🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thế Giới Cong
Ebooks
Nhóm Zalo
THẾ GIỚI CONG
Nguyên tác: THE WORLD IS CURVED
Tác giả: David M. Smick
Người dịch: Nguyễn Lợi, Bùi Lan
Nhà xuất bản: NXB Thời Đại
Nhà phát hành: Sách Dân Trí
Khối lượng: 400 grams
Kích thước: 14.5 x 20.5 cm
Ngày phát hành: 04/2011
Số trang: 468
Giá bìa: 120.000 ₫
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Ebook thực hiện dành cho những bạn chưa có điều kiện mua sách.
Nếu bạn có khả năng hãy mua sách gốc để ủng hộ tác giả, người dịch và Nhà Xuất Bản
Giới thiệu
“Có ít nhất ba lý do để đọc cuốn sách này. Trước hết, dưới ngòi bút hấp dẫn của một người xuất chúng trong cuộc, cuốn sách đã cho ta một cái nhìn vô cùng sâu sắc và thấu đáo về hoạt động tài chính toàn cầu mà bất kỳ độc giả nào của New York Times cũng có thể dễ dàng lĩnh hội được. Thứ hai, chủ đề trung tâm của cuốn sách về sự mong manh của nền kinh tế thế giới sẽ khiến bạn thức suốt đêm và vắt óc suy nghĩ về các vấn đề vẫn chưa được nhiều người quan tâm. Và thứ ba, cuốn sách chỉ ra một lộ trình thực tiễn để thoát khỏi tình trạng hỗn độn khủng khiếp mà chúng ta đang mắc phải, đây là điều mà các nhà hoạch định chính sách, các nhà tài chính, và thậm chí cả vị tổng thống kế tiếp của Mỹ nên quan tâm”. (Jeffrey E. Garten, Trường Quản lý Yale; Cựu Thứ trưởng phụ trách thương mại và kinh doanh quốc tế; Cựu Giám đốc điều hành Tập đoàn Blackstone).
“Sống động, được viết cẩn thận và thấu đáo, “Thế giới cong” của David Smick là những tìm hiểu và khám phá sâu sắc về những căng thẳng và mất cân đối của nền kinh tế toàn cầu cũng như các thị trường tài chính quốc tế. Smick cũng đưa ra một loạt đề xuất và quan sát mới mẻ để giải quyết các vấn đề mà ông đã đề cập tới, đồng thời kêu gọi chúng ta nhanh chóng giải quyết các vấn đề đó trước khi chúng trở nên tồi tệ hơn”.(Robert Hormats, Phó Chủ tịch Tập đoàn Goldman Sachs International).
“Những cách tân trong tài chính, bao gồm cả những cách tân dưới tác động của công nghệ điện tử hiện đại, đã tạo điều kiện cho cả doanh nghiệp và cá nhân thực hiện công việc kinh doanh của mình hiệu quả hơn, bảo vệ mình tốt hơn khỏi những rủi ro mà họ đang gặp phải. Tuy nhiên, các sáng kiến này cũng có thể đẩy họ vào các rủi ro mới mà họ chưa từng gặp phải khi chưa có những cách tân này. Do vậy, những thứ được cho là cải tiến đôi khi lại khiến
người ta thụt lùi, và khi những rủi ro đó kết hợp lại với nhau đủ lớn thì những thứ được cho là cải tiến đó có thể kéo lùi sự phát triển của ngay cả những người không bao giờ tìm cách tận dụng lợi ích của chúng. Trong Thế giới cong, David Smick đã khéo léo đưa ra rất nhiều ví dụ về quá trình mà các hậu quả không ngờ tới này đã làm lung lay thị trường tài chính thế giới trong thời gian gần đây, đồng thời lý giải tại sao quá trình đó có thể vẫn chưa chấm dứt”. (Benjamin M Friedman, Đại học Harvard, tác giả cuốn Hậu quả tinh thần của việc tăng trưởng kinh tế (The moral consequences of economic growth))
Thế giới cong đã tiếp nối những vấn đề còn dang dở của cuốn Thế giới phẳng của tác giả Thomas Friedman. Cuốn sách đã đưa độc giả vào cuộc hành trình của người trong cuộc tới văn phòng riêng của các giám đốc Ngân hàng trung ương, các Bộ trưởng Tài chính và thậm chí là các Tổng thống. Smick đã giúp chúng ta hiểu hơn về môi trường đầy rủi ro ngày nay - cùng lý do tại sao những khoản thế chấp lộn xộn kia lại là điềm báo cho những hậu quả vô cùng khủng khiếp. Ông đã vật lộn với hai câu hỏi thường trực trong tâm trí của mọi người: Tình hình có thể diễn biến tồi tệ thế nào trong nền kinh tế đầy biến động hiện nay? Và chúng ta có thể làm gì để cứu vãn hiện thực khắc nghiệt đó? Thông qua những câu chuyện hấp dẫn với ngôn từ dễ hiểu, Smick đã lý giải: Tại sao chảo dầu mà chúng ta quen gọi Trung Quốc (quả bong bóng lớn tiếp theo sẽ phát nổ) lại đại diện cho một mối nguy hại khôn lường tới túi tiền của mọi người.
Các bà nội trợ Nhật Bản đã kiểm soát các khoản tiền tiết kiệm của quốc gia họ như thế nào và điều đó có tác động tới chúng ta ra sao. Những nhà quản lý ngân hàng và các giám đốc ngân hàng đầu tư bị lòng tham làm mờ mắt đã đẩy tiền trợ cấp và quỹ lương hưu của mọi người vào nguy hiểm như thế nào. Tại sao ngày nay “các Ngân hàng Trung ương đang co lại rõ rệt” không thể cứu chúng ta khi cuộc khủng hoảng tiếp theo nổ ra. Tại sao những quỹ đầu tư quốc gia hùng hậu của Nga, Trung Quốc, Saudi và Dubai lại đại diện
cho bước tiến trong quyền lực tài chính toàn cầu, vượt xa Mỹ, châu Âu và Nhật Bản.
Tại sao thế giới lại cần đến một học thuyết tài chính “có tầm tư tưởng lớn” để hướng dẫn nguồn tiền nguy hiểm ngày nay. Thế giới cong là một cuốn sách hiếm có không chỉ khẳng định tầm vóc về chuyên môn với phố Wall, Washington và London mà những câu chuyện kể phù hợp trong đó còn chỉ ra cho những độc giả người Mỹ cách để tồn tại trong những khoảng thời gian đầy biến động như hiện nay.
Dành tặng vợ tôi, Vickie và tặng Peter, Sarah cùng DJ
Lời nhà xuất bản
Sau khúc hoan ca của quá trình toàn cầu hóa về măt kinh tế khi ứng dụng các tiện ích của cuộc cách mạng số hóa vào những năm cuối Thế kỷ XX, cuốn sách Thế giới phẳng: Lịch sử vắn tắt của Thế kỷ XXI của Tom Friedman đã thổi vào người đọc một niềm lạc quan: Thế giới đầy ắp công ăn việc làm, ấm no hạnh phúc sắp tới nơi rồi! Nhưng thế giới không đơn giản như Tom Friedman tưởng. Những hiểm họa tài chính đối với nền kinh tế toàn cầu đã manh nha hình thành khi cuốn sách còn đang viết dở và nó nổ bùng sau khi cuốn sách ra đời chưa đầy năm. Cuộc khủng hoảng tín dụng này đã ảnh hưởng rất lớn tới từng quốc gia trên thế giới, từ các nước phát triển tới các nước chậm phát triển bất chấp các thể chế chính trị khác nhau. Và các nước phát triển còn bị ảnh hưởng nặng nề hơn đến mức nhiều quốc gia còn chưa hồi phục, mới thấy le lói vài điểm sáng đã vội vui mừng như tìm được lối thoát.
Trước tình hình như vậy, rất nhiều nhà kinh tế trên thế giới bỏ ra nhiều công sức điều tra nguyên nhân, bàn cách khắc phục, thậm chí còn tham vọng tìm ra một con đường mới. Cuốn Thế giới cong của David M.Smick, một nhà kinh tế học hàng đầu của Mỹ, là một cuốn sách được đánh giá rất cao trong vô số cuốn sách viết về đề tài này. David M.Smick đã cố gắng vẽ ra một bức tranh toàn cảnh nền kinh tế thế giới hiện nay và cho rằng sở dĩ có cuộc khủng hoảng này là do các hoạch định chính sách chưa khoa học, thiếu đầy đủ và đồng bộ nhất quán, là do các nền kinh tế không đồng đều, mâu thuẫn nhau, nhiều vấn đề khuất lấp thậm chí còn bị che dấu... v.v. Thế giới của David M.Smick là Thế giới cong vì không thấy được đường chân trời. Đây là một nhận định tuyến tính, xa thực tế bởi kinh tế thế giới luôn vận động trong vô vàn phức tạp khó lường, chỗ khuất lấp vừa lộ sáng thì khoảng tối lại sinh ra...! Đặc biệt trong sách, tác giả còn quan tâm đi sâu vào nền chính trị - kinh tế của Trung Quốc, một người khổng lồ đang vươn dậy, với một mối lo
ngại kép. Đó là, nếu kinh tế Trung Quốc thành công thì bản đồ kinh tế thế giới phải vẽ lại, địa vị thống trị kinh tế toàn cầu của các nước phát triển cũ, đứng đầu là Mỹ sẽ bị lung lay tới tận gốc. Còn nếu kinh tế Trung Quốc đổ vỡ thì Mỹ sẽ rơi vào cảnh khốn đốn vì Trung Quốc là chủ nợ lớn nhất của Mỹ.
Tuy nhiên, cuốn sách chỉ bày tỏ những quan điểm cá nhân chủ quan của tác giả. Chuyện đúng sai tới đâu còn phải bàn cãi nhiều. Đặc biệt cuốn sách được viết dưới lập trường thị trường tự do thuần túy, coi phúc lợi xã hội chỉ là hệ quả kèm theo của sự phát triển kinh tế. Còn quan điểm của chúng ta lại coi phúc lợi xã hội là mục đích còn các cuộc cách mạng công nghệ, công nghiệp và sự phát triển kinh tế chỉ là các công cụ, các phương tiện để đạt được mục đích mà thôi.
Dẫu vậy, đây vẫn là cuốn sách quan trọng, cần đọc vì nó cung cấp một cái nhìn khá sâu sắc về thế giới tài chính quốc tế và giúp chúng ta hiểu biết thêm hơn về sự toàn cầu hóa tài chính hiện nay.
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Nhà xuất bản Thời Đại
Những lời ca ngợi dành cho Thế giới cong
Thế giới cong thể hiện một bức tranh đầy tính trí tuệ. Nó là một tác phẩm phải - đọc đối với các nhà đầu tư, các nhà hoạch định chính sách, và bất cứ ai lo lắng về những thách thức mà hệ thống tài chính toàn cầu ngày nay đang phải đối mặt”.
Stan Druckenmiller, Duquesne Capital Management
“David Smick, nhà sáng lập tạp chí The International Economy và biến nó trở thành một ấn phẩm có uy tín về các vấn đề kinh tế thế giới, đã mang lại cho chúng ta một phân tích sắc sảo và kịp thời về sự xuống dốc của quá trình toàn cầu hóa tài chính. Trong quá trình này, dòng vốn là yếu tố rất nhạy cảm, và bất cứ ai đánh giá cao những lợi ích to lớn của toàn cầu hóa thương mại và đầu tư trực tiếp đa quốc gia đều không thể bỏ qua cuốn sách quan trọng này”.
Jagdish Bhagwati, Đại học Columbia, tác giả cuốn sách Để bảo vệ Toàn cầu hóa (In Defense of Globalization)
“Có ít nhất ba lý do để đọc cuốn sách này. Trước hết, dưới ngòi bút hấp dẫn của một người xuất chúng trong cuộc, cuốn sách đã cho ta một cái nhìn vô cùng sâu sắc và thấu đáo về hoạt động tài chính toàn cầu mà bất kỳ độc giả nào của New York Times cũng có thể dễ dàng lĩnh hội được. Thứ hai, chủ đề trung tâm của cuốn sách về sự mong manh của nền kinh tế thế giới sẽ khiến bạn thức suốt đêm và vắt óc suy nghĩ về các vấn đề vẫn chưa được nhiều người quan tâm. Và thứ ba, cuốn sách chỉ ra một lộ trình thực tiễn để thoát khỏi tình trạng hỗn độn khủng khiếp mà chúng ta đang mắc phải, đây là điều mà các nhà hoạch định chính sách, các nhà tài chính, và thậm chí cả vị tổng thống kế tiếp của Mỹ nên quan tâm”.
Jeffrey E. Garten, Trường Quản lý Yale; Cựu Thứ trưởng phụ trách thương mại và kinh doanh quốc tế; Cựu Giám đốc điều hành Tập đoàn Blackstone.
“Sống động, được viết cẩn thận và thấu đáo, “Thế giới cong” của David Smick là những tìm hiểu và khám phá sâu sắc về những căng thẳng và mất cân đối của nền kinh tế toàn cầu cũng như các thị trường tài chính quốc tế. Smick cũng đưa ra một loạt đề xuất và quan sát mới mẻ để giải quyết các vấn đề mà ông đã đề cập tới, đồng thời kêu gọi chúng ta nhanh chóng giải quyết các vấn đề đó trước khi chúng trở nên tồi tệ hơn”.
Robert Hormats, Phó Chủ tịch Tập đoàn Goldman Sachs International
“Cuốn sách này thật tuyệt vời. Đọc Thế giới cong, bạn sẽ khó có thể không quan ngại về những xu hướng gần đây. David Smick đã cung cấp cho chúng ta một phân tích thấu đáo và dễ hiểu về những khiếm khuyết và lợi ích của toàn cầu hóa. Đây là một cuốn sách quan trọng”.
Frank C. Carlucci, Cựu Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ
“David Smick am hiểu về thị trường tài chính thế giới như bất kỳ người đương thời nào. Trong cuốn sách Thế giới cong hấp dẫn (hoặc có lẽ đáng sợ) của mình, ông đã vạch ra những tai họa tiềm ẩn trong thị trường tài chính toàn cầu mới mẻ và đầy rối ren này. Cuốn sách là một tác phẩm dễ hiểu mặc dù nó đề cập đến các vấn đề vô cùng phức tạp, các vấn đề mang tính cong”.
William Seidman, trưởng bình luận viên tài chính, CNBC; Cựu Chủ tịch, Tập đoàn Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang (FDIC)
“David Smick đã xác định một khoảng cách nguy hiểm phân tách thế giới chính sách và thế giới tài chính. Thế giới cong sẽ tiến một bước dài hướng tới việc xỏa bỏ khoảng cách đó. Đó là một điều cần thiết để đảm bảo sự ổn định và thịnh vượng trong nền kinh tế toàn cầu”.
Lee H. Hamilton, Chủ tịch kiêm Giám đốc, Trung tâm Quốc tế Woodrow Wilson dành cho các học giả.
“Có lẽ đây là thời điểm tốt nhất để Thế giới cong của David Smick xuất hiện. Tôi không thể rời cuốn sách được. Nó cung cấp một cái nhìn sâu sắc và đầy hiểu biết về thế giới tài chính quốc tế. Thế giới cong đề cập rất sát tình hình hiện nay”.
Karl-Otto Po..hl, Cựu Chủ tịch, Ngân hàng Trung ương Đức
“Các gợi ý của Smick về những điều nên làm và nên tránh dành cho các nhà hoạch định chính sách kinh tế tương lai rất hay và dễ hiểu. Kể cả những người không có bằng cấp về kinh tế cũng có thể dễ dàng hiểu được nó”.
Carla Hills, đồng chủ tịch Hội đồng Quan hệ đối ngoại; cựu đại diện thương mại Mỹ
“David Smick là một hướng dẫn viên tuyệt vời, giúp chúng ta hiểu hơn về sự phát triển của hệ thống tài chính trong ba thập kỷ gần đây. Ông đã đưa chúng ta từ các phòng họp tài chính của châu Âu đến các bộ ngành quan liêu của châu Á với sự giàu có không đong đếm được, từ tư gia của những người giàu có đầy quyền lực ở Washington đến những phòng kinh doanh tiền tệ lộn xộn của phố Wall. Đây là một tác phẩm tuyệt vời”.
Louis Bacon, Moore Capital Management
“David Smick đã biến tạp chí The International Economy thành một ấn phẩm phải - đọc về các vấn đề kinh tế thế giới. Ông cũng làm điều tương tự với toàn cầu hóa trong Thế giới cong. Toàn cầu hóa là một tác nhân làm thay đổi cuộc chơi trong thời đại chúng ta, và những hiểu biết thấu đáo của David Smick về dòng vốn đầu tư trên toàn cầu là vô cùng quan trọng. Bất cứ ai muốn tìm hiểu về toàn cầu hóa tài chính và những gợi ý về chính sách cũng sẽ muốn đọc cuốn sách này”.
R. Glenn Hubbard, trưởng khoa, Trường Kinh doanh thuộc Đại học Columbia
“David Smick đã viết một cuốn sách hạng nhất về “các mối nguy hiểm tiềm ẩn” của toàn cầu hóa. Tôi thấy thật khó để đặt nó xuống”.
AW. Clausen, Cựu Chủ tịch, Ngân hàng Thế giới
“Thế giới cong là một phân tích quan trọng và kịp thời đã khơi mở cho người đọc về các lực lượng trên toàn cầu đang điều khiển cần lái của thị trường tài chính thế giới. Đây là một cuốn sách chứa đựng nhiều thông tin dễ hiểu cho cả những người không chuyêncũng như các nhà hoạch định chính sách”.
Yoichi Funabashi, Tổng Biên tập, Asahi Shimbun
“Thế giới cong đã đi sâu tìm hiểu hệ thống tài chính quốc tế mong manh hiện tại và đã phát hiện ra ở nó nhiều bất ổn không dễ dàng khắc phục. Thế giới toàn cầu hóa mới của chúng ta gập ghềnh chứ không bằng phẳng như mọi người vẫn nghĩ”.
James Schlesinger, nguyên Bộ trưởng Năng lượng Hoa Kỳ, Bộ trưởng Quốc phòng, và Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương
“David Smick đã làm một việc mà ít ai làm được: đưa độc giả vào bên trong thánh đường của hệ thống tài chính toàn cầu. Với những câu chuyện lôi cuốn, Smick đã chứng minh một cách thuyết phục rằng bên cạnh những lợi ích to lớn, hệ thống phức tạp này cũng khiến chúng ta phải đối mặt với không ít rủi ro nghiêm trọng. Hơn thế nữa, trong cuốn sách này, ông cũng cho chúng ta một giải pháp”.
John B. Taylor, Đại học Stanford
“David Smick đã đúng: Thế giới toàn cầu là một thế giới cong. Chúng tôi không thể đoán trước tương lai một cách chính xác, đặc biệt là trong những thời điểm khủng hoảng”.
Hans-Tietmeyer, Cựu Chủ tịch, Ngân hàng Trung ương Đức
“Đây là một tác phẩm tiếp nối xuất sắc cuốn Thế giới phẳng của Tom Friedman. Thế giới cong đã đi sâu khai thác những vấn đề mà Friedman chưa đề cập đến, đồng thời giải thích rõ ràng vai trò quan trọng nhưng chưa được hiểu thấu đáo của hệ thống tài chính hiện đang là nền móng thiết yếu cho nền kinh tế thế giới”.
Murray Weidenbaum, Trường Đại học Washington
“Thế giới hiện tại là một thế giới cong. Vào mỗi thời điểm, một vệ tinh dù bay cao đến mấy cũng chỉ nhìn thấy không quá một nửa trái đất. Tuy nhiên, David Smick đã cho chúng ta tiếp cận cả hai - từ Washington đến Bắc Kinh và xa hơn thế nữa”.
Peter B. Kenen, Trường Đại học Princeton
“Thế giới cong là một cuốn sách rất hấp dẫn. Nó chỉ ra mối liên hệ chặt chẽ không thể tách rời của chính trị và kinh tế. Nó là một bản phân tích rõ ràng về rủi ro, thành công và thất bại của thị trường tài chính toàn cầu ngày nay”.
Otmar Issing, cựu thành viên của Ban Giám đốc,
Ngân hàng Trung ương Châu Âu
“Thế giới cong là một cuốn sách sâu sắc, thấu đáo và đầy lôi cuốn - một tác phẩm phải đọc”.
Pedro Pablo Kuczynski, cựu thủ tướng Peru
“Đây là một cuốn sách dễ hiểu, nhiều thông tin đã giải thích thấu đáo về hệ thống tài chính toàn cầu. Độc giả… bảo đảm sẽ có những phút giây thư giãn và đầy thích thú với cuốn sách”.
Edwin (Ted) M. Truman, nguyên Giám đốc, Bộ phận Tài chính Quốc tế, Cục Dự trữ Liên bang
“Đây là một bản mô tả về thị trường vốn toàn cầu của một người trong cuộc đầy tài ba. Cuốn sách đầy ắp thông tin và rất thú vị.Thế giới cong đã giải thích… lý do tại sao ba mươi năm tiếp theo sẽ vẫn nhiều rủi ro như trong quá khứ”.
Gary Clyde Hufbauer, Viện Kinh tế Quốc tế Peterson
“Cuốn sách là chuyến đi của một người trong cuộc có hiểu biết sâu sắc về các hệ thống tài chính và kinh tế toàn cầu. Độc giả sẽ có một điểm xuất phát đầy tự tin để chẩn đoán các vấn đề và đề ra các giải pháp sáng suốt”.
Michael J. Boskin, Đại học Stanford
“Trong Thế giới cong, David Smick đã giúp chúng ta nhận ra những bất trắc trong các thị trường tài chính khi Thế kỷ của người Mỹ đang dần khép lại”.
Allan Meltzer, Đại học Carnegie Mellon
“Cuốn sách là những tranh luận vừa thấu đáo vừa hấp dẫn về một câu hỏi mang tính thời đại đang chi phối chúng ta - từ đây chúng ta sẽ đi đến nơi nào?”
Michael Steinhardt, Steinhardt Management
“Trong suốt ba mươi năm qua, David Smick giữ vị trí hàng đầu trong cuộc cách mạng tài chính toàn cầu. Nếu bạn muốn có một giải thích rõ ràng về những gì đang xảy ra trong cuộc cách mạng tài chính toàn cầu, hãy đọc Thế
giới cong”.
Peter R. Fisher, Cựu Phó chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York
“Thế giới cong chẳng khác nào cuốn cẩm nang hướng dẫn do một người trong cuộc tài giỏi biên soạn về thế giới tài chính cũng như các vấn đề bên ngoài ngân hàng trung ương”.
John Williamson, Viện Kinh tế Quốc tế Peterson
“Tôi luôn mong muốn được tiếp chuyện với David Smick. Ông không bao giờ đi theo những suy nghĩ thường tình, thay vào đó, ông luôn có một quan điểm mới mẻ và đầy hấp dẫn về những gì đang xảy ra trong nền kinh tế chính trị của chúng ta. Giờ đây, ông ấy đã chuyển tải những tư tưởng của mình thành một cuốn sách quan trọng. Bạn sẽ thích đọc Thế giới cong, bạn sẽ học hỏi được nhiều điều từ nó - và quan trọng nhất, nó sẽ khiến bạn thực sự suy nghĩ”.
