🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thanh Gươm Công Lý Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Table of Contents ĐÔI NÉT VỀ TÁC GIẢ GIỚI THIỆU TÁC PHẨM PHẦN MỘT I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII XIII XIV XV XVI XVII XVIII XIX XX XXI XXII XXIII XXIV XXV https://thuviensach.vn XXVI XXVII XXVIII PHẦN HAI I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII XIII XIV XV XVI XVII XVIII XIX XX https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn ĐÔI NÉT VỀ TÁC GIẢ ARCHIBALD JOSEPH CRONIN sinh năm 1896 ở Cardross, Scotland là một bác sĩ y khoa, nhưng lại nổi tiếng khắp thế giới nhờ tài viết văn. Ông theo học khoa y tại trường đại học Glasgow, nhưng đến năm 1916, lúc chiến tranh thế giới thứ nhất đang diễn ra dữ dội, ông tình nguyện gia nhập hải quân Hoàng gia Anh với cấp bậc thiếu y quân y trừ bị. Năm 1919, khi chiến tranh chấm dứt, ông trở về trường cũ thi lấy bằng bác sĩ. Từ năm 1921 đến 1924 ông hành nghề bác sĩ ở miền Nam xứ Wales, sau được bổ nhiệm làm thanh tra y tế các hầm mỏ. Năm 1926, ông mở phòng mạch riêng ở Luân Đôn, nhưng đến năm 1930 ông thôi nghề y vì lý do sức khỏe. Trong thời gian dưỡng bệnh ông bắt đầu viết văn, và quyển tiểu thuyết đầu tay Lâu đài người bán nón (Hatter’s Castle) ra đời năm 1931, là một thành công cấp kỳ và rực rỡ ở phương Tây. Trong một phần ba thế kỷ tiếp theo, ông đã sáng tác ngót 20 quyển sách văn học, mà riêng thể loại tiểu thuyết có những tác phẩm sau đây là giá trị hơn cả: Hatter’s Castle -1931 (Lâu Đài Người Bán Nón) Three Loves - 1932 (Ba Mối Tình) Grand Canary -1933 (Đảo Hoàng Yến) The Stars Look Down - 1935 (Dưới ánh các vì sao) https://thuviensach.vn The Citadel - 1937 (Thành trì ) The Keys of the Kingdom - 1942 (Chìa khóa Vương Quốc) The Green Years - 1944 (Những ngày xanh). Shannon’s Ways -1948 (Số Phận Của Bác Sĩ Shannon) Grand Canary (Đảo Hoàng Yến) Beyond this Place -1953 (Thanh Gươm Công Lý) The Northen Light - 1958 (Ánh sáng Phương Bắc) Lady with Carnation - 1976 (Thiếu nữ và hòa cẩm chướng) https://thuviensach.vn GIỚI THIỆU TÁC PHẨM Tiểu thuyết Thanh gươm công lý xuất bản lần đầu tiên năm 1953 là một bản cáo trạng hùng hồn lên án guồng máy tư pháp của nước Anh vào thế kỷ XX. Đó là một bộ máy già nua lỗi thời, được dựng lên từ thời Trung cổ và tồn tại suốt bảy thế kỷ. Vì thế, tất nhiên nó mắc phải những sai lầm nghiêm trọng và không còn khả năng làm tròn chức năng đảm bảo công bằng tối thiểu về pháp lý theo kiểu tư sản cho mọi người dân. Một nhược điểm cơ bản của nó là chế độ bồi thẩm đoàn, theo đó quyền biểu quyết có tội hay không có tội là thuộc về các bồi thẩm. (Đây cũng chính là cái dân chủ, công bằng giả hiệu của luật pháp tư sản). Vấn đề đặt ra là liệu các bồi thẩm có đủ khả năng và sáng suốt để làm nhiệm vụ của mình một cách vô tư và công bằng không? Thực tế cho thấy đa số các bồi thẩm thường thiếu kiến thức sâu sắc về tâm lý, thiếu trình độ hiểu biết về luật pháp, thậm chí thiếu cả khả năng suy luận vô tư. Do đó, phía có quyền buộc tội (Viện công tố) dễ dàng gây ảnh hưởng với bồi thẩm đoàn bằng những lý luận thiên lệch hết sức tinh vi nhằm đạt mục đích ích kỷ cá nhân là thăng tiến trên đường công danh, bằng những ngôn từ hoa mỹ chủ tâm khích động nơi các bồi thẩm sự tức giận và lòng căm thù vô cùng bất lợi cho các bị cáo. Vốn coi nhẹ sinh mạng con người hơn quyền lợi riêng tư của mình, phía buộc tội vận dụng đủ mọi phương tiện và mánh khóe để áp đặt ý đồ của mình. Trong những điều kiện như thế, bồi thẩm đoán khó lòng biểu quyết trái ý phía buộc tội là một bản án tử hình cho bị cáo. Vì thế, người ta không chút ngạc nhiên khi thấy tình trạng công lý bị vo tròn, bóp méo trong tay một số giới chức có thẩm quyền điều tra và buộc tội. Và cũng từ đó phát sinh biết bao bi kịch… Nhà văn A.J.Cronin đã kể lại một trong những bi kịch như thế trong quyển Thanh gươm công lý mà nội dung có thể tóm lược như sau: https://thuviensach.vn Đêm 8 tháng 9 năm 1921, tại thành phố Wortley thuộc vùng Midlands của nước Anh, xảy ra một án mạng thật dã man. Nạn nhân là một người đàn bà trẻ đẹp tên Mona Spurling bị cắt đứt cổ họng. Nhiều ngày sau đó, cảnh sát đã bắt giữ Rees Mathry, đại diện thương mại của một hãng mứt kẹo lớn ở Wortley, trong lúc anh đang cùng gia đình gồm vợ và con trai mới 9 tuổi chuẩn bị lên đường đi nam Mỹ. Anh bị tình nghi là người đã giết Mona Spurling. Sau cuộc điều tra, Rees Mathry bị đưa ra tòa đại hình Wortley và bị kết án tử hình. Nhưng, sau đó anh được giảm án thành khổ sai chung thân và bị giam ở nhà tù Stoneheath. Mười lăm năm trôi qua, con trai của Rees Mathry là Paul được 21 tuổi. Một hôm Paul được biết số phận bi thảm của cha mình mà lâu nay mẹ chàng đã cố tình giấu giếm. Tình thương cha đã thúc đẩy Paul lao mình vào một cuộc phiêu lưu gian khổ và nguy hiểm quyết tìm cho ra sự thật… Bằng một ngòi bút sắc sảo, A.J.Cronin đã khắc họa nhân vật Paul từ tình thương yêu cha mãnh liệt đã lao vào một cuộc truy tìm vất vả gian khổ, và đó cũng chính là chủ đề của tác giả muốn đấu tranh cho một nền công lý… Phần đánh giá cuối cùng về nội dung và nghệ thuật của A.J.Cronin xin dành cho bạn đọc. Xin trân trọng giới thiệu với các bạn. https://thuviensach.vn PHẦN MỘT https://thuviensach.vn I Mỗi chiều thứ tư, khi mãn giờ làm việc, mẹ của Paul đều rời Tòa thị sảnh dùng xe lửa điện đến nhà thờ Merrion để dự buổi lễ hàng tuần. Đúng năm giờ, Paul đến rước bà sau buổi học triết. Nhưng hôm nay, Paul bận nói chuyện với giáo sư Slade, và khi thấy đã trễ giờ, anh bèn đi thẳng về nhà. Trời tháng sáu. Chiều xuống rất đẹp trên thành phố Belfast, tô một vẻ hấp dẫn kỳ lạ lên những ngôi nhà u buồn, tường vách nám khói. Dưới khung trời màu hổ phách, đường nét thô kệch của những mái nhà và ống khói trong thành phố lớn Ireland biến mất, nhường chỗ cho một vẻ đẹp huyền bí, chỉ tìm thấy trong những giấc mộng huy hoàng. Paul đi ngược lên đường Larne, một con đường nhỏ yên tĩnh, hai bên có những ngôi nhà gạch xây liền nhau từng đôi một. Nơi đây mẹ con Paul sống trong căn nhà số 29 gồm ba phòng. Paul cảm thấy tim mình rộn lên một niềm vui. Vẻ đẹp của hoàng hôn, niềm tin nơi cuộc sống đầy hứa hẹn làm tâm hồn Paul lâng lâng. Dừng lại trước thềm nhà, chàng tuổi trẻ với đầu trần và bộ y phục bằng nỉ cũ đã sờn, khoan khoái hít một hơi dài, rồi hăng hái mở cửa, nhanh nhẹn bước vào. Từ trong nhà bếp, con chim yến cất tiếng hót mừng. Paul huýt sáo đáp lại, cởi chiếc áo veston ra mắc lên giá, bắc ấm nước lên bếp và chuẩn bị bữa ăn tối. Vài phút sau chiếc đồng hồ treo tường gõ bảy giờ và Paul nghe tiếng chân mẹ bước qua cổng ngoài. Chàng vui vẻ mừng mẹ khi bà vào nhà, dáng người gầy gò trong bộ y phục màu đen u buồn, hơi nghiêng về một bên dưới sức nặng của cái xắc nhét đủ thứ mà lúc nào bà cũng mang theo… “Xin mẹ tha lỗi. Con không đến đón mẹ được.” Paul nở một nụ cười mơn trớn nói với bà: “Giáo sư Slade hứa cho con một chỗ làm. Con có thể tin tưởng nơi ông ta.” https://thuviensach.vn Bà Burgess nhướng đôi mắt cận thị nhìn con trai mình rất lâu. Dưới chiếc nón nhỏ đánh sáp bóng, mái tóc bạc lòa xòa làm hiện rõ nét mệt mỏi và nhẫn nại chịu đựng trên gương mặt đã hằn sâu nhiều vết nhăn. Nhưng, trước ánh mắt vui tươi của con, bao vẻ u sầu của bà bỗng tan biến hết. “Đó là một gương mặt trung hậu, có lẽ không được đẹp trai lắm, nhưng cởi mở và thẳng thắn”, bà thầm nghĩ, và cảm tạ Thượng Đế đã tránh cho con mình những tai họa thường đi chung với cái bên ngoài. Paul hơi gầy, hai xương gò má nhô lên quá cao, đôi mắt màu xám tinh anh dưới vầng trán rộng, tóc hớt ngắn. Thân hình liền lạc, vững chắc và có thể nói là khá cân đối nếu một tai nạn trong sân cỏ không làm cho đầu bàn chân phải của anh hơi nghiêng về phía trong một chút. “Con yêu quý, mẹ rất sung sướng thấy con thành công, và mẹ hiểu ngay con có lý do không đến đón mẹ. Cô Ella và ông Fleming rất tiếc về sự vắng mặt của con.” Cuộn tròn đôi găng tay lại, bà rút từ trong cái xắc ra hai khúc thịt nguội bao bằng giấy mỡ và một gói bánh mì nhỏ mà bà rất ưa thích. Cả hai ngồi vào bàn, và sau khi đọc kinh xong, họ bắt đầu bữa ăn chiều. Paul cảm thấy tin đó đã làm cho mẹ vô cùng sung sướng: “Đây là một dịp may, mẹ biết không? Ba đồng Guinea[1] mỗi tuần, và cứ thế suốt kỳ hè, nghĩa là trong chín tuần lễ.” “Đây là một sự thay đổi thích thú cho con sau những tháng học cuối cùng, trước khi thi.” “Dạ, dạy lớp hè thật là khỏe.” “Paul, con hãy cảm ơn Chúa đi con.” “Con phải gởi một chứng từ khai sinh ngay tối nay cho giáo sư Slade.” Paul nói, vừa cố nén một nụ cười. Một sự im lặng đột ngột bao trùm căn nhà. Mẹ Paul cúi gầm đầu xuống, tay mân mê cái thìa, lơ đễnh với một mảnh lá trà trong tách. Bà nói nho nhỏ: “Một tờ khai sinh… Để làm gì?” https://thuviensach.vn “Đó chỉ là thủ tục thôi mẹ à. Người ta không chịu mướn những sinh viên chưa đến tuổi thành niên. Con phải vất vả lắm mới thuyết phục được giáo sư Slade tin là con vừa đủ hai mươi mốt tuổi.” “Đáng lẽ ông ấy chỉ cần tin con bằng lời thôi cũng đủ.” “Nhưng thưa mẹ, đó là nguyên tắc.” Paul kêu lên, vẻ ngạc nhiên: “Con phải gởi một đơn xin việc kèm theo tờ khai sinh đến Hội đồng quản trị nhà trường.” Bà Burgees không đáp lại, và sau đó hồi âm im lặng, Paul kể lại cho mẹ nghe với một vẻ khá hài hước cuộc hội kiến giữa chàng với ông Slade, vừa là giáo sư vừa là hiệu trưởng trường dạy hè ở Portray. Bỗng nhiên, mẹ chàng lộ vẻ dao động, bối rối: “Paul… mẹ không chắc lắm… nhưng dầu sao… mẹ không mấy thích con đi làm ở Portray.” “Sao thế mẹ?” Chàng kêu lên, ngạc nhiên: “Từ nhiều tháng nay, hai mẹ con mình chỉ toàn nhắc đến chuyện này.” “Mẹ đã suy nghĩ lại… như vậy con phải xa mẹ…” Bà ngập ngừng mắt nhìn xuống: “Hơn nữa, chúng ta sẽ không được nghỉ hè chung với gia đình Fleming, cô bé Ella sẽ buồn, và chính con, con cũng sẽ hối tiếc…” “Không, mẹ đừng lo lắng chuyện vẩn vơ.” Lòng đang hăng hái, Paul gạt bỏ hết mọi đắn đo, e dè của mẹ, và trước khi bà kịp mở miệng ngăn cản, chàng đã chạy vội vào phòng để viết đơn. Đó là một phòng rất nhỏ, ở phần trước của căn nhà, gồm độc nhất có một bàn học, vách tường được phủ kín bằng một loại giấy bìa màu trắng trên đó dán đầy hình ảnh các danh thủ của những đội bóng đá nối tiếng. Bên trên lò sưởi trưng bày những cúp đoạt được trong các cuộc tranh tài với những đội banh sinh viên khác. Bên dưới cửa sổ là một tủ sách nhỏ, đầy những quyển tiểu thuyết chọn lọc và sách nghiên cứu, phần đông thuộc loại cổ điển. Đối diện với tủ sách là chiếc giường ngủ nhỏ được kê sát vào một góc phòng sau một tấm màn màu xanh lá cây. Tập vở xếp ngay ngắn trên tấm vải trải giường. Cách bày biện trong phòng cho thấy chàng có một cá https://thuviensach.vn tính cao đẹp, tinh thần minh mẫn và thể xác lành mạnh. Người khó tính nhất cũng chỉ có thể phê bình chàng tỏ ra quá thứ tự ngăn nắp. Điểm đó có lẽ là do ảnh hưởng của mẹ chàng. Paul thảo lá đơn trong nháy mắt. Chàng đọc lại rất cẩn thận rồi mới ra tìm mẹ: “Mẹ có thể đưa cho con tờ khai sinh không mẹ? Con muốn gởi lá thơ này ngay tối nay.” Từ lúc Paul vô phòng, bà Burgess vẫn ngồi bất động trên ghế, trước cái bàn con la liệt chén dĩa. Bà có vẻ hơi đỏ mặt, trả lời giọng pha một chút gay gắt: “Mẹ không biết nó ở đâu. Mẹ cần có thì giờ để tìm kiếm.” “Ồ! Thưa mẹ, đâu có gì khó. Nó ở trong ngăn tủ phía trên chớ gì.” Paul nói vừa đưa mắt nhìn về phía cái tủ to, nơi mẹ chàng cất tất cả mọi giấy tờ, vài vật kỷ niệm, quyển thánh kinh và cặp mắt kính của bà. Đôi mắt bà nhìn chàng, miệng hơi hé mở, để lộ hàm răng đã hư gần hết. Gương mặt hết đỏ, nhưng đôi má héo hon lại bỗng tái xanh đi. Bà đứng lên, thò tay vào túi, lấy chìa khóa và đến mở ngăn kéo. Quay lưng về phía con trai mình, bà tìm kiếm một lúc, rồi đóng ngăn kéo lại, quay mặt nhìn Paul, nói với giọng yếu ớt: “Không có. Mẹ không thấy gì cả. Nó không có ở đây.” Paul cắn chặt môi. Chàng thường kính trọng mẹ, ngoan ngoãn phục tùng quyền uy của bà, nhưng trong trường hợp này, thái độ của mẹ làm chàng ngạc nhiên, bực bội. Chàng nói nhỏ: “Quan trọng lắm mẹ ạ, con cần phải có tờ khai sinh đó.” “Làm sao mẹ có thể ngờ được một chuyện như thế này.” Bà thốt lên, giọng gay gắt: “Những giấy tờ đó dễ thất lạc lắm. Con biết sự khổ cực của mẹ phải nuôi nấng con, vai trò khó nhọc của một góa phụ không người giúp đỡ, không nơi nương tựa. Ôi! Nhiệm vụ của mẹ thật là nặng nề. Mẹ đã phải chịu đựng biết bao vất vả để lo cho con có một mái nhà, lo cho con được tiếp tục việc học, lo cho con được giáo dục chu đáo… bao nhiêu lo lắng như https://thuviensach.vn vậy chưa đủ sao? Mẹ còn thì giờ nào để lo nghĩ đến mọi giấy tờ nữa? Lắm khi mẹ không còn biết phải cất chúng ở đâu nữa…” Cơn giận tràn đến quá bất ngờ và trái ngược với bản tính của mẹ, khiến Paul hết sức kinh ngạc. Nhưng giọng nói nghiêm nghị của bà - một dấu hiệu mà chàng biết rất rõ - ngăn cấm mọi lời bàn cãi. Chàng bình tĩnh nói: “Thật rất may, con có thể gởi thư đến Somerset House để xin một bản sao, con sẽ viết thư ngay đêm nay.” Mẹ chàng phác một cử chỉ không đồng ý và dịu giọng nói: “Con không cần phải làm việc đó.” Và nhìn thấy ánh mắt ngờ vực của chàng, bà tiếp lời: “Con cần gì phải tốn công vì một chuyện nhỏ nhặt như vậy. Bây giờ mẹ đã đừ người sau một ngày làm việc… Mai mẹ lấy giấy ở Tòa thị sảnh viết thư giùm con.” “Mẹ sẽ không quên việc này?” “Kìa Paul!” “Con xin mẹ tha lỗi.” “Được rồi.” Bà nói với một nụ cười nhợt nhạt trên môi: “Con hãy đốt lò sưởi lên. Để mẹ dọn bàn.” https://thuviensach.vn II Liên tiếp hai ngày sau, Paul rất bận rộn. Trường đại học Queen’s University sắp bế giảng, tức là lúc các sinh viên có nhiều công tác phải làm. Paul được giao nhiệm vụ đánh dương cầm trong buổi lễ do sinh viên tổ chức và tìm một quyển sách của thư viện đã bị thất lạc. Đến phút chót, Paul còn phải thi thực tập hóa học, và kế đó ngồi chờ kết quả trong tình trạng thần kinh căng thẳng. Và Paul đậu khá cao. Là một học sinh giỏi, một người bạn vui tính và một vận động viên thể thao xuất sắc, Paul đã chiếm được nhiều cảm tình của bạn bè. Cùng lắm, chỉ có những sinh viên y khoa - một “băng” mang nhiều tai tiếng - chỉ trích lối ăn mặc “như ông cụ non” của Paul và việc chàng từ chối không tham dự những cuộc vui, điều được coi như là một thái độ kênh kiệu đáng tiếc. Mặc dầu đa đoan công việc, Paul cũng nhiều lần nhớ lại thái độ không vui của mẹ trong mấy ngày qua. Chàng cho rằng mẹ quá mệt do làm việc nhiều, nên trông bà xanh xao hơn bình thường và có vẻ trầm tư xa vắng. Tuy vốn là một con người rắn rỏi, mà lòng sùng đạo cùng sự khắc khổ càng làm cho tính tình thêm cứng rắn, song bà Burgess lại luôn luôn tỏ ra rất yếu thần kinh và dễ bị dao động. Paul nhớ hồi xưa, chỉ một cái gõ cửa bất ngờ cũng làm bà giật mình, đổi sắc. Và bây giờ mỗi lần lo lắng, những vết nhăn trên trán bà hằn sâu thêm khiến gương mặt bà già đi. Mỗi tuần, vào ngày thứ năm và chiều thứ sáu, ăn tối xong, bà đều đến chơi một giờ với gia đình ông Fleming, mục sư của nhà thờ Merrion và cũng là bạn thân nhất của bà. Sau