết bay ở New Zealand, với trọng lượng khoảng 272 cân, nặng gấp đôi và cao hơn đà điểu gần 1 mét. Những con người đầu tiên đã chiếm cứ New Zealand khoảng hai thế kỷ trước khi Columbus đến châu Mỹ. Đến khi Columbus phát hiện ra châu Mỹ, loài cuối cùng trong số 11 loài chim moa cũng đã biến mất. Với Paul Martin, mọi chuyện đã quá rõ ràng. “Lần ra dấu vết của động vật lớn bao giờ cũng dễ nhất. Việc giết chúng sẽ cho loài người nhiều thức ăn nhất và nhiều thanh thế nhất.” Trong bán kính 100 dặm quanh phòng thí nghiệm trên đồi Tumamoc của ông, cách xa khu Tucson hỗn độn, là ba trong số 14 hiện trường giết chóc của người Clovis. Khu khảo cổ Murray Springs, nơi chứa nhiều di chỉ nhất, được chính hai học trò của Martin là Vance Haynes và Peter Mehringer phát hiện. Nơi đây trải đầy những mũi giáo của người Clovis và xác voi ma mút. Haynes viết, lớp địa tầng mòn vẹt nham nhở ở đó giống như “những trang giấy của một cuốn sách ghi lại lịch sử Trái đất trong 50.000 năm qua.” Những trang sách chứa đựng bản cáo phó của một số loài động vật Bắc Mỹ đã tuyệt chủng: voi ma mút, ngựa, lạc đà, sư tử, bò rừng khổng lồ và sói dữ. Những bãi khảo cổ gần đó còn có di tích của loài heo vòi và hai loài động vật khổng lồ hiếm hoi còn tồn tại đến ngày nay: gấu và bò rừng bizon. Thực tế này làm dấy lên một câu hỏi: Tại sao chúng có thể tồn tại, nếu loài người tàn sát mọi thứ? Tại sao Bắc Mỹ vẫn còn gấu xám, bò tót, nai sừng gạc, bò xạ, nai sừng tấm, tuần lộc caribu và báo sư tử, nhưng không phải là những động vật có vú to lớn khác? Gấu Bắc Cực, tuần lộc caribu và bò xạ đều sinh sống ở những khu vực mà tương đối ít người sống – và những cư dân hiếm hoi này lại thấy rằng bắt cá và hải cẩu dễ dàng hơn nhiều. Ở phía nam lãnh nguyên, nơi rừng cây đã khôi phục, là chốn cư ngụ của gấu và sư tử núi. Chúng là những sinh vật lẩn lút và nhanh nhẹn, rất giỏi lẩn trốn trong rừng hoặc giữa những tảng đá. Những loài khác, như người tinh khôn Homo sapiens, đến Bắc Mỹ vào khoảng thời gian mà các chủng loài trong Kỷ Pleistocene đã tạ thế. Xét về mặt di truyền, giống bò tót Bắc Mỹ ngày nay gần với loài bò wisent ở Ba Lan hơn là loài bò rừng khổng lồ đã tuyệt chủng từng bị giết hại ở Murray Springs. Sau khi loài bò rừng khổng lồ biến mất, dân số bò tót Bắc Mỹ bùng nổ. Tương tự, loài nai sừng tấm ngày nay cũng đến từ lục địa Á - Âu sau khi loài nai sừng tấm lớn Bắc Mỹ biến mất. Các động vật ăn thịt như hổ răng kiếm có lẽ đã biến mất cùng với con mồi của chúng. Một số cư dân trước đó của Kỷ Pleistocene – heo vòi, lợn cỏ, báo đốm Mỹ và llama – đã trốn về phương nam xa xôi, đến những khu rừng rậm rạp ở Mexico, Trung Mỹ và xa hơn. Cộng thêm sự tàn lụi của số động vật còn lại, nhiều môi trường sống trở nên hoang vắng; rốt cuộc, bò tót, nai sừng tấm và những loài khác sẽ lấp vào chỗ trống này. Khi Vance Haynes khai quật Murray Springs, ông phát hiện những dấu hiệu cho thấy hạn hán đã buộc các động vật có vú Kỷ Pleistocene phải đi tìm nước – những dấu chân dày đặc xung quanh một cái lỗ ngổn ngang rõ ràng là nỗ lực đào giếng của một con voi ma mút. Ở đó, chúng trở thành con mồi ngon ăn cho những tay thợ săn. Trong lớp trầm tích ở ngay bên trên những dấu chân có chứa một dải tảo hóa thạch màu đen đã chết vì một đợt lạnh đột ngột, nhiều người theo giả thuyết “quá lạnh” xem đây là dẫn chứng cho luận điểm của họ – ngoại trừ một chi tiết có giá trị tương đương với một bằng chứng hiển nhiên trong ngành cổ sinh vật học: tất cả xương voi ma mút nằm bên dưới lớp tảo, chứ không phải bên trong chúng. Tuy nhiên, vẫn còn một manh mối cho thấy, nếu con người chưa từng tồn tại, hậu duệ của những con voi ma mút bị giết hại này có lẽ vẫn còn sống đến ngày nay: khi những con mồi to lớn biến mất, người Clovis và những mũi lao đá ưa thích của họ cũng biến mất. Khi chẳng còn con gì để săn bắn và thời tiết trở lạnh, có lẽ họ đã di chuyển về phương nam. Nhưng chỉ trong vài năm, Kỷ Holocene ấm lại, những người kế nghiệp nền văn hóa Clovis xuất hiện, họ thiết kế những cây