William Kristol, The Weekly Standard
“Những cách tân trong tài chính, bao gồm cả những cách tân dưới tác động của công nghệ điện tử hiện đại, đã tạo điều kiện cho cả doanh nghiệp và cá nhân thực hiện công việc kinh doanh của mình hiệu quả hơn, bảo vệ mình tốt hơn khỏi những rủi ro mà họ đang gặp phải. Tuy nhiên, các sáng kiến này cũng có thể đẩy họ vào các rủi ro mới mà họ chưa từng gặp phải khi chưa có những cách tân này. Do vậy, những thứ được cho là cải tiến đôi khi lại khiến người ta thụt lùi, và khi những rủi ro đó kết hợp lại với nhau đủ lớn thì những thứ được cho là cải tiến đó có thể kéo lùi sự phát triển của ngay cả những người không bao giờ tìm cách tận dụng lợi ích của chúng. Trong Thế giới cong, David Smick đã khéo léo đưa ra rất nhiều ví dụ về quá trình mà các hậu quả không ngờ tới này đã làm lung lay thị trường tài chính thế giới trong thời gian gần đây, đồng thời lý giải tại sao quá trình đó có thể vẫn chưa
chấm dứt”.
Benjamin M Friedman, Đại học Harvard, tác giả cuốn Hậu quả tinh thần của việc tăng trưởng kinh tế (The moral consequences of economic growth)
“Thế giới thực sự cong, và tôi nghĩ rằng không có tài liệu hướng dẫn về thị trường vốn toàn cầu của thế kỷ XXI nào tốt hơn cuốn sách của David Smick. Cuốn sách sẽ đưa bạn xuyên suốt hành trình cá nhân của Smick suốt ba mươi năm qua với tư cách là một cố vấn cho các nhà đầu tư, các quỹ đầu cơ phòng vệ, các ngân hàng trung ương và các nhà hoạch định chính sách. Sau khi đọc cuốn sách này, bạn sẽ quan tâm tới, có lẽ là hơn bao giờ hết, các diễn biến của lịch sử tài chính gần đây và những rủi ro đang chờ ta phía trước”.
Richard H. Clarida, Trường Đại học Columbia; PIMCO; Cựu trợ lý Bộ trưởng Bộ Tài chính;
“Thế giới cong trình bày về những vấn đề tài chính toàn cầu hiện nay một cách ấn tượng như phong cách Beethoven”.
Norbert Walter, Tập đoàn Deutsche Bank
“David Smick là người tiên phong trong việc toàn cầu hóa thông tin kịp thời. Ai có thể trình bày với chúng ta thông tin mới nhất và thích hợp nhất về toàn cầu hóa tốt hơn?”
Ron Insana, Insana Capital Partners; nhà phân tích cao cấp của CNBC
“Cuốn sách này cuốn hút ta phải đọc. Nó thể hiện một phân tích sắc sảo về thị trường tài chính toàn cầu đầy mong manh hiện nay”.
Horst Siebert, Chủ tịch danh dự, Viện Kinh tế Thế giới Kiel
“Cuốn sách đã định nghĩa toàn cầu hóa tài chính là một hệ thống tạo ra những bất ổn tài chính lớn và đáng sợ, nhưng bên cạnh đó, nó cũng là một
chú ngỗng đẻ ra những quả trứng vàng. Cuối cùng, Thế giới cong còn cho ta một thông điệp về niềm tin và hy vọng”.
Renato Ruggiero, Cựu Tổng giám đốc, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
“Cuốn sách là một hành trình lý thú và rất đáng đọc về nhiều phương diện phức tạp của một thế giới đang biến đổi nhanh chóng”.
Charles Dallara, Viện Tài chính Quốc tế
“Thế giới cong đã nêu ra những vấn đề quan trọng cần phải được thảo luận đầy đủ”.
Nigel Lawson, nguyên Bộ trưởng Tài chính, Vương quốc Anh
Tựa
Quả thực là tôi đã trong tâm trạng thất vọng to lớn khi bắt đầu viết một cuốn sách về nền kinh tế toàn cầu mới hiện nay. Rốt cuộc, chúng ta đã làm những gì để tạo nên hệ thống tài chính thế giới mà ở một thời điểm dường như vẫn diễn ra một cách tốt đẹp và chẳng bao lâu sau thì lại hoạt động như thể sắp đến ngày tận thế? Cuộc cách mạng máy vi tính trong chớp mắt đã chuyển nền kinh tế thành một bộ máy thịnh vượng thực sự trên toàn cầu khi thị trường chứng khoán trên khắp thế giới đạt được những đỉnh cao mới. Tiếp theo, thị trường tụt dốc. Mọi người lúc đó đọc những câu chuyện trên báo chí nói rằng giá trị ngôi nhà của họ có thể chẳng bao lâu sẽ thấp hơn số tiền phải trả góp cho chính ngôi nhà đó. Họ phát hiện ra rằng khoản tiền tiết kiệm của gia đình họ - ngay cả tiền mặt còn lại trong các quỹ kinh doanh tiền tệ (money market funds) được cho là cực kỳ an toàn - có thể sớm tan thành mây khói chỉ trong chốc lát.
Trong khi cố gắng nắm bắt đầy đủ tầm quan trọng của hệ thống toàn cầu mới, tôi đã bắt đầu đọc lại cuốn sách có ảnh hưởng lớn về chủ đề toàn cầu hóa, cuốn sách đang được bán chạy nhất của Tom Friedman: Thế giới phẳng: Lịch sử vắn tắt của Thế kỷ 21. Friedman mô tả một cách thuyết phục về toàn cầu hóa theo đúng bản chất của nó, bằng việc tập trung vào các chuỗi cung cấp hàng hóa và dịch vụ toàn cầu. Những câu chuyện thật hấp dẫn - đưa người đọc đi từ Thung lũng Silicon của Ấn Độ tại Bangalore tới những ngôi làng ở Đông Bắc Trung Quốc. Cuốn sách của Friedman mô tả cách thức công nghệ số đã rút ngắn khoảng cách giữa các quốc gia và cách mạng hóa các chuỗi cung cấp toàn cầu như thế nào. Điều này cho phép mọi người tham gia vào hoạt động kinh doanh với nhau trên toàn cầu, với mỗi quốc gia đưa những lợi thế cạnh tranh của mình vào hệ thống thương mại thế giới. Là một phóng viên chuyên mục từng đoạt giải thưởng của New York Times, Friedman cảnh báo một cách sáng suốt rằng Hoa Kỳ cần phải thích ứng với
môi trường kinh tế mới mẻ và đang thay đổi này hoặc phải cắt giảm chi tiêu một cách hợp lý. Cuốn sách quả là một thành tựu mang tính lịch sử trong việc giới thiệu tới đông đảo độc giả về thế giới mới với những cơ hội và thách thức vượt ra khỏi biên giới quốc gia.
Sau khi đọc lại Thế giới phẳng, một hôm tôi ăn trưa tại khách sạn Hay Adams, Washington D.C, ngay đối diện Nhà Trắng, với một người bạn cũ, John Despres, một cố vấn có uy tín lâu năm về các chính sách đối ngoại của Thượng nghị sĩ Đảng Dân chủ, Bill Bradley. Tôi nói khi chúng tôi đã yên vị: “John này, tôi đang cố gắng với tâm trạng thất vọng lớn để thấu hiểu toàn cầu hóa. Nói một cách thẳng thắn, xét từ góc nhìn của các thị trường tài chính thì thế giới không hề phẳng. Không giống như thế giới sản xuất hàng hóa và dịch vụ, trong thế giới tài chính không có gì xảy ra theo một đường thẳng. Thay vào đó, có một loạt những gián đoạn bất ngờ liên tiếp - hay còn gọi là những khúc quanh và các bước ngoặt của tính bất ổn. Điều này thường đòi hỏi hàng triệu người tham gia thị trường phải có được sự hiểu biết thông thường về lĩnh vực tài chính. John à, trong thế giới tài chính, dường như không có gì diễn ra theo kiểu tuyến tính”.
John Despres, người đàn ông ở độ tuổi 60, lựa chọn từ ngữ rất cẩn thận ngồi đó vẻ trầm tư suy nghĩ. Ông chống cằm, nghĩ ngợi khi nhìn chăm chú vào khoảng trống qua Công viên Lafayette đến những chiếc cột phía trước của Nhà Trắng. “Như vậy, những gì anh đang nói…”, ông bắt đầu một cách chậm rãi rồi ngừng lại thêm một vài giây, “là thế giới không phải là phẳng; thế giới cong”.
“Đúng vậy, đối với các thị trường tài chính thì thế giới cong. Chúng ta không thể nhìn qua đường chân trời. Kết quả là tầm nhìn của chúng ta bị thu hẹp lại. Cứ như thể là chúng ta buộc phải đi trên một con đường dài vô tận với đầy những ngã rẽ và những khúc quanh nguy hiểm cùng với những thung lũng dựng đứng, những dãy núi hiểm trở. Chúng ta không thể nhìn thấy gì ở
phía trước. Chúng ta luôn luôn bị bất ngờ, và đó là lý do tại sao thế giới đã trở thành một nơi nguy hiểm”.
Xét về nền tảng, các thị trường tài chính luôn luôn bị phá rối bởi thông tin không đầy đủ và không chắc chắn. Luôn có những thứ mà các nhà đầu tư và các thương nhân không biết và không thể biết. Nhưng trong nền kinh tế toàn cầu mới, đại dương thanh khoản toàn cầu bất ổn này không chỉ làm gia tăng số lượng những điều không biết mà còn sắp xếp lại các mối quan hệ và tầm quan trọng tương đối của chúng.
Có những nhà đầu tư mới với những viễn cảnh mới. Đột nhiên, hàng loạt các quỹ trên khắp thế giới cạnh tranh với nhau để giành lấy các cơ hội đầu tư. Các chủ ngân hàng, các thương gia, và các chính phủ trong các nền kinh tế công nghiệp hóa hiện đang cạnh tranh với các chủ doanh nghiệp, những người mới khởi nghiệp và các công ty quốc doanh cũ trong các nền kinh tế mới nổi để thu hút những nguồn quỹ này. Với các loại nợ được chứng khoán hóa, các khoản đầu tư vào vốn trung gian (mezzanine investing[1]), và các công cụ tài chính vô cùng phức tạp, việc chỉ ra chuyện gì đang xảy ra tại bất kỳ thời điểm cụ thể nào là điều gần như không thể thực hiện được. Các nhà đầu tư cần các loại thông tin mới để đưa ra được những quyết định sáng suốt. Tuy nhiên những loại thông tin đó chính xác là gì? Và họ thu thập những thông tin đó ở đâu?
Thị trường tài chính luôn luôn hoạt động trong sự bất bình đẳng về thông tin và phân tích. Bạn nghĩ hay biết điều này. Tôi nghĩ hoặc biết điều khác. Tuy nhiên, các nhà hoạch định chính sách và các thương nhân ngày nay phải phụ thuộc nhiều hơn bao giờ hết vào bản năng gan góc của mình. Sân chơi lớn hơn, tiền góp vốn đầu tư cao hơn và hệ thống kinh tế đã trở nên mong manh dễ vỡ đến không thể tin được do quy mô và độ phức tạp của nó. Đó là một kế hoạch bấp bênh mà có thể sụp đổ vì bất kỳ lý do nào. Điều đó chưa chắc sẽ xảy ra, nhưng các chính trị gia và các nhà hoạch định chính sách cần phải
thận trọng. Họ cần phải bắt đầu quan tâm đến những thứ mà trước đây chưa bao giờ làm họ bận tâm.
Rốt cuộc, chúng ta thực sự biết gì về những điều sắp diễn ra tại Trung Quốc, một đất nước có một nền kinh tế mà ngay cả những người làm chủ nó cũng không hoàn toàn hiểu rõ? Chúng ta biết gì về lối suy nghĩ của các bà nội trợ Nhật, những người đóng một vai trò rất quan trọng đến hướng đi của dòng tiền tiết kiệm trên thế giới? Chúng ta biết gì về tính chính xác trong sổ sách kế toán của các tổ chức tài chính lớn nhất và đáng tin cậy nhất hoặc của các công cụ tài chính phức tạp mà các doanh nghiệp triển khai? Chúng ta biết gì về những hệ quả mang tính chiến lược lâu dài của các khoản tiết kiệm vượt trội hiện nay đang được kiểm soát bởi các chính phủ phi dân chủ? Và ý nghĩa chính trị, xã hội của việc của cải toàn cầu đang được phân phối không đồng đều là gì?
Thêm vào đó, thị trường hiện đang thiếu thông tin về những điều có thể là quan trọng nhất, rằng liệu người ta có cho phép chính xu hướng toàn cầu hóa tiếp tục hay không. Nền chính trị của toàn cầu hóa đang nóng lên nhanh chóng khi sự lo lắng sinh ra từ sức mạnh của dòng vốn đầu tư tự do và sự tăng vọt của hàng hóa. Thật đáng ngạc nhiên, trong một cuộc thăm dò ý kiến gần đây củaTạp chí Phố Wall (Wall Street Journal) và NBC (Công ty Phát thanh quốc gia) cho thấy ở Hoa Kỳ (với đa số theo tỷ lệ 2:1), ngay cả những người theo Đảng Cộng hòa cũng tin rằng nền thương mại tự do đang đang gây tổn hại cho nước Mỹ. Sự hỗn loạn đáng lo ngại của cuộc Đại Khủng hoảng Tín dụng năm 2007-2008 bắt nguồn từ việc cho vay dưới chuẩn cũng vẫn chưa được giải quyết. Đây là lời kêu gọi hợp tác mới nhất cho các lực lượng phản đối toàn cầu hóa tập hợp lại trong thời gian sắp tới.
“Có lẽ đáng lo ngại nhất là hầu hết mọi người hiện nay đều thiếu một góc nhìn mang quan điểm lịch sử”, tôi nói khi bữa ăn trưa kết thúc. Thời kỳ bùng nổ đang được cho là tất yếu diễn ra. Các cử tri Mỹ đang ở độ tuổi trung niên
được sinh ra vào giữa những năm 1960. Họ không có ký ức nào về tình trạng lạm phát đình đốn và dòng xe lũ lượt chờ đổ xăng những năm 1970, khoảng thời gian trước khi nền kinh tế trở nên toàn cầu hóa như hiện nay. Họ chưa bao giờ biết bất cứ điều gì ngoài một nền kinh tế năng suất cao với thị trường chứng khoán ấn tượng và công việc dồi dào. Nhiều người ủng hộ chủ chốt của toàn cầu hóa đã bị ru ngủ bằng cảm giác tự mãn. Do đó, thời kỳ tới sẽ là một thời kỳ thay đổi chính sách mang tính phản ứng thái quá và có khả năng thiếu thận trọng.
Tôi nhấn mạnh với Despres: “Tệ hơn nữa là các nhà hoạch định chính sách không đánh giá đúng bản chất mong manh của hệ thống tài chính toàn cầu ngày nay và việc làm thế nào mà sự thịnh vượng về mặt tài chính có thể âm thầm tan biến. Đó là hậu quả không lường trước được của các cơ chế chính sách có thiện chí hiện đang cố gắng luật hóa hoặc điều tiết an ninh kinh tế. Ngày nay, chúng ta rơi vào một tình huống mà trong đó hệ thống tài chính toàn cầu hóa vừa kích thích lại vừa đe dọa sự thịnh vượng của đất nước”.
Tôi kết luận rằng cuốn sách của Friedman đã thể hiện thành công phần đầu của câu chuyện toàn cầu hóa, nhưng vẫn còn một phần thứ hai - khía cạnh tài chính của nó. Đó là khía cạnh cho vay dưới chuẩn, chẳng hạn như một ngôi làng nhỏ của Na Uy thuộc vùng Bắc Cực có thể nhìn thấy toàn bộ tương lai tài chính của nó bị hủy hoại bởi vì các nhà quản lý tài chính đã đầu tư quá nhiều vào một sản phẩm của Citigroup được gọi là giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (collateralized debt obligation - CDO). Khi thị trường nhà đất phía bên kia đại dương tại Florida và California sụp đổ thì các khoản nợ thế chấp cũng hỏng theo và những ngôi làng ở Na Uy đã phải đóng cửa các trường mẫu giáo và dừng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi.
Vào cuối buổi nói chuyện, chúng tôi đã chuyển sang vấn đề lịch sử, thống nhất quan điểm rằng các phạm trù chính trị, kinh tế, và tài chính hiện tại của thế giới không có gì là mới cả. Quả thực, kinh tế thế giới hiện nay rất giống
với các thị trường hợp nhất (integrated markets) và sự thịnh vượng lớn lao trong giai đoạn từ 1870 đến 1914. Đây là giai đoạn mà nhà kinh tế học nổi tiếng John Maynard Keynes đã mô tả như là “một giai đoạn khác thường trong quá trình phát triển kinh tế của loài người.” Đó cũng là một thời kỳ bị gián đoạn bởi những cuộc khủng hoảng liên tục - và cũng là thời kỳ của sự thịnh vượng. Trớ trêu thay, ngày hôm nay, chúng ta lại đưa ra đúng câu hỏi mà người ta từng đặt ra năm 1914: Điều gì có thể giúp duy trì hệ thống kinh tế toàn cầu mới và thành công này? Những hiểm họa nào trong việc hoạch định chính sách có thể đảo ngược quá trình tạo ra của cải này? Lạm phát? Giảm phát? Chính sách bảo hộ? Sự bùng nổ tài chính bất ngờ nào có thể tạo ra những làn sóng - những đường cong - mà thế giới vẫn chưa có sự chuẩn bị để xử lý ngoại trừ cách giải quyết thông qua các cuộc chiến tranh thương mại, kiểm soát chặt chẽ vốn đầu tư, và các chính sách “làm nghèo hàng xóm” khác - tất cả những chính sách tai hại này đều xuất phát từ những sai lầm của con người?
Các nước công nghiệp ngày nay muốn người Trung Quốc quản lý tiền tệ của họ tốt hơn, nhưng vẫn không biết rõ những quy định chính sách chính xác hoặc thậm chí cả năng lực lãnh đạo của các nhà lãnh đạo Trung Quốc có quan điểm đối lập với nhau. Cả thế giới đều ghét sự thâm hụt kép, cả về ngân sách lẫn tài khoản vãng lai của Mỹ, nhưng chưa có ai chỉ ra được một biện pháp an toàn nào để thoát khỏi chúng. Và dường như câu trả lời cho vấn đề này cũng sẽ không sớm được tìm ra. Một lượng lớn vượt trội tiền tiết kiệm trên thế giới nằm trong tay các chế độ toàn trị, dẫn đầu là Trung Quốc, và các nước sản xuất dầu, bao gồm cả Nga, nhưng điều này báo hiệu điều gì cho tương lai thì không ai biết. Cục Dự trữ Liên bang, trong quá trình cứu công ty đầu tư Bear Stearns hồi tháng ba năm 2008 dường như đã cung cấp một sự bảo lãnh đầu tư của chính phủ cho toàn bộ khu vực tài chính, không chỉ các ngân hàng. Theo chính sách mới này, ai cũng có thể dự đoán được rằng về dài hạn người ta sẽ đưa ra những quy định giám sát, bao gồm cả mức cho vay, đối với những tổ chức nói trên. Chúng ta sống trong một thế giới
được toàn cầu hóa, một thế giới mà chúng ta phải quan tâm nhiều hơn nữa tới những vấn đề của người khác, trong khi đó đồng thời phải giải quyết việc riêng của mình.
Trong cuốn sách của mình, Friedman cảnh báo các nhà hoạch định chính sách của Mỹ về nhu cầu tín dụng thuế, nâng mức lương giáo viên, và phương pháp tiếp cận để tạo lập, thu hút và giữ lại những nhân tố tạo giá trị mới - các kỹ sư. Tuy nhiên, việc duy trì luồng vốn tự do để dòng máu của toàn cầu hóa tiếp tục lưu thông có thể cũng đòi hỏi phải có một đội ngũ các “bác sỹ phẫu thuật não” dày dặn kinh nghiệm nhất của tài chính toàn cầu. Đó là bởi vì thế giới ngày nay thiếu một học thuyết tài chính, hoặc thậm chí còn thiếu nhiều những khả năng hiểu và nắm bắt thông tin để thiết lập trật tự trong một cuộc khủng hoảng tài chính. Thay vào đó, chúng ta phải mò mẫm tìm đường và quản lý nhiều hơn, giống như bác sĩ phẫu thuật đang cố gắng thực hiện một ca phẫu thuật não phức tạp với một bàn tay bị buộc chặt phía sau lưng còn tay kia đang đeo một chiếc găng tay không vừa. Đơn giản là các thị trường tài chính đã trở nên quá lớn và đôi khi quá đáng sợ đối với các cơ quan chính phủ của chúng ta để có thể duy trì sự ổn định một cách hiệu quả.
Giống với những gì chúng ta phải đối mặt ngày hôm nay một cách kỳ lạ, giai đoạn 1870-1914 đã gặp phải một thực tế mới cay đắng: những phát súng mở màn cho Chiến tranh Thế giới lần thứ I. Trong vòng một thập kỷ rưỡi, dòng vốn đầu tư và thương mại sụp đổ, tạo nền cho cuộc Đại Suy thoái. Ngày nay một trong những nhà lý luận về chính sách tiền tệ toàn cầu nổi tiếng, một trong những Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang, ông Frederic Mishkin đã đưa ra một dự đoán đáng lo ngại rằng: “Khả năng xảy ra một sự Đảo chiều lớn là rất thực tế.” Martin Wolf của Financial Times viết rằng “Sự sụp đổ ở đầu thế kỷ 20 đã xảy ra, một phần vì những áp lực để gia tăng quyền lực trong trật tự kinh tế và chính trị toàn cầu.” Ông cho thấy sự phát triển của Trung Quốc và Ấn Độ hiện nay sẽ tạo ra áp lực tương đối lớn: “Một vòng xoáy của thái độ thù địch lẫn nhau đang hủy hoại những cam kết về một trật tự kinh tế quốc tế
tự do”.
Tất nhiên, thế giới sẽ không đưa ra một áp lực mạnh mẽ nào nhằm chấm dứt hệ thống hiện tại như chúng ta biết. Các thị trường tài chính của thế giới công nghiệp đã lưu trữ quá nhiều quyền lực chính trị để ngăn điều đó xảy ra. Các cuộc đảo chiều khó có thể bắt nguồn từ một sự thay đổi chính sách được tính toán trước và rõ ràng. Thay vào đó, giống như cái chết từ một nghìn vết cắt, các cuộc đảo chiều này bắt nguồn từ một loạt những thay đổi nhỏ có vẻ như vô hại, nhưng lại bất ổn một cách đáng lo ngại. Những thay đổi này đã đạt đến một điểm bùng phát đáng kinh hãi của nỗi lo sợ và sự bất ổn của thị trường. Đó là những gì xảy ra trong suốt cuộc khủng hoảng dưới chuẩn và ngày hôm nay chúng ta đang có nguy cơ tiếp tục chìm sâu vào những tai họa tài chính, điều đang đe dọa liên tục gây ra vòng luẩn quẩn của những hủy diệt và những đau khổ.
Tôi thấy mình phải viết về hệ thống phức tạp này, cái hệ thống mà chúng ta gọi là nền kinh tế toàn cầu mới, vì tôi đã có một vị trí quan trọng và có thể đã đóng một số vai trò khiêm tốn trong quá trình tạo ra nó. Hơn ba mươi năm trong nghề, tôi đã theo dõi các lực lượng sinh ra từ quá trình toàn cầu hóa tài chính mới được tạo dựng và tôi đã thường xuyên tham khảo ý kiến của một số người có vai trò lớn trong lĩnh vực tài chính toàn cầu. Tôi cảm thấy bắt buộc phải chia sẻ những gì tôi đã học được với những người chưa có điều kiện được tiếp cận với chúng.
