🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tây Ninh Xưa
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Tên sách : TÂY NINH XƯA
Loại sách Sưu Khảo các Tỉnh, Thành năm xưa Tác giả : HUỲNH MINH
Tái bản : NXB THANH NIÊN
Năm tái bản : 2001
------------------------
Nguồn sách : Thích Đức Châu
Đánh máy : linhtt, kimduyen, blacktulip161, lovelysnake289, thuannguyen1088, Hiền Dzô, chau_la_la, mientay2012, searatsuki, kn1tinhyeu, thuhang1319, phuonglienmsd, minhhai1768, TNThao, nhinhanhinhanh-kyle, hang12321, vqsvietnam, thaogmail, Junvu, doraemin, Aquamarine, Lien Pham
Kiểm tra chính tả : Trần Trung Hiếu, Trần Khang, Trần Trung Hiếu, Võ Nữ Kim Như, Mạc Tú Anh, Từ Ngọc Thảo, Trần Thanh Tuấn, Max Phạm, Lê Nguyễn Thuỳ Lynh, Ngô Hương,
Trần Ngô Thế Nhân, Hồ Hữu Tín
Biên tập ebook : Thư Võ
Ngày hoàn thành : 11/06/2018
https://thuviensach.vn
Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE 4U.ORG
Cảm ơn tác giả HUỲNH MINH và nhà xuất bản THANH NIÊN đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá.
https://thuviensach.vn
MỤC LỤC
LỜI TÁC GIẢ
PHẦN I : SỬ LƯỢC TÂY NINH QUA CÁC THỜI ĐẠI 1. LỊCH SỬ TÂY NINH
NAM KỲ DƯỚI THỜI PHÁP THUỘC (1861-1945)
PHÁP CHIẾM NAM KỲ QUAN QUÂN NAM TRIỀU KHÁNG PHÁP
TÂY NINH DƯỚI THỜI PHÁP THUỘC (GỒM CÁC LÀNG, QUẬN, TỔNG)
TÂY NINH TỪ 1945 ĐẾN TRƯỚC 1972 (GỒM CÁC QUẬN, TỔNG, LÀNG ĐƯỢC THAY ĐỔI)
2. ĐỊA LÝ
VỊ TRÍ
ĐỊA CHẤT
NÚI ĐỒI
SÔNG NGÒI
KHÍ HẬU – THẢO MỘC – CẦM THÚ
GIAO THÔNG THỦY BỘ
PHẦN II : TÂY NINH DI TÍCH LỊCH SỬ QUA NHỮNG SỰ TÍCH TRUYỀN KHẨU ĐỊA PHƯƠNG
SỰ TÍCH LINH SƠN THÁNH MẪU
THUYẾT THỨ NHÌ VỀ LỊCH SỬ BÀ ĐEN
CON ĐƯỜNG SỨ
SÔNG ĐUA, HÀO THÀNH
https://thuviensach.vn
CHÙA ÔNG GIA NINH VỚI NHỮNG CHỨNG TÍCH LỊCH SỬ
TRUYỀN THUYẾT BẾN NÀNG RÀ
GHE NĂM (TỨC GHE NĂM CHÈO) BỊ VÙI LẤP TRONG NGỌN SUỐI LÂM VỒ
GIẾNG MẠCH THIÊN NHIÊN
TOÀ CỔ THÁP PREY PRASATH
MỘ ÔNG HUỲNH CÔNG NGHỆ
MIẾU THỜ ÔNG GỐC : MỘT VỊ ANH HÙNG ẨN DANH KHÁNG PHÁP
SỰ TÍCH DINH ÔNG
MIẾU THỜ ÔNG CẢ ĐẶNG VĂN TRƯỚC & NGÔI MỘ HUYỀN LINH TỌA LẠC XÃ PHÚ MỸ HƯNG
ĐỊA DANH BẾN KÉO
SỰ TÍCH ÔNG ĐÁ NỨT HAI TRÊN NÚI ĐIỆN BÀ SỰ TÍCH TRƯỜNG CAO CẲNG
SỰ TÍCH LÀNG AN TỊNH : MỘT TRONG NHỮNG LÀNG XƯA NHẤT CỦA TÂY NINH TRẢI BAO CUỘC THĂNG TRẦM
CÁC NGÔI MIẾU THỜ QUAN LỚN TRÀ VÔNG (HUỲNH CÔNG GIẢN)
MỘT NỀN THÀNH CŨ CỦA CHÂN LẠP Ở XÓM DẦU, ẤP CẨM LONG (CẨM GIANG)
PHỦ CŨ
ĐỀN THỜ HUỲNH CÔNG THẮNG VÀ NGÔI MỘ CỦA NGÀI (TẠI XÃ CẨM GIANG)
TRƯỜNG ĐUA DẤU CŨ
https://thuviensach.vn
SỰ TÍCH SUỐI ĐÁ
SỰ TÍCH BẾN TRƯỜNG ĐỔI
SỰ TÍCH CỐNG CHÀM VÀ HANG CHÀM Ở TÂY NINH RỎNG TƯỢNG HAY LÁNG TƯỢNG
PHẦN III : NHÂN VẬT LỊCH SỬ
ÔNG HUỲNH CÔNG GIẢN : VỊ ANH HÙNG BẢO VỆ TÂY NINH ĐẾN HƠI THỞ CUỐI CÙNG
TRƯƠNG HUỆ CHỐNG XÂM LĂNG
ÔNG HOÀNG PU KẦM PÔ : LẬP CHIẾN KHU KHÁNG CHIẾN Ở TÂY NINH
LÃNH BINH KÉT : TUNG HOÀNH MỘT CÕI BIÊN THÙY LÃNH BINH TÒNG : KHÁNG PHÁP OAI DANH LỪNG LẪY
HỒ VĂN CHƯ (1856-1926) : HOẠT ĐỘNG PHONG TRÀO THIÊN ĐỊA HỘI
TIỀN HIỀN TRẦN VĂN THIỆN : VỊ THẦN HOÀNG ĐÌNH BẾN KÉO (XÃ LONG THÀNH)
ÔNG ĐẶNG VĂN TRƯỚC : VỊ TIỀN HIỀN LÀNG GIA LỘC
CỤ VÕ VĂN SÂM : MỘT THI NHÂN CÓ TINH THẦN CÁCH MẠNG
CỤ QUỐC BIỂU : MỘT NHO SĨ CÓ TINH THẦN ÁI QUỐC PHẦN IV : TÂY NINH QUA HUYỀN THOẠI VÀ GIAI THOẠI
HUỲNH TRUNG : NGỌN ĐÈN HỒN TỬ SĨ HAY LÀ LÃO BỘC
CHÚA NGUYỄN ÁNH GẶP THẦN NỮ
ĐAO BINH VÔ HÌNH Ở VÙNG NÚI CẬU TÂY NINH
https://thuviensach.vn
DẤU CHÂN ÔNG KHỔNG LỒ TRÊN NÚI VÀ TẢNG ĐÁ NĂM TRÊN NGỌN CÂY DẦU TRẠI BÍ
QUỈ LỘNG BAN NGÀY TRÊN CÂY GÕ TRƯỚC TÒA ÁN
XÓM CHÀM XÃ THÁI HIỆP THẠNH QUA PHONG TỤC TẬP QUÁN CỔ TRUYỀN
NHỮNG HIỆN TƯỢNG XẢY RA NƠI MIẾU ĐẠI THẦN TRẦN CÔNG THẮNG
NHỮNG VIỆC XẢY RA NƠI MIẾU QUAN LỚN TRÀ VÔNG
TÂY NINH VỚI NẠN CỌP LOẠN RỪNG BẮT BÒ, ĂN THỊT NGƯỜI
SUỐI VÀNG NÚI ĐIỆN BÀ VÀ SUỐI NGẦM LỤC LONG NẰM DƯỚI LÒNG ĐẤT
THIÊN TAI THẢM KHỔ NÚI LỞ, NƯỚC LỤT VÀO NĂM NHÂM THÌN 1952
CÂU CHUYỆN BUÔN NGỰA VÀ THUẬT BẮT CÁ NGỰA TRÊN ĐẤT MIÊN
PHẦN V : VÀI NÉT VỀ CHÙA, ĐÌNH, NHÀ THỜ, TÒA THÁNH
NÚI BÀ ĐEN HAY NÚI ĐIỆN BÀ QUA CÁC VỊ TỔ KHAI SƠN
NGÔI PHƯỚC LÂM CỔ TỰ VỚI NÚI ĐIỆN BÀ QUA NHIỀU GIAI ĐOẠN
PHƯỚC LÂM CỔ TỰ TRẢI QUA NHIỀU VỊ TRỤ TRÌ THIỀN LÂM CỔ TỰ
CẨM PHONG TỰ TỤC DANH CHÙA QUAN HUẾ
HIỆP LONG CỔ TỰ THUỘC PHÁI LỤC HÒA TĂNG
CAO SƠN CỔ TỰ TỤC DANH GÒ CHÙA PHƯỚC TRẠCH CỔ LÂM TỰ XÃ THANH ĐIỀN
https://thuviensach.vn
CHÙA ÔNG PHƯỚC KIẾN
TỪ LÂM TỰ (GÒ KÉN) : NƠI TIẾP CƠ KHAI ĐẠO CAO ĐÀI ĐẦU TIÊN
ĐÌNH THÁI BÌNH
ĐÌNH HIỆP NINH
ĐÌNH THẠNH ĐỨC
ĐÌNH GIA LỘC (QUẬN TRẢNG BÀNG)
THIÊN CHÚA GIÁO NGÀY XƯA VỚI HỌ ĐẠO THA LA TRƯỚC TIÊN
LẬP HỌ ĐẠO MỚI TẠI TÂY NINH
VÀI NÉT VỀ THỜI KỲ PHÁ RỪNG XÂY CẤT TOÀ THÁNH CĂN NGUYÊN ĐẠO CAO ĐÀI
CỬU TRÙNG ĐÀI
ĐẠO BỊ ĐÀN ÁP, TÒA THÁNH BỊ CHIẾM ĐÓNG
HỘ PHÁP ĐƯỢC TRẢ TỰ DO
DIỆN TÍCH ĐỀN THÁNH
KẾT LUẬN
PHẦN VI : VĂN HỌC NGHỆ THUẬT GỒM NHIỀU VĂN ĐOÀN QUA CÁC DÂN CA THI CA ĐỊA PHƯƠNG
1. TÂY NINH QUA CÁC BỘ MÔN NGHỆ THUẬT
NHÓM VĂN THI SĨ TIỀN BỐI
ĐẠO ĐỨC VĂN ĐÀN
NHÓM ĐẤT LÀNH
2. TÂY NINH QUA THI CA
THƠ CỦA BÀ VÕ PHỤNG KIỀU
https://thuviensach.vn
TÂY NINH CẢM TÁC
NHÓM VĂN THI SĨ ĐỘC LẬP
TRI NGỘ BẠN THI NHÂN
PHẦN VII : SINH HOẠT QUA CÁC NẺO PHỐ PHƯỜNG TÂY NINH NĂM 1972
1. TÂY NINH 1972
QUA CÁC NẺO PHỐ PHƯỜNG SINH HOẠT
QUANG CẢNH VỀ ĐÊM QUA CÁC ĐƯỜNG PHỐ
TÂY NINH NĂM 1972 QUA SỰ SINH HOẠT 2 NGÔI CHỢ TRỜI : GÒ DẦN HẠ VÀ PHƯỚC TÂN
VÀI NÉT VỀ CHỢ TRỜI PHƯỚC TÂN
KẾT LUẬN
2. HƯƠNG VỊ TÂY NINH QUA CÁC MÓN ĂN NỔI TIẾNG
3. TỔNG QUÁT VĂN HÓA GIÁO DỤC VÀ CÁC CƠ SỞ TÔN GIÁO NĂM 1972
4. TÔN GIÁO
5. CÁC XÍ NGHIỆP TRONG 4 QUẬN TỈNH TÂY NINH 1972 CÁC XE ĐÒ SÀI GÒN – TÂY NINH
CÁC ĐOẠN ĐƯỜNG TRONG TỈNH TÂY NINH
https://thuviensach.vn
HUỲNH MINH
TÂY NINH XƯA
Loại sách Sưu Khảo các Tỉnh, Thành năm xưa NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN
https://thuviensach.vn
NỘI DUNG :
- Sử lược – Địa lý.
- Di tích lịch sử.
- Nhân vật lịch sử.
- Huyền thoại – Giai thoại. - Sinh hoạt tôn giáo. - Văn hóa nghệ thuật. - Tây Ninh năm 1972
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
NON NƯỚC TÂY NINH
Thực thi lý tưởng chí tang bồng, Sưu tầm khảo cứu danh nhân sử. Lê gót thâu gồm cảnh núi sông, Hươi bút dệt thành tranh cẩm tú. Nêu cao hào kiệt giống Tiên Rồng. Điểm tô non nước tươi màu sắc, Lưu lại đời sau một tấm lòng.
Huỳnh Minh
https://thuviensach.vn
LỜI TÁC GIẢ
Đã trót đa mang duyên nợ với non sông, nên chúng tôi phải cố gắng hết sức mình đền bồi duyên nợ qua các tác phẩm nói lên nếp sống của nhân dân từng tỉnh miền Nam xưa.
Giờ đây Tây Ninh xưa ra mắt quý bạn đọc. Nói đến hai chữ Tây Ninh (an ninh miền Tây) đủ rõ vùng đất Tây Ninh ngày xưa quan hệ đến sự sống của nòi Việt đến độ nào. Biết bao cảnh máu đổ do chiến tranh gây ra trên đất Tây Ninh giữa quân nhà Tây Sơn và chúa Nguyễn tranh hùng đẩy mạnh cuộc Nam tiến. Người dân Tây Ninh xưa đã từng chứng kiến cảnh núi xương sông máu của nhiều cuộc chiến. Bảo vệ non sông, dân Tây Ninh cũng đã từng hợp tác với cuộc liên binh Việt – Miên để kháng Pháp, dưới sự lãnh đạo của Pù-Kầm-Pô và Trương Huệ v.v…
Tây Ninh có núi Điện Bà hùng vĩ với tòa thánh Cao Đài, uy nghi lộng lẫy mà khi nhắc đến Tây Ninh mấy ai không biết hai nơi ấy.
Tây Ninh còn có một con đường đặc biệt thuở xa xưa, mệnh danh là « con đường sứ » vốn là con đường huyết mạch của dân tộc, con đường làm vẻ vang con Lạc cháu Hồng.
Chúng tôi hân hoan viết quyển Tây Ninh xưa vì lịch sử Tây Ninh đầy dẫy những điều dáng tán thưởng, đáng ghi chép ra gọi chút duyên dáng góp thêm với non sông gấm vóc.
Việc làm với tính cách đơn độc, sức người có hạn nên không sao tránh khỏi những điều thiếu sót vì có những nơi do hoàn cảnh, nên chúng tôi không thể đến tận nơi để thâu lượm tài liệu, mong quý bạn đọc thông cảm.
Huỳnh Minh
https://thuviensach.vn
PHẦN I : SỬ LƯỢC TÂY NINH QUA CÁC THỜI ĐẠI
https://thuviensach.vn
1. LỊCH SỬ TÂY NINH
Lịch sử Tây Ninh có thể tóm tắt như sau :
Ngày nay, Tây Ninh cũng như bao tỉnh khác ở miền Nam, đều khởi sắc. Nhưng từ thuở xa xưa, nơi đây hoang vu, rừng rậm, biết bao xương máu của tiền nhân đã đổ ra để bồi đắp non sông. Quá trình tiến triển của vùng Tây Ninh có thể tóm lược như sau :
Tây Ninh ngày xưa là một vùng đất mà dân cư đa số là người Miên, nên có danh hiệu là Romdum Ray (Chuồng Voi, Pare aux élephants). Rừng rậm chiếm hầu hết đất đai ở đây. Cuộc sống của dân chúng đầy dẫy những khó khăn khổ nhọc.
Vào thế kỷ thứ XVII, các tỉnh Quảng Trị, Quảng Ngãi, Bình Thuận bị mất mùa thất bát, đời sống dân chúng thiếu thốn, vất vả, lầm than. Họ bèn di cư vào Nam, đến cửa Cần Giờ giao thương với dân Chân Lạp khai hoang lập thành Phiên Trấn Dinh là tỉnh Gia Định.
Từ Phiên Trấn Dinh, người Việt càng ngày càng đông, bèn lần lên hướng Bắc khai thác đất đai từ Trảng Bàng lên Gò Dầu Hạ lên đến chân núi Bà Đen, lúc đầu còn ở chung với người Miên, nhưng người Việt di cư đến đâu thì người Miên rút lui đi nơi khác.
Năm Mậu Tuất 1778, chúa Nguyễn Phúc Ánh tự Nguyễn Ánh khởi quân đánh Tây Sơn, qua năm Canh Tý 1780, lấy thành Phiên Trấn Dinh tức là tỉnh Gia Định nhưng ít lâu sau bị Tây Sơn đánh bại.
Nguyễn Ánh và các quan hộ giá cùng nhau đi khắp các ngả đường đất nước ở miền Nam, đồng bằng, rừng núi xa xôi, hẻo lánh đều có dấu chân ông bước đến để lẩn tránh Tây Sơn và tìm kiếm người giúp đỡ. Khi thất thủ Phiên Trấn Dinh, ông và đám quần thần chạy lên vùng Trảng Bàng, Gò Dầu Hạ, lướt bụi băng rừng để tìm đường sinh lộ đến Tây Ninh.
https://thuviensach.vn
Lúc Nguyễn Ánh đến Tây Ninh hội họp quần thần nơi một cánh rừng hoang vắng để bàn mưu định kế khắc phục lại thành Phiên Trấn Dinh, khu rừng này được dân gian kêu là sân « Chầu » đến nay đồng bào địa phương thường nhắc đến.
Qua năm Giáp Thìn 1784, Nguyễn Ánh sang Xiêm cầu viện. Ở đây bốn năm thao dượt binh mã đến đầu mùa Thu năm Đinh Mùi 1787 về nước khắc phục thành Phiên Trấn Dinh cải tên là tỉnh.
Năm Kỷ Dậu 1789 do có viện binh Pháp sang giúp, đầu năm 1802, Nguyễn Ánh dẹp xong Tây Sơn lên ngôi lấy hiệu là Gia Long, quốc hiệu là Đại Nam Quốc.
Nhớ lại lúc phong trần rày đây mai đó, khi đến Tây Ninh được một vị nữ thần báo mộng chỉ bảo, vua Gia Long mới ban cho vị nữ thần trên núi Điện Bà một sắc chỉ, chức tước để tạ ơn người khuất mặt (Đoạn này chúng tôi sẽ nói ở phần huyền sử chi tiết hơn).
Tây Ninh là một phủ của tỉnh Gia Định, phía nam đặt dưới quyền cai trị của một tri huyện trấn nhậm tại địa điểm làng Cẩm Giang và một tri huyện khác cai trị tại vùng tỉnh lỵ Tây Ninh.
Sau ngày vua Gia Long thống nhất sơn hà, lập triều đại nhà Nguyễn, Cao Miên thần phục Việt Nam, hàng năm vâng chịu cống sứ. Các sứ thần Miên mỗi năm mang lễ vật qua cống hiến Nam triều, muốn qua Huế phải qua địa phận Tây Ninh, và đường quan cũ về sau được sửa sang biến đổi thành đường tỉnh lộ số 13, và con lộ Xóm Vinh. (Vì lẽ sứ thần Miên đi cống, nên đoạn đường này hãy còn được gọi là đường cống sứ).
Đến triều vua Thiệu Trị, Tự Đức, người Miên từng nhiều phen xua quân tấn công Tây Ninh nhưng không sao chiếm được lãnh thổ do người Việt đã dày công khai thác. Những trận đánh nhau dữ dội nhất, vẫn là những trận xảy ra trên chiến trường Trà Vông.