đó, bà trở về nhà với một vẻ bình tĩnh hơn, nhưng vẫn còn lo buồn trong đôi mắt đỏ chạch. Sáng thứ năm, Paul hỏi mẹ đã nhận được hồi âm của phòng hộ tịch chưa. Bà trả lời: “Chưa”. https://thuviensach.vn Sau đó, nhiều lần Paul toan lặp lại câu hỏi, nhưng một sự đắn đo kỳ lạ, có lẽ xuất phát từ sự phục tùng cố hữu xưa nay đối với mẹ, đã ngăn Paul lại. Tuy nhiên Paul vẫn còn lục lọi trong quá khứ tìm một sự kiện nào đó có thể giải thích thái độ hiện tại của mẹ. Paul thấy rõ quá khứ của mẹ rất minh bạch, không có điều gì đáng nghi ngờ. Paul đã sống năm năm đầu tiên ở Tynecastle nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Hình ảnh Tynecastle - một thành phố thuộc miền Bắc nước Anh - giờ đây tuy đã khá phai mờ trong tâm trí, nhưng Paul vẫn còn nhớ tiếng động chát chúa của các máy đóng đinh, các hồi còi dài lanh lảnh ở mấy xưởng đóng tàu, nhất là hình ảnh thân yêu của cha. Vừa là một người cha tuyệt vời, vừa là một người bạn vui vẻ, ông đã đem đến cho Paul biết bao thích thú. Chủ nhật nào ông cũng dẫn Paul đến bãi Jesmond Dene để chơi thả tàu trên hồ, những con tàu nhỏ bằng giấy màu xanh do chính tay ông xếp. Khi cậu bé đã mệt và chán trò chơi này, ông bèn dẫn cậu đến ngồi nghỉ dưới bóng cây, và vẽ cho cậu xem. Ông vẽ rất đẹp tất cả những gì lọt vào mắt ông: người, thú vật hay cây cối. Và vẫn chưa hết. Mỗi chiều cuối tuần ông đều đem về cho cậu bé nào mứt, nào dâu tây, chuối và đào… sản phẩm của hãng mứt, nơi ông làm việc với tư cách là người quảng cáo hàng. Khi cậu bé lên năm, gia đình lại dời về sống ở Wortley, một thành phố lớn ở vùng Midlands. Kỷ niệm lần này kém vui hơn, Paul nhớ lại bầu trời xám xịt của những ngày mưa gió, những nhà máy luyện thép tỏa khói đen mịt mù, những gương mặt buồn bã của cha mẹ trước khi cha lên đường sang Nam Mỹ trong một chuyến đi quảng cáo hàng. Ôi! Nỗi buồn phải xa cách người cha thương yêu, nỗi lo lắng chờ đợi ngày ông trở về, rồi cái tin ông chết trong một tai nạn xe lửa gần Bueno Aires đã làm cho cậu đau đớn không sao kể xiết. Sau đó, mới vừa sáu tuổi, lòng nặng trĩu u buồn, Paul lót tót theo mẹ về sống tại Belfast. Nhờ sự giúp đỡ của ông Emmanuel Fleming mẹ Paul được vào làm trong Ty Y tế của tỉnh. Đồng lương tuy ít ỏi nhưng đủ cho góa phụ tạo được một mái nhà. Sau đó bà còn nhịn ăn, nhịn mặc, chắt chiu từng https://thuviensach.vn chút, để dành tiền cho con học hành. Sau mười lăm năm miệt mài đèn sách, giờ Paul sắp thi tốt nghiệp đại học. Mẹ Paul, theo sự nhận xét của chàng, đã thu hẹp cuộc sống đến mức tối đa. Ngoại trừ những buổi đi lễ thường xuyên ở nhà thờ, bà không bao giờ ra khỏi nhà. Bà không có người bạn thân nào, ngoại trừ cha con ông Fleming. Ngay với những người lân cận, bà cũng chỉ biết họ một cách qua loa. Ở trường, Paul cũng có rất ít bạn, mặc dầu là người rộng rãi, cởi mở và ưa giao thiệp, chỉ vì chàng có cảm giác mẹ không thích mình có nhiều bạn. Chàng bực bội, khó chịu vì sự cấm đoán này, nhưng vẫn chấp nhận và tuân theo để tỏ lòng kính trọng và biết ơn mẹ. Lúc đầu, Paul nghĩ chính lòng sùng đạo của mẹ đã ngăn cản, không cho chàng giao du nhiều để khỏi bị những người bạn xấu cám dỗ. Nhưng lúc này, Paul thấy cần phải tìm một lời giải đáp khác, Paul bỗng nhớ lại một sự kiện xảy ra hồi năm ngoái: Paul được dành một chỗ trong đội bóng đi tranh giải giữa Ireland và Anh Quốc. Vinh dự đó có thể làm vui lòng bất cứ người mẹ nào. Thế mà bà lại thuyết phục Paul từ chối. Tại sao? Lúc đó Paul không hiểu, nhưng bây giờ chàng có thể đoán được với ít nhiều lo ngại: “Mẹ có một điều gì muốn giấu kín suốt quãng đời còn lại của bà”. Chiều thứ bảy, bà không làm việc và trở về nhà lúc hai giờ. Paul nhất quyết sẽ yêu cầu mẹ giải thích. Lúc ấy trời đang mưa, sau khi đặt chiếc dù ướt ở ngoài cửa, bà bước vào trong và thấy con trai đang ngồi trong phòng khách, bàn tay lơ đãng lật từng trang sách. Vẻ mặt của bà làm anh kinh ngạc: gương mặt xanh xao nhưng lại rất bình tĩnh. “Con ăn trưa chưa?” “Con ăn một cái sandwich rồi. Còn mẹ?” “Ella Fleming đã pha ca cao nóng cho mẹ.” “Mẹ lại đến nhà gia đình Fleming?” “Phải.” Bà vừa đáp vừa ngồi xuống ghế “Để hỏi ý kiến và cầu nguyện.” https://thuviensach.vn Một sự im lặng tiếp theo. Paul ngồi thẳng người lên, bíu chặt cánh tay của chiếc ghế bành. Rồi chàng nhỏ nhẹ hỏi: “Mẹ à, con cảm thấy có một điều gì không ổn. Sáng nay mẹ nhận được tờ khai sinh đó chưa?” “Chưa, mẹ không làm đơn xin.” “Sao mẹ làm thế?” Paul đỏ mặt hỏi. “Vì khai sinh có rồi. Mẹ đã dối con. Nó đây.” Cơn giận của Paul biến mất. Chàng nhìn mẹ đang lục lọi trong cái xắc và lấy ra một tờ giấy màu xám xanh: “Paul con, trong nhiều năm qua, mẹ đã phải chiến đấu với chính mình để giấu không cho con biết sự thật. Lâu nay mẹ sống trong lo âu. Một tiếng chân trên cầu thang, một tiếng nói lớn ở ngoài đường cũng làm cho mẹ lo sợ. Mẹ muốn tránh cho con nỗi đau thương này, nhưng Chúa lại không muốn như vậy. ‘Chắc chắn sớm muộn gì thằng bé cũng biết sự thật…’ Đó là ý kiến của mục sư Fleming. Mẹ đến cầu xin ông giúp mẹ nhưng ông từ chối. Ông nói con đã trưởng thành và con cần phải biết sự thật.” Càng nói, bà càng trở nên dao động, và mặc dầu cố gắng giữ bình tĩnh, bà cũng thốt ra một tiếng rên rỉ. Bàn tay bà run rẩy khi trao tờ giấy khai sinh. Paul cầm lấy và thấy không phải tên mình: thay vì Paul Burgess, tờ khai sinh mang tên Paul Mathry. “Mathry… đây không phải là…” Paul bỗng nín lặng. Cái tên này gợi ra trong ký ức Paul một kỷ niệm đau xót xa xôi: “Thế này là thế nào?” “Mẹ đã lấy lại tên của mẹ hồi còn con gái, tên Burgess. Mẹ là bà Mathry, cha con là Rees Mathry và con tên là Paul Mathry. Nhưng mẹ muốn con quên cái tên ấy đi.” Đôi môi bà run run xúc động: “Mẹ muốn mắt con và tai con quên hẳn cái tên đó.” “Tại sao?” Bà nhìn xuống đất ấp úng nói: “Để tránh cho con… một sự nhục nhã… đau thương.” https://thuviensach.vn Tim đập mạnh, bụng có một cảm giác trống rỗng kỳ lạ, Paul chờ đợi, bất động. Nhưng hình như bà không còn sức lực nào nữa. Bà nhìn Paul mắt tuyệt vọng: “Con đừng bắt mẹ phải nói chuyện này. Ông Fleming sẽ cho con biết tất cả. Ông ấy đã hứa với mẹ. Con hãy đến gặp ông ấy, ông ấy đang chờ con.” Paul đã hành hạ bà nhưng chính Paul cũng đang quá đau khổ nên chàng không muốn thôi: “Mẹ hãy nói tiếp đi. Đó là bổn phận của mẹ.” Bà nghẹn ngào khóc, làm rung động đôi vai gầy, nhỏ. Paul chưa bao giờ trông thấy mẹ khóc. Bà cố lấy lại hơi thở, rồi nói nho nhỏ, mắt vẫn không ngước lên: “Cha của con không chết trong chuyến du hành sang Nam Mỹ. Ông bị cảnh sát bắt trước khi xuống tàu thủy.” Đây là điều mà Paul không bao giờ nghĩ đến. Tim chàng như ngừng đập. Chàng lắp bắp hỏi: “Vì sao?” “Vì giết người.” Một sự im lặng nặng nề. Giết người! Hai tiếng ghê gớm đó như một mũi tên đâm vào tim, như chén thuốc độc len lỏi vào từng ngõ ngách trong đầu óc Paul. Chàng cảm thấy mọi sức lực của mình đều tiêu tan. Người toát mồ hôi lạnh, Paul nói trong hơi thở run run: “Cha… cha của con bị xử treo cổ?” Mẹ chàng lắc đầu, đôi mắt đầy thù hận: “Thà rằng như thế còn hơn. Ông ấy bị kết án tử hình… Nhưng được ân xá vào phút chót… hiện ông chịu khổ sai chung thân ở nhà tù Stoneheath.” Bà hết chịu đựng nổi nữa rồi. Đầu bà lắc lư mấy cái rồi bà rơi mình xuống ghế, bất tỉnh. https://thuviensach.vn III Căn nhà của mục sư Fleming ở ngay trung tâm thành phố Belfast, gần ga xe lửa miền Bắc. Đó là một căn nhà nhỏ hẹp, xấu xí, màu xám, dựa lưng vào cái nhà thờ cũng màu xám. Mặc dầu cảm thấy thể xác kiệt quệ, và chỉ muốn tìm một xó kẹt tối tăm nào đó để ẩn trốn như một con thú bị thương, nhưng một sức mạnh nào đó lại thúc đẩy Paul ra khỏi nhà, băng mình qua các đường phố còn đọng những vũng nước mưa lấp lánh và đầy tiếng động, ánh sáng của một tối thứ bảy. Mẹ chàng, tỉnh lại, đã lên giường nằm nghỉ. Chàng không thể chờ đợi được: chàng cần biết ngay mọi sự thật. Khi Paul gõ cửa, đèn phòng ngoài bật sáng và Ella ra mở cửa: “Anh Paul ấy à? Mời anh vào.” Cô dẫn Paul vào phòng khách, một căn phòng trần thấp với những tấm màn đỏ sẫm và những chiếc ghế con lông chim. Trong lò sưởi, một ngọn lửa than nhỏ cháy bập bùng. “Cha đang tiếp một tín đồ trong họ đạo. Chỉ vài phút nữa thôi.” Cô vừa nói vừa mỉm cười: “Thời tiết rất ẩm thấp, để tôi pha cho anh một ly ca cao.” Đối với Ella, ca cao là một thức uống kỳ diệu mà nàng thường mời khách trong họ đạo. Paul không thích uống nhưng cũng không còn đủ sức để từ chối. Paul nhận thấy nàng có một vẻ sốt sắng hơi gượng gạo và đôi môi nàng mím lại… có lẽ nàng đã biết lý do cuộc viếng thăm của Paul. Buông mình xuống chiếc ghế bành, Paul nhìn Ella mang một cái khay từ nhà bếp lên, trộn đường vào ly ca cao và pha nước sôi. Ella lớn hơn Paul hai tuổi, nhưng trông rất trẻ với thân hình mảnh mai, đôi mắt to, màu xám pha một chút xanh lá cây. Thường thường đôi mắt ấy sáng rỡ, linh động, nhưng cũng có lúc nó lại đầy nước mắt hoặc phóng ra https://thuviensach.vn các tia giận dữ… Tối hôm ấy nàng mặc chiếc váy xếp màu sẫm, đôi vớ dài đen và chiếc áo rộng màu trắng, cổ cao. Paul đưa tay nhận ly ca cao và im lặng uống từng ngụm nhỏ, Ella ngồi đan, thỉnh thoảng ngước mắt lên nhìn chàng như dò hỏi. Nàng thích nói đùa và nói chuyện phiếm. Nhưng không được Paul đáp lại, nàng hơi cau mày, im lặng như cũ. Có tiếng người nói chuyện ngoài hành lang, tiếp theo là tiếng cánh cửa lớn đóng lại. Ella vội đứng lên: “Tôi cho cha biết anh đang ở đây.” Nàng đi ra, và gần như liền sau đó mục sư Emmanuel Fleming bước vào. Đó là một người đàn ông chừng năm mươi tuổi có đôi vai nặng nề và hai bàn tay to tướng, vụng về, chân mang đôi giày làm việc to lớn. Ông mặc một cái áo veston đã trổ màu trắng ở những đường may, và chiếc quần tây dài đen. Hàm râu xám bạc được tỉa thành một chùm nhọn. Đôi mắt to màu xanh, hiền lành và ngây thơ như mắt trẻ con, làm cho gương mặt ông sáng rực rỡ. Ông nhanh nhẹn bước tới, nồng nhiệt siết chặt tay Paul và thân mật nắm lấy cánh tay chàng: “Cậu bé của tôi. Sung sướng được gặp cháu. Nào, chúng ta hãy vào trong văn phòng.” Đó là một căn phòng nhỏ mặt day ra sân, được bày biện một cách sơ sài, khắc khổ với một bàn giấy bằng gỗ sồi, vài chiếc ghế và một tủ sách nhỏ. Khi Paul ngồi xong, mục sư mới từ từ bước đến chiếc ghế đặt sau bàn giấy. Ông có vẻ hơi do dự. Sau cùng ông mở lời bằng một giọng đầy thương cảm: “Cháu thân mến, cháu vừa trải qua một cơn xúc động đau đớn. Nhưng cháu đừng quên chính Chúa đã đem đến sự thử thách này và Chúa sẽ giúp cháu vượt qua.” “Điều cháu cần nhất là biết sự thật.” Paul đáp, giọng khô khan. “Câu chuyện buồn lắm cháu à. Tốt hơn có nên quên nó đi không? Gợi trở lại có ích gì đâu?” “Không, cháu muốn biết. Cháu cần phải biết rõ. Nếu không, óc tưởng tượng sẽ không ngừng làm khổ cháu.” https://thuviensach.vn Paul nghẹn ngào không nói tiếp. Chống một khuỷu tay lên bàn, mục sư đưa bàn tay to lớn che đôi mắt như để cầu nguyện. Ông là một người đầy thiện chí, đã tích cực phụng sự Chúa từ bao năm qua, nhưng ông chỉ có những khả năng rất giới hạn và ông thường buồn rầu nhận thấy các cố gắng và các ý định tốt của mình không đạt được kết quả mong muốn. Tâm hồn cô độc, ông thường tự trách mình. Ngay cả trong tình thương đối với con gái, ông cũng cảm thấy mình có những sai lầm: ông biết rõ các khuyết điểm, tính nhỏ nhen, hợm hĩnh của Ella nhưng vì quá thương con, ông không nỡ la rầy để nàng sửa đổi. Tất cả bi kịch là ở chỗ đó: ông muốn trở thành một kẻ thánh thiện, một môn đồ thật sự của Chúa, một người mà lời nói có thể dẫn dắt con chiên đến gần Chúa. Nhưng con người làm sao có thể đưa mình lên đỉnh toàn thiện trong khi còn bị những mê muội của trần gian lôi kéo một cách mãnh liệt? Bằng một giọng thiếu tự tin, ông bắt đầu kể lại chuyện, trong tiếng tích tắc đều đặn của chiếc đồng hồ treo tường: “Cách đây hai mươi hai năm tại Tynecastle, tôi làm lễ hôn phối cho Rees Mathry với Hannah Burgess. Lúc ấy tôi quen Hannah đã được vài năm, cô là con chiên mà tôi mến nhất. Tôi không biết Rees, nhưng thấy anh ấy là một chàng thanh niên có giáo dục, có tư cách, và ngay từ phút đầu tôi đã có cảm tình sâu sắc. Lúc ấy, anh là đại diện thương mại của hãng lớn chuyên sản xuất đồ hộp và bánh kẹo ở miền Bắc. Tôi nhận thấy hạnh phúc của họ được bảo đảm khi người vợ hạ sanh một cậu bé kháu khỉnh. Cháu thân mến, chính tôi đã rửa tội cho cháu.” Ông dừng lại một lúc, như để cân nhắc lời nói: “Phải công nhận gia đình này thỉnh thoảng bị một vài xáo trộn nhỏ. Mẹ cháu rất sùng đạo trong khi cha cháu có một quan niệm về đời sống… có thể nói là… tự do và phóng túng hơn. Do đó, hai người có một vài va chạm. Chẳng hạn, mẹ cháu không bằng lòng cho cha cháu hút thuốc và uống rượu - một quan niệm mà cha cháu không thể nào chấp nhận được - thêm vào đó, nghề nghiệp buộc cha cháu phải vắng nhà thường xuyên: ít nhất phải tám ngày trong một tháng. Điều này có ảnh hưởng không tốt đối với cha cháu. Với bản tính dễ https://thuviensach.vn mến và thích giao thiệp, Rees có rất nhiều bạn mà anh ấy thường gặp ở các tiệm cà phê, khách sạn, quán rượu hay những nơi khác không mấy đứng đắn. Tuy nhiên, tôi chưa thấy anh phạm một lỗi lầm nào nghiêm trọng cho đến khi xảy ra những biến cố ghê gớm vào năm 1921.” Ông thở dài, mắt nhìn xa xôi như đang sống lại một quá khứ buồn thảm: “Tháng giêng năm đó, hãng bánh kẹo sắp xếp lại nhân sự và cha mẹ cháu được đổi về vùng Midlands. Trước đó vài tháng, chính tôi cũng dời về Belfast để trong coi họ đạo, nhưng tôi vẫn thường trao đổi thư từ với mẹ cháu. Tôi phải thú nhận rằng, ngay từ lúc mới đến Wortley, gia đình cháu không được may mắn lắm. Cha cháu không bằng lòng với nơi làm việc mới của mình. Wortley là một thành phố buồn, và mẹ cháu cũng vậy. Không kiếm được một căn nhà đàng hoàng, cha mẹ cháu phải mướn phòng để ở. Đến tháng 9, cha cháu nói rằng ông không thể chịu đựng được nữa và có ý định xin thôi việc để di cư sang Argentina. Cha cháu mua ba vé trên chiếc tàu Ngôi sao Phương Đông sẽ khởi hành vào ngày 15 tháng 9. Ngày 13 anh ấy cho mẹ cháu và cháu đi xe lửa đến Liverpool trước, để chờ anh ấy ở khách sạn Great Central Hotel. Khuya đêm 13 rạng ngày 14, cha cháu rời Wortley bằng xe lửa. Nhưng lúc hai giờ sáng ngày 14, cha cháu bị cảnh sát chận bắt trên sân ga Liverpool. Sau cuộc kháng cự mãnh liệt, cha cháu bị tống giam vào đồn cảnh sát ở đường Canon. Chúa ơi, tôi sẽ không bao giờ quên nỗi ngạc nhiên và kinh hoàng của tôi: anh ấy bị tố cáo là kẻ sát nhân.” Một sự im lặng dài, rất nặng nề. Paul ngồi bẹp dí trong chiếc ghế bành, nghẹn thở. Ông mục sư nói tiếp: “Trong đêm 8 tháng 9, một tội ác xấu xa và ghê gớm đã xảy ra. Cô Mona Spurling, một thiếu nữ hai mươi sáu tuổi, trẻ đẹp làm công cho một cửa hàng hoa ở gần khu quảng trường Leonard, bị giết một cách tàn nhẫn trong căn phòng của cô, số 52 cư xá Ushaw Terrace, ở Eldon, một khu ngoại ô của Wortley. Người ta biết rõ án mạng xảy ra trong khoảng từ 8 giờ đến 8 giờ 10 phút. Về nhà lúc 7 giờ 30 phút, cô Spurling hình như đã dùng một bữa ăn nhẹ, sau đó khoác vào người một chiếc áo ngủ mà cô hãy còn mặc