giáo nhỏ hơn cho phù hợp với những con bò tót Bắc Mỹ nhỏ hơn. Một trạng thái cân bằng chủng loài dần được thiết lập giữa những “người Folsom” này và các loài động vật còn sót lại. Không biết những thế hệ tiếp theo của người châu Mỹ đã thấm thía bài học từ thói tham lam của tổ tiên họ, những kẻ đã mặc sức tàn sát các động vật ăn cỏ của Kỷ Pleistocene như thể đó là một nguồn tài nguyên vô tận – cho đến khi nó cạn kiệt chưa? Có lẽ là rồi, mặc dù sự tồn tại của hầu hết Vùng Đồng bằng Lớn (Great Plains) là kết quả của những ngọn lửa mà lớp hậu duệ của họ, tức người da đỏ châu Mỹ, đã đốt lên, nhằm dồn đuổi các con mồi chuyên gặm cây non, như nai chẳng hạn, vào các khoảnh rừng, đồng thời cũng để tạo ra các đồng cỏ cho những loài ăn cỏ như bò tót. Về sau, khi những căn bệnh từ châu Âu quét qua lục địa và tiêu diệt gần hết người da đỏ, quần thể bò tót tăng mạnh về số lượng và bành trướng ra khắp nơi. Khi người da trắng đi khai hoang về hướng tây bắt gặp chúng, đàn bò tót đã gần chạm đến biên giới Florida. Sau khi hầu hết bò tót biến mất, chỉ trừ một vài con được giữ lại làm cảnh, người da trắng mới đến đã tận dụng đồng bằng do tổ tiên của người da đỏ khai hoang để chăn nuôi gia súc. Đứng từ phòng thí nghiệm trên đỉnh đồi, Paul Martin phóng tầm mắt bao quát khắp thành phố sa mạc mọc lên dọc theo sông Santa Cruz, từ Mexico chảy về phía bắc. Lạc đà, heo vòi, ngựa bản địa và voi ma mút Columbus đã từng gặm cỏ trên vùng đồng bằng cửa sông xanh tươi này. Khi hậu duệ của những kẻ đã tiêu diệt chúng định cư ở đây, họ đã xây dựng những túp lều từ bùn và nhánh các cây dương và liễu mọc ở bờ sông - những vật liệu này nhanh chóng được trả về cho đất và sông khi hết nhu cầu sử dụng. Khi không còn nhiều thú để săn, con người học cách trồng trọt các loại cây mà họ thu lượm được, họ đặt tên cho ngôi làng là Chuk Shon, có nghĩa là “dòng nước chảy.” Họ trộn trấu với bùn dưới sông để làm gạch, phương pháp này được trọng dụng cho đến khi gạch sống được thay bằng bê tông sau Thế chiến thứ hai. Không lâu sau đó, sự xuất hiện của điều hòa nhiệt độ đã thu hút nhiều người tới đây đến nỗi dòng sông bị hút cạn. Họ đào giếng. Khi giếng cạn, họ lại đào sâu hơn. Lòng sông Santa Cruz khô cằn giờ đây đang bị tấn công bởi khu đô thị Tucson, trong đó có sự góp mặt một trung tâm hội nghị có nền móng bê tông cốt thép hoành tráng có vẻ sẽ tồn tại lâu hơn cả Đấu trường La Mã. Tuy nhiên, các du khách của một tương lai xa xôi có lẽ sẽ khó lòng tìm ra nó, bởi sau khi những con người tham lam của hôm nay biến mất khỏi Tucson và Nogales, Sonora, thành phố sầm uất nằm sát biên giới Mexico, cách đó 60 dặm về phía nam, thì dòng sông Santa Cruz sẽ lại dâng tràn. Thời tiết sẽ làm nhiệm vụ của mình, dần dần dòng sông khô cạn của Tucson và Nogales sẽ quay lại với công việc tạo dựng đồng bằng phù sa. Bùn sẽ ào ạt đổ vào tầng hầm của Trung tâm Hội nghị Tucson, khi đó đã mất nóc, cho đến khi công trình này bị vùi lấp hoàn toàn. Loài nào sẽ sống trên mảnh đất mới đó vẫn còn là một câu hỏi bỏ ngỏ. Bò rừng bizon đã biến mất từ lâu; trong một thế giới phi nhân loại, loài bò nhà đã thay thế chúng sẽ không thể tồn tại lâu dài khi thiếu vắng những tay cao bồi giúp xua đuổi bọn chó sói đồng cỏ và sư tử núi. Linh dương có gạc Sonoran – một phân nhánh của giống linh dương nhỏ, nhanh nhẹn ở Kỷ Pleistocene, loài linh dương châu Mỹ cuối cùng – đang kề cận bờ tuyệt chủng trong những khu bảo tồn sa mạc cách nơi đây không xa. Việc chúng còn có đủ cá thể để sinh sôi nảy nở trước khi bị chó sói đồng cỏ chén sạch hay không vẫn còn là một nghi vấn, nhưng rất có thể xảy ra. Paul Martin đi xuống chân đồi Tumamoc, lái chiếc xe bán tải của ông về phía tây, xuyên qua con đèo phủ đầy xương rồng, tiến vào lòng chảo sa mạc bên dưới. Trước mặt ông trải ra những ngọn núi, nơi ẩn náu của một vài loài trong số những sinh vật hoang dã nhất còn sót lại ở Bắc Mỹ, gồm báo đốm Mỹ, cừu sừng lớn và lợn cỏ cổ vòng, mà người địa phương gọi là javelina. Nhiều mẫu vật sống đang được trưng