Khoảng năm 1846, quân Miên xua quân sang đánh. Tri phủ Huỳnh Công Giản đại diện Nam triều trấn nhậm Tây Ninh cầm quân ra ngăn giặc. Vì giặc quá đông, quân ở phủ quá ít, Nam quân thất thủ. Quan tri phủ cùng
https://thuviensach.vn
viên chánh tổng tuẫn tiết. Sau đó, dân chúng thương tiếc xây dựng miếu thờ tri phủ Huỳnh Công Giản và vị chánh tổng đã đền nợ nước. Mỗi năm đều có cuộc tế lễ linh đình, tri ân hai vị anh hùng vị quốc vong thân.
Chẳng bao lâu, quân ta từ Sài Gòn lên tiếp viện đã đánh đuổi được quân Miên, lấy lại phủ đường, lập lại trật tự an ninh không mấy chốc. (xin xem phần III Danh Nhân Lịch sử).
NAM KỲ DƯỚI THỜI PHÁP THUỘC (1861-1945)
a) Lý do nước Pháp xâm lược Việt Nam
Giữa thế kỷ thứ XIX, các vua Việt Nam : Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức thấy những người lái buôn, tu sĩ là đội quân do thám của các nước phương Tây sang nên áp dụng chính sách bế quan tỏa cảng.
Lấy cớ người Việt Nam cấm đạo Thiên Chúa, thực dân Pháp vội cử binh hùng tàu chiến đến xâm lược Việt Nam, thật sự là không ngoài mục đích sau đây :
- Chính trị : cần mở mang thuộc địa, để chứng tỏ rằng chúng không thấp kém hơn các cường quốc châu Âu.
- Kinh tế : bắt buộc phải có chỗ tiêu thụ hàng hóa, sản vật của mình.
- Văn hóa : xây dựng thế lực trên biển Thái Bình Dương, tự do nghiên cứu khoa học trên đất nước Việt Nam.
b) Xâm chiếm Nam Kỳ
Ngày 1 tháng 11 năm 1859, hải quân trung tướng Rigautt de Genouilly đem binh thuyền vào cửa Cần Giờ, chiếm thành Sài Gòn, đến năm 1861 thủy quân Charner lấy tỉnh Gia Định, tiến lên chiếm Biên Hồa, Trảng Bàng và Tây Ninh.
https://thuviensach.vn
Ký kết hòa ước năm Nhâm Tuất ngày 5-6 1862, sứ thần Việt Nam là Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp nhượng cho Pháp ba tỉnh miền Đông : Biên Hòa, Gia Định, Định Tường.
Ngày 4-7-1863, sứ bộ Việt Nam xuống tàu l’Européen sang Pháp xin chuộc ba tỉnh ấy ; ngày 5-11-1853 sứ bộ được sang Pháp Hoàng Napoléon III tiếp rước trọng thể, hứa rằng sẽ trả lời cho triều đình Huế sau khi đình nghị về việc đó.
Sau, Pháp không ưng thuận cho chuộc ba tỉnh miền Đông, nên hải quân trung tướng De La Grandière :
- 20-6-1867, đoạt thành Vĩnh Long.
- 22-6 chiếm An Giang
- 24-6 chiếm Hà Tiên
PHÁP CHIẾM NAM KỲ QUAN QUÂN NAM TRIỀU KHÁNG PHÁP
Sau khi quân đội Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông : Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, các quan Nam triều kháng cự mãnh liệt, làng xã thì bỏ chạy hết, sổ lạc bộ mất. Sĩ phu trong nước đứng lên hiệp sức với các quan đầu tỉnh ra ngoài lập căn cứ chống Pháp.
Khi Pháp đến có đem theo một số nhà dòng và một số giáo sĩ ở họ đạo các địa phương biết tiếng latinh để làm thông ngôn. Riêng về họ đạo Tha La ở Trảng Bàng cũng như các chỗ khác, nhân cơ hội này được tự do hoạt động mạnh, nhóm họp khỏi sợ quan Nam triều cấm đoán như trước. Đạo Thiên Chúa bắt đầu bành trướng sâu rộng khắp nơi trên lãnh thổ.
Khi quân Pháp tiến lên đánh Tây Ninh, quân ta binh ít, vũ khí thô sơ, liều tử chiến, vẫn không giữ được thành trước hỏa lực tấn công ồ ạt của địch. Tuy nhiên, sức yếu mà tinh thần không yếu, người cầm đầu phủ Tây Ninh là vị tham tán quân vũ tên là Tường, quyết kháng chiến tới cùng.
Trước thế mạnh quân giặc, quan tri phủ phải rút quân về đóng trong xóm An Cơ thuộc làng Hảo Đước, hiệu triệu nhân dân đoàn kết chống xâm
https://thuviensach.vn
lăng, chiêu mộ dân quân tiếp tục kháng chiến. Với tinh thần bất khuất, kháng chiến quân đã đột kích mấy phen, gây tổn thất cho quân Pháp không ít.
Cuối cùng quân Pháp phải dùng đến đại binh từ Sài Gòn kéo lên đàn áp, tàn sát. Trong một trận thư hùng nghiêng ngửa, tham tán quân vụ tử trận. Nghĩa quân như rắn không đầu phải tản mác chờ cơ hội khác. Sự kháng chiến chống Pháp ở đây tạm chấm dứt vì chủ tướng tử trận. Từ đó miền Tây Ninh thuộc Pháp. Song nghĩa quân Việt thỉnh thoảng cùng người Miên và Chàm hiệp lực kéo về đánh phá đồn quân Pháp. Khi quân Pháp chiếm Tây Ninh thành lập các cơ quan chính trị và quân sự để thay thế triều Nam, các quận, tổng, làng đều sửa đổi dựng lên như sau :
TÂY NINH DƯỚI THỜI PHÁP THUỘC (GỒM CÁC LÀNG, QUẬN, TỔNG)
Nằm trong tỉnh Gia Định gồm : Tân An, Chợ Lớn, Tây Ninh, Gò Công và Tân Bình. Tây Ninh lúc bấy giờ sát nhập về Sài Gòn, hai đoàn quân sự thành lập tại Tây Ninh và Trảng Bàng để thay thế hai tri huyện của Nam triều. Đến năm 1868, hai đoàn quân sự nói trên bị bãi bỏ, thay thế bằng hai ty hành chánh : một đặt tại Tây Ninh và một đặt tại Trảng Bàng.
Rồi do quyết định ngày 5-6-1871 của đoàn quân Pháp, tỉnh Tây Ninh được thành lập theo ranh giới ; đồng thời quyết định này bãi bỏ ty hành chánh Trảng Bàng mà lãnh thổ được phân chia giữa Tây Ninh và Tân An.
Vào năm 1890, một phần đất quan trọng dọc theo rạch Ngã Bát bị cắt nhượng cho Cao Miên. Thời bấy giờ, tỉnh Tây Ninh gồm có các thị trấn và hai quận sau đây :
THỊ TRẤN :
1. Tây Ninh : Trảng Bàng đất rộng mọc toàn cây bàng lác, loại bàng dùng để đương đệm, bao.
https://thuviensach.vn
2. Gò Dầu Hạ : Đất mọc toàn cây dầu, còn « hạ » đối chiếu với một gò đất khác cao hơn và cũng có nhiều cây dầu, gọi là Gò Dầu Thượng, hiện nay thuộc xã An Thạnh.
QUẬN :
1. Quận Thái Bình : gồm 7 tổng 34 xã
2. Quận Trảng Bàng : gồm 3 tổng 16 xã
Cộng : 10 tổng 50 xã
Đến năm 1942, quận Thái Bình được đổi tên là quận Châu Thành Tây Ninh, vì vị trí nằm tại trung tâm tỉnh.
TÂY NINH TỪ 1945 ĐẾN TRƯỚC 1972 (GỒM CÁC QUẬN, TỔNG, LÀNG ĐƯỢC THAY ĐỔI)
Sau 1945 có nhiều sự thay đổi về địa giới trong tỉnh, quận và xã. Đồng thời có sự thành lập quận mới :
- Ngày 12-8-1948 quận Gò Dầu được thành lập nhưng đến năm 1954 quận này được sát nhập vào quận Trảng Bàng rồi sau đó quận Gò Dầu Hạ được tái lập.
- Năm 1956, ranh giới tỉnh về phía Nam được sửa đổi lại như sau :
Ấp Phước Mỹ, thuộc xã Phước Chỉ (quận Trảng Bàng Tây Ninh) được sát nhập vào tỉnh Long An (sắc lệnh số 143-NV ngày 22-10-1956 của chính quyền Sài Gòn).
- Năm 1957, tỉnh gồm có ba quận : Châu Thành, Gò Dầu, Trảng Bàng. Gồm 10 tổng và 52 xã (nghị định số 1-BNV/HC/NĐ ngày 3-1-1957 của chính quyền Sài Gòn).
Rồi nghị định số 355-BNV/HC ngày 1-7-1957 lại bãi bỏ nghị định nói trên, ấn định lại các đơn vị hành chánh. Cuối cùng tỉnh gồm có 3 quận, 8 tổng và 49 xã.
1. Quận lỵ Châu Thành đặt tại xã Thái Hiệp Thạnh.
https://thuviensach.vn
2. Quận lỵ Gò Dầu Hạ đặt tại xã Thạnh Phước
3. Quận lỵ Trảng Bàng đặt tại xã Gia Lộc (thuộc tỉnh Hậu Nghĩa).
- Ngày 18-5-1959, quận Trảng Bàng và Gò Dầu Hạ được đổi thành 2 quận Phú Đức và Hiếu Thiện.
- Quận lỵ Khiêm Hanh đặt tại Bàu Đồn.
- Quận Lỵ Hiếu Thiện nằm về phía Tây Nam và Đông Nam tỉnh tại xã Thạnh Phước.
Ngày 23-7-1961 quận Trảng Bàng được đổi tên là quận Phú Đức và hai quận Trảng Bàng, Gò Dầu Hạ trước đây được chia ra làm ba quận như sau :
- Quận Phú Đức, quận lỵ đặt tại Trảng Bàng, gồm một tổng, 6 xã. - Quận Hiếu Thiện, quận lỵ đặt tại Gò Dầu Hạ, gồm 3 tổng, 15 xã. - Quận Khiêm Hanh, quận lỵ đặt tại Bàu Đồn, gồm 1 tổng, 5 xã.
Ngày 14-3-1963, xã Bến Củi (quận Khiêm Hanh được sát nhập vào quận Tri Tâm, tỉnh Bình Dương).
Rồi ngày 15-10-1963, quận Phú Đức sát nhập vào tỉnh Tân Lập Hậu Nghĩa.
Tỉnh Tây Ninh lúc ấy gồm có 4 quận, 8 tổng, 45 xã như sau :
1. Quận Phú Khương có : 2 tổng 11 xã
2. Quận Phước Ninh có : 2 tổng 15 xã
3. Quận Hiếu Thiện có : 3 tổng 15 xã
4. Quận Khiêm Hanh có : 1 tổng 4 xã
Cộng : 8 tổng 45 xã
Quận Phú Khương có 2 tổng : Hàm Ninh Thượng (« thượng » đối chiếu với một tổng khác gọi là Hàm Ninh Hạ thuộc quận Trảng Bàng cũ) và tổng Lộc An.
- Tổng Hàm Ninh Thượng có 8 xã : Hiệp Ninh, Lộc Ninh, Phước Hội, Trường Hòa, Long Thành, Cẩm Giang, Thái Hiệp Thạnh (gồm luôn xã
https://thuviensach.vn
Đông Tác cũ) nay gia nhập vào xã Thái Thạnh và Ninh Thạnh. Điều nên biết rõ thêm, lúc Pháp đến xâm chiếm Việt Nam, tổng Hàm Ninh Thượng kháng chiến quyết liệt và lâu dài hơn các tổng khác. Sau một thời gian, tổng này vẫn còn là nơi tụ tập của kháng chiến quân.
Lúc mới thành lập, tổng này gồm có 4 xã : Hiệp Ninh, Lộc Ninh, Phước Hội và Đôn Thuận. Đến tháng 7 năm 1958, xã Đôn Thuận sát nhập vào quận Trảng Bàng cũ.
- Tổng Lộc An : dưới thời Pháp thuộc, tổng Lộc An gọi là tổng Chơn Bà Đen, gồm có 4 xã : Khédol, Canhung, Rùng, Thùng.
Đến năm 1957, tổng được nới rộng, gồm luôn các xã của 3 tổng kế cận : Kham Xuyên, Tabalyul, Bang Chrum thuộc quận Châu Thành.
Tháng 3 năm 1958, xã Khédol đổi tên Việt gọi là xã Tân Hưng (tại đây còn có một số đồng bào Chàm, Miên cư ngụ).
Đến tháng 7 năm ấy, xã Tân Hưng rộng lớn lại chia làm 3 xã là Tân Hưng, Tân Long, Tân Hội.
Quận Phước Ninh gồm có 2 tổng, 15 xã.
- Tổng Hòa Ninh có 8 xã : Thái Bình, Trí Bình, Thanh Điền, Hòa Hội, Long Vĩnh, Ninh Điền, Phước Tân, Phước Trường
- Tổng Phước Hưng có 7 xã : Phước Hòa, Phước An, Phước Vinh, Phước Lộc, Hảo Đước, Phước Lợi, Hòa Hiệp.
Quận Hiếu Thiện có 3 tổng, 15 xã.
- Tổng Mỹ Ninh gồm 5 xã : An Thạch, Bình Thạnh, Lợi Thuận, Phước Lưu, Phước Chỉ.
- Tổng Triêm Hóa gồm 4 xã : Hiệp Thạnh, Phước Trạch, Thạnh Đức, Thạnh Phước.
- Tổng Giai Hóa gồm 6 xã : Long An, Long Chử, Long Giang, Long Khánh, Long Thuận, Tiên Thuận.
https://thuviensach.vn
Quận Khiêm Hanh có một tổng, 5 xã : đó là tổng Thanh Bình gồm 5 xã : Đôn Thuận, Phước Thạnh, Thuận Lợi, Bến Củi, Cầu Khởi.
https://thuviensach.vn
2. ĐỊA LÝ
VỊ TRÍ
Tỉnh Tây Ninh nằm về phía Bắc Nam phần Việt Nam, cách Sài Gòn 99 cây số ngàn. Biên giới dài độ 214 km.
- Bắc giáp Kômpong Cham (Cam-bốt).
- Nam giáp tỉnh Hậu Nghĩa.
- Đông giáp tỉnh Bình Dương và Bình Long.
- Tây và Tây Bắc giáp với 2 tỉnh Prey-Veng và Sway Riêng (Cam bốt).
Diện tích : Diện tích tỉnh Tây Ninh ước chừng 3851 cây số vuông. Nhờ vị trí nằm giữa Sài Gòn và Nam Vang, Tây Ninh là đường giao thông cần thiết nối Cam-bốt với miền Đông Nam phần Việt Nam.
Tỉnh Tây Ninh nằm trên vùng đất khá cao, chỗ cao nhất cách mặt biển 15 thước.
Phía Bắc có nhiều rừng rậm, phía Nam thì đồng ruộng.
Châu Thành Tây Ninh đặt tại xã Thái Hiệp Thạch, quận Phú Khương.
ĐỊA CHẤT
Đất Tây Ninh kém màu mỡ hơn các tỉnh miền Tây Nam Việt. Một phần lớn là đất phù sa cũ, trừ những vùng có cây rậm, lớp đất mun trên mặt bị mưa cuốn trôi đi để lộ ra đất cát xám. Lòng đất thường là đất phèn. Mặt dưới lại thường có sạn sỏi và đá đỏ. Diện tích đá đỏ lộ thiên nầy có lẽ chiếm 10% diện tích tỉnh : cây số 13 chân núi heo.
Ngay so với miền Đông Nam phần là nơi cằn cỗi, thì đất Tây Ninh cũng vẫn còn thuộc loại đất xấu, tương tự với Bình Dương, Biên Hòa. Tuy nhiên đất xám ở nhiều nơi đã đem lại những kết quả khá tốt cho việc trồng cao su.
https://thuviensach.vn
NÚI ĐỒI
Trong tỉnh có 3 trái núi, cao nhất là núi Bà Đen độ 884 thước.
Kế đến là núi Heo và núi Phụng nằm về phía Tây và phía Nam núi Bà Đen, cao từ 400 đến 600 thước. Ngoài ra không còn núi đồi nào khác đáng kể.
SÔNG NGÒI
Tây Ninh có hai con sông lớn : sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ Đông.
1. Sông Sài Gòn chảy dọc theo ranh giới Tây Ninh và tỉnh Bình Dương, nằm trên khoảnh đất xã Bến Củi, dài lối 6 cây số ngàn. Có một nhánh lớn uốn khúc trong địa phận Tây Ninh là « Rạch Sanh Đôi », lưu thông được trên một quãng ngắn.
2. Sông Vàm Cỏ Đông chảy ngang qua tỉnh có một thủy lượng quan trọng hơn sông Sài Gòn và lưu thông được suốt năm cho tất cả thuyền bè. Vì vậy sông nầy giữ vai tuồng cần yếu cho nền kinh tế của tỉnh. Thủy nguồn chánh là « Rạch Cái Bác » cũng lưu thông được.
Các chi nhánh bên tả ngạn rạch Sóc Om, rạch Tây Ninh, rạch Trảng Bàng, đều có thể lưu thông được.
KHÍ HẬU – THẢO MỘC – CẦM THÚ
Khí hậu Tây Ninh nóng và ẩm ướt. Nhiệt độ buổi sáng 27, buổi trưa 32, buổi chiều 30. Trên núi nhiệt độ nhẹ hơn từ 4 đến 6.
Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 dl.
Gió mùa thổi từ Tây Bắc sang Đông Nam. Không có bão tố.
- Tỉnh Tây Ninh có các loại thảo mộc đáng kể : Sao, Huỷnh, Chò, Dầu, Vên Vên, Sến, Gõ Mật, Tràm, Công, Săng, Lành, Ngạch Cài, Chiêu Liêu.
https://thuviensach.vn
- Tại các khu rừng thuộc tỉnh Tây Ninh trước kia thường có : Nai, Mển, Chồn, Cheo, Thỏ, Heo rừng, Gấu, Cọp.
- Nơi săn bắn được là nơi Trại Bí, Lò Gò, Bàu Cỏ, Ka-tum, Bổ túc, Lộc Ninh và Trại Dầu.
GIAO THÔNG THỦY BỘ
Sự lưu thông bằng đường thủy từ Tây Ninh đến các tỉnh khác được thuận tiện, nên ghe thuyền thường tải hàng đến bán tại các bến Phú Đức, Hiếu Thiện, Bến Kéo và đôi khi cũng đến tận Bến Sỏi (quận lỵ Phước Ninh).
Trên các sông rạch trong tỉnh, sự lưu thông với các vùng xa xôi phía hữu ngạn sông Vàm Cỏ Đông được dễ dàng là có nhiều ghe thuyền và đò máy thường tới lui.
Ngoài ra, các công trình thủy nông, từ năm 1958, trong tỉnh đã hoàn thành việc đào 3 con kinh thoát thủy tại xã An Thạnh và Lợi Thuận thuộc quận Hiếu Thiện (Gò Dầu Hạ) :
- Kinh số 1 dài 1.300 thước, rộng 2 thước, sâu 0,90 thước thông với rạch Gò Xoài và sông Vàm Cỏ Đông chạy đến ranh ấp Voi thuộc xã An Thạnh.
- Kinh số 2 dài 4.700 thước, sâu 1,40 thước đến 1,80 thước, đáy rộng 1,40 thước, mặt 4,20 thước.
- Kinh số 3 dài 2.600 thước, sâu 1,30 thước, mặt 4,20 thước, đáy rộng 1,30 thước.
Lại còn có một con kinh đào đáng kể nhất trong tỉnh là con kinh đào Séville. Kinh này hoàn thành vào năm 1902, do sáng kiến của tỉnh trưởng Pháp thời bấy giờ tên Séville. Kinh dài 4 cây số rưỡi, nối liền tỉnh lỵ Tây Ninh với sông Vàm Cỏ Đông, lưu thông được cho ghe thuyền trung bình.