Qua nhiều năm, tôi từng làm việc với tư cách chánh văn phòng cho một thành viên cấp cao của Quốc hội Hoa Kỳ, rồi sau đó là cố vấn về các vấn đề kinh tế cho các ứng cử viên tổng thống của cả Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa. Trong hai mươi năm gần đây, tôi đã làm việc với một số nhà quản lý tiền tệ thành công nhất thế giới, bao gồm cả George Soros, Michael Steinhardt, Louis Bacon, Stan Druckenmiller, và Julian Robertson thông qua Công ty Tư vấn Kinh tế Vĩ mô Toàn cầu Johnson Smick International (trước
đây gọi là Smick Medley and Associates). Chúng tôi làm việc như các nhà báo chuyên về lĩnh vực kinh tế - giống như một dịch vụ truyền hình cáp trả tiền so với các loại truyền hình miễn phí.
Ngoài ra, tôi thành lập và tiếp tục biên tập tờ The International Economy, một tạp chí hướng tới phục vụ cộng đồng các ngân hàng trung ương và bộ Tài chính trên toàn cầu. Tôi cũng là người thành lập và tổ chức các cuộc hội nghị thượng đỉnh Quốc hội Hoa Kỳ về vấn đề đồng đô-la và Thương mại, một loạt các hội nghị quan trọng trong cuối những năm 1980 và những năm 1990 liên quan đến các bộ trưởng tài chính của thế giới, các thống đốc ngân hàng trung ương, và các nhà lãnh đạo quốc hội Hoa Kỳ.
Trong khoảng hai thập kỷ, hàng ngày tôi đều trao đổi với hầu hết các nhà kinh tế cấp cao và các thương nhân nổi bật nhất trên thị trường, những người đang đứng ở tuyến đầu trên mặt trận toàn cầu hóa tài chính. Tất cả họ đều đang vật lộn với một vấn đề chung: làm thế nào để sống sót và phát đạt trong hệ thống mới đầy rắc rối này.
Vào tháng 1 năm 2007, hơn sáu tháng trước khi cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn bùng phát, tôi đã đưa ra nhận xét của mình với các vị khách trong một bữa tiệc tối ở Washington rằng: “Một người bình thường ngày nay sẽ bị sốc khi biết hệ thống tài chính thế giới, mặc dù đang rất mạnh, phải đối mặt với một mức độ nguy hiểm tiềm tàng như thế nào để tự cứu sống mình. Nó dễ có nguy cơ dẫn đến một hiệu ứng tâm lý bầy đàn, hiệu ứng này có thể tàn phá các nền kinh tế của các nước công nghiệp”.
Trên đường lái xe về nhà từ bữa tiệc tối, vợ tôi, Vickie đã nhận xét “Anh nên viết một cuốn sách về chủ đề này. Nếu các thống đốc ngân hàng trung ương và cả Phố Wall đã biết những gì ẩn sau tấm rèm bí mật thì cớ sao lại không nên để tất cả những người khác cùng biết? Tại sao anh không nói tất cả những gì mà những người làm ăn lớn đã biết về mức độ ảnh hưởng của những bất trắc này với tất cả mọi người?”
Do đó, tôi thực sự cảm ơn người vợ thông minh của tôi vì cô ấy đã nhận thấy sự cần thiết của một cuốn sách như thế này, và đã mang đến một tia lửa cần thiết làm động lực thúc đẩy tôi bắt tay vào dự án này.
1. Ngày tận thế
Không có thứ gì khiến chúng ta chú ý và làm náo động cả một mùa hè yên ả hơn là tin tức về khả năng tan vỡ của nền kinh tế thế giới. Đó là buổi sáng ngày 10/8/2007 và tôi đang đạp xe thể dục tại Câu lạc bộ Westmoor ở Nantucket, một hòn đảo du lịch ngoài khơi của Massachusetts. Trong đầu tôi văng vẳng âm thanh ca khúc “Slip Slidin’ Away” mà Paul Simon đang hát. Trên tường, một vô tuyến màn hình phẳng không bật âm thanh chiếu một cuộc nói chuyện về những người mẫu gò má cao của hãng đồ lót Victoria’s Secret đang cười khúc khích một cách lạ lùng khi họ “mở cửa” Thị trường chứng khoán New York. Một ngày trước đó Chỉ số công nghiệp Down Jones đã giảm mạnh bất thường mất 387 điểm, tương đương 3%. Đêm hôm trước, các thị trường ở châu Á đã bị tụt dốc và đến sáng thì các thị trường ở châu Âu bị nhấn chìm với quy mô còn lớn hơn. Những nhà bình luận náo nhiệt của kênh truyền hình cáp CNBC đã bị lâm vào tình trạng gần như đột quỵ.
Các quốc gia công nghiệp hóa đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng toàn diện về tính thanh khoản, cuộc Đại Khủng hoảng Tín dụng năm 2007- 2008. Chỉ trong chốc lát, các ngân hàng và các định chế tài chính ngừng các hoạt động cho vay. Trên khắp thế giới, các giao dịch tài chính gần như ngừng trệ hoàn toàn. Ở Mỹ, những khách hàng mua nhà tiềm năng không thể chốt được các giao dịch của mình. Hệ thống tài chính toàn cầu đang bị trượt dốc thảm hại. Tình hình tài chính lúc này giống như kiểu máu trong cơ thể ngừng lưu thông, và người bệnh mới vài ngày trước dường như còn rất khỏe mạnh, nay đã bị chuyển sang trạng thái hôn mê.
Các cuộc khủng hoảng của thị trường tài chính vốn không còn mới lạ với tôi. Là một nhà tư vấn kinh tế vĩ mô cho các quỹ đầu cơ phòng vệ và các bộ phận tự doanh của một vài tổ chức tài chính lớn nhất thế giới, tôi còn nhớ rất rõ những cuộc điện thoại thâu đêm đầy căng thẳng trong vụ sụp đổ thị
trường chứng khoán năm 1987.
Tôi nhớ rằng ngay cả tỷ phú tài chính đầy tự tin George Soros cũng không giấu nổi giọng run run khi cả hai chúng tôi cùng nhận ra rằng điểm đáy có thể đang rơi ra khỏi hệ thống tài chính thế giới. Một thập kỷ sau, mùa thu năm 1998, chủ tịch chi nhánh Cục Dự trữ Liên Bang tại New York, ông Bill McDonough đã lo lắng giải thích cho một số ít cử tọa (trong đó có tôi) rằng sự sụp đổ và sau đó là sự giải cứu hãng đầu tư Quản lý Vốn dài hạn (Long Term Capital Management - LTCM[2]) đã đưa nền kinh tế thế giới đến gần bờ vực hơn chúng ta tưởng.
Khi tôi ngồi trên chiếc xe tập, đọc lướt qua một vài tài liệu liên quan đến công việc được gửi đến từ văn phòng của tôi ở Washington D.C, tôi tập trung lắng nghe Paul Simon hát “You know the nearer your destination, the more you’re slip slidn’ away” (Anh biết rằng anh càng gần tới đích thì anh càng trượt đi xa). Một trong số những tài liệu đó đã đưa ra một trích dẫn khiến người ta rùng mình. Bộ trưởng Tài chính Mỹ Hank Paulson gần đây đã tuyên bố: “Đây rõ ràng là một nền kinh tế toàn cầu mạnh nhất mà tôi đã được chứng kiến trong suốt cuộc đời làm kinh doanh của mình.” Tuy nhiên, ngay vào buổi sáng hôm đó, người phụ trách chuyên mục của Thời báo New York (New York Times), ông Paul Krugman đã nói rằng cuộc khủng hoảng tín dụng hiện tại có thể gây ra một cơn ác mộng “phản ứng vỡ nợ dây chuyền”. Ông cho biết thậm chí còn tồi tệ hơn nữa là các nhà hoạch định chính sách cũng không còn khả năng chống đỡ.
Tôi cho rằng những điều này không nghĩa lý gì cả. Các thị trường đã trở nên quá kích động trước những thua lỗ trong thị trường dưới chuẩn, một thị trường thế chấp tương đối nhỏ và các công cụ tài chính liên quan đến thế chấp gắn chặt với những người chưa từng vay mượn hoặc có quá khứ tín dụng rất xấu. Nhưng tại sao thị trường chứng khoán gần như toàn cầu tan vỡ và cả sự sụp đổ của hệ thống tín dụng đơn giản chỉ do một vài vụ tịch thu tài
sản thế chấp? Nói gì thì nói, những khoản nợ xấu tối đa cũng chỉ lên tới 200 tỷ đô la trong một thị trường toàn cầu trị giá hàng trăm nghìn tỷ mà thôi.
Thực tế, nền kinh tế thế giới đang trong quá trình giảm các công cụ đòn bẩy tài chính - dần dần giảm thiểu nguy cơ trong khi bong bóng nhà đất xẹp xuống - nhưng các thị trường đã biết được điều đó trước hàng tháng. Tình hình đang rất phức tạp. Tại sao cổ phiếu của các công ty lớn, có uy tín nhất thế giới, những công ty có thể dễ dàng tự tài trợ cho việc mở rộng mà không cần đến vốn vay ngân hàng, lại bị thiệt hại nặng nề như vậy ngay từ ban đầu do các vụ tịch thu tài sản để thế nợ dưới chuẩn? Tất cả những điều này chính là một sự phát triển mà lẽ ra chỉ nên đại diện cho một hoạt động thứ yếu trong toàn bộ hệ thống.
Không nghi ngờ gì nữa, đây sẽ là một ngày thú vị. Thị trường đã bị một phen kinh hãi vào đầu tuần khi người phát ngôn của quỹ thuộc ngân hàng Pháp BNP Paribas tuyên bố một cách tự tin rằng quỹ này không có rủi do dưới chuẩn thì ngay sau đó đã bị buộc phải thừa nhận có một số lượng không xác định những khoản thế chấp không thể định giá được. Việc thừa nhận đầy bí ẩn này đã giáng một đòn quá mạnh vào cả thị trường chứng khoán châu Âu và thị trường chứng khoán Mỹ. Điều này đã làm dấy lên một câu hỏi: Tại sao không chỉ riêng chứng khoán của BNP bị ảnh hưởng - tại sao những thua lỗ lớn lại xảy ra trên khắp các thị trường chứng khoán của các nước công nghiệp?
Trong vòng vài ngày, khủng hoảng đã lan sang thị trường thương phiếu, một thị trường từ lâu đã được coi là một trong những cơ sở đầu tư an toàn nhất đối với các quỹ đầu tư vào thị trường tiền tệ. Điều đó có nghĩa rằng tầng lớp trung lưu Mỹ đang gặp khó khăn. Đột nhiên, một thị trường được coi một cơ sở đầu tư an toàn và linh hoạt nhất (mà không liên quan đến chính phủ) trên thế giới lại trở nên đáng nghi ngờ. Chính nền tảng của hệ thống tài chính đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng niềm tin. Huyết mạch của hệ thống
toàn cầu bỗng chốc lâm vào tình trạng rủi ro khi các nhà đầu tư chỉ rót vốn vào các khoản đầu tư ngắn hạn mà họ cho rằng đáng tin cậy - trái phiếu kho bạc kỳ hạn 3 tháng của chính phủ Mỹ. Tại sao điều đó là nguy hiểm? Nó có nghĩa là tính thanh khoản của thị trường tài chính đang mất đi. Khi lâm vào tâm lý hoảng loạn như trong cuộc Đại Suy thoái, các nhà đầu tư và những người gửi tiết kiệm đã thu tiền về. Các tập đoàn lớn đã đầu tư khoản dự trữ tiền mặt của họ vào thị trường thương phiếu.
Trong suốt ngày thứ sáu hồi tháng Tám đó, tình trạng hoảng loạn vẫn tiếp tục diễn ra. Cục Dự trữ Liên bang phản ứng lại bằng cách rót 19 tỷ đô la vào hệ thống ngân hàng nhằm giúp hệ thống này sống sót và cho phép hạ tỉ lệ lãi suất ngắn hạn xuống. Động thái này diễn ra ngay sau khi Cục Dự trữ Liên bang trích ra 24 tỷ đô la vào ngày hôm trước. Một ngân hàng trung ương châu Âu lo sợ đã bỏ ra 240 tỷ euro, một khoản tiền tương đối lớn trong giai đoạn đầu tiên của cuộc khủng hoảng vì tin rằng các ngân hàng châu Âu đang trong tình trạng rủi ro nghiêm trọng. Tuy nhiên, trước ngày Thứ ba của tuần sau đó, mặc dù đã có khoản tiền mặt được giải ngân khẩn cấp này chỉ số Dow vẫn tiếp tục tụt dốc - ban đầu là 207 điểm, rồi 167 điểm vào ngày hôm sau, và sau đó gần một tuần giảm hẳn 280 điểm. Thứ sáu ngày 17 tháng 8, thị trường chứng khoán đang bị hoảng loạn của Nhật Bản giảm 874 điểm, tương đương hơn 5%. Hầu hết các thị trường thế giới dường như đều lâm vào tình trạng rơi tự do. Thị trường trái phiếu cũng ở trong tình trạng rối loạn giống như thị trường tiền tệ: người ta không tin tưởng vào khu vực tư nhân, chỉ rót thêm tiền vào trái phiếu kho bạc.
Không ai tin tưởng ai, do đó, bỗng nhiên không ai cho ai vay. Các thị trường tín dụng thế giới bị mắc kẹt vì không ai chắc chắn về các khoản nợ phát sinh của mình. Điều đó thật nguy hiểm vì nếu thị trường tín dụng tư nhân ngưng hoạt động thì toàn bộ nền kinh tế sẽ lâm vào tình trạng nguy hiểm - mọi người bị mất công ăn việc làm, tiền lương hưu của họ bị cắt, giá trị ròng của các gia đình trung lưu ngay lập tức sụp đổ vì giá nhà ở của họ bị giảm mạnh
xuống thấp hơn giá phải trả. Mức lãi suất của các khoản vay cho tiêu dùng - xe ô tô, thẻ tín dụng, và mọi thứ khác - tăng vọt, đồng nghĩa với việc không sớm thì muộn nền kinh tế sẽ phải gánh chịu hậu quả nặng nề.
Khi tôi bắt đầu nhìn lại tình trạng này, tôi nhận thấy rằng, xét về bản chất, những điều thật sự đã xảy ra là các tổ chức tài chính của Mỹ trước đó đã đặt phần lớn các khoản cho vay xấu dưới chuẩn - “chất thải độc hại” của họ - vào các phương tiện cất giữ riêng biệt, chia tổng số tiền thành nhiều phần nhỏ hơn, và bán từng phần nhỏ này cho các tổ chức tài chính trên khắp châu Âu và châu Á. Các chất thải độc hại này nhanh chóng bị phát tán ra toàn bộ hệ thống tài chính trong các nước công nghiệp, nhưng không ai biết ở đâu. Giờ đây đã có một lý do để phần còn lại của thế giới ghét nước Mỹ.
Điều quan trọng là hãy nhớ rằng vấn đề ở đây không phải là quy mô của sự hỗn độn do cho vay dưới chuẩn; các thị trường tài chính có thể chỉ ra điều đó. Vấn đề là các chất thải độc hại đã được đặt ở đâu. Ai mắc bệnh ung thư và ai là người khỏe mạnh? Cuối cùng, vấn đề là thông tin, hoặc tình trạng thiếu thông tin. Và một thị trường tài chính toàn cầu đầy nghi ngờ sẽ nhanh chóng nhìn xa hơn vấn đề thế chấp dưới chuẩn và bắt đầu nghi ngờ độ tin cậy của một trong những huyết mạch chính của hệ thống tín dụng toàn cầu, thị trường chứng khoán bảo đảm bằng tài sản (asset-backed securities market).
Ngày Thứ sáu tiếp theo, Cục Dự trữ Liên bang đã tiếp tục hành động, cắt giảm lãi suất chiết khấu đồng thời tiếp tục đưa ra những khoản vay lớn với lãi suất thấp cho hệ thống ngân hàng. Mục tiêu là đặt một vành đai an toàn khẩn cấp xung quanh khu vực ngân hàng Mỹ, vì họ tin rằng nếu các ngân hàng sụp đổ thì nền kinh tế Mỹ cũng sụp đổ theo. Các doanh nghiệp nhỏ sẽ là đối tượng đầu tiên cảm nhận được sự tác động, nhưng toàn bộ nền kinh tế và các cơ sở việc làm của Mỹ sẽ sớm bị ảnh hưởng thực sự. Cục Dự trữ Liên bang, vẫn còn chưa xác định chắc chắn những tổ chức tài chính nào nắm giữ
chất thải độc hại nhất, cần phải ổn định tình hình để có thêm thời gian giải quyết vấn đề.
Đến cuối tuần đó, tôi tiếp tục suy nghĩ sâu hơn về các chuyển biến bất ngờ của các sự kiện. Một biến động tương đối nhỏ đã phát triển rất nhanh thành một cái gì đó lớn hơn, khiến cho giá trị của thị trường chứng khoán Hoa Kỳ giảm gần 10% (trước khi dần dần phục hồi sau khi Cục Dự trữ Liên bang cắt giảm tỉ lệ lãi suất). Điều đó gây ra một thiệt hại bất ngờ, ngay tức khắc, trị giá gần 2 nghìn tỉ đô la tương đương với gần một phần sáu giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) Hoa Kỳ.
Để góp thêm tiếng nói về tình huống kỳ lạ này, giữa cuộc khủng hoảng, Ben Stein, một diễn viên hài (cũng là một nhà kinh tế học), đã viết một bài báo được dư luận chú ý trên Thời báo New York (New York Times) lập luận rằng đối với hầu hết các nơi trên thế giới, rủi ro dưới chuẩn chỉ là rất nhỏ, phản ứng toàn cầu không có ý nghĩa gì. Diễn viên kiêm nhà kinh tế học đặt câu hỏi: “Thực chất những rủi ro ở Thái Lan, Brazil hay Indonesia liên quan đến những vấn đề thuộc lĩnh vực nhà đất ở Las Vegas như thế nào?... Tại sao một công ty cho vay thế chấp ở Long Island có thể có liên quan đến những vấn đề đó?”.
Một phần của câu trả lời là chúng ta sống trong một kỷ nguyên toàn cầu hóa, nơi các thị trường tài chính đã được quốc tế hóa thông qua một hệ thống các cơ cấu tài chính phức tạp gọi là chứng khoán hóa (securitization), một chủ đề mà tôi sẽ thảo luận trong chương kế tiếp. Như Eric Jacobson ở công ty nghiên cứu Morningstar, Chicago đã nói: “Hiện nay có quá nhiều mối liên hệ giữa các phần khác nhau của các thị trường; những bộ phận vốn dĩ hoàn toàn tách biệt nhau”. Tuy nhiên, toàn cầu hóa đã không thể giải thích được tại sao dường như chỉ qua một đêm mà các thị trường tài chính đã có vẻ như bị tách ra khỏi thực tế, và sự lộn xộn theo sau đó có ảnh hưởng gì đối với tương lai của chúng ta.
Trong những tuần sau khi cuộc khủng hoảng bùng phát, tôi bắt đầu suy nghĩ về những gì đã xảy ra. Bằng cách nào, các thị trường tài chính đang thể hiện một nền kinh tế mạnh mẽ trong một thời gian rất ngắn ngủi (điều tốt nhất mà ông bộ trưởng tài chính Hoa Kỳ đã trải qua trong suốt cuộc đời mình) lại chuyển ngay sang giai đoạn khủng hoảng tiếp theo? Làm thế nào sự bình lặng hiển hiện rõ ràng lại có thể chuyển thành một mối đe dọa thực sự cho toàn bộ hệ thống kinh tế, gần như chỉ qua một đêm?
Hình ảnh ẩn dụ tốt nhất tôi có thể nêu ra ở đây là các thị trường tài chính toàn cầu có một chút giống như một ông chú giàu có, hào phóng, nhưng đôi khi lại quá hoang tưởng. Thông thường, ông chú nhân từ, hào phóng này chia tiền một cách điềm tĩnh và khôn ngoan cho cả gia đình, cẩn thận tìm hiểu các rủi ro và các khoản lãi đầu tư tiềm năng liên quan đến những điều diễn ra trong tương laicủa từng thành viên trong gia đình. Nhưng thỉnh thoảng, cảm giác đa nghi bất ngờ xảy đến với ông. Đột nhiên trở nên thận trọng vớiquan điểm phóng khoáng của mình, ông chú rơi vào tâm trạng hoang mang liền cắt các khoản tiền. Điều gì dẫn đến sự đa nghi đột ngột như vậy? Lý do duy nhất ở đây là thiếu các thông tin rõ ràng, minh bạch và đáng tin cậy về những gì đang xảy ra. Ông chú hào phóng đã nghĩ rằng người thân không nói với mình tất cả những gì cần biết; họ đang giấu giếm ông.
Trong giai đoạn Đại khủng hoảng tín dụng năm 2007- 2008, ông chú nhân từ và hào phóng đã sợ hãi, không phải vì mất khả năng trả nợ thế chấp dưới chuẩn hay vì bong bóng nhà đất ở Hoa Kỳ đang lan rộng ra ngoài biên giới của nó. Các thị trường tài chính thế giới đã nhận thức đầy đủ về những diễn biến này. Sự hoảng sợ xuất hiện chính vì đột nhiên không ai có thể nói được tổ chức tài chính nào nắm giữ các chất thải độc hại dưới chuẩn, và ở những mức giá nào. Tình hình đã trở nên nghiêm trọng hơn bởi sự phức tạp đột ngột của hệ thống tài chính như là một kết quả của chứng khoán hóa. Điều này dẫn đến sự thiếu minh bạch. Khi ông chú nhân từ trở nên đa nghi vì sự thiếu minh bạch thì những điều xấu xảy ra. Sự hoang mang nảy sinh. Trong
trường hợp này, ông chú đột nhiên bắt đầu nghi ngờ giá trị của các công cụ đầu tư nợ (debt investment instrument) mới mẻ và phức tạp của thị trường tài chính. Đối với những chứng khoán “trên giấy” (paper securities) này, biện pháp duy nhất để tính độ rủi ro và giá trị lại bắt nguồn từ các cơ quan đánh giá và xếp hạng tín dụng. Những cơ quan này đánh giá độ rủi ro chỉ đơn thuần dựa trên các mô hình toán học phức tạp.
Trong một số trường hợp, sự thiếu minh bạch có thể dẫn đến sự nghi ngờ, điều này kích thích bong bóng tài chính vì thiếu thông tin thực tế. Tuy nhiên, trong trường hợp này, tình trạng thiếu thông tin đáng tin cậy đã khiến cho hoạt động cho vay trên toàn cầu trở nên nguy hiểm khi ngừng lại. Nhưng có một điểm bao quát hơn cho vấn đề này. Sự gia tăng mạnh mẽ của các mối hoảng loạn tài chính là kết quả trực tiếp của toàn cầu hóa kinh tế thế giới trong 1/4 thế kỷ vừa qua. Toàn cầu hóa đã đem đến nhiều của cải hơn cho toàn thế giới. Điều này đã tạo ra một lượng vốn lớn mang tính chất không ổn định (volatile) hiện đang lưu động khắp nơi trên thế giới để tìm kiếm các cơ hội đầu tư. Những nguồn vốn này đã trở thành một thách thức lớn cho các nhà hoạch định chính sách của chúng ta.