bày tại một địa điểm tham quan nổi tiếng ở cách đây không xa: Bảo tàng Sa Mạc Arizona - Sonora. Nơi đây có cả một sở thú được bao bọc bởi một hàng rào cây cảnh tự nhiên rất tinh tế. Điểm đến của Martin, cách đó vài dặm, lại chẳng tinh tế chút nào. Bảo tàng Động vật Hoang dã Quốc tế được thiết kế giống hệt một pháo đài lính Lê Dương ở châu Phi. Nó chứa bộ sưu tập của nhà săn bắn động vật lớn triệu phú, C. J. McElroy, người hiện vẫn nắm giữ nhiều kỷ lục thế giới, gồm con cừu núi lớn nhất thế giới – một con cừu a-ga Mông Cổ – và con báo đốm Mỹ lớn nhất, săn được ở Sinaloa, Mexico. Ngoài ra, một trong những điểm đặc biệt thu hút của nơi này là một con tê giác trắng, một trong 600 con thú Teddy Roosevelt săn được trong chuyến săn ở châu Phi vào năm 1909. Trung tâm viện bảo tàng là sự tái hiện chân thực phòng trưng bày chiến tích rộng gần 230 mét vuông trong biệt thự của McElroy tại Tucson, trong đó chứa đầy các chiến lợi phẩm nhồi bông của ông ta. Đây là sản phẩm của nỗi ám ảnh giết chóc những loài động vật có vú lớn đã đeo bám ông ta suốt cuộc đời. Người dân địa phương vẫn thường mỉa mai gọi nó là “bảo tàng động vật chết.” Trong đêm nay, đối với Martin, cái tên ấy thật hoàn hảo. Bởi vì đó là ngày ra mắt cuốn sách xuất bản năm 2005 của ông: Thời kỳ thoái trào của loài voi ma mút. Ngay sau lưng các thính giả của ông là một đội hình gấu xám và gấu Bắc Cực bất động vĩnh viễn ở thế tấn công. Phía trên bục diễn thuyết là tiêu bản phần đầu của một con voi châu Phi trưởng thành với đôi tai mở rộng như hai cánh buồm màu xám lớn. Ở cả hai bên sườn căn phòng, người ta không thấy thiếu mặt của một loại thú nào có sừng dạng xoắn ốc tìm thấy trên khắp năm châu lục. Di chuyển trên chiếc xe lăn, Martin chậm rãi xem xét hàng trăm cái đầu nhồi bông: linh dương vằn bongo, linh dương Angas, linh dương bụi rậm hạ Sahara, linh dương đầm lầy Trung Phi, linh dương vằn kudu lớn và nhỏ, linh dương châu Phi, dê rừng núi Alpes, cừu Barbary, sơn dương, linh dương sừng cao, linh dương gazen, linh dương nhỏ dik-dik ở Đông Phi, bò xạ, trâu rừng châu Phi, chồn zibelin, ngựa lang, linh dương sừng kiếm, linh dương lớn vùng hạ Sahara và linh dương đầu bò. Hàng trăm đôi mắt thuỷ tinh ấy không thể đáp lại ánh nhìn từ đôi mắt xanh ngấn nước của ông. “Tôi không thể nghĩ ra một cách bố trí nào thích hợp hơn,” ông nói, “để miêu tả một hành động có tầm cỡ ngang với tội diệt chủng. Vào thời của tôi, hàng triệu người bị giết hại trong các trại tập trung, từ nạn tàn sát người Do thái ở châu Âu đến xung đột ở Darfur, là bằng chứng cho thấy khả năng tàn sát của loài người chúng ta. Sự nghiệp 50 năm của tôi đều đổ vào cuộc mất mát khủng khiếp các loài động vật khổng lồ, những loài vật không góp đầu của mình trên những bức tường này. Chúng đều đã bị tiêu diệt, đơn giản chỉ vì đó là chuyện có thể thực hiện được. Kẻ đã thu thập được một bộ sưu tập cỡ này rất có thể vừa mới bước ra từ Kỷ Pleistocene.” Thay cho lời kết, ông và cuốn sách kêu gọi mọi người hãy coi lý giải của ông về cuộc tàn sát kinh hoàng ở Kỷ Pleistocene như là bài học cảnh tỉnh, ngăn chúng ta khỏi phạm thêm một tội ác khác có thể đem lại hậu quả còn thảm khốc hơn. Vấn đề không chỉ nằm ở bản năng đam mê giết chóc không bao giờ nguôi chừng nào một loài vật nữa chưa biến mất. Nó còn liên quan đến bản năng chiếm đoạt không biết đâu là điểm dừng, cho đến khi một thứ gì đó mà chúng ta chưa bao giờ có ý định làm tổn thương bị tước đi cái mà nó cần. Thực ra, chúng ta đâu cần phải bắn thẳng vào lũ chim mới quét sạch được chúng khỏi bầu trời. Chỉ cần dọn sạch nơi trú ẩn và thức ăn của chúng, chúng sẽ tự kết liễu bản thân. Chương 6. NGHỊCH LÝ CHÂU PHI 1. Những cội nguồn May cho thế giới hậu nhân loại là không phải tất cả mọi động vật có vú lớn đều biến mất. Một viện bảo tàng quy mô lục địa, chính là châu Phi, vẫn còn lưu giữ một bộ sưu tập ấn tượng. Liệu các loài động vật đó có toả đi khắp hành tinh sau khi loài người biến mất không? Liệu chúng có thể thay thế những động vật bị con người