Về đường bộ có những con đường tân tạo :
https://thuviensach.vn
- Đường Tây Ninh – Katum, bắt từ Kédol (xã Tân Hưng) đến Bổ Túc (xã Tân Long) dài 36.000km cán đá suốt chiều dài.
- Đường Bổ Túc đi Bình Phú (tỉnh Bình Long) dài 27.580km, cán đá đỏ một khoảng khá dài.
- Đường Tà Đưng – Võ Tùng dài 20km.
- Một con đường đưa từ Tây Ninh về Sài Gòn, và tỉnh lộ số 12 được tiếp xúc nối bởi quốc lộ số 1 đưa về Trảng Bàng và Gò Dầu Hạ. Tây Ninh cách Sài Gòn 99km ; Trảng Bàng cách Sài Gòn 49km và Gò Dầu Hạ cách 60 km.
- Hai con đường đưa lên Nam Vang, một là quốc lộ 1 chạy ngang Gò Dầu Hạ, một là tỉnh lộ 13 khởi từ Tây Ninh đến Soài Riêng nối với quốc lộ 1 chạy lên Nam Vang.
- Một con đường khác nữa đưa từ Tây Ninh đến Kédol (Tân Hưng) là ở chơn núi Bà Đen cách tỉnh lỵ 15km. Con đường này có hai chi nhánh :
- Một con đường dài 8,7 km đưa đến chân núi, nơi đây có đường mòn đưa vào đến tận chùa Bà Đen.
- Một con đường có ngả rẽ đưa lên tận trên núi.
Tỉnh lộ 13 đưa từ Tây Ninh đến sông Sài Gòn, nơi đây có hai ngả rẽ, một về Bình Dương, một đi Soài Riêng :
- Một con đường dài 15km đưa từ Trảng Bàng đến bùng binh, nơi đây có một nhánh chạy theo sông Sài Gòn.
- Một con đường cách Trảng Bàng 1km, đến nối với quốc lộ 1 đưa về các con đường tỉnh Chợ Lớn.
Ngoài những con đường chánh kể trên, Tây Ninh còn có :
- Con đường xóm Vinh đưa đến tháp Chot-Mat, ngôi tháp chôn các vị tù trưởng người Chàm từng ở Tây Ninh.
- Đường Thanh Điền đưa đến một ngôi chùa có nhiều tượng cổ.
https://thuviensach.vn
PHẦN II : TÂY NINH DI TÍCH LỊCH SỬ QUA NHỮNG SỰ TÍCH TRUYỀN KHẨU ĐỊA PHƯƠNG
https://thuviensach.vn
Vùng đất Tây Ninh, về đền đài cổ, hiện nay chỉ còn vài di tích và một tháp Miên bằng gạch tại xã Bình Thạnh, cách Gò Dầu Hạ độ 10km. Tháp này dân Miên gọi là Prey Prasath Onkong, và ta gọi là Ông Công.
1. Tại xã Tân Long (quận Phú Khương) trên một gò đất, còn di tích một lâu đài bằng gạch.
2. Tại Long Khánh và Long Thuận, còn vết tích bốn cái tháp. 3. Tại Hiệp Ninh còn nền móng một cái tháp.
- Ở Phước Hội cũng có nhiều di tích.
- Ở xã Phước Thành còn vết tích một thành phố Miên.
4. Tại Cẩm Giang còn tàn tích một tòa nhà của tri huyện Quan Hóa. Ngoài ra còn nhiều di tích do viện khảo cổ ghi chép như sau : TÊN CỔ TÍCH : ĐỊA ĐIỂM
- Rùng : Khu vực có ba đền đài bằng gạch
- Hảo Đước : Tháp Chót Mạt (mộ của những viên trưởng Chàm) - Thanh Điền : Di tích và nhiều vật điêu khắc
- Bùng Binh : Di tích một tháp gạch
- Phước Chí : Nhiều vật điêu khắc
- Phước Trạch : Nhiều vật điêu khắc trong chùa tại Xóm Chùa - Tiên Thuận : Di tích hai đền đài, nhiều vật điêu khắc
- Phước Hưng : Đền thờ Prey Chek
- Đay Xoài : Đền thờ Prey Prasat và nhiều vật (thôn Leach Veng) điêu khắc
SỰ TÍCH LINH SƠN THÁNH MẪU
Nói đến núi non ở Tây Ninh, ngàn người như một không ai là không nghe tiếng núi Bà Đen, tục gọi núi Điện Bà tức Linh Sơn.
https://thuviensach.vn
Huyền sử về Bà Đen thật vô cùng cảm động. Hiểu qua sự tích theo mẫu dã sử, có vẻ như một huyền thoại hoang đường và thật ý vị, hẳn người người đều khâm phục. Rồi dầu không tin tưởng, vẫn đem lòng mến mộ vì sự tích rất thâm thúy, đủ để làm gương cho người đời.
Tương truyền : ngày xưa, núi Bà Đen gọi là núi Một. Trên núi có tượng Phật đá rất linh. Tin đồn dần dần lan truyền khắp xa gần.
Nhưng bấy giờ đường sá hãy còn sầm uất, rừng rậm bao quanh, cọp beo khá nhiều. Đường đi lên núi khó khăn. Thập phương bá tánh vì lòng tín ngưỡng quá nhiệt thành, bất chấp mọi gian lao nguy hiểm, hiệp nhau dọn đường lên cúng Phật. Mỗi lần lên núi, phải hiệp đoàn với nhau mà đi cho đông đảo, để tránh tai nạn thú dữ đón đường.
Tại Trảng Bàng, có cô gái tên Lý Thị Thiên Hương thông thạo văn chương, lại biết ít nhiều võ nghệ, mỗi ngày rằm hay lên núi lễ Phật. Tuy diện mạo cô đen đúa, nhưng duyên dáng và tài năng khiến được lòng người say đắm. Chàng trai làng là Lê Sĩ Triệt đem lòng thầm yêu trộm nhớ. Cũng như nàng Lý Thị Thiên Hương, chàng Lê Sĩ Triệt văn hay võ giỏi, có tiếng trong vùng.
Giữa lúc cùng chàng ấp ủ mộng lòng cùng ai, ngờ đâu còn có một con trai của một viên quan để ý đến Lý Thị Thiên Hương, quyết tìm cách bắt cóc cô về làm thiếp. Đem tiền bạc quyền quý cám dỗ không xong, hắn bèn sai một tên thuộc hạ dùng võ lực bắt nàng cho kỳ được.
Lý Thị Thiên Hương bị tên côn đồ đón vây bắt. Giữa lúc nguy khốn, chàng Lê Sĩ Triệt xông ra giải cứu, đánh đuổi tên côn đồ tẩu thoát.
Nàng cảm động tạ ơn chàng rồi về nhà thuật chuyện cho cha mẹ rõ. Để đáp ân sâu, cha mẹ nàng hứa gả nàng cho chàng. Được lời như cổi tấc lòng, chàng Lê Sĩ Triệt hân hoan.
Nhưng đang buổi bấy giờ giặc giã dấy lên, làm trai há đắm say tình mà quên nhiệm vụ. Nhân khi Võ Tánh đứng ra chiêu binh chống Tây Sơn, Lê Sĩ Triệt tòng quân.
https://thuviensach.vn
Ngày chia tay, nàng ngậm ngùi bảo chàng :
- Một lời đã hứa cùng nhau, thiếp nguyện thủ tiết đợi chàng. Xin chàng tin ở thiếp. Trăm năm chẳng lỗi thề, an tâm lên đường.
Chàng ra đi. Nàng ở lại vò võ trông ngày đoàn tụ. Một hôm nàng lên cầu khẩn trên núi lúc trở về gần chân núi, thình lình một bọn gia nô của con vị quan đến vây bắt. Nàng nhào xuống hố tử tiết không ai hay, ba hôm sau Lý Thiên Hương mới báo mộng cho vị hòa thượng trụ trì trên núi Tây Ninh. Khi ông đang niệm Phật, bỗng thấy một người con gái mặt đen nhưng rất duyên dáng hiện ra mà bảo :
- Ta đây là Lý Thị Thiên Hương. Năm 18 tuổi, chẳng may gặp bọn gia nô của quan trấn ở Trảng Bàng đuổi bắt ta nhào xuống hố thẳm tử tiết mà bỏ xác phàm. Nhờ căn tu mấy kiếp đã trải qua, nên linh hồn siêu thoát, đắc quả vị thần thông. Xác ta dù đã ba ngày vẫn còn nguyên vẹn. Hòa thượng nên xuống triền núi phía Đông Nam mà tìm thi hài ta chôn cất giùm.
Hòa thượng theo lời mách bảo tìm gặp xác, đem chôn cất.
Chuyện lạ đồn vang, thấu tai thượng quốc công Lê Văn Duyệt. Vốn tánh cương trực không tin điều huyền hoặc, ngài thượng công thân hành lên núi xem xét hư thực. Ngài tuyên ngôn cho người khuất mặt biết :
- Hồn trinh nữ Thiên Hương quả có hiển linh, hãy xuất hiện cho bổn chức xem thử.
Lời ngài thượng công tuyên phán với người khuất mặt vừa dứt, xảy thấy một cô gái chạy đến ứng tiếng :
- Xin chào thượng quan.
Ai nấy đều ngạc nhiên sửng sốt, ngài thượng công nghiêm trang : - Có chuyện chi ?
- Tôi chính là Lý Thị Thiên Hương đây.
Thì ra Lý Thị Thiên Hương nhập xác vào cô gái, và nói tiếp :
https://thuviensach.vn
- Tôi xin mách bảo trước cho thượng quan được biết. Hồn của thượng quan sau này sẽ được phong thần vinh hiển, nhưng xác của thượng quan sẽ bị hành hạ, mả bị xiềng xích, tên tuổi bị đục khoét, sau mới được minh oan.
Ngài thượng công Lê Văn Duyệt, nói :
- Bổn chức không cầu xin biết tương lai của mình, mà muốn biết rõ căn do của nàng.
Hồn Lý Thị Thiên Hương thuật rõ mọi điều rồi nói :
- Thượng đế chứng lòng đoan trinh của thiếp và tấc dạ trung kiên của chàng Lê Sĩ Triệt nên đã cho được hết đọa luân hồi.
Nay thiếp được ơn trên cho xuống trần cứu nhân độ thế.
Đã được chính mắt thấy tai nghe, ngài thượng công không còn nghi ngờ nữa mới dâng sớ về triều tâu mọi việc, vua Gia Long nhớ lại chuyện năm xưa bèn sắc phong Lý Thị Thiên Hương là Linh Sơn Thánh Mẫu chủ trì Linh Sơn Tiên Trạch động, ngự ở núi Một, tức là núi Bà Đen hay núi Điện Bà ở Tây Ninh ngày nay.
Sự hiển linh của đức Linh Sơn Thánh Mẫu như thế nào, thập phương bá tánh đều đã biết. Ngay như lời tiên tri của đức Linh Sơn Thánh Mẫu khi xưa, nói về cuộc đời của thượng công Lê Văn Duyệt, sau đó quả ứng nghiệm như lời.
Từ đó, sự linh thiêng đồn khắp xa gần, truyền mãi đến nay. Trên núi Điện Bà, quanh năm suốt tháng khói hương chẳng dứt. Sự tôn kính đối với đức Thánh Mẫu Linh Sơn biểu lộ rõ ở sự kiêng gọi tiếng Bà Đen, mà gọi là Bà Thâm. Và người địa phương thường dùng chữ thâm thay cho chữ đen trong ngôn ngữ.
Có thể nói rằng, uy thần hiển hách của Linh Sơn Thánh Mẫu núi Điện Bà không kém gì đức bà Chúa Xứ ở Châu Đốc vậy.
THUYẾT THỨ NHÌ VỀ LỊCH SỬ BÀ ĐEN
https://thuviensach.vn
Chúng ta đã do theo truyền thuyết mà kể sự tích Linh Sơn Thánh Mẫu như trên. Nhưng hãy còn một truyền thuyết khác nữa, tưởng chúng ta cũng nên biết qua để suy gẫm.
Tương truyền : Thuở Tây Ninh còn là phần đất có nhiều người Miên cư trú, tại vùng núi Tây Ninh có một viên quan trấn địa phương người Miên sinh hạ được hai người con, một trai tuấn tú và một gái hiền thục gọi là nàng Đênh.
Nàng Đênh tuổi độ 13, thì có vị sư người Tàu từ Bến Cát (Thủ Dầu Một) đến núi Tây Ninh tìm chùa làm nơi hoằng dương Phật pháp.
Khi đến công đường của Quan Trấn, nhà sư hỏi thăm về việc truyền bá đạo Phật trong vùng, và dò kiếm nơi trụ trì để hành đạo. Quan thủ mời nhà sư tạm nghỉ nhà mình để ông thừa dịp học đạo. Nhà sư vui vẻ nhận lời, từ đó bắt đầu truyền bá giáo lý đạo Phật trong gia đình Quan Trấn và cơ vệ đội.
Tuy trẻ tuổi nhưng sớm có căn tu, nàng Đênh miệt mài nghe nhà sư giảng đạo. Quan Trấn là người mộ đạo, nên sau đó đã thiết lập cho nhà sư một cảnh chùa, nay còn di tích gọi là chùa ông Tàu, nằm về phía Đông chân núi, phía làng Phước Hội lên, chưa được kiến thiết lại.
Thời gian trôi qua mau, nghĩ lại xa cách thiện nam tín nữ Bến Cát đã lâu, nhà sư bèn tạm biệt Quan Trấn để trở về thăm cảnh cũ người xưa.
Từ ngày sư ông vắng bóng, nàng Đênh vẫn một lòng sùng kính Phật đạo, luôn luôn lo việc công quả cho chùa.
Vốn con nhà trâm anh, tuổi đào tơ sen ngó, nên nhan sắc nàng Đênh xinh lịch, được xa gần nghe tiếng.
Quan Trấn địa phương Trảng Bàng, cơ sở tại sông Đua Bà Thánh, thuộc làng Lộc Hưng nay còn di tích, mới cậy mai đến nói với song thân nàng Đênh, xin cho sánh duyên cùng trưởng nam của ông. Thân sinh nàng Đênh chấp thuận vì xét thấy gia thế đôi bên rất tương xứng, nên hứa lời với đàng trai sẽ cho chọn ngày lành đưa sính lễ sang.
https://thuviensach.vn
Nhưng khi nói lại cho nàng Đênh biết, thì trước lời hứa danh dự của song thân, nàng chưa biết phải xử trí cách nào, nên xin đình đãi để nàng suy nghĩ kỹ.
Qua nhiều đêm trằn trọc, sau những lần cân phân hơn thiệt. Nàng định tâm lánh mặt đợi ngày nàng có dịp cạn tỏ nỗi lòng. Vì nàng đã phát nguyện xuất gia cầu đạo, không thể lập gia đình để gây mãi kiếp luân hồi khổ não.
Một đêm khi cha mẹ ngủ yên, nàng lẻn ra đi tầm đạo. Rồi biệt tích.
Thời gian qua, hiển thánh, bà nhập xác cho cô gái trong làng, thuật cho mọi người biết bà trút bỏ xác phàm, đắc thành chánh quả, vâng ơn trên xuống thế cứu độ chúng sanh. Nhân dân sùng kính bà từ đấy.
Trong giai đoạn chúa Nguyễn Phúc Ánh mông trần tẩu quốc tại miền Nam, bà vẫn thường hiển linh hộ trợ cho. Do đó, sau khi lên ngôi, vua Gia Long truyền cho quan địa phương đúc cốt bà Đênh bằng đồng đen mà thờ tại động trên non linh.
Nhà vua lại sắc phong cho bà là Linh Sơn Thánh Mẫu. Nơi động thờ bà gọi là Linh Sơn Tiên Thạch động.
Dân chúng truyền nhau sự tích bà, nên gọi núi Tây Ninh là núi bà Đênh, rồi gọi trại là núi Bà Đen.
Hai sự tích tương truyền, đâu là sự thật ? Tuy nhiên, xét ra hai truyền thuyết mà chúng tôi đã lược kể trên đây, đều có ý vị. Con người đã giữ lòng đoan chính, không vương miền tục lụy, phần hồn siêu hóa thần thông là lẽ đương nhiên.
Ngày nay đồng bào Tây Ninh cũng như thập phương bá tánh hết sức tin nơi oai linh của bà như một thần tượng cứu nhân độ thế. Những ai có lòng thành, khi hữu sự đến cầu lạy van bái bà sẽ được hộ trì linh ứng. Kẻ ác gian ngang ngược khinh khi ngạo mạn sẽ bị trừng trị cho nhân gian thấy rõ đấng vô hình lúc nào cũng thưởng phạt công minh.
CON ĐƯỜNG SỨ
https://thuviensach.vn
Sau ngày vua Gia Long gom đất nước về một mối, lập triều đại nhà Nguyễn, xứ Cam Bốt thần phục Việt Nam, hằng năm đều chấp thuận cuộc dâng nộp lễ vật cho triều đình Việt, để kết mối bang giao thân thiện.
Các sứ thần Miên mỗi năm mang lễ vật qua cống hiến Nam triều, muốn ra Huế phải qua địa phận Tây Ninh, và đường quan cũ về sau được sửa sang biến đổi thành con đường Tỉnh lộ 13 và con lộ Xóm Vịnh. Vì lẽ đó, con đường này hãy còn được gọi là « Đường Cống Sứ » hoặc « Đường Sứ ». Ấy là con đường đánh dấu một giai đoạn vinh quang của nòi Việt.
Điều nên biết thêm, ngày xưa còn có một con đường từ đất Gia Định Hốc Môn, Ngả Ba Thằng Tây, Tân Phú Trung lên thẳng xuyên qua quận Cửu Chi ngày nay, cách hướng đông quận lỵ thẳng tới làng Trung Lập, trảng Lông Công, đến địa phận tỉnh Tây Ninh qua ngã tư Bầu Đồn ngang Cầu Khởi, lên trước toà thánh Tây Ninh vào tỉnh lỵ, dài gần 100km. Con đường này dành riêng cho quân đội Nam triều sử dụng, vận tải lương thực, giao liên tiếp tế giữa quân dân chính, để kiện toàn nền bình trị, đem lại an ninh và mưu phúc lợi cho toàn dân miền Nam. Đó cũng là con đường huyết mạch của dân tộc, mỗi khi phải đương đầu với giặc Miên, Chàm hay bất cứ cuộc xâm lăng nào, khi quân đội do đó xuất phát, tiếp viện nhanh chóng, hầu đoạt lấy thắng lợi.
Bởi con đường quan hệ, có sứ mạng kiên trì bảo vệ cho dân miền Nam, nên đương thời cũng gọi tên riêng về con đường ấy là « Đường Sứ » (mỗi nơi dọc theo đường sứ có trạm thay đổi ngựa cho khoẻ rồi mới đi).
Danh từ đường sứ, nói lên tinh thần hào hùng bất khuất và nổi bật uy danh của một dân tộc đã từng khiến các lân bang phải thần phục.
Thử tưởng tượng quang cảnh rộn rịp của đoàn quân xuất phát phân phối lực lượng bảo vệ cho toàn vùng biên giới Tây Ninh năm xưa và hãy thử tưởng tượng quang cảnh tấp nập của các sứ thần Miên và đoàn tuỳ tùng rần rộ đi trên Đường Sứ để về triều cống nước Việt.
Tây Ninh huyền diệu với núi Điện Bà và toà thánh làm điển hình, mà Tây Ninh cũng hãnh diện với con Đường Sứ thuở nào.
https://thuviensach.vn
Nhắc lại con Đường Sứ tức là gợi lại nét kiêu hùng của Tây Ninh nói riêng, dân tộc Việt Nam nói chung, ngày xưa vẫn đã từng oanh oanh liệt liệt.
Con Đường Sứ này, xưa kia còn gọi là Thiên Lý Cù, rộng lớn như một tỉnh lộ, nhưng đắp bằng đất. Nay còn lại một đoạn với nhiều cây cổ thụ mọc hai bên lộ.