lúc bị giết. Lúc 8 giờ, vợ chồng ông Prusty, ngụ ở phòng bên dưới, có nghe tiếng vật lộn rất dữ dội. Bà vợ của https://thuviensach.vn Prusty bảo chồng lên lầu xem có chuyện gì. Ông gõ cửa. Không có tiếng trả lời. Ông đang lưỡng lự thì có người trẻ tuổi tên Edward Collins, giúp việc cho tiệm giặt ủi, có nhiệm vụ đi giao quần áo cho khách hàng cũng đến trước cửa phòng cô Spurling với gói quần áo trên tay. Bỗng cánh cửa phòng mở toang và một người đàn ông từ trong phòng chạy vội ra cầu thang. Cả hai người liền bước vào và thấy cô Spurling đang nằm trong phòng khách, trên vũng máu, cổ họng bị cắt đứt, đầu gần như tách rời khỏi thân mình.” “Lập tức ông Prusty chạy đi tìm một bác sĩ gần nhất. Nhưng vô ích: cô gái đã chết. Thanh tra cảnh sát Swann được phái đến nơi, đã tìm ra ba dấu vết. Một tấm bưu thiếp gởi từ tám ngày trước ở Sheffield, trên đó có một hình vẽ bằng bút chì và các hàng chữ như sau: Sự xa cách làm những con tim gần nhau. Cô có vui lòng nhận lời đi ăn tối với tôi ở nhà hàng Drury, khi tôi trở về không? Ký tên Bonbon.” “Swann cũng còn tìm thấy một mẩu thư đã bị đốt cháy một phần và không có ký tên. Thư mang con dấu bưu điện ngày 8 tháng 9. Trong thư có câu sau: Tôi cần gặp cô tối nay. Sau cùng, trên sàn nhà, trước lò sưởi và gần bên tử thi, là một cái túi bằng da rất tốt, rất mềm mại có khóa kim khí đựng khoảng mười đồng bảng bằng bạc và bằng giấy ngân hàng.” “Theo lời khai của Edward Collins và của Albert Prusty, cảnh sát liền phác họa và phổ biến ngay hình dạng của kẻ tình nghi, đồng thời hứa thưởng một số tiền lớn cho ai giúp bắt được thủ phạm.” “Ngày hôm sau, một thiếu nữ mười bảy tuổi tên Louisa Burt, thợ giặt ủi, đi cùng với bà chủ cô đến trình diện tại trụ sở cảnh sát. Louisa là em bà con của Edward Collins, thường đi theo anh này để giao quần áo cho khách hàng. Vào đêm xảy ra án mạng, cô ta đứng chờ Edward trước cổng cư xá. Một người đàn ông, từ căn số 52 chạy ra, đã đâm đầu vào cô, làm cô lảo đảo suýt té. Cô mô tả hình dạng kẻ ấy cho cảnh sát. Như vậy cảnh sát có tất cả ba nhân chứng trông thấy kẻ sát nhân.” Ông mục sư dừng lại và quay đôi mắt thật thà về phía chàng tuổi trẻ: “Cháu Paul à, có những vấn đề làm ta rất đau khổ khi phải nhắc lại. Nhưng https://thuviensach.vn than ôi, trong trường hợp này, đây là một điều không thể tránh được. Nói một cách vắn tắt, Mona Spurling là một cô gái không được đứng đắn lắm. Cô tiếp rất nhiều đàn ông ngay tại nhà cô, trong đó có người là tình nhân chính thức của cô. Không ai biết người này, nhưng các nữ đồng nghiệp của cô trong cửa hàng hoa xác nhận trong thời gian gần đây cô có vẻ lo âu. Họ đã nghe cô cãi vã gay gắt với một người nào đó trong điện thoại, sử dụng những câu như ‘Anh phải chịu trách nhiệm’ và ‘Nếu anh bỏ rơi tôi, tôi sẽ làm rùm beng lên cho anh mang xấu’. Sau rốt, cuộc giải phẫu tử thi chứng tỏ cô gái đã mang thai. Vậy thì lý do của vụ án đã rõ: kẻ sát nhân chính là tác giả của cái bào thai. Có lẽ anh ta đã chán nàng. Bị đe dọa gây lớn chuyện, anh ta hẹn đến gặp nàng và hạ sát nàng.” “Cảnh sát lập tức sử dụng mọi phương tiện để lùng bắt thủ phạm. Các nhật báo in lại hình tấm bưu thiếp và yêu cầu bất cứ ai có thể cho những tin tức về người chủ của tấm bưu thiếp đến tiếp xúc ngay tại trụ sở cảnh sát Wortley. Tất cả nhà ga xe lửa và bến cảng đều được canh chừng nghiêm nhặt và cuộc săn người diễn ra một cách sôi nổi… Tối ngày 13 tháng 9, một công nhân đóng sách tên Harry Rocca đến trình diện viên chỉ huy cảnh sát, trong một trạng thái rất dao động. Anh ta bảo có vài điều cần khai với cảnh sát. Liền đó anh ta thú nhận mình là bạn thân của cô gái bị giết và nhìn nhận có đến gặp cô ta vào đem trước khi xảy ra án mạng. Anh nói thêm là anh biết kẻ gởi tấm bưu thiếp cho Mona Spurling: một người bạn thường chơi bida với anh và có tài vẽ rất khéo. Vài tháng trước, chính anh đã giới thiệu hắn ta với cô Mona Spurling. Sau ngày báo chí đăng hình tấm bưu thiếp, chính người bạn ấy đi đến tìm anh và với một vẻ bối rối, hắn yêu cầu anh giúp đỡ. ‘Nếu người ta hỏi anh, tôi đã ở đâu trong đêm 8 tháng 9, xin anh hãy nói rằng đêm ấy tôi chơi bida ở khách sạn Sherwood’.” “Những chi tiết này quá đủ. Viên chỉ huy cảnh sát cùng với thanh tra Swann liền đến ngay địa chỉ mà Rocca vừa khai. Đến nơi, họ được biết, trước đó một giờ, kẻ bị tình nghi đã đi Liverpool bằng chuyến xe lửa tốc hành. Anh ta bị bắt ngay khi vừa xuống sân ga. Paul à, người bị bắt đó chính là cha của cháu.” https://thuviensach.vn Một lần nữa cả hai lại im lăng. Vị mục sư hớp một ngụm nước để thấm đôi môi khô của mình, rồi cau mày nói tiếp: “Ông Prusty, nhân chứng chính, bất ngờ phải vào bệnh viện vì một cơn suyễn dữ dội - Anh ta chuyên bán thuốc lá, và chất nicotin đã làm hại sức khỏe của anh - Và hai nhân chứng kia được viên chỉ huy cảnh sát Wortley đưa ngay đến Liverpool. Tại đây, không một chút do dự, họ khẳng định cha cháu chính là người mà họ đã trông thấy trong đêm xảy ra án mạng. Họ tỏ ra rất quả quyết - một sự quả quyết khủng khiếp - vào lúc nhận diện. ‘Đúng là hắn’, Edward Collins kêu lên, trong khi Louisa Burt, bị xúc động sâu xa bởi ý thức trách nhiệm, vừa òa lên khóc vừa nói: ‘Tôi biết anh ta sẽ bị treo cổ, nhưng tôi xác nhận đúng là anh ta’.” “Ngày 15 tháng 12, vụ án được đem ra xử trong một phiên tòa ở Wortley, do Lord Oman làm chánh án. Những nỗi lo âu của chúng tôi thật vô cùng lớn lao. Các chứng cớ buộc tội được tung ra tới tấp. Cảnh sát tìm thấy trong hành lý cha cháu một con dao cạo mà các chuyên viên cho rằng đó là dụng cụ đã giết nạn nhân. Một chuyên viên về khoa chiết tự quả quyết trước tòa rằng lá thư bị đốt cháy phân nửa trong phòng nạn nhân do chính cha cháu viết bằng tay trái. Người ta cũng thường thấy cha cháu trong cửa hàng hoa, đùa cợt với cô Spurling. Ý định tẩu thoát sang Argentina, hành động chống lại nhân viên cảnh sát, tất cả những sự kiện trên đều có vẻ ăn khớp với nhau. Thái độ của cha cháu trước tòa lại càng tai hại hơn nữa: ông ấy tự mâu thuẫn với chính mình, mất hẳn bình tĩnh và cãi tay đôi với anh chánh án. Ông bảo trong đêm xảy ra án mạng ông đang đi xem chiếu bóng, một lối bào chữa vụng về mà ông biện lý bác bỏ một cách dễ dàng. Chỉ có một sự kiện có lợi tí ti cho cha cháu là nhân chứng Prusty, tuy vẫn nhìn nhận có một sự giống nhau nào đó giữa cha cháu và người đàn ông chạy ra khỏi phòng cô Spurling, nhưng ông ta không chịu thề quyết rằng người đó là cha cháu. Ngoài ra, Prusty còn tỏ ra bực tức vì không được cảnh sát mời đến Liverpool để nhận diện kẻ bị tình nghi. Phe công tố cho rằng đôi mắt của nhân chứng Prusty không tốt lắm và làm ngơ luôn chi tiết ấy.” https://thuviensach.vn “Các kết luận của quan tòa, trong khi ngỏ lời với bồi thẩm đoàn, hoàn toàn bất lợi đối với bị cáo. Các bồi thẩm họp thảo luận lúc ba giờ rạng ngày 23 tháng 12. Sau một cuộc bàn cãi khoảng bốn mươi phút, bồi thẩm đoàn tuyên bố cha cháu có tội. Lúc ấy tôi có mặt trong phòng xử - mẹ cháu bị bệnh không đến được - và suốt cả đời tôi, tôi sẽ không bao giờ quên giây phút ghê gớm khi Lord Oman đội cái nón đen lên đầu, đọc bản án treo cổ tội nhân và cầu xin Chúa tha thứ cho kẻ có tội. Khi bị cảnh sát lôi đi, cha cháu vùng vẫy dữ dội và thét lớn: ‘Không có Chúa nào cả. Tôi cóc cần sự tha thứ của các ông và của Chúa. Tôi không có tội’. Ôi, cháu Paul, người ta không thể ngang nhiên thóa mạ Chúa như vậy.” “Và có lẽ để chứng tỏ quyền lực của mình. Chúa đã khoan hồng đối với kẻ có tội: đến phút chót, khi không còn ai dám hy vọng gì nữa, ông Bộ trưởng Bộ nội vụ - chắc chắn là một con người đầy nhân đạo - sửa đổi án tử hình thành án khổ sai chung thân.” Một sự im lặng nặng nề bao trùm khắp căn phòng. Cả hai người đều tránh nhìn nhau. Paul ngồi sững sờ trong chiếc ghế bành, lau trán bằng chiếc khăn tay bị vo tròn từ lâu trong bàn tay rịn ướt mồ hôi. “Cha cháu còn sống chứ?” “Còn.” “Không ai đến thăm ông… từ lúc đó?” Vị mục sư thở dài: “Tôi muốn tiếp xúc với anh ấy qua trung gian của vị mục sư tuyên úy nhà tù, nhưng tôi bị tiếp đón rất phũ phàng… cha cháu dữ tợn đến đỗi tôi phải từ bỏ mọi ý định gặp lại ông ấy. Về phần mẹ cháu, Paul thân mến, bà cho là mình bị chồng phản bội. Bà cũng còn phải nghĩ đến quyền lợi của cháu nữa. Cách hay nhất là xóa bỏ hẳn những kỷ niệm ghê gớm này ra khỏi cuộc sống tươi trẻ của cháu. Bà thành công hay không, điều ấy không quan trọng lắm. Bây giờ cháu đã lớn, đã có nhiều nghị lực để chịu đựng. Vì lẽ đó, thay vì lừa dối cháu, tôi đã cho cháu biết, không giấu giếm một chi tiết nào. Giờ tôi chỉ mong cháu cương quyết đuổi mọi kỷ https://thuviensach.vn niệm của tấn bi kịch này ra khỏi ký ức. Cháu còn trẻ và đang tự do, cuộc đời đang quỳ dưới chân cháu. Cháu hãy mạnh dạn tiến tới, cứ xem như tôi không hề nói gì cho cháu biết hết.” https://thuviensach.vn IV Tám ngày đã trôi qua sau buổi gặp gỡ mục sư Fleming. Hôm nay là ngày chủ nhật và buổi học vừa chấm dứt. Em học sinh cuối cùng đã rời khỏi lớp. Ella đang chờ Paul ở phòng ngoài. Nàng mặc bộ đồ xanh da trời đẹp nhất của mình, và cột một dây ruy băng lính thủy trên chiếc nón đỏm dáng của nàng. Paul rời khỏi bàn giáo viên và tiến đến gần nàng, dáng nghiêm trang. Chàng nhận dạy lớp này để làm vui lòng mẹ, tuy nhiên chàng cũng thích thú trước những câu đối đáp ngây thơ của các em học sinh. Nhưng hôm nay, chàng cảm thấy rất mệt mỏi, tâm trí trống rỗng sau nhiều đêm mất ngủ. Thật chẳng hiểu sao chàng lại có thể chịu đựng nổi đến bây giờ. “Chắc anh thèm âm nhạc lắm, phải không Paul, nhưng hiện giờ trời đẹp nên chúng ta đi dạo thì hơn.” Thông thường, sau buổi dạy ngày chủ nhật, Paul dạo cho Ella nghe vài bản nhạc trên chiếc harmonium nhỏ: những bản không vượt quá sự hiểu biết khá hạn chế về âm nhạc của hôn thê mình. Hôm nay chàng cảm thấy không thể đàn đóm gì nổi. Nhưng chàng không thể từ chối đi dạo với nàng. Ella nắm lấy cánh tay Paul, siết nhẹ, và cả hai cùng đi về phía công viên Ormeau Park. Khách đi dạo ở đó rất đông. Các bà các cô cố phô bày những món nữ trang đắt tiền, còn đàn ông thì ăn mặc sang trọng, vẻ mặt đầy tự tin và thỏa mãn, Paul bỗng cảm thấy lòng mình dâng lên một nỗi khinh ghét. Chàng nói nho nhỏ khi bước qua cổng sắt công viên: “Tôi không thể nào chịu nổi cái trò trình diễn hợm hĩnh này.” Ella nhìn chàng, vẻ hờn giận và không đáp lại. Mặc dầu thuộc vào một loại người không thể có tình cảm sâu sắc, Ella đã tập trung tất cả tình thương của mình vào Paul. Về phần Paul, chàng chấp nhận Ella như một người bạn gái tốt, không hề nghĩ đến sự xung khắc giữa bản tính phóng khoáng, rộng lượng của chàng với lòng sùng đạo hẹp hòi đã điều khiển mọi https://thuviensach.vn hành vi của cô con gái ông mục sư. Tuy nhiên Ella xem vấn đề giữa hai người như đã được thỏa thuận và tất cả những dự tính về tương lai của nàng đều dựa vào sự kết hôn chắc chắn sắp đến của nàng với Paul. Đầy tham vọng cho mình và cho Paul, nàng nghĩ rằng trí thông minh của Paul rất thích hợp với tài quán xuyến của mình. Nàng sẽ lèo lái tốt đẹp sự nghiệp của chồng, và ngay bây giờ nàng đã tưởng tượng chàng sẽ chiếm được một vị thế học thuật cao, giúp chàng len vào được những nơi chốn đầy quyền thế. Do đó những tiết lộ về người cha của Paul đã làm tổn thương nặng lòng kiêu hãnh của nàng. Về phần Paul, chàng vô cùng đau đớn. Nhưng tại sao Paul không thể chấp nhận những gì nàng có thể chấp nhận? Tai họa chưa đến nỗi làm chết người, thế thì sự việc sẽ dần dần đi vào quên lãng, và nếu khéo xử một chút thì sẽ chẳng còn ai nhớ tới nó nữa cả. Cho nên nàng thấy trong cảm tình đối với Paul có chen vào một chút tức giận. Dù rất giỏi kềm chế bản tính để không tỏ ra nóng nảy, nhưng nàng vẫn có đôi lúc gay gắt cho nên khi nghe Paul đề cập đến chuyện này, nàng phải gắng ép mình nín thinh. “Tôi có cảm giác đã sống cả cuộc đời trong sự dối trá.” Paul nói, cố diễn tả những tư tưởng đang giày vò chàng: “Tôi không còn có thể tự gọi mình là Paul Burgess nữa. Tôi tên là Paul Mathry… Lấy một họ khác, tôi đã tự chứng tỏ mình là một con người không xứng đáng. Thế nhưng, nếu tôi lấy lại họ của cha tôi, tôi tưởng tượng người ta sẽ vừa thì thầm với nhau, vừa lấy tay chỉ về phía tôi: Nó là Mathry, con trai của tên đã… ” Ella nhanh nhẹn ngắt lời: “Không, anh nói quá đáng. Không ai để ý đến chuyện đó đâu.” “Nhưng tôi, tôi phải để ý.” Chàng nói nho nhỏ, đầu cúi gập xuống: “Và điều này sẽ làm tôi đau khổ…” “Anh phải quên đi.” “Quên?” Paul lặp lại một cách ngờ vực. https://thuviensach.vn “Vâng, quên.” Ella đáp, không còn kiên nhẫn nữa: “Điều này có gì khó khăn… anh chỉ cần đừng nghĩ đến người đàn ông đó nữa.” “Sao? Cô bảo tôi không nhìn nhận cha tôi sao?” “Ông ấy có gì đáng cho chúng ta hãnh diện đâu?” “Dầu cha tôi có làm điều gì tội lỗi đi chăng nữa,” Paul đáp, lấy lại bình tĩnh, “thì ông cũng đã đền tội rồi… Mười lăm năm… Phân nửa cuộc đời… Ôi! Thật là khốn nạn!” “Tôi nói như vậy là vì anh thôi.” Ella lạnh lùng đáp: “Và tôi sẽ rất cám ơn nếu anh đừng nói nặng lời trước mặt tôi.” “Tôi có nói gì bậy đâu!” “Có!” Nàng không tự kềm chế được nữa, máu nóng dâng lên trên mặt, cơn tức giận làm đôi má nàng đỏ gay: “Anh đã dùng một tiếng rất thô tục mà một người phụ nữ đứng đắn không thể nào chấp nhận được. Lỗi lầm của anh không thể tha thứ được.” “Vậy cô đòi hỏi gì nơi tôi?” “Anh hãy tỏ ra đứng đắn hơn một chút. Anh có vẻ không hiểu rằng vấn đề của cha anh cũng làm cho tôi buồn không kém gì anh.” “Ồ, Ella! Chúng ta đừng tỏ ra trẻ con quá!” Bỗng nàng dừng lại, lòng tự ái bị tổn thương, và quyết tâm sử dụng tất cả ảnh hưởng của mình. Mặt nàng xám đi: “Tôi nghĩ… trong tâm trạng hiện tại của anh, tốt hơn là… chúng ta không nên tiếp tục đi dạo nữa.” Paul nhìn nàng, đôi mắt xa xăm. Đầu óc của chàng đang để nơi khác: “Tùy ý cô.” Ngỡ ngàng vì bị gây gổ, Ella cắn chặt môi, muốn khóc. (Nàng nói như thế chỉ vì hờn giận và muốn làm áp lực với Paul thôi. Cho nên nàng rất hoang mang bối rối khi Paul tin những lời nói đó là ý muốn thật sự của https://thuviensach.vn nàng). Thấy Paul không có một cử chỉ nào để giữ mình lại, Ella nở một nụ cười đầy trách móc và đầy lòng tốt bị phủ nhận, nụ cười của nàng trinh nữ, nạn nhân bị tên đao phủ đâm nát quả tim non. “Tốt lắm. Tôi trở về nhà. Hy vọng lần sau gặp nhau, anh sẽ vui vẻ hơn.” Paul nhìn nàng bỏ đi, đầu ngẩng cao. Chàng lấy làm tiếc về cuộc cãi vã vừa qua, nhưng đồng thời lại cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái hơn rất nhiều khi chỉ còn lại một mình. Chàng nhìn theo cho đến khi Ella mất dạng, rồi tiếp tục bước đi, đi không mục đích, mặc cho sự tình cờ dẫn dắt. Paul không muốn quay về nhà. Trong lúc này, chàng cảm thấy không thể chịu đựng được vẻ chăm sóc đầy lo âu của mẹ, những lời khuyên bảo thì thầm, bầu không khí êm ái đến lạt lẽo của một đêm tối ở nhà. “Mình nghĩ thế nào về mẹ?” Paul tự hỏi một cách ngạc nhiên. Càng lạ lùng và không hợp lý hơn nữa, những tình cảm đang nảy sinh trong tâm hồn chàng đối với cha. Chính ông là kẻ tội phạm, là nguyên nhân đã đem đến cho chàng bao khổ đau. Tuy nhiên, chàng không