Nhiều tháng trước cuộc đại khủng hoảng, tôi đã cố gắng tập trung suy nghĩ cho cuốn sách này. Chủ đề sẽ là một điều chưa hoàn thiện mang tên toàn cầu hóa. Luận đề của tôi là: Sự hội nhập của các thị trường tài chính thế giới trong 25 năm cuối của thế kỷ trước đã dẫn đến thời kỳ hoàng kim của việc tạo nên của cải và sự giảm thiểu đói nghèo, những điều trước đây chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử nhân loại. Đó là tin tốt lành. Với sự gia nhập của Trung Quốc và Ấn Độ vào nguồn vốn toàn cầu, các nước công nghiệp trong suốt thời kỳ đặc biệt đáng chú ý này đã đạt những thành quả gần như là thần kỳ. Trong hơn hai thập kỷ, thị trường tự do toàn cầu đã chứng kiến sự tăng trưởng gấp đôi chưa có trong tiền lệ của lực lượng lao động - từ 2,7 tỷ đến 6 tỷ người - mà không xảy ra các cuộc cách mạng, không có các cuộc bạo loạn nghiêm trọng trên các đường phố, thậm chí không có một mối đe dọa nào về
nguy cơ đóng cửa hàng loạt trong hệ thống thương mại.
Sự thành công phi thường này bắt nguồn từ sự thay đổi mô hình toàn cầu, được đẩy mạnh nhờ sự sụp đổ của Bức tường Berlin, điều dẫn tới một niềm tin rộng khắp rằng các thành quả về kinh tế không bắt nguồn từ các chính phủ hay thậm chí từ những khu vực doanh nghiệp lớn mà là từ những đổi mới liên tục của giới doanh nghiệp sẵn sàng đương đầu với rủi ro. Chính giới doanh nghiệp này đã cho phép các nền kinh tế tiếp tục phát triển. Quan trọng nhất, sự đổi mới và phát triển kinh tế này đã được thúc đẩy bởi một hệ thống tài chính toàn cầu được hiện đại hóa trong việc phân bổ vốn, đánh giá rủi ro, và đầu tư ra nước ngoài trong một môi trường thương mại tự do.
Bất chấp các cuộc khủng hoảng tài chính, kết quả của sự đổi mới này là một làn sóng của sự thịnh vượng chưa từng có tiền lệ - 40 triệu việc làm mới chỉ riêng ở Hoa Kỳ, dưới thời cả tổng thống Cộng hòa và Dân chủ, đã nhiều hơn số lượng công việc được tạo ra bởi tất cả các nước công nghiệp hóa khác kết hợp lại.
Trong 25 năm này, chỉ số Công nghiệp Dow Jones đã tăng vọt từ 800 lên tới hơn 12.000 điểm. Để tương xứng với thành công trên thị trường chứng khoán xét về tỷ lệ phần trăm trong hai mươi lăm năm tiếp theo, chỉ số Dow sẽ phải vượt quá ngưỡng 170.000 điểm. Theo Cục Dự trữ Liên bang, năm 1982, thời kỳ đầu của quá trình hội nhập thị trường tài chính toàn cầu, giá trị ròng của các hộ gia đình Mỹ bằng 11 nghìn tỷ đô la; ngày nay con số đó đã vượt quá 56 nghìn tỷ đô la. Ngay cả khi được điều chỉnh theo tình hình lạm phát, con số này vẫn minh chứng hùng hồn cho một sức mạnh đáng ngạc nhiên của nỗ lực làm giàu.
Từ 1980 đến nay, giá trị của tất cả các tài sản tài chính toàn cầu đã nhảy vọt từ 12 nghìn tỷ đô la lên tới 140 nghìn tỷ đô la, tăng 1.166%. Tài sản tài chính toàn cầu đã tăng vọt từ khoảng 100% GDP toàn thế giới năm 1980 tới 325% vào thời điểm hiện nay.
Tin xấu là nền kinh tế toàn cầu với kết quả đầy ngoạn mục hiện nay vừa không ổn định vừa đáng lo ngại. Vì sự di chuyển của việc làm và đầu tư trên khắp thế giới, người dân bị mất thu nhập và lương hưu. Và khi những thay đổi lớn này xảy ra, các lợi ích kinh tế của hệ thống thường được phân phối không đều. Như Nina Easton, phóng viên của tạp chí Fortune đã viết “Không có nhiều đảm bảo trong một nền kinh tế toàn cầu tốc độ cao, nơi mà người lao động tiến xa hơn bằng việc theo đuổi những cơ hội (không ngoan ngoãn tuân thủ những quy định chính thức), bằng cách liên tục trau dồi nghề nghiệp của họ (chứ không phải dựa vào thâm niên trong nghề), và bằng cách tự đầu tư các khoản tiền tiết kiệm của mình (chứ không trông mong vào lương hưu của công ty)”.
Mặc dù tạo ra khối lượng của cải rất lớn, kỉ nguyên mới của nguồn vốn tự do lưu thông toàn cầu và sự dư thừa này cũng đi kèm với một kỷ nguyên khủng hoảng tài chính. Charles Kindleberger, trong cuốn sách Điên cuồng, hoảng loạn và sụp đổ (Manias, Panics, và Crashes), đã liệt kê đầy đủ lịch sử của các cuộc khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên, theo Ngân hàng Thế giới, 25 năm cuối cùng của thời kỳ thịnh vượng cũng là thời kỳ đỉnh cao của các cuộc khủng hoảng ngân hàng có hệ thống, cao hơn nhiều so với 25 năm chuẩn bị toàn cầu hóa. Tuy nhiên, thật khôi hài, cùng thời điểm đó thế giới lại được hưởng lợi nhờ tỉ lệ thất nghiệp và lạm phát đã bớt bất ổn trong những thập kỷ gần đây.
Làm thế nào để đối phó với các yếu tố kinh tế đối lập này là vấn đề then chốt nhất mà hầu hết các nhà hoạch định chính sách trên toàn thế giới hiện nay đang phải đối mặt. Nếu họ phản ứng quá mạnh mẽ đối với sự bất ổn của tính thanh khoản và tình hình tín dụng hiện nay, họ có nguy cơ gặp phải sự đảo chiều kinh tế và tài chính, điều sẽ ảnh hưởng đến tất cả chúng ta. Thật trớ trêu, những ý định tốt nhất lại có thể dẫn đến lãi suất cao hơn, tình trạng thất nghiệp lớn hơn, thị trường cổ phiếu kém phát triển hơn rất nhiều, hoạt động từ thiện giảm đi, và tỉ lệ đói nghèo trên toàn cầu gia tăng đáng kể. Tuy nhiên,
điều này sẽ không xảy ra nếu các nhà hoạch định chính sách nhận ra tính bất ổn của thị trường vốn và áp dụng những biện pháp chiến lược mới, có mục tiêu rõ ràng vào thế giới mới đầy thử thách này.
Không mắc một lỗi nào, bất chấp sự bất ổn về tài chính, 25 năm cuối của các thị trường tài chính toàn cầu tự do và thương mại tự do đã sản sinh ra những chú ngỗng đẻ trứng vàng, xét về mặt tự do chính trị, làm giàu, và xoá đói giảm nghèo. Ví dụ, năm 1975, chỉ có 25% trong số 147 quốc gia trên thế giới được coi là quốc gia dân chủ; hiện nay, sau một phần tư thế kỷ của thị trường toàn cầu hóa, con số đó là 58%. Như ông Kofi Annan, cựu tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, đã nói: “Những người thất bại chính trong thế giới rất bất công ngày nay không phải là những người đang được tiếp xúc quá nhiều với toàn cầu hóa. Họ là những người đã bị gạt ra một bên.”
Gary Hufbauer thuộc Viện Kinh tế Quốc tế Peterson cho rằng Hoa Kỳ “mỗi năm giàu có thêm hơn một nghìn tỷ đô la nhờ thương mại toàn cầu hóa.” Số tiền đó chiếm gần 10% GDP, tương đương với một con số ấn tượng khó tin 10.000 đô la cho mỗi hộ gia đình. Trong cuốn sách Thị trường Tư bản thế giới: Thách thức cho nhóm G-10 (World Capital Markets: Challenge to the G-10), Hufbauer và một nhà kinh tế học người Canada, bà Wendy Dobson đã khẳng định rằng lợi nhuận kinh tế từ các dòng vốn tự do hiện nay bằng hoặc vượt quá lợi nhuận kinh tế từ thương mại tự do.
Robert Bartley, cựu biên tập viên thuộc chuyên mục xã luận của tờ Wall Street Journal, đã viết một cuốn sách về nền kinh tế thời Reagan có tên là Bảy năm Thịnh vượng (The Seven Fat Years) (từ tháng 11/1982 đến tháng 7/1990). Nếu ai đó viết một cuốn tiếp theo, nó nên được gọi là Hai mươi lăm năm Thịnh vượng (The Twenty-five Fat Years), bao gồm cả thời kỳ hòa bình và thịnh vượng tuyệt vời dưới thời Tổng thống Bill Clinton, nhà vô địch của hệ thống tài chính toàn cầu mới.
Một phần tư thế kỷ này cũng tượng trưng cho thời kỳ xóa đói, giảm nghèo
thành công nhất trong lịch sử nhân loại. Trong năm 2006, tôi đã đặt viết một bài báo cho cuốn tạp chí The International Economy của tôi nhằm cố gắng đánh giá hiệu quả của thị trường tài chính toàn cầu hóa trong việc xóa đói, giảm nghèo từ năm 1980. Tôi nghĩ rằng tác giả sẽ viết bài báo này không nên đến từ bất cứ cơ quan chính quyền nào và cũng không nên đến từ các cơ quan có mối quan hệ với Ngân hàng Thế giới, và cũng không phải đến từ bất kỳ tổ chức xóa đói giảm nghèo tư nhân nào vì nhiều người trong các cơ quan đó hầu như không tin tưởng vào thị trường. Tác giả cũng không nên là người của hội truyền bá tư tưởng cánh hữu. Adam Posen thuộc Viện Peterson, một biên tập viêntạp chí của chúng tôi, đã giới thiệu Surjit Bhalla, một cựu nhân viên của Ngân hàng Thế giới và Goldman Sachs, hiện nay là một nhà đầu tư tư nhân. Nổi tiếng với các bài nghiên cứu và tư duy độc lập cao, Bhalla đã nhận lời viết bài báo này.
Ông kết luận rằng chúng ta vừa mới chứng kiến một điều gì đó có tính lịch sử. Hai mươi lăm năm vừa qua đại diện cho thời hoàng kim của sự giảm thiểu đói nghèo, tất cả đều xảy ra trong quá trình chuyển đổi sang thị trường tài chính toàn cầu hóa. Dựa theo tiêu chuẩn đói nghèo được định nghĩa theo phương pháp truyền thống bằng số đôla-trên-ngày (tiêu chuẩn được sử dụng bởi các cơ quan quốc tế) thì tính từ năm 1980 đã có khoảng một tỷ người thoát khỏi đói nghèo. Nói một cách khác, trong khoảng thời gian 1950-1980, khi Ngân hàng Thế giới và các tổ chức quốc tế dồi dào tiền bạc trong thời kỳ hoàng kim của họ thì có một thực tế là tình trạng đói nghèo trên toàn cầu lại tăng lên một cách đáng kể. Và đây là giai đoạn mà chính phủ đã chi tiêu rất nhiều, bao gồm cả các khoản cho vay và tài trợ cho các nước đang phát triển. Những nỗ lực đầy thiện chí này đã không mang lại hiệu quả do thiếu các tổ chức trung thực và hiệu quả ở các nước nhận hỗ trợ nên kết quả của sự chuyển giao giữa chính phủ với chính phủ luôn gây ra thất vọng.
Thời kỳ vàng son của giảm nghèo diễn ra trong thị trường toàn cầu hóa cuối những năm 1980, mức nghèo đói giảm một cách lạ lùng là 20%. Không lấy
làm kinh ngạc khi những thay đổi lớn xuất hiện ở Ấn Độ và Trung Quốc sau khi cả hai nước áp dụng Doanh nghiệp tư nhân và giảm thuế xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, ngay cả Mỹ Latin và châu Phi, những nước chậm chân, cũng đã bắt đầu thấy tình trạng đói nghèo giảm bớt vào năm 2000.
Chắc chắn, trên thế giới vẫn còn nhiều đau khổ và cam chịu. Cần phải có những nỗ lực lớn hơn của cả cá nhân và cộng đồng để đương đầu với những khó khăn, đặc biệt là đại dịch AIDS lan tràn kìm chế sự phát triển của châu Phi. Một đô la mỗi ngày cũng có thể quá thấp để đo mức sống tối thiểu, mặc dù đây vẫn là tiêu chuẩn chung được áp dụng, dựa trên giá trị gốc của đồng đô la năm 1994. Nhưng rốt cuộc, chỉ cần nhìn vào kết quả cuối cùng thì thấy dường như Doanh nghiệp tư nhân trong một hệ thống tài chính hội nhập toàn cầu là mô hình duy nhất có khả năng xóa đói nghèo một cách toàn diện và triệt để, chứng kiến hàng tỷ người thoát khỏi đói nghèo trong hai mươi lăm năm gần đây.
Xin nhắc lại, những điều này không có nghĩa là những nỗ lực nhằm giảm bớt các vấn đề y tế và sức khỏe không phải là điều cần thiết. Những người hảo tâm nổi tiếng như Bill và Melinda Gates xứng đáng nhận được sự tuyên dương lớn cho những nỗ lực của họ. Ngôi sao nhạc rock Bono đã có một cử chỉ quan trọng và đáng ca ngợi bằng cách theo sát các hoạt động của Ngân hàng Thế giới và các công ty dược phẩm quốc tế để đưa ra đề nghị hỗ trợ. Nhưng những nỗ lực này chỉ là thứ yếu nếu so với sức mạnh vốn có của kinh tế thị trường. Chính Bono cũng nhận ra điểm này. Tháng 3/2007, ông nói với Thời báo New York rằng “Một trong những điều mà tôi đã học ở châu Phi là vai trò vô cùng quan trọng của thương mại trong việc đưa con người thoát khỏi tình trạng cực kỳ nghèo đói”.
Mặc dù không hoàn hảo, đôi khi đáng thất vọng, và thường không thể dự đoán được nhưng toàn cầu hóa là một cơ chế tạo ra của cải rất ấn tượng. Tuy nhiên, sau hai mươi lăm năm phát triển kinh tế, mạnh mẽ và hiệu quả, chúng
ta vẫn không biết tất cả các tác động (cả tốt và xấu) của toàn cầu hóa. Chúng ta biết rằng mặc dù hệ thống đã trải qua một vài thập kỷ toàn cầu hóa nhanh chóng, các chính trị gia và các nhà hoạch định chính sách của chính phủ phần lớn đều mới chỉ hiểu rất ít về tính chất độc đáo của nền kinh tế hiện nay.
Đối với nhiều người, nền kinh tế vẫn là một tổ chức tĩnh, bị các lực lượng chính trị tranh giành trong một kỷ nguyên xung đột giữa các tầng lớp xã hội mới xuất hiện. Thực tế thì nền kinh tế toàn cầu lại giống như một cơ thể sống, cực kỳ năng động. Robert Samuelson của báo Newsweek đưa ra một số liệu thống kê đáng chú ý: “Cứ ba tháng lại có bảy đến tám triệu việc làm ở Hoa Kỳ mất đi và một số lượng việc làm bằng hoặc lớn hơn được tạo ra.”
Quan trọng nhất là, nền kinh tế toàn cầu mới này khác rất nhiều so với hệ thống cũ mà trong đó các tập đoàn và những người điều hành chúng tạo ra một hệ thống kiểm soát toàn cầu để duy trì tính ổn định tương đối. Hiện nay, tình hình diễn ra ngược lại. Hơn bao giờ hết, các tập đoàn lớn luôn bị đe dọa trở nên lỗi thời và suy tàn dần bởi giới doanh nhân cá thể cực kỳ liều lĩnh và sẵn sàng chấp nhận rủi ro, những người mà chính bản thân họ cũng luôn phải đối mặt với khả năng thất bại. Cũng giống như IBM đã từng bị đe dọa bởi Microsoft, giờ đây Microsoft lại bị đe dọa bởi các công ty thiên về khai thác dịch vụ Internet mới phát đạt, chẳng hạn như Google hoặc hệ điều hành mã nguồn mở Linux.
Tình hình có thể còn phức tạp hơn nhiều bởi một thực tế là chúng ta đang bước vào một thời đại tương tác mới nơi mà sự hợp tác trên diện rộng thông qua Internet đang làm thay đổi cách thức các doanh nghiệp tạo ra và tăng thêm giá trị. Đây là một quá trình cải cách kinh doanh quốc tế theo kiểu dân túy mà ở đó một động lực “từ dưới lên” (bottom-up dynamic) có thể dần dần tiếp quản nền kinh tế toàn cầu. Trong một chương ở phần sau, tôi sẽ thảo luận về ý nghĩa của việc này đối với Trung Quốc, nơi mà hiện nay chính phủ
thực hiện một chính sách mới nhằm cố gắng kiểm soát nội dung Internet. Tuy nhiên, cuối cùng thì chúng ta không có sự lựa chọn khác trong thế giới ngày càng bất ổn này ngoài việc đi theo thị trường toàn cầu hóa và chỉ đạo nó một cách khéo léo để tạo ra những lợi ích lớn hơn với ít hậu quả tiêu cực, ngoài ý muốn hơn. Như Tổng thống Bill Clinton đã phát biểu trong bản Thông điệp Liên bang năm 2000: “Chúng ta sẽ không quay trở lại nếp cũ. Xã hội đầy sáng tạo và cởi mở của chúng ta vẫn đang đứng vững để tận hưởng lợi ích hơn bất cứ xã hội nào khác”.
Kết quả của việc tạo ra rất nhiều của cải thông qua toàn cầu hóa là thế giới đã bị ngập trong đống tiền, và phần lớn trong số tiền đó vài thập kỷ trước đây đã được lưu giữ ở Hoa Kỳ. Dino Kos, cựu lãnh đạo bộ phận hối đoái của Cục Dự trữ Liên bang tại New York đã theo dõi từng đợt vốn lớn tràn vào mỗi ngày. Sau đây là cách ông tóm tắt tình hình trước khi cuộc khủng hoảng tín dụng bùng phát: đã có “một khối lượng lớn thanh khoản ở bên ngoài. Cuộc cách mạng về năng suất đã lan rộng ra khắp toàn cầu. Toàn thế giới đã trở nên giàu có hơn rất nhiều, nhanh hơn nhiều so với bất kỳ một ai trong số chúng ta có thể nhận ra.”
Thật vậy, đã có một giai đoạn khan hiếm cơ hội đầu tư mang tính toàn cầu, với quá nhiều vốn trên thế giới phụ thuộc vào đầu tư tại Hoa Kỳ và các tài sản tài chính tại các nước công nghiệp khác. Ví dụ, từ năm 1995, đã có 6,5 nghìn tỷ đô là tổng số vốn ròng từ nước ngoài chảy vào Hoa Kỳ, nhiều hơn 1,7 nghìn tỷ đô la so với giá trị thâm hụt thương mại trong thời kỳ này. Hệ thống quốc tế mất cân bằng. Đây chính là lý do tại sao Chủ tịch Cục Dự trữ Liên Bang Ben Bernanke lại ủng hộ chính sách lâu dài trong việc tái cân bằng toàn cầu. Ông lập luận rằng Hoa Kỳ cần phải trải qua “một cuộc chuyển dịch các nguồn lực ra khỏi các lĩnh vực sản xuất hàng hóa và dịch vụ phi thương mại sang các ngành sản xuất các sản phẩm, dịch vụ phục vụ mục đích thương mại”. Ý của ông là Mỹ cần phải giảm bớt thâm hụt ngân sách và sự phụ thuộc vào dầu mỏ của nước ngoài trong khi mở rộng xuất khẩu hàng
hóa và dịch vụ. Các quốc gia khác cần phải kích thích nhu cầu trong nước để người dân có thể mua nhiều hàng nhập khẩu hơn và ít phụ thuộc vào hàng xuất khẩu hơn. Tuy nhiên, sự chuyển đổi này sẽ mất thời gian và, trong khi chờ đợi, nền kinh tế Hoa Kỳ sẽ phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài.
Hơn nữa, một số người trong giới chính trị Hoa Kỳ có lập trường coi đầu tư nước ngoài như một con quái vật điên cuồng, đe doạ sự tồn tại của nước Mỹ. Tình hình không đơn giản như vậy. Trên thực tế, mối đe dọa đến sự tồn tại đó, xét trong ngắn hạn, là nhận thức phổ biến rộng rãi rằng Mỹ không còn hoan nghênh vốn nước ngoài nữa. Trong nhiều thập kỷ qua, các nhà đầu tư trên toàn cầu đã coi nền kinh tế Hoa Kỳ như là một thiên đường an toàn cho vốn đầu tư quốc tế. Theo tờ Wall Street Journal, các nghiên cứu cho thấy công ty Hoa Kỳ được cấp vốn từ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thường trả lương cao, hơn 32% so với mức trung bình của khu vực kinh tế tư nhân. Mỹ là một mục tiêu đầu tư rất hấp dẫn cho hệ thống tài chính toàn cầu. Chỉ có kẻ ngờ nghệch mới làm bất cứ điều gì để thay đổi nhận thức đó cho đến khi hệ thống toàn cầu được cân bằng trở lại, với việc Hoa Kỳ sắp xếp lại hệ thống tài khoá của họ, và các khu vực khác trên thế giới cơ cấu lại kinh tế để giảm sự phụ thuộc vào hàng xuất khẩu. Nhưng cho tới giờ, lối hùng biện chính trị theo chủ nghĩa dân túy phản đối vốn nước ngoài đã bắt đầu khiến cho các thương nhân và các nhà đầu tư trên thị trường tài chính toàn cầu lo lắng. Họ đặt ra câu hỏi: Liệu những người dân túy về mặt kinh tế có hiểu rõ mức độ mà họ đang đùa với lửa không?
Cuối cùng, tương lai của nền kinh tế thế giới được toàn cầu hóa dựa vào các câu hỏi cơ bản này: Tính thanh khoản là gì? Và tại sao tính thanh khoản (và một vấn đề rất gần với nó là sự sẵn có của nguồn cung tín dụng) trong một thời gian rất ngắn ban đầu dường như hết sức dồi dào và tiếp theo đó lại có vẻ hoàn toàn biến mất? Tính thanh khoản phản ánh đúng giá trị phát triển trong một nền kinh tế toàn cầu đang mở rộng đến mức độ nào?
Có lẽ hình ảnh ẩn dụ tốt nhất để minh họa cho tính thanh khoản là dầu nhớt trong động cơ ô tô. Nếu dầu chỉ tập trung ở dưới đáy của động cơ, thậm chí nếu có nhiều dầu, động cơ sẽ không hoạt động. Dầu cần được di chuyển tự do khắp động cơ.
Các thống đốc ngân hàng trung ương hiện nay đang nỗ lực giải quyết các vấn đề liên quan đến tính thanh khoản. Đôi khi, trong nỗi hoảng sợ về tài chính, tính thanh khoản (dầu) có thể đột ngột di chuyển nhanh chóng đến một vị trí (xuống dưới đáy động cơ). Trong nền kinh tế hiện nay, việc này có nghĩa là chỉ mua nợ chính phủ ngắn hạn. Khi điều đó xảy ra, hợp đồng tín dụng và toàn bộ hệ thống kinh tế và tài chính đều lâm vào tình trạng nguy hiểm. Pit-tông của động cơ có thể sớm ngừng bơm dầu.