Dọc theo Đường Sứ, có rất nhiều cây muồn quân trái tròn bằng ngón chân cái, màu nâu nâu, vị chua chua ngòn ngọt. Người ta kể rằng, khi Nguyễn Ánh tẩu quốc, thiếu lương thực, những cây này đã cứu ông và quân lính khỏi cơn đói khổ. Vì thế các cây ấy được gọi là cây mừng quân và sau này đọc trại ra là muồn quân.
Con Đường Sứ ngày nay với bộ mặt mới, đường tráng nhựa, đồng bào cất nhà dọc theo lộ rất đông, đây là con đường lịch sử được tồn tại đến sau này.
SÔNG ĐUA, HÀO THÀNH
Theo sử chép : vào thế kỷ XVII, vua Miên Nặc Ông Chân xâm lấn nước ta, chiếm cứ Tây Ninh, lập đồn vua tại làng Đôn Thuận, nằm trong quận Khiêm Hanh ngày nay, cách quận 2km, trên Quốc lộ 13.
Giữa đồng ruộng bao la, trên một gò đất hoang vu, bỗng nhiên nổi lên đền đài cung điện. Chung quanh vùng đền đài có đắp thành, đào hào (gọi là chiến hào) để ngăn ngừa kẻ gian và kẻ nghịch.
Trước mặt đền đài, nhà vua có cho đào một con kinh dài độ 1.000m, bề ngang 200m. Kinh này được nhân dân gọi là sông Đua.
Sở dĩ có tên sông Đua, vì hàng năm nhà vua có tổ chức cuộc đua thuyền trên sông này.
Theo tập quán của nước Miên, hàng năm đến ngày Tết, tổ chức lễ rước nước và đưa nước. Cuộc lễ tổ chức trọng thể, trò vui chính là cuộc đua
https://thuviensach.vn
thuyền trên sông. Nhà vua ra trước bờ thành để thưởng lãm, dân chúng xa gần cũng tề tựu đông đảo trong ngày lễ.
Gần cuối thế kỷ XVII, người Việt ta ở đàng ngoài, từ miệt Phú Yên, Phan Thiết thường hay bị mất mùa. Nhân dân các tỉnh ấy di cư vào tỉnh Gia Định rồi tiến lên miệt Trảng Bàng, Gò Dầu Hạ và vùng Tây Ninh để khai khẩn đất đai lập nghiệp. Dân ta đến đâu thì thổ dân lần lần rút đi nơi khác.
Sông Đua nay thì cạn lần, mặt nước sông phẳng lặng như mặt nước hồ thu.
Hào thành thì chỉ còn trơ lại gò đất cao hoang vắng mà thôi.
Nên để ý : sông là con sông tự nhiên trời sinh. Kinh là do sức người đào lấy. Ở đây quả thật là kinh đào, nhưng nhân dân địa phương không phân biệt danh từ nên thay vì gọi kinh mà lại gọi là sông, do đó mới gọi là sông Đua.
Ngày nay mỗi khi đi qua sông Đua và Hào Thành, chúng ta không khỏi có phút suy tư cho việc đời tang điền thương hải. Trước đây, nơi cảnh này quân binh rộn rịp, cờ xí tung bay, trống chiêng vang dội, vậy mà giờ chính quyền nguỵ lại dựng lên đồn nghĩa quân để giữ an ninh vùng này.
CHÙA ÔNG GIA NINH VỚI NHỮNG CHỨNG TÍCH LỊCH SỬ
Tại góc đường Trần Hưng Đạo và đường Tự Đức ở Tây Ninh vẫn còn tồn tại một ngôi chùa Ông đáng kể. Như tên gọi, đó là nơi thờ Ông theo danh từ thông thường tỏ vẻ tôn xứng đức Quan Thánh đế quân. Thì vẫn một lối kiến trúc cổ kính như khắp các chùa Ông khác trên khắp các nẻo đường đất nước, thì cũng cúng kiếng hàng năm như thông lệ nơi nơi thường diễn ra, nhưng ngôi chùa Ông ở Tây Ninh lại có một sắc thái đặc biệt, làm nổi bật tên tuổi ngôi chùa.
Tương truyền : thuở chúa Định vương Nguyễn Phúc Thuần cùng cháu là Nguyễn Phúc Ánh mông trần, chạy trốn Tây Sơn mà thẳng vào Nam
https://thuviensach.vn
mưu đồ báo phục ; chúa Nguyễn để gót lưu vong tại Tây Ninh thường khi ẩn thân trong chùa Ông ấy.
Kịp khi Tây Sơn tiến đánh trong Nam, chúa Định vương bị bắt, Nguyễn Phúc Ánh lên thay cầm binh quyền, trải qua lắm giai đoạn thăng trầm, ngài vẫn không quên ngôi chùa Ông ở Tây Ninh từng là chỗ dung thân của ngài, khá an toàn. Bởi thế, khi thống nhất non sông, ông không quên đặt tên ngôi chùa ông là « Gia Ninh », ý hẳn để nhớ gốc tích nơi đất thiêng liêng đã đảm bảo an toàn cho ông và cho toàn dân vùng Gia Định ở miền Nam.
Rồi trải qua bao cuộc biến thiên, đến thời gần đây, nơi ngôi chùa Ông Gia Ninh lại còn là chỗ dung thân của những nhà cách mạng có thừa tâm huyết yêu nước thương dân, như Nguyễn An Ninh, Nguyễn Cư Hiến tự Quốc Biểu v.v…
Lợi dụng địa điểm chẳng ai chú ý, các nhà cách mạng đã từng âm thầm họp nhau thảo luận trong ngôi chùa tĩnh mịch.
Ngày nay ngôi chùa Ông Gia Ninh còn trơ gan cùng đất nước. Nơi đây có di tích thời Gia Long tẩu quốc ; nơi đây có lúc là trụ sở mật của những người tâm huyết họp bàn tham mưu hoạch định chiến thuật chống bạo lực cường quyền.
Hàng năm, tại chùa Ông cúng tế hai lần : ngày 13 tháng giêng và ngày 13 tháng 5 âm lịch. Những khi dự lễ cúng tế, ai biết chăng và có tưởng nhớ chăng những chứng tích lịch sử mà chúng tôi ghi nhận đậm nét trên đây.
CẢM NIỆM QUANG CẢNH CHÙA GIA NINH
Nền cổ kính Văn Lang mẫu mực
Một đền thờ nghi thức đoan trang
Nguyễn Vương 1trong lúc nguy nàn
Chồn chân Tây Lĩnh 2sửa sang ngôi chùa.
Thờ Quan Thánh 3nhà vua ngự bút
Chùa Gia Ninh kiến trúc cổ truyền
https://thuviensach.vn
Tượng thờ tam hữu Đào viên 4
Một lòng giúp Hớn trung kiên sáng ngời.
Với dụng ý khuyên đời cương trực
Noi gương xưa đáng bực hùng anh.
Phơi gan nâng vạc đỡ thành
Khuông phò xã tắc, giữ gìn non sông.
Thường hội họp cộng đồng đảng trị
Nhóm Cần Vương, tướng sĩ, văn quan
Gian lao trong bước ly loàn
Chờ ngày phục quốc, giang san huy hoàng.
Thời Pháp thuộc, lầm than thêm nữa (1863-1945)
Chống xâm lăng cậy dựa miếu này
Thiên Địa Hội họp nhau đây
Trong các ngày vía trình bày thiệt hư.
Để trao đổi thư từ tin tức
Nhờ uy linh các bậc tiền nhân
Chở che sau trước an thân
Cơ mưu giữ kín giữa quân Pháp trào
Người kháng Pháp thường nhào vô đó
Năm bốn lăm (1945) chật ngõ đầy chùa
Pháp – Việt lắm trận hơn thua
Cách mạng Tháng Tám đổ xua vô rừng,
Ngoại thế kỷ bão bùng mưa nắng
Vẫn trơ gan đứng thẳng chống trời.
Dẫu cho vật đổi sao dời
Bền gan tuế nguyệt, trọn đời hiên ngang.
TRUYỀN THUYẾT BẾN NÀNG RÀ
Đất Tây Ninh ngày xưa, như chúng tôi đã trình bày ở phần trên, vốn là đất có rất nhiều người Miên cư ngụ. Bởi thế tại đấy hãy còn đầy dẫy sự tích
https://thuviensach.vn
có liên quan rất nhiều đến sinh hoạt và văn hoá Miên. Kể ra cũng có nhiều sự tích.
Bến Nàng Rà nằm gần biên giới Miên, cách Tây Ninh chừng 30km đường đi Kompong Chàm, Quốc lộ 22. Chỗ khoảng bến này, có một cái tháp của người Miên. Thời xa xưa, theo tục lệ Miên, những ai muốn đến cúng chùa có vàng bạc gì đều đem bỏ trong cái tháp này tất cả, và đến đây đọc kinh cầu phước. Ngày nay ngôi tháp vẫn còn.
Trước kia đường giao thông cũng khá thuận tiện, đồng bào mình thường đi ngang qua các bến ấy. Có điều hơi lạ lùng, mỗi khi đến cách tháp chừng 100m, bỗng nghe tiếng xì xào như có đông người đang nhóm chợ. Nhưng đến sát thì rất yên lặng, trông ra sau trước, chung quanh chẳng thấy có bóng dáng người nào. Rồi đến khi trở về đứng xa trông vào chỗ tháp ấy, vẫn nghe rõ mồn một như có đông người tập hợp lại.
Chuyện lạ đồn rùm. Lâu ngày ai ai cũng nghe nói đến.
GHE NĂM (TỨC GHE NĂM CHÈO) BỊ VÙI LẤP TRONG NGỌN SUỐI LÂM VỒ
Nghe nói đến ghe năm, nhiều người không hiểu biết chi cả. Đó là loại ghe năm chèo ngày xưa.
Ngày xưa, tiền nhân ta thường dùng loại ghe năm chèo để di chuyển trên sông rạch cho mau lẹ cũng như loại ghe ô, ghe Lê mũi nhọn đáy chắc.
Riêng ở vùng Tây Ninh có rừng già nhiều, nên có nhiều cây cổ thụ thuộc loại danh mộc, người ta hạ xuống, khoét ruột, trổ một chiếc ghe liền trong thân cây, dài độ 10m ; hai bên gắn 4 chèo, sau lái 1 chèo là năm người chèo. Loại ghe này dùng vào việc di chuyển binh lương mau lẹ được gọi tắt là ghe năm.
Lúc bấy giờ vào năm 1780-1782, Nguyễn Ánh thường xuất hiện ở Tây Ninh. Để lẩn trốn, ông cùng quần thần thường hội hiệp ở sân chầu giữa một khu rừng hoang vắng. Truông Hồng Đào được tiếp tế lương thực của đồng
https://thuviensach.vn
bào địa phương. Dân chúng vận tải lương thực bằng ghe năm vô ngọn suối Lâm Vồ là con đường huyết mạch.
Ghe đậu tại ngọn suối rồi, phải di chuyển bằng đường bộ giữa rừng một khoảng xa mới đến địa điểm đồn trú của chúa tôi Nguyễn Ánh.
Một lần nọ, lúc ghe vừa đến ngọn suối, quan quân Tây Sơn đuổi theo gấp quá, chúa tôi Nguyễn Ánh đành bỏ ghe di quân đi xa. Chiếc ghe nằm đó mãi mà chủ đi chẳng trở lại.
Về sau, mưa tuôn nước chảy, cát lấp. Nhiều năm qua, đất cát lấp càng nhiều. Đến nay ghe bị chôn vùi chỉ còn ló lên một cái lái mà thôi.
Ngày nay, đồng bào đi lấy củi hoặc lấy dầu rái, hãy còn thấy phần lái chiếc ghe nằm phơi bày trên mặt đất, nơi mà ngày xưa là ngọn suối.
Đó là di tích chiếc ghe năm ngày xưa còn lại.
Tại Cà Mau, miệt Năm Căn cũng có chiếc ghe của vua Gia Long tại rừng U Minh, bị chôn vùi dưới con rạch, nay chỉ còn thấy cái mũi ghe to lớn.
Trải bao thế kỷ mà ghe không mục, đó là nhờ người xưa chọn gỗ toàn là danh mộc.
Nơi đây, chúng tôi sưu tầm di tích lịch sử chiếc ghe năm, để hiến quý bạn đọc có tinh thần tồn cổ.
GIẾNG MẠCH THIÊN NHIÊN
Trên mặt đất, có bao nhiêu nguồn lợi thiên nhiên, của tạo hoá dành cho nhân dân Tây Ninh thụ hưởng.
Vùng Tây Ninh đất cao, rừng sâu, núi Điện Bà hùng vĩ chiếm một góc trời. Trên núi cao thế mà có nước chảy quanh năm suốt tháng. Ở đồng bằng cũng có nhiều ngọn suối ngầm dưới lòng đất, tưới mát vườn tược, cây trái, hoa màu được xanh tươi. Đến Tây Ninh, chúng tôi được sự hướng dẫn của ông Nguyễn Văn Hảo, cựu giáo viên tỉnh này để tìm hiểu qua những di tích
https://thuviensach.vn
lịch sử ở đây. Chúng tôi được biết một mạch nước ngầm toạ lạc tại xã Hiệp Ninh, tổng Hàm Ninh Thượng, quận Châu Thành tỉnh Tây Ninh, nằm sát con lộ 22.
Giếng này không biết có từ đời nào. Mạch nước cứ tuôn trào ra mãi không ngớt. Nước trong và ngọt.
Từ thuở xa xưa, đồng bào trong tỉnh Tây Ninh thường lấy nước ở giếng mạch đem về dùng trong những tháng thiếu nước.
Khi quân Pháp đến Tây Ninh, thì họ khai thác cái giếng này vào năm 1910 và tìm thêm mạch suối Ao Hồ.
Giếng mạch được xây gạch chung quanh kỹ lưỡng và có cất một nhà nhỏ bao cái giếng lại cho được sạch sẽ.
Đồng bào trong tổng Hàm Ninh Thượng cũng dùng trong nước giếng này. Giếng không bao giờ cạn.
Năm 1942, ông Trường Tiền Rousseau ra lệnh phá giếng để lấy gạch đem về sửa chợ Tây Ninh, người Pháp không muốn dùng cái giếng này nữa nên bỏ phế.
Năm 1943, ông Phạm Văn Hoài, bảo trình lại với phụ thân ông đốc học Phạm Văn Tươi nên sửa chữa lại cái giếng mạch cho khang trang, nếu không thì trong làng bị xáo trộn và bị hư hoại. Nên biết ông Hoài là người sinh trưởng tại xã Hiệp Ninh.
Từ khi giếng được sửa chữa, thì dân chúng trong làng rất vui mừng.
Hiện nay, đồng bào trong vùng đặt ống nơi mé mương sau con lộ để lấy nước suối về dùng, chứ không còn lấy nước trong cái hồ cũ nữa.
Giếng mạch là kho nước vô tận dành cho đồng bào tỉnh Tây Ninh dùng. Dầu trời nắng hạn thế nào, nước ở giếng mạch vẫn tuôn trào mãi mãi.
Giếng mạch là một di tích thiên nhiên của tỉnh Tây Ninh đất phước, đạo lành.
https://thuviensach.vn
TOÀ CỔ THÁP PREY PRASATH
Một toà cổ tháp uy nghi cổ kính màu xám xậm, rêu phong cỏ mọc, không biết ở vào thế kỷ nào, trơ gan cùng tuế nguyệt sừng sừng giữa trời mây. Tháp đứng trên một gò đất cao ước lượng một mẫu, chung quanh bao bọc ngọn cổ thụ soi tàn rợp bóng, phía bên ngoài là đồng ruộng bao la, cảnh trí hồn nhiên.
Toà cổ tháp này cao chừng 7m, bề kính 5m, toạ lạc tại xã Bình Thạnh cách Gò Dầu 10km thuộc về quận Hiếu Thiện. Tháp này được dân Miên gọi là prey prasath onkong người mình gọi là Ông Công.
Dân chúng ở vùng này khá đông đảo, ước lượng cỡ 10.000 người, đời sống sinh hoạt về ruộng rẫy.
Theo một vài bô lão cao niên nhất ở địa phương kể lại : Toà cổ tháp có lẽ của người Chàm hay của người Thuỷ Chân Lạp còn lại. Những cổ vật mà chúng ta thấy nằm rải rác ở một vài nơi trên lãnh thổ ta, đó là di tích lịch sử của họ.
Chúng tôi thân hành đến tận nơi quan sát toà cổ tháp này, nghiên cứu thấy cả một công trình kiến trúc rất công phu và mỹ thuật của một thời văn minh trước, những hòn gạch kết lại dính liền rất tỉ mỉ, có nhiều lằn chỉ, chỗ hủng khít khao không thấy kẽ hở, đặc biệt không thấy dấu trét chất keo hay loại hồ nào khác mà vẫn dính chắc, dầu mưa to gió lớn không hề sụp đổ.
Nhìn toà cổ tháp trên, chúng tôi cảm nghĩ cho sự đời vật đổi sao dời, dinh hư tiêu trưởng, giang sơn cẩm tú trải qua bao cuộc bể dâu nhưng vật kia vẫn còn tồn tại với núi sông, đó là nhân chứng của không gian và thời gian của lịch sử. Rất tiếc vì trời mưa nên chúng tôi không chụp hình cổ tháp được.
MỘ ÔNG HUỲNH CÔNG NGHỆ
Ông Huỳnh Công Nghệ là một trong những vị anh hùng kháng Miên. Lúc đương thời, ông lập căn cứ tại Bến Thứ trên con rạch Sóc Om làng
https://thuviensach.vn
Hảo Đước.
Con rạch Sóc Om đổ ra sông Vàm Cỏ Đông, ở phía Tây Bắc cách tỉnh thành Tây Ninh 25km, đường chim bay.
Ngôi mộ của ông Huỳnh Công Nghệ nằm ở giữa khu rừng ô tịch này. Mộ đắp bằng đất.
Ngày xưa, khi ông mất, chẳng có con cháu chi. Dân địa phương đứng ra chôn cất, cám nghĩa người anh dũng kháng Miên bảo vệ nhân dân, nên dựng một ngôi miếu thờ ông. Miếu nằm dựa bờ rạch.
Sóc Om là căn cứ ông chiếm đóng.
Tương truyền : ngày xưa các thợ rừng đi làm cây, thường đem vật thực, gà, rượu đến cúng vái miếu của ông rồi mới bắt tay vào việc.
Trong các bữa ăn khác, thợ rừng cũng vái cúng trước rồi mới dùng sau. Người ta tin tưởng rằng ông linh thiêng phò hộ cho họ được êm xuôi trong nhiều việc.
Tương truyền ban đêm nơi vùng miếu thờ ông, thường :
- Nửa đêm, nghe tiếng ngựa hí vang và có tiếng lạc ngựa khua rộn ràng.
- Nghe tiếng chân người đi ăn nhịp rần rộ như đạo binh ngàn người vậy.
Người xưa cho rằng, đó là những vong linh chiến sĩ trận vong dưới quyền điều khiển của Ngài. Các vong linh nầy còn ôm mối hờn sông núi, chưa siêu thoát, oan hồn phảng phất quanh quẩn nơi « tổng hành dinh » ngày xưa, nên thường hiển hiện ra cho thoả chí tung hoành.
Nơi miếu thờ Ngài, sau này là vùng hoang vắng.
Chúng tôi, trong tinh thần sưu tầm và tồn cổ, ước mong sau nầy, ngôi mộ, ngôi miếu của Ngài được trùng tu cao ráo ấm cúng, để tỏ lòng biết ơn bậc tiền nhân.
https://thuviensach.vn
MIẾU THỜ ÔNG GỐC : MỘT VỊ ANH HÙNG ẨN DANH KHÁNG PHÁP
Cứ theo lời truyền của dân chúng thì sự tích nầy đã có từ xưa :
Thuở xưa, vào thời kỳ quân Pháp chiếm lấy tỉnh Tây Ninh, quân ta bị thất trận, tản lạc tứ phía. Có một võ quan tên Nguyễn Phương Hồng từ đâu kéo đến một đoàn binh đóng tại ngọn rạch Cái Răng vào tả ngạn sông Vàm Cỏ Đông thuộc về làng Thanh Điền (ấp Thanh Trung) để mai danh đặng lừa cơ hội phục thù.