thấy ghét ông. Từ khi biết câu chuyện, Paul chỉ thấy thương xót cha. Mười lăm năm bị giam cầm, đó không phải là một hình phạt quá đủ rồi hay sao? Những kỷ niệm thời thơ ấy bỗng sống dậy nơi chàng. Biết bao tình thương mà cha chàng đã dành cho… Một tình thương lúc nào cũng như lúc nào, không hề suy giảm. Nước mắt chàng dâng lên, nhạt nhòa. Thình lình, Paul thấy mình đang ở trên bến Donagal Quay, trong khu vực cảng và khu nhà nghèo của thành phố. Một động lực kỳ lạ hướng dẫn bước chân Paul. Chàng đi, đầu cúi gằm, nhảy qua những đường ray xe lửa, tiến tới, tiến tới mãi giữa những đống bao và kiện hàng chất la liệt trên bến. Trên nền cảnh sương chiều từ ngoài biển vào, hòa lẫn với làn hơi nước bốc lên từ bến tàu, những chiếc cần trục cao lớn trông giống như những bóng ma. Ở đầu cầu tàu, tiếng còi trong sương vang lên những lời mời gọi u buồn. https://thuviensach.vn Paul ngồi xuống nghỉ trên một kiện bông vải, không đi được nữa vì bị chận lại bởi một dãy thùng cao ngất ở khoảng hai đầu kho. Trước mặt chàng, một chiếc tàu hàng nhỏ rỉ sét đang chờ nước lên để ra khơi. Chàng nhận ra đó là chiếc Thung lũng Avoca thường đi lại giữa Belfast và Holyhead. Thỉnh thoảng tàu cũng nhận chở vài hành khách, nên ở đầu thang dây một số đàn ông, đàn bà tay xách hành lý, một số công nhân các nông trường vùng Lincolnshire tất cả đang tập hợp, chuẩn bị lên tàu. Ngồi trên bến mỗi lúc một dày đặc sương mù, Paul nhìn đăm đăm chiếc tàu hàng, bên tai dồn dập những tiếng còi thúc giục. Chàng đang nghỉ hè. “Ôi còn dài lắm! Và có rất nhiều thời giờ.” Một sự xao động lạ lùng xâm chiếm cả người chàng. Chàng vụt rút quyển sổ tay ra, vội vã viết: Con vắng mặt trong vài ngày. Mẹ đừng lo. PAUL Paul rứt trang giấy ra, gấp lại rồi viết tên và địa chỉ của mẹ. Chàng gọi một cậu bé đang đi thơ thẩn trên bến, trao tờ giấy kèm theo một đồng bạc. Xong, chàng đứng lên, mạnh dạn đi đến trạm mua một vé đi Holyhead chỉ có vài đồng Shilling[2]. Paul vừa bước qua chiếc thang dây, các thủy thủ đã tháo buông ra. Một sợi dây rơi xuống làm nước đen văng tung tóe. Rồi, trong tiếng rung chuyển ầm ầm của bộ máy già cỗi, chiếc tàu hàng từ từ quay mũi ra biển. https://thuviensach.vn V Chiếc Avoca cặp bến Holyhead lúc sáu giờ sáng trong cơn mưa tầm tã. Người lạnh cóng, Paul bước lên bờ và băng qua những đường ray xe lửa. Chàng vừa kịp uống vội một ly nước trà ở nhà ga thì đã thấy chuyến xe lửa miền nam đến. Paul trả tiền cho cô bán hàng còn ngái ngủ rồi phóng lên một toa xe hạng ba, ngồi vào một góc. Liền sau đó, con tàu chuyển bánh. Cuộc hành trình thật dài xuyên qua vùng Shrewsbury và Gloucester với hai lần phải chờ đợi ở những nhà ga nhỏ để sang xe lửa khác dưới những cơn mưa triền miên làm cho Paul bị ướt sũng, - chàng không có áo đi mưa, - nhưng chính sự khổ nhọc này lại làm cho chàng thêm quyết tâm. Xe lửa chạy qua những vùng quê mỗi lúc một thêm cằn cỗi thâm u. Những đầm lầy rải ra từng khối đá lớn, lác đác mấy chùm, bụi cây nối tiếp với những cánh đồng, những hàng rào cắt xén kỹ lưỡng. Những khối đá khổng lồ, sắp xếp thành vòng tròn như nhắc nhở một thời tiền sử xa xưa đầy man rợ. Về hướng tây, vượt lên trên những cây tùng bách là một dãy núi mờ nhạt, đỉnh phủ mây xám, thêm chằng chịt khe suối. Chiếc đầu máy xe lửa hì hục đi ngược chiều gió biển và đến một khúc quanh, Paul thoáng thấy những lớp đá ngầm bạc đầu bọt nước. Sau cùng, vào khoảng bốn giờ chiều, chiếc xe lửa dừng lại nơi một ga nhỏ heo hút giữa đầm lầy: Paul đã đến nơi. Tim đập mạnh, chàng bước xuống sân ga hoang vắng và trao vé xe cho người viên chức đơn độc. Chàng toan hỏi thăm ông ta đường đi đến nhà tù, nhưng lưỡi như líu lại. Chàng lặng lẽ bước qua bức rào cản trắng. Tuy nhiên, trước mặt chàng, cách một khoảng không xa lắm, hình dáng to lớn xám xịt của nhà tù Stonehenth đã xuất hiện với những vách tường lỗ chỗ; và người lữ hành trẻ tuổi bèn cất bước trên con đường nhỏ hẹp quanh co giữa đầm lầy. https://thuviensach.vn Càng đến gần, tim Paul càng đập mạnh. Miệng khô ran và cổ họng như thắt lại, Paul thấy người chàng yếu hẳn đi: suốt cả ngày, chàng chỉ uống một ly trà và ăn một miếng bánh sandwich. Lên đến đầu một con dốc nhỏ, Paul dựa mình vào một thân cây phong cằn cỗi để lấy lại nhịp thở. Chân trời phía tây nhuộm màu xanh nhạt, và từ mô đất đang đứng, chàng có thể thấy rõ từng chi tiết của nhà tù. Đó là một khối gạch khổng lồ vuông vức, không cửa sổ, chỉ có cửa ra vào thấp, chông sắt nhọn, mỗi góc đặt một vọng gác, nằm cheo leo như tổ chim phượng hoàng. Mỗi góc của nhà tù có một tháp canh, được xây cất tương tự như một ổ chim. Tất cả mang một vẻ nặng nề thô kệch, như một khối đá hay một thành lũy của thời trung cổ, bên ngoài có hai dãy nhà ở - chắc là của lính gác - với những nhà kho và cơ xưởng, tất cả đều mất hút trong khung cảnh đầm lầy thê lương hoang vắng. Một bức tường cao, lởm chởm mũi nhọn bao quanh khu nhà tù, ở giữa là ba hầm mỏ đá há hốc trông như những vết thương đẫm máu khổng lồ. Trong một khu hầm, toán tù trông xa chỉ như đàn kiến xám, mỗi toán đặt dưới sự giám thị của bốn lính gác, súng mang vai, đi từng bước chầm chậm; dưới mắt của Paul, cái tập thể người khốn khổ này lăng xăng bận rộn trong một nỗi lặng lờ chìm sâu của vô cùng. Bỗng có một bước chân vang lên sau lưng, Paul giật mình quay lại, một người chăn chiên đang leo lên mô đất nơi chàng đang đứng, theo sau là một con chó lông xù. Vẻ hoang vu của thiên nhiên ở đây thể hiện trên gương mặt cứng rắn và lầm lì của anh ta đang nhìn Paul bằng một cặp mắt đầy nghi ngờ. “Một nơi ghê tởm!” Người chăn chiên vừa nói vừa hất hàm về phía nhà tù. “Phải.” Paul cố gắng đáp nhỏ. Người chăn chiên chậm chạp lắc đầu nói tiếp: “Thật là một nơi thê thảm, tôi biết rõ điều này trong bốn mươi năm ở đây. Tháng vừa qua đã xảy ra một cuộc bạo loạn: - năm người tù khổ sai và hai lính canh bị giết - vào https://thuviensach.vn một ngày cũng giống như ngày hôm nay. Tất cả đều có vẻ yên tĩnh, nhưng anh cũng đừng tin vào cái yên tĩnh bề ngoài đó mà lầm. Hiện giờ, một lính canh đang chĩa ống kính viễn vọng về phía này và theo dõi từng cử động của chúng ta.” Paul cố nén rùng mình và hỏi anh ta một điều mà tự nãy giờ chàng nóng lòng muốn biết: “Người ta cho thăm tù vào những ngày nào?” Người chăn chiên nhìn chàng, dáng chế giễu: “Ở Stoneheath không ai biết thăm viếng là gì.” “Nhưng dầu sao… trong vài ngày nào đó… người ta cũng phải cho phép thân nhân của các tội phạm được gặp họ chớ.” “Không có ai đến thăm tù ở đây hết.” Anh ta trả lời cụt ngủn: “Không, không bao giờ!” Gương mặt sạm đen của anh ta nhăn lại vui mừng: “Chúng ta rất khó được vào cũng như họ rất khó được bước ra khỏi cái nhà tù đó. Thôi, chào anh bạn trẻ.” Huýt sáo gọi con chó của mình, anh ta bước đi sau khi đã gật nhẹ đầu từ giã Paul. Còn lại một mình Paul đứng bất động, chìm đắm trong im lặng, mọi hy vọng đều tắt. Không có những cuộc viếng thăm tù! Không bao giờ!… Chàng không thể nào được gặp cha… Nói với cha dù chỉ một tiếng thôi… Một cuộc hành trình vô ích. Đứng trước cái nhà tù này, trước những bức tường này, Paul cảm thấy sự vô nghĩa của niềm hy vọng đã thúc đẩy mình đến đây. Trong màn đêm vừa buông xuống, một tiếng chuông bỗng từ từ vang lên, phá tan sự im lặng nặng nề. Những người tù khổ sai ngưng làm việc và sắp hàng dài về phía nhà tù, những người lính canh đi kèm hai bên. Chiếc cầu treo giở lên đưa họ vào trong rồi lại buông xuống. Ánh xanh cuối cùng trên bầu trời vụt chao nhẹ rồi tắt mất dưới hơi thở bất ngờ của thần đêm. Trong tim Paul bỗng có một cái gì tan vỡ. Niềm thất vọng, nỗi đau đớn nghiến nát chàng. Paul thốt lên một tiếng rên rỉ. Những giọt nước mắt nóng https://thuviensach.vn hổi lăn trên má chàng. Quay lưng về phía nhà tù đáng nguyền rủa, mắt mờ lệ, chàng chạy điên cuồng trong đêm tối về phía nhà ga nhỏ. https://thuviensach.vn VI Trong thành phố Wortley, ở góc đường Ayres và Eldon có một cửa hàng bán thuốc lá mà bảng hiệu đã phai mờ với thời gian: Albert Prusty, nhà nhập cảng xì gà Miến Điện. Cửa hàng mang một vẻ vừa cũ kỹ vừa sang trọng có hai dãy tủ kính: một dãy kín đáo trưng bày cho khách hàng chọn lọc những điếu xì gà, thuốc gói và ống điếu; dãy kia toàn bằng kính đục, trừ một mắt tròn nạm đồng bóng loáng, chiếu sáng một cái bàn nơi đó chính tay chủ nhân làm lấy những điếu thuốc Robin Hood Straight Cut rất phổ biến trên thị trường địa phương. Vào khoảng trưa một ngày tháng sáu hôm đó, ông Prusty mang tạp dề, mặc áo tay ngắn đang nhanh nhẹn vấn thuốc. Đó là một người đàn ông nhỏ con, gầy gò, ngoài sáu mươi, mũi to bóng láng, tính tình khá nóng nảy. Trên đầu chỉ còn lại một nhúm tóc trắng và một cục bướu to làm nổi rõ cái đầu hói. Chất nicotin nhuộm vàng hàm râu bạc và ngón tay của ông, ông mang một cặp kiếng gọng thép. Ngồi trên ghế, ông Prusty ngờ vực chăm chú theo dõi một thanh niên đầu trần đi qua đi lại trước tiệm nhiều lần ngừng lại ngay trước cửa, do dự một lúc rồi bỏ đi. Cuối cùng, hình như người lạ mặt đi đến một quyết định. Chàng mạnh dạn bước vào, mặt tái xanh. Prusty không có người giúp việc, nên từ từ đứng lên. “Cậu cần điều chi?” Ông bực bội hỏi. “Tôi muốn gặp ông Prusty. Tôi… tôi hy vọng bây giờ ông ấy hãy còn sống.” Người thương gia tặng chàng khách trẻ một nụ cười cay đắng: “Nếu tôi không lầm thì Prusty chính là tôi đây.” https://thuviensach.vn Như một tay bơi lội trước khi lao mình xuống dòng nước lạnh, chàng trẻ tuổi phồng ngực lên, nín thở: “Tôi là Paul Mathry.” Và như được nhẹ bớt một gánh nặng - việc khó nhất đã vượt qua - chàng nói tiếp: “Mathry. M-A-T-H-R-Y. Cái tên này không nhắc cho ông nhớ điều gì sao?” Ông Prusty vẫn thản nhiên: “Chỉ có vụ án Mathry thôi, nếu đó là điều cậu muốn biết. Câu chuyện xấu xa nhất trong cuộc đời tôi. Nhưng cậu dính líu gì tới việc ấy? ” “Tôi là con trai của Rees Mathry.” Một sự im lặng tuyệt đối bao trùm cửa hiệu thấp trần. Người thương gia nhìn thẳng vào mặt chàng trai trẻ. Ông đưa tay bốc một nhúm thuốc lá trong cái lọ, đưa lên mũi hít một hơi dài: “Cậu muốn gì?” “Tôi cũng không biết nữa… Có một cái gì đó thúc đẩy tôi đến đây.” Bằng những câu ngập ngừng Paul cố gắng nói cho ông biết những lý do khiến chàng đến Stoneheath, rồi chàng kết luận: “Tôi đến đây hồi sáng và 9 giờ tối nay tôi lên chuyến xe lửa liên vận nối đường thủy về Belfast. Tôi nghĩ rằng nếu tôi có thể biết được một điều gì đó, điều gì tôi cũng không rõ nữa… Có lẽ là: một trường hợp giảm khinh nào đó… Được vậy, tôi sẽ bớt đau khổ phần nào. Tôi đến tìm ông vì ông là nhân chứng duy nhất có lợi cho cha tôi ở phiên tòa.” “Có lợi? Về cái gì?” Prusty lớn tiếng phản đối: “Ý cậu muốn gì?” “Vậy ra ông không thể nói với tôi điều gì sao?” “Cậu muốn tôi nói với cậu điều gì?” “Tôi… tôi cũng không biết.” Paul thở dài và thình lình, chàng vươn thẳng vai, quay ra phía cửa. Giọng chàng trở nên rắn rỏi: “Thôi được, tôi đi. Tôi rất tiếc đã quấy rầy ông https://thuviensach.vn và xin cám ơn ông đã vui lòng tiếp tôi.” Chàng toan bước ra cửa, nhưng một câu nói cụt ngủn gọi giật chàng dừng lại: “Khoan đã!” Paul chậm chạp quay trở lại. Prusty nhìn thẳng vào người chàng, nhìn kỹ từ gương mặt trẻ buồn bã đến cái lai quần tây dính đầy bùn đất, rồi hít thêm một hơi thuốc nữa: “Cậu trông có vẻ gấp gáp quá. Chẳng biết cậu từ đâu đến đây, cậu bước vào rồi lại bước ra ngay, như cậu đến đây mua một hộp diêm vậy. Sao? Chẳng lẽ cậu lại đòi hỏi mười lăm năm của dĩ vãng phải quay về trong một phút.” Paul toan trả lời thì có tiếng chuông cửa reo lên. Một khách hàng bước vào, mua một gói Navy Cut rồi sắp sửa đi ra thì có một ông khách to béo lại đến. Sau khi lựa một điếu xì gà, ông ta bắt chuyện với chủ nhân. Prusty tiến đến gần Paul, thì thầm: “Buổi ăn trưa là lúc tôi phải bàn chuyện làm ăn. Bây giờ chúng ta không thể nói chuyện đó được. Không phải là tôi có gì nhiều để nói với cậu đâu. Trái lại là khác. Tôi đóng cửa tiệm lúc 7 giờ và chuyến xe lửa của cậu khởi hành lúc 9 giờ. Vậy cậu hãy đến nhà tôi vào lúc 7 giờ rưỡi. Tôi sẽ mời cậu một ly cà phê.” “Cảm ơn ông!” Paul đáp, mắt sáng rỡ: “Ngay tại nhà ông?” “Vẫn địa chỉ cũ.” Prusty nhăn mặt nói, làm đôi mắt cận thị của ông khép lại phân nửa: “Số 52 Ushaw Terrace. Cậu thấy đó, tôi vẫn ở chỗ cũ, không dọn nhà đi.” Ông quay trở lại tiếp khách và Paul bước ra. Chàng đi trên hè phố, bước chân lảo đảo vì mệt đừ: suốt đêm qua chàng nằm trên một chiếc băng cây ở nhà ga, không ăn uống gì, Paul bỗng nhớ lúc sáng chàng đi ngang qua khách sạn của hội Y.M.C.A[3] ở trung tâm thành phố. Chàng bèn bước lên xe điện và năm phút sau đã đến nơi. Chàng tắm nước nóng, phủi bụi áo quần rồi đến ngồi trước bàn ăn: một tô nước xúp, một dĩa thịt nóng và một ổ bánh mì. https://thuviensach.vn Lúc ấy mới có 2 giờ. Paul ra khỏi phòng ăn, người khỏe khoắn trở lại. Trong khi chờ đợi, Paul tự hỏi bây giờ làm gì. Thình lình Paul nảy ra một ý. Sau khi hỏi thăm địa chỉ ở khách sạn, chàng đi bộ trên con đường Leonard đông đúc và ồn ào trong mười phút thì đến quảng trường Kenton Place. Chàng bước qua cửa thư viện thành phố và tìm đến phòng báo chí: “Xin anh vui lòng cho tôi biết tờ nhật báo nào đáng tin cậy nhất ở Wortley?” Người thanh niên ngồi sau bàn giấy, ngước mắt lên đáp: “Đáng tin cậy? Anh đòi hỏi nhiều quá.” Rồi, với giọng của một viên chức có nhiệm vụ hướng dẫn khách lạ, anh ta tiếp: “Theo tôi, tờ Tin tức là khá nhất.” “Cám ơn anh. Anh có thể cho tôi xem bộ năm 1921 của nó được không?” “Của tất cả năm 1921?” “Không, của bốn tháng chót.” Paul đáp, hơi đỏ mặt. “Anh vui lòng điền vào thẻ này.” Paul làm theo lời và trao lại cho người viên chức. “Anh không phải là dân Wortley?” “Không.” “Thế thì… trong trường hợp này anh không được vào thư viện.” Và trước vẻ mặt thật đáng thương của Paul, anh ta nói tiếp: “Anh có bà con trong thành phố này không?” “Không.” “Nhưng anh có thể cho tôi một địa chỉ nào đó của anh được không?” “Tôi ở khách sạn Y.M.C.A. đường Leonard.” “Vậy được rồi.” chàng quản thủ thư viện trẻ tuổi nói, nở một nụ cười: “Tôi sẽ ghi địa chỉ này vào tấm thẻ.” https://thuviensach.vn Anh ta nhấn một cái nút. Vài phút sau, một cậu bé đem đặt lên bàn kế cận một tập báo dày, đóng bìa da. Paul lật từng trang giấy đã ngả màu vàng, và chàng phải cố sức chiến đấu, chống lại cơn xúc động khi một hàng “tít” lớn đập vào mắt chàng: TỘI ÁC GHÊ GỚM Ở ELDON Một thiếu phụ bị ám sát Nghiến chặt răng, Paul bắt đầu đọc từ chữ đầu tiên đến chữ cuối cùng theo nhịp tích tắc đều đều của chiếc đồng hồ treo tường. Đúng là câu chuyện chàng đã biết, nhưng được trình bày ở đấy như một bi kịch, rùng rợn hơn gấp bội. Khi đọc đến chỗ cha chàng bị bắt, trán chàng ướt đẫm mồ hôi. Đọc đến phiên tòa xử vụ án, chàng thốt lên tiếng rên rỉ, nghẹn ngào. Lời buộc tội của viên biện lý thật đanh thép, thâm độc, như một chiếc roi da quất mạnh vào người Paul: Vụ giết người ghê gớm này, được thực hiện bởi một tên sát nhân tàn bạo, trong những trường hợp không thể nào mô tả nổi, vượt xa tất những vụ giết người trong lịch sử xử án từ xưa đến nay. Kẻ gây ra tội ác đã xuống mức