Ví dụ, trong suốt các cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á và Nga năm 1997-1998, tính thanh khoản toàn cầu đột ngột biến mất.Sau một thời gian tính thanh khoản dư thừa thì đột nhiên người ta không tìm đâu ra nguồn tín dụng. Cuộc Đại khủng hoảng Tín dụng năm 2007-2008 cũng diễn ra tương tự. Trong cả hai trường hợp, tình hình đều đáng lo ngại, nhưng tại sao tính thanh khoản lại mất đi một cách nhanh chóng như vậy? Và thực tế, những nhân tố nào chi phối điều mà ta gọi là tính thanh khoản?
Xét về bản chất, cuối cùng thì tính thanh khoản cũng chẳng có gì khác hơn niềm tin. Ủy viên quản trị Cục Dự trữ Liên bang Kevin Warsh ủng hộ quan điểm này, ông lập luận: “Tính thanh khoản mạnh tại các thị trường vốn ở Mỹ xuất hiện khi người ta tin rằng các kết quả kinh tế sẽ tốt. Khi những kết quả mang tính tiêu cực cao không chắc sẽ xảy ra hoặc ít ra là có thể đo lường được một cách chính xác, thì những điều kiện này đủ để làm cho tính thanh khoản trở nên dồi dào”. Alan Greenspan, khi còn là chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang cũng lập luận rằng tính thanh khoản (liquidity) chỉ là một từ khác để chỉ niềm tin (confidence). Trong một chương trong phần sau, tôi sẽ nói về việc tôi và Alan Greenspan đã có một số cuộc thảo luận về cách thức mà
công việc của ngân hàng trung ương, do nhu cầu cần phải gây dựng niềm tin này, đã trở thành một “nhà hát” tinh vi như thế nào với sự tham gia của các thị trường tài chính trong vai trò là “khán giả”. Do đó, tính thanh khoản đa phần phụ thuộc vào niềm tin của thị trường rằng các nhà hoạch định chính sách, trong tương lai gần, sẽ không gây ra những sai lầm lớn. Trong cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn, các ngân hàng trung ương trên thế giới ngay từ đầu đã làm cả thế giới ngập trong “thanh khoản” sẵn có. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tín dụng vẫn tiếp tục do thị trường toàn cầu thiếu niềm tin vào cơ cấu tài chính, bao gồm cả khả năng đánh giá nguy cơ thực sự của hệ thống tài chính.
Xét về bản chất, sự sống sót của hệ thống tài chính thế giới phụ thuộc vào một trò chơi niềm tin toàn cầu phức tạp. Quy mô của các thị trường tài chính so với các chính phủ đã trở nên quá to lớn, nên không có một biện pháp nào khác để duy trì sự ổn định hơn là thiết lập niềm tin. Chính các chính phủ cũng không thể khôi phục lại trật tự bằng sắc lệnh. Họ chỉ có thể khiến các thị trường hiểu rằng họ biết họ đang làm gì.
Hãy xem xét ví dụ về UBS, ngân hàng lớn nhất Thụy Sĩ và là một trong những tổ chức tài chính lớn nhất thế giới. Theo Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ, trong suốt cuộc khủng hoảng dưới chuẩn năm 2007-2008, với sự hoảng loạn tột bậc, các giám đốc ngân hàng trung ương Thụy Sĩ phát hiện ra rằng tổng số rủi ro tài chính chỉ riêng của UBS đã lên đến hơn 2 nghìn tỷ franc Thụy Sĩ. Tuy nhiên, toàn bộ GDP của nước này chỉ đạt 475 tỷ franc Thụy Sĩ. Trong hoàn cảnh hoảng loạn và các luồng vốn chảy ra nước ngoài nghiêm trọng, chỉ riêng công nợ của một ngân hàng đã nhiều hơn bốn lần quy mô của toàn bộ nền kinh tế. Điều này nghĩa là: Chính phủ Thụy Sĩ trong thời kỳ khủng hoảng không đủ khả năng để cứu hệ thống tài chính của nước mình ra khỏi tình trạng nợ nần, dù cho các quan chức có muốn vậy. Các nhà hoạch định chính sách ở các nước công nghiệp hóa khác cũng thấy mình rơi vào một tình huống tương tự, đặc biệt là khi xem xét thực tế rằng các tổ chức tài
chính tham gia vào một số lượng đáng kể các hoạt động đòn bẩy tài chính (dùng các tài sản đầu tư hiện hành để vay, nhằm tạo ra các khoản đầu tư mới).
Đối với nhà hoạch định chính sách hiện nay, sự hoảng loạn của thị trường tài chính tượng trưng cho những điều vô cùng bí ẩn. Bất cứ khi nào tâm lý đa nghi của con người xuất hiện thì sự bất ổn thống trị thời điểm đó. Các chuyên gia vẫn còn tranh luận về một yếu tố, hay một loạt các yếu tố dẫn tới sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Hoa Kỳ năm 1987, một sự điều chỉnh thị trường mà theo điều kiện hiện nay thì sẽ tương đương với việc chỉ số công nghiệp Dow Jones trung bình rớt 3.500 điểm một ngày. Ban đầu, những lý thuyết thông thường cho rằng sụp đổ chỉ đơn giản là do vai trò của bảo hiểm danh mục vốn đầu tư được vi tính hóa trong việc làm sự trượt dốc ban đầu của thị trường trở nên tồi tệ hơn. Tuy nhiên, những gì giờ đây đã rõ ràng là một loạt diễn biến dường như vô hại, khi được đặt cùng với nhau, đã làm giảm niềm tin một cách nghiêm trọng. Chính điều này dẫn tới sự sụp đổ bất ngờ của trật tự tài chính quốc tế.
Các đối tượng tham gia vào thị trường bắt đầu tin rằng các nhà hoạch định chính sách đã phá vỡ hệ thống toàn cầu, và chính điều này dẫn đến sự hoảng sợ trên diện rộng và tình trạng mất niềm tin của các nhà đầu tư. Trong giai đoạn trước đó, các nhà hoạch định chính sách đã gây ra một số sai lầm dường như rất nhỏ. Nhưng những sai lầm này, vì chúng phát triển, leo thang nhanh, hóa ra lại có những hậu quả tàn phá khi hàng triệu người tham gia thị trường mất niềm tin vào tương lai. So sánh điều này với thực tế hiện nay không phải là không có ích!
Ví dụ, vào mùa thu 1987, một cuộc tranh cãi công khai đã nổ ra giữa Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ James Baker và Bộ trưởng Tài chính Đức Gerhard Stoltenberg về đồng đô-la và tỉ lệ lãi suất. Điều này gây ra nhận định rằng tài chính quốc tế mất đi tính ổn định và trật tự. Chính quyền Reagan cũng đã áp
dụng chế tài mậu dịch đối với Nhật Bản, tạo nên sự bất ổn cho tương lai của tự do thương mại. Một tuần trước khi vụ sụp đổ xảy ra, Ủy ban Tài chính và Thuế vụ của Hạ viện Mỹ[3]đã công bố kế hoạch tăng thuế đối với các khoản nợ liên quan đến những vụ mua lại doanh nghiệp, điều mà nhiều thành viên tham gia thị trường xem là một sự phát triển theo chiều hướng rất xấu cho thị trường tài chính. Trong khoảng thời gian đó, một tiểu ban của Hạ nghị viện Mỹ đã thông qua một dự thảo sửa đổi của nghị sĩ, ứng cử viên chức tổng thống năm 1988 thuộc Đảng Dân chủ, ông Richard Gephardt (một cố vấn cho Hillary Clinton trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2008), theo đó trừng phạt nặng các nước có thặng dư thương mại “quá mức và tùy tiện” trong buôn bán với Mỹ. Tất cả những bước phát triển này gây ra cho các thị trường một nỗi sợ hãi rằng dòng vốn đầu tư trên toàn cầu có nguy cơ bị gián đoạn.
Kết quả là vào năm 1987, sự kết hợp chết người của các sơ suất kỹ thuật dường như rất nhỏ và những hành động chính trị thiếu cẩn thận gần như đã nhấn chìm thị trường chứng khoán thế giới - và cả nền kinh tế toàn cầu nữa. Trong thế giới của chính sách và thị trường, con người đóng vai trò rất quan trọng. Các thị trường tài chính bị một phen hoảng hốt và đột nhiên nhận thức được sự thiếu thiện chí trong việc hợp tác của những thế lực lớn. Hầu như chỉ qua một đêm, việc giảm giá cổ phiếu đã tự nó làm mọi chuyện tồi tệ đi, tạo ra một đợt hoảng loạn tài chính với quy mô mang tính lịch sử. Đúng vậy, thị trường chứng khoán đã hồi phục trở lại, nhờ sự tỉnh táo của những người tham gia trong lĩnh vực tài chính mà các nhà hoạch định chính sách của các quốc gia công nghiệp hóa thuộc nhóm G7 (từ Pháp, Đức, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Canada, Ý, và Vương quốc Anh) đã phối hợp hành động khi khủng hoảng xảy ra. Còn với những thành viên chủ chốt trên thị trường tài chính hiện nay - bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, các nền kinh tế dự trữ quá mức và sản xuất dầu khác hiện nay - sự phối hợp và cương quyết như vậy rất khó có thể xảy ra trong trường hợp thị trường lớn sụp đổ.
Điều rõ ràng là sự bất ổn tài chính tồn tại ở đây. Trong một nghiên cứu về
lịch sử hỗn loạn tài chính, những nhà kinh tế học nổi tiếng như Barry Eichengreen của Đại học California tại Berkeley và Michael Bordo của Đại học Rutgers đã chỉ ra rằng các cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay “xảy ra phổ biến gấp đôi” so với một thế kỷ trước.
Cuộc đại khủng hoảng tín dụng năm 2007-2008 là ví dụ điển hình nhất cho luận điểm này. Nhưng liệu vô số nguồn thanh khoản độc lập hiện nay có thể ngưng lại khiến cho bộ máy tài chính toàn cầu ngừng hoạt động không? Thật không may, tình hình không có gì đáng khích lệ. Đó là bởi vì các chính trị gia khác trên thế giới nhiều khả năng đi theo những sai lầm của Mỹ, đặc biệt là về các vấn đề bảo hộ và sự chắp vá vụng về trong các quy định đối với thị trường tài chính.
Có một số điều quan trọng chưa được biết đến, nhưng một trong những điều gây ảnh hưởng lớn nhất là sự bất ổn chính trị. Những người phản đối toàn cầu hóa bao gồm cả các đảng viên Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ trong Quốc hội Hoa Kỳ. Được sự ủng hộ mạnh mẽ của các tập đoàn hùng mạnh đang lo lắng về những bất trắc của cạnh tranh quốc tế, họ đã đặt tên cho quá trình toàn cầu hóa là “cuộc chạy đua của thế giới tới điểm đáy”. Ngay từ đầu trong cuộc chạy đua tranh chức tổng thống Mỹ năm 2008, cả Đảng Dân chủ (do cựu Thượng nghị sỹ John Edwards lãnh đạo) và Đảng Cộng hòa (do cựu thống đốc Mike Huckabee lãnh đạo) đã đưa ra những luận điểm phản đối toàn cầu hóa đặc biệt giống nhau, và hầu hết các ứng cử viên khác từ chối bảo vệ cho hệ thống này. Đó là bởi vì toàn cầu hóa, trong khi tạo ra rất nhiều của cải, cũng đã tạo ra những âu lo vô bờ bến. Việc thuê ngoài (outsourcing), trước đây chỉ giới hạn đối với lao động tương đối thiếu kỹ năng, giờ đây dường như đã trở thành một mối đe dọa thực sự đối với việc làm của tầng lớp trung lưu. Sự thật là nước Mỹ trước nay vốn là một “insourcer” (chủ yếu tuyển dụng lao động từ trong nước), chứ không phải là một “outsourcer” (đi thuê lao động bên ngoài). Người nước ngoài đầu tư vào Mỹ nhiều hơn người Mỹ đầu tư ở nước ngoài 500 tỉ đô la. Đó là một trong những lý do Mỹ tạo ra
hai triệu việc làm mới mỗi năm.
Một nghiên cứu của hai nhà kinh tế học Robert Gordon và Hanson Feenstra lập luận rằng việc thuê ngoài đã thực sự tăng thêm mức lương thực tế của người lao động không có tay nghề. Nhà kinh tế học Stephen William và Dickens Rose tranh luận rằng sự chỉ trích thuê ngoài là quá cường điệu: “Các nền kinh tế thị trường hiện đại thường xuyên phá hủy và tạo ra hàng chục triệu việc làm mới từ các hoạt động nội bộ của mình. Thương mại đóng một vai trò rất nhỏ trong việc gây xáo trộn công việc này. Nguyên nhân lớn nhất của tình trạng mất việc làm là sự cạnh tranh trong nước.” Martin Baily từ McKinsey và Robert Lawrence của Harvard cũng đồng tình. Họ cho rằng 90% việc làm bị mất trong lĩnh vực sản xuất là kết quả của các nhân tố trong nước, chủ yếu là tiến bộ kỹ thuật khiến các công ty buộc phải cắt giảm nhân công.
Tuy nhiên, hệ thống toàn cầu đang thay đổi, với một sự chuyển đổi kinh tế tiềm năng trong những năm tới từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực dịch vụ. Trung Quốc, Ấn Độ, và các nền kinh tế châu Á khác có thể sớm đạt đến khả năng dư thừa năng lực trong lĩnh vực sản xuất. Để duy trì nền kinh tế của họ, các quốc gia sẽ chuyển sang lĩnh vực dịch vụ, chỗ dựa chính của nền kinh tế Hoa Kỳ và Vương quốc Anh (ở Hoa Kỳ, hơn 80 phần trăm công việc là trong ngành dịch vụ). Ngay cả khi Mỹ vẫn là một nơi tuyển dụng lao động nội bộ là chủ yếu, nỗi lo lắng mà những người trong ngành dịch vụ cảm thấy sẽ vẫn tồn tại và còn tăng thêm. Kế toán, luật sư, bác sỹ X quang, và những người khác đã lo sợ rằng đời sống của họ có thể gặp bất trắc do các dịch vụ mới của các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Mặc dù một số chuyên gia cảm thấy rằng nỗi lo sợ liên quan đến công việc trong ngành dịch vụ có thể là hơi quá mức, chính những nỗi lo sợ đó cũng là một mối đe dọa.
Ví dụ, các nhà kinh tế học như Jagdish Bhagwati thuộc Đại học Columbia cho rằng trong các ngành dịch vụ “sự gần gũi của các nhân viên thường
không thể thiếu được” vì nhiều công việc dịch vụ “không thể được thực hiện từ xa”. Tôi đồng ý rằng mối đe dọa bị cường điệu, nhưng cảm giác lo lắng là có thực, và chúng nhiều khả năng sẽ kích động một sự đáp trả mang tính chính trị thực thụ của Hoa Kỳ. Sự đáp trả đó có thể đem lại sự bất ổn cao cho các thị trường toàn cầu. Quả thực, tại Mỹ, sự bất mãn của những người dân tuý đối với những cái gọi là lợi ích của các doanh nghiệp lớn đang càng lúc càng sôi sục nhiều hơn.
Câu hỏi đáng quan tâm là liệu các chính trị gia có hiểu ra rằng họ hầu như không thể kiểm soát hệ thống toàn cầu này bằng sự điều chỉnh các quy định hay lập pháp mà không gây ra những hậu quả tiêu cực ngoài ý muốn không. Tình trạng này gợi lại ký ức về những gì chính phủ Anh đã làm trong những năm 1960 khi họ sửa đổi hệ thống tài chính của mình bằng cách cấm mọi người mang tiền đi ra khỏi đất nước. Trên thực tế, một thử nghiệm chính sách vốn công phu và có vẻ tốt đẹp, với dự định giữ cho tiền tệ khỏi bị suy yếu (mặc dù đang áp dụng những chính sách mở rộng đáng nghi ngờ trong suốt thời gian lạm phát gia tăng) hóa ra lại cực kỳ sai lầm và gây họa. Sự can thiệp vào thị trường đem lại kết quả ngược với mong đợi, gần như hủy hoại những khoản tiền tiết kiệm của tầng lớp trung lưu ở Anh. Đó là lý do tại sao các nhà hoạch định chính sách ngày nay, với một nguồn vốn vô cùng dồi dào, nên tiếp cận việc thử nghiệm các chính sách với sự khiêm tốn tối đa! Các thị trường toàn cầu có thể là một con thú đang nổi giận, không dễ đoán và dễ bị kích động.
Ngày nay chúng ta đang sống trong thời đại kỳ lạ, khi các nền kinh tế toàn cầu đang ngày càng vượt ra ngoài tầm kiểm soát tích cực của chính phủ, ngoại trừ một vài quốc gia xuất khẩu hàng hóa (Nga và các nước sản xuất dầu khác). Ngay cả kinh tế Trung Quốc cũng không thể dễ dàng bị kiểm soát bởi chính phủ của nước này, họ đã mắc sai lầm trong việc cố gắng quản lý vi mô khi thị trường đã có thể phân bổ nguồn lực tốt hơn.
Trong thế giới mới này, chính phủ các nước đang nỗ lực để tham gia vào thị trường tài chính. Cach đây không lâu, bức tranh này rõ ràng hơn nhiều. Ví dụ, các cơ quan thuộc chính phủ như Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Câu lạc bộ Paris gồm các nước mắc nợ thuộc Thế giới Thứ ba đã là phương tiện giúp điều phối dòng vốn. Với các thị trường mới nổi lên hiện nay đã thanh toán hết nợ và thế giới trở nên dư thừa tiền mặt, các cơ quan thuộc chính phủ này đang chạy đua quyết liệt để duy trì một vai trò quan trọng trên trường quốc tế.
Họ không hề mất đi tầm quan trọng. Chính phủ Trung Quốc và Ấn Độ đã thâm nhập vào các thị trường mới nổi, cung cấp các khoản vay (trợ cấp) ưu đãi gắn liền với các bản thỏa thuận liên quan đến việc trao đổi hàng hóa, đứng đầu là dầu. Nhưng những hành động này đã làm gia tăng mức độ căng thẳng và sự giận dữ trong nền kinh tế toàn cầu. Có một nhận thức ngày càng gia tăng rằng trong khi Trung Quốc hưởng lợi từ hệ thống thương mại toàn cầu trong lĩnh vực hàng hóa và các mặt hàng thiết yếu, nhưng đất nước này hầu như không làm gì để tăng cường sự ổn định của hệ thống đó và đôi khi còn ngầm phá hoại sự ổn định của nó.
Về cơ bản, Trung Quốc và những nước khác đang đưa ra mức lãi suất cho vay thấp hơn Ngân hàng Thế giới, và không giống như Ngân hàng Thế giới, các khoản cho vay của họ không liên quan đến tiêu chuẩn bảo vệ môi trường hoặc các quyền con người. Để minh chứng cho việc Trung Quốc, Ấn Độ và các nước khác đang tách mình ra khỏi Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và các cơ quan khác, hãy xem xét những gì đã xảy ra tại Washington vào dịp cuối tuần, 14 tháng 4 năm 2007. Các quốc gia công nghiệp hóa đã tổ chức một cuộc họp quan trọng của các bộ trưởng tài chính và các thống đốc ngân hàng trung ương dưới sự chủ trì của Ngân hàng Thế giới - Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Trung Quốc đã không tham gia. Tại cuộc họp tiếp theo vào đầu tháng 10 năm 2007, Trung Quốc đã cử một đại diện của một ngân hàng trung ương tương đối không có quyền lực thay cho các cán
bộ cao cấp nhất. Lý do vắng mặt được họ đưa ra là họ bận lo lắng giải quyết các vấn đề trong nước cấp thiết hơn.
Trong chương 4, tôi sẽ làm rõ bản chất đáng lo ngại tiềm ẩn trong mối quan hệ của Trung Quốc với thế giới trong những năm tới.Ông Greg Mastel, nguyên là cố vấn thương mại cho Ủy ban Tài chính Thượng viện Hoa Kỳ (2000-2003) cho rằng có rất nhiều ví dụ về sự rối loạn trong tương lai, bao gồm cả các bất đồng sắp tới về chính sách môi trường. Mastel lập luận: “Nếu Trung Quốc miễn cho các ngành công nghiệp hóa chất hoặc thép của họ khỏi bị kiểm soát việc thải khí nhà kính hoặc cung cấp cho họ những khoản trợ cấp lớn thì các ngành công nghiệp cạnh tranh ở Hoa Kỳ và châu Âu sẽ bị bất lợi lớn.” Điều này là bởi vì Quy chế của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) khiến cho Hoa Kỳ và châu Âu tương đối bất lực trong việc đáp trả bằng những biểu thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm của Trung Quốc. WTO quy định hạn chế thương mại chỉ dành cho “việc bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể bị cạn kiệt.” Các quy định liên quan đến các hành động thương mại để phản ứng lại các chính sách quốc gia về môi trường đang rất mù mờ, ngay cả khi diễn tả một cách nương nhẹ nhất. Mastel thấy trước được tình huống mà trong đó Hoa Kỳ và châu Âu có thể nhận thấy các ngành công nghiệp chủ chốt của mình bị nhấn chìm một cách bất công, với rất ít những lựa chọn hợp pháp mà họ có thể làm để đáp trả.
Tuy nhiên, trong thế giới toàn cầu hóa này, nơi mà các dòng vốn đã phải bù vào sự mất cân đối của ngân sách Mỹ và các tài khoản vãng lai, một giả định vẫn không thay đổi - rằng vốn trên toàn cầu phải tiếp tục lưu thông tự do. Nếu các dòng vốn ngừng chảy, cho dù vì lý do chính phủ can thiệp, do động cơ chính trị đảng phái độc đoán hoặc do sự tan vỡ hoàn toàn của trật tự quốc tế như là một tác dụng phụ của một cuộc chiến tranh thương mại với Trung Quốc thì tiềm năng xảy ra một hiệu ứng bầy đàn tiêu cực toàn cầu là rất lớn. Các nhà quản lý tiền tệ trên toàn cầu trao đổi với nhau. Trong một thế giới mới mà thị trường toàn cầu chi phối dưới ảnh hưởng của tình cảm và tâm lý,
chỉ một tác động nhẹ của một nền kinh tế bảo hộ hoặc một cuộc chiến tranh kinh tế giữa các quốc gia cũng sẽ gây hậu quả tai hại.
Chúng ta có thể không thích bản chất phụ thuộc lẫn nhau của hệ thống này, nhưng đó là thực tế hiện nay. Và trong thế giới mới có mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau này, chủ nghĩa bi quan có thể có khả năng lan truyền mạnh. Các nhà lý luận về thị trường đã nghiên cứu và cho rằng các lực lượng ủng hộ môi trường và các lực lượng đứng sau thương mại tự do đang trên con đường dẫn tới xung đột. Nếu việc Mỹ đang đi theo con đường bảo hộ mậu dịch trở nên rõ ràng thì sẽ có một nguy cơ thực sự rằng niềm tin vào một hình mẫu về vốn lưu thông tự do của các doanh nghiệp toàn cầu có thể sụp đổ chỉ qua một đêm. Mối nguy hiểm cho nền kinh tế toàn cầu là rất lớn bởi vì những điều chỉnh theo hướng bảo hộ nền công nghiệp trong nước ngày hôm nay có thể dễ dàng trở thành cuộc chiến tranh hàng hóa và thương mại của ngày mai - dẫn tới một kỷ nguyên mới, đáng lo ngại khi thanh khoản thậm chí còn khan hiếm hơn nữa.