Ông ẩn tích nơi đây đã lâu. Quân Pháp hay tin, đến vây đánh. Quân ta lương thảo ít, binh sĩ đói, ghe thuyền thiếu. Trước mặt là sông. Phía sau binh giặc đuổi gấp. Túng thế, ông cho giải tán binh lính, truyền cho chôn giấu súng ống để khỏi rơi vào tay giặc. Hố chôn súng hiện còn dấu tích, cạnh sông, cách rạch lối 20m. Giữa tình thế cấp bách, ông bèn chia lương thực cho binh sĩ, bảo họ về quê hoặc tìm chỗ ở lo làm ăn. Phần ông, ông gieo mình xuống nước huỷ mình tử tiết, không để cho giặc bắt, cái hy sinh của ông vì non nước muôn đời vẫn còn sáng chói.
Sau đó, nhân dân trong vùng thường gặp một gốc cây to trôi lờ đờ trên mặt nước.
Gốc cây không trôi đi xa, chỉ quanh quẩn nơi ông tự trầm. Có khi gốc cây trôi ngược dòng nước. Gốc này to lớn, bề tròn có thể ba người ôm không giáp. Trên đầu gốc có mấy u tròn như đầu người.
Gốc này không biết từ đâu đến. Có người lấy sào xô ra giữa dòng nhưng rồi gốc vẫn trôi lại lờ đờ ở chỗ cũ. Có lẽ hồn thiêng của vị anh hùng còn uất hận với núi sông, nên còn phảng phất nơi đây.
Về sau, nhiều người nằm mộng được thấy ông tỏ bày tự sự, và chừng đó nhân dân càng thêm kính trọng.
Tin ấy đồn xa, chẳng những người địa phương mà khách thương buôn cũng thường ghé thuyền vào dâng hương.
https://thuviensach.vn
Nhiều lái buôn mua vải tây đỏ bịt vào cái u nổi trên gốc (cho đó là cái đầu) thì gốc trừng lên xuống như vui mừng.
Có nhiều người truyền tụng rằng gặp ngày lành tháng tốt thì gốc nổi lên cao rồi lắc lắc trôi vòng quanh chỗ cũ.
Đến năm 1920, có người khách trú (Hoa kiều) mua miếng đất nơi đó để trồng mía và lập hãng đường. Thầy thợ và nhân công trong hãng rất tin tưởng ông Gốc và họ cùng nhau lập miếu thờ. Đến năm 1938, đất này được sang lại cho người Pháp, bấy giờ nhóm lao công địa phương mới hiệp nhau tu bổ miếu cũ, xây lại bằng miếu gạch khang trang hơn, hàng ngày có người ở gìn giữ khói hương. Tất cả đều gọi miếu này là : miếu ông Gốc. Vào năm 1949, người ta còn trông thấy gốc nổi lên, hạ xuống mấy lần.
Từ năm 1947 đến giờ gốc không còn thấy nữa. Cho đến nay đồng bào trong tỉnh Tây Ninh vẫn tin tưởng và nhắc nhở vị anh hùng ẩn danh ngày xưa tử tiết vì quốc gia dân tộc rồi lại nhập vào một gốc cây trôi giạt trên sông để cho nhân gian thấy rằng ông đã mất, nhưng hồn thiêng vẫn còn nặng nợ với non sông.
Tiếc thay, ngày nay, miếu ông Gốc bị phá huỷ không còn nữa. Chúng tôi nghĩ rằng, đồng bào xã Thanh Điền nên vì người anh hùng hy sinh cho đất nước mà tái lập lại ngôi miếu ông Gốc, gọi là lưu lại hình bóng xưa trong tinh thần tồn cổ.
Lời của một bô lão địa phương nói vị anh hùng ẩn danh này tên là Nguyễn Phương Hồng, không biết có đúng không ?
SỰ TÍCH DINH ÔNG
Cách quận lỵ Hiếu Thiện chừng 4 cây số đường lên biên giới Chợ Trời, quẹo về phía tay trái có con đường đá đỏ đi vô tới Dinh Ông trên một cây số, dinh nằm trên một gò đất cao. Cạnh bên Dinh Ông, có ngôi chùa cổ mang tên là chùa An Phước, một cuộc đất rộng trên một mẫu chung quanh có nhiều cây đại thọ, da, bằng lăng giao đầu phủ lá khít nhau mát rượi cả
https://thuviensach.vn
một khu vườn u tịch. Những loại dây rừng, lâu đời mọc quấn theo thân cây tủa xuống có tòng có tuội, quang cảnh rất nên thơ trầm lặng. Chính giữa cuộc đất có dựng một cái miếu xưa, giữa thờ một tấm tượng bằng gỗ sơn son thết vàng, khắc mấy dòng chữ nhỏ : « Lịnh Ông Chúa Tàu chứng minh ». Cạnh bên ngai thờ có dựng một lưỡi siêu cũ kỹ không tra cán, đó là di tích của vị Chúa Tàu ngày xưa thường dùng cái lưỡi siêu này để đánh giặc.
Trước ngôi thờ trần thiết rất trang nghiêm, khói hương không dứt, bá tánh thập phương thường đến Dinh Ông lễ bái.
Trong các ngày lễ, chúa nhật, nam nữ học sinh thường vào đây ngoạn cảnh.
Một vài truyền thuyết kể lại sự tích Dinh Ông như sau :
Ngày xưa trên đường tẩu quốc, Nguyễn Ánh có lúc di chuyển bằng đường bộ, có lúc phải dùng ghe thuyền xuôi ngược khắp sông rạch. Trên dòng thuỷ lộ, ông và đoàn tuỳ tùng đi trên một chiếc ghe vào con sông Vàm Cỏ Đông, đến làng An Thạnh (Gò Dầu Thượng) dừng chân. Ghe vừa đến nơi, quân Tây Sơn hay đuổi theo, Nguyễn Ánh và các quan hộ giá phải bỏ ghe, băng bộ đường rừng đến núi Bà Đen Tây Ninh lánh nạn, ngài mới giao chiếc ghe ấy cho vị chúa Tàu cũng như vị thuyền trưởng ngày nay để bảo vệ. Thuở xưa vùng này có nhiều kinh rạch liên tiếp ăn qua Đồng Tháp Mười, ghe vô đậu đây ra không được, vì sợ lộ tung tích. Nhưng quân Tây Sơn cũng đuổi theo bén gót và Chúa Tàu tử trận. Sau này lâu ngày biển cả hóa cồn dâu nên chiếc ghe bị lấp mất nổi lên một gò đất cao cây cối mọc um tùm. Người địa phương thời ấy biết chuyện, đến lập một cái miếu để thờ, nên dân gian thời xưa lưu truyền là Dinh Ông cho đến nay.
Còn một truyền thuyết khác nữa nói ngày xưa có chiếc tàu của một đoàn quan quân nhà Minh, chạy vô ẩn lánh bị mắc cạn ra không được, sau lấp thành cồn. Cách đây vài mươi năm đồng bào quanh vùng thường tới lui viếng còn thấy một khúc ống khói lú lên.
Nhân đi viếng cảnh này cùng với nhà thơ Thái Phong và bạn Linh Hữu vào ngày 30 tháng 11 năm 1971 (Âm Lịch), bạn Linh Hữu có làm một
https://thuviensach.vn
bài thơ lưu niệm dưới đây :
CẢM TÁC DINH ÔNG GÒ DẦU THƯỢNG
Cạnh chùa An Phước có Dinh Ông
Sự tích nghe qua luống não lòng
Người trước quên mình vì nợ nước
Đời sau nhớ Chúa thuở sang sông
Cồn dâu lấp biển chìm thân thế
Đao cũ còn lưu tại Điện Hồng
Cảnh vật đổi thay bao thế hệ
Nhìn về Đồng Tháp rộng mênh mông
MIẾU THỜ ÔNG CẢ ĐẶNG VĂN TRƯỚC & NGÔI MỘ HUYỀN LINH TỌA LẠC XÃ PHÚ MỸ HƯNG
Đất Tây Ninh nói đến ông cả Đặng Văn Trước ở Trảng Bàng làng Phước Lộc ngày xưa, ngày nay là xã Gia Lộc, ai ai cũng đều kính nể oai danh của ông. Khi còn sống, trộm đạo, du đảng nghe nói đến ông cả Trước đều khiếp sợ. Đến khi ông mất, được thành thần là vì con người ông trung nghĩa cang trực, có công khai hoang lập ấp, dựng làng, lập chợ mưu hạnh phúc cho tất cả mọi người. Năm Gia Long thứ 17 (1818), ông cùng mấy ông Trùm, Thể, Mưu, Vị, Thứ, đến làng Bình Tịnh xin nhượng đất lập một làng mới là Phước Lộc Thôn để khai khẩn phá rừng. Ông quy dân lập ấp đào kinh, cất chợ, mở mang đường sá để tiện lưu thông. Dân chúng theo ông về ở Trảng Bàng rất đông, họ mượn uy danh ông làm nhiều việc trái pháp luật lấn đất tư nhân v.v… bị chủ đất đến công đường tố cáo ông phải chịu trách nhiệm, lúc bấy giờ ông bị phạt 80 trượng để cảnh cáo, vì ông để dân ông hoành hành tự tung tự tác.
Sau ngày ông mất được phong thần, dân làng địa phương có lập một ngôi miếu thờ ông tại chợ Trảng Bàng. Dưới triều Bảo Đại ông được sắc phong Bổn cảnh Thành Hoàng làng Gia Lộc. Năm 1941 miêu duệ ông là ông Đặng Văn Đây đứng ra trùng tu ngôi miếu lại khang trang hơn, nơi đây
https://thuviensach.vn
có người chăm sóc lửa hương phụng tự, mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 8 đến ngày 14, 15, 16 tháng 3 làng làm lễ kỳ yên quý tế linh thần.
NGÔI MỘ
Hiện nay tọa lạc tại xã Phú Mỹ Hưng ; giáp với Bến Súc tỉnh Bình Dương đường lên Hố Bò. Ngôi mộ nằm trên một dòng suối cạn đắp đất cao chung quanh sỏi đá đỏ lồi lõm như hòn dã sơn ; đến mùa mưa nước suối chảy mạnh tới đầu mộ tự nhiên suối lại chảy rẽ ngang ra hai bên, dường như có một bàn tay vô hình nào chia ngọn nước tránh ngôi mộ của ông nằm giữa dòng suối. Nếu nước đổ chảy siết xói ngay vô, mộ phải bị lở trôi đi mất, mà trái lại chảy vừa tới chân, tự nhiên rẽ làm hai ngả, thật huyền bí, vì thế đồng bào ở đây đều kính nể đến oai linh của ông như thuở nào. Ngôi miếu và ngôi mộ trên đây là di tích lịch sử của bật tiền nhân có công với đất nước còn lưu lại trên mảnh đất quê hương. Một điều nói thêm, ông có một người con tên tuổi lẫy lừng có công kháng Pháp đó là lãnh binh Tòng. Ngày nay có tên đường lãnh binh Tòng ở Tây Ninh, Trảng Bàng và nhiều nơi khác.
ĐỊA DANH BẾN KÉO
Hai tiếng Bến Kéo làm cho nhiều người để tâm suy nghĩ. Tại sao có danh từ Bến Kéo ? Danh từ này xuất phát từ bao lâu ?
Bến Kéo nằm trên quốc lộ 22, hướng về Sài Gòn, cách tỉnh lỵ Tây Ninh 8 cây số ngàn.
Trào vua Tự Đức thứ 15 (đệ thập ngũ niên). Triều đình ký hiệp ước ngày 5-6-1862 với Pháp, giao 3 tỉnh miền Đông. Từ đó người Pháp vào chợ Tây Ninh lập căn cứ.
Người Pháp noi theo đường Gia Định lên Trảng Bàng, Bào Đồn, Cầu Khởi đến Tây Ninh và dùng đường thủy do con sông Vàm Cỏ Đông lên đến Bến Kéo để vận tải quân lính, súng đạn, vật liệu cùng dụng cụ xây cất, và thực phẩm…
https://thuviensach.vn
Từ Bến Kéo lên đến Vàm Cái Răng để vào Tây Ninh, nhân dân có thể đi bằng xuồng ghe theo một con rạch nhỏ và không sâu lắm.
Nơi con rạch này, tàu Pháp không đậu được nên đậu tại Bến Kéo. Họ mướn những xe trâu, xe bò của người bổn xứ để kéo dụng cụ và lương thực vào Tây Ninh.
Thuở đó, mỗi xe chở hàng là hai quan tiền kẽm (Sapèquesen zine).
Từ Bến Kéo vào Tây Ninh chỉ theo một con đường mòn băng qua rừng, ruộng. Đường mòn nhiều lỗ hang, gập ghềnh lối đi vất vả, đôi khi xe sa vào lỗ sâu bị lật ngả nghiêng.
Trên đường di chuyển, mỗi đoàn xe có lối 4, 5 chục cỗ (mỗi chiếc xe gọi là một cỗ xe) cần phải đi đông dân số như vậy để làm áp lực với thú rừng nhất là cọp. Nếu đoàn xe đi ít người, thì dễ bị cọp ra vồ bắt trâu bò.
Ngày xưa, mỗi tuần lễ có một chuyến tàu từ Sài Gòn đến Tây Ninh. Tàu đến thường nhằm ngày thứ sáu. Mỗi chiều thứ năm, chủ xe cho tập trung xe bò lại Cửa Đồn (ngày nay là trường trung học Tây Ninh).
Bến Kéo, có lẽ danh từ này được gọi như vậy là vì đây là « Bến » để xe đến « Kéo » hàng.
Từ năm 1925 về trước, Bến Kéo kể như một « giang cảng » của Tây Ninh.
Hãng tàu Pháp (Messageries Fluviales) thường lãnh chở hàng hóa. Hàng hóa nhiều có thể chở trên ghe chài mướn của người Hoa Kiều ở Chợ Lớn, ghe chài được tàu kéo đi. Chuyến đi thường chở rượu, đồ hộp, bận về thì chở heo, gà, trâu bò và đồ thổ sản tỉnh Tây Ninh cung cấp cho thủ đô Sài thành.
Bến Kéo ngày nay là ấp Long Yên xã Long Thành, một ấp mà phố phường sung túc.
Hiện nay, Bến Kéo đang tiến trên đà phát triển mạnh mẽ về mọi mặt : nông, công, thương.
https://thuviensach.vn
Du khách có dịp đến viếng Tây Ninh, nếu viếng tòa thánh Điện Bà, mà không đến Bến Kéo và An Hồ (hồ Thiên Định) là một thiếu sót đáng tiếc.
SỰ TÍCH ÔNG ĐÁ NỨT HAI TRÊN NÚI ĐIỆN BÀ
Từ xưa đến nay, núi Điện Bà được nổi tiếng là nơi thắng cảnh huyền bí. Khách hành hương thường đến nơi đây lễ bái thần linh. Khách viếng núi đông đảo, kẻ tới người lui rộn rịp.
Ngôi Linh Sơn tự đã được các vị Tổ ngày xưa dày công kiến tạo, góp công lao của cải rất nhiều. Trải qua nhiều đời, mỗi đời đều có điểm tô thêm, do đó Linh Sơn tự ngày nay mới được khang trang huy hoàng, gây thêm niềm tin cho khách mộ đạo.
Ngày xưa, khách hành hương lên núi Điện Bà, muốn viếng Chùa Hang, phải đi vòng xuống suối rất cực nhọc khó khăn. Sở dĩ phải đi vòng như vậy là vì giữa đường đi, bị một ông Đá to chận lấp. (ở đây, chúng tôi dùng danh từ địa phương, gọi ông Đá thay vì gọi cục đá, viên đá hay tảng đá…)
Lúc bấy giờ, vị Tổ thứ ba của Linh Sơn tự là Tánh Thiền lấy làm xốn xang trước cảnh bá tánh phải vất vả đi vòng quanh như vậy.
Tổ muốn rút ngắn đường đi cho khách thập phương đến viếng chùa Hang, nhưng chẳng biết làm cách nào.
Tổ chỉ còn cách mong chờ nơi quyền linh của chư Phật Thánh Tiên. Tổ thành tâm cầu nguyện ; mỗi đêm Tổ đến nơi ông Đá tụng kinh Kim Cang, và khấn vái cầu xin ơn trên hoặc dời ông Đá đi nơi khác, hoặc xin ông Đá nứt ra để có lối đi cho bá tánh.
Tổ tụng kinh và cầu nguyện đúng một trăm ngày và vào ngày chót, một hiện tượng lạ xảy ra là ông Đá nứt đôi ra, và hai bên đá dang ra chừa một lối đi bề ngang lối 1,5m.
Từ đó nhân dân lên núi có lối đi qua chùa Hang một cách dễ dàng.
https://thuviensach.vn
Sự việc ông Đá nứt hai đó, được lưu truyền hơn một trăm năm qua trong nhân gian, nhứt là trong khắp địa phương Tây Ninh.
SỰ TÍCH TRƯỜNG CAO CẲNG
Ở Trảng Bàng (tỉnh Tây Ninh) có một trường học gọi là trường Cao Cẳng.
Thật vậy, nó có một cái cẳng thật cao.
Cái cẳng đó là một cái nền xây bằng đá xanh cao lối 2m. Trường ở sau dinh quận.
Trước kia, đó là đồn lính của Pháp lúc Pháp chiếm xứ này. Nó nằm trong một châu vi rộng lớn lối 5 mẫu đất.
Đồn không có cửa, xây đá rất chắc. Đó là một cái lô cốt có nhiều lỗ châu mai để lính núp phòng thủ. Khi có địch đến thì lính núp phía trong và bắn ra do các lỗ châu mai.
Chung quanh có nhiều cây to bóng mát, cây gõ, cây dầu, cây giò heo, cây dên dên v.v… Cây rất to và cao nên chim, cò, diệc làm tổ trên đó rất nhiều và kêu la suốt ngày như ở giữa rừng.
Đặc biệt là có cây chà là, cây kè, thốt nốt rất nhiều, lưu lại di tích của người Miên thuở trước.
Sau cái lô cốt được sửa thành trường học.
Vì đây là trường học đầu tiên và duy nhất của quận, nên học sinh các trường phụ cận như : An Tịnh, Suối Sâu, Suối Cụt, Lộc Hưng, Đôn Thuận, An Hòa, Lộc Giang, Phước Chỉ, Gia Bình v.v… đều đến học nơi trường Cao Cẳng này.
Hình ảnh của người học trò ấy có phong thái đặc biệt, vai mang một mo cơm, tay ôm một cặp làm bằng giấy bồi có trét dầu ráy đỏ tránh mưa, chân đi đất (không guốc, dép) từ 5 giờ khuya tờ mờ sáng đã lên đường.
https://thuviensach.vn
Ngày xưa không có xe lam, xe cyclo, xe máy đạp như ngày nay, xe đạp còn chưa có hay có rất ít, chớ đừng nói chi xe gắn máy như bây giờ. Học trò đi bộ rất xa xôi, 5km, 6km tùy nhà ở xa hay gần trường.
Buổi trưa, họ vẫn ở lại trường, đỡ lòng bằng mo cơm đem theo, xong, uống nước lã và nằm nghỉ trên băng học trò, để chiều còn học lại. Đến tan giờ học chiều đi bộ về nhà.
Ngày xưa đi học cam go như thế. Đó cũng là một sự luyện chí kiên nhẫn vậy.
Trước thời tiền chiến, hương chức các làng ở quận Trảng Bàng, đều do nơi trường cao đẳng đào tạo. Vị giáo viên đầu tiên có uy tín và đức độ dạy trường này lâu hơn hết cho đến ngày hưu trí, đó là ông Dương Văn Ý. Hiện nay ông còn người con là ông Dương Văn Nhàn, đốc sự hành chánh làm ở tối cao Pháp Viện. Nhắc đến trường cao đẳng ai nấy đều cảm mến vị giáo viên tiền bối đã dày công tận tụy dạy dỗ các môn đệ quận nầy, tạo cho họ hấp thụ nền giáo dục tốt đẹp nên danh phận với đời.