thấp hèn nhất của con người, mất hết nhân phẩm. Thưa quý vị bồi thẩm, đối với hắn, sợi dây treo cổ vẫn còn là một hình phạt quá nhẹ. Kế đó trong một phụ bản của tờ báo, Paul thấy một trang đầy hình ảnh: hình của nạn nhân - thiếu phụ trẻ đẹp, mái tóc dày, mặc một chiếc áo choàng có thắt ruy-băng; hình ảnh của các nhân chứng, của Rocca với khuôn mặt bệu, tóc rít lại hai bên đường rẽ giữa, một bản in lại của tấm bưu thiếp cay nghiệt với hàng chữ “Sự xa cách làm các con tim gần nhau”, hình ảnh của vũ khí gây ra tội ác - một con dao cạo kiểu Đức, có nhãn hiệu nơi sản xuất: Frass. Người ta không bỏ sót một chi tiết nào cả, có cả hình ảnh của chiếc tàu Sao Mai đang rẽ sóng Đại Tây Dương, trên đó kẻ sát nhân đã toan tẩu thoát. Và ở ngay giữa trang, hình ảnh của tội nhân có hai người lính canh kèm hai bên. Paul quan sát kỹ gương mặt. Chàng nhận thấy trong đôi mắt của cha https://thuviensach.vn mình có một vẻ gì rất lạ lùng, giống như cái nhìn đăm đăm bất động của con thú bị dồn vào đường cùng. Cái nhìn đó gây cho chàng một xúc động mạnh mẽ, dấy lên tâm hồn chàng một niềm day dứt khôn nguôi. Chàng vội vã, khép tập báo lại. Chàng đã mất hết mọi hy vọng. “Có tội, có tội.” Chàng lặp đi lặp lại nhiều lần. “Không còn nghi ngờ gì nữa cả”. Nhìn chiếc đồng hồ treo tường, Paul kinh ngạc thấy đã gần 8 giờ tối. Chàng đứng lên đem trả tập báo cho người quản thủ. Anh ta hỏi: “Anh có cần xem lại nó không? Nếu cần, tôi để dành riêng nó cho anh.” Anh ta nhìn Paul, vẻ ân cần như với một người bạn. Dáng người mảnh mai, trông anh ta chừng 19 tuổi là cùng. Đôi mắt thông minh màu xám, chiếc miệng rộng với đường nét thanh tú khiến ai cũng có cảm tình với anh. “Không, xin cám ơn anh” Paul nói, cố gắng trả lời một cách thân ái, nhưng lại cảm thấy xấu hổ vì không đạt được ý muốn. Chàng dừng lại một chút, chờ đợi một câu trả lời không đến. Và sau một tiếng chào ngắn ngủi, Paul bước ra ngoài đường phố ồn ào. https://thuviensach.vn VII Bây giờ Paul đã biết hết rồi, nên ý định đầu tiên là không đến nơi hẹn với Prusty nữa. Gợi lại làm gì nỗi đau thương của mình một cách vô ích? Tuy nhiên Paul vẫn tiến về phía Eldon, bước chân bị đưa đẩy như bởi các định mệnh lạ kỳ đã hướng dẫn chàng từ lúc phát giác ra câu chuyện. Chàng đi từng bước chậm. Đêm xuống khi chàng bước lên những bực thềm của khu phố Ushaw Terrace. Đó là một lối đi lát đá, nhỏ hẹp, giữa hai hàng biệt thự đã một thời huy hoàng. Việc phân chia những biệt thự này thành từng gian nhà riêng khiến cho khu phố mất vẻ sang trọng ban đầu của nó và trở nên nhạt nhẽo, buồn thảm. Paul cố nén một cái rùng mình khi tiến đến gần gian nhà xảy ra án mạng. Nghiến chặt răng, chàng vượt qua cổng ngoài, leo lên những bực thang bằng đá ẩm ướt, và nhấn chuông ở tầng lầu nhì. Sau một lúc chờ đợi ngắn ngủi, ông Prusty ra mở cửa và đưa chàng đi qua một phòng ngoài tối tăm vào một phòng ăn khá bề bộn. Trong một góc phòng, chiếc bình pha cà phê đặt trên lò ga đang tỏa mùi thơm đậm đặc. Người thương gia già, chân mang đôi hài nỉ, mặc chiếc veston cũ và - một bằng chứng về tính khác người của ông ta - đội một chiếc nón kết Thổ Nhĩ Kỳ bèo nhèo. Nhưng ông tỏ ra là một chủ nhân lịch sự và mời Paul dùng cà phê với một thứ đường ẩm màu nâu. Paul uống tách cà phê lọc nóng và cảm thấy dễ chịu đôi chút. Trong lúc đó Prusty rút cọng tim của điếu xì gà ra, khoái trá, kê điếu thuốc và tai bật lách cách rồi mồi lửa. “Tôi sống cô độc.” Ông nói, vừa kéo mạnh một hơi khói, vẻ thích thú lộ rõ trên mặt: “Vợ tôi đã chết, sáu năm sau khi xảy ra án mạng. Cậu thấy cà phê của tôi ngon không? Chính tôi đã nhập nó từ nước ngoài vào.” https://thuviensach.vn Paul lúng búng trả lời câu hỏi của ông. Hơi ngạc nhiên khi thấy mình tự nhiên rơi vào một hoàn cảnh kỳ lạ, chàng đưa mắt quan sát đồ vật chung quanh. Tia nhìn của chàng dừng lại một chút trên cái nhân đèn cầy to lớn bằng đồng, rồi cuối cùng hướng lên trần nhà. Đoán biết ý nghĩ của chàng qua nét mặt, Prusty nói: “Phải, lúc ấy tôi cũng đang ngồi trên chiếc ghế bành này, bỗng có tiếng động rầm rầm ở từng trên, tôi liền đứng dậy đi lên xem. Chúa ơi! Không bao giờ tôi quên được cảnh tượng đó… cô ấy nằm dài trên sàn nhà, gần như lõa lồ, cảnh đó thật đẹp… nhưng cổ họng bị cắt đứt suốt từ tai này sang tai kia.” Ông dừng lại một chút rồi tiếp: “Cậu đừng có vẻ mặt như thế. Không còn ai ở trên đó đâu… trống trơn hoàn toàn. Tôi có chìa khóa đây… Người chủ nhà giao cho tôi giữ. Cậu muốn lên xem…?” “Không, không.” Paul đáp, một bàn tay đưa lên ôm trán: “Hôm nay tôi biết khá đủ rồi. Cả ngày tôi đã đọc các bài tường thuật trên tờ Tin tức.” “À phải rồi, vụ án đã được thuật lại rất hay và rất đầy đủ trên báo. Họ tỏ ra rất điệu với tôi. Tuy nhiên tôi không được sáng chói gì mấy trước vành móng ngựa. Sprott, viên biện lý xài xể tôi thậm tệ, bởi vì tôi không chịu thề quyết rằng người đàn ông vọt ra khỏi phòng” nói đến đây điếu xì gà của ông bỗng hất lên với một vẻ gây gổ “là Rees Marthry.” “Ông không xác nhận người đó… là cha của tôi?” “Lúc ấy ở trên cầu thang rất tối. Tôi không mang theo kính. Ồ! Chắc tôi lầm, nhưng người thợ giặt ủi và các nhân chứng khác thì lại rất quả quyết… Cậu biết không,” ông kiêu hãnh tiếp, “tôi có những ý tưởng riêng của tôi, và tôi rất cứng đầu. Tôi không chắc mình đã thấy rõ người đó. Ông biện lý dùng đủ mọi áp lực nhưng cũng không thể bắt tôi thay đổi ý kiến. Có khi nào cậu ra làm chứng trước tòa chưa? ” “Chưa.” “À! Cậu sẽ thấy người ta đàn áp tinh thần cậu tơi bời. Phân nửa thời giờ làm chứng cậu không còn biết mình nói gì nữa. Khi cậu mở miệng muốn https://thuviensach.vn nói, thì người ta ngăn cản cậu ngay. Nhất là có một điều mà tôi không thể nào nói lên trước tòa được, một điều rất lạ. Tôi thường đem điều này bàn với vợ tôi và bác sĩ Tuke - người mà tôi chạy đi tìm để xem xét tử thi. - Ôi! Ông ta chẳng được xuất hiện trước tòa vì cảnh sát có chuyên viên của họ rồi. Nhưng ông ấy rất chú ý đến vụ này và chúng tôi thường trao đổi ý kiến với nhau.” Prusty hít một hơi dài khói thuốc vào lồng ngực, nét mặt đăm chiêu, cầm chiếc thìa khuấy ly cà phê: “Khi tôi bước vào phòng khách và trông thấy cảnh tượng đó, tôi chạy ngay đến bên cửa sổ, mở toang ra. Tôi muốn nhìn lại hắn và tôi đã thấy hắn! Sau khi chạy ra khỏi nhà, hắn phóng lên một chiếc xe đạp và cắm cổ đạp miết không quay đầu lại. Chiếc xe đạp màu xanh lá cây… tôi dám cả quyết như thế… màu xanh lá cây. Thật lạ lùng, phải không.” Prusty dừng lại một hồi lâu, có vẻ muốn người nghe phải hồi hộp như đang theo dõi một vở kịch: “Nhất là khi người ta biết Mathry không bao giờ có xe đạp. Dĩ nhiên, người ta cho rằng Mathry kiếm ra chiếc xe đó để dễ bề tẩu thoát. Nhưng nếu như vậy thì ai là chủ nhân của nó và nó đã biến đi đâu mất, bởi vì người ta tìm khắp nơi, rà hàng cây số kinh đào vẫn không tìm được nó…” Lại một hồi im lặng nữa, lần này rất nặng nề: “Hơn nữa, lại còn cái túi tiền mà người ta thấy bên cạnh tử thi. Nó không phải của nạn nhân, cũng không phải của Mathry. Thế là sao? Thêm một câu hỏi đã làm cho một kẻ khôn lanh hơn tôi phải bối rối. Tôi muốn nói đến Swann đấy.” “Swann?” Paul ngạc nhiên lặp lại. “Phải, thanh tra cảnh sát Swann, người được giao nhiệm vụ điều tra vụ án từ đầu đến cuối.” Và sau khi thận trọng nhìn xung quanh như sợ có người nghe trộm, Prusty nhích ghế đến sát bên Paul: “Tôi không quá yêu đồng loại mình đến https://thuviensach.vn độ sẵn sàng chết chịu chết treo cổ vì một người khác. Nhưng cậu là con trai của Mathry, cậu cần phải biết.” Sự thay đổi bất ngờ này đã lôi Paul khỏi trạng thái thụ động. Chàng ngồi thẳng người và chăm chú nghe. Prusty thì thầm: “Swann là một người tốt mà không phải là người ngu. Phải, một người rất khá. Khi anh ta bắt được một người thiến niên phạm pháp trong lúc đi tuần, anh ta không giam cậu bé mà chỉ dịu dàng khuyên bảo. Cậu hiểu ý tôi nói gì chứ? Nhưng khổ thay, Swann có một nhược điểm: anh ta nghiền rượu.” Prusty suy tư nhìn đầu điếu xì gà và lắc đầu: “Phải, chuyện thật lạ lùng…” Paul đang thu hút từng lời nói của Prusty, bỗng nghe như có một luồng gió lạnh chạy khắp người: “Tôi biết Swann rõ ràng lắm. Mỗi tuần hai lần anh ấy đến tiệm tôi mua thuốc lá, và tôi vẫn thường gặp anh ấy trong suốt thời gian xảy ra vụ án. Sau đó khi mọi chuyện đã xong, tôi nhận thấy tính tình Swann thay đổi hẳn. Anh ấy uống rượu nhiều hơn trước. Trước kia anh không hay bắt chuyện và bấy giờ lại càng không hé môi. Anh cũng bớt vui vẻ hơn, hình như có cái gì đang đè nặng lên lương tâm anh ta. Tôi nói đùa với anh ta, hỏi anh ta có phải đang si tình một cô nào không. Nhưng anh ta không trả lời. Rồi sau vụ án chừng một năm, một hôm Swann đế tiệm tôi với vẻ mặt kỳ lạ, anh ta nói: ‘Tôi đã quyết định một việc rất quan trọng, Tôi sẽ đi gặp Walter Gillet’.” Prusty dừng lại uống một hớp cà phê: “Walter Gillet là một trạng sư nổi danh ở tòa đại hình. Lúc đó tôi hỏi Swann muốn gặp ông ta để làm gì. Anh ta lắc đầu đáp: ‘Bây giờ chưa thể nói gì được. Nhưng rồi đây anh sẽ được nghe nói đến việc ấy. Không lâu đâu’.” Ông già Prusty nâng ly cà phê lên uống cạn. Paul cố gắng kềm chế sự nôn nóng của mình. “Và quả đúng như vậy, tôi đã nghe nói đến việc đó. Ngay ngày hôm sau Swann nhận một phiên trực ở quảng trường Leonnard. Anh ta say túy lúy, https://thuviensach.vn làm xáo trộn các đèn hiệu, gây rối loạn giao thông khiến xảy ra một tai nạn chết người - một người đàn bà bị xe hơi cán. - Tất nhiên sự việc này làm cho mọi người phẫn nộ. Swann bị đưa ra tòa, bị đuổi khỏi ngành cảnh sát, đồng thời lãnh án sáu tháng tù thật xứng đáng.” “Bị tù! Bây giờ ông ấy ra sao?” Paul kêu lên. “Cuộc đời anh ta kể như không còn gì nữa. Sau khi ra tù, Swann làm đủ mọi nghề: thám tử tư, gác cổng khách sạn, làm công cho một rạp chiếu bóng. Nhưng nơi nào anh cũng thất bại. Anh ta thay đổi hoàn toàn từ khi ra khỏi tù. Rượu và ưu phiền đã ném Swann xuống thật thấp. Bây giờ anh ta ra sao, tôi cũng không biết. Hai năm nay, tôi không hề gặp lại anh ta.” “Chuyện gì đã xảy ra thế?” Paul hỏi, thật ngạc nhiên: “Còn Swann có đến gặp ông Gillett không?” “Úi dà! Cậu hỏi tôi nhiều quá! ” Prusty đáp, vẻ suy tư rồi nói tiếp, giọng nhỏ hơn: “Tôi ít khi thấy từ lúc anh ấy ra tù. Nhưng vào một chiều kia, Swann bước vào tiệm tôi. Rõ ràng anh ta say khướt. Anh ta đứng lặng thinh rất lâu ở quầy hàng, thân hình lảo đảo muốn té. Cuối cùng anh ta nói: “Anh thấy không, đừng bao giờ ở trường mà muốn tỏ ra khôn lanh hơn ông thầy giáo.” Rồi anh ta phá lên cười rũ rượi. Anh ta loạng choạng bước ra, miệng vẫn tiếp tục cười; và tiếng cười ấy nghe thật khó chịu.” “Ông ấy không nói gì thêm nữa?” “Không… Không bao giờ… Không một lời. Nhưng tôi vẫn tin chắc chính vụ án Mathry đã gây ra sự sụp đổ tinh thần của Swann.” Một sự im lặng kéo dài. Paul ngồi cứng đờ trên ghế, không dám thở mạnh. Rồi từ từ, chàng ngẩng đầu nhìn lên trần nhà. Chàng chưa thấy sáng tỏ được điều gì, bóng tối có vẻ còn dày đặc hơn trước; thế nhưng trong mớ các hỗn độn này có một thứ gì đó đang thúc đẩy chàng tiến tới. https://thuviensach.vn “Đêm đã khuya.” Prusty nói, ném điếu xì gà vào bếp lửa sau khi đã nhìn lên chiếc đồng hồ treo tường: “Tôi không muốn hối thúc cậu, nhưng coi chừng cậu bị trễ tàu.” Pau đứng dậy: “Tôi chưa đi ngay tối nay.” Chàng nói bằng một giọng quả quyết: “Tôi cần biết Swann đã nói gì với Gillett.” https://thuviensach.vn VIII Sáng sớm hôm sau trời đẹp và mát mẻ. Paul thức dậy rất sớm trong căn phòng nhỏ chàng mướn đêm qua sau khi ra khỏi nhà ông Prusty. Dùng điểm tâm xong, Paul viết cho mẹ một lá thư để bà bớt lo. Rồi, với vẻ cương quyết, chàng đi vào trung tâm thành phố. Prusty ít khi ra khỏi khu mình ở nên không biết địa chỉ của Swann và Gillett, nhưng lục trong đống giấy tờ cũ, ông tìm được chỗ văn phòng luật sư Gillett ở đường Temple Lane. Prusty cũng cho biết, hai năm về trước Swann đã ngụ tại khu Corn Market. Paul đến trước số 15 đường Temple Lane lúc chín giờ rưỡi và may gặp lúc một người đàn ông vừa mở các của sổ ra và đang lau chùi bóng tấm bảng đồng đóng trên cửa lớn. “Thưa ông, có phải đây là văn phòng của luật sư Walter Gillett không?” Người gác cổng nhỏ bé, ốm yếu, chân có tật, đôi mắt ti hí đỏ ngầu, dừng tay, đáp cộc lốc: “Lúc trước là ở đây.” “Ông ấy dọn đi rồi à?” “Đúng thế.” Im lặng một lúc: “Ông có biết hiện giờ ông ấy ở đâu không?” “Có thể lắm.” Người gác cổng đáp, vừa nhìn xéo về phía chàng. “Tôi có thể gặp ông ấy ở đâu?” “Gặp ông ta? Có lẽ sẽ không dễ đâu. Nhưng cậu hãy cứ thử xem.” Và hắn đưa tay xoa xoa cái mũi, dáng suy nghĩ: “Lời chỉ dẫn có lẽ đáng được boa, tạm cho là một si-ling đi.” https://thuviensach.vn Paul thò tay vào trong cái túi xẹp lép của mình, lấy ra một đồng. Người gác cổng lẹ làng nhét tiền vào túi rồi đưa lưng bàn tay lên chùi miệng: “Ông ấy ở tại Quảng trường Orme. Rất gần đây, trong khu phố cũ, bên cạnh nhà thờ City Church. Cậu đi xuống dưới đường Temple Lane, quẹo phải rồi tiếp tục đi thẳng. Cậu sẽ thấy tên của ông ta. Không thể nào lầm được.” Trước đó, Paul không hy vọng sẽ thành công nhanh chóng như vậy. Chàng quay gót, bước đi vội vã trên con đường dài hai bên có những ngôi nhà với những cửa sổ nhô ra ngoài. Paul tìm ra Quảng trường Orme không mấy khó. Đúng như người gác cổng đã chỉ, nó ở sát bên nhà thờ. Thực ra, nó chính là nghĩa trang của nhà thờ, một nơi an nghỉ yên tĩnh sau một cái cổng cổ kính bằng gỗ sơn màu đen trắng, dưới bóng những cây du lớn. Paul đã không kịp hiểu ý nghĩa những lời chỉ dẫn của người gác cổng. Sau cùng chàng hiểu Gillet nằm ở nghĩa trang, nghĩa là ông ấy đã chết. Chàng bỗng đỏ mặt và trong một lúc có ý nghĩ trở lại tìm người gác cổng đã đùa giỡn chàng, để hỏi cho ra lẽ. Nhưng nén cơn tức giận, chàng bước dọc theo các lối đi và khoảng nửa giờ sau, chàng tìm thấy nơi mình muốn biết: một nấm mộ bằng đá cẩm thạch trắng, trên đó có khắc mấy hàng chữ: Tưởng niệm WALTER GILLETT (1881 - 1930) Với niềm tiếc thương sâu xa, Ông đã được mọi người nể trọng, Mỗi người sẽ được tưởng thưởng Tùy theo giá trị của mình. Paul lầm thầm đọc đi đọc lại hang chữ cuối cùng. Chàng hiểu, bây giờ Gillet đã chết thì chàng càng phải tìm gặp Swann gấp. Chàng vội vã ra khỏi nghĩa trang. Vài phút sau, Paul đến gõ cửa một căn nhà trệt ở phía sau khu Corn Market. Một người đàn bà trọng tuổi, vẻ khả kính, mặc chiếc áo ngủ màu https://thuviensach.vn xanh dương bước ra. “Tôi tìm ông Swann… ông James Swann.” Paul nói, cố gắng lấy giọng thản nhiên: “Tôi được biết ông ấy đã ngụ ở đây.” “Phải, ông ấy ở đây khá lâu, nhưng cách đây hai năm, ông ấy đã dọn đi chỗ khác rồi.” “Ông ấy đi đâu?” Người đàn bà ngần ngại rồi tiếp: “Tôi không có gì để trách cứ con người đáng thương ấy. Khi có tiền ông ấy sẽ trả. Cậu không gây khó khăn cho ông ấy chứ?” “Ồ! Thưa bà không, trái lại là khác.” “Tốt lắm… Ông ấy mướn một căn nhà ở đường Ware. Tôi không biết số, chủ nhà là ông Hart.” Ware Street ở cách đó mười phút đi bộ. Đó là một con phố nghèo trong một khu đông dân với những cửa tiệm và quán ăn tồi tàn, suốt ngày vang rầm rầm tiếng