Trong 25 năm gần đây, Mỹ đã bênh vực cho quan điểm lưỡng đảng rằng các thị trường mở, một chủ nghĩa tư bản với tinh thần doanh nhân (entrepreneurial capitalism) được khuyến khích cực kỳ mạnh mẽ và các thị trường vốn quốc tế lưu thông tự do là công thức kỳ diệu của sự thành công về kinh tế. Của cải bắt nguồn từ trí tưởng tượng, sự khám phá, và sự đổi mới. Trong những thập kỷ gần đây, Mỹ đã chứng minh là một mảnh đất màu mỡ thực sự cho các đột phá công nghệ - từ iPod tới Google rồi tới YouTube, mặc dù tình hình bây giờ đang thay đổi.
Diễn biến phức tạp về địa chính trị ở Trung Đông, sự sụp đổ của niềm tin đối với các thị trường tín dụng và kiến trúc tài chính của chúng ta, cùng với sự bất ổn trên toàn cầu nói chung đã phủ một đám mây u ám lên quá trình đổi mới ở Hoa Kỳ. Không có gì là đáng ngạc nhiên khi các giám đốc điều hành các công ty của Mỹ, thậm chí trước cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn,
đã bắt đầu giảm quy mô kinh doanh, thích mua lại cổ phiếu, sáp nhập và thôn tính hơn là liều lĩnh đầu tư vào các doanh nghiệp mới. Quốc hội Mỹ đã mất hết nhuệ khí cùng với những con số ủng hộ thấp kỷ lục, đã mất niềm tin vào tương lai của Mỹ trong nền kinh tế toàn cầu. Cơ quan điều hành đó rõ ràng đang suy tính rất kỹ về khả năng đặt nền kinh tế trong tình trạng tạm dừng hoạt động trong một nỗ lực nhằm đạt được một cảm giác an ninh kinh tế giả tạo bằng cách cắt giảm rủi ro.
Quy luật về những hậu quả ngoài dự tính (Law of unintended consequences) có lẽ sẽ thắng thế bởi vì các nhà hoạch định chính sách trên toàn thế giới vẫn tin rằng họ có thể kiểm soát nền kinh tế toàn cầu. Chúng ta sắp khám phá những tác động của quan niệm sai lầm này khi hàng triệu người ra quyết định trên thị trường - những người quản lý của nguồn vốn mới này - cân nhắc những chọn lựa của họ.
Gần đây, có người đã đề nghị tôi nêu những ví dụ cụ thể về tiến triển của nền kinh tế toàn cầu mới. Có đến hàng trăm khả năng. Rốt cuộc, ai có thể dự đoán được sự tàn phá trên toàn cầu là kết quả của sự sụp đổ thế chấp dưới chuẩn của Mỹ? Tôi đã nói rằng hãy tưởng tượng các nhà hoạch định chính sách của Washington đã trở nên liên quan nhiều hơn đến việc thiết lập các tiêu chuẩn kế toán của Mỹ. Bằng cách này người ta đã khiến hình thành một sự phân biệt rõ ràng giữa Hoa Kỳ và phần còn lại của thế giới, điều này gây ra bất lợi cho Mỹ. Động thái này sẽ cô lập Hoa Kỳ theo hướng ngăn cản đầu tư nước ngoài hơn nữa.
Hoặc hãy tưởng tượng Quốc hội Mỹ thiết lập những rào cản đối với quyền sở hữu nước ngoài tại các công ty Hoa Kỳ. Các nước khác trên thế giới đáp lại bằng việc tăng thuế đột ngột/hoặc tăng cường sự quản lý đối với các tài sản của công ty thuộc sở hữu của Mỹ ở nước ngoài. Hãy nghĩ xem viễn cảnh chủ nghĩa quốc gia như vậy có quá cường điệu không? Trong năm 2005, 15 nghị sĩ Dân chủ trong Hạ viện Mỹ đã chuyển hướng để ủng hộ Hiệp định
Thương mại Tự do Trung Mỹ (CAFTA). Kể từ khi đó, 15 vị nghị sĩ này gần như bị đẩy ra khỏi đảng vì những quan điểm đối nghịch trong vấn đề tự do thương mại của họ.
Hãy tưởng tượng một xu thế chính trị của những người theo chủ nghĩa dân túy đang tăng lên để thay thế thuế tối thiểu trong Luật thuế quan của Hoa Kỳ, ví dụ, với một khoản thuế 70-80% đối với thu nhập cá nhân trên 2 triệu đô la. Kết quả là, một bộ phận quan trọng trong lĩnh vực kinh doanh và dịch vụ tài chính của Mỹ chuyển ra nước ngoài. Điều này gây ra hậu quả ngoài dự tính là giáng một đòn mạnh vào khu vực từ thiện (charity sector) của Hoa Kỳ. Hoặc tưởng tượng rằng Vòng đàm phán mậu dịch Doha sụp đổ vĩnh viễn và sự đồng thuận về tự do thương mại toàn cầu biến mất. Giờ đây tình hình như thể ngàn cân treo sợi tóc. Đột nhiên, các nhà lãnh đạo chính trị của các thị trường mới nổi tuyên bố rằng họ sẽ không trả tiền cho các bằng sáng chế hoặc các khoản thanh toán bảo đảm đối với các khoản vay liên quan đến bất cứ thứ gì được coi là “hàng hóa công” (dược phẩm, các thiết bị xử lý nước, v.v). Hoa Kỳ trả đũa bằng cách dựng lên những rào cản. Thương mại toàn cầu giảm mạnh trong khi các thị trường tài chính trên thế giới tan vỡ.
Hãy tưởng tượng rằng Washington quyết định hạn chế việc trao đổi sở hữu trí tuệ qua biên giới và các nghiên cứu sinh nước ngoài bị cấm học đại học ở Hoa Kỳ. Trong vòng một vài năm, Hoa Kỳ sẽ giống như châu Âu - vô cùng thiếu tính sáng tạo.
Hãy tưởng tượng một khoản thuế hành chính đầy thiện chí hay một thay đổi quy định nhỏ đối với thị trường ngân khố Hoa Kỳ, gây ra một sự suy giảm nhanh chóng giá trị của trái phiếu kho bạc. Sau đó, một nhóm các nhà buôn trái phiếu doanh nghiệp tại Nhật Bản, hay có nhiều khả năng hơn là cả ở Pháp, tận dụng lợi thế của sự thay đổi này đưa thị trường trái phiếu của Mỹ vào một sự hỗn độn và sụp đổ trên diện rộng. Hoặc tưởng tượng rằng Hoa Kỳ và châu Âu liên kết lại với nhau để điều tiết mạnh đối với hiệu quả sử
dụng năng lượng. Họ tạo ra những tiêu chuẩn môi trường dưới những hình thức của một loại thuế đối với hàng hóa nhập khẩu từ các nền kinh tế thải ra lượng khí carbon lớn, mà Trung Quốc là thủ phạm chính. Trung Quốc trả đũa bằng một hàng rào thuế quan đối với ngành nông nghiệp và ngân hàng của Mỹ, gây ra một sự đổ vỡ ở Phố Wall.
Với các quỹ hưu trí bị áp lực phải tăng lợi suất thu được, hãy tưởng tượng một nỗ lực vụng về của quốc hội Mỹ nhằm giảm bớt rủi ro cho các thương nhân tài chính, điều mà qua thời gian gây ra hậu quả ngoài dự tính của một cuộc khủng hoảng lương hưu, không khác gì so với cuộc khủng hoảng thương phiếu năm 2007. Tưởng tượng một sự tiếp tục của xu thế hậu Sarbanes-Oxley[4]thận trọng, dần dần làm mòn đi tính cạnh tranh của các doanh nghiệp Mỹ. Nghĩ đến những hậu quả không dự tính trước của việc người Mỹ sẽ cảm thấy rằng họ không còn là số một nữa. Ít khả năng cạnh tranh hơn, họ trở nên cáu kỉnh. Quốc hội phản ứng, các vấn đề leo thang, và điều quan trọng nhất cho sự sống mới của nền kinh tế toàn cầu - tính thanh khoản - bị cạn kiệt thêm. Lãi suất tăng vọt và vòng xoáy của sự kinh hoàng trong kinh tế bắt đầu. Và đối với các nhà đầu tư bình thường, không có nơi nào để họ trú ẩn.
Từng tháng trôi qua, hệ thống toàn cầu đang càng trở nên dễ bị tổn thương hơn. Gần đây, các nỗ lực đã được phát động nhằm đưa ra ảnh hưởng chính trị lớn hơn của Quốc hội Hoa Kỳ đối với CFIUS[5](Ủy ban Đầu tư nước ngoài tại Hoa Kỳ), một cơ quan chính phủ có quyền từ chối cấp phép cho các khoản đầu tư nước ngoài vào Mỹ dựa trên những lý do về an ninh quốc gia. CFIUS, cơ quan thực hiện chức năng chính sách công quan trọng, có mục tiêu là khoảng một chục quỹ đầu tư thuộc sở hữu của chính phủ nước ngoài (được gọi là SWF[6]- Quỹ Đầu tư quốc gia nước ngoài) thuộc sở hữu của các quốc gia phụ thuộc vào những hàng hóa độc quyền (Saudi Arabia, Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất, Dubai, Nga, v.v…), những quỹ này kiểm
soát khoảng 2,5 nghìn tỷ đô la.
Nhưng câu hỏi đặt ra ở đây là liệu các nỗ lực cần thiết này (nhắm tới việc giám sát chặt chẽ hơn của các quỹ đầu tư thuộc sở hữu của chính phủ nước ngoài) có đi quá xa so với mục tiêu đề ra của họ hay không, tức là chỉ giám sát vì lợi ích quốc gia (tức lợi ích của Mỹ - ND) mà thôi. Những dấu hiệu ban đầu hoàn toàn không có tính khích lệ chút nào. Hiện nay Ủy ban châu Âu (EC) đang trong tiến trình thực hiện những quy định mang tính hạn chế hơn nhiều so với những gì Hoa Kỳ dự định. Người ta nghi ngại rằng các quan chức của châu Âu đang sử dụng tình hình này như một lý do để tăng kiểm soát mang tính điều tiết nhiều hơn đối với các thị trường tài chính nói chung. Một trong những mục tiêu của họ là để bảo vệ các doanh nghiệp trong nước trước ngành dịch vụ tài chính vốn có tính cạnh tranh cao của Mỹ.
Tuy nhiên, những lo lắng mang tính chính trị của phương Tây về các quỹ thuộc sở hữu nhà nước này không thể xóa bỏ được. Nói gì thì nói, Trung Quốc, Ấn Độ và các nền kinh tế sản xuất dầu kiểm soát một lượng lớn các khoản dự trữ vượt trội của thế giới. Cuối cùng, liệu người Mỹ sẽ cảm thấy thoải mái khi cho phép, chẳng hạn như chính phủ Nga do KGB (Ủy ban An ninh của Nhà nước Liên Xô cũ) kiểm soát, hay chính phủ Trung Quốc mua 10 hay 15 phần trăm tiền góp vốn vào Microsoft, Google… hoặc Boeing, từ đó có tiềm năng giữ một ghế trong Hội đồng quản trị và có quyền tiếp cận các thông tin độc quyền hay không? Và nếu không thì chính phủ Nga, Trung Quốc, và Saudi Arabia sẽ phản ứng lại những khoản đầu tư khổng lồ từ các chính phủ phương Tây vào nền kinh tế của họ như thế nào? Chúng ta có thể kẻ đường ranh phân cách giữa một bên là các doanh nghiệp tự do trên thị trường toàn cầu, và một bên là những quyết định chiến lược của các tổ chức đầu tư do chính phủ kiểm soát theo đường lối chính trị ở đâu?
Trong một chuyến đi vòng quanh châu Âu gần đây, tôi đã nói chuyện với người đứng đầu của một ngân hàng trung ương lớn của châu Âu. Ông đã kể
cho tôi nghe về chuyến viếng thăm Thượng Hải gần đây của ông. Khi mời khách đi du lịch quanh thành phố, chính phủ Trung Quốc đã đưa ông đi bằng xe hơi 35 phút ra khỏi Thượng Hải tới một “thành phố” nhỏ với các cao ốc văn phòng lớn, mới tinh, hoàn toàn bị bỏ trống. Vị quan chức châu Âu hỏi vị quan chức nước chủ nhà: “Các tòa nhà này thật hùng vĩ, nhưng tất cả còn bị bỏ trống. Tại sao vậy?”. Vị chủ nhà Trung Quốc trả lời: “Các cao ốc văn phòng sẽ không bị bỏ trống lâu. Chúng sẽ sớm trở thành nơi làm việc của các nhân viên thuộc cơ quan phụ trách đầu tư nước ngoài mới của chính phủ chúng tôi.” Khách lại nhận xét: “Tôi có thể thấy chính phủ các ngài đang xác định lại khái niệm về dự trữ của ngân hàng Trung ương. Chúng không còn là dự trữ nữa; chúng là vốn đầu tư của chính phủ các ngài đang sẵn sàng tham gia vào một cuộc mua bán trên toàn cầu.” Và câu trả lời của vị quan chức nước chủ nhà Trung Quốc: “Có lẽ đúng là như vậy” đã dẫn đến một câu hỏi: Liệu các nền kinh tế công nghiệp hóa trên thế giới có một chiến lược hiệu quả để hiểu được bản chất của những dòng đầu tư đang được dự tính này hay không?
Thêm vào mớ bòng bong này, hầu hết các quỹ đầu tư quốc gia (SWF), thật mỉa mai, cho đến nay đều có xu hướng quan tâm chủ yếu đến các khoản đầu tư dài hạn, không sử dụng đòn bẩy tiền vay và khá là thụ động tại các doanh nghiệp phương Tây. Nói cách khác, đến nay, thật may mắn là các quỹ này có nhiều khả năng sẽ là những cơ quan cuối cùng bán ra trong sự sụp đổ của thị trường. Trong chương kế tiếp, tôi sẽ thảo luận về nhóm những nhà đầu tư quốc tế lưu động được gọi là các quỹ đầu cơ phòng vệ (hedge funds). Có thể là trong bối cảnh suy yếu kinh tế toàn cầu phổ biến rộng rãi, kịch bản sau đây mở ra: Các quỹ đầu cơ phòng vệ bỏ qua, hoặc không đặt niềm tin vào nền kinh tế toàn cầu, trong khi các quỹ đầu tư quốc gia kết hợp chặt chẽ với các ngân hàng trung ương trong thế giới công nghiệp để chống lại chủ nghĩa bi quan bằng các khoản đầu tư lớn trên các thị trường của thế giới công nghiệp. Tình hình càng phức tạp hơn khi một số SWF nhỏ và độc lập hơn có thể bán chứng khoán ra dưới dạng đầu tư vào loại quỹ đầu cơ tư nhân thông
qua những nhóm thương mại quốc tế, gọi là quỹ của quỹ (funds of funds).
Những gì mà tất cả những điều này tạo nên là thế giới ngày nay dường như đang chuyển ra khỏi mô hình toàn cầu hóa và các thị trường tự do không bị ràng buộc của những thập kỷ gần đây hướng tới một cái gì đó giống như mô hình toàn cầu hóa của thế kỷ XIX - một kỷ nguyên mới, hám lợi hơn của các đối thủ không xuất đầu lộ diện, của việc thực hiện các giao dịch và những căng thẳng dựa trên các chương trình nghị sự chính trị quốc gia đầy tham vọng và những chuyển dịch vốn dưới sự kiểm soát của chính phủ. Sự phối hợp chính sách đầy thiện chí và ngây thơ của nhóm các quốc gia công nghiệp hóa G7 theo định hướng dân chủ trong những thập kỷ gần đây, tuy rất ít ỏi, nhưng cũng đang mờ nhạt đi rất nhanh. Cái được gọi là thế giới thị trường tự do kiểu Anglo-Saxon đang bị vây hãm. Kết cục là khả năng toàn bộ thị trường tài chính toàn cầu bị gián đoạn đang tăng lên theo cấp số nhân.
Chưa thuyết phục ư? Một trong những điều góp phần tạo nên mức giá dầu cao ngất như hiện nay là sự tích trữ của các chính phủ có quyền lực. Trung Quốc, Ấn Độ, và các nước tiêu thụ chính đang thao túng thị trường thế giới bằng cách tăng dự trữ năng lượng với những kỳ vọng bán được giá cao hơn. Như nhà phân tích Harald Malmgren đã lưu ý: “Những kỳ vọng về giá tăng cũng đang làm giảm động lực (của các doanh nghiệp sản xuất dầu) trong việc đẩy mạnh sản xuất khi mà dầu ở trên mặt đất giống như một tài sản có giá trị ngày càng tăng.” Các thực thể khác trên toàn cầu hiện đang dự trữ dầu gồm các dịch vụ quân sự, nông dân, các công ty vận tải, các nhà sản xuất phân bón và nhựa, các nhà máy điện, và những người sử dụng với quy mô lớn. Cũng cần lưu ý rằng nếu giá năng lượng tiếp tục tăng cao hơn nữa thì tác động của nó đến giá lương thực thế giới sẽ rất lớn, vì giá phân bón và giá vận chuyển trong nông nghiệp tăng vọt.
Ngày nay, thế giới đang trải qua một sự thay đổi mang tính kiến tạo trong lĩnh vực tài chính. Hoa Kỳ, một quốc gia từng là thành trì của niềm tin vào
sự minh bạch, quy định của pháp luật, môi trường tốt, và các điều kiện tổng thể đã giúp tăng năng suất kinh tế thì giờ đây bắt đầu được nhìn nhận với một số thái độ hoài nghi trên khắp thế giới. Nước Mỹ nhận ra mình ở một vị thế bấp bênh tại chính thời điểm mà các quốc gia khác đã cạnh tranh với các hoạt động nâng cao năng suất của Mỹ và đã bắt đầu trở thành những mục tiêu tương đối hấp dẫn đối với hoạt động đầu tư trên toàn cầu. Kết quả là trung tâm của hoạt động tài chính toàn cầu đã bắt đầu dịch chuyển xa dần thực tế vốn đặt Mỹ vào tâm chấn động của mọi thứ liên quan đến tài chính - không khác mấy so với tình huống mà nước Anh gặp phải trong thời kỳ sau Chiến tranh Thế giới thứ I.
Vẫn chưa thuyết phục ư? Gần đây, một chuyên gia của một ngân hàng Thụy Sĩ đã mô tả cho tôi tiến trình tài trợ (với số tiền khiêm tốn) của ngân hàng cho đợt bán cổ phiếu lần đầu cho công chúng của một công ty Trung Quốc. Trong việc thực hiện giao dịch, người Trung Quốc thực hiện một động thái không bình thường là bỏ qua các trung tâm tài chính New York và London, theo truyền thống là giao điểm của các trung gian tài chính toàn cầu, và trực tiếp giao dịch với các nguồn tài chính Dubai - một điều mà có thể không bao giờ được nghe thấy trong một thập kỷ trước. Do sự bất ổn xung quanh hệ thống tài chính Mỹ hiện nay, theo sau thảm họa cho vay dưới chuẩn, Mỹ đang có nguy cơ mất đi sự độc đáo đã từng được biết đến như là một nơi đáng tin cậy cho đầu tư toàn cầu.
Đó là lý do tại sao các thị trường vốn trên thế giới đã trở nên bấp bênh thực sự. Thế giới đang có nguy cơ mất đi chỗ dựa, mất đi tiếng nói tuy còn khiếm khuyết nhưng đáng tin cậy trong việc kiên quyết ủng hộ thương mại tự do và các thị trường vốn mở - đó là nước Mỹ. Nhưng để thật sự hiểu được những rủi ro xảy ra phía trước, chúng ta cần phải biết làm thế nào mà chúng ta lại lâm vào tình trạng khó khăn hiện tại. Nói cách khác, toàn cầu hóa đã xảy ra như thế nào và những mối nguy hiểm đáng sợ đang ẩn nấp ngay quanh đây là gì?
2. Nguồn tiền lớn đầy bất trắc
Một ngày ngột ngạt vào tháng 8 năm 1987, tôi nhận được một cuộc gọi tại văn phòng tư vấn của mình ở Washington. Cuộc gọi đó làm cá nhân tôi hiểu rõ rằng nguồn tiền mới trong nền kinh tế toàn cầu đang thay đổi các quy tắc của trò chơi một cách triệt để như thế nào. Trước cuộc gọi đó, tôi đã từng có cảm giác rằng dù gì đi nữa thì hệ thống toàn cầu ngày càng liên kết chặt chẽ với nhau này đang giải phóng các lực lượng thị trường vô cùng hùng mạnh. Nhưng, nhờ cuộc gọi đó, tôi nhanh chóng khám phá ra việc toàn cầu hóa tài chính đã làm thế giới và ngay cả đối với các nền tài chính hiệu quả nhất lúng túng như thế nào.
Cuộc gọi ấy là của vị đại sứ Singapore tại Mỹ, Tommy Koh. Đó là một ngày cuối mùa hè ở Washington D.C, nơi mà bầu khí quyển với độ ẩm cao đang bao phủ cả thành phố, trong khi đó hầu hết các cư dân đang đi nghỉ mát ở bãi biển. Vị đại sứ hỏi tôi rằng “Ngài đã bao giờ đi du lịch ở Singapore chưa?”. Tôi trả lời “Tôi mới đi Tokyo và Hongkong thôi”. Vị đại sứ gợi ý rằng nếu vào một chuyến đi nào đó của tôi trong thời gian sắp tới mà ghé thăm Singapore thì tôi có thể kiếm được một hợp đồng tư vấn lớn với ngân hàng trung ương Singapore (Monetary Authority of Singapore - MAS, Cơ quan Quản lý Tiền tệ Singapore). Chúng tôi đã hẹn một ngày mùa thu, tôi sẽ ghé thăm Singapore. Thời điểm đó hóa ra chỉ chưa đầy một tuần sau khi thị trường chứng khoán thế giới sụp đổ.
Singapore, một nước nhỏ thuộc các nền kinh tế vành đai Thái Bình Dương, là sản phẩm sáng tạo thành công của Lý Quang Diệu. Ông điều hành đất nước như một kẻ chuyên chế nhân từ. Tôi biết đến danh tiếng của ông như là một nhà chiến lược toàn cầu tài ba xuất chúng, và tự hỏi liệu trong chuyến đi này tôi có được nghe những câu chuyện về sự sáng suốt của Lý Quang Diệu đối với những thay đổi của nền kinh tế toàn cầu không. Tôi không được
chuẩn bị sẵn sàng cho những gì sắp diễn ra.
Máy bay của tôi đáp xuống Singapore vào đầu giờ tối. Khi người hướng dẫn trong chính phủ Singapore và tôi ngồi trên chiếc xe limo đi thăm khắp thủ đô, lướt qua mắt chúng tôi là từng dãy những khách sạn đẹp, với phong cảnh tươi sáng lung linh và những vòi phun nước lấp lánh. Nhưng khi chúng tôi đến khách sạn mà bộ phận lễ tân trong chính phủ Singapore đã lựa chọn cho tôi thì hóa ra đó lại là một khách sạn nhỏ hẹp. Căn phòng của tôi nồng nặc mùi khói thuốc lá, xen lẫn chút mùi hôi từ nhà vệ sinh và mùi chất tẩy rửa. Qua điện thoại, tôi thất vọng mô tả căn phòng đó cho vợ tôi, Vickie, đang ở Washington. Tôi nói: “Sau một chuyến bay dài, anh đã chờ đón một thứ gì đó thoải mái hơn và thơm tho hơn.”