tiêu diệt ở nơi khác, hoặc thậm chí tiến hóa để trở thành giống như những sinh vật đã diệt vong? Nhưng trước hết: Nếu loài người bắt nguồn từ châu Phi, tại sao voi, hươu cao cổ, tê giác và hà mã vẫn còn ở đó? Tại sao chúng không bị giết sạch, như 94% các giống thú lớn ở châu Úc, hầu hết đều là thú có túi khổng lồ, hay tất cả những loài mà các nhà cổ sinh vật học châu Mỹ luôn thương tiếc? Olorgesailie, di tích xưởng sản xuất công cụ thời kỳ đồ đá cũ được Louis và Mary Leakey phát hiện vào năm 1944, là một lòng chảo vàng khô cằn cách Nairobi 45 dặm về phía tây nam trong Thung lũng Đới giãn tách Đông Phi. Phần lớn diện tích xưởng bị bao phủ bởi một lớp phấn trắng từ các trầm tích tảo cát, vật liệu dùng trong hệ thống lọc nước hồ bơi và cát vệ sinh cho mèo, được làm từ vô số hóa thạch khung xương ngoài li ti của các sinh vật phù du nước ngọt. Hai vợ chồng Leakey cho rằng một hồ nước đã lấp đầy vùng trũng Olorgesailie nhiều lần trong thời tiền sử, nó xuất hiện trong mùa mưa và biến mất khi hạn hán. Các loài động vật đến đây uống nước, và những người chế tạo công cụ truy bắt chúng cũng thế. Hiện tại, nhiều công trình khai quật đang tiếp diễn xác nhận rằng trong khoảng thời gian từ 992.000 đến 493.000 năm trước, bờ hồ này là nơi cư trú của người tiền sử. Người ta không tìm thấy một di chỉ họ người thực sự nào ở đó cho đến năm 2003, khi các nhà khảo cổ học đến từ Viện Smithsonian và các Bảo tàng Quốc gia Kenya phát hiện ra một hộp sọ nhỏ, có lẽ thuộc về người đứng thẳng Homo erectus, một tổ tiên của loài người. Tuy nhiên, người ta lại tìm thấy hàng ngàn rìu cầm tay và dao bằng đá. Loại mới nhất được thiết kế để ném: một đầu tròn, đầu còn lại là mũi nhọn hoặc có cạnh được mài nhọn hai mặt. Trong khi người nguyên thủy sống ở hẻm Olduvai, như vượn người phương nam, chỉ biết đập các hòn đá với nhau cho đến khi một hòn bị mẻ, thì những công cụ này lại được đẽo bằng những kỹ thuật có thể được lặp lại trên những hòn đá khác. Chúng có mặt trong tất cả các tầng di tích khảo cổ mang dấu ấn về sự cư trú của loài người ở đây, điều này có nghĩa là con người đã săn bắn và giết chóc động vật xung quanh Olorgesailie ít nhất trong nửa triệu năm. Lịch sử được ghi nhận từ những ngày đầu đầu của nền văn minh Fertile Crescent (vùng Lưỡi liềm Trù phú) cho đến hiện tại chỉ bằng 1/100 khoảng thời gian mà tổ tiên chúng ta đã sống ở riêng nơi đây, nhổ cây và phi những hòn đá được mài sắc vào các con thú. Chắc chắn ở đây phải có rất nhiều con mồi, đủ để đáp ứng nhu cầu thức ăn cho sự tăng trưởng của một quần thể động vật ăn thịt có kĩ năng chế tác ngày càng tiến bộ. Các mảnh xương đùi và xương ống chân vương vãi khắp Olorgesailie, rất nhiều xương bị đập để lấy tủy. Số lượng công cụ bằng xương tìm thấy xung quanh đống di tích ấn tượng của một con voi, một con hà mã và cả một bầy khỉ đầu chó, cho thấy toàn bộ cộng đồng người đã tập họp thành nhóm để giết, xẻ thịt và ngấu nghiến con mồi của họ. Tuy nhiên, làm sao điều này lại có thể xảy ra, nếu như chỉ trong gần một thiên niên kỷ, loài người có thể huỷ diệt kho động vật khổng lồ Kỷ Pleistocene ở Bắc Mỹ, vốn được cho là còn phong phú hơn ở châu Phi? Chắc chắn ở châu Phi có nhiều người hơn và tồn tại trong khoảng thời gian dài hơn. Nếu đúng như thế, tại sao châu Phi vẫn còn những con vật khổng lồ? Những lưỡi dao được đẽo từ đá bazan, đá vỏ chai và đá thạch anh quartzite tìm thấy tại Olorgesailie cho thấy rằng, trong cả một triệu năm, loài người thậm chí đã có thể cắt được lớp da dày của một con voi hoặc tê giác. Tại sao những loài động vật có vú lớn ở châu Phi không bị tuyệt chủng? Bởi vì ở đây, loài người và các loài động vật khổng lồ cùng nhau tiến hóa. Không giống như những động vật ăn cỏ ngây thơ ở châu Mỹ, châu Úc, quần đảo Polynesia và Caribbean, những loài chẳng có tí ý niệm nào về sự nguy hiểm của loài người khi chúng ta bất ngờ di cư đến, các loài thú ở châu Phi đã có cơ hội điều chỉnh khi số lượng loài người tăng lên. Những loài thú phát triển cùng với động vật ăn thịt