Trường cao đẳng ngày xưa cảnh trí rất đẹp, trước sân có trồng những loại kiểng, ngâu, lài, cao bụng, sứ cùi, cảnh nầy không khác nào một huê viên công cộng như Sở Thú Sài Gòn để mọi người thưởng lãm. Thời gian qua vật đổi sao dời, khiến cho vườn đẹp trước kia, ngày nay xơ xác không còn nguyên vẹn như thuở nào, thật đáng tiếc.
SỰ TÍCH LÀNG AN TỊNH : MỘT TRONG NHỮNG LÀNG XƯA NHẤT CỦA TÂY NINH TRẢI BAO CUỘC THĂNG TRẦM
Làng An Tịnh trong quận Trảng Bàng tỉnh Hậu Nghĩa là làng chánh gốc thành lập trước nhất trong vùng từ đầu thế kỷ thứ 19.
Ngày xưa, làng An Tịnh thuộc tổng Hàm Ninh Hạ, quận Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.
Dưới triều vua Gia Long năm thứ 8 (năm Kỷ Tỵ 1809) làng An Tịnh được đặt hiệu là Bình Tịnh thôn, thuộc Bình Cách tổng, Thuận An huyện,
https://thuviensach.vn
Tân Bình phủ.
Đến năm Gia Long thứ 17 (năm Mậu Dần 1818) có ông trùm Đặng Văn Trước ở tổng Dương Hòa, huyện Bình Dương cùng với một số thân hào làm đơn đến tại đình làng Bình Tịnh, xin làng nhường cho một khu đất để lập làng mới, đặt tên là Phước Lộc thôn.
Đến năm Minh Mạng thứ 2 (năm Tân Tỵ 1821) ông trùm Trước làng Phước Lộc xâm lấn địa phận làng Bình Tịnh.
Ông trùm Trước cho đào kinh, lập chợ, và cho dân chiếm đất làng Bình Tịnh.
Thấy việc lấn ranh giành đất xảy ra như vậy, ông hương trưởng Nguyễn Văn Du và ông thôn trưởng Đặng Văn Ngươn đầu đơn kiện ông Trước nơi tả thừa ty Hình Phòng tại Phiên An trấn tức Gia Định.
Quan khâm sai, sau khi điều tra nội vụ, xử như vầy :
Việc đào kinh và lập chợ là việc công ích, vậy làng Bình Tịnh phải nhường đất đã đào kinh lập chợ cho ông trùm Trước, tức là cho làng Phước Lộc. Còn đất của dân làng Bình Tịnh bị xâm chiếm, thì ông trùm Trước phải trả lại cho dân làng Bình Tịnh. Ông trùm Trước phải lãnh phần trách nhiệm chịu hình phạt 80 trượng và làm tờ tội giao cho làng Bình Tịnh giữ.
Đến năm 1836, Phước Lộc thôn được cải danh là Gia Lộc thôn tức là xã Gia Lộc hiện nay.
Ông trùm Trước tức là hương cả Đặng Văn Trước là vị tiền hiền thành lập thôn Phước Lộc nay là xã Gia Lộc ; do đó ông được dân làng tri ơn lập miếu thờ tại chợ Trảng Bàng.
Đến năm Minh Mạng thứ 17 (năm Bính Thân 1836) tổng làng đều cải tên lại là : An Tịnh thôn, Bình Cách Trung tổng, Thuận An Huyện, Tân An Phủ, Gia Định tỉnh.
Đến năm Tự Đức thứ 16 (năm Quí Hợi 1863) miền Trảng Bàng đã bị Pháp xâm chiếm và danh hiệu tổng làng được sửa đổi lại là An Tịnh thôn Hàm Ninh Hạ tổng, Quan Hóa huyện, Tây Ninh phủ.
https://thuviensach.vn
Đến năm 1872 (đã thuộc Pháp rồi) hương chủ Đặng Văn Quờn, hương sư Trịnh Văn Thiện làm đơn xin với quan chủ tỉnh cho phép làng An Tịnh tách ra lập thêm một làng nữa là làng An Hòa, gồm có Lò Mo và Tha La.
Ranh giới làng Bình Tịnh ban sơ rất rộng, phía Bắc giáp với làng Thanh Phước, phía Đông tỉnh Bình Dương, phía Tây chỉ sông Vàm cỏ Đông.
Sau khi tách ra hai làng Gia Lộc và An Hòa, làng An Tịnh chỉ còn diện tích 3.492 mẫu tây, theo địa đồ lập năm 1894 do viên chức kinh lý Pháp đạt điền.
Trong làng An Tịnh có một cái đình xưa đã được sửa chữa, xây cất lại nhiều lần vẫn tại một địa điểm trước ở ấp An Thành.
Năm Tự Đức thứ năm (Tân Hợi 1852) ngày 20-11 âm lịch, đình An Tịnh được nhà vua phong một bổn sắc Thành Hoàng Bổn Cảnh ngự tặng là Quảng Hậu Chánh Trực đôn ngưng chi thần.
Vì làng ngày xưa chánh gốc trong vùng Trảng Bàng nên làng An Tịnh là làng duy nhất có sắc thần của nhà vua phong tặng. Dân số làng An Tịnh rất sung túc.
Người ta bảo đây là một làng có vương khí phát quan như làng Thanh Phước ở Gò Dầu nên tương đối nhiều người đỗ đạt so với các làng khác trong tỉnh Tây Ninh.
CÁC NGÔI MIẾU THỜ QUAN LỚN TRÀ VÔNG (HUỲNH CÔNG GIẢN)
Nói đến vị anh hùng ở đất Tây Ninh đánh Miên ngày xưa, ai ai cũng biết đó là Quan Lớn Trà Vông (Huỳnh Công Giản).
Có nhiều ngôi Miếu do nhân dân trong tỉnh dựng lên để thờ Ngài.
Một ngôi tại ấp Thái Vĩnh Đông, xã Thái Hiệp Thạnh tại Châu Thành Tây Ninh.
https://thuviensach.vn
Ngày nay, đồng bào địa phương chung lo đóng góp vào việc cúng tế. Vì cảm mộ công đức của Ngài đã hy sinh chống Miên rất anh dũng, làm cho Miên phải kính nể, thán phục Ngài và cả nhân dân Việt Nam.
Lúc bị giặc Miên bao vây chờ viện binh chưa đến kịp, Ngài đã tuẫn tiết. Đức hy sinh chói rạng trời Nam. Chúng tôi đến Tây Ninh, được sự hướng dẫn của ông Nguyễn Văn Tri hiệu trưởng trường Thái Vĩnh Đông, đến chiêm bái một trong các ngôi miếu cổ của Ngài
Miếu không lớn lắm, lợp ngói âm dương, giữa miếu có một bàn thờ, trên đó có linh vị của Ngài. Phía trước có thờ một « bộ đồ lổ bộ » bằng thau, trông rất uy nghi.
Phía trên, có treo tấm biển sơn son phết vàng khắc 4 chữ « ĐÁP TẠ THẦN ÂN ».
Hai bên có đôi câu liễn thờ do cụ Hàn-y Nguyễn Ngọc Diệp phụng cúng :
- Nhựt Tảo xuất anh tài, vị quốc vong thân, trứ trứ phương danh thùy trúc bạch.
- Tà dương trừ man tặc, ưu quân trí mạng, nguy nguy chính khí quán sơn hà.
Nghĩa :
- Nhật Tảo trổ oai thần, nặng nước nhẹ thân, rỡ rỡ hùng danh ghi sử sách.
- Trà Vông ngăn giặc Thổ, tròn trung vẹn tiết, lừng lừng chánh khí ngút non sông.
(do cụ Hi Đạm dịch)
Để nói lên công nghiệp của các vị anh hùng đất nước, làm vẻ vang cho giống Lạc Hồng. Mặc dầu Ngài đã khuất, nhưng tên tuổi của Ngài còn mãi mãi với non sông.
https://thuviensach.vn
Hàng năm đến ngày rằm tháng 2 âm lịch là nhân dân làm lễ cúng ngài rất trọng thể, có hát bộ 3 ngày. Dân chúng đến dự đông đảo để tỏ lòng ghi ơn quan lớn Trà Vông tức vị anh hùng Huỳnh Công Giản, chống giặc Miên và đã tuẫn tiết.
Nhà thơ Thần Liên, lúc trước có đến viếng cảnh này và có ghi đôi liễn để lại miếu gọi là đề tặng vị anh hùng dân tộc :
- Sống giúp nước, rạng ngời chí khí,
- Thác thành thần, rực rỡ oai linh.
MỘT NỀN THÀNH CŨ CỦA CHÂN LẠP Ở XÓM DẦU, ẤP CẨM LONG (CẨM GIANG)
Trên đường đi tìm di tích lịch sử tại tỉnh Tây Ninh, chúng tôi đến xã Cẩm Giang để viếng vài bô lão cao tuổi nhất hầu có tìm biết qua những di tích xưa còn lưu lại trên mảnh đất này.
Theo lời các vị cao niên ở đây thuật lại, được biết ở tại xóm Dầu, ấp Cẩm Long, xã Cẩm Giang xưa kia có một cái thành của người Miên đóng.
Muốn đến xóm Dầu, chúng tôi phải đi qua ấp Bến Đổi rồi sang gò Trao Trảo.
Cái thành nói trên nay chỉ còn là một cái gò đất cao, cây cỏ mọc um tùm.
Thỉnh thoảng có người tìm gặp những tấm đá xanh có chạm trổ khắc chữ Miên hoặc những tượng Phật cổ bằng đá.
Người ta cũng tìm gặp trong vùng những của quý như : nải chuối cao bằng vàng, ô vàng v.v… của người xưa chôn giấu.
Nhờ nhận được các vật ấy nên nhân dân dễ xác nhận di tích nền thành của người Miên ngày xưa ở tại đây.
PHỦ CŨ
https://thuviensach.vn
« Phủ Cũ » là cái phủ thời xưa của Nặc Ông Chân (Cao Miên) đóng tại mé rạch Tây Ninh. Phủ này cách tỉnh lỵ Tây Ninh lối 3km đi theo đường thủy.
Phủ rộng trên một mẫu. Chung quanh phủ có đắp bờ thành cao quay mặt ra mé rạch.
Phủ này tuy lúc trước là của người Miên, nhưng về sau, đời chúa Nguyễn Phúc Ánh, phủ này vẫn được trùng tu, để một quan đàng cựu của ta trấn đóng.
Đến đời Pháp xâm chiếm nước ta, phủ cũ đã bị bãi bỏ. Quân Pháp đến đây chở mấy cây súng thần công đại bác đem về tỉnh đường Tây Ninh, chưng bày trước sân « tòa bố ».
Thời gian sau, chúng gỡ súng đem để ở Bảo tàng viện ở Sài Gòn, rồi ít lâu chở về Pháp giữ làm kỷ niệm.
Mấy mươi năm trước đây, đồng bào địa phương ở gần Phủ Cũ, đào xới đất, có gặp được mâm thau, nồi đồng, tô chén xưa, đó là những di tích của người Miên và Việt chôn giấu trong thời chiến tranh xa xưa ấy.
Phủ Cũ nay chỉ còn trơ lại những thành đất cao tại xã Thanh Điền.
Đó là một di tích lịch sử trước đời vua Gia Long, còn lưu dấu lại tại tỉnh Tây Ninh.
ĐỀN THỜ HUỲNH CÔNG THẮNG VÀ NGÔI MỘ CỦA NGÀI (TẠI XÃ CẨM GIANG)
Từ xưa đến nay, những bậc công thần, anh hùng dân tộc thường được nhân gian dựng bia, tạc tượng, lập nền miếu tôn thờ, lưu truyền hậu thế.
Kẻ gian ác, mãi quốc cầu vinh bán giống nòi cho ngoại chủng, đều bị nhân dân lên án phỉ nhổ muôn đời.
Bằng cớ là đài kỷ niệm của Huỳnh Công Tấn tại chợ Gò Công, lúc phong trào Thanh niên tiền phong nổi dậy vào năm 1945 đã bị đập phá và
https://thuviensach.vn
lên án là người bán nước hại dân. Đồng thời thanh niên dựng đài kỷ niệm, làm lễ truy điệu Trương Công Định, vị anh hùng tử tiết chống xâm lăng.
Bánh xe lịch sử quay chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác, luân lưu, không ngừng. Ở đâu cũng vậy, người anh hùng có công với đất nước đều được nhân dân ghi nhớ.
Ở Tây Ninh, những vị anh hùng dân tộc kháng Miên, chống Pháp vẫn được người dân địa phương nhắc nhở. Đó là :
1. Huỳnh Công Giản
2. Huỳnh Công Nghệ
3. Huỳnh Công Thắng
4. Trương Huệ
5. Lãnh binh Tòng
Những vị anh hùng này đã hy sinh đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ quê hương, thoát khỏi bàn tay nanh vuốt của kẻ xâm lăng cướp nước.
Ông Huỳnh Công Thắng là vị anh hùng dân tộc, người can đảm tiết tháo, đã từng tả xông, hữu đột, đương đầu với bọn giặc Miên nhiều trận thư hùng đẫm máu trên cánh đồng Trà Vông và thôn Cẩm Giang. Ông đã tử tiết lúc sa cơ. Đồng bào chôn cất ông tại địa phương này và dựng lên đền thờ để tưởng niệm bậc trung cang nghĩa khí.
Sống làm tướng thác làm thần.
Nhiều người đồn rằng mấy năm trước trong lúc đêm khuya canh vắng, nơi miếu thờ ngài, đồng bào có nghe tiếng lạc ngựa khua lên như có người cỡi.
Bởi thế, ở xã Cẩm Giang ai ai cũng kính nể oai linh của ngài.
Hàng năm vào ngày mùng 6 tháng 4 âm lịch là ngày cúng ngài tại miếu Cẩm Giang, các bô lão thân hào nhân sĩ đến dự đông đảo.
TRƯỜNG ĐUA DẤU CŨ
https://thuviensach.vn
Vạch bóng thời gian ghi lại những di tích lịch sử nước non nhà.
Theo lời các vị niên trưởng tỉnh Tây Ninh thường nhắc đến trường đua cảnh cũ của quan đàng cựu Nam triều. Tại xã Hiệp Ninh, vị trí trường đua nằm dọc theo Quốc lộ 22, xưa kia nơi vùng này là rừng cấm, dưới rặng cây xanh có những gò nỏng trống trải, quan triều chọn địa điểm này làm nơi giải trí bằng cách đua ngựa, chạy theo chu vi cuộc đất, lập những chặn mức ăn thua, con nào dẫn đầu chạy về trước phất cờ chiếm giải, dân chúng vỗ tay reo mừng tưởng thưởng, trong những ngày lễ hoặc khi nào có mở tiệc khao quân thì quan địa phương có tổ chức đua ngựa.
Truyền thuyết thứ hai : có người nói trường đua này trước kia của vua Nặc Ông Chân bày ra những cuộc đua xe bò và xe xà rệt. Xe sắp hàng ngang, khi nghe hiệu lệnh đồng la, thì người ngồi trên xe đánh bò cho chạy ngay, có khi đụng nhau xe lật ngả nghiêng ngả ngửa rồi cười reo, cho đó là một trò chơi ngoạn mục của dân tộc. Theo truyền khẩu trên đây không biết trường đua ngựa hay đua bò, của quan người Việt hay người Miên ? Vì không sách sử nào ghi chép.
Đến đời Pháp thuộc dấu vết trường đua lui về dĩ vãng, hiện nay đồng bào đến cư ngụ cất nhà dọc theo hai bên quốc lộ, phía sau trường đua trở thành vườn tược sum sê.
Nhưng hai tiếng trường đua, người địa phương dường như đã quen nên thường nhắc đến xóm Trường Đua cũng như danh từ Mít Một, mặc dù cảnh cũ không còn nhưng gợi vào tâm thức của những ai có tinh thần tồn cổ.
SỰ TÍCH SUỐI ĐÁ
Khắp trên miền Nam nước Việt, địa phương nào cũng có lắm sự tích, lâu đời truyền tụng trở thành địa danh, ngày nay dân chúng trong vùng còn nhắc nhở.
https://thuviensach.vn
Xóm Suối Đá ở về hướng đông bắc núi Bà Đen, thuộc làng Phước Hội. Xóm này nhà cửa ngày xưa rất đông đảo, ở gần dưới chân núi. Nơi xóm có hai con đường đá đỏ, một đường ăn thông qua Khaidon, bên kia núi Bà Đen, và một con đường giáp với đường quản hạt 13 chạy về Tây Ninh.
Cách xóm Suối Đá chừng 500m, dọc theo con đường số 13 có hai cái suối bề ngang độ 5m, chạy ngang qua một cây cầu đúc. Dưới đáy suối, toàn những đá nhỏ ; hai bên suối là những đá xanh, tảng lớn nổi lên lởm chởm trên mặt đất. Suối này ăn thông ra sông cái. Vì suối toàn là đá, nên đồng bào địa phương gọi là Suối Đá và xóm này cũng mang tên là xóm Suối Đá.
SỰ TÍCH BẾN TRƯỜNG ĐỔI
Ngày xưa, khi Tây Ninh còn dưới quyền cai trị của Nam triều, vốn là phủ Tân Ninh. Sau quân Pháp chiếm đóng, đặt guồng máy hành chánh tại đây, nhưng đa số không khuất phục. Nhất là người Chàm, tỏ ý chán ghét người Pháp ra mặt.
Không phục quân Pháp nên người Chàm không chịu đem các sản vật ra chợ bán cho quân giặc, để mua hàng hóa ở chợ đem về dùng. Họ lãnh đạm, không muốn giao thiệp với quân Pháp.
Mặc dù người Chàm thuộc nhóm dân thiểu số, nhưng họ có tinh thần đoàn kết, gom nhau ở một xóm. Trên nói dưới nghe. Khi họ truyền nhau bất hợp tác thì ai nấy đều nhất luật tuân theo. Quân đội Pháp thấy thế hạ lệnh cho một tốp lính đi ruồng trong xóm, ra chỉ thị buộc người Việt đem đồ ra chợ bán, rồi đem hàng hóa vào xóm người Chàm mà đổi chác mua bán với nhau. Người Chàm thấy người Việt tổ chức các cuộc đổi chác, mua bán, cũng thuận giao tiếp, miễn sao không có quân đội Pháp chen vào thì thôi. Địa điểm nhóm họp giữa người Việt và nhóm người Chàm mang tên là Bến Trường Đổi.
Đồng bào địa phương nhớ lại mẩu chuyện của xóm Trương Đổi năm xưa, vẫn là sự tích giữa người Việt với người Chàm ở Tây Ninh trong quá khứ vậy.
https://thuviensach.vn
SỰ TÍCH CỐNG CHÀM VÀ HANG CHÀM Ở TÂY NINH
Đất Tây Ninh có lắm sự tích được truyền tụng trong dân gian, mà đến nay hãy còn lắm người biết.
Xưa kia, cách chợ Tây Ninh trên một ngàn thước, ở phía làng Thái Bình dân cư trù mật. Muốn di chuyển đến làng Thanh Điền, phải đi theo con đường trải đá chạy ngang qua xóm người Chàm cư ngụ. Ngay trên cánh đồng vắng ấy, nổi lên hai gò đất cao, giữa trũng thấp, nước đọng quanh năm. Thường đến mùa mưa hay ngập lụt làm hư hại mùa màng. Dân làng mới xây hai cái cống ba miệng ngay tại xóm người Chàm, để thoát nước ra sông tránh nạn nước ứ đọng.
Hiện nay người Chàm đã dời về ở bên xã Thái Hiệp Thạnh từ lâu, mà tên Cống Chàm cũng vẫn còn được nhắc. Mỗi lần đi ngang qua vùng này ai cũng nghe nói đến Cống Chàm.
Còn sự tích Hang Chàm nằm trên núi Điện Bà, cũng vẫn thường được nhắc đến. Hễ nhắc lại chuyện Cống Chàm, đa số đều liên tưởng đến Hang Chàm mà lắm người địa phương hiện nay vẫn còn biết rõ.