Buổi sáng hôm sau, người lễ tân đã gặp tôi trong tiền sảnh khách sạn. Ông ấy nói: “Rất tiếc khi biết ông không cảm thấy thoải mái với căn phòng đó.” Tôi im lặng vì đang cố nhớ lại xem có điều gì khác mà tôi có thể đã vô tình nói qua điện thoại với một chút bực bội không. Trong khi lái xe đến ngân hàng trung ương, tôi bắt đầu tự hỏi “Tại sao tôi ở đây?” Tôi nghĩ đến các biển hiệu cảnh báo tại sân bay về mức án tử hình dành cho những kẻ buôn bán thuốc phiện, những câu chuyện về những trận đòn đối với các sinh viên đại học người Mỹ vì những hành động cư xử xấu và về việc cấm nhai kẹo cao su. Tuy nhiên, trực giác đã nói với tôi rằng đây có thể trở thành một cơ hội kinh doanh mới hoặc ít nhất cũng là một sự trải nghiệm hấp dẫn, vì vậy tôi tiếp tục đi.
Nhiều năm nay, chính phủ Singapore đã thuê Richard Helms, cựu giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) làm tư vấn cho mình. Ông Helms, một người bạn thân của Lý Quang Diệu, vị “cha đẻ” của Singapore, lại thiên về các vấn đề an ninh quốc gia nhiều hơn. Tuy nhiên, hiện tại, ngân hàng trung ương lại cần nhiều thông tin về những điều có thể xảy ra khi các quốc gia G7 tìm cách phát triển thịnh vượng trong một hệ thống quốc tế đang toàn
cầu hóa nhanh chóng, hơn là những phân tích về nước Nga. Các nhà kinh tế học tại ngân hàng trung ương rất chuyên nghiệp: Họ có thể nhìn thấy toàn cầu hóa đang đến gần. Tương tự như các ngân hàng trung ương khác trong khu vực, Cơ quan quản lý tiền tệ Singapore (MAS) giống như một công ty thương mại tài chính khổng lồ, một Goldman Sachs được chính phủ tài trợ.
“Các cuộc gặp của ông đã diễn ra tốt đẹp”, bộ trưởng Bộ Tài chính Richard Hu nói với tôi vào ngày thứ hai trong chuyến thăm. Ông nói: “Tất cả những gì ông cần bây giờ là một cái bắt tay đơn giản với Lãnh tụ, một cuộc gặp mặt năm phút.” Tất nhiên, Lãnh tụ ở đây chính là Lý Quang Diệu, người mà Richard Nixon coi là người tài trí nhất mà ông đã từng gặp. Bất ngờ trước tình huống khó xử này, bản thân tôi đã cố gắng để gây được ấn tượng tốt. Khi tôi đến một tòa nhà được xây dựng theo kiểu thực dân với các sân bóng cricket bao quanh, một nhân viên lễ tân dẫn tôi vào một phòng họp có kích thước trung bình.
Sau một vài phút, Lãnh tụ bước vào. Ông mặc một chiếc áo sơ mi trắng không cổ hồ cứng. Nét mặt ông thể hiện rằng: “Tôi không dễ dàng chịu đựng những kẻ ngu xuẩn.” Ông ngồi ở đầu chiếc bàn họp. Chúng tôi ngồi yên lặng khoảng hai ba phút. Lúc đó, ông ngước lên nhìn chăm chú vào chiếc quạt trần đang quay trên đầu chúng tôi. Sau đó, ông nhìn tôi với một vẻ cau có. Ngay lập tức tôi biết lý do tại sao các nhân viên trong ngân hàng trung ương, những người đã tham dự vào mọi khoảnh khắc cho đến thời điểm đó, đã biến mất khỏi phòng. Vị Lãnh tụ nói với vẻ vô cùng thất vọng “Họ đưa đến cho tôi một đứa trẻ để làm cố vấn.” Ông ấy tiếp: “Ông đã từng ở Tokyo. Trước sự sụp đổ của thị trường chứng khoán do những chính sách tài khóa vô trách nhiệm của các vị, họ chắc hẳn đã sẵn sàng rút khỏi thị trường Mỹ.”
Bàn tay đầy mồ hôi của tôi nắm chặt vào ghế. Vẻ cau có của vị Lãnh tụ càng lúc càng tăng lên. Tôi cho rằng đây không phải là một dấu hiệu tốt. Ông ấy đang nản chí và chuẩn bị đưa ra quyết định để giữ lại hợp đồng cho bạn
mình, Helms. Một cán bộ của ngân hàng trung ương trước đó đã nói rằng nếu công ty của tôi được thuê, Helms có khả năng sẽ bị mất hợp đồng tư vấn.
Lấy hết can đảm để phản bác lại ý kiến của vị Lãnh tụ, tôi trả lời rằng trong thực tế, tôi đã gặp gỡ tất cả các công ty bảo hiểm Nhật Bản và cả Bộ Tài chính, ở đó người ta không hề hoảng loạn. Tokyo dường như đang lập kế hoạch mua lớn từ thị trường Mỹ. Có nghĩa là: Cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán dường như sắp qua đi và tình hình sẽ ổn định tương đối nhanh do bản chất liên kết chặt chẽ mới của hệ thống toàn cầu.
“Đó là điều vớ vẩn nhất mà tôi từng nghe,” vị Lãnh tụ nói lớn bằng giọng Oxford và quay qua tìm người trợ lý như thể là ông chuẩn bị tuyên bố cuộc gặp mặt kết thúc. Ông ấy nói thêm rằng “Người của chúng tôi ở New York thường xuyên nói chuyện với người ở trong nước. Họ biết tình hình thị trường và họ chỉ nói điều ngược lại với những gì ông nói. Đây là một cuộc trò chuyện vô ích.”
Tại thời điểm này, tôi nhận thấy rằng tôi không có gì để mất. Với một hợp đồng sắp tuột khỏi tay, tôi đã phản ứng lại một cách cứng rắn. Tôi bắt đầu lên tiếng: “Thưa ngài, mặc dù tôi rất tôn trọng ý kiến của ngài nhưng tôi tin tưởng chắc chắn rằng phân tích của tôi là chính xác.” Tôi cảm thấy như có chất adrenaline đang chảy trong cơ thể khiến tim mình đập nhanh hơn. Tôi tiếp tục. Tôi không thể dừng lại được. “Các vị cố vấn New York của ngài có thể thông minh tài trí, nhưng họ không có cùng quan điểm với tất cả các nhà đầu tư lớn ở Tokyo. Và tôi có thể đảm bảo với ngài rằng người Nhật sẽ là những khách hàng lớn của thị trường Mỹ trong tuần tới. Nếu như nền kinh tế Mỹ đi xuống, họ có thể mất rất nhiều. Song cùng với việc nhìn thế giới trong các điều kiện toàn cầu, họ vẫn có niềm tin lâu bền vào Mỹ như một điểm đến cho các hoạt động đầu tư”.
Tôi tin rằng, các nhà kinh tế học Singapore đã phân tích dựa trên mô hình tài chính cũ. Phân tích này cho rằng Mỹ vẫn còn là một hệ thống tài chính và
kinh tế khép kín. Thâm hụt ngân sách lớn của Mỹ vào lúc đó có thể sẽ biến sự sụp đổ của thị trường chứng khoán thành một vấn đề lớn chứ không chỉ là một sự kiện tài chính đơn thuần. Sự sụp đổ này sẽ dẫn đến những thảm họa kinh tế với quy mô rộng lớn hơn. Mô hình này chỉ ra rằng những khoản tiền dự trữ trong nước sẽ phải dùng để bù vào khoản thâm hụt, do đó không đủ nguồn tài chính để khôi phục thị trường chứng khoán.
Hiểu biết của tôi dựa vào việc nghe thông tin từ phía người Nhật đã thuyết phục tôi rằng các nền kinh tế toàn cầu đang trải qua một thay đổi cơ bản. Việc chuyển các khoản tiết kiệm ra nước ngoài đang khiến cho các mô hình tài chính cũ trở nên lỗi thời. Đó là lý do tại sao tôi dự đoán thị trường chứng khoán Mỹ sẽ bật lên từ sự sụp đổ, một phần được kích thích bởi việc nước ngoài mua hàng của Mỹ và cũng bởi các nhà đầu tư Mỹ hiện nay có thể vay mượn trong các thị trường nước ngoài dễ dàng hơn để mua chứng khoán Mỹ. Hóa ra là hệ thống tài chính được toàn cầu hóa mới này đã ngăn chặn một vụ bán ra đại hạ giá mang tính quốc tế đối với cổ phiếu của Mỹ. Toàn cầu hóa tài chính đã giúp cứu vãn tình hình.
Tuy nhiên, điều mà lẽ ra là một cái bắt tay nhanh chóng lại chuyển thành một cuộc trao đổi khá dài và quyết liệt. Tất cả những gì tôi nói, Lý Quang Diệu đều nghi ngờ. Dự đoán của tôi về sự bùng nổ trong hoạt động mua vào của người Nhật là một dự đoán có cơ sở, dựa trên bản chất và đặc điểm chung của những câu hỏi mà người Nhật đã đặt ra một vài ngày trước đó. Trực giác đó, dự đoán có cơ sở đó hóa ra lại đúng, thậm chí sớm hơn so với dự đoán của tôi. Nền kinh tế Mỹ tiếp tục tồn tại sau vụ sụp đổ và khởi sắc chính xác là nhờ bản chất toàn cầu hóa của hệ thống tài chính mới này.
Mặc cho những lý lẽ thông thường và bầu không khí chính trị ở Mỹ, người Nhật cảm thấy một niềm tin sâu sắc rằng Mỹ là một nơi đầu tư tuyệt vời. Mỹ đã cam kết trung thành với các thị trường tự do, luồng vốn tự do và một tương lai tư bản doanh nghiệp. Tuy nhiên, tôi nói với các bạn đồng nghiệp
Singapore ở ngân hàng trung ương rằng cuộc trò chuyện của tôi với Lãnh tụ là một thất bại, một trong những cuộc phỏng vấn tệ nhất tôi đã từng trải qua. Nixon đã đúng - người đàn ông này rất tài trí và cuộc đàm luận diễn ra vô cùng căng thẳng và với nhịp độ nhanh, chỉ khi bước lên máy bay tôi mới thấy nhẹ nhõm.
Khoảng một tháng sau, sau khi buổi phỏng vấn tồi tệ đó đã gần như biến mất khỏi tâm trí tôi, Đại sứ Koh gọi đến văn phòng của tôi: “Hợp đồng của ông đã được ký và sẵn sàng chờ ông đến lấy.” Rõ ràng, Lãnh tụ đã bớt khắt khe hơn vì hầu như tất cả những gì tôi đã dự đoán ở Singapore hóa ra lại đúng. Ngân hàng trung ương tiếp tục trở thành một khách hàng luôn luôn đặt ra những các câu hỏi quan trọng hàng đầu về hệ thống kinh tế toàn cầu. Nhưng tôi sẽ không bao giờ quên sự hoài nghi đáng ngạc nhiên của Lý Quang Diệu khi nghe nói Mỹ có thể sống sót, thậm chí còn phát triển thịnh vượng, trong hoàn cảnh vừa thâm hụt ngân sách và vừa thâm hụt tài khoản vãng lai. Thực ra, trong cuộc gặp đó tôi đã đưa ra một phép so sánh tương tự rằng khoản nợ của Mỹ trong suốt thời gian cuối thế kỷ XIX do một nước Mỹ đang công nghiệp hóa tạo nên trong quá trình xây dựng những tuyến đường sắt phía Tây đã không thể ngăn Mỹ vượt qua Vương quốc Anh, chủ nợ lớn nhất của mình trong cả hai lĩnh vực thu nhập quốc gia và vốn hóa thị trường chứng khoán. Nhưng Lãnh tụ chắc không có khái niệm gì về điều đó, chắc chắn vì phân tích lạc quan của tôi hoàn toàn trái với những tư duy phổ biến. Vả lại, ông cũng có thể đang kiểm tra tôi để xem liệu tôi có thể ứng phó được trước những lời lẽ khó nghe không.
Tại sao mặc dù bị thâm hụt mà Mỹ vẫn tiếp tục sống sót và phát triển thịnh vượng có thể được tóm tắt bằng một từ: toàn cầu hóa. Nước Mỹ mới vừa là một hệ thống khép chặt; thì ngay sau đó, nó là một phần của một mạng lưới toàn cầu có sự liên kết chặt chẽ với nhau. Bất chấp hậu quả ra sao, những di chuyển của nguồn vốn tiết kiệm trên toàn cầu đang xác định lại và định hình lại toàn cảnh kinh tế thế giới.
Khi hầu hết mọi người hình dung về toàn cầu hóa, họ không thể ngay lập tức hình dung được về những thương nhân trên thị trường tài chính hoặc hàng nghìn tỷ đô la đang lưu thông khắp nơi trên thế giới. Họ nghĩ đến thương hiệu độc quyền Gà rán Kentucky xuất hiện ở giữa trung tâm Bắc Kinh, hay những chiếc máy tính Dell hay Gateway đang được lắp ráp với giá thấp nhất bằng cách sử dụng một số bộ phận được sản xuất tại Châu Á, với mỗi nền kinh tế riêng biệt đều đưa ra những lợi thế tương đối độc đáo của nó. Họ nghĩ đến việc gọi một cuộc điện thoại yêu cầu trợ giúp kỹ thuật về một sản phẩm mua ở Toledo, Ohio, và nói chuyện với một kỹ thuật viên ở New Delhi. Hình ảnh của sự kiện ra mắt con chip máy tính làm cho cuộc sống hàng ngày trên toàn cầu hiệu quả hơn, tạo ra nhiều sản phẩm hơn với chi phí và công sức ít hơn. Nhưng tất cả những phát triển đáng kinh ngạc này diễn ra như thế nào? Nhân tố nào đã khiến cho tất cả những phát triển này bắt đầu?
Tôi tin là câu trả lời nằm trong việc xem xét cách thức thị trường tài chính được quốc tế hóa. Thảo luận về các dòng vốn đầu tư có thể không thú vị bằng thảo luận về những thủ thuật máy tính mới được phát triển bởi các chuyên gia sinh sống trên các lục địa khác nhau, nhưng các thị trường tài chính chính là nhân tố khiến cho quá trình toàn cầu hóa bắt đầu. Trước những năm 1980, Mỹ là một hệ thống tương đối đóng, ngoại trừ đối với một số hoạt động thương mại toàn cầu mà phần lớn là trong lĩnh vực hàng hóa. Ngoại trừ số tiền mà các nhà sản xuất dầu chuyển qua các ngân hàng ở Mỹ vào các khoản đầu tư tại Mỹ La-tinh thì nguồn vốn có xu hướng được giữ ở trong nước (trừ khi cần phải tài trợ cho hoạt động thương mại). Điều này như thể là mỗi quốc gia sở hữu một nguồn vốn riêng mà từ đó họ cấp vốn (tài trợ) cho việc mở rộng kinh tế của mình. Các thị trường tài chính đơn giản, không nhộn nhịp, không hiệu quả và tương đối dễ đoán đối với các nhà hoạch định chính sách. Thật không may, hệ thống này chỉ có những phương tiện tương đối hạn chế trong việc tài trợ cho các doanh nghiệp mới thành lập và đánh giá rủi ro đầu tư mới. Các ngân hàng thích đầu tư vào các doanh nghiệp có danh tiếng, càng lớn càng tốt. Các doanh nghiệp nhỏ gần như phải
tự xoay sở bằng nguồn vốn của mình. Hầu như có rất ít những ý tưởng về việc làm thế nào để tăng cường hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp sắp được thành lập, nguồn cung cấp việc làm mới chủ yếu.
Tuy nhiên, năm 1979, Bộ Lao động Mỹ dưới thời Tổng thống Carter đã sửa đổi các quy định về cách thức mà các quỹ lương hưu có thể đầu tư tài sản của họ. Các quỹ lương hưu, từng chỉ được phép đầu tư vào các cổ phiếu bluechip[7], thì lúc này theo quy định mới đã được phép đầu tư vào các công ty nhỏ hơn và ít có danh tiếng hơn. Đây là một đặc ân đối với ngành đầu tư mạo hiểm, ngành mà 44% vốn được nhận từ các quỹ lương hưu từ năm 1980 đến 2002. Hàng tỷ đô la vốn không được sử dụng của Mỹ đã được huy động để phục vụ cho các mục đích sinh lời hơn.
Theo quan điểm phổ biến thì trong 25 năm gần đây, chỉ riêng vốn của những người giàu đã đủ khôi phục được nền kinh tế Mỹ - cái gọi là thuyết thâm nhập của sự thịnh vượng. Trên thực tế, dù có chủ tâm hay không thì cả nước đều đã đóng góp cho việc khôi phục nền kinh tế khi các khoản lương hưu công và tư nhân cùng các phương tiện tài chính trước đây khá bảo thủ đã được tung ra thị trường. Quốc hội chấm dứt các quy định về mức trần đối với lãi suất trả cho các tài khoản tiết kiệm. Cơ quan quản lý cũng đã giảm bớt lượng vốn mà các ngân hàng đã được yêu cầu phải giữ lại làm tiền dự trữ; giảm bớt các hạn định về đầu tư ngân hàng được đặt ra vào những năm 1930 sau cuộc Đại Suy thoái. Trong năm 1978, Quốc hội với Đảng Dân chủ chiếm đa số đã cắt giảm tỷ lệ thuế đánh vào thu nhập từ chứng khoán (lợi vốn)[8]. Tiếp đến là việc thành lập tài khoản 401(k)[9], một bước phát triển đặc biệt trong việc giải phóng và triển khai vốn tài chính.
Đến giữa những năm 1980, thị trường tài chính được tự do hóa của Mỹ đã đầu tư vốn vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn một thời bị lãng quên thông qua một hệ thống tài chính được hiện đại hóa, nhiều tầng bậc. Hệ
thống này trao vai trò quan trọng cho một loạt các công cụ tài chính: quỹ cổ phần tư nhân (private equity funds), phát hành công cụ nợ riêng lẻ (private debt placements), quỹ đầu tư phòng vệ, trái phiếu sinh lợi cao, các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ hồi sinh doanh nghiệp, và quỹ đầu tư vốn trung gian tư nhân. Rốt cuộc, trên quy mô toàn cầu, các giao dịch chuyển tiền tiết kiệm qua biên giới mới đã góp phần vào đầu tư rộng rãi trên toàn cầu trong những giai đoạn mới bắt đầu và giai đoạn phục hồi kinh tế (sự sụp đổ của hệ thống tỷ giá hối đoái cố định Bretton Woods năm 1971 và sự dịch chuyển sang một chế độ quốc tế của tỷ giá hối đoái thả nổi cũng đã góp phần vào việc mở ra các dòng vốn đầu tư).
Các ngân hàng và các công ty đầu tư tại New York, London, Tokyo, Paris, Frankfurt được quốc tế hóa vì một lý do khác: tiến bộ trong truyền thông và công nghệ máy tính cho phép các giao dịch chuyển tiền và chứng khoán quốc tế được thực hiện ngay lập tức. Bạn chỉ cần nhấn nút là tiền đã được chuyển đi khắp thế giới. Các quỹ đầu tư phòng vệ của Mỹ nằm trong số các tổ chức đầu tiên tận dụng lợi thế của những thay đổi này, nhận thức được rằng vốn không còn bị giới hạn trong những ao hồ riêng biệt, mà đã được hòa nhập vào một đại dương mênh mông, không biên giới của tiền bạc. Đồng thời, các thị trường tài chính đơn lẻ chính trên thế giới đã bắt đầu được tự do hóa cũng đẩy mạnh tốc độ giảm điều tiết và quản lý[10].
Ở châu Âu, Đức đã tự do hóa các dòng vốn (có nghĩa là các cơ quan có thẩm quyền cho phép chuyển tiền tự do ra khỏi đất nước) sớm hơn Pháp. Tuy nhiên, người Pháp vô tình lại đóng một vai trò chủ chốt trong việc phổ biến tự do hóa tài chính ra khắp Châu Âu. Bắt đầu năm 1981, Pháp đã thực hiện một thử nghiệm tai hại bằng những biện pháp kiểm soát vốn, cố gắng giữ vốn khỏi bị chuyển ra nước ngoài. Việc kiểm soát diễn ra nghiêm ngặt đến nỗi mà các du khách người Pháp không thể mang theo ra nước ngoài nhiều hơn một khoản tiền tương đương 427 đô la và bị cấm sử dụng thẻ tín dụng khi ra khỏi đất nước. Nền kinh tế Pháp đã bị trì trệ. Vài năm sau, để cứu nền
chính trị nước mình, Tổng thống François Mitterrand đã thay đổi đường lối hoàn toàn và thực hiện tự do hóa các dòng vốn một cách mạnh mẽ và triệt để.
Sự cải tổ chính sách hoàn toàn của Mitterrand đã trở thành hiện tượng dễ lan truyền. Ngay lập tức, Uỷ ban Châu Âu (EC) thúc giục tất cả các nền kinh tế châu Âu khác ủng hộ chỉ thị xóa bỏ các biện pháp kiểm soát vốn và cho phép chuyển tiền quốc tế tự do. Tại thời điểm này, xuất hiện một cuộc cạnh tranh quốc tế mới giữa các quốc gia đang chạy đua quyết liệt để trở thành thỏi nam châm mạnh nhất toàn cầu nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư mới được giải phóng, vì nguồn vốn này đang được lưu thông trên khắp thế giới. Cuộc chạy đua diễn ra để xem quốc gia nào có thể giải phóng hoàn toàn các thị trường tài chính của mình và cấu trúc lại nền kinh tế nhanh nhất, thể hiện bản thân như là một quốc gia sẵn sàng và khao khát nhất nhằm thu hút thêm vốn đầu tư từ nước ngoài.
Chẳng bao lâu, nguồn vốn đã được luân chuyển từ nước này sang nước khác, theo sau là một làn sóng buôn bán hàng hóa và dịch vụ mạnh mẽ trên toàn cầu. Như các nhà kinh tế học đã đánh giá, trong quá khứ thương mại thường đi trước - nó luôn luôn “điều khiển” các luồng vốn. Bây giờ tình hình đã đảo ngược hoàn toàn. Những mong muốn thu hút vốn đang điều khiển thương mại tự do. Trong vòng hai thập kỷ, đã có hơn hai trăm thoả thuận thương mại tự do giữa các quốc gia được ký kết vì họ đang cố gắng gây ấn tượng với thị trường vốn thế giới bằng các thị trường tự do và cởi mở không chỉ đối với các luồng vốn đầu tư mà còn đối với các loại hàng hóa và dịch vụ. Vốn toàn cầu đặc biệt được thu hút về Mỹ nhờ các cam kết của Ronald Reagan về một mô hình tư bản doanh nghiệp vì sự tăng trưởng; cũng như nhờ sự tuyên truyền của Bill Clinton cho tự do thương mại và các thị trường tài chính tự do.
Sự chuyển đổi doanh nghiệp và tự do thương mại đã đánh dấu sự ra đời của
toàn cầu hóa. Các nỗ lực nhằm xóa bỏ các quy định đối với các thị trường tài chính đã buộc các cánh cửa của hệ thống thương mại toàn cầu phải mở rộng. Máy vi tính và công nghệ mới nổi hiện nay đã cho phép truy cập miễn phí để cải tổ các ngành công nghiệp sản xuất và dịch vụ trên khắp thế giới. Sự phát triển của việc chuyên chở bằng container cũng làm tăng đáng kể hiệu quả thương mại quốc tế nhờ loại bỏ được sự lặp đi lặp lại việc đóng kiện, tháo dỡ kiện hàng và cho phép phân phối nhanh chóng với sự hỗ trợ của máy vi tính.