đã học được cách đề phòng chúng và phát triển những cách thức trốn tránh chúng. Sống giữa cảnh bị quá nhiều hàng xóm đói khát rình rập, quần thể động vật châu Phi đã học được cách tụ tập thành những đàn lớn để khiến những kẻ đi săn khó lòng cách ly và bắt từng con thú một; chúng cũng cắt cử một vài con để canh phòng các mối nguy hiểm trong khi những con còn lại đang ăn. Những đường sọc của ngựa vằn khiến sư tử mụ mị vì lạc trong một ảo giác mênh mông. Ngựa vằn, linh dương đầu bò và đà điểu tạo thành bộ ba đồng minh trên những thảo nguyên rộng lớn để kết hợp thính giác tuyệt hảo của loài thứ nhất, khứu giác nhạy bén của loài thứ hai và thị giác tinh tường của loài thứ ba. Nếu những biện pháp phòng thủ này thành công trong mọi tình huống, thì dĩ nhiên, những kẻ ăn thịt sẽ bị tuyệt chủng. Một trạng thái cân bằng xuất hiện: trong một cuộc chạy nước rút, báo gêpa sẽ bắt được linh dương gazen; nhưng trong một cuộc đua dài hơi, linh dương gazen sẽ bám trụ lâu hơn báo gêpa. Bí quyết là phải phải tránh bị biến thành bữa tối cho một loài khác đủ lâu để kịp sản sinh thế hệ tiếp theo, hoặc sinh sản thường xuyên hơn nhằm bảo đảm sẽ luôn có một vài con non sống sót. Kết quả là, những loài ăn thịt như sư tử thường chỉ bắt được những con mồi bệnh nhất, già nhất và yếu nhất. Đó cũng chính là những gì người tiền sử đã làm – hoặc có thể trong những buổi đầu, loài người đã bắt chước một cách làm còn dễ dàng hơn, giống như loài linh cẩu: chúng ta ăn phần thịt thừa mà những gã thợ săn lão luyện để lại. Tuy nhiên, trạng thái cân bằng sẽ bị phá vỡ khi bất cứ nhân tố nào thay đổi. Bộ não của ngày càng phát triển loài người đã sản sinh ra những phát minh thách thức chiến lược phòng thủ của loài gặm cỏ: chẳng hạn, các đàn động vật tập trung với mật độ cao lại giúp con người tăng xác suất ném trúng mục tiêu khi ném rìu tay. Thật ra, nhiều loài được tìm thấy trong các lớp trầm tích Olorgesailie hiện đã tuyệt chủng, gồm hươu cao cổ có sừng, khỉ đầu chó khổng lồ, voi có ngà cong vòng xuống và loài hà mã to lớn hơn hà mã ngày nay. Tuy nhiên, vẫn không có gì chắc chắn rằng chính loài người đã đẩy chúng vào con đường tuyệt chủng. Xét cho cùng, đây là giai đoạn giữa Kỷ Pleistocene – là khoảng thời gian khi 17 kỷ băng hà và các quãng dừng giữa hai kỷ kéo nhiệt độ địa cầu lên và xuống, đồng thời khiến cho bất kỳ vùng đất nào chưa bị đóng băng bị ngập nước hoặc nứt nẻ. Lớp vỏ trái đất bị ép chặt rồi được nới lỏng dưới sự thay đổi trọng lượng của băng. Đới Tách giãn Đông Phi nở rộng và núi lửa phun trào, trong đó có một ngọn núi định kỳ phun tro xuống khu Olorgesailie. Sau hai thập kỷ nghiên cứu địa tầng vùng Olorgesailie, Pick Potts, nhà khảo cổ học ở Viện Smithsonian, bắt đầu nhận thấy rằng, một số loại thực vật và động vật có sức chịu đựng bền bỉ đặc biệt đã sống sót qua các chu kỳ biến động của khí hậu và địa chất. Một trong số đó là loài người chúng ta. Tại hồ Turkana, hồ rạn (hồ hình thành từ một vết nứt trên bề mặt trái đất) nằm trên cả lãnh thổ Kenya và Ethiopia, Potts kiểm tra một kho di chỉ phong phú của tổ tiên chúng ta và nhận ra rằng, cứ khi nào khí hậu và điều kiện môi trường trở nên khắc nghiệt, các giống tiền thân của loài người lại tăng số lượng cá thế, và thậm chí tiến tới thế chỗ giống người có mặt trước đó. Khả năng thích nghi là chìa khóa cho những ai xứng đáng nhất, sự tuyệt chủng của một loài này là sự tiến hóa của loài khác. Ở châu Phi, những loài thú lớn cũng may mắn tiến hóa thích nghi cùng lúc với loài người. Đó cũng là điều may mắn cho chúng ta, bởi vì để phác hoạ thế giới tiền nhân loại – với tư cách nền tảng giúp chúng ta hiểu thế giới hậu nhân loại sẽ tiến hóa như thế nào – thì châu Phi là kho lưu trữ di sản di truyền sống hoàn chỉnh nhất, chứa toàn bộ bộ, họ, chi, loài của các loại động vật đã biến mất ở nơi khác. Một vài loài thật ra có nguồn gốc từ nơi khác: khi những người Bắc Mỹ đứng từ cửa sổ trời của một chiếc xe jeep ở Serengeti, sửng sốt trước bầy ngựa vằn đông đúc, thì những con vật mà