xe lửa điện. Paul tìm được địa chỉ quán trọ do ông Hart làm chủ trong một bản chỉ dẫn của bưu điện. Đó là một căn nhà gạch nằm phía trong một cái sân hoang phế và như bị chìm ngập dưới những ngôi nhà cao lớn nám khói đen. Cửa ra vào rất hẹp, chuông bấm đã bị rút ra, chỉ còn lại một cái lỗ đen ngòm, lại không có dùi gõ. Paul phải đập nhiều lần lên cánh cửa. Một cậu bé chừng mười hai tuổi xuất hiện, mặt mũi dơ bẩn, cổ quấn băng nỉ đỏ để che những cục hạch phồng lên. Nó cất giọng khàn khàn, không kịp cho Paul mở miệng: “Không có ai ở nhà hết. Tôi đang bệnh. Các khách trọ đều đã đi làm cả rồi, phần lớn ở nhà máy đúc. Tôi không biết ai là Swann hết. Chính mẹ tôi cho mướn phòng, bà sẽ về, lúc bốn giờ chiều.” Sau khi cho đứa bé biết chàng sẽ trở lại, Paul rút lui, quay ra con đường hôi hám nồng nặc. Không thể ở không được, một động lực vô lý lại thúc đẩy chàng đến thư viện. https://thuviensach.vn Trời xế bóng, người viên chức tiếp Paul lần trước đang trực. Trông thấy Paul, anh ta hơi giật mình, và im lặng cầm lấy tấm thẻ của chàng vừa trao. Paul nói: “Đây là địa chỉ mới của tôi. Tôi ở lại Wortley vài hôm.” Vẫn im lặng, người quản thư trẻ nhấn chuông lại cậu bé coi phòng. Khi cậu bé đã đi khỏi, anh ta mở ngăn kéo bàn giấy ra và nói: “Lần trước, anh bỏ quên lại một vài ghi chú.” Anh ra trao cho Paul tờ giấy trên đó ghi tóm tắt những chuyện chàng khởi đầu làm rồi bỏ dở. Tự nhiên Paul hiểu anh ta đã đọc và đoán ra gốc gác của mình. “Cảm ơn anh. Nhưng nay tôi không cần nó nữa.” Chàng quản thư chăm chú nhìn Paul với đôi mắt to, linh hoạt và tò mò: “Nếu vậy phải hủy nó đi.” Paul nhìn anh ta xé tờ giấy. Cậu bé đã trở lại, mang theo hai tập báo. Toàn bộ tập báo Tin tức năm 1922 được đặt lên bàn, và Paul giở tập thứ nhất ra. Chàng đọc từng hàng, từng cột rồi chuyển qua tập thứ nhì. Khi đã đọc hết, chàng ngả lưng ra sau, đưa bàn tay lên xoa đôi mắt mỏi mệt. Đồng đồ chỉ quá bốn giờ. Paul đứng dậy. Chàng không quên lời hẹn lúc trưa. “Anh tìm được chưa?” Paul cảm thấy câu hỏi bình thường này có ẩn chứa một ý tò mò mãnh liệt. “Rất tiếc là chưa.” Chàng biết anh ta sẽ không hỏi thêm gì hết. Đi thôi chứ ở lại làm gì nữa? nhưng phải chăng câu hỏi ngắn ngủi đó, là một lời khuyến khích kín đáo mong chàng thổ lộ tâm sự. Bỗng nhiên Paul cảm thấy cần phải nói: “Tôi tìm những bài tường thuật về vụ thanh tra cảnh sát Swann bị đưa ra tòa và bị kết án hồi năm 1922.” https://thuviensach.vn Người quản thư trẻ cố giấu vẻ ngạc nhiên: “Việc đó không khó đâu. Nếu có dịp, chính tôi sẽ tìm cho. Anh có điều quan tâm đến ông ấy?” “Tôi muốn biết địa chỉ của ông ta.” “Anh không nắm được chi tiết nào đặc biệt à?” “Ông ta chắc phải ở trong khu này. Hình như bây giờ ông ta nghèo khổ lắm.” “Tôi biết.” Cả hai điều im lặng. Paul hơi xấu hổ vì đã tâm sự với một người không quen biết. Chàng nói vài lời cảm ơn vụng về rồi bước ra. Lúc năm giờ, chàng đến trước nhà trọ của ông Hart. Bà chủ nhà đã trở về. Đó là một người đàn bà to lớn, mặc áo choàng lông cừu, vai khoác một tấm khăn quàng ca rô, đầu đội một nón kết đàn ông. Bà nhìn nhận: “Phải, tôi nhớ rõ ông Swann lắm, một con người khốn khổ. Ông ta bị bệnh và bị mất chỗ làm ở nhà máy. Cậu thấy không, ông ta uống nhiều rượu quá. Tôi chẳng giận khi ông ấy đi chỗ khác đâu.” “Ông ta dọn đi lúc nào?” “Cách đây độ sáu tháng.” “Ông ta đi đâu bà có biết không?” “Tôi chẳng biết. Hình như ở Bromlea, nơi những xưởng làm mới lập.” “Cách đây xa không?” “Không xa lắm… chừng ba dặm thôi.” “Ông ta có để địa chỉ lại không?” “Địa chỉ của ông ấy à? Không thể nào móc ông ta ra được một lời. Nhưng để xem… À, có chứ. Ông ấy đang trông đợi một lá thư nào đó và dặn tôi chuyển lại cho ông ta. Nhưng lá thư ấy không bao giờ đến. Để xem tôi có ghi lại địa chỉ của ông ta không.” https://thuviensach.vn Bà quay về phía đứa bé nãy giờ đang lắng nghe: “Josey, đem quyển sổ lại đây!” Thấm nước miếng vào ngón tay, bà lật từng trang, trên quyển sổ cũ mèm, góc đã mòn hết: “Này! Cậu nhìn xem. Tôi nói đâu có sai!” Paul tiến đến gần, lòng rộn lên một niềm hy vọng mới. Chàng đọc trên trang giấy thấm ướt: JAMES SWANN Clo Roberts 15, Castel Road, Bromlea Chàng vội vã ghi lại và rối rít cảm ơn người đàn bà. Vừa bước theo lối đi nhỏ hẹp, sáng lờ mờ dưới một bóng đèn duy nhất, Paul tự nhủ chàng đã không lãng phí ngày hôm nay. Paul đã tìm ra dấu vết của Swann! Và hình ảnh người Paul đang tìm kiếm hiện ra rõ rệt trong trí: một con người thân tàn ma dại, một kẻ bị đời vùi dập, bị những thực tại khắc nghiệt của cuộc sống đè bẹp, nên đã cố tìm quên các ưu phiền trong ly rượu. Đã trễ rồi, không thể đi đến Bromlea tối nay được. Ngày mai chàng sẽ đi. Ngày mai chàng sẽ tìm Swann. https://thuviensach.vn IX Tối hôm sau, đúng hai mươi bốn giờ kể từ lúc tìm được địa chỉ của Swann, Paul đi từng bước nặng nề, chậm chạp trở lại khách sạn của hội T.M.C.A. Suốt ngày, chàng đi dưới cơn mưa tầm tã, mặc cho quần áo và giầy vớ ướt sũng. Chàng mất hết mọi hy vọng. Chàng đã đến Bromlea, gặp ông chủ nhà trọ của Swann và người thầu khoán đã mướn Swann làm việc, đã đi rảo lùng sục hết cả khu phố. Nhưng Swann không để lại dấu vết nào. Đầu cúi gằm, Paul bước lên cầu thang trở về phòng mình. Chàng đút một đồng tiền vào chiếc đồng hồ ga, đốt chiếc lò nhỏ lên. Trên bàn có một bức điện tín. Paul mở ra đọc. RẤT LO. TRỞ VỀ NGAY. GHẾ GIÁO VIÊN LỚP HÈ ĐANG CHỜ. MỌI NGƯỜI MONG NHỚ. MẸ. Ngồi chồm hổm trước ngọn lửa cho quần áo mau khô. Paul đọc lại bức điện tín lần nữa. Phải, mẹ chàng gọi chàng về là điều tự nhiên, và đó là việc mà chàng nên làm. Sự xa cách làm dịu đi nỗi hờn giận của con người. Chắc bà đã nói chuyện với giáo sư Slade, hoặc đúng hơn có lẽ đã yêu cầu linh mục Fleming đến nói chuyện với ông ấy, và chiếc ghế giáo viên ở Portray vẫn còn trống. Những chữ cuối cùng “mọi người mong nhớ” làm Paul mỉm một nụ cười hơi cay đắng. Ella không còn giận chàng nữa. Khi quần áo đã khô, Paul tắt lò ga và dùng bữa ăn tối. Paul sắp bước ra cửa phòng ăn thì người bồi trẻ tiếng đến gần bên chàng: “Có người chờ ông ở phòng khách.” Lấy làm lạ, Paul đi theo người bồi đến cái phòng ngoài nhỏ bé có vài chiếc ghế mây và một chậu dừa kiểng, dành để tiếp khách. Chàng không khỏi ngạc nhiên, khi ngước nhìn thấy người làm ở thư viện. “Chào anh, chắc anh không ngờ là tôi.” “Đúng vậy.” https://thuviensach.vn Sự thành thật của Paul làm cho người quản thư trẻ mỉm cười. Lột bỏ được cái lốt viên chức, chàng ta có một vẻ dạn dĩ và thành thật ngây thơ khiến Paul không thể không bối rối một ít: “Tôi có một việc cần nói với anh. Có ai nghe lỏm được chuyện chúng ta nói ở đây không?” Paul nhìn anh ta đăm đăm đến độ anh ta cố nhịn cười: “Dĩ nhiên, anh không thể hiểu nổi. Xin anh tin rằng tôi không có ý xấu, anh cho phép tôi tự giới thiệu: Boulia… Mark Boulia.” Anh ta đưa tay ra cho Paul bắt, và cả hai người cùng ngồi xuống. Paul thấy nảy sinh một niềm hy vọng mơ hồ. Mark chăm chú quan sát chàng và tiếp lời, không giấu giếm một chút kiêu hãnh: “Ngay từ ngày đầu, tôi đã chú ý đến anh. Anh lộ vẻ đang ở trong hoàn cảnh khó khăn… và tôi thấy tội nghiệp anh. Sau khi anh ra về, tôi đọc lại những tờ báo mà anh tra cứu và tôi hoàn toàn biết rõ ý định của anh.” Paul đã nghi chuyện ấy rồi. Chàng để cho Mark tiếp tục: “Hôm qua, anh lại đến tìm những chi tiết khác nhưng không gặp gì cả. Tôi thì may mắn hơn anh. Chỉ trong một tờ báo của thành phố, tờ Clarion, rất ít người đọc, tôi moi ra được bài tường thuật về vụ án Swann. Tác giả chỉ trích bản án quá nghiêm khắc.” Mặt Paul tái nhợt, đôi mắt rực lửa: “Vì sao anh nói điều đó với tôi?” Mark nhún vai và đôi môi nở nụ cười: “Vì anh đang đi tìm Swann.” “Không thể nào tìm được.” “Tại sao?” “Mười lăm năm đã trôi qua rồi.” “Đừng bao giờ thất vọng. Tôi đã biết chỗ ở của Swann.” Mark đáp với một vẻ hơi kiêu ngạo. Và trước cái nhìn nghi ngờ của Paul, Mark nói tiếp: “Chuyện đó không khó khăn… Sau những điều anh đã kể với tôi, tôi đã đi tìm đọc kỹ danh https://thuviensach.vn sách những người vào bệnh viện và nhà thương điên. Hiện nay Swann đang ở bệnh xá Belvedere.” https://thuviensach.vn X Swann nằm trong căn phòng dài và hẹp, tường quét vôi trắng. Một vùng ánh sáng chói chang rọi xuống từ khung kính gắn trên mái nhà xiên xiên. Đây là căn phòng dành cho người nghèo, mọi tiện nghi, trang hoàng đều không có. Tất cả chỉ gồm một cái giường được che bằng một tấm màn trắng, và một cái chai dưỡng khí với ống dài để thở. Một mùi đặc biệt khó tả của bệnh tật, của cơ thể con người đang tàn lụi tràn ngập mùi hăng hăng của chất sát trùng. Swann nằm dài trên giường, hai cái gối kèm bên mình, mắt nhìn lên trần nhà. Nhìn ông, người ta có thể đoán lúc trước ông cao lớn và rất khỏe mạnh. Nhưng gương mặt gầy xọp với đôi má lõm sâu càng làm cái mũi thêm dài ra, bây giờ chỉ còn là một vệt vàng khè có từng mảng mầu nâu, đặt trên màu trắng của tấm vải trải giường. Hai bàn tay ông bất động. Mười đầu ngón tay sưng phù. Các khúc xương sườn lồi ra đưa lên đưa xuống theo nhịp thở ngắn. Lúc ấy là giờ thăm bệnh. Paul đứng sát gẩn giường, bên cạnh là Mark Boulia. Cả hai người vừa mới đến và Mark tế nhị giới thiệu Paul với người bệnh. Paul hết sức trình bầy hoàn cảnh của mình và nôn nao chờ câu trả lời của Swann lúc ấy đang chìm đắm trong suy tư. Một lát sau, ông nhìn chàng tuổi trẻ và nói yếu ớt, giọng khàn khàn: “Cậu giống anh ta lắm.” Rồi ông lại ngước mắt ngắm khung kính ở trên lầu, và im lặng một lát trước khi nói tiếp, cũng với một giọng mệt nhọc: “Gặp được cậu thật cũng lạ! Sau những bất hạnh dồn dập, tôi thề là sẽ câm miệng như hến. Thật dại dột đã nói ra! Nhưng cậu là con của Mathry, còn tôi, cuộc đời tôi đã tàn. Vậy…” https://thuviensach.vn Một giây phút im lặng nữa. Sau đó Swann gợi lại quá khứ xa xưa: “Khi được giao điều tra vụ Eldon, tôi đang hồi hăng hái - thật khác xa bây giờ - lúc nào tôi cũng còn nhớ câu chuyện như chỉ mới xảy ra hôm qua, lúc nhân chứng quan trọng đầu tiên xuất hiện. Một người thợ đóng sách tên Rocca đến trình diện ở đồn cảnh sát trung ương… Phải, Harry Rocca nhỏ thó, một con chim trĩ, một kẻ hèn nhát nhất mà tôi từng gặp. Anh ta sợ đến líu lưỡi. Nhưng cuối cùng tôi cũng hiểu được rằng anh ta quen biết nạn nhân gần một năm, thường ngủ với nàng và nhất là anh ta đã ở bên nàng trong đêm 7 tháng 9. Nhưng anh ta không dính líu gì đến vụ án mạng bởi vì ngày 8 và 9 tháng 9 anh ta đến Doncaster coi đua ngựa, và có cả tá người làm chứng cho anh ta. Anh ta đến trình diện để đánh tan mọi nghi ngờ về mình. Điều này không giúp ích gì cho chúng tôi. Chúng tôi thừa biết Mona Spurling được nhiều đàn ông ái mộ, nhưng chúng tôi vẫn quyết định giữ Rocca lại để điều tra. Khi biết điều này, Rocca xỉu đi và mắc bẫy ngay. Anh ta bèn cho chúng tôi biết về nguời bạn của mình: Mathry. Rocca nói rằng Mathry si mê cô Spurtling và đang rất lo lắng về chuyện ồn ào của tấm bưu thiếp mà anh ta đã gửi cho cô gái.” “Sau cùng, Rocca tiết lộ cho chúng tôi biết Mathry cố ngụy tạo ra một bằng chứng vắng mặt giả. Các cậu hãy tưởng tượng nỗi vui mừng của chúng tôi. Sau ba tuần lễ tìm kiếm vô hiệu quả, giờ đây bỗng nhiên thấy một dấu vết nóng hổi bất ngờ xuất hiện: Người đàn ông ấy vừa lên xe lửa đi Liverpool để xuống tàu. Một cú điện thoại được gọi đi, và Mathry bị bắt ngay trên sân ga.” Swann dừng lại liếm đôi môi khô: “Một điều không may cho Mathry là anh ta rất nóng tính, anh ta chống cự lại và đã phạm một lỗi lầm nghiêm trọng: đánh một nhân viên cảnh sát. Nếu các cậu nhớ thêm rằng Mathry bị bắt đúng vào lúc anh ấy toan xuống tàu trốn sang Nam Mỹ, thì các cậu sẽ thấy rõ cái tình trạng nguy hiểm của anh ta. Chưa đủ, anh ta lại càng làm cho nó thêm trầm trọng hơn nữa. Dĩ nhiên, câu hỏi đầu tiên được đặt cho Mathry là: ‘Ngày 8 tháng 9 trong khoảng thời gian từ 8 đến 9 giờ tối, anh ở đâu?’ Không biết gì về sự phản bội của bạn mình, Mathry trả lời: ‘Tôi chơi https://thuviensach.vn bida với một người bạn tên Rocca’. Sau những sự kiện như vậy, không ai cho rằng anh ta là người vô tội.” Swann ngả đầu ra phía sau và đôi mắt mờ đục của ông lóe lên một ánh kỳ lạ: “Cần phải nói cho cậu biết về ông Adam Dale, ông chỉ huy của tôi. Lúc bấy giờ ông ấy là sếp đứng đầu ngành cảnh sát của Wortley. Ông là con của một tá điền ở Canberland và khởi đầu từ vị trí thấp nhất, ông ta lần lượt leo lên từng nấc cho đến hết bậc thang trong ngành.” “Là người giữ kỷ luật nghiêm minh, ngay thẳng với thuộc cấp, ông ta đã phục vụ đắc lực cho luật pháp, không bao giờ chấp nhận một sự nhượng bộ nào. Ông ta thường khoe với tôi về trực giác bén nhạy không thể nào sai lầm được của ông. Ngay từ lúc đầu, ông ta đã nghi ngờ Mathry.” Trở lại vẻ tinh anh, người bệnh chống một khuỷu tay ngồi dậy: “Nhưng tôi không đồng quan điểm với ông ấy về những bằng chứng khiến có thể buộc tội Mathry. Tôi nêu lên nhận xét rằng Mathry đã mua vé đi Nam Mỹ dưới tên thật của mình, và đã công khai mướn phòng khách sạn ở Liverpool cho anh ta và cả gia đình, không tìm cách giấu lý lịch của mình. Một kẻ có tội muốn đánh lạc dấu vết của mình, không bao giờ làm như vậy. Hơn nữa, Mathry đã gây cho tôi một cảm giác tốt. Anh ấy thành thật nhìn nhận có gửi cho Mona Spurling một tấm bưu thiếp do chính tay anh ấy viết. Anh ta nói rằng đó chỉ là một sự đùa cợt. Sau cùng, vết thương ghê gớm trên mình của nạn nhận chỉ có thể được gây ra bởi một người có sức mạnh phi thường, mà Rees thì không có vẻ gì của một lực sĩ cả. Tính tình bộp chộp khiến anh ta vụng về bịa ra bằng chứng là đã ở bên Rocca. Lo lắng, căng thẳng, hoảng sợ về những điều mà người ta làm rùm beng chung quanh tấm bưu thiếp, Rees đã muốn dựa vào một người nào đó làm bạn đồng minh. Ý tưởng này tự nó là dại dột, nhưng rất phù hợp với những gì chúng tôi được biết về tính tình của anh ấy.” “Tôi trình bầy tất cả những nhận xét trên với Dale nhưng ông ta gạt bỏ hết. Ông ta đã tin chắc điều mình nghi một cách thành thật, các cậu hãy nhớ https://thuviensach.vn như vậy. Ông ta tin mình đã nắm được thủ phạm và sẽ không bao giờ chịu buông tha.” Swann đuối sức, ngả đầu lên gối để thở, rồi chậm chạp nói tiếp: “Các cậu biết thế nào là bộ máy hành chính. Nó cứ lăn theo cái cách của nó, theo những nguyên tắc hẹp hòi, thế là cuộc điều tra tiến triển theo chiều hướng thông thường của nó. Người chỉ huy muốn gì? Tìm lại vũ khí gây án mạng, kiếm những vệt máu trên quần áo của Mathry và tìm ra những nhân chứng buộc tội. Vũ khí, ông ta đã tìm thấy nó gần như ngay lập tức trong hành lý của người bị tình nghi. Đó là một con dao cạo kiểu xưa, lưỡi rất rộng, do Đức sản xuất. Nó hơi sét một chút. Mathry mau mắn nhìn nhận đã có con dao này nhiều năm rồi, do cha anh để lại. Nhiều lần anh toan vứt nó đi, nhưng cuối cùng lại đổi ý vì lý do tình cảm. Các cậu có thể tin rằng anh ra đã giữ lại con dao sau khi dùng nó giết chết cô gái không?” “Không! Không! Không bao giờ! Đó là một điều vô lý nhất. Việc làm đầu tiên của một tên sát nhạn là vứt bỏ ngay vũ khí của hắn. Ấy vậy mà Dale, khi đưa cho tôi xem con dao, đã sung sướng nhảy lên: ‘Tôi nói