Lúc đầu, các khoản đầu tư mới trên toàn cầu thông qua các công ty đầu tư mạo hiểm và các hình thái trung gian tài chính khác đã hướng vào mục tiêu cung cấp tài chính cho các khu vực doanh nghiệp mới chủ yếu là ở Mỹ, các nước Châu Âu, Vương quốc Anh, và Canada. Nhưng rốt cuộc Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Israel, và các nước Bắc Âu đã trở thành một phần quan trọng của môi trường đầu tư toàn cầu mới.
Từ những năm 1980, hệ thống tài chính quốc tế đã phát triển những kỹ thuật quản lý rủi ro mới, và hàng loạt các thủ thuật về tài chính mới với mục tiêu là làm cho vốn đầu tư có chi phí thấp hơn và sẵn có hơn đối với các doanh nghiệp. Bằng nhiều cách khác nhau, các nỗ lực đó đã gặt hái thành công. Chứng khoán hóa là một quá trình phức tạp của hoạt động tài chính cho phép đầu tư toàn cầu được mở rộng và chia thành nhiều dòng thu nhập để giảm bớt rủi ro (trừ khi toàn bộ hệ thống tài chính toàn cầu gặp căng thẳng như trong Cuộc Đại khủng hoảng Tín dụng năm 2007-2008). Chứng khoán hóa đã khiến việc cung cấp tài chính cho cuộc cách mạng doanh nghiệp toàn cầu hiệu quả hơn rất nhiều. Các doanh nghiệp nhỏ có triển vọng từng bị các ngân hàng lớn bỏ rơi có thể dễ dàng vay được vốn. Đó là tin tốt lành. Nhiều khi chứng khoán hóa giống như một loại men làm bánh mì nở lên. Một số chuyên gia tài chính lão luyện gom các tài sản tài chính của họ (mà đôi khi là các khoản nợ thế chấp) vào thành một khối, chia chúng thành các luồng thu nhập khác nhau và bán từng phần khác nhau đó như là một loại chứng khoán được bảo đảm bằng tài sản[11]với một khoản phí. Nhưng quá trình “đóng
gói” tài chính được gọi là chứng khoán hóa này đã tự tạo ra một loạt các vấn đề mới.
Tin xấu là mặc dù chứng khoán hóa đã tạo ra một cuộc cách mạng trong việc cấp vốn cho những đối tượng chịu rủi ro kinh tế và cho phép cung cấp tài chính rộng mở hơn cho nền kinh tế, điều này cũng có cái giá của nó. Trong suốt thời gian khủng hoảng, các thị trường có lý do để lo lắng, bởi vì mạng lưới liên kết tài chính phức tạp được tạo ra bởi chứng khoán hóa đã trở nên rất khó hiểu. Hãy chứng kiến sự gieo rắc các gói “chất thải độc hại” nặc danh trong sự sụp đổ do cho vay dưới chuẩn, bạn sẽ thấy điều đó!
Bên cạnh đó, mặc dù chứng khoán hóa là điều cần thiết để tạo ra của cải nhưng nó lại phức tạp đến nỗi rất ít người có thể hiểu được những hoạt động của nó, đặc biệt là trong thời kỳ bất ổn của thị trường tài chính. Thực tế là các nước công nghiệp đã trao quyền kiểm soát hệ thống tài chính cho một nhóm nhỏ khoảng năm nghìn chuyên gia thị trường có chuyên môn cao ở khắp các ngân hàng đầu tư, các quỹ đầu tư phòng vệ và các cơ quan tài chính khác. Đây là số ít những người biết quá trình chứng khoán hóa diễn ra thế nào, đặc biệt là trong suốt thời gian khủng hoảng. Và thậm chí đôi khi chính họ cũng còn mơ hồ rằng liệu các tài sản được chứng khoán hóa có phản ánh giá trị đã công bố hay không. Tuy nhiên, muốn có một ý nghĩ thậm chí còn đáng sợ hơn ư? Hãy tưởng tượng xem Quốc hội Mỹ đang cố gắng nâng các quy định lên thành luật một cách hiệu quả cho một quá trình nào đó cũng phức tạp như quá trình chứng khoán hóa.
Chứng khoán hóa cũng tạo ra một khuyết điểm to lớn khác cho hệ thống tài chính hiện nay: Các chủ ngân hàng tham gia vào các hoạt động cho vay giờ đây không còn bị gắn chặt với rủi ro của bên vay nữa. Người cho vay không còn có động cơ để bằng mọi giá tránh những rủi ro nguy hiểm bởi vì khi bị cắt ra thành từng mảnh, rủi ro nhanh chóng bị đẩy ra khỏi cửa của người cho vay để được kết hợp với các rủi ro khác và được bán như một khoản đầu tư
cho cộng đồng tài chính toàn cầu mà họ không hề hay biết. Trong chương cuối cùng, tôi sẽ giải thích rõ hơn về hệ thống tín dụng thế giới gần như sụp đổ thế nào khi sự sụp đổ do cho vay dưới chuẩnkích hoạt một cuộc khủng hoảng niềm tin của các nhà đầu tư toàn cầu đối với các công cụ tài chính mới.
Tuy nhiên, không có gì về chứng khoán hóa là rõ ràng và đơn giản. Một trong những lý do chính khiến Trung Quốc sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề nghiêm trọng trong tương lai là hệ thống của họ cần một phương tiện nào đó giống như chứng khoán hóa để quản lý rủi ro tài chính và phân bổ vốn tốt hơn. Thay vào đó, hệ thống của Trung Quốc vẫn còn bị chi phối bởi các ngân hàng nhà nước lớn, không hiệu quả và thường xuyên tham nhũng. Các ngân hàng luôn thiếu các phương tiện cần thiết để phân bổ vốn cho doanh nghiệp một cách hiệu quả. Nghịch lý là chứng khoán hóa - hệ thống phân bổ vốn cho thế giới công nghiệp thành công như vậy - lại là một hiện tượng gây nản lòng và đầy mạo hiểm mà chúng ta nhận thấy rằng việc sống chung với nó hoặc không có nó đều rất khó khăn. Ví dụ, nếu trong quá trình nỗ lực cải cách tài chính hiện nay Quốc hội Mỹ cấm chứng khoán hóa thì có thể nền kinh tế nước này sẽ nhanh chóng suy giảm do hoạt động cho vay tổng thể bị cắt giảm nghiêm trọng.
Tuy nhiên, điểm mấu chốt là từ những năm 1980 một làn sóng vốn toàn cầu mạnh mẽ đã diễn ra. Điều này là do nhận thức rằng thế giới gần như đã đạt tới một sự đồng nhất đối với việc ủng hộ cho chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp trong một xu thế thương mại tự do và các luồng tài chính không bị cản trở. Sự trao đổi hàng hóa và vốn quốc tế này - hoặc nói cách khác là việc đầu tư nước ngoài này - đã mang lại lợi ích đáng kể cho Mỹ. Ở Mỹ, hơn năm triệu người hiện nay đang làm việc cho các công ty có trụ sở ở nước ngoài. Theo Bộ Tài Chính Mỹ, mặc dù các công việc này chỉ chiếm 4% lực lượng lao động Mỹ nhưng chúng lại chiếm 10% vốn đầu tư, 15% hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) hàng năm, 20% giá trị xuất khẩu của Mỹ. Hơn nữa, hơn
30% công việc của người Mỹ liên quan đến khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài này là trong ngành chế tạo (so với 10% trong ngành chế tạo cho toàn bộ nền kinh tế Mỹ).
Những hoạt động mới của các thị trường tài chính trên thế giới đã rõ ràng trong một số diễn biến xuyên biên giới của những năm 1980. Trong suốt thời kỳ thâm hụt ngân sách dưới thời Tổng thống Reagan, thế giới đã trải qua một cơn bão của việc di chuyển các nguồn tiền tiết kiệm. Với nguồn vốn lưu thông tự do, sự mất cân bằng của các khoản tiết kiệm lớn bất ngờ xuất hiện ở một số quốc gia công nghiệp chủ chốt. Đến giữa những năm 1980, Mỹ phải chịu những thâm hụt đáng kể trong khi Nhật Bản lại đạt được thặng dư lớn từ tiền tiết kiệm, chủ yếu là do kết quả của việc giá hàng hóa tính bằng đồng yên giảm, và sự bùng nổ trong xuất khẩu sang Mỹ. Kết quả là ngoài các khoản đầu tư khác trên toàn cầu, Nhật Bản đã mua các trái phiếu (các chứng khoán nợ) của Bộ tài chính Mỹ. Điều này đã ngăn tỉ lệ lãi suất của Mỹ tăng lên như rất nhiều nhà kinh tế học truyền thống đã dự đoán. Điều đó khuyến khích nền kinh tế Mỹ tăng tốc. Không một ai lập kế hoạch cho chuỗi phát triển này, nhưng điều này cho phép kéo dài thời kỳ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ.
Tôi đề cập đến tất cả những điều này bởi vì khi tôi bắt đầu công việc tư vấn của mình vào giữa những năm 1980 thì thị trường tài chính đã trở thành một cái nôi của sự bất ổn trên thế giới. Trong quá trình toàn cầu hóa, rất nhiều quy tắc đã được thử nghiệm và đáng tin cậy[12]của kinh tế học và giao dịch tài chính đột nhiên không còn đúng với thực tế nữa. Không có mô hình kinh tế lượng[13]nào - hay không có chiếc hộp thần kỳ nào đựng các công thức kinh tế - còn hữu ích trong việc dự đoán tương lai nữa. Tự do hóa tài chính đã tạo ra vô khối thanh khoản, đánh bại những gì đã viết trong các cuốn sách về nguyên tắc kinh tế và tài chính. Hơn bao giờ hết, thành công đòi hỏi phải hoạt động sáng tạo bằng bản năng kiên cường.
Sự tồn tại của một lượng tiền tiết kiệm khổng lồ trên toàn cầu có thể lưu thông trên khắp thế giới trong một giây không có nghĩa là bội chi ngân sách hoặc sự mất cân bằng của tài khoản vãng lai - cái gọi là thâm hụt kép - là chính sách lành mạnh. Thực tế không phải vậy, và cần phải có một nỗ lực được phối hợp trên toàn thế giới để giảm bớt tình trạng mất cân đối đó. Như tôi sẽ trình bày trong chương 5 với một ví dụ về hệ thống tài chính Nhật, có những giới hạn đối với số nợ mà một nền kinh tế có thể cung cấp mà không khiến cho chính sách tiền tệ mất đi tính linh hoạt và hiệu quả của ngân hàng trung ương để tạo ảnh hưởng tới nền kinh tế rộng lớn hơn. Tuy nhiên, các nỗ lực để giải quyết những mất cân đối hiện nay sẽ rất phức tạp bởi một thực tế rằng một số nhà lãnh đạo chính trị lão luyện nhất của Washington lại không biết sự khác biệt giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai. Cả hai đều là các chỉ số đo lường kinh tế, nhưng chúng đánh giá các đối tượng khác nhau. Thâm hụt ngân sách hoặc thặng dư ngân sách thể hiện mức chênh lệch giữa số tiền thuế mà chính phủ thu vào và lượng chi tiêu công. Thâm hụt tài khoản vãng lai hay thặng dư tài khoản vãng lai cho thấy mức chênh lệch giữa lượng tiền và hàng hóa được nhập vào một quốc gia từ nước ngoài với lượng tiền và hàng hóa xuất ra.
Thâm hụt tài khoản vãng lai khó hiểu hơn và gần đây thường bị các chính trị gia thuộc các đảng phái khác nhau lạm dụng. Về lý thuyết, một nền kinh tế có thể mắc phải thâm hụt tài khoản vãng lai chỉ đơn giản vì nó cung cấp cho các thị trường vốn toàn cầu những cơ hội đầu tư đặc biệt. Nếu một lượng vốn khổng lồ được đầu tư vào ồ ạt thì thâm hụt tài khoản vãng lai của nền kinh tế sẽ tăng lên, trong khi tất cả những thứ khác vẫn ở trạng thái cân bằng. Tuy nhiên, trong các trường hợp khác thâm hụt có thể là một dấu hiệu cho thấy rằng nền kinh tế không có khả năng cạnh tranh trên toàn cầu và rằng người tiêu dùng thích dùng hàng nhập khẩu hơn là các sản phẩm nội. Hoặc, khi khoản tiết kiệm trong nước không đủ để cấp vốn cho đầu tư trong nước, thâm hụt ngân sách đồng nghĩa với tiết kiệm âm. Nó sử dụng hết nguồn tiết kiệm trong nước, nguồn tiền mà có thể dùng để cấp vốn cho các khoản đầu
tư khác. Để tránh việc giảm đầu tư trong nước và kéo theo là làm giảm mức sống, các nền kinh tế bị thâm hụt phải nhập vốn từ các thị trường tài chính toàn cầu.
Đối với nước Mỹ, thâm hụt tài khoản vãng lai tính theo tỉ lệ phần trăm GDP (tổng sản phẩm quốc nội) là cao vì nguồn vốn nước ngoài cung cấp tài chính cho các khoản nợ của Mỹ, nhưng vốn đầu tư cũng ồ ạt đổ vào Mỹ vì nền kinh tế Mỹ theo truyền thống luôn cung cấp những cơ hội đầu tư hấp dẫn. Ngày nay, các nhà đầu tư đang kiểm soát các khoản tiền tiết kiệm lớn đi khắp thế giới để tìm kiếm các cơ hội đầu tư tại các doanh nghiệp mới cũng như cơ hội đầu tư vào các tài sản hữu hình như bất động sản và vào các công ty danh tiếng.
Đối với các nhà hoạch định chính sách Mỹ, sự hiểu biết về tầm quan trọng của thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai là chìa khóa để tránh một sự sụp đổ tài chính. Thâm hụt cần phải được cắt giảm, nhưng chính sách để thực hiện việc này đòi hỏi phải có sự nhạy cảm và sự hiểu biết đặc biệt của các nhà hoạch định chính sách. Có vẻ như là một nửa số các nhà lãnh đạo chính trị của chúng ta coi thâm hụt chỉ đơn thuần là một trái bóng chính trị, trong khi nửa còn lại hành động như thể là thâm hụt không tồn tại. Các nhà hoạch định chính sách nên bắt đầu với một thực tế là trong vòng 25 năm gần đây, cái gọi là thâm hụt kép đã không còn là một công cụ dự báo hiệu quả kinh tế đáng tin cậy nữa. Vì vậy, chỉ hướng chính sách đến thâm hụt kép như thể thâm hụt là nguyên nhân của mọi vấn đề có thể tạo ra những kết quả đáng thất vọng cho tổng thể nền kinh tế vĩ mô. Nhưng xét về lâu dài, hành động như thể là thâm hụt không đáng lo ngại cũng sẽ tạo ra kết quả tương tự.
Trong những thập kỷ gần đây, những doanh nghiệp nhỏ, linh hoạt, tại gia đã hình thành và đưa đến những dự báo rằng thâm hụt kép của Mỹ sẽ gây ra tình trạng lạm phát cao, lãi suất cao, khủng hoảng đồng đô la và sự sụp đổ kinh tế. Những dự đoán như vậy có lý khi bạn chỉ phải xem xét các nguồn
lực sẵn có của nền kinh tế trong nước. Tuy nhiên, toàn cầu hóa đã khiến cho bức tranh kinh tế không được rõ ràng.
Mỹ đã trải qua tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai từ những năm 1980. Tình trạng này đã khiến cho tỉ lệ lãi suất thực của Mỹ cao hơn cho đến khoảng năm 2000. Từ năm 2000, thâm hụt tài khoản vãng lai của Mỹ nhảy vọt từ 4% GDP lên tới hơn 6% nhưng lãi suất thực lại giảm. Hầu hết các nhà kinh tế học cho rằng kết quả này là do sự dư thừa đột ngột trong nguồn tiết kiệm toàn cầu(trên thực tế lãi suất thấp hơn đã khuyến khích sự bắt đầu của việc đầu cơ quá mức vào nhà ở) như là kết quả của việc tăng năng suất trên toàn thế giới và sự tăng trưởng sản lượng đầu ra gắn liền với toàn cầu hóa.
Nhưng đây mới là vấn đề. Mặc dù Mỹ đã tránh thành công viên đạn thâm hụt kép trong quá khứ, nhưng không có sự đảm bảo thành công hay an toàn nào trong tương lai. Sự mất cân bằng của Mỹ đã được hỗ trợ tài chính ngày càng nhiều từ các khoản dự trữ của các ngân hàng trung ương nước ngoài, chứ không phải các thị trường vốn tư nhân. Tình hình thậm chí sẽ trở nên phức tạp hơn nếu các nền kinh tế khác, bao gồm cả các nền kinh tế châu Âu, trở thành điểm đến hấp dẫn hơn cho đầu tư toàn cầu - và nền kinh tế Mỹ kém hấp dẫn hơn, như những gì dường như đang diễn ra sau cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn, với sự giảm sút tính minh bạch về tài chính của Mỹ và sự gia tăng tính đối kháng chính trị đối với các luồng vốn quốc tế.
Tuy nhiên, hãy xem các dữ liệu thực tế có thể trái ngược với tư duy thông thường như thế nào. Ví dụ, tỉ lệ lãi suất của Mỹ (lợi tức trái phiếu Kho bạc có giới hạn mười năm) đã không tụt xuống dưới mức 5,25% trong suốt toàn bộ tám năm của chính quyền Clinton, chính quyền mà có thời gian đã tạo ra thặng dư ngân sách trong nước. Tuy nhiên, có một thời điểm trong nhiệm kỳ luôn bị thâm hụt của George W. Bush, trái phiếu kho bạc đã giảm xuống gần mức 3% và thỉnh thoảng điều đó cũng diễn ra khi nền kinh tế đang phát đạt. Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang, ông Alan Greenspan đã gọi tình trạng này là
“một thách đố”. Trong kinh tế học truyền thống, thâm hụt ngân sách của chính phủ được cho là luôn đẩy đầu tư tư nhân ra ngoài và khiến cho tỉ lệ lãi suất tăng vọt, đặc biệt là trong suốt thời kỳ tăng trưởng cao. Nhưng điều này đã không xảy ra, một phần vì chính sách tiền tệ của Mỹ, nhưng phần lớn là vì vốn đầu tư toàn cầu ồ ạt tràn vào Mỹ. Thật đáng ngạc nhiên trong giai đoạn 1998-2001, khi xảy ra thặng dư ngân sách, tiết kiệm cá nhân tại Mỹ đạt mức 18% GDP. Trong giai đoạn 1981-1989, với thâm hụt trung bình 4% GDP, tiết kiệm cá nhân cũng lên tới 18% GDP.
Rõ ràng các mối quan hệ thông thường giữa các mốc dữ liệu không phải là hoàn toàn đáng tin cậy. Vì vậy, nếu các dữ liệu này nghe có vẻ như thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai là không liên quan thì hãy nghĩ lại. Trong thế giới của các thị trường tài chính không thể dự đoán ngày nay, quá khứ chắc chắn không phải là sự bảo đảm cho thành công trong tương lai. Điều này là đúng, đặc biệt là vì thái độ chính trị đang thay đổi tại Mỹ, chưa nói đến sự suy giảm niềm tin đối với hệ thống tài chính Mỹ sau sự sụp đổ do cho vay dưới chuẩn.
Trong một thế giới hoàn hảo, cân đối ngân sách và hạn chế sự mất cân bằng tài khoản vãng lai là điều tốt nhất. Nhưng việc này đòi hỏi các hệ thống kinh tế thế giới phải cân bằng, điều mà hầu như không bao giờ xảy ra. Một số nhà phân tích lập luận rằng theo lý thuyết miễn là thâm hụt tài khoản vãng lai là kết quả từ các quyết định cá nhân có liên quan đến thị trường thì hệ thống tài chính toàn cầu sẽ ổn định một cách an toàn. Nói cách khác, trong một giới hạn nhất định sự mất cân bằng tài khoản vãng lai là không thể tránh khỏi; không có sự mất cân bằng tài khoản vãng lai thì khái niệm về các luồng vốn được tự do hóa sẽ là vô nghĩa vì các nền kinh tế toàn cầu không bao giờ có hiệu quả như nhau. Các nền kinh tế hiếm khi đưa ra những cơ hội đầu tư hấp dẫn ngang nhau cho nguồn vốn trên toàn cầu. Nhưng cũng có những giới hạn để xác định sự mất cân bằng bình thường, lành mạnh. Hơn nữa, dự đoán tình trạng nguy hiểm của những giới hạn này - điểm bùng phát mà tại đó những
người tham gia thị trường trở nên lo lắng - là rất khó và có lẽ không thể thực hiện được.
Không còn nghi ngờ gì nữa, nước Mỹ tiêu xài quá nhiều, tiết kiệm quá ít và phụ thuộc quá nhiều vào dầu mỏ nước ngoài. Những mặt trái của sự phụ thuộc này chắc chắn không thể làm ngơ. Robert Hormats, một chuyên gia hàng đầu về tài chính quốc tế lưu ý rằng: “Trong hơn 200 năm nay, chính phủ (Mỹ) đã huy động số lượng vốn lớn dành cho an ninh quốc gia; trong cuộc chiến tranh chống khủng bố mới, chính phủ Mỹ phải huy động một nỗ lực lớn của công chúng để giảm thiểu việc sử dụng và phụ thuộc vào dầu”. Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu rằng hạn chế nhập khẩu chỉ có thể xử lý được những hậu quả chứ không giải quyết được nguyên nhân của các vấn đề về tài khoản vãng lai. Để giảm bớt sự mất cân bằng thì Mỹ phải tăng cường tiết kiệm trong nước. Tuy nhiên, cùng lúc đó thì nhiều nền kinh tế khác lại tiêu thụ quá ít, đồng thời cung cấp quá ít những cơ hội đầu tư an toàn và đáng tin cậy cho nguồn vốn toàn cầu. Nhiều nước trong số những quốc gia này có một khoản tiết kiệm lớn vì họ hạn chế những cơ hội đầu tư trong nước thông qua việc đánh thuế, việc điều tiết, sự thiếu minh bạch về tài chính và các quy định của pháp luật. Điều quan trọng cần lưu ý rằng chính đầu tư, chứ không phải tiết kiệm, mới cải thiện được mức sống. Tiết kiệm mà không đầu tư thì không có hiệu quả. Liên Xô cũ đã có một khoản tiết kiệm khổng lồ vì họ đã không có gì để mua.
Trong những năm gần đây, với giá dầu đạt mức cao kỷ lục chưa từng có tiền lệ thì một số áp lực dồn lên đồng đô la là không thể tránh khỏi vì các nhà sản xuất dầu đã bắt đầu nghĩ tới viễn cảnh chuyển sang các loại tiền tệ khác. Những bất trắc của cuộc khủng hoảng dưới chuẩn, điều đã tạo ra sự lo lắng về tương lai của nền kinh tế Mỹ, cũng đã làm đồng đô la yếu đi.
Trước đây, Mỹ chưa bao giờ gặp phải thâm hụt kép lớn như vậy. Chưa bao giờ hệ thống tài chính Mỹ phải đối mặt với sự thiếu minh bạch và sự thiếu