họ đang nhìn thấy chính là hậu duệ của loài ngựa châu Mỹ đã đã kéo bầy kéo lũ qua châu Á và doi đất nối liền Greenland - châu Âu. Nhưng hiện nay, chúng đã biến mất trên lục địa quê hương. (Đấy là tính cho đến khi Columbus đưa ngựa Equus vào châu Mỹ trở lại sau quãng thời gian gián đoạn 12.500 năm; trước đó, một vài giống ngựa sinh trưởng thịnh vượng ở vùng này có lẽ cũng có vằn.) Nếu các loài thú ở châu Phi đã tiến hoá theo hướng học cách thức phòng tránh con người, vậy sự cân bằng sẽ thay đổi như thế nào sau khi loài người biến mất? Liệu có loài thú to lớn nào đã thích nghi với chúng ta quá sâu, đến nỗi một mối quan hệ phụ thuộc tinh vi hoặc thậm chí cộng sinh nào đó cũng sẽ biến mất cùng với loài người trong một thế giới phi nhân loại? Vùng đồng hoang Aberdares cao và lạnh giá ở miền trung Kenya đã ngăn cản những người đến định cư, mặc dù chắc chắn loài người vẫn luôn hành hương về cội nguồn này. Bốn con sông đã khởi nguồn tại đây, chúng chảy theo bốn hướng khác nhau và cung cấp nước cho châu Phi bên dưới. Trên đường đi, chúng lao từ mỏm đá bazan chơi vơi vào hẻm núi sâu. Một trong những thác nước này, thác Gura, cao hơn 300 mét, tạo nên một vòng cung nước khổng lồ trong không trung trước khi mất hút trong sương mù và những bụi dương xỉ cao bằng cây thân gỗ. Trong vùng đất của các loài động vật khổng lồ, đây là khu đồng hoang nằm trên núi cao, nơi cư ngụ của các loài thực vật khổng lồ. Ngoại trừ một vài khóm cây gỗ hồng, khu vực này nằm trên đường giới hạn cây cối, bao phủ một đoạn đèo dài giữa hai đỉnh núi cao 3.960 mét, tạo thành một phần tường Đông của Thung lũng Giãn tách Lớn, ngay bên dưới đường xích đạo. Ở đây không có cây gỗ – nhưng cây thạch nam khổng lồ ở đây mọc cao đến hơn 18 mét với những mảng địa y rủ xuống như những bức rèm lớn. Hoa hồng y vốn mọc sát đất vươn lên thành những cột cao 2,5 mét, thậm chí cây cúc bạc, thường chỉ là một loại cỏ dại, đột biến thành những thân cây cao 9 mét với phần ngọn toả tròn như chiếc bắp cải, mọc giữa những bụi cỏ to lớn. Không có gì đáng ngạc nhiên khi hậu duệ của người Homo tiền sử, những người đã leo ra khỏi Đới giãn tách và trở thành bộ tộc cao nguyên Kikuyu ở Kenya, đã cho rằng đây chính là nơi mà Ngai – Thượng Đế – sinh sống. Ngoài tiếng gió lùa qua những lớp cây cói và tiếng hót líu lo của chim chìa vôi, nơi đây chỉ có sự tĩnh lặng thiêng liêng. Hoa cúc tây vàng mọc dọc theo những ngòi nước yên ả chảy qua đồng cỏ gồ ghề và ngập nước đến nỗi chúng dần tạo ra những dòng suối nhỏ. Linh dương eland – loài linh dương lớn nhất châu Phi, cao hơn hai mét và nặng 680 cân, cặp sừng xoắn dài gần một mét, số lượng cá thể loài này đang giảm dần – tìm kiếm nơi trú ẩn trên những đỉnh cao lạnh giá này. Tuy nhiên, đồng cỏ này quá cao để có thể là chỗ cho các cuộc săn đuổi, ngoại trừ giữa lũ linh dương lớn (waterbuck) và bọn sư tử vẫn ẩn nấp chờ đợi chúng trong rừng dương xỉ mọc ven theo hồ nước dưới chân thác. Thỉnh thoảng lại xuất hiện mấy con voi, lũ voi con bám theo một con voi cái lớn đang bước nặng nề qua bụi cỏ ba lá tím, giẫm nát những bụi cỏ thánh John khổng lồ trên hành trình tìm kiếm 180 cân thức ăn hàng ngày. Cách Alberdares năm mươi dặm về phía đông, băng qua một thung lũng bằng phẳng, người ta từng phát hiện những con voi sống gần đường giới hạn tuyết của đỉnh núi Kenya cao 5.180 mét. Với khả năng thích nghi tốt hơn người họ hàng voi ma mút lông dày, đã có thời phân voi châu Phi từng trải dài từ núi Kenya hoặc Aberdares lạnh giá xuống sa mạc Samburo của Kenya, khoảng cách độ cao giữa hai vùng này là hai dặm. Ngày nay, sự xuất hiện ầm ĩ của con người đang phá vỡ dãy hành lang nối liền ba môi trường sống đó. Những quần thể voi ở Aberdares, núi Kenya và Samburo đã không nhìn thấy nhau suốt nhiều thập kỷ. Bên dưới đồng hoang, vành đai tre trải dài hơn 300 mét bao quanh dãy núi Aberdares. Đây nơi ẩn náu của loài linh dương Bongo sắp tuyệt chủng, một trong những loài động vật châu Phi ngụy trang bằng lông vằn. Rừng tre rậm rạp bảo vệ chúng