với anh có sai đâu! Bây giờ chúng ta nắm được thủ phạm rồi’.” “Người ta gửi con dao và quần áo của Mathry đi giảo nghiệm, đồng thời hỏi cung ba người đã trông thấy tên sát nhân ra khỏi phòng của Mona Spurling trong buổi tối xảy ra án mạng: Prusty, Edward Collins và Louisa Burt.” “Prusty cận thị, Collins hơi ngây ngô, loại người mà chúng ta có thể bảo gì nói nấy, còn Lousia Burt thì có bản tính khác hẳn. Cô ta chỉ thoáng thấy tên sát nhân trong bóng tối của một đêm mờ mịt, mưa gió, ngày 8 tháng 9 trên một con đường đèn không đủ sáng, thế mà cô ta quả quyết xác nhận và kể ra quá nhiều chi tiết - đến bây giờ tôi vẫn nhớ được khuôn mặt tròn và bướng bỉnh của cô ta - cô ta khai: ‘Một người đàn ông độ 45 tuổi; cao, mình dây, da nâu, râu cạo nhẵn nhụi, mũi thẳng. Hắn đội một nón kết vải ô vuông, mặc chiếc áo mưa màu sậm và mang giày màu vàng’.” https://thuviensach.vn “Lúc đầu, Dale chấp nhận lời khai này, không bác bỏ. Nhưng khi Mathry bị bắt, bản nhạc liền thay đổi điệu, bởi vì Marhy không cao, không thon, không nâu, cằm không cạo nhẵn. Trái lại anh ấy là người tầm thước, nước da trắng và để ria. Y phục mô tả cũng không phù hợp với sự thật. Nhưng Lousia không bối rối vì một chuyện nhỏ nhặt như thế. Cô ta thản nhiên bảo rằng mình đã nói lộn vì người lấy lời khai hối thúc cô quá. Và, rất bình tĩnh, cô ta khai lại. Người mà cô ta thấy không phải cao nữa, cũng không phải nhẵn râu.Cái nón kết của anh ta trở thành cái mũ mềm. Chiếc áo đi mưa trở thành một chiếc áo choàng màu xám. Tóm lại, sự mô tả của cô ta lần này phù hợp với hình dạng của Mathry, nhưng cũng chỉ phù hợp một cách mơ hồ thôi.” Swann dừng lại một lần nữa. Môi mím chặt, ông gắng lấy lại hơi thở điều hòa: “Người ta cho các nhân chứng đi nhận diện kẻ bị bắt. Dale đưa họ đến Liverpool, và tôi cũng đi theo. Có mười một nhân viên cảnh sát mặc thường phục cùng đứng xếp hàng với Mathry. Đó là cách thức thông thường, và vài người cho là cách thức tốt. Dẫu sao, hai nhân chứng cũng không ngần ngại nhìn ra đúng mặt Mathry. Thế là Mathry bị đem về Wortley và chính thức bị tố cáo đã giết cô Mona Spurling.” Người bệnh cố gắng quay đầu về phía Paul: “Tôi cũng chưa cho là Mathry hoàn toàn mất hết hy vọng… Việc tìm ra thủ phạm thật quá hoàn hảo và quá dễ dàng khiến tôi có cảm giác nó phải che đậy một khuyết điểm nào đó. Nhưng tôi đã lầm khi chẳng nghĩ đến ông biện lý. Cậu có thể cho rằng ông cò Dale - rất ngay thật - chịu trách nhiệm về việc Mathry bị kết án? Không phải! Chính Sprott, viên biện lý, một tên khôn ranh quỷ quyệt đã sắp xếp hết mọi chuyện. Ông ta đã thành công và đạt được danh vọng. Hiện giờ ông ta tên là Sir Matthew; và ông ta sẽ còn tiến cao lên nữa, lên đến nấc thang tột đỉnh. Nhưng vào lúc xảy ra vụ án, ông ta chỉ là một kẻ mới vào nghề, một người vô danh. Một kẻ cơ hội cùng mình.” “Ngay khi ông ta vừa hé miệng, tôi biết ngay rằng ông ta muốn cái đầu của Mathry.” https://thuviensach.vn “Bên buộc tội bèn triệu tập các chuyên viên giảo nghiệm của mình, nhưng lại không gọi ông Tuke, vị bác sĩ đầu tiên khám nghiệm tử thi, ra làm chứng trước tòa.” “Ngoài ông Dobson, bác sĩ giám định tư pháp, giáo sư Jenkins cũng đến làm chứng rằng con dao cạo của bị cáo, có thể đã gây ra vết thương, nguyên nhân của cái chết. Tuy không chịu thề là đã tìm thấy những vết máu trên con dao hay trên y phục bị cáo, ông xác nhận có tìm thấy những vi thể của nhũ hoa trên các vật dụng đó. Rồi đến lượt chuyên viên về khoa chiết tự xác nhận cái thư bị đốt phân nửa đúng là của Mathry ‘Viết bằng tay trái để che giấu nét chữ của mình’. Còn Collins và Burt, với vẻ mặt ngây thơ và đôi mắt to ngoan ngoãn, đã gây ảnh hưởng rất lớn đối với bồi thẩm đoàn. Cô ta xác nhận và thề quyết: ‘chính là chiếc áo choàng của hắn’, ‘đúng là hắn’. Và nói về việc nhận diện bị cáo trong trụ sở cảnh sát tại Liverpool cô ta hãnh diện khoe: ‘Tôi là người đầu tiên nhận ra hắn!’.” “Rồi đến phần buộc tội, viên biện lý thao thao bất tuyệt trong suốt ba tiếng đồng hồ, không một lúc nghỉ, cũng không cần nhìn vào bài viết sẵn. Thật là một dòng thác ngôn từ hùng biện. Ông ta mô tả lại án mạng như một khúc phim rùng rợn và tàn bạo: ‘Tên sát nhân siết chặt con dao cạo trong tay, tấn công dã man một cô gai đáng thương, không tự vệ, tình nhân của hắn, mang trong bụng đứa con không bao giờ ra đời, rồi tìm cách chạy ra nước ngoài để tránh hình phạt’. Một kiệt tác của khoa hùng biện, tôi đảm bảo với cậu như vậy… Và các bồi thẩm, miệng há hốc, nuốt từng lời nói của ông ta…” “Còn biện hộ thì thật là thảm hại. Bị cáo nghèo nàn, không có tiền để nhờ được một người trong luật sư đoàn bào chữa. Luật sư thí là một ông già giọng nói yếu ớt, ngay cả hồ sơ vụ án cũng không thuộc. Hình như ông ta cũng không biết điểm nào là điểm có lợi để bào chữa cho Mathry.” “Một cuộc xử án như thế không kéo dài lâu. ‘Có tội!’ Những tiếng phản đối cùng những tiếng hét dữ dội của người tù làm xé lòng tôi. Người ta phải lôi anh ấy ra khỏi phòng xử, và mọi người hoan hỷ khen mừng. Collins và https://thuviensach.vn Burt được lãnh 500 đồng tiền thưởng. Chỉ có Chúa mới biết họ có xứng đáng hay không.” Swann kiệt sức thực sự; đầu ông yếu ớt ngả xuống gối, ông thì thầm: “Ngày mai hay ngày mốt các cậu hãy quay trở lại để biết nốt câu chuyện.” Một sự im lặng nặng nề. Boulia lặng lẽ rót đầy một ly nước đưa lên miệng ông Swann. Ông uống một cách ngon lành, mắt nhắm nghiền. Paul vẫn đứng im lìm, hai bàn tay ôm lấy đầu. Chàng muốn mở miệng nói, nêu hàng ngàn câu hỏi, nhưng thấy rõ rằng ông Swann đã đuối sức. Mark nhón gót bước nhẹ ra cửa, Paul đi theo, sau khi đã vụng về xiết chặt bàn tay của Swann. https://thuviensach.vn XI Có thể nào một kẻ vô tội mà phải bị cách biệt với thế giới bên ngoài suốt mười lăm năm? Tâm trí hoang mang, Paul gần như không dám nêu câu hỏi ghê gớm đó với mình. Swann không nói gì và cũng không đem đến điều gì cụ thể, chỉ toàn các nhận xét thôi. Thật không thể tưởng tượng nổi. Nhưng chỉ riêng việc có thể xảy ra một chuyện bất công khủng khiếp như thế cũng đủ làm cho Paul muốn điên lên. Không nên nghĩ đến nó nữa. Paul cương quyết đè nén những xúc động của mình, phải bình tĩnh, sáng suốt và đầy đủ nghị lực. Chàng viết thư về nhà xin thêm quần áo, và tìm một chỗ ở khác để dễ hoạt động hơn. Cuối cùng chàng thuê được một căn phòng sát mái trên tầng lầu 5 một ngôi nhà tại đường Poole, một khu phố khá nghèo nhưng đứng đắn nằm về phía Nam đại lộ Ware đông đúc và ồn ào. Paul phải trả trước tiền nhà, nên gần như sạch túi. Sau khi tắm rửa xong, chàng chạy đi tìm việc làm để có tiền chi tiêu. Wortley là một thành phố rất hoạt động, nằm giữa một vùng đồng bằng rộng lớn phì nhiêu. Nhưng, cũng giống như thành phố Conventry và Northampton lân cận, nền kỹ nghệ nơi đây có tính cách chuyên môn, chỉ chuyên sản xuất các loại đồ gốm, sứ, dao kéo, và đồ da. Những nghề đó Paul đều mù tịt. Paul không có thẻ nghiệp đoàn, giấy tờ chứng nhận và các bằng cấp của Paul chưa cho phép Paul được chính thức dạy học. Sau hai ngày tìm việc không kết quà, Paul bắt đầu lo âu, tìm đọc những mục cần người trên các nhật báo. Nhưng sáng hôm sau, cái may mắn đã đến với Paul. Trong khi đi qua đường Ware chật ních để đến một quán nhỏ - nơi mà chỉ tốn vài xu người ta https://thuviensach.vn có thể ăn bữa trưa gồm một cái xúc xích với một tách cà phê - chàng tình cờ nhìn thấy một tờ giấy rao vặt dán trên cửa kính của nhà hàng Bonanza. CẦN MỘT NHẠC SĨ DƯƠNG CẦM Hỏi ông giám đốc Victor Harris Paul ngần ngại bước vào. Đây là một cửa hàng bán đủ thứ, từ nồi niêu xoong chảo đến đồ chơi trẻ em, từ vật dụng bằng sắt đến quần áo, mũ nón của phụ nữ. Tất cả được trưng bầy trên những quầy hàng dài theo kiểu ở các tiệm “giá nhất định” bên bờ sông Thames. Ông giám đốc - trạc ba mươi tuổi, tóc uốn, mang chiếc cà vạt phất phơ theo làn gió quạt máy, thật đúng điệu chủ tiệm - nhìn Paul từ đầu đến chân rồi đưa chàng đến một góc cửa hàng. Ở đây, chiếc dương cầm được đặt trên một cái bục, chung quanh có những kệ chứa rất nhiều bản nhạc. Ông ta rút hú họa một bản, đặt lên chiếc dương cầm và nói vắn tắt: “Đánh bản này đi.” Paul ngồi xuống, cho hai bàn tay lướt nhanh trên phím đàn. Paul có thể đánh những bản nhạc thật khó, cho nên khúc luân vũ bình dân này có đáng kể gì. Chàng dạo lại khúc nhạc một lần nữa, và biến đổi nó theo ý chàng, rồi tự tay lấy những bản nhạc khác chơi tiếp. Chung quanh Paul, các nhân viên nam nữ bán hàng lắng tai nghe. Ông giám đốc Harris rất đỗi hài lòng, đánh nhịp trên quầy hàng bằng chiếc nhẫn kim cương giả đeo trên tay: “Được rồi, tôi bằng lòng nhận anh. Ba đồng mỗi tuần và một bữa ăn trưa nguội. Nhưng không được chán nản, phải hăng say nhé! Sử dụng cả các bàn đạp chân. Khách hàng thích vậy đó.” Ông ta nhìn Paul, nở một nụ cười che chở để lộ hàm răng bịt vàng, cau mày liếc nhìn các nữ nhân viên xao lãng công việc, rồi bỏ đi. Paul đánh đàn suốt ngày. Đây không phải là một công việc an nhàn. Đàn hàng giờ liên tiếp gây ra mệt mỏi, ban đầu là tê cóng rồi sau đó là đau nhức. Cửa hàng không được thoáng khí và đầy nghẹt người ồn ào. Paul cảm thấy khách hàng thở trên cổ mình. Họ đi ngang qua, thúc cùi chỏ vào người chàng và thiếu điều muốn ngồi luôn lên chiếc dương cầm. Paul thấy nghẹt https://thuviensach.vn thở, đầu óc quay cuồng với những ý tưởng, những dự định, những kế hoạch mơ hồ. Phải cứu lấy cha mình… nhưng bằng cách nào? Khoảng một giờ trưa, chàng được phép gọi đồ ăn. Chỉ trong vòng vài phút đồng hồ, một nữ nhân viên mang đến cho chàng một tách cà phê và một đĩa sandwich. Sung sướng được nghỉ ngơi trong giây lát, Paul đứng dậy vươn vai cho giãn gân cốt và mỉm cười hỏi tên người thiếu nữ. Nàng đáp không chút ngần ngại, nhưng liền đó lại tránh đi chỗ khác. Lena Andersen. Sự e dè của nàng không có gì là bất lịch sự, nhưng có một cái gì cưỡng ép, gợi tính tò mò của chàng. Một lát sau, khi nàng đi ngang qua để trở lại phòng ăn, chàng không thể không nhìn theo trước khi tiếp tục đàn. Trông nàng không quá hai mươi tuổi. Vóc dáng rất Bắc Âu: cao, tóc vàng, chân dài. Nét mặt đều đặn mặc dầu có một vết sẹo phớt ngang trên má. Nàng sẽ rất quyến rũ nếu không có vầng trán nhíu vì nỗi buồn triền miên. Trong giờ nghỉ, gương mặt nàng có một vẻ gì buồn xa vắng. Nhiều lần trong buổi chiều Paul đưa mắt nhìn về phía cô gái. Dù hình như vẫn thuận thảo với các bạn, Lena lại luôn luôn đứng riêng một mình và tỏ ra rất dè dặt đối với khách. “Một cô gái kỳ lạ,” Paul nghĩ. Chàng tìm cách làm cho Lena nhìn mình, nhưng vô ích. Nàng vội cúi mặt quay đi. Buổi chiều trôi qua chầm chậm. Paul nhắm mắt dạo một khúc nhạc đã đánh đi đánh lại nhiều lần đến phát ngấy. Đồng hồ điểm sáu giờ, chàng được tự đo. Paul chạy đến bệnh viện và phải khó khăn lắm mới được vào. Swann có vẻ mệt hơn và không muốn nói chuyện. Có thể nào ông ta đang tiếc rằng bữa trước đã tâm sự nhiều quá không? Nhưng khi thấy Paul ngồi yên ở đầu giường, không một lời thúc giục, Swann tỏ ra thoải mái hơn. Ông quay về phía chàng với ánh mắt thương hại: “Cậu trở lại thăm tôi…” “Vâng.” Paul thì thầm. https://thuviensach.vn “Tôi đã nói trước với cậu… Nếu cậu tiếp tục giữ vững ý định, thì cuộc đời cậu sẽ bị thay đổi… sẽ khốn khổ như cuộc đời tôi. Và cậu sẽ không có đường lui đâu.” “Tôi sẽ không lùi bước.” “Trước hết cậu sẽ làm gì?” “Tôi viết một biên bản về những lời phát biểu của ông, do chính tay ông ký tên, rồi đem trình lên các nhà chức trách…” Swann không còn đủ sức để cười, nhưng đôi môi nhợt nhạt mím lại và một vẻ nhạo báng chua chát hiện ra trong mắt ông: “Các nhà chức trách? Công lý? Ối cha! Các ông ấy biết hết, biết từng chi tiết, và họ hoàn toàn hài lòng về tình trạng hiện tại. Ông biện lý, Sir Mathew Sprott? Tôi biết ông ta quá rõ và tôi khuyên cậu không nên đến gần ông ta.” Một cơn ho dài ngắt lời ông: “Không. Chỉ có ông Tổng trưởng tư pháp mới có quyền xét lại bản án và cậu sẽ không thể nào đến gần ông ấy được. Cậu sẽ đưa ra được những gì? Những lời lảm nhảm điên khùng - người ta sẽ gọi chúng như vậy - của một cựu nhân viên cảnh sát mất uy tín, bị đuổi vì hạnh kiểm xấu xa. Người ta sẽ coi như không có. Người ta sẽ cười cậu, chỉ có thế thôi.” “Nhưng ông tin vào sự vô tội của cha tôi?” “Tôi không tin, tôi chắc chắn như thế.” Swann đáp, vẻ gay gắt một chút: “Trong lời trình bày với bồi thẩm đoàn, ông chánh án đã cho đây là một tội ác xấu xa, ghê tởm, mà pháp luật không có hình phạt nào đủ nghiêm khắc để trừng trị. Thế mà, người ta lại ân giảm cho Mathry. Tại sao? Tôi hỏi cậu. Có lẽ người ra không chắc chắn mấy về sự có tội của Mathry. Và theo lòng tốt của mình, các bồi thẩm đã tránh cho tội nhân khỏi bị chết treo cổ, để bắt anh ta phải chịu một cái chết từ từ: án tù chung thân ở Stoneheath.” Paul vẫn lặng lẽ nghẹn thở trong lúc Swann cố gắng lấy lại hơi sức. Sau cùng ông nói, bằng một giọng đổi khác, chắc nịch: “Không, cậu chỉ có một cách để cứu cha, tìm ra thủ phạm thực sự.” https://thuviensach.vn Ý kiến bất ngờ của Swann làm Paul rùng mình, lạnh xương sống. Cho tới lúc đó, chàng chỉ nghĩ đến sự vô tội của cha, không hề nghĩ đến kẻ sát nhân thật sự. Một bóng đen khổng lồ thình lình xuất hiện chặn trước mặt chàng. “Rocca. Có lẽ chính ông ấy.” Chàng phỏng chừng sau một hồi im lặng. “Rocca không dính lứu gì đến án mạng cả.” Swann ngắt ngang và lắc đầu với một vẻ kinh bỉ: “Hắn hèn quá, không đủ sức giết người, thứ người đó chỉ nghĩ đến việc cứu thân xác mình mà thôi. À, nhân nói đến thân xác,” ông mỉm cười, mặt nhăn lại, “chúng ta hãy nhớ đến cái túi da tìm thấy bên cạnh tử thi. Chẳng ai rõ nó từ đâu đến… Một thứ da tuyệt đẹp, rất mịn… Đó là da người.” Một lúc im lặng hoàn toàn. Swann tiếp, giọng cay đắng: “Cậu hiểu điều tôi nói không? Cậu chỉ cần tìm ra con người mất hết nhân tính đến mức độ mang trên mình một món đồ như thế. Chỉ cần nêu lên một số chi tiết bị người ta bỏ rơi lúc điều tra và lúc xử án là cậu sẽ biết được thủ phạm.” Một lần nữa, trên đôi môi nhợt nhạt của Swann nở một nụ cười chua chát: “Sau mười lăm năm… điều đó tương đối dễ.” “Tôi sẽ cần đến ông, đến sự giúp đỡ của ông.” Vẻ mặt của Swann bỗng thay đổi, đôi mắt trở nên mơ hồ: “Nếu cần… Bây giờ ta sẽ nói về hai nhân chứng đã chỉ ra thủ phạm: Edward Collins và Lousia Burt.” "Burt và Collings đến đòi tiền thưởng lúc tôi đang trực. Như đã nói với cậu, tôi có những lý do chính đáng để nghi ngờ hai người đó. Chẳng phải là Collins có hảo ý nhưng yếu đuối, mà là Lousia Burt; một cô gái chỉ mới mười bảy tuổi nhưng cần phải được theo dõi kỹ. Tôi đưa họ vào phòng đợi; bàn làm việc của tôi ở phòng bên và tôi theo dõi cuộc nói chuyện của họ qua ống nghe. Tôi ghi lại cuộc nói chuyện của họ. Lúc đầu không có gì đáng kể. Sau đó Collins có vẻ lo lắng, hỏi: ‘Cô tin là chúng ta được lãnh tiền thưởng không?’ https://thuviensach.vn Burt đáp, giọng rất tự tin: ‘Anh đừng lo chuyện đó.’ Và cô lại nói tiếp: ‘Chúng ta có thể được nhiều hơn nữa.’ ‘Cô muốn nói gì?’ Burt cười nho nhỏ và thấp giọng nói: ‘Tôi dành cho anh một ngạc nhiên nhỏ.’ Collins có vẻ rất lo âu và sau một hồi im lặng, anh ra lại hỏi, giọng hơi run run: ‘Đúng Mathry là thủ phạm phải không, Lousia?’ ‘Câm mồm đi cậu bé, bây giờ lùi lại là quá trễ rồi. Trước hết chúng ta không làm hại ai cả. Dẫu không có chúng ta, Mathry cũng bị kết tội, không sao cứu nổi. Hơn nữa, người ta cũng đâu có treo cổ anh ta. Bộ anh muốn chống lại cảnh sát sao, đồ ngu. Tốt hơn hết nên làm theo ý họ. Việc này sẽ còn mang đến cho chúng ta nhiều cái lợi to lớn hơn nữa. Những ngày vừa qua, tôi đã nảy ra một ý nghĩ, - cô ta mơ mộng nói tiếp, - tôi sẽ sống như một bà quý phái, như một bà hoàng, với những gia nhân hầu hạ, rửa chén bát. Nếu tôi có thể nắm lấy dịp may này, tôi thề với anh là cái bàn ủi và tôi, chúng tôi sẽ không gặp nhau nữa.’ Mệt hết hơi, Swann lại dừng và nhìn thẳng vào mắt Paul. Rồi ông tiếp tục kể: “Chỉ bao nhiêu đó thôi, nhưng cũng quá đủ. Điều tôi ngờ vực là đúng. Burt vừa để lộ chân tướng qua vài câu, cô ta đã thấy kẻ sát nhân thật sự đi ra khỏi nhà và lời mô tả đầu tiên của cô phù hợp với hình dạng của kẻ ấy. Về sau, cô ta liền thay đổi lại cho đúng với hình dạng của Mathry, và tất cả mọi người dồn lại buộc tội Mathry là thủ phạm.” “Ý muốn duy nhất của cô ta là được nổi bật lên hàng đầu với hy vọng lãnh một số tiền thưởng. Còn Collins, vốn người nhu nhược, bị Burt lôi cuốn dễ dàng. Và có lẽ sau cùng, Burt đã tự thuyết phục cả chính mình tin rằng Mathry đúng là kẻ cô ta nhìn thấy chạy ra khỏi nhà vào đêm hôm đó, chuyện như thế là thường ở loại người làm chứng đó.” “Rồi cuộc trình diễn chấm dứt, sau khi tên tuổi được in bằng những hàng chữ được mọi người nhắc nhở, khen tặng, cô ta suy nghĩ lại, ngạc https://thuviensach.vn nhiên về những thiếu sót của vụ án, và tự hỏi kẻ mà cô thấy trong đêm đó phải chăng một kẻ khác, một hình bóng quen thuộc mà cô đã từng gặp nhiều lần ở Eldon, trên đường đi đến nhà giặt ủi. Bỗng nhiên một toan tính xuất hiện trong đầu óc cô ta… Burt thấy rõ một dịp may có thể giúp cô thực hiện được giấc mộng giàu sang…” “Đáng lẽ tôi nên đi gặp ông Cò để nói chuyện, nhưng tôi suy nghĩ lại rồi thôi… Tôi cãi nhau với ông ta quá nhiều lần lúc bắt đầu cuộc điều tra, ông ta không chịu nghe tôi đâu. Vài hôm trước đó, tôi bị rầy vì một lỗi nhỏ trong khi làm việc, và chúng tôi không ưa nhau nữa. Tôi suy nghĩ và sau cùng tôi đi hỏi ý kiến của luật sư Walter Gillett, một người mà tôi rất tin tưởng và ông ấy cũng rất thương tôi. Cậu đoán xem ông ấy đã khuyên tôi những gì? Ông ấy biết tôi không được cấp chỉ huy thích. Và chắc cũng biết tôi hay uống rượu, cho nên ông không hoàn toàn tin tưởng những điều tôi vừa nêu ra. Ông bảo tôi: ‘Jimmie, đừng dây vào cái tổ ong vò vẽ đó nữa’. Và tôi đã làm gì. Tôi đã nhậu một bữa cho đã, để quên luôn những chuyện đó. Nhưng tôi gián tiếp gây ra một tai nạn giao thông… kết quả ra sao, cậu đã biết rồi. Ra khỏi tù, tôi không còn nghĩ đến vụ án ấy nữa…” Giọng Swann yếu dần. Một cơn ho dài ngắt lời ông, làm ông kiệt sức. Ông ra dấu không muốn nói nữa. Paul tê cứng người, không cử động được gì cả, chỉ mở miệng hỏi, phá tan sự im lặng: “Burt và Collins vẫn còn ở đây không?” “Cậu không thể gặp được Collins, hắn đã lấy vợ và di cư sang New Zealand rồi, Burt thì vẫn sống ở đây… Phải, Burt… cô bé Lousia Burt, một cô gái đặc biệt… Chính cô ta nắm giữ chìa khóa bí mật.” Swann ngừng lại một chút: “Tôi không chắc cậu có thể mọi được gì từ cô ta.” “Tôi có thể tìm gặp cô ta ở đâu? ” “Cô ta giúp việc cho một gia đình rất được nể trọng…” Swann rút ra dưới gối nằm một mẩu giấy trên đó ông ta ghi nguệch ngoạc đầy chữ vào https://thuviensach.vn trao cho Paul, lẩm bẩm: “Cậu cầm lấy đi, nếu cái này có thể giúp ích cậu khá nhiều. Tôi cảm thấy rất mệt, tôi muốn ngủ.” Ông quay người nằm nghiêng, kéo tấm chăn lên tận cằm, chấm dứt cuộc nói chuyện. Paul đứng dậy: “Cảm ơn ông.” Chàng nói bằng một giọng xúc động: “Tôi sẽ trở lại sớm.” Sau khi nhìn lại người bệnh đáng thương một lần nữa, chàng bước ra khỏi phòng, lòng hồi hộp, nhen nhóm một niềm hy vọng mới. Sự giúp đỡ của Swann rất quý báu. Tuy vậy, chàng vẫn có cảm giác người cựu cảnh sát còn giữ một bí mật mà ông sợ không dám tiết lộ. Paul thề lần viếng thăm sau sẽ khám phá cho bằng được. https://thuviensach.vn XII Tối hôm sau, lúc hết giờ làm việc, Paul đến gặp Mark mà hồi xế chiều chàng đã gọi điện thoại hẹn nhau trước tiệm Bonanza. Boulia tỏ vẻ sung sướng được gặp Paul và nồng nhiệt siết chặt tay chàng. “Thế nào? Chúng ta khởi sự tối nay chứ?” Anh ta hỏi. “Phải, nhưng trước hết ta đi ăn tối đã.” Paul đáp lại. “Thôi, cảm ơn anh. Tôi đã ăn hồi năm giờ rồi. Còn anh?” “Tôi không thấy cần gì hết.” “Từ lúc nói chuyện với anh bằng điện thoại, tôi nôn nóng quá.” Mark hăm hở nói, trong lúc đi sát bên Paul: “Anh hãy cho tôi biết về Burt.” Paul ngần ngại. Tính tình sôi nổi dễ dãi của Boulie có thể làm hư việc. Nhưng tấm lòng hào hiệp của anh ta khiến Paul phải nể trọng. Cuối cùng Paul đáp: “Burt làm gia nhân và có vẻ không thành công mấy trong cuộc đời. Hôm nay là ngày cô ta được nghỉ để đi chơi, và tôi biết nơi chúng mình có thể gặp cô ta.” “Anh làm việc hay lắm.” Mark reo lên và liền đó hỏi tiếp: “Còn Swann, bệnh tình ông ấy thế nào?” “Rất nặng, hồi trưa tôi muốn vào thăm ông ấy nhưng người ta không cho.” Thế rồi cả hai im lặng băng qua công viên, đi vòng theo nhà nghe nhạc cửa đóng - vì là mùa đông - đứng như một cái bóng trong màn đêm buông xuống. Họ đi quanh hồ nước rồi leo lên khu đồi có viện bảo tàng vạn vật học và phòng triển lãm mỹ thuật. https://thuviensach.vn Họ đến khu Porlock Hill, một trong những khu đẹp nhất của thành phố với những đại lộ thênh thang hai bên có những ngôi nhà xinh xắn núp dưới bóng hàng cây dẻ cổ thụ. Tiếp giáp với các đại lộ là vài con đường cũ kỹ, nhỏ hẹp có lát đá - vết tích của một quá khứ xa xưa - với những chuồng trại sửa sang thành nhà ở, tiệm quán, và một nhà hàng: Cây Sồi Vàng. Khi nhìn thấy bảng hiệu, Paul nói: “Chúng ta đến nơi rồi. Khỏi cần nhắc là anh phải cẩn thận. Nếu anh thấy không có gì đáng nói thì làm thinh, chỉ có thế thôi.” Họ băng qua đường và đẩy cửa bước vào. Một gian phòng bày biện khá đẹp, với những chiếc ghế ngồi bọc len cũ kỹ, những bóng đèn với chụp viền vải. Trên tường treo những hình ngựa đua và phía sau quầy giải khát, một tấm gương đã rạn nứt nằm trong một cái khung nạm vàng tróc gần hết. Khách hàng mỗi lúc một đông - những thương gia trong khu phố và những thợ đi làm về trễ. Paul dẫn bạn đến một cái bàn gỗ nám khói, gọi hai ly bia, kín đáo quan sát khắp phòng rồi quay lại bảo Mark: “Cô ta chưa đến đây, có thể tối nay cô ta không đến.” Paul vừa nói xong thì cánh cửa ra vào xoay tròn và một người đàn bà bước vào, đi thẳng đến một góc phòng như một khách hang quen thuộc. “Chắc đúng là Lousia Burt.” Paul nghĩ, cổ họng như nghẹn lại. Cô ta chừng ba mươi tuổi, mông và ngực to lớn nặng nề, mặc chiếc áo len dài rẻ tiền, mang găng tay màu vàng và xách một chiếc xắc kiểu cọ. Con người cô ta toát ra một vẻ thô kệch và thấp kém khiến Paul phải bối rối trong một lúc. Cô ta ngồi xuống, gọi một ly rượu “gin”, lục lọi trong chiếc xắc rồi đảo mắt nhìn khắp phòng. Bắt gặp ánh mắt của cô ta, Paul mỉm một nụ cười nhẹ đáp lại, và cô ta liền quay phắt đi chỗ khác như thể giá vừa bị xúc phạm. Nhưng hai phút sau, cô ta lại quay mặt nhìn về phía Paul và bạn chàng… Lần này, Paul đứng dậy tiến đến gần. Hành động này rất trái với bản tính chàng, nhưng hôm nay chàng lại làm với một vẻ chín chắn, quen thuộc. “Chào cô.” https://thuviensach.vn “Có phải anh nói với tôi đấy không?” Cô ta mở lời sau một lúc im lặng ngắn. “Phải, cô cho phép tôi và bạn tôi được ngồi chung bàn với cô. Cô đang cô đơn và…” “Tôi không cô đơn. Tôi đang chờ đợi một người bạn.” “Tiếc quá!” “Nhưng có thể anh ấy bận việc tối nay. Anh ấy làm ăn lớn lắm.” “Nếu vậy thì mặc kệ anh ta và càng hay cho chúng tôi. Cô cho phép tôi đãi cô một món gì nhé?” “Không, không.Tôi không quen như vậy. Nhưng nếu anh muốn…” Paul ra dấu cho Mark đến. Người bồi bàn đem ly của họ theo. “Cô vui lòng cho phép tôi được giới thiệu anh bạn của tôi?” “Rất hân hạnh. Tôi quên mang theo danh thiếp. Tôi là Burt, cô Burt.” Cô ta hơi nhích sang một bên nhường chỗ cho hai chàng thanh niên ngồi và bằng một điệu bộ rất đỏm dáng, đưa bàn tay vuốt vuốt những lằn xếp của chiếc áo, rồi nâng ly rượu lên uống cạn. “Đến phiên tôi đãi cô Burt.” Mark nói: “Cô thích uống gì?” “Nói thật với anh, không biết có nên nhận hay không. Xin anh cho tôi một ly gin.” “Điểm yếu của mẹ tôi đấy.” Mark nói giọng đùa bỡn. Cô ta không cười, nhìn thẳng vào hai chàng, không che giấu được vẻ thiện cảm. Đôi mắt xanh của cô ta trông ngu ngơ như mắt búp bê, gương mặt nhợt nhạt trét đầy phấn, da dày, lỗ chân lông nở to ra, đôi má phúng phính như má con nít lủng sâu ở hai bên khóe miệng, tạo cho đôi môi ướt nhếch lên tương phản với vẻ mặt đầy mưu mẹo và tính toán. Cái trán rất thấp, hầu như không có. https://thuviensach.vn “Xin chúc sức khỏe cô.” Paul nói, tay nâng ly rượu mà người bồi bàn vừa đem đặt trước mặt chàng. “Không có gì thích bằng một buổi tối vui vẻ bên cạnh bạn bè.” Mark nói thêm vô: “Cô sẽ cảm thấy thoải mái, dễ chịu, bao nhiêu ưu phiền của cuộc sống đều tan biến. Chúng ta làm gì bây giờ?” “Tôi phải về nhà lúc chín giờ.” Cô gái nói một cách trịnh trọng như một phụ nữ đầy phẩm giá: “Tôi không thể đi chỗ nào cũng được. Tối nay không được đâu.” “Không sao.” Paul nói: “Lần sau chúng tôi sẽ may mắn hơn. Vả lại, như thế chúng ta sẽ có thì giờ tìm hiểu nhau hơn.” Cô ta chấp nhận lời mời của Paul và chăm chú nhìn hai chàng: “Nhìn các anh tôi biết ngay là những người đàng hoàng. Thế mới biết thế nào là có giáo dục và tư cách.” Đôi mắt cô ta nhìn Paul với một vẻ chú ý đầy thiện cảm: “Hình như chúng ta đã gặp nhau ở đâu rồi, phải không?” “Không.” Paul đáp. “Anh ấy chưa có được cái hân hạnh đó.” Mark bình phẩm một cách tế nhị. Paul khéo léo đưa đẩy cuộc nói chuyện. Lợi dụng tánh khoe khoang của cô gái, chàng bày tỏ sự thán phục được biết cô ta là một “quản gia”, trông coi đám tôi tớ của một gia đình lớn ở Porlock Hill. Sau khi đã nốc cạn vài ly, bản tính đa nghi của Burt đã biến mất và bỗng nhiên, đôi mắt đen tối của cô ta sáng lên và cô ta bắt đầu thổ lộ tâm sự, than thở số phận của mình: “À! Thật là thích thú được nói chuyện với những người lịch sự đàng hoàng. Không như những kẻ mà tôi có thể nói tên ra đây, nhưng tôi vẫn im lặng vì tôi là một người đàn bà có phẩm giá. Các anh hiểu chứ, ấy là vì tôi đã được hưởng một nền giáo dục rất đàng hoàng nơi các bà xơ, trong một tu viện ở Pháp. Ôi! Tu viện thật là đẹp, thật là yên tĩnh và các bà xơ hiền lành yêu tôi như con cưng vậy. Bà này kêu Louisa, bà kia kêu Lousia, tất cả đều quý https://thuviensach.vn chuộng tôi, nhất là bà mẹ bề trên. Bà phục dịch tôi đủ mọi thứ: lo cho tôi ăn sáng tại giường ngủ, tự tay thêu tất cả quần áo lót của tôi. Ấy là vì mẹ tôi là người Pháp và ai cũng biết tôi giàu sang thế nào, nếu tôi không bị người ta làm hại, và có lẽ bác bà xơ đoán biết những khó khăn đang chờ đợi tôi.” Cô ta dừng lại, đôi mắt đẫm lệ: “Những điều tôi vừa nói đó làm anh ngạc nhiên phải không?” “Cô ta nói láo thật hay”. Paul tự bảo mình, vừa làm bộ rất ngạc nhiên. Cô ta bám vào cánh tay Paul: “Nếu anh biết được những gì tôi đã phải chịu đựng! Con của một sỹ quan cao cấp, mà không phải là loại Quân Cứu Rỗi[4] đâu! Cha tôi là đại tá của quân đội chính quy. Nhưng cha tôi rất vũ phu, thường hay đánh đập mẹ tôi, nhất là vào các chiều thứ bảy khi ông say rượu. Tôi muốn bỏ nhà đi trốn. Tôi rất thích sân khấu. Sân khấu… với khán giả vỗ tay hoan nghênh và ái mộ. Đó là tất cả hoài bão của tôi. Nhưng tôi không được may mắn…” “Sao thế?” Mark hỏi, tỏ vẻ thương cảm. Cô gái lắc đầu, hai mí mắt nặng nề sụp xuống che kín đôi mắt: “Có một chuyện gì đó. Tôi chỉ làm bổn phận của tôi thôi, các anh nên nhớ điều đó. Tôi đã nói sự thật, tất cả sự thật và chỉ có sự thật thôi. Xin Chúa hãy che chở cho tôi. Và tôi đã được cái gì? Chả có gì hết, hay gần như thế. Chỉ có một số tiền sống vừa đủ trong sáu tháng… ” “Bao giờ cũng thế, người làm việc tốt thì không được kẻ khác biết ơn.” Paul nhìn nhận với một vẻ đóng kịch cay đắng rất hay. “Tôi không cần những lời cảm ơn!” Cô gái kêu lên: “Điều tôi muốn là họ phải công bằng với tôi, phải đặt tôi đúng vào chỗ của tôi. Bộ tôi phải là một gia… một quản gia suốt đời hay sao?” Pau đã khéo léo giữ im lặng, nhưng người bạn không thận trọng được như chàng: “Cô hãy kể cho chúng tôi nghe về chuyện đó đi.” Mark nói, vừa nghiêng đầu sang bên cô gái: “Có lẽ chúng tôi sẽ có thể giúp được.” https://thuviensach.vn Một sự im lặng đột ngột bao trùm. Paul cúi xuống và cắn môi. Lousia nhìn chằm chằm vào Boulia và có vẻ sực tỉnh. Đôi má phính không còn đỏ gay vì giận dữ nữa. Sau khi liếc nhìn đồng hồ, cô ta uống cạn ly rượu và đứng lên: “Các anh đã thấy mấy giờ rồi chưa? Bây giờ tôi phải về nhà.” Giấu vẻ thất vọng, Paul giúp Louisa lấy các vật dụng của cô ta, trả tiền rượu và đưa cô ta ra cửa: “Đêm đẹp quá!” Chàng vừa nói vừa nhìn lên bầu trời lấp lánh các vì sao: “Cô cho phép chúng tôi đưa cô về nhà nhé?” Lousia có vẻ ngần ngại và miễn cưỡng bằng lòng: “Nếu các anh muốn… Nhưng chỉ tới cổng hàng rào thôi nhé.” Ba người rời con đường lát những miếng đá tròn nhỏ, tiến vào một lối đi vắng vẻ và tối đen. Burt mang giày cao gót đi giữa hai chàng thanh niên. Paul hết sức cố gắng gây tình cảm với cô ta. Họ ra đến một đại lộ, hai bên có hàng cây cao và những dãy biệt thự mái ngói đỏ nằm giữa các khu vườn. Burt dừng lại trước một biệt thự. “Đến nơi rồi.” “Nhà tuyệt đẹp!” “Phải, tôi làm cho gia đình ông Osward… một gia đình rất được nể trọng.” cô gái nhìn nhận, vẻ tự hào. “Chắc chắn là phải như vậy.” Paul tiếp lời với một giọng đầy tin tưởng: “Chúng ta có thể gặp lại nhau vào thứ tư tuần sau không?” Lousia làm ra vẻ ngần ngại lấy lệ: “Đồng ý, cũng giờ này. Ở nhà hàng Cây Sồi Vàng.” “Tốt lắm.” Paul giở nón ra, đưa bàn tay ra một cách hết sức lịch sự. Cùng lúc ấy cửa biệt thự mở rộng và một người đàn ông lớn tuổi đi ra, đầu trần, môi ngậm một điếu xì gà, tay cầm vài phong thư. Ông ta đưa tay đẩy cổng rào và nhanh nhẹn tiến về phía thùng thư đặt ở góc đại lộ. Trong bóng tối không thấy rõ nét mặt ông chỉ thấy lờ mờ cái đầu tóc bạc. Đi ngang qua chỗ ba https://thuviensach.vn ngươi đang đứng, ông nhận ra Burt và cất giọng chào vui vẻ: “Chào Lousia.” “Dạ thưa chào ông.” Lousia trả lời bằng một giọng thật quỵ lụy, sự thay đổi đột ngột đến buồn cười. Cô ta vội vã giã từ hai chàng thanh niên, không giấu được vẻ bối rối. Vượt qua cổng rào, cô ta quẹo sang lối đi bên trái dành cho gia nhân và biến mất sau một bụi cây hoa nguyệt quế. Paul và Mark quay lưng đi. Có tiếng cánh cửa đóng sầm phía sau nhà. Cả hai lặng lẽ đi dọc theo đại lộ. “Tôi lấy làm tiếc đã làm cho cô ta ngưng lại.” Boulia cuối cùng nói với một giọng biết lỗi: “Cô ta đang sắp sửa thổ lộ tiếp… Câu nói ngu xuẩn của tôi đã làm cô ta nín bặt.” Paul mím chặt môi, cố giữ không thốt ra một tiếng nặng nề. https://thuviensach.vn