Ngày xưa người Chàm cư ngụ ở Đông Tác thường vô núi đốn củi, lượm chai, làm rẫy. Số người này lên núi chọn một cái hang để đụt mưa nắng và nghỉ trong lúc mưa gió bất thường không về được mà phải ở lại. Hoặc dùng làm nơi tạm nghỉ để ăn uống.
Lúc bấy giờ, dân chúng quanh vùng gọi chốn đó là Hang Chàm, lâu ngày thành danh.
Chúng ta nên biết, chẳng phải người Chàm hay ở hang đâu. Phong tục tập quán người Chàm có lắm điều khả quan. Họ tập trung với nhau ở nơi một xóm, ấp nào đó. Phần nhiều nhà cửa cao cẳng, chớ không ở hang ở lỗ bao giờ. Sở dĩ có cái Hang Chàm ở Tây Ninh trong thuở xa xưa, chỉ là chỗ họ tạm nghỉ ngơi, để lấy sức làm lụng quanh năm suốt tháng nơi vùng này vậy thôi.
https://thuviensach.vn
RỎNG TƯỢNG HAY LÁNG TƯỢNG
Đất Tây Ninh ngày xưa còn là rừng già dày đặc, có nhiều thú dữ như cọp, voi, nai, mển v.v… Nhất là voi rất nhiều nên có tiếng là rừng voi. Mỗi lần voi đi đến suối uống nước, kéo từng bầy cả năm bảy chục con, di chuyển trên một cánh rừng bao la sầm uất. Voi đi tới đâu, dấu chân lún có dấu dài cả đôi ba cây số trong rừng, lâu ngày trời mưa ứ đọng, đồng bào đi hái củi, bẻ măng gặp những rỏng tượng quanh co trong rừng chứa đầy nước.
Rỏng Tượng đã có nhiều ở miệt rừng núi, nhất là vùng thượng du, dãy núi Trường Sơn (miền Trung). Các nơi ấy đều có rỏng tượng tất cả, chẳng riêng gì Tây Ninh mới có. Nhưng sự tích Láng Tượng hay Rỏng Tượng ở địa phương này được nhiều người nhắc đến, là để nói lên đất đai Tây Ninh thuở trước có rất nhiều voi hơn hết. Chính trong chánh sử cũng có ghi rõ điều này.
Để kết thúc phần di tích lịch sử và sự tích địa phương, chúng tôi ghi chép trên đây, nói lên dấu vết của người xưa còn lại, mặc dù có nhiều nơi bị tàn phá theo thời gian xóa mờ trong dĩ vãng. Nhưng hôm nay gợi lại với tinh thần hiếu cổ của kẻ đã nặng nợ với non sông, hầu bảo vệ những gì thiêng liêng cổ kính còn lại trên dư đồ nước Việt Nam.
https://thuviensach.vn
PHẦN III : NHÂN VẬT LỊCH SỬ
https://thuviensach.vn
Mặt khác, có những nhà nghiên cứu về khái sử của Tây Ninh như sau :
Tây Ninh đi vào lịch sử (của tổng hợp bản đồ hình chữ S thân yêu) tính cho đến nay chỉ khoảng 300 năm. Phần đất miền biên giới này được hình thành song song với những vị chúa sau cùng của dòng họ Nguyễn mở cuộc khai phóng phương Nam và chiếm cứ Biên Hòa trước tiên.
Các chi tiết về cuộc tiếp thu Tây Ninh, nhìn qua sử sách được các vị tiền bối của triều đình Huế xa xôi với cuộc Nam tiến ghi nhận thật là khiêm nhượng.
Đến thời Pháp thuộc, địa phương kể trên mới được thực dân thiết lập thành tỉnh. Trước ngày Tây Ninh thành lập tỉnh có rất nhiều cuộc cách mạng của chiến sĩ Việt Nam vùng lên chiến đấu để mong đập tan ách nô lệ. Nhưng có kẻ mãi quốc cầu vinh, hiệp lực với thực dân Pháp đang có thế lực mãnh liệt đàn áp tàn khốc dân quân cách mạng. Do đó, cuộc cờ lịch sử đảo ngược, ách thống trị gác lên đầu, toàn dân với mắt nhìn bất lực và buồn thảm, an phận trước một thiểu số bá quan văn võ triều đình nhà Nguyễn. Tất cả đều tưởng như một giấc chiêm bao !
Dù vậy, mạch máu hào hùng của dân tộc Việt Nam vẫn luân lưu không định mức thời gian, không gian.
Riêng tỉnh Tây Ninh còn đến ngày nay, người ta phải nhắc đến các vị anh hùng đã đem máu bảo vệ phần đất biên cương trên dọc đường mở mang bờ cõi. Nếu lịch sử vì hoàn cảnh, hoặc vì lý do nào đó mà không ghi nhận công lao hiển hách của những vị anh hùng vị quốc vong thân, thì lòng dân mỗi địa phương vẫn giữ nguyên lòng sùng kính truyền khẩu cho con cháu nối tiếp mà kẻ hậu sinh có khi cho rằng đó là giai thoại huyền sử.
Nhưng Tây Ninh còn đó, ắt phải có những anh hùng giữ đất biên thùy, tưởng rằng không ai chối cãi được. Dân chúng nhắc nhở, lập miếu tưởng niệm sùng kính, tôn thờ vị anh hùng tiền bối của đất Tây Ninh từ hơn ba thế kỷ nay là ai ? Xin mời quý vị nghe chính những vị bô lão của Tây Ninh
https://thuviensach.vn
kể lại cho chúng tôi, người tình nguyện dấn thân đi tìm ghi nhận tinh hoa đất nước chép lại.
ÔNG HUỲNH CÔNG GIẢN : VỊ ANH HÙNG BẢO VỆ TÂY NINH ĐẾN HƠI THỞ CUỐI CÙNG
Miền đất Tây Ninh vào thế kỷ XVII là vùng hoang vu, sau người Việt đến. Cao Miên lúc bấy giờ là chư hầu của Xiêm, họ không thích chung chạ với người Việt. Do đó, họ nổi dậy đánh nhau với người Việt nhiều lần giữa thế kỷ thứ XVII.
Vào thế kỷ thứ XVII, đền đài của vua Miên là Nặc Ông Chân đóng tại xã Thanh Điền, gần ngọn rạch Tây Ninh ngày nay, dân chúng địa phương hiện quen gọi nơi đó là Phủ Cũ.
Khi nghe tin đồn người Miên dấy loạn cướp phá tài sản người Việt, anh hùng Việt Nam tứ xứ không hẹn mà cùng kéo về Tây Ninh trợ chiến.
Trong những anh hùng tứ xứ này có 5 vị tiền bối người Đàng Ngoài, mà dân chúng gọi là Ngũ hổ tướng quân. Ngũ tướng theo ngọn sông Sài Gòn lên tại ngã ba ngọn rạch Sanh Đôi và Bà Chiêm, tục danh là ngọn Cái Cùng đóng đồn chống địch giúp dân.
Ngoài Ngũ hổ tướng, dân Tây Ninh không một ai là không nghe đến uy danh quan lớn Trà Vông, vị anh hùng bảo vệ đất Tây Ninh đến hơi thở cuối cùng.
Chính sử không thấy ghi chép, nhưng sự truyền khẩu của nhân gian đến nay được biết, quan lớn Trà Vông tên thật là Huỳnh Công Giản cùng người em là Huỳnh Công Nghệ, gốc người Nhật Tảo, võ nghệ cao cường, đã đến Tây Ninh lập căn cứ kháng Miên.
Ông Huỳnh Công Nghệ đóng đồn tại Bến Thứ, gần ngọn rạch Sóc Om thuộc xã Hảo Đước. Ông Huỳnh Công Giản chiếm cứ một cánh đồng rộng gọi là đồng Trà Vông thuộc xã Thái Bình. Bờ thành Trà Vông vô cùng kiên cố.
https://thuviensach.vn
Bấy giờ những trận đụng độ giữa người Việt và người Miên liên tiếp xảy ra kéo dài suốt mấy mươi năm với vũ khí rất thô sơ.
Phía quân Việt thì có gươm đao, giáo, mác, cung tên và trong đồn phòng thủ rất nhiều lu dầu Con Rái.
Một sáng tinh sương, quân Miên dùng chiến thuật biển người ồ ạt tấn công đồn Trà Vông. Bị tấn công bốn mặt bất ngờ, nhưng quân của ông Huỳnh Công Giản cũng kịp thời phản công mãnh liệt. Trong đồn nấu dầu con rái sôi thụt ra khiến quân Miên bị ngã nhào lớp lớp dưới chân hào. Tuy nhiên, vì quân Miên quá đông, ngã lớp này, lớp khác tràn lên. Trận cận chiến ác liệt diễn ra suốt ngày trời. Quân Việt vì bị tấn công bất ngờ, không chuẩn bị việc cơm nước, nên vừa đói, vừa mệt nên quân Miên tràn vào đồn Trà Vông.
Trước đó, tướng Huỳnh Công Giản nhận định biết rằng, quân Miên quá đông, nên dù quân sĩ dưới quyền ông tử thủ cũng khó kéo dài cuộc chiến nên ông đã cho quân liên lạc với ông Huỳnh Công Nghệ kêu viện binh. Trận chiến mỗi lúc một khốc liệt, tướng Huỳnh Công Giản tả xung hữu đột như hổ dữ giữa vòng vây của lũ chồn. Khi ông thấm mệt, nhìn lại thì quân Việt đã hy sinh quá nhiều, trong lúc viện binh chưa kịp đến. Biết khó chuyển được thế cờ, tướng Huỳnh Công Giản nhớ tới câu « thành mất thì tướng phải mất theo ». Ông vung gươm tử chiến cùng giặc Miên đến lúc kiệt sức rồi gom tàn lực quay gươm tự cắt đầu tuẫn tiết chớ không để cho quân Miên bắt sống.
Tướng Huỳnh Công Giản ngã xuống, quân Miên lại tràn thêm lớp lớp vào thành. Trong khi ấy, viện binh của tướng Huỳnh Công Nghệ truyền lệnh quân sĩ vây thành, chận đường rút lui của quân Miên, quyết đánh một trận rửa hờn cho anh và binh sĩ Việt đã hy sinh.
Quân Miên hãy còn đông, nhưng lúc bấy giờ đã đói mệt, viện binh Việt tràn vào giáo gươm tua tủa, đầu quân Miên rơi như sung rụng. Những dãy hào chung quanh thành Trà Vông nước xanh biến thành những hồ máu
https://thuviensach.vn
của quân Miên và thây giặc Miên trải ngập trong thành, ngổn ngang lớp lớp trên cánh đồng Trà Vông.
Tàn quân Miên còn sống mở huyết lộ chạy về nước.
Từ sau trận đánh kinh thiên đó, quân Miên không còn dám xâm lấn người Việt. Sau đó, vua Miên xin được nối lại tình giao hảo với Việt Nam.
Cái chết của tướng Huỳnh Công Giản là cái chết hào hùng, rạng ngời chánh khí, quang minh muôn đời cho lòng dân địa phương Tây Ninh nói riêng.
Để tưởng niệm vị anh hùng đã đem giọt máu cuối cùng, hơi thở cuối cùng để bảo vệ cho Tây Ninh, nhiều dân trong các ấp xã Tây Ninh đều lập miếu thờ tướng Huỳnh Công Giản và Huỳnh Công Nghệ. Dân chúng Tây Ninh quen gọi tướng Huỳnh Công Giản là quan lớn Trà Vông. Người Miên gọi là Tà Vông (ông lớn).
Hiện nay, ngôi miếu thờ quan lớn Trà Vông lớn nhất ở tại ấp Bình Trung. Sự hiển linh của quan lớn tới bây giờ vẫn như trước, dân chúng ở ấp Mỏ Công (nằm giữa Quốc lộ 22 đường lên biên giới Việt Miên) cùng thành lập ngôi miếu để thờ phụng ngài.
Ngoài hai ngôi miếu đó còn nhiều ngôi miếu thờ quan lớn ở nhiều xã ấp khác. Bờ thành Trà Vông hiện nay vẫn còn di tích cũ nhưng vì vấn đề an ninh nên ít người có dịp tới đó.
SỐNG LÀM TƯỚNG THÁC LÀM THẦN
Tiếp tục cố gắng sưu tầm tìm hiểu về thân thế quan lớn Trà Vông, chúng tôi được các bô lão từ xã Cẩm Giang, Bến Cầu, Thái Bình kể lại rằng :
Khoảng năm 1846, giặc Cao Miên tung hoành cướp giựt chém giết người Việt Nam. Để đem lại an ninh cho phía tây Gia Thành, triều đình Huế phái ba người anh em họ Huỳnh hướng dẫn quân mã đến Tây Ninh vì hai vị nữa không rõ họ tên.
https://thuviensach.vn
Tổng chỉ huy đạo quân bình định này là quan tri phủ Huỳnh Công Giản (chính là quan lớn Trà Vông sau này). Quan tri phủ từ Huế vào Gia Định thành rồi từ Gia Định chuyển quân về hướng Tây Ninh. Khi quân đến rừng Cẩm Giang thì dừng lại. Quan tri phủ sắp xếp người em trai họ của ngài là Huỳnh Công Thắng, cho quân sĩ xây thành, gọi là thành Cẩm Giang. Theo truyền khẩu, sở dĩ có tên Cẩm Giang là vì trước cửa thành có con sông (là con sông Vàm Cỏ Đông ngày nay). Lúc bấy giờ sông này đầy lục bình và loại « phiêu lưu thảo » có bông tim tím như gấm, nên dân chúng lúc bấy giờ gọi sông đó là Cẩm Giang (sông Gấm).
Sau khi cắt xếp cho tướng Huỳnh Công Thắng trấn giữa Cẩm Giang thành, quan tri phủ Huỳnh Công Giản cùng người em út tên là Huỳnh Công Nghệ (cũng là một hổ tướng) tiến sâu về phía rừng núi trùng điệp của Tây Ninh trong cơn loạn lạc.
Tướng Huỳnh Công Nghệ được chỉ định đóng đồn ở Bến Thứ (như phần trên chúng tôi đã kể) còn tri phủ Huỳnh Công Giản dấn thân vào án ngữ trên các làng hẻo lánh của dân Việt để bảo vệ an ninh, chận đứng mọi cuộc tấn công của giặc Miên. Đồn ấy là đồn Trà Vông mà chúng tôi đã ghi nhận với trận đánh khốc liệt đã xảy ra.
Ngày giặc Miên công hãm thành Trà Vông, tướng Huỳnh Công Thắng vì đường xa hơn nên tiếp viện cho anh trễ, chỉ có tướng Huỳnh Công Nghệ mở đường rừng đến kịp chân thành Trà Vông mở cuộc phục thù thảm khốc như chúng tôi đã trình bày.
Dòng lịch sử trôi qua…
Và sau đó, khi tri phủ Huỳnh Công Giản tuẫn tiết, lần lượt tướng Huỳnh Công Thắng và Huỳnh Công Nghệ cũng chết theo vì tận lo cho miền Tây của Gia Định thành được an ninh (nay là Tây Ninh).
Ngày nay, mộ của tướng Huỳnh Công Thắng 5còn ở phía chân thành Cẩm Giang cũ (gần chùa Quan Huế) và ngài rất hiển linh từ sau khi chết, nên dân chúng địa phương rất sùng nể, lập miếu thờ phụng, cúng tế hàng năm.
https://thuviensach.vn
Miếu của tướng Huỳnh Công Nghệ được lập ở Vàm Bảo, Bến Cầu thuộc quận Hiếu Thiện, mộ thì không ai biết chôn ở đâu.
Riêng quan tri phủ Huỳnh Công Giản tuẫn tiết giữa vòng vây của giặc, theo truyền thuyết ngài được tướng Huỳnh Công Nghệ đem chôn cất. Nhưng lâu đời, dân gian không biết phần mộ ngài nơi nào.
Chỉ có điều là cả ba anh em quan tri phủ họ Huỳnh sau khi chết đều hiển thần, nên dân chúng khắp nơi trong tỉnh Tây Ninh đều sùng kính.
Một nho sĩ ở Tây Ninh thời bấy giờ là ông Hàn y Nguyễn Ngọc Diệp, có làm bài thơ chữ Hán để tán dương khí phách của người anh hùng tuẫn tiết, hy sinh cho non nước, bài thơ này để lại cổ miếu của ngài, chúng tôi sưu tầm ghi lại dưới đây, để tỏ lòng quý mến bậc tiền nhân đã mất qua bao thế kỷ, nhưng tên tuổi vẫn được thế nhân ca tụng người anh hùng vị quốc vong thân.
Kính đề tôn thần Huỳnh Công Giản cổ miếu
Nhựt Tảo thanh quang chiếu võ đài.
Tà dương ảm đạm nguyệt vô lai.
Huỳnh hà thủy nhuận tư dân thái,
Công Giản mao hương tế quốc nhai.
Cổ miếu do đề danh tuấn kiệt,
Di thành bất hoại tiết anh tài.
Tây Sơn ký tích diên niên tại,
Trí mạng ư quân thọ thế hoài.
https://thuviensach.vn
Hàn y Nguyễn Ngọc Diệp
Tạm dịch :
Nhựt Tảo đài cao chói ánh hồng,
Trà Vông rừng lạnh vắng trăng trong.
Huỳnh hà ngọn mát dân vừa dạ,
Công Giản rau thơm nước đẹp lòng
Miếu cổ vẫn ghi tài dõng lược,
Thành xưa còn nhắc tiết anh hùng,
Non tây muôn thuở còn xanh đó.
Muôn thuở niềm trung rạng núi sông
Hi Đạm dịch
TRƯƠNG HUỆ CHỐNG XÂM LĂNG
Nhắc lại những vị anh hùng dân tộc đất Tây Ninh ngày xưa đã anh dũng chống Pháp, bảo vệ quê hương, chúng ta nhớ ngay đến Trương Huệ.
Trương Huệ là con trưởng của Bình Tây nguyên soái Trương Công Định, vị anh hùng oanh liệt chống Pháp tại vùng Soirap, nơi đám lá tối trời ở Gò Công.
Trương Công Định chẳng may bị bọn Huỳnh Công Tấn dẫn quân Pháp vô sào huyệt để sát hại ông và những người thuộc hạ trong lúc bất ngờ.
Không để cho giặc bắt, ông Trương Công Định đã hy sinh cho đất nước với cái chết hào hùng. Từ ngày ông Trương Công Định mất thì Trương Huệ tức cậu hai Quyền nối chí cha, phất cờ chống Pháp. Ông hoạt động khắp cả chiến trường miền Đông và miền Tây, ông quyết rửa hận phục thù cho phụ thân và cho quốc gia dân tộc.
Lúc bấy giờ tên tuổi Trương Huệ đã nổi bật trong hàng ngũ kháng Pháp. Ông vốn võ nghệ cao cường, lại tài trí mưu lược, nên nhiều người nói ông có tài « xuất quỷ nhập thần ».
https://thuviensach.vn
Đạo binh của ông đến đâu thì quân Pháp phải điêu đứng. Nhiều lần quân Pháp cho người khuyến dụ, nhưng ông vẫn giữ lòng thiết thạch và trung hiếu, quyết lo nợ nước thù nhà.
Ông không vì bả danh lợi mà phản nước hại dân, ông nhất quyết thề không đội trời chung với quân xâm lăng cướp nước.
Lúc bấy giờ súng nổ khắp chiến trường, Thiên hộ Dương (Võ Duy Dương) hoạt động mãnh liệt ở Đồng Tháp Mười. Quân Pháp lại phải huy động một số tàu chiến và quân lính vô nghênh chiến với Thiên hộ Dương tại Mỹ Trà Cao Lãnh.
Trương Huệ đem binh đến đánh Sài Gòn ngày 24 tháng 6 năm 1866 vào lúc 4 giờ khuya. Liên quân Việt-Miên dưới quyền chỉ huy của Trương Huệ đột nhập vào vùng Chợ Lớn tấn công đồn Thuận Kiều, trong lúc bọn lính Pháp say ngủ không hay, lọt được vào đồn đánh xáp lá cà với bọn mã kỵ Spahis.