khỏi linh cẩu và thậm chí cả trăn, loài thú duy nhất săn thịt linh dương bongo sừng xoắn chỉ tồn tại ở dãy Aberdares: loài hắc báo, hay báo đen rất hiếm. Rừng mưa Aberdares um tùm cũng là nhà của mèo rừng đen và giống mèo vàng châu Phi màu đen. Đó là một trong những khu vực hoang dã nhất còn sót lại ở Keyna, với những cây long não, cây tuyết tùng và cây gòn được dây leo và phong lan phủ dày đến mức những con voi nặng đến 5,4 tấn cũng dễ dàng ẩn nấp ở đây. Và nơi đây cũng che chở cho loài đang bị đe dọa nhiều nhất trong tất cả các loài thú ở châu Phi: tê giác đen. Từ 20.000 con vào năm 1970, hiện tại chúng chỉ còn khoảng 400 con ở Keyna, những cá thể còn sót lại này đang bị săn tìm ráo riết để lấy sừng. Mỗi chiếc sừng mang về 25.000 đô-la, dùng để làm thuốc những nước phương Đông; còn ở Yemen sừng được dùng làm chuôi dao găm dùng trong các nghi lễ. Ước tính ở Aberdares có khoảng 70 con tê giác đen, đây là những con duy nhất được sống trong môi trường sống hoang dã nguyên thủy của chúng. Loài người cũng từng lẩn trốn tại đây. Trong giai đoạn xâm chiếm thuộc địa, những triền dốc núi lửa với nguồn nước dồi dào của Aberdares thuộc về những người Anh trồng chè và cà phê, họ đã biến đồn điền thành các trại nuôi cừu và gia súc. Đất nông nghiệp của người Kikuyu bị biến thành những khu đất lĩnh canh được gọi là shambas trong vùng bị chiếm đóng. Vào năm 1953, dưới sự che chở của rừng Aberdares, người Kikuyu đã lập thành phiến quân. Sống sót nhờ quả vả dại và cá hồi đốm nâu do người Anh tích trữ trong các dòng suối ở Aberdares, quân du kích Kikuyu liên tục khủng bố các địa chủ da trắng trong suốt cuộc nổi dậy được biết đến với cái tên Khởi nghĩa vũ trang Mau Mau. Nữ hoàng bèn phái các sư đoàn từ Anh sang và đánh bom Aberdares và núi Kenya. Hàng ngàn người Kenya đã bị giết hoặc treo cổ. Chỉ có chưa đến 100 người Anh tử nạn, nhưng đến năm 1963, thoả thuận ngừng bắn đã tất yếu dẫn đến một quyết định được đa số bỏ phiếu tán thành, mà người Kenya gọi đó là uhuru – độc lập. Ngày nay, Aberdares là một ví dụ của loại hiệp ước nửa vời mà loài người đã kí với phần còn lại của tự nhiên được biết đến với cái tên công viên quốc gia. Đó là nơi trú ngụ cho các loài lợn rừng khổng lồ quý hiếm và loài linh dương nhỏ nhất - linh dương suni với kích thước chỉ bằng loài thỏ rừng tai to – và chim hút mật cánh vàng, chim mỏ sừng bạc má và chim Turaco Hartlaub với bộ lông tím xanh sặc sỡ. Khỉ Colobus đen trắng, có gương mặt điểm bộ ria cong cong nom giống hệt như một vị sư, sống trong rừng nguyên sinh trải dài khắp mọi hướng xuống các triền dốc Aberdares… … cho đến khi phải dừng bước trước hàng rào điện. Hai trăm cây số dây mạ kẽm, với điện thế sáu ngàn volt, hiện đang bao quanh khu vực hứng nước lớn nhất Kenya. Lưới điện vươn cao hơn hai mét trên mặt đất và được chôn sâu gần một mét dưới lòng đất, các trụ điện được kích hoạt nhằm xua đuổi khỉ đầu chó, khỉ trán trắng và chồn hương đuôi vằn tránh xa hàng rào. Ở những chỗ chạy qua đường, hàng rào điện vồng cao lên, cho phép xe cộ chạy qua, nhưng những dây điện nóng đung đưa lại ngăn cản những con voi to như chiếc xe hơi làm điều tương tự. Đó là dải hàng rào nhằm bảo vệ muôn thú khỏi loài người và ngược lại. Cả hai phía hàng rào đều là những vùng đất màu mỡ nhất châu Phi, phía trên rừng mọc, còn phía dưới là ngô, đậu, tỏi tây, bắp cải, thuốc là và trà. Trong nhiều năm, cư dân cả hai vùng đều cố đột nhập sang bên kia. Cứ đến tối, voi, tê giác và khỉ lại sang xâm lược và nhổ bật rễ cây cối trên đồng. Các bộ lạc Kikuyu đang ngày càng phình ra thì lại ngấm ngầm tiến lên núi. Trên con đường mở mang lãnh địa, họ đốn hạ những cây tuyết tùng và cây Podo đã có đến ba trăm năm tuổi đời. Đến năm 2000, gần 1/3 diện tích rừng Aberdares đã bị dọn sạch. Cần phải làm gì đó để bảo vệ cây rừng, để có đủ lượng nước bốc hơi từ cây, cho mưa rơi xuống các dòng sông ở Aberdares, để sông tiếp tục chảy đến các thành phố khô hạn như Nairobi, để các tua bin thủy điện quay đều và để ngăn cản các hồ nước