Trận ác chiến xảy ra. Quân Trương Huệ đã chiếm được đồn và tàn sát vô số lính Pháp tại đây. Còn lại 5-3 tên sống sót leo đồn chạy đi báo cáo. Trận này quân Pháp hao nhiều. Đồn Thuận Kiều nhuộm đầy máu đỏ. Tử thi không đầu được đem ra sắp trước đồn cho dân chúng xem để cảnh cáo bọn mãi quốc cầu vinh, tay sai của giặc, phản dân hại nước.
Đến 6 giờ sáng, liên quân Việt Miên quét sạch tàn quân trong đồn, phải quay đầu trở lại tác chiến với quân tiếp viện Pháp.
Trận đánh càng lúc càng thêm ác liệt vì viện binh Pháp càng lúc càng tăng. Đến 8 giờ quân Trương Huệ núng thế đành bỏ đồn Thuận Kiều rút về Bà Hom. Trận này đồn Thuận Kiều tổn thất nặng nề.
Cũng trong đêm khuya 23 rạng ngày 24 Juin 1866, một toán quân khác của Trương Huệ đột kích ở Bà Điểm, Hóc Môn, người cai quản vùng này là ông Phủ Ca, tên Việt gian tay sai đắc lực của Pháp, đem lính ra chống cự, hai bên bắn nhau cả tiếng đồng hồ, quân Pháp ở Gia Định, Gò Vấp hay tin đem binh đến tiếp viện. Quân Trương Huệ rút lui về Củ Chi,
https://thuviensach.vn
Trảng Bàng rồi lên Tây Ninh hiệp với quân Pu Kầm Pô gầy mặt trận ở Tây Ninh.
Quân Pháp hay tin liền cho điều động binh đến rất đông, liên quân Việt Miên phải thay đổi chiến lược kéo trở xuống Trảng Bàng đánh những trận ác liệt vào những lúc trời hừng sáng.
Trung úy Eymard phải động viên lính tráng và dân làng để kháng cự, cuộc kịch chiến kéo dài một giờ, quân Pháp ở Tây Ninh đem viện binh đến tiếp cứu. Quân đội Việt Miên do Trương Huệ chỉ huy rút lui vào rừng.
Trước khi rút lui, liên quân Việt Miên có bắn nhiều phát súng đồng vào căn cứ quân sự của Pháp khiến chúng rối loạn tinh thần và một số bị thương.
Tin Pu Kầm Pô tấn công Trảng Bàng được báo về Sài Gòn, quân Pháp liền phái 200 lính Pháp và 100 lính tập, 50 lính thủy đặt dưới quyền của thiếu úy Rémiot Lerebours đến Tây Ninh để tăng viện.
Ngày 27 Juin 1866, quân tiếp viện đến nơi, trước hết họ cho tình báo dò xét căn cứ của đạo binh Việt-Miên. Nhưng đạo binh du kích này khi ẩn khi hiện như bóng ma, luôn luôn dời đổi địa điểm, thường tấn công lúc xuất kỳ bất ý ; do đó quân Pháp khó có thể tìm căn cứ.
Hạ tuần tháng Juillet 1866, quân Pháp chia làm 4 mặt tấn công tiến đánh Rạch Vịnh. Đoàn kỵ binh Spahi mở đường phía trước, kế đó là lính Tagals, phía sau nhiều đoàn pháo binh bắn súng dọn đường cho kỵ binh tiến tới. Hai bên bắt đầu khai chiến tại Rạch Vịnh.
Quân Việt Miên thiếu đạn dược nên bị quân Pháp bắn chết khá nhiều. Tổng hành dinh Pu Kầm Pô bị trúng đạn, các ổ súng đồng bị đổ vỡ tê liệt. Qua nửa ngày, phần thắng lợi nghiêng về quân Pháp.
Thấy nguy, Pu Kầm Pô rút lui về Nam Vang, còn Trương Huệ về Biên Hòa, tiếp tục kháng chiến chống xâm lăng.
Trương Huệ lúc ở Biên Hòa, lúc về Đồng Tháp, hiệp lực với Thiên hộ Dương, gây cho địch nhiều phen thất điên bát đảo. Trong cuộc trường kỳ
https://thuviensach.vn
kháng chiến, binh ta không đủ lực lượng bổ sung, phần thiếu đạn dược nên lần lần tan rã hàng ngũ, lớp bị giết chết, lớp ra đầu hàng.
Còn Trương Huệ chiến đấu đến giọt máu cuối cùng tại mặt trận, chớ không đầu hàng giặc, ngày nay tại Tây Ninh còn có một con đường mang tên Trương Huệ, để kỉ niệm bậc anh hùng có công kháng Pháp. Tên ông đã đi vào lịch sử.
ÔNG HOÀNG PU KẦM PÔ : LẬP CHIẾN KHU KHÁNG CHIẾN Ở TÂY NINH
Về phần sử lược của Tây Ninh, chúng tôi đã trình bày ở phần đầu nói qua mọi sự việc diễn tiến trong thời kỳ Nam tiến của phủ Tân Ninh nay là Tây Ninh. Thiết tưởng chúng tôi cũng cần nhắc lại tiểu sử của con vua Ong Chang, cháu nội của Ong Beng vì cuộc tranh quyền cố vị với con dòng thứ nên Pu Kầm Pô phải lưu vong sang Lào rồi xuống Tây Ninh cùng với một số thuộc hạ chống lại nhà vua.
Khi vua Norodom lên ngôi, Pu Kầm Pô đem binh về khuấy rối xứ Cao Miên một lúc, rồi bị quân Pháp đem binh tìm bắt nhưng không được.
Năm 1866 (Bính Dần) lúc bấy giờ Pu Kầm Pô năm mươi tuổi đã rày đây mai đó, sống cuộc đời trốn tránh nay ở Kompong Chàm mai ở Tây Ninh, lâu ngày chịu không nổi mới tìm liên lạc đến ra mắt quan bố Savin de Larclauze nhờ ông này giúp đỡ xin chánh phủ Pháp cho ở một chỗ trên đất Tây Ninh, khai khẩn đất cát trồng trọt làm ăn bỏ ý định dấy loạn tranh giành ngôi vua ở Miên quốc.
Quan bố Savin de Larclauze chấp thuận và tiến dẫn Pu Kầm Pô xuống Sài Gòn trình diện với quan đề đốc De Lagrdière. Khi xuống tàu về đến Sài Gòn trình diện với đề đốc có ý nghi ngờ bèn giam lỏng Pu Kầm Pô tại đây.
Pu Kầm Pô biết mình bị gạt lấy làm buồn bã mong cơ hội tháo cũi xổ lồng trở về Tây Ninh vẫy vùng chí cả.
https://thuviensach.vn
Pu Kầm Pô đã được quân Pháp giao cho quan An Nam gìn giữ, mỗi tháng cho Pu Kầm Pô 20 quan (20 Francs) chi tiêu. Pu Kầm Pô bầm gan ứa lệ, tính một kế kịp quan bố Savin de Larclauze được phép nghỉ ba tháng tại Sài Gòn, làm lễ cưới cho con gái ông Domergne. Lúc ở Sài Gòn, quan bố thường tới lui thắm viếng Pu Kầm Pô và giúp thêm tiền bạc chút ít cho đủ chi tiêu mỗi tháng. Pu Kầm Pô than phiền với quan bố Savin de Larclauze thì quan bố an ủi, xin ẩn nhẫn chờ ngài một lần nữa. Liền đó quan bố làm đơn nhắc việc Pu Kầm Pô xin và yêu cầu đề đốc cho Pu Kầm Pô trở về Tây Ninh. Đề đốc De Lagrandière hứa y lời, nhưng rồi cũng làm thinh bỏ qua.
Pu Kầm Pôđợi mãi cũng không thấy tin, rất buồn, nhưng lúc quan bố De Larclauze còn ở Sài Gòn thì Pu Kầm Pô an tâm thủ phận, mà một ít lâu, sau khi quan bố trở về Tây Ninh rồi, thì Pu Kầm Pô trốn mất. Chính phủ Pháp nghi cho quan An Nam âm thầm phóng thích. Quả thực như vậy, khi trốn khỏi Pu Kầm Pô trở về Tây Ninh quy tụ thủ hạ được ba bốn trăm người, lấy rừng Bang Dung (Tabel Yul) làm căn cứ, không thèm giao thông với quân Pháp nữa. Bọn tuần tiễu của thân bính Pháp hay báo với quan bố.
Ngày 6-3-1866, ông Savin de Larclauze thân chinh lên Bang Dung để kiếm Pu Kầm Pô, rủi Pu Kầm Pô đi khỏi (hay là ẩn mặt).
Qua bữa 7-6, Pu Kầm Pô đem nội bọn lối 3, 4 trăm người, kẻ ná người tầm vông vạt nhọn, xuống đến rừng Trường Đổi. Nội bọn đều ở trong rừng sai hai người Cao Miên ở ngoài đường, đi trước một người cầm một cây cờ tam sắc (như cờ Pháp) nhưng hình ba góc, trên có vẽ một con quái vật và để chữ Miên, đi sau một người cầm một cây cờ trắng (dấu hiệu đầu hàng).
Hay việc này, thân binh trưởng vào báo cáo quan bố hay. Ông này hỏi phải quân của Pu Kầm Pô không ? Người đi báo bảo rằng thật vậy, nên quan bố cười, bố khi dể, vì ngài là người ân của Pu Kầm Pô, nên có điều chi phải lo sợ. Ngài liền cho quan ba Pinault hay và ngài đích thân dẫn 20 binh lính và quan một Lesage đi kiếm Pu Kầm Pô.
Quan bố Savin de Larclauze vừa đến Trường Đổi, thì lính của quan ba Pinault núp tại đầu cầu, thấy tên Cao Miên cầm cờ tam sắc, liền nả súng
https://thuviensach.vn
bắn, tên này ngã xuống chết rồi, tên cầm cờ trắng phất cờ cũng bị bắn chết luôn. Vì vậy cho nên quân Pu Kầm Pô dùng ná bắn lại, lính Pháp hoảng sợ, bỏ chạy ráo về thành. Quan một Lasage và mười tên kia cũng chạy tuốt, thành thử quan bố còn lại quay trở lại thấy một mình, lại con ngựa bị lầy chạy không được cũng bị quân Cao Miên đập chết, cắt đầu rồi kéo vô rừng.
Khi hay tin quan bố bị tử trận, lính Pháp đặt nhiều điều quái dị phòng che chở sự dở của họ, còn quan ba Pinault không dám đem binh ra, liền trở về Sài Gòn xin binh tiếp viện.
Bốn bữa sau có đại tá Marchaise đem 300 lính lên. Lúc này Pu Kầm Pô và nội bọn đều trở về căn cứ tại Table Yul.
Đại tá Marchaise đem binh tuốt lên Tabel Yul, quyết trả thù. Binh vừa đến Xóm Vịnh, bị quân Cao Miên vây. Khi thấy Cao Miên ào ra đông quá, đại tá Marchaise và lính kiếm đường thối lui, mà rủi bị bùn lầy nên người và ngựa gì chạy cũng không được nên cả bọn đều bị quân của Pu Kầm Pô sát hại hết.
Ít ngày sau đại uý Alleyron lên.Ông này không lo đánh Pu Kầm Pô nữa vì con cháu Quản Định là Trương Huệ đánh phá từ Đồng Tháp Mười đánh qua Trảng Bàng, lên đến Trà Vông, bao vây cả tỉnh Tây Ninh. Có người còn nói con Quản Định lên gặp Pu Kầm Pô hiệp nhau mới làm cho nhà binh Pháp ở Tây Ninh lo sợ.
Nghe đồn qua năm sau (1866), Pu Kầm Pô tạ thế, mà không sách hay báo nào nói đúng sự thật.
LÃNH BINH KÉT : TUNG HOÀNH MỘT CÕI BIÊN THÙY
Ông Két một trong những vị lãnh binh của miền Nam, đã anh dũng lập chiến công chống Pháp dưới triều vua Tự Đức, tại Long Giang Gò Dầu nay là quận Hiếu Thiện, ông và nhiều đồng chí nghĩa quân thường đem quân đến đột kích vào những đồn lẻ tẻ của quân Pháp ở miệt Trảng Bàng, Gò Dầu, Tây Ninh những đêm trời tối dùng hoả công phá đồn rồi rút lui trong
https://thuviensach.vn
bóng tối, làm cho Pháp thất điên phát đảo với đội binh của ông. Vùng Tây Ninh ngày xưa còn là rừng rậm hoang vu, nếu có động thì làm cho ông phân tán mỏng rút vô rừng ẩn trốn mất dạng, không tài gì lùng bắt ông được.
Ở đây dân gian gọi ông là Lãnh Binh Két chớ không biết ông họ gì, trong cuộc khởi nghĩa chống xâm lăng của dân ta đã bùng nổ khắp miền Nam, Đồng Tháp Mười, Thiên Hộ Dương, Bến Tre Phan Tôn, Phan Liêm, Tây Ninh Trương Huệ, Lãnh Binh Tòng, Lãnh Binh Két… Riêng về ông Két kháng Pháp đến cùng cho đến chết, chưa hề bị bắt một lần nào cả.
Ngày nay nhắc đến các vị anh hùng kháng Pháp ở Tây Ninh, chúng tôi phải nhắc đến vị Lãnh Binh Két đã oanh liệt một góc trời ở miệt Long Giang, làm cho Pháp phải kiêng nể đến tài xuất quỉ nhập thần của vị anh hùng thời ấy, đã lập được nhiều thành tích vẻ vang, tô đậm trang sử oai hùng cho đất nước miền Nam nói chung, tỉnh Tây Ninh nói riêng nhưng rất tiếc thời ấy các nhà sử học của ta bỏ quên không ghi chép tên ông vào lịch sử, thành ra không biết ông là người xuất xứ ở đâu ? Và chết năm nào ? Đây là những lời truyền thuyết, do đồng bào địa phương kể chuyện cho chúng tôi ghi chép về cuộc đời tranh đấu của vị lãnh binh Két của vùng đất Long Giang ngày xưa ai ai cũng biết tiếng, đến nay người ta còn nhắc nhở đến tên tuổi ông.
LÃNH BINH TÒNG : KHÁNG PHÁP OAI DANH LỪNG LẪY
Tên thật của ông là Đặng Văn Tòng, ông là con trai duy nhất của ông Cả Đặng Văn Trước. Chánh lãnh binh là chức tước của Ngài.
Ngài trấn thủ biên giới, chống với giặc Miên thường xuống quấy nhiễu dân lành.
Giặc Miên rất sợ Ngài vì Ngài áp dụng chiến lược : nấu dầu rái đang sôi, dùng ống thụt bằng đồng thụt qua đối phương khiến giặc bị phỏng da, cháy đầu.
https://thuviensach.vn
Trong cả một trận quyết liệt, Ngài đã chém chúng chết máu đỏ cả đồng, nên mới có sự tích « Đồng Cỏ Đỏ » tại Trảng Bàng.
Lúc Pháp qua xâm chiếm nước ta, Ngài quyết liệt chống lại.
Khi Pháp tấn công thành Chí Hoà, Ngài cho quân tiếp viện. Nhưng quân Pháp quá hùng mạnh nên thành Chí Hoà đành thất thủ (1861). Pháp tiến quân lên Trảng Bàng, Ngài chống không lại, chạy ra Tha La để trốn nên và bị Việt gian chỉ chỗ ẩn trú nên bị bắt và bị đày đi Inini ở đảo Guyane và mất luôn tại đó.
Ngài có mười người con. Những người này vì thù nước thù nhà cho nên cũng chống Pháp với việc làm : lập Thiên Địa Hội.
Về sau, 4 người bị bắt đày đi Côn Nôn. Có hai người kết bè trốn thoát về được và hai người bỏ thây ngoài đó, trong đó có ông Đặng Văn Thoại là thân sinh của ông Đặng Văn Đây.
Kiến họ Đặng lúc đó bị Pháp gán cho tiếng làm giặc, sự nghiệp, nhà cửa, ruộng vườn bị mất nhiều.
Hiện giờ ở Trảng Bàng, bên hông nhà bưu điện cũ, có con đường chạy xuống tới chùa Ông Huệ (cây cà na) gọi là đường Chánh Lãnh Binh Tòng.
Người anh hùng đã hy sinh cho non nước, nhưng tên tuổi vẫn còn sông mãi với thời gian, tên lãnh binh Tòng đã đi vào lịch sử kháng Pháp ở miền Nam muôn đời vẫn còn ghi tạc.
HỒ VĂN CHƯ (1856-1926) : HOẠT ĐỘNG PHONG TRÀO THIÊN ĐỊA HỘI
Cụ Hồ Văn Chư tức là vị hương cả đầu tiên của làng An Tịnh quận Trảng Bàng ngày xưa. Sinh năm Bính Thìn (1856), ông có vóc người cao lớn, bộ đi đứng nghiêm trạng, mắt sáng quắc, thông Hán học, tiếng giọng đồng ấm và oai nghiêm khác thường hơn thiên hạ. Vả lại tính tình cương trực và hào hiệp, vốn con người tiết tháo thẳng ngay ông không chịu cúi lòn như một số kẻ khác. Và ý thức được đất nước bị đô hộ, dân tình khổ sở vì
https://thuviensach.vn
sưu cao thuế nặng nên không thể ngồi đó mà chứng kiến cảnh đau lòng đất nước bị trị.
Lúc bấy giờ mới đi quy tụ bạn đồng chí có căn bản nho học trong vùng, lập nhóm Thiên Địa Hội để hoạt động chống lại quân Pháp. Các đồng chí thấy ông là người có tinh thần ái quốc, dám hy sinh cho đại cuộc, không nghĩ đến danh lợi, nên bầu ông là thủ lĩnh cầm đầu nhóm Thiên Địa Hội trong toàn quận. Thời gian hoạt động thâu được nhiều đảng viên làm vây cánh, rủi thay cuộc đánh phá khám lớn Sài Gòn đêm 12 tháng giêng Bình Thìn năm 1816 để giải cứu lãnh tụ Phan Xích Long bị thất bại khiến cho cơ sở Thiên Địa Hội bị lộ. Một buổi sáng vào tháng ba năm 1916 nhà cầm quyền địa phương đến bắt ông tại nhà, cùng một số anh em nhưng cụ hương hào Nguyễn Văn Ngay, hương bộ Chót, và nhiều người khác có liên quan đến phong trào Thiên Địa Hội, đem giam tại công sở An Tịnh. Ông bị tên đội Tấn lính mật thám Pháp dùng cực hình tra tấn dã man, chết đi sống lại, ông vẫn giữ một lòng thiết thạch lãnh hết trách nhiệm, nhất định không khai một người nào khác, ngoài những người bị lộ tông tích. Sau 5 ngày ông bị giải về Sài Gòn lãnh án khổ sai chung thân, bị lưu đài ra Côn Đảo. Trước cảnh trời nước mênh mông, chí kia chưa đạt được ông đành phải ôm hận cho đến chết. Ông mất vào ngày 3 tháng 11 năm Bính Dần 1926, hưởng thọ 71 tuổi.
Ông Hồ Văn Chư mất, đồng bào có tinh thần yêu nước đều rơi luỵ thương tiếc. Một bậc tiền bối như ông Hồ Văn Chư khêu ngọn đuốc Cách mạng cho lớp người sau nối chí. Ông đã mất trên nửa thế kỷ nay, nhưng tên tuổi vẫn sống mãi, thời gian muôn đời còn ghi tạc.
Xử Trảng ngày xưa cũng như ngày nay đã sinh xuất lắm nhà ái quốc từng đóng góp cho đại cuộc chống xâm lăng.
Giáo sư Nguyễn Tài Năng, người Cần Thơ có làm mấy vần thơ cảm tác ông Hồ Văn Chư như sau :
Trảng Bàng đã có Hồ Văn Chư
Chống Pháp hăng say, Pháp cũng đù !
https://thuviensach.vn