trên Đới giãn tách khỏi biến mất. Vì thế, hàng rào điện dài nhất thế giới đã ra đời. Tuy nhiên, đến khi đó, vùng Aberdares gặp vài vấn đề khác về nước rồi. Trong thập niên 1990, một hệ thống dẫn nước mới sâu hoắm được xây dựng tại rìa núi, ẩn nấp một cách vô tội bên dưới những luống hoa hồng và hoa cẩm chướng, khi Kenya vượt qua Israel để trở thành nhà cung cấp hoa lớn nhất cho châu Âu. Thậm chí mặt hàng này còn vượt mặt cà phê, để trở thành nguồn thu xuất khẩu chính của Kenya. Tuy nhiên, bước ngoặt số phận thơm ngát này lại kéo theo một món nợ sẽ còn tồn tại dai dẳng sau khi những người yêu hoa đã biến mất. Một bông hoa, giống như một con người, có đến 2/3 là nước. Do đó, mỗi năm, một nhà xuất khẩu hoa điển hình chuyển đến châu Âu một lượng nước tương đương với nhu cầu tiêu dùng nước hàng năm của một thành phố 20.000 dân. Trong mùa khô hạn, để theo kịp hạn ngạch sản xuất, các xí nghiệp trồng hoa phải cắm nhiều vòi hút nước vào hồ Naivasha. Đây là một hồ nước nằm ở hạ lưu các con suối chảy từ Aberdares xuống, bờ hồ được bao bọc bởi lớp lớp cây cói giấy, là nơi cư trú của nhiều loài chim nước ngọt và hà mã. Cùng với nước, họ cũng hút toàn bộ các thế hệ trứng cá. Những gì chảy trở lại hồ chỉ là các chất hóa học nồng nặc được sử dụng để duy trì sự rực rỡ hoàn mỹ của một bông hoa hồng trên suốt đoạn đường đến Paris. Tuy nhiên, hồ Naivasha lại không được rực rỡ như thế. Phốt phát và nitrat rỉ ra từ các nhà kính trồng hoa làm các mảng lục bình, loài thực vật ngăn chặn ô-xy hoà tan vào nước, sinh sôi nhanh chóng trên mặt hồ,. Khi mực nước trong hồ hạ xuống, lục bình – loại cây lâu năm có nguồn gốc từ Nam Mỹ đã xâm lăng châu Phi dưới dạng cây cảnh trồng trong chậu – bò lên bờ tấn công cây cói giấy. Các mô thối rữa lấy từ các xác hà mã đã tiết lộ bí quyết để có được những đoá hoa hoàn hảo: chất DDT và, một chất độc hơn gấp 40 lần, chất Dieldrin - những loại thuốc trừ sâu đã bị cấm ở các quốc gia mà chính khả năng tiêu thụ của họ đã biến Kenya thành nhà xuất khẩu hoa hồng lớn nhất thế giới. Rất lâu sau khi loài người, hoặc thậm chí là động vật hoặc hoa hồng biến mất, Dieldrin, một loại phân tử nhân tạo, có tính bền vững đáng kinh ngạc, có lẽ sẽ vẫn còn tồn tại. Không một hàng rào nào, thậm chí hàng rào với điện thế sáu ngàn volt, có thể ngăn chặn triệt để những loài thú ở Aberdares. Các quần thể động vật hoặc phải phá hàng rào hoặc sẽ tàn lụi vì quỹ gien của chúng bị co lại, cho đến khi một loại vi rút xoá sổ toàn bộ giống loài. Tuy nhiên nếu loài người bị kết liễu trước, hàng rào sẽ ngừng phát điện. Khỉ đầu chó và voi sẽ có buổi tiệc chiều với ngũ cốc và rau củ trong các shamba của người Kiyuku ở xung quanh khu vực đó. Chỉ có cà phê là còn cơ hội sống sót; các loài thú hoang dã không quá thèm khát chất caffeine, đồng thời giống cà phê Arabica xuất xứ từ Ethiopia từ xa xưa ưa thích loại đất núi lửa ở trung tâm Kenya đến mức chúng đã trở thành cây bản địa. Gió sẽ xé vụn những tấm lợp nhà kính bằng nhựa polyethylen; dưới tác dụng của các tia tử ngoại ở khu vực xích đạo, hợp chất polymer của chúng càng trở nên giòn hơn. Trớ trêu là, nhân tố khiến các tia tử ngoại hoành hành mạnh mẽ hơn chính là loại thuốc diệt côn trùng ưa thích của ngành trồng hoa, thuốc methyl bromide, kẻ hủy diệt tầng ozone số một. Những luống hoa hồng và hoa cẩm chướng, vốn nghiện hoá chất nặng, sẽ đói khát mà chết; trong khi lục bình có lẽ sẽ sống lâu hơn tất cả. Rừng Aberdares sẽ tràn qua dãy hàng rào đã bị vô hiệu hoá, chiếm lại các shamba và tàn phá các di tích thực dân cũ bên dưới, Câu lạc bộ Thượng lưu Aberdares, nơi lũ lợn lòi đang cư trú và ngày ngày tỉa tót các đường lăn bóng gôn. Chỉ còn một thứ duy nhất ngáng đường rừng trong công cuộc nối liền các hành lang hoang dã lên đỉnh Kenya và xuống sa mạc Samburo: một bóng ma của Đế chế Anh, dưới hình hài những rừng cây khuynh diệp. Trong vô số các loài sinh vật do con người phát tán ra khắp thế giới đang tăng trưởng ngoài tầm kiểm soát, cây khuynh